20
POLICY REPORT BÁO CÁO CHÍNH SÁCH S02 – Tháng 04/2016 VẤN ĐỀ NGUYÊN TẮC XUẤT XỨ VỀ DỆT MAY TRONG TPP VÀ EVFTA Nguyễn Vũ Nhật Anh Hà Minh Trường Hoàng Công Vân Hạ Centre for International Studies TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ

Policy Report 02.pdf

  • Upload
    vucong

  • View
    232

  • Download
    9

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Policy Report 02.pdf

POLICY REPORT BÁO CÁO CHÍNH SÁCH

Số 02 – Tháng 04/2016

VẤN ĐỀ NGUYÊN TẮC XUẤT XỨ VỀ DỆT MAY

TRONG TPP VÀ EVFTA

Nguyễn Vũ Nhật Anh

Hà Minh Trường

Hoàng Công Vân Hạ

Centre for International Studies TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ

Page 2: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 1

VẤN ĐỀ NGUYÊN TẮC XUẤT XỨ VỀ DỆT MAY

TRONG TPP VÀ EVFTA

Nguyễn Vũ Nhật Anh1

Hà Minh Trường

Hoàng Công Vân Hạ

Tháng 04/2016

1 Nghiên cứu viên cộng tác của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS), Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

Tp.HCM. Báo cáo được tiến hành trong khuôn khổ chương trình nghiên cứu “Việt Nam và làn sóng hội nhập năm

2016” của SCIS và các đối tác. Mọi hình thức sao chép đối với các bài bình luận này đều phải có sự cho phép của

Trung tâm SCIS cũng như xác nhận từ tác giả. Các sản phẩm của SCIS-Policy Report có thể được xem và download

trên trang website http://scis.hcmussh.edu.vn/

Những phản hồi cho bài bình luận xin vui lòng gửi thư về địa chỉ của ban biên tập chuyên mục:

[email protected]

Page 3: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 2

1. Đặt vấn đề

Được nói nhiều như một lập luận ủng hộ

quyết định tham gia Hiệp định đối tác

xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Việt

Nam, nhiều ý kiến cả trong nước lẫn quốc

tế cho rằng Việt Nam là quốc gia hưởng lợi

nhiều nhất từ hiệp định này.2 Các ý kiến

phần lớn trích dẫn lại thông tin từ một báo

cáo của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson,

trong đó cho thấy mức tăng GDP ở kịch bản

có TPP của Việt Nam so với các quốc gia

khác đến 2025, là đáng kể nhất, xấp xỉ 14%.3

Nhận định này được chia sẻ bởi báo cáo

Triển vọng Kinh tế Toàn cầu của World

Bank, trong đó cho rằng GDP của Việt Nam

tới năm 2030 cao hơn 10% so với kịch bản

không TPP.4 Riêng dệt may, một trong

những ngành xuất khẩu thế mạnh của Việt

Nam, cũng được dự báo có mức tăng

trưởng đáng kể, do khả năng tiếp cận thị

2 Saigon Times (7/1/2016), “Việt Nam, Malaysia

hưởng lợi từ TPP nhiều nhất”,

http://www.thesaigontimes.vn/140867/Viet-Nam-

Malaysia-huong-loi-tu-TPP-nhieu-nhat.html;

Bloomberg (9/10/2015), “The Biggest Winner From

TPP Trade Deal May Be Vietnam”,

http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-10-

08/more-shoes-and-shrimp-less-china-reliance-for-

vietnam-in-tpp. 3 Peter A. Petri; Michael G. Plummer (6/2012), The

Trans-Pacific Partnership and Asia-Pacific Integration:

Policy Implications, Peterson Institute for International

Economics, http://www.iie.com/publications/pb/pb12-

16.pdf, p. 6. 4 World Bank (6/1/2016), Global Economic Outlook,

http://www.worldbank.org/content/dam/Worldbank/

GEP/GEP2016a/Global-Economic-Prospects-January-

2016-Spillovers-amid-weak-growth.pdf, p. 227.

trường lớn nhất hiện giờ là Mỹ, được mở

rộng thông qua TPP.5

Đặc trưng của các thống kê này đó là việc

sử dụng mô hình giả lập, trong đó xem xét

khả năng tăng trưởng thương mại tác động

lên GDP khi hàng rào thuế quan về mức

zero, dựa trên các thỏa thuận của TPP. Mô

hình giả định này không tính tới các hàng

rào phi thuế quan khá phức tạp, vốn đóng

vai trò là điều kiện quyết định đến lộ trình

cắt giảm thuế quan theo thỏa thuận. Trong

trường hợp của may mặc Việt Nam chẳng

hạn, tiêu chuẩn kĩ thuật đáng chú ý nhất

trong TPP là tiêu chuẩn về quy tắc xuất xứ

“từ sợi trở đi – yarn forward”.

Báo cáo này theo đó khảo sát khả năng đáp

ứng tiêu chuẩn xuất xứ “từ sợi trở đi” của

xuất khẩu may mặc Việt Nam, qua đó đánh

giá khả năng hưởng lợi của ngành với các

điều kiện hiện tồn khi TPP có hiệu lực.

Trong phần cuối, báo cáo sẽ thảo luận một

số hướng giải quyết các vấn đề được chỉ ra

trong phần nội dung, đồng thời đánh giá sơ

bộ về khả năng hiện thực hóa các giải pháp

đó.

