46
BGIÁO DC VÀ ĐÀO TO TRƯỜNG ĐẠI HC MTP HCHÍ MINH KHOA SAU ĐẠI HC TIU LUN MÔN QUN TRSTHAY ĐỀ TÀI : NHNG VN ĐỀ CT LÕI TRONG NGHIÊN CU CA SĐỔI MI VÀ CÁCH TÂN Thy hướng dn : Nguyn Hu Lam Trn Hng Hi Nhóm 1: 1. Đào Hùng Anh 2. Trn Thái Bo. 3. Hunh Gia Xuyên. 4. Nguyn Thành Sơn

QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH

KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ SỰ THAY

ĐỀ TÀI :

NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT LÕI TRONG NGHIÊN

CỨU CỦA SỰ ĐỔI MỚI VÀ CÁCH TÂN

Thầy hướng dẫn :

Nguyễn Hữu Lam

Trần Hồng Hải

Nhóm 1:

1. Đào Hùng Anh

2. Trần Thái Bảo.

3. Huỳnh Gia Xuyên.

4. Nguyễn Thành Sơn

Page 2: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT LÕI TRONG NGHIÊN CỨU CỦA SỰ ĐỔI MỚI VÀ CÁCH TÂN.

Quyển sách này chứa đựng các vấn đề đậm chất lý thuyết, đứng trên góc độ phân tích từng tiểu ban riêng biệt và sẽ dọc thời gian với quá trình thay đổi và đổi mới một cách trải rộng. Giống như các lý thuyết khác, điểm quan trọng nhất khi nhìn vào là sự đa dạng về ý tưởng và các thành phần của vấn đề này. Nhưng khi chúng ta nhìn lại xa hơn, về chuẩn mực và vấn đề trung tâm thì vấn đề này là khâu chính của chương này. Thông suốt cuốn sách ba câu hỏi cơ bản được thể hiện chúng như sau:

• Tự nhiên của sự thay đổi là gì? • Chúng ta nghiên cứu sự thay đổi và cách tân như thế nào? • Vấn đề chính gì của lý thuyết cốt lõi cho sự thay đổi và cách tân nên kết hợp như

thế nào?

Chương này sẽ cho nhiều câu trả lời cho các câu hỏi đó và cân nhắc các mối liên quan của chúng đến việc nghiên cứu tương lai trong sự thai đổi và cách tân của tổ chức. đồng thời củng bàn đến nhiều lý thuyết trong quyển sách và sự liên hệ của chúng đến từng lý thuyết một với nhau thông qua sự nhận biết vị trí của chúng có liên quan đến các câu hỏi trên như thế nào.

Chương này được cơ cấu thông qua ba câu hỏi trên. Và chương kế tiếp sẽ bàn về ba quan điểm về sự tự nhiên của thay đổi và cách tân đồng thời cân nhắc các lý thuyết có liên hệ thế nào đến việc trả lời các câu hỏi đó. Ba phương pháp tiếp cận đến thay đổi và cách tân sẽ cho các hướng khác nhau để giải quyết các hiện tượng thực tế của sự thay đổi và cách tân. Sau đó chúng ta chuyển đến các mô hình của việc nghiên cứu sự thay đổi và cách tân. Có ba phương pháp nghiên cứu là, nghiên cứu sự khác biệt, nghiên cứu quy trình, và nghiên cứu theo mô hình. Chúng sẽ cho ta các kết quả về sự thay đổi và cách tân. Phương pháp diễn giải của các mô hình sẽ cho chúng ta các cơ sở lý thuyết mà chúng thực hiện. Trong phần thứ ba của cuốn sách chúng ta sẽ bàn về các khía cạnh chính yếu của sự thay đổi và cách tân của các tổ chức, về lý thuyết cách tân, các mức độ phân tích, về thời điểm. Ba vấn đề này là tiêu chuẩn chung cho các phát triển nghiên cứu trong lĩnh vực này. Chúng tôi mô tả các su hướng hiện hành và các ưu điểm của sự thay đổi dựa trên 3 mặt này và đưa ra các đề xuất về các đặt tuyến có thể trong tương lai cho sự phát triển. Trong chương củng chứa đựng các lý thuyết khác nửa mà không được nhắc đến nhiều trong các chương về sau. Sự tự nhiên của thay đổi là gì?

Một người có thể trả lời câu hỏi này như thế nào dựa trên lý thuyết về sự thay đổi và cách tân của tổ chức. Coi vị trí của sự thay đổi cần một lý thuyết nói lên diện mạo của sự thay đổi và cách tân và để làm lệch đi sự chú ý của các lý thuyết hác. Sự thay đổi là một hiện tượng đa dạng mà các phương pháp đều cố gắn giới hạn chúng. Nhưng khi nhìn vào với từng mặt của vấn đề chúng ta có thể thấy một số câu trả lời rất nổi bật, nhưng ở đây chúng tôi sẽ trả lời câu hỏi này với ba lời giải đáp. Mỗi câu trả lời sẽ tập trung trên

Page 3: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

từng khía cạnh một của sự thay đổi và cách tân. Trong khi không có câu trả lời nào là hoàn thiện cho mọi góc cạnh của sự thay đổi cả. Nhưng nếu tập trung chúng lại thì chúng ta có thể chỉ ra một lý thuyết cho sự thay đổi và cách tân. Lý thuyết của sự thay đổi chống lại lý thuyết thay đổi.

Định nghĩa chủ yếu của sự thay đổi và cách tân là mô tả vai trò của con người trong các quy trình. Theo Binnis’s (1966) có sự vược trội trong các lý thuyết, đã tập trung vào vấn đề thế nào là sự thay đổi của tổ chức và tìm ra các nhân tố của sự thay đổi, và lý thuyết thay đổi thì đã đề cập đến sự thay đổi có thể như thế nào và bằng cách nào có thể quản lý được chúng trong tổ chức đã tỏ ra rất hữu ích. Cách đề cập này đã chỉ ra vai trò của con người trong sự thay đổi của tổ chức trong điều kiện tập trung vào việc có hay không có hoạch định về thay đổi đã bàn bạc bởi Seo tại chương 4. Hoạch định sự thay đổi là một sự hình thành có chủ ý và hoạch định sự thay đổi có hiệu quả như thế nào trong lý thuyết sự thay đổi. Có một quy cách để thực hiện hoạch định sự thay đổi; thay đổi để cải thiện hiện trạng và đạt đến một điểm mà có trạng thái ổn định hơn. Mặt khác, sự không hoạch định có thể có hay không ảnh hưởng bởi nhân tố con người. Nó có thể làm cho tổ chức có thể đạt đến một trạng thái tốt hay xấu. Sự tương phản giữa hoạch định và không hoạch định sự thay đổi tập trung vào sự chú ý ở sự suy giảm trong vấn đề dàng dựng, xây dựng hay điều khiển, lý thuyết của hoạch định sự thay đổi chỉ rỏ phương hướng để thành công và điều khiển quy trình của sự thai đổi. Lý thuyết về sự không hoạch định sự thay đổi, xét trên một phương diện nào đó, cho thấy rằng thay đổi là làm suy giảm lực cho việc bị ám ảnh bởi sự thay đổi nhưng không cần thiết phải có hoạch định hay quản lý nó. Trong khi sự hoạch định hay không hoạch định sự thay đổi có thể được nhìn từ góc độ ngược lại. Thì thật là hữu ích khi chúng ta cân nhắc chúng cùng một lúc. Tất cả sự hoạch định thay đổi xảy ra trong một quy trình tự nhiên trong mọi tổ chức. Ví dụ như, một chiến lược quy trình hoạch định cho sự thay đổi cho một tổ chức xảy ra trong một tổ chức sẽ diễn ra do chính vòng đời của nó và cũng có liên quan đến một phần của của các tổ chức khác. Sự giao nhau của ba quy trình thay đổi đó, một hoạch định và hai quy trình không hoạch định, sẽ tạo nên hình thù của tổ chức và sự hiểu biết của quy trình thay đổi xung quanh có thể cho phép nhà quản trị đưa ra chiến lược một cách hiệu quả hơn. Ngược lại, không hoạch định quy trình thay đổi có thể “Khai hóa” thông qua sự can thiệp vào và làm chuyển theo hướng hữu ích hơn. Để làm được việc này, người lập kết hoạch phải làm theo thói quen tốt cần thiết, để vẻ trên sự hiểu biết của anh ta một quy trình thay đổi. Người hoạch định sử dụng sự quá ngưởng của quy trình để đo đạt vấn đề cần thiết. Tất cả các lý thuyết về sự thay đổi trong cuốn sách này được đánh giá cao, trong đó có lý thuyết của McGrath và Tschan’s Nhóm thích ứng mềm dẻo (ở chương thứ 3), Baum và Rao’s lý thuyết coevolutionary (chương 8), nhiều lý thuyết khác của các học viện được Van de Ven và Hargrave bình luận trong (chương 9), Lewin (chương 5) và Hinings (chương 10), Lý thuyết về văn hóa thay đổi được bình luận bởi Hatch (chương 7) và Dooley bàn về mô hình mềm dẻo (chương 12). Trong khi họ bàn luận và đề ra một số đề nghị cho các lý thuyết về thay đổi của tổ chức, nhưng các lý thuyết chưa thực thiết kế một cách dức khoát các đề nghị trong sự thay đổi. Những chương khác trong sách bàn về sự thay đổi, như woodman và Dewett trong tường sự thay đổi ở (chương 2) và Seo trong hoạch định sự thay đổi của tổ chức (chương 4). Drazin Logic của tổ chức (chương 6). Bởi

Page 4: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

vì lý thuyết của logic học là lý thuyết của sự thay đổi nhưng các nhà quản trì và các nhà hoạt động trong sự thay đổi cũng xem logic là mục tiêu hay mục đích của sự thay đổi trong tổ chức. Lý thuyết của sự thay đổi và cách tân trong tổ chức làm một lý thuyết khoa học, hơn làm một vấn đề về thực hành. Như vậy vấn đề này có sự ưu điển cho các nhà nghiên cứu có thể sử dụng nếu họ có thể hiểu được sự thay đổi và phát triển. Như vậy các nhân tố và quy trình trong nghiên cứu sự thay đổi có thể được nhận thấy rỏ. Theo Pfeffer (1982, p.37) đưa ra ý tưởng, “ Thừa kế định nghĩa thuộc về người quản trị là cái gì? là vấn đề quan trọng, cái gì là biến thiên, và đôi khi làm thế nào để đo sự biến thiên thay đổi có thể làm giảm đi các nhân tố giải thích và đến lối nói của vấn đề theo hướng mà chúng không hửu dụng trong khoa học.” theo cách tiếp cận này thì học thuật thuần túy có vẽ có hửu dụng. Mặt dầu vậy, yêu cầu rộng rải có thể tạo ra được các lý thuyết mà có thể có liên quan ít nhiều đến thực tế. Quy trình diễn tả trong mối quan hệ rộng và lý thuyết về sự thay đổi. Rất khó để kiểm soát hay đạt được một cách nhanh chóng. Số đông và tổ chức riêng lẽ và các thành viên thì có rất ít kể đến, miêu tả như một vật thể được thả ra giữa biển với quá ít khả năng mà chúng có thể chống lại. Một số bài học trong bài viết này cho việc tạo lại hình và hành động lại để đối mặt với tình trạng thực tế này, nhưng nhiều phần của bài viết theo mối liên hệ của các nhà làm luật của chính phủ và các chiến lược lâu dày cho các nhà quản trị. Những lời khuyên rằng các nhà quản trị và các chuyên gia sự thay đổi phải nhận biết được sự khó khăng như thế nào của sự thay đổi và cách tân có thể được quản lý, những quy trình thay đổi này có thể sẽ diễn biến theo một chiều hứng mà không được chờ đón. Giá trị mà có thể nhìn thấy ở đây có lẽ là vấn đề này nhưng rất khó có thể trở nên hữu ích cho các nhà quản trị nhận ra cách làm thế nào để quản lý được sự thay đổi trong công ty. Có một vấn đề cần thiết quan trong trong việc tìm ra các mối liên quan của lý thuyết trong thực tế cho sự thay đổi trong tổ chức. Sự thiếu cơ sở lý thuyết có thể chuyển san các dạng thực hành có thể xãy ra, Việc này nhấn mạnh đến nhiều nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô có thể xãy ra cho tổ chức và dân cư. Việc này có xu hướng là các chú ý trực tiếp xa rời với các nhân tố mà có thể được quản lý và xây dựng. Lý thuyết về chủ động hành động cho cá nhân (chương 2), cho nhóm (Chương 3), và cho tổ chức (chương 4, 6, 9) có thể cúng cấp các thông tin dể dàng hơn cho việc áp dụng thực tế. Thay đổi gián đoạn so sánh với sự thay đổi liên tục: Weick và Quinn (1999) mô tả sự thay đổi trong điều kiện nhiệp độ của chúng, định nhĩa “đặt trưng tỉ lệ, nhịp điệu, hay mẫu của công việc hay hành động” (Random House Dítionary, citied in weick và Quinn 1999, p.365). Dựa trên tempo, chúng thì khác nhau với đoạn và với sự thay đổi liên tục. Thay đổi giai đoạn được tưởng tượng giống như “không thường xuyên, không liên tục và có chủ tâm” (p.365), trong khi đó thì thay đổi liên tục được tưởng tượng như là “tiếp diễn, biến hóa và tích lũy” (p.375). hai hình thái này tạo ra sự thay đổi có sự liên đới với phép ẩn dụ khác nhau của tổ chứ, khung phân tích khác, lý thuyết về sự can thiệp và vai trò thuộc tính cả các nhóm tư vấn sự thay đổi, thể hiện trong bảng 1.1. Sự khác biệt giửa thay đổi gián đoạn và thay đổi liên tục là sự tương quan với nhiều vấn đề khác, bao gồm sự tăng trưởng so với sự thay đổi quyết liệt (e.g, Tushaman et al. và Romannelli, 1985) sự thay đổi liên tục so với sự thay đổi không

Page 5: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

liên tục (Meyer et al., 1993) và sự thay đổi có khả năng so với sự thay đổi xóa bỏ thẩm quyền ( Abernathy and Clark, 1985). Lý thuyết trong cuốn sách này bao gồm:

- Huấn luyện và thay đổi được lập sau cho từng trương hợp thay đổi cụ thể được bàn bạc bởi woodman và Dewett ( chương 2).

- Lý thuyết nhân mạnh trạng thái cân bằng (được bàn trong trong nhiều chương). - Lý thuyết về luận lý của tổ chức ( chương 6). - Các lý thuyết thời kỳ đầu và sau của hoạch định sự thay đổi được bàn bởi Seo et

al. (chương 4). - Lý thuyết lựa chọn chiến lược (Lewin et al, chương 5) - Sự tiến hóa kinh tế (chương 5). - Lý thuyết của Schein về thay đổi văn hóa (chương 7). - Hầu hết các quy luận hành động thu thập được bàn bởi Ven và Hargrave (chương

9). - Lý thuyết của Greenwood về sự thay đổi trong lĩnh vực tổ chức ( chương 10).

Lý thuyết về sự thay đổi liên tục bao gồm:

- Sự tương tác giửa cá nhân và xã hội đến sự thay đổi thành phần (woodman và Dewett chương 2).

- Lý thuyết về học hỏi trong tôe chức được bàn bởi Seo (chương 4) và Lewin (chương 5).

- Lý thuyết ngẫu nhiên (chương 5). - Lý thuyết mối quan hệ cộng đồng và dân số (Baum và Rao, chương 8). - Lý thuyết của Hatch về sự thay đổi văn hóa (chương 7). - Thiết kế tổ chức và nghệ thuật truyền thông được bàn bởi Van de Ven và

Hargrave (chương 9).

Page 6: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Bảng 1.1 So sánh giữa thay đổi gián đoạn và thay đổi liên tục . Tính chất

Thay đổi gián đoạn Thay đổi liên tục

Phép ẩn dụ về tổ chức. Khung phân tích Các lý thuyết liên quan Vai trò của tác nhân sự thay đổi.

Tổ chức là thiên về sự không muốn thay đổi và thay đổi là không thường xuyên, không liên tục và không chủ tâm. . Thay đổi là xãy ra một cách thỉnh thoản hay có tính phân kỳ từ trạng thái cân bằng. Do bên ngoài tác động. Có sự không thích hợp cho tổ chức cho việc thích ứng với môi trường của sự thay đổi. Viển cảnh: Vĩ mô, khoản cách, toàn cầu. Tầm quan trọng: dung trong thời kỳ ngắn. Khái niệm quan trọng: sự trì trệ, cấu trúc sâu hay tương quan, khởi sự, thay thế, tính gián đoạn, cách mạng. Chủ tâm thay đổi: Hũy bỏ, thay đổi, tạo lập lại, thay đổi là quán tính, tuyến tính, cấp tiến, và yêu cầu sự can thiệp từ bên ngoài. Nguồn khởi xướng: Người tạo rat hay đổi được tìm thấy điểm của đòn bẫy trong tổ chức. Tác nhân thay dổi thay đổi hệ thống đo lường, giản đồ .

Tổ chức là nổi bật và tự tổ chức và thay đổi là bất biến, biến chuyển và chông chất mãi. Thay đổi là mô hình của sự biến cải vô tận trong quy trình tiến hóa và thực hành xã hội. nó được gây ra bởi tính không ổn định của tổ chức và yêu cầu hành động đối mặt với sự thay biến đổi hằng ngày. Có tính tích lũy và rất đa dạng. Viển cảnh: Vi mô, đóng, tính địa phương. Tầm quan trọng: trong dài hạn. Khái niệm quan trọng: Hồi quy sự ảnh hưởng lẩn nhau, có tính tùy hứng, sự chuyển dịch và học hỏi. Không phương hướng của các xu thế hiện hửu, thay đổi là vòng lặp, quy trình không có kết thúc, luôn vận động và tồn tại vĩnh cửu. Ý thức của người tạo dựng là người nhận dạng sự thay đổi. Tác nhân thay dổi nhận biết, tạo ra sự đáng chú ý, chuyển đổi và học tập.

Nguồn Weick and Quinn (1999).

