Upload
buikhanh
View
214
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Dalat & Người Xưa Page 48
North Carolina, tháng 6 năm 2011
Nguyễn thái Hai
100 Lodgin Ct.
Morrisville, NC, 27560, USA
(919) 462 9768
Tạp ghi: quê tôi
Dalat và
Người thuở xưa (2)
Minh Ngộ Nguyễn thái Hai
Dalat & Người Xưa Trang 49
NẾP SỐNG
NGƯỜI DALAT XƯA
Lớn lên tại Dalat tuy có chút ít học thức
nhưng tôi không biết gì nhiều về quê tôi. Nhờ hai
cuốn địa chí Dalat tôi mới hiểu rằng Dalat có
nhiều điều đặc biệt kỳ thú về thiên nhiên và nhân
tạo _ tốt và xấu
_ đã tạo nên con người Dalat khác
hẳn các nơi khác làm tôi muốn tìm hiểu. Ngày nay
sống đầy tiện nghi vật chất thật khó mà hình dung
được nếp sống của người dân 100 năm về trước
trên vùng đất hoang vu cũng như ai dám nghĩ là
một gia đình người Nam kỳ (Cochinchine) đã có
tiền mướn thầy về dạy con trong nhà mà phải để
thầy giáo ngồi dạy trẻ ngoài trời như hình trên.
Đành phải phiêu lưu như
các nhà thám hiểm vượt
trùng dương để tìm hiểu
thế giới và suy luận như
các nhà khảo cổ, căn cứ
vào hoàn cảnh và sinh
hoạt của thổ dân, của
người Việt thời cuối
Pháp thuộc và kể cả về
sau này. Có muôn vàn
giả thuyết nhưng nay cứ
giả thử trường hợp bất
hạnh nhất. Đúng sai khó
xác định, và trong
trường hợp chưa tìm thấy giả thuyết nào khác, xin
hãy tạm thời chấp nhận quan điểm dưới đây. Hy
vọng khi tìm thấy tài liệu đưa đến nhiều giải đáp
khác hợp lý hơn sẽ điều chỉnh sau. Ta có thể tra
cứu trong các thư viện ở Việt Nam và Pháp hay tại
trung tâm lưu trữ hải ngoại của Pháp (Le centre
des Archives d‟Ôutre Mer de la France) ở Aix en
Provence _ điều mà tôi không đủ điều kiện để thực
hiện.
Nếp sống người Dalat xưa được chia làm
hai phần, phần đầu không rõ nguồn gốc và sinh
hoạt, phần sau ta biết khá rõ . Mỗi phần cũng được
chia thành hai giai đoạn căn cứ theo tiến trình của
lịch sử:
1. Nếp sống của thành phần không rõ nguồn
gốc
Các khó khăn của nhóm tù nhân là đói khổ,
thú dữ, và nhất là lo sợ cái lạnh buốt thấu xương
của đương thời mà có lẽ phải dùng đến bản năng
sinh tồn để vượt qua. Nói đến sinh tồn _ có hai loại
_ ta không thể suy nghĩ với quan niệm thông
thường vì với:
*loại (a) chính những người vừa thoát hiểm cũng
không nhớ và hiểu được tại sao mình có sức cũng
không hiểu tại sao lúc đó họ có sức mạnh đó. Báo
chí y khoa cho biết khi gặp nguy nan sợ hãi quá
mức cơ thể ta cấp tốc tiết ra rất nhiều chất adréna-
line nhờ đó ta có sức mạnh phi thường này.
*loại (b) không cần sức mạnh mà đòi hỏi sự kiên
trì lâu dài gay go đầy thử thách có chí hướng rõ
ràng thì mới đạt được
mục đích. Nhớ đến cây
thông già mọc theo một
vết nứt ngang hông một
vách đá thẳng đứng thật
lớn tại thác Taylor ở
Minnesota, tôi tìm hiểu
và được biết là rễ cây
thông đã tiết ra một loại
a xít cực mạnh làm mục
đá và nó ăn đá mục để
sống.
Con người muốn
sống lâu cần sống thoải
mái với hạnh phúc. Sống trong hạnh phúc là niềm
mơ ước của tất cả mọi người dù giàu hay nghèo.
Ta cần nhớ đây là hoàn cảnh của người dân
xứ thuộc địa, và quan niệm khác biệt về hạnh phúc
của giới thượng lưu đầy tiện nghi và giới bình dân
trong thiếu thốn thời xa xưa. Người Việt xưa theo
Nho giáo trọng người khoa bảng và người giàu vì
có tiền mua tiên cũng được. Phú quý sinh lễ nghĩa
nên cuộc sống trở nên cầu kỳ rắc rối với danh
phận và bề ngoài. Cái hạnh phúc này đòi hỏi
những ước mong to lớn xa vời. Giới bình dân gồm
đa số là người nghèo, các thầy đồ có học nhưng
nghèo, dân trung lưu có tiền nhưng không giàu để
mua quan. Dân chúng gọi là phong lưu. Họ thỏa
mãn với những ước mơ nho nhỏ trong cuộc sống
Dalat & Người Xưa Trang 50
đơn giản. Cái hạnh phúc của người nghèo là biết
thương người mà ai ai cũng làm được nếu muốn,
là được nhiều người kính nể nhờ biết quan tâm
đến mọi người, có uy tín và nhân phẩm để mọi
người thương yêu kính nể chứ không phải vì tiền
tài và danh phận. Tuy nhiên tư tưởng, tánh tình,
phong cách, xử thế của con người cũng biến đổi
theo môi trường và các sinh hoạt xã hội. Cái hạnh
phúc sống trong cộng đồng, trong quốc gia phức
tạp hơn vì liên quan đến tổ quốc, đến sự tiến hóa
của nhân loại. Do đó trong tạp ghi này ta cần đơn
giản hóa vấn đề và chỉ tìm hiểu hạnh phúc cá nhân
và tập thể người Việt trong môi trường Dalat thôi.
Về môi trường: để sống còn, các thực vật
và sinh vật thích ứng theo khí hậu. Bản thân tôi
không biết gì về sinh tồn khi ở Việt Nam nên xin
độc giả tha lỗi cho khi phải dùng những trường
hợp ở ngoại quốc mà tôi
đã chứng kiến hoạc tìm
hiểu được. Nhiều con
thú biết trước mùa đông
sắp tới lạnh hơn năm
trước nên đã chuẩn bị
mọc nhiều lông hơn từ
đầu mùa xuân. Rau húng
miền nắng ấm có lá
mỏng, trơn tru và thơm
mà khi trồng tại miền
lạnh lá dày hơn và có nhiều lông, ít thơm và kém
ngon. Các cây đào mận phải đươm nụ từ cuối thu
và chịu lạnh dưới không độ để nở kịp vào đầu
Xuân. Hiện nay các nông dân Mỹ cũng đang điên
đầu vì truớc đây đã nhập vào Mỹ một loại cỏ rau
dễ trồng để gieo tạm trên sườn đồi chống xói mòn.
Các thuốc diệt cỏ (năm 2010) không diệt được nó.
Các nông trại trồng bắp ở Mỹ thu hoạch bắp bằng
máy gặt liên hợp cắt thân cây bắp khoảng 20-
30cm cách mặt đất. Các con sâu bắp biết là nếu
lập kén trên cao sẽ chết khô ngay nên trước khi
làm kén đã xuống dưới thấp để được sinh tồn.
Về sinh hoạt xã hội tôi có duyên may là đã
sống và biết một số sinh hoạt của các nông dân
Dalat thời thập niên 1930 và đã sống 20 năm tại
Minnesota, tiểu bang rất lạnh của Mỹ. Do đó để
phân tích và tổng hợp làm sao khắc phục cái buốt
lạnh Dalat đương thời tôi dùng một số sinh hoạt
căn bản xưa và nay mà tôi đã tai nghe mắt thấy:
a) để chống lạnh: nếp sống của thổ dân là đem
đứa con sơ sinh xuống suối tắm, đứa nào yếu đuối
sẽ chết sớm, và của nhóm người Nghệ An làm
vườn tại Tân Lạc là chắp nhiều mền cá nhân và
bao bố thành một mền dày, rộng và nằm trên lớp
tranh dày; như phải nhúng ngay gót chân nứt nẻ
vào nước lạnh tê người để tưới rau khi có sương
muối (1930); năm sáu chị em người Việt chen
chúc nhau trên một chiếc giường nhỏ (1940); đàn
vịt con ngủ chồng lên nhau thành đống (1962,
Saigon); cảnh chờ xe buýt trong mùa Đông ở
Minnesota với răng đánh lập cập, phải nhảy cà
tưng như khỉ để tạo sức ấm bất chấp người Mỹ
dòm ngó vì ngạc nhiên (1980).
b) bất chấp lễ nghi: dành nhau miếng cơm cháy,
hay chịu nhục để sống
còn trong trại cải tạo;
c) ân tình: tình huynh
đệ chi binh, tình sinh
viên nghèo trong ký túc
xá v…v…
d) bảo thủ định kiến khi
tìm nguyên nhân như
đòi hỏi chứng từ viết rõ
rệt trong sự tìm kiếm
nguồn gốc rau Dalat,
hoặc trăm hay không bằng tay quen của người bán
dầu dạo đã rót dầu qua lỗ đồng tiền điếu một cách
dễ dàng để giải thích tại sao ông đã dám chê ông
tể tướng Tô đông Pha.
a. Giai đoạn khắc phục cái lạnh (1910-1915)
Qua tài liệu về phía Pháp (1910), Dalat có
khoảng 8 căn nhà gỗ làm công sở và 9 phòng
khách sạn. Ngoài người Mọi, có một số người
Pháp lo về đo đạc, thợ săn, vài người du lịch,
người Việt gồm người đi buôn và giúp việc cho
các đoàn nghiên cứu, đa số là tù nhân. Sự thay đổi
Toàn Quyền liên tục, ngân sách yếu kém, thế
chiến I đã gây chậm trễ công tác xây dựng Dalat:
đường Phan Thiết - Ma Lâm - Di Linh _ Dalat. Từ
1906-1914 Dalat không thay đổi nhiều vì sự giao
Dalat & Người Xưa Trang 51
thông khó khăn, ngân sách thiếu thốn. Công tác
chủ yếu là làm đường sá, đường xe lửa. Các bệnh
tật đã làm rất nhiều người chết đến nỗi nhiều
nhóm dân bên Pháp đòi hủy bỏ công tác làm
đường xe lửa, nhưng vì tầm quan trọng của nó nên
công tác vẫn được tiếp tục.
Về phía Việt Nam, cụ Phan bội Châu chủ
trương dùng bạo lực, cụ Phan châu Trinh, chủ
trương ôn hòa, từ Nhật về gởi thơ lên Toàn Quyền
Đông Dương xin giảm thuế bỏ sưu, cách chức
quan lại tham ô, tố cáo chính sách cai trị bạo tàn.