2. Khái quát về nguyên tắc xuất xứ

trong TPP và EVFTA

Theo định nghĩa của Trung tâm WTO và

Hội nhập – VCCI của Phòng Thương mại và

Công nghiệp Việt Nam, Trong thương mại

5 AmCham Vietnam, “Textiles to benefit most from

TPP: CIEM, MoIT”, http://www.amchamvietnam.com/30442989/textiles-to-benefit-most-from-tpp-ciem-moit/.

Page 4: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 1

quốc tế, quy tắc xuất xứ hàng hóa là tập hợp

các quy định nhằm xác định quốc gia nào

được coi là đã sản xuất ra hàng hóa (nước

xuất xứ của hàng hóa).6

TPP: Nguyên tắc xuất xứ “yarn-

forward” – tất cả các công đoạn từ

xe sợi trở đi đều phải được xác định

có xuất xứ nội khối theo các phương

thức xác định được quy định trong

hiệp định.7

EVFTA: Nguyên tắc xuất xứ “fabric-

forward” – tất cả các công đoạn từ

dệt vải trở đi đều phải được xác

định có xuất xứ nội khối theo các

phương thức xác định được quy

định trong hiệp định.8

Có thể thấy, nguyên tắc xuất xứ trong TPP

khó đáp ứng hơn so với EVFTA, khi yêu

cầu cả 3 công đoạn chính đều phải có xuất

xứ nội khối.

6 Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI, Hiệp định về Quy tắc

Xuất xứ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. 7 Tham khảo: Cận cảnh TPP, Thời báo Kinh tế Sài gòn,

Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI. 8 Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI, Tóm lược Hiệp

định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Phòng

Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

3. Cơ sở lý thuyết về chuỗi giá trị toàn

cầu - Chuỗi giá trị ngành dệt may

3.1. Cơ sở lý thuyết về chuỗi giá trị toàn

cầu

Phần lớn nền tảng lý thuyết về chuỗi giá trị

toàn cầu được đóng góp bởi các nghiên cứu

của Gereffi và các đồng sự. Thực tế, có một

số các khái niệm có nội hàm tương tự nhau

để chỉ mạng lưới sản xuất hình thành trong

nền kinh tế thế giới. Mỗi khái niệm này lại

có những trọng tâm khác nhau, tùy vào góc

độ tiếp cận để phân tích một chuỗi giá trị cụ

thể.9 Một số ví dụ cho các khái niệm này

bao gồm:

Chuỗi cung ứng: tên gọi chung để chỉ

chu trình từ đầu vào đến đầu ra gồm

các hoạt động giá trị gia tăng, bắt đầu

từ nguyên liệu thô và kết thúc ở sản

phẩm hoàn thiện.

Mạng lưới sản xuất quốc tế: tập trung

vào mạng lưới sản xuất ở tầm quốc tế,

9 Gary Gereffi; John Humphrey; Raphael Kaplinsky;

Timothy J. Sturgeon, Introduction: Globalisation, Value

Chains and Development, IDS Bulletin 32.3, 2001,

Institute of Development Studies, p. 3.

Page 5: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 2

trong đó các tập đoàn đa quốc gia đóng

vai trò như những “đầu tàu trong mạng

lưới toàn cầu”.10

Chuỗi hàng hóa toàn cầu: nhấn mạnh

vào cơ cấu quản trị bên trong các chuỗi

cung ứng (phân biệt giữa tính chất chi-

phối-bởi-người-bán hay chi-phối-bởi-

người-mua) cũng như vai trò của các

công ty lớn trong việc hình thành lên

những mạng lưới sản xuất và cung

ứng.11

Khái niệm “chuỗi giá trị” trong đó là trường

hợp được sử dụng rộng rãi nhất, được hiểu

là tất cả các hoạt động nhằm đưa một sản

phẩm từ khâu ý tưởng đến hình thành đầu

cuối, và xa hơn nữa. Cụ thể, có các hoạt

động này có thể được khái quát hóa qua các

bước bao gồm thiết kế, sản xuất, marketing,

phân phối và chăm sóc khách hàng.12

Chuỗi sản xuất hàng hóa toàn cầu có thể

được phân loại thành hai dạng: chuỗi sản

xuất chi phối bởi người mua (buyer-driven)

mà chuỗi sản xuất chi phối bởi người bán

(producer-driven).13

10 Borrus, M., Ernst, D. and Haggard, S. (2000)

International Production Networks in Asia: Rivalry or

Riches?, London: Routledge. 11 Gereffi, G. (1994), The Organisation of Buyer-driven

Global Commodity Chains: How U.S. Retailers Shape

Overseas Production Networks, in G. Gereffi and M.

Korzeniewicz (eds), Commodity Chains and Global

Capitalism, Westport, CT: Praeger: 95–122. 12 Gary Gereffi; Karina Fernandez-Stark, Global Value

Chain Analysis: A Primer, Center on Globalization,

Governance & Competitiveness (CGGC) Duke

University Durham, North Carolina, USA, p. 4. 13 Gary Gereffi (1999), A Commodity Chains Framework

for Analyzing Global Industries,

https://www.ids.ac.uk/ids/global/pdfs/gereffi.pdf.

