Upload
hoangthuy
View
214
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----����oOo����-----
NGUYỄN TIẾN LONG
QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính Doanh nghiệp Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học:
PGS – TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH
Thành phố Hồ Chí Minh Năm 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu, khảo sát và thực hiện của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
TÁC GIẢ
NGUYỄN TIẾN LONG
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN TỔNG QUAN ............................................................. 3
1.1 Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. ... 3
1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: .......... 3
1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.... 4
1.2.1.1 Rủi ro tín dụng ................................................................................ 4
1.2.1.2 Rủi ro thanh khoản.......................................................................... 4
1.2.1.3 Rủi ro thị trường ............................................................................. 5
1.2.1.4 Rủi ro tác nghiệp............................................................................. 6
1.2.2 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: .......... 7
1.2.2.1 Những nguyên nhân khách quan..................................................... 7
1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng của ngân hàng................. 7
1.2.2.3 Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân ngân hàng .......................... 8
1.2.3 Hậu quả rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM................... 8
1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro đối với ngân hàng............................................ 8
1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro đối với khách hàng .......................................... 9
1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro đối với nền kinh tế ......................................... 10
1.3 Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM. .... 11
1.3.1. Quản lý rủi ro và quản trị rủi ro ....................................................... 11
1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại. ...................... 13
1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM. ........... 15
1.3.3.1 Các chỉ tiêu định lượng................................................................. 15
1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính ................................................................... 18
1.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng ... 20
1.4.1 Xuất phát từ đặc điểm và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.............................................................. 20
1.4.2 Năng lực quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. ............................. 21
1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế và tòan cầu hóa đòi hỏi phải nâng cao năng
lực quản trị rủi ro. ....................................................................................... 21
1.5 Khủng hoảng kinh tế tài chính tòan cầu và những cảnh báo cho hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................... 22
1.5.1 Nợ dưới chuẩn – Hậu quả của sản phẩm tài chính hiện đại nhưng
nhiều rủi ro .................................................................................................. 22
1.5.2 Hạn chế dư chấn của “Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn Mỹ” đến
thị trường tài chính quốc tế......................................................................... 24
1.5.3 Bài học cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam .......................... 26
CHƯƠNG II: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM .......................................................................................................... 28
2.1 Thực trạng hoạt động Ngân hàng thương mại Việt Nam.................... 28
2.1.1 Quy mô tăng vốn ................................................................................. 28
2.1.2 Tình hình huy động vốn ..................................................................... 29
2.1.3 Thực trạng rủi ro trong kinh doanh NHTM Việt Nam ................... 31
2.1.3.1 Rủi ro tín dụng .............................................................................. 31
2.1.3.2 Rủi ro ngoại hối (Rủi ro thị trường) ............................................. 40
2.1.3.3 Rủi ro lãi suất (Rủi ro thị trường)................................................. 46
2.1.3.4 Rủi ro thanh khoản....................................................................... 49
2.1.3.5 Rủi ro tác nghiệp........................................................................... 54
2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại. ....................................................... 57
2.2.1 Chất lượng nguồn nhân lực: ............................................................. 57
2.2.2 Năng lực tài chính của ngân hàng: ................................................... 58
2.2.3 Quy mô vốn chủ sở hữu: .................................................................... 58
2.2.4 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:................................................................. 58
2.2.5 Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng ......... 59
2.2.6 Môi trường kinh tế xã hội và kinh doanh.......................................... 60
2.3 Những thách thức đối với ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều
kiện hiện nay ................................................................................................... 61
2.3.1 Về hành lang pháp lý.......................................................................... 61
2.3.2 Về khả năng cạnh tranh ..................................................................... 63
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP GIA TĂNG HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO 65
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM .......................... 65
3.1 Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại.......................................... 65
3.1.1 Giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng................................................ 65
- Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn. .............................................. 66
3.1.2 Thực hiện mô hình kiểm soát, dự đoán và định lượng rủi ro họat
động tín dụng. .............................................................................................. 69
3.1.3 Giải pháp đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ ............................. 72
3.1.4 Đối với nghiệp vụ thanh toán. ............................................................ 73
3.1.5 Đối với chính sách lãi suất ................................................................. 74
3.1.6 Công tác quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ. .................................. 74
3.1.7 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng................................................... 76
3.2 Những đề xuất đối với NHNN Việt Nam.................................................. 78
3.2.1 Thực hịên quy định chung theo sự điều chỉnh của Basel II ............ 78
3.2.2 Phát huy sức mạnh tài chính cho các NHTM: ................................. 80
3.2.3 Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh ......................................... 81
PHẦN KẾT LUẬN: ........................................................................................... 88
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHVN Ngân hàng Việt Nam
NHTMNN Ngân hàng thương mại Nhà nước
NHLD Ngân hàng liên doanh
WTO (World trade organision) Tổ chức Thương mại thế giới
NH Ngân hàng
TCTD Tổ chức tín dụng
NQH Nợ quá hạn
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ
Danh mục Trang
Sơ đồ 1.1 : Quy trình quản trị rủi ro ...................................................................12
Bảng 2.1 : Hệ số an toàn vốn của một số ngân hàng .........................................29
Bảng 2.2 : Tình hình huy động vốn của một số ngân hàng ...............................29
Bảng 2.3 : Tình hình tín dụng của một số ngân hàng ........................................30
Bảng 2.4 : Tóm tắt quá trình phát triển các công cụ tài chính phái sinh ...........62
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam đang
trong quá trình đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trường, góp phần không nhỏ
trong việc tạo đà cho nền kinh tế quốc dân phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những
chuyển biến vượt bậc đó thì vấn đề rủi ro trong hệ thống NHTM Việt Nam cũng
đang diễn ra hết sức phức tạp, Ngân hàng dễ trở thành nạn nhân của nền kinh tế
thị trường khi không có những biệp pháp phòng ngừa hữu hiệu, những rủi ro
mang lại không chỉ là từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ hay do các
vụ lừa đảo mà còn bao gồm rất nhiều rủi ro từ thị trường như rủi ro về thanh
khoản, rủi ro về thị trường (lãi suất, tỷ giá hối đoái .v.v) . Trong năm 2007 Việt
Nam đã phải đối mặt với lạm phát tăng cao do những vấn đề như: nhập siêu, hiện
tương đầu cơ .v.v đã tác động tới ổn định hoạt động của các ngân hàng và các rủi
ro tiềm ẩn bắt đầu bộc lộ, mặt khác việc mở rộng mạng lưới hoạt động và tổ chức
đã làm cho các NHTM phải đối mặt nhiều hơn với các loại rủi ro trong hoạt động
và ở cấp độ quy mô ngày càng lớn. Tình hình đó đặt ra việc xác định được các rủi
ro tổng thể tiềm ẩn của hệ thống Ngân hàng để xử lý kịp thời. Do vậy để thực
hiện mục tiêu phát triển, an toàn và hiệu quả trong kinh doanh, việc nghiên cứu áp
dụng những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong họat động kinh doanh của các
NHTM Việt nam là vô cùng cần thiết. Chính vì nhận thức được vấn đề trên, đề tài
“Quản trị rủi ro trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam” được lựa chọn
nghiên cứu trong bối cảnh hiện tại.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hỗ trợ để tăng khả năng quản trị rủi ro
của các Ngân hàng thương mại
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản của ngân hàng thương mại,
phân tích, đánh giá các rủi ro trong họat động của Ngân hàng thương mại, tìm ra
nguyên nhân các rủi ro từ đó đưa ra những giải pháp hỗ trợ để tăng khả năng quản
trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
2
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp lý thuyết suy luận logic, duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phân tích hoạt động kinh tế, toán học, thống kê, so sánh, đối
chiếu, các kinh nghiệm của bản thân và của các nhà nghiên cứu tài chính tiền tệ.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận tổng quan
Chương II: Quản trị rủi ro trong Ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương III: Giải pháp gia tăng hiệu quả quản trị rủi ro trong hệ
thống Ngân hàng thương mại Việt Nam
3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN TỔNG QUAN
1.1 Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Luật của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật các Tổ chức t ín dụng, tại điều 20 có nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh
nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật để hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan., theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại
hình ngân hàng khác
Đối với NHTM, theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ban hành ngày 12/9/2000
về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại
là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh
tế của nhà nước. Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích, khai thác nội
dung của các định nghĩa đó, có thể hiểu các NHTM đều là những trung gian tài chính
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của chúng là: Nhận tiền ký thác - tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn - để làm phương tiện thanh toán và sử dụng vào các
nghiệp vụ cho vay duới nhiều hình thức khác nhau và thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác cho chính ngân hàng.
1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại:
Từ việc nghiên cứu về đặc điểm hoạt động kinh doanh của các NHTM nói
trên có thể nhận thấy rằng, rủi ro luôn gắn liền với từng nghiệp vụ trong hoạt động
của NHTM. Đa số các nhà kinh tế thống nhất với nhau quan niệm về rủi ro trong
4
hoạt động kinh doanh của NHTM là “những biến cố không mong
đợi xảy ra và gây tổn thất đối với ngân hàng”. Mức độ và tính chất rủi ro khác nhau
sẽ gây ra những hậu quả không giống nhau song đều rất nguy hại bởi những tác
động đến uy tín của ngân hàng và khả năng lan truyền. Việc tìm hiểu về các loại rủi
ro, nguyên nhân và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh doanh sẽ trả lời cho
chúng ta câu hỏi tại sao phải quản trị và nâng cao năng lực quản trị rủi ro của
NHTM.
1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể phân chia thành
nhiều loại tùy theo tiêu thức lựa chọn và mục đích nghiên cứu. Trong luận văn
này, rủi ro sẽ được phân chia và trình bày thành bốn loại bao gồm: (1) Rủi ro tín
dụng; (2) Rủi ro thanh khoản; (3) Rủi ro thị trường; và (4) Rủi ro tác nghiệp.
1.2.1.1 Rủi ro tín dụng
Là khả năng khách hàng (người đi vay) nhận khoản vốn vay nhưng không thể
hoàn trả vốn và lãi hoặc hoàn trả không đầy đủ các khoản vay và lãi cho NH, gây tổn
thất cho NH.
Rủi ro tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và phổ biến nhất xuất phát
từ đặc điểm của tín dụng ngân hàng như đã nêu trên đây và trên thực tế, hoạt động
tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Về cơ bản, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay vốn không có khả
năng chi trả lãi, chi trả nợ hoặc cả hai. Loại trừ một số ít khách hàng lừa đảo, đối
với đa số khách hàng dù tình hình sản xuất kinh doanh tốt, có tình hình tài chính
lành mạnh và thực thanh toán đầy đủ cho ngân hàng song vẫn có thể xảy ra những
tình huống bất khả kháng dẫn đến không thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Vì
vậy có thể cho rằng rủi ro tín dụng là khách quan, tồn tại song song với tín dụng
ngân hàng và cả NHTM chỉ có thể hạn chế và buộc chấp nhận rủi ro tín dụng ở
mức độ nhất định mà thôi.
1.2.1.2 Rủi ro thanh khoản
Là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực
tế vượt mức dự kiến, hay nói cách khác, ngân hàng không đáp ứng nhu cầu thanh
toán hay rút tiền của khách hàng. Khi khả năng thanh toán bị đe dọa, NHTM buộc
phải tìm kiếm nguồn và thường là gia tăng các khoản đi vay “nóng” với chi phí
5
rất cao, đặc biệt ở những nơi mà thị trường tiền tệ chưa phát triển. Xét trên giác
độ lý thuyết, rủi ro thanh khoản cũng là điều tự nhiên luôn tiềm ẩn trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng bởi lẽ độ thanh khoản của nguồn vốn (cầu thanh
khoản) bao giờ cũng cao hơn các khoản sử dụng vốn (cung thanh khoản). Tuy
nhiên, trên thực tế rủi ro thanh khoản thường ít xảy ra hơn hoặc cũng có thể được
giảm thiểu và “che lấp” bởi các hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Điều có thể thấy rất rõ là rủi ro thanh khoản và các loại rủi ro khác đều tác
động đến hoạt động ngân hàng một cách ở mức độ khác nhau và dù có thể bị thua
lỗ hay phá sản thì cũng “dần dần từng bước” do vậy các ngân hàng có thể có cơ
hội để khắc phục và cải thiện tình hình. Song rủi ro thanh khoản nếu xảy ra thì lại
là vấn đề rất nghiêm trọng, thậm chí là đặc biệt nghiệm trọng vì có thể dẫn đến sự
sụp đổ của NHTM trong “chốc lát” khi khách hàng ồ át đến rút tiền.
1.2.1.3 Rủi ro thị trường
Là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng khi có sự biến động không
lường trước của thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Lãi suất và tỷ
giá là những phạm trù khác nhau, và sự biến động của chúng cũng tác động không
giống nhau đến hoạt động ngân hàng. Trong khi lãi suất biến động thì làm thay
đổi thu nhập và chi phí, thì tỷ giá biến động sẽ làm thay đổi giá trị của tài sản và
nguồn vốn của ngân hàng. Song nếu xét ở giác độ nghiên cứu khác, hai phạm trù
này lại có những điểm giống nhau là luôn thay đổi trên thị trường phụ thuộc vào
các yếu tố cung – cầu về vốn và về ngoại tệ. Quan trọng hơn, việc xác định, đo
lường mức độ và các biện pháp để hạn chế rủi ro của lãi suất và tỷ giá là hoàn
toàn tương tự và đều phải thực hiện thông qua các nghiệp vụ phái sinh trên thị
trường tiền tệ hay thị trường ngoại hối.
Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lãi suất và tỷ giá luôn
được quản lý và duy trì cố định hay ít nhất là ổn định bởi Nhà nước, do vậy các
NHTM không phải lo lắng đến rủi ro lãi suất và tỷ giá. Trái lại, trong điều kiện
nền kinh tế thị trường với sự vận động rất linh hoạt và phức tạp của các luồng
vốn, lãi suất và tỷ giá luôn biến động và khó có thể dự báo. Lãi suất và tỷ giá biến
động theo chiều hướng khác nhau có thể dẫn đến các kết cục khác nhau đối với
các ngân hàng có trạng thái luồng tiền và trạng thái ngoại hối khác nhau. Một
ngân hàng được “hưởng lợi” từ sự biến động tăng của lãi suất hay tỷ giá thì sẽ lại
6
bị “tổn thất” khi lãi suất hay tỷ giá giảm xuống. Xác suất thu được lợi ích và chịu
tổn thất đối với mỗi ngân hàng là bằng nhau và bằng 50%, song xét về bản chất,
lợi ích mà ngân hàng này có được lại chính là thiệt hại của ngân hàng khác. Do
vậy, các ngân hàng đều tập trung sự quan tâm vào khả năng gặp phải tổn thất có
nghĩa là không chấp nhận sai lầm, cũng từ lẽ đó mà rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá
được coi là điều hoàn toàn tự nhiên đối với các ngân hàng có trạng thái luồng tiền
và ngoại hối khác “mở” và các ngân hàng luôn phải hạn chế rủi ro loại này thông
qua việc đo lường xác định và thực thi các nghiệp vụ phái sinh để phòng và
chống.
1.2.1.4 Rủi ro tác nghiệp
Là những tổn thất xảy do những “trục trặc” trong quá trình vận hành các
hoạt động kinh doanh của NHTM như: Sai lệch về thông tin và xử lý thông tin,
bất hợp lý về quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ và sự phối hợp giữa các bộ phận
chức năng trong ngân hàng, v.v…
Thực ra rủi ro tác nghiệp đã xuất hiện từ lâu và luôn tiềm ẩn trong hoạt
động ngân hàng nhưng chỉ đến những năm gần đây mới được quan tâm nghiên
cứu đẩy đủ hơn. Như đã đề cập trên đây, các hoạt động kinh doanh của NHTM là
rất phức tạp và được thực hiện theo những quy trình và quy định rất chặt chẽ,
song cũng chính vì vậy mà những sai xót rất dễ xảy ra. Bất kỳ một sự bất cẩn hay
là non kém về mặt nghiệp vụ, thu thập xử lý thông tin thiếu chính xác và không
kịp thời của các bộ phận chức năng trong hệ thống đều có thể ảnh đến những
quyết định của giám đốc điều hành và toàn bộ các tác nghiệp tiếp theo.
Rủi ro tác nghiệp của các NHTM có xu hướng ngày càng gia tăng, trước
hết, do sự mở rộng quy mô, phạm vi và sự đa dạng hoá hoạt động kinh doanh;
mỗi ngân hàng thậm chí có thể trở thành các tập đoàn tài chính và là những công
ty đa quốc gia. Thêm nữa, môi trường kinh doanh cũng ngày càng phức tạp hơn,
áp lực công việc tăng do tốc độ và khối lượng giao dịch tăng, sự lệ thuộc vào kỹ
thuật và công nghệ nhiều hơn, v.v… Do vậy, các ngân hàng tiên tiến và có quy
mô lớn trên thế giới luôn nghiên cứu và tối ưu hoá quy trình tác nghiệp trên cơ sở
mô hình tổ chức phù hợp nhất đối với mỗi loại hình ngân hàng.