Một số lý thuyết kết hợp cả hai lĩnh vực của lý thuyết thay đổi gián đoạn và thay đổi liên tục. Nhiều lý thuyết phát triển được giới thiệu thông suốt quyển sách, tổng quát nhấn mạnh sự thay đổi liên tục ở mức độ vi mô của hệ thống cư xử của cá nhân, nhưng sự thay đổi thường dựa trên nền tản của sự không liên tục. Lý thuyết hệ thống phức hợp thích ứng của McGrath và Tschan của nhóm cũng được xây dựng xung quanh hai vấn đề của sự thay đổi liên tục và gián đoạn. Hơn thế nửa, một số lý thuyết được bàn đến ở trên

Page 7: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

như lý thuyết của Greenwood về sự thay đổi của tổ chức, kết hợp giữa sự thay đổi liên tục với mức độ hành động thực tiễn có thể dịch chuyển quy trình thông qua sự không liên tục. Trong khi lý thuyết tập trung vào không liên tục, nó được coi là quy trình phía dưới cảu liên tục của các hành động cho việc xây dựng lên các bộ phận của lý thuyết. Một số lý thuyết rơi vào khu vực nào đó giữa hai thái cự đã được bàn đến đã có nét đặc biệt không cần thiết. Từ sự thay đổi gián đoạn thì dể hiểu hơn ở cách nhìn vĩ mô hay phân tích trên diện rộng. Trong khi đó thay đổi liên tục thì tốt hơn cho việc phân tích dựa trên mức độ vi mô hoặc phân tích địa phương. Và chúng không hề có sự đối lập và hoàn toàn có thể dùng và có triển vọng sử dùng (chương 13). Hơn thế nửa, thực tế cho rằng có một số sự thay đổi xảy ra với chúng ta một cách từ từ và hầu hết không thể thấy rỏ, nhưng ngược lại một số khác thì phát triển đều đặng bởi một số bước ngoặt gãy đổ quan trọng, tiếp tục cho minh chứng sự không mâu thuẫn của gián đoạn và liên tục của thay đổi. Bốn động lực cơ bản cho sự thay đổi: Định nghĩa thứ ba cho sự thay đổi trên phương diện cơ học. Van de Ven và Poole (1995) định nghĩa bốn lý thuyết đơn giản liên quan giải thích cho quy trình của sự thay đổi và cách tân. Hình 1.1 chỉ rằng mỗi lý thuyết là một quy trình của sự phát triển, mở ra một chuỗi khác nhau cho các sự kiện thay đổi, và cho việc chi phối với các cơ chế khác nhau được sinh ra hay các động lực.

- Mô hình vòng đời mô tả quy trình của thay đổi trong thực tế như một quy trình thông qua quy trình cần thiết của giai đoạn hay thời kỳ. Bài viết đặc biệt về giai đoạn và thời kỳ được đặt ra và quy định bởi tổ chức, bắt đầu của một vòng lặp.

- Mô hình mục đích luận nhìn vào sự phát triển như mộ vòng lặp của công thức thành công, sự thi hành, sự đánh giá và sự sửa đổi của hành động hay mục đích

Page 8: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

dựa trên cái gì được học hỏi hay mong đợi bởi thực thể. Chuỗi sự kiện nổi bật lên thông qua sự xây dựng xã hội của vấn đề được hình dung giữa từng cá nhân bên trong thực thể.

- Mô hình phép biện chứng của mối liên hệ mâu thuẫn của sự phát triển giữa các thực thể tương giao của các luận đề đối lập và các phản đề va chạm nhau và tạo thành sự tổng hợp, trở nên luận đề cho chu trình tiếp theo của một loạt biện chứng khác. Sự đối đầu và mâu thuẫn giữa các thực thể tạo ra quy trình biện chứng này.

- Mô hình tiến hóa của sự phát triển chứa đựng quy trình đặc trưng của sự biến đổi, lựa chọn, và sự kiện của khả năng nhớ giữa các thực thể trong tổng thể. Vòng tiến triển này được xây dựng bởi sự tranh đua giữa các thực thể hiện hữu trong tổng thể.

Bốn lý thuyết đó có thể được biểu lộ thông qua hai hướng. Chỉ số đo lường sự thai đổi, các câu hỏi về sự thay đổi được trình bài trong các hành động của từng thực thể riêng biệt hay đa thực thể? Sự tiến hóa và lý thuyết biện chứng vận hành trên đa thực thể. Sức mạnh của sự tiến hóa được định nghĩa trong vấn đề chúng ảnh hưởng cho tổng thể và khống có ý nghĩa xa ở mức độ của thực thể đơn lẽ. Lý thuyết biện chứng đòi hỏi ít nhất hai thực thể để đưa vào vai trò của luận đề và phản đề. Mặt khác, lý thuyết vòng đời và lý thuyết mục đích luận vận hành trên thực thể đơn. Trong trường hợp mô hình vòng đời, sự phát triển được giải thích như phương trình của tiềm năng nội tại trong thực thể. Trong khi thực thể môi trường và các thực thể khác có thể tự chúng định hình một cách nội tại, chúng phụ thuộc vào tiềm năng nội tại một cách nghiêm khắc. Sự thúc đẩy thực tế cho sự phát triển đến từ bên trong thực thể đơn, cho toàn bộ quy trình phát triển của thực thể. Lý thuyết về cứu cánh, cũng vậy, yêu cầu chỉ mục tiêu của một thực thể, sự xây dựng xã hội, để giải thích cho sự phát triển. Lý thuyết cứu cánh có thể vận hành trong nhiều thành viên của tổ chức hay một nhóm tổ chức khi có sự thống nhất giữa các cá nhân cho phép chúng cá thể hành động trong các thực thể tổ chức độc lập. thuyết cơ học tổng quát của bốn quy trình lý thuyết cũng có nhiều điểm khác nhau theo chiều thứ hai theo cách quy trình của sự thay đổi được phải được tiên nghiệm hay quy trình được xây dựng và nảy sinh như một quy trình của sự thay đổi được mở ra. Phương thức ra lệnh của kênh thay đổi phát triển của thực thể trong hướng thứ cấp, sự bảo dưỡng và phỏng theo kinh điển có sự hình thành của chúng trong các định nghĩa theo cách có thể đếm được. Phương thức xây dựng của sự thay đổi sinh ra một cách vô tiền lệ, trong sự nghiên cứu quá khứ thường không liên tục và không thể đoán trước được sự khởi đầu trong quá khứ. Động lực ra lệnh gợi lên một quy trình của trường hợp thay đổi với một chương trình tiền tạo dựng hay một thủ tục hành động. Động lực xây dựng, trong một mặt khác sản xuất ra một quy trình hành động mới mà có thể tạo ra công thức nguyên bản của các thực thể. Lý thuyết Vòng đời và lý thuyết sự phát triển vận hành trong theo phương thức ra lệnh. Trong khi lý thuyết về cứu cánh và lý thuyết biện chứng lại vận hành trong phương thức xây dựng.

Hai chiều của đơn vị và cách thức của sự thay đổi định nghĩa thuyết cơ học sinh ra từ sự vận động và quy trình. Chúng khác nhau theo chiều hướng, sự lớn lên của thay đổi, sự cơ bản của thay đổi và khả năng phá hủy sự thay đổi, những cái mà có thể phân loại sự thay đổi của tổ chức dựa trên hệ quả và hậu quả do chúng gây ra. Một mặt ưu điểm của hệ thống hình học là có thể phân biệt từng dộng lực của quy trình thay đổi trước khi chúng được kết luận là gì.

Sườn chung nhất của các lý thuyết cho nghiên cứu về sự thay đổi và cách tân trong cuốn sách này là mô hình vòng đời, cái mà phản ánh tầm quan trọng trên các mô hình

Page 9: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

trong sự phát triển về cách nghỉ về sự phát triển và thay đổi. Ví dụ như mô hình của vòng đời chứa đựng lý thuyết về sự phát triển nhóm ( chương 3), mô hình tổng hợp (chương 9) và mô hình xã hội (chương 2). Mô hình thuyết cứu cánh, mà được nhấn mạnh vai trò của người lãnh đạo và các tổ chức thai đổi như việc xây dựng sự thay đổi với các thành viên của tổ chức, cũng là những cái chung. Ví dụ trong phần này bao gồm lý thuyế của Schein về sự thay đổi xã hội (chương 7), lý thuyết về thiết kế tổ chức (chương 9) và lý thuyết hệ thống tự tổ chức (chương 6 và 12). Phát triển phổ biến trong hai thập kỷ qua là lý thuyết tiến hóa, đó là mô hình cộng sản và tập thể (chương 8) được thể hiện. Mô hình biện chứng không được sử dụng nhiều. Trong quyển sách này Seo đã diễn tả trong chương 4 trên việc phân tích biện chứng và mô hình biện chứng trong lý thuyết hành động thu thập được bàn trong chương 9 và lý thuyết của Hatch về sự thay đổi xã hội (chương 7 và 13). Các công trình nghiên cứu khác dựa trên mô hình biện chứng trong đó gồm Farjoun (2002) và Smith và Berg (1987).

Hơn thế nửa, lý thuyết về sự thay đổi không luôn luôn được xây dựng chỉ trên một động lực. Van de Ven và Poole (1995) cũng đã bàn rằng sự kết hợp của ba động lực đã tạo ra lý thuyết về sự thay đổi ngược lại, cho thấy sự phức tạp của quá trình thay đổi và có sự khác biệt hoàn toàn khi ta chỉ xét đến chỉ một động lực duy nhất tác động cho sự thay đổi, nếu chúng ta cân nhắt đến một, hai, ba hay bốn động lực thì có lẽ sẽ tạo ra một lý thuyết khác về sự thay đổi. Có bằng chứng rằng 16 sự diển giải của sự thay đổi của tổ chức là có thể một cách hợp lý và logic. Có thể thấy trên bảng 1.2 là tương tự để cho ví dụ về sự ảnh hưởng lẩn nhau tạo hiệu ứng cả bốn động lực để lựa chọn lý thuyết hợp lý trong vấn đề quản trị.

Bốn sự lựa chọn thứ nhất miêu tả “ảnh hưởng chính” của sự tạo ra ảnh hưởng cơ học dưới lý thuyết: chương trình của lý thuyết vòng đời, ban hành có mục đích của lý thuyết về thuyết cứu cánh, sự mâu thuẫn và sự đối đầu của lý thuyết biến chứng, và sự đấu tranh sinh tồn của lý thuyết tiến hóa. Các “ lý thuyết động lực đơn này” đã tạo ra các trương hợp khi chỉ một của bốn động lực đó được chọn để vận hành.

Mười hai lựa chọn còn lại miêu tả “ ảnh hưởng của sự tương tác” của vận hành phụ thuộc lẩn nhau của hai hay nhiều hơn trong bốn nhân tố tác động. Lựa chọn từ 5 đến 10 được gọi là “ lý thuyết động lực đôi” bởi vì chúng miêu tả trường hợp khi chỉ có hai trong số bốn nhân tố được vận hành và cho ra quy trình thay đổi của tổ chức. Lựa chọn từ 11 đến 14 miêu tả “ lý thuyết ba động lực”, lúc đó ba trong số bốn nhân tố được xét đến sự vận hành có tương tác cho sự thay đổi của tổ chức. Lựa chọn 15 là “Lý thuyết bốn động lực” đó là trường hợp phức tạp nhất khi tất cả bốn nhân tố được đưa vào và tương tác nhau để cho ra một tình trạng nào đó. Cuối cùng, là lựa chọn 16 miêu tả một trường hợp không có hiệu lực, khi không có bất cứ động lực nào được cho vào được nhận diện. Ví dụ như các vấn đề được bàn đến do Vn de Ven và Poole (1995) và Poole (2000). Trong chương 13. Poole và Van de Ven mở rộng khung nghiên cứu có chứa đựng sự biến đổi của bốn động lực cơ bản.

Một số lý thuyết trong cuốn sách này kết hợp hai hài nhiều hơn các động lực cơ bản. Trong lý thuyết của Greenwood , là lý thuyết của sự thay đổi tổ chức (chương 10).

Bảng 1.2 : Những lý thuyết của thay đổi và phát triển tổ chức có thể hợp lý

Sự tác động lẫn nhau làm phát sinh những phương pháp

Vận động Vận động có Vận động có Vận động

Page 10: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

bắt buộc

bên trong

thực thể :

sắp xảy ra

chương trình

tính chất xây

dựng bên

trong thực

tế : có mục

đích ban

hành

tính chất xây

dựng giữa

những thực

thể : mâu

thuẫn và

những sự

tổng hợp

bắt buộc

giữa những

thực thể : sự

chọn lựa có

tính cạnh

tranh

1. Chu kỳ sống (Cameron và

Whetten, 1983) có Không không không

2. Thuyết cứu cánh (March và Simon,

1958) không Có không không

3. Phép biện chứng (Benson, 1977) không không có

4. Sự tiến hóa (Hannan và Freeman,

1977) không không không có

Những lý thuyết vận động kép

5. L ý thuyết thiết kế hệ thống cấp bậc

(Clark, 1985) có có không không

6. Mâu thuẫn nhóm (Simmel, 1908;

Coser, 1958) không có có không

7. Sinh thái học cộng đồng (Astley,

1985) không không có có

8. Những mô hình thích ứng với sự

chọn lựa (Aldrich, 1979) có không không có

9. Những giai đoạn phát triển và

khủng hoảng của tổ chức (Greiner,

1972)

có không có không

10. Trạng thái cân bằng nhấn mạnh

của tổ chức (Tushman và Romanelli,

1985)

không có không có

Những lý thuyết tam vận động

Page 11: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

11. Sự điều chỉnh lẫn nhau của người

ủng hộ (Lindblom, 1965) có có có không

12. ? không có có có

13. ? có không có có

14. Tâm lý xã hội của tổ chức

(Weick, 1979) có có không có

Những lý thuyết tứ vận động

15. Những quá trình phát triển của

nhân loại (Riegel, 1976) có có có có

16. ?—Thùng rác (Cohen, March, và

Olsen, 1972) không không không không

Nguồn : phỏng theo Van de Ven và Poole (1995).

Thay đổi thuộc về tổ chức (chương 10), một mô hình chu kỳ sống mô tả cấp độ tiến bộ về

mặt vĩ mô của sự thay đổi, nhưng sự thay đổi được điều khiển bởi hành động thuộc về

thuyết cứu cánh bởi những cá nhân và những tổ chức. Chương 9 mô tả những lý thuyết

của sự thay đổi thuộc về tổ chức thông qua tập hợp hành động làm thay đổi những tổ

chức mà được dựa trên mâu thuẫn có tính chất biện chứng, mà còn bộc lộ thông qua

những giai đoạn của một mô hình chu kỳ sống. Mâu thuẫn bên trong những lý thuyết này

ở cấp độ vi mô là một lý thuyết cứu cảnh của trung gian cá nhân. Tại những câu gợi ý

cuối cùng này, những mô hình khác của sự thay đổi thường ẩn chứa những lý thuyết dựa

trên một mô hình đơn lẻ. Một cách để làm xuất hiện những giả định bên dưới những lý

thuyết của sự thay đổi và sự đổi mới là nhận diện những vận động khác mà hoạt động dọc

theo những sự kết hợp tổ chức đó trong một lý thuyết.

Ba sự khái niệm hóa về thay đổi giải thích những tác động khác nhau của hiện tượng và

cung cấp một cách hữu ích để sắp xếp những giả định cơ bản của những lý thuyết thay

đổi và sự đổi mới. Những câu trả lời của họ cho câu hỏi “Bản chất của sự thay đổi là gì ?”

bổ sung cho một lý thuyết khác. Sự khác biệt của Bennis tập trung sự chú ý vào quyền

chọn lựa của nhân loại và vào sự quản lý thay đổi, Weick và Quinn tập trung vào đặc tính

của sự thay đổi chính bản thân nó, và Van de Ven và Poole tập trung vào sự thay đổi xảy

ra như thế nào. Những lý thuyết của Bennis về sự thay đổi nói chung phù hợp với chu kỳ

sống, sự tiến hóa, và phạm trù phép biện chứng, trong khi những lý thuyết của sự đang

Page 12: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

thay đổi có khuynh hướng thuộc về góc độ của thuyết cứu cánh. Hầu hết những lý thuyết

của sự thay đổi thì tiếp tục phát triển không ngừng, trong khi đó những lý thuyết của sự

đang thay đổi có khuynh hướng chia ra từng giai đoạn. Thế nhưng sự phù hợp là ít rõ

ràng, sự tiến hóa và chu kỳ sống vận động có khuynh hướng hoạt động tiếp tục trong

những điều kiện, trong khi phép biện chứng và những vận động của thuyết cứu cánh thì

chia ra từng giai đoạn nhiều hơn.

Sự thay đổi và sự đổi mới phù hợp tốt với loại “những khái niệm tranh cãi cần thiết” mà

nói chung không đồng ý với những định nghĩa được xuất phát từ. Cuộc đấu tranh để trả

lời cho câu hỏi ‘‘Bản chất của sự thay đổi là gì ?’’ là quan trọng, tuy nhiên, vì nó khuyến

khích chúng ta làm việc với cường độ cao để định nghĩa nền tảng về sự thay đổi là gì và

làm sáng tỏ “những sự khác biệt mà tạo nên một sự khác biệt” dọc theo thay đổi của

những giảng đường mà thay đổi và sự đổi mới diễn ra.

Nhiều sự giống nhau được nói về câu hỏi thứ hai, ‘‘Cách tiếp cận tốt nhất cho việc

nghiên cứu sự thay đổi và sự đổi mới là gì ?’’

Những cách tiếp cận để nghiên cứu sự thay đổi và sự đổi mới

Mohr (1982; Poole và những người khác., 2000) lần đầu tiên phân biệt phân biệt những

cách tiếp cận về quy mô thay đổi và những cách tiếp cận về tiến trình đối với những bài

nghiên cứu khoa học xã hội, và sự khác biệt khá thuyết phục trong những bài nghiên cứu

về tổ chức. Trong những điều kiện nói chung, một lý thuyết về quy mô thay đổi giải thích

sự thay đổi dưới dạng những mối quan hệ giữa những biến độc lập và những biến phụ

thuộc, trong khi một lý thuyết về tiến trình giải thích một chuỗi những sự kiện ảnh hưởng

như thế nào đến một vài kết quả. Hai cách tiếp cận này thì nhường chỗ cho những khái

niệm khác về sự thay đổi và ám chỉ phải có những tiêu chuẩn khác để đánh giá nghiên

cứu về sự thay đổi và sự đổi mới. Hình vẽ 1.2 cung cấp một bức tranh về sự so sánh giữa

hai cách tiếp cận này.

Một lý thuyết về quy mô thay đổi tập trung vào những biến số mà đại diện cho những tác

động hoặc những thuộc tính quan trọng của đề tài nghiên cứu. Những sự giải thích đưa

đến một hình thức của những câu khẳng định thuộc về nguyên nhân hoặc những mô hình

mà bao gồm những biến số này (ví dụ, X là nguyên nhân của Y, mà là nguyên nhân của

Z), và một mục tiêu tiềm ẩn của nghiên cứu về quy mô thay đổi là thiết lập những điều

kiện cần thiết và có đủ điều kiện để mang đến một kết quả. Nghiên cứu về quy mô thay

Page 13: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

đổi dùng những bảng thiết kế nghiên cứu phỏng vấn điều tra và thực nghiệm và được đặt

trong mô hình tuyến tính nói chung mà giải thích cho hầu hết những phương pháp thống

kê nói chung, bao gồm phân tích phương sai (ANOVA), hồi quy, phân tích nhân tố, và

mô hình cấu trúc cân bằng. Một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá quy mô thay đổi là

tính khái quát hóa của chúng, mà liên quan đến một loạt những trường hợp, hiện tượng,

hoặc những tình huống sự giải thích thuộc về nguyên nhân vận dụng.