Chuỗi sản xuất chi phối bởi người bán là

hình thức chuỗi sản xuất hàng hóa trong đó

các nhà sản xuất quy mô lớn, thường là các

công ty xuyên quốc gia hợp nhất theo chiều

dọc đóng vai trò trung tâm trong việc hình

thành các mạng lưới sản xuất quốc tế. Hình

thức này đặc trưng với các ngành thâm

dụng vốn và công nghệ như sản xuất ô tô,

máy bay, máy vi tính, nguyên liệu bán dẫn

hay máy móc công nghiệp nặng.

Chuỗi sản xuất chi phối bởi người mua ám

chỉ những ngành trong đó những nhà bán

lẻ, các nhà buôn và các nhà sản xuất có

thương hiệu đóng vai trò chi phối trong

việc hình thành nên các mạng lưới sản xuất

tập trung tại các quốc gia xuất khẩu, chủ

yếu là các nước đang phát triển. Hình thức

này xuất hiện chủ yếu trong các nhóm

ngành thâm dụng lao động, sản xuất hàng

tiêu dùng như dệt may, da giày, đồ gia

dụng… Đặc điểm chính của chuỗi giá trị do

người mua quyết định là sự thúc đẩy hình

thành và phát triển mạng lưới các khu chế

xuất thực hiện thuê gia công toàn cầu cho

các nhà bán lẻ.

Gereffi và đồng sự cũng đóng góp cách tiếp

cận tổng quát về “nâng cấp” – hay cách một

doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp

có thể tiến lên những nấc giá trị cao hơn

trong chuỗi.14 Cụ thể:

Nâng cấp sản phẩm: doanh nghiệp

chuyển hướng sản xuất những dòng

sản phẩm phức tạp hơn (được hiểu là

các sản phẩm có giá trị cao hơn).

14 Gereffi, G. (1999) ‘International Trade and

Industrial Upgrading in the Apparel Commodity

Chain’, Journal of International Economics 48: 37–70.

Page 6: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 3

Nâng cấp quy trình: doanh nghiệp cải

thiện quy trình từ đầu vào đến đầu ra

hiệu quả hơn bằng công nghệ mới hay

tái tổ chức lại hệ thống sản xuất. Ví dụ:

sự chuyển hướng từ sản xuất thủ công

sang sản xuất hàng loạt (mass

production) hay sau đó nữa là sản xuất

tinh gọn (lean production).Nâng cấp nội

chuỗi giá trị: hình thức này liên quan

đến việc tiến lên các bậc giá trị cao hơn

trong cùng một chuỗi giá trị. Doanh

nghiệp có thể mở rộng thêm các chức

năng mới trong chuỗi, như chuyển từ

sản xuất sang khâu thiết kế hay

marketing (nâng cấp chức năng). Mặt

khác, doanh nghiệp có thể mở rộng cả ở

những bước trung gian sau hay trước

trong chuỗi, chẳng hạn như chuyển từ

lắp ráp hoàn thiện sản phẩm sang sản

xuất nguyên liệu trung gian hay

nguyên liệu đầu vào (nâng cấp qua hội

nhập theo chiều dọc). Ngoài ra, doanh

nghiệp có thể đa dạng hóa các đối tác

mua-cung ứng thuộc cùng một chuỗi

giá trị. Ví dụ, một doanh nghiệp may

mặc có thể mở rộng các đối tác bán lẻ,

hay các nhãn hiệu khác nhau để tăng

giá trị đơn hàng (nâng cấp mạng lưới).

Nâng cấp liên chuỗi giá trị: trường hợp

này xảy ra khi doanh nghiệp ứng dụng

khả năng của mình trong một chuỗi giá

trị nhất định lên một chuỗi giá trị thuộc

nhóm ngành khác. Chẳng hạn, một

công ty hay một nhóm công ty chuyên

sản xuất vật liệu graphite có thể chuyển

từ sản xuất gậy đánh golf hay vợt

tennis sang sản xuất xe đạp, cần câu cá

chuyện nghiệp, hay thậm chí là bộ

phận máy bay.

3.2. Chuỗi giá trị ngành dệt may

Ngành dệt may là một trường hợp của

chuỗi giá trị do người mua chi phối, việc tạo

ra sản phẩm cuối cùng phải qua nhiều công

đoạn và hoạt động sản xuất thường được

tiến hành ở nhiều nước. Trong ngành này,

các nhà sản xuất với thương hiệu nổi tiếng,

các nhà buôn, nhà bán lẻ lớn đóng vai trò

then chốt trong việc thiết lập mạng lưới sản

xuất và định hình việc tiêu thụ hàng loạt

thông qua các thương hiệu mạnh và sự phụ

thuộc của chúng vào những chiến lược thuê

gia công toàn cầu nhằm thỏa mãn nhu cầu

này.15

Theo nghiên cứu của Gereffi và

Memodovic, chuỗi giá trị ngành dệt may

bao gồm năm phân khúc được thể hiện như

hình (xem phụ lục 01).

Ở một góc độ khác, có thể tiếp cận chuỗi giá

trị ngành dệt may dựa trên quá trình phân

công lao động ở cấp độ toàn cầu. Theo đó,

có sáu hoạt động giá trị gia tăng trong chuỗi

giá trị này được xác định: (1) khâu nghiên

cứu phát triển (R&D); (2) thiết kế; (3) sản

xuất (nguyên phụ liệu và may hoàn chỉnh

sản phẩm); (4) hậu cần (thâu mua và phân

phối); (5) marketing và thương hiệu; và (6)

dịch vụ. Một điều có thể rút ra từ sơ đồ

dưới đây đó là các khâu đem lại nhiều giá

trị, và theo đó là nhiều lợi nhuận nhất là

15 Gereffi, G. (1999), ibid.

Page 7: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 4

những khâu thuộc về tri thức và dịch vụ,

xuất hiện ở đầu và cuối chuỗi:

Hoạt động chính của sản xuất dệt may là

quá trình gia công công nghiệp hoàn thiện,

bao gồm cắt, may gia công và đóng gói.

