159
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN ĐÀM PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 62.38.01.07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO HÀ NỘI - 2016

PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

  • Upload
    others

  • View
    6

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN ĐÀM

PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH

Chuyên ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 62.38.01.07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

HÀ NỘI - 2016

Page 2: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các thông tin, số liệu nêu trong Luận án là trung thực. Các

luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu

của Luận án chưa từng được công bố trong công trình nào

khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Văn Đàm

Page 3: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU… ............................................................................................................. 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................. 9

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................... 9

1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu ............................................................................. 25

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH ....... .30

2.1. Khái quát về biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng ...................... 30

2.2. Tổng quan pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp

bảo lãnh .................................................................................................................. 52

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP

ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH Ở VIỆT NAM ............... 75

3.1. Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo lãnh thực hiện hợp

đồng tín dụng ......................................................................................................... 75

3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng

biện pháp bảo lãnh ................................................................................................. 89

3.3. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm

thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh ........................................ 113

Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO

LÃNH Ở VIỆT NAM .......................................................................................... 125

4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam… .............................................................. 125

4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng

biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam ........................................................................... 136

KẾT LUẬN… .................................................................................................... .147

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO… .................................................... .150

Page 4: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Tín dụng là một trong những chức năng cơ bản trong hoạt động của ngân

hàng và các tổ chức tín dụng, đồng thời là một loại hình đáp ứng hiệu quả nhu cầu

cung cấp vốn cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng thực chất là quan hệ mà một

bên chủ thể là ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay tiền tệ nhằm đáp ứng các yêu

cầu về vốn hoặc nhu cầu khác của mọi chủ thể trong đời sống kinh tế - xã hội.

Cho đến thời điểm hiện nay, tín dụng ngân hàng thông qua hoạt động của các

ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng vẫn là nguồn cung cấp vốn quan trọng,

có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế so với các hình thức cung cấp vốn khác.

Trong những năm qua, Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng

thương mại, tổ chức tín dụng được hình thành và phát triển, tuy nhiên, cùng với

sự lớn mạnh về quy mô, các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng hiện nay vẫn

đang tiềm ẩn những yếu kém, rủi ro nhất định, như rủi ro tín dụng và rủi ro thanh

khoản khá lớn, tính ổn định, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh chưa cao.

Nhiều tổ chức tín dụng hoạt động thiếu công khai, minh bạch. Nguyên tắc thị

trường trong hoạt động ngân hàng chưa được đề cao.

Hình thức pháp lý của quan hệ tín dụng ngân hàng là hợp đồng tín dụng.

Hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản được quy định

trong Bộ luật Dân sự, tuy nhiên, bên cạnh việc chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân

sự, nó còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tín dụng ngân hàng. Hợp đồng tín

dụng có những đặc trưng riêng, mà một trong số đó là thường có biện pháp bảo

đảm đi kèm nhằm đảm bảo quyền lợi của bên cho vay, đề phòng các trường hợp

rủi ro có thể xảy ra. Về bản chất, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng là những biện pháp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng tín

dụng, nó có thể là điều kiện bắt buộc trong một số trường hợp theo quy định của

Page 5: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

2

pháp luật hoặc theo thoả thuận của các bên nhằm bảo đảm cho việc thu hồi vốn

vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Nhằm tạo cơ chế pháp lý phù hợp

đảm bảo an toàn cho các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại, thời gian qua,

Nhà nước đã quan tâm xây dựng và liên tục bổ sung, hoàn thiện các quy định của

pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và giao dịch bảo đảm

nói riêng. Bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay phát sinh từ hợp đồng tín dụng là

loại quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, tuy nhiên, pháp luật về

các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng nói chung và các quy định về

bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh nói riêng mặc dù có những

đặc thù nhất định, nhưng vẫn có mối liên hệ chặt chẽ và dựa trên nền tảng của

pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Trong số các biện pháp bảo đảm tín dụng, bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng bằng biện pháp bảo lãnh là biện pháp đối nhân, phụ thuộc vào uy tín của bên

bảo lãnh. Bảo lãnh cũng có thể được sử dụng trong hoạt động nghiệp vụ của ngân

hàng và các tổ chức tín dụng với tư cách là một hoạt động cấp tín dụng. Quá trình

xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật về vấn đề này đã có những thay đổi

nhất định về tư duy lập pháp cũng như cách hiểu về bản chất của biện pháp bảo

lãnh. Điều này chi phối thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo lãnh để bảo đảm thực

hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng và đã phát sinh những bất cập nhất định.

Theo các quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 và Nghị định số

178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ

chức tín dụng, biện pháp bảo lãnh là bảo lãnh đối vật, bên bảo lãnh chỉ được bảo

lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Các ngân hàng, tổ chức tín dụng và bên

bảo lãnh có thể thoả thuận biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng như Bộ luật Dân sự năm

2015 và hệ thống các quy định pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm hiện hành,

Page 6: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

3

thì bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân nên không thuộc diện đăng ký giao

dịch bảo đảm. Tuy nhiên, khi xử lý hậu quả pháp lý của quan hệ bảo lãnh, pháp

luật vẫn quy định bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh

toán cho bên nhận bảo lãnh. Quy định này đã gây ra nhiều vướng mắc trong việc

xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm giữa giao dịch bảo

đảm bằng tài sản (ví dụ như cầm cố, thế chấp) với bảo lãnh. Bên cạnh đó, nhiều

vấn đề thuộc nội hàm pháp luật về bảo lãnh cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật

về bảo lãnh hiện nay cũng có nhiều vấn đề cần luận giải một cách sâu sắc.

Các quy định về biện pháp bảo lãnh hiện hành vẫn đang đưa đến rất nhiều

hệ luỵ trong việc thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến nghĩa vụ bảo lãnh và

tài sản bảo đảm… Bởi vậy, việc nghiên cứu để làm rõ bản chất của bảo lãnh, pháp

luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng trong điều kiện nền kinh tế thị

trường nước ta hiện nay, khi mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Bảo đảm ổn

định hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng là một mục tiêu quan trọng, nhằm góp

phần thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 –

20201… Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt… Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng

gắn với xử lý nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống tín dụng2... ” là có ý nghĩa quan

trọng và có tính cấp thiết.

Từ các vấn đề lý luận và thực tiễn được phân tích ở trên, nghiên cứu sinh

đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng bằng biện pháp bảo lãnh” để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội, 2011, tr.198 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Tài liệu của Văn phòng

Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.278.

Page 7: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và

thực tiễn của pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp

bảo lãnh, để từ đó, đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng

như nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả hợp

đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu ở trên, luận án xác định rõ các nhiệm

vụ nghiên cứu cơ bản sau đây:

- Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận về biện pháp bảo lãnh thực hiện

hợp đồng tín dụng và pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng

biện pháp bảo lãnh;

- Phân tích thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về bảo đảm thực hiện

hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh; đánh giá và chỉ ra những ưu điểm và

những hạn chế, bất cập cần khắc phục;

- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận án kiến nghị các giải

pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bảo đảm

thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh phù hợp với đặc điểm của

quan hệ hợp đồng tín dụng, thúc đẩy quan hệ tín dụng ngân hàng và các giao lưu

kinh tế ngày càng phát triển.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận án này là những vấn đề lý luận pháp luật

về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh; hệ thống pháp

luật và thực trạng thi hành pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nhằm làm rõ hơn các nội dung

Page 8: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

5

nghiên cứu, Luận án cũng đề cập khảo cứu kinh nghiệm pháp luật của một số

nước trên thế giới về vấn đề này.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của Luận án này chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ

những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng

tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh. Trong đó, hợp đồng tín dụng được hiểu là hợp

đồng cho vay, mà ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để

sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với

nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Những hoạt động cấp tín dụng khác như:

Chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp

vụ cấp tín dụng khác… được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng không thuộc

phạm vi nghiên cứu của Luận án này.

Biện pháp bảo lãnh được nghiên cứu trong Luận án này là một trong những

biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định trong Bộ luật Dân

sự. Tuy nhiên, việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội (được

quy định tại Điều 376 Bộ luật Dân sự năm 1995); bảo đảm bằng tín chấp của tổ

chức chính trị - xã hội (được quy định tại Điều 372 Bộ luật Dân sự năm 2005;

Điều 344 Bộ luật Dân sự năm 2015) và bảo lãnh chính phủ được quy định tại Luật

Quản lý nợ công năm 2009 và Nghị định số 15/2011/NĐ-CP ngày 16/02/2011 của

Chính phủ về cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ cũng không thuộc phạm vi

nghiên cứu của Luận án này. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng là một biện pháp bảo

đảm thực hiện nghĩa vụ, nhưng chỉ ngân hàng, tổ chức tín dụng mới được coi là

chủ thể bảo lãnh và đây là một nghiệp vụ cấp tín dụng, vì vậy, việc nghiên cứu về

bảo lãnh ngân hàng chỉ là nhằm so sánh để làm rõ bản chất pháp lý của biện pháp

bảo lãnh trong việc bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng.

Page 9: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

6

4. Phương pháp nghiên cứu

Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, Luận án đã sử dụng các phương pháp

mang tính truyền thống như phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Ngoài ra, Luận án còn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng trong toàn bộ nội

dung Luận án, từ nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng, rút ra những vấn đề

thuộc về bản chất, các quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu, từ đó, đề xuất

các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thi hành về bảo

đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam.

- Phương pháp thống kê: Tiến hành thu thập, thống kê, phân loại số liệu về

kết quả áp dụng biện pháp bảo lãnh trong thực hiện hợp đồng tín dụng tại các

ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.

- Phương pháp so sánh: Được sử dụng nhằm so sánh bản chất pháp lý của

biện pháp bảo lãnh bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng với các

biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác và so sánh bảo đảm thực hiện hợp

đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh với bảo lãnh ngân hàng.

- Phương pháp lịch sử: Nhằm khái quát quá trình hình thành, phát triển của

hệ thống pháp luật dân sự và pháp luật tín dụng ngân hàng ở Việt Nam về bảo

đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh qua các giai đoạn lịch

sử khác nhau.

Luận án cũng áp dụng các phương áp tiếp cận như:

(i) Tiếp cận hệ thống: Phân tích và đánh giá các vấn đề về bảo đảm thực

hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh được đặt trong một phức hợp

những yếu tố có liên quan, tác động qua lại với nhau tạo thành một chỉnh thể

thống nhất;

Page 10: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

7

(ii) Tiếp cận liên ngành: Có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học như

luật học, kinh tế học, xã hội học, luật học so sánh…;

(iii) Tiếp cận lịch sử: Việc xem xét về nhận thức đối với ý nghĩa, vai trò

của bảo lãnh qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Đồng thời khi phân tích, đánh

giá về chế định bảo lãnh hợp đồng tín dụng cũng được xem xét trong bối cảnh

lịch sử và điều kiện cụ thể dưới góc độ logic phát triển.

5. Những đóng góp mới của luận án

Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ đưa lại một số đóng góp mới sau đây:

- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về bảo đảm thực

hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh. Biện pháp bảo lãnh được áp

dụng để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng được dựa trên nền tảng chế định

bảo lãnh được quy định trong Bộ luật Dân sự. Bảo lãnh là biện pháp đối nhân,

được xây dựng và hoàn thiện dựa theo nguyên lý trái quyền, là nghĩa vụ bảo đảm

thực hiện hợp đồng tín dụng bằng uy tín của người bảo lãnh trên cơ sở tự do ý chí

và thoả thuận của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Vì vậy, trách nhiệm tài sản

của bên bảo lãnh chỉ đặt ra khi bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo

lãnh. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo lãnh, pháp luật cũng cần

phải có những quy định cụ thể và linh hoạt về vấn đề này.

- Góp phần đánh giá thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về bảo đảm

thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh theo quá trình phát triển của

hệ thống pháp luật dân sự ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những nhược

điểm và nguyên nhân cả về nhận thức và quá trình áp dụng pháp luật;

- Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thi hành pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo

lãnh, phù hợp với đặc điểm của quan hệ hợp đồng tín dụng, thúc đẩy quan hệ tín

Page 11: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

8

dụng ngân hàng ngày càng phát triển, đặc biệt là quá trình hướng dẫn thực thi các

quy định của Bộ luật Dân sự mới về bảo lãnh.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý

luận về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh và góp

phần vào việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định pháp luật này, đặc biệt là trong

bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực hướng tới mục tiêu bảo đảm ổn định hệ thống tín

dụng ngân hàng, thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, cơ cấu lại các tổ chức tín

dụng gắn với xử lý nợ xấu... đưa các quy định của Bộ luật Dân sự mới về chế

định bảo lãnh vào đời sống thực tiễn.

- Kết quả nghiên cứu của Luận án cũng sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị

trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về pháp luật dân sự nói chung và pháp luật

về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh nói riêng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

Luận án được kết cấu 4 chương, có kết luận của từng chương, bao gồm:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề

tài luận án

Chương 2: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp

đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh

Chương 3: Thực trạng pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam

Chương 4: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực

hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam

Page 12: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

9

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự và không chỉ được quy

định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, mà còn được quy định trong Bộ luật Dân sự

của nhiều quốc gia trên thế giới. Thực tế cho thấy, biện pháp bảo lãnh cũng được

áp dụng trong việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của nhiều quan hệ pháp luật kinh

doanh và thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, biện pháp bảo lãnh

cũng đã phát sinh rất nhiều vấn đề cần được trao đổi và nghiên cứu sâu sắc thêm

để nâng cao hiệu quả thực tế của nó. Bên cạnh các công trình nghiên cứu độc lập,

nó cũng được các nhà khoa học pháp lý nghiên cứu trong tổng thể các biện pháp

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ3.

Theo các nghiên cứu cũng như thực tiễn pháp lý của Việt Nam, biện pháp

bảo lãnh thể hiện cả đặc tính “bảo lãnh đối nhân” và “bảo lãnh đối vật”, tuy nhiên,

trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, quan niệm của các nhà lập pháp đối với biện

pháp bảo lãnh có các cách hiểu và quy định khác nhau trong việc thể hiện tính

“lưỡng tính” của nó (như bảo lãnh nhưng phải bằng tài sản cụ thể của người thứ

ba dưa ra để bảo đảm). Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập

nghiên cứu toàn diện vấn đề bảo lãnh với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng với đúng bản chất, nội hàm và đặc điểm riêng có

của nó nhằm thể hiện rõ tính xã hội và nhân văn của biện pháp này, góp phần đảm

3 Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về pháp luật

thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về bảo lãnh, Tài

liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, tháng 11 năm 2011.

Page 13: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

10

bảo tính lành mạnh hiệu quả của các quan hệ dân sự, thương mại, đặc biệt là quan

hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng.

1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước

Tập hợp các nghiên cứu về bảo lãnh thời gian gần đây cho thấy, nó được đề

cập nghiên cứu trong tổng thể các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nói

chung, bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng nói riêng và chủ yếu đi sâu phân tích

các quy định của pháp luật thực định về quan hệ bảo lãnh, tài sản bảo lãnh và thực

hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo quan điểm bảo lãnh đối vật. Bên cạnh đó, đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu về bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, về bản chất, bảo

lãnh ngân hàng là một hoạt động cấp tín dụng với đa dạng loại hình bảo lãnh. Bảo

lãnh ngân hàng được thể hiện qua cam kết bằng văn bản của ngân hàng với bên có

quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, khi mà những

khách hàng này không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Sau đó, khách hàng

phải nhận nợ và có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay...

Việc nghiên cứu về chế định bảo lãnh ở Việt Nam thời gian qua được tiếp cận

theo các hướng sau đây:

1.1.1.1. Nghiên cứu bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng theo quan

điểm bảo lãnh đối vật được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 1995 và các văn

bản hướng dẫn thi hành

Hầu hết các công trình nghiên cứu trong giai đoạn Bộ luật Dân sự năm

1995 có hiệu lực thi hành đều tiếp cận nghiên cứu biện pháp bảo lãnh thực hiện

hợp đồng tín dụng theo quan điểm bảo lãnh đối vật – bảo lãnh bằng cầm cố hoặc

thế chấp tài sản của bên thứ ba (theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995;

Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo

đảm; Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm

tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày

25/10/2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

Page 14: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

11

178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999). Theo quy định của Điều 366 Bộ luật Dân sự

Việt Nam năm 1995 thì: “(i) Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh)

cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay

cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người

được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên

cũng có thể thoả thuận về việc người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi

người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình; (ii) Người

bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng việc

thực hiện công việc. Đối với việc bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện

pháp bảo lãnh, khoản 6 Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999

có quy định: “Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc bên thứ ba (gọi là bên

bảo lãnh) cam kết với tổ chức tín dụng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở

hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn

trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ

trả nợ”.

Với quan điểm là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nhưng theo quan

điểm đối vật, biện pháp bảo lãnh dường như không phản ánh đúng bản chất của

nó là biện pháp bảo đảm mang tính đối nhân. Người bảo lãnh vẫn phải bằng một

tài sản cụ thể thuộc sở hữu của mình và đem thế chấp hoặc cầm cố tài sản đó với

bên nhận bảo lãnh để cam kết thực hiện nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Như

vậy, được coi là sử dụng biện pháp bảo lãnh, nhưng về bản chất lại là biện pháp

thế chấp hoặc cầm cố tài sản mà chỉ khác đi về mặt chủ thể - người bảo lãnh trực

tiếp thực hiện việc thế chấp hay cầm cố tài sản để thực hiện thay nghĩa vụ của

người đi vay. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu được công bố trong thời gian

này như: (i) “Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng ở

nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Trương Thị Kim Dung (1997);

nghiên cứu về các biện pháp về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, trong đó

Page 15: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

12

có biện pháp bảo lãnh theo quan điểm đối vật; (ii) “Các biện pháp pháp lý bảo

đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng”. Luận văn Thạc sĩ luật học của

Phạm Văn Đàm (1998); nghiên cứu về các biện pháp về bảo đảm thực hiện nghĩa

vụ hợp đồng trong đó có biện pháp bảo lãnh theo quan điểm đối vật; (iii) Các biện

pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng, Luận văn Thạc sĩ luật học

của Lê Thu Hiền (2003); nghiên cứu về các biện pháp về bảo đảm thực hiện nghĩa

vụ hợp đồng trong đó có biện pháp bảo lãnh theo quan điểm đối vật; (iv) Pháp

luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, Luận văn Thạc sĩ

luật học của Trần Thị Minh Tâm (2003); nghiên cứu các quy định của pháp luật

về việc xử lý tài sản bảo đảm quan hệ hợp đồng tín dụng (trong đó có tài sản thế

chấp, cầm cố của người thứ ba bảo lãnh trong quan hệ tín dụng); (v) Về các biện

pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng của PGS.TS. Lê Hồng Hạnh, Tạp chí Luật học,

số 1/1996. Và còn nhiều luận văn khác ở cấp độ thạc sĩ luật học cũng đề cập về đề

tài này.

Biện pháp bảo lãnh theo quan điểm đối vật thông qua các nghiên cứu nói

trên cũng phản ánh rất nhiều bất cập từ các quan hệ bảo lãnh bằng tài sản thế

chấp, cầm cố của người bảo lãnh, nhất là khi liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm

thể hiện mâu thuẫn giữa quan hệ ba bên: Bên cho vay là bên nhận bảo lãnh; bên đi

vay là bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Rồi mối quan hệ giữa hợp đồng tín

dụng, hợp đồng thế chấp hay cầm cố tài sản của bên bảo lãnh và hợp đồng bảo

lãnh cũng phát sinh không ít hệ lụy, nhất là trong trường hợp bảo lãnh bằng quyền

sử dụng đất, bằng tài sản hình thành trong tương lai...

1.1.1.2. Nghiên cứu bảo lãnh với tư cách là một nghiệp vụ cấp tín dụng –

bảo lãnh ngân hàng

Bảo lãnh ngân hàng trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu

được công bố, có thể kể đến như: (i) “Những vấn đề pháp lý về bảo lãnh ngân

hàng”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thành Long (1999); (ii) “Một số

Page 16: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

13

vấn đề về quan hệ bảo lãnh ngân hàng ở nước ta hiện nay” của TS. Võ Đình

Toàn, Tạp chí Luật học, số 3/2002; (iii) “Điều chỉnh pháp luật về bảo lãnh trong

hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật

học của Bùi Vân Hằng, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2008); (iv) “Giải

pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo lãnh thanh toán của các ngân

hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ luật học của Vũ Hồng

Minh, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2009); (v) “Pháp luật về bảo lãnh

ngân hàng của các tổ chức tín dụng, thực trạng và kiến nghị”, Khoá luận tốt

nghiệp của Nguyễn Thị Thu Hường, Đại học Luật Hà Nội (2009). Và nhiều khóa

luận, luận văn ở bậc đại học và cao học khác...

Nội dung các công trình nghiên cứu về vấn đề này cho thấy, bảo lãnh ngân

hàng được xem như là một loại hình tín dụng đặc biệt, bởi nhờ có nó mà một cá

nhân hay một doanh nghiệp không phải bỏ ra một khoản tiền vốn (hoặc không

phải đi vay) để đặt cọc, giam chân tại chỗ nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của

mình trong giao kết dân sự, kinh tế, thương mại... với đối tác.

Các công trình nghiên cứu đã phản ánh và chứng minh rằng, bảo lãnh ngân

hàng ngày càng được khách hàng sử dụng rộng rãi như một loại hình dịch vụ

không thể thiếu, bao gồm cả các khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá

nhân. Nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh phát sinh khi khách hàng cần ngân hàng

chứng minh năng lực tài chính, khả năng thanh toán của mình hoặc cần ngân hàng

chứng minh khả năng thực hiện các cam kết của hợp đồng. Các ví dụ điển hình về

bảo lãnh thường thấy bao gồm: (i) Chứng minh năng lực tài chính khi tham gia

đấu thầu, khi ký kết các hợp đồng kinh tế; (ii) Bảo lãnh của ngân hàng cho doanh

nghiệp khi mua hàng trả chậm; (iii) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng; (iv) Bảo lãnh

tài chính cho các học sinh và sinh viên Việt nam có điều kiện đi du học tại các

trường đại học nổi tiếng trên thế giới; (v) Bảo lãnh của một ngân hàng hoặc một

tổ chức tài chính nhà nước để doanh nghiệp vay vốn của một ngân hàng khác...

Page 17: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

14

Bảo lãnh ngân hàng đã và đang mang tới các lợi ích cho khách hàng như:

(i) Góp phần hạn chế sử dụng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp; (ii) Hạn chế

việc sử dụng tiền mặt, qua đó tăng cường tính an toàn trong giao dịch; (iii) Giảm

thiểu rủi ro trong trường hợp người mua và người bán không biết nhau; (iv) Tiết

kiệm thời gian, chi phí cho các bên liên quan; (v) Nâng cao vị thế, vai trò và uy

tín của doanh nghiệp trong quan hệ với đối tác...

Đề cập về các quy định pháp luật thực định, trong các công trình nghiên

cứu đều trích dẫn khoản 18 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12

được ban hành ngày 16/06/2010 quy định: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp

tín dụng theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức

tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay chi khách hàng khi khách hàng

không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng

phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”. Theo hướng dẫn

của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Thông tư số 28/2012/TT-NHNN ngày

03/10/2012 quy định về bảo lãnh ngân hàng, thì: “Bảo lãnh ngân hàng (sau đây

gọi là bảo lãnh) là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn

bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo

lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa

vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả

cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận. Bên bảo lãnh là tổ chức tín dụng, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Bên được bảo lãnh là tổ chức

(bao gồm tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài), cá nhân là người cư

trú và tổ chức là người không cư trú được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng

nước ngoài bảo lãnh. Bên nhận bảo lãnh là tổ chức, cá nhân là người cư trú hoặc

người không cư trú có quyền thụ hưởng bảo lãnh do tổ chức tín dụng, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài phát hành”.

Page 18: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

15

Trong hoạt động kinh doanh, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm

giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc

này không những tạo thuận lợi cho kế hoạch của bạn mà các đối tác kinh doanh

cũng sẽ có cơ sở để tin tưởng doanh nghiệp của bạn hơn. Với vai trò như vậy, bảo

lãnh đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc

thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh

vực tín dụng mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản

phẩm…

Các nghiên cứu trên cũng đã đi sâu tìm hiểu về bản chất của bảo lãnh ngân

hàng là hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (giao dịch bảo đảm) mang tính phái

sinh. Các vấn đề nghiên cứu được đặt ra là: Bản chất của bảo lãnh ngân hàng là

gì? Quan hệ bảo lãnh có phải là quan hệ hợp đồng hay chỉ là cam kết đơn

phương? Hợp đồng bảo lãnh ngân hàng được ký kết giữa những chủ thể nào?

Trong trường hợp phát sinh tranh chấp về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ bảo lãnh

thì cơ quan tài phán có thể xem xét một cách độc lập với quan hệ phát sinh nghĩa

vụ được bảo lãnh hay không?

Việc xác định đúng bản chất pháp lý của bảo lãnh là cơ sở để phân định cơ

cấu chủ thể của nó. Dựa trên các biểu hiện bên ngoài, việc bảo lãnh có ba bên,

bao gồm bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh; nhưng về mặt

pháp lý, quan hệ bảo lãnh chỉ đòi hỏi bắt buộc hai bên là bên bảo lãnh và bên

nhận bảo lãnh. Các nghiên cứu pháp lý đã chỉ ra rằng, việc tham gia ký kết của

bên được bảo lãnh không phải là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng

bảo lãnh, mặc dù cam kết của bên được bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ với

bên bảo lãnh sau khi họ thực hiện nghĩa vụ thay cho mình là cơ sở để người bảo

lãnh đưa ra cam kết bảo lãnh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì cam kết

bảo lãnh được đưa ra và chấp nhận giữa hai bên là “người thứ ba” (người bảo

lãnh) và “bên có quyền” (người nhận bảo lãnh). Còn việc thực hiện nghĩa vụ của

Page 19: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

16

bên được bảo lãnh được quy định cụ thể là: Khi người bảo lãnh đã hoàn thành

nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với

mình trong phạm vi đã bảo lãnh, nếu không có thoả thuận khác. Theo quan điểm

pháp luật của nhiều nước, thì các ngân hàng được phép sử dụng uy tín và khả

năng tài chính của mình để đảm bảo cho người nhận bảo lãnh.

1.1.1.3. Nghiên cứu bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng theo cách tiếp

cận của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành

Các công trình nghiên cứu sau khi có Bộ luật Dân sự năm 2005 chủ yếu tập

trung trao đổi về bản chất của biện pháp bảo lãnh được chuyển từ bảo lãnh đối vật

sang bảo lãnh đối nhân và tìm hiểu sâu sắc thêm các quy định pháp luật thực định

của chế định này như: (i) “Một số hạn chế của quy định pháp luật về gọi bảo

lãnh” của ThS. Bùi Đức Giang, Tạp chí Ngân hàng số 23, tháng 12 năm 2012;

hoặc dưới góc độ luật so sánh như: (ii) “Chế định bảo lãnh của Việt Nam – Nhìn

từ góc độ luật so sánh” của ThS. Bùi Đức Giang, Công ty Luật Audier and

Partners Vietnam LLC trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16 (224), tháng 8

năm 2012, tr. 29 – 39. Nội dung của các nghiên cứu này phản ánh, biện pháp bảo

lãnh theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 có sự khác biệt so với Bộ luật

Dân sự năm 1995, đó là chỉ còn một loại bảo lãnh duy nhất không kèm theo tài

sản cầm cố, thế chấp. Tức là sẽ không còn giao dịch bảo lãnh bằng tài sản của

người thứ ba như hàng hoá, tài sản, nhà ở nói chung, bằng quyền sử dụng đất nói

riêng. Theo Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Bảo lãnh là việc người

thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên

nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên

được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa

vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Như vậy, có thể hiểu, biện pháp bảo

lãnh theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 là bảo lãnh đối nhân và bảo lãnh

chỉ áp dụng trong trường hợp bên bảo lãnh không chỉ định một tài sản cụ thể nào

Page 20: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

17

của mình để đảm bảo cho cam kết thực hiện nghĩa vụ. Nếu bên bảo lãnh chỉ định

một tài sản cụ thể nào đó làm tài sản đảm bảo, lúc này giao dịch sẽ trở thành cầm

cố hay thế chấp.

Về việc áp dụng biện pháp bảo lãnh đối với quan hệ hợp đồng tín dụng thời

gian này cũng có nhiều nghiên cứu đề cập, các công trình tiêu biểu có thể kể đến

là: (i) “Hợp đồng bảo lãnh không thể xem là hợp đồng phụ của hợp đồng tín

dụng” của LS. Đỗ Hồng Thái - (saigonminhluat.com). Nội dung nghiên cứu nhằm

phản ánh mối quan hệ giữa hợp đồng bảo lãnh và hợp đồng tín dụng; (ii) “Những

khía cạnh pháp lý cơ bản của giao dịch bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay

vốn ngân hàng” của TS. Nguyễn Văn Tuyến, Đại học Luật Hà Nội -

http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/; Nội dung nghiên cứu đề cập những khía

cạnh pháp lý cơ bản của giao dịch bảo lãnh bằng tài sản vay vốn ngân hàng với

mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn về phương diện lí luận đối với hợp đồng

bảo lãnh; (iii) “Một số vấn đề của quan hệ bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba

để đảm bảo nghĩa vụ vay vốn ngân hàng” của ThS. Vũ Văn Tuyên. Nghiên cứu

này phản ánh việc áp dụng biện pháp bảo lãnh bằng tài sản của bên bảo lãnh đối

với nghĩa vụ của bên đi vay trong hợp đồng tín dụng ngân hàng -

http://congchungdatcang.com.vn; (iv) “Một số nội dung pháp lý liên quan tới bảo

lãnh đối với hợp đồng tín dụng” của ThS. Nguyễn Thùy Trang, Tạp chí Thị

trường Tài chính Tiền tệ số 5 (326) ngày 01/3/2011. Nghiên cứu này chủ yếu mô

tả pháp luật thực định và việc áp dung pháp luật về biên pháp bảo lãnh cho một số

trường hợp cụ thể; (v) “Hoàn thiện pháp luật bảo đảm tiền vay trong bối cảnh hội

nhập” của ThS. Nguyễn Văn Phương, Tạp chí Ngân hàng số 11 năm 2007.

Nghiên cứu này chủ yếu giới thiệu nội dung của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP

về giao dịch bảo đảm, có hiệu lực từ ngày 27/01/2007 sau khi Nghị định số

165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị

định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay

Page 21: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

18

của các tổ chức tín dụng bị bãi bỏ; (vi) “Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại: một số nhận định từ góc

độ pháp lý đến thực tiễn” của ThS. Nguyễn Thùy Trang, Công ty Công nghiệp

Hóa chất mỏ - TKV - http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/. Công trình này khái

quát mô tả về các biện pháp bảo đảm tiền vay và chỉ ra các vướng mắc trong quá

trình áp dụng vào vụ việc cụ thể; (vii) “Tính lệ thuộc của nghĩa vụ bảo lãnh, một

vấn đề ngân hàng cho vay cần quan tâm”, LS. Đỗ Hồng Thái -

http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/ Công trình này làm rõ tính lệ thuộc của

nghĩa vụ bảo lãnh vào nghĩa vụ được bảo lãnh và chỉ ra các yêu cầu đối với các

ngân hàng cho vay cần làm gì để khi mà nghĩa vụ chính không tồn tại, trong khi

tiền cho vay chưa được thu hồi thì biện pháp bảo lãnh bằng tài sản vẫn duy trì

hiệu lực? (viii) “Hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo đảm tiền vay” của các tác

giả TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang, NXB Tư pháp, Hà Nội – 2012.

Công trình này đi sâu phân tích pháp luật thực định về hợp đồng tín dụng và các

biện pháp bảo đảm tiền vay, trong đó có biện pháp bảo lãnh, cung cấp các hợp

đồng mẫu trong quan hệ tín dụng và kinh nghiệm trong việc thiết lập các hợp

đồng tín dụng.

Có thể nhận định, các nghiên cứu về bảo lãnh theo quy định của Bộ luật

Dân sự năm 2005 đều tập trung theo hướng: Bảo lãnh là biện pháp đối nhân thuần

túy hay về bản chất vẫn mang tính chất đối vật (liên quan đến tài sản)? Thực tế,

tuy bên bảo lãnh phải đưa tài sản cụ thể ra để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng

đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

nghĩa vụ, thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán

cho bên nhận bảo lãnh. Chính vì vậy, có các nghiên cứu cho rằng, về bản chất,

quan hệ bảo lãnh vẫn luôn luôn là việc bảo lãnh bằng đối tượng tài sản (bảo lãnh

đối vật). Bởi vì, để bảo đảm cho một nghĩa vụ tài sản, thì đương nhiên phải dùng

một biện pháp bảo đảm có giá trị bằng tài sản. Khi một bên chấp nhận biện pháp

Page 22: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

19

bảo lãnh của bên thứ ba để bảo đảm cho nghĩa vụ là họ đã nhìn vào túi tiền, nhìn

vào tài sản của bên nhận bảo lãnh với ước lượng chắc chắn về khả năng bên bảo

lãnh sẽ phải dùng một phần tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu phát sinh.

Do vậy, việc dùng uy tín, chứ không phải tài sản để bảo lãnh, thực chất chỉ là

quan hệ dân sự, chứ không phải quan hệ pháp lý. Nếu coi đây là quan hệ pháp

luật, thì sẽ tạo thành cạm bẫy pháp lý cho những người liên quan trong giao dịch.

Bảo lãnh chỉ khác với cầm cố, thế chấp ở chỗ, không có tài sản cụ thể nào được

đưa vào để bảo đảm cho nghĩa vụ. Bởi vì, nếu có một tài sản cụ thể được chỉ đích

danh dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ, thì đó sẽ là cầm cố hoặc thế chấp.

Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp

đồng tín dụng, các công trình nghiên cứu đã công bố và dẫn ra ở trên thường gắn

với các vụ việc thực tiễn, làm sâu sắc hơn một số khía cạnh pháp lý của biện pháp

bảo lãnh hoặc phản ánh các bất cập trong áp dụng pháp luật, chưa có nghiên cứu

nào mang tính toàn diện về chế định bảo lãnh với tư cách là biện pháp bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ, các vấn đề pháp luật về đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh nhằm làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn về bảo đảm

thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh, để từ đó, đưa ra các giải

pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nói chung và

bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng nói riêng bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt

Nam. Mặc dù được Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 và hiện nay là các quy

định của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định là biện pháp đối nhân, nhưng trong

thực tiễn áp dụng, biện pháp bảo lãnh về bản chất vẫn là biện pháp đối vật.

1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước

Trước hết, cần khẳng định, chế định bảo lãnh là chế định có truyền thống

lâu đời trong pháp luật dân sự của các nước trên thế giới như Pháp, Đức và các

nước châu Á như Nhật Bản, Thái Lan... và gần đây là Campuchia. Về bản chất,

biện pháp bảo lãnh là biện pháp đối nhân. Theo quy định của pháp luật Cộng hòa

Page 23: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

20

Pháp, thì hợp đồng bảo lãnh được hiểu là một người (người bảo lãnh) cam kết

thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền (người nhận bảo lãnh), nếu người có

nghĩa vụ (người được bảo lãnh) không tự mình thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ. Sau những cải cách pháp luật về giao dịch bảo đảm năm

2006 thì biện pháp bảo lãnh tại Cộng hòa Pháp đã phản ánh các đặc điểm cơ bản

như: Hợp đồng bảo lãnh được xác lập giữa người nhận bảo lãnh với người bảo

lãnh mà không phụ thuộc vào người được bảo lãnh, vì theo quy định tại Điều

2014 Bộ luật Dân sự Pháp, thì “có thể nhận bảo lãnh mà không cần người có

nghĩa vụ yêu cầu và ngay cả khi người này không biết”. Biện pháp bảo lãnh có

nhiều loại hình bảo lãnh rất phong phú, mỗi loại hình bảo lãnh có những quy định

đặc thù như: Bảo lãnh không có đền bù; bảo lãnh có đền bù; bảo lãnh của người

có lợi ích liên quan… Trong biện pháp bảo lãnh, thì người bảo lãnh chỉ cam kết

thanh toán giá trị của nghĩa vụ mà người bảo lãnh không thể thực hiện được. Theo

quy định tại Điều 2021 Bộ luật Dân sự Pháp4 thì người bảo lãnh chỉ phải thực

hiện nghĩa vụ đối với người có quyền khi người có nghĩa vụ vắng mặt, mà trước

đó tài sản của người này đã được kê biên và bán.

Theo pháp luật dân sự Nhật Bản, Điều 446 Bộ luật Dân sự Nhật Bản5 quy

định: “Người bảo lãnh có nghĩa vụ phải thực hiện trái vụ trong trường hợp người

thụ trái chính vỡ nợ”. Như vậy, bảo lãnh có nội dung tương tự nghĩa vụ chính và

nhằm mục đích bảo đảm nghĩa vụ đó. Xét từ góc độ lý thuyết, thì người bảo lãnh

là một chủ thể của nghĩa vụ riêng biệt, không phải chỉ có trách nhiệm về việc thực

hiện nghĩa vụ chính. Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm pháp luật của Nhật Bản, tại

Điều 900 Bộ luật Dân sự Campuchia6 quy định về hợp đồng bảo lãnh như sau:

“Hợp đồng bảo lãnh được phát sinh khi người bảo lãnh cam kết với người cho

4 Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt – Pháp, năm 2012. 5 Xem: Bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2002, tr.425 – tr.429. 6 Bộ Tư pháp, Tài liệu của Ban soạn thảo, Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi, năm 2014.

Page 24: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

21

vay rằng nếu khoản nợ không được thi hành bởi người vay thì mình sẽ cùng với

người vay thi hành toàn bộ hoặc một phần khoản nợ đó và người cho vay chấp

thuận cam kết này”. Theo pháp luật của Vương quốc Thái Lan7, Điều 680 Bộ luật

Dân sự quy định: “Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng mà người thứ ba gọi là người

bảo lãnh tự cam kết với người chủ nợ là sẽ thực hiện một nghĩa vụ trong trường

hợp mà người mắc nợ không thực hiện nghĩa vụ đó”.

Chế định bảo lãnh cũng có nhiều các công trình nghiên cứu khác đề cập,

tuy nhiên, là một chế định truyền thống ổn định và lâu đời, nên các nghiên cứu lý

luận về vấn đề này không nhiều, có thể kể đến các công trình tiêu biểu như: (i)

Sách: “Luật về bảo đảm” (Law of guarantee), xuất bản năm 1996 (lần thứ 2) bởi

Nhà xuất bản Carswell, Canada, 1.010 trang của tác giả Kevin P. McGuinness.