Một vài những loại nghiên cứu khác về sự thay đổi và sự đổi mới của tổ chức dưới đây

theo cách tiếp cận quy mô thay đổi

1. Có lẽ hầu hết những loại phổ biến của việc nghiên cứu quy mô thay đổi giải quyết

thay đổi như một biến số như là tỷ lệ của sự đổi mới (Rogers, 1995), hoặc chiều

sâu của sự thay đổi (Harrison 1970, cũng như Woodman và Dewett, chương 2).

Mục tiêu của những nghiên cứu này để giải thích và/hoặc dự đoán việc xảy ra và

quy mô của sự thay đổi hoặc những tác động của sự thay đổi đến những biến số

khác. Những hệ phương pháp đã vận dụng những nghiên cứu này từ phòng thí

nghiệm một cách tương đối không phức tạp (Mathieu và những người khác.,

2000) và phỏng vấn điều tra (Morrison, 1993) thiết kế phức tạp những chuỗi thời

gian và những mô hình sự kiện lịch sử (Mayer và Tuma, 1990).

2. Một vài nghiên cứu giải quyết thay đổi như một ngữ cảnh cho những quá trình

khác nhau thuộc về nguyên nhân. Ho không nghiên cứu sự thay đổi thuộc về bản

chất, nhưng thay vào đó họ xem thay đổi như là một khung mà ở đó những hiện

tượng khác xảy ra. Đối tượng của những nghiên cứu này là phát triển và kiểm tra

những mối quan hệ nguyên nhân – kết quả bên trong một ngữ cảnh đang thay đổi

hoặc để kiểm tra những lý thuyết của những phản ứng đơn vị cá nhân để thay đổi

những đơn vị ở một cấp độ cao hơn. Một nghiên cứu của những bệnh viện tư nhân

phản ứng lại sự thay đổi như thế nào trong thực tế tổ chức ở lĩnh vực y khoa bởi

Goodrich và Salancik (1996) là một ví dụ của loại nghiên cứu này.

Page 14: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Những thuộc tính : • Môi trường (x1) • Công nghệ (x2) • Quá trình ra

quyết định (x3) • Những nguồn tài

nguyên (x4)

Chiến lược thay đổi (Y)

Chiến lược A

Chiến lược B

• Những sự kiện • Những hoạt động • Những chọn lựa

Lý thuyết quy mô thay đổi

Lý thuyết tiến trình

Hình vẽ 1.2 : Hai cách tiếp cận để giải thích chiến lược thay đổi. Dựa trên Mohr (1982) và Langley (1999

Page 15: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

3. Một cách tiếp cận phổ biến tăng lên là nghiên cứu thay đổi ở những cấp độ phức

tạp của phân tích (Dansereau và những người khác, 1999). Một vài nghiên cứu

trong nhóm này tập trung vào những tác động của sự thay đổi trong một biến số

tại một cấp độ của sự phân tích đến những biến số tại những cấp độ khác – ví dụ,

những phong cah1 lãnh đạo chuyển đổi như thế nào ảnh hưởng đến những đơn vị

làm việc và tạo ra những tập hợp trong những tổ chức làm việc ngoài giờ (Avolio

và Bass, 1995). Những phương pháp để thực hiện phân tích đa cấp độ bao gồm

mô hình tuyến tính theo thứ bậc, bên trong và giữa phân tích, và phân tích sự phụ

thuộc lẫn nhau (Kashy và những người khác., 1999; Klein và Koslowski, 2000).

Cách tiếp cận quy mô sự thay đổi hữu ích trong việc nghiên cứu sự thay đổi và những

tiến trình của sự đổi mới ở hai khía cạnh quan trọng. Đầu tiên, những lý thuyết về quy

mô thay đổi cung cấp những hình ảnh tốt của những phương pháp mà điều khiển một

tiến trình, và những phương pháp nghiên cứu quy mô thay đổi thì rất thích hợp cho

việc kiểm tra những giả thuyết liên quan đến những phương pháp. Thứ hai, cách tiếp

cận quy mô thay đổi hữu ích cho nghiên cứu những tiến trình mà hoạt động một cách

nhanh chóng dựa vào thang đo của nhân loại, như là trường hợp của nhiều cá nhân

hoặc cấp độ nhóm thay đổi những tiến trình (ví dụ, xã hội nhận diện thông tin hoặc sự

thay đổi trong những cấu trúc thuộc về nhận thức). Trong khi những loại này mở ra

như một cách tiếp cận tiến trình mô tả bên dưới, chúng hoạt động một cách nhanh

chóng đến nỗi mà chúng được nghiên cứu rất hiệu quả với những phương pháp quy

mô thay đổi mà giả định đồng nhất, mối quan hệ nhân quả trực tiếp.

Cách tiếp cận quy mô thay đổi cũng có những giới hạn (Poole và những người khác.,

2000). Nó thì khó khăn để nghiên cứu những hoạt động hoặc những bước mà sự thay

đổi và sự đổi mới mở ra sử dụng những phương pháp quy mô thay đổi. Trong khi một

vài hệ phương pháp nghiên cứu những quá trình được vận dụng trong nghiên cứu quy

mô thay đổi (ví dụ, Davison và những người khác., 1980; Davison và những người

khác., 1978; Poole và Roth 1989a, Poole và Roth 1989b), họ yêu cầu những nhà

nghiên cứu tách những biến số từ dữ liệu xử lý, mà thúc ép họ nghiên cứu quá trình

tại một phạm vi (ít nhất). Như một kết quả, những cách tiếp cận quy mô thay đổi gây

khó khăn để nghiên cứu những tác động quan trọng về sự thay đổi xảy ra như thế nào.

Page 16: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Đằng sau của hầu hết những lý thuyết về quy mô thay đổi là một “câu chuyện” dựa

trên quá trình về những mối quan hệ giữa những biến số mà cho ra những lý thuyết

mạch lạc. Tuy nhiên, điều này gây khó khăn cho việc kiểm tra hoặc nghiên cứu có

tính chất kể chuyện với những cách tiếp cận quy mô thay đổi.

Những phương pháp thiết kế của nghiên cứu quy mô thay đổi giả định rằng mối quan hệ

nhân quả trong hệ thống là “cư xử đúng đắn”. Điều này kéo theo (a) nguyên nhân sự lưu

thông từ những đơn vị lớn hơn đến những đơn vị nhỏ hơn, nhưng không ngược lại (ví dụ,

tổ chức ảnh hưởng đến thành viên của chính tổ chức đó, nhưng hành vi của thành viên

đơn lẻ không ảnh hưởng đến tổ chức đó) và (b) những nhân tố gây ra nguyên nhân hoạt

động đồng nhất bắt chéo nhau nhiều trường hợp và xấp xỉ cùng thang đo về thời gian

(Abbott, 1988). Những giả định này dường như không giới hạn một cách đặc biệt bên

trong một khung quy mô thay đổi, nhưng chúng loại trừ ảnh hưởng của một vài nhân tố

và những ảnh hưởng nhắc đến rõ rang trong một tiến trình, bao gồm những sự kiện then

chốt, nhiều những nguyên nhân hoạt động thất thường tại những phần khác nhau của tổ

chức và tại những thời điểm khác nhau, những nguyên nhân hoạt động bắt chéo nhau rất

lớn tại những thang đo thời gian khác nhau, và những chuỗi sự kiện trói buộc lại với nhau

trong một kiểu dáng ngẫu nhiên để đưa đến một vài kết quả. Thí dụ như những đề tài về

lịch sử hoặc lý lịch, những mô hình thuộc cấu trúc không cân bằng. Những lý thuyết về

tiến trình cố gắng kết hợp chặt chẽ những nhân tố và những ảnh hưởng này.

Tiêu điểm chính của một lý thuyết tiến trình là một chuỗi những sự kiện mà trải qua thời

gian để đưa đến một vài kết quả. Những sự giải thích trong những lý thuyết tiến trình có

khuynh hướng phức tạp hơn những sự giải thích về quy mô thay đổi tùy thuộc vào sự

phức tạp của những sự kiện, sự cần thiết để giải thích cho sự liên quan giữa những sự

kiện thuộc về thời gian, những thang đo thời gian khác nhau trong cùng một tiến trình, và

bản chất động của những tiến trình. Những sự giải thích tiến trình có lẽ bao gồm (a) một

sự tính toán của một sự kiện đưa đến kết quả như thế nào và ảnh hưởng đến những sự

kiện theo sau thì như thế nào (ví dụ, những sự kiện loại A có xác suất thành công là 0.7

bởi những sự kiện loại B và xác suất thành công là 0.3 bởi những sự kiện loại C); (b) một

sự giải thích của mô hình tổng quát mà tạo ra những chuỗi (ví dụ., tiến trình phát triển ba

giai đoạn A, B, và C), hoặc (c) cả hai ( trong trường sự giải thích ở cấp độ vi mô và mô

hình tổng quát được nối kết). Những lý thuyết tiến trình kết hợp chặt chẽ với một vài loại

Page 17: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

khác nhau của những tác động trong sự giải thích của chúng, bao gồm những sự kiện then

chốt và bước ngoặt, sự ảnh hưởng theo ngữ cảnh, những mô hình tạo thành cho lời hướng

dẫn tổng quát đến sự thay đổi, và những nhân tố gây ra nguyên nhân mà ảnh hưởng đến

một chuỗi những sự kiện. Poole và những người khác. (2000) tranh cãi rằng những sự

giải thích về tiến trình kết hợp chặt chẽ với mô hình bốn nguyên nhân của Aristotle, thêm

hình thức và sự tạo ra kết quả cuối cùng có ảnh hưởng kết quả cuối cùng mà là nền tảng

của sự giải thích những nhân tố gây ra nguyên nhân trong ngiên cứu về quy mô thay đổi

(xem McKelvey [2002] có một trường hợp liên quan đến tất cả bốn nguyên nhân của

Aristotelean trong bài nghiên cứu về tổ chức).

Nghiên cứu về tiến trình vận dụng những thiết kế chọn lựa mà nhận diện hoặc tái tổ chức

tiến trình thông qua sự quan sát trực tiếp, phân tích cấu trúc, hoặc nhiều trường hợp trong

thực tế. Phân tích dữ liệu tiến trình cần những phương pháp (a) nhận diện và kiểm tra

những sự liên kết theo thời gian giữa những sự kiện và cả những mô hình tổng quát theo

thời gian (Poole và những người khác., 2000) và (b) đương đầu với những thang đo về

thời gian phức tạp mà thường diễn ra trong những tiến trình (ở đó một vài sự kiện kéo dài

trong nhiều năm, những sự kiện khác được gắn vào với chúng hoạt động trong những thời

kỳ ngắn hơn, và những sự kiện được gắn vào bên trong những sự kiện này cùng thời kỳ

ngắn hơn) (Langley, 1999). Trong khi đa số những bài nghiên cứu về quy mô dựa theo

những thủ tục giả thuyết suy diễn, nghiên cứu tiến trình vận dụng hỗn hợp của nhiều cách

tiếp cận. Thông thường, những nghiên cứu về tiến trình xuất phát từ lý thuyết về sự quan

sát, nhưng trong một vài trường hợp chúng kiểm tra những mô hình lập giả thuyết của

tiến trình thay đổi, và trong những trường hợp khác họ sử dụng retroduction nhờ đó

những lý thuyết được sử dụng để hướng dẫn sự quan sát hơn là định rõ những lý thuyết

(Poole và những người khác., 2000, trang 115–117); đương nhiên, những nghiên cứu kỹ

lưỡng của những tiến trình vận dụng hai hoặc thậm chí tất cả những cách tiếp cận này (ví

dụ, Van de Ven và những người khác., 1999). Như một kết quả, cả hai cách tiếp cận định

tính và định lượng được sử dụng trong nghiên cứu về tiến trình (xem Langley, 1999, và

Poole và những người khác., 2000 về những mô tả cho những phương pháp tiến trình).

Giống như những lý thuyết về quy mô thay đổi, những lý thuyết về tiến trình cố gắng

phát biểu khái quát, nhưng một sự khái quát hóa về tiến trình phụ thuộc vào tính linh hoạt,

“trình độ mà nó bao gồm một phạm vi rộng lớn của những mô hình phát triển không qua

Page 18: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

sửa đổi của đặc tính cần thiết (Poole và những người khác., 2000, trang 43). Một sự giải

thích cho tiến trình linh hoạt “kéo dài ra” hoặc “thu hẹp lại” để phù hợp với những trường

hợp cụ thể mà khác với tiến độ và khoảng thời gian của chúng. Chẳng hạn, mô hình trạng

thái cân bằng ngắt quãng của sự thay đổi tổ chức (Gersick, 1991; Tushman and

Romanelli, 1985) thì tình linh hoạt rất cao vì nó vận dụng những tiến trình cho một tuần

và nhiều năm và một loạt những tiến trình rộng lớn khác nhau, bao gồm sự thay đổi của

tổ chức, sự phát triển của nhóm, và sự cải tiến của công nghệ. Bảng 1.3 một vài điểm so

sánh cơ bản về cách tiếp cận theo quy mô thay đổi và cách tiếp cận theo tiến trình.

Langley (1999) và Poole và những người khác (2000) nhận diện một vài loại khác nhau

của những nghiên cứu về sự thay đổi và sự đổi mới dựa theo cách tiếp cận theo tiến trình.

Họ sắp đặt một chuỗi liên tục sơ lược từ sự lý giải cao độ đến định lượng :

1. Một vài của hầu hết công việc có ảnh hưởng trong những nghiên cứu về tổ chức đưa ra

một hình thức của những quá trình lịch sử có tính chất tường thuật mà thuật lại một câu

chuyện chi tiết của một tiến trình (ví dụ., Bartunek, 1984; Chandler, 1964; Pettigrew,

1985). Những bài báo cáo phong phú này phức tạp đan xen nhiều chủ đề và, theo những

chú ý của Langley (1999), tính chất rất dày đặc của chúng xuất phát từ những lý thuyết

tính toán chi ly một điều gì đó của một sự thách thức.

2. Một cách tiếp cận tập trung hơn là nhiều nghiên cứu cụ thể trong thực tế (Leonard-

Barton, 1990). Những nghiên cứu này được thiết kế để so sánh và đối chiếu với một số

trường hợp bị giới hạn “hoặc(a) dự đoán những kết quả giống nhau (một sự tái tạo tầm

thường) hoặc (b) đưa ra những kết quả trái ngược nhau nhưng produce contrary results

but for predictable reasons (một sự tái tạo tầm thường)’’ (Yin 1984, trang 48–49) thông

qua sự phân tích định tính sâu sắc. Những nghiên cứu này thường sử dụng những phương

pháp khác nhau của sự tổng kết và rút ra nghĩa từ những trường hợp trong nghiên cứu,

như là bản đồ thị giác (Langley và Truax, 1994; Mintzberg, Raisinghani, và Theoret1976;

Quinn, 1980; Van de Ven và Grazman 1999), những sự thể hiện của ma trận (Kuhn và

Poole, 2000; Miles và Huberman, 1994), và sự so sánh của những đoạn trích dẫn và

những tạp san thời sự của những sự kiện (Leonard-Barton, 1990). Những bài báo cáo

được mang lại bởi những nghiên cứu cụ thể trong thực tế thì đặc trưng rất phong phú.,

mặc dù nó không được chi tiết như những bài tường thuật về lịch sử, và chúng thường cô

đọng và rõ ràng hơn những bài tường thuật về lịch sử tập trung vào lý thuyết suông.

Page 19: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Bảng 1.3 : So sánh hai cách tiếp cận quy mô thay đổi và cách tiếp cận tiến trình Cách tiếp cận quy mô thay đổi Cách tiếp cận tiến trình

Tập trung : Những thực thể cố định và những thuộc tính của những biến số

Tập trung : Những thực thể tham gia những sự kiện và thay đổi theo thời gian

Những sự giải thích sự thỏa mãn chỉ rõ sự cần thiết và có đủ mối quan hệ nhân quả

Những sự giải thích sự thỏa mãn chỉ rõ sự cần thiết của mối quan hệ nhân quả

Những sự giải thích sự thỏa mãn bao gồm những nguyên nhân có hiệu quả

Những sự giải thích sự thỏa mãn được bao gồm cuối cùng, chính thức, và/hoặc có hiệu quả của những nguyên nhân

Sự phát sinh những sự giải thích tùy thuộc vào việc vận dụng không thay đổi theo hình thức dọc theo một loạt những trường hợp và những cuộc kiểm tra

Sự phát sinh những sự giải thích tùy thuộc vào tính linh hoạt của chính bản thân nó

Đơn điệu, “có giáo dục”, những mối quan hệ gây ra nguyên nhân

Trật tự về thời gian phản ánh kết quả Những sự giải thích bao gồm hoạt động của những nhân tố gây ra nguyên nhân ở các cấp độ khác nhau và những khoảng thời gian khác nhau Những mối quan hệ gây ra nguyên nhân thì không đơn điệu hoặc “có giáo dục”

Page 20: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

3. Một nghiên cứu truyền thống đã tồn tại từ lâu khái quát hóa tiến trình dựa trên một

chuỗi của nhiều thời kỳ hoặc nhiều giai đoạn (Bales và Strodtbeck, 1951; Barley, 1986;

Fisher, 1970; Langley và Truax, 1994; Poole, 1981). Sự phân tích thuộc về giai đoạn cố

gắng nhận diện những thời kỳ gắn kết của hoạt động thông qua một tiến trình diễn ra. Sự

giải thích phổ biến nhất dựa vào những giai đoạn trong mô hình chu kỳ sống (Cameron

và Whetten, 1983; Greiner, 1972; Lacoursiere, 1980), nhưng những loại lý thuyết khác

cũng quan sát những tiến trình dựa trên những thời kỳ (Poole, 1983; Saberwhal và Robey,

1993). Poole và những người khác. (2000) thảo luận một vài phương pháp, cả hai phương

pháp định lượng và định tính, sự nhận diện những thời kỳ và kiểm tra một chuỗi những

giả thuyết của từng thời kỳ. Những lý thuyết về thời kỳ cố gắng tóm lược những yếu tố

cần thiết của dữ liệu tiến trình phong phú trong một bảng báo cáo đơn giản hơn của sự

phát triển như bậc thang hoặc những hoạt động điển hình.

4. Một cách tiếp cận cuối cùng của tiến trình nghiên cứu khám phá dựa vào sự phân tích

định lượng của những chuỗi sự kiện. Chiến lược này (a) định rõ những nhân tố hoặc

những biến số mà tiêu biểu cho những sự kiện, (b) mã hóa những sự kiện để gán những

giá trị cho những biến số này, và (c) phân tích kết quả những chuỗi thời gian để kiểm tra

giả thuyết về một chuỗi những sự kiện hoặc nhận diện những mô hình trong tiến trình.