Quá trình này được gọi là Cắt-may-gia công

(cut-make-trim – CMT), có tính thâm dụng

lao động. Đầu vào của quá trình này là các

nguyên liệu dệt may và các nguyên liệu đầu

vào khác, còn đầu ra chính là các kênh phân

phối sản phẩm dệt may. Quá trình này thể

hiện cả đầu vào và đầu ra của chuỗi cung

ứng, bao gồm cả các dịch vụ logistics và

buôn bán sản phẩm. Các công đoạn còn lại

như xây dựng thương hiệu và thiết kế sản

phẩm được thực hiện một cách riêng biệt

dựa trên thông tin thu thập được qua quá

trình phân phối và tiếp thị. Nhóm doanh

nghiệp thứ hai là các nhà sản xuất theo đơn

hàng (xem phụ lục 02).

Cũng như mô hình Cắt-may-gia công

(CMT), các doanh nghiệp này cũng mua các

nguyên liệu đầu vào cần thiết. Các doanh

nghiệp này được gọi là “Freight on Board”

(FOB) loại 1 bởi họ được thanh toán với giá

thành trọn gói cho sản phẩm xuất khẩu, chứ

không chỉ tiền gia công sản phẩm (như

trường hợp các nhà máy gia công). Nhóm

các doanh nghiệp sản xuất thiết bị gốc

(OEM) hay FOB loại II bao gồm các doanh

nghiệp có khả năng tự chủ động tìm nguồn

nguyên liệu đầu vào. Nhóm doanh nghiệp

thứ tư là các công sản xuất thiết kế gốc

(ODM). Các doanh nghiệp này mở rộng

hoạt động của họ sang cả các hoạt động

thiết kế, phân phối và tiếp thị. Mô hình

doanh nghiệp thứ năm, công ty sản xuất

thương hiệu gốc (OBM), bao gồm tất cả các

công đoạn trong sản xuất hàng dệt may,

trong đó có cả phát triển thương hiệu. Năm

loại hình doanh nghiệp này có giá trị gia

tăng khác nhau và đối diện với rủi ro

thương mại ở từng cấp độ khác nhau tùy

thuộc vào lĩnh vực họ tham gia (xem phụ

lục 03).16

4. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam

4.1. Tổng quan

Dựa trên báo cáo ngành dệt may của FPT

Securities vào tháng 4/2014,17 số lượng công

ty ở Việt Nam về lĩnh vực dệt may nằm

trong khoảng 6000 công ty với cơ cấu theo

hình thức sở hữu bao gồm Tư nhân 84%;

FDI 15%; Nhà nước 1%. Trong đó, các công

ty chuyên về may chiếm 70%; Se sợi chiếm

6%; Dệt vải 17%; Nhuộm và phụ trợ khác

7%.18

16 Phạm Minh Đức và nhóm tác giả, ibid. 17 Bùi Văn Tốt, Báo cáo ngành dệt may, FPT Securities,

4/2014, p. 11. 18 Bùi Văn Tốt, ibid.

Page 8: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 5

84%

15%

1%

Cơ cấu công ty theo hình thức sở hữu(6000 công ty)

Tư nhân FDI Nhà nước

Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm may

mặc của Việt Nam hiện nay vẫn đều sản

xuất theo phương thức gia công đơn giản,

thiếu khả năng cung cấp trọn gói. Theo

thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam,

năm 2010, tỷ lệ xuất khẩu hàng may mặc

theo phương thức gia công CMT vẫn chiếm

chủ yếu (khoảng 60%),19 xuất khẩu theo

phương thức FOB chỉ khoảng 38% và chỉ có

2% xuất khẩu theo phương thức ODM. Các

doanh nghiệp Việt Nam xuất hàng theo

FOB cũng chỉ chủ yếu ở mức FOB I nên giá

trị gia tăng của ngành còn thấp, chỉ chiếm

khoảng 20% so với kim ngạch xuất khẩu, tỷ

suất lợi nhuận chỉ khoảng 5-10% và phải

nhập khẩu đến 70-90% nguyên phụ liệu.

19 Con số này đến năm 2014 tăng lên 85%. Xem thêm:

Bùi Văn Tốt (2014), Báo Cáo Ngành Dệt May, FPT

Securities.