Phẫn nộ về vụ Pháp thay liên tục 3 vua trong 4
tháng, truất phế vua Thành Thái, đưa vua Duy Tân
lên trị vì lúc 9 tuổi (1907). Qua phong trào Duy
Tân các sĩ phu tiếp nhận các tư tưởng tiến bộ của
J. J. Rousseau, Montesquieu, đã tổ chức nhiều
thương hội, học hội, và rất đông sĩ phu, hương
chức và thường dân từ Nghệ An đến Phú Yên
tham gia phong trào “cúp tóc, xin sưu” (1908).
Cúp (couper= cắt) tóc ngắn tượng trưng việc thực
thi nếp sống mới giảm sưu thuế. Vài câu vè sau
đây diễn tả cảnh đi sưu khi trời chưa sáng trong vụ
dân biến miền Trung
Nghĩ thôi khổ sở trăm chiều
Cơm ăn chưa kịp cũng lần mò đi
Chân đất nóng, vai thì gánh nặng
Lưng chịu đòn, mình nắng chang chang
Khâm sứ Trung Kỳ Lévecque phải huy
động lính để đàn áp và bắt rất nhiều làm tù nhân
đưa lên Dalat làm công. Trên đây là bối cảnh
chung của Việt Nam, điều ta cần là bối cảnh Dalat
khi khai phá thành phố.
Dalat nằm trên núi cao còn hoang vu đầy
thú dữ và buốt lạnh thấu xuơng, sương mù dày
đặc,chưa có nông nghiệp, xa cách những khu
người Việt, chỉ có người bản địa sinh sống. Tuy
triều đình Huế có ra những Dụ về tổ chức hành
chánh nhưng thực quyền tại Dalat hoàn toàn nằm
trong tay chánh quyền Pháp, mãi đến giữa thập
niên 1930 mới có ông Quản Đạo Trần văn Lý rồi
Phạm khắc Hòe, đại diện triều đình Huế và đến
1945 mới hoàn toàn thuộc quyền Thị Trưởng Việt.
Về hành chánh chưa có nơi nào giống như Dalat
nên mọi thủ tục hành chánh đều linh động theo
hoàn cảnh.
Khách sạn đầu tiên tại Dalat(1907)
Dân Dalat đương thời có 3 thành phần:
- Giới chức Pháp như là chủ nhân có toàn
quyền, với một số nhà thầu Pháp đảm trách công
tác. Họ cần hoàn tất sớm việc xây dựng Dalat.
- Người Việt là công nhân, gồm toàn người
miền Trung, đa số là tù nhân, và người tha phương
cầu thực.Tù nhân, không có thành phần chánh trị,
trong phong trào nhân dân “cúp tóc xin
sưu”(1908), gồm đủ thành phần hương chức, nông
dân nam nữ khỏe mạnh, được đưa lên từng đợt.
Người tha phương vào lẻ tẻ, trong đó một số ít là
thông dịch viên và thương buôn.
- Người Mọi có nếp sống riêng, không có
trình độ nhưng thích hợp cho việc nặng.
Có thể lúc đầu Pháp tổ chức nhóm tù nhân
này thành từng tổ bán tự do và được kiểm soát
chặt chẽ.Họ không cho các tù nhân liên lạc với
thương nhân để tìm đường trốn.Thương buôn chỉ
muốn buôn bán đơn thuần và sợ liên quan vào sự
trốn thoát của tù nhân, nên chỉ mướn người bản
địa, vận chuyển và canh giữ hàng. Nhóm tù nhân,
qua bao ngày đêm di chuyển qua núi rừng, chỉ
thấy thổ dân, được đưa đến một khu rừng xa lạ
hoang vu đầy thú dữ với khí hậu thật khắc nghiệt.
Vì không có hàng rào các tù nhân tìm đường trốn,
chắc có người đã thoát, kẻ bị bắn, bị chết vì bệnh
Dalat & Người Xưa Trang 52
hoặc lạnh. Hoang mang, lo âu, nhưng với thân cá
chậu chim lồng đành cam chịu cuộc sống mới. An
tâm hơn khi biết họ sẽ được cung cấp thực phẩm,
được trả tiền công để biến cải khu rừng thành một
thành phố mới, được tự do tuy còn hạn chế, một
tương lai còn mù mờ nhưng hứa hẹn.
Dalat còn hoang vu. Đây có thẻ là hình đồi trường Yersin
nhìn qua đồi Công Sứ và chợ Hòa Bình khi chưa có chợ.
Khu nhà trắng bên trái là trường Yersin và hồ Xuân Hương,
bên mặt là cầu sắt băng ngang qua suối Cam Ly
Họ được người Mọi chỉ cho làm nhà trệt
dài kiểu Thượng, đốt lửa ngay giữa nhà, lót tranh
dày làm chỗ ngủ. Khác với người bản địa đã nhiều
đời quen chịu lạnh, họ phải khốn khổ hơn nhiều
mặc dầu đã đốt củi sưởi ấm. Họ ôm nhau nằm
chung thành từng tổ xung quanh đống lửa nhưng
gần sáng lửa cũng tắt nên càng lạnh hơn. Dần dần
họ thấy là nhóm người càng đông, thân nhiệt càng
cao giúp tạm đủ ấm. Để khống chế cái lạnh họ kết
các mền lại cho đủ rộng, và tự động luân phiên để
người vòng ngoài chui vào trong ngủ nằm, ngồi,
đủ kiểu. Nhóm tù nhân nữ ít hơn nên phải chịu
lạnh run rẩy suốt đêm. Tội nghiệp họ quá, nhóm
nam khuyên họ đừng lưu tâm đến sự chung chạ
nam nữ và hứa không làm gì tổn thương họ. Có
người bảo sinh lão bệnh tử là điều thông thường
của tạo hóa không thể tránh khỏi. Có người đề
nghị làm một phòng nhỏ với vách tranh thật dày
cho đủ ấm cho đám nữ. Ta không thể biết được họ
đã làm gì nhưng có thể đồng thuận là giai đoạn
khó khăn đói lạnh này chỉ vài ba năm và tình
thương nhau, quan hoài đến nhau đã phát triển
ngày càng sâu đậm. Họ cùng cam chịu và san sẻ
với nhau. Họ mãn nguyện được sống thương nhau
như vậy: không mất gì mà còn cho lẫn nhau hơi
ấm _
của thân nhiệt và của tinh thần _ một quà tặng
vô giá và cần thiết mà không bao giờ cạn. Chính
cái nguồn gốc tù đày, nghèo nàn này đã giúp họ
sớm tìm được nếp sống trong tình thương. Họ
không sợ cực khổ mà chỉ muốn có công việc làm
để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Đó là cái gốc của
tình thương, và cũng là cái tinh thần họ mang theo
khi quyết định tha phương cầu thực. Gặp nhau nơi
xứ lạ dồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu họ
dễ cảm thông và hiểu nhau hơn.
Người Mọi là nhân công chủ lực trong công tác làm đường
xe lửa Phan Rang Dalat. Họ đã bị bệnh sốt rét ngã nước làm
chết rất nhiều
Ta nghĩ ngay giả thuyết này vô lý vì các tù
nhân trong nhà tù tại Hoàng Liên Sơn thời Pháp
thuộc có làm như vậy đâu. Nhưng hai hoàn cảnh
hoàn toàn khác nhau vì trình độ dân trí, vì mục
đích sử dụng tù nhân, vì thái độ chủ nhân v..v.. .
Hoặc nếu đem họ vào nơi hoang vắng nhưng đầy
tôm cá như rừng U Minh, hay khu dân nghèo tới
độ thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ nhóm tù nhân
cũng không xử sự như vậy vì họ mưu sinh dễ dàng
mà môi trường Dalat không có. Họ cảm thấy được
an vui khi sự giá buốt đã được tạm giải quyết,
nhưng tương lai vẫn còn mờ mịt, gian truân còn
nhiều. Họ cần tìm một hướng đi mới lâu dài bền
vững hơn.
b. Giai đoạn xây dựng tương lai và đạo đức
(1916-1926).
Trong giai đoạn này theo thiển ý thì đám
công nhân _ gồm đa số là tù nhân mới cũ, dân tha
phương mới cũ mà từ nay tôi gọi là người tiền
phương _ nay đã có tiền mua sắm áo quần hay
Dalat & Người Xưa Trang 53
Pháp cung cấp cho mặc đủ ấm, đã có nếp sống
riêng biệt mới như ta đã thấy qua vài hình ảnh.
Vì thế chiến thứ nhất người Pháp không về
được cố hương nên lên Dalat khá đông. Khách sạn
Palace được khởi công (1916), trường Nazareth,
Bưu điện, Kho bạc, nhà máy điện nước và đường
Phan Rang–Dalat (1920) v…v… Mãi đầu thập
niên 30 mới tới khu chợ Hòa Bình, các đường Cầu
Quẹo, Duy Tân, Pasteur, Yersin, và đường đến các
khu nhượng địa như nông trại Grillet, Bourgery.
Tụ điểm thích hợp nhất cho họ tạm trú là hố Xuân
An, có một con suối nhỏ tạm đủ cho những sinh
hoạt hàng ngày, và gần nơi có nhiều việc làm.
Có thể tình cờ người Pháp biết được như
thường tình là các thông dịch viên đã ăn bớt lương
tù nhân. Họ tập họp tất cả mọi người, cảnh cáo các
thông dịch viên là không được hà hiếp các tù
nhân, và sẽ bị sa thãi nếu tái phạm. Họ cũng đã
trừng trị các tù nhân theo thói anh chị du đãng ỷ
mạnh ăn hiếp cướp bóc kẻ thế cô. Họ cho biết là
họ muốn cải huấn các
tù nhân thành người
lương thiện và họ cũng
khen các tù nhân đã
biết tương trợ thương
yêu lẫn nhau trong thời
gian qua. Họ cho biết
sẽ tổ chức cho tù nhân
học nói tiếng Pháp và
cải thiện nếp sinh hoạt
của mọi người. Những
người có hạnh kiểm
tốt, có khả năng được
hưởng lương cao hơn,
tự do hơn và có thể
được phóng thích khi
hội đủ điều kiện. Tuy
ngôn ngữ bất đồng,
dân tiền phương cũng
đã hiểu được người
Pháp. Nhưng vẫn bán
tín bán nghi khi người
Pháp _ muốn giữ chân
tù nhân ở lại làm việc _
cho biết sẽ giữ lại một phần nhỏ lương để lập một
quỹ an toàn. Khi gặp tai nạn, thuốc men trong trại
không đủ, tù nhân có thể mua thêm thuốc để chữa
trị (năm 1918 đã có trạm cứu thương lưu động).