Van de Ven và Polley (1992) cho ví dụ, chia đoạn một tiến trình đổi mới của sản phẩm

qua nhiều năm thành nhiều tháng và đếm số lượng của sự thay đổi trong ý tưởng sự đổi

mới, những sự can thiệp bởi sự kiểm soát của nguồn lực bên ngoài, và những sự kiện

phản hồi trong mỗi tháng làm phong phú thêm những mô tả của những sự kiện. Họ đã

dùng sự hồi quy của những chuỗi thời gian để kiểm tra một mô hình đang học trong suốt

sự đổi mới và cũng đã khám phá một mô hình trong những chuỗi thời gian mà đã đề nghị

tiến trình đổi mới được mô tả bởi những thời kỳ ban đầu của sự phá hoại tổ chức trong

tiến trình đang học mà đã giải quyết bởi một thời kỳ được sắp xếp. Sử dụng một loại dữ

liệu khác, Romanelli và Tushman (1994) đã mã hóa những biến số từ một cơ sở dữ liệu

nhiều tài liệu bao gồm những bài báo, những báo cáo thường niên, và giống như nghiên

cứu những mô hình của sự thay đổi trong công nghiệp máy vi tính. Tiến trình phân tích

định lượng dùng một loạt những kỹ thuật, bao gồm phân tích, những kỹ thuật chuỗi thời

gian đa biến, phân tích sự kiện lịch sử, và sự phân tích những hệ thống phi tuyến, để

Page 21: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

khám phá và kiểm tra những thuộc tính của những chuỗi sự kiện và những kỹ thuật mà

điều khiển tiến trình. Trong một vài trường hợp, những nghiên cứu này lôi kéo những ví

dụ quan trọng (ví dụ., Nutt, 1984; Poole và Roth, 1989a; Poole và Roth 1989b) những

những nghiên cứu khác tập trung vào một hoặc hai trường hợp với một số lượng lớn của

những sự kiện và phân tích chi tiết những chuỗi sự kiện (Van de Ven và Polley, 1992).

Tiến trình nghiên cứu định lượng cố gắng mang đến sự chính xác và hệ thống của nghiên

cứu quy mô thay đổi để nghiên cứu những tiến trình. Kết quả của tiến trình nghiên cứu

định lượng dường như ít được ủng hộ đối với những bài tường thuật về lịch sử và những

nghiên cứu phức tạp trong thực tế.

L ý thuyết Mô hình

Dữ liệu

Page 22: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Những mô hình quy nạp :

a- Sự phát sinh của những lý thuyết toán học

b- Những mô hình toán học quan trọng

c- Những mô hình toán học thực nghiệm

d- Tích hợp của dữ liệu

Những mô hình suy diễn :

a- Lý thuyết chính thức hóa

b- Những giả thuyết

c- Ước tính trong toán học

d- Ước tính quan trọng

Page 23: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Như những ví dụ trình bày ở trên, nghiên cứu về tiến trình có khả năng tính toán những

tác động của những tiến trình mà nghiên cứu về quy mô thay đổi không thực hiện được.

Tuy nhiên, cách tiếp cận về tiến trình có những điểm giới hạn của nó. Những nghiên cứu

về tiến trình rất cần sự tập trung cao độ của lao động để thực hiện và điển hình bao gồm

một tập hợp số lượng lớn của nhiều cấp dữ liệu, đến nỗi mà người nghiên cứu gặp rủi ro

theo Pettigrew (1990) gọi là ‘‘sự làm ngạt của dữ liệu.’’. Như những mô tả ở phần trên,

những tiến trình thì thường rất phức tạp, vì những sự giải thích về phát triển của tiến trình

và những mô hình sâu sắc trong dữ liệu tiến trình là một công việc khó khăn. Chiều sâu

của dữ liệu tiến trình và sự phức tạp của những tiến trình có khuynh hướng giới hạn số

lượng những trường hợp mà được thu thập, bằng cách này giới hạn độ tin cậy của những

kết luận của nghiên cứu về tiến trình.

Sự phức tạp của nghiên cứu về tiến trình thúc đẩy một vài phương pháp và những hệ

thống giải quyết vấn đề bằng cách đánh giá kinh nghiệm để hỗ trợ người nghiên cứu

trong việc giải quyết những nghiên cứu tiến trình. Langley (1999) cung cấp một sự sang

suốt và hướng dẫn dễ đọc để tiếp cận để xây dựng những lý thuyết của những tiến trình.

Poole và những người khác. (2000; Van de Ven và Poole, 1995) trình bày bốn lý thuyết

thuộc nguyên mẫu của những tiến trình thay đổi và mô tả chúng được nhận diện trong dữ

liệu tiến trình như thế nào và những lý thuyết tiến trình phức tạp hơn được xây dựng từ

những vận động đơn này như thế nào (xem chương 13 là một sự mở rộng của khung lý

thuyết này). Pentland (1999) mô tả sự phân tích có tính chất tường thuật được sử dụng để

xây dựng những tiến trình lý thuyết như thế nào. Một kết quả đặc biệt của Khoa Học Tổ

Chức (Huber và Van de Ven, 1990) được dành cho những phương pháp khác nhau của

những tiến trình nghiên cứu, và Poole và những người khác. (2000) mô tả bốn phương

pháp phân tích định lượng chỉ duy nhất được phỏng theo nghiên cứu về tiến trình.

Cách tiếp cận về tiến trình thường được đóng vai trò trái ngược với cách tiếp cận về quy

mô thay đổi. Tuy nhiên, nó thì thích hợp để quan sát chúng như bổ sung. Những nghiên

cứu về quy mô thay đổi khảo sát tỉ mỉ và kiểm tra những kỹ thuật mà điều khiển những lý

thuyết về tiến trình, trong khi những nghiên cứu về tiến trình khảo sát tỉ mỉ và kiểm tra

những tính chất tường thuật mà dựa vào những lý thuyết về quy mô thay đổi. Thay vì

tranh cãi hai cách tiếp cận loại trừ lẫn nhau, câu hỏi liên quan là hai cách tiếp cận kết hợp

với nhau như thế nào.

Page 24: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Một chính sách là thực hiện cả hai nghiên cứu về quy mô thay đổi và nghiên cứu về tiến

trình cùng một tập dữ liệu và kết hợp những kết quả. Saberwhal và Robey (1995) thực

hiện như một nghiên cứu và cho thấy những kết quả của quy mô thay đổi và những sự

phân tích tiến trình được chen vào để giải thích tiến trình (xem Poole và Roth 1989a và

Poole và Roth 1989b cho thấy những ví dụ khác nhau của cách tiếp cận này). Thậm chí

còn tốt hơn, tuy nhiên, tìm thấy một cách để kết hợp những nhân tố của cách tiếp cận quy

mô thay đổi và cách tiếp cận tiến trình trong một phân tích đơn.

Mô hình chính thức sử dụng những phương pháp luận thuộc về toán học hoặc mô phỏng

cung cấp một cách để khắc phục sự thiết sót giữa những cách tiếp cận tiến trình và những

cách tiếp cận quy mô thay đổi. Một sự thảo luận của một vài cách tiếp cận mô hình chính

thức được trình bày bởi Dooley trong chương 12. Một mô hình là một sự đại diện của

một lý thuyết trong một hoàn cảnh xác định trong một vài ngôn ngữ chính thức, như là

toán học hoặc là một thuật toán của máy tính. Mô hình rút ra lý thuyết bằng lời nói và sự

quan sát để xuất phát từ một lý thuyết chính xác của một tiến trình trong một vài ngữ

cảnh cụ thể mà được sử dụng để dự đoán tiến trình bộc lộ như thế nào và so sánh để xử lý

dữ liệu thu thập được trong ngữ cảnh đó. Mối quan hệ giữa lý thuyết, dữ liệu, và mô hình

được mô tả trong hình vẽ 1.3, mà dựa vào một sự thảo luận của Leik and Meeker (1975).

Như những biểu thị của hình vẽ, những mô hình trừu tượng (a) và nghi thức hóa (e) lý

thuyết sử dụng toán học hoặc máy vi tính đã dựa vào những công cụ của mô hình.. Mô

hình có thể “được chạy” để tạo ra một đường cong qua thời gian của những biến số hoặc

những đối tượng được kết hợp chặt chẽ trong mô hình, và điều này sau đó được sử dụng

để nhận được một sự hiểu biết sâu sắc thành những sự gợi ý của lý thuyết (b) và xuất phát

từ những giả thuyết được ám chỉ bởi lý thuyết (f). Thông tin từ những sự quan sát được

sử dụng để cụ thể mô hình (c) và những lời dự đoán của mô hình được so sánh với những

sự quan sát để kiểm tra nó (g).

Trong một ví dụ hay về mô hình tiến trình , Lomi và Larson (1996) phát triển một mô

hình dân số động của tổ chức mà rút ra những lý thuyết của sự tin cậy có tính chất dày

đặc. Chúng đã kết hợp chặt chẽ với những giả định rằng ‘‘mánh khóe của những tổ chức

tư nhân trong những chiến lược cạnh tranh của họ phản ứng lại – hoặc ở trạng thái đề

phòng hành vi của một số lượng nhỏ những tổ chức khác, rõ ràng đã nhận diện những tổ

chức,’’ nhưng ‘‘những thành viên trong tổ chức tiển triển tùy thuộc vào những tiến trình

Page 25: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

toàn cầu của sự hợp pháp hóa và sự cạnh tranh’’ (trang 1293). Việc hoạt động từ lý

thuyết đến mô hình, Lomi và Larson trừu tượng hóa một mô hình tổng quát từ những giả

định thuộc về lý thuyết (mũi tên a) sử dụng lỗ hỏng của mô hình tự động mà chính thức

hóa những mối quan hệ thuộc về lý thuyết hiện thời mà chính thức hóa những mối quan

hệ thuộc về lý thuyết hiện tại rõ ràng bằng thuật ngữ dễ hiểu (mũi tên e). Mô hình được

chạy tuần tự trong số nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau (8, 24, và 48) và những điều

kiện tiến hóa. Một sự sáng suốt từ mô hình tiến trình là những tổ chức đó với tập trung

địa phương nhiều hơn (ví dụ, những nhóm tham chiếu nhỏ hơn của những đối thủ cạnh

tranh) ‘‘đáp lại ít mạnh hơn đến những tiến trình cấp độ thành viên của sự hợp pháp hóa

và sự cạnh tranh liên quan đến mật độ’’ với những nhóm tham chiếu lớn hơn (mũi tên b).

Điều này đã đề nghị giả thuyết rằng sự phụ thuộc của một vài mật độ chịu ảnh hưởng một

cách khác nhau của những tổ chức (mũi tên f). Lomi và Larson báo cáo rằng những

nghiên cứu thực nghiệm dựa trên tác động của sự phụ thuộc vào mật độ thì phù hợp với

giả thuyết này (mũi tên g). Sự tìm thấy từ nghiên cứu tổ chức được sử dụng cụ thể hóa

mô hình (mũi tên c), và Lomi và Larson thảo luận một vài cách mà những mô hình được

mở rộng vì chúng phản hồi một cách chính xác những mô hình chọn lựa có lý trí của

những tổ chức.

Những mô hình với một vài chi tiết cụ thể thì rõ ràng hơn những lý thuyết, vì chúng được

xây dựng quanh những giả định rõ rang về những cấu trúc quan trọng trong lý thuyết (ví

dụ, những loại biến số, chúng được đo lường như thế nào, vân vân) và những mối quan

hệ trong lý thuyết ấn định (ví dụ, hình thức của những mối quan hệ thiết thực cụ thể trong

số những biến số hoặc những tác nhân của phần mềm). Tuy nhiên, những mô hình cũng

trừu tượng hóa lý thuyết bởi tái chính thức hóa những sự trình bày bằng lời nói sang toán

học hoặc những ngôn ngữ mô hình của máy vi tính. Những mô hình thì hữu ích cho việc

nhận được từ những hàm ý của lý thuyết mà không được luận ra từ những hình thức bằng

lời nói của chính bản thân nó vì có những điều phức tạp tiềm ẩn trong lý thuyết mà những

diễn đạt bằng lời nói không thể trình bày một cách thích đáng hoặc vì lý thuyết phức tạp

đến nỗi mà những nhà lý luận không thể suy nghĩ về ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng. Bởi

vì những tiến trình của sự đổi mới và sự thay đổi vốn đã phức tạp, mô hình chính thức có

một khả năng tiềm tàng như một công cụ xây dựng lý thuyết trong lĩnh vực này. Nhiều sự

chú ý được cho vào những mô hình của sự hỗn độn trong một vài năm gần đây và những

Page 26: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

lý thuyết phức tạp như những sự miêu tả đầy triển vọng của những tiến trình (McKelvey,

1999, 2002).

Trong chương 12, Dooley phân biệt bốn cách tiếp cận những tiến trình của sự thay đổi và

sự đổi mới :

1. Những mô hình động vận dụng những phương pháp toán học để trình bày cho những

hệ thống biến số mà đại diện những đặc điểm quan trọng của tiến trình. Những hệ thống

này của những phương trình được sử dụng sau khi nhận được từ một bản đồ của những

đường cong của những giá trị của những biến số này, cho một sự đại diện của tiến trình

được tạo ra bởi kỹ thuật xây dựng thành những phương trình. Những ví dụ bao gồm

Doreian và Hummon (1976) sử dụng những phương trình vi phân tuyến tính để phát triển

một mô hình điều khiển sự thay đổi cấu trúc trong những tổ chức và Guastello (1987,

1995) vận dụng những kỹ thuật của thống kê để phù hợp với những mô hình không có

dạng chính xác của sự thay đổi trong sự thúc đẩy nhân viên. Doreian và Hummon đã sử

dụng những phương thức ước lượng thống kê để “giải quyết” mô hình của họ và tạo ra

những đường cong dự đoán mà những giá trị của bốn biến số có tương quan cấu trúc với

nhau – số lượng nhân viên, số lượng những đường phân chia, số lượng người giám sát, số

lượng hệ thống cấp bậc – sẽ theo sau. Sau đó, họ đã kiểm tra mô hình này tương phản với

dữ liệu theo chiều dọc. Guastello nhận diện những biến số mà “kiểm soát” đường cong

của sự thúc đẩy trong một mô hình có dạng không chính xác và đã sử dụng hồi quy phi

tuyến phù hợp với một tập hợp những quan sát. Những hệ thống động nổi tiếng được phát

triển bởi Forrester (1961) và những người khác (Sterman, 2000) thì cũng có những ví dụ

về những mô hình động. Phần mềm mô phỏng như là Stella và Vensim có sẵn để hỗ trợ

những hệ thống mô hình động.

Những biến số trong những mô hình này không cần được liên tục. Những mô hình sự

kiện mà phát triển những sự đại diện chính thức của tiến trình về mặt những sự kiện rời

rạc sử dụng những phương pháp quy mô thay đổi để giải thích mô hình. Poole và những

người khác (2000) phát triển một mô hình Markov để mà mô tả mô hình của những sự

chuyển tiếp trong số bốn loại những sự kiện rời rạc trong suốt sự phát triển đổi mới – sự

mở rộng của quá trình hành động, sự co bóp của quá trình hành động, sự sửa đổi của

những hoạt động, và tiếp tục giống quá trình hành động. Họ đã so sánh sự chuyển tiếp

của những ma trận từ sớm và một tiến trình sản phẩm sự đổi mới sự dụng tương tự của sự

Page 27: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

phân tích những quy mô thay đổi và tìm thấy những mô hình khác nhau, đề nghị những

kỹ thuật khác nhau điều khiển tiến trình trong những giai đoạn đầu.

2. Những mô hình có sử dụng máy điện toán mô phỏng một hệ thống như thế nào hoặc

những phần của hệ thống phát triển theo thời gian. Những điều này có ảnh hưởng đến

những nghiên cứu tổ chức, đặc biệt Cyert và March’s (1963) lý thuyết hành vi của công

ty và Cohen, March, và Olsen (1972) xem như thùng rác. Trong chương 12, Dooley thảo

luận hai loại mô hình triển vọng cho những hệ thống phức tạp. Lỗ hỏng tự động (Corman,

1996; Latane, 1996; Lomi và Larsen 1996, 1999) đại diện có mối liên hệ như thế nào ảnh

hưởng lẫn nhau và được sử dụng đến mô hình kéo theo thời gian của những ý tưởng,

những cảm xúc, và những hành vi thông qua một hệ thống. Lomi và Larsen (1999) diễn

tả lỗ hỏng tự động được sử dụng nhưng thế nào đến sự tiến triển, thay đổi trong những hệ

thống tổ chức, và Corman và Latane sử dụng chúng để mô hình những ảnh hưởng xã hội

trong những hệ thống. (the rugged landscape model) không biết dịch mô hình này

(Kauffman, 1993;1995) đã nhận được nhiều sự chú ý của các nhà lý thuyết tiến hóa tổ

chức và cùng tiến hóa, như Baum và Rao được minh họa trong chương 8.

3. Các mô hình hệ thống tự tổ chức miêu tả làm như thế nào được tạo ra bởi một hệ thống trong chính nó. Hệ thống tổ chức lại theo các điều kiện mà đẩy nó đi từ trạng thái cân bằng của nó và là kết quả của các quá trình đổi mới, nghiên cứu, và phát triển cho phép hệ thống làm tiêu tan năng lượng để tạo trạng thái không cân bằng. Mô hình của Contractor và Grant (1996) về sự nổi lên của cách giải thích được chia sẻ trong nhóm và tổ chức thông qua hệ thống tự tổ chức các khuôn khổ công việc.

4. Các mô hình hệ thống thích nghi phức tạp, phát triển theo phương pháp tiếp cận mới, thì giống với các tác nhân theo đuổi mục đích luận kết thúc. Những tác nhân biểu hiện các quy luật hoạt động cụ thể chúng tương tác với nhau như thế nào và với môi trường. Theo thời gian, các tác nhân học được cách để cải thiện sự phù hợp của chúng trong hệ thống. Mô hình toán của Axtell (1999) về sự nổi lên của các công ty, được mô tả trong chương 12, là một ví dụ của loại mô hình này. Để hiểu mô hình hệ thống thích nghi phức tạp phải đến từ việc chỉ ra các quá trình thay đổi và đổi mới như thế nào ở mức độ cao hơn nổi lên từ sự ảnh hưởng lẫn nhau của các công ty độc lập.