70%

6%

17%

7%

Cơ cấu công ty theo hoạt động

May Se sợi Dệt vải Nhuộm và phụ trợ khác

CMT

85%

FOB

13%

ODM

2%

Cơ cấu doanh nghiệp Việt Nam theo phương thức sản xuất

4.2. Thương mại

Các thị trường xuất khẩu hàng may mặc

chính của Việt Nam gồm có Mỹ, Liên minh

Châu Âu (EU) và Nhật Bản. Trong khối EU,

Đức, Anh, Tây Ban Nha và Hà Lan là

những đối tác lớn nhất của Việt Nam. Tuy

nhiên, thị phần của hàng xuất khẩu Việt

Page 9: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 6

Nam tại các quốc gia này đang có chiều

hướng suy giảm so với các thị trường mới

khác.20

Xuất khẩu hàng dệt may thường bao gồm

cả hàng dệt thoi và dệt kim. Tỷ lệ hàng dệt

kim đã dần tăng lên và hiện đã chiếm

khoảng một nửa giá trị xuất khẩu hàng dệt

may Việt Nam. Do hàng dệt thoi có giá cao

hơn hàng dệt kim, sự tăng trưởng của hàng

dệt kim chủ yếu đi vào số lượng.21

20 Phạm Minh Đức và nhóm tác giả, ibid, p. 2. 21 Phạm Minh Đức và nhóm tác giả, ibid, p. 2.

4.3. Các khâu trong chuỗi sản xuất dệt

may Việt Nam

4.3.1. Bông, sợi

Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu hầu hết các

sản phẩm bông, xơ để phục vụ nhu cầu nguyên

liệu cho ngành sợi. Trong nhiều năm liền, khối

lượng và giá trị nhập khẩu các nguyên liệu đầu

vào cho ngành dệt may nước ta gia tăng liên

tục ở tất cả các sản phẩm bông, xơ, và sợi.

2012 2013 2014

Sản xuất sợi từ bông và polyester/tơ nhân tạo (ngàn tấn)

680 720 828

Sợi xuất khẩu (ngàn tấn)

628 720 858

Sợi nhập khẩu (ngàn tấn)

646 695 740

Nguồn: Hiệp hội bông sợi Việt Nam (VCOSA)

Lí do nằm ở việc Việt Nam không có lợi thế

cạnh tranh tự nhiên. Bên cạnh đó, khâu

trồng bông cũng không được chú trọng từ

góc độ vĩ mô. Trồng bông là ngành thâm

dụng tài nguyên đất, phụ thuộc nhiều vào

các điều kiện thời tiết đặc thù vốn ít thuận

lợi tại Việt Nam. Điều kiện sản xuất bông

tại Việt Nam nhìn chung là lạc hậu, ít tận

dụng công nghệ, quy mô manh mún, phụ

thuộc vào hình thức sản xuất hộ nông dân

với năng suất thấp. Năng suất bông của

Việt Nam so với Mỹ - thị trường nhập khẩu

bông lớn nhất của Việt Nam, chỉ bằng một

phần ba.22 Trong nhiều năm, ngành sợi Việt

Nam phụ thuộc chủ yếu vào nguồn bông

ngoại nhập.

22 Đặng Thị Tuyết Nhung; Đinh Công Khải (2011),

Chuỗi giá trị ngành Dệt may Việt Nam, Chương trình

giảng dạy kinh tế Fulbright, p. 7.

Page 10: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 7

Về hoạt động sản xuất sợi, năm 2010, ngành

công nghiệp sợi Việt Nam có 70 doanh

nghiệp, tập trung chủ yếu ở khu vực miền

Bắc (31 doanh nghiệp) và khu vực miền

Nam (33 doanh nghiệp) với quy mô

3.656.756 cọc sợi và 104.348 rotor, giá trị

xuất khẩu đạt khoảng 336 triệu USD.

Ngành sợi đã có sự phát triển nhanh chóng

trong những năm qua, năm 2004 giá trị xuất

khẩu của ngành chỉ đạt 13,2 triệu USD thì

đến năm 2008 đạt 89,7 triệu USD và hiện

nay đã tăng gần gấp 4 lần so với giá trị xuất

khẩu năm 2008.23

357,4 327,1417,9

582,3

757,8

2010 2011 2012 2013 2014

Kim ngạch nhập khẩu bông của

Việt Nam (đơn vị: nghìn tấn)

Nhập khẩu bông của Việt Nam theo nước

từ năm 2012 đến năm 2014

Đơn vị: nghìn tấn

Nước xuất

khẩu

Năm

2012 2013 2014

Mỹ 127 215 219

Ấn Độ 53 105 156

Brazil 61 38 80

Nguồn: VietTrade

23 Nguồn: Báo cáo khảo sát năng lực sản xuất kinh

doanh ngành sợi Việt Nam năm 2010, Hiệp hội Sợi

Việt Nam

Ngành sợi phát triển như vậy nhưng vẫn

đang tồn tại mâu thuẫn là đa số lượng sợi

sản xuất trong nước được xuất khẩu trong

khi các doanh nghiệp dệt trong nước lại

nhập khẩu sợi từ nước ngoài. Theo Hiệp hội

Sợi Việt Nam, nguyên nhân dẫn đến tình

trạng này là do cung và cầu trong nước

chưa phù hợp với nhau về số lượng và chất

lượng sợi, do đó lượng sợi sản xuất được

chủ yếu để xuất khẩu. Điều này đi ngược

với mục tiêu đặt ra ban đầu khi thành lập

ngành sợi là phục vụ cho chuỗi liên kết sợi-

dệt-nhuộm-may trong nước. Trong số 5 thị

trường nhập khẩu sợi lớn nhất của Việt

Nam, không có quốc gia nội khối TPP nào,

và chỉ có một quốc gia có FTA với EU (Hàn

Quốc).24Nhập khẩu sợi phục vụ sản xuất và

xuất khẩu tăng đều theo từng năm25

Nhập khẩu sợi qua các năm (nguồn: VITAS)