7
1.2.2 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:
Rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể nảy sinh từ
những đặc điểm nội tại của hoạt động kinh doanh ngân hàng song cũng có thể
chịu ảnh hưởng từ những điều kiện và môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Trên cơ sở đó, các chuyên gia tài chính ngân hàng đã phân chia nguyên nhân rủi
ro thành 3 nhóm như sau:
1.2.2.1 Những nguyên nhân khách quan.
Đây là những nguyên nhân xảy ra rủi ro như thảm hoạ tự nhiên (bảo lụt,
hạn hán, động đất, v.v…) hay những thay đổi về chính sách quản lý kinh tế – xã
hội của Chính phủ, gây thiệt hại khách hàng hoặc trực tiếp cho các ngân hàng.
Đặc điểm chung của nhóm nguyên nhân này là cả ngân hàng và khách hàng
không thể có bất kỳ hành động nào để hạn chế ngoài việc dự đoán, dự báo, dự
phòng và chịu đựng. Do vậy, các NHTM luôn phải chủ động dự phòng để khắc
phục hậu quả rủi ro là điều có ý nghĩa hơn cả.
1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng của ngân hàng
Bao gồm các cá nhân và doanh nghiệp, kể cả các NHTM và các định chế
tài chính khác. Khi các đối tượng khách hàng không thể hoặc không muốn thực
hiện những cam kết với ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải chịu những tổn thất.
Trên thực tế, điều rất dễ nhận thấy là trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đời
sống của khách hàng là có thể gặp phải rủi ro và ít nhất thì một phần rủi ro đó sẽ
được “chia sẻ” hay “chuyển sang” cho ngân hàng. Nói cách khác NHTM cùng
phải chịu tổn thất từ những rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống
của khách hàng. Có thể nói phần lớn (trên 90%) khách hàng không thực hiện cam
kết vời ngân hàng vì bản thân họ gặp rủi ro. Ngoài ra, số ít hơn (dưới 5%) khách
hàng chủ động chối bỏ không thực hiện những cam kết vì những lợi ích nhất thời
nào đó và một số khách hàng (khoảng 3%) chủ động thực hiện những hành vi lừa
đảo đối với ngân hàng. So với nhóm nguyên nhân thứ nhất, nhóm nguyên nhân
này có thể được ngân hàng hạn chế ở mức độ nhất định thông qua việc thực hiện
các biện pháp hỗ trợ, tư vấn để khắc phục sự yếu kém về năng lực quản lý, kinh
nghiệm và trình độ công nghệ giúp khách hàng phòng tránh và hạn chế được chế
rủi ro sau khi đã tiến hành các biện pháp sàng lọc phân loại để loại bỏ những
khách hàng có hành vi hay động cơ không tốt.
8
1.2.2.3 Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân ngân hàng
Đối với tất các các ngân hàng trên thế giới, nhóm nguyên nhân này được
coi là quan trọng nhất vì khả năng phòng chống và hạn chế rủi ro phụ thuộc chủ
yếu bởi năng lực của ngân hàng. Có thể thấy rất rõ là từ sự hợp lý về chính sách
đến trình độ công nghệ và đạo đức nghề nghịêp của cán bộ công nhân viên làm
việc trong ngân hàng đều là các nhân tố tác động đến mức độ rủi ro của mỗi ngân
hàng. Các ngân hàng có trình độ công nghệ cao với chủng loại sản phẩm đa dạng
phong phú kết hợp với nguồn nhân lực có phẩm chất tốt luôn có mức độ rủi ro ở
mức thấp, thậm chí, ngay cả khi rủi ro đã xảy ra, các ngân hàng vẫn có thể hạn
chế hậu quả thông qua các biện pháp kinh tế và thị trường để giảm thiểu tổn thất
tài chính và uy tín.
1.2.3 Hậu quả rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Rủi ro được định nghĩa là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng do vậy
khi rủi ro xảy ra đồng nghĩa với ngân hàng phải chịu đựng những tổn thất về tài
chính và uy tín. Điều đáng lưu ý là những tổn thất xảy ra không chỉ ảnh hưởng
đến bản thân ngân hàng mà còn có tác động xấu đến toàn bộ hệ thống ngân hàng
và nền kinh tế như một tổng thể. Chúng ta có thể khái quát về hậu quả của rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của các NHTM như sau:
1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro đối với ngân hàng
Hậu quả đối với ngân hàng ở mức độ thấp nhất là làm giảm thu nhập của
ngân hàng. Mỗi hoạt động kinh doanh của ngân hàng góp phần mang lại thu nhập
cho ngân hàng nhưng khi xuất hiện một loại rủi ro ở hoạt động nào đó, ngân hàng
không những không có thu nhập từ hoạt động tương ứng mà còn làm giảm thu
nhập từ các hoạt động khác. Ví dụ, nếu khách không trả nợ đúng hạn, sẽ dẫn đến
tình trạng tồn đọng vốn, ngân hàng không thể tiếp tục cho vay hoặc đầu tư, bên
cạnh đó ngân hàng còn phải bỏ ra một khoản chi phí đáng kể để phục vụ cho thu
hồi vốn, trích lập dự phòng rủi ro, và bù đắp v.v. … khi thu nhập chung của ngân
hàng giảm sút thì thu nhập của mỗi cán bộ công nhân viên cũng theo đó giảm
xuống, làm giảm động lực làm việc và quy cơ “ chảy máu chất xám” và rủi ro tác
nghiệp sẽ càng cao.
Ở mức độ tiếp theo sự giảm sút về thu nhập, hậu quả của rủi ro sẽ là sự hạn
chế khả năng tăng trưởng vốn, tác động xấu đến việc mở rộng quy mô hoạt động
9
và khả năng áp dụng công nghệ và giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Giống như tất cả các doanh nghiệp khác, tăng trưởng vốn được thực hiện thông
qua phân phối lợi nhuận. Khi rủi ro xảy ra lợi nhuận giảm thấp đến mức độ nhất
định thì tăng trưởng vốn của ngân hàng sẽ phải giảm, thậm chí có thể không có
tích luỹ.
Rủi ro cũng làm “tổn thương” đến uy tín và hình ảnh của ngân hàng. Các
ngân hàng với mức độ rủi ro cao sẽ mất dần lòng tin của các đối tượng khách
hàng, sự lo lắng bắt đầu xuất hiện và như hệ quả tất yếu, khách hàng sẽ rút tiền và
chuyển sang sử dụng dịch vụ của các ngân hàng khác có uy tín tốt hơn. Trong
hoàn cảnh đó, mặc dù rất nhiều những cố gắng như trả lãi suất cao và cung cấp
thêm các khoản khuyến mại, v.v…, cũng không thể giữ chân khách hàng, hoạt
động của ngân hàng sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn và tiếp tục đi xuống nếu
không có những cải cách mạnh mẽ, đột biến và chấp nhận những giá phải trả rất
đắt. Mức độ nghiêm trọng hơn, rủi ro đe doạ khả năng thanh toán của ngân hàng
và có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản. Các loại rủi ro xảy ra ở mức độ nhất định sẽ
làm giảm và đe doạ trực tiếp đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Rất nhiều
các ngân hàng của các nước trên thế giới kể cả Mỹ ngay trong năm 2008 đã cho
vay đầu tư vào chứng khoán, bất động sản, v.v… và khi những khoản vay này trở
nên khó được thu hồi, các ngân hàng này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán tiền gửi cho khách hàng, dẫn tới thua lỗ và bị phá sản.
Như vậy có thể nói rằng đối với các NHTM, rủi ro làm phát sinh rủi ro
không chỉ dẫn đến giảm thu nhập, sự thua lỗ mà còn có thể gây ra những thiệt hại
nghiêm trọng thậm chí có thể làm phá sản các NHTM. Song không dứng lại ở đó,
các đối tượng khách hàng của ngân hàng (dù có liên quan hay không đến việc xảy
ra rủi ro trong hoạt động ngân hàng) và toàn bộ nền kinh tế cũng phải gánh chịu
những hậu quả nhất định. Trong thời gian gần đây, rủi ro xảy ra đối với các ngân
hàng ở một số nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu, đã có phạm vi tác
động đến hệ thống tài chính và nền kinh tế của các nước khác và toàn cầu.
1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro đối với khách hàng
Đối với tất cả khách hàng, cá nhân hay các doanh nghiệp, kể cả bản thân
các doanh nghiệp đang trì hoãn trả nợ cho ngân hàng đều phải chịu những tổn thất
từ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trước hết, các cá nhân và
10
doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội tiếp cận với nguồn vốn cũng như các dịch vụ tiện
ích khác của ngân hàng. Trong trường hợp đó, khách hàng sẽ phải đi tìm kiếm
những nguồn vốn khác có thể làm tăng chi phí và giảm tính ổn định của quá trình
sản xuất kinh doanh. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở mức phải
xoá nợ, giãn nợ hay đảo nợ có thể tạo ra những tiền tệ xấu trong quan hệ với ngân
hàng. Kế hoạch và nguồn tài chính của khách hàng bị đột ngột thay đổi, khách
hàng mất chủ động về trong việc thực hiện các hợp đồng kinh tế và các nghĩa vụ
tài chính với đối tác bạn hàng, uy tín và hình ảnh của những doanh nghiệp cũng bị
giảm sút. Còn trong trường hợp ngân hàng phá sản, các doanh nghiệp sẽ mất vốn
tiền gửi và thậm chí có thể chịu chung số phận, phá sản theo.
1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro đối với nền kinh tế
Biểu hiện đầu tiên về hậu quả của rủi ro là sự tổn thất chung của toàn bộ
nền kinh tế do tốc độ chu chuyển hàng hóa và tiền tệ giảm. Như đã phân tích trên
đây, khi rủi ro xảy ra, cả ngân hàng và khách hàng – các cá nhân, doanh nghiệp và
toàn bộ nền kinh tế đều bị thiệt hại về nhiều mặt. Trên giác độ lý thuyết có thể
thấy rằng rủi ro trong hoạt động ngân hàng không chỉ làm tăng chi phí sản xuất và
lưu thông hàng hoá mà còn gây ra những hiệu ứng tiêu cực đối với quá trình sản
xuất kinh doanh, cung – cầu hàng hóa và cuối cùng là làm mất đi sự ốn định và
khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Trên thực tế ở rất nhiều nước trên thế giới,
khi các ngân hàng gặp phải rủi ro thì hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội đã nảy
sinh và những giải pháp nhằm ổn định tình hình bao giờ cũng rất tốn kém và hậu
quả có thể còn để lại những di chứng trong thời gian dài, đặc biệt về mặt tâm lý
và lòng tin của công chúng. Ngoài ra, hậu quả của rủi ro còn gây ra làm giảm thấp
uy tín quốc gia, khả năng thu hút vốn nước ngoài và các quan hệ kinh tế đối ngoại
khác đều phải chịu những điều kiện khó khăn hơn.
Tóm lại, rủi ro tất yếu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng trong khi đó
hậu quả rủi ro thực sự rất nguy hiểm nghiêm trọng đối với tất cả các chủ thể,
không chỉ trên giác độ tài chính mà còn tác động đến tất cả các mặt kinh tế –
chính trị – xã hội của nền kinh tế. Tùy theo mức độ phát triển, mở cửa và hội nhập
của nền kinh tế, hậu quả của rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn có thể nghiêm
trọng hơn về mức độ và hành vi ảnh hưởng có thể không phải chỉ dừng lại ở một
quốc gia. Những phân tích trên đây cho thấy lý do tại sao các NHTM thành công
11
luôn phải giành sự ưu tiên thỏa đáng cho vấn đề quản trị rủi ro song song với việc
nghiên cứu phát triển hoạt động kinh doanh.
1.3 Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.3.1. Quản lý rủi ro và quản trị rủi ro
Về mặt thuật ngữ, “quản lý rủi ro” và “quản trị rủi ro” đôi khi vẫn được sử
dụng thay thế cho nhau, không có phân biệt một cách rõ ràng, thậm chí một số
người cho rằng quản lý và quản trị rủi ro thực chất là một. Trên thực tế, trong hoạt
động kinh doanh của NHTM, mặc dù có cùng mục tiêu là tối thiểu hóa tổn thất,
đảm bảo an toàn và hiệu quả song quản lý rủi ro và quản trị rủi ro vẫn có sự khác
biệt về cách tiếp cận và về cấp độ quản lý.
Quản lý rủi ro là việc sử dụng các công cụ, biện pháp, quy trình cần thiết
trong các hoạt động kinh doanh cụ thể nhằm hạn chế tối đa khả năng xảy ra tổn
thất cho NHTM. Như vậy, xét ở giác độ ngân hàng, để đạt được mục tiêu quản lý
rủi ro, các ngân hàng chỉ cần né tránh rủi ro thông qua lựa chọn khách hàng giao
dịch với những điều kiện và yêu cầu cao hơn hoặc chỉ lựa chọn những danh mục
đầu tư an toàn hơn. Nghiên cứu trên giác độ quản lý nhà nước, quản lý rủi ro có
thể được thực hiện thông qua các quy định chặt chẽ về hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng, khống chế giới hạn hoạt động ngân hàng trong vùng được cho là
an toàn và hiệu quả.
Quản trị rủi ro mạnh mẽ và hiệu quả hơn quản lý rủi ro thông qua việc chủ
động chấp nhận và kiểm sóat rủi ro ở mức độ nhất định trong mối quan hệ với thu
nhập quản trị rủi ro là việc sử dụng hệ thống các biện pháp xác định và đo lường
rủi ro, lựa chọn và chấp nhận rủi ro, quản lý và kiểm soát rủi ro để thực hiện các
quyết định kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu về hiệu quả và an toàn. Như
vậy nội dung và quy trình quản trị rủi ro bao gồm các bước có thể được phác họa
theo sơ đồ sau:
12
Sơ đồ 1.1 : Quy trình quản trị rủi ro
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đi kèm với rủi ro vì vậy cách tiếp
cận của quản lý rủi ro theo định hướng không chấp nhận những tài sản rủi ro, chỉ
lựa chọn những hoạt động kinh doanh của ngân hàng ở trạng thái rủi ro không thể
xảy ra là không phù hợp, không tiếp cận với tất cả các đối tượng khách hàng.
Quản lý rủi ro trên cả giác độ ngân hàng hay quản lý Nhà nước như trên đều rất
phức tạp và đòi hỏi trình độ rất cao. Quản lý rủi ro rõ ràng là chưa đủ đối với hoạt
động kinh doanh ngân hàng trong điều kịên và sự phát triển của nền kinh tế thị
trường hiện đại, mở cửa các nước nói chung hiện nay.
Quản trị rủi ro cho phép hoạt động của NHTM hoàn tòan chủ động và mang
tính tích cực, dựa trên nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và thu nhập, ngân hàng sẽ
lựa chọn một cách khoa học tập hợp các hoạt động kinh doanh với khả năng xảy ra
rủi ro ở mức độ và phạm vi nhất định kèm theo những biện pháp quản lý và kiểm
sóat mức tổn thất khi rủi ro xảy ra nhằm đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng,
Cấp độ quản trị rủi ro cũng ở mức cao hơn: không chỉ là những công cụ,
biện pháp quản lý nhằm hạn chế rủi ro mà còn bao gồm cả những hoạt động góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro như: Nhận biết trước về các loại rủi ro có
Nhận biết và xác định rủi ro
Phân tích đo lường rủi ro
Lựa chọn về mức độ và phạm vi tác động
của rủi ro
Kiểm soát và quản lý rủi ro
Báo cáo đánh giá về quản trị
rủi ro
13
thể xảy ra, đo lường, phân tích rủi ro và thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro.
Nói một cách ngắn gọn, quản trị rủi ro bao hàm cả quản lý rủi ro, nâng cao hiệu
quả hoạt động cho ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng đạt được lợi nhuận cao trong
kinh doanh.
Thực tế cho thấy những ngân hàng nào có khả năng chủ động chấp nhận
rủi ro, đo lường và phân tích chính xác mức độ rủi ro thì có thể chủ động trong
việc đưa ra các biện pháp quản lý và kiểm sóat rủi ro phù hợp, tăng cường khả
năng tiếp cận và dịch vụ với khách hàng, tăng khả năng và hiệu quả sử dụng vốn
cho nên có thể tồn tại và luôn phát triển bền vững. Những NHTM như vậy luôn
được đánh giá là có năng lực quản trị rủi ro tốt.