Một trong số bốn phương pháp tiếp cận cung cấp một cách khác nhau để tích hợp quá trình và phương pháp tiếp cận đúng. Các mô hình năng động (Dynamic models) và các mô hình tính toán đại diện cho các cơ chế tạo ra một quá trình (một lý thuyết đúng) và “hoạt động” để tạo ra những đặc điểm của quá trình. Thay đổi có hệ thống các tham số

Page 28: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

ảnh hưởng đến các mô hình hoặc cấu trúc của các mô hình sẽ cho phép nhiều phương pháp khác nhau được áp dụng trong so sánh khắt khe của các kết quả đầu ra. Đặc trưng chất lượng của các kết quả đầu ra, chẳng hạn như hình dạng quỹ đạo của các biến khác nhau theo thời gian, có thể được dùng để tập hợp vào bản chất của quá trình. Mô hình hệ thống tự tổ chức đại diện cho các quá trình trong điều kiện của cơ chế mà ở đó hệ thống phản ứng với những thay đổi trong môi trường của mình thông qua tổ chức lại. Tác động của môi trường thay đổi có thể được nghiên cứu bằng cách sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, và sự biến đổi có hệ thống trong các quy định về quá trình tự tổ chức có thể so sánh sự khác nhau cơ bản với sơ đồ tự tổ chức khác.

Các mô hình hệ thống thích nghi phức tạp là rất thích hợp cho việc nghiên cứu các quá trình định hướng mục tiêu và có thể mô hình sự nổi lên của các hiệu ứng bậc cao từ các hành động của các tác nhân tương tác nhiều. Nó cũng thích hợp cho việc nghiên cứu quá trình tiến hóa khi tương tác giữa các tác nhân có thể được chỉ định. Phương pháp tiếp cận khác biệt có thể được dùng để xác định và nghiên cứu cơ chế mà qua đó, hiệu ứng cao cấp xuất hiện, chẳng hạn như các yếu tố hạn chế sự tương tác giữa các tác nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tiến hóa, như thay đổi môi trường.

Giống như cả hai phương sai và cách tiếp cận quá trình, mô hình có những hạn chế của nó. Các mô hình nói chung là đơn giản hơn nhiều so với các quy trình thực tế mà chúng thực hiện. Tính đơn giản là một trong những đặc điểm tạo nên sức mạnh của mô hình, nhưng sự đơn giản hóa cũng có thể làm sai lệch sự tiêu biểu của mô hình. Sự sai lệch bao gồm giới thiệu hạn chế lực phù hợp và các lý thuyết giả định vào các kỹ thuật mô hình hiện có (McPhee và Poole, 1981). Công thức của các lý thuyết được linh hoạt hơn và có khả năng nắm bắt sắc thái của hiện tượng hơn là các mô hình, được giới hạn bởi ngôn ngữ và hình thức của chúng. Nhưng trong khi mô hình không áp đặt các hạn chế về hình thức lý thuyết, cái nhìn của Dooley trong chương 12 cho thấy nhiều tiến bộ đã đạt được trong việc phát triển nhiều hình thức đa dạng của các mô hình mà có thể phù hợp với nhiều hiện tượng đa dạng. Mô hình hóa thì vẫn còn rất mới. Những mô hình sẽ trở nên phức tạp hơn. Chúng sẽ có thể kết hợp những điểm nối chính, các sự kiện quan trọng, và nguyên nhân hoạt động ở tỉ lệ và thế mạnh khác nhau, trên những cấp độ khác nhau và tại các thời điểm khác nhau. Nếu một cái gì đó có thể được mô tả bằng từ ngữ, nó có thể được mô hình.

Các biến, quy trình, và phương pháp tiếp cận mô hình cung cấp một mảng phong phú

của các khả năng cho việc nghiên cứu thay đổi và đổi mới. Đây là cách là tốt nhất cho một nghiên cứu cụ thể tùy thuộc vào loại các câu hỏi đề cập, các nhà nghiên cứu giả định về thay đổi và đổi mới, và các dữ liệu họ có quyền truy cập đến. Về lâu dài, một sự hiểu biết thấu đáo về một sự thay đổi cụ thể hoặc sự đổi mới có thể cần thiết cho cả ba phương pháp tiếp cận. Các khái niệm chính trong lý thuyết thay đổi và đổi mới là gì?

Dù những giả định về sự thay đổi một lý thuyết có thể thông qua, dù tiếp cận bằng phương pháp nào đi nữa, một số vấn đề cơ bản đối mặt với tất cả các nhà lý thuyết của sự thay đổi tổ chức và đổi mới. Ba thuật ngữ trong các chương của cuốn sách này là: Người,

Page 29: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Không gian, và Thời gian – “Mẫu số chung nhỏ nhất” của lý thuyết về sự thay đổi và đổi mới. Ba thuật ngữ khoa học cơ bản cho bất kỳ khoa học của loài người: trước khi tất cả, cuộc sống xã hội bao gồm của những người tồn tại trong không gian và thời gian.

Các vấn đề chính chỉ ra bởi con người là vai trò của con người trong sự thay đổi và

đổi mới. Vì sự thay đổi và đổi mới của tổ chức thường xảy ra trên một quy mô rất lớn, liên quan đến nhiều actors and units???, và mở rộng trong khoảng thời gian dài, vai trò của các cơ quan trong các quá trình này rất mờ nhạt. Các lý thuyết khác nhau về sự quan tâm họ dành cho vai trò của các cơ quan trong sự thay đổi và đổi mới, nhưng mọi lý thuyết làm cho một số giả định về bản chất của con người hành động và làm thế nào nó kết nối với những thay đổi và đổi mới rộng lớn hơn. Thuật ngữ không gian xem xét vấn đề của các cấp về phân tích trong sự thay đổi và đổi mới của tổ chức. Nó đang chấp nhận rằng lý thuyết tổ chức nói chung và lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới nói riêng phải kết hợp nhiều cấp độ phân tích. Tuy nhiên, có một số phản ứng để thực hiện điều này, vì nó không rõ ràng để xây dựng các cấp vào các lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới như thế nào. Thuật ngữ Thời gian thì được khám phá ít nhất trong ba thuật ngữ, nhưng nó có thể là quan trọng nhất. Có lẽ vì nó là nền tảng của các sự kiện của cuộc sống và do đó nó được công nhận, hoặc vì những khó khăn của đối tượng, thời gian phần lớn bị sao lãng trong hoạt động của tổ chức. Tuy nhiên, công việc gần đây đã có một số tiến bộ.

Thời gian, không gian, và con người không phải luôn là kiến thức rõ ràng trong lý thuyết về sự đổi mới và thay đổi. Tuy nhiên, vì chúng là phổ biến trong các quá trình thay đổi và đổi mới, những lý thuyết làm cho các giả định ẩn về thời gian, không gian, và con người, mặc dù đôi khi rất đơn giản. Phần này sẽ xem xét biểu đồ nhận thức cho các thuật ngữ này và có thể làm rõ vai trò của chúng trong lý thuyết sự thay đổi và đổi mới. Vai trò của yếu tố con người (The Role of Human Agency)

Vai trò tạo ra các lý thuyết về sự thay đổi tổ chức và đổi mới đến công ty là gì? Trong khi có thể có một “bàn tay vô hình” hướng dẫn các tổ chức, vai trò về mục đích và sự can thiệp của con người tất cả là hữu hình, và các học giả của sự thay đổi và đổi mới phải đến các thuật ngữ của họ bằng cách này hay cách khác. Như các chương của cuốn sách này cho thấy, có một loạt các phản ứng với vấn đề này làm thay đổi các giả định về các công việc của công ty, chúng tập trung vào con người so với tổ chức, và sự phức tạp mà chúng dành cho các công ty.

Một cách tiếp cận tập trung vào các cá nhân kiểm soát, tạo ra, và làm lại tổ chức. Những “cá nhân lớn” này – giám đốc điều hành, các nhà thầu, các nhà hoạch định chiến lược, nhà kế hoạch, nhà thiết kế, đại diện cho một lực lượng của con người như là nhà sản xuất của tổ chức. Nhiều lý thuyết và nghiên cứu truyền thống đã thảo luận biểu hiện tập trung này. Trong lý thuyết cân bằng việc điều hành các biến đổi về tổ chức để nó có thể đáp ứng với một cuộc khủng hoảng hoặc tác động của môi trường, hướng dẫn tổ chức thông qua các giai đoạn cách mạng để tiến hóa thành công. Các lý thuyết tổ chức logics (chương 6) thừa nhận rằng doanh nghiệp có tổ chức hợp lý và sự giúp đỡ của nhà điều hành để phá vỡ logic hiện có và công việc quản lý chuyển đến một logic mới. Trong lý thuyết về văn hóa tổ chức và thay đổi văn hóa của Schein (1992) trong (chương 7) sự

Page 30: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

chuyển đổi lãnh đạo thiết lập và mang lại những thay đổi sâu trong cấu trúc của văn hóa. Có lẽ ảnh hưởng nhất của các vị trí này là phát biểu kinh điển của Child (1972) về lý thuyết ngẫu nhiên như sự lựa chọn chiến lược. Các báo cáo thuyết phục làm nổi bật vai trò quan trọng của một cá nhân trong sự thay đổi tổ chức. Họ miêu tả công ty trong ý thức truyền thống của hoạt động cá nhân, những người định hình thế giới theo ý định của họ và chủ động giám sát các khóa học và ảnh hưởng của các hoạt động của mình (Anscombe, 1957; 1979 Giddens, chương 3; von Wright, 1971). Họ cũng giúp các nhà quản lý và các học viên khác hình dung những gì có thể được thực hiện bởi đúng người ở đúng nơi vào đúng thời điểm.

Tuy nhiên, khái niệm trung gian này chủ đề của nhiều khả năng. Có một điều, những

điều kiện bên ngoài giới hạn sức mạnh của tác nhân (agent’s power) và năng lực để kiểm soát các sự kiện và quản lý thay đổi tổ chức. Các yếu tố môi trường có thể tác động mạnh mẽ thậm chí ngay cả các nhà lãnh đạo giỏi nhất có thể tạo ra sự khác biệt nhỏ. Ví dụ khi đối mặt với suy thoái, có thể có rất ít nhà quản trị có thể thay đổi hoàn cảnh kinh tế của một công ty hoặc dịch vụ của một cơ quan chính phủ. Thứ hai, có thể có nhiều tác nhân (agents), và nó được quan sát bởi các cá nhân riêng lẻ là người đứng đầu nhóm. Trong khi đây là một vai trò quan trọng (Mintzberg, 1973), sự trung gian thì phức tạp hơn khi nhiều tác nhân ảnh hưởng qua lại. Ví dụ, có thể có thể có một tác nhân ít ảnh hưởng hơn cũng có thể có hành động quyết định để xác định sự thành công hay thất bại của một sự thay đổi. Cá nhân độc lập có nên tạo sự tin tưởng với cơ quan đối với hành vi này? Nhiều cơ quan rất khó giải quyết, bởi vì rất khó để biết được mục đích nào phù hợp trong trường hợp như vậy.

Cuối cùng, thường rất khó để theo dõi tác động của hành động, cái làm cho nó khó khăn để xác định tác động cuối cùng của một cá nhân lớn. Như đã được quan sát, chúng ta có xu hướng quy cho các kết quả đến người trung gian (human agency) mà không đòi hỏi các yếu tố khác trong tình huống có thể là quan trọng hơn. Kết quả như cải thiện kinh tế được quy cho các chính sách của chính phủ, bất chấp vai trò của chu kỳ kinh tế, và cải tiến tương ứng trong đường biên dưới (firm’s bottom line) của một công ty được quy người quản trị giỏi hơn là thủy triều đang lên làm tăng tốc các tàu thuyền. Nói về những thất bại: thường thì tìm kiếm cho một vật tế thần, một đại lý có trách nhiệm, nơi là địa điểm của thất bại. Trong cả hai trường hợp, chúng ta phải đối mặt với các vấn đề hiển nhiên của liên kết hành động để có kết quả khi chúng được gián tiếp bởi một hệ thống cực kỳ phức tạp của con người, công nghệ hoặc cấu trúc tổ chức, và các yếu tố theo ngữ cảnh. Có phải tác nhân có ý nghĩa to lớn như các nguyên nhân khác?

Một cách để giải quyết vấn đề này là để xác định các nhân tố trong tổ chức, nhóm, đơn vị công việc, hoặc thậm chí ngành công nghiệp. Kết quả là, sự đảo ngược của vị trí đã thảo luận và đặc điểm của yếu tố con người được chọn lựa hoặc sự tồn tại của yếu tố con trười trước đó. Điều này làm cho yếu tố di quản trị - - bằng cách quay tròn trên các hành động của nhiều nhân tố và sự phức tạp của hệ thống tổ chức vào một thực thể đơn mà hiện thân và chứa chúng là tổ chức.

Nhiều lý thuyết và truyền thống nghiên cứu có cách tiếp cận đến nhân tố (agency), và

chúng khác nhau chủ yếu ở mức độ thuộc tính phức tạp đối với tác nhân. Một nhóm các

Page 31: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

quy luật nhận thức của tác nhân tổ chức khá đơn giản. Nghiên cứu thích nghi phương pháp tiếp cận (chương 7) làm mô hình cho tác nhân như một hệ thống nghiên cứu đơn giản tương tự như trong việc học lý thuyết về tâm lý học: các tác nhân khám phá môi trường của nó, ứng dụng và nghiên cứu để đáp ứng với kết quả tích cực hay tiêu cực. Nghiên cứu dân số và cộng đồng sinh thái học (chương 5 và 8) có tổ chức như các thành viên của cộng đồng dân cư hoặc đối xử từng thành viên như hoạt động logic đơn giản, chẳng hạn như sự sống hoặc tiện ích tối đa. Lý thuyết về phụ thuộc nguồn lực (chương 5) phân tích nhân tố tổ chức như là một chức năng của sở hữu nguồn lực cần thiết.

Quan điểm khác đối với các nhân tố tổ chức trong nhiều điều khoản phức tạp, tương tự các nhân tố của con người được nhấn mạnh trong cách tiếp cận cá nhân riêng lẽ. Trong trường hợp này, quá trình mà các tác nhân hoạt động không được mô tả trong điều khoản rõ ràng, nhưng thay vì tác nhân được cho là phức tạp khi nó không thể diễn tả đầy đủ về một chu kỳ nghiên cứu hoặc mô hình hợp lí. Các lý thuyết của các nhóm như hệ thống hành động phức tạp đã thảo luận trong chương 3. Trong khi bản chất của các quá trình nhóm có thể được mô tả, làm thế nào các quá trình này diễn ra và thiết lập cụ thể của các quá trình đó sẽ xảy ra khi một nhóm các hành vi được giả định là không xác định, đối tượng đáp ứng của nhóm thì cấp bách cho tình huống đó. Lý thuyết tổ chức được thảo luận trong chương 5, 9, và 10 cũng áp dụng cách tiếp cận này. Tổ chức được được đưa đến các thực thể phức tạp người mà lịch sử định dạng phản ứng của họ bằng những cách phức tạp.

Mặc dù các hoạt động đáp ứng thường xuyên để áp lực thể chế và các giai đoạn của

thể chế có thể được xác định, đây là những giả định là tổng đại lý mô hình và mỗi tổ chức được giả định nghề đáp ứng riêng của mình, giống như yếu tố của con người sẽ xây dựng các khóa học riêng của riêng mình. Các lý thuyết của sự thay đổi văn hóa để phản ứng lại các sự kiện bên ngoài (chương 7) cũng áp dụng một điểm phức tạp về cách tổ chức thích ứng với các sự kiện.

Nhiều học thuyết gia có thể làm theo lợi ích thuận tiện hơn là thừa nhận các nhân tố siêu nhân. Trong khi điều này có thể là ý định của họ, chiến lược cường điệu góp phần vào việc xây dựng các đối tượng lý thuyết. Những kết quả lý thuyết hình thành các nhóm, các tổ chức, và các ngành công nghiệp như họ nghĩ họ đang lựa chọn và giám sát kết quả hoạt động của mình. Đã có một truyền thống lâu đời của cuộc tranh luận về việc liệu nhân tố (agency) có ý nghĩa ở các cấp độ hơn là con người riêng lẽ (Pfeffer, 1982). Cá nhân chủ nghĩa phương pháp luận chứng tỏ rằng hành động đó là không có ý nghĩa trừ khi liên kết với các nhân tố con người riêng lẽ. Mặt khác, hành động có thể được định nghĩa trong điều khoản của các thuộc tính của nó. Bất kỳ hệ thống nào có ý thức ý định khi tham gia vào các khóa học mới của hành động, giám sát kết quả của hành động và điều chỉnh các khóa học của mình cho phù hợp, ghi vào ý định trong hoạt động lặp lại hàng ngày, và thói quen khi có bằng chứng họ không làm những việc như những gì mà con người thường làm. Mặc dù họ có thể không có linh hồn, những tổ chức có thể có các nhân tố (agents). Cuộc tranh luận này bắt đầu rất lâu trước khi có cuốn sách này và nó sẽ còn được tiếp tục trong tương lai. Nó không đáng giá khi giả định rằng các nhóm và các

Page 32: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

tổ chức là những nhân tố (agents) có thể phải đối mặt với câu hỏi cơ bản về nền tảng của lý thuyết của họ.

Một cách để trả lời những câu hỏi này là xây dựng lý thuyết về cách tập hợp nhân tố

(agency) có thể xuất hiện từ các hoạt động của nhân tố con người. Một số lý thuyết tương lai trong sách này được đưa ra. Đồng thời họ cũng có trình độ khác nhau qua tác nhân con người. Họ cũng khác nhau cho dù các yếu tố con người được đối xử như là nền tảng của nhân tố tập hợp hoặc đưa ra tình trạng nổi bậc cùng với các nhân tố tập hợp.

Các lý thuyết cơ bản về kinh tế dựa trên một nền tảng của lý thuyết lựa chọn hợp lý mà đã được phát triển trong hơn 150 năm qua. Tổ chức này xử lý các quy trình lựa chọn của tất cả các nhân tố (agents) cá nhân như là mặc dù chúng là như nhau, đơn giản hóa rất nhiều nhân tố (agency). Đây là một động thái mạnh mẽ cho phép toàn bộ xã hội của các yếu tố để được tổng hợp vào hiệu quả kinh tế cấp cao hơn. Những lý thuyết như chi phí giao dịch, kinh tế công nghiệp, và kinh tế phát triển (chương 5) căn cứ vào lý luận thực tế, trong đó sử dụng các nhân tố dựa trên lý trí làm nền tảng cho sự phát triển lý thuyết. Giống như sự phức tạp của lý thuyết tiến hóa về thay đổi tổ chức được mô tả trong chương 8 của Baum và Rao. Baum và Rao thừa nhận là họ hoạt động tất cả theo một logic tương tự như nhấn mạnh vào sự sống và tăng trưởng.