Tù nhân có tiền nhờ làm lụng nhưng vẫn
khổ, vẫn chết vì tiền không giải quyết được các
bệnh tật. Qua những năm tháng làm việc cực khổ
dài đăng đẵng, những bệnh lạ lùng như toàn thân
nóng hừng hực mà vẫn cảm thấy lạnh run cầm
cập, đắp bao nhiêu mền cũng vẫn thấy lạnh (sốt rét
ngã nước) hoặc bệnh bụng sưng phình như cái
trống (đau gan nặng gọi là cổ trướng, bụng phình
ra như cái trống) hoặc thương hàn phải ăn nước
cháo ròng rã 21 ngày, nếu thức ăn có chất đặc như
cháo rau là bị thủng ruột chết. Họ sợ thần linh trù
diệt vì tin là đã phạm vào tội “nhất phá sơn lâm
nhì đâm hà bá”. Họ thấy những người sống ích kỷ
sẽ lâm vào cảnh khổ sở cô đơn khi đau yếu, trái lại
những người trải lòng thương đến người khác
được bạn tận tình săn sóc lại khi hoạn nạn. Họ lo,
họ sợ cảnh chết không có đủ chiếu bó cái bụng to
Tấm hình rất quý : cho ta thấy địa hình Dalat xưa. Đồi thấp nhất với 2 căn nhà là đồi
nhà lao và nhà ông Quản Đạo; đồi cao nhất là trại lính khố xanh, tiền thân của dinh
Công Sứ nay là đài truyền hình; đồi giữa là khu chợ Hòa Bình và phần sau trường Đoàn
thi Điểm; đồi thấp bên tay trái là đồi rạp Eden( Ngọc Lan) với phần đường đường xuống
cầu Bá hộ Chúc; đồi thấp với hàng cây bên phải là nhà giây thép gió (gần trường Bùi thi
Xuân).Niên kỷ ghi trong hình không đúng vì Cầu ông Đạo được xây năm 1934
Dalat & Người Xưa Trang 54
tướng để chôn. Họ chưa có gì để cho nhau, giúp
nhau nhưng cảm thấy một câu an ủi, một lời
khuyến khích, một nụ cười, một ánh mắt cũng đủ
làm họ ấm lòng. Họ mừng như chính bản thân họ
đang lâm nạn và được cứu thoát. Họ thấy chỉ có
tình thương chân tình mới thật sự giúp nhau, chia
hạnh phúc cho nhau. Cái tình thương nhỏ nhoi đó,
cái hạnh phúc đơn sơ nầy đã khắc sâu vào tim gan
họ vì sống còn là trên hết không gì quý hơn. Mọi
lý luận, mọi ngôn từ của xã hội đầy tiện nghi đều
thừa thãi.
Để hiểu rõ điều này hơn xin hình dung hai
cảnh rừng: một rừng cây nhiều lá miền đồng bằng
và một rừng toàn thông Dalat. Rừng đồng bằng có
nhiều cây với chủng loại khác nhau to nhỏ cao
thấp, giây leo, bụi cỏ. Ngay từ nhỏ mọi cây đều cố
gắng vừa vươn cao vừa lấn chiếm bề ngang kể cả
giây leo. Một sự cạnh tranh ráo riết của kẻ mạnh
nhưng yếu chưa chắc đã thua như giây leo đã phủ
đầu các cây rừng, rong rêu diệt cả cỏ để sống.
Rừng thông với cây to nhỏ thẳng đứng cùng nhau
vươn cao để tìm chút ánh sáng. Các nhánh ngang
nhỏ bé phía dưới sứt càng gảy cọng dần khi thân
cây đã khá lớn. Sự so sánh cho ta thấy người miền
đồng bằng gồm nhiều thành phần, nhiều giai cấp,
nhiều phương tiện tranh đua nhau theo bản năng
riêng, người Dalat đồng cảnh nghèo khó thiếu
thốn cần nương tựa nhau nên dễ thông cảm và hòa
đồng.
Năm 1921 KTS Hébrard được lệnh quy
hoạch Dalat làm thủ đô của Đông Dương. Từ đó
các đường giao thông lên Dalat và các công thự
được xúc tiến gấp, và bắt đầu phân chia các khu
Pháp Việt. Các kiến trúc sư Pháp chủ trương tạo
“cảnh nhà trong vườn, vườn trong thành phố,
thành phố trong rừng, rừng
trong thành phố”. Các công
chức có học thức được điều
động lên Dalat tự nhiên có nếp
sống khinh rẻ nhóm dân tiền
phương nhưng dần dần trong
tiếp xúc hằng ngày các bà nhận
thấy, tuy mù chữ và nghèo nàn
nhưng nhóm dân tiền phương
này rất cầu tiến, kính nể các bà
và hòa đồng với mọi người.
Các ông bớt lo khi con cái họ
được học chung với trẻ con
Pháp. Các ông dạy dân tiền
phương học tiếng Việt, làm
giúp đơn từ, can thiệp vào
những cư xử lẻ tẻ có ác ý của
người Pháp với đám công nhân.
Họ đã bị cảm hóa bởi những lời
mộc mạc “chúng tôi đến đây
hai bàn tay trắng, được nhiệt
tình giúp đỡ, được mượn đồ nghề, dùng xong cho
người khác mượn lại, giá trị chẳng có gì nhưng là
cả một tấm lòng vàng”.
Dalat phát triển, dân số 1500 người (1923).
Ta có thể xem người Việt và Mọi _ khoảng 1200
người _ được Pháp mướn như nhân công với giá rẻ
để khai phá và xây dựng Dalat. Khi thành phố đã
tượng hình, nhiều việc làm lại được tiếp cận với
vật liệu mới, kỹ thuật mới, họ hăng say vừa làm
vừa học trong công tác xây dựng những dinh thự
thật độc đáo. Với quan niệm nhất tự vi sư bán tự
vi sư, sự học hỏi nảy sinh tình thầy trò: một tình
cảm cao quý của người quân tử. Học hỏi qua
Grand Lycée, trường trung học đẹp nhất Đông Dương (1935), 2 Nhà thờ con
gà, 3 Langbian Palace, 4 sân cù, 5 Dinh Công Sứ (nay là đài truyền hình),6
sân vận động
Dalat & Người Xưa Trang 55
trường đời không có bài bản, mà qua bạn bè. Nay
là người học trò, mai mốt lại hướng dẫn người
thầy mình một kiến thức khác. Tình thầy trò trở
nên phức tạp và sâu đậm hơn. Kỹ thuật mới cần
dụng cụ mới mà không phải ai cũng mua sắm
được dẫn đến sự mượn tạm, hay hùn vốn mua
dụng cụ. Trong xã hội mà mọi người đều là công
nhân tương kính, giúp đỡ nhau với chân tình, ai
làm nhiều hưởng nhiều, và xem đó là một sự công
bằng, không bè phái, một sự chính đại quang
minh.
Tuy thương nhau trong bần hàn và nếp
sống đơn giản, nhưng họ cảm thấy lòng bác ái
suông dù sâu rộng chưa thể tạo hạnh phúc cho
cuộc sống chung lâu dài. Họ cần một tập thể với
người có nhân cách, đạo đức, lương thiện có dân
trí cao, v…v… Tình thương có thể thể hiện rõ
ràng trong một vài lần giúp nhau, nhưng về nhân
phẩm cần thời gian mới biểu lộ rõ ràng, vì sông
sâu dễ đo, lòng người khó hiểu.
Trong bối cảnh Dalat thực hiện được điều
này lại càng khó hơn vì Pháp chỉ muốn đào tạo và
hướng dẫn đám tù nhân làm công cụ cho họ nên
rất sợ dân trí cao: mầm móng chống đối. Dân
chúng miền Trung thường được nghe các nhân sĩ
diễn thuyết về các đường lối chống Pháp nên dân
trí khá cao. Trong số này có ông Tiểu La Nguyễn
Thành, người Quảng Nam chủ trương nâng cao
dân trí, bị Pháp theo dõi, có một giai đoạn phải
sống ẩn cư. Ông đã thường xuyên thăm hỏi nói
chuyện, sống hòa đồng với dân chúng nhưng vẫn
bị bắt và bị đày ra Côn Đảo năm 1908. Đám tù
nhân này, cũng hiểu hoàn cảnh của ông và của họ.
Họ không dám có những hoạt động chính trị vì sợ
Pháp bắt bớ và cũng không có cơ sở hậu thuẩn
lãnh đạo, nên chỉ dám phấn đấu âm thầm nâng cao
dân trí, qua trau dồi trong công việc hằng ngày
nhờ sự cần cù, khéo tay, tiếp thu nhanh. Điều này
ta thấy rõ là hãng thầu RMK của Mỹ trong thời Đệ
Nhị Cộng Hòa miền Nam đã công nhận và khen
thưởng và cũng như người Việt hải ngoại đã
chứng tỏ trong các cơ xưởng. Những người mới
đến được đón nhận với nhiệt tình, đều mang ơn
người đến trước. Họ hiểu rõ hơn câu nhân chi sơ
tính bản thiện, và trong hiện tại cái miệng muốn
ăn lăn ra làm là điều duy nhất để tạo dựng tương
lai mới. Điều này giống như sự thành công của
người Bắc di cư vào Nam năm 1954.
Cầu này có thể là tiền thân của cầu ông Đạo. Trong hình
chụp năm1917 có 2 ghi chú; cảnh Dalat gần hotel ( có thể là
hotel du Lac cất năm 1907, nhưng không thấy trong hình.
chưa có hồ tại sao lại có tên này??) và làng Thượng trong
lòng hồ khi chưa có nước ( ngăn đập tạo hồ năm 1919)
Ngày trọng đại đã đến với họ: những người
có hạnh kiểm tốt cần cù làm việc được phóng
thích. Họ được nhận lại cái thẻ tùy thân đã bị tịch
thu khi vào tù. Họ sung sướng được về thăm gia
đình dễ dàng nhờ đường xe hơi Phan Rang-Dalat
đã được thông thương. Đó là phần thưởng của bao
mồ hôi nước mắt họ đã đổ ra để xây dựng thành
phố này. Họ sẽ được nhận lại số tiền của họ trong
quỹ an toàn nếu họ trở lại tiếp tục công tác. Còn gì
vui hơn khi gia đình thấy họ đột nhiên trở về sau
bao năm bặt tin. Nhưng cuộc vui chóng tàn vì họ
cảm thấy nếp sống xưa vẫn tồn tại, tình người vẫn
bon chen, xã hội vẫn phức tạp, không khí nóng
nực bụi bậm, làm nhiều nhưng để dành không
được bao nhiêu và dân chúng vẫn bị sưu cao thuế
nặng
Rượu ta nấu chúng bảo là lậu
Muối ta làm chúng bảo là gian.