McGuinness đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản của bảo lãnh chủ yếu trên cơ sở

nguồn luật của Canada và Vương quốc Anh, đồng thời bổ sung một số hệ thống

luật án lệ khác. Theo McGuinness, bảo lãnh có lẽ được coi là hình thức yếu nhất

của sự an toàn trong giao dịch, bởi nó không công nhận những quyền đối với tài

sản của con nợ trong trường hợp phá sản hoặc lừa dối, mà thực chất, nó chỉ mang

lại cho chủ nợ thêm một số quyền chống lại người thứ ba. Tuy nhiên, tại Chương

2 của cuốn sách này, tác giả McGuinness cho rằng, bảo lãnh vẫn tiếp tục là một

hình thức an toàn được áp dụng rộng rãi trong tất cả các hình thức giao dịch. Ở

một thái cực nào đó, dưới hình thức tín thư bảo lãnh xuất khẩu của Chính phủ, trái

phiếu… thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Ở một thái cực khác, bảo lãnh

nội địa cho phép việc mua bán tín chấp những sản phẩm có giá trị không cao.

McGuinness cũng dành nhiều sự quan tâm đến việc áp dụng những nguyên tắc

hợp đồng và nguyên thông thường trong bối cảnh bảo lãnh, quyền và trách nhiệm

của các bên đối với thỏa thuận về quy định bảo lãnh, đặc biệt là bảo lãnh về thiệt

7 Bộ Tư pháp, Tài liệu của Ban soạn thảo, Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi, năm 2014.

Page 25: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

22

hại; (ii) Sách: “Hợp đồng bảo lãnh hiện đại” (The Modern Contract of

Guarantee), xuất bản năm 2003 và được tái bản lần thứ 3 tại Australia, được coi

là sách giáo khoa hàng đầu trong lĩnh vực tín dụng thương mại và bảo lãnh. Theo

đó, các loại hình bảo lãnh thường được coi là biện pháp an toàn quan trọng trong

giao dịch thương mại và tài chính. Sách tập trung vào phân tích những yếu tố ảnh

hưởng đến hiệu lực của bảo lãnh như: Thời hạn, thời hiệu xây dựng các hợp đồng

bảo lãnh và ý nghĩa của các điều khoản thông thường trong hợp đồng bảo lãnh;

các nguyên tắc đặc biệt có thể áp dụng cho hợp đồng bảo lãnh; những khó khăn

trong việc thi hành hợp đồng bảo lãnh; quyền của người bảo lãnh bao gồm quyền

khởi kiện, bồi thường và đóng góp; (iii) Sách: “Bảo lãnh và Bồi thường thiệt hại”

(Guarantee and Indemnity), Nhà xuất bản LexisNexis, Canada, xuất bản năm

2010. Theo nội dung của cuốn sách này, bảo lãnh là hình thức thông thường nhất

của đảm bảo an toàn trong giao dịch thương mại. Số lượng tiền lớn được cho vay

hàng năm đã chứng tỏ sức mạnh của bảo lãnh. Những nội dung chính của sách

bao gồm: Xây dựng hợp đồng bảo lãnh: các nội dung chính bao gồm: Tách biệt

thể nhân pháp lý, bãi bỏ bảo lãnh, quyền được bảo đảm... Bên cạnh đó còn có một

số công trình khác nghiên cứu về thực tiễn thực hiện biện pháp bảo lãnh trong

một số lĩnh vực như: (iv) “Tìm hiểu quá trình bảo lãnh” (Understanding the

surety process, Michael Foster, Insurance Journal, ngày 09/4/2006); (v) “Những

vấn đề pháp lý liên quan đến sự bảo lãnh đối với các dự án vận tải” (Legal issues

involving surety for public transportation project , Michael C. Loulkis, Esq.); (vi)

“Làm thế nào để bảo lãnh cho việc thực hiện các dự án xây dựng quốc tế: So sánh

trái phiếu bảo lãnh với bảo lãnh ngân hàng và tín dụng thư dự phòng”

(Comparing Surety Bonds with Bank Guarantees and Standby Letters of Credit,

David J. Barru, How to Guarantee Contractor Performance on International

Construction, Geo. Wash. int’l l. rev. 51-2005); (vii) “Các quan niệm bảo hiểm

Page 26: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

23

truyền thống và pháp luật về bảo lãnh” (T. Scott Leo, Traditional Insurance

Concepts and Surety Law, BRIEF, Spring 1992)8…

1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

Có thể nhận thấy, nếu như các công trình nghiên cứu ở ngoài nước đều tập

trung nghiên cứu về bản chất pháp lý, làm rõ các vấn đề thuộc nội dung của chế

định bảo lãnh là một biện pháp đối nhân và hướng dẫn để đưa chế định này áp

dụng vào đời sống thực tiễn trong các lĩnh vực nhằm phát huy tính ưu việt của nó,

thì các nghiên cứu trong nước lại thể hiện rõ nhận thức ở hai giai đoạn cụ thể, đó

là nghiên cứu bảo lãnh là một biện pháp đối vật (theo quy định của Bộ luật Dân

sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành) và nghiên cứu bảo lãnh là một

biện pháp đối nhân (theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các văn bản

hướng dẫn thi hành). Tuy nhiên, mặc dù các quy định của Bộ luật Dân sự năm

2005 đã chủ trương chuyển biện pháp bảo lãnh từ “đối vật” sang “đối nhân” nhằm

hài hoà hoá với pháp luật của các nước trong quá trình hội nhập quốc tế, nhưng sự

không rõ ràng trong các quy định của pháp luật chi phối quá trình nhận thức trong

áp dụng pháp luật, khiến cho các nghiên cứu ở giai đoạn này vẫn lẫn lộn giữa bảo

lãnh bằng tài sản của bên thứ ba với cầm cố thế chấp tài sản của bên thứ ba.

Chính vì vậy, nội dung các nghiên cứu không phản ánh được nội hàm và bản chất

pháp lý của chế định bảo lãnh là một biện pháp đối nhân. Quan hệ giữa bên bảo

lãnh và bên nhận bảo lãnh hoàn toàn là quan hệ nghĩa vụ (trái quyền) và việc xử

lý tài sản để đảm bảo nghĩa vụ của bên bảo lãnh là toàn bộ tài sản của họ chứ

không chỉ là tài sản được chỉ định cụ thể (tài sản bảo đảm) như trong quan hệ cầm

cố, thế chấp. Do bản chất của biện pháp bảo đảm đối vật là bảo đảm bằng tài sản

cụ thể và bên nhận bảo đảm chỉ có quyền đối với tài sản đó, nên các biện pháp

này là đối tượng phải đăng ký giao dịch bảo đảm để qua đó xác lập quyền, đặc

8 http://www.aia.org/aiaucmp/groups/aia/documents...

Page 27: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

24

biệt là quyền ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó. Ngược lại, bên bảo đảm đối nhân

phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình và bên nhận bảo đảm có

quyền đối với toàn bộ tài sản đó, nên biện pháp bảo đảm đối nhân không thuộc

diện đăng ký giao dịch bảo đảm.

1.1.4. Những kết quả nghiên cứu mà luận án kế thừa

Trước hết, cần khẳng định, dù tiếp cận nghiên cứu theo quan điểm bảo lãnh

đối vật hay quan điểm bảo lãnh đối nhân, thì các công trình nghiên cứu đã công

bố cũng đã làm rõ được một số vấn đề thuộc nội hàm của biện pháp bảo lãnh như:

Khái niệm, đặc điểm, hình thức bảo lãnh; quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận

bảo lãnh; hợp đồng bảo lãnh; thời điểm, thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; thù

lao bảo lãnh…, tuy nhiên, bản chất pháp lý của bảo lãnh đối nhân và bảo lãnh đối

vật là hoàn toàn không đồng nhất.

Cho đến nay, cả trong và ngoài nước chưa có công trình nghiên cứu nào thể

hiện các nội dung chuyên sâu đối với pháp luật bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng bằng biện pháp bảo lãnh với bản chất pháp lý là bảo lãnh đối nhân, nhưng

kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu đã công bố sẽ là những tư liệu

quý giá giúp cho nghiên cứu sinh trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài

“Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh”.

Các vấn đề mà luận án sẽ kế thừa là:

(i) Một số vấn đề lý luận liên quan đến chế định pháp luật về biện pháp bảo

lãnh với bản chất pháp lý là biện pháp đối nhân;

(ii) Các vấn đề đưa ra tranh luận trong quá trình áp dụng pháp luật về biện

pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng;

(iii) Những quan điểm pháp luật của quốc tế và một số quốc gia về chế định

bảo lãnh.

Page 28: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

25

1.1.5. Những vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu

Theo pháp luật của một số quốc gia cũng như thông lệ quốc tế, cụ thể là

“Hướng dẫn lập pháp về giao dịch bảo đảm của Ủy ban Luật Thương mại quốc tế

Liên Hợp quốc (UNCITRAL)” thông qua năm 2007, được lấy làm cơ sở để đánh

giá chế định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ở bất kỳ quốc gia nào,

không phân biệt là quốc gia theo truyền thống luật dân sự (civil law) hay thông

luật (common law), thì bản chất pháp lý của bảo lãnh là biện pháp đối nhân. Vì

vậy, pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh

cũng phải được quy định và thực hiện theo hướng này. Bởi vậy, các vấn đề nghiên

cứu được triển khai trong nội dung của luận án sẽ bao gồm:

(i) Làm rõ nội hàm lý luận của biện pháp bảo lãnh; pháp luật về bảo đảm

thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh (với bản chất pháp lý là

biện pháp đối nhân);

(ii) Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thi hành pháp luật

của Việt Nam về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh

nhằm làm rõ các vấn đề còn hạn chế, bất cập và nguyên nhân;

(iii) Đưa ra các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, thống nhất

cách hiểu và áp dụng pháp luật để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bảo

đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam trong thời

gian tới.

1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU

1.2.1. Lý thuyết nghiên cứu

(i) Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật với tầm nhìn đến năm 2020; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định hệ thống tiền tệ, phát triển hệ

thống và hoạt động tín dụng ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;

Page 29: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

26

(ii) Lý thuyết về hợp đồng. Trong thông lệ quốc tế, nghĩa vụ của bên bảo

lãnh được coi là nghĩa vụ bổ trợ (“secondary obligation” hay “supporting

obligation”) và quan hệ giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh hoàn toàn là

quan hệ nghĩa vụ (hợp đồng), chứ không mang tính phức hợp như trong quan hệ

bảo đảm nghĩa vụ bằng đối tượng tài sản cụ thể.

(iii) Lý thuyết về vật quyền và trái quyền bảo đảm;

1.2.2. Giả thuyết nghiên cứu

Tín dụng là hoạt động luôn tiềm ẩn rủi ro rất cao, vì vậy, khi thiết lập hợp

đồng tín dụng phải có các biện pháp bảo đảm việc thu hồi vốn cho vay của ngân

hàng và các tổ chức tín dụng. Một trong số các biện pháp bảo đảm đó, có biện

pháp bảo lãnh. Cùng với quá trình phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam, bản

chất biện pháp bảo lãnh được quy định không thống nhất, có giai đoạn được quy

định là biện pháp đối vật. Hiện tại, bảo lãnh được pháp luật thực định coi là biện

pháp đối nhân, nhưng trên thực tế áp dụng, nó vẫn thể hiện “tính đối vật” khi “áp

dụng cầm cố, thế chấp tài sản của người thứ ba” nhằm bảo đảm nghĩa vụ trong

quan hệ tín dụng. Có thể nói, cách hiểu và áp dụng biện pháp bảo lãnh hiện nay

không thống nhất, đặc biệt là trong bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, cho

nên, hiệu quả áp dụng pháp luật không cao, bản chất nhân văn của biện pháp bảo

lãnh không được phát huy trên thực tế. Để làm rõ và thống nhất cách hiểu về bản

chất của biện pháp bảo lãnh, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm thực hiện hợp

đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh, để xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật

về vấn đề này, đặt ra yêu cầu nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc pháp luật

về đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh.

1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu

Từ giả thuyết nghiên cứu ở trên, các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:

Page 30: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

27

(i) Khái niệm, đặc điểm của biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín

dụng là gì?

(ii) Biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng có gì khác biệt so với

các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác và bảo lãnh ngân hàng?

(iii) Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng

tín dụng?

(iv) Những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng

tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh?

(v) Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh?

(vi) Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện

hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam trong thời gian qua?

(vii) Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế?

(viii) Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp

đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh ở Việt Nam?

1.2.4. Hướng tiếp cận nghiên cứu

Hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản được quy

định trong Bộ luật Dân sự và bảo lãnh cũng là một biện pháp bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật Dân sự. Trước đây, với tư cách là một hợp

đồng chuyên ngành về tín dụng ngân hàng, nên việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng

tín dụng còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên,

kể từ khi Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao

dịch bảo đảm được ban hành đã bãi bỏ Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày

29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị

định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung

Page 31: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

28

Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền

vay của các tổ chức tín dụng, cho nên, việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

hoàn toàn chịu sự điều chỉnh của các quy định về các biện pháp bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành về giao

dịch bảo đảm, như Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính

phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006

của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Vì vậy, hướng tiếp cận nghiên cứu của luận

án này được thực hiện từ các quan điểm của pháp luật dân sự về bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ hợp đồng bằng biện pháp bảo lãnh.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong số các biện pháp bảo đảm tín dụng, bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng bằng biện pháp bảo lãnh là một trong các biện pháp phổ biến, mang tính đối

nhân. Quá trình xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật về vấn đề này đã có

những thay đổi nhất định về tư duy lập pháp cũng như nhận thức về bản chất của

biện pháp bảo lãnh. Điều này chi phối thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp

bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng và đã phát sinh

những bất cập nhất định. Mặc dù được Bộ luật Dân sự năm 2005, cũng như Bộ

luật Dân sự năm 2015 quy định là biện pháp đối nhân, nhưng trong thực tiễn áp

dụng về biện pháp bảo đảm nghĩa vụ này vẫn đang gặp nhiều vấn đề vướng mắc

và chưa thể hiện rõ được bản chất pháp lý của biện pháp bảo lãnh.

Các công trình đã công bố nghiên cứu về vấn đề bảo lãnh thực hiện hợp

đồng tín dụng, đặc biệt là các nghiên cứu trong nước thường gắn với các vụ việc

thực tiễn, làm sâu sắc hơn một số khía cạnh pháp lý của biện pháp bảo lãnh hoặc

phản ánh các bất cập trong áp dụng pháp luật, nhưng chưa có công trình nghiên

Page 32: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

29

cứu nào mang tính toàn diện về chế định bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng,

cũng như làm rõ bản chất pháp lý của chế định bảo lãnh ở Việt Nam. Bởi vậy,

việc lựa chọn các lý thuyết nghiên cứu, đặt ra giả thuyết và các câu hỏi nghiên

cứu sẽ góp phần định hướng quá trình nghiên cứu đúng đắn nhằm đạt được mục

tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất được các giải pháp thiết thực hoàn thiện

pháp luật về bảo lãnh nói chung, bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện

pháp bảo lãnh nói riêng ở Việt Nam hiện nay.

Page 33: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

30

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH

2.1. KHÁI QUÁT VỀ BIỆN PHÁP BẢO LÃNH THỰC HIỆN HỢP

ĐỒNG TÍN DỤNG

2.1.1. Hợp đồng tín dụng và yêu cầu bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

2.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng

Tín dụng là một trong những chức năng cơ bản trong hoạt động của ngân

hàng và các tổ chức tín dụng, được ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Tín

dụng thực chất là quan hệ vay tiền tệ (thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay và

người vay) nhằm đáp ứng các yêu cầu về vốn hoặc nhu cầu khác của các chủ thể

trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong quan hệ này, người cho vay có nhiệm vụ

chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho vay cho người đi vay trong

một thời gian nhất định. Người đi vay có nghĩa vụ trả số tiền hoặc giá trị hàng hoá

đã vay khi đến hạn trả nợ kèm theo một khoản lãi. Hoạt động cho vay được coi là

một trong những hoạt động cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn

tại và phát triển của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Hầu hết, trong hoạt động

kinh doanh của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, thì hoạt động cho vay chiếm quá

nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu.

Về nguyên tắc, khách hàng vay vốn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng

phải đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoàn trả nợ gốc cùng lãi

vốn vay đúng thời hạn như đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng9. Đối với việc

vay vốn dân sự hoặc thương mại thông thường, thì hầu như bên cho vay không

quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay, trong khi đó, đối với hợp đồng tín dụng

9 Ngân hàng Nhà nước, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, được ban hành theo

Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, (Điều 6).

Page 34: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

31

thì lại là một trong những điều kiện quan trọng nhất. Trong cả thời hạn vay vốn,

nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã thỏa thuận, thì ngân hàng,

tổ chức tín dụng có thể được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi phạm và thu hồi

nợ trước hạn. Đó là quy định đồng thời là điều quan tâm hàng đầu của các ngân

hàng, tổ chức tín dụng trong nghiệp vụ xét duyệt và quản lý các khoản vay. Để

bảo đảm được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và việc trả nợ đúng hạn, ngân

hàng được quyền kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và trả nợ. Đây

cũng là điều hầu như không xuất hiện trong các hợp đồng vay vốn trong các quan

hệ giữa cá nhân và các doanh nghiệp. Các ngân hàng, tổ chức tín dụng chỉ xem

xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện như: (i) Có năng

lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy

định của pháp luật; (ii) Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; (iii) Có khả năng tài

chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; (iv) Có dự án đầu tư, phương án sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án

phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật; (v) Thực hiện

các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam10.

Hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản được quy

định trong Bộ luật Dân sự. Theo pháp luật dân sự, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa

thuận giữa các bên, theo đó, bên cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến thời

hạn hoàn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên vay tài sản cùng loại theo đúng số

lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có

quy định. Các yêu cầu chung đối với một hợp đồng vay tài sản được xác định là:

(i) Hình thức của hợp đồng vay tài sản do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp

10 Ngân hàng Nhà nước, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, được ban hành theo

Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, (Điều 7).

Page 35: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

32

luật quy định bắt buộc phải lập thành văn bản; (ii) Đối tượng của hợp đồng vay tài

sản có thể là tiền hoặc tài sản cụ thể (vật); (iii) Các bên có thể thỏa thuận về lãi

suất trong hợp đồng vay tài sản và nằm trong giới hạn nếu pháp luật có quy định;

(iv) Các bên có thể thỏa thuận về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp có

vi phạm hợp đồng.

Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, nhưng là cho vay trực tiếp, nó khác

các hình thức cấp tín dụng khác (cho vay gian tiếp) như: Chiết khấu, cho thuê tài

chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng… Hợp đồng tín dụng là căn cứ pháp lý

để các các ngân hàng và tổ chức tín dụng tiến hành các hoạt động cho vay tiền tệ.

Hợp đồng tín dụng chỉ đồng thời là hợp đồng cấp tín dụng khi thực hiện nghiệp

vụ cấp tín dụng cho vay. Hợp đồng tín dụng không đồng nghĩa với hợp đồng cấp

tín dụng khác như: Chiết khấu (hình thành hợp đồng chiết khấu/hoặc tái chiết

khấu); cho thuê tài chính (hình thành hợp đồng cho thuê tài chính); bao thanh toán

(hình thành hợp đồng bao thanh toán); bảo lãnh ngân hàng (hình thành hợp đồng

cấp bảo lãnh/hợp đồng bảo lãnh ngân hàng) và các hợp đồng cấp tín dụng khác…

Bên cạnh việc chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, với tư cách là một hợp đồng

chuyên ngành về tín dụng ngân hàng, nên nó còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật

về tín dụng ngân hàng.

Từ các yêu cầu và phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm: “Hợp đồng tín

dụng là hợp đồng cho vay có sự thỏa thuận của các bên, theo đó, bên cho vay là

ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng giao cho bên vay là các chủ thể có

đủ điều kiện được vay vốn một khoản tiền nhất định để sử dụng vào mục đích xác

định trong một thời hạn nhất định với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.

Hợp đồng tín dụng có những đặc trưng riêng, mà một trong số đó là thường

có biện pháp bảo đảm đi kèm nhằm đảm bảo quyền lợi của bên cho vay, đề phòng

các trường hợp rủi ro có thể xảy ra. Cụ thể:

Page 36: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

33

Thứ nhất, sự chuyển nhượng trong hợp đồng tín dụng chỉ mang tính chất

tạm thời. Cho dù đối tượng chuyển nhượng trong các hợp đồng tín dụng có thể là

một khoản tiền vay hay tài sản nhất định, nhưng sự chuyển nhượng các lượng giá

trị đó từ bên cho vay sang bên vay chỉ là sự chuyển nhượng tạm thời. Tính chất

tạm thời thể hiện là bên vay chỉ được sử dụng các lượng giá trị đó trong thời hạn

nhất định theo thỏa thuận, hết thời hạn này, các lượng giá trị này được hoàn trả lại

bên cho vay. Trên thực tế, tiền tệ hay tài sản là đối tượng của hợp đồng tín dụng

chỉ là sự chuyển giao tạm thời, bên cho vay không mất đi quyền sở hữu đối với

các lượng giá trị đã chuyển giao mà chỉ làm thay đổi khách thể của quyền sở hữu,

đó là chuyển từ quyền sở hữu khoản tiền tệ hay tài sản sang sở hữu quyền tài sản

là quyền đòi nợ. Trong khi đó, bên vay chỉ là chủ sở hữu tạm thời đối với lượng

giá trị tiền tệ hay tài sản mà bên cho vay chuyển nhượng cho. Sau một thời gian

nhất định theo thỏa thuận, họ phải hoàn trả toàn bộ lượng giá trị đó cho bên cho

vay, đồng thời phải trả thêm một khoản lãi suất mà hai bên đã thỏa thuận. Tính

chất chuyển nhượng tạm thời khoản tiền tệ và tài sản trong hợp đồng tín dụng

được coi là điểm khác biệt giữa loại hợp đồng này so với các loại hợp đồng như

mua bán, trao đổi hoặc hợp đồng tặng cho, thừa kế tài sản...

Thứ hai, hợp đồng tín dụng luôn luôn là một hợp đồng mang tính đền bù.

Tính chất đền bù trong hợp đồng nói chung thể hiện ở sự trao đổi ngang giá trị

giữa các bên trong một quan hệ hợp đồng. Nói cách khác, hợp đồng có tính chất

đền bù là hợp đồng mà trong đó, một bên khi đã nhận lợi ích từ bên kia, thì cũng

phải trao lại cho họ một lợi ích tương ứng. Trong hợp đồng tín dụng, tính chất đền

bù thể hiện ở chỗ, khi bên vay được sử dụng một khoản tiền (vốn vay) trong một

khoảng thời gian nhất định (lợi ích mà bên cho vay mang đến), thì bên vay cũng

phải trao lại bên cho vay một khoản lợi ích nhất định (đó chính là khoản lãi mà

Page 37: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

34

bên vay phải trả bên cho vay là các ngân hàng và tổ chức tín dụng)11. Hoạt động

tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng và các tổ chức tín dụng

nhằm thu lợi nhuận để phát triển. Tuy nhiên, lãi suất cho vay mà các bên thỏa

thuận phải nằm trong khung lãi suất cơ bản mà Ngân hàng Nhà nước đã quy định.

Tùy vào từng thời kỳ phát triển, các ngân hàng và tổ chức tín dụng phải hoạch

định chính sách lãi suất và mức lãi suất phù hợp. Chính sách và mức lãi suất cũng

không bắt buộc phải áp dụng theo mặt bằng đối với tất cả mọi khách hàng, mà

trên cơ sở uy tín, mức độ quan hệ, sự hiệu quả trong sử dụng vốn vay, ngân hàng

và tổ chức tín dụng có thể phân loại khách hàng và có các chính sách cũng như

mức lãi suất đối với từng loại khách hàng khác nhau.

Thứ ba, hợp đồng tín dụng luôn luôn phải được ký kết dưới hình thức văn

bản và thường theo mẫu chung của các ngân hàng, tổ chức tín dụng ban hành

tương ứng với phương thức cho vay. Nội dung của hợp đồng tín dụng quy định cụ

thể về các vấn đề sau đây: (i) Về chủ thể hợp đồng, bên cho vay luôn luôn là ngân

hàng, các tổ chức tín dụng có đủ điều kiện theo pháp luật quy định được thực hiện

cho vay tín dụng, còn bên vay là các tổ chức, cá nhân thỏa mãn các điều kiện mà

pháp luật cho phép được vay vốn; (ii) Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ

cũng là một khoản tiền mặt mà các bên đã thỏa thuận và được ghi rõ trong văn

bản hợp đồng; (iii) Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, nghĩa vụ

chuyển giao tiền vay (nghĩa vụ giải ngân) của bên cho vay bao giờ cũng phải

được thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của

bên vay, Do đó, chỉ khi nào bên cho vay chững minh được rằng, họ đã chuyển số

tiền vay theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho bên vay, thì khi đó, họ

mới có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối với mình (bao gồm

11 Giáo trình Luật Ngân hàng, Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm

2006, tr. 47; Giáo trình Luật Ngân hàng, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 59.

Page 38: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

35

nghĩa vụ chính như sử dụng tiền vay đúng mục đích, nghĩa vụ hoàn trả tiền vay

đúng thời hạn cả gốc và lãi suất như đã thỏa thuận…).

Thứ tư, hợp đồng tín dụng luôn luôn có các biện pháp bảo đảm đi kèm.

Hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay của ngân hàng và các tổ chức

tín dụng nói riêng luôn tiềm ẩn các rủi ro gặp phải. Các rủi ro này có thể do các

nguyên nhân khách quan như biến động của thị trường, suy thoái kinh tế, cũng có

thể do nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng, tổ chức tín dụng, do khách hàng

là bên vay thua lỗ, sử dụng vốn vay không đúng mục đích..., dẫn tới không có khả

năng hoàn trả được khoản tiền vay (theo thuật ngữ tín dụng ngân hàng là các

khoản nợ xấu). Để hạn chế các rủi ro trong tín dụng ngân hàng, trước hết, công

tác thẩm định các khoản vay của cán bộ tín dụng là rất quan trọng. Đối với mỗi

khoản vay, cán bộ tín dụng cần phải thẩm định kỹ lưỡng về mục đích sử dụng

khoản vay, khả năng trả nợ của bên vay và đặc biệt là cần xác định một biện pháp

bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng để tránh các rủi ro nói trên.

Trong hoạt động cho vay, các ngân hàng và tổ chức tín dụng luôn luôn phải

coi nguồn tài chính trong các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng là

nguồn thu nợ thứ hai khi khách hàng không hoàn trả được khoản nợ vay khi đến

hạn. Thực tế, trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay

có muôn vàn lý do có thể dẫn đến tình trạng bên vay không có khả năng trả nợ

ngân hàng, nếu không xác định rõ các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng, không có các nguồn tài chính thứ hai để dự phòng việc trả nợ, thì nhất định

sẽ có các rủi ro xảy ra đối với các ngân hàng và tổ chức tín dụng là bên cho vay.

Vì vậy, ngoại trừ trường hợp bên vay là các doanh nghiệp có đủ điều kiện để vay

không cần tài sản bảo đảm hoặc doanh nghiệp được bảo lãnh của Chính phủ, các

hợp đồng tín dụng đều phải có các biện pháp bảo đảm kèm theo như; Cầm cố, thế

chấp tài sản, bảo lãnh của người thứ ba... Các biện pháp bảo đảm cho các nghĩa

Page 39: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

36

vụ trả nợ phát sinh từ hợp đồng tín dụng thường dựa trên ý chí của bên cho vay

trong việc xác định các tiêu chí rủi ro tín dụng và xếp hạng khách hàng.

2.1.1.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

Kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt vì đối tượng

kinh doanh là tiền và thu nhập chủ yếu của ngân hàng được tạo ra từ hoạt động tín

dụng. Trong khi đó, bất kì một khoản cho vay nào cũng đều chứa đựng những rủi

ro nhất định và thường mang tính chất dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau

trong xã hội. Một khi có rủi ro xảy ra thì ngân hàng phải chịu tổn thất. Để hạn chế

rủi ro thì ngay từ đầu tất cả các khoản cho vay phải có ít nhất hai nguồn trả nợ

tách biệt. Do đó bảo đảm tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những hạn chế của

nhà quản trị ngân hàng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi.

Việc ngân hàng nhận bảo đảm tín dụng nhằm hai mục đích: (i) Nếu người vay

không trả được nợ thì ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi

nợ; (ii) Nhận bảo đảm tín dụng tạo cho ngân hàng lợi thế về tâm lý so với người

vay, bởi vì một tài sản khi đã là vật đảm bảo thì buộc người đi vay phải có trách

nhiệm nhiều hơn trong việc hoàn trả nợ vay để khỏi phải gán những tài sản giá trị

của mình. Yêu cầu bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng là nhằm nâng cao trách

nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, phòng ngừa rủi ro khi phương án trả

nợ dự kiến của bên vay không được thực hiện hoặc xảy ra các rủi ro không lường

trước được, đồng thời phòng ngừa các trường hợp gian lận trong quan hệ tín

dụng. Đối với các tổ chức tín dụng, một khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản

sẽ chứa đựng ít rủi ro hơn một khoản cho vay có bảo đảm không bằng tài sản, cho

nên, các ngân hàng thường ưa chuộng cho vay có bảo đảm bằng tài sản hơn. Để

đưa ra quyết định về việc cho vay có bảo đảm không bằng tài sản hay cho vay có

bảo đảm bằng tài sản các ngân hàng thương mại thường dựa vào các tiêu chuẩn

như: tính hiệu quả của dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, khả năng tài

Page 40: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

37

chính của người đi vay, mục đích sử dụng tiền vay, số tiền vay... nhằm giảm thiểu

tới mức thấp nhất rủi ro xảy ra.

Về bản chất, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân

hàng là những biện pháp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng

tín dụng, nó có thể là điều kiện bắt buộc trong một số trường hợp theo quy định

của pháp luật hoặc theo thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, dù thế nào chăng

nữa, thì các biện pháp này không ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền và

nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng. Bên có nghĩa vụ vẫn phải nghiêm

túc thực hiện nghĩa vụ và chịu các biện pháp xử lý về tài sản nếu vi phạm (phong

tỏa tài khoản, niêm phong tài sản, bị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các

biện pháp khẩn cấp tạm thời khác để đảm bảo trả nợ...).

Đối với biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, theo Bộ luật Dân

sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn về bảo đảm tiền vay, pháp luật Việt Nam

quy định việc bảo lãnh là bằng tài sản của bên thứ ba, tuy nhiên, đến Bộ luật Dân

sự năm 2005, nhằm đa dạng hóa các biện pháp bảo đảm và giảm bớt sự khác biệt

so với pháp luật của các nước trong quá trình hội nhập quốc tế, Bộ luật Dân sự

năm 2005 đã quy định bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân, theo đó, bên bảo

lãnh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, đồng thời chuyển bảo lãnh

bằng tài sản cụ thể thành cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba, kể cả

trường hợp bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai

cũng chuyển thành thế chấp quyền sử dụng đất.

2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

2.1.2.1. Khái niệm bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Như trên đã trình bày, để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng có thể áp

dụng một trong các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ như: Cầm cố tài sản, thế chấp tài

sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp… theo quy định của Bộ luật Dân

sự. Mỗi biện pháp bảo đảm mang một đặc điểm riêng biệt, tùy thuộc vào nội

Page 41: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

38

dung, điều kiện của các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng mà các bên lựa chọn

biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho thích hợp. Cùng với các biện pháp bảo

đảm khác, bảo lãnh được pháp luật quy định là một trong những biện pháp bảo

đảm thực hiện nghĩa vụ nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng.

Theo Từ điển Tiếng Việt12, thì bảo lãnh được hiểu là việc bảo đảm và chịu

trách nhiệm trước pháp luật về một người nào đó. Khái niệm này mang tính chất

bao quát chung cho bản chất của hoạt động bảo lãnh, không thể hiện được những

nét đặc thù của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trong dân luật. Theo Từ điển Luật

học13, thì bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện

nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thỏa thuận

về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có

khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên bảo lãnh cũng có thể cam kết bảo lãnh

một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.

Hợp đồng tín dụng là quan hệ vay tiền giữa một bên là cá nhân hoặc tổ

chức có nhu cầu vay vốn và một bên là ngân hàng, các tổ chức tín dụng cho vay.

Nhằm bảo đảm nghĩa vụ cho bên vay, người thứ ba (là cá nhân hoặc tổ chức) có

thể thực hiện việc bảo lãnh. Với cách hiểu về bảo lãnh ở trên, thì bảo lãnh hợp

đồng tín dụng cũng có thể được xác định là việc một người hay một tổ chức (gọi

là bên bảo lãnh) cam kết với ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay (gọi là bên nhận

bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho cá nhân, tổ chức vay (gọi là bên được

bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh

chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện

12 Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, Nxb. Văn hóa - Thông tin xuất bản năm 1999, tr.79. 13 Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp và Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006, tr.43.

Page 42: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

39

nghĩa vụ trả nợ của mình. Bên bảo lãnh cũng có thể cam kết bảo lãnh một phần

hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ vay cho bên được bảo lãnh.

Nội dung của quan hệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng được xem xét

qua các yếu tố sau đây:

- Về chủ thể của bảo lãnh: Quan hệ bảo lãnh là một quan hệ tay ba giữa

người cho vay (ngân hàng, các tổ chức tín dụng), người vay (các tổ chức, cá nhân

thỏa mãn điều kiện vay vốn ngân hàng) và người thứ ba (người bảo lãnh). Thông

qua việc cam kết giữa người thứ ba trên cơ sở sự đồng ý của người cho vay hình

thành một quan hệ, trong đó người thứ ba được gọi là người bảo lãnh, người cho

vay gọi là người nhận bảo lãnh và người vay được gọi là người được bảo lãnh.

Tuy nhiên, hợp đồng bảo lãnh có tính độc lập tương đối với hợp đồng tín dụng.

Về phương diện chủ thể, hợp đồng bảo lãnh được xác lập giữa bên bảo lãnh với

bên nhận bảo lãnh (người có tư cách là bên cho vay trong hợp đồng tín dụng).

Còn hợp đồng tín dụng lại được xác lập giữa bên cho vay (ngân hàng, các tổ chức

tín dụng) với bên đi vay (người có tư cách là bên nhận bảo lãnh trong hợp đồng

bảo lãnh). Do sự khác nhau về cơ cấu thành phần chủ thể giữa hợp đồng bảo lãnh

với hợp đồng tín dụng (nghĩa là các chủ thể của hợp đồng bảo lãnh không đồng

thời là chủ thể của hợp đồng tín dụng) nên về mặt lý thuyết có thể suy luận rằng,

các chủ thể của hợp đồng bảo lãnh hoàn toàn có khả năng tự mình quyết định việc

xác lập hợp đồng bảo lãnh hay không mà không hề phụ thuộc vào ý chí của các

chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng. Điều này thể hiện tính độc lập tương đối của

hợp đồng bảo lãnh trong mối quan hệ với hợp đồng tín dụng.

- Về phạm vi bảo lãnh: Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần

hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng cho bên được bảo lãnh. Nếu

không có thỏa thuận gì khác, thì người bảo lãnh phải bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ

của người được bảo lãnh trong phạm vi bảo lãnh, đồng thời phải bảo lãnh cả

khoản tiền phạt cũng như tiền bồi thường thiệt hại.

Page 43: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

40

- Về nội dung của bảo lãnh: Bên bảo lãnh phải dùng uy tín và toàn bộ tài

sản thuộc sở hữu của mình (không cần xác định rõ tài sản) để thực hiện nghĩa vụ

thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghĩa vụ trả nợ

hoặc gây ra thiệt hại cho bên nhận bảo lãnh (ngân hàng, các tổ chức tín dụng).

- Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Việc thực hiện nghĩa vụ bảo

lãnh chỉ được đặt ra khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trước thời hạn đó, nếu các bên

không có thỏa thuận thì bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực

hiện nghĩa vụ đó.

Với các phân tích trên, khái niệm bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng được

hiểu là “việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay (gọi là bên

nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay (gọi là bên được bảo

lãnh), nếu khi đến thời hạn trả nợ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Các bên có thể thỏa thuận và cam kết về việc bên

bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi bên được bảo lãnh không có khả

năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên bảo lãnh cũng có thể cam kết bảo lãnh một

phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ vay cho bên được bảo lãnh”.

2.1.2.2. Đặc điểm của bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Trong số các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thì cầm cố tài sản, thế

chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ được xác định là các biện pháp đối vật vì nó

luôn đi kèm tài sản bảo đảm (tài sản được chỉ định cụ thể). Tài sản bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ phải là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bên có nghĩa vụ. Hai biện

pháp đối nhân có sự tham gia trực tiếp của người thứ ba, đó là bảo lãnh và tín

chấp. Tiêu chí xác định của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nói chung

được căn cứ vào việc bên bảo đảm có hay không có tài sản để đảm bảo và bên có

quyền được thực hiện quyền như thế nào đối với tài sản, trên cơ sở đó để phân

biệt biện pháp bảo đảm thành bảo đảm đối nhân hay bảo đảm đối vật.

Page 44: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

41

Thứ nhất, bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân

Mặc dù được xác định là biện pháp đối nhân, nhưng giữa biện pháp tín

chấp và biện pháp bảo lãnh cũng có những điểm không giống nhau. Tín chấp có

phạm vi chủ thể rất hẹp, bên tín chấp là tổ chức chính trị, xã hội tại cơ sở, bên

nhận tín chấp là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng, bên được tín chấp là cá nhân,

hộ gia đình nghèo. Tín chấp hoàn toàn được hiểu là biện pháp bảo đảm mang tính

đối nhân và pháp luật không quy định chế tài về tài sản đối với bên tín chấp. Còn

đối với biện pháp bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh chỉ được trao quyền yêu cầu đối

với bên bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và không được trao quyền

đối với một số tài sản cụ thể nào của bên bảo lãnh. Tuy nhiên, việc bảo đảm nghĩa

vụ của bên bảo lãnh là dùng uy tín hoặc tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ tài sản cụ thể. Vì vậy, chế tài xử lý tài sản của bên bảo lãnh đã

được pháp luật quy định rất rõ ràng là “trong trường hợp đã đến hạn thực hiện

nghĩa vụ thay cho bên bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ, thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để

thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”.