Quan điểm tính năng khác tổ chức nhưng kết hợp một cái nhìn phức tạp hơn về nhân tố con người như một phần nền tảng của tổ chức. Nghiên cứu tổ chức xây dựng dựa trên công việc của Argyris, Schon, và Senge (chương 4 và 7) tập trung hòan toàn chủ yếu vào tổ chức, nhưng nó cũng biết được vai trò quan trọng của nhà phân tích, sáng tạo, và nghiên cứu quá trình để thoát khỏi tình trạnh “học để học”. Lý thuyết này có nét đặc trưng của tổ chức, và nó là không rõ ràng chính xác cách thức các hoạt động của cá nhân và bắt đầu tập hợp đến mức độ tổ chức. Lý thuyết của Hatch về thay đổi văn hóa tổ chức (chương 7) đưa ra khái niệm về thay đổi văn hóa tổ chức trong điều khoản của sự biểu lộ của các quá trình, tượng trưng, thực hiện, và giải thích, quy trình cấp tổ chức rõ ràng phải được thúc đẩy bởi các yếu tố cá nhân và khớp nối trong hệ thống tổ chức.

Còn có một số lý thuyết đưa ra tình trạng ngang bằng của các cá nhân và tổ chức. Lý thuyết hành động hợp lý sẽ được thảo luận trong chương 9, khởi xướng thay đổi như thế nào bởi các nhân tố cá nhân hoặc quan trọng có thể tạo ra thay đổi tổ chức. Sự ảnh hưởng qua lại, được thảo luận trong chương 2, cũng cung cấp một cách cân bằng về sự ảnh hưởng qua lại của cá nhân và tổ chức. Những lý thuyết về cấu trúc (chương 4, 9 và 10) cũng kết hợp cả hai nhân tố cá nhân và nhân tố tập thể trong giải thích của họ. Cuối cùng, một trong những lý thuyết phát triển tốt nhất hiện nay là liên kết các hoạt động cá nhân và tổ chức lại với nhau là lý thuyết Coleman (1990) về hoạt động xã hội, mà sẽ được thảo luận ngắn gọn trong phần tiếp theo.

Nhiều tác giả trong sách này đã quan sát thấy rằng các lý thuyết gần đây về thay đổi tổ chức và đổi mới tổ chức là việc đặt tầm quan trọng ngày càng cao về tác nhân và cho phép tính không đồng nhất trong hoạt động. Theo quá trình phát triển này, cần thiết phải làm rõ thêm bản chất của các nhân tố tập thể và làm thế nào nó có liên quan đến nhân tố cá nhân. Xu hướng hoạt động tập thể như là mặc dù họ có các nhân tố con người cần

Page 33: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

được đặt câu hỏi. Có thể là nhân tố tập thể hoạt động khác với quá trình do nhân tố cá nhân. Chắc chắn công việc hoạt động tập thể có một số hiểu biết quan trọng để biết.

Xem xét sự ảnh hưởng lẫn nhau của các loại nhân tố khác nhau trong sản xuất thay đổi là rất quan trọng. Trong phạm vi hoạt động, các nhân tố khác với quyền lực, cho dù là yếu tố cá nhân hay tập thể. Làm thế nào để các yếu tố khác nhau tác động qua lại và hậu quả của quá trình thay đổi là gì? Một công cụ đầy hứa hẹn để giải quyết cả hai vấn đề là mô hình tác nhân cơ bản (agent-base modeling), sẽ được thảo luận trong chương 11 (xem thêm McKelvey, 2002). Nó hỗ trợ các mô hình lý thuyết của các yếu tố cộng đồng, có thể được sử dụng để khám phá mối quan hệ giữa các yếu tố cá nhân và yếu tố tập thể như thế nào và những điểm khác nhau của chúng là gì. Tuy nhiên, mô hình tác nhân cơ bản cũng có những hạn chế của nó, khi nó mô tả hình mẫu mạnh mẽ của các tác nhân. Trong khi mô hình tác nhân cơ bản có thể đưa ra về việc làm thế nào hiện lên tầm quan trọng của cấp độ hệ thống từ sự ảnh hưởng qua lại của các nhân tố, họ không nắm bắt ý nghĩa của hành động hoặc tầm quan trọng của nó đối với các tác nhân. Để giải thích lý thuyết như lý thuyết về đặc trưng của sự tác động qua lại thì phù hợp hơn cho việc giải thích quá trình. Hiện tại hệ thống mô hình tác nhân cơ bản sẽ cần phải phát triển để đưa ra ý nghĩa và giải thích quá trình, nếu họ có thể làm được (đối với một cái nhìn lạc quan, xem Leveque và Poole, 1998; Poole, 1997).

Thập kỷ qua đã chứng kiến sự gia tăng tinh tế trong khái niệm của chúng ta về tác nhân (agency) và vai trò của tác nhân trong sự thay đổi và đổi mới tổ chức, và không có nghi ngờ điều này sẽ tiếp tục. Có nhiều cấp độ của tác nhân (agency) trong nghiên cứu đương thời về sự thay đổi và đổi mới cho thấy nó cũng rất quan trọng để xem xét vấn đề tổng quát hơn của các cấp về phân tích, khái niệm “không gian” hợp thành sự thay đổi và đổi mới. Các cấp độ phân tích

Có sự đồng thuận chung rằng các tổ chức là hiện tượng nhiều cấp độ. Phần đông các học giả cho rằng có đủ lý thuyết về hiện tượng tổ chức nên kết hợp các khái niệm từ nhiều cấp độ và giải thích các mối quan hệ giữa các cấp độ đó. Một nhóm nhỏ các học giả đã tiến hành nghiên cứu kết hợp phân tích ở nhiều cấp độ, như cuốn sách này cho thấy, phát triển nhiều cấp độ lý thuyết sự thay đổi và đổi mới của tổ chức (ví dụ, Klein và Koslowski, 2000). Chỉ có một vài học giả đã chống (tackle)?? lại vấn đề làm thế nào để phát triển các lý thuyết nhiều cấp độ, và một số ít học giả vẫn phát triển lý thuyết nhiều cấp độ về sự thay đổi và đổi mới.

Một phân tích của Dansereau, Yammarino, và Kohles (1999) có một số ý nghĩa quan trọng cho việc phát triển các lý thuyết nhiều cấp độ về sự thay đổi. Họ làm như là điểm khởi đầu (cá nhân, nhóm, tổ chức) trên một cấp độ duy nhất của phân tích và phân biệt ba loại nhóm:

• Một nhóm đồng nhất hiện diện khi tất cả các thành viên được sáp nhập

vào một đơn vị cấp độ cao hơn và hành động như một người. Khi

Page 34: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

chúng ta cho rằng tổ chức hoặc đơn vị làm việc như một thực thể duy nhất, chúng ta đề cập đến mức độ phân tích.

• Một nhóm không đồng nhất bao gồm thành viên là phụ thuộc lẫn nhau, nhưng không phải sáp nhập vào một đơn vị duy nhất. Nhóm không đồng nhất có thể có các nhóm con hoặc của các cá nhân riêng lẽ là người phụ thuộc, nhưng vẫn khác nhau và tách khỏi nhau.

• Một nhóm các đơn vị độc lập bao gồm các đơn vị độc lập mà họ hoạt động riêng của họ mà không tham chiếu đến nhóm toàn thể.

Dansereau lập luận rằng một điều quan trọng của việc thay đổi cấp độ ngang (cross-

level) là khi một dạng của nhóm thay đổi vào một nhóm khác. Ví dụ, một nhóm các cá nhân độc lập có thể được đưa (melded)?? vào một nhóm đồng nhất bằng cách thay đổi lãnh đạo. Trong trường hợp này việc phát triển thiết lập các đơn vị được chuyển từ một mức này sang mức khác như một phần của quá trình thay đổi. Dansereau phân biệt một số loại hình chuyển đổi có thể được chia thành hai loại chính:

• Các thay đổi đi lên xảy ra khi những đơn vị độc lập mức dưới (lower- level independent units) chuyển đổi thành các nhóm đồng nhất hoặc đồng nhất. Ví dụ, một nhà lãnh đạo có thể tạo ra các nhóm không đồng nhất gốm các thành viên ưa thích và không ưa thích (favored and unfavored) thông qua quá trình LMX. Thay đổi ở trên cũng xảy ra khi một nhóm không đồng nhất được biến đổi thành một nhóm đồng nhất, có thể xảy ra khi một nhà lãnh đạo biến đổi thống nhất các phe phái và chia thành một tổ chức kết dính.

• Các thay đổi đi xuống xảy ra khi những đơn vị đồng nhất cấp cao được chuyển đổi thành các nhóm không đồng nhất hoặc những đơn vị độc lập. Ví dụ, một nền văn hóa mạnh có thể đổ vỡ thành nhiều phe phái bởi khủng hoảng tổ chức làm cho các thành viên đi vào nhóm khác và một số thì không. Thay đổi đi xuống cũng sẽ xảy ra khi một nhóm không đồng nhất tan rã thành từng cá nhân riêng biệt. Một ví dụ thường thấy của việc này là việc giải thể của một tổ chức hoặc nhóm.

Lưu ý rằng trong trường hợp có sự thay đổi này xảy ra trong các mối quan hệ của các

đơn vị với nhau cũng như cho các đơn vị mình. Việc di chuyển từ một tập hợp của các cá nhân để kết dính thành một nhóm, ví dụ, các mối quan hệ giữa các cá nhân thay đổi, và các cá nhân tự có thể thay đổi là tốt.

Việc chuyển đổi có thể được phân biệt với trường hợp trong đó một đơn vị còn lại ở

cùng cấp và những thay đổi bên trong cấp độ đó. Ví dụ, các mô hình vòng đời của tổ chức thường được đúc ở cùng một mức độ phân tích, lập bản đồ thay đổi theo thời gian trong tổ chức. Trạng thái thay đổi cũng có thể được phân biệt với trường hợp trong đó các đơn vị tại cùng một mức độ ảnh hưởng với các mức độ khác mà không có một thay đổi trạng thái. Ví dụ, tổ chức có thể thay đổi thành viên cá nhân của mình và cả hai cấp độ tổ chức và cấp độ cá nhân vẫn còn “nguyên vẹn”.

Page 35: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Điều này cho thấy rằng trong khái niệm thay đổi qua các mức độ, chúng ta phải phân biệt sự thay đổi trạng thái (khi thay đổi xảy ra thông qua các đơn vị thay đổi từ một loại thay đổi khác) từ ảnh hưởng mức độ ngang (cross-level) (khi các đơn vị tại một cấp độ ảnh hưởng thay đổi các đơn vị khác ở mức độ khác mà không thay đổi trạng thái). Thay đổi trạng thái liên quan đến thay đổi trong thực thể trải qua nhiều thay đổi và có nhiều cấp độ thông qua cầu nối hoặc di chuyển qua các cấp. Thay đổi thông qua ảnh hưởng cấp độ ngang (cross-level) là cái gì đó thẳng thắng hơn vì các mức độ còn lại thì ổn định và chịu ảnh hưởng từ một cấp độ khác.

Trong lý thuyết về nhóm của McGrath và Tschan như các hệ thống thích nghi phức

tạp, các cấp độ được lưu giữ riêng biệt và chỉ có cấp độ ngang (cross) được thừa nhận. Ví dụ, một dự án lâu dài của nhóm ảnh hưởng đến nhiệm vụ ngắn hạn trong quan hệ từ cấp độ cao đến cấp độ thấp. Lý thuyết của Baum và Rao về sự pha trộn ảnh hưởng của cấp độ ngang (cross-level) và trạng thái thay đổi: đơn vị ở các cấp độ khác nhau của các cộng đồng dân cư và ảnh hưởng lẫn nhau qua các cấp độ. Ngoài ra, các cộng đồng có thể thay đổi trạng thái theo thời gian, như dân số đặt họ vào trong mối quan hệ với nhiều cấp độ khác nhau về sự bổ sung và sự cộng sinh. Cộng đồng với cộng sinh ít ở trong quần thể có nhiều quan hệ đến những nhóm đơn vị độc lập (và cộng đồng do đó yếu hơn), trong khi những người có mối liên kết chặt chẽ đều giống như các nhóm đồng nhất hoặc không đồng nhất (và cộng đồng do đó mạnh hơn).

Thực tế là cả hai loại thay đổi có thể xảy ra trong cùng quá trình thay đổi hiện tại thách thức đối với lý thuyết và nghiên cứu về thay đổi và các quá trình đổi mới. Nó làm tăng sự phức tạp của các lý thuyết và những vấn đề mà nghiên cứu thực tế phải đối phó. Điều này được tô đậm hơn khi chúng ta xem xét vai trò của thời gian. Thời gian

Thời gian là “ether” của thay đổi. Chúng ta đánh giá rằng sự thay đổi xảy ra để chống lại nền tảng của thời gian. Ta sử dụng các số liệu trên nền tảng này để đánh giá khi thay đổi xảy ra, tỉ lệ thay đổi, phạm vi thay đổi, và cũng để thiết lập phần đối của thay đổi là ổn định. Thời gian thì quan trọng như nghiên cứu thay đổi và đổi mới, cho tới gần đây nó vẫn còn là mơ hồ như là môn vật lý cổ điển.

Thời gian là một chủ đề sâu thẳm và khó khăn, nhưng điều quan trọng là ta phải tham gia vào nó. Trong khi chúng ta đang ở xa sự hiểu biết và mất thời gian cho nghiên cứu về thay đổi và đổi mới, một số nghiên cứu cơ bản về thời gian và vai trò của nó trong các tổ chức đã có tiến bộ (Ancona, Okhuysen, và Perlow năm 2001; Barkema, Baum, và Mannix, 2002; Goodman, Ancona, Lawrence, và Tushman năm 2001; McGrath và Kelly, 1986; McGrath và Rotchford, 1983). Nhiều vấn đề nổi bật được đưa ra: Bản chất của thời gian là gì? Vai trò của nó trong lý thuyết về sự thay đổi và đổi mới là gì? Làm thế nào để chúng ta nắm thời gian bắt tốt nhất để xây dựng các lý thuyết của chúng ta?

Bản chất của thời gian là một vấn đề cũ như triết học và chắc chắn sẽ không được quyết định ở đây. Tuy nhiên, có thể nhận dạng một số quan điểm có liên quan về bản chất của thời gian dựa trên một phân tích ảnh hưởng bởi McGrath và Kelly (1986).

Page 36: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Thời gian của các lý thuyết Newton là thời gian của vật lý cổ điển. Quan điểm này giả định thời gian là một thể liên tục tuyến tính được chia thành các đơn vị thống nhất tương đương với nhau. Thời gian là độc lập với các đối tượng và những người có kinh nghiệm về nó. Thời gian có thể được đo khách quan, và nó có thể đảo ngược ở chỗ nó chỉ đơn giản là một chiều hướng trừu tượng. Một nhà nghiên cứu các lý thuyết của Newton xem thời gian là trung lập, là vật trung gian bên ngoài cho các đối tượng và các tổ chức và đo lường bằng đồng hồ. Thời gian giao dịch là thời gian của các sự việc quan trọng. Quan điểm này coi thời gian thì “có thể chia được, nhưng sự khác biệt, với một số điểm phục vụ là giá trị giới hạn (ví dụ sinh nhật, biến hóa, phân chia tế bào, vv)” (McGrath và Kelly, 1986, Trang 33). Quan sát là quan trọng trong việc xác định những điểm chính, và do đó thời gian phụ thuộc vào quan sát hoạt động bên trong nó. Các sự kiện quan trọng được xác định không phải bởi việc đo lường thống nhất đối với một nền tảng mà có thể không tính bởi toán học, mà bởi những gì quan sát được hoặc tin là quan trọng. Dòng chảy của thời gian là không thể đảo ngược và khái niệm thời gian kế tiếp được xem là một quá trình phát triển. Nhà nghiên cứu xem các giao dịch thông qua thời gian sẽ đo lường bằng xác định các sự kiện quan trọng hoặc đáng kể cho các đối tượng. Trong một số trường hợp này được thực hiện “từ bên ngoài” bởi các nhà nghiên cứu đã xác định các sự kiện quan trọng, có thể là bước ngoặt lớn (ví dụ, một cuộc khủng hoảng tổ chức, đánh giá một hiệu suất) hoặc những sự việc tầm thường hơn (ví dụ, mỗi nhân viên có sự ảnh hưởng với người quản lý của mình hoặc mỗi phát biểu thực hiện bởi một nhóm thành viên trong một cuộc thảo luận ra quyết định). Các trường hợp khác''này được thực hiện từ bên trong” bằng cách đối tượng chỉ ra các sự kiện là quan trọng đối họ, như Van de Ven, Polley, Garud và Venkatraman (1999) đã làm khi họ phỏng vấn các thành viên của các đội sáng tạo, yêu cầu họ xác định các sự kiện quan trọng. Mỗi lần xuất hiện sự kiện quan trọng hoặc đáng kể lại phân ranh giới một đơn vị thời gian xét về góc độ giao dịch. thời gian văn hóa thống trị tương tự như quan niệm về thời gian của Newton , nhưng dòng chảy của thời gian được coi là đơn hướng thay vì hai hướng. Trong khi quan niệm của Newton về thời gian là thích hợp khi xem một thế giới vật lý độc lập với các mối quan tâm của con người, thì các quan điểm thời gian thống trị cũng cho biết thêm các chiều văn hóa của con người đối với quan điểm của Newton. Con người, sống trongcuộc sống không thể đảo ngược, không những sử dụng các số liệu chính xác để phân chia và đo thời gian mà còn nhìn thấy thời gian như là một sự tiến triển qua các chu kỳ thường xuyên. Một nhà nghiên cứu làm việc với quan điểm này về thời gian sẽ sử dụng số liệu có ý nghĩa xã hội, chẳng hạn như lịch, lịch đo lường các đơn vị thời gian tương đương nhau như là ngày hay tuần. qua các nghiên cứu khoa học xã hội Cách tiếp cận này đã xem thời gian như là một phương tiện truyền thông khách quan. Ví dụ, theo chiều dọc được chia làm ngày, tuần, hoặc tháng như là một đơn vị phân tích cơ bản. Thời gian tổ chức kết hợp quan điểm của Newton và quan điểm giao dịch. Một thước đo chính xác là cần thiết để phối hợp các hoạt động, sự kiện quan trọng diễn ra có 1 ý nghĩa nào đó. Thời gian chẳng những đơn hướng, mà còn phát triển, bởi vì người ta khi thực hiện nhiệm vụ phải mất nhiều thời gian để phát hiện và phát triển để hoàn thành nhiệm vụ này. Quan điểm này giả định rằng người dân và các tổ chức thường không chỉ tự định hướng chia thang đo thời gian như