1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại.
Về năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM và
những khái niệm khác nhau về vấn đề này còn vẫn chưa thống nhất. Phần lớn các
nhà quản trị cho rằng năng lực quản trị rủi ro được thể hiện thông qua hiệu quả
của việc kiểm soát rủi ro hay là hiệu quả của các biện pháp quản lý cụ thể trong
chiến lược của các nhà quản trị rủi ro. Quan niệm như vậy chưa thật sự rõ ràng và
thích hợp, đặc biệt trong liên hệ với nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực quản trị
rủi ro.
Dựa trên những yếu tố phân tích trên đây về quản trị rủi ro chúng ta sẽ cố
gắng xây dựng một quan niệm có thể dễ dàng được chấp nhận hơn về năng lực
quản trị rủi ro của NHTM theo quy trình và nội dung của quản trị rủi ro đã được
khái quát trên đây như sau:
Bước thứ nhất của quy trình quản trị rủi ro là “nhận biết và xác định”
được các loại rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải trong mỗi hoạt động kinh
doanh. Mặc dù là bước khởi đầu và không quá phức tạp song bước thứ nhất này
lại là điều kiện có nghĩa đối với mục tiêu và nội dung quản trị rủi ro. Ngân hàng
có khả năng nhận biết và xác định chính xác thì việc phân tích, đo lường, v.v…. ở
các bước tiếp theo mới thực sự có ý nghĩa và hiệu quả. Nhận biết và xác định rủi
ro đòi hỏi cán bộ không những phải có trình độ chuyên môn, tinh thầy trách
nhiệm mà còn cần có kinh nghiệm và sự thận trọng cần thiết để tập hợp được tất
cả các loại rủi ro có thể xảy ra và phân biệt chúng theo các tiêu thức khác nhau.
14
Như vậy năng lực quản trị rủi ro trước hết phải bao hàm Năng lực nhận biết và
xác định rủi ro.
Bước thứ hai Trong quy trình quản trị rủi ro là “phân tích và đo lường rủi
ro”. Phân tích và đo lường rủi ro là điều mà tất cả các nhà quản trị ngân hàng đều
rất quan tâm, vì đo lường chính xác chính là cơ sở cho các quyết định lựa chọn
danh mục tài sản cùng các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và chấp nhận rủi ro
một cách chủ động và hiệu quả. Đo lường và phân tích rủi ro trong hoạt động của
ngân hàng cần phải đạt được 2 yếu tố cơ bản và quan trọng nhất bao gồm: (1) khả
năng hay xác suất gặp phải rủi ro; và (2) mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra. Bất kỳ
sai lệch (cao hơn hay thấp hơn) trong việc xác định khả năng và mức độ tổn thất
cũng đều làm mất đi tính chủ động và khả năng chấp nhận của ngân hàng gây
lãng phí và nghiêm trọng hơn khi tổn thất xảy ra trên thực tế lớn hơn mức đo
lường dự kiến. Do vậy, năng lực quản trị rủi ro của NHTM nhất thiết phải bao
gồm năng lực phân tích và đo lường rủi ro.
Bước thứ ba là “ quản lý và kiểm sóat rủi ro” sao cho tổn thất xảy ra nằm
trong khả năng chấp nhận để đảm bảo rằng việc thực hiện các hoạt động kinh
doanh sẽ luôn mang lại hiệu quả và thu nhập cho ngân hàng. Có hai vấn đề chính
phải cân nhắc để ra quyết định ở bước này là khả năng quản lý và kiểm soát rủi ro
trong quan hệ với khả năng chịu đựng tổn thất khi rủi ro xảy ra (mức dự phòng
hoặc thu nhập vượt trội kỳ vọng). Nếu không có khả năng quản lý và kiểm soát
tốt, tổn thất xảy ra có thể vượt quá khả năng chấp nhận thì ngân hàng vẫn có thể
gặp nguy hiểm. Cho nên, năng lực quản trị rủi ro là khả năng quản lý và kiểm
sóat của NHTM trên cơ sở đảm bảo thu nhập của ngân hàng.
Bước cuối cùng trong quy trình là “báo cáo và đánh giá về quản trị rủi ro
trên thực tế” thực sự là bước mang tính chất tổng kết và rút ra những bài học kinh
nghiệm sau mỗi giai đoạn hoạt động kinh doanh của NHTM. Trên cơ sở xác định
tổn thất xảy ra thực tế, đối chiếu với khả năng chấp nhận của một ngân hàng có
thể đưa ra nhận xét và kết luận về hoạt động quản trị rủi ro ngân hàng đó. Do vậy,
năng lực quản trị rủi ro còn bao gồm cả khả năng chấp nhận rủi ro của NHTM.
Báo cáo đánh giá một cách trung thực quy trình quản trị rủi ro góp phần hoàn
thiện và điều chỉnh các bước phân tích đo lường và các biện pháp quản lý, kiểm
sóat rủi ro ở giai đoạn tiếp theo.
15
Tổng hợp lại, năng lực quản trị rủi ro của NHTM có thể được quan niệm là
khả năng của ngân hàng trong việc xác định và nhận biết, phân tích và đo
lường để chủ động chấp nhận và kiểm soát rủi ro nhằm đảm bảo lợi nhuận
trong hoạt động kinh doanh. Diễn đạt theo cách khác, nếu thừa nhận rằng rủi ro
gắn liền với hoạt động kinh doanh của NHTM thì năng lực quản trị rủi ro đồng
nghĩa với khả năng ngân hàng chủ động chấp nhận và xử lý hậu quả rủi ro một
cách có hiệu quả. Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của một
NHTM phải được đánh giá đồng thời qua tất cả các bước có liên quan chặt chẽ
trong toàn bộ quy trình quản trị rủi ro và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu
định tính và định lượng ở nội dung tiếp sau đây.
1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM.
1.3.3.1 Các chỉ tiêu định lượng
Thứ nhất, nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận
Tỷ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần
(Chỉ tiêu này nói lên 1$ doanh thu tại ra bao nhiêu $ lợi nhuận)
Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) = Lợi nhuận ròng *100/ tổng tài sản
(ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng)
Tỷ suất sinh lợi trên vốn thuần (ROE)= Lợi nhuận ròng*100 / vốn cổ phần
(ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này đo lường khả
năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường.)
Các NHTM hiện đại và được đánh giá cao về khả năng quản trị rủi ro (10
ngân hàng đứng đầu trong các NHTM Mỹ năm 2002) luôn có tỷ suất lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu từ 15-18% (New Basel II, 2004).
Thứ hai, Nhóm chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán ngay = Tài sản có thể thanh toán ngay / tài sản nợ đến
hạn thanh toán ngay. Đối với 01 số ngân hàng thời gian tính khả năng thanh toán
ngay là 01 ngày (ACB, STB .v.v.)
Khả năng thanh toán chung = Tổng tài sản có có thể thanh toán/ Tổng nợ
phải thanh toán.
Vốn hữu dụng = Vốn huy động - DTBB - DT Sơ cấp (TMặt, TG NHNN)
Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi
(Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ)
16
Thứ ba, nhóm chỉ tiêu về mức dự phòng rủi ro và tổn thất rủi ro thực tế.
Công thức tính số tiền dự phòng như sau:
R = max {0, (A-C)} x r
trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị khoản nợ
C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định 493 quy
định đối với từng loại tài sản bảo đảm)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ
trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài
sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ, thì
số tiền dự phòng cũng bằng không có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực tế không
phải lập dự phòng cho khoản nợ đó (Theo Quyết định 493 và quyết định số
18/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung các quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động tín
dụng).
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ quá hạn >90 ngày + nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ/ Tổng
dư nợ. (tỷ lệ này càng thấp phản ảnh chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt )
Rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo xác suất nhất định
có nghĩa là một biến cố không chắc chắn, để đảm bảo khả năng chấp nhận rủi ro
các ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro căn cứ vào sự xác định và đo
lường mức độ rủi ro và thường được so sánh với dư nợ cho vay hay tổng sử dụng
vốn. Quy mô và tỷ trọng của quỹ dự phòng càng lớn khả năng chịu chấp nhận rủi
ro của ngân hàng được đánh giá là cao, song nếu dự phòng quá lớn sẽ ảnh hưởng
tới hiệu quả sử dụng vốn và phản ánh chiến lượng kinh doanh “chạy theo rủi ro
của ngân hàng”. Các NHTM trên thế giới xác định quỹ dự phòng trên cơ sở xác
suất xảy ra rủi ro của mỗi khoản mục tài sản cụ thể trong tổng tài sản có nguy cơ
rủi ro.
- Cơ cấu thời hạn và cơ cấu danh mục tài sản: Với một NHTM, cơ cấu
sử dụng vốn phần lớn sẽ là ngắn hạn, tỷ lệ sử dụng vốn trung và dài hạn không
nên vượt quá mức 30 -35% và việc duy trì tỷ lệ này cần căn cứ vào cơ cấu nguồn
vốn theo thời hạn.
17
Về cơ cấu danh mục tài sản của ngân hàng cũng cần phải đảm bảo mức độ
đa dạng hóa nhất định. Tỷ trọng cho vay của các ngân hàng không quá 30% trên
tổng tài sản sinh lời vì cho vay là hoạt động rất rủi ro và sự tập trung quá mức sẽ
rất nguy hiểm cho hoạt động của ngân hàng. Sử dụng vốn của NHTM cần phải
phân bổ cả cho các hoạt động đầu tư (20 -25%), các hoạt động kinh doanh tiền tệ
(20 -25%) và cung cấp dịch vụ tiện ích và chăm sóc khách hàng. Những hoạt
động này không chỉ phản ánh sự đa dạng hóa, giảm thiểu rủi ro mà còn giúp ngân
hàng thâm nhập, tiếp cận sâu rộng với khách hàng và nền kinh tế.
- Cơ cấu thời hạn và cơ cấu khoản mục nguồn vốn: Cơ cấu thời hạn
nguồn vốn là nhân tố cơ bản quyết định cơ cấu thời hạn sử dụng vốn, đồng thời
cho biết về tính ổn định của nguồn vốn. Kết hợp nghiên cứu cơ cấu thời hạn, lập
bảng kê theo dõi thời hạn của các khoản mục nguồn vốn với khả năng tham gia
vào các hoạt động trên thị trường tiền tệ cho phép đánh giá năng lực quản trị rủi
ro thanh khoản một ngân hàng.
Tương tự như cơ cấu tài sản, sự đa dạng các khoản mục nguồn vốn phản
ánh khả năng và hiệu quả huy động vốn, đặc biệt là các hình thức huy động vốn
qua thị trường; vừa chủ động kịp thời mà chi phí vốn lại thấp.
- Cơ cấu của hoạt động ngân hàng bán buôn: Hoạt động ngân hàng bán
buôn giao dịch giữa các NHTM, các tổ chức tài chính khác kể cả ngân hàng
Trung ương với nhau. Hoạt động ngân hàng bán buôn phản ánh khả năng hoán
đổi tài sản cho nhau giữa các NHTM không chỉ đảm bảo thu nhập mà còn đảm
bảo khả năng kiểm soát về phạm vi và mức độ rủi ro của mọi ngân hàng qua đó
góp phần đảm bảo sự an toàn hiệu quả của cả hệ thống.
Các ngân hàng không bao giờ huy động sẵn một lượng tiền đủ lớn để chờ
đợi khách hàng đến vay, ngược lại sau khi cho vay cũng sẽ không cho thụ động
trông chờ khả năng thu nợ duy nhất từ khách hàng, kể cả việc phong tỏa tài sản
bảo đảm hay khởi kiện khách hàng. Trái lại, tham gia các hoạt động buôn bán và
kết hợp giữa các hoạt động buôn bán và bán lẻ, các ngân hàng sẽ luôn giao dịch
mua bán hay hoán đổi tài sản, nguồn vốn với nhau thông qua thị trường liên ngân
hàng để vừa có chi phí thấp, tổn thất rủi ro thấp tức là khả năng quản trị rủi ro
cao.
18
1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính
Thứ nhất: Bộ phận chức năng quản trị rủi ro độc lập
Bộ phận quản trị rủi ro độc lập là điều kiện cần để thực hiện các nội dung
và quy trình quản trị rủi ro như đã trình bày trên đây một cách khách quan và hiệu
quả. Hơn nữa, ngoài khả năng hoạt động độc lập, bộ phận này còn phải bao gồm
những cán bộ được đào tạo cơ bản vừa có chuyên môn và kinh nghiệm về rủi ro
vừa có khả năng ứng dụng các công cụ toán học, tin học và công nghệ kinh doanh
ngân hàng hiện tại vào việc nhận biết và xác định một cách chính xác, đầy đủ kịp
thời các lọai rủi ro có thể phát sinh, xây dựng các mô hình phân tích và đánh giá
chính xác mức độ rủi ro. Trên cơ sở đó mới có thể khuyến cáo ban lãnh đạo ngân
hàng và các bộ phận chức năng khác lựa chọn và thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh cũng như các biện pháp kiểm soát phù hợp. Nhiều NHTM, hoạt động quản
trị rủi ro đã được thiết lập song lại do chính những cán bộ tín dụng thực hiện hoặc
đặt ở vị trí trực thuộc phòng tín dụng, cho nên, tình trạng “vừa thổi còi, vừa đá
bóng” là khó tránh khỏi. Để đạt doanh số cho vay cao trong hoạt động, đặc biệt
trong trường hợp khoán lương, một số loại rủi ro tiềm ẩn có thể bị xem nhẹ hoặc
dễ dàng bỏ qua một cách rất chủ quan để đạt mức khoán và lương cao. Hơn nữa,
rủi ro xảy ra trong tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho nên quản trị
rủi ro là hoạt động cần thiết đối với tất cả các hoạt động đó, không chỉ là đối với
riêng hoạt động tín dụng. Điều này cho thấy không thể đánh giá một ngân hàng có
năng lực quản trị cao khi vắng thiếu bộ phận chức năng quản trị rủi ro độc lập.
Biện pháp đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo chỉ tiêu này thông thường là xây
dựng thang chấm điểm cho các yếu tố cấu thành của bộ phận chức năng quản trị
rủi ro và mức độ khách quan, độc lập.
Thứ hai, chiến lược kinh doanh và chọn lựa rủi ro của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh được cụ thể hóa bằng các chính sách, kế hoạch,
mục tiêu, định hướng và các văn bản khác có liên quan của ngân hàng . Thông
qua văn bản này, chúng ta có thể đánh giá về tính tính cực chủ động trong việc
thực hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng và “thái độ” của ngân hàng đối với
rủi ro. Một NHTM với khả năng quản trị rủi ro yếu kém sẽ luôn tập trung vào
những hoạt động kinh doanh thông qua các nghiệp vụ và khách hàng “truyền
thống an toàn”. Việc lựa chọn hoạt động kinh doanh và khách hàng sẽ theo những
19
nguyên tắc nhất định thường là an toàn hàng đầu, do vậy quy mô sẽ hạn chế, mức
dự phòng và dự trữ rất cao để mong được an toàn nhưng lại lãng phí và kém hiệu
quả do vậy kết cục thực tế lại là không an toàn. Trái lại, ngân hàng có năng lực
quản trị rủi ro cao sẽ luôn hướng tới những hoạt động kinh doanh đa dạng, sáng
tạo, sẵn sàng đáp ứng mọi đối tượng và cung cấp “trọn gói” các dịch vụ theo yêu
cầu của khách hàng, cho nên rủi ro lại là thấp.
Để đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo tiêu thức này, chúng ta cần xem
xét đến nội dung và tính đa dạng của chiến lược kinh doanh và quan điểm của
ngân hàng đối với rủi ro như: “Sợ hãi né tránh”, “chủ động chấp nhận”, hay quan
điểm khác.v.v. Ngoài ra, một chiến lược kinh doanh và quản trị rủi ro tốt không
chỉ dừng lại ở nội dung mà còn khả năng thực hiện, điều có nghĩa là tất cả cán bộ
công nhân viên của ngân hàng cần phải thấm nhuần về quan điểm và cùng chung
ý chí đối với quản trị rủi ro. Cách tốt nhất để đánh giá năng lực quản trị rủi ro
theo chi tiêu này cũng là thiết lập bảng hỏi và chấm điểm.