Thứ hai, yêu cầu về chủ thể bảo lãnh

Quan hệ bảo lãnh luôn có sự xuất hiện của bên thứ ba, điều đó có nghĩa là

chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh luôn có ba bên, đó là bên bảo lãnh, bên nhận

bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng

cũng như quan hệ bảo lãnh hợp đồng tín dụng phải thỏa mãn các yêu cầu của một

chủ thể tham gia giao dịch dân sự.

Đối với chủ thể bảo lãnh, thường phải đảm bảo các tiêu chí sau: (i) Có uy

tín hoặc (ii) có tài sản thuộc sở hữu của mình bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa

vụ bảo lãnh hoặc (iii) vừa có uy tín, vừa chứng minh được năng lực tài chính để

đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi đến hạn mà bên được

bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ.

Page 45: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

42

Thứ ba, về thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên có nghĩa vụ không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc chỉ khi bên được bảo lãnh

không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Người có quyền (bên nhận bảo

lãnh) chỉ có quyền yêu cầu người thứ ba (bên bảo lãnh) phải thực hiện nghĩa vụ

bảo lãnh khi hết thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ mà người có nghĩa vụ (bên được

bảo lãnh) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đồng thời, bên

bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong phạm vi đã cam kết.

Thứ tư, tính phụ thuộc của nghĩa vụ bảo lãnh và nghĩa vụ được bảo lãnh

Với bản chất là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bảo lãnh cũng

như bất kỳ biện pháp bảo đảm nào khác như đặt cọc, cầm cố, thế chấp, tín chấp,

ký quỹ…, được coi là một phần không tách rời với hợp đồng (nếu các chủ thể có

lựa chọn biện pháp bảo đảm cho việc ký kết hoặc thực hiện hợp đồng), nhưng vẫn

có giá trị độc lập tương đối. Bên cạnh đó, pháp luật dân sự quy định về chuyển

giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm cũng xác định là “trong trường hợp

nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm

đó chấm dứt, nếu không có thỏa thuận khác”. Việc phân định rõ vị trí pháp lý của

các biện pháp bảo đảm với hợp đồng chính, sẽ giúp cho các bên liên quan hiểu rõ

nghĩa vụ pháp lý của mình, đặc biệt trong quan hệ bảo lãnh, một quan hệ mang

tính đối nhân – có sự tham gia của người thứ ba.

Nghĩa vụ bảo lãnh là một nghĩa vụ phụ, nó có thể được thể hiện là hợp

đồng phụ bảo đảm cho hợp đồng chính và cũng có thể là các điều kiện để thực

hiện hợp đồng chính. Nghĩa vụ bảo lãnh luôn tồn tại và phụ thuộc vào nghĩa vụ

của bên được bảo lãnh. Chính vì vậy, các nghĩa vụ bảo lãnh không thể xuất hiện

trước nghĩa vụ được bảo lãnh (nghĩa vụ chính). Từ đó có thể thấy rằng, giá trị của

nghĩa vụ bảo lãnh lệ thuộc vào giá trị của nghĩa vụ được bảo lãnh và phạm vi

nghĩa vụ bảo lãnh không thể rộng hơn phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh.

Page 46: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

43

2.1.3. So sánh biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng với các

biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác

Ngân hàng và các tổ chức tín dụng được toàn quyền quyết định việc cho

vay có hay không có tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp bảo

đảm có ý nghĩa rất quan trọng, thậm chí là hơn cả hợp đồng tín dụng. Bởi vì, nếu

hợp đồng tín dụng bị vô hiệu, thì hậu quả xấu nhất chỉ là ngân hàng không được

thu tiền lãi. Nhưng nếu các hợp đồng bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bị vô

hiệu, thì nguy cơ lớn hơn nhiều, ngân hàng và các tổ chức tín dụng có thể không

thu hồi được cả gốc lẫn lãi. Những vướng mắc, tranh chấp nảy sinh trên thực tế

cũng chủ yếu liên quan đến hợp đồng thực hiện các biện pháp bảo đảm. Theo

Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành14, thì bảo đảm thực

hiện hợp đồng tín dụng (hay bảo đảm tiền vay) là việc các ngân hàng và tổ chức

tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp

lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Cho vay có bảo đảm là

việc cho vay vốn của các ngân hàng và tổ chức tín dụng, mà theo đó, nghĩa vụ trả

nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế

chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo lãnh của bên thứ

ba. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành từ

vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ

đối với các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Các ngân hàng thường sử dụng năm

trong số bảy biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tín dụng theo quy

định của Bộ luật Dân sự là: Cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, ký quỹ và tín chấp (hai

biện pháp bảo đảm còn lại là đặt cọc thì gần như là không được sử dụng trên thực

tế, còn ký cược thì chỉ được dùng riêng cho giao dịch thuê tài sản). Luật các Tổ

chức tín dụng chỉ nhắc đến ba biện pháp bảo đảm chủ yếu là cầm cố, thế chấp và

14 Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010.

Page 47: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

44

bảo lãnh, mà không đề cập đến biện pháp ký quỹ và tín chấp. Nếu doanh nghiệp

này vay tiền của doanh nghiệp khác có bảo đảm bằng biện pháp cầm cố, thì việc

cầm cố đó hoàn toàn có thể gọi là ký quỹ khi tài sản được đưa vào ngân hàng cho

vay quản lý.

2.1.3.1. Đối với các biện pháp đối vật là cầm cố, thế chấp

Mặc dù Bộ luật Dân sự có định nghĩa chung, cầm cố là giao dịch bảo đảm

có sự chuyển giao tài sản từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố, còn thế chấp thì

không có sự chuyển giao tài sản. Nhưng theo các quy định cụ thể của pháp luật,

thì giao dịch bảo đảm đối với một số loại tài sản lại luôn luôn được xác định rõ là

biện pháp cầm cố. Chẳng hạn như đối với thẻ tiết kiệm, hối phiếu, giấy tờ có giá,

vận đơn (vận đơn theo lệnh và vận đơn vô danh). Ngược lại, giao dịch bảo đảm

đối với một số loại tài sản lại luôn luôn được xác định rõ là biện pháp thế chấp.

Chẳng hạn như đối với quyền sử dụng đất, nhà ở, tàu biển, tàu cá (theo Luật Đất

đai, Luật Nhà ở, Bộ luật Hàng hải và Luật Thuỷ sản). Đối với tài sản bảo đảm là

vật được hình thành trong tương lai, bất kể là động sản hay bất động sản, thì theo

quy định của Bộ luật Dân sự cũng sẽ là biện pháp thế chấp trong thời điểm ký hợp

đồng, vì không thể có chuyện “chuyển giao” tài sản chưa hiện hữu. Theo Luật các

Tổ chức tín dụng năm 2010, các ngân hàng không được phép nhận cầm cố bằng

cổ phiếu của chính ngân hàng mình để cho vay (khoản 2 Điều 52).

Theo các quy định của Luật Đất đai, quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế

được thế chấp tại các ngân hàng “để vay vốn”, còn quyền sử dụng đất của hộ gia

đình và cá nhân chỉ được thế chấp “để vay vốn sản xuất, kinh doanh”. Tuy nhiên,

cũng cần phải lưu ý đến một số loại tài sản không được thế chấp như: (i) Đất thuê

của Nhà nước trả tiền hằng năm. Tuy nhiên nếu là người thuê lại đất này mà đã

trả tiền cho cả thời gian thuê lại đất, đối với đất đã được đầu tư xây dựng xong kết

cấu hạ tầng của tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất, để đầu tư xây dựng

kinh doanh kết cấu hạ tầng tại khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao

Page 48: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

45

thì lại được phép thế chấp quyền sử dụng đất; (ii) Đất của tổ chức được Nhà nước

giao đất không thu tiền sử dụng đất; (iii) Đất của tổ chức kinh tế được Nhà nước

giao đất có thu tiền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mà tiền

sử dụng đất đã trả có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.

2.1.3.2. Đối với biện pháp bảo lãnh

Nếu như trước đây, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 và các văn

bản hướng dẫn thi hành, thì bảo lãnh gồm nhiều loại giao dịch: Cầm cố tài sản,

thế chấp tài sản của bên thứ ba và bảo lãnh không bằng tài sản của bên thứ ba...,

thì theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015, bảo

lãnh là biện pháp đối nhân và chỉ còn lại một hình thức duy nhất là bảo đảm của

bên thứ ba nhưng không có tài sản cụ thể để đưa vào cầm cố, thế chấp tại ngân

hàng và các tổ chức tín dụng. Nếu bên thứ ba đã có tài sản bảo đảm chuyển giao

cho ngân hàng thì được gọi là biện pháp cầm cố và có tài sản bảo đảm không

chuyển giao cho ngân hàng thì được gọi là biện pháp thế chấp chứ không còn là

biện pháp bảo lãnh nữa. Điều đó có nghĩa là không có hợp đồng bảo lãnh bằng tài

sản của bên thứ ba, mà là chính xác phải là hợp đồng cầm cố hoặc thế chấp tài sản

của bên thứ ba.

Trên thực tế, do quy định khác nhau về bản chất đối nhân và đối vật của

pháp luật dân sự qua các thời kỳ, biện pháp bảo lãnh đã bị biến tướng và gây ra

không ít hệ lụy. Do không hiểu rõ bản chất của bảo lãnh, nên việc bảo lãnh nợ vay

tín dụng ngân hàng bằng cách người bảo lãnh phải dùng tài sản của mình thế chấp

cho ngân hàng thì ngân hàng mới cho người được bảo lãnh vay. Nếu bên vay

không trả nợ hay trả nợ không đầy đủ, thì ngân hàng sẽ phát mãi tài sản bảo đảm

của người bảo lãnh để thu hồi nợ. Người đứng ra bảo lãnh cho người khác được

vay vốn thường là người tốt, với mục đích là giúp đỡ. Nhưng việc bảo lãnh cũng

chứa đựng rất nhiều nguy cơ rủi ro, như người vay bội tín hoặc không có khả

năng trả nợ, bỏ trốn hay bị chết, thì mọi hậu quả người bảo lãnh sẽ phải chịu toàn

Page 49: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

46

bộ. Không phải vì việc bảo lãnh cho người khác vay vốn có nhiều rủi ro và dễ

nhận phần thiệt hại, phiền toái về mình mà khuyên mọi người không nên đứng ra

bảo lãnh cho ai vay nợ. Ở đây muốn nói đến một thực tế hiện nay, việc bảo lãnh

trong một số trường hợp đã bị biến tướng. Người bảo lãnh không phải chỉ giúp đỡ

vô tư, mà vì ham lợi đã trở thành người cho vay tín dụng đen trong khi không có

vốn. Còn bên vay lợi dụng lòng tin lẫn lòng tham của người bảo lãnh để chiếm

đoạt tài sản.

Một loại giao dịch dễ bị nhầm lẫn với biện pháp bảo lãnh, đó là cam kết trả

nợ của công ty cho chi nhánh hoặc một xí nghiệp, đơn vị phụ thuộc. Đây không

phải là quan hệ bảo lãnh, vì chỉ có một pháp nhân duy nhất là công ty phải gánh

chịu nghĩa vụ trả nợ cuối cùng. Đối với trường hợp bảo lãnh của công ty con cho

công ty mẹ mà công ty con lại thuộc sở hữu vốn 100% của công ty mẹ thì vẫn là

giao dịch bảo lãnh, vì đây là hai pháp nhân khác nhau. Tuy nhiên, về giá trị kinh

tế thì rất ít ý nghĩa, vì toàn bộ tài sản của công ty con cũng chính là một phần tài

sản của công ty mẹ.

Tóm lại, so với các biện pháp bảo đảm khác như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh

là biện pháp đối nhân, biện pháp bảo lãnh luôn có sự tin tưởng vì người bảo lãnh

không những bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ cho người được bảo lãnh bằng uy tín mà

còn bằng tất cả tài sản thuộc sở hữu của họ nếu như họ không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng ngĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.

2.1.4. So sánh bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng với bảo lãnh ngân hàng

2.1.4.1. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Với các nghiên cứu ở những phần trên, có thể khái lược tóm tắt về bảo lãnh

thực hiện hợp đồng tín dụng như sau:

- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng là việc người thứ ba (có thể là cá

nhân hoặc tổ chức bất kỳ nếu đủ điều kiện theo pháp luật cho phép) được gọi là

bên bảo lãnh cam kết với bên nhận bảo lãnh (là các ngân hàng hoặc tổ chức tín

Page 50: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

47

dụng cho vay) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay (bên được bảo lãnh),

nếu đến thời hạn trả nợ, bên được bảo lãnh không thực hiện được hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ trả nợ.

- Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện

nghĩa vụ khi bên vay (bên được bảo lãnh) không có khả năng thực hiện nghĩa vụ

trả nợ. Việc áp dụng biện pháp bảo lãnh nhất thiết phải được lập thành văn bản,

có thể lập thành văn bản riêng (hợp đồng bảo lãnh) hoặc ghi rõ trong hợp đồng tín

dụng (hợp đồng chính). Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo

lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực.

- Xét về phạm vi, bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn

bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ bảo lãnh thường bao gồm cả tiền lãi

trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận

khác. Do thực hiện cam kết bảo lãnh, gánh chịu rủi ro cho bên được bảo lãnh, cho

nên, bên bảo lãnh được hưởng thù lao. Đương nhiên, quyền được hưởng thù lao

phải có sự thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh.

- Trường hợp khi mà một người không đủ năng lực tài chính để thực hiện

việc bảo lãnh trọn vẹn một nghĩa vụ, thì có thể có nhiều người cùng bảo lãnh

(đồng bảo lãnh). Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ, họ phải liên đới

thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định

bảo lãnh theo các phần độc lập. Bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số

những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Điều hiển nhiên là

sau khi một người trong số những người đồng bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn

bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, thì người đó có quyền yêu cầu những

người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.

- Khi đã có cam kết bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghiêm túc nghĩa

vụ thay cho bên được bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh cũng được pháp luật quy định rất

Page 51: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

48

chặt chẽ bằng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người bảo lãnh15. Trong trường

hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì bên bảo lãnh bắt buộc

phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh.

2.1.4.2. Bảo lãnh ngân hàng

Mặc dù cũng là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nhưng bảo lãnh

ngân hàng khác với bảo lãnh thông thường là chỉ ngân hàng, các tổ chức tín dụng

mới được coi là chủ thể bảo lãnh và nó được xác định là một nghiệp vụ cấp tín

dụng, một hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng. Các điểm khác biệt của bảo lãnh

ngân hàng so với bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng được thể hiện ở các điểm

sau đây:

- Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng với bên có

quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, khi khách hàng

không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, khách hàng đã nhận nợ và hoàn trả

cho ngân hàng số tiền đã được trả thay16. Trên thực tế, bảo lãnh ngân hàng được

xác định là một loại hình cấp tín dụng đặc biệt, bởi nhờ có nó mà một cá nhân hay

một doanh nghiệp không phải bỏ ra một khỏan tiền vốn (hoặc không phải đi vay)

để đặt cọc, giam chân tại chỗ nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình trong

giao kết dân sự với đối tác. Bảo lãnh ngân hàng đã và đang mang tới các lợi ích

cho khách hàng như: (i) Góp phần hạn chế sử dụng nguồn vốn lưu động của

doanh nghiệp; (ii) Hạn chế việc sử dụng tiền mặt, qua đó tăng cường tính an toàn

trong giao dịch; (iii) Giảm thiểu rủi ro trong trường hợp người mua và người bán

15 Theo các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015. 16 Võ Đình Toàn (2002), "Một số vấn đề về quan hệ bảo lãnh ngân hàng ở nước ta hiện nay", Tạp chí Luật học, (3).

Page 52: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

49

không biết nhau; (iv) Tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên liên quan; và (v)

Nâng cao vị thế, vai trò và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với đối tác...

- Về khuôn khổ pháp lý, pháp luật về tín dụng ngân hàng đã xác định, cấp

tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam

kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ

cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các

nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Như vậy, bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín

dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín

dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không

thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải

nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận. Cam kết bảo lãnh bằng

văn bản bảo lãnh của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng có thể bao gồm các hình

thức là thư bảo lãnh hoặc hợp đồng bảo lãnh. Với hình thức “thư bảo lãnh”, ngân

hàng hoặc tổ chức tín dụng thực hiện cam kết đơn phương bằng văn bản về việc

tổ chức này sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, khi khách hàng

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận

bảo lãnh. Trong khi đó, “hợp đồng bảo lãnh” là thoả thuận bằng văn bản giữa

ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng và bên nhận bảo lãnh hoặc giữa ngân hàng hoặc

tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có) về

việc ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho

khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ

đã cam kết với bên nhận bảo lãnh17.

Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương, với sự tham gia của nhiều

chủ thể: Hoạt động bảo lãnh ngân hàng phải có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể,

17 Luật sư Trương Thanh Đức - Brandco Lawfirm - Pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng

của tổ chức tín dụng (Phần 2) (Nguồn: dangthanglawyer.wordpress.com).

Page 53: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

50

đó là bên được bảo lãnh, bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Do đó, hoạt động

bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa bên được bảo lãnh với ngân hàng

bảo lãnh mà còn bao hàm mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh với bên nhận bảo

lãnh. Trong quan hệ đa phương này, quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên nhận

bảo lãnh bao giờ cũng là quan hệ gốc, làm phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh. Trên

cơ sở này sẽ xuất hiện thêm hai quan hệ nữa giữa bên được bảo lãnh với ngân

hàng bảo lãnh và giữa ngân hàng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh.

- Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập: Mặc dù bảo lãnh ngân hàng là

quan hệ đa phương, các quan hệ có mối liên hệ nhau, tuy nhiên chúng lại độc lập

nhau. Sự độc lập của bảo lãnh được hiểu là sự độc lập của quan hệ giữa ngân

hàng bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh với quan hệ giữa bên được bảo lãnh và ngân

hàng bảo lãnh, cho dù có sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh với ngân

hàng bảo lãnh thì ngân hàng bảo lãnh cũng không thể vì thế mà có quyền từ chối

thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

- Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng của ngân hàng: Ngân

hàng bảo lãnh đã dùng uy tín của mình để cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc

thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, khi đó quyết định bảo lãnh cho bên

được bảo lãnh ngân hàng không phải xuất tiền ngay do đó sẽ không ảnh hưởng

đến bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Đó chính là nguyên nhân khiến bảo lãnh

ngân hàng được xếp vào hoạt động ngoại bảng của ngân hàng18.

Các loại bảo lãnh ngân hàng theo quy định của pháp luật tín dụng ngân

hàng hiện hành bao gồm: (i) Bảo lãnh vay vốn: Là cam kết của tổ chức tín dụng

với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp

khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận

18 Luật sư Trương Thanh Đức - Brandco Lawfir - Pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng

của tổ chức tín dụng (Phần 2) . (Nguồn: dangthanglawyer.wordpress.com).

Page 54: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

51

bảo lãnh; (ii) Bảo lãnh thanh toán: Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận

bảo lãnh, về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong

trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ

thanh toán khi đến hạn; (iii) Bảo lãnh dự thầu: Là cam kết của của tổ chức tín

dụng với bên mời thầu để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng.

Trường hợp, khách hàng phải nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không

nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ

thực hiện thay; (iv) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là cam kết của tổ chức tín dụng

với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của

khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách

hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực

hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay; (v) Bảo

lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: Là cam kết của của tổ chức tín dụng với bên

nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất

lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp

khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo

lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực

hiện thay; (vi) Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: Là cam kết của tổ chức tín dụng

với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của

khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách

hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc

hoàn trả không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay; (vii) Bảo lãnh đối

ứng: Là cam kết của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh đối ứng) với bên bảo lãnh về

việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh trong trường hợp bên bảo

lãnh thực hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hàng của bên bảo lãnh đối ứng

với bên nhận bảo lãnh; (viii) Xác nhận bảo lãnh: Là cam kết bảo lãnh của tổ chức

tín dụng (bên xác nhận bảo lãnh) đối với bên nhận bảo lãnh, về việc bảo đảm khả

Page 55: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

52

năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh đối với khách hàng. Ngoài ra,

còn có các loại bảo lãnh khác mà pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ

quốc tế.

Tóm lại, nếu bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng là một biện pháp bảo

đảm, thì xét về mặt bản chất, bảo lãnh ngân hàng cũng là một biện pháp bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ nhưng mang tính phái sinh. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt

động cấp tín dụng và có phạm vi bảo đảm rộng hơn, linh hoạt hơn. Trong kinh

doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm giấy thông hành cho

doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc này không những tạo

thuận lợi cho kế hoạch của các doanh nghiệp, mà các đối tác kinh doanh cũng sẽ

có cơ sở để tin tưởng nhau hơn.

2.2. TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP

ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH

2.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh

Như trên đã trình bày, hợp đồng tín dụng là hợp đồng cho vay, chịu sự điều

chỉnh của pháp luật về hình thức và nội dung các điều khoản thỏa thuận trong hợp

đồng. Do tính chất rủi ro của việc cho vay, nên đặc trưng của hợp đồng tín dụng

là luôn luôn phải có các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng đi kèm. Việc thực

hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng chính là thực hiện các nghĩa vụ theo

hợp đồng mà hầu hết pháp luật các quốc gia đều đã quy định trong Bộ luật Dân

sự. Mặc dù hợp đồng tín dụng có những đặc điểm riêng trong việc thực hiện múc

đích của hợp đồng, điều kiện của chủ thể… tuy nhiên, nó vẫn phái sinh từ hợp

đồng vay tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự. Cũng vì vậy, yêu cầu thực

hiện nghĩa vụ trả nợ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cũng dựa trên các

nguyên lý cơ bản mà Bộ luật Dân sự đã xác lập. Trong số các biện pháp bảo đảm

Page 56: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

53

nghĩa vụ mà Bộ luật Dân sự quy định, thì các biện pháp bảo đảm tiền vay có thể

áp dụng bao gồm: Biện pháp bảo đảm bằng tài sản (như cầm cố, thế chấp tài sản)

và biện pháp bảo đảm không bằng tài sản (như bảo lãnh, tín chấp…).

Pháp luật về các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ là nhằm xác lập, quy định về

các điều kiện áp dụng, trình tự, thủ tục để áp dụng các biện pháp đảm bảo thực

hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay, đặc biệt là có những quy định khác nhau giữa

biện pháp bảo đảm bằng tài sản và biện pháp bảo đảm không bằng tài sản. Bảo lãnh

là biện pháp bảo đảm không có tài sản được chỉ định đi kèm. Bên bảo lãnh nếu

không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì phải đưa bất kỳ tài sản nào thuộc sở

hữu của mình ra để thực hiện nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Bảo lãnh thực hiện

nghĩa vụ nói chung và bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng nói riêng đều phải dựa

trên các quy định của pháp luật dân sự về bảo lãnh. Bộ luật Dân sự các nước đã có

quy định khá chi tiết về các vấn đề liên quan đến bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ như:

Phạm vi bảo lãnh, điều kiện của chủ thể bảo lãnh, hình thức và hiệu lực của hợp

đồng bảo lãnh, nghĩa vụ bảo lãnh và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh… Bảo

lãnh cũng được hiểu là một hình thức bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng

tín dụng của bên vay trước ngân hàng, tổ chức tín dụng trong trường hợp bên vay

không thể trả nợ đúng theo thời hạn đã quy định trong hợp đồng19.

Pháp luật các nước không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là bảo đảm thực

hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh, tuy nhiên, qua nghiên cứu khái

niệm, đặc điểm và yêu cầu bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp

bảo lãnh, các quy định về bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự, có

thể đưa ra khái niệm pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện

pháp bảo lãnh như sau:

19 Olsanưi A.I., Tín dụng ngân hàng: Kinh nghiệm ở Nga và các nước trên thế giới, Matxcơva, 1997, tr.99.

Page 57: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

54

“Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo

lãnh là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành quy định về biện

pháp bảo lãnh, phạm vi, điều kiện của người bảo lãnh, trình tự, thủ tục áp dụng

biện pháp bảo lãnh với mục đích bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín

dụng của bên vay (bên được bảo lãnh) trước các ngân hàng và tổ chức tín dụng

(bên nhận bảo lãnh) trong trường hợp bên vay không thể trả nợ đúng theo thời

hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng”.

2.2.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh

Thứ nhất, pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện

pháp bảo lãnh được dựa trên nền tảng các quy định về biện pháp bảo lãnh của Bộ

luật Dân sự

Hầu hết Bộ luật Dân sự của các quốc gia trên thế giới đều có quy định về

biện pháp bảo lãnh và ở các quốc gia này cũng như ở Việt Nam, các quy định về

bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh cũng dựa trên các

quy định về bảo lãnh được quy định trong Bộ luật Dân sự. Bảo lãnh chính là căn

cứ pháp lý để tạo ra nghĩa vụ mới, khi người bảo lãnh thực hiện việc bảo lãnh

nghĩa vụ cho người khác. Người bảo lãnh xem như người mắc nợ mới nếu con nợ

không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ theo những thỏa thuận được ghi nhận trong

hợp đồng tín dụng.

Theo lý thuyết cũng như pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và

thông lệ quốc tế, bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm đối nhân, được xây dựng dựa

trên những nguyên lý của trái quyền. Điều này có nghĩa thứ tự ưu tiên thanh toán

(tính đối kháng với người thứ ba) không đặt ra đối với hợp đồng bảo lãnh. Bảo

lãnh có bản chất pháp lý khác với các biện pháp bảo đảm đối vật. Trong biện pháp

bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh không được xác lập quyền trên tài sản cụ thể của bên

bảo lãnh và do đó, bên nhận bảo lãnh cũng không có quyền xử lý tài sản của bên

Page 58: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

55

bảo lãnh và hưởng thứ tự ưu tiên. Trong trường hợp bên bảo lãnh cũng đưa tài sản

của mình ra làm tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì giao

dịch này sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định về cầm cố, thế chấp20. Đối tượng

của quan hệ bảo lãnh là cam kết về việc người bảo lãnh thực hiện “toàn bộ hoặc

một phần khoản nợ”. Đặc điểm này hoàn toàn khác với biện pháp cầm cố hoặc thế

chấp, vì nếu xác lập biện pháp cầm cố hoặc thế chấp thì phải xác định được tài

sản cụ thể dùng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ; trong trường hợp nghĩa vụ

bảo đảm không được thực hiện thì người nhận cầm cố (người nhận thế chấp) được

quyền xử lý tài sản theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để thu hồi nợ.

Theo pháp luật Cộng hòa Pháp21, thì bảo lãnh là hợp đồng theo đó một

người (người bảo lãnh) nhận bảo lãnh cho nghĩa vụ của một người khác, cam kết

thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền (người nhận bảo lãnh), nếu người có

nghĩa vụ (người được bảo lãnh) không tự mình thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện

không đúng, không đủ nghĩa vụ. Trên thực tế, ngoài hợp đồng bảo lãnh, giữa

người có nghĩa vụ và người bảo lãnh thường có một hợp đồng trong đó người bảo

lãnh cam kết bảo lãnh cho người có nghĩa vụ. Một số trường hợp bảo lãnh phổ

biến: Bảo lãnh do quan hệ bạn bè hoặc gia đình; Bảo lãnh có thu phí: ngân hàng

bảo lãnh cho khách hàng của mình và khách hàng phải trả phí bảo lãnh; Bảo lãnh

của lãnh đạo công ty đối với các khoản nợ của công ty... Theo pháp luật dân sự

Nhật Bản, thì “người bảo lãnh có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong

trường hợp người có nghĩa vụ trả nợ ở vào tình trạng vỡ nợ”. Như vậy, bảo lãnh

có nội dung tương tự nghĩa vụ chính và nhằm mục đích bảo đảm nghĩa vụ đó. Xét

từ góc độ lý thuyết, thì người bảo lãnh là một chủ thể của nghĩa vụ riêng biệt,

không phải chỉ có trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ chính. Bảo lãnh theo

20 Phạm Văn Tuyết (1999), "Bàn về biện pháp bảo lãnh", Luật học, (1). 21 Theo tài liệu dịch của Nhà Pháp luật Việt – Pháp năm 2011.

Page 59: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

56

quy định của pháp luật Nhật Bản22 có các đặc điểm cơ bản như: (i) Bảo lãnh

(cũng như cầm cố, thế chấp) phụ thuộc vào nghĩa vụ chính: Không có nghĩa vụ

chính thì sẽ không có bảo lãnh, khi nghĩa vụ chính chấm dứt thì bảo lãnh cũng

chấm dứt. Trong trường hợp nghĩa vụ chính là nghĩa vụ chưa xác định thì bảo

lãnh cũng chưa xác định; (ii) Giống như thế chấp và cầm cố tài sản, bảo lãnh cũng

được chuyển giao theo nghĩa vụ chính được chuyển giao, vì về nguyên tắc khi

chuyển giao nghĩa vụ được bảo đảm thì biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

cũng được tự động chuyển giao, mà không phụ thuộc vào ý chí của người bảo

lãnh; (iii) Bảo lãnh chỉ được thực hiện khi nghĩa vụ chính không thực hiện được.

Người bảo lãnh có quyền yêu cầu chủ nợ trước hết phải yêu cầu người có nghĩa

vụ thực hiện nghĩa vụ và việc cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ trước hết được tiến

hành đối với tài sản của người có nghĩa vụ.

Bảo lãnh cũng phát sinh khi có nhiều người bảo lãnh cho một nghĩa vụ trả

nợ. Trường hợp này gọi là cùng bảo lãnh và có các đặc điểm như: (i) Địa vị pháp

lý của mỗi người bảo lãnh được xác định bằng một hợp đồng chung hoặc các hợp

đồng riêng biệt, nhưng kể cả trong trường hợp sau thì nghĩa vụ chung được chia

đều cho những người bảo lãnh, như vậy là mỗi người bảo lãnh có nghĩa vụ bảo

lãnh một phần nghĩa vụ. Đó là phần bảo lãnh của người bảo lãnh. Trong bảo lãnh

liên đới nếu các bên có thỏa thuận khác hoặc đối tượng của nghĩa vụ chính không

thể phân chia, thì không có phần bảo lãnh này; (ii) Quyền yêu cầu hoàn trả của

những người cùng bảo lãnh không có gì đặc biệt, tuy nhiên, cần lưu ý là những

người cùng bảo lãnh cũng có quyền yêu cầu hoàn trả khi một người bảo lãnh đã

thực hiện nghĩa vụ vượt quá phần nghĩa vụ của mình trong trường hợp nghĩa vụ

bảo lãnh không được phân chia thành từng phần do nghĩa vụ chính không thể

phân chia, mỗi người cùng bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ

22 Bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2002, Mục 4, từ tr.425 – tr.437

Page 60: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

57

đối với chủ nợ. Việc một người cùng bảo lãnh yêu cầu những người cùng bảo

lãnh khác hoàn trả được điều chỉnh bằng các quy định của pháp luật dân sự về

nghĩa vụ liên đới. Tình huống có thỏa thuận riêng giữa những người mắc nợ về

việc không phân chia nghĩa vụ của họ cũng được giải quyết tương tự như vậy khi

áp dụng các quy định của pháp luật dân sự.

Khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu bên được

bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh. Đây là quyền

đương nhiên theo luật định, không phụ thuộc vào ý chí, thỏa thuận của bên được

bảo lãnh. Bên bảo lãnh cũng có thể tự từ bỏ quyền này (không yêu cầu hoàn trả)

hoặc thỏa thuận với bên được bảo lãnh về một mức hoàn trả khác. Trường hợp

bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nhưng không

thông báo cho bên được bảo lãnh biết, dẫn đến việc bên được bảo lãnh tiếp tục

thực hiện nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh, thì bên bảo lãnh không có quyền yêu

cầu bên được bảo lãnh hoàn trả. Thay vào đó, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên

nhận bảo lãnh hoàn trả những gì đã nhận từ bên bảo lãnh.

Thứ hai, pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện

pháp bảo lãnh điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa bên bảo lãnh (là các tổ chức, cá

nhân) và bên nhận bảo lãnh (là ngân hàng, các tổ chức tín dụng) nhằm đảm bảo

nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng của người đi vay (bên được bảo lãnh)

Quan hệ pháp luật bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp

bảo lãnh hoàn toàn khác biệt so với quan hệ bảo lãnh ngân hàng. Nếu như trong

quan hệ bảo lãnh ngân hàng, bên bảo lãnh luôn luôn là các ngân hàng thì trong

quan hệ bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh, ngân

hàng, các tổ chức tín dụng luôn luôn là bên nhận bảo lãnh. Bảo đảm thực hiện hợp

đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh là cam kết giữa bên bảo lãnh (các tổ chức,

cá nhân) với bên nhận bảo lãnh (ngân hàng, các tổ chức tín dụng) về việc sẽ thực

hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay (bên được bảo lãnh). Việc xác lập quan hệ

Page 61: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

58

bảo lãnh không cần có thỏa thuận ý chí với bên vay (bên được bảo lãnh), thậm

chí, có khi không cần phải cho bên được bảo lãnh biết. Quan hệ giữa bên bảo lãnh

và bên được bảo lãnh là quan hệ độc lập, có thể phát sinh từ thỏa thuận giữa hai

bên (đặc biệt là trong trường hợp bảo lãnh có thù lao) hoặc phát sinh từ quyền yêu

cầu hoàn trả của bên bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh23.

Quan hệ bảo lãnh có tính chất độc lập với quan hệ tín dụng giữa bên nhận

bảo lãnh (ngân hàng, các tổ chức tín dụng) và bên được bảo lãnh, nên bên nhận

bảo lãnh có trách nhiệm thông báo cho bên bảo lãnh biết về việc đã phát sinh căn

cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh phải thực hiện

nghĩa vụ trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ, nhưng không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng nghĩa vụ, thì bên nhận bảo lãnh phải nêu rõ lý do trong thông

báo về việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh. Trường hợp các bên không có

thỏa thuận khác, thì thời điểm thông báo được tính là thời điểm bắt đầu của thời

hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Theo pháp luật Cộng hòa Pháp, bảo lãnh không thiết lập quan hệ liên đới

giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh. Người bảo lãnh chỉ phải thực hiện

nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh không có khả năng thực

hiện nghĩa vụ của mình và người nhận bảo lãnh đã tiến hành các thủ tục cần thiết

mà không có kết quả24. Vì nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ bổ trợ cho nghĩa vụ được

bảo lãnh, nên người bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả các căn cứ mà người được bảo

lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Sau những cải

cách pháp luật về giao dịch bảo đảm tại Cộng hòa Pháp năm 2006, thì hợp đồng

bảo lãnh được xác lập giữa người nhận bảo lãnh với người bảo lãnh, mà không

phụ thuộc vào người được bảo lãnh, vì theo quy định tại Điều 2014 Bộ luật Dân

23 Phạm Văn Tuyết (1999), "Bàn về biện pháp bảo lãnh", Luật học, (1). 24 Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, Giáo sư Michel

Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về pháp luật thực định của

Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về bảo lãnh, năm 2011.

Page 62: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

59

sự Pháp, “có thể nhận bảo lãnh mà không cần người có nghĩa vụ yêu cầu và ngay

cả khi người này không biết”. Theo quy định của Bộ luật Dân sự Thái Lan, quan

hệ bảo lãnh xét cho cùng là quan hệ giữa người bảo lãnh và người cho vay (người

nhận bảo lãnh). Điều này có nghĩa, hợp đồng bảo lãnh chỉ phát sinh trên cơ sở có

sự chấp thuận ý chí giữa người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, Bộ

luật Dân sự Nhật bản lại cho phép trường hợp bảo lãnh liên đới giữa người bảo

lãnh và người được bảo lãnh. Bảo lãnh liên đới phát sinh trên cơ sở thỏa thuận

trong hợp đồng bảo lãnh đối với trường hợp này. Về hiệu lực, bảo lãnh liên đới

cao hơn bảo lãnh thông thường và rất giống trường hợp nghĩa vụ liên đới. Song

bảo lãnh liên đới có đặc điểm phụ thuộc nên nó khác biệt với nghĩa vụ liên đới,

bởi vì, nếu không có nghĩa vụ chính thì cũng không có bảo lãnh liên đới. Việc

chấm dứt nghĩa vụ chính cũng làm chấm dứt bảo lãnh liên đới. Bảo lãnh liên đới

giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh có các đặc trưng như: (i) Người bảo

lãnh không được phản đối việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ và cưỡng chế thực

hiện nghĩa vụ (Điều 454 Bộ luật Dân sự Nhật Bản)25. Như vậy, chủ nợ có quyền

cưỡng chế người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ không phụ thuộc vào khả năng

thanh toán của người được bảo lãnh26, tức là người có nghĩa vụ trả nợ chính (Điều

559 Bộ luật Dân sự Nhật Bản). Bộ luật Dân sự Campuchia trên cơ sở tiếp thu kinh

nghiệm của Nhật Bản cũng đã quy định về hợp đồng bảo lãnh tại Điều 900 như

sau: Hợp đồng bảo lãnh được phát sinh khi người bảo lãnh cam kết với người cho

vay rằng nếu khoản nợ không được thi hành bởi người vay thì “mình sẽ cùng với

người vay” thi hành toàn bộ hoặc một phần khoản nợ đó và người cho vay chấp

thuận cam kết này. Như vậy, quan hệ giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh

theo pháp luật của Campuchia cũng là quan hệ liên đới. Đây có thể xem là quy

25 Xem: Bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2002, tr, 435. 26 Xem: Bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2002, tr, 436.

Page 63: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

60

định khác biệt của Bộ luật Dân sự Nhật Bản và Bộ luật Dân sự Campuchia với

các quy định của Bộ luật Dân sự các nước khác.

Thứ ba, pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp

bảo lãnh đề cao nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện, tự thỏa thuận của các bên khi

tham gia quan hệ bảo lãnh

Nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện, tự thỏa thuận của các bên khi tham gia

giao dịch dân sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.

Quan hệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng về bản chất cũng là một quan hệ

hợp đồng dân sự. Đó chính là quan hệ giữa bên bảo lãnh (các tổ chức, cá nhân) và

bên nhận bảo lãnh (ngân hàng, các tổ chức tín dụng) nhằm bảo lãnh nghĩa vụ trả

nợ cho người vay (bên được bảo lãnh). Bởi vậy, khi tham gia quan hệ bảo lãnh,

các bên hoàn toàn tự do ý chí và có quyền thỏa thuận về các trình tự, thủ tục thực

hiện biện pháp bảo lãnh trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự về bảo lãnh.