Họ thuyết phục và khuyến khích bà con
hãy cùng theo họ lên vùng đất mới đầy triển vọng.
Họ lập gia đình và dẫn các em gái đôi bên theo. Sự
hạn chế đi lại trước đây được nới lỏng, tù nhân xin
Dalat & Người Xưa Trang 56
phép về thăm quê cũ và lập gia đình càng nhiều.
Tình thương nam nữ, thiếu vắng bao năm qua, nở
rộ. Sinh hoạt xã hội đổi dạng.Tuy đũa lệch nhưng
cái thơ mộng của xứ lạnh làm cho tình thương
thắm thiết hơn. Họ hăng say làm việc mà không
cảm thấy mệt mỏi. Nồi nước tắm 4 làm thư giãn
hết bao gân cốt nhức mỏi trong ngày. Bếp lửa
hồng, tiếng trẻ con rộn ràng làm tăng thêm hương
vị các món ăn đạm bạc nhưng đầy thương nhớ.
Hạnh phúc gia đình riêng tư đã sang trang và thấm
sâu vào lòng người cùng lúc với chương trình phát
triển của người Pháp. Do đó tình thương của cộng
đồng tỏa rộng và đậm đà. Nhiều tấm hình với nhà
cửa tập trung từng xóm và hình ngôi Chợ Cây đầy
phụ nữ cho ta thấy ảnh hưởng của nữ giới.
Họ đã an cư lạc nghiệp, đang tận hưởng cái
hạnh phúc đang có. Họ hồi tưởng lại khu rừng
hoang vu ngày nào nay đã có đường sá tuy chưa
trơn tru nhưng rộng rãi, có biệt thự nguy nga đẹp
đẽ trong ngoài sang trọng. Họ vững tin cái ước mơ
nho nhỏ của ngày mới đến là được ăn no mặc ấm,
có mái nhà che mưa tránh nắng, tương lai sáng
lạng hơn, đang ở trong tầm tay, tội gì bỏ mồi bắt
bóng.
Dalat tuy với danh nghĩa là một thành phố,
nhưng dân số lúc đó như một huyện, không bị
ràng buộc bởi luật lệ, lễ nghi, phong tục, mà lại có
tình thầy trò thắm thiết, tình nghèo nàn đậm đà
4 Khách sạn của ông Bá Hộ Chúc nấu nước nóng đổ vào bồn
tắm cho khách. Thương chồng cực khổ người vợ bắt chước
nấu nước tắm cho chồng.
thẳng tắp như cây thông. Cái tốt xấu của ai mọi
người đều thấy như rừng thông quanh năm trống
trải, nên ai nấy đều cố gắng giữ phẩm hạnh của
mình. Với người nghèo, những ân tình nhỏ bé tự
đáy lòng _ không đếm không đong, không đánh
giá được, nhất là khi được ban ra đúng lúc đúng
chỗ _ sẽ thấm vào tim gan như keo sơn đậm đà
hơn tình mẫu tử. Tình mẫu tử bao la nhưng đó là
trách nhiệm, tình nghèo nàn là ân nghĩa tự nguyện.
Tạm gọi là tình người-Dalat-cổ-xưa _ với Dalat là
tĩnh từ _ của những kẻ đã khai sơn phá thạch xây
dựng nên thành phố Dalat.
Xin hãy tạm dừng để kiểm lại xem những
suy luận trên có hợp tình hợp lý không.
Những người Nam-Ngãi-Bình-Phú thời
1950 vào Dalat được người đi trước giúp đỡ và chỉ
vài ngày sau là đã có công ăn việc làm. Một quân
nhân họ Nguyễn thái trên đường hành quân đã
dừng chân tại vùng hiện nay là Lâm Hà, gần ranh
giới với Ban mê Thuột. Sau 1975 được lưu dung
tại Dalat nhớ lại vùng này anh ta đến tìm hiểu
thêm và thấy khu này đầy triển vọng vội về Nghệ
An khuyến khích bà con vào đó lập nghiệp. Bán
tín bán nghi hai vị cao niên cùng theo vào kiểm
tra lại. Cuối cùng toàn chi đó đã dời cả mồ mả cha
ông vào định cư tại đó. Một kỹ sư điện toán con
một họa viên Nha Địa dư đã kể lại tâm tư của cha
anh. ” Được điều động từ Bắc vào Dalat vừa nhớ
Hà Nội xa xôi vạn dặm, vừa lo sợ cảnh xứ lạ cô
đơn nhưng khi thấy Dalat đẹp đẽ sang trọng, dân
tình cởi mở hiếu khách, con cái đi học có xe đưa
rước nên họ an tâm và cảm thấy sung sướng vô
cùng ” 5
Là một Phật tử tôi hiểu là các chúng sinh
thường có suy nghĩ sai lầm vì tham sân si, vì chấp
nhất. Muốn tránh điều này ta cần cởi mở lòng
mình, xả bỏ bớt tham sân si, và cố nhận diện mặt
tốt của mọi người. Xin suy nghĩ về thí dụ sau. Một
cái ly đặt trên bàn với một nửa đầy cà phê. Một
người đi ngang qua bảo “chà, chỉ có một nửa ly
thôi à”. Người khác bảo “ồ, được nửa ly cà phê”.
5 Nhân viên Nha Địa Dư được ở trong cư xá riêng sát sở nên
con được xe trường đưa đón đến Petit Lycée học.
Dalat & Người Xưa Trang 57
Người trước nhìn theo nhục nhãn có thái độ tham
lam, tiêu cực, thường nhìn thấy cái xấu; người thứ
hai nhìn theo pháp nhãn có thái độ khoan dung,
tích cực, luôn nhìn thấy cái tốt.
Các dân tiền phương đến Dalat thiếu thốn
mọi bề, chẳng còn gì để lưu luyến ngoài sự sống
còn. Muốn sống phải nương tựa nhau
bầu ơi thương lấy bí cùng
tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
tự nhiên thấy mọi người đều dễ thương. Tình
thương người đồng cảnh tự phát sinh và nẩy nở.
Những công chức bị đưa lên đây làm việc đã ngạc
nhiên về thành quả mới được xây dựng, về nếp
sinh hoạt và tác phong của nhóm người tiền
phương: vui với công việc, hạnh phúc khi giúp đỡ
mọi người; về cách đối xử lịch sự văn minh của
một số người Pháp. Điều mà họ ngạc nhiên nhất là
tình người của nhóm tù nhân thật đậm đà chân thật
chưa từng thấy tại miền đồng bằng. Thật vậy trong
cuộc sống bình thường mọi người đều nghĩ đến
tiền tài, danh vọng, sức khỏe và hạnh phúc. Các tù
nhân không thể có nhiều tiền và danh vọng. Họ
cảm thấy còn gì hạnh phúc hơn là được bạn quý
mến săn sóc khi đau yếu, một miếng khi đói bằng
gói khi no.
Hotel Palace: năm 1933 vua Bảo Đại lần đầu tiên gặp
cô Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan (HH Nam
Phương).
Lòng bác ái và hạnh phúc của nhân loại từ
xưa tới nay có muôn vạn hình thức. Trên đây tôi
thường ca tụng tình nghèo, có thể độc giả sẽ hiểu
là người giàu không có lòng bác ái. Bà Melinda
cùng chồng Bill Gates đã lập một quỹ trên 3.5 tỷ
Mỹ kim để giúp trẻ em nghèo khắp thế giới. Bà
không tham dự vào các chương trình trợ giúp mà
giao phó hoàn toàn cho một số cơ quan thiện
nguyện nên các trẻ em thụ hưởng không biết tên
bà. Mẹ Thérésa, một nữ tu, cũng lập một quỹ từ
thiện nhỏ hơn cùng với tôn chỉ gần như trên nhưng
suốt đời bà thường xuyên gặp gỡ các em nên nổi
tiếng khắp thế giới.
Ngày nay ta ỷ lại quá nhiều vào cơ giới và
tiện nghi vật chất nên không thể hiểu được tâm tư
người xưa. Thí dụ sau cho thấy nếp sống đơn giản
của người Dalat xưa dễ thích ứng với mọi môi
trường và sinh hoạt. Thử xem hai người với nhân
sinh quan khác nhau cùng sinh sống trong hai môi
trường: thành phố và núi rừng.
a) môi trường thành phố. Ông B, áo quần
màu mè tóc tai chải mướt đến gặp ông A, thấy ông
này râu ria tóc tai bờm xờm, ăn mặc luộm thuộm
nên tỏ vẻ không có cảm tình. Ông A nhìn thấy và
hiểu tâm trạng của người bạn mới.Trong những
ngày sau ông A cố gắng chải chuốt gọn gàng sạch
sẽ hơn nhưng không khỏi bực mình. Dần dần ông
B, nhận thấy sự cố gắng trên, thấy ông A dễ
thương hơn nhưng vì bản tính se sua vẫn còn gây
nhiều phiền phức cho ông A. Với thời gian ông A,
nhờ bản tính đơn giản, không còn thấy phiền não
về sự trách móc của bạn. Họ cảm thông cho nhau
và đều thấy bạn mình dễ thương hơn. Tình thương
nhau phát triển. Ông A cảm thấy hạnh phúc vì
không còn phiền não và đã cảm hóa phần nào ông
B nhưng ông này vì còn chú trọng bề ngoài nên
chưa thấy được hạnh phúc.
b) môi trường rừng núi, Cảm giác ban đầu
của hai người như nhau, nhưng rồi cả hai đều cảm
thấy bực bội hơn vì thiếu mọi phương tiện và tiện
nghi. Nhưng sau một thời gian ông A cảm thấy
hạnh phúc nhờ nếp sống đơn giản, và ông B vẫn
luôn luôn bực tức vì nếp sống trọng bề ngoài.
Ta thấy rằng tình người nghèo nhỏ nhưng
sâu đậm, tình người giàu rộng lớn nhưng mỏng
manh và cái chân hạnh phúc đễ đạt hơn trong sự
đơn sơ.
Dalat & Người Xưa Trang 58
Một khu dân cư thời 1925-30 (không biết ở đâu)
Dalat có nhiều may mắn thật đặc biệt và hội
tụ cùng một lúc đã tạo cho người dân Dalat một
phong thái riêng, không nơi nào có trên đất Việt:
về thiên thời đất rộng người thưa, nhiều công việc,
nhiều cơ sở giáo dục tốt; về địa lợi với núi cao, khí
hậu quanh năm mát mẽ và trong sạch; với về nhân
hòa với nếp văn minh và tư tưởng phóng khoáng
của người Pháp, với quyết tâm hướng thượng và
đạo đức của người Việt. Đó là nguồn gốc của tình
người-Dalat-cổ-xưa và thời điểm này là đỉnh cao
của phong thái người Dalat.