Thứ ba, khả năng thực hiện các biện pháp kiểm sóat rủi ro
Kiểm soát rủi ro để hạn chế tổn thất ở một mức độ nhất định nhỏ hơn thu
nhập kỳ vọng hay khả năng chịu đựng của ngân hàng. Điều có thể thấy rõ ràng là
việc nhận biết và xác định, phân tích và đánh giá chính xác về phạm vi và mức độ
rủi ro của bộ phận quản trị rủi ro nói trên chỉ thực sự có ý nghĩa khi NHTM có đủ
khả năng tiến hành những biện pháp để quản lý và kiểm soát rủi ro. Mỗi loại rủi
ro cần có những biện pháp và nghiệp vụ kiểm sóat riêng, do vậy để đánh giá năng
lực quản trị rủi ro theo chỉ tiêu này cần phải thông qua các biện pháp nghiệp vụ
mà ngân hàng đã áp dụng để kiểm soát rủi ro trên từng mặt hoạt động kinh doanh
tức là phải bao gồm: các biện pháp kiểm sóat rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản,
rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Cụ thể, khả năng thực hiện các biện pháp
kiểm soát rủi ro được thể hiện thông qua các chỉ tiêu bao gồm:
- Khả năng thực hiện các nghiệp vụ phái sinh để triệt tiêu rủi ro thị trường,
hóan đổi các hợp đồng tín dụng.
- Khả năng kiểm soát và thực hiện chuyển đổi kỳ hạn của các khoản mục
nguồn vốn và tài sản, trên cơ sở đó xác định chính xác cầu thanh khoản của khách
hàng và khả năng thanh tóan của ngân hàng.
20
- Khả năng quản trị, điều hành và vận hành tác nghiệp của ngân hàng, tính
hợp lý trong bố trí lao động, chế độ đãi ngộ, môi trường làm việc cũng như quy
trình luân chuyển chứng từ, thủ tục hành chính để hạn chế rủi ro tác nghiệp.
Tương tự như hai nhóm chỉ tiêu trên, để đánh giá năng lực quản trị rủi ro
của NHTM qua nhóm chỉ tiêu này, chúng ta cần phải thiết lập một Bảng câu hỏi
về các nội dung bao gồm các loại rủi ro và các biện pháp kiểm sóat rồi áp dụng
thang điểm cho mỗi biện pháp cụ thể. Ngân hàng nhận được nhiều điểm thì càng
được đánh giá là có năng lực quản trị rủi ro cao.
1.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng
1.4.1 Xuất phát từ đặc điểm và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.
Hoạt động ngân hàng lại là tất yếu khách quan và hết sức cần thiết đối với
các chủ thể và với sự phát triển và ổn định chung của nền kinh tế. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, các hoạt động ngân hàng ngày càng mở rộng
và phát triển làm cho các NHTM trở thành “ người bạn đồng hành” với cuộc sống
của người dân và các doanh nghiệp. Song, một khi tiến hành hoạt động kinh
doanh, NHTM luôn phải đương đầu với rủi ro, do vậy chấp nhận mở rộng và phát
triển hoạt động ngân hàng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận sự xuất hiện thêm
các loại rủi ro có thể xảy ra. Như đã chứng minh ở trên, cách chấp nhận tích cực
và hiệu quả nhất chính là thực hiện các biện pháp quản trị rủi ro.
Hiệu quả kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro xảy ra. Cùng
một doanh số hoạt động và mức doanh thu, nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh
doanh cao và ngược lại. Hoạt động trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các
NHTM không chỉ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của bản thân
ngân hàng mà còn phải chấp nhận những yêu cầu chung như là “luật chơi” để
đảm bảo sự an toàn cho toàn bộ hệ thống. Nền kinh tế càng phát triển với mức độ
thị trường hóa càng cao, “sân chơi” càng bình đẳng thì bản lĩnh của mỗi ngân
hàng càng cần thiết phải được khẳng định. Trong xu thế đó, nếu không chú trọng
củng cố và nâng cao năng lực quản trị rủi ro, các NHTM không thể tồn tại và phát
triển một cách bền vững.
21
1.4.2 Năng lực quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.
Giữa năng lực quản trị rủi ro và hiệu quả hoạt động kinh doanh có mối
quan hệ tác động thúc đẩy lẫn nhau. Hoạt động kinh doanh được mở rộng và phát
triển là điều kiện cần thiết cho việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận của ngân
hàng. Do vậy, quản trị rủi ro tốt là điều kiện bảo đảm cho hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng và nhờ vào hiệu quả kinh doanh cao, ngân hàng có điều kiện chú
trọng và củng cố năng lực quản trị rủi ro. Ngày nay, người ta coi quản trị rủi ro là
một nội dung của quản trị kinh doanh NHTM và là một yêu cầu đối với các cấp
lãnh đạo, những người chịu trách nhiệm quản trị và điều hành ngân hàng. Vì vậy,
nâng cao năng lực quản trị rủi ro có ý nghĩa quan trọng đối các cấp lãnh đạo,
những người chịu trách nhiệm quản trị và điều hành ngân hàng. Vì vậy, nâng cao
năng lực quản trị rủi ro có ý nghĩa quan trọng đối với nâng cao chất lượng quản trị
kinh doanh của các NHTM.
1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế và tòan cầu hóa đòi hỏi phải nâng cao
năng lực quản trị rủi ro.
Dù muốn hay không các nước vẫn phải chấp nhận xu thế hội nhập quốc tế
và toàn cầu hóa, chủ động hay bị “cuốn theo”, xét về kết quả cuối cùng thì không
khác nhiều. Trong bối cảnh đó, hội nhập về ngân hàng tài chính luôn được đặt ra
như là một vấn đề trọng tâm, hết sức quan trọng và nhạy cảm. Khi tham gia hội
nhập, dù được diễn giải thế nào cuối cùng cũng là 2 vấn đề mà các ngân hàng
phải đương đầu với: (1) áp lực cạnh tranh ngày càng cao hơn cả về phạm vi và
mức độ, hoạt động kinh doanh trong môi trường tự do bình đẳng song với “luật
chơi” hà khắc hơn; (2) nguy cơ rủi ro cao hơn với những diễn biến phức tạp hơn.
Thứ nhất, hoạt động đầu tư, kinh doanh của các tổ chức tài chính không
còn bị giới hạn trong phạm vi quốc gia mà là đa ngành và toàn cầu. Do vậy, rủi ro
xảy ra nhiều hơn và tác động cũng trên phạm vi toàn cầu. Đây là một trong những
tác động không mong muốn của quá trình hội nhập kinh tế theo khu vực và xu thế
tòan cầu hóa.
Thứ hai, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng diễn ra quyết liệt hơn một
mặt do yêu cầu mở rộng quy mô hoạt động và sự bùng nổ thông tin, phát triển và
áp dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh với nhau.
22
Thứ ba, các quy chế tài chính và các ràng buộc pháp lý được nới lỏng cho
nên các tổ chức tài chính có nhiều quyền chủ động hơn trong kinh doanh, do đó
hoạt động đầu tư tài chính và các dự án rủi ro cũng tăng theo.
Thứ tư, sự hình thành và phát triển của các công cụ tài chính và các công
cụ phát sinh (hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp
đồng hóan đổi) với tiến bộ khoa học công nghệ, thông tin và kỹ thuật đã làm tăng
khối lượng giao dịch tài chính trên toàn thế giới. Điều này là cho các tổ chức tài
chính phải đối phó với nhiều nguồn phát sinh rủi ro trên toàn cầu.
Thứ năm, sự biến động của các biến kinh tế vĩ mô như thu nhập, thất
nghiệp, lạm phát, tỷ giá hối đoái, .v.v .. và cuối cùng là những biến cố chính trị xã
hội trên phạm vi quốc tế tác động đến hoạt động ngân hàng tài chính và vì vậy
cũng là những nguyên nhân gây ra rủi ro.
Trong bối cảnh đó, việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các NHTM
không phải chỉ là vấn đề sống còn đối với cá nhân mỗi ngân hàng mà còn là yêu
cầu chung để đảm bảo an toàn cho cả hệ thống tài chính mỗi quốc gia, mỗi khu
vực và trên toàn cầu.
1.5 Khủng hoảng kinh tế tài chính tòan cầu và những cảnh báo cho hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam
Vụ phá sản của Ngân hàng lehman Brothers, vụ mua lại Merrill Lynch và
nguy cơ sụp đổ của tập đoàn tài chínhBảo hiểm AIG đã làm rung rinh hệ thống
tài chính Mỹ và tác động của nó làm lung lay thị trường tài chính thế giới. Tất cả
đều được quy kết là do hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn của thị trường Bất
động sản Mỹ. Vậy bài học gì có thẻ rút ra cho họat động của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam?
1.5.1 Nợ dưới chuẩn – Hậu quả của sản phẩm tài chính hiện đại nhưng
nhiều rủi ro
Từ nhiều năm qua, các Ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách
tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Bắt nguồn từ
việc lo ngại sự sụp đổ của các công ty dotcom sẽ ảnh hưởng mạnh đến nền kinh
tế Mỹ hồi những năm 90, chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) lúc bấy giờ,
ông Alan Greenspan, đã tiến hành chiến dịch cắt giảm lãi suất xuống những mức
thấp kỷ lục để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Điều đó đã làm nảy sinh ra những
23
dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay
rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Giả dụ rằng bạn đi
vay tiền và sau đó lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, bạn sẽ dễ dàng trong
việc định giá lại tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm chi trả cho các
khoản vay mà bạn phải trả. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như:
không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế * (tax
number – những công dân Mỹ, khi đăng ký thuế thu nhập cá nhân với Cục Thuế
Liên Bang sẽ được cấp mỗi người một mã số thuế trong suốt đời) mặc dù đang
trong tình trạng thất nghiệp, hoạt động cho vay này thực sự không đáp ứng đầy
đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng
rủi ro cho các Ngân hàng. Người vay tiền mua nhà sẽ cho vay để dùng tiền cho
thuê trả lãi vay cho Ngân hàng, và khi bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng
lợi. Về phía Ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các Ngân
hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi suất rất cao. Mặt khác, các công ty tài
chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro
qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một một sản phẩm tài chính gọi là “Mua
lại các khỏan nợ hay khoản phải thu”.
Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một mức
chiết khấu cao, Ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính chuyên biệt (goi là các
SPE) sẽ chứng khoán hóa các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng
khoán để vay tiền với mức lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và
đượng nhiên là các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ
suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không được xếp hạng tín nhiệm
nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng.
Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động
sản Mỹ và khi thị trường này đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây
chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi
vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải
thu này sụt giá thê thảm, các Ngân hàng không đủ khả năng chi trả các khoản nợ
lâm vào tình trạng phá sản.
24
Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân
cho cuộc khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn mà nước Mỹ đang phải
đương đầu.
1.5.2 Hạn chế dư chấn của “Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn Mỹ” đến
thị trường tài chính quốc tế
Số phận của Lehman Brothers sau cuộc đàm phán thất bại với Ngân hàng
Phát triển Hàn quốc là tâm điểm của giới tài chính phố Wall. Giá cổ phiếu sụt
giảm hơn 40% trong 1 ngày, và khoản lỗ gần 7 tỷ USD từ hoạt động đầu tư bất
động sản đã khiến tài sản của ngân hàng này giảm từ 700 tỷ USD xuống còn xấp
xỉ 50 tỷ, không thể thanh toán các khoản nợ và phải tuyên bố phá sản. Sự kiện
này cùng với việc bị mua lại của Merrill Lynch, và sự khủng hoảng của AIG đã
khiến chỉ số Dow Jones rớt tới 3% trong ngày giao dịch sau đó, thị trường chứng
khoán Châu Á và Châu Âu rớt từ 3 -5%. Và sự việc sẽ không dừng lại ở đó nếu
ngày 17/9, FED không công bố bơm 85 tỷ USD để cứu Tập đoàn AIG. Nhiều
người cho rằng việc FED cứu AIG nhưng lai quay lưng với Lehman Brothers là
không thỏa đáng. Tuy nhiên FED vẫn có những lý do riêng của mình. FED cho
rằng sự sụp đổ của AIG có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng và dây chuyền đến
nền kinh tế Mỹ và các quốc gia khác do mối quan hệ phức tạp và ảnh hưởng của
nó đến rất nhiều cơ quan tài chính và bảo hiểm trên toàn thế giới. Ngay sau động
thái của FED, các chỉ số chứng khoán Mỹ đã tăng trở lại, có lúc đạt mức tăng hơn
1%. Thị trường chứng khoán Châu Á phần lớn cũng tăng trở lại với chỉ số Nikkei
của Tokyo tăng khoảng 1,2%, chỉ số MSCI Asia-Pacific Index tăng 0.9%. Kế
họach giải cứu nền tài chính Mỹ cũng đã được họach định vớii một ngân sách
khổng lồ hơn 700 tỷ USD nhằm cứu vãn nền tài chính phố Wall nhưng cũng
mang lại một khỏang trống khổng lồ trong ngân sách Mỹ. Và suốt trong tuần lễ
cuối tháng 9, gần như toàn bộ nền kinh tế Mỹ cũng như các chuyên gia kinh tế
toàn cầu đều tập trung mọi chú ý đến việc thỏa thuận gói tài trợ 700 tỷ USD cho
việc cứu trợ nền kinh tế Mỹ đang trong cơn khủng hoảng. Việc cứu trợ này được
xem là “ khẩn cấp”mặc dù vẫn còn nhiều nghi ngờ và tranh luận khác nhau về
mục đích của gói cứu trợ này. Một số nhà kinh tế phản đối và cho rằng việc can
thiệp của FED vào thị trường tài chính - tín dụng sẽ ảnh hưởng xấu tới nền kinh
tế Mỹ và thị trường tài chính trong dài hạn. Thậm chí, ứng viên Tổng Thống Mỹ ,
25
Thượng nghị sĩ John McCain lại ủng hộ một kế hoạch khác là cung cấp bảo hiểm
cho những khoản tín dụng chưa được bảo hiểm thay cho kế hoạch mua lại các
khoản nợ xấu. Tuy nhiên, có thể thấy rằng gói “ cứu trợ” này rất cần thiết phải
được thông qua vì những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Sự khủng hoảng và đổ vỡ của hệ thống các ngân hàng và công
ty tài chính sẽ không dừng lại nếu không nhận được sự ngăn chặn kịp thời.
Sau số phận của Lehman Brothers và Merrill Lynch là ngân hàng tiết kiệm
lớn nhất nước Mỹ là Washington Mutual Inc đã sụp đổ và bị Cơ quan Bảo hiểm
tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) tiếp quản. Ngân hàng này cũng sẽ phải bán các
khoản vốn huy động của mình lại cho JPMorgan Chase. Các ngân hàng UBS Citi,
Bear Steans, Morgan Stanley, Freddie Mac, Fannie Mae đều gánh chịu các khoản
lỗ nặng nề với tổng số lên tới hàng trăm tỷ USD. Và tiếp theo sau là các ngân
hàng lớn của Châu Âu như: Fortis của Bỉ, Bradford &BingleyPlc của Anh.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng từ thị trường tài chính - tiền tệ sẽ tiếp tục ảnh
hưởng đến thị trường hàng hóa. Việc đổ vỡ và khó khăn của hàng loạt các ngân
hàng hàng đầu của Mỹ sẽ tạo một sức ép năng nề lên thị trường vốn cung cấp cho
hệ thống doanh nghiệp Mỹ, các MNC mà hoạt động của chúng mang tính toàn
cầu. Cuộc khủng hoảng này sẽ không dừng chân ở Mỹ mà sẽ lan rông đến nền
kinh tế thế giới.
Thứ ba, sự đổ vỡ hàng loạt của các Ngân hàng và công ty tài chính Mỹ sẽ
gây nên sự khủng hoảng niềm tin mang tính toàn cầu, điều này làm cho làn sóng
bán tháo chứng khoán trở nên lan rộng. Hàng loạt đối tác cung cấp vốn cho các
Ngân hàng và công ty tài chính kể cả các cổ đông của các tổ chức này có thể chịu
các khoản tổn thất nặng nề. Đặc biệt, việc thanh lý tài sản của các tổ chức này sẽ vô
cùng khó khăn và làm giá chứng khoán càng thêm suy giảm. Các nhà đầu tư nắm
giữ trái phiếu và cho vay hoặc các hợp đồng phái sinh sẽ chịu các khoản lỗ lớn.
Vậy, có thể thấy rằng việc cung cấp khoản tài trợ 700 tỷ USD của FED là
hết sức cần thiết cho việc hạn chế những dư chấn từ cơn bão khủng hoảng cho
vay dưới chuẩn đến thị trường tài chính thế giới.