Bên bảo lãnh hoàn toàn tự nguyện khi tham gia quan hệ bảo lãnh mà không

chịu bất cứ ràng buộc nào. Họ toàn quyền quyết định việc thực hiên bảo lãnh có

thù lao hoặc không có thù lao. Bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ thay cho bên được bảo

lãnh là bằng uy tín của chính họ và chỉ trong trường hợp không thực hiện đúng

nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình vào để

thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên được bảo lãnh. Như vậy, trong quan hệ bảo

lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, trách nhiệm tài sản chỉ phát sinh khi bên bảo

lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh theo thỏa thuận.

Đối với bên nhận bảo lãnh là các ngân hàng, tổ chức tín dụng, việc lựa

chọn áp dụng biện pháp bảo lãnh cũng được chủ động từ phía họ tùy thuộc tính

chất của khoản nợ vay, đối tượng khách hàng và uy tín của bên bảo lãnh. Khi thiết

lập quan hệ bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, bên nhận bảo lãnh

cũng hoàn toàn tự nguyện và thỏa thuận về các vấn đề liên quan đến việc áp dụng

Page 64: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

61

biện pháp bảo lãnh. Nhằm bảo đảm cho quyền lợi của mình, bên nhận bảo lãnh có

thể thỏa thuận với bên bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản.

Thứ tư, pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp

bảo lãnh cho phép các bên thỏa thuận bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản

Việc thỏa thuận bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản không đồng nghĩa

với việc áp dụng biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản của

bên thứ ba. Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân, vì vậy, việc bảo lãnh là bằng

uy tín của bên bảo lãnh. Tuy nhiên, nhằm bảo đảm quyền lợi cho bên nhận bảo

lãnh (là ngân hàng, các tổ chức tín dụng), pháp luật cho phép các bên tự thỏa

thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản. Trong

trường hợp này, bên bảo lãnh có thể đưa tài sản cụ thể vào để bảo đảm cho nghĩa

vụ bảo lãnh của họ. Thủ tục đối với loại tài sản bảo đảm này được áp dụng là cầm

cố hoặc thế chấp tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ của bên bảo lãnh, chứ không

phải là tài sản bảo đảm của bên bảo lãnh nhằm bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho bên

được bảo lãnh (bên vay) trong quan hệ hợp đồng tín dụng.

Trước đây, pháp luật Việt Nam (Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật các Tổ

chức tín dụng năm 1997 và Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của

Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng) cho phép áp dụng biện

pháp bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (bảo lãnh đối vật). Trong quá trình áp

dụng đã phát sinh rất nhiều vướng mắc, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm,

thậm chí, gây tranh cãi về việc xác định là hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản của bên

thứ ba hay hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba… Tuy nhiên, một vấn đề

quan trọng hơn là không phản ánh đúng bản chất pháp lý của biện pháp bảo lãnh.

Bởi vậy, việc pháp luật cho phép các bên thoả thuận áp dụng biện pháp bảo đảm

bằng tài sản để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh đã thể hiện tính linh

hoạt, vừa đúng với bản chất của biện pháp bảo lãnh song vẫn bảo vệ được quyền

lợi hợp pháp của bên nhận bảo lãnh là các ngân hàng và tổ chức tín dụng.

Page 65: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

62

Thứ năm, pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện

pháp bảo lãnh dự liệu trường hợp bên bảo lãnh là doanh nghiệp bị phá sản, là cá

nhân chết

Trên thực tế, việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng là nhằm tăng

cường độ an toàn cho quan hệ tín dụng. Tuy nhiên, pháp luật cũng phải dự liệu

các trường hợp, sự cố không mong muốn xảy ra, trong đó có các trường hợp

người bảo lãnh là doanh nghiệp bị phá sản, bên bảo lãnh là cá nhân chết hoặc bị

Tòa án tuyên bố đã chết. Khi phát sinh các trường hợp này, việc thực hiện nghĩa

vụ bảo lãnh được giải quyết như sau: (i) Trong trường hợp bên bảo lãnh là doanh

nghiệp bị phá sản, nếu nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh thì bên bảo lãnh phải thực hiện

nghĩa vụ bảo lãnh. Trường hợp bên bảo lãnh không thanh toán đầy đủ trong phạm

vi bảo lãnh, thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thanh toán

phần còn thiếu. Nếu nghĩa vụ bảo lãnh chưa phát sinh thì bên được bảo lãnh phải

thay thế biện pháp bảo đảm khác, trừ trường hợp giữa các bên có thoả thuận khác;

(ii) Trong trường hợp bên bảo lãnh là cá nhân chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã

chết, thì nếu việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh phải do chính bên bảo lãnh thực

hiện theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bảo lãnh chấm dứt. Nếu

việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không phải do chính bên bảo lãnh thực hiện thì

bảo lãnh không chấm dứt. Người thừa kế của bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa

vụ bảo lãnh thay cho bên bảo lãnh, trừ trường hợp từ chối nhận di sản. Người

thừa kế đã thực hiện nghĩa vụ thay cho bên bảo lãnh thì có các quyền của bên bảo

lãnh đối với bên được bảo lãnh.

2.2.3. Nội dung pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh

2.2.3.1. Phạm vi bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Về phạm vi bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, bên bảo lãnh (các tổ

chức, cá nhân có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho

Page 66: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

63

bên được bảo lãnh (bên vay), có thể bảo lãnh đối với tất cả các khoản nợ của bên

vay hoặc chỉ bảo lãnh đối với một hoặc một số khoản nợ cụ thể, có thể bảo lãnh

có giới hạn hoặc không giới hạn mức trần mà người bảo lãnh phải trả trong

trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, có thể bảo lãnh

liên đới. Thông thường, nếu các bên không có thỏa thuận khác, nghĩa vụ bảo lãnh

bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền

chậm trả.

Theo kinh nghiệm pháp luật của Cộng hòa Pháp27, chủ nợ phải cố gắng

khai thác hết khả năng thanh toán của người có nghĩa vụ trước khi yêu cầu người

bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Điều đó có nghĩa là, trước khi yêu cầu người bảo

lãnh thực hiện nghĩa vụ, chủ nợ phải yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa

vụ và nếu đã yêu cầu mà không có kết quả thì phải tiến hành kê biên, bán tài sản

nếu người có nghĩa vụ có tài sản. Bảo lãnh chỉ được thực hiện khi nghĩa vụ chính

không thực hiện được. Người bảo lãnh có quyền yêu cầu chủ nợ trước hết phải

yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ và việc cưỡng chế thực hiện nghĩa

vụ trước hết được tiến hành đối với tài sản của người có nghĩa vụ.

2.2.3.2. Về điều kiện của người bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Để thỏa mãn yêu cầu là người bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh thực hiện

hợp đồng tín dụng, người bảo lãnh phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có

đủ các điều kiện để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nếu người bảo lãnh không có

khả năng đáp ứng yêu cầu, thì người cho vay có quyền yêu cầu phải có một người

khác đủ điều kiện để thay thế người bảo lãnh.

27 Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về pháp

luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về bảo

lãnh, Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, năm 2011.

Page 67: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

64

Theo pháp luật của nhiều quốc gia, các điều kiện của người bảo lãnh có thể

bao gồm: (i) Có uy tín hoặc (ii) có tài sản thuộc sở hữu của mình bảo đảm cho

việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh hoặc (iii) vừa có uy tín, vừa chứng minh được

năng lực tài chính để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi

đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ.

Theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, “khả năng thực hiện nghĩa vụ của

người bảo lãnh được đánh giá bằng những bất động sản, trừ bất động sản được sử

dụng vào mục đích thương mại hoặc khi nghĩa vụ có giá trị nhỏ”28. Như vậy,

ngoài điều kiện về năng lực hành vi như các chủ thể khác khi tham gia giao dịch,

pháp luật của Cộng hòa Pháp đặc biệt chú ý đến khả năng có tài sản để thực hiện

nghĩa vụ của người bảo lãnh. Ngoài ra, pháp luật Cộng hòa Pháp có xu hướng bảo

vệ người bảo lãnh, vì biện pháp bảo lãnh có thể là nguyên nhân gây vỡ nợ. Pháp

luật đã đề ra những điều kiện về xác lập biện pháp bảo lãnh để người bảo lãnh có

thể được bảo vệ. Theo đó, người có quyền phải thông tin cho người bảo lãnh (tư

vấn hoặc cảnh báo). Điều này có nghĩa, người có quyền phải thông báo cho người

bảo lãnh biết về tình hình tài chính không tốt của người có nghĩa vụ (ví dụ: Ngân

hàng nhận bảo lãnh phải lưu ý với người bảo lãnh là các tài khoản của người được

bảo lãnh hiện không có tiền). Nghĩa vụ tư vấn thể hiện ở việc người có quyền cho

người bảo lãnh biết được phạm vi cam kết bảo lãnh của mình. Nghĩa vụ cảnh báo

được thực hiện khi người có quyền thông báo cho người bảo lãnh biết rằng biện

pháp bảo lãnh đó rất nguy hiểm so với khả năng tài chính của người bảo lãnh, ví

dụ như khoản nợ được bảo đảm bằng nghĩa vụ bảo lãnh có khả năng dẫn đến việc

người bảo lãnh bị kê biên toàn bộ tài sản.

Về vấn đề này, Bộ luật Dân sự Nhật Bản có quy định, để xác lập biện pháp

bảo lãnh thì người bảo lãnh phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có đủ các

28 Điều 2019 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp

Page 68: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

65

phương tiện để thực hiện trái vụ. Nếu người bảo lãnh không có khả năng đáp ứng

hai điều kiện trên, thì người cho vay có quyền yêu cầu phải có một người khác đủ

điều kiện để thay thế người bảo lãnh (Điều 450). Như vậy, pháp luật Nhật Bản

cũng rất chú trọng đến năng lực thực thi nghĩa vụ đã cam kết của người bảo lãnh.

Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Dân sự Nhật Bản thì hai điều kiện nêu trên

không áp dụng đối với những trường hợp trái chủ tự giới thiệu người bảo lãnh

(khoản 2 Điều 450 Bộ luật Dân sự Nhật Bản). Ngoài ra, Bộ luật Dân sự Nhật Bản

cũng không quy định về việc người có quyền phải có nghĩa vụ thông tin đối với

người bảo lãnh. Pháp luật buộc người bảo lãnh phải biết về nghĩa vụ được bảo

lãnh và những rủi ro có thể phát sinh khi xác lập bảo lãnh.

Theo quy định tại Điều 907 Bộ luật Dân sự Campuchia, thì người bảo lãnh

phải là người có năng lực và khả năng thanh toán nợ. Quy định nêu cho thấy, khả

năng thanh toán nợ là một yêu cầu bắt buộc đối với người bảo lãnh. Tuy nhiên,

Bộ luật Dân sự Campuchia không quy định cụ thể thế nào là “có khả năng thanh

toán nợ”, mà việc đánh giá khả năng này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người

nhận bảo lãnh trên cơ sở năng lực tài chính của người bảo lãnh.

Từ những quy định của Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp, Nhật Bản và

Campuchia cho thấy, khả năng thanh toán nợ là yếu tố để đánh giá năng lực thực

hiện cam kết bảo lãnh của người bảo lãnh. Tuy nhiên, việc đánh giá người bảo

lãnh có khả năng thanh toán nợ lại phụ thuộc vào kỹ năng phân tích, đánh giá của

người nhận bảo lãnh. Đây có thể xem là “nguy cơ tiềm ẩn rủi ro” cho người nhận

bảo lãnh, vì có thể tại thời điểm phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì người bảo

lãnh không còn khả năng thanh toán nợ như thời điểm các bên xác lập hợp đồng

bảo lãnh.

2.2.3.3. Về nghĩa vụ bảo lãnh và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

- Về nghĩa vụ bảo lãnh, thông thường, nếu các bên không có thỏa thuận

khác, Bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên được bảo lãnh,

Page 69: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

66

nếu khi đến thời hạn thực hiện việc trả nợ mà bên được bảo lãnh không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi

trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ

trường hợp có thoả thuận khác.

Theo quy định tại Điều 2012 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp, thì chỉ có thể

bảo lãnh đối với một nghĩa vụ đã có hiệu lực. Ngoài ra, Điều 2013 quy định

không thể bảo lãnh vượt quá nghĩa vụ của người có nghĩa vụ, cũng không thể cam

kết bảo lãnh với những điều kiện nặng nề hơn. Để bảo đảm cho ý chí của người

bảo lãnh được thể hiện trung thực, đúng với ý chí của người bảo lãnh thì người

bảo lãnh phải viết tay giá trị số tiền cam kết bảo lãnh bằng số và bằng chữ, vì như

vậy người bảo lãnh phải hết sức chú ý đến cam kết của mình. Nếu đó là cam kết

bảo lãnh không giới hạn, thì pháp luật yêu cầu người bảo lãnh phải có phần ghi

chú nêu rõ đã hiểu được mức độ cam kết của mình (Bộ luật Dân sự Pháp)29.

Theo pháp luật Nhật Bản30, Điều 447 Bộ luật Dân sự có quy định về giới

hạn của nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả lãi suất của nợ gốc, tiền phạt, thiệt hại và

các chi phí phát sinh từ trái vụ. Nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh trên cơ sở giá trị của

nghĩa vụ được bảo đảm. Mặc dù nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ độc lập, nhưng

không được vượt quá nghĩa vụ chính (Điều 448 Bộ luật Dân sự). Điều này có

nghĩa là giá trị nghĩa vụ giữa người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh không được

vượt quá giá trị nghĩa vụ giữa người được bảo lãnh với người nhận bảo lãnh. Tuy

nhiên, Bộ luật Dân sự Nhật Bản không đề cập đến cam kết bảo lãnh không giới

hạn như Cộng hòa Pháp. Điều này có thể hiểu là pháp luật Nhật Bản không thừa

nhận việc các bên xác lập nghĩa vụ bảo lãnh không giới hạn.

29 Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về pháp

luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về bảo

lãnh, Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự,năm 2011. 30 Xem: Bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2002, tr.442.

Page 70: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

67

Theo quy định tại khoản 2 Điều 904 Bộ luật Dân sự Campuchia, thì trường

hợp trách nhiệm của người bảo lãnh lớn hơn khoản nợ chính do mục đích hoặc

hình thái của khoản nợ, thì sẽ cắt giảm khoản nợ của người bảo lãnh xuống mức

giới hạn của khoản nợ chính. Như vậy, trách nhiệm của người bảo lãnh được giới

hạn bởi giá trị của khoản nợ chính. Ngoài ra, khoản 3 Điều 901 Bộ luật Dân sự

Campuchia quy định trong văn bản bảo lãnh phải xác định được nội dung của

khoản nợ bảo lãnh. Như vậy, pháp luật Campuchia cũng không cho phép các bên

xác lập cam kết không giới hạn như Cộng hòa Pháp. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự

Campuchia còn quy định rõ trong trường hợp khoản nợ chính bị xóa bỏ thì bảo

lãnh cũng được xóa bỏ. Đây có thể xem là sự lệ thuộc giữa nghĩa vụ được bảo

lãnh với quan hệ bảo lãnh, theo đó sự tồn tại hoặc chấm dứt của nghĩa vụ được

bảo lãnh quyết định đến sự tồn tại hoặc chấm dứt của quan hệ bảo lãnh. Bộ luật

Dân sự Thái Lan khẳng định, nghĩa vụ bảo lãnh chỉ có thể được thiết lập cho một

nghĩa vụ đang có hiệu lực. Tuy nhiên, Điều 681 Bộ luật Dân sự Thái Lan quy

định các bên được quyền ký kết hợp đồng bảo lãnh để bảo đảm cho một nghĩa vụ

trong tương lai hoặc một nghĩa vụ có điều kiện. Khái niệm một nghĩa vụ đang có

hiệu lực của Bộ luật Dân sự Thái Lan phải được hiểu là đang có hiệu lực về pháp

lý, chứ không thuần túy là đang có hiệu lực về thực tế.

- Đối với việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, do lợi ích của bên

nhận bảo lãnh chỉ được bảo đảm thông qua việc bên bảo lãnh thực hiện yêu cầu,

nên không loại trừ những rủi ro khi bên bảo lãnh không thực hiện yêu cầu hoặc

không còn khả năng thực hiện yêu cầu của bên nhận bảo lãnh. Do vậy, các bên có

quyền thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm đối với việc thực hiện nghĩa vụ bảo

lãnh (cầm cố hoặc thế chấp tài sản, bảo lãnh). Nhưng cũng cần phân biệt rõ giữa

cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh

với bên nhận bảo lãnh với cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

bảo lãnh. Đây là hai loại nghĩa vụ khác nhau về thời hạn thực hiện, điều kiện thực

Page 71: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

68

hiện nên thời điểm tiến hành xử lý tài sản cũng khác nhau và hậu quả pháp lý

trong trường hợp giá trị tài sản bảo lãnh không đủ để thực hiện nghĩa vụ cũng

khác nhau.

Về quyền yêu cầu ngăn chặn của bên nhận bảo lãnh, do nghĩa vụ bảo lãnh

trong quan hệ dân sự là một nghĩa vụ tài sản, nên về nguyên tắc, bên bảo lãnh

phải chịu trách nhiệm vô hạn về việc thực hiện nghĩa vụ đó trong phạm vi khối tài

sản của mình. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là khối tài sản đó của bên bảo lãnh được

xác định vào thời điểm bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của mình, chứ không phải

vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo lãnh. Do vậy, sẽ rất không an toàn cho bên

nhận bảo lãnh nếu bên bảo lãnh tiến hành tẩu tán tài sản của mình khi biết được

mình phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

bên nhận bảo lãnh trong trường hợp trên, kể từ thời điểm thông báo cho bên bảo

lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ, bên nhận bảo lãnh có các quyền yêu cầu Tòa án

áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản của bên bảo lãnh theo quy

định của pháp luật tố tụng dân sự, đồng thời có quyền yêu cầu người có hành vi

cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền của bên nhận bảo lãnh phải chấm dứt

hành vi đó.

- Về thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tính chất bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ của biện pháp bảo lãnh xuất phát từ quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ

thay của bên nhận bảo lãnh và được thỏa mãn thông qua việc bên bảo lãnh thực

hiện yêu cầu đó. Điều đó thể hiện bản chất của quan hệ bảo lãnh là quan hệ nghĩa

vụ và vì vậy, vấn đề thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được giải quyết tương

tự như quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cụ thể, bên bảo lãnh phải

thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong thời hạn do các bên thỏa thuận, nếu không có

thỏa thuận thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong một thời hạn

hợp lý, kể từ thời điểm được thông báo về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Page 72: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

69

2.2.3.4. Về hình thức và hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh trong bảo đảm

thực hiện hợp đồng tín dụng

Về nguyên tắc, hình thức bảo lãnh bắt buộc phải được lập thành văn bản, có

thể lập thành văn bản riêng (hợp đồng bảo lãnh) hoặc ghi trong hợp đồng chính

(hợp đồng tín dụng). Hợp đồng bảo lãnh là sự thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và

bên nhận bảo lãnh về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ bảo

lãnh liên quan đến người được bảo lãnh. Trong trường hợp pháp luật có quy định

thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực. Nghĩa vụ bảo lãnh

do các bên tự thỏa thuận có thể bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Nghĩa

vụ bảo lãnh bao gồm: Nợ gốc, tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt

hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, pháp luật cũng cho phép các

bên có thỏa thuận khác. Nếu trong hợp đồng bảo lãnh chỉ ghi nhận số nợ cụ thể

hoặc giới hạn nợ tối đa mà người bảo lãnh chịu trách nhiệm và không nói rõ giới

hạn đó là giới hạn cho nợ gốc hay toàn bộ các khoản có thể phát sinh, thì người

bảo lãnh chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi đó.

Pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp cũng như của Nhật Bản quy định biện

pháp bảo lãnh phải được lập thành văn bản, nhưng không thuộc đối tượng đăng

ký giao dịch bảo đảm, vì đây là biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân

(không bảo đảm bằng tài sản cụ thể như biện pháp cầm cố hoặc biện pháp thế

chấp). Hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực từ thời điểm giao kết hợp pháp. Tuy nhiên,

hợp đồng bảo lãnh cũng chỉ có hiệu lực khi có sự tồn tại hợp pháp của nghĩa vụ

chính, do đó nếu nghĩa vụ chính không hình thành hoặc bị chấm dứt thì hợp đồng

bảo lãnh cũng sẽ chấm dứt. Bộ luật Dân sự Thái Lan tại Điều 692 cũng có quy

định: “Việc tạm đình chỉ thời hiệu đối với người mắc nợ cũng có nghĩa là tạm

đình chỉ đối với người bảo lãnh”. Quy định nêu trên cho thấy, hiệu lực của hợp

đồng bảo lãnh hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng có nghĩa vụ chính

được bảo lãnh.

Page 73: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

70

Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật Dân sự Campuchia, thì bảo lãnh

không dựa trên văn bản có thể được rút lại bất kỳ lúc nào, trừ trường hợp người

bảo lãnh tự nguyện bắt tay vào việc thi hành khoản nợ bảo lãnh (khoản 1 Điều

901). Quy định nêu trên của Bộ luật Dân sự Campuchia cho thấy, hợp đồng bảo

lãnh không chỉ được lập bằng hình thức văn bản. Vấn đề là nếu không lập bằng

hình thức văn bản thì tính pháp lý không cao, vì có thể được rút lại bất kỳ lúc nào.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự Campuchia cũng khuyến khích người bảo lãnh ghi bằng

tay đối với giá trị khoản nợ, vì khoản 2 Điều 901 quy định trong bảo lãnh các

khoản nợ bằng tiền, trường hợp giá trị khoản nợ bảo lãnh không được người bảo

lãnh ghi bằng tay thì cũng có thể được rút lại bất kỳ lúc nào. Điều này cho thấy,

để bảo đảm an toàn pháp lý khi nhận bảo lãnh các khoản nợ bằng tiền thì các chủ

thể cần phải lập hợp đồng dưới hình thức văn bản và người bảo lãnh phải ghi

bằng tay giá trị khoản nợ.

Về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh, pháp luật của các quốc gia đều khẳng

định hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực từ thời điểm giao kết hợp pháp và hợp đồng

bảo lãnh không thuộc đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm như cầm cố, thế chấp.

2.2.3.5. Về trách nhiệm của người bảo lãnh trong bảo đảm thực hiện hợp

đồng tín dụng

Về nguyên tắc, người bảo lãnh một nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó đối

với người có quyền (người nhận bảo lãnh) nếu chính người có nghĩa vụ (người

được bảo lãnh) không thi hành31. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng

nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh

toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo quy định

của pháp luật Cộng hòa Pháp và Nhật Bản thì người bảo lãnh có quyền phản đối

việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ và phản đối việc cưỡng chế thi hành nghĩa vụ

31 Điều 2011 Bộ luật Dân sự Pháp.

Page 74: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

71

trong một số trường hợp cụ thể, ví dụ như trong trường hợp người nhận bảo lãnh

trực tiếp yêu cầu người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ, mà bỏ qua người được

bảo lãnh32 hoặc khi người bảo lãnh viện dẫn những vi phạm về hình thức gắn liền

với nghĩa vụ như người được bảo lãnh để chống lại người nhận bảo lãnh33...

Ngoài ra, trong trường hợp người bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ thay thế người

có quyền34 về tất cả các quyền mà người này đã có đối với người có nghĩa vụ. Về

vấn đề này, Điều 689 Bộ luật Dân sự Thái Lan quy định: “Nếu người bảo lãnh có

thể chứng minh rằng người mắc nợ có cách thi hành và việc thi hành đó không

phải là khó thì người chủ nợ phải tiến hành cưỡng chế đầu tiên đối với tài sản của

người mắc nợ”. Quy định nêu trên của Bộ luật Dân sự Thái Lan không chỉ bảo vệ

lợi ích cho người bảo lãnh, mà còn tăng cường trách nhiệm của người được bảo

lãnh với người nhận bảo lãnh. Theo chúng tôi, quy định nêu trên là hợp lý và cần

thiết nhằm thể hiện đúng trách nhiệm pháp lý của người bảo lãnh là trách nhiệm

dự phòng.

Trong bảo lãnh hợp đồng tín dụng, cũng có thể xảy ra việc người bảo lãnh

được miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ. Người bảo lãnh có thể được miễn

việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn

việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bên bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận

hoặc pháp luật có quy định khác. Trường hợp chỉ một trong số nhiều người cùng

bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì

những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ. Trường hợp một

trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho bên bảo lãnh không phải

thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần

nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.

32 Điều 452 Bộ luật Dân sự Nhật Bản. 33 Điều 2036 Bộ luật Dân sự Pháp. 34 Điều 2029 Bộ luật Dân sự Pháp.

Page 75: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

72

Về việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh: Quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực

hiện nghĩa vụ bảo lãnh có thể có bảo đảm bằng tài sản (nếu các bên có thỏa thuận)

hoặc không có bảo đảm bằng tài sản (nếu các bên không có thỏa thuận). Trong

trường hợp có bảo đảm bằng tài sản, thì bên nhận bảo lãnh có quyền xử lý tài sản

đó với tư cách của bên nhận cầm cố, nhận thế chấp. Trong trường hợp không có

bảo đảm bằng tài sản, thì bên nhận bảo đảm chỉ có quyền như một chủ nợ không

có bảo đảm bình thường, con nợ trong quan hệ này chính là bên bảo lãnh, do vậy

bên bảo lãnh cũng chính là con nợ phụ tồn tại bên cạnh con nợ chính của bên

nhận bảo lãnh (bên có quyền). Khi đó, bên nhận bảo lãnh không thể tự ý thu giữ,

xử lý tài sản của bên bảo lãnh mà phải yêu cầu, thỏa thuận với bên bảo lãnh về tài

sản, thời gian, địa điểm và phương thức xử lý để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nếu

không thỏa thuận được thì bên nhận bảo lãnh chỉ có quyền khởi kiện tại Tòa án về

việc vi phạm nghĩa vụ.

2.2.3.6. Chấm dứt bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng được chấm dứt trong những

trường hợp sau đây:

- Nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh chấm dứt. Đây là trường hợp

đương nhiên chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh, bởi lẽ, thời hạn tồn tại việc bảo lãnh là

thời hạn tồn tại nghĩa vụ được bảo lãnh, nay nghĩa vụ đó đã chấm dứt thì việc bảo

lãnh cũng được chấm dứt.

- Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.

Trong cả hai trường hợp này biện pháp bảo lãnh đều chấm dứt, tuy nhiên, giữa

chúng có sự khác nhau35. Trong trường hợp việc bảo lãnh được các bên thỏa

thuận hủy bỏ, thì thực chất quan hệ hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay và bên

35 Xem thêm: PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện

Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008.

Page 76: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

73

vay trở thành quan hệ hợp đồng không có bảo đảm; còn trong trường hợp các bên

thỏa thuận thay thế biện pháp bảo đảm khác không phải là biện pháp bảo lãnh, thì

quan hệ hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay và bên vay vẫn là quan hệ hợp đồng

có biện pháp bảo đảm di kèm, chỉ khác ở biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

- Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc thực hiện nghĩa vụ bảo

lãnh có thể là do người bảo lãnh tự nguyện hoặc có thể thông qua hình thức cưỡng

chế được thực hiện của cơ quan có thẩm quyền.

- Việc bảo lãnh chấm dứt theo thỏa thuận của các bên.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Sau khi nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm thực

hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh, cho phép rút ra một số kết luận

như sau:

1. Tín dụng thực chất là quan hệ vay tiền tệ nhằm đáp ứng các yêu cầu về

vốn hoặc nhu cầu khác của các chủ thể trong đời sống kinh tế - xã hội. Hợp đồng

tín dụng là căn cứ pháp lý để các các ngân hàng và tổ chức tín dụng tiến hành các

hoạt động cho vay tiền tệ. Hợp đồng tín dụng có những đặc trưng riêng, mà một

trong số đó là thường có biện pháp bảo đảm đi kèm nhằm đảm bảo quyền lợi của

bên cho vay, đề phòng các trường hợp rủi ro có thể xảy ra.

2. Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật

Dân sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, biện pháp bảo lãnh được áp

dụng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của nhiều quan hệ pháp luật dân sự, kinh doanh,

thương mại và đặc biệt trong quan hệ tín dụng ngân hàng. Về cơ bản, pháp luật về

bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh về cơ bản dựa trên

bản chất pháp lý của biện pháp bảo lãnh được quy định trong Bộ luật Dân sự.

Kinh nghiệm pháp luật của các nước trên thế giới cho thấy, bảo lãnh là biện pháp

bảo đảm đối nhân, do đó cần xây dựng chế định này dựa trên những nguyên lý

Page 77: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

74

của trái quyền. Một vấn đề được Bộ luật Dân sự các nước đều chú trọng khi quy

định về bảo lãnh là người nhận bảo lãnh phải yêu cầu người được bảo lãnh thực

hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình trước và việc cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ

trước hết được tiến hành đối với tài sản của người được bảo lãnh, sau đó nếu

người được bảo lãnh không có tài sản, thì mới có quyền yêu cầu người bảo lãnh

phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

3. So sánh với bảo lãnh ngân hàng, nếu bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín

dụng là một biện pháp bảo đảm, thì xét về mặt bản chất, bảo lãnh ngân hàng cũng

là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng mang tính phái sinh. Chủ thể

của bên bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng có thể là bất kỳ ai nếu đủ điều kiện

theo pháp luật quy định, thì trong bảo lãnh ngân hàng, chủ thể duy nhất của bên

bảo lãnh chỉ là các ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động cấp tín dụng

và có phạm vi bảo đảm rộng hơn, linh hoạt hơn…

Page 78: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

75

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH Ở VIỆT NAM

3.1. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ BẢO LÃNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Theo pháp luật Việt Nam, mặc dù hợp đồng tín dụng là hợp đồng chuyên

ngành về tín dụng ngân hàng, chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự và các quy

định của pháp luật về tín dụng ngân hàng, song khi áp dụng các biện pháp bảo

đảm thực hiện hợp đồng tín dụng nói chung, bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng bằng biện pháp bảo lãnh nói riêng, về cơ bản vẫn phải dựa trên nền tảng các

quy định về biện pháp bảo lãnh được quy định trong Bộ luật Dân sự và các văn

bản hướng dẫn thi hành về giao dịch bảo đảm như: Nghị định số 163/2006/NĐ-

CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Nghị định số

11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều

của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch

bảo đảm và các văn bản pháp luật có liên quan.

3.1.1. Khái niệm biện pháp bảo lãnh được áp dụng để bảo đảm thực

hiện hợp đồng tín dụng

Biện pháp bảo lãnh với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

được quy định chính thức tại Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995 từ Điều 366 đến

Điều 376, theo đó, bảo lãnh là việc người thứ ba (người bảo lãnh) cam kết với bên

có quyền (người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ

(người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực

hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc

người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi người được bảo lãnh không có khả

Page 79: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

76

năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản

thuộc sở hữu của mình hoặc bằng thực hiện công việc.

Nhằm hướng dẫn các quy định về bảo lãnh của Bộ luật Dân sự năm 1995

trong bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh, ngày

29/12/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP quy định về

bảo đảm tiền vay trong việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của các tổ chức

tín dụng đối với khách hàng vay theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng

năm 1997, theo đó, bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng được sử dụng chủ yếu

là bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Biện pháp này được hiểu là việc bên thứ

ba (bên bảo lãnh) cam kết với tổ chức tín dụng cho vay về việc sử dụng tài sản

thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu

đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

nghĩa vụ trả nợ. Tổ chức tín dụng và khách hàng vay thỏa thuận lựa chọn áp dụng

biện pháp bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc bảo

lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn tài sản đủ

điều kiện để bảo đảm tiền vay và lựa chọn bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản (bên

bảo lãnh) để bảo lãnh cho khách hàng vay (bên được bảo lãnh). Có thể nói, ở giai

đoạn này, biện pháp bảo lãnh được thực hiện với bản chất pháp lý là biện pháp

bảo đảm đối vật (bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba).

Với mục đích đa dạng hóa các biện pháp bảo đảm và giảm bớt sự khác biệt

so với pháp luật của các nước trong quá trình hội nhập quốc tế, Bộ luật Dân sự

năm 2005 đã quy định bảo lãnh theo hướng là biện pháp bảo đảm đối nhân, theo

đó: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên

nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo

lãnh), nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ

phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa

Page 80: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

77

vụ của mình”36. Bên bảo lãnh chịu trách nhiệm bằng uy tín và toàn bộ tài sản của

mình để bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ cho bên được bảo lãnh. Cũng từ đó, pháp luật về

đăng ký giao dịch bảo đảm không điều chỉnh đăng ký bảo lãnh. Do bên bảo đảm

đối nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình và bên nhận bảo

đảm có quyền đối với toàn bộ tài sản đó, nên biện pháp bảo đảm đối nhân không

thuộc diện đăng ký giao dịch bảo đảm.

Biện pháp bảo lãnh đối nhân tiếp tục được khẳng định tại Bộ luật Dân sự

năm 2015, theo đó: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên

có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên

được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thỏa thuận

về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh

trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo

lãnh”37. Về nội dung khái niệm và bản chất pháp lý của biện pháp bảo lãnh, các

quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 không có gì khác biệt so với Bộ luật Dân

sự năm 2005. Các quy định trên đây đặc biệt có lợi cho bên nhận bảo lãnh. Nếu

khi nghĩa vụ được bảo lãnh đến hạn mà bên được bảo lãnh (bên đi vay) không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ này, thì bên bảo lãnh sẽ thực hiện

nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh và các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo

lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có

khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều đó có nghĩa là, khi các bên không có

thỏa thuận thì khi nghĩa vụ được bảo lãnh đến hạn, nếu bên có nghĩa vụ không

thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, thì bên nhận bảo lãnh có

quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà không cần phải

chứng minh với bên bảo lãnh việc bên được bảo lãnh không có khả năng thực

36 Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 37 Điều 335 Bộ luật Dân sự năm 2015

Page 81: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

78

hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp công ty mẹ bảo lãnh cho công ty con, ngân hàng

đương nhiên sẽ được lợi hơn khi gọi bảo lãnh vì thông thường công ty mẹ có tiềm

lực tài chính tốt hơn công ty con.

Dưới góc độ luật so sánh38, cách tiếp cận của nhà làm luật Việt Nam rất

giống với cách tiếp cận của pháp luật Anh, theo đó, nếu không có thỏa thuận khác

thì bên bảo lãnh không thể buộc bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên có nghĩa vụ thực

hiện nghĩa vụ của mình trước khi gọi bảo lãnh ngay cả khi bên được bảo lãnh

hoàn toàn có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên nhận bảo lãnh không

nhất thiết phải xử lý các tài sản bảo đảm của bên có nghĩa vụ trước khi yêu cầu

bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng nếu như bên nhận bảo lãnh lựa

chọn xử lý các tài sản bảo đảm này thì phải làm sao đạt được mức giá bán cao

nhất để giảm bớt khoản nợ được bảo lãnh.

Pháp luật của Pháp đi theo hướng ngược lại. Hình thức bảo lãnh như quy

định của pháp luật Việt Nam được pháp luật Pháp gọi là bảo lãnh độc lập

(garantie autonome) là một dạng bảo lãnh đặc biệt và rất khác biệt so với bảo

lãnh thông thường39. Trong trường hợp bảo lãnh thông thường, bên bảo lãnh chỉ

thực hiện cam kết bảo lãnh khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được

bảo lãnh và có bằng chứng về việc bên có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện

nghĩa vụ được bảo lãnh. Quy định như thế bảo vệ tốt hơn bên bảo lãnh, bởi vì, trừ

bảo lãnh do ngân hàng phát hành với tính chất là một nghiệp vụ kinh doanh, trong

trường hợp bảo lãnh một khoản vay chẳng hạn, bên bảo lãnh thường không được

nhận phí bảo lãnh và không (hoặc không trực tiếp) liên quan tới việc thực hiện dự

38 Xem thêm: ThS. Bùi Đức Giang, Công ty Luật Audier and Partners Vietnam LLC (A&P) & NCS khoa

Luật, Đại học Paris 2 Panthéon Assas, Pháp - Chế định bảo lãnh của Việt Nam nhìn từ góc độ luật so

sánh, Posted on 08/10/2012 by Civillawinfor. 39 Pháp luật của Anh cũng công nhận khái niệm “bảo lãnh độc lập” (on demand guarantee, demand

performance guarantee) nhưng biện pháp này chỉ khác với bảo lãnh thông thường ở chỗ trong trường

hợp này bên bảo lãnh có thể gọi bảo lãnh mà không cần phải có bằng chứng về việc bên được bảo lãnh

vi phạm nghĩa vụ.

Page 82: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

79

án sản xuất, kinh doanh được nêu trong phương án vay của bên đi vay. Khác với

pháp luật Việt Nam, việc bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ngay khi

bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh chỉ được áp dụng khi

các bên có thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng bảo lãnh, tức là khi đó bên bảo lãnh

hiểu rõ mức độ cam kết của mình và rủi ro gắn với cam kết đó40. Để hạn chế rủi

ro, thông thường khi đưa ra cam kết bảo lãnh, bên bảo lãnh nên cố gắng đàm phán

để đưa ra điều khoản về thực hiện bảo lãnh. Theo đó, bên bảo lãnh sẽ thực hiện

nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh chứng minh được (i)

Nghĩa vụ đã đến hạn; (ii) Bên được bảo lãnh không thực hiện hay thực hiện không

đúng hợp đồng và (iii) Bên được bảo lãnh không có khả năng thanh toán.

3.1.2. Những quy định về biện pháp bảo lãnh được áp dụng để bảo

đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

3.1.2.1. Phạm vi bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Theo quy định của pháp luật dân sự, phạm vi bảo đảm nghĩa vụ là do các

bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định, nếu không thỏa thuận thì phạm vi bảo

đảm là toàn bộ nghĩa vụ chính hiện tại và tương lai. Phạm vi bảo đảm nghĩa vụ

không được vượt quá nghĩa vụ chính, bao gồm nợ gốc, tiền bồi thường thiệt hại,

lãi suất, kể cả tiền phạt vi phạm, nếu có41. Phạm vi bảo lãnh nghĩa vụ nói chung

và bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng nói riêng được quy định tại

Điều 363 của Bộ luật Dân sự năm 2005 như sau: “Bên bảo lãnh có thể cam kết

bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ bảo

lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, trừ

trường hợp có thoả thuận khác”. Khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ thì có

quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi

40 Về mặt hình thức, tên gọi bảo lãnh độc lập phải được viết rõ trong hợp đồng bảo lãnh. 41 Xem thêm: http://luathoc.cafeluat.com/threads/bai-03-cac-bien-phap-bao-dam-thuc-hien-nghia-

vu.104515/#ixzz4Ej7wU2r7

Page 83: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

80

bảo lãnh, nếu không có thoả thuận khác. Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, phạm vi

bảo lãnh đã được bổ sung đầy đủ hơn và được quy định tại Điều 336: “(i) Bên bảo

lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo

lãnh; (ii) Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi

thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác; (iii)

Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; (iv) Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ

phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh

sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại”.