2. Với thành phần có nguồn gốc và sinh hoạt
Trong giai đoạn này họ đã có tiền đã hiểu phần
nào mãnh lực tốt xấu của đồng tiền nên cũng tự
vấn và so sánh giá trị giữa tiền và nhân phẩm
v..v… Do đó cái tình thương không còn đơn thuần
là thương nhau giúp đỡ nhau như trong giai đoạn
trước mà trở nên phức tạp sâu đậm và nhuần
nhuyễn với nhiều tình tiết, có khi vừa đau khổ vừa
hạnh phúc, mới chớm nở đã tàn phai mà chưa biết
hành động ra sao? Bỏ thì thương vương thì tội.
Trong giai đoạn sau nhờ có tên tuổi, nghề nghiệp,
sinh hoạt của họ ta hiểu được sự gian truân và nếp
sống phức tạp lương thiện và đạo đức của họ.
Nhưng muốn tìm hiểu rõ hơn tinh thần làm việc
của họ ta cần biết thêm các chi tiết vui buồn trong
cuộc sống hằng ngày của họ.
Để tránh hiểu lầm xin thông cảm cho tôi
được xác định ý nghĩa về vài cụm từ chính trị
dùng trong bản tạp ghi này. Đây là thời gian Pháp
thuộc, nên các cụm từ kháng chiến quân, nhà cách
mạng được dùng để chỉ mọi hoạt động của các
nhân sĩ, các phong trào và đảng phái chính trị đều
là của toàn dân chống Pháp. Riêng trong năm
1945 việc thay ngôi đổi chủ đã xảy ra bốn lần:
Nhật, Việt Minh, vua Bảo Đại và Pháp, và ảnh
hưởng của Việt Minh nổi bật lên nên xin được
tách ra thành một đơn vị riêng như quần chúng
đương thời dùng.
a. Giai đoạn trưởng thành của phong cách
người Dalat xưa (1927-1945)
Hệ thống giao thông đã hoàn tất. Dalat đã
được mọi miền biết đến, dân chúng đủ mọi ngành
nghề _ thợ thuyền, thương nhân, thầu khoán, dịch
vụ, học sinh, và cả người Pháp _ ồ ạt lên. Dân số
tăng nhanh:1500 người (1923), 9000 người
(1938), 20 000 (1942), 25000 (1944); số biệt thự
327 (1936) 728 (1942). Đây là giai đoạn giao thoa
của các tập quán xấu tốt của thành phần mới với
cái phong thái riêng của người Dalat cũ. Tuy thiểu
số nhưng đã quen sống cần kiệm, đơn giản đầy
lòng bác ái nên họ vẫn giữ được cái phong thái
cao đẹp mà dân chúng thường nhắc nhở và ca
tụng: bản tính người Dalat (khoảng năm 1945) cởi
mở, tế nhị, mến khách, lịch sự, trang nhã, hiền
hòa, dễ thương, giản dị v…v…
Trong 20 năm (1925-1945) Dalat được xem
như đã hoàn chỉnh với một quần thể kiến trúc độc
đáo, một kỷ lục về xây dựng một thành phố vì 9
năm sau không xây dựng gì thêm nữa. Triều đình
Huế đã có Quản đạo, đại diện chính thức (1936),
nhưng Dalat vẫn được tổ chức từ luật lệ cho đến
sinh hoạt cho người Pháp. Tư tưởng Đông Tây
của người Pháp, học sinh Pháp Việt và Tự Lực
Văn Đoàn cũng đã bắt đầu ảnh hưởng đến sinh
hoạt dân Dalat. Đông phương theo nhất nguyên:
chỉ có riêng ta với xu hướng bảo thủ và từ chương.
Tây phương theo nhị nguyên: có ta và đối tượng
nên sống cởi mở và thiên về khoa học. Tư tưởng
chính trị của dân Dalat đối với Pháp cũng thay đổi
phần nào nhờ thành quả của sự xây dựng thành
phố và người Pháp Dalat đa số có nếp sống văn
minh lịch thiệp cởi mở không như lính Lê Dương.
Dalat & Người Xưa Trang 59
Phòng của khách của Langbian Palace (1921)
Trong thời gian này nông ngiệp mới bắt
đầu hình thành và tự phát. Đến 1938 những ấp
nông nghiệp mới được chính thức thành lập với
quy chế mỗi gia đình nông dân được cấp một diện
tích vừa đủ sống nên không có hiện tượng đại điền
chủ bóc lột dân tá điền như miền Lục tỉnh.
Thương nghiệp và dịch vụ phát triển đem đến sự
cạnh tranh và sự gian xảo; nhà giàu và trí thức
đem lại lễ nghĩa tiện nghi dân trí. Công việc vẫn
nhiều nhưng đông dân đem lại ghen ghét dèm pha,
chia rẽ theo tập quán địa phương; sự phát triển
chênh lệch giữa hệ thống y tế và giáo dục Pháp
Việt v… v... Cái tốt xấu lẫn lộn, và cái xấu dễ
bành trướng hơn là cái tốt. Gần mực thì đen gần
đèn thì sáng cái từ tâm đặc biệt của người Dalat
xưa cũng đã bị suy thoái dần dần. Nhưng hành
động và tư tuởng chống Pháp nêu cao tinh thần
dân tộc cũng đã bắt đầu lộ diện. Dalat có nhiều
trường tốt vậy mà có vài ba gia đình tuy có làm
việc với Pháp nhưng trọng tinh thần dân tộc,
không ngại khó khăn tốn kém, đã gởi con ra học ở
Huế. Có những người khuyên dân chúng tẩy chay
các trò chơi có tính cách miệt thị dân ta như trò
chơi liếm chảo, leo cột mỡ v…v… Một số đồng
bào đã lập các hội ái hữu đồng hương như ái hữu
Huế Thừa Thiên, ái hữu Hoan Châu v…v…
Theo sự hiểu biết thô thiển của tôi luật
pháp được áp dụng nghiêm chỉnh rõ ràng đúng
theo các điều khoản về quy hoạch xây cất: quang
cảnh các biệt thự của tư nhân Pháp, kiểu nhà chữ
A của tư nhân và tại cư xá người Việt; quyết định
tối hậu buộc đình ấp Nghệ Tĩnh không được xây
trên đỉnh đồi theo tín ngưỡng Việt mà phải xây
thấp hơn; phần ấp Nghệ Tĩnh dọc theo đường Bùi
thị Xuân được cấp phát sau cho những người đủ
điều kiện mà bị thiếu sót trong lần cấp phát trước.
Các ấp người Việt được cấp phát đầu tiên phải
nằm dưới thung lũng chứ không được khai phá tới
đỉnh đồi. Dấu tích của điều luật này là con đường
vòng quanh ấp Nghệ Tĩnh, đến năm 1948 với máy
bơm nước, dân làm vườn tự động khai phá thêm
lên đồi.
Muốn theo kịp tốc độ kiến thiết Dalat, sinh
hoạt của mọi ngành lớn nhỏ cả Pháp lẫn Việt cần
nhiều vốn, mà Dalat không có ngân hàng. Do đó
họ cần siêng năng làm việc và tiết kiệm từng xu,
để tự tạo uy tín thì mới vay mượn, hùn vốn được.
Nhiều hình thức văn minh được áp dụng: buôn
bán trả góp, gối đầu và chơi huê hụi. Tất cả những
giải pháp này đều cần lòng nhân ái của kẻ có tiền,
sự lương thiện và trọng tín nghĩa của người cần
vốn. Nay ta rất quen thuộc với các phương cách
này nhưng lúc đó thật là đầy sáng tạo: buôn bán
trả góp tương tự như thẻ tín dụng, huê hụi là hình
thức trái phiếu tư nhân.
Họ học những kiến thức khoa học kỹ thuật,
học suy nghĩ và lý luận độc lập, dám mạo hiểm và
chấp nhận rủi ro và tinh thần tôn trọng luật pháp,
v…v…nên đã phát huy tinh thần tự lực tự cường,
dám nghĩ dám làm _
cụm từ dao hai lưỡi. Họ học
được lối xã giao mới, tư tưởng mới, nấu nướng
trang hoàng nhà cửa theo mốt người Pháp. Dân trí
được nâng cao, bớt cố chấp bảo thủ, hiểu được sự
gian truân và lòng bác ái của người tiền phương.
Những điều này giúp họ giữ được phần nào cái
đạo đức và nhân phẩm nói trên.
Dalat & Người Xưa Trang 60
Bên mặt có rảnh thoát nước bằng bê tông, bên trái
doanh trại nhân công đã bỏ hoang.
Dalat miền đất hứa. Mọi người lên đây
đều tìm đuợc việc dễ dàng, công chức không còn
nghĩ là bị đi đày. Nhân viên viện Pasteur, Hỏa Xa,
Địa Dư, Công Chánh được cung cấp nhà cửa tại
những cư xá riêng biệt. Con cái họ được vào học
miễn phí ở Petit Lycée. Các công sở, nhất là ga xe
lửa, là cửa ngõ của Dalat, cần rất nhiều nhân công
đủ loại. Giới phụ nữ và dân lao động có nhiều
ngành buôn thất nghiệp lãi quan viên. Quán ăn
bình dân với các thức ăn, bánh trái đặc sản địa
phương mọc lên như nấm. Không có vốn nhưng
thuận đường đi làm của dân lao động chỉ cần một
gánh bún bò Huế đặt ngay trước cửa nhà, hay phải
gánh lên chợ là đủ nuôi gia đình đông con. Tôi
biết hai gia đình họa viên từ Bắc chuyển vào với
bao ưu tư lo ngại ban đầu, nào ngờ nhờ đó mà con
cháu đều đỗ đạt cấp đại học và tung bay khắp thế
giới.
Miền đất của sáng tạo, của khả năng:
một ông bếp cho gia đình người Pháp thay vì mua
rau ở chợ, đã dặn vợ ở nhà mua những món cần
thiết tại vườn cho ngày hôm sau để thêm thu nhập.
Nhà vườn trồng nhiều loại rau cho Pháp, vợ ông
bếp khác còn tài tình hơn, mua những rau phế thải
đem ra chợ rao bán với lời hướng dẫn nấu món
Pháp, vợ con công chức xúm lại mua. Một gia
đình ở sát bên một vườn nhỏ mới trồng cà phê
thấy chủ vườn phải mướn người làm cỏ, bèn xin
để họ trồng rau trên những phần trống và săn sóc
vườn cho. Đôi bên đều lợi. Trong ngành thợ nề,
tô hồ là việc khó nhất, nếu tô không khéo mặt
tường không phẳng mà sửa tới lui kém năng suất.