26
1.5.3 Bài học cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Từ cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn của Mỹ với những tác hại của nó
có thể rút ra những bài học rất hữu ích cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung và hoạt động cho vay bất động sản nói riêng:
Thứ nhất, cần kiểm soát rủi ro của hoạt động cho vay bất động sản thông
qua tỷ lệ cho vay bất động sản tối đa trên tổng dư nơ. Có thể thấy rằng trong thời
gian qua, hoạt động cho vay bất động sản của các Ngân hàng thương mại Việt
Nam tuy có chặt chẽ ( vay phải có tài sản thế chấp, có chứng minh thu nhập, và tỷ
lệ cho vay bất động sản không lớn) nhưng vẫn có một số ngân hàng nhỏ xé rào
cần phải cảnh báo. Khi thị trường chứng khoán chựng lại, dòng vốn đầu tư
chuyển hướng sang Bất động sản có thể làm gia tăng nguy cơ này. Theo tinh thần
Basel II, các Ngân hàng nên tự thiết lập cho mình một tỷ lệ cho vay bất động sản
tối đa trên tổng dư nơ nhằm tự bảo vệ mình và bảo vệ cả hệ thống.
Thứ hai, cần có một tổ chức xếp hạng chuyên nghiệp và uy tín trong xếp
hạng tín nhiệm các loại chứng khoán, bao gồm cả chứng khoán vốn và chứng
khoán nợ. Để hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư , cần thiết phải có một tổ chức
xếp hạng chuyên nghiệp và uy tín trong xếp hạng tín nhiệm các loại chứng khoán.
Đặc biệt là trong quá trình phát triển của thị trường tài chính, các sản phẩm phái
sinh tín dụng như chứng khoán hóa các khoản phải thu sẽ xuất hiện trong tương
lai vì bên cạnh yếu tố rủi ro, sản phẩm này vẫn có những lợi ích không thể phủ
nhận như cải thiện dòng tiền của các DN, đẩy nhanh vòng quay các khoản phải
thu, chuyên nghiệp hóa việc thu tiền,…. Việc xếp hạng tín nhiệm sẽ là một kênh
thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư về mức độ rủi ro của loại chứng khoán này.
Thứ ba, cần lưu ý nguyên tắc của phân tích tín dụng là hướng vào rủi ro
thấp thay vì tiềm năng cao. Đối với hoạt động tín dụng dài hạn như cho vay đầu
tư bất động sản, đòi hỏi các nhà cung cấp tín dụng phải có những phân tích chi
tiết hơn và có tầm chiến lược dài hạn hơn. Phân tích tín dụng trong trường hợp
này bao gồm các dự án vay, dòng tiền và đặc biệt quan trọng là xác định độ lớn
của thu nhập ổn định (sustainable earning power). Đây là nguồn chủ yếu bảo
đảm cho khả năng thanh toán nợ trong dài hạn của người đi vay.
27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, giữ cho mạch máu của nền
kinh tế được lưu thông, là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, chức năng hoạt
động đa dạng, các sản phẩm ngày càng đa dạng và phù hợp hơn đáp ứng nhu cầu
của khách hàng
Rủi ro trong họat động ngân hàng là rủi ro do những biến động trong quá
trình kinh doanh của ngân hàng nguyên nhân luôn có thể đến từ những yếu tố bất
khả kháng như thiên tai, bão lụt và cũng có thể là những nguyên nhân từ phía
khách hàng hay do chính bản thân ngân hàng mà hậu quả không chỉ dẫn đến giảm
thu nhập, sự thua lỗ mà còn có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng như có thể
làm phá sản các NHTM. thậm chí nó còn xảy ra phản ứng lan truyền gây ảnh
hưởng đến tòan bộ nền kinh tế
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn đi liền với rủi ro, việc
không chấp nhận rủi ro là không phù hợp . Chủ động chấp nhận và kiểm sóat rủi
ro ở mức độ nhất định trong mối quan hệ với thu nhập , phân tích rủi ro và thực
hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro dựa trên nguyên tắc đánh đổi rủi ro với thu
nhập là mối quan tâm của Ngân hàng.
28
CHƯƠNG II QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1 Thực trạng hoạt động Ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.1.1 Quy mô tăng vốn
Vốn của Ngân hàng thể hiện năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh. Ngân
hàng có vốn lớn thì khả năng cấp vốn lớn, có thể cải tiến công nghệ, phát triển
mạng lưới và cung cấp những sản phẩm dịch vụ tốt. Tuy nhiên vốn điều lệ của
các NHTM hiện nay còn quá nhỏ bé , vốn thấp, năng lực tài chính hạn chế, do đó
làm tình hình tài chính của một số NHTM không lành mạnh, rủi ro hoạt động cao
và năng lực cạnh tranh thấp. Để nâng cao khả năng tài chính cho các Ngân hàng,
NHNN đã ra Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp
định của các tổ chức tín dụng do Chính phủ ban hành, đối với ngân hàng TMCP,
mức vốn pháp định áp dụng cho đến cuối năm 2008 là 1.000 tỷ đồng và áp dụng
cho đến cuối năm 2010 là 3.000 tỷ đồng.
Theo quy định này thì rất nhiều ngân hàng TMCP đang phải gấp rút thực hiện
kế hoạch tăng vốn để đáp ứng đủ mức vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng như Ngân hàng Mỹ
Xuyên, vốn điều lệ hiện tại 500 tỷ đồng; Ngân hàng Gia Định vốn điều lệ 500 tỷ
đồng, Ngân hàng Đại Á 500 tỷ đồng, Ngân hàng Kiên Long 580 tỷ đồng …
Để bảo đảm an tòan họat động, theo định hướng quản lý rủi ro của Ngân
hàng Nhà nước một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất là quy mô về vốn mà
thước đo cơ bản chính là hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro,
Capital Adequacy Ratio – CAR) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài
chính của các ngân hàng. Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của ngân
hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro
khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, đến năm 2008, hệ số an toàn vốn
tối thiểu của các ngân hàng phải đạt 8%, theo tiêu chuẩn của Basel I do Ủy ban
giám sát các ngân hàng Basel ban hành. Tuy nhiên, trên thế giới, việc áp dụng hệ
số an toàn vốn tối thiểu hiện phổ biến theo tiêu chuẩn của Basal II với mức 12%.
29
Bảng 2.1: Hệ số an toàn vốn của một số ngân hàng.
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Với quy mô vốn thấp và tỷ lệ an toàn vốn dưới mức thông lệ quốc tế như
hiện nay của ngân hàng thương mại Việt Nam, chúng ta đã bị hạn chế về khả
năng tín dụng, tài trợ cho hoạt động kinh doanh cũng gặp rất nhiều cản trở, khó
mở rộng phạm vi hoạt động và đổi mới công nghệ ngân hàng, và càng khó hơn
trong việc cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài ngay trên lãnh thổ Việt Nam.
2.1.2 Tình hình huy động vốn
Nhiều năm qua (trước 2007), môi trường kinh tế cùng với nền chính trị ổn
định, nền kinh tế phát triển một cách căn bản vững chắc và có chuyển hướng theo
chiều sâu, nền tài chính quốc gia ổn định, lạm phát được kiểm soát, tỷ giá tương
đối ổn định, đời sống người dân có chiều hướng được nâng cao, tỷ lệ tiết kiệm
ngày càng có xu hướng gia tăng mạnh . Sự phát triển của hệ thống ngân hàng đã
thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tạo ra môi trường mới và những kênh huy
động quan trọng cho phát triển kinh tế, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tăng cường
các hình thức huy động vốn với nhiều loại kỳ hạn khác nhau, mở rộng mạng lưới
huy động vốn và sử dụng nhiều hình thức đa dạng như phát hành trái phiếu, kỳ
phiếu ngân hàng. Tình hình huy động vốn của một số ngân hàng được thể hiện
qua hình bảng sau:
Hệ số an toàn vốn của một số ngân hàng tính đến cuối năm 2007 (đơn vị: %)
Vietcombank BIDV Agribank MHB ACB Sacombank EAB
(Đông á)
12 6,7 7,2 9,44 6,19 11,07 14,36
30
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn của một số ngân hàng 2006-2007 (tỷ đồng)
Chỉ tiêu BIDV Vietcom
bank
Agribank Sacom
bank
ACB MHB
Năm
2006 116.862 152.579 233.337 34.591 29.390 16.409
Năm
2007 243.055 159.528 305.671 55.692 55.283 25.129
Huy
động
vốn Tăng
trưởng
(%)
117 104 131 161 188 153
(Nguồn:Báo cáo thường niên năm 2006, 2007 của các ngân hàng BIDV, ACB Vietcombank, VietinBank, MHB, Agribank)
- Các NHTM với phương châm “ đi vay để cho vay” đã ngày càng chú
trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, từ không kỳ hạn đến có
kỳ hạn với nhiều thời hạn khác nhau như chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm bằng VNĐ
và bằng ngoại tệ; tiết kiệm có bảo đảm giá trị theo vàng; Tiết kiệm kèm theo các
hình thức khuyến mãi như Du lịch, tặng tiền, dự thưởng; kỳ phiếu NHTM bằng
VNĐ và ngoại tệ ; trái phiếu NHTM, tiết kiệm xây dựng nhà ở . Hiện nay hầu hết
các ngân hàng đã thực hiện chuyển đổi công nghệ theo hướng hiện đại hoá gửi
tiền một nơi, lĩnh ở nhiều nơi, Ngân hàng Nhà nước đã phát triển kênh thanh toán
bù trừ, kênh chuyển tiền CITAD tại một số thành phố lớn đã giảm thời gian và
giảm phí chuyển tiền. Dù vậy 6 tháng đầu năm 2008 nền kinh tế có nhiều điều
kiện bất lợi, trên thị trường tài chính nguồn vốn trở nên khan hiếm nên cạnh tranh
trong hoạt động huy động vốn giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, 6
tháng đầu năm nay chúng ta đã chứng kiến những cuộc chạy đua lãi suất huy
động vốn giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam. Hiện nay mức lãi suất huy
động vốn cao nhất của các NHTM phổ biến ở mức 18,5%/năm đối với tiền gửi
bằng VND để bảo đảm khả năng thanh khoản.
31
2.1.3 Thực trạng rủi ro trong kinh doanh NHTM Việt Nam
2.1.3.1 Rủi ro tín dụng
Phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng
Bảng 2.3: Tình hình tín dụng của một số NHTM (Đơn vị : Tỷ VNĐ)
BIDV Vietcom
bank
Agribank Sacom
bank
ACB MHB
Năm
2006 93.453 67.742 182.361 24.238 17.368 10.013
Năm
2007 125.596 97.531 246.188 35.378 31.974 13.925
Cho
vay
khách
hang
Tăng
trưởng
(%)
134 144 135 146 184 139
Nợ xấu
(%)
Năm
2007
3,98
2,66 1,9
0,24
0,44
1,11
Lợi
nhuận
sau
thuế
Năm
2007 1.155 2.397 4.515 1.280 1.531 138
(Nguồn:Báo cáo thường niên 2006, 2007 của các ngân hàng BIDV, Vietcombank, VietinBank, ACB, MHB, Agribank)
Dư nợ tín dụng tăng với tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân
khoảng 40%. Tuy nhiên, trong năm 2007 tốc độ tăng trưởng tín dụng các Ngân
hàng thương mại quốc doanh như BIDV,VIETCOMBANK .v.v có xu hướng
giảm so với các Ngân hàng cổ phần, ngược lại tốc độ tăng trưởng của các Ngân
hàng thương mại cổ phần khá tốt, điều này báo hiệu một sự cạnh tranh khá quyết
liệt trong hoạt động tín dụng.
- Khủng hoảng tài chính tại Mỹ tất nhiên có những tác động tới nền kinh tế
Việt Nam nói chung và tới hệ thống NHVN nói riêng điều thấy rõ nhất của tác
động này là các Ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài
khó khăn hơn, các hạn mức tín dụng mà các tổ chức tài chính nước ngoài dành
cho các Ngân hàng Việt Nam cũng đắt đỏ hơn. Bên cạnh đó, việc tìm đối tác
32
chiến lược nước ngoài của các Ngân hàng Việt Nam (cả cổ phần lẫn quốc doanh)
cũng sẽ khó khăn hơn trước nhiều. Ngoài ra, các hoạt động hợp tác đầu tư tài
chính của các tổ chức nước ngoài với các ngân hàng Việt Nam cũng sẽ giảm so
với trước. Khi tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài khó khăn hơn, đắt đỏ hơn
thì đương nhiên là hoạt động cho vay sẽ bị ảnh hưởng
Các Ngân hàng thương mại cần nâng cao chất lượng các công cụ phục vụ
cho việc đánh giá cho vay đối khách hàng như cập nhật nhanh thông tin khách
hàng chính xác và hiệu quả, ứng dụng các phần mềm hiện đại cho việc phân tích
cho vay, … để từ đó giảm được rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Về nợ xấu: Đến cuối 2007 tỷ lệ nợ xấu tại Ngân hàng đầu tư là 3,98%;
Sacombank là 0.24% và ACB là 0,18%. Điều này chứng tỏ vấn đề nợ xấu hiện
nay vẫn khiến ngành ngân hàng thấy cần tích cực và quan tâm hơn nữa trong công
tác thẩm định tín dụng, thu hồi nợ xấu. Nợ xấu được coi là căn bệnh phát sinh
nằm ngoài ý muốn của ngân hàng lẫn người đi vay, luôn xuất hiện ở bất cứ nơi
đâu có hoạt động vay – mượn diễn ra. Để nợ xấu của một ngân hàng bằng không
thì trên thực tế, điều đó khó có thể xảy ra. Nghĩa là chúng ta phải chấp nhận
chung sống và cố gắng kiểm soát, duy trì nợ xấu ở một mức độ hợp lý. Vì vậy, để
ngăn chặn nợ xấu và duy trì ở một mức độ cho phép thì chúng ta phải có cái nhìn
đúng đắn về nợ xấu, đặc biệt là không nên che dấu nó dưới bất cứ hình thức nào;
có như vậy chúng ta mới tìm ra được những phương thức hữu hiệu để điều trị nó,
đặc biệt là phòng tránh nó trước khi nó xảy ra. Nguyên nhân cơ bản tạo ra các
khoản nợ xấu đó cũng chính là do các khoản vay đã bị biến dạng dưới nhiều hình
thức khác nhau (gia hạn nợ nhiều lần, đảo nợ… ) nên mức độ “cảnh báo” và
“phòng ngừa trước” đối với những khoản tín dụng kém chất lượng cũng bị biến
dạng theo, tức là chúng ta luôn tự đặt nó vào diện trong hạn và coi đó là khoản tín
dụng lành mạnh. Bên cạnh đó, việc trích lập dự phòng đối với các khoản cho vay
giữa Việt Nam và quốc tế hiện đang còn tồn tại những điểm khác biệt. Cụ thể việc
trích lập dự phòng đối với các khoản cho vay theo thông lệ quốc tế chủ yếu là dựa
vào mức độ rủi ro của từng khoản cho vay để đưa ra một tỷ lệ trích lập dự phòng
tương xứng. Trong khi đó, Việt Nam lại dựa trên cơ sở về thời hạn qúa hạn của
từng khoản vay để trích lập dự phòng (nghĩa là xảy ra rồi mới trích). Chính vì
những khác biệt đó mà trong thời gian qua đã xảy ra hiện tượng “ lãi giả , lỗ thật”
33
trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, đặc biệt là các NHTM quốc doanh
sau khi các Báo cáo tài chính của các ngân hàng này đã được kiểm toán quốc tế.
Hiện tượng “ lãi giả, lỗ thật” xảy ra bởi vì một số lý do cơ bản sau:
“Lãi” do phương pháp hạch toán kế toán theo thông lệ quốc tế (IAS ) khác
so với thông lệ hạch toán kế toán của Việt Nam (VAS) về trích lập dự phòng đối
với các khoản cho vay có vấn đề. Nếu hạch toán theo IAS thì các NHTM “Lỗ” do
nợ quá hạn cao (vì áp dụng phương pháp quốc tế chuyển NQH theo thông lệ quốc
tế), dẫn đến trích lập dự phòng trước cao, dẫn đến “Lỗ”. Ngược lại, khi phân tích
NQH và trích lập dự phòng theo phương pháp VAS thì hoạt động kinh doanh của
các NHTM đó lại “lãi” do tỷ lệ NQH thấp (chuyển NQH theo kiểu Việt Nam) dẫn
đến trích lập dự phòng trước thuế thấp và cuối cùng xảy ra hiện tượng “lãi” theo
phương pháp VAS.
Thực tế hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời
gian qua chưa tốt, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa chấp hành nghiêm túc quy
chế tín dụng và điều kiện cho vay.
- Chính sách và quy trình cho vay của các NHTM còn lỏng lẻo, chưa chú
trọng đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc
phương pháp xem xét, phân tích còn hạn chế và chưa chính xác.