Với các quy định của Bộ luật Dân sự, trong việc bảo lãnh hợp đồng tín

dụng, phạm vi bảo lãnh được hiểu là giới hạn của nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng

tín dụng mà bên bảo lãnh cam kết sẽ thực hiện thay cho bên được bảo lãnh đối với

bên nhận bảo lãnh. Do đối tượng nghĩa vụ bảo lãnh là tiền vay và chỉ được thực

hiện bằng nghĩa vụ tài sản của bên bảo lãnh, nên phạm vi bảo lãnh phải do bên

bảo lãnh tự quyết định và phải được ghi rõ trong hợp đồng bảo lãnh như một điều

khoản chủ yếu. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hay toàn bộ nghĩa

vụ theo hợp đồng tín dụng của bên vay (bên được bảo lãnh). Nghĩa vụ bảo lãnh

bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền

chậm trả, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Cũng do đặc thù của hợp

đồng tín dụng, việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng là nghĩa vụ cụ thể (là

nghĩa vụ trả nợ khoản tiền vay mà bên vay (bên được bảo lãnh) đã vay của ngân

hàng, tổ chức tín dụng theo hợp đồng và được xác định là nghĩa vụ chính. Phạm

vi bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ không được vượt quá nghĩa vụ chính, bao gồm nợ gốc,

tiền bồi thường thiệt hại, lãi suất, kể cả tiền phạt vi phạm, nếu có. Bên cạnh đó,

trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm

vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc

pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

Page 84: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

81

3.1.2.2. Điều kiện của chủ thể bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Theo pháp luật dân sự Việt Nam, năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm

năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự. Trong đó, năng lực hành vi

dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực

hiện quyền, nghĩa vụ dân sự42. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng

của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự43. Năng lực chủ thể của pháp

nhân được xác định khi một tổ chức được công nhận là pháp nhân với các điều

kiện sau: (a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên

quan; (b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; (c) Có tài

sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của

mình; (d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập44.

Như vậy, chỉ khi các cá nhân và pháp nhân thoả mãn yêu cầu về điều kiện

chủ thể mà pháp luật đã quy định thì mới được tham gia các quan hệ pháp luật

dân sự. Điều kiện của người bảo lãnh khi tham gia quan hệ bảo lãnh thực hiện

hợp đồng tín dụng cũng không nằm ngoài các quy định nói trên. Để tham gia vào

quan hệ hợp đồng bảo lãnh, người bảo lãnh phải có các điều kiện sau: (i) Bên bảo

lãnh nếu là cá nhân phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự

đầy đủ; nếu là pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự. Người đại diện pháp

nhân phải là người có đủ thẩm quyền để thay mặt pháp nhân ký kết hợp đồng bảo

lãnh; (ii) Bên bảo lãnh phải có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo

lãnh. Đối với người bảo lãnh là cá nhân thì đòi hỏi phải có chỗ làm việc ổn định,

thu thập thường xuyên hoặc phải có một tài sản nhất định (như nhà ở, đất đai...).

Trong trường hợp nhiều người bảo lãnh (là nhiều cá nhân) thì yêu cầu tổng thu

nhập của các cá nhân đó phải lớn hơn nghĩa vụ trả nợ của bên vay (bên được bảo

42 Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2015. 43 Điều 16 Bộ luật Dân sự năm 2015. 44 Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015

Page 85: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

82

lãnh); (iii) Bên bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trước ngân hàng, tổ chức tín dụng

về khoản vay của bên vay mà mình bảo lãnh. Trường hợp nhiều người cùng bảo

lãnh cho một khoản nợ vay, thì tất cả những người bảo lãnh đương nhiên phải

chịu trách nhiệm liên đới đối với chủ nợ (trừ trường hợp giữa họ có thỏa thuận

khác hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập).

Các điều kiện của người bảo lãnh cũng được pháp luật của nhiều quốc gia

quy định rất chặt chẽ, bao gồm: (i) Có uy tín hoặc (ii) có tài sản thuộc sở hữu của

mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh hoặc (iii) vừa có uy tín,

vừa chứng minh được năng lực tài chính để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ

thay cho bên được bảo lãnh khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện

được nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng. Như vậy, các điều kiện của người

bảo lãnh tuỳ thuộc vào điều kiện và quy định pháp luật của mỗi quốc gia. Tuy

nhiên, việc quy định cụ thể điều kiện của người bảo lãnh là rất cần thiết, bởi lẽ,

người bảo lãnh chính là người đứng ra bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ, là

người phải chịu trách nhiệm thực hiện thay trong trường hợp người vay tiền

không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng. Trong

trường hợp nếu người bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay thế cho người

được bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thể chính mình thực hiện nghĩa vụ

thì chỉ cần đưa thỏa thuận này vào hợp đồng bảo lãnh để phòng trường hợp người

được bảo lãnh mặc dù có khả năng nhưng cố tình không thực hiện nghĩa vụ.

Ngoài ra, người bảo lãnh nếu muốn cũng có thể giới hạn nghĩa vụ bảo lãnh của

mình, ví dụ đối với hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và người được bảo lãnh, thì

người bảo lãnh có thể chỉ bảo lãnh cho phần trả nợ gốc, lãi, phạt chứ không bảo

lãnh cho phần bồi thường thiệt hại. Có thể nói, trong các hợp đồng tín dụng hiện

nay, bảo lãnh là một trong những biện pháp được áp dụng khá phổ biến với những

điều kiện, thủ tục thuận tiện và hành lang pháp lý đối với biện pháp này được quy

định khá chi tiết. Trên thực tế, không phải lúc nào bên đi vay cũng có đủ tài sản

Page 86: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

83

để cầm cố hay thế chấp nhằm đảm bảo nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Việc tham gia

của bên thứ ba bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ sẽ giúp cho nhiều tổ chức, cá nhân có

khả năng được vay vốn, tháo gỡ khó khăn. Đây cũng được coi là biện pháp “ba

bên cùng có lợi”: Tổ chức tín dụng có thể cho vay để thu lãi, người đi vay có thể

được vay vốn để trang trải cá nhân hoặc thực hiện sản xuất kinh doanh, người bảo

lãnh sẽ được nhận khoản thù lao cho việc bảo lãnh của mình45. Tuy nhiên, chế

định bảo lãnh hiện hành của pháp luật dân sự Việt Nam (cụ thể là Bộ luật Dân sự

năm 2005 cũng như Bộ luật Dân sự năm 2015) đều không có các quy định về điều

kiện của người bảo lãnh. Dường như, pháp luật hiện hành không hạn chế chủ thể

tham gia quan hệ bảo lãnh, cũng không yêu cầu về tư cách chủ thể hoặc tài sản

của bên bảo lãnh. Ðiều này sẽ gây không ít hệ luỵ cho quá trình xử lý quan hệ bảo

lãnh trong trường hợp người bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

nghĩa vụ bảo lãnh.

3.1.2.3. Về hình thức bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành, pháp luật dân sự Việt

Nam quy định hình thức bảo lãnh bắt buộc phải lập thành văn bản, trong trường

hợp pháp luật có quy định, văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng

thực. Cụ thể, Điều 367 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định: “Việc bảo lãnh phải

được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng

thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật

có quy định”. Hình thức bảo lãnh cũng được Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định

tại Điều 362: “Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn

bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định

thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực”.

45 Xem thêm: ThS. Nguyễn Thùy Trang - Một số nội dung pháp lý liên quan tới bảo lãnh đối với hợp

đồng tín dụng, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 5 (326) ngày 01/3/2011.

Page 87: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

84

Tuy nhiên, đến Bộ luật Dân sự năm 2015, chế định về bảo lãnh không quy

định về hình thức bảo lãnh. Lý giải cho điều này là nhằm phát huy quyền tự do

hợp đồng, hình thức cũng như nội dung của các loại hợp đồng do các bên tự thoả

thuận miễn là phù hợp các quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.

Việc giao kết hợp đồng chỉ cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân

sự như: “… Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân

sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa

thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực

thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. Cá nhân, pháp

nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách

thiện chí, trung thực. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự

không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và

lợi ích hợp pháp của người khác. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về

việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự…”46.

3.1.2.4. Về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh

Theo quy định của Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 401 của Bộ

luật Dân sự năm 2015, hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm

giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.

Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối

với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa

thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Như vậy, về nguyên tắc, hợp

đồng bảo lãnh có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên, do đặc thù của lĩnh

vực tín dụng ngân hàng, hợp đồng bảo lãnh nghĩa vụ tiền vay của ngân hàng, tổ

chức tín dụng có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện bổ sung sau đây: (i) Hợp

đồng được ký kết theo đúng trình tự luật định; (ii) Bên bảo lãnh cam kết bảo đảm

46 Khoản 2, 3, 4, 5 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Page 88: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

85

nghĩa vụ trả nợ của bên vay (bên được bảo lãnh) và nghĩa vụ bảo lãnh này phải

gắn với khoản vay do ngân hàng, tổ chức tín dụng đã cho bên được bảo lãnh vay.

Quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh là rất quan trọng, vì chỉ khi hợp đồng

bảo lãnh phát sinh hiệu lực thì bên bảo lãnh cũng như bên nhận bảo lãnh mới có

đủ căn cứ pháp lý để thực hiện. Chính vì thế, pháp luật các quốc gia đều có quy

định về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh bao gồm quy định về thời điểm phát sinh

hiệu lực, thời điểm chấm dứt hiệu lực.

3.1.2.5. Nghĩa vụ bảo lãnh và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

- Về nghĩa vụ bảo lãnh: Nếu các bên không có thoả thuận khác, thì trong

trường hợp bên vay (bên được bảo lãnh) không thực hiện hoặc thực hiện không

đúng nghĩa vụ của mình trong thời hạn quy định theo thoả thuận tại hợp đồng tín

dụng, thì ngân hàng, các tổ chức tín dụng (bên nhận bảo lãnh) có quyền yêu cầu

bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết được ghi nhận trong

phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh theo hợp đồng bảo lãnh. Bên bảo lãnh phải thực hiện

nghĩa vụ bảo lãnh trong thời hạn do các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận

thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong một thời hạn hợp lý, kể từ

thời điểm được thông báo về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Các bên cũng có thể thỏa thuận là bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ

thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả

năng thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh

thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn. Bên

bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo

lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.

Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì họ phải liên đới thực hiện

việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh

theo các phần độc lập; bên nhận bảo lãnh có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những

người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Khi một người trong số

Page 89: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

86

những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được

bảo lãnh, thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần

nghĩa vụ của họ đối với mình.

- Về bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh. Theo khoản 3 Điều 336 Bộ luật Dân sự

năm 2015, các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Mặc dù là biện pháp bảo đảm đối nhân, bên

bảo lãnh phải bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của

mình, tuy nhiên, pháp luật cũng cho phép các bên được thoả thuận để có thể sử

dụng biện pháp cầm cố hoặc thế chấp một tài sản cụ thể để bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ bảo lãnh. Tuy nhiên, quy định mang tính “mở” này cần được hướng dẫn

cụ thể để tránh nhầm lẫn với biện pháp cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người

thứ ba nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ.

Trong trường hợp phải xử lý tài sản của bên bảo lãnh theo quy định tại

Điều 369 Bộ luật Dân sự thì các bên thoả thuận về tài sản, thời gian, địa điểm và

phương thức xử lý; nếu không thoả thuận được thì bên nhận bảo lãnh có quyền

khởi kiện tại Tòa án.

3.1.2.6. Trách nhiệm của bên bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Việc xác định trách nhiệm của người bảo lãnh có vai trò quan trọng trong

việc đảm bảo để nghĩa vụ của bên bảo lãnh được thực hiện một cách có hiệu quả.

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định một điều khoản riêng về xử lý tài sản của bên

bảo lãnh, trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo

lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì

bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận

bảo lãnh (Điều 369). Việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh theo quy định tại Điều

369 được hướng dẫn thực hiện như sau: (i) Trong trường hợp các bên có thỏa

thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì

tài sản cầm cố, thế chấp được xử lý theo quy định của pháp luật; (ii) Trong trường

Page 90: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

87

hợp các bên không có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải giao tài sản thuộc sở hữu của mình

cho bên nhận bảo lãnh xử lý theo yêu cầu của bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp

có thỏa thuận khác. Nếu bên bảo lãnh không giao tài sản thì bên nhận bảo lãnh có

quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật; (iii) Tại thời điểm xử lý tài sản của

bên bảo lãnh, nếu bên bảo lãnh không có tài sản để xử lý hoặc khoản tiền thu

được từ việc xử lý tài sản không đủ thanh toán nghĩa vụ được bảo lãnh thì trong

phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo

lãnh phải giao tài sản có được sau thời điểm xử lý cho mình để tiếp tục xử lý47.

Các quy định pháp luật trên đây được coi là căn cứ pháp lý tin cậy để bên nhận

bảo lãnh yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện hiệu quả nghĩa vụ bảo lãnh của mình.

Tuy nhiên, đến Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định này đã bị lược bỏ và thay vào

đó là quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh. Điều 342 của Bộ luật này

quy định: “(i) Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó; (ii) Trường hợp

bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có

quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường

thiệt hại”. Có thể thấy rằng, các quy định về trách nhiệm dân sự của người bảo

lãnh theo Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ đẩy bên nhận bảo lãnh vào vụ kiện “yêu

cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại”. Và

khi đó, tính hiệu quả và “mục đích bảo đảm” của việc bảo lãnh là không đạt được.

- Đối với các trường hợp miễn nghĩa vụ bảo lãnh, Điều 368 Bộ luật Dân sự

năm 2005 quy định: “(i) Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện

nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, thì bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối

47Khoản 13 Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP, ngày 22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm

Page 91: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

88

với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định

phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. (ii) Trong trường hợp chỉ một người

trong số nhiều người cùng nhận bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần

nghĩa vụ bảo lãnh của mình, thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ

bảo lãnh của họ”. Tuy nhiên với nỗ lực về bổ sung và hoàn thiện pháp luật, Điều

341 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định toàn diện hơn về việc miễn thực

hiện nghĩa vụ bảo lãnh, cụ thể: “(i) Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa

vụ bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh

thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh,

trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác; (ii) Trường hợp chỉ

một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần

nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo

lãnh của họ; (iii) Trường hợp một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới

miễn cho bên bảo lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên

bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo

lãnh liên đới còn lại”.

3.1.2.7. Chấm dứt bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng

Về các trường hợp chấm dứt bảo lãnh, Điều 371 Bộ luật Dân sự năm 2005

cũng như Điều 343 Bộ luật Dân sự năm 2015 đều quy định, việc bảo lãnh được

chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

(i) Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt. Đây là trường hợp đương nhiên

chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh, bởi lẽ, thời hạn tồn tại việc bảo lãnh là thời hạn tồn

tại nghĩa vụ được bảo lãnh, nay nghĩa vụ đó đã chấm dứt thì việc bảo lãnh cũng

được chấm dứt.

(ii) Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm

khác. Trong cả hai trường hợp này biện pháp bảo lãnh đều chấm dứt, tuy nhiên,

giữa chúng có sự khác nhau. Trong trường hợp việc bảo lãnh được các bên thỏa

Page 92: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

89

thuận hủy bỏ, thì thực chất quan hệ hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay và bên

vay trở thành quan hệ hợp đồng không có bảo đảm; trong trường hợp các bên thỏa

thuận thay thế biện pháp bảo đảm khác không phải là biện pháp bảo lãnh, thì quan

hệ hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay và bên vay vẫn là quan hệ hợp đồng có

biện pháp bảo đảm đi kèm, chỉ có khác ở biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

(iii) Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Đây là trường hợp người

bảo lãnh đã hoàn thành việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

(iv) Theo thỏa thuận của các bên. Có thể là các bên thoả thuận về việc

miễn nghĩa vụ bảo lãnh; hoặc huỷ bỏ; hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo

đảm khác.

3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH

3.2.1. Thực trạng bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng việc cầm

cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh (bảo lãnh đối vật)

Trong suốt quá trình thực hiện các quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam

năm 1995, biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng luôn được thực hiện theo “bảo

lãnh đối vật”, tức là bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Nghị định số

178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ

chức tín dụng đã quy định rất cụ thể về vấn đề này, theo đó, bảo lãnh bằng tài sản

của bên thứ ba là việc bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với tổ chức tín

dụng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa

vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Bên bảo lãnh chỉ được bảo

lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Tổ chức tín dụng và bên bảo lãnh có thể

thoả thuận biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Cũng theo Nghị định này, giá trị quyền sử dụng đất cũng

được đem cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.

Page 93: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

90

Từ các quy định của pháp luật về bảo lãnh ở trên đưa đến nhận thức là, nếu

một chủ thể vay tiền của ngân hàng mà không có tài sản để đảm bảo cho khoản

tiền vay đó, thì có thể nhờ người thứ ba có tài sản thuộc sở hữu của họ đem cầm

cố, thế chấp để bảo lãnh thực hiện thay nghĩa vụ cho chủ thể vay tiền. Trong

trường hợp chủ thể này không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì ngân hàng sẽ xử

lý tài sản bảo đảm của bên thứ ba (bên bảo lãnh) để thu hồi khoản nợ vay. Về ưu

điểm, pháp luật không hạn chế chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh, cũng không

yêu cầu về tư cách chủ thể hoặc tài sản của bên bảo lãnh. Ðây là yếu tố khá thuận

lợi giúp các bên tự do lựa chọn hình thức này.

Trên thực tế, không phải lúc nào bên đi vay cũng có đủ tài sản để cầm cố

hay thế chấp đảm bảo trả nợ khi đến hạn, vì vậy, bảo lãnh là một trong những

biện pháp được áp dụng khá phổ biến48 với những điều kiện, thủ tục thuận tiện và

hành lang pháp lý đối với biện pháp này được quy định tương đối đơn giản. Do

vậy, quy định mở về sự tham gia của bên thứ ba sẽ giúp cho nhiều tổ chức, cá

nhân có khả năng được vay vốn, tháo gỡ khó khăn, còn bên bảo lãnh cũng không

bị ràng buộc quá nhiều trách nhiệm pháp lý theo luật khi giao kết giao dịch bảo

đảm (trừ trường hợp bên bảo lãnh phải cầm cố, thế chấp tài sản của mình và phải

đăng ký giao dịch bảo đảm để đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh theo thỏa thuận của các

bên). Ngoài ra, trong một số trường hợp, đây còn được coi là biện pháp “ba bên

cùng có lợi”. Tổ chức tín dụng cho vay để thu lãi, người đi vay có thể được vay

vốn để trang trải hoặc tiếp tục sản xuất kinh doanh, người bảo lãnh sẽ được nhận

khoản thù lao cho việc bảo lãnh của mình. Bên cạnh đó, chế tài về tài sản đối với

bên bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ đến

hạn cũng đã tạo sự yên tâm cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng khi chấp nhận

48 ThS. Nguyễn Thùy Trang, Công ty Công nghiệp Hóa chất mỏ - TKV, “Biện pháp bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại: Một số nhận định từ góc độ pháp lý

đến thực tiễn” - trên http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/.

Page 94: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

91

cho một tổ chức, cá nhân nào đó vay tiền khi có người bảo lãnh. Tuy nhiên, do

quy định bảo đảm theo quan điểm đối vật, các quy định trên thực chất là hướng

tới việc bảo vệ quyền lợi cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng với tư cách là bên

cho vay và bên nhận bảo lãnh, chứ chưa thực sự phát huy bản chất đối nhân của

biện pháp bảo lãnh, chưa phân định rõ ranh giới trách nhiệm của bên bảo lãnh và

bên được bảo lãnh trong các quy định pháp luật. Một số quy định pháp luật hướng

dẫn thiên về định tính nhiều hơn định lượng. Trong một số vụ tranh chấp liên

quan đến quan hệ bảo lãnh, người được bảo lãnh không thực hiện hết trách nhiệm

của mình và đẩy hết rủi ro cho bên bảo lãnh. Một hệ lụy khác cũng cần quan tâm

là quan hệ bảo lãnh có liên quan đến việc cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba,

nếu pháp luật có quy định phải đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng hay

chứng thực, thì vấn đề đặt ra ở đây là có phải làm các thủ tục với cả thỏa thuận

bảo lãnh hay chỉ phải làm các thủ tục với thỏa thuận cầm cố, thế chấp tài sản của

bên thứ ba? Bởi trên thực tế, có một số trường hợp thỏa thuận bảo lãnh có kèm

theo các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng cũng có trường hợp hai văn

bản này được lập riêng.

Trong khoảng thời gian thực hiện chế định bảo lãnh bằng tài sản của bên

thứ ba, theo khảo sát, ghi nhận từ các vụ kiện tại Tòa án nhân dân, thì các vụ kiện

tranh chấp từ hợp đồng tín dụng, trong đó, ngân hàng cho vay và nhận tài sản bảo

đảm là quyền sử dụng đất của bên thứ ba ngày càng nhiều. Theo các báo cáo tổng

kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân cho thấy, ở thời điểm tình hình kinh tế

khó khăn, số lượng các vụ án tín dụng, hay nói khác đi là, các vụ đòi nợ của ngân

hàng ngày càng nhiều. Đáng chú ý là các vụ đòi nợ mà trong đó, doanh nghiệp đi

vay và thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba (bên bảo lãnh) cũng ngày một nhiều

lên. Trừ khối ngân hàng nước ngoài, hầu hết ngân hàng thương mại trong nước,

ngay cả các ngân hàng lớn như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

(Vietcombank), Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân hàng Đầu

Page 95: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

92

tư và Phát triển (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(Agribank)… đều có những vụ kiện để giải quyết hậu quả hợp đồng tín dụng kiểu

này. Ví dụ, vụ đòi nợ của Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đối

với một cá nhân (quận Thanh Xuân, Hà Nội), trong đó cá nhân này vay 410 triệu

đồng thông qua 2 hợp đồng tín dụng, tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài

sản gắn liền trên đất của một gia đình ở huyện Đan Phượng (Hà Nội) nhận bảo

lãnh. Khi người vay tiền không trả nợ, Ngân hàng đòi siết nhà thì gia đình (bên

bảo lãnh) có đất mới biết, cả gốc và lãi của khoản nợ là 510 triệu đồng49. Trong

khi đó, theo gia đình này (bên bảo lãnh), họ có nhu cầu vay 100 triệu đồng và

thực tế chỉ nhận được 88 triệu đồng, sau khi đã trừ lãi và phí. Tuy nhiên, do hợp

đồng bảo lãnh - thế chấp đúng là do gia đình này ký, đã đăng ký giao dịch bảo

đảm, nên Tòa án tuyên Techcombank có quyền phát mại tài sản trong trường hợp

người đi vay không trả được nợ. Hay trường hợp Ngân hàng Đông Nam Á

(Seabank) cho Công ty Hưng Phát vay 5,7 tỷ đồng, tài sản thế chấp là quyền sử

dụng đất và tài sản gắn liền trên đất của 3 hộ gia đình. Sau khi Ngân hàng khởi

kiện đòi nợ và giám định thì phát hiện chữ ký của một gia đình trên hợp đồng thế

chấp là giả mạo. Một hộ gia đình khác thì đưa ra chứng cứ về việc họ đã trả nợ

1,7 tỷ đồng, được Phó Giám đốc Seabank Chi nhánh Ba Đình ký xác nhận, trong

số 2,4 tỷ đồng mà gia đình họ đã bảo lãnh, trong khi đại diện Ngân hàng Đông

Nam Á (Seabank) cho biết, chứng từ tại Ngân hàng chỉ có 700 triệu đồng50. Trong

những trường hợp này, về lý thì ngân hàng nắm đằng chuôi nếu như họ đã thực

hiện đầy đủ các quy định về giao dịch bảo lãnh như ký hợp đồng thế chấp có công

49 Xem: Hoàng Duy - Rủi ro nhận thế chấp tài sản của bên thứ ba, trên:

http://tinnhanhchungkhoan.vn/phap-luat/rui-ro-nhan-the-chap-tai-san-cua-ben-thu-ba-16526.html 50 Xem: Dân mặc đồ trắng, đòi ngân hàng trả lại sổ đỏ, trên: http://news.zing.vn/dan-mac-do-trang-doi-

ngan-hang-tra-lai-so-do-post315853.html

Page 96: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

93

chứng, có đăng ký giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn chịu nhiều chi

phí trong quá trình đòi nợ, chưa kể những phiền phức khác.

Cũng theo các cán bộ tòa án có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp hợp

đồng tín dụng mà tài sản thế chấp là của bên thứ ba cho biết, thường là nếu doanh

nghiệp đi vay ngân hàng và đưa tài sản thế chấp là tài sản của chính họ hoặc tài

sản của người thân như bố mẹ, anh chị em thì đó mới là vay thật. Những trường

hợp doanh nghiệp vay tiền mà tài sản thế chấp là của một người khác, gọi là bên

thứ ba, thì ngân hàng cần thận trọng. Khi đó, người có tài sản có nhu cầu vay vốn

chỉ vài chục triệu đồng hoặc 100 - 200 triệu đồng, nhưng không vay được ngân

hàng, nên phải nhờ doanh nghiệp đứng lên vay và họ trở thành bên bảo lãnh.

Nhưng doanh nghiệp thường vay nhiều hơn, phần chênh lệch đó, họ giữ lại và

đem cho vay với lãi suất cao. Nếu việc cho vay suôn sẻ thì họ có thể trả gốc và lãi

cho ngân hàng, hưởng phần chênh lệch, nhưng khi doanh nghiệp không thể trả nợ

ngân hàng, thì gánh nặng trả nợ sẽ đè lên người có tài sản bảo lãnh đem thế chấp.

Không ít các trường hợp, khi cá nhân cho mượn hoặc giao giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cho người khác để vay tiền (họ đương nhiên trở thành bên bảo

lãnh), đã bị bên đi vay lợi dụng. Tòa án nhân dân TP. Hà Nội cũng xét xử một số

vụ việc tương tự, khi một hộ kinh doanh sử dụng tài sản thế chấp là nhà đất của

bên thứ ba để vay vốn ngân hàng, nhưng không có khả năng thanh toán. Trong

tình huống này, Ngân hàng muốn siết nợ bằng nhà đất và bên thứ ba đứng trước

nguy cơ mất nhà. Hơn nữa, khi cho vay có tài sản bảo đảm là của bên thứ ba nhận

nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng phải đối mặt với nhiều rủi ro nếu không thực hiện

đầy đủ các quy định. Chẳng hạn, khi doanh nghiệp vay ngân hàng thì phải được

sự chấp thuận của Hội đồng quản trị doanh nghiệp, do đó ngân hàng cần phải

kiểm tra xem có ý kiến bằng văn bản của Hội đồng quản trị doanh nghiệp hay

không. Nhưng nhiều khi ngân hàng không kiểm tra nên không phát hiện khoản

vay chỉ có Tổng giám đốc doanh nghiệp biết, Hội đồng quản trị doanh nghiệp

Page 97: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

94

không biết, dẫn đến ngân hàng khó đòi được nợ. Hoặc ngân hàng cho vay hộ gia

đình thì khi họ thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất

phải có sự chấp thuận của tất cả các thành viên của hộ gia đình. Nhưng có trường

hợp ngân hàng chỉ cần bố mẹ ký mà quên mất các con, dẫn đến hợp đồng thế chấp

vô hiệu khi có thành viên của gia đình từ 16 tuổi trở lên không ký. Hợp đồng thế

chấp vô hiệu thì chẳng khác nào ngân hàng cho vay tín chấp và rủi ro tín dụng

tăng lên. Quyền sử dụng đất là loại tài sản thế chấp phổ biến, nhưng đã có trường

hợp ngân hàng khi nhận thế chấp chỉ định giá đất mà không định giá nhà, dẫn đến

tranh chấp trong quá trình đòi nợ. Chưa kể, khi người vay muốn tăng giá tài sản

bảo đảm để có thể vay được nhiều hơn, cộng với nhân viên ngân hàng không làm

đúng quy trình, quy định về thẩm định giá, dẫn đến khó thu hồi đủ khoản cho vay.

Trong những rủi ro khi nhận tài sản bảo đảm của bên thứ ba, thì yếu tố

quản trị rủi ro ngân hàng rất quan trọng. Những trường hợp không đủ điều kiện

xử lý tài sản bảo đảm thường là do nhân viên ngân hàng không làm đúng quy

trình, quy định. Khi nhận tài sản thế chấp từ bên thứ ba, ngân hàng cần cẩn thận

hơn, kiểm tra lại đối với người có tài sản, như vậy sẽ tránh được các trường hợp

giả mạo chữ ký, cũng hạn chế được rủi ro. Theo các chuyên viên pháp lý của

nhiều ngân hàng thương mại cảnh báo, khi giao tài sản để bảo lãnh cho người

khác vay tiền ngân hàng, người có tài sản phải tìm hiểu, cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi

nếu đã tự nguyện ký kết vào hợp đồng thế chấp thì không thể thoái thác trách

nhiệm. Nhiều trường hợp, đội ngũ “cò vay vốn” lợi dụng sự thiếu hiểu biết của

một số cá nhân, khi làm “hộ” thủ tục vay vốn ngân hàng đã chiếm dụng chín

phần, chỉ chuyển lại một phần. Trong những trường hợp này, về lý thì ngân hàng

có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ, nhưng thực tế, việc ngân hàng xử lý

Page 98: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

95

tài sản thế chấp của bên thứ ba luôn gặp không ít phiền phức51. Vì vậy, để hạn chế

nguy cơ tranh chấp khi nhận tài sản bảo đảm của bên thứ ba, ngân hàng cần đặc

biệt lưu ý và coi đó là trường hợp bất bình thường để thẩm định chặt chẽ. Bên

đứng ra bảo lãnh cho bên vay vốn là người thân, bạn bè của họ, nhưng khi phát

sinh nghĩa vụ bảo lãnh thì họ tìm cách thoái thác dẫn đến ngân hàng có nguy cơ

mất vốn. Bởi nếu hồ sơ, thủ tục cho vay được thẩm định chặt chẽ,thì ngân hàng có

quyền xử lý tài sản thế chấp, nhưng ngược lại, nếu hồ sơ cho vay có vấn đề, hợp

đồng thế chấp vô hiệu thì bên thứ ba có quyền rút tài sản ra. Hạn chế rủi ro của

ngân hàng không chỉ nằm ở tài sản bảo đảm, mà còn nằm ở việc quản trị rủi ro tín

dụng. Thời kỳ ngân hàng cho vay chỉ chăm chăm nhìn vào tài sản bảo đảm đã

qua. Điều quan trọng với ngân hàng là cho vay phải đúng mục đích. Trong các

trường hợp cho mượn, nhờ sổ đỏ để vay vốn, việc sử dụng vốn vay hầu hết đều

sai mục đích, và tất nhiên, khi đó, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng cũng sẽ

giảm đi đáng kể.

3.2.2. Thực trạng bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện

pháp bảo lãnh đối nhân

Biện pháp bảo lãnh theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 có sự khác

biệt so với Bộ luật Dân sự năm 1995, đó là chỉ còn một loại bảo lãnh duy nhất

không kèm theo tài sản cầm cố, thế chấp. Tức là sẽ không còn giao dịch bảo lãnh

bằng hàng hoá, tài sản, nhà ở nói chung, bằng quyền sử dụng đất nói riêng của

người thứ ba trong quan hệ bảo lãnh. Trên thực tế áp dụng pháp luật, nếu chỉ căn

cứ vào câu chữ giải thích tại Điều 361 về chế định bảo lãnh của Bộ luật Dân sự

năm 2005: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết

51 Xem: Rủi ro kép từ tài sản bảo đảm của bên thứ ba – trên

http://muabannhadat.com.vn/PrintNews.aspx?id=34614

Page 99: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

96

với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay

cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà

bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên

cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên

được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”, thì gần như

không thể phân biệt được sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật Dân sự năm

2005 và Bộ luật Dân sự năm 1995 nếu không được giải thích một cách cặn kẽ.

Trong cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005”52 giải thích Điều 361

về chế định bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự cũng không rõ ràng: “Điều khác nhau

cơ bản giữa chế định bảo lãnh và các chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nêu

trên là ở chỗ, bảo lãnh là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó,

người thứ ba dùng tài sản thuộc quyền sở hữu để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân

sự của người khác chứ không phải là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính chủ

sở hữu tài sản như các chế định bảo đảm khác”53. Ở đây, việc giải thích cần làm

rõ tài sản của người thứ ba (bên bảo lãnh) là tài sản nào, xác định hay không xác

định. Nghĩa vụ bảo lãnh bản chất là đối nhân, tức là bằng uy tín của chính bên bảo

lãnh. Trong trường hợp bên được bảo lãnh thực hiện không đúng hoặc không thực

hiện nghĩa vụ trả nợ, thì bên bảo lãnh phải dùng tài sản của mình để thực hiện

thay nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ của bên bảo lãnh trong trường

hợp này là trách nhiệm vô hạn chứ không chỉ đơn thuần là hữu hạn như trong

trường hợp cầm cố hoặc thế chấp tài sản của bên thứ ba để bảo đảm khoản tiền

vay của bên được bảo lãnh.

52 PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên),Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học

pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008, tr. 157. 53 Xem thêm: PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên),Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện

Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008

Page 100: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

97

Tất cả các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng đều có đối

tượng chung là “nghĩa vụ trả nợ” nhưng về phương thức có thể khác nhau, có thể

bằng tài sản, có thể bằng uy tín hoặc cả hai (khoản 2 Điều 319 Bộ luật Dân sự

năm 2005 quy định: “Các bên được thỏa thuận về các biện pháp bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ dân sự…” và Điều 7 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày

29/12/2006 về giao dịch bảo đảm cho phép bên nhận bảo đảm có quyền lựa chọn

hoặc xử lý tất cả các giao dịch bảo đảm). “Thế chấp tài sản” và “bảo lãnh” là 2

trong 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định tại Điều 318

Bộ luật Dân sự năm 2005, trong đó về học thuật thì “thế chấp” là biện pháp bảo

đảm đối vật (dùng tài sản để bảo đảm). Theo đó, tài sản bảo đảm (vật, tiền, giấy tờ

có giá, quyền tài sản, mà theo Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP “là tài sản

mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên nhận bảo

đảm”) chính là cơ sở, là nội dung của hợp đồng bảo đảm đối vật (cầm cố, thế

chấp…). Còn “bảo lãnh” (bảo lãnh cổ điển, bảo lãnh thuần túy) là biện pháp bảo

đảm đối nhân (người thứ ba cam kết với người có quyền) mà theo đó “tài sản bảo

đảm” không thể xuất hiện trong hợp đồng bảo lãnh (thuần túy). Hay nói cách khác

“sự bảo đảm đối nhân” có được bởi uy tín thì nội dung của bảo lãnh (thuần túy)

chỉ là lời cam kết, không thể có “vật” (tài sản) kèm theo.

Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ

ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ...”,

rõ ràng, một bảo lãnh thuần túy chỉ xuất hiện cam kết (và hiển nhiên bên kia chỉ

chấp thuận cam kết của người có uy tín) mà không thể có tài sản trong đó. Khi

xác lập hợp đồng bảo lãnh, không ai phải chỉ ra giới hạn, phạm vi tài sản cụ thể

nào, cho dù khi “đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên

bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh

phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”

(Điều 369 Bộ luật Dân sự năm 2005).

Page 101: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

98

Chính sự không chắc chắn bởi bảo đảm bằng cam kết (bảo lãnh thuần túy)

mà pháp luật còn cho phép “các bên có thể thoả thuận về việc xác lập giao dịch bảo

đảm để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối

với bên bảo lãnh…” (Điều 44 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP), tức là bảo lãnh (một

giao dịch bảo đảm sơ cấp) đến lượt mình có thể được bảo đảm thực hiện bằng tài

sản như thông qua giao dịch thế chấp, cầm cố tài sản (một giao dịch bảo đảm thứ

cấp) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Khoa học pháp lý gọi tổ hợp giao

dịch đó, tức bảo lãnh và bảo đảm bảo lãnh bằng tài sản, là “bảo lãnh đối vật”, về ý

nghĩa, với bên nhận bảo đảm đó là biện pháp tạo sự chắc chắn về khả năng thực

hiện nghĩa vụ bảo lãnh (cơ sở vật chất thay cho uy tín “suông”, cam kết “chay”),

còn với bên bảo lãnh lại có thể tự tạo ra giới hạn nào đó về cơ sở vật chất của nghĩa

vụ bảo lãnh (về bản chất giới hạn nghĩa vụ bảo lãnh là phạm vi đã bảo lãnh).

Một thực tế không thể không nhắc đến là sự chưa đồng bộ, sự thay đổi qua

các thời kỳ của hệ thống pháp luật, đó là cách gọi tên về giao dịch “bảo lãnh và

bảo đảm bảo lãnh bằng tài sản” - nhất là đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng

đất, tài sản gắn liền với đất. Tại Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-

BTNMT ngày 16/06/2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và môi trường đã

đưa ra cách gọi tên và hướng dẫn các thủ tục về “đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng

quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất”, theo đó, bên thứ ba có thể dùng

quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để xác lập hợp

đồng bảo lãnh với bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số

03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 đã sửa đổi bằng việc bãi bỏ cách

gọi tên giao dịch bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và bãi

bỏ các hướng dẫn về việc ghi nhận đăng ký bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài

sản gắn liền với đất. Đến Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT

ngày 18/11/2011 (thay thế cho các Thông tư liên tịch trên) thì chỉ còn duy nhất

cách gọi tên giao dịch bảo đảm và hướng dẫn thủ tục về “đăng ký thế chấp quyền

Page 102: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

99

sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất” (chung cho cả trường hợp bên thế chấp là

khách hàng vay hay là bên thứ ba). Tại Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày

29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày

3/3/2006 về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng (và các văn bản hướng dẫn

thi hành khác) cũng từng ghi nhận về “bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, quyền sử

dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng” và sau đó đã được Nghị

định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm sửa để “chuyển thành việc thế

chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng

trồng của người thứ ba” (khoản 4 Điều 72). Tiếp đó, cụm từ này lại được Nghị

định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 thay thế bằng cụm từ “thế chấp quyền

sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng để

bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác” (khoản 22 Điều 1).