Phụ nữ thường làm phụ hồ, có cô gái vốn khéo tay
xin tô hồ thử, nào ngờ hợp khả năng phút chốc
thành thợ hồ sáng chói. Một nhóm 10 người vận
chuyển đất bằng xe bánh gỗ dùng trong việc khai
phá vườn ông Hiến đã tổ chức làm mỗi người một
công đoạn ( đào đất, xúc lên xe, đẩy xe chở đất,
nấu ăn ở nhà) vận chuyển đất cho khu ký túc xá
trường Grand Lycée.
Toàn quyền Đông Dương René Robin và vua Bảo Đại
khánh thành đường xe lửa xuyên Đông Dương và thời
gian thực hiện đường xe lửa này từ 1896-1936
Miền đất của sự cầu tiến: họ không nề hà
công việc nặng nhẹ nắng mưa miễn là học được
cái mới. Niềm mơ ước của cha mẹ là con được
vào Yersin học miễn phí nên họ tất bật làm ngày
đêm để có tiền cho con học trường tư, học thêm,
hoặc tìm mọi cách cho được điều này. Một anh
bạn cho tôi biết ba anh làm cho một gia đình Pháp
nhưng vẫn nghèo đã nhờ họ xin vào Yersin miễn
thi. Trường trung học Dalat hình thành rất trễ đã
ảnh hưởng đến sự cầu tiến của thanh niên phần
nào. Một số dông đã bỏ học, ngay sau khi có bằng
tiểu học hoặc trước khi có trung học đệ nhất cấp,
để ra tìm hướng tiến thân khác theo câu con cá
nhỏ trong tay hơn cá lớn trong ao. Dalat đang là
môi trường của trăm hoa đua nở, mọi ngành nghề
đều cần nhân tài, cần sáng kiến thích hợp với nhu
cầu riêng . Cái khó ló cái khôn.
Dalat & Người Xưa Trang 61
Miền đất của đơn giản và tiết kiệm: Qua
bao năm trui luyện trong gian khổ già trẻ đều thấu
hiểu giá trị đồng tiền và không thể nào đua đòi
theo giới học sinh nhà giàu các tỉnh lên học, họ
phải sống tiết kiệm đến nỗi hình như „DNA hà
tiện” đã thấm sâu vào xương tủy. Một người con
tại Mỹ đã hỏi “Mẹ đã băng rừng lội suối, đã lê gót
hết đồng bằng sông Cửu Long, đã vượt sóng trùng
dương sao mà cái cục kẹo của mẹ không rớt”. Tôi
không quên được cảnh tiết kiệm của gia đình tôi,
chủ một tiệm buôn lớn đương thời. Mỗi buổi ăn
trưa, con nít của hai chủ tiệm và của bà con ở xa,
gần 20 đứa, cơm bao nhiêu cũng được nhưng ông
bếp chỉ cho thịt cá vào chén đầu còn những chén
sau chỉ có nước canh hay nước thịt cá. Có mấy
nhà vườn qua bao lao tâm và cần kiệm đã dành
dụm được khá nhiều vàng nên đã sống an nhàn
đến ngày nay.
Ga xe lửa cũ của công ty SGAI điều hành đương xe lửa
Dalat trước khi có nhà ga hiện hữu. Ga này chỉ còn
một phần nay dùng làm nơi điều hành đường xe lửa
Dalat- Trại Mát
Miền đất của thực tế: Người Dalat xưa
chú tâm vào thực tế thay vì bằng cấp hay danh
vọng. Trong thời gian đầu họ mong ước được sống
còn. Trong giai đoạn hai, đã có chút ít tiền, nhà
cửa, nếp sống đã ổn định, họ ước mong có một
tương lai vững chắc hơn. Vào giai đoạn cuối, khi
đã thấy rõ ràng thành quả của bao năm vật lộn để
vươn lên, họ mong xây dựng tương lai vững chắc
cho con cháu như trường hợp sau. Nhiều người
Việt ở Cali nhờ khí hậu ấm áp hưởng thụ nhiều
tiện nghi nên ưa thích cái bề ngoài với áo quần xe
cộ toàn bằng đồ hiệu kể cả đồ cũ. Trái lại ở Min-
nesota, để chống lạnh họ không cần áo quần đẹp
mà cần cho ấm, không cần xe danh tiếng mà cần
xe có máy tốt để dễ nổ máy và không bị hư dọc
đường. Họ thấy và hiểu rõ đoạn đường lập nghiệp
là cần ăn chắc mặc bền, đo bò làm chuồng và
tránh xa cảnh đua đòi trằm hàng bạc áo làng buôn.
Họ sống với đạo đức và hành xử theo lương tâm:
không làm những điều mình không muốn người
khác làm cho mình. Đó là người lương thiện đạo
đức. Sau 1945, đời sống phức tạp hơn, đạo đức
giảm dần vì họ phải luồn lách luật lệ. Đó là lương
thiện luật pháp. Cuối thế kỷ 20 khi chính trị xen
vào nhiều hơn, đời sống quá phức tạp buộc người
dân phải sống với lương thiện chính trị. Người
xưa, sống đơn giản thật thà, đã tạo dựng tài sản
với lương tâm người quân tử trong nền móng
lương thiện đạo đức điều mà nay khó tìm. Ta có
thể xem sự lương thiện như cái bong bóng cao su
được thổi phồng. Lớp cao su nơi gốc dày vững
chắc nhưng mỏng dần khi được thổi hơi vào. Còn
dạng bong bóng là còn lương thiện, bong bóng bể
thành bất lương. Ta biết mọi vật đều có hai mặt
nhưng không làm sao biết được mặt trong của cái
bong bóng, nên đừng cầu toàn.
Trong giai đoạn này Dalat đã hoàn thành và
mừng nhất là chúng ta hiểu được phần nào sự
đóng góp về vật chất của người tiền phương. Nhờ
sự giao thông thuận lợi, sự phát triển về thương
nghiệp, sự hiện diện của giới trí thức nên dân trí
lên cao mau chóng. Những điều này giúp họ hiểu
rõ hơn những tình tiết éo le của tình thương trong
trường đời. Đó là cốt lõi của tình thương trong đạo
đức và giúp cho người Dalat xưa giữ vững được
phong thái đặc biệt của họ trong giai đoạn kế tiếp.
Dalat & Người Xưa Trang 62
b. Giai đoạn thoái hóa của phong cách người
Dalat thuở xưa (1945-1954).
Khi chánh quyền đương thời, Việt Minh,
phát động chiến dịch tản cư, Nhiều người tản cư
xuống Phan Rang vì nghĩ rằng tản cư không lâu.
Đa số cho đây là dịp tốt để về miền Trung thăm
quê cũ.
Khi Pháp tái chiếm Dalat, những gia đình
tạm tản cư xuống Phan Rang và may mắn thoát
khỏi bệnh tật, hoặc không bị Pháp giết, bắt đầu hồi
cư và âm thầm cắm đầu cắm cổ làm lại cuộc đời.
Vì Việt Minh chiếm giữ hai tỉnh Bình Định và Phú
Yên nên đại đa số những gia đình tản cư về miền
Trung không trở lại được ngoại trừ một số ít có
tiền mạo hiểm hồi cư bằng đường thủy. Dân chúng
từ Nha Trang đến miền Nam đủ mọi thành phần
chí thú làm ăn hay cơ hội chủ nghĩa ào ào lên Da-
lat mua và chiếm những nhà vô chủ. Tiệm Nou-
veautés Hanoi của thân phụ tôi bị một người Sai-
gon dân Tây chiếm đổi thành Saigonais. Dân số
tăng khá nhanh mặc dầu bị hạn chế trong thời gian
Hoàng Triều Cương Thổ.
Thác Cam Ly thuở xưa
Trước 1945 chưa có radio, báo chí rất hạn
chế, mọi nguồn tin chính trị hầu như là truyền
khẩu không được loan truyền rộng rãi nên dân
chúng Dalat sống trong thanh bình. Khi Việt Minh
lên nắm chính quyền dân chúng mới biết sự hiện
diện và hoạt động thầm kín của họ. Trong thời
gian tranh tối tranh sáng này, dân chúng rất sợ bị
gán tội Việt gian có thể bị tử hình hoặc bị đưa đi
an trí với ngày về thật mong manh. Những người
hồi cư, qua bao thủ tục rắc rối, về đến nơi thấy nhà
trống không, vườn đầy cỏ kể cả phân tro và vật
dụng chôn dấu cũng không còn. Họ đành phải
chấp nhận nếp sống mũ ni che tai, mắt mờ tai điếc
cho qua ngày. Biết mặt những người chủ mới của
bao căn nhà cũ mà không dám hỏi han liên lạc.
Cây cầu Nhật này đã được thay thế bằng cống hộp tại
ngã ba đường Yersin và Bà Huyện Thanh Quan. Đồi
cao bên tay trái là đồi dinh Công Sứ và chợ Hòa Bình;
đồi lài phía tay mặt là đồi Cù, lùm cây thấp là Trại
Thiếu sinh Quân, (ĐH Dalat ngày nay)
Tình xưa nghĩa cũ của láng giềng, của
cộng đồng thay đổi và có nơi đã tan biến, như lời
diễn tả sau đây của ôngTrung Tín, chủ một tiệm
bán đồ sắt tại đường Cầu Quẹo, “Tình người năm
1935 như nước cam vắt đựng trong cái chén đất có
mùi thơm thoang thoảng, hương vị ngọt dịu với
chút hậu còn để lại trong cổ sau khi nuốt. Tình
người 1955 như chút nước cam vắt đựng trong cái
ly thủy tinh đầy nước đá xay chẳng mùi chẳng vị
làm lạnh buốt từ nướu răng đến cổ họng”. Ông tha
phương cầu thực tại Dalat hai lần: vào lập nghiệp
năm 1935, tản cư về Qui Nhơn năm 1945, hồi cư
vào lại Dalat năm 1954, vì bị kẹt lại ở Bình Định
chín năm. Tốc độ kiến thiết Dalat quá nhanh, tiện
nghi quá hấp dẫn làm cho bao tính chất tốt đẹp của
dân chúng chưa kịp thấm sâu đã bị xói mòn.
Dalat & Người Xưa Trang 63
Nhưng tại sao lại quá nhanh như vậy? Hãy
xét các con số sau đây. Dân số Dalat 25,800 người
(1945), 5,200 (1946), 52,000 (1954). Tỷ lệ dân
chúng năm 1946 so với năm trước là 24% và với
chín năm sau là 10%. Với 10% thành phần cũ mà
còn giữ được phong thái riêng đặc biệt của cộng
đồng cũ nói lên một cách hùng hồn là nhân phẩm
người Dalat xưa trong sáng, tốt đẹp quá.