Cụ thể là những rủi ro phát sinh từ bên trong ngân hàng do cán bộ tín dụng
làm trái quy trình tín dụng để mưu lợi các nhân; hoặc định giá tài sản thế chấp
không đúng với giá trị thực tế do trình động nghiệp vụ kém hay do có sự thông
đồng với khách hàng hoặc do tài sản thế chấp bị mất giá (Ví dụ: Khi ngân hàng
thẩm định cho vay thì tài sản thế chấp đang giá cao điển hình là bất động sản cuối
năm 2007, thời điểm hiện tại 08/2008 giá giảm mạnh, khách hàng không trả được
nợ, lúc này ngân hàng xiết nợ nhưng không bán được do giá quá thấp hoặc không
có người mua, hoặc là tiền thu về thấp hơn so với số tiền cho vay); cán bộ tín
dụng trực tiếp thu nợ gốc và lãi nhưng không nộp lại cho ngân hàng mà dùng cho
mục đích cá nhân; hoặc lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, vay hộ, nhờ người vay
hộ, vay tiền ngân hàng chuyển cho công ty trách nhiệm hữu hạn gia đình.
Một dẫn chứng về rủi ro tín dụng tại ngân hàng Wasington Mutual, ngân
hàng tiết kiệm và cho vay lớn nhất nước Mỹ đã bị ảnh hưởng nặng nề trong cuộc
34
khủng hỏang nhà đất và tín dụng tại Mỹ thời gian qua. Ngân hàng Wasington
Mutual có 307 tỷ USD tài sản vốn và 188 tỷ USD tiền gửi, giá cổ phiếu của ngân
hàng này liên tục sụt giảm trong thời gian qua, ngân hàng này có khả năng phải
bán lại cho ngân hàng JPMorgan.
Hiện nay hầu như nhiều ngân hàng thương mại khi phân tích cho vay đối
với một khách hàng chưa chú trọng đến việc đánh giá dòng tiền quay vốn của
doanh nghiệp mà chỉ chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, lợi nhuận hàng tháng, quý,
năm của doanh nghiệp nên đôi khi chưa thể phân tích chính xác khả năng trả nợ
đối với khách hàng trong từng thời kỳ hợp lý, nhất là đối với các khoản vay theo
hạn mức tín dụng xoay vòng dưới một năm. Chẳng hạn như khi một công ty vay
ngân hàng với hợp đồng trả lãi và 01 phần gốc là 03 tháng/lần nhưng vòng quay
vốn của công ty là 06 tháng do vậy đến tháng thứ ba là đúng thời gian phải trả lãi
+ gốc trong khi công ty chưa thể thu hối vốn để thanh tóan điều này đã làm cho
công ty không trả được nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Có thể thấy rằng do cán bộ
tín dụng chưa chú trọng đến việc phân tích, tính toán điều kiện và khả năng trả nợ
đối với khách hàng trong khoảng thời gian hợp lý.
- Thiếu sót quy trình kiểm soát nhằm minh bạch thông tin tài chính .
Tính chính xác của các số liệu báo cáo cần phải được xem xét lại vì hiện
nay còn nhiều sơ hở trong quy định để các NHTM tận dụng, chế biến những con
số này theo mục đích của họ.
Vì vậy, rủi ro lớn nhất trong quản trị rủi ro tín dụng là chính chúng ta cũng
không kiểm soát nổi tình trạng nợ xấu tới mức nào và đã được cải thiện tới đâu.
- Về phía người vay nợ.
Nguyên nhân chủ quan là do năng lực điều hành của doanh nghiệp còn hạn
chế, thiếu thông tin thị trường và các đối tác, trong đó cũng phải kể đến việc thiếu
thiện chí trả nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn, một số khách hàng lợi
dụng sự thay đổi lãi suất ngân hàng để trục lợi (Ví dụ khi vay vốn mức lãi suất
chỉ là 1% /tháng, khi lãi suất huy động lên tới khỏang 1,4 % tháng, mặc dù thời
điểm này khách hàng đã có tiền có thể trả nợ vay nhưng không trả mà đem gửi
vào ngân hàng để hưởng chênh lệch 0,4%/tháng)
Nguyên nhân khách quan xuất phát từ những tác động bên ngoài như thiên
tai, hoả hoạn, do sự ổn định của nền kinh tế chưa chắc chắn, chính sách quản lý
35
kinh tế thay đổi đột ngột, do biến động thị trường trong và ngoài nước, do quan hệ
cung cầu hàng hoá thay đổi ...
Các biện pháp phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng hiện nay
Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và bền vững, góp phần
tăng trưởng kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế. Gần đây, Ngân hàng nhà nước
đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm
ngăn ngừa và hạn chế rủi ro như:
- Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN Ngày 03 /02/ 2005 Thống đốc Ngân
hàng về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng thay thế Quyết định số 1627 / 2001 /QĐ –NHNN về việc
ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng. Việc sửa đổi quy chế
cho vay là do những thay đổi của điều kiện pháp lý và yêu cầu tiếp tục đổi mới
hoạt động tín dụng ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, một số quy định của quyết định 1627 chưa phù hợp với yêu cầu
nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các TCTD, chưa phù hợp với
thông lệ và chuẩn mực quốc tế , chưa tạo cơ sở cho việc hạch toán, phản ánh đúng
chất lượng tín dụng. Theo Quyết định 127, đối với khoản nợ vay không trả nợ
đúng hạn, được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và
không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín
dụng đó là nợ quá hạn và tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ,
việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thoả thuận trên
cơ sở quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng phân loại toàn bộ số dư nợ gốc của
khách hàng vay có nợ quá hạn vào tài khoản cho vay thích hợp theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam... . Nhìn chung Quy chế cho vay mới phù hợp với
thông lệ quốc tế trên phương diện phân loại và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng,
đảm bảo phân loại khách hàng, giúp cho việc thu hồi vốn vay hiệu quả hơn. Đây là
một trong những bước đột phá căn bản nhất của ngành ngân hàng trên bước đường
thực hiện cam kết và lộ trình hội nhập quốc tế về hoạt động ngân hàng.
Tiếp theo Quyết Định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3 tháng 2 năm 2005
về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, NHNN Việt Nam đã
ban hành một loạt quyết định và chỉ thị nhằm mục đích nâng cao chất lượng tín
dụng và kiểm soát rủi ro, trong đó có Quyết Định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
36
22 tháng 4 năm 2005 và quyết định số 18/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung ban hành
quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Các nét chính của Quyết Định
493 như sau:
Theo Quyết Định 493, tất cả các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam
(trừ Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội) phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên,
khác với các quy định trước đây, Quyết Định 493 cho phép chi nhánh ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam được áp dụng chính sách trích lập dự phòng của ngân
hàng nước ngoài nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản.
Mục đích của việc sử dụng dự phòng là để bù đắp tổn thất đối với các
khoản nợ của tổ chức tín dụng.
Dự phòng rủi ro chỉ tính theo dư nợ gốc của khách hàng và được hạch toán
vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng.
Khái niệm "nợ" được định nghĩa rất rộng theo Quyết Định 493. Nợ không
chỉ bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu
thương phiếu và giấy tờ có giá khác, tiền trả thay cho người được bảo lãnh, mà
còn bao gồm các khoản ứng trước, thấu chi, các khoản bao thanh toán (một hình
thức cấp tín dụng mới được phép theo Quy chế bao thanh toán của các tổ chức tín
dụng ban hành kèm theo Quyết Định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004
của Thống Đốc NHNN) và "các hình thức tín dụng khác."
Theo Quyết định 493, các khoản cho vay bằng nguồn vốn tài trợ, uỷ thác
của bên thứ ba mà bên thứ ba cam kết chịu toàn bộ "trách nhiệm xử lý rủi ro" và
các khoản cho vay bằng nguồn vốn góp đồng tài trợ của tổ chức tín dụng khác mà
tổ chức tín dụng không chịu bất cứ rủi ro nào thì tổ chức tín dụng chỉ cần tiến
hành phân loại nợ mà không phải trích lập dự phòng rủi ro.
Quyết Định 493 yêu cầu trích lập hai loại dự phòng là dự phòng cụ thể và
dự phòng chung. Dự phòng cụ thể là loại dự phòng được trích lập trên cơ sở phân
loại cụ thể các khoản nợ mà hiện nay các tổ chức tín dụng đang thực hiện và được
quy định rõ hơn theo Quyết Định 493. Ngoài ra, Quyết Định 493 lần đầu tiên yêu
cầu tổ chức tín dụng lập dự phòng chung cho tất cả các khoản nợ của mình bằng
37
0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo cách phân loại tại
Quyết Định 493.
Tổ chức tín dụng không phải là Ngân hàng thương mại Nhà nước phải thực
hiện ngay việc trích lập dự phòng cụ thể theo quy định tại Quyết Định 493, nhưng
chỉ phải trích lập đủ số tiền dự phòng chung trong thời gian 5 năm kể từ ngày
Quyết Định 493 có hiệu lực thi hành (ngày 15 tháng 5 năm 2005).
Đối với ngân hàng thương mại nhà nước, thời hạn trích lập đủ cả dự phòng
chung và dự phòng cụ thể sẽ được thực hiện theo quyết định của NHNN và Bộ
Tài Chính, nhưng thời hạn tối đa không quá 5 năm kể từ ngày Quyết Định 493 có
hiệu lực thi hành.
Phương pháp phân loại nợ và trích tập tự thòng
Ngoài cách phân loại nợ theo phương pháp "định lượng" tương tự như các
quy định trước đây, Quyết Định 493 còn cho phép các tổ chức tín dụng có đủ khả
năng và điều kiện được thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo
phương pháp "định tính" nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản.
Phương Pháp "Định Lượng"
Quyết Định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:
• Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả
năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương
lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán;
• Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ;
• Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày;
• Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; và
• Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại
nợ như trên, tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất
kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu
đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.
38
Phương Pháp "Định Tính"
Lần đầu tiên phương pháp "định tính" được Quyết Định 493 cho phép áp
dụng đối với tổ chức tín dụng đủ điều kiện. Theo phương pháp này, nợ cũng được
phân thành năm nhóm tương ứng như năm nhóm nợ theo cách phân loại nợ theo
phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn
chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính
sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được NHNN chấp thuận. Các nhóm nợ
bao gồm:
• Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn;
• Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ;
• Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn;
• Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất
cao; và
• Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không
còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Cho dù được phân loại theo phương pháp nào, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ
thể đối với các nhóm nợ 1,2, 3, 4, và 5 lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%.
Việc thi hành các quy định mới sẽ yêu cầu phải có những thay đổi tại các
ngân hàng, chẳng hạn như đủ vốn chủ sở hữu và các nguồn vốn khác để trích lập
dự phòng cũng như các thay đổi liên quan đến cơ cấu tổ chức, nhân sự, hệ thống
thông tin và dữ liệu để quản lý nợ quá hạn. Việc thi hành các quy định mới cũng
đặt ra những yêu cầu đối với NHNN trong việc phát triển cơ cấu tổ chức và nhân
sự để đáp ứng các yêu cầu thực tế. Cụ thể, việc kiểm soát dựa trên đánh giá chất
lượng tài sản sẽ trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các thanh tra NHNN.
NHNN sẽ phải xây dựng một cơ chế kiểm tra và giám sát trong việc thực hiện
nhiệm vụ đánh giá đó.
Cuối cùng, vì chi phí phát sinh từ những thay đổi trên sẽ chuyển sang
khách hàng vay nên chi phí cho vay sẽ có thể tăng. Các ngân hàng cũng sẽ ưu tiên
cho việc cho vay có bảo đảm để giảm gánh nặng về dự phòng rủi ro.
39
Ngòai ra NHNN còn ban hành một số văn bản sau
- Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/04/2005 yêu cầu các NHTM tuân
thủ đúng các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao
thanh toán và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả
năng huy động vốn, đảm bảo chú trọng đến công tác quản trị rủi ro, kiểm tra,
kiểm soát nội bộ
- Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005 của Thống đốc
NHNN sửa đổi bổ sung Quy chế cho vay của NHTM đối với khách hàng. Các nội
dung được sửa đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết hoặc tạo cơ
sở pháp lý cho TCTD chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh.
- Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của Thống đốc
NHNN ban hành quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của
NHTM cụ thể là quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để
xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD.
- Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp định
của các tổ chức tín dụng do Chính phủ ban hành, đối với ngân hàng TMCP, mức
vốn pháp định áp dụng cho đến cuối năm 2008 là 1.000 tỷ đồng và áp dụng cho
đến cuối năm 2010 là 3.000 tỷ đồng.
- Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 01 năm 2007 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành
kèm theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN, Quyết định số 1328/2005/QĐ-
NHNN ngày 06/9/2005 ban hành Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong
hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và các văn bản quy phạm pháp luật
khác có liên quan.
- Chỉ thị số 05/2008/CT-NHNN ngày 09/10/2008 của Thống đốc NHNN
Về một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ
chức tín dụng. Theo đó các NHTM cần theo dõi chặt chẽ diễn biến và dự báo về
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng ở Mỹ đối với nền kinh tế,
thị trường tài chính thế giới và khả năng tác động đối với nền kinh tế, thị trường
tiền tệ và hoạt động Ngân hàng Việt Nam để chủ động thực hiện các biện pháp
nhằm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra; Xây dựng phương án hoạt động kinh doanh,
40
tiếp tục mở rộng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế với lãi
suất hợp lý, đồng thời phải đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhu cầu chi trả,
nhất là dịp Tết dương lịch và Tết Nguyên đán năm 2009; Kiểm soát chặt chẽ chất
lượng tín dụng; trong đó, tiến hành phân tích, đánh giá, phân loại các khoản cho
vay kinh doanh bất động sản để có giải pháp phù hợp đối với từng đối tượng vay
vốn; tiếp tục tăng tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp nông thôn,
các dự án trọng điểm quốc gia, các nhu cầu vốn sản xuất có hiệu quả, chú trọng
mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa mà các khoản cho vay đó đáp
ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật và khả năng cân đối vốn của
tổ chức tín dụng.
- Một số văn bản của các Ngân hàng ban hành Hệ thống xếp hạng tín dụng
nội bộ nhằm hướng dẫn các mô hình chấm điểm và xếp hạng đối với các khách
hàng (Thông qua chỉ tiêu tài chính và phi tài chính => tổng hợp điểm tín dụng =>
xếp lọai từ AAA-AA- ..B.. - D).
2.1.3.2 Rủi ro ngoại hối (Rủi ro thị trường)
Phân tích, đánh giá rủi ro ngoại hối
Tỷ giá hối đoái giữa VND/các lọai ngọai tệ và sự biến động của nó không
chỉ là mối quan tâm trực tiếp của các doanh nghiệp xuất khẩu hay nhập khẩu, của
những người cho vay hay vay ngoại tệ của các NHTM. Trong họat động ngọai hối
nếu không có sự quản lý, kiểm sóat chặt chẽ và không có khả năng dự báo tốt thì
có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Theo thống kê của thời báo kinh tế Việt Nam thì trong mấy năm trước tỷ
giá VND/USD thường khá ổn định, biến động thấp, năm 2004 tăng 0,4%, năm
2005 tăng 0,9%, năm 2006 tăng 1%, năm 2007 giảm 0,03% - bình quân thời kỳ
2004 - 2007 tăng 0,57%. Nếu tính bình quân năm sau so với năm trước thì năm
2004 tăng 1,57%, năm 2005 tăng 0,56%, năm 2006 tăng 0,95%, năm 2007 tăng 0,
62%. Tuy nhiên Bước sang năm 2008, tỷ giá VND/USD có sự biến động khác với
các năm trước. Sự khác nhau thể hiện ở một số điểm sau đây: Một là, biến động
nhiều hơn: giảm liên tục trong 3 tháng đầu, tăng liên tục trong 3 tháng sau. Nếu
trong 3 tháng đầu, người có USD muốn bán cũng rất khó bán, thì trong 3 tháng
sau, đặc biệt là tháng 6, người muốn mua USD cũng rất khó mua vì giá cao; Hai
là, chênh lệch giữa giá USD trên thị trường tự do và ở các NHTM lúc mang dấu
41
âm, lúc mang dấu dương và chênh lệch khá lớn; Ba là, tỷ giá VND/USD tính theo
năm thì từ tháng 1 đến tháng 4 bị giảm, tháng 5, tháng 6 tăng, đặc biệt tháng 6
tăng cao. Đó là diễn biến tỷ giá VND/USD thời gian qua.