Với các phân tích ở trên đã đủ để nói rằng, quan điểm “bảo lãnh bằng tài

sản” hiện nay không còn phù hợp với quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, do

hiểu không đúng bản chất của biện pháp bảo lãnh với tư cách là biện pháp đối

nhân, trong quá trình áp dụng cũng đã làm phát sinh nhiều vấn đề tranh luận như:

Thứ nhất, hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ hợp đồng tín

dụng là giao dịch hai bên hay ba bên?

Đây là vấn đề vẫn còn đang tranh luận trong khoa học pháp lý hiện nay.

Tuy nhiên, theo Điều 361 Bộ luật Dân sự, thì bảo lãnh thực chất là giao dịch hợp

đồng phát sinh giữa người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh (hợp đồng song

phương) chứ không hề có sự tham gia của bất kỳ người thứ ba nào, cho dù trong

hoàn cảnh này người đi vay (người được bảo lãnh) có những quyền lợi liên quan

đến sự bảo lãnh. Tuy nhiên, với cách nhìn khác, một số ý kiến lại cho rằng, giao

dịch bảo lãnh bằng tài sản nói chung và giao dịch bảo lãnh bằng tài sản trong

quan hệ hợp đồng tín dụng nói riêng là loại hình giao dịch ba bên, trong đó người

được bảo lãnh cũng là chủ thể của hợp đồng bảo lãnh. Ý kiến này xuất phát từ lập

Page 103: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

100

luận cho rằng, hợp đồng bảo lãnh chẳng qua là một hợp đồng phụ bổ sung cho

hợp đồng chính và hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính. Do vậy,

chủ thể tham gia hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng) cũng đương nhiên là chủ

thể của hợp đồng phụ (hợp đồng bảo lãnh)54. Thực tế cho thấy, quan điểm cho

rằng hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản thuộc loại hợp đồng ba bên là không có cơ sở

khoa học. Bởi lẽ, theo logic thông thường, nếu người đủ năng lực chủ thể đồng ý

đem tài sản của mình để trả nợ thay cho người khác với mục đích trong sáng và

hợp pháp, trên cơ sở sự chấp thuận của bên có quyền thì mặc nhiên sự cam kết

này đã phát sinh hiệu lực pháp lý và có giá trị ràng buộc đối với các bên cam kết.

Trong trường hợp này, việc bên có nghĩa vụ (người được bảo lãnh) có đồng ý và

chấp nhận sự bảo lãnh đó hay không cũng không hề làm giảm sút giá trị pháp lý

của sự bảo lãnh. Sai lầm của quan niệm coi hợp đồng bảo lãnh là giao dịch ba bên

chính là ở chỗ họ chỉ nhìn thấy tính chất phụ thuộc về hiệu lực của hợp đồng bảo

lãnh vào hiệu lực của hợp đồng chính, mà không nhìn thấy tính độc lập tương đối

của bản thân hợp đồng bảo lãnh so với hợp đồng chính. Điều đó đã dẫn đến sự

suy đoán rằng, chủ thể của hợp đồng bảo lãnh không thể nào thiếu người được

bảo lãnh. Cách suy luận này đã thể hiện sự nhận thức không chính xác về vị trí và

tư cách pháp lý của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng bảo lãnh, vốn dĩ

người này chỉ đóng vai trò là người thứ ba có quyền lợi liên quan đến sự bảo lãnh.

Vấn đề đặt ra ở đây là mặc dù người được bảo lãnh không phải là chủ thể

của hợp đồng bảo lãnh, nhưng liệu rằng ý chí của họ có ảnh hưởng đến hiệu lực

của hợp đồng bảo lãnh hay không? Theo ý kiến của nhiều chuyên gia55, việc pháp

luật quy định người được bảo lãnh không phải là chủ thể hợp đồng bảo lãnh là

54 Xem thêm: LS. Đỗ Hồng Thái - “Hợp đồng bảo lãnh không thể xem là hợp đồng phụ của hợp đồng tín

dụng” - (saigonminhluat.com). 55 TS. Nguyễn Văn Tuyến, Đại học Luật Hà Nội – “Những khía cạnh pháp lý cơ bản của giao dịch bảo

lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng” - đăng trên Tạp chí Luật học tháng 6/2008

http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/03/14/2352/

Page 104: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

101

hoàn toàn hợp lý và có cơ sở khoa học nhưng rõ ràng ý chí và hành động của

người được bảo lãnh có thể gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với việc thực

hiện quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo lãnh. Về nguyên tắc nếu

người được bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối với bên có quyền

(người nhận bảo lãnh) thì khi đó, người bảo lãnh sẽ phải đứng ra thực hiện nghĩa

vụ thay cho người được bảo lãnh. Ngược lại, nếu người được bảo lãnh đã hoàn tất

nghĩa vụ của họ đối với bên có quyền, thì mặc nhiên nghĩa vụ của người bảo lãnh

phát sinh theo hợp đồng bảo lãnh cũng chấm dứt. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý

rằng sự bảo lãnh trong dân luật nói chung cũng như trong nghiệp vụ bảo lãnh của

ngân hàng thương mại nói riêng, nếu ý chí của người được bảo lãnh có thay đổi

làm cho nội dung thực chất của nghĩa vụ được bảo lãnh cũng thay đổi thì về

nguyên tắc không thể đương nhiên và tự động làm cho nghĩa vụ của người bảo

lãnh thay đổi theo, trừ khi có sự đồng ý của người này.

Ví dụ: A cam kết bảo lãnh cho B vay tiền của Ngân hàng C, với mục đích

sử dụng vốn vay vào việc đầu tư dây chuyền sản xuất dép nhựa. Sau khi nhận

được tiền vay, do điều kiện và thời cơ kinh doanh bị thay đổi, B thoả thuận lại với

Ngân hàng C về mục đích sử dụng vốn vay và được Ngân hàng C đồng ý cho

chuyển mục đích sử dụng vốn vay sang lĩnh vực kinh doanh hàng may mặc, kèm

theo thoả thuận về việc điều chỉnh tăng lãi suất tiền vay cho phù hợp với tình hình

mới. Với thoả thuận này giữa B với Ngân hàng C, rõ ràng nội dung nghĩa vụ được

bảo lãnh đã có sự thay đổi nhưng không vì thế mà nội dung nghĩa vụ bảo lãnh của

A đối với Ngân hàng C đương nhiên thay đổi theo, trừ khi có bằng cớ chứng minh

rằng A đã chấp nhận bảo lãnh cho tình trạng mới của nghĩa vụ được bảo lãnh.

Qua ví dụ này có thể khẳng định, người được bảo lãnh thực tế không nhất thiết

phải đóng vai trò là chủ thể của hợp đồng bảo lãnh và ý chí của họ cũng không

thể đơn phương làm thay đổi nội dung của hợp đồng bảo lãnh.

Page 105: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

102

Thứ hai, tình trạng liên đới giữa nghĩa vụ bảo lãnh với nghĩa vụ được bảo

lãnh

Trên phương diện lý thuyết, nghĩa vụ của người được bảo lãnh đối với bên

có quyền (hay còn gọi là nghĩa vụ được bảo lãnh) đóng vai trò là nghĩa vụ chính

còn nghĩa vụ của người bảo lãnh (hay nghĩa vụ bảo lãnh) chỉ là nghĩa vụ phụ.

Tính chất chính, phụ của hai loại nghĩa vụ này không chỉ thể hiện sự lệ thuộc về

phương diện hiệu lực pháp lý của nghĩa vụ bảo lãnh vào nghĩa vụ được bảo lãnh,

mà còn phản ánh thứ tự thực hiện hai loại nghĩa vụ này đối với bên có quyền. Nói

khác đi, để không đồng hoá tình trạng pháp lý của người bảo lãnh với tình trạng

pháp lý của người được bảo lãnh (vốn dĩ hai người này có vị trí khác nhau đối với

trái chủ) thì pháp luật cần phải xây dựng nguyên tắc là nghĩa vụ được bảo lãnh

(nghĩa vụ chính) cần phải được trái chủ yêu cầu thực hiện trước còn nghĩa vụ bảo

lãnh (nghĩa vụ phụ) sẽ được trái chủ yêu cầu thực hiện sau56. Tuy nhiên, để phát

huy vai trò tích cực của sự bảo lãnh trong việc bảo đảm quyền lợi cho trái chủ là

các ngân hàng, pháp luật cũng cho phép các bên của hợp đồng bảo lãnh được

quyền cam kết về tính liên đới của nghĩa vụ bảo lãnh đối với nghĩa vụ được bảo

lãnh. Nghĩa là, tình trạng liên đới giữa nghĩa vụ bảo lãnh với nghĩa vụ được bảo

lãnh chỉ tồn tại khi chính các bên đã ghi rõ trong văn bản hợp đồng bảo lãnh về

tình trạng này. Với điều khoản cam kết về tính liên đới, bên cho vay có quyền yêu

cầu đối với bất kỳ ai trong số người vay và người bảo lãnh phải trả toàn bộ món

nợ vào ngày hợp đồng tín dụng đáo hạn. Nếu trong hợp đồng bảo lãnh không có

điều khoản nào nói rõ về sự liên đới nghĩa vụ thì về nguyên tắc, trái chủ trong hợp

đồng tín dụng (bên cho vay) chỉ có thể yêu cầu bên vay phải thực hiện nghĩa vụ

của họ trước, nếu bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ

của họ thì bên cho vay mới thực hiện quyền yêu cầu đối với người bảo lãnh.

56 Xem thêm: LS. Đỗ Hồng Thái - “Tính lệ thuộc của nghĩa vụ bảo lãnh, một vấn đề ngân hàng cho vay

cần quan tâm” - http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/

Page 106: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

103

Từ phân tích trên cho thấy, việc xác định tình trạng liên đới giữa hai loại

nghĩa vụ này theo hướng trên đây sẽ đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản: (i) Không

đồng hoá tình trạng pháp lý của người bảo lãnh với tình trạng pháp lý của người

được bảo lãnh mà vốn dĩ hai loại chủ thể này có thân phận pháp lý hoàn toàn khác

nhau trong mối quan hệ với trái chủ là bên cho vay trong hợp đồng tín dụng. Thật

vậy, nếu người được bảo lãnh – bên đi vay có vị trí là con nợ của bên cho vay, thì

người bảo lãnh không phải là người thiếu nợ của bên cho vay (ngân hàng), mà chỉ

đơn thuần là người cam kết sẽ dùng tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ cho

người vay trong hợp đồng tín dụng. Việc không đồng hoá thân phận pháp lý của

người vay với người bảo lãnh trong pháp luật thực định không những có tác dụng

củng cố nhận thức lý luận khoa học về bản chất pháp lý của sự bảo lãnh cũng như

nguyên tắc tự định đoạt trong chế định bảo lãnh mà còn góp phần định hướng, soi

sáng cho thực tiễn hoạt động tín dụng của các ngân hàng trong nền kinh tế - xã

hội; (ii) Phát huy được vai trò tích cực của biện pháp bảo lãnh trong việc đảm bảo

quyền lợi cho trái chủ là bên cho vay trong hợp đồng tín dụng mà vẫn đảm bảo

tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của người bảo lãnh trong việc

giao kết hợp đồng bảo lãnh .

Thứ ba, tính độc lập tương đối của hợp đồng bảo lãnh và mối liên hệ

tương hỗ với hợp đồng tín dụng

Về nguyên tắc, hợp đồng bảo lãnh mặc dù là hợp đồng phụ và bổ sung cho

nội dung của hợp đồng tín dụng (với ý nghĩa như là hợp đồng chính) nhưng bản

thân hợp đồng bảo lãnh cũng có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với hợp

đồng tín dụng đồng thời có tác động tương hỗ với hợp đồng tín dụng. Tính độc

lập tương đối của hợp đồng bảo lãnh, xét trong mối quan hệ với hợp đồng tín

dụng được thể hiện trên những khía cạnh sau đây: (i) Về phương diện chủ thể,

hợp đồng bảo lãnh được xác lập giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh (người

này có tư cách là bên cho vay trong hợp đồng tín dụng). Còn hợp đồng tín dụng

Page 107: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

104

lại được xác lập giữa bên cho vay với bên đi vay (người này có tư cách là bên

nhận bảo lãnh trong hợp đồng bảo lãnh). Do sự khác nhau về cơ cấu thành phần

chủ thể giữa hợp đồng bảo lãnh với hợp đồng tín dụng (nghĩa là các chủ thể của

hợp đồng bảo lãnh không đồng thời là chủ thể của hợp đồng tín dụng) nên về lý

thuyết có thể suy luận rằng, các chủ thể của hợp đồng bảo lãnh hoàn toàn có khả

năng tự mình quyết định việc xác lập hợp đồng bảo lãnh hay không mà không hề

phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng. Điều này thể

hiện tính độc lập tương đối của hợp đồng bảo lãnh trong mối quan hệ với hợp

đồng tín dụng; (ii) Về phương diện nội dung, các điều khoản của hợp đồng bảo

lãnh vay vốn ngân hàng hoàn toàn do bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thoả

thuận với nhau trên nguyên tắc bình đẳng và tự do ý chí. Các điều khoản này chỉ

có thể được sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ bởi ý chí của chính các bên giao kết hợp

đồng bảo lãnh chứ không thể là chủ thể nào khác. Ngoài ra, việc pháp luật Việt

Nam quy định hợp đồng bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng tín dụng phải được các

bên xác lập bằng hình thức một văn bản riêng rẽ, tách biệt hẳn với văn bản hợp

đồng tín dụng cũng phần nào phản ánh tính độc lập tương đối của hợp đồng bảo

lãnh trong mối quan hệ với hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý

rằng, mặc dù các điều khoản của hợp đồng bảo lãnh là do các bên giao kết hợp

đồng bảo lãnh tạo lập ra để chính họ thực hiện nhưng về phương diện hiệu lực

pháp lý thì các điều khoản của hợp đồng này lại phụ thuộc vào hiệu lực pháp lý

của các điều khoản được ghi trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm này thể hiện mối

liên hệ pháp lý giữa hợp đồng bảo lãnh với hợp đồng tín dụng.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, mối liên hệ pháp lý giữa

hợp đồng bảo lãnh với hợp đồng tín dụng được thể hiện ở hai khía cạnh: (i) Nếu

hợp đồng tín dụng bị vô hiệu thì đương nhiên làm cho hợp đồng bảo lãnh bị vô

hiệu theo. Bởi lẽ, hợp đồng tín dụng đóng vai trò là hợp đồng chính còn hợp đồng

bảo lãnh chỉ có ý nghĩa như là hợp đồng phụ và do đó hiệu lực của hợp đồng bảo

Page 108: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

105

lãnh đương nhiên phải phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Quy tắc này

trong pháp luật thực định của Việt Nam không có ngoại lệ, nghĩa là nếu người bảo

lãnh đưa ra được bằng chứng về sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng thì do đó họ có

lý do để thuyết phục Tòa án chấp nhận cho họ được giải thoát khỏi tình trạng là

người bảo lãnh; (ii) Nếu hợp đồng bảo lãnh vô hiệu thì chỉ có thể khiến cho hợp

đồng tín dụng bị vô hiệu theo khi các bên trong hợp đồng tín dụng có thoả thuận

hoặc pháp luật có quy định rằng sự bảo lãnh là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

tín dụng. Tuy nhiên, theo ý kiến của chúng tôi, quy tắc này vẫn có ngoại lệ thể

hiện ở chỗ trong trường hợp các bên tham gia hợp đồng tín dụng có thoả thuận coi

sự bảo lãnh là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng nhưng nếu có bằng

chứng chứng minh rằng, bên cho vay đã biết trước sự vô hiệu của hợp đồng bảo

lãnh mà vẫn ký kết hợp đồng tín dụng với bên vay, thì hợp đồng tín dụng không

vì thế mà bị coi là vô hiệu.

Ví dụ: Ngày 25/3/2010, Ngân hàng A ký hợp đồng tín dụng cho doanh

nghiệp B vay tiền, với điều kiện doanh nghiệp B phải có sự bảo lãnh bằng tài sản

của người thứ ba. Để vay được tiền của Ngân hàng A, doanh nghiệp B yêu cầu chi

nhánh Ngân hàng C tại địa phương nơi doanh nghiệp B đóng trụ sở đứng ra bảo

lãnh và được chi nhánh ngân hàng này chấp nhận bằng giấy bảo lãnh có chữ kí

của người đại diện chi nhánh Ngân hàng C là ông trưởng phòng tín dụng (ngoài

giấy bảo lãnh này, không hề có bất cứ giấy tờ nào thể hiện sự uỷ quyền hợp lệ

được gửi kèm theo). Ngân hàng A đã ký hợp đồng tín dụng cho doanh nghiệp B

vay tiền với tình trạng giấy bảo lãnh như trên. Với tình huống này, cần phải cho

rằng, hợp đồng bảo lãnh vô hiệu vì người ký hợp đồng bảo lãnh không có thẩm

quyền đại diện cho Ngân hàng C, tuy nhiên, hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng A

và doanh nghiệp B không vì thế mà vô hiệu, bởi lẽ, trong trường hợp này Ngân

hàng A đã có khả năng biết trước sự vô hiệu của hợp đồng bảo lãnh mà vẫn đồng

ý cho vay đối với doang nghiệp B thì điều kiện để cho vay (phải có sự bảo lãnh

Page 109: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

106

của người thứ ba) do ngân hàng này đưa ra sẽ mặc nhiên bị coi là huỷ bỏ bởi

chính họ. Do đó, hợp đồng tín dụng trong trường hợp này vẫn có hiệu lực và trở

thành hợp đồng tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản57.

Thứ tư, lẫn lộn giữa hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba với hợp

đồng bảo lãnh trong việc bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

Thực tế trong quá trình áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng

tín dụng, áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ

trả nợ vay của khách hàng tại ngân hàng là việc làm phổ biến trong hoạt động cấp

tín dụng tại các ngân hàng thương mại. Do không hiểu hết bản chất của biện pháp

bảo lãnh, đồng thời, vẫn tư duy và nhận thức theo cách tiếp cận về bảo lãnh đối

vật của Bộ luật Dân sự năm 1995, nhiều hợp đồng tín dụng đã được thiết lập với

biện pháp bảo đảm là thế chấp tài sản của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay.

Nhận tài sản bảo đảm của bên thứ ba là việc ngân hàng nhận tài sản bảo

đảm thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản bảo đảm

hay còn gọi là bên thứ ba) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay của

bên vay vốn (bên có nghĩa vụ được bảo đảm) với ngân hàng. Hợp đồng thế chấp

quyền sử dụng đất của bên thứ ba là một hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của bên

thứ ba để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay của bên vay vốn đối với ngân

hàng thương mại. Tuy nhiên, hiệu lực pháp lý của loại hợp đồng này trong thực

tiễn còn có nhiều ý kiến khác nhau và có thể để lại hệ quả xấu cho ngân hàng

thương mại. Có ý kiến cho rằng, đây là hợp đồng bảo lãnh, ý kiến khác lại cho

rằng, đây là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba là một hợp đồng

57 TS. Nguyễn Văn Tuyến, Đại học Luật Hà Nội – “Những khía cạnh pháp lý cơ bản của giao dịch bảo

lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng”, đăng trên Tạp chí Luật học tháng 6/2008,

http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/03/14/2352/

Page 110: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

107

bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay

của bên vay vốn đối với ngân hàng thương mại.

Theo phản ánh của một số ngân hàng thương mại, thì một số hợp đồng thế

chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba đã bị

Tòa án tuyên vô hiệu. Mà cụ thể là trong năm 2011, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Ngãi tuyên vô hiệu hai hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng đất của bên thứ ba.

Theo Bản án kinh tế sơ thẩm số 26/2011/KT-ST ngày 05/8/2011 và Bản án kinh

doanh thương mại sơ thẩm số 48/2011/KDTM-ST ngày 22/9/2011 của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, thì một trong những lý do hợp đồng thế chấp quyền sử

dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba bị tuyên vô hiệu là có

sự nhầm lẫn về hình thức hợp đồng. Theo đó, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng

đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba thực chất là quan hệ bảo

lãnh. Do đó, các bên phải ký kết hợp đồng bảo lãnh chứ không phải hợp đồng thế

chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba. Việc các bên ký kết hợp

đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba

là không đúng với tính chất của giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm bằng hình

thức bảo lãnh, không đúng với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về điều

kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 122), hình thức giao dịch dân sự

(Điều 124), hình thức bảo lãnh (Điều 362).

Rất nhiều ý kiến đã được đưa ra để bình luận về sự kiện này. Ông Hồ

Quang Huy (Bộ Tư pháp) cho rằng, theo quy định tại Điều 342 Bộ luật Dân sự

năm 2005, thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng

tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên

kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên

nhận thế chấp”. Do vậy, chủ sở hữu tài sản có thể dùng tài sản để bảo đảm việc

thực hiện nghĩa vụ của chính mình (bên thế chấp đồng thời là bên có nghĩa vụ)

hoặc để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên có

Page 111: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

108

nghĩa vụ là 02 chủ thể khác nhau)58. Trong khi đó, Điều 361 Bộ luật Dân sự năm

2005 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam

kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ

thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn

mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 72 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày

29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, thì “việc bảo lãnh bằng quyền

sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng...

được chuyển thành việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền

sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng của người thứ ba” và quy định tại khoản 1

Điều 31 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định

bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện

quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, thì “bảo lãnh bằng quyền sử dụng

đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai được hiểu là thế

chấp bằng quyền sử dụng đất cho người thứ ba vay vốn theo quy định của Bộ luật

Dân sự (sau đây gọi chung là thế chấp bằng quyền sử dụng đất)”.

Mặt khác, trong các quy định về chuyển quyền sử dụng đất tại Phần thứ

năm của Bộ luật Dân sự năm 2005 không có khái niệm “bảo lãnh bằng quyền sử

dụng đất”. Do vậy, trong trường hợp tổ chức, cá nhân dùng quyền sử dụng đất của

mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ vay vốn của người khác (bên bảo đảm

và bên có nghĩa vụ là 02 chủ thể khác nhau) thì hợp đồng đó cần được xác định là

hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và nghĩa vụ vay vốn của bên vay được bảo

đảm thực hiện bằng tài sản cụ thể là quyền sử dụng đất của bên thế chấp. Áp dụng

58 ThS. Hồ Quang Huy, Bộ Tư pháp, Hoàn thiện các quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự Việt

Nam –, http://www.moj.gov.vn/tcdcpl/tintuc/Lists/NghienCuuTraDoi/View_detail.aspx?ItemID=404

Page 112: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

109

quy định tại khoản 1 Điều 410 Bộ luật Dân sự thì việc Tòa án tuyên hợp đồng thế

chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba vô hiệu

với một trong các lý do là không phù hợp với quy định về hình thức hợp đồng là

chưa phù hợp với Bộ luật Dân sự về các trường hợp dẫn đến hợp đồng dân sự vô

hiệu, cũng như quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật tại Điều 84 Luật Ban

hành văn bản quy phạm pháp luật59. Mặt khác, xét trên giác độ kinh tế, thì việc

tuyên hợp đồng vô hiệu trong trường hợp nêu trên chưa đáp ứng được thực tiễn

ký kết, thực hiện hợp đồng trong giao lưu dân sự, kinh doanh, thương mại. Còn

ông Nguyễn Xuân Bang, Trưởng Phòng Công chứng số 6 thành phố Hà Nội60

dưới góc độ người làm nghề công chứng, cũng đã từng công chứng nhiều hợp

đồng tương tự đã bàn luận về cách phân biệt hợp đồng thế chấp và hợp đồng bảo

lãnh như sau: Điều 346 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định: "Thế chấp tài sản là

việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để đảm

bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền", nhưng đến Bộ luật Dân sự năm

2005 thì quy định về thế chấp đã có sự thay đổi, Điều 342 Bộ luật Dân sự năm

2005 quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp)

dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với

bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)”.

So sánh các khái niệm trên, chúng ta có thể thấy ý đồ của nhà làm luật rất

rõ ràng khi xây dựng khái niệm thế chấp trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã bỏ đi

cụm từ chỉ bên thế chấp là “bên có nghĩa vụ” được quy định trong Bộ luật Dân sự

năm 1995. Rõ ràng, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, thì bên thế chấp

không nhất thiết là “bên có nghĩa vụ”. Nghiên cứu các quy định về vấn đề này

59 Điều 83 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy

phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp

dụng quy định của văn bản được ban hành sau”. 60 Nguyễn Xuân Bang, Trưởng Phòng Công chứng số 6 TP Hà Nội, “Hiểu thế nào về thế chấp và Bảo

lãnh theo quy định của Bộ luật Dân sự?”, http://phapluatxahoi.vn/phap-luat/hieu-the-nao-ve-the-chap-

va-bao-lanh-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-49852

Page 113: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

110

của Bộ luật Dân sự năm 2005, chúng ta cũng không thấy nội dung nào quy định

thế chấp là việc một bên mang tài sản của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ

của chính mình đối với phía bên kia. Do vậy, hiểu một cách chính xác, quan hệ

thế chấp được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 sẽ xảy ra hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: Thế chấp là việc dùng tài sản của mình đảm bảo cho việc

thực hiện nghĩa vụ của chính mình đối với bên có quyền; Trường hợp thứ hai:

Thế chấp là việc dùng tài sản của mình đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ dân

sự của người khác đối với bên có quyền. Ở trường hợp thứ hai sẽ xuất hiện bên

thứ ba tham gia vào quan hệ thế chấp và xét về mặt bản chất, đó chính là trường

hợp “thế chấp tài sản của bên thứ ba” mà Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã

tuyên hai hợp đồng thế chấp là vô hiệu.

Khác với quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005

không có quy định nào về việc người bảo lãnh chỉ định tài sản cụ thể để đảm bảo

cho việc thực hiện nghĩa vụ, mà chỉ có quy định bảo lãnh bằng việc thực hiện thay

nghĩa vụ. Biện pháp bảo lãnh được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 là biện

pháp bảo đảm đối nhân. Hay nói cách khác, theo quy định của Bộ luật Dân sự

năm 2005, bảo lãnh chỉ áp dụng trong trường hợp bên bảo lãnh không chỉ định

một tài sản cụ thể nào của mình để đảm bảo cho cam kết thực hiện nghĩa vụ. Nếu

bên bảo lãnh chỉ định một tài sản cụ thể nào đó làm tài sản đảm bảo, lúc này giao

dịch sẽ trở thành cầm cố hay thế chấp. Từ phân tích này có thể thấy rằng, theo

quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp

không phải được phân biệt bằng việc xem xét quan hệ đó có hai hay ba bên tham

gia, mà điểm cơ bản để phân biệt quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp là: (i)

Quan hệ bảo lãnh là quan hệ đảm bảo thực hiện nghĩa vụ không có chỉ định tài

sản cụ thể đảm bảo (trừ các bên có thoả thuận khác), mà biện pháp đảm bảo chính

là thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được đảm bảo; (ii) Quan hệ thế chấp là quan

hệ đảm bảo thực hiện nghĩa vụ có chỉ định tài sản cụ thể để đảm bảo thực hiện

Page 114: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

111

nghĩa vụ. Từ đó khẳng định rằng, việc Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi yêu cầu

các bên thay thế hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba bằng hợp đồng bảo lãnh

là không phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự, không đúng với ý chí các bên

tham gia giao dịch. Thực tế cho thấy, nếu các cơ quan xét xử mà áp dụng pháp

luật theo cách hiểu của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, thì hàng vạn hợp đồng

thế chấp tài sản của bên thứ ba trong phạm vi toàn quốc đứng trước nguy cơ bị

Tòa án nhân dân các cấp tuyên vô hiệu. Vì sao có sự lẫn lộn và gây ra các tranh

luận ở trên? Tất cả là do các quy định hướng dẫn thi hành pháp luật thiếu thống

nhất và đồng bộ. Có thể chứng minh sự lẫn lộn này qua các quy định pháp luật

sau đây:

Ðể triển khai thực hiện các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật

Ðất đai năm 2003, Chính phủ, các bộ, ngành liên quan đã ban hành các nghị định,

thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn, trong đó, có các quy định cụ thể về việc

thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba. Khoản 1 Ðiều 31 Nghị định số

84/2007/NÐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất

đai đã quy định: “Bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

theo quy định của Luật Ðất đai được hiểu là thế chấp bằng quyền sử dụng đất cho

người thứ ba vay vốn theo quy định của Bộ luật Dân sự (sau đây gọi chung là thế

chấp bằng quyền sử dụng đất). Khoản 4 Ðiều 72 Nghị định số 163/2006/NÐ-CP

ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định: “Việc bảo lãnh

bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng

trồng theo quy định tại Nghị định số 181/2004/NÐ-CP ngày 29/10/2004 của

Chính phủ về thi hành Luật Ðất đai, quy định tại khoản 5 Ðiều 32, khoản 4 Ðiều

33, khoản 4 Ðiều 34, khoản 4 Ðiều 35 và khoản 1 Ðiều 36 Nghị định số

23/2006/NÐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát

Page 115: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

112

triển rừng và các văn bản hướng dẫn thi hành được chuyển thành việc thế chấp

quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng

của người thứ ba”. Nghị định số 11/2012/NÐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định số 163/2006/NÐ-CP đã tiếp tục khẳng định: “Việc bảo

lãnh bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là

rừng trồng theo quy định tại Nghị định số 181/2004/NÐ-CP ngày 29/10/2004 của

Chính phủ về thi hành Luật Ðất đai, quy định tại khoản 5 Ðiều 32, khoản 4 Ðiều

33, khoản 4 Ðiều 34, khoản 4 Ðiều 35 và khoản 1 Ðiều 36 Nghị định số

23/2006/NÐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát

triển rừng và các văn bản hướng dẫn thi hành được chuyển thành việc thế chấp

quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng

để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác”. Ðiểm 2.1 khoản 2 Mục 2

Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 sửa đổi, bổ

sung một số quy định của Thông tư số 05/2005/TTLT/BTP-BTNMT ngày

16/6/2005 hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài

sản gắn liền với đất (đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 06/2010/TTLT-

BTP-BTNMT) quy định: “Các trường hợp đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng

ký quyền sử dụng đất bao gồm: … Thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp quyền

sử dụng đất của người thứ ba mà trong Luật Ðất đai gọi là bảo lãnh bằng quyền sử

dụng đất (gọi chung là thế chấp quyền sử dụng đất)”. Ðiểm 1.1 khoản 1 Mục I

Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 hướng dẫn

việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử

dụng đất quy định: “Thông tư này hướng dẫn việc công chứng của Phòng Công

chứng và chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với các hợp

đồng, văn bản sau đây: a) Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng, cho, thuê,

thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng thế

chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba mà Luật Ðất đai gọi là bảo lãnh bằng

Page 116: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

113

quyền sử dụng đất (gọi là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất)”61… Như vậy,

các Nghị định của Chính phủ, các Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp, Bộ Tài

nguyên và Môi trường được dẫn chiếu nêu trên đã quy định rõ hợp đồng bảo lãnh

bằng quyền sử dụng đất của bên thứ ba theo cách gọi của Luật Ðất đai 2003 đã

được chuyển thành hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba. Ðồng

thời, các quy định pháp luật hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm đã bỏ các

quy định về đăng ký bảo lãnh bằng quyền sử dụng. Theo các quy định này, khi

người sử dụng đất sử dụng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ

trả nợ vay của người khác (khách hàng vay) tại ngân hàng thì các bên phải thực

hiện ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba.

3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN

DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH

3.3.1. Về thực trạng pháp luật bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh

3.3.1.1. Những ưu điểm

Về cơ bản, Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn giữ nguyên những quy định chính

về chế định bảo lãnh như trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, để điều

chỉnh được những quan hệ phát sinh và khắc phục những vướng mắc trên thực tế,

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung một số điểm mới như: (i) Về phạm vi bảo

lãnh, bổ sung thêm “lãi trên số tiền chậm trả” vào khoản 2 Điều 336, cụ thể:

“Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường

thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác”; quy định

thêm khoản 3: “Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài

sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”; (ii) Xuất phát từ nguyên tắc tự do,

61 Cần nhìn nhận đúng bản chất của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm nghĩa vụ của

người thứ ba, http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=4522

Page 117: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

114

tự nguyện cam kết, thỏa thuận, nên trong quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh

và bên nhận bảo lãnh theo Điều 339 Bộ luật Dân sự năm 2015 được bổ sung thêm

khoản 1 là: “Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo

lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên

bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp

bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ”.

Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng như Bộ luật Dân sự năm 2015 vừa được sửa

đổi bước đầu đã tiếp cận biện pháp bảo lãnh dựa trên nguyên lý của biện pháp bảo

đảm đối nhân. Theo đó, bên bảo lãnh không dùng tài sản cụ thể thuộc sở hữu của

mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, mà chỉ là cam

kết về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh tại thời điểm các bên

ký kết hợp đồng bảo lãnh. Pháp luật hiện hành không hạn chế chủ thể tham gia

quan hệ bảo lãnh, cũng không yêu cầu về tư cách chủ thể hoặc tài sản của bên bảo

lãnh. Ðây là yếu tố khá thuận lợi giúp các bên tự do lựa chọn hình thức này. Có

thể nói, trong các hợp đồng tín dụng hiện nay, bảo lãnh là một trong những biện

pháp được áp dụng khá phổ biến với những điều kiện, thủ tục thuận tiện và hành

lang pháp lý đối với biện pháp này được quy định tương đối đầy đủ. Quy định về

sự tham gia của bên thứ ba sẽ giúp cho nhiều tổ chức, cá nhân có khả năng được

vay vốn, tháo gỡ khó khăn, còn bên bảo lãnh cũng không bị ràng buộc quá nhiều

trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật khi giao kết giao dịch bảo đảm.

3.3.1.2. Những điểm còn hạn chế

Mặc dù đã được sửa đổi và có những ưu điểm đáng kể, song các quy định

của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 về chế định bảo lãnh vẫn còn nhiều điểm

hạn chế hoặc chưa được quy định rõ ràng, nên có thể sẽ gây ra rất nhiều hệ lụy

cho quá trình áp dụng. Cụ thể là:

Page 118: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

115

- Chế định bảo lãnh của Việt Nam đặc biệt có lợi cho bên nhận bảo lãnh,

nếu khi nghĩa vụ được bảo lãnh đến hạn mà bên được bảo lãnh (bên đi vay) không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ này, thì bên bảo lãnh sẽ thực hiện

nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh và các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo

lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có

khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều đó có nghĩa là, khi các bên không có

thỏa thuận, thì khi nghĩa vụ được bảo lãnh đến hạn nếu bên có nghĩa vụ không

thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ này, bên nhận bảo lãnh có quyền

yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà không cần phải chứng minh

với bên bảo lãnh việc bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.

Pháp luật chưa có quy định về việc bên nhận bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo

lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình trước và việc cưỡng chế thực hiện

nghĩa vụ trước hết được tiến hành đối với tài sản của người được bảo lãnh, sau đó

nếu người được bảo lãnh không có tài sản thì mới có quyền yêu cầu người bảo

lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này chưa thực sự hợp lý, vì suy cho

cùng, thì bên bảo lãnh chỉ là người có nghĩa vụ thứ hai và chỉ phải thực hiện nghĩa

vụ khi người có nghĩa vụ chính không thực hiện.

- Pháp luật không quy định việc bên bảo lãnh có quyền được viện dẫn tất cả

những vi phạm về hình thức và nội dung mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để

không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trong khi đó là một

trong các quy định mấu chốt, thể hiện tính phụ thuộc của biện pháp bảo lãnh đối

với nghĩa vụ được bảo lãnh. Các quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành mới chỉ

đề cập đến tình huống pháp lý là người bảo lãnh được viện dẫn việc bù trừ nghĩa

vụ, trong khi trên thực tế vẫn còn các trường hợp khác như có sự nhầm lẫn hoặc

nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo lãnh không có hiệu lực.

- Các quy định của pháp luật hiện hành quy định về nội hàm biện pháp bảo

lãnh chưa thực sự rõ ràng, sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa

Page 119: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

116

các cơ quan áp dụng và thực thi pháp luật. Nhiều tổ chức tín dụng, các cơ quan

đăng ký giao dịch bảo đảm, các tổ chức công chứng đều hiểu bảo lãnh là hình

thức bảo đảm bằng uy tín của bên thứ ba (bảo lãnh đối nhân, không dùng tài sản

bảo đảm). Tuy nhiên, trong thực tiễn quá trình xét xử nhiều vụ tranh chấp về hợp

đồng tín dụng có biện pháp bảo đảm, nhiều Tòa án lại cho rằng, bảo lãnh là biện

pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba hoặc dẫn đến sự nhầm lẫn tai hại vì cho

rằng việc cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba thì phải gọi là hợp đồng bảo

lãnh (hiểu theo cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự năm 1995 và các văn bản hướng

dẫn về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng). Trong khi đó, kể cả trường

hợp bên bảo lãnh có đưa tài sản của mình vào cầm cố, thế chấp cho nghĩa vụ bảo

lãnh thì đó là hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba, chứ không phải là

hợp đồng bảo lãnh.

Trên thực tế, một số Tòa án đã tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp tài sản của

bên thứ ba bảo đảm cho khách hàng vay vốn tại các tổ chức tín dụng vì cho rằng,

hình thức của hợp đồng này phải gọi là hợp đồng bảo lãnh. Việc tuyên án như trên

của Tòa án không những gây thiệt hại về tài chính cho các tổ chức tín dụng, mà

còn tạo tiền lệ xấu khiến bên bảo lãnh bội ước, cố tình khởi kiện nhằm rũ bỏ trách

nhiệm62.

- Về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh theo Điều 342 Bộ luật Dân sự

năm 2015 được coi là quy định mới được đề cập: “Trường hợp bên được bảo lãnh

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực

hiện nghĩa vụ đó. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo

lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa

vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại”. Tuy nhiên, dường như nó không khả thi bằng

62 ThS. Hồ Quang Huy - Hoàn thiện các quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Bộ Tư

pháp, http://www.moj.gov.vn/tcdcpl/tintuc/Lists/NghienCuuTraDoi/View_detail.aspx?ItemID=404

Page 120: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

117

quy định về xử lý tài sản của bên bảo lãnh theo Điều 369 Bộ luật Dân sự năm

2005: “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo

lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì

bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận

bảo lãnh”. Việc quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh tưởng chừng là

chặt chẽ, song thực chất, nếu chỉ bảo lãnh bằng uy tín, thì khi bên bảo lãnh bội tín

và buộc phải sử dụng biện pháp kiện tụng để yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện trách

nhiệm dân sự, lúc đó, bên nhận bảo lãnh sẽ rơi vào tình trạng không có một bảo

đảm tin cậy nào bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh… Bên cạnh đó, việc quy định

“các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh” nếu không được hướng dẫn cụ thể sẽ rơi vào tình

trạng lúng túng trong áp dụng pháp luật như thời gian vừa qua. Bởi lẽ, khi bên

bảo lãnh dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm nghĩa vụ bảo

lãnh, có nghĩa rằng, bên bảo lãnh đã đưa tài sản của mình để thế chấp hoặc cầm

cố nhằm bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh của mình đối với bên nhận bảo lãnh, chứ

không phải bảo lãnh cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh bằng tài sản của người

thứ ba. Và khi đó, tài sản của bên bảo lãnh đem thế chấp hoặc cầm cố để bảo đảm

nghĩa vụ bảo lãnh có thuộc đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm hay không?