Mục đích của bài viết này chỉ muốn trình
bày vấn đề xã hội, nhưng tôi vẫn phải nêu hậu quả
của việc tản cư hơn sáu mươi năm về trước chỉ để
cùng nhau suy nghĩ cái nhân phẩm của tiền nhân
mà thôi. Qua việc tản cư, theo thiển ý người Dalat
xưa, có những đặc điểm:
a) thương người, cầu tiến, đạo đức, tôn
trọng luật pháp nên họ chấp hành lệnh tản cư một
cách nghiêm chỉnh.
b) không quên nguồn gốc tổ tiên nên đã về
thăm nhân dịp này.
c) đa số 76% dân Dalat xưa _ thành phần
nòng cốt của thời khai sơn phá thạch đã tạo nên
cốt lõi của phong thái người Dalat _ đã sinh hoạt ra
sao khi về sống lại tại miền Trung.
Xét qua cả bốn giai đoạn tác phong người Dalat
tùy thuộc vào hai yếu tố chính mà các tỉnh thành
khác không có:
1) về môi trường: khí hậu quá lạnh và Da-
lat chưa có người Việt.
2) về con người: người Pháp giàu, mạnh
với đầy đủ uy quyền và người Việt nghèo cam
chịu số phận nhưng hướng thuợng trong đạo đức.
TINH THẦN
NGƯỜI DALAT XƯA
Tinh thần của một số danh nhân hay quốc
gia thường được truyền tụng qua huyền thoại: một
thực thể hư ảo không cần chứng minh mà chỉ cần
lòng tin của dân chúng. Lòng tin càng cao huyền
thoại càng dễ lan truyền. Huyền thoại ngày nay
khó lan truyền vì dân trí ngày càng cao. Người
chết là hết nhưng các danh nhân để lại tiếng thơm
muôn đời. Dalat không có danh nhân nhưng lịch
sử ghi nhận dân Dalat xưa đã để lại một phong
thái đáng ngưỡng mộ, điều mà chúng ta đang cố
tìm sử liệu. Không có tướng nhưng đoàn dân quân
vô danh ô hợp này tạo được thành tích tốt. Tuy vô
danh nhưng đui què mẻ sứt cũng là cha ta, công
hầu khanh tướng cũng là cha người nên ta cần
lượm lặt những gì liên hệ để đúc lại cái tinh thần
của họ.
Muốn hiểu tinh thần của họ cần phải có
những chi tiết cụ thể về cuộc sống. Ai ai cũng biết
sự tiện nghi và các phương tiện hiện hữu làm
chúng ta không thể hiểu được những kham khổ
của người xưa cũng như hai chữ “đương nhiên”
tầm thường lại càng làm cho chúng ta bối rối hơn
khi tìm hiểu mức độ gian nan của họ. Nếu không
ghi lại một vài thí dụ cần thiết chúng ta sẽ lạc lối
luôn.
Tình mẫu tử xưa và nay hoàn toàn khác
hẳn. Trẻ con xưa chờ quà khi mẹ đi chợ về, trẻ con
ngày nay thản nhiên lấy quà trong tủ lạnh khi cần.
Ta nghe nhiều chuyện tình mẫu tử từ gia đình
nghèo mà rất ít thấy từ con nhà giàu. Sử sách Da-
lat ghi tù nhân được đưa lên Dalat làm công,
đương nhiên ta nghĩ ngay đó là tội phạm mà
không hề nghĩ chỉ vì muốn có một đời sống dễ
chịu hơn nên họ kháng thuế mà bị đọa đày, cũng
như người tha phương vì khổ quá muốn lên đó
làm công là thường tình, mà không hề nghĩ đến
vùng này chỉ có người Mọi nên phải sống mười
mấy năm trong cảnh trai thừa gái hiếm. Sách Dalat
ghi ông Nguyễn thái Hiến đã đưa một số di dân
Nghệ An và mười năm sau ông Hoàng trọng Phu
đưa người Hà Đông vào Dalat.
Dalat & Người Xưa Trang 64
Giáo Hoàng Chủng Viện
Người Hà Đông được giúp đỡ vé xe lửa,
được trợ cấp tiền bạc và nhà tạm trú lúc ban đầu.
Bản thân tôi cũng hiểu là người Nghệ An cũng vào
bằng xe lửa. Nào ngờ đến nay tôi mới biết đường
xe lửa lên Dalat hoàn thành năm 1932 và đường
Hà Nội Sài Gòn năm 1936 và không thể hiểu ba
tôi đã gặp khó khăn gì và làm sao đài thọ chi phí
cho lối 20 người trên hành trình gần 2000km bằng
xe hơi vào Dalat năm 1928?? Cũng là đương
nhiên một lão thành khẳng định với tôi là vì cuộc
sống, đa số những người làm ăn liên quan đến
khai thác gỗ hoặc sống ở ven thành phố đều ít
nhiều có liên quan đến kinh tài cho kháng chiến
quân.
Ở bầu thì tròn ở ống thì dài
hay
khôn chết dại chết, biết thì sống.
Tôi đã suy nghĩ nhiều về việc ghi lại danh
tánh hoặc một số chi tiết về nguồn gốc tế nhị, thấp
kém của một số nhân chứng mà con cháu họ có
thể không muốn nêu ra. Tôi xin khẳng định là
không hề có chút ý nghĩ nào xấu về họ cả. Ngược
lại tôi lại thấy các điều đó làm họ cao quý hơn, và
cảm thấy các chi tiết này rất cần thiết để nói lên
cái tinh thần của người xưa mà ta muốn duy trì và
phát huy thêm. Tôi không dám có kỳ vọng cao xa
nhưng nghĩ rằng các chi tiết này có thể là một
phần của bảo tàng viện _ nếu được thành lập sau
này _ về người Dalat xưa. Đó là những cái mốc đễ
ta căn cứ và tìm hiểu thêm về thời gian trước. Vì
Dalat, tôi xin lỗi trước để thân thuộc các nhân vật
này hiểu, thông cảm và hỷ xả cho nếu gia đình có
điều không được vừa ý.
Thảm cỏ khách sạn Langbian Palace
Các tù nhân xưa tản cư về miền Trung đều
đã mất. Con cái họ nay cũng đã khoảng 80 và sống
qua bao thiên tai chắc cũng đã thành người thiên
cổ. Những người đến Dalat sau _ nhờ còn để lại
chứng tích của sự nghiệp và sinh hoạt _ cũng đã
qua đời được xem là thế hệ thứ nhất: thế hệ của sử
liệu. Những ai đã chứng kiến phần nào các sinh
hoạt như chúng tôi _ cũng gần đất xa trời
_ được
xem là thế hệ thứ hai: thế hệ nhân chứng. Những
ai chỉ được nghe cha anh kể lại phần nào tinh thần
họ đã sống, nay đang sống trong thời đại của tin
học, là thế thệ thứ ba: thế hệ tinh thần. Tuy đây là
ba thành phần có liên hệ đến Dalat, nhưng Dalat là
của toàn dân Việt nên mong rằng mọi người chúng
ta hãy cùng chung sức tìm nguồn gốc, tìm cái tinh
thần làm việc của tiền nhân theo phương thức
được trình bày ở phần sau với ước mong cái
phong thái tốt đẹp đó sẽ được vĩnh hằng và chúng
ta đã để lại cho con cháu một di sản vô cùng quý
giá.
a) Sự đóng góp của thế hệ sử liệu.
Tại ấp Tân Lạc ông Trương Núi, người
Quảng, sáng gánh vải ra chợ chiều gánh về nhà
cho các bà bán vải nhưng sức khỏe kém dần phải
chuyển qua quét chợ sống trong cảnh gà trống
nuôi hai con. Hằng ngày cứ nhìn cái tháp trường
Dalat & Người Xưa Trang 65
Yersin để phấn đấu và ước mơ con ông được vào
học ở đó. Tôi được ông nhiều lần tâm sự và nhờ
hướng dẫn con ông để em được vào Yersin.
Nghèo nàn vất vả nhưng ông chẳng bao giờ có ý
“cầm nhầm” những món hàng khô để hững hờ như
mỡ treo trước miệng mèo. Sự tận tụy và lương
thiện của ông làm cho bạn hàng trong chợ thương
quý ông và thỉnh thoảng biếu ông chút quà cho
cháu. Con ông, một giáo sư triết nổi tiếng trường
Trần hưng Đạo, đã tả trong tập thơ:
Sen nở vườn tình
Chai phồng những bàn tay
trầy nứt những bàn chân
nhà vẫn nghèo, thân vẫn gầy
mẹ cha làm, thiên hạ ăn
Đói nghèo không chịu nổi
mẹ mất quá ba mươi
cha xúc từng đống rác
nuôi con cho nên người.
Cháu nội ông là một tiến sĩ trường Berkley, Mỹ.
Ông Năm Niên, người Quảng Bình, ngụ tại
Tân Lạc, nhờ có kỹ thuật cao là người phồ cỏ giỏi
nhất trong đám phu lục lộ. Ông vui vẻ lạc quan nói
với tôi “người gảy đờn cò nhờ tiếng đàn được đàn
bà con gái mê, tao nhờ lưỡi phồ biến đám cỏ thành
thảm xanh làm tây đầm mê cho tao tiền sướng hơn
ông đờn cò. Tao không lo đói vì còn hô ten Palace
là tao còn cơm ăn và không sợ bị bó chiếu khi qua
đời”. Ông chỉ hai quan tài bằng gỗ dẻ khá đẹp, để
dưới giường, trong đó có hai bao trà Cầu Đất, và
bảo “trong Tân Lạc ai sướng hơn tao. Xuyệc mơ
dua đó nghe (sur mesure từ của người thợ may âu
phục dùng để may theo đúng kích thước). Đó là tất
cả sự nghiệp của đời tao, nhưng dù sao vẫn khá
hơn người bạn đập đá.”
Từ lâu người thợ đập đá đã quan sát hàng
xóm và thấy rằng nhiều vật phế thải trong công
trường xây cất khi qua tay người thợ nề sẽ thành
hữu dụng. Mỗi ngày đi làm về họ lượm khi thì cục
gạch, khi thì vài lon cát hoặc mớ gạch vụn về trữ
thành đống trong sân nhà. Lần hồi họ dùng để xây
tường, lát nền nhà v..v... Ông cố dành dụm để mua
một căn nhà và sẽ mở cho bà vợ một quán bán tạp
hóa nhỏ đỡ vất vả hơn là đi đập đá. Ông bà hằng
mơ và hy vọng thằng Sáng, có bằng Yếu Lược vừa
đủ biết đọc biết viết, đang theo người bạn học làm
thợ nề. Nó sẽ xây vách và làm nền nhà bằng xi
măng để quán của bà sáng sủa hơn.