Page 37: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

lịch, mà còn nhận thức được sự quan trọng và ý nghĩa của các sự kiện tương tác với thang đo thời gian. Phần lớn các nghiên cứu tập trung vào chu kỳ cuộc sống hoặc mô hình thang đo đều sử dụng quan điểm thời gian này. Sự phát triển của người dân, các nhóm, tổ chức, và các ngành công nghiệp được đo bằng cách sử dụng cả số liệu bên ngoài như vậy như ngày, tuần, tháng, hoặc năm và ý nghĩa của các giai đoạn đó. các quan điểm có ý nghĩa quan trọng cho lý thuyết của sự thay đổi tổ chức và đổi mới. Quan niệm của Newton về thời gian nhiều khả năng được liên kết với các lý thuyết cho rằng thời gian như là một nền tảng hoặc phương tiện cho các quá trình thay đổi thay vì chỉ là một phần tự vận động của chính nó. Trên góc độ khái niệm giao dịch và tổ chức, thời gian được xem như có ý nghĩa và do đó trở thành một phần của lý thuyết chính nó. Cả văn hóa thống trị và tổ chức thì quan điểm về thời gian dường như nắm bắt được bản chất thay đổi và phát triển của tổ chức tốt hơn quan đểm giao dịch của Newton. Chìa khóa chính trong các quá trình này, con người, đã xây dựng các hệ thống đo thời gian chính xác nhưng sử dụng chúng trong một thế giới xã hội bao gồm những thời điểm, mục tiêu, và sự kiện quan trọng. Tuy nhiên, tất cả bốn quan điểm về thời gian có thể được tìm thấy trong chương này. Tiềm ẩn trong mỗi quan điểm về thời gian là làm thế nào thời gian có thể được đưa vào lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới. Chúng ta có thể phân biệt bốn vai trò mà thời gian có thể đóng trong lý thuyết tổ chức và nghiên cứu. Phổ biến nhất, các con số thời gian được xem như một phương tiện trong lý thuyết của sự thay đổi và các quá trình đổi mới. Trên quan điểm này- thường là liên kết với quan điểm Newton nhưng cũng ngầm định trong quan điểm giao dịch-thời gian được coi là một nền phản chiếu quan trọng nhất cho các hiện tượng khác khi đều tra tìm hiều. Số liệu thời gian của phương tiện này được sử dụng để phân tích các đơn vị thời gian theo chiều dọc và đơn vị khoảng thời gian theo thang đo chiều ngang và đối chiếu sự thay đổi so với sự ổn định. Như vậy số liệu thay đổi chính xác ngẫu nhiên theo đơn vị phân phôi bằng nhau của chuỗi thời gian để phân tích các đơn vị tương đương của các trường hợp nghiên cứu và về dân tộc học. Trong khi các số liệu có thể có vẻ thích hợp hơn để đo lường, thì nhiều loại số liệu của lý thuyết nghiên cứu và đổi mới lại làm cho vấn đề này trở thành 1 vấn đề của lý thuyết (Zaheer, Albert, và Zaheer, 1999). Chúng tôi sẽ xem xét sự phức tạp của các số liệu sau đó trong phần này. Thời gian cũng có thể được xem như là một biến trong lý thuyết của thay đổi và đổi mới. thời gian được xem như là phương tiên trực tiếp liên quan đến vai trò của nó như là biến, vì Bảng 1.4 phân biệt rõ ràng thời gian trong lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới. Các giả sử về Vai trò của thời gian trong lý thuyết Thang đo Thời gian Newton vừa tồn tại khoảng biến giao dịch có giá trị trong quan điểm văn hoá thống trị ….. cùng một số liệu được áp dụng trong nghiên cứu các hiện tượng khác có thể được dùng để biến đổi thời gian thành một biến độc lập, phụ thuộc hay điều chỉnh. Khi thời gian là một biến độc lập, thì khoảng thời gian là một yếu tố trong sự thay đổi. Ví dụ, nghiên cứu nổi tiếng của Gersick (1989) thấy rằng các đội dự án thường khi đang ở điểm quá độ họ sẽ tổ chức lại và suy nghĩ lại chiến lược công việc của họ. Các lý thuyết về cách thức thay đổi thời gian cá nhân (Woodman và Dewett, chương 2), nhóm phát triển (McGrath và Tschan, chương 3), tiến hóa kinh tế (Lewin et al., chương 5), và thể chế thay đổi (Hinings et al., chương 10) sử dụng thời gian như là một biến độc lập. Khi thời

Page 38: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

gian là một biến phụ thuộc, quãng thời gian được sử dụng như một chỉ số của các sự kiện quan trọng. Sự kiện lịch sử phân tích tỷ lệ thất bại của tổ chức (xem Baum và Rao, chương 8), ví dụ, dự đoán khoảng thời gian thất bại cùng với các yếu tố khác có thể giải thích được sự thất bại của tổ chức. Khi thời gian là một biến điều chỉnh, các hiệu ứng nhân quả của các biến độc lập khác được giả định thay đổi là hàm của thời gian. Ví dụ, Agarwal, Sarkar, và Echambadi (2002) báo cáo 1 bằng chứng cho thấy như là một ngành công nghiệp trưởng thành, có các mối quan hệ giữa trật tự thâm nhập và mật độ và thay đổi sự sống còn của doanh nghiệp. Trong một số các lý thuyết tổ chức (Van de Ven và Hargrave, chương 9; Lewin et al., Chương 5), yếu tố khác nhau phụ thuộc rất quan trọng vào từng giai đoạn của lĩnh vực thể chế. Một cách thứ ba, trong đó thời gian có thể nhập vào lý thuyết như 1 thuật ngử thiên về con người, tổ chức, và các nền văn hóa. Thời gian là một phương tiện cơ bản của đời sống xã hội và một biến quan trọng trong xã hội thế giới, và các cá nhân, nhóm, tổ chức, và nền văn hóa phát triển thiên về phản ứng và sử dụng thời gian trong nhận thức của họ. Một số khuynh hướng đã được tích hợp vào các lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới. Khuynh hướng cấp Cá nhân bao gồm thời gian cấp bách (Waller, Conte, Gibson, và Carpenter, năm 2001), thời định hướng (Quá khứ, hiện tại, tương lai) (Waller et al. 2001; Zimbardo và Boyd, 1999), và tương tác tiến độ (Warner, 1988), khuynh hướng tổ chức bao gồm định hướng thời gian (Lawrence và Lorsch, 1967) và tốc độ (Perlow, Okhuysen, và Repenning 2002). Văn hóa bao gồm thời gian thay đổi đơn hướng và đa hướng (Hall, 1983), hiện tại so với tương lai thời gian định hướng (Jones, 1988), và tốc độ (Levine, 1988). Logic khác nhau của tổ chức (Drazin et al., chương 6) kết hợp những quan điểm khác nhau thời gian, cũng như các hệ thống quốc gia khác nhau (Lewin và Kim, chương 11). Cuối cùng, thời gian có thể được xã hội xây dựng như một phần của một sự thay đổi hoặc quá trình đổi mới. Khi thời gian được xem như một biến hoặc 1 khuynh hướng thời gian, nó là 1 cấu trúc riêng biệt có thể được tách ra từ các cấu trúc khác trong quá trình thay đổi hay đổi mới. Tuy nhiên, thời gian bị ràng buộc rất mật thiết với thay đổi và đổi mới mà nó cũng hữu ích để xem xét làm thế nào nó có thể được xây dựng trên các quá trình. Orlikowski và Yates (2002) trình bày một quan điểm hữu ích về cách cơ cấu các quy trình trong các tổ chức có thể được sử dụng để xây dựng ''Một loạt các cấu trúc thời gian hình thành nhịp thời gian và hình thức đang diễn ra (p. 684). cấu trúc này bao gồm lịch, dự án kế hoạch, thời hạn, và kết thúc thời gian (Xem thêm Yakura 2002). Cấu trúc thời gian không được nói đến nhiều trong chương này, nó nằm trong lý thuyết của việc xây dựng xã hội của các tổ chức (Van de Ven và Hargrave, chương 9) và các nhóm như hệ thống vận động (McGrath và Tschan, chương 3). Bốn vai trò không loại trừ lẫn nhau. Vai trò của thời gian như thước đo là nền tảng cho ba vai trò còn lại, và lý thuyết có thể kết hợp nhiều yếu tố thời gian. Ví dụ, vai trò quan trọng của nhịp điệu- chu kỳ thường xuyên của hành vi-trong cá nhân, nhóm, và các quá trình xã hội (Warner, 1988) có thể sử dụng nhịp điệu như biến độc lập, phụ thuộc, hoặc điều chỉnh, như là một cấu trúc có khuynh hướng, hoặc là một cấu trúc xã hội, và đôi khi là các cấu trúc khác. Và điều này không đề cập đến việc cần thiết có vai trò của các số liệu thời gian trong việc đánh giá tính chất của nhịp điệu. Ngoài ra còn có mối quan hệ khác nhau giữa các cấu trúc thời gian. Ví dụ, khuynh hướng cá nhân và văn hóa đối với quá trình xây dựng xã hội, và các khuynh hướng này hầu hết đều được hình thành bởi quá trình này. Cũng với mức độ

Page 39: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

phân tích, nhiều yếu tố thời gian có liên quan đến hầu hết quá trình thay đổi và đổi mới. Điều này đúng không chỉ vì những nội dung thời gian đóng vai trò trong các lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới, mà còn vì sự phức tạp của thời gian đi vào hoạt động vào con người. đặc biệt các hoạt động thú vị của con người như xây dựng các lý thuyết và tiến hành các nghiên cứu ảnh hưởng đến nhiều yếu tố thời gian. Zaheer et al. (1999) phát triển một phân tích sâu sắc về cách thức thang đo thời gian được thể hiện trong lý thuyết và nghiên cứu tổ chức. Họ phân biệt năm loại khác nhau của quy mô thời gian: 1. Khoảng thời gian tồn tại là ''chiều dài của thời gian cần thiết cho một trong những thời điểm của quá trình, khuôn mẫu, hiện tượng, hoặc sự kiện xảy ra hoặc diễn ra'' (P. 730). Điều này có thể xem 1 cách khách quan như trong trường hợp của chu kỳ nhịp nhàng 24-giờ -hay được xây dựng- trong trường hợp khoảng thời gian mà một công ty luật đặt ra cho nhân viên học việc trở thành 1 NV chính thức. 2. Khoảng thời gian hiệu lực của thời gian đề cập đến quy mô thời gian trên lý thuyết. Ví dụ, nhịp điệu sinh học được giả định để giữ cho tất cả các ngày của năm hay cuộc sống của sinh vật trong nghiên cứu. 3. Khoảng thời gian quan sát đề cập đến khoảng thời gian dành để nhà nghiên cứu nghiên cứu quy trình, mô hình, hiện tượng, hoặc sự kiện. Thông thường khoảng thời gian này phải dài hơn khoảng thời gian tồn tại. 4. Khoảng ghi là độ dài của mỗi bản ghi của quá trình, mô hình, hiện tượng, hoặc sự kiện kéo dài. Lựa chọn khoảng ghi ảnh hưởng đến kết luận của các nhà nghiên cứu về các đối tượng của nghiên cứu: một ghi âm khoảng 1 phút của quá trình ra quyết định của nhóm sẽ có mô tả rất khác so với ghi trong 6 giờ. 5. Khoảng tập hợp thể hiện cho sự lựa chọn ''mô hình thời gian ghi thông tin nào sẽ được tổng hợp cho lý luận hay kiểm tra lý thuyết về''quá trình, mô hình, hiện tượng, hoặc sự kiện (p. 731). Trong nhiều trường hợp khoản tập hợp và khoảng ghi là như nhau, nhưng nếu các bản ghi được kết hợp, thì khoảng tập hợp sẽ lâu hơn. với khoảng ghi, độ dài của khoảng tập hợp ảnh hưởng đến quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện tượng. Ví dụ, một nghiên cứu về thay đổi 1 tổ chức có thể cho rằng khoảng tồn tại của 1 chu kỳ VSR trong một ngành công nghiệp là độ dài của một của 1 sóng kinh tế dài trong Kondratieff, trong khi khoảng hiệu lực là vô cùng, cho tất cả các tính năng, (tức là, lý thuyết tiến hóa sẽ cho thấy trước trong tương lai). Do thực tế là các nhà nghiên cứu sẽ tận dụng bản ghi kinh tế trong nghiên cứu ngành, các khoảng quan sát không có liên quan trong trường hợp này, nhưng bởi vì các bản ghi chỉ được ghi hàng quý cho nên khoảng ghi chỉ có giá trị khoảng 3 tháng. Do nhu cầu cân bằng các nghiên cứu về độ tin cậy của các bản ghi phải có đủ dữ liệu để tiến hành phân tích chuỗi thời gian, nghiên cứu các quyết định, thiết lập các khoảng tập hợp 6 tháng. hai thang đo thời gian đầu tiên của Zaheer et al. 'S liên quan đến khái niệm của hiện tượng hay trình tự, trong khi ba thang đo cuối đề cập đến như khung tham chiếu của các nhà nghiên cứu. Zaheer et al. cho rằng khoảng tồn tại ép các khoảng khác, trong khi khoảng tập hợp

Page 40: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

và ghi cũng hạn chế bởi khoảng quan sát. các khoảng tồn tại và giá trị là điều kiện cho các lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới trong hai khía cạnh. Trước tiên, các lý thuyết khác nhau có thể được yêu cầu để giải thích thay đổi và đổi mới theo thang đo thời gian khác nhau . Ví dụ, các lý thuyết tiến hóa tổ chức đã được nâng cao để giải thích sự tác động lâu dài của hoạt động tổ chức mang tính cá nhân; các hành động cá nhân mang tính tổ chức bao gồm cả 1 dân tộc, trong đó diễn ra trong quy mô thời gian ngắn hơn nhiều, thường được giải thích với lý thuyết sự lựa chọn hợp lý (Hay một thay thế không hợp lý,[tháng ba năm 1994]). Thứ hai, ''Sự lựa chọn của quy mô thời gian xác định không chỉ đơn giản là hiện tượng nào được quan sát, mà còn xem đến ý nghĩa của chúng ''(Zaheer et al., 1999, trang 734-735).. Để tiếp tục Ví dụ của chúng tôi, ý nghĩa của hành động trong khung tiến hóa và sự lựa chọn hợp lý là khá khác nhau: lý thuyết lựa chọn hợp lý liên quan đến từng hành động được cá nhân hoá, tình trạng quyết định phản ứng cấp bách, trong khi quan điểm lý thuyết tiến hóa xem các hành vi tương tự như góp phần vào sự sự sống còn (hoặc dử dụng) như một phần của một quá trình lựa chọn lâu dài của tổ chức. Các nghiên cứu khác nhau của cùng một hiện tượng có thể sử dụng thang đo thời gian khá khác nhau. Quay trở lại ví dụ trước của chúng tôi về lý thuyết tiến hóa, một loại nghiên cứu khác tập trung vào các ngành công nghiệp phát triển khá nhanh chóng, chẳng hạn như các nhà sản xuất chip máy tính. Một nhà nghiên cứu có thể thừa nhận rằng hai chu kỳ của luật Moore là khoảng tồn tại cho một chu kỳ VSR và dự kiếnn tính hợp lệ của lý thuyết là vô hạn định. Cô ta có thể dành mười năm để nghiên cứu trực tiếp của các công ty như 1 khoảng quan sát và phỏng vấn khoảng mỗi mười công ty trong mỗi 2 tháng cho một khoảng ghi 2 tháng. sau đó Cô có thể phân tích dữ liệu qua ba giai đoạn ghi âm cho một tập hợp khoảng 6 tháng. Sự khác biệt giữa nghiên cứu này và mô tả được lưu trữ trước đây về thang đo thời gian được Zaheer et al 'S đánh dấu phân loại., như là các kiểu hiểu biết khác nhau của các nhà nghiên cứu rút ra. khung của Zaheer et al. 'S làm nổi bật những phức tạp trong lựa chọn của các nhà nghiên cứu trong việc phát triển các lý thuyết và thiết kế nghiên cứu. Khi chúng ta xem xét khung này dưới góc nhìn của những ý tưởng khác được thảo luận trong chương này, sự phức tạp hơn càng thể hiện rõ. Trước tiên, xem xét khả năng mà nhiều lý thuyết có thể hoạt động trong bất kỳ quá trình thay đổi, đổi mới. Hai lý thuyết (VSR và sự lựa chọn hợp lý) trong cùng một Lý thuyết tiến hóa là một ví dụ tốt về điều này. Điều này ngụ ý rằng cần nhiều hơn một tập hợp các quy mô thời gian khi xem xét cho một số lý thuyết. Thứ hai, mô tả của Zaheer et al. 'S về thang đo thời gian không nói gì về quan điểm về thời gian trong lý thuyết. Hầu hết các ví dụ của họ đều không nói đến thời gian và họ không thảo luận nhiều những quan điểm khác. Nếu chúng ta bỏ qua thang đo thời gian với quan điểm trênvề thời gian ví dụ mỗi khoảng thời có thể được thể hiện theo thuật ngữ của Newton như giao dịch, văn hóa thống trị, hoặc đơn vị thời gian tổ chức -khoảng khả năng thời gian tăng đáng kể. Rõ ràng, khi chỉ ra các tác động thời gian của lý thuyết thay đổi và đổi mới thì cả hai đều quan trọng và phức tạp. Kết luận Các giả định rằng lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới cơ quan, các cấp phân tích, và thời gian là không phải lúc nào cũng khớp nhau. Thông thường chúng là một phần của 1