Chúng tôi cho rằng, các vấn đề trên đây phải được nghiên cứu và hướng dẫn kỹ

lưỡng trong các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản có liên quan.

Mặc dù vừa được sửa đổi, bổ sung, song Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn

thiếu vắng các quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, trong khi khả năng bên

bảo lãnh thực hiện đầy đủ, đúng cam kết bảo lãnh là nội dung đặc biệt quan trọng

khi áp dụng biện pháp bảo lãnh. Như vậy, so với các quy định pháp luật về bảo

lãnh trong lý thuyết pháp luật về trái quyền, các quy định pháp luật của Việt Nam

về biện pháp bảo lãnh còn rất nhiều bất cập và thiếu chặt chẽ, đặc biệt là trong áp

Page 121: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

118

dụng biện pháp này nhằm bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng trong quan hệ

vay vốn tín dụng ở các ngân hàng, tổ chức tín dụng.

3.3.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp

đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh

Thứ nhất, vướng mắc trong áp dụng quan hệ bảo lãnh

Do pháp luật chưa phân định rõ ranh giới trách nhiệm của bên bảo lãnh và

bên được bảo lãnh, một số quy định hướng dẫn thiên về định tính nhiều hơn định

lượng…, vì vậy, trong một số vụ tranh chấp liên quan đến quan hệ bảo lãnh,

người được bảo lãnh không thực hiện hết trách nhiệm của mình và đẩy hết rủi ro

cho bên bảo lãnh. Quy định tại khoản 2 và khoản 3 Ðiều 41 Nghị định số

163/2006/NĐ-CP, căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ngay cả khi nghĩa vụ chưa

đến hạn (điều này sẽ khiến cho bên bảo lãnh rơi vào thế bị động) hoặc bên được

bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Vậy căn cứ để xác định thời điểm

trước khi đến hạn hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ sẽ có ý nghĩa định

tính. Vì việc xác định “thời điểm trước khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ” và

“không có khả năng thực hiện nghĩa vụ” theo khoản 2 và khoản 3 của Ðiều 41

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP được thể hiện dựa trên những tiêu chí nào là điều

không đơn giản. Nếu bên bảo lãnh không nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật,

vì “nể” mà đứng ra bảo lãnh sẽ rất có thể sẽ phải chịu rủi ro. Việc quy trách nhiệm

cho bên bảo lãnh vô hình chung sẽ làm giảm trách nhiệm của bên được bảo lãnh.

Ví dụ, Công ty A bảo lãnh cho Công ty B vay vốn (có tài sản thế chấp bảo đảm

cho nghĩa vụ bảo lãnh). Ðến hạn, Công ty A không trả được nợ, Công ty B bị

ngân hàng khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, tại thời điểm

không trả được nợ, Công ty A vẫn hoàn toàn có đầy đủ năng lực tài chính để

thanh toán khoản vay, nhưng đã cố tình không trả để đẩy trách nhiệm cho người

bảo lãnh. Do vậy, với các quy định pháp luật hiện hành, có nhiều yếu tố “tiềm ẩn

rủi ro” cho bên bảo lãnh, nên trước khi đứng ra nhận bảo lãnh, bên liên quan nên

Page 122: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

119

nghiên cứu đầy đủ và quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mình để đưa vào

hợp đồng bảo lãnh63.

Trên thực tế, bảo lãnh nợ vay hay trong dân gian thường gọi là lãnh nợ là

việc người thứ ba cam kết với bên cho vay sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho

bên vay nếu khi đến thời hạn mà bên vay không trả nợ hoặc trả nợ không đủ. Hiện

nay việc bảo lãnh nợ vay tín dụng ngân hàng bằng cách người bảo lãnh phải dùng

tài sản của mình thế chấp cho Ngân hàng, thì Ngân hàng mới cho người được bảo

lãnh vay. Nếu bên vay không trả nợ hay trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng sẽ

phát mãi tài sản để thu hồi nợ. Người đứng ra bảo lãnh cho người khác được vay

vốn thường là người tốt, với mục đích là giúp đỡ. Nhưng việc bảo lãnh cũng chứa

đựng rất nhiều nguy cơ rủi ro, như người vay bội tín hoặc không có khả năng trả

nợ, bỏ trốn hay bị chết... thì người bảo lãnh sẽ... lãnh đủ. Không phải vì việc bảo

lãnh cho người khác vay vốn có nhiều rủi ro và dễ nhận phần thiệt hại, phiền toái

về mình mà chúng tôi khuyên mọi người không nên bảo lãnh cho ai. Ở đây chúng

tôi muốn nói đến có một thực tế hiện nay việc bảo lãnh trong một số trường hợp

đã bị biến tướng. Người bảo lãnh không phải chỉ giúp đỡ vô tư, mà vì ham lợi đã

trở thành người cho vay tín dụng đen trong khi không có vốn. Còn bên vay lợi

dụng lòng tin lẫn lòng tham của người bảo lãnh để chiếm đoạt tài sản.

Gần đây, tại tỉnh Bến Tre đã xảy ra vụ vỡ nợ tín dụng có bảo lãnh, trong đó

hàng chục người đã đem quyền sử dụng đất thế chấp cho ngân hàng để bảo lãnh

cho một người vay vốn, sau đó người này không trả nợ nên ngân hàng đã chuyển

hồ sơ ủy quyền cho Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản đấu giá toàn bộ quyền

sử dụng đất mà những người bảo lãnh đã đem thế chấp. Không biết người trong

cuộc trong tình cảnh mất hết đất đai, gia sản vì tin người họ nghĩ sao, chứ chỉ đọc

những hồ sơ đấu giá quyền sử dụng đất của họ, chúng tôi đã rất đau lòng, vì

63 ThS. Nguyễn Thùy Trang - “Một số nội dung pháp lý liên quan tới bảo lãnh đối với hợp đồng tín

dụng”, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 5 (326) tháng 3/2011.

Page 123: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

120

những người nông dân này bỗng dưng trở thành con nợ, với những khoản tiền

phải trả nhiều trăm triệu đồng, khi mất đất, trắng tay cuộc sống của gia đình họ rồi

đây sẽ ra sao? Với chiêu thức là người vay dụ dỗ người có nhà, đất, đưa nhà đất

thế chấp để bảo lãnh cho họ vay vốn tín dụng, ngân hàng. Sau đó hàng tháng họ

sẽ trả lãi cao cho người bảo lãnh trên số vốn họ vay được. Việc trả tiền cho người

bảo lãnh thường được thực hiện một thời gian ngắn để tạo lòng tin, sau đó bên

vay chiếm đoạt khoản tiền vay được của ngân hàng, không chịu trả nợ, lúc đó

ngân hàng sẽ đòi nợ người bảo lãnh, dĩ nhiên người bảo lãnh không thể có tiền trả

nợ nên tài sản đã thế chấp bảo lãnh cho người khác vay phải bị phát mãi. Nên

thực tế họ nhận được khoản tiền của bên vay rất ít ỏi so với giá trị nhà, đất họ bị

mất do bị phát mãi để trả nợ thay. Dù sau đó họ vẫn có quyền kiện đòi lại khoản

tiền này nhưng không phải dễ dàng khi mà họ đã mắc mưu và giúp sức cho kẻ lừa

đảo. Qua thực tế đã xảy ra, chúng tôi muốn cảnh báo đến người dân, hiện nay

những kẻ lừa đảo, tham lam có rất nhiều mưu ma, chước quỉ, lợi dụng cả pháp

luật để chiếm đoạt tài sản của người khác, trong đó có việc thu gom giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất với chiêu bài bảo lãnh vay vốn hay góp vốn. Vì vậy mọi

người phải cảnh giác, không để chúng dùng miếng mồi vật chất để nhử cho ta sập

bẫy. Những cái bẫy hợp đồng vay vốn hay góp vốn là những cái bẫy rất khó gỡ vì

đây là quan hệ dân sự, có sự thỏa thuận của đôi bên nên khi thiệt hại xảy ra thì

mình phải lãnh đủ.

Thứ hai, về trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh

Một khoản tiền vay có thể được bảo lãnh bởi nhiều bên khác nhau. Điều

365 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 338 Bộ luật Dân sự năm 2015 đều

phân biệt hai trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh: (i) Nếu các bên có thỏa

thuận hay pháp luật quy định các bên bảo lãnh theo phần độc lập thì người có

quyền chỉ có thể yêu cầu bên đồng bảo lãnh liên quan thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

trong phần bảo lãnh tương ứng; (ii) Nếu không có thỏa thuận hoặc pháp luật

Page 124: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

121

không quy định, thì chế định đồng bảo lãnh mặc nhiên trở thành bảo lãnh liên đới

và người có quyền có thể yêu cầu bất cứ bên bảo lãnh liên đới nào thực hiện toàn

bộ nghĩa vụ được bảo lãnh. Bên bảo lãnh liên đới sau khi đã thực hiện toàn bộ

nghĩa vụ được bảo lãnh có quyền yêu cầu các bên bảo lãnh liên đới còn lại phải

hoàn trả phần giá trị bảo lãnh mà mình đã thay thế họ thực hiện.

Có ý kiến cho rằng, quy định về quyền bồi hoàn của người bảo lãnh đối với

những người bảo lãnh khác như thế là không phù hợp bởi những người bảo lãnh

liên đới là bảo lãnh đồng thời, không phải là tái bảo lãnh nên khi nghĩa vụ đã

được thực hiện thì nghĩa vụ của họ cũng không còn. Người bảo lãnh đã thực hiện

nghĩa vụ hộ bên được bảo lãnh phải đòi lại tài sản từ bên được bảo lãnh chứ

không phải từ những người bảo lãnh còn lại. Về lý thuyết, việc truy đòi bên được

bảo lãnh sẽ giúp bên bảo lãnh liên đới đã thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh có thể

được thanh toán toàn bộ số tiền đã trả cho bên nhận bảo lãnh thay vì được thanh

toán từng phần trong trường hợp truy đòi từ các bên bảo lãnh liên đới khác. Hơn

nữa, cách thức này giúp tránh việc các bên bảo lãnh liên đới khác phải truy đòi tài

sản từ bên được bảo lãnh sau khi thanh toán cho bên bảo lãnh liên đới đã thực

hiện nghĩa vụ được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Song có lẽ phương pháp

này chỉ nên được áp dụng trong trường hợp bên được bảo lãnh có khả năng thực

hiện nghĩa vụ. Hơn nữa, nếu bỏ quyền bồi hoàn này thì bảo lãnh liên đới sẽ chứa

đựng rất nhiều rủi ro bởi bên nhận bảo lãnh có toàn quyền quyết định sẽ yêu cầu

ai trong số các bên bảo lãnh liên đới phải thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh thay

cho bên nhận bảo lãnh. Mặt khác, Điều 365 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều

338 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định việc một bên bảo lãnh liên đới đã thực

hiện toàn bộ nghĩa vụ yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần

nghĩa vụ của họ đối với mình là quyền, chứ không phải là nghĩa vụ của bên này.

Tức là pháp luật không cấm bên bảo lãnh liên đới này yêu cầu bên được bảo lãnh

(bên có nghĩa vụ) thanh toán cho mình toàn bộ số tiền đã trả cho bên nhận bảo

Page 125: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

122

lãnh mà không cần phải yêu cầu các bên bảo lãnh liên đới khác thực hiện nghĩa vụ

của họ.

Thứ ba, vướng mắc liên quan đến biện pháp bảo lãnh và các biện pháp

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (hay còn gọi là việc thế chấp, cầm cố tài

sản của bên thứ ba)

Quan hệ bảo lãnh có liên quan đến việc cầm cố, thế chấp tài sản, nếu pháp

luật có quy định phải đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng hay chứng thực, thì

vấn đề đặt ra ở đây là có phải làm các thủ tục với cả thỏa thuận bảo lãnh hay chỉ

phải làm các thủ tục với thỏa thuận cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba? Bởi

trên thực tế, có một số trường hợp thỏa thuận bảo lãnh có kèm theo các biện pháp

bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng cũng có trường hợp hai văn bản này được lập

riêng. Căn cứ theo Ðiều 3 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP, thì bảo lãnh không

thuộc trường hợp phải đăng ký giao dịch bảo đảm. Ðiều này cũng không quy định

trường hợp bảo lãnh có kèm theo biện pháp cầm cố thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ

bảo lãnh thì phải đăng ký. Nhưng trên thực tế, nhiều giao dịch bảo lãnh có kèm

theo tài sản thế chấp nghĩa vụ bảo lãnh đã bị tòa án tuyên vô hiệu do không đăng

ký giao dịch bảo đảm. Ðể đảm bảo sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng luật,

nên có hướng dẫn cụ thể hơn về trường hợp thế chấp, cầm cố tài sản của bên bảo

lãnh với bên nhận bảo lãnh theo hướng yêu cầu các bên phải đăng ký giao dịch

bảo đảm (hoặc công chứng, chứng thực) cả thỏa thuận bảo lãnh và biện pháp cầm

cố, thế chấp đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh nếu pháp luật yêu cầu tài sản đó phải tuân

thủ các thủ tục này.

Thứ tư, các quy định của Bộ luật Dân sự về biện pháp bảo lãnh đang và sẽ

gây ra nhiều vướng mắc trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài

sản bảo đảm giữa giao dịch bảo đảm bằng tài sản (ví dụ như cầm cố, thế chấp)

với bảo lãnh. Dưới giác độ lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm và quy định của

pháp luật hiện hành, bảo lãnh là các biện pháp bảo đảm mang tính đối nhân nên

Page 126: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

123

không thuộc diện đăng ký giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, sự thiếu nhất quán trong

cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự Việt Nam về bảo lãnh đã gây ra vướng mắc

trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm giữa giao

dịch bảo đảm bằng tài sản (ví dụ như cầm cố, thế chấp) với bảo lãnh. Bởi lẽ, cũng

theo quy định của Bộ luật Dân sự, trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo

đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có giao dịch bảo đảm có đăng ký, có

giao dịch bảo đảm không đăng ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký được ưu tiên

thanh toán”, tuy nhiên, bảo lãnh theo quy định của pháp luật hiện hành lại không

thuộc diện đăng ký giao dịch bảo đảm, nghĩa là, trong trường hợp có nhu cầu, các

bên trong quan hệ bảo lãnh cũng không thể thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo

đảm. Do đó, nếu lấy tiêu chí đăng ký để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán sẽ

không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, nếu

lấy theo tiêu chí xác lập giao dịch, thì không phù hợp với tinh thần của Bộ luật

Dân sự quy định về nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các giao

dịch bảo đảm; cũng như mục tiêu công khai, minh bạch hoá thông tin về tình

trạng pháp lý của tài sản thông qua thiết chế đăng ký, nhằm giảm thiểu rủi ro cho

các nhà đầu tư, qua đó, góp phần phát huy tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước mà chúng ta đang nỗ lực hướng đến.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm được áp dụng rộng rãi và thể hiện nhiều

ưu điểm trong quan hệ tín dụng hiện nay. So với Bộ luật Dân sự năm 1995 thì Bộ

luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015 bước đầu đã tiếp cận biện

pháp bảo lãnh dựa trên nguyên lý của biện pháp bảo đảm đối nhân. Pháp luật hiện

hành không hạn chế chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh, cũng không yêu cầu về tư

cách chủ thể hoặc tài sản của bên bảo lãnh. Ðây là yếu tố khá thuận lợi giúp các

Page 127: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

124

bên tự do lựa chọn hình thức này. Có thể nói, trong các hợp đồng tín dụng hiện

nay, bảo lãnh là một trong những biện pháp được áp dụng khá phổ biến với những

điều kiện, thủ tục thuận tiện và hành lang pháp lý đối với biện pháp này được quy

định tương đối đầy đủ.

Tuy nhiên, xung quanh chế định này vẫn còn một số vướng mắc và tiềm ẩn

rủi ro dẫn đến tranh chấp. Pháp luật chưa có quy định về việc bên nhận bảo lãnh

phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình trước và

việc cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ trước hết được tiến hành đối với tài sản của

người được bảo lãnh, sau đó nếu người được bảo lãnh không có tài sản thì mới có

quyền yêu cầu người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Các quy định của

pháp luật hiện hành quy định về nội hàm biện pháp bảo lãnh chưa thực sự rõ ràng,

dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các cơ quan áp dụng và thực

thi pháp luật như: Vướng mắc trong trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo lãnh,

đồng bảo lãnh và vướng mắc liên quan đến biện pháp bảo lãnh và các biện pháp

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (hay còn gọi là việc thế chấp, cầm cố tài sản

của bên thứ ba)… Do vậy, việc nghiên cứu, dự liệu và hoàn thiện các quy định

pháp luật liên quan đến bảo lãnh là một trong những yêu cầu cần thiết để hoàn

thiện hơn nữa hành lang pháp lý về các biện pháp bảo đảm nói chung, bảo lãnh

nói riêng đối với các hợp đồng tín dụng hiện nay.

Page 128: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

125

Chương 4

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH Ở VIỆT NAM

4.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH Ở

VIỆT NAM

4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh cần xuất phát từ quan điểm thực hiện chính sách

tiền tệ linh hoạt và bảo đảm hoạt động tín dụng ngân hàng an toàn, hiệu quả

Thời gian qua, trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương mại và tổ

chức tín dụng đã có những thay đổi tích cực trong chiến lược khách hàng từ thu

hút doanh nghiệp nhà nước sang chiến lược phát triển quan hệ giao dịch với các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình và cá nhân

kinh doanh. Sự thay đổi về chiến lược khách hàng như vậy phù hợp với xu thế

phát triển của khu vực kinh tế này và tiến trình đẩy mạnh cổ phần hoá doanh

nghiệp nhà nước. Do vậy, tỷ trọng các khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản

ngày càng tăng. Từng ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đã chủ động lựa

chọn các hình thức bảo đảm phù hợp đối với từng khách hàng, việc lựa chọn dựa

trên cơ sở khả năng tài chính, uy tín và hiệu quả dự án đầu tư, phương án sử dụng

vốn của khách hàng. Thực hiện tương đối nghiêm túc các quy định về an toàn

trong hoạt động.

Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng trong hoạt động tín dụng cho vay của

ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp và được điều

chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau, do nhiều cơ quan ban hành trong

Page 129: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

126

các khoảng thời gian khác nhau, bởi vậy, khó tránh khỏi tình trạng không đồng

bộ, chồng chéo hoặc có cách hiểu, nhận thức và hành động khác nhau.

Nhằm đảm bảo bình ổn kinh tế vĩ mô, thực hiện chính sách tiền tệ ổn định,

bảo đảm hoạt động tín dụng ngân hàng an toàn, hiệu quả, trong những năm tới, dự

kiến định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng hàng năm khoảng 16-18%, tín

dụng tăng khoảng 13-15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế;

ổn định tỷ giá (mức điều chỉnh không quá 2%), thị trường ngoại tệ, thị trường

vàng. Các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng cần phải tổ chức thực hiện

các giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng hiệu quả để tạo điều kiện thuận lợi

cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ gia đình tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ

phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại và tổ

chức tín dụng mở rộng hoạt động tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng,

đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế64. Các hoạt động tín dụng cần ưu tiên tập

trung cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ,

doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Nới dần hạn

mức cho vay không cần tài sản bảo đảm, mở rộng đối tượng tham gia như các hợp

tác xã, tổ hợp tác chỉ cần tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh là có thể được

cấp tín dụng ngân hàng mà không cần ngay tại địa bàn nông thôn. Đồng thời, các

doanh nghiệp cung ứng đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất, chế biến các

phụ phẩm nông nghiệp cũng nằm trong đối tượng thụ hưởng chính sách.

Các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng cần phải nghiêm túc tuân

thủ triệt để quy định về việc ký phụ lục hợp đồng bảo đảm tiền vay khi tài sản bảo

đảm được hình thành. Vì thực tế, từ dự án trên giấy đến tài sản hình thành trong

64 Xem thêm: Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 27/01/2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về tổ chức

thực hiện chính sách tiền tệ và bảo đảm hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả

http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/vilinks/videtail/vicm101/vict101;jsessionid=jhLjVGxK9212FFqhb

3JLd0rfWLtK7K1vw3g15cL2Wnhnl3k8gGT6!888153095!144339175

Page 130: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

127

thực tế là có sự khác biệt rất lớn. Danh mục chi tiết tài sản trên dự án đến hồ sơ

thực hiện (hợp đồng mua bán, hóa đơn, chứng từ xuất nhập khẩu…) và tài sản

được hình thành trên thực tế là hoàn toàn khác nhau. Đôi khi, danh mục tài sản

ban đầu theo dõi chỉ là kê những chi tiết phụ tùng đơn lẻ, nhưng thực tế lại là một

dây chuyền đồng bộ hoặc có thể nó không mô tả đầy đủ, đúng khớp chi tiết tài

sản, như về số series, model... Chính sự không tuân thủ, không làm tốt việc ký

phụ lục hợp đồng để mô tả lại chính xác, đúng khớp tài sản hình thành trong thực

tế, sẽ dễ dàng tạo ra khả năng bị rủi ro rất lớn, xảy ra tranh chấp về tài sản giữa

các bên sau này. Bên cạnh đó, một trong những đặc trưng cơ bản của hợp đồng tín

dụng là phải có các biện pháp bảo đảm đi kèm, nhằm khắc phục những quy định

chưa rõ ràng của chế định pháp luật pháp luật về bảo lãnh, các bên cần có thoả

thuận cụ thể về việc lựa chọn biện pháp bảo lãnh sao cho hiệu quả và phát huy

được tính tích cực của biện pháp bảo đảm này.

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh cần xuất phát từ việc nâng cao hiệu quả thực thi

các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự

Thực tiễn quá trình thực hiện pháp luật cho thấy, một số quy định về các biện

pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ luật Dân sự hiện hành chưa theo

kịp được mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn

hiện nay, chưa tạo lập hành lang pháp lý an toàn để chủ sở hữu khai thác tối đa giá trị

kinh tế của tài sản bảo đảm. Các quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

cũng chưa tạo cơ chế cho chủ nợ (bên cho vay) có bảo đảm thực thi tốt nhất quyền

năng trên thực tế. Thực tiễn cho thấy, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm, thì bên nhận bảo đảm có quyền

xử lý tài sản bảo đảm trong thời gian nhanh nhất, ít tốn kém nhất nhưng vẫn phải

khách quan, trung thực. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định về xử lý tài sản bảo

đảm phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí, tính tự nguyện của bên bảo đảm (chủ sở hữu

Page 131: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

128

tài sản), sự phụ thuộc đó thể hiện từ việc xác định phương thức xử lý tài sản bảo

đảm, giá bán tài sản bảo đảm, thủ tục chuyển quyền sở hữu cho người mua, người

trúng đấu giá tài sản bảo đảm.. Điều này dẫn đến hệ quả là việc xử lý tài sản bảo đảm

gặp rất nhiều khó khăn và khó có khả năng hiện thực hóa các thỏa thuận trong hợp

đồng bảo đảm. Mặt khác, nhiều vấn đề phát sinh trong thực tiễn vẫn chưa được giải

quyết triệt để, do vậy, để có thể xử lý được tài sản bảo đảm và thu hồi nợ, thì bên

nhận bảo đảm thường phải lựa chọn con đường tố tụng (khởi kiện tại Tòa án). Kết

quả tổng kết thực tiễn cho thấy, việc xử lý tài sản bảo đảm theo con đường tố tụng

mất nhiều thời gian, thủ tục phức tạp, qua nhiều cấp xét xử với nhiều quy trình tố

tụng... đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh, đầu tư của bên nhận bảo

đảm. Trong nhiều vụ việc, tuy bên nhận bảo đảm thắng kiện, nhưng vẫn không đảm

bảo chắc chắn có thể xử lý được tài sản bảo đảm trên thực tế. Một trong những yêu

cầu đặt ra là cần phải thể hiện rõ những vấn đề có tính nguyên lý, ví dụ như: Về

phạm vi các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bổ sung những biện pháp

nào? Loại bỏ những biện pháp nào? Sự khác biệt giữa vật quyền bảo đảm (cầm cố,

thế chấp tài sản) và trái quyền bảo đảm (bảo lãnh)? Nguyên lý xuyên suốt để bảo vệ

quyền lợi của bên nhận bảo đảm bằng tài sản là được quyền theo đuổi tài sản bảo

đảm cho dù tài sản đó đã được bên bảo đảm bán, tặng cho chủ thể khác.

Chế định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự năm

2015 được kỳ vọng là sẽ đặt nền tảng cho việc hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo

đảm Việt Nam theo hướng hiện đại nhằm khuyến khích hoạt động tài trợ vốn có bảo

đảm, đáp ứng nhu cầu khơi thông nguồn vốn và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Tuy

nhiên, khi xem xét trên hai phương diện là (i) mức độ đáp ứng yêu cầu thực tiễn và

(ii) mức độ phù hợp với thông lệ quốc tế, có thể thấy, chế định này còn chứa đựng

nhiều hạn chế cần khắc phục. Phạm vi chế định các biện pháp bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự năm 2015 bao trùm cả các biện pháp bảo đảm bằng

tài sản (cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ

Page 132: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

129

tài sản, quyền được thanh toán trước) và biện pháp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh). Chế

định cũng điều chỉnh cả các biện pháp bảo đảm được xác lập trên cơ sở thỏa thuận

và biện pháp bảo đảm phát sinh do luật định (không dựa trên thỏa thuận của các

bên) như cầm giữ tài sản, quyền được thanh toán trước. Với phạm vi như vậy, khó có

thể thiết kế chế định các biện pháp bảo đảm phù hợp với đặc điểm của từng loại biện

pháp bảo đảm65.

Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân, bên nhận bảo lãnh không xác lập

một vật quyền nào trên tài sản cụ thể của bên bảo lãnh, do đó, không đặt ra vấn đề

xử lý tài sản của bên bảo lãnh hay thứ tự ưu tiên giữa bên nhận bảo lãnh với bên

nhận bảo đảm bằng tài sản. Việc đưa các biện pháp bảo đảm bằng tài sản và biện

pháp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh) vào cùng một chế định là không hợp lý, vì

nhiều quy định đặc thù của biện pháp bảo đảm bằng tài sản không áp dụng cho

bảo lãnh. Khi xếp biện pháp bảo lãnh vào chế định này, có thể dẫn đến cách hiểu

không đúng về bản chất của bảo lãnh, cho rằng, bảo lãnh cũng xác lập một quyền

của bên nhận bảo lãnh trên tài sản của bên bảo lãnh và do đó, bên nhận bảo lãnh

cũng có quyền xử lý tài sản của bên bảo lãnh và hưởng thứ tự ưu tiên. Trong

trường hợp bên bảo lãnh cũng đưa tài sản của mình ra làm tài sản bảo đảm cho

việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì giao dịch này cần phải được hướng dẫn rõ là

sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định về cầm cố, thế chấp.

4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

bằng biện pháp bảo lãnh cần xuất phát từ nguyên lý của trái quyền

65 Xem thêm: TS. Nguyễn Bích Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội – Các biện pháp bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi), trên:

http://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=4122015141723897712&MaMT

Page 133: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

130

Trái quyền, còn gọi là quyền đối nhân, là quyền cho phép một người gọi là

trái chủ đòi hỏi một người khác, gọi là thụ trái, thực hiện một việc66. Trong ngôn

ngữ thông dụng, trái quyền còn được gọi là quyền đòi nợ. Điều đó có nghĩa rằng,

để quan hệ trái quyền vận hành hoàn hảo, nhất thiết phải có sự hợp tác của cả trái

chủ và thụ trái, chứ một mình trái chủ vào vai thì không đủ. Về mặt cấu trúc kỹ

thuật, trái quyền được hình thành từ ba yếu tố: trái chủ (chủ thể có), thụ trái (chủ

thể nợ) và đối tượng. Cũng như đối với vật quyền, trong khoa học pháp lý, có

nhiều cách phân loại trái quyền. Với cách phổ biến nhất, người ta chia các trái

quyền thành hai nhóm: trái quyền có đối tượng là làm hoặc không làm một việc

và trái quyền có đối tượng là chuyển giao một vật quyền.

Trái quyền có đối tượng “làm một việc” là một quan hệ nghĩa vụ trong đó

thụ trái cam kết thực hiện một công việc vì lợi ích của trái chủ: người chủ ga-ra

cam kết sửa chữa hoàn chỉnh một chiếc ô tô; kiến trúc sư cam kết hoàn thành đồ

án xây dựng một căn nhà;… Trái quyền có đối tượng “không làm một việc” là

loại quan hệ nghĩa vụ trong đó thụ trái cam kết giữ thái độ thụ động về một

phương diện nào đó, vì lợi ích của trái chủ. Chẳng hạn, người bán một sản nghiệp

thương mại cam kết không mở một cơ sở kinh doanh cùng ngành nghề trong khu

vực lân cận trong một khoảng thời gian nào đó… Trái quyền có đối tượng

“chuyển giao một vật quyền” là một quan hệ nghĩa vụ trong đó thụ trái cam kết

trao cho trái chủ một vật quyền vốn thuộc về mình, đặc biệt là quyền sở hữu đối

với một tài sản. Ví dụ, trong một vụ mua bán vật cùng loại với một số lượng nào

đó, người mua muốn nhận được tài sản, thì cần có sự hợp tác của người bán, thể

hiện qua việc người bán tiến hành cá thể hoá đối tượng mua bán bằng cách tách

đối tượng này ra khỏi khối các vật cùng loại, rồi đóng gói để sẵn sàng giao cho

66 PGS.TS. Nguyễn Ngọc Điện – Trường Đại học kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh -

“Sự cần thiết của việc xây dựng các chế định vật quyền và trái quyền trong luật dân sự”,

http://www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/kinh-te-dan-su/xay-dung-lai-he-thong-phap-luat-ve-bao-

111am-nghia-vu-tren-co-so-ly-thuyet-vat-quyen-va-trai-quyen

Page 134: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

131

người mua. Về chế độ pháp lý, trái quyền không phải là quan hệ pháp lý giữa chủ

thể và vật, mà là quan hệ pháp lý giữa các chủ thể. Các quy tắc chi phối quan hệ

ấy đặc trưng bằng việc chỉ định hành vi ứng xử trong giao tiếp giữa hai bên. Để

quan hệ trái quyền vận hành suôn sẻ, sự hợp tác tích cực của trái chủ và thụ trái là

điều kiện cần thiết. Khuôn mẫu diễn tiến quan hệ trái quyền có thể được mô tả

như sau: Người có trái quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ; thụ trái thực hiện và

người có trái quyền tiếp nhận việc thực hiện.

Theo pháp luật một số quốc gia có nền tảng lâu đời về dân luật, lý thuyết về

vật quyền và trái quyền được quy định khá mạch lạc và nó chính là nền tảng để

điều chỉnh các quan hệ hợp đồng cũng như việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp

đồng. Theo pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, trái quyền được hiểu là hành

vi của một người có năng lực pháp luật làm phát sinh một hậu quả pháp lý nhất

định. Luật Trái quyền của Cộng hòa Liên bang Đức67 chia làm 2 phần chính: Thứ

nhất, những quy định chung (thực hiện quyền như thế nào, trách nhiệm do không

thực hiện, thực hiện không đúng, chậm…) áp dụng chung cho các quan hệ trái vụ

khác ở phần sau; Thứ hai, những quy định riêng (dạng quan hệ trái vụ cụ thể gồm

các hợp đồng cụ thể). Phần quy định riêng chỉ quy định những gì do tính chất đặc

thù của nó mà khác với những quy định ở phần chung. Có thể nói, trong tư duy và

phương thức lập pháp nói chung, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là mối quan hệ pháp

lý được thiết lập giữa một bên là người cam kết bảo đảm và bên kia là người thụ

hưởng biện pháp bảo đảm. Đó là một quan hệ nghĩa vụ đích thực, nghĩa là, ở góc

nhìn của pháp luật Latinh, có tác dụng tạo ra một trái quyền mà người thụ hưởng

biện pháp bảo đảm được phép thực hiện chống lại người cam kết bảo đảm.

67 ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp, “Một số vấn đề về cấu trúc, vật

quyền và trái quyền trong Bộ luật Dân sự Đức mà Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi

Bộ luật Dân sự năm 2005” - Tài liệu của Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi.

Page 135: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

132

Tính chất đối nhân của quan hệ bảo đảm nghĩa vụ được ghi nhận cả trong

trường hợp biện pháp bảo đảm được xác lập trên các tài sản đặc định, gọi là thế

chấp hoặc cầm cố. Chủ nợ có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp được thừa nhận có

quyền ưu tiên được thanh toán nợ bằng giá bán tài sản cầm cố, thế chấp; tuy

nhiên, tính chất ưu tiên của của quyền không được làm rõ trong mối quan hệ với

người cầm cố, thế chấp, người mà theo giả thiết là chủ sở hữu tài sản. Riêng trong

trường hợp bảo đảm bằng thế chấp tài sản, thì để thực hiện quyền ưu tiên đó, chủ

nợ cần có sự hợp tác của chủ sở hữu tài sản. Một khi nợ được bảo đảm không

được trả, thì chủ nợ nhận thế chấp phải làm động tác yêu cầu chủ sở hữu giao tài

sản cho mình xử lý. Nếu chủ sở hữu không chịu giao, mà điều này lại thường xảy

trong thực tiễn, thì chủ nợ chỉ còn mỗi cách ứng xử phù hợp với pháp luật là gõ

cửa Toà án để yêu cầu cưỡng chế theo thủ tục chung về tố tụng dân sự, chứ không

có cách nào khác. Trong trường hợp bảo đảm nghĩa vụ bằng cầm cố tài sản, thì

pháp luật thừa nhận cho chủ nợ nhận cầm cố một số quyền có thể khiến người ta

liên tưởng đến người có vật quyền trong Luật Latinh. Chẳng hạn, nếu nợ không

được trả, thì chủ nợ nhận cầm cố có quyền yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo

phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, điều này có nghĩa là

không cần đến vai trò của chủ sở hữu. Tuy nhiên, sự thừa nhận đó không hề

khẳng định rằng, chủ nợ nhận cầm cố có quyền năng tác động trực tiếp lên vật

như người có vật quyền. Đơn giản, trong tình huống đặc thù, chủ nợ đang nắm

giữ, kiểm soát tài sản về phương diện vật chất và việc nắm giữ đó là hợp pháp,

được nhà chức trách bảo vệ. Tình trạng đó làm hình thành lợi thế tự nhiên của chủ

nợ trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản trong việc xử lý tài sản bảo đảm để

thực hiện việc thu hồi nợ. Người làm luật, về phần mình, chỉ làm mỗi việc là quy

định trao cho chủ nợ một số quyền để phát huy lợi thế tự nhiên đó, nhằm giải

Page 136: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

133

quyết vấn đề thu hồi nợ theo cách giản đơn và ít tốn kém nhất68. Không thực hiện

đúng nghĩa vụ phụ cũng là một dạng thực hiện không đúng nghĩa vụ và người vi

phạm cũng phải chịu trách nhiệm. Để tạo thành nguyên tắc, Bộ luật Dân sự Việt

Nam cần quy định này theo hướng: Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ phụ, thì

người vi phạm nghĩa vụ phụ, cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của

mình. Điều này có thể áp dụng trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ về bảo lãnh.

Nghiên cứu Bộ luật Dân sự Pháp cho thấy, các biện pháp bảo đảm cũng

được thiết kế theo triết lý vật quyền và trái quyền và được chia thành hai loại là

vật quyền bảo đảm và trái quyền bảo đảm. Trái quyền bảo đảm là bảo đảm theo

đó một trái quyền được tăng cường bởi một trái quyền khác. Tiêu biểu là biện

pháp bảo lãnh. Bảo lãnh là hợp đồng theo đó một người nhận bảo lãnh cho nghĩa

vụ của một người khác và cam kết thực hiện nghĩa vụ đó nếu người này không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ nghĩa vụ. Trên thực tế, ngoài hợp

đồng bảo lãnh, giữa người có nghĩa vụ và người bảo lãnh thường có một hợp

đồng trong đó, người bảo lãnh cam kết bảo lãnh cho người có nghĩa vụ. Một số

trường hợp bảo lãnh phổ biến69 như: Bảo lãnh do quan hệ bạn bè hoặc gia đình;

bảo lãnh có thu phí trong trường hợp ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng của

mình và khách hàng phải trả phí bảo lãnh; bảo lãnh của lãnh đạo công ty đối với

các khoản nợ của công ty. Có thể bảo lãnh cho một nghĩa vụ hiện tại hoặc nghĩa

vụ hình thành trong tương lai hoặc có thể bảo lãnh đối với tất cả các khoản nợ của

con nợ hoặc chỉ bảo lãnh đối với một hoặc một số khoản nợ cụ thể. Cũng có thể

thực hiện bảo lãnh có giới hạn hoặc không giới hạn mức trần mà người bảo lãnh

68 Xem: Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về

pháp luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về

bảo lãnh, Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, tháng 11

năm 2011. 69 Tài liệu của Nhà Pháp luật Việt - Pháp: Tổng hợp một số quy định pháp luật Cộng hòa Pháp về các

biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-

doi.aspx?ItemID=4454

Page 137: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

134

phải trả trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ, bảo

lãnh liên đới. Quyền trả nợ sau của người bảo lãnh được quy định trong trường

hợp chủ nợ phải cố gắng khai thác hết khả năng thanh toán của người có nghĩa vụ

trước khi yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Điều đó có nghĩa là, trước

khi yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, chủ nợ phải yêu cầu người được

bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Nếu như các yêu cầu này không có kết quả, thì phải

tiến hành kê biên, bán tài sản nếu người có nghĩa vụ có tài sản. Người bảo lãnh

chỉ phải thực hiện nghĩa vụ nếu người được bảo lãnh không có khả năng thanh

toán. Tuy nhiên, người bảo lãnh có thể từ bỏ quyền trả nợ sau của mình. Khuynh

hướng của pháp luật nói chung là phải bảo vệ người bảo lãnh (khác với pháp luật

hiện hành của Việt Nam là quan tâm nhiều đến quyền lợi của người nhân bảo

lãnh). Hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Trong hợp đồng, người

bảo lãnh phải viết bằng tay một câu là “đã hiểu nội dung, phạm vi cam kết bảo

lãnh của mình”. Chủ nợ có nghĩa vụ thông tin, tư vấn và cảnh báo cho người bảo

lãnh, đặc biệt là về tình hình nghĩa vụ được bảo đảm.