2012 2013 2014 11T/2015

Nhập khẩu

sợi (ngàn 638 692 740 720

24 Đặng Thị Tuyết Nhung; Đinh Công Khải (2011),

tr.9. 25 Số liệu thống kê dựa trên các nguồn:

Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Bản tin kinh tế - Dệt may,

tháng 12 – 2015,

http://www.vietnamtextile.org.vn/images/upload/ban

tinthang/Ban-tin-T12-2015-final.pdf

Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Bản tin kinh tế - Dệt may,

tháng 1 – 2015,

http://www.vietnamtextile.org.vn/images/upload/ban

tinthang/Ban_tin_T1-2015-tong-hop.pdfv

Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Bản tin kinh tế - Dệt

may, Chào xuân Giáp Ngọ,

http://www.vietnamtextile.org.vn/images/upload/ban

-tin-tuan/Ban-tin-Tet-2014.pdf

Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Bản tin kinh tế - Dệt

may, tháng 12 – 2012,

http://www.vietnamtextile.org.vn/images/upload/ban

tinthang/BAN-TIN-VITAS-T12-2012.TONG-HOP.pdf

Page 11: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 8

tấn)

Giá trị

nhập khẩu

sợi (triệu

USD)

1,400 1,514 1,559 1,387

Một nguyên nhân nữa nằm ở ngành may

của Việt Nam, vốn đa số rơi vào hình thức

gia công xuất khẩu, không tự chủ được

nguồn cung nguyên liệu. Các đối tác nước

ngoài theo đó thường chỉ định nguồn sợi

đầu vào quen thuộc với họ, mà không tận

dụng nguồn cung sẵn có tại thị trường

trong nước (xem phục lục 04).

4.3.2. Vải (dệt, nhuộm)

Theo nghiên cứu của CIEM năm 2008, công

đoạn này của Việt Nam “đang chậm hơn

các nước trong khu vực 20%, nhất là công

đoạn nhuộm với 30% máy móc thiết bị cần

khôi phục, hiện đại hóa do đã sử dụng trên

20 năm. Những hạn chế này khiến năng

suất dệt vải của Việt Nam rất thấp, nếu so

với Trung Quốc chỉ bằng 30%.26

Giá trị nhập khẩu vải so với các nguyên liệu

đầu vào nhập khẩu khác là lớn nhất. Giá trị

nhập khẩu vải của Việt Nam tăng đều theo

từng năm, do nguồn cung trong nước

không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất gia

tăng. Tỉ trọng giá trị nhập khẩu vải từ

Trung Quốc vừa duy trì ở mức cao (hơn

40%) vừa tăng tương ứng theo các năm

(xem Phụ lục 05).

Số liệu 10 tháng đầu năm 2015 cho thấy,

trong số 5 thị trường nhập khẩu vải lớn

26 Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương CIEM.

(2008). “Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công

nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam

2004”.

nhất của Việt Nam, chỉ có một nước thuộc

TPP (Nhật Bản) và một đối tác thương mại

của EU (Hàn Quốc). Trong đó, tỉ trọng nhập

khẩu vải từ Nhật Bản hiện chưa đáng kể

(<5%) (xem Phụ lục 06).

4.3.3. Marketing và phân phối

Hoạt động phân phối của các doanh nghiệp

dệt may Việt Nam hiện nay vẫn chưa phát

triển và đang phụ thuộc vào các nhà buôn

nước ngoài. Mạng lưới các nhà mua này bao

gồm: các doanh nghiệp bán lẻ, các nhà sản

xuất, và các nhà buôn.

Những doanh nghiệp bán lẻ, đa số thuộc thị

trường EU, Nhật và Mỹ, họ sở hữu những

thương hiệu hàng đầu quốc tế, những siêu

thị, cửa hàng bán sỉ và bán lẻ. Những nhà

sản xuất nhập sản phẩm (buyer) từ Việt

Nam bao gồm các nhà may mặc quốc tế và

khu vực, các nhà buôn trong khu vực

thường từ Hồng Kông, Đài Loan và Hàn

Quốc.

Các doanh nghiệp bán lẻ lớn tin cậy vào các

nhà buôn (chủ yếu từ Hongkong) để phát

triển mạng lưới cung ứng của họ ở Việt

Nam nhằm giảm chi phí giao dịch. Các

doanh nghiệp đầu tư may mặc nước ngoài

hiếm khi liên hệ trực tiếp với các khách

hàng quốc tế ở Việt Nam, vì nhà cung ứng

của họ thường có văn phòng đại diện đặt ở

Hongkong, Đài Loan hay Hàn Quốc. Họ chỉ

liên hệ với các nhà buôn tại các quốc gia nói

trên. Các nhà buôn này đến lượt mình sẽ

thường làm hợp đồng thuê ngoài gia công

với các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy các

doanh nghiệp Việt Nam (đặc biệt là các

Page 12: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 9

doanh nghiệp nhỏ) phụ thuộc rất lớn vào

các nhà buôn nhỏ trong khu vực.27

Thực tế này khiến các doanh nghiệp dệt

may Việt Nam thường phải thông qua các

nhà cung cấp khu vực để có các hợp đồng

gia công. Rất ít doanh nghiệp dệt may có

được các hợp đồng trực tiếp từ các nhà bán

lẻ để cung cấp sản phẩm của mình. Một số

doanh nghiệp dệt may thì thông qua các

văn phòng đại diện ở Việt Nam của các

thương hiệu nổi tiếng để cung cấp sản

phẩm. Nói cách khác, các doanh nghiệp dệt

may Việt Nam vẫn rất thiếu liên kết với

những người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng

mà chỉ thực hiện các hợp đồng gia công lại

cho các nhà sản xuất khu vực.28

Chính yếu tố này khiến các doanh nghiệp

Việt Nam nhìn chung yếu trong khâu

marketing và phân phối, do hoàn toàn

không có kinh nghiệm thực hiện các khâu

này.