Page 41: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

nhóm các quan điểm và các thuật ngữ nào đó. Tuy nhiên, có nhiều lợi ích khi xem xét một cách rõ ràng cho các điểm quyết định cơ bản trong việc phát triển và thử nghiệm các lý thuyết. Tập trung xem xét khái niệm các mức độ, cơ quan, và thời gian trong 1 lý thuyết khuyến khích cả nhà lý thuyết và độc giả kiểm tra lý thuyết về sự nhất quán và để hỏi những gì đã bị nó bỏ đi. Nó đòi hỏi độc giả phải xem lý thuyết có thể là quá đơn giản hay quá phức tạp. Nó cũng tạo điều kiện so sánh và tương phản của các vị trí lý thuyết. Trong khi nó có thể rất khó để so sánh một lý thuyết về phát triển sự nghiệp và một lý thuyết về quyết định cá nhân xét về khía cạnh cơ quan, các mức độ và thời gian đại diện cho sự thống trị của các lý thuyết về sự thay đổi, phát triển, và đổi mới. Phân tích so sánh các khía cạnh sẽ cho thấy mức độ mà hai lý thuyết được tương tự hoặc không tương thích trong hoạt động cơ bản của chúng. Điều này, ngược lại, có thể tạo thuận lợi cho việc phát triển các vị trí tích hợp, phân định các khác biệt cơ bản giữa các học thuyết của sự thay đổi và đổi mới. các giả định của chúng ta càng chính xác và càng cần thiết để biện minh chúng ta là gì thì, các lý thuyết của chúng ta sẽ được củng cố hơn. Có thể thời gian và các yếu tố không gian của lý thuyết thay đổi và sáng tạo được kết hợp lại một như là trường hợp trong vật lý? sau đó các vật thể sẽ hoạt động trong một không-thời gian liên tục đồng nhất hơn. Trong khi đây là một khái niệm hấp dẫn, nó sẽ không đơn giản để làm như vậy. Mức độ phân tích không chỉ kích thước của không gian, mà còn có công trình xã hội với cấu trúc độc đáo và đôi khi phức tạp của chúng ta. Ví dụ, thay vì chỉ có một ''Nhóm'' cấp trong một tổ chức, có thể có nhiều loại công việc, nhóm các đơn vị, các nhóm không chính thức, đội liên chức năng -có liên hệ phức tạp với nhau. Theo ví dụ này cho thấy, mức độ hoàn toàn không phải được xây dựng đồng nhất. Theo các cuộc thảo luận trước cho biết, đều này cũng đúng đối với thời gian. Trong khi thời gian và không gian như khoa học cơ bản của con người chúng được xem là khoa học tự nhiên, trong thế giới xã hội chúng phức tạp, đa dạng, đặc trưng hơn trong thế giới vật lý. Trong việc phát triển nội dung cho chương này, chúng tôi tham khảo ý kiến rộng rãi và nghiên cứu sâu để có được các nội dung về thay đổi và đổi mới. Rồi từ đó, chúng tôi quyết định không bao gồm một vài nghiên cứu truyền thống đã xuất hiện để có cam kết tuyệt vời rằng nhưng không khái quát đáng kể cho lý thuyết về sự thay đổi và đổi mới. Phần này sẽ đề cập ngắn gọn đến hai trong số các lĩnh vực này và các kiến thức có liên quan. Lý thuyết quan trọng và chống quan trọng (các nghiên cứu dựa trên chống hiện đại, nữ quyền, văn hóa) đã làm phong phú các nguồn dữ liệu của những hiểu biết mới về tổ chức (e.g., Alvesson và Willmott năm 1992; Benson, 1977; Calas và Smircich năm 1999; Deetz năm 1992; Deetz năm 1995; Edwards, Năm 1979, Martin, năm 1990; Mumby, 1988; Sztompka, 1993). Họ đã hướng sự quan tâm của chúng tôi vào sự năng động của quyền lực và ý thức hệ sâu hơn trong và giữa các tổ chức và các quá trình mà tiếng nói khác nhau của chủ sở hữu quyền lực hiện hành đã bị giảm hoặc bị tắt. Họ đã được cung cấp quan điểm khác về tổ chức, cuộc sống trong tổ chức cam kết đáp ứng hoàn toàn nhu cầu của con người và làm giàu dựa vào sự sáng tạo vốn có trong sự đa dạng. Nó hầu như cho rằng các nghiên cứu về quan trọng và chống quan trọng cho cái nhìn sâu vào sự thay đổi và đổi mới tổ chức. lý thuyết cổ điển của Marx của

Page 42: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

sự tiến hóa của xã hội và công nghệ và phát triển tiếp theo của nó (Sztompka, 1993) vẫn là một lý thuyết quan trọng của thay đổi và đổi mới ở cấp xã hội. Một số lý thuyết nhân học về sự thay đổi văn hóa với các yếu tố quan trọng được xem xét bởi Hatch trong chương 7. Tuy nhiên, sự chú ý của hầu hết nghiên cứu về lý thuyết quan trọng và chống quan trọng đương đại có vẻ như được trực tiếp giải thích tại sao chúng có và tương phản với những gì chúng có thể được thay vì so với lý thuyết hoá quá trình thay đổi của chính chúng. 1 cách lý tưởng, các doanh nghiệp quan trọng bao gồm ba khía cạnh: (1) giải thích và phê bình các hệ thống hiện hành và dòng lịch sử mà họ đã thấy, (2) một tầm nhìn khác của tổ chức, xã hội mà giải quyết các vấn đề và áp lực từ các hệ thống hiện hành, và (3)sự quan tâm làm thế nào một tổ chức di chuyển từ hệ thống hiện hành đến một hệ thống chưa rõ ràng, hoặc là tự nhiên hoặc thông qua sự thay đổi có kế hoạch. nghiên cứu Quan trọng về các tổ chức đã phát hiện ra rằngkhía cạnh này thứ ba thường là yếu nhất. Điều này là chắc chắn, trong phần lớn, bởi vì nhiệm vụ khó khăn là giải thích các phương tiện kiểm soát, tinh tế và thường được ẩn đi, giữ gìn hệ thống hiện tại và rất khó khăn để độc giả có thê hình dung 1 hệ thống thay thế. Sống trong một thế giới mà bị thống trị bởi tư tưởng hiện thực và thói quen kỷ cương, nhiều người gặp khó khăn khi cố hiểu rằng có được một sự thay thế, ít chấp nhận thay đổi này là chính đáng và có thể đạt được. Có dành nhiều thời gian để phát triển hai khía cạnh, các học giả quan trọng có có xu hướng chú ý ít hơn khi giải thích làm thế nào một sựchuyển đổi tổ chức, quá trình mà theo đó chuyển đổi diễn ra như thế nào. Trong một số trường hợp, có vẻ phải có một giả định rằng nhận thức về các quy trình kiểm soát của các đối tượng thay đổi sẽ là đủ để thay đổi có hiệu lực. Trong những TH khác, mở rộng tầm nhìn của tổ chức để tăng cường tham gia thì được khuyến khích. Mô hình quy trình rời rạc mở được phát triển bởi Habermas dùng để cung cấp các mô hình cho một hệ thống có sự tham gia thật sự(Deetz, 1992). Nhưng đối với hầu hết các phần lý thuyết quan trọng và chống quan trọng đã cung cấp bức chân dung tốt về điểm cuối của thay đổi như thế nào, nhưng ít hơn nhiều cái nhìn sâu sắc về biến đổi hoặc thay đổi bản thân mình. Một ngoại lệ này là nghiên cứu của Deetz (năm 1992, 1995) về việc chuyển đổi của các tổ chức kinh doanh thành '' nơi làm việc đáp ứng và có trách nhiệm'' .Giống như nhiều nhà lý thuyết quan trọng khác Deetz cung cấp một cách nhìn toàn diện các vấn đề cơ bản của thuật ngữ ''thuộc địa hóa doanh nghiệp''của xã hội phương Tây đương đại, cùng với một sự quan tâm lịch sử sâu sắc những vấn đề này và tại sao họ đang kháng cựcác biện pháp khắc phục truyền thống như tổ chức công đoàn và sự tham gia quản lý. Deetz lập luận rằng quá trình thay đổi khắc phục những biến dạng hiện có và cấu trúc quyền lực xảy ra không phải thông qua việc thay đổi cấu trúc mà bằng cách thay đổi cách tổ chức quyết định những cấu trúc của nó nên như thế nào và cách làm việc nên được quản lý như thế nào. Deetz, rút ra trên cả hai nguồn quan trọng và chống quan trọng , mô tả một quá trình thảo luận mở dựa trên một quan niệm về dân chủ mạnh mẽ'''' đó là cả hai cuối cùng là mục tiêu thay đổi là trao quyền tham gia vào tổ chức cho tất cả thành viên của tổ chức. Deetz (1995) mô tả một tổ chức đàm phán trong đó tất cả các giả định được mở cho thách thức, một trong những đổi mới liên tục chính nó thông qua phân tích quan trọng của mối quan hệ hiện có và tổ chức lại để tổ chức có thể có cùng mục tiêu thiết lập bởi các thành viên và các cổ đông lớn. Các mục tiêu như vậy không giới hạn chỉ là lợi nhuận, hiệu quả, và sự sống còn và có thể bao gồm

Page 43: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

môi trường, xây dựng cộng đồng, và các yếu tố cá nhân, khi kết hợp giữa các thành viên và cổ đông lớn có một quá trình thảo luận mở. Các học giả chống quan trọng đã theo đuổi rất nhiều cùng một quỹ đạo như các nghiên cứu quan trọng khác. Các học giả chống quan trọng có cách nhìn quan trọng hoá các quan điểm của các học giả quan trọng, thường xuyên thay thế nhiều quan điểm cho các điểm thuận lợi lý tưởng của học thuyết quan trọng và nỗ lực thành lập lập trường trong đó không có vị trí nàođặc quyền hơn bất kỳ vị trí nào khác. Cũng giống như nghiên cứu quan trọng, những nghiên cứu đã được liên hệ chủ yếu với sự phân tích hiện tượng tổ chức hiện thời để làm mạnh lên các giọng nói đã im lặng hoặc thiệt thòi hoá và thay thế quan điểm cho-cấp, thống trị. Những phân tích này có lẽ là khó khăn nhiều hơn các học giả chống quan trọng hơn cho các học giả quan trọng, bởi vì họ không được hưởng các lợi ích của các hướng dẫn rõ ràng một tình hình lý tưởng mà các học giả quan trọngđã hưởng. Kết quả là, chưa có nhiều quan tâm đến quá trình thay đổi hoặc thay đổi tổ chức. tuy nhiên, học giả chống quan trọng bị thu hút nhiều vào sự phản chiếu trên các căn cứ của lý thuyết xã hội, và điều này giữ 1 cái nhìn sâu sắc cho các nghiên cứu về thay đổi và đổi mới. Một trong số đó, tầm quan trọng của nỗi nhớ như là một phản ứng trước sự thay đổi, sẽ được thảo luận trong phần kế tiếp . Một cái nhìn sâu sắc từ việc phản ánh trên vai trò của thời gian và không gian trong phân tích chống quan trọng. Grossberg (1993) tranh luận rằng thời gian có, hay hầu như có, được xem trọng hơn không gian trong các nghiên cứu văn hóa. Nhiều học giả nghiên cứu văn hóa tập trung vào giải thíchnguồn gốc lịch sử của hiện tượng văn hóa, và Grossberg lập luận rằng điều này đã dẫn đến sự bỏ bê của vai trò của không gian trong sự tồn tại của con người. Ông thử nghiệm một số trường hợp cách ly không gian và gần gũi là rất quan trọng để thực hiện quyền lực, một khía cạnh cơ bản của các tổ chức, và phân biệt ba cơ chế tương tác mà tổ chức quyền lực thông qua không gian: (1) ẩn nhưng phổ biến các quá trình nuôi dưỡng và duy trì giá trị hệ thống và đặc quyền một số cách thức của cuộc sống và xã hội vai trò hơn những người khác, (2) quá trình mà nhận dạng xã hội được tạo ra và phân biệt, và (3) các quy trình theo đó các nguồn lực được phân bố không đều giữa các nhóm xã hội. Tất cả ba quá trình dựa vào sự phân chia không gian và phân biệt các lớp xã hội khác nhau đang sống, làm việc, và chơi ở nơi khác nhau. Nếu không có phân bố không gian không thể duy trì được sự khác biệt như vậy, do đó, không gian là cái cơ bản để phát triển cơ cấu xã hội theo thời gian. Trong khiphân tích của Grossberg diễn đạt các khái niệm khó khăn và ngôn ngữ của các nghiên cứu văn hóa, cho rằng các xã hội hiện đại và các lý thuyết gắn liền với xã hội này có xu hướng định hướng thời gian nhiều hơn hơn so với không gian. Ví dụ, tiếp cận quá trình ngày càng phổ biến hơn đãkhuyến khích các nhà nghiên cứu suy nghĩ rõ ràng về thời gian nhưng phần lớn không đề cập đến không gian. Mặc dù các nhà lý thuyết quan trọng và không quan trọng không bị ảnh hưởng của các lý thuyết về tổ chức thay đổi, cả hai đều dựa trên giả định rằng thế giới xã hội bao gồm nhiều quy trình, không phải thực thể tĩnh. Do đó, có rất nhiều kiến thức sâu sắc của các học giả về sự thay đổi và đổi mới trong nội dung này. Phần này chỉ đề cập một vài kiến thức, và độc giả được khuyến khích để khám phá nội dung này.

Page 44: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Biểu trưng và các khía cạnh của sự thay đổi trong thập kỷ qua đã có một sự quan tâm lớn đến khía cạnh “phi tri thức” của các tổ chức, chẳng hạn như những cảm xúc và biểu tượng (Ashkanasy, Hartel, và Zerbe, 2000; Staw, Sutton, và Pelled năm 1994; Whetten và Godfrey, 1998). Sự quan tâm này cũng đã hình thành các học thuyết về đổi mới hoặc thay đổi tổ chức (ví dụ, Fiol và O'Connor, 2002; Gioia và Thomas, năm 1996; Huy,1999). Lý thuyết hiện tại về sự thay đổi và đổi mới tổ chức bị chi phối bởi quan điểm mang tính công cụ và lý trí, mà có xu hướng bỏ hoặc hạ thấp các kinh nghiệm phi lý trí của con người. Điều này không phải luôn luôn là trường hợp cần xem xet. Lý thuyết sớm nhất về biến đổi tổ chức của Lewin và trường phái mối quan hệ con người nhấn mạnh quá trình tác động (xem chương 4). Bây giờ những quan tâm này lại đang nổi lên trong tư duy hiện hành. Thay đổi và đổi mới là 1 quá trình đam mê. kế hoạch thay đổi thành công đòi hỏi một cam kết căn cứ trên một tầm nhìn hấp dẫn và cảm hứng sâu sắc khi tham gia chương trình. Các tầm nhìn có cùng một thành phần nhận thức, nhưng có vẻ chúng không cùng trong lý do. Thay vào đó nó bắt nguồn từ sự kết nối của chúng đến mong muốn và ự đồng nhất của những người tham gia, kết nối được thực hiện thông qua biểu tượng chỉ ra chỉ số cơ bản có giá trị. Khi thay đổi xảy ra, nó có 1 yếu tố tình cảm quan trọng vì nó liên quan đến việc từ bỏ các sắp xếp, trong đó nhiều công sức và thời sẽ được đầu tư. nghiên cứu của Fiol và của O'Connor (2002) về sự thay đổi cộng đồng cung cấp một minh hoạ tuyệt vời trong những cách mà trong đó thay đổi ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi các tính cách và cảm xúc của chủ thế tham gia. Họ phát triển một mô hình trong đó'' các diễn giải tình cảm nóngliên kết với nhận thức lạnh hơn để bắt đầu, huy động, và duy trì thay đổi triệt để” (p. 532). Tượng trưng và các khía cạnh cảm xúc của sự kháng cự thay đổi cũng cần nghiên cứu. Một ví dụ là khái niệm về nỗi nhớ. Nỗi nhớ, như được thảo luận bởi các nhà văn hậu hiện đại, là một phản ứng chung trước thay đổi. Nó liên quan đến các phản chiếu tưởng tượng của các đặc tính tốt vào quá khứ để tái tạo một quá khứ tốt hơn nhiều tình hình hiện tại. quá khứ này được xây dựng bởi sự đảo ngược: các đặc tính không mong muốn của hiện tại được nhân đôi với các đặc tính mong muốn của quá khứ, sau đó được coi là một cái gì đó để tái chiếm và tái tạo trong hiện tại. Bất chấp rằng '' những ngày cũ tốt đẹp''chưa bao giờ tốt như họ đang nhớ lại, nỗi nhớ có thể là một kích thích cảm xúc mạnh mẽ cho sự phản ứng để thay đổi và đổi mới. Khám phá 1 tổ hợp phức tạp của ý nghĩa và diễn giải gắn liền với các khái niệm như nỗi nhớ sẽ minh hoạ các khía cạnh của sức đề kháng trong cách thức mà các lý thuyết hiện tại dựa trên lý trí không có. sự chú ý lớn hơn đến ảnh hưởng, bản sắc, biểu tượng, thẩm mỹ, và các chuyên ngành liên quan sẽ cung cấp một sự cân bằng hữu ích cho nghiên cứu thay đổi và đổi mới. Điều này là quan trọng để xác nhận nhiều khía cạnh của con người và xem xét làm thế nào chúng có thể phát hoạ sự khởi đầu. duy trì, và chống thay đổi.

Page 45: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

Kết luận Chương này cho thấy một số mô hình mới có thể được gom lại thành 1 nhóm. Làm như vậy sẽ đòi hỏi một số nội dung cần sáng tỏ, nhưng các nhóm này sẽ vận động và phát triển, nó sẽ trở nên sôi động hơn và rõ ràng hơn.. Tham khảo Abbott, A. (1988). Nói chung thực tế vượt tuyến tính. Lý thuyết xã hội học, 6, 169-186. Abernathy, W. J. & Clark, K. B. (1985). Cải tiến: Lập bản đồ gió hủy diệt sáng tạo. Nghiên cứu Chính sách, 14, 3-22. Agarwal, R., Sarkar, MB, & Echambadi, R. (2002). Hiệu quả điều sống còn của thời gian trên công ty: Một cuộc sống công nghiệp chu kỳ phương pháp tiếp cận. Học viện Quản lý Tạp chí, 45, 971-994. Alvesson, M. & Willmott, H. (1992). Quản lý quan trọng nghiên cứu. Newbury Park, CA: Sage. Ancona, D., Okhuysen, GA, & Perlow, LA (2001). Dành thời gian để tích hợp nghiên cứu thời. Học viện quản Review, 26, 512-529. Anscombe, G. E. M. (1957). Ý định. Oxford, Vương quốc Anh: Basil Blackwell. Ashkanasy, N., Hartel, C., & Zerbe, W. (biên soạn) (2000). Cảm xúc trong cuộc sống tổ chức. New York: Quorum. Avolio, B. J. & Bass, B. M. (1995). Riêng việc xem xét xem ở nhiều cấp độ phân tích: A đa cấp khuôn khổ cho việc kiểm tra ảnh hưởng lãnh đạo biến đổi. Lãnh đạo Hàng quý, 6, 199-218. Axtell, R. (1999). Sự nổi lên của các công ty trong một dân số các đại lý. Santa Fe Institute, giấy không có. 99-03-019. Bales, R. F. & Strodtbeck, F. L. (1951). Giai đoạn trong nhóm giải quyết vấn đề. Tạp chí bất thường và Xã hội Tâm lý học, 46, 485-495. Barkema, H. G., Baum, J. A. C., & Mannix, E. A. (2002). Nghiên cứu đặc biệt của Diễn đàn: Một Thời gian mới. Học viện Quản lý Tạp chí, 45, 916-930. Barley, S. R. (1986). Công nghệ là một dịp cho cơ cấu lại: Dẫn chứng từ quan sát của CT máy quét và trật tự xã hội của các ngành quang tuyến. Khoa học Quản trị Hàng quý, 31, 78 - 108. Bartunek, J. (1984). Thay đổi phương án và diễn giải chuyển dịch cơ cấu tổ chức: Các ví dụ về một tôn giáo trật tự. Khoa học Quản trị Hàng quý, 29,

Page 46: QTTD-Nhom1-MBA8.pdf

355-372. Bennis, W. G. (1966). Thay đổi tổ chức. New York: McGraw-Hill. Benson, J. K. (1977). Tổ chức: Một xem biện chứng. Khoa học Quản trị Hàng quý, 22, 1-21. Calas, M. B. & Smircich, L. (1999). Hậu hiện đại trong quá khứ? Phản ánh và hướng dẫn dự kiến. Học viện quản Review, 24, 649-671. Cameron, K. & Whetten, D. (1983).