Nhiều người thợ như ông Trần Lai có tay
nghề cao chuyển qua lãnh khoán (tacheron) nhận
thầu lại công việc của các nhà thầu, ông Nguyễn
thành Hổ tức Xu Hổ, nhờ có Pháp văn, nên chuyên
thầu các biệt thự cho Pháp và có biệt thự riêng tại
đường Lò Gạch, ông Tô duy Hào một thợ nề trở
thành người cai giỏi được nhà thầu Gross tín
nhiệm và trọng dụng.
Sơn Hà bảng hiệu của một thương gia, của
thế hệ người Dalat thứ hai, nổi tiếng từ thập niên
1960 và vẫn tồn tại đến bây giờ. Theo cha già từ
Nghệ An vào Dalat năm 8 tuổi bà đã nổi tiếng
thông minh lanh lợi. Năm 1945 tản cư xuống vùng
ngoại ô Phan Thiết, khi Pháp tái chiếm Việt Nam,
các nông sản đưa vào tỉnh lỵ bị khám xét gắt gao.
Dùng trái mít ướt chín nục bà lấy hết hột ra rồi
nhét trứng gà vào, đút cùi mít vào lại và ngày ngày
qua ải kiểm soát dễ dàng. Lập gia đình với một
người tài xế chở rau, cùng nhau chắt chiu vật lộn
với nghề, và vươn lên với bao khó khăn. Người
chồng với từ tâm vị tha của người mạnh thường
quân chùa Linh Sơn. Người vợ, trải qua bao năm
tháng gian khổ với cha già và em dại, đặt trọng
tâm vào tình mẫu tử để nuôi đàn con mười đứa ăn
học. Có cứng mới đứng được đầu gió bà không từ
bỏ những thủ đoạn cần thiết để đấu tranh với đồng
nghiệp trên thương trường. Gần đèn thì sáng nên
Dalat & Người Xưa Trang 66
khi đã khá giả bà nghe lời chồng giúp đỡ nhiều gia
đình nghèo không phân biệt hoàn cảnh, nguồn gốc
và tôn giáo. Khi chiến dịch bài trừ tư sản mại bản
đang sôi sục ở Dalat và bà, đang ở Saigon, nhất
quyết về lại Dalat trước sự can ngăn của bà con.
Bà đã bảo vệ thành công tài sản của bà đúng theo
câu khôn ngoan đến của quan mới biết. Bà chưa
hề đặt chân tới cổng trường, nhưng sự khôn ngoan
nhạy bén, và sự dám nghĩ dám làm của bà về
thương trường đương thời là những bài học quý
giá không hiểu hậu thế có học hỏi được gì không
nhưng tôi nghĩ con cháu bà nên ghi lại với các tình
tiết để Dalat học có dữ kiện nghiên cứu khi cần.
Bà có nhiều điều đặc biệt khác nữa nên một
trưởng lão trong ấp bảo: con này mà biết chữ thì
đã làm tể tướng rồi. Bà đã áp dụng hoàn hảo câu
khôn chết dại chết biết thì sống. Bà cũng là người
đã cho chúng tôi mượn tiền “đi đến nơi rồi trả sau”
để vượt biên. Khuôn khổ bài viết không đủ chỗ để
ghi hết thành tích về bà. Biết bà khá nhiều nhưng
không biết hết tình tiết sự việc, nếu ghi thiếu sót
hay sai lạc sợ gây nên hiểu lầm nên tôi không
những không dám ghi mà cũng không dám xét
đoán nhân cách và tinh thần làm việc của bà. Tôi
xin ghi lại sự lầm lỗi của nhà đại văn hào Tô Đông
Pha (TĐP) để độc giả hiểu ý tôi và để các nhà
khảo cứu Dalat học tìm hiểu sau vậy.
TĐP chê hai câu thơ
Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm
của Tể Tướng Vương An Thạch là vô lý vì trăng
sáng mà sao lại hót ở đầu núi, con chó vàng sao lại
nằm trong lòng hoa được, nên sửa chữ KHIẾU ra
chữ CHIẾU, chữ TÂM ra chữ ÂM. Hai câu thơ
trở thành
Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm
Nghĩa là:
Trăng sáng chiếu ở đầu núi
Chó vàng nằm dưới bóng hoa
Khi TĐP du ngoạn đến một vùng núi rừng,
nơi đó có loài chim tên Minh Nguyệt và một loài
sâu tên Hoàng Khuyển. TĐP sực nhớ lại hai câu
thơ của Vương An Thạch có nghĩa là
Con chim Minh Nguyệt kêu ở đầu núi
Con sâu Hoàng Khuyển nằm giữa đóa hoa.
Ông rất hối hận về lầm lỗi của mình.
Hoàn cảnh xã hội đã đưa đẩy ba người đàn
ông (Trương Núi, Năm Niên và ngươi thợ đập đá)
xuống tận đường cùng, nhưng nhờ sống đơn sơ họ
vẫn hạnh phúc với những gì đang có, vẫn giữ được
từ tâm tinh khiết trong nghèo nàn, và vẫn vui với
cuộc sống,. Tuy đứng dưới đáy thang xã hội
nhưng tinh thần cầu tiến và đạo đức của họ vẫn
được thể hiện rõ ràng nhỏ nhoi hay vươn cao tùy
người, tùy hoàn cảnh. Ghi lại danh tánh ba người
thợ ngành xây cất (Trần Lai, Nguyễn thành Hổ và
Tô duy Hào) có óc sáng tạo và đầy quyết tâm
hướng thượng có thể đang trên đà tạo thành tích
tốt mà vì thời cuộc nên sự nghiệp đã bị cắt ngang,
và nguồn gốc bà Sơn Hà đề chứng minh là có
những người ít học hoặc thân phận thấp kém vẫn
có thể trở thành đại doanh nhân. Tôi tập trung
phần nào những chi tiết trung thực của các nhân
vật có nguồn gốc thấp kém trên để giúp ta thấy
trong môi trường tốt sự nghèo nàn khốn khó đã
không làm mất nhân phẩm hoặc làm giảm khả
năng con người mà còn giúp chúng ta hiểu rõ thêm
nếp sống và tinh thần người Dalat thuở xưa.
Những người của thập niên 20 nay đều đã
mất và không còn chút dấu vết gì nên đành phải
căn cứ vào thế hệ thứ nhất. Những gì tôi biết và
thâu thập được về sinh hoạt của họ trong hoàn
cảnh khó khăn là tình thương và giúp đỡ lẫn nhau
vẫn chưa đủ mà phải cần sự nương tựa mật thiết
với nhau.
Dalat & Người Xưa Trang 67
Rừng thông là sườn đồi trường Yersin, dãy nhà lầu trắng là
trường Yersin, bên trái là hồ Xuân Hương, đỉnh cao là đồi
Công Sứ và chợ Hòa Bình, lùm cây đen cao là nhà giây thép
gió, khu nhà trắng trước lùm cây là đường Bùi thi Xuân gần
hồ Đội Có, con đường bên tay mặt là đoạn cầu sắt với
đường Yersin.
Sinh hoạt của ông Tăng hợp Phát (THP),
thầu khoán người Hoa dưới đây giúp tôi hiểu tầm
quan trọng của sự nương tựa. Ông THP, xuất thân
mua bán ve chai, ba chìm bảy nổi lăn lóc trong
nhiều ngành. Khi đủ sức mở công ty ông mướn
một giáo sư trường Công Chánh, học ở Pháp về,
ăn lương tháng suốt đời để tính bê tông cốt sắt cho
tất cả những công tác của ông ấy, nhưng phải tính
thật sát và an toàn để thợ thuyền cứ theo đó mà
làm và gây uy tín với chủ nhân.Tất cả các giao kèo
đều bằng miệng. Nhờ sự giới thiệu của bang chủ
ông THP được mua chịu vật liệu. Về sau ông có
xưởng làm sườn sắt, xưởng làm đồ mộc, hệ thống
cấp phiếu cho nhân công nghèo mua rẻ nhu yếu
phẩm trực tiếp với các hãng sản xuất thuộc bang
Phước Kiến. Những khúc sắt vụn, bù loong lạc
lỏng đều được gom đống bán cho dân ve chai.
Những khúc gỗ vụn, dâm bào, mạt cưa đều được
một hãng nhỏ tới dọn hàng ngày đem về đốt lò.
Đó là tinh thần của câu người ăn cơm kẻ húp cháo,
tin nhau, nương tựa nhau lâu dài để cùng vươn
lên. Tôi được ông Thầy giới thiệu vào tính bê tông
cốt sắt, như nghề tay trái và được hưởng các điều
kiện như ông. Qua công việc này tôi tiếp xúc với
khá nhiều thương gia lớn nhỏ người Hoa và hiểu
phần nào hệ thống giúp vốn, nương tựa nhau, sự
lương thiện, cần kiệm tháo vác của chủ nhân và
nhân công của các nhà kinh doanh Hoa. Các điều
này giúp tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu tiến trình
lập nghiệp của người tiền phong Dalat dưới đây.
Người Việt Dalat nổi tiếng nhất thời đó là
ông Võ đình Dung, một gương sáng của thời đại
mà không ai biết ông làm những gì trước khi xây
nhà ga (1932), xây các dãy phố xung quanh chợ
Hòa Bình, chùa Linh Sơn v…v…
Trường Võ Bị Quốc Gia
Không thể hiểu được tại sao Pháp dám
giao cho ông thực hiện nhà ga này. Nguồn nhân
công vật liệu từ đâu, không dấu vết. Muốn tìm
hiểu ngành xây cất nói riêng và người Dalat thuở
xưa nói chung cần phải biết rõ hơn các hoạt động
và nhân cách của ông vì ông là nhà thầu Việt Nam
đầu tiên và lớn nhất tại Dalat. Qua bao năm tháng
các công trình của ông vẫn trơ gan cùng tuế
nguyệt trong khi một số không ít các biệt thự của
người Pháp đã xuống cấp. Điều này nói lên khả
năng kỹ thuật và lãnh đạo của ông khá cao vừa về
kỹ thuật vừa nguồn vốn nên mới nhận được công
tác nhà ga. Càng đáng phục ông hơn về nhân cách.
Ông có dị tướng nhưng mạnh dạn đứng lên cạnh
tranh nghề nghiệp với các nhà thầu Pháp và có
công lớn về thành lập và phát triển Phật Giáo Da-
lat.
Các ông Nguyễn văn Tiếng, Thế An
Đường và ba tôi đều giàu lòng bác ái, trọng tinh
thần cùng đùm bọc nhau lăn lộn trong nghề để
mưu sinh giống ông THP. Ông Tiếng với lòng tin
mãnh liệt vào khả năng mình đã không ngại sơn
lam chướng khí của B‟Lao xung phong tới đó để