Một ví dụ minh họa thực tế về việc kinh doanh ngọai tệ tại Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 3 tháng lỗ 447,6 tỷ đồng. Kết
luận thanh tra về kinh doanh ngọai tệ tại Sở quản lý, kinh doanh vốn và ngọai tệ
(SQL) thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triện Nông thôn cho thấy : do sơ
hở trong quản lý, yếu kém trong quản lý điều hành của lãnh đạo và ý thức chấp
hành quy trình nghiệp vụ của cán bộ chưa nghiêm đã dẫn đến thua lỗ nghiêm
trọng. Chỉ tính trong 3 tháng cuối 2005, việc kinh doanh ngọai tệ tại đây đã thua
lỗ gần 500 tỷ đồng . Kết quả kinh doanh ngọai tệ của SQL đến 31/122004 cho
thấy SQL này có tổng thu 1163,2 tỷ đồng, tổng chi 1.663,1 tỷ đồng nghĩa là bị lỗ
tới 499,8 tỷ đồng. Riêng 3 tháng 10,11,12 số lỗ kinh doanh ngọai tệ của SQL
chiếm 98,9% tổng số lỗ cả năm 2004 với 447,6 tỷ đồng. Trong số này, họat động
kinh doanh của đồng EUR và USD lỗ tới 28,3 triệu USD.
Đặc biệt trong ngày 22 và 23/12/2004 có 2 giao dịch mua 30 triệu
EUR/giao dịch, ngày 24/12 có 04 giao dịch mua 30 triệu EUR/giao dịch, ngày
27/12 có 4 giao dịch mua 30 triệu EUR/giao dịch. Kết quả kiểm tra cho thấy các
giao dịch trực tiếp từ ngày 14/10 đến 31/10/2004 đều do 01 quan chức cao cấp
trực tiếp giao dịch trên máy hoặc chỉ đạo cán bộ phòng kinh doanh ngọai tệ giao
dịch. Các ông này trực tiếp ký tên trên phiếu giao dịch để hạch tóan cho hợp lệ,
còn quan chức cao cấp này trực tiếp ký tên với tư cách là người ký duyệt! như vậy
ở đây xảy ra tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” mà không cần giám sát (các
phiếu giao dịch không có chữ ký của kiểm sóat viên như quy định)
Về trạng thái ngọai tệ, bao gồm các giao dịch chuyển đổi ngọai tệ trong
nước và quốc tế, tại nhiều thời điểm trong tháng 12/2004, trang thái ngọai tệ của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã vượt quá trạng thái giới hạn
cho phép theo quy định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Đồng
thời, SQL còn vi phạm chế độ báo cáo thống kê. Các báo cáo trạng thái ngọai tệ
của SQL gửi về NHNN Việt Nam không phản ánh chính xác trạng thái ngọai tệ
của Ngân hàng này, chính vì vậy, những dấu hiệu kinh doanh không bình thường
của SQL đã không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời.
42
Minh họa trên đây cảnh báo cho chúng ta thấy nguy cơ thua lỗ của các tổ
chức tài chính do sơ hở trong quản lý điều hành của lãnh đạo, thiếu sự tăng
cường, kiểm tra giám sát. Đây cũng chính là rủi ro do biến động tỷ gía mạng lại
khi Ngân hàng nông nghiệp mua EUR thì tỷ giá VND/EUR thấp, sau đó tỷ giá
tăng nên sau khi đánh giá kết quả kinh doanh ngoại tệ thua lỗ, tổng thu chỉ đạt
1163,2 trong khi tổng chi 1.663,1 tỷ đồng.
Do tình hình lạm phát trong nước tương đối cao trong năm 2008 (dự báo
của Chính phủ khỏang 25%), tỷ giá USD /VND rất nhiều biến động trong chu kỳ
lạm phát cao như vậy sẽ dẫn đến một hậu quả tất yếu là thâm hụt thương mại
ngày càng lớn, thâm hụt vãng lai ngày càng lớn, đây cũng là rủi ro tiềm ẩn cho
ngân hàng và cho cả nền kinh tế, ngòai ra qua ví dụ minh họa chúng ta thấy còn
nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro ngoại hối tồn tại tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam như:
- Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao dịch và đo lường
rủi ro quá yếu kém, kỹ năng xử lý dữ liệu bằng điện toán chưa cao, chưa có
những bộ phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường. Hiện nay dù
có tham gia một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các NHTM Việt Nam vẫn
chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích thanh toán, cho vay ngoại tệ
mà quên đi chế độ bảo hiểm tỷ giá nên trong kinh doanh ngoại tệ ngân hàng đóng
vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn là nhà tạo lập thị trường. Cũng chính
vì tư tưởng trên nên nhìn chung các ngân hàng rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc
biệt yếu về phân tích kỹ thuật biến đổi cấu trúc dự trữ giữa các loại ngoại tệ. Hầu
như rất ít ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm cho
phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng chính là một trong những lý do
mà ít ngân hàng ở Việt Nam mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu các ngân
hàng chỉ kinh doanh không công cho khách hàng.
- Các quy định pháp lý về cách xác định trạng thái ngoại hối chưa hoàn
thiện gây rủi ro tỷ giá. Mặc dù NHNN đã thay đổi phương pháp xác định trạng
thái ngoại tệ theo Quyết định số 1081/2002/QĐ-NHNN cho phù hợp với tình hình
thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, việc tính toán trạng thái ngoại tệ cuối tháng được
tính trên cơ sở số dư tại thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng chỉ xét đến trạng
thái ngoại tệ được hình thành do các giao dịch mua bán ngoại tệ của ngân hàng
43
mà chưa tính đến thu và chi phí trả lãi phát sinh từ các tài sản có và tài sản nợ sinh
lời. Các ngân hàng chưa tính đến các khoản thu và chi này cộng dồn sẽ ảnh hưởng
thế nào đến giá trị giữa trạng thái ngoại tệ thực tế và trạng thái ngoại tệ báo cáo
mà thực trạng này có thể gây rủi ro lớn cho ngân hàng.
- Cơ chế tỷ giá hiện nay chưa phản ánh được quy luật cung cầu trên thị
trường. Mặc dù thời gian qua NHNN đã xoá bỏ sự áp đặt chủ quan trong việc
thiết lập tỷ giá, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường chợ đen
dần dần được thu hẹp. Tuy nhiên, diễn biến tỷ giá trong những năm qua còn nhiều
phức tạp. Cơ chế điều hành tỷ giá còn quy định biên độ mua, bán làm cho việc yết
giá của các NHTM bị cứng nhắc.
Biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối hiện đang áp dụng tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam
Để giảm thiểu rủi ro ngọai hối, NHNN đã ban hành một số văn bản liên
quan đến họat động cung ứng dịch vụ ngoại hối của tổ chức tín dụng
- Quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN ngày 11/7/2008 ban hành Quy chế
Đại lý đổi ngoại tệ.
- Thông tư số 03/2008/TT-NHNN ban hàng ngày 11/8/2008, nhằm triển
khai thực hiện Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ,
theo đó, NHNN hướng dẫn các điều kiện cụ thể để được cung ứng dịch vụ ngoại
hối đối với các tổ chức tín dụng. Đối với các ngân hàng thì điều kiện để được
NHNN xem xét, xác nhận đủ điều kiện cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường
trong nước bao gồm có phương án hoạt động được Đại hội cổ đông hoặc Hội
đồng quản trị thông qua, có trang thiết bị và điều kiện vật chất đáp ứng được yêu
cầu, có đủ cán bộ am hiểu, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại hối và quản lý rủi ro
kinh doanh ngoại hối
Đối với hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế, các
ngân hàng cần có thêm các điều kiện sau như: Có hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm
toán nội bộ được thiết lập và thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định của NHNN;
tuân thủ các quy định của NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động và
trong việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng; không vi phạm
các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối trong thời gian một năm đến thời điểm
đăng ký và phải kinh doanh có lãi trong năm liền kề năm đăng ký
44
Ngoài ra, Thông tư cũng hướng dẫn cụ thể điều kiện để các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng, các công ty tài chính đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ
ngoại hối trên thị trường trong nước. Ngoài các hướng dẫn trên, Thông tư này có
các hướng dẫn cụ thể về: Phạm vi cung ứng dịch vụ ngoại hối; Hồ sơ, thủ tục xác
nhận đủ điều kiện, xác nhận đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối; Trách
nhiệm của tổ chức tín dụng khi hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối; Hướng
dẫn về việc đình chỉ, thu hồi giấy xác nhận đủ điều kiện, giấy xác nhận đăng ký
hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối.
-Thực hiện các sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro ngọai hối
Thị trường công cụ phái sinh đóng góp cho tăng trưởng kinh tế thông qua
việc phát huy tốt các chức năng của hệ thống tài chính, đó là: Cầu nối giữa tiết
kiệm và đầu tư; Sàng lọc, chuyển giao, và phân tán rủi ro; Giám sát doanh nghiệp;
tăng tính thanh khoản của các công cụ tài chính (vận hành Hệ thống thanh toán
thông suốt, phòng ngừa rủ ro về ngọai hối, lãi suất .v.v. Với vai trò của trung gian
tài chính, các tổ chức tài chính có thể tăng nguồn thu từ thu phí với tư cách của
người môi giới; đặc biệt, khả năng mở rộng, phát triển các mặt hoạt động khác
của tổ chức tài chính như huy động vốn, cho vay, dịch vụ thanh toán, tư vấn...
cũng tăng cao và hiệu quả hơn. Công cụ phái sinh là một loại hình bảo hiểm rủi ro
tài chính khi thực hiện các hợp đồng kinh tế mà bản chất là phân tán rủi ro tiềm
ẩn và đương nhiên, lợi nhuận của các giao dịch cùng được chia sẻ cho các bên.
Nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn (Forward)
Ngân hàng có thể chọn giải pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối của mình
bằng cách sử dụng nghiệp vụ giao dịch có kỳ hạn một năm nghĩa là ngân hàng sẽ
bán ngoại tệ để nhận lại nội tệ. Mục đích của các hợp đồng kỳ hạn là nhằm loại
trừ những khả năng không chắc chắn về tỷ giá giao ngay tại thời điểm tín dụng
đến hạn. Như vậy, thay vì chờ đến tận thời điểm cuối năm, mới chuyển lượng
ngoại tệ thu được thành nội tệ với một mức tỷ giá giao ngay chưa biết trước, thì
ngân hàng có thể tại thời điểm ngày hôm nay bán có kỳ hạn một năm lượng ngoại
tệ dự tính sẽ thu được bao gồm cả gốc và lãi tại mức tỷ giá kỳ hạn đã biết để nhận
nội tệ. Việc giao nhận giữa nội tệ và ngoại tệ được thực hiện tại thời điểm cuối
năm. Như vậy, bằng cách bán kỳ hạn số ngoại tệ đã dự tính thu được với một tỷ
giá đã xác định ngay ngày hôm nay, ngân hàng đã trách được rủi ro tỷ giá biến
45
động tại thời điểm cuối năm và do đó đảm bảo được mức lợi tức dự tính trong
hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ.
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu
tiên ở Việt Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các
giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa
NHTM với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các NHTM khác được phép
của NHNN. Hiện nay, nghiệp vụ kỳ hạn được giao dịch khá phổ biến và thỏa mãn
hầu hết các đối tác có nhu cầu bảo hiểm rủi ro mà chủ yếu là các ngân hàng.
Hợp đồng tương lai ( Future)
Các ngân hàng cần phải xác định số lượng hợp đồng mà ngân hàng phải
bán là số lượng mà sao cho lợi nhuận thu được từ các hợp đồng tương lai này để
bù đắp mọi thua lỗ từ khoản tín dụng bằng ngoại tệ khi giá trị đồng ngoại tệ giảm
so với đồng nội tệ. Trong nhiều trường hợp, thị trường tương lai không cho phép
ngân hàng áp dụng hợp đồng dài hạn một năm để bảo hiểm khoản tín dụng có kỳ
hạn một năm. Vì vậy, ngân hàng phải áp dụng phương pháp giao dịch trên thị
trường tương lai và tăng sự không chắc chắn về giá trong các hợp đồng tiếp theo.
Điều này đã khiến cho các nhà quản trị ngân hàng ưu tiên bảo hiểm rủi ro các tài
sản có kỳ hạn dài trên thị trường kỳ hạn hoặc thị trường hoán đổi hơn là thị
trường tương lai.
Nghiệp vụ quyền chọn (Option)
Giống như hoạt động của nhà nhập khẩu và xuất khẩu, nhà đi vay và cho
vay bằng ngoại tệ bảo hiểm rủi ro ngoại hối thông qua hợp đồng quyền chọn tiền
tệ, một khả năng tương tự là việc ngân hàng cũng có thể sử dụng các hợp đồng
quyền chọn nhằm bảo hiểm rủi ro ngoại hối. Tuy nhiên, chúng ta phải trả một
khoản chi phí nhất định khi tham gia giao dịch này và khoản chi phí này sẽ chênh
lệch nhau phụ thuộc vào các yếu tố: sự tồn tại rủi ro cơ bản, tính thanh khoản của
thị trường, kỳ hạn của hợp đồng và bản chất của quyền chọn tương lai.
Giao dịch quyền chọn hiện đã được nhiều ngân hàng thương mại ở Việt
Nam triển khai trong hai năm gần đây, nhưng hầu như số lượng giao dịch rất ít do
hầu như các doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu rõ lắm về nghiệp vụ quyền chọn
và do tỷ giá VND với USD tương đối ổn định nên họ chưa cần đến công cụ bảo
hiểm này. Mặt khác, đa số các doanh nghiệp Việt Nam không có giám đốc tài
46
chính giống như các công ty nước ngoài nên không có người quản lý thực hiện
hết các rủi ro tài chính trong kinh doanh.
Giao dịch hoán đổi tiền tệ (Swap)
Hoán đổi tiền tệ được các ngân hàng sử dụng rất phổ biến để bảo hiểm rủi ro
ngoại hối của mình. Trong trường hợp các tiền tệ trên bảng cân đối tài sản không cân
xứng với nhau, chúng ta dễ thấy rằng giao dịch hoán đổi tiền tệ thì phần gốc và phần
lãi đều được bao gồm trong hợp đồng. Đối với giao dịch hoán đổi lãi suất thì chỉ
phần thanh toán lãi suất là bao gồm trong hợp đồng. Lý do là vì trong giao dịch hoán
đổi tiền tệ thì cả phần gốc và phần lãi đều bộc lộ rủi ro ngoại hối.
2.1.3.3 Rủi ro lãi suất (Rủi ro thị trường)
Phân tích, đánh giá rủi ro lãi suất
Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng để điều tiết nền
kinh tế, đặc biệt là đối với một nền kinh tế mà kênh tín dụng đóng vai trò quan trọng đối
với việc cung cấp vốn cho họat động sản xuất kinh doanh và cũng là nguồn mang lại lợi
nhuận chính cho các Ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam những năm qua, do thị trường tài
chính ngân hàng vẫn đang trong quá trình cải tổ, sắp xếp lại để hội nhập, do đó
còn nhiều tồn tại, bất cập trong đó có việc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng,
đã xuất hiện sự thay đổi lãi suất liên tục trong thời gian ngắn
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, vấn đề chạy đua lãi suất trong các
năm qua giữa các NHTM nhiều lúc không hợp quy luật, có thời điểm khi mà chỉ
số CPI giảm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở giảm, lãi suất chiết khấu, tái cấp
vốn ổn định thì các ngân hàng vẫn điều chỉnh tăng lãi suất.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là vốn khả dụng ở các ngân
hàng phân phối không đều, một số ngân hàng thiếu vốn, trong khi một số ngân
hàng khác thừa vốn nhưng do thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển,
các ngân hàng cho vay theo những hạn mức chậm được điều chỉnh nên nhiều
trường hợp vốn không luôn chuyển từ ngân hàng thừa vốn đến ngân hàng thiếu
vốn. Kết quả là các ngân hàng thiếu vốn phải đẩy mạnh các hình thức huy động
vốn và đưa ra lãi suất hấp dẫn, vấn đề này lại kéo theo các ngân hàng khác vào
cuộc đua lãi suất .v.v. điển hình như trong thời điểm cuối tháng 2/2008, trên thị
47
trường liên ngân hàng có một vài giao dịch chấp nhận mức lãi suất lên tới
40%/năm, gây sốc cho thị trường,
Trước tình trạng lãi suất liên ngân hàng tăng cao như vậy, NHNN đã điều
tiết tiền tệ thông qua nghiệp vụ thị trường mở, đồng thời tăng cường công tác
thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM, nhất là những ngân hàng cho vay
vượt quá nhiều nguồn vốn huy động trên thị trường và có chính sách hỗ trợ trực
tiếp nguồn vốn thanh khoản cho các NHTM này từ giữa tháng 5/2008 đến nay, lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng tương đối ổn định, xoay quanh mức 18 -
19%/năm đối với kỳ hạn 7 - 14 ngày.