5. Đánh giá khả năng đáp ứng các tiêu

chuẩn của TPP và EVFTA hiện tại –

phương hướng đáp ứng trong 5 năm

tới

Từ các phân tích trên, có thể đưa ra các kết

luận sau:

1. Trong 5 năm tới, khả năng đáp ứng các

tiêu chuẩn về nguồn gốc sợi của TPP

của Việt Nam còn hạn chế. Nếu duy trì

27 Nadvi, K. (2004), Vietnam in The Global Garment And

Textile Value Chain: Impacts on Firms and Workers. 28 Dang Nhu Van (2005), Vietnamese T&G Firms in the

Global Value Chain: If and How value Added pays off?.

tư duy sản xuất hiện tại (chú trọng vào

khâu CMT, không chú trọng nâng cao

hàm lượng nội địa) thì ngành may mặc

Việt Nam sẽ không có được lợi nhuận

cao do giá thành nhập khẩu sợi từ các

nước TPP cao (Nhật Bản) hoặc nhập còn

ở số lượng ít từ đối thủ cạnh tranh trực

tiếp (Malaysia). Với tình hình hiện tại,

việc tiếp thu công nghệ mới, tăng hàm

lượng nguyên liệu nội địa và tái cơ cấu

ngành dệt may là mục tiêu trong dài

hạn của nước ta, thể hiện qua việc tăng

cường vốn đầu tư vào lĩnh vực này

trong năm qua, cũng như tăng cường

đầu tư vào các nhà máy sợi.

2. Đối với tiêu chuẩn về xuất xứ về dệt

may của EVFTA, Việt Nam có khả năng

đáp ứng được các tiêu chuẩn này do

EVFTA chỉ yêu cầu nguyên tắc “fabric-

forward”. Bên cạnh đó, Việt Nam có thể

nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Hàn

Quốc, vốn cũng là một quốc gia tham

gia EVFTA, nhằm tận dụng ưu đãi của

FTA này.

3. Như vậy, trong 5 năm tới, Việt Nam

chưa thể hưởng mức thuế suất ưu đãi từ

nguyên tắc xuất xứ dệt may trong TPP.

Đối với EVFTA Việt Nam đã có những

lợi thế bước đầu và còn có thể tiếp tục

phát huy bằng cách tăng cường nhập

khẩu phụ liệu dệt may từ Hàn Quốc

thay cho Trung Quốc. Bên cạnh đó,

nhóm cũng nêu ra một số giải pháp cho

ngành dệt may như sau:

Page 13: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 10

3.1. Trong dài hạn:

Thay đổi vị trí của Việt Nam trong

chuỗi giá trị toàn cầu, từ chủ yếu

thực hiện công đoạn CMT sang các

vị trí có lợi nhuận lớn hơn như

marketing và phân phối.

Tăng cường hàm lượng nội địa

nguồn nguyên liệu là thách thức cần

vượt qua của ngành dệt may trong

tình trạng nước ta còn phụ thuộc lớn

vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập

chủ yếu từ Trung Quốc.

Tiếp thu công nghệ sản xuất từ các

quốc gia. Khi gia nhập TPP và

EVFTA, Việt Nam sẽ là thị trường

đầu tư quan trọng của các nước khác

vào lĩnh vực dệt may. Do đó, các

doanh nghiệp nước ta bên cạnh việc

liên doanh với các đơn vị nước ngoài

cần tranh thủ tiếp thu công nghệ sản

xuất nhằm tăng cường hàm lượng

nội địa, đáp ứng được yêu cầu của

TPP trong dài hạn.

3.2. Trong ngắn hạn:

Đa dạng hóa nguồn cung cấp

nguyên liệu là biện pháp trước mắt

nhằm đáp ứng yêu cầu của TPP.

Để tăng cường hàm lượng nội địa

cũng như chuyển dịch dần trong

chuỗi giá trị toàn cầu, cần có sự hỗ

trợ từ chính sách của chính phủ

cũng như vai trò của các doanh

nghiệp dệt may trong nước. Doanh

nghiệp phải chủ động thay đổi với

sự hỗ trợ của chính sách Nhà nước./.

Page 14: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 11

PHỤ LỤC 01

CHUỖI GIÁ TRỊ DỆT MAY TOÀN CẦU29

29

Gereffi, Gary and Olga Memedovic. (2003). The Global Apparel Value Chain: What Prospects for Upgrading for Developing Countries (Report). Vienna, Austria: United Nations Industrial Development Organization (UNIDO).

Page 15: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 12

PHỤ LỤC 02

ĐẶC ĐIỂM CÁC MÔ HÌNH KINH DOANH30

30

Phạm Minh Đức và nhóm tác giả, Tạo thuận lợi thương mại, tạo giá trị và năng lực cạnh tranh: gợi ý chính sách cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế Quốc tế – World Bank, pp. 4-5.