Bảo lãnh không thiết lập quan hệ liên đới giữa người bảo lãnh và người

được bảo lãnh. Như đã nêu ở trên, người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo

lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ

của mình và người nhận bảo lãnh đã tiến hành các thủ tục cần thiết mà không có

kết quả. Vì nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ bổ trợ cho nghĩa vụ được bảo lãnh, nên

người bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả các căn cứ mà người được bảo lãnh có thể

viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Các loại bảo lãnh chủ yếu

được áp dụng bao gồm:

- Bảo lãnh độc lập là biện pháp bảo đảm rất hiệu quả và phổ biến trong

thương mại quốc tế theo đó bên bảo lãnh cam kết trả cho bên có quyền (bên nhận

bảo lãnh) một số tiền xác định theo yêu cầu của bên có nghĩa vụ (bên ra lệnh

thanh toán). Trong trường hợp này, nghĩa vụ bảo lãnh độc lập với nghĩa vụ được

Page 138: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

135

bảo lãnh. Vì nghĩa vụ bảo lãnh độc lập với nghĩa vụ được bảo lãnh, nên bên bảo

lãnh không có quyền viện dẫn các căn cứ mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn

để không phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Bảo lãnh độc lập được lập dưới hình

thức thư bảo lãnh, trong đó nêu rõ số tiền mà bên bảo lãnh phải trả và thời hạn

bảo lãnh. Khi được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thanh

toán ngay lập tức, kể cả khi chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ chính của bên được

bảo lãnh. Tuy nhiên, trong trường hợp gian lận hoặc nghĩa vụ được bảo đảm

không tồn tại nữa, thì bên bảo lãnh không phải thanh toán. Do tính độc lập của

biện pháp bảo đảm này nên nếu quyền yêu cầu được chuyển giao, thì nghĩa vụ

bảo lãnh không đi theo quyền yêu cầu đó, vì nó được xác lập căn cứ vào tư cách

cá nhân của bên có quyền.

- Thư bảo trợ là cam kết theo đó một người cam kết trợ giúp cho người có

nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. Đó không phải là cam kết trả một khoản

tiền mà là cam kết giúp đỡ người có nghĩa vụ. Ví dụ, sự giúp đỡ này có thể được

thực hiện dưới hình thức tư vấn hoặc không tiến hành hoạt động cạnh tranh với

người có nghĩa vụ. Đó là nghĩa vụ thực hiện một hành vi ứng xử nào đó70. Biện

pháp bảo đảm này có nguồn gốc từ hệ thống pháp luật Anh - Mỹ và có thể được

áp dụng trong quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con. Ví dụ, công ty mẹ phát

hành thư bảo trợ cho ngân hàng, trong đó nêu rõ rằng công ty mẹ sẽ giúp đỡ công

ty con thực hiện các cam kết của mình. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không

thanh toán thì bên bảo trợ không phải thanh toán thay. Thư bảo trợ được quy định

trong một điều luật của Bộ luật Dân sự vì các nhà làm luật cho rằng đây là một

70 Xem: Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về

pháp luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về

bảo lãnh, Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, tháng 11

năm 2011.

Page 139: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

136

biện pháp bảo đảm quan trọng. Tuy nhiên, cách thức thực hiện cụ thể việc bảo trợ

do các chủ thể tự xác định trong thực tiễn.

4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC

HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH Ở VIỆT

NAM

4.2.1. Xây dựng Nghị định mới về giao dịch bảo đảm, trong đó có các

hướng dẫn cụ thể về biện pháp bảo lãnh

Chúng tôi cho rằng, việc xây dựng Nghị định mới để thay thế Nghị định số

163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị

định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một

số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về

giao dịch bảo đảm đã đến lúc cấp bách. Trong Nghị định mới về giao dịch bảo

đảm, biện pháp bảo lãnh cần được hướng dẫn chi tiết hơn và làm rõ các vấn đề mà

Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định mang tính khái quát:

Thứ nhất, cần có quy định giải thích để làm rõ hơn bản chất pháp lý của

biện pháp bảo lãnh và không nhắc lại hoặc sao chép các quy định đã có trong Bộ

luật Dân sự. Biện pháp bảo lãnh được xây dựng dựa trên những nguyên lý của

trái quyền. Trái quyền bảo đảm là việc bảo đảm theo đó, một trái quyền được tăng

cường bởi một trái quyền khác. Bảo lãnh phải được xác định bằng hợp đồng, theo

đó một người nhận bảo lãnh cho nghĩa vụ của một người khác và cam kết thực

hiện nghĩa vụ đó nếu người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không

đúng, không đủ nghĩa vụ.

Bảo lãnh là biện pháp đối nhân, vì vậy, thứ tự ưu tiên thanh toán (tính đối

kháng với người thứ ba) không đặt ra hoặc bắt buộc phải có quy định về giá trị tối

đa của nghĩa vụ bảo lãnh với nghĩa vụ được bảo lãnh. Mặc dù các quy định của

Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng như Bộ luật Dân sự đã có xu hướng tiếp cận biện

pháp bảo lãnh là biện pháp đối nhân, nhưng trong các hướng dẫn thi hành không

Page 140: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

137

quy định cụ thể hoặc thiên hướng cài yếu tố “đối vật” để đảm bảo quyền lợi cho

bên nhận bảo lãnh, dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật thiếu chuẩn xác. Bên

cạnh đó, còn rất nhiều quy định mang tính tùy nghi, ví dụ như “các bên cũng có

thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo

lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình” (Điều 361 Bộ luật Dân sự

năm 2005 và khoản 2 Điều 335 Bộ luật Dân sự năm 2015)… Quy định như vậy sẽ

đưa đến hệ quả là, bên bảo lãnh có thể thiếu tích cực trong việc thực hiện nghĩa vụ

và ai sẽ chứng minh được rằng, bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện

nghĩa vụ? Đồng thời, bên được bảo lãnh cũng không tích cực thực hiện nghĩa vụ

mà trông chờ vào việc thực hiện nghĩa vụ thay của bên bảo lãnh… Về nguyên tắc,

bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp bên được bảo lãnh đã

dùng toàn bộ tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh

nhưng vẫn không đảm bảo trọn vẹn việc thực hiện nghĩa vụ. Các quy định về

trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh theo Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2015

cũng cần được hướng dẫn cụ thể hơn để bên được bảo lãnh cũng như bên bảo lãnh

phải có trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cũng như nghĩa vụ bảo

lãnh71. Trong trường hợp các bên không thoả thuận về sử dụng biện pháp bảo đảm

bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì cần có quy chế pháp lý

để đảm bảo cho bên nhận bảo lãnh có thể yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị

nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại một cách hiệu quả trong trường hợp bên

bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh.

71 Như đã nói ở trên, bản chất của bảo lãnh không phải là việc người bảo lãnh bằng danh dự, uy tín của

mình, mà thực chất bằng toàn bộ khối tài sản của mình để cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người

được bảo lãnh nếu người sau này không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Trong bảo lãnh - bảo

đảm đối nhân, cái mà người nhận bảo lãnh quan tâm là người đứng ra bảo lãnh và khả năng tài chính

của anh ta (toàn bộ khối tài sản mà người bảo lãnh có) mà không hướng vào một tài sản cụ thể nào.

Page 141: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

138

Thứ hai, cần hướng dẫn để phân biệt trường hợp sử dụng biện pháp bảo

đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với trường hợp cầm cố,

thế chấp tài sản của người thứ ba

Khoản 3 Điều 336 Bộ luật Dân sự năm 2015 về phạm vi bảo lãnh quy định:

“Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”. Như vậy, để đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo

lãnh có thể cầm cố hay thế chấp tài sản cụ thể thuộc sở hữu của mình. Tuy nhiên,

việc cầm cố thế chấp tài sản này hoàn toàn không giống với trường hợp cầm cố,

thế chấp tài sản của người thứ ba để bảo đảm nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.

Với cơ chế cầm cố, thế chấp tài sản của người thứ ba, bên thứ ba dùng tài

sản của mình để bảo đảm trực tiếp nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có

quyền (bên nhận cầm cố, thế chấp) và nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hay

thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm, bên nhận cầm cố, thế chấp có

quyền xử lý tài sản cầm cố, thế chấp. Nếu giá trị tài sản cầm cố, thế chấp không

đủ để thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm, bên thế chấp không phải thanh toán

phần còn thiếu. Còn việc cầm cố hay thế chấp tài sản cụ thể thuộc sở hữu của bên

bảo lãnh là để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh. Khi người bảo lãnh không thực

hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh có quyền xử lý tài sản cầm cố,

thế chấp để thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt

hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Về nguyên tắc thì biện pháp bảo lãnh không thuộc đối tượng đăng ký để

xác định thứ tự ưu tiên thanh toán, trong khi biện pháp cầm cố, thế chấp lại thuộc

đối tượng đăng ký. Trong trường hợp bên bảo lãnh cầm cố hay thế chấp một tài

sản cụ thể để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh, thì tài sản này cần được đăng ký

giao dịch bảo đảm và có thứ tự ưu tiên khi xử lý tài sản bảo đảm theo quy chế của

cầm cố hay thế chấp. Để giải quyết vấn đề này, trong quá trình xây dựng Nghị

định mới về giao dịch bảo đảm, cần tham khảo kỹ các quy định của Bộ luật Dân

Page 142: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

139

sự Nhật Bản, Bộ luật Dân sự Pháp về thứ tự ưu tiên giữa các chủ thể có quyền lợi

được đăng ký với các chủ thể có quyền lợi không thuộc đối tượng đăng ký.

Thứ ba, cần có quy định hướng dẫn cụ thể hơn về xử lý tài sản của bên bảo

lãnh

Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo lãnh, làm rõ hơn

trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP

của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-

CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã bổ sung quy định

giải thích về trường hợp người nhận bảo lãnh được quyền thực hiện việc xử lý tài

sản của người bảo lãnh khi người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

theo thỏa thuận, cụ thể:

(i) Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản

để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì tài sản cầm cố, thế chấp được xử lý

theo quy định thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh;

(ii) Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp

tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải giao tài sản

thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo lãnh xử lý theo yêu cầu của bên nhận

bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu bên bảo lãnh không giao tài sản,

thì bên nhận bảo lãnh có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật;

(iii) Tại thời điểm xử lý tài sản của bên bảo lãnh, nếu bên bảo lãnh không

có tài sản để xử lý hoặc khoản tiền thu được từ việc xử lý tài sản không đủ thanh

toán nghĩa vụ được bảo lãnh, thì trong phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh, bên nhận

bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải giao tài sản có được sau thời điểm

xử lý cho mình để tiếp tục xử lý.

Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ khi các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế

chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì việc xử lý tài sản cầm cố,

thế chấp mới có thể được thực hiện. Còn các trường hợp các bên không có thỏa

Page 143: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

140

thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì

việc buộc bên bảo lãnh phải giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo

lãnh xử lý theo yêu cầu của bên nhận bảo lãnh là rất không có tính khả thi. Nên

chăng, cần phải hướng dẫn để bổ sung quyền của bên nhận bảo lãnh được yêu cầu

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

trong trường hợp bên bảo lãnh cố tình không giao tài sản để xử lý nhằm bảo đảm

nghĩa vụ bảo lãnh của họ đối với bên nhận bảo lãnh. Trong quá trình xử lý tài sản

nhằm bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh (các ngân hàng, tổ chức tín

dụng) được quyền thực hiện các biện pháp sau: Được trực tiếp hoặc ủy quyền cho

người khác tiến hành việc thu giữ tài sản bảo đảm; được thu thập, phân tích, đối

chiếu các thông tin liên quan đến tài sản bảo đảm; được yêu cầu chủ sở hữu và

người giữ tài sản bảo đảm cung cấp thông tin, thực hiện việc bảo quản, bàn giao,

thu giữ tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, bên nhận bảo lãnh cũng được đề nghị chính

quyền địa phương, cơ quan công an và các tổ chức, cá nhân liên quan hỗ trợ, giúp

đỡ để thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm; được yết thị thông báo tại nơi có tài

sản bảo đảm; được thông báo cho các tổ chức, cá nhân hữu quan và đăng tải trên

phương tiện thông tin đại chúng về việc thu giữ tài sản; được sử dụng các biện

pháp để di chuyển tài sản bảo đảm đến nơi khác; được kê biên, phong tỏa, niêm

phong để áp đặt quyền quản lý, trông giữ, bảo vệ tài sản bảo đảm...

Thứ tư, bổ sung một số quy định để giải thích và hoàn thiện hơn chế định

pháp luật về bảo lãnh, bao gồm:

- Bổ sung các quy định nhằm bảo vệ người bảo lãnh; quy định về việc bên

nhận bảo lãnh phải có nghĩa vụ thông tin cho bên bảo lãnh về giá trị của nghĩa vụ

được bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh; quy định về việc bên

bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả những vi phạm về hình thức, nội dung mà bên

được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận

bảo lãnh;

Page 144: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

141

- Bổ sung các quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, trong đó đặc biệt

là khả năng thanh toán nợ; các trường hợp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt đối

với biện pháp bảo lãnh; giới hạn của biện pháp bảo lãnh so với giá trị của nghĩa

vụ được bảo lãnh; hậu quả pháp lý trong trường hợp bên bảo lãnh không có tài

sản để bù trừ nghĩa vụ được bảo lãnh.

4.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lãnh để bảo

đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện nay

Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là hoạt động kinh

doanh quan trọng của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Cho vay vốn được ví

như việc bán chịu một loại hàng hóa đặc biệt, đó là tiền tệ. Vì vậy, trong quan hệ

tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc về ngân hàng và ngân

hàng là người quyết định có hay không cho vay. Tuy nhiên, ngay sau khi thực

hiện hợp đồng, tức là sau khi ngân hàng giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo

ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ động trong việc trả nợ. Mặc dù

ngân hàng có khá nhiều quyền chi phối theo quy định của pháp luật về hợp đồng

tín dụng, nhưng vẫn trở thành bên thụ động. Như vậy, bất kỳ một khoản tín dụng

(khoản tiền cho vay) nào cũng đều chứa đựng những rủi ro nhất định xuất phát từ

những sự kiện bất ngờ làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của khách hàng vay.

Cho nên, cần thiết phải có việc bảo đảm hợp lý với tư cách là sự bảo hiểm giúp

cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng đối phó với mọi tổn thất, một khi các

khoản nợ trở nên khó đòi và khách hàng ở vào tình trạng không thể thanh toán

được các khoản nợ vay. Theo cách hiểu thông thường, bảo đảm tín dụng được

định nghĩa là một phương tiện đem lại cho chủ ngân hàng sự bảo đảm và tin

tưởng rằng, sẽ có một nguồn tài chính thay thế nhất định dùng để hoàn trả hay để

bao chi nếu như việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay trong hợp đồng tín dụng

không thực hiện được. Nếu không có những thiết chế cơ bản để bảo đảm các

khoản tiền đi vay và cho vay hiệu quả, ngân hàng sẽ tự đặt mình trước những rủi

Page 145: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

142

ro khó lường đối với một loại hàng hóa vốn dĩ đã chứa đựng rất nhiều rủi ro, đó là

“tiền tệ”.

Về bản chất, bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng chỉ là một trong những

biện pháp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng chính, nó không

phải là điều kiện bắt buộc, dù có các biện pháp này hay không đều không ảnh

hưởng đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên. Bên có nghĩa vụ

vẫn phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ và chịu các biện pháp xử lý về tài sản nếu

vi phạm (phong tỏa tài khoản, niêm phong tài sản, bị các cơ quan có thẩm quyền

áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác để đảm bảo trả nợ...). Tuy nhiên,

để đồng thời đạt được hai mục đích là phát triển thị trường, khách hàng và bảo

đảm an toàn đối với các khoản cho vay, thì việc áp dụng các biện pháp bảo đảm

được xem như công cụ hiệu quả và an toàn đối với các ngân hàng.

Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được Bộ luật Dân sự quy

định, nhưng bản chất của nó là biện pháp bảo đảm đối nhân. Vì vậy, các ngân

hàng, tổ chức tín dụng cần phải có những biện pháp cụ thể sao cho khi áp dụng

biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng phát huy được hết giá

trị đích thực của của nó nhưng vẫn an toàn cho các hoạt động tín dụng. Trên thực

tế, pháp luật cũng đã có những quy định cho vay không cần biện pháp bảo đảm

như: Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ quy định về

chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó quy định

cụ thể về mức cho vay tối đa trong trường hợp cho vay không có bảo đảm đối với

cá nhân, tổ chức; hoặc Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 8/7/2009 của Thủ

tướng Chính phủ quy định về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại

tại vùng khó khăn, theo đó mức cho vay tối đa không có bảo đảm tiền vay... Điều

này được dẫn ra để minh chứng rằng, nếu biện pháp bảo lãnh được quy định cụ

thể, chặt chẽ, rõ ràng, “bản chất đối nhân” sẽ được phát huy và uy tín của bên bảo

lãnh vẫn đủ để bảo đảm an toàn cho các quan hệ tín dụng ngân hàng. Đặc biệt

Page 146: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

143

trong xu thế hiện nay, nhằm khuyến khích sự phát triển của hệ thống doanh

nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ gia

đình tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, Nhà

nước ta đã tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng mở

rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho

nền kinh tế. Ưu tiên tập trung tín dụng cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,

xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng

công nghệ cao. Nới hạn mức cho vay không cần tài sản bảo đảm, mở rộng đối

tượng tham gia như các hợp tác xã, tổ hợp tác chỉ cần tham gia hoạt động sản xuất

kinh doanh là có thể được cấp tín dụng ngân hàng mà không cần ngay tại địa bàn

nông thôn. Đồng thời, các doanh nghiệp cung ứng đầu vào cho sản xuất nông

nghiệp, sản xuất, chế biến các phụ phẩm nông nghiệp cũng nằm trong đối tượng

thụ hưởng chính sách.

Nhằm áp dụng biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

đạt hiệu quả, đảm bảo tính an toàn trong các quan hệ cho vay, các ngân hàng, tổ

chức tín dụng cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau:

Một là, ban hành Quy chế về bảo đảm tiền vay, trong đó có các quy định về

biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ và

quyền hạn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng cụ thể

Trên thực tế, hầu hết các ngân hàng, tổ chức tín dụng đều đã ban hành Quy

chế về bảo đảm tiền vay, tuy nhiên trong đó chưa có những hướng dẫn cụ thể về

áp dụng biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, chỉ có quy

định chung chung về bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba và cũng không có

hướng dẫn chi tiết nên trong thực tiễn đã phát sinh nhiều vướng mắc bất cập. Bởi

vậy, việc hướng dẫn áp dụng biện pháp bảo lãnh trong Quy chế bảo đảm tiền vay

cần quan tâm các vấn đề như:

Page 147: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

144

(i) Việc lựa chọn bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo

lãnh cần phải căn cứ vào mục đích của khoản tiền vay theo hợp đồng tín dụng và

đối tượng khách hàng cũng như điều kiện của bên bảo lãnh để quyết định.

(ii) Cần có các quy định giải thích cụ thể hơn về điều kiện của người bảo

lãnh. Bên cạnh việc xác định các điều kiện về uy tín, cần xác định rõ các điều

kiện về tài sản của người bảo lãnh.

(iii) Quy định giải thích rõ hơn quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh

nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên bảo lãnh; quy định về việc bên nhận bảo

lãnh phải có nghĩa vụ thông tin đối với bên bảo lãnh, nghĩa vụ này có thể là tư vấn

hoặc thậm chí là cảnh báo; bên bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả những vi phạm về

hình thức mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ

đối với người có quyền...;

(iv) Quy định rõ về các trường hợp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt đối

với biện pháp bảo lãnh; giới hạn của biện pháp bảo lãnh so với giá trị của nghĩa

vụ được bảo lãnh;

(v) Trường hợp bên bảo lãnh không có tài sản để bù trừ nghĩa vụ được bảo

lãnh thì giải quyết hậu quả pháp lý như thế nào...;

(vi) Xác định rõ quyền của bên bảo lãnh được bồi hoàn và quyền được thế

quyền bên nhận bảo lãnh sau khi đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Hai là, khuyến khích các bên thoả thuận sử dụng biện pháp bảo đảm nghĩa

vụ bảo lãnh bằng tài sản cụ thể (dùng biện pháp đối vật để bảo đảm cho biện

pháp đối nhân)

Khi áp dụng biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

đối với những khoản tiền vay có giá trị lớn, các bên trong quan hệ hợp đồng bảo

lãnh nên thoả thuận về biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản cụ thể.

Việc bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản cụ thể được thực hiện theo các quy

Page 148: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

145

định về cầm cố, thế chấp và cũng nên được thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo

đảm để được đảm bảo ưu tiên thanh toán.

Trong quy trình cho vay và áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay của

ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần đề cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng khi

thẩm định, xem xét việc cấp tín dụng và trong hồ sơ vay vốn phải có văn bản

cung cấp thông tin có xác nhận của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm; từng

bước nâng cao chất lượng công tác định giá tài sản đảm bảo; chủ động bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua việc đăng ký giao dịch bảo đảm tại

một trong các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản.

Ba là, hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan, đảm bảo tính hiệu lực,

hiệu quả trên thực tế để bảo đảm an toàn cho các quan hệ tín dụng

Theo đó, hệ thống pháp luật về hợp đồng, về giao dịch bảo đảm cần có quy

định rõ để các cơ quan nhà nước có sự hỗ trợ các ngân hàng, tổ chức tín dụng

trong việc thực hiện các quyền được pháp luật quy định; pháp luật tố tụng dân sự,

cơ quan xét xử cần có sự thay đổi để xử lý nhanh chóng các vụ kiện liên quan đến

xử lý nợ của ngân hàng, góp phần thúc đẩy thu hồi nợ nhanh chóng, bảo đảm sự

tôn trọng pháp luật của các bên trong giao dịch; thay đổi văn hóa, nhận thức của

bên vay vốn, bên bảo đảm, cũng như cộng đồng trong việc thực thi trách nhiệm

trả nợ vay ngân hàng, tạo trào lưu xã hội phê phán, không chấp nhận các hình

thức chây ì trả nợ…

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Có thể nói, các quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh nếu được thiết kế

hoàn hảo sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng như một thiết chế hỗ trợ, cung cấp giải

pháp pháp lý tối ưu cho các quan hệ tín dụng ngân hàng, nhằm tối đa hóa giá trị

của tài sản (tiền tệ), thúc đẩy các các quan hệ tín dụng phát triển và nhờ đó, đưa

lại sự phát triển sôi động trong đời sống dân sự và kinh tế. Dựa trên nguyên tắc

Page 149: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

146

bảo vệ tính tuyệt đối an toàn của các quan hệ tín dụng ngân hàng, tính hiệu quả

của hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm công khai và minh bạch sẽ giúp cho

người dân khai thác không chỉ giá trị vật chất tài sản, mà tối đa hóa giá trị pháp lý,

tiền tệ của tài sản. Bên cạnh đó, dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng, hệ thống

pháp luật hợp đồng nếu được thiết kế đúng với kỳ vọng của các chủ thể kết ước,

nó sẽ giúp cho các bên trong quan hệ tín dụng ngân hàng giảm thiểu chi phí giao

dịch trong việc tiếp cận, đàm phán, thực thi hợp đồng; nguyên tắc về trách nhiệm

do lỗi và hệ thống pháp luật bồi thường thiệt hại sẽ giúp cho các chủ thể yên tâm

và an toàn hơn khi quyền lợi bị hành vi xâm phạm.

Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được Bộ luật Dân sự quy

định, nhưng bản chất của nó là biện pháp bảo đảm đối nhân. Vì vậy, các ngân

hàng, tổ chức tín dụng cần phải có những biện pháp cụ thể sao cho khi áp dụng

biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng phát huy được hết giá

trị đích thực của của nó nhưng vẫn an toàn cho các hoạt động tín dụng.

Page 150: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

147

KẾT LUẬN

Sau khi nghiên cứu đề tài “Pháp luật về đảm bảo thực hiện hợp đồng tín

dụng bằng biện pháp bảo lãnh”, cho phép rút ra một số kết luận sau đây:

1. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động

tín dụng ngày càng được phát triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều

chủ thể kinh tế, theo đó, quan hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và

quy mô làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng càng đa dạng và phức tạp hơn.

Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu, mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân

hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển

của một ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng trong điều kiện nền kinh tế thị trường.

Vì vậy, việc xây dựng hành lang pháp lý an toàn cho các hợp đồng tín dụng được

coi là yêu cầu cần thiết và cấp bách, nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh

mẽ hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng

trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

2. Chế độ pháp lý về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng là

vấn đề quan trọng, có ý nghĩa to lớn cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Việc thực thi

hiệu quả các quy định pháp luật trong lĩnh vực này góp phần đạt được hai mục

tiêu, đó là phát triển và mở rộng thị trường tín dụng, nhưng vẫn bảo đảm an toàn

đối với các khoản cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Về bản chất,

các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng là những biện

pháp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng tín dụng, nó có thể là

điều kiện bắt buộc trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc theo

thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, dù thế nào chăng nữa, thì các biện pháp này

không ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp

đồng tín dụng. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đã xây dựng quy định

về các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng để áp dụng thống nhất trong toàn hệ

Page 151: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

148

thống, nhưng trên thực tế, các ngân hàng vẫn đang gặp không ít khó khăn, vướng

mắc liên quan đến việc xử lý, định giá tài sản bảo đảm, dẫn đến việc đưa khoản

tín dụng của mình lâm vào tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi, khi những giao dịch bảo

đảm không phát huy được giá trị của nó như mục đích của việc điều chỉnh pháp

luật mong muốn.

3. Trong số các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, bảo đảm

thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh là một trong các biện pháp

phổ biến, mang tính xã hội và nhân văn. Bên cạnh tư cách là một biện pháp bảo

đảm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, bảo lãnh cũng có thể được sử dụng trong

hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng và các tổ chức tín dụng với tư cách là một

hoạt động cấp tín dụng. Quá trình xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật về

vấn đề này đã có những thay đổi nhất định về tư duy lập pháp cũng như cách hiểu

về bản chất của biện pháp bảo lãnh. Điều này chi phối thực tiễn áp dụng pháp luật

về bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng và đã phát sinh

những bất cập nhất định. Xung quanh chế định này vẫn còn một số vướng mắc và

tiềm ẩn rủi ro dẫn đến tranh chấp. Pháp luật chưa có quy định về việc bên nhận

bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của

mình trước và việc cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ trước hết được tiến hành đối với

tài sản của người được bảo lãnh, sau đó nếu người được bảo lãnh không có tài sản

thì mới có quyền yêu cầu người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Các

quy định của pháp luật hiện hành quy định về nội hàm biện pháp bảo lãnh chưa

thực sự rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các cơ quan

áp dụng và thực thi pháp luật như: Vướng mắc trong trình tự, thủ tục áp dụng biện

pháp bảo lãnh, nhiều người cùng bảo lãnh và vướng mắc liên quan đến biện pháp

bảo lãnh và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (hay còn gọi là

việc thế chấp, cầm cố tài sản của bên thứ ba)… Do vậy, việc nghiên cứu, dự liệu

và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo lãnh là một trong những

Page 152: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

149

yêu cầu cần thiết để hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lý về các biện pháp bảo

đảm nói chung, bảo lãnh nói riêng đối với các hợp đồng tín dụng hiện nay.

4. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, việc hoàn thiện pháp

luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh cần thiết

phải xuất phát từ các định hướng cụ thể như: Thực hiện chính sách tiền tệ và bảo

đảm hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả; nâng cao hiệu quả thực thi các biện

pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự và đặc biệt là cần dựa trên

những nguyên lý của trái quyền, trái quyền bảo đảm, mang tính đối nhân... Cũng

từ các quan điểm mang tính nền tảng này, Luận án đưa ra các giải pháp bổ sung

và hoàn thiện pháp luật mà trước hết là việc hoàn thiện chế định bảo lãnh trong

Bộ luật Dân sự với tư cách là các quy định mang tính nền tảng, sau đó là việc

hoàn thiện các quy định về bảo dảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp

bảo lãnh.

Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu của Luận án này sẽ góp một phần nhỏ bé

vào việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định bảo lãnh cũng như đảm bảo an toàn

cho các quan hệ tín dụng trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại.

Page 153: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Tư pháp, “Bộ luật Dân sự Campuchia”, (Tài liệu của Ban soạn thảo,

Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi).

2. Bộ Tư pháp, “Bộ luật Dân sự Vương quốc Thái Lan, (Tài liệu của Ban

soạn thảo, Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi).

3. Bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội,

năm 2002.

4. Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp, (Tài liệu dịch của Nhà Pháp luật Việt –

Pháp).

5. Nguyễn Xuân Bang, Trưởng Phòng Công chứng số 6 TP Hà Nội, Hiểu

thế nào về thế chấp và bảo lãnh theo quy định của Bộ luật Dân sự?”,

http://phapluatxahoi.vn/phap-luat/hieu-the-nao-ve-the-chap-va-bao-lanh-theo-

quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-49852.

6. Chính phủ, Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao

dịch bảo đảm.

7. Chính phủ, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo

đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.

8. Chính phủ, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2007 về giao

dịch bảo đảm

9. Chính phủ, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi,

bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về

giao dịch bảo đảm

10. Cần nhìn nhận đúng bản chất của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng

đất để bảo đảm nghĩa vụ của người thứ ba – (theo Thu Trang, Thanh tra Ngân

hàng), http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=4522

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 198.

Page 154: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

151

12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Tài liệu của Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.278.

13. Phạm Văn Đàm, “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng

tín dụng ngân hàng”. Luận văn Thạc sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và

Pháp luật (1998).

14. Trương Thị Kim Dung, “Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng

tín dụng ngân hàng ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật

Hà Nội (1997).

15. Hoàng Duy – “Rủi ro nhận thế chấp tài sản của bên thứ ba”, trên:

http://tinnhanhchungkhoan.vn/phap-luat/rui-ro-nhan-the-chap-tai-san-cua-ben-

thu-ba-16526.html

16. Trương Thanh Đức - Brandco Lawfirm - Pháp luật điều chỉnh hoạt

động bảo lãnh ngân hàng của tổ chức tín dụng (Phần 2). (Nguồn:

dangthanglawyer.wordpress.com).

17. Nguyễn Ngọc Điện – Trường Đại học Kinh tế – Luật TP. Hồ Chí Minh

– “Sự cần thiết của việc xây dựng các chế định vật quyền và trái quyền trong luật

dân sự”, http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/12/13/

18. Nguyễn Ngọc Điện – Trường Đại học Kinh tế – Luật TP. Hồ Chí Minh

– “Xây dựng lại hệ thống pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trên cơ sở lý thuyết vật

quyền và trái quyền” - http://www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/kinh-te-dan-

su/xay-dung-lai-he-thong-phap-luat-ve-bao-111am-nghia-vu-tren-co-so-ly-

thuyet-vat-quyen-va-trai-quyen

19. Ephimova. L.G, “Bảo lãnh – một biện pháp bảo đảm tiền vay”, Tạp

chí Kinh tế và Pháp luật, số 6, năm 1994.

20. Giáo trình Luật Ngân hàng, Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công

an nhân dân, Hà Nội năm 2006, tr. 47;

21. Giáo trình Luật Ngân hàng, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà

xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 59.

Page 155: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

152

22. Bùi Đức Giang, Công ty Luật Audier and Partners Vietnam LLC,

“Chế định bảo lãnh của Việt Nam – Nhìn từ góc độ luật so sánh” trên Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp số 16 (224), tháng 8/2012.

23. Bùi Đức Giang, “Một số hạn chế của quy định pháp luật về gọi bảo

lãnh” Tạp chí Ngân hàng số 23, tháng 12/2012.

24. Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có

bài trình bày tổng quát về pháp luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện

pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về bảo lãnh. Tài liệu Tọa đàm do

Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự.

25. Nguyễn Thị Hạnh, Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế, Bộ Tư pháp, “Một số

vấn đề về cấu trúc, vật quyền và trái quyền trong Bộ luật Dân sự Đức mà Việt

Nam có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tài

liệu của Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi.

26. Lê Hồng Hạnh – “Về các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng”, Tạp

chí Luật học, số 1 năm 1996.

27. Bùi Vân Hằng, “Điều chỉnh pháp luật về bảo lãnh trong hoạt động cho

vay của ngân hàng thương mại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật

Đại học Quốc gia Hà Nội (2008).

28. Lê Thu Hiền, “Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng

ngân hàng”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội (2003).

29. Nguyễn Am Hiểu, “Hoàn thiện pháp lý về biện pháp bảo đảm nhìn từ

quyền tự do hợp đồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 4 năm 2004.

30. Hồ Quang Huy, Bộ Tư pháp, “Hoàn thiện các quy định về bảo lãnh

trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”, bài viết trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,

http://www.moj.gov.vn/tcdcpl/tintuc/Lists/NghienCuuTraDoi/View_detail.aspx?

ItemID=404

31. Nguyễn Thị Thu Hường, “Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của các tổ

chức tín dụng, thực trạng và kiến nghị”, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà

Nội (2009).

Page 156: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

153

32. Phạm Công Lạc, “Bản chất các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa

vụ”, Tạp chí Luật học, số 34, năm 1996.

33. Phan Văn Lãng, "Bảo lãnh tài sản - cần bàn thêm", Tạp chí Ngân hàng,

số 7, năm 2006.

34. PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân

sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, năm 2008

35. Nguyễn Thành Long, “Những vấn đề pháp lý về bảo lãnh ngân hàng”,

Luận văn Thạc sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội,

năm 1999.

36. Vũ Hồng Minh, “Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về

bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội”, Luận

văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2009).

37. Lê Nguyên, “Bảo lãnh và tín dụng dự phòng”, Nxb Thống kê, Hà Nội,

năm 1997.

38. “Những quy định chung của Luật hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ”,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1993

39. Ngân hàng Nhà nước, “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với

khách hàng”, được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày

31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

40. Olsanưi A.I., Tín dụng ngân hàng: Kinh nghiệm ở Nga và các nước

trên thế giới, Matxcơva, 1997.

41. Nguyễn Văn Phương, “Hoàn thiện pháp luật bảo đảm tiền vay trong

bối cảnh hội nhập” của Tạp chí Ngân hàng số11/2007.

42. Quốc hội, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995.

43. Quốc hội, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005.

44. Quốc hội, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015.

45. Quốc hội, Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997.

46. Quốc hội, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

Page 157: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

154

47. Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và

năm 2014

48. Rủi ro kép từ tài sản bảo đảm của bên thứ ba (theo Báo Đầu tư chứng

khoán) -http://muabannhadat.com.vn/PrintNews.aspx?id=34614

49. Trần Thị Minh Tâm, “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của

các tổ chức tín dụng”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội (2003).

50. Đỗ Hồng Thái, “Hợp đồng bảo lãnh không thể xem là hợp đồng phụ

của hợp đồng tín dụng” - (saigonminhluat.com).

51. Đỗ Hồng Thái - “Tính lệ thuộc của nghĩa vụ bảo lãnh, một vấn đề

ngân hàng cho vay cần quan tâm, http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/

52. Nguyễn Bích Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội – Các biện

pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi), trên:

http://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=41220151

41723897712&MaMT55.

53. Lê Thị Thu Thủy, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, “Bảo đảm

tiền vay bằng các tổ chức tín dụng”, Kỷ yếu Hội thảo thực trạng pháp luật về vốn

và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, năm 2002.

54. Võ Đình Toàn, “Một số vấn đề về quan hệ bảo lãnh ngân hàng ở nước

ta hiện nay” của Tạp chí Luật học, số 3 năm 2002.

55. Nguyễn Thùy Trang, “Một số nội dung pháp lý liên quan tới bảo lãnh

đối với hợp đồng tín dụng” Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 5 (326)

tháng 3/2011.

56. Nguyễn Thùy Trang, Công ty Công nghiệp Hóa chất mỏ - TKV, “Biện

pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng

thương mại: Một số nhận định từ góc độ pháp lý đến thực tiễn” -

http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/.

57. Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang, “Hợp đồng tín dụng và biện pháp

bảo đảm tiền vay”, đồng tác giả, NXB Tư pháp, Hà Nội – 2012.

Page 158: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

155

58. Phạm Văn Tuyết, “Bàn về biện pháp bảo lãnh”, Tạp chí Luật học, số 1,

năm 1999.

59. Vũ Văn Tuyên - “Một số vấn đề của quan hệ bảo lãnh bằng tài sản của

bên thứ ba để đảm bảo nghĩa vụ vay vốn ngân hàng”

http://congchungdatcang.com.vn.

60. Nguyễn Văn Tuyến, “Những khía cạnh pháp lý cơ bản của giao dịch

bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng”, Trường Đại học Luật

Hà Nội, http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/03/14/2352/

61. Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp và Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội,

2006, tr.43.

62. Nguyễn Như Ý, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin xuất

bản năm 1999, tr.79.

Tiếng Anh

63. Georges Affaki, Roy Goode (2011), Guide to ICC Uniform Rules for

Demand Guarantees (UDRG 758),

64. ICC Publication, Paris.ICC Publication No.325 (1978), Uniform Rules

for Contract Guarantees.

65. ICC Publication No.458 (1992), Uniform Rules for Contract

Guarantees.

66. Rocland F.Betrams (1992), Bank guarantees in international trade.

Page 159: PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN …

156

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

1. “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng”, đăng

trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật của Bộ Tư pháp, số tháng 11 năm 2011.

2. “Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng và những vướng mắc khi công

chứng hợp đồng bảo đảm”, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện

Nhà nước và Pháp luật, số tháng 1 năm 2012.

3. “Chế định bảo lãnh theo pháp luật của một số nước và bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử số tháng 5

năm 2015 (ngày 8/5/2015).

4. “Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng những biện pháp bảo lãnh

từ những nguyên lý trái quyền”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử

số tháng 8 năm 2015 (ngày 28/8/2015).