Thuật ngữ Giá trị gia tăng Rủi ro

Nhà máy gia

công CMT Dựa hoàn toàn vào sức lao động Không

Nhà sản xuất

theo đơn

hàng

FOB 1 Chênh lệch giữa các đơn hàng cung ứng

và chi phí đầu vào

Nếu nhà cung cấp

chuyển hàng với giá

FOB

OEM FOB 2

Giảm chi phí đầu vao nhưng ít cơ hội

được mua từ các nhà cung cấp lớn do quy

mô nhỏ

Chậm trễ trong quá

trình sản xuất

ODM FOB 3 Có thể giảm chi phí, gia tăng giá trị từ

việc thiết kế – nghiên cứu phát triển

Cần phải được sự

chấp thuận của

người mua

Page 16: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 13

PHỤ LỤC 03

Page 17: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 14

PHỤ LỤC 04

Tỉ trọng nhập khẩu xơ, sợi theo thị trường – 11 tháng đầu năm 2015 (Nguồn: VITAS)

(Màu đỏ là nhóm nội khối TPP; màu xanh là nhóm có FTA với EU)

Thị trường Lượng (tấn) Trị giá (USD) Đơn giá (USD/tấn) Tỉ trọng (lượng) Tỉ trọng (giá)

Trung Quốc 243,321 504,033,235 2,071 33.79% 36.34%

Đài Loan 161,030 270,954,669 1,683 22.37% 19.54%

Hàn Quốc 67,047 149,520,673 2,230 9.31% 10.78%

Thái Lan 66,150 87,023,413 1,316 9.19% 6.27%

Indonesia 42,213 70,126,188 1,661 5.86% 5.06%

Ấn Độ 28,008 67,453,262 2,408 3.89% 4.86%

Malaysia 18,124 19,177,757 1,058 2.52% 1.38%

Nhật Bản 7,758 38,509,788 4,964 1.08% 2.78%

Pakistan 4,781 13,058,328 2,731 0.66% 0.94%

Hongkong 477 3,125,204 6,552 0.07% 0.23%

Hà Lan 170 2,954,647 17,380 0.02% 0.21%

Tổng 720,000 1,387,000,000

Page 18: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 15

PHỤ LỤC 05

Nhập khẩu vải qua các năm

2012 2013 2014 10T/2015

Tổng giá trị (triệu USD) 7,045 8,405 9,428 9,315

Tỉ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc (theo tổng giá trị)

43.2% 46.4% 49.5% 46.13%

Sản lượng vải (tỷ m2) 1 1.3 3

Lượng vải nhập khẩu (tỷ m2) 6 6 6

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Page 19: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 16

PHỤ LỤC 06

Tỉ trọng nhập khẩu vải theo thị trường – 11 tháng đầu năm 2015 (nguồn: VITAS)

(Màu đỏ là nhóm nội khối TPP; màu xanh là nhóm có FTA với EU)

Thị trường Trị giá Tỉ trọng theo giá

Trung Quốc 4,297,375,927 46.13%

Hàn Quốc 1,514,552,000 16.26%

Đài Loan 1,303,933,867 14.00%

Nhật Bản 461,950,713 4.96%

Hongkong 214,215,137 2.30%

Thái Lan 174,543,272 1.87%

Indonesia 59,031,501 0.63%

Italy 52,382,478 0.56%

Ấn Độ 50,036,089 0.54%

Malaysia 41,522,554 0.45%

Pakistan 36,637,599 0.39%

Thổ Nhĩ Kỳ 33,167,630 0.36%

Đức 32,057,613 0.34%

Hoa Kỳ 26,197,992 0.28%

Pháp 6,559,499 0.07%

Anh 6,293,668 0.07%

Singapore 2,291,858 0.02%

Bỉ 1,903,895 0.02%

Philippine 940,974 0.01%

Thụy Sỹ 707,498 0.01%

Tổng 9,315,000,000 100%

Page 20: Policy Report 02.pdf

BÁO CÁO CHÍNH SÁCH – THÁNG 04/2016

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 17

Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế - Centre for International Studies (SCIS) được thành lập theo

quyết định số 232/QĐ-XHVN – TCCB về việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế thuộc

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp.HCM ngày 01 tháng 04

năm 2015.

Với mục tiêu trở thành cơ quan nghiên cứu về các vấn đề quốc tế và chính sách đối ngoại hàng

đầu của khu vực phía Nam, Trung tâm Nghiên cứu quốc tế SCIS tập trung nghiên cứu chuyên

sâu các vấn đề về chính sách đối ngoại Việt Nam, quan hệ quốc tế trong khu vực châu Á – Thái

Bình Dương, tạo ra tri thức mới thông qua các ấn phẩm khoa học chất lượng và xuất bản định

kỳ.

Dựa trên nền tảng kiến thức về quan hệ quốc tế và kinh nghiệm thực tiễn, Trung tâm SCIS thúc

đẩy quá trình tương tác giữa các các học giả và nhà hoạch định chính sách xung quanh các cuộc

tranh luận liên quan đến các vấn đề quốc tế quan trọng và chính sách đối ngoại hiện nay của

Việt Nam.

Đồng thời, Trung tâm SCIS cũng tạo dựng một hệ thống thông tin và kiến thức mang tính phổ

thông, giúp truyền tải một cách đơn giản nhất các vấn đề quan hệ quốc tế đến cộng đồng.

Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS)

A205, 10 – 12 Đinh Tiên Hoàng, P. Bến Nghé, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh

www.scis.hcmussh.edu.vn