Lãi suất huy động vốn bằng VND của các NHTM cũng có sự gia tăng
mạnh. Đối với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất huy động phổ biến trên thị trường tăng từ
mức 7,5 - 8%/năm cuối năm 2007 lên đến mức 17,5%/năm trong tháng 6/2008
(chỉ có một vài ngân hàng nhỏ nâng mức lãi suất lên 19%/năm). Trước đó, lãi suất
huy động có biểu hiện tăng mạnh trong những ngày cuối tháng 2/2008. Sự gia
tăng mạnh của lãi suất huy động như vậy nếu kéo dài có thể gây nên sự đổ vỡ của
hệ thống ngân hàng. Trước tình đó, để ổn định lãi suất thị trường, NHNN đã kịp
thời có công điện yêu cầu các NHTM không được huy động vượt mức 12%/năm
ở tất cả các kỳ hạn. Tuy nhiên, sau hơn hai tháng, trước sức ép lạm phát lên cao,
ngày 16/5/2008, NHNN công bố bỏ quy định khống chế mức trần lãi suất huy
động 12%/năm, thay vào đó là cơ chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất
cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 12%/năm tại
thời điểm đó; đến ngày 11/6/2008, mức lãi suất cơ bản được nâng lên là
14%/năm. Cho đến thới điểm hiện nay (tháng 09/2008) các ngân hàng thương mại
đang thực hiện quy định trên theo hướng VND không vượt quá 150% lãi suất cơ
bản 14%). dự tính cuối tháng 10 lãi suất cơ bản NHNN quy định sẽ là 13%/năm
Qua phân tích biến động lãi suất trong thời gian qua có thể thấy lãi suất trong
thời gian qua biến động quá nhiều. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất:
- Rủi ro lãi suất là một trong những loại rủi ro đặc thù của NHTM. Rủi ro
này xuất hiện khi lãi suất thị trường thay đổi, mà đặc biệt là thay đổi theo chiều
hướng tăng là nguyên nhân chính gây ra rủi ro lãi suất vì những nguồn thu chính
từ danh mục cho vay và đầu tư cũng như chi trả lãi tiền gửi và các nguồn vay của
ngân hàng điều bị tác động.
48
- Những thay đổi của lãi suất thị trường có thể tác động tiêu cực tới lợi
nhuận ngân hàng làm cho tăng chi phí nguồn vốn, giảm thu nhập từ tài sản, hạ
thấp giá trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Vì vậy, sự biến động của lãi suất tác
động toàn bộ đến bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của ngân hàng.
- Bên cạnh những nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất, còn có những nguyên
nhân làm hạn chế công tác quản lý rủi ro lãi suất tại các NHTMViệt Nam như:
- Hiện nay, chưa có cơ quan dự báo sự thay đổi của lãi suất trên thị trường
quốc tế tại Việt Nam. Vì trong điều kiện lãi suất thị trường biến động, cơ quan
này sẽ giúp cho ngân hàng dự tính được những thiệt hại có thể phát sinh trong
tương lai, qua đó giúp ngân hàng lựa chọn những phương pháp phòng ngừa hiệu
quả những rủi ro này.
- Thị trường tài chính – tiền tệ chưa phát triển, thể hiện ở chỗ các công cụ
tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé về lượng giao dịch.
- Kiến thức hiểu biết về các giao dịch phái sinh và vấn đề phòng chống rủi
ro lãi suất còn quá thấp ở các NHTM.
Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất hiện nay.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho phép mở rộng các ngân hàng và các
tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được thực hiện hoán đổi lãi suất. Việc làm này
nhằm giúp các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp phòng ngừa, hạn chế rủi ro do
biến động của lãi suất thị trường. Các trường hợp được thực hiện hoán đổi lãi suất
VND hoặc ngoại tệ thứ nhất là giữa ngân hàng với doang nghiệp vay vốn tại ngân
hàng đó; thứ hai là giữa ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn tại các tổ chức tín
dụng khác, vay vốn nước ngoài; thứ ba là giữa các ngân hàng với nhau và thứ tư
là giữa ngân hàng với tổ chức tín dụng ở nước ngoài.
Hợp đồng hoán đổi lãi suất là thỏa thuận theo đó mỗi bên thanh toán cho
bên kia khoản tiền lãi tính theo lãi suất thả nổi hay lãi suất cố định trên cùng một
khoản nợ gốc trong cùng một khoản thời gian. Đối với khách hàng huy động vốn
trên thị trường bằng hình thức phát hành trái phiếu trung và dài hạn từ 5 đến 10
năm với mức lãi suất cố định, muốn chuyển đổi thành lãi suất thả nổi để giảm chi
phí và cân đối bảng tổng kết tài sản, hoặc khi có dự đoán lãi suất xuống, việc bán
hợp đồng hoán đổi lãi suất có thể đáp ứng được yêu cầu này. Đối với những
khách hàng có nhu cầu đảm bảo có nguồn vốn ổn định và dài hạn cho hoạt động,
49
có thể hoán đổi các giao dịch vốn ngắn hạn với ngân hàng thành một nguồn vốn
ổn định và dài hạn với lãi suất cố định
Từ tháng 1/2007 NHNN cho phép các ngân hàng thương mại, ngân hàng
liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam được thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất với các doanh nghiệp
không phải là ngân hàng được thành lập, hoạt động theo pháp luật Việt Nam; giữa
các ngân hàng với nhau, giữa ngân hàng với tổ chức tín dụng ở nước ngoài
Tuy nhiên, hầu như việc sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất chỉ mới được sử
dụng ở một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong khi các ngân hàng trong
nước hầu như còn chưa hiểu rõ nghiệp vụ hoán đổi này nên họ ngại khi phải triển
khai nghiệp vụ này cho các doanh nghiệp và đây cũng chính là một trong những
mặt yếu của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Vì vậy, một mặt để đảm bảo
nguồn vốn trong kinh doanh của các doanh nghiệp, mặt khác tăng sức cạnh tranh
thị trường trong nước, các NHVN cần phải nâng cao khả năng nghiệp vụ của mình
đặc biệt là các nghiệp vụ mới phát sinh để từ đó phát huy thế mạnh nhằm giúp cho
doanh nghiệp trong nước có được những biện pháp phòng ngừa rủi ro trong khi
cạnh tranh với các đối thủ khác trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.
2.1.3.4 Rủi ro thanh khoản
Phân tích, đánh giá rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các
khoản phải trả khi đến hạn thanh toán, hoặc vì một biến cố nào đó mà khách hàng
rút tiền ào ạt. Rủi ro thanh khoản hiện là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có
liên quan đến sự sống còn của ngân hàng.
Một số ví dụ về rủi ro thanh khỏan: Barings là ngân hàng lâu đời nhất,
danh tiếng và rất có uy tín ở Anh, được thành lập năm 1762, tuy nhiên một biến
cố xảy ra với Barings khi Nick lenson, Giám đốc chi nhánh Barngs tại Singapore
bỏ trốn năm 1995, Lenson đã dùng 1,4 tỷ USD đáng lẽ được dung vào việc đầu tư
các dự án trong tương lai để mua cố phiếu bất động sản tại thị trường chứng
khóan TOKYO, không ngờ trận động đất tại thành phố Kobe, Nhật bản cùng năm
đó đã khiến Kobe thua hết số tiền 1,4 tỷ USD bằng với lợi nhuận tích lũy hàng
năm của Barings. Khi Nick Lenson bỏ trốn và sự việc bị tiết lộ, tòan bộ khách
hàng của Barings đã đổ xô tới rút tiền, dẫn tới ngân hàng phải tuyên bố phá sản
50
vào ngày 26/02/1995. Sau khi phá sản, công ty tài chính ING của Đức đã mua lại
Barings với giá 1 bảng anh. Một ví dụ khác tại Ngân hàng ACB tháng 10/2003,
một số kẻ xấu tung tin ông Phạm Văn Thiết, Tổng giám đốc ACB bỏ trốn, Trong
ngày 14/10 và ngày 15/10 lượng người kéo đến rút tiền tại ACB tăng vọt, trong
hai ngày lượng tiền ACB chi trả cho khách hàng lên tới 2000tỷ đồng, nếu không
được sự hỗ trợ kịp thời từ Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Vietcombank thì hậu
quả không thể dự đóan trước được. Ngòai ra còn nhiều vụ rủi ro khác như tại
Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Ninh Bình tháng 05/2007, Ngân hàng
Phương nam 07/2007 .v.v.
Trong thực tế hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt
Nam cho thấy rất hiếm khi nguồn cung cấp thanh khoản và nhu cầu thanh khoản
của ngân hàng được cân bằng. Ngân hàng phải thường xuyên đối phó với tình
trạng thâm hụt thanh khoản hoặc thặng dư thanh khoản. Khi cầu về thanh khoản
của ngân hàng vượt quá cung thanh khoản, ngân hàng bị thâm hụt thanh khoản,
buộc phải đối phó nhanh chóng nhằm tránh tình trạng mất khả năng thanh toán.
Ngược lại nếu cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản, tình trạng thặng dư
thanh khoản xuất hiện và ngân hàng cũng phải xem xét đầu tư các khoản thặng dư
thanh khoản này như thế nào để có được hiệu quả cao nhưng vẫn đáp ứng được
yêu cầu thanh khoản trong tương lai.
Như vậy đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý là một vấn đề không bao
giờ kết thúc đối với hoạt động ngân hàng. Để duy trì và đảm bảo được khả năng
thanh khoản hợp lý mỗi ngân hàng cần phải ước tính được nhu cầu về thanh
khoản, từ đó lựa chọn và xác định nguồn dự trữ thích hợp. Và khi xác định nhu
cầu thanh khoản cần lưu ý: cầu thanh khoản của ngân hàng gồm nhu cầu vay vốn
và nhu cầu thanh toán các khoản nợ của ngân hàng.
Để tính được nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng, cần phân chia tiền gửi và
các nguồn vốn khác của ngân hàng thành nhiều nhóm dựa trên khả năng vốn bị rút
khỏi ngân hàng, từ đó để xác định nhu cầu thanh khoản phù hợp cho mỗi nhóm.
Đối với những khoản vốn nhạy cảm với lãi suất hoặc vốn dự tính sẽ được
rút ra khỏi ngân hàng trong kỳ, nhu cầu thanh khoản là cao nhất, tuỳ theo yêu cầu
quản lý trong từng thời kỳ mà ngân hàng có thể đặt tỷ lệ dự trữ thanh khoản khác
nhau, chẳng hạn có thể đặt tới 90%. Những khoản vốn kém ổn định có thể bị rút
51
một lần ra khỏi ngân hàng tại một thời điểm nào đó trong kỳ kế hoạch, nhu cầu
thanh khoản được xác định tối đa bằng tỷ lệ vốn được rút ra trong kỳ. Những
khoản vốn có tính ổn định cao ít có khả năng rút ra khỏi ngân hàng trong kỳ, nhu
cầu thanh khoản ở mức thấp nhất, ngân hàng có thể chỉ cần duy trì dự trữ thanh
khoản đối với nhóm này khoảng tối đa 15%.
Nhu cầu thanh khoản trong hoạt động cho vay vốn của ngân hàng được ước
tính dựa trên cơ sở số liệu lịch sử của hoạt động cho vay, kết hợp với việc xem xét
các yếu tố tác động làm thay đổi nhu cầu thanh khoản thường xuyên như: các cam
kết tín dụng, yếu tố thời vụ, chu kỳ kinh doanh, sở thích của các nhà đầu tư.
Ngoài ra, nhu cầu thanh khoản của ngân hàng có thể được thoả mãn bằng
các nguồn cung cấp thanh khoản khác nhau như: tiền mặt tồn quỹ, rút tiền gửi từ
các tài khoản tại các ngân hàng khác, bán các chứng từ có giá, thu nợ vay của
khách hàng, huy động vốn vay trên thị trường tiền tệ. Để đảm bảo được khả năng
thanh toán cho kỳ kế hoạch, mỗi ngân hàng không thể sử dụng mọi nguồn thanh
khoản như nhau, cũng như không thể không duy trì một khoản tiền mặt tồn quỹ
thích hợp. Nhà quản lý ngân hàng cần phải dựa vào tình hình dự trữ thanh khoản
kỳ trước để điều chỉnh và xác định các chỉ số thanh khoản cho kỳ kế hoạch theo
các yếu tố tác động tới dự trữ thanh khoản trong kỳ. Chẳng hạn như nguồn dự trữ
bằng vốn vay từ Ngân hàng trung ương không thể tăng nếu như Ngân hàng trung
ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Nếu lãi suất tăng, sẽ làm tăng chi phí
vốn thanh khoản, lúc này để hạn chế tổn thất cần phải giảm tỷ lệ dự trữ thanh
khoản bằng nguồn vốn đi vay trên thị trường tiền tệ. Mặt khác, nếu lãi suất tăng
thì giá trị thị trường của tài sản sẽ giảm nếu ngân hàng bán tài sản để bù đắp thâm
hụt thanh khoản thì rủi ro tổn thất của ngân hàng sẽ tăng. Ngược lại, nếu lãi suất
giảm ngân hàng cũng không nên hy vọng quá nhiều vào nguồn tiền gửi bổ sung
của khách hàng để bù đắp thâm hụt thanh khoản. Một số nguyên nhân chính gây
ra rủi ro thanh khoản hiện nay:
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM năm 2007 là trên 40 %, có
những ngân hàng tăng trưởng tín dụng lên tới 80% (Ngân hàng ACB), tốc độ tăng
trưởng như vậy là “quá nóng so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ huy động
vốn”. Hơn nữa cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung lớn vào đầu tư bất động sản
chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng băng, tạo sự mất
52
cân đối về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Chính điều này đã tạo ra sự rủi ro thanh
khoản cao đối với ngân hàng thương mại”.
- Công tác dự báo và phân tích thị trường của các ngân hàng thương mại
Việt Nam còn nhiều hạn chế
- Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán
còn yếu.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo sự xáo trộn
luồng tiền, các khách hàng rút tiền từ ngân hàng này chuyển sang ngân hàng khác
dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
- Sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu…Ngân hàng Nhà nước
cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong
tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của mình”.
- Xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân
khiến “các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả
thanh khoản của các ngân hàng”. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa
minh bạch, một số khách hàng (kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng
này và chuyển sang ngân hàng khác, đã làm tăng tính bất ổn của thị trường gây
khó khăn cho chính khách hàng.
Biện pháp hạn chế rủi ro thanh khoản hiện đang áp dụng cho các Ngân
hàng thương mại Việt Nam
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng
trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các NHTM bắt buộc phải tuân
thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc
bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này.
Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường
là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong
những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng
cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
Thông qua hoạt động tạo tiền, từ tiền cơ sở (gồm tiền mặt lưu thông ngoài
hệ thống ngân hàng cộng với tiền mặt dữ trữ trong hệ thống ngân hàng), các ngân
hàng thương mại tạo ra một lượng cung tiền lớn hơn nhiều so với tiền cơ sở. Tỷ lệ
53
giữa cung tiền với tiền cơ sở chính là số nhân tiền và được tính toán theo công
thức sau:
m = (1+R):(R+r),
R là tỷ lệ giữa tiền mặt so với tiền gửi (C/D) của các ngân hàng;
r là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Thông thường, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được các ngân hàng trung ương trên thế
giới quy định là tỷ lệ giữa dự trữ tiền mặt so với tiền gửi vãng lai là một bộ phận
cấu thành của M1 mà không quy định tỷ lệ giữa dự trữ tiền mặt với tiền gửi có kỳ
hạn (tiền gửi tiết kiệm..., một bộ phận cấu thành của M2). Dữ trữ bắt buộc có thể
được gửi ở ngân hàng trung ương hoặc giữ tại két dự trữ của NHTM. Tuy nhiên,
thông thường các NHTM sẽ gửi ở ngân hàng trung ương để được hưởng lãi suất.
Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi, nhằm mục đích triển
khai một cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền và góp phần duy trì sự
ổn định của các tổ chức tín dụng và đảm bảo sự phát triển an toàn của ngành ngân
hàng ở Việt Nam. Bảo đảm tiền gửi tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng
trong hệ thống ngân hàng, đã tạo ra một công cụ đầu tư có rủi ro thấp, thích hợp
với những nhà đầu tư không mạo hiểm. Nhờ vào công cụ này mà hệ thống ngân
hàng thu hút được nguồn vốn tiết kiệm nhàn rỗi trong dân cư để thực hiện được
chức năng trung gian tài chính một cách tích cực.
Thông báo các quy định an toàn và cơ chế giám sát hoạt động ngành ngân
hàng, bảo hiểm tiền gửi đã góp phần nâng cao khả năng quản trị rủi ro, khả năng
điều hành ngành ngân hàng nói riêng và ngành tài chính nói chung. Với nuồn lực
là quỹ bảo hiểm tiền gửi đủ khả năng can thiệp kịp thời khi tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi đã giúp ngăn chặn và cô lập hiệu ứng rút tiền hàng loạt và sụp đổ
của hệ thống ngân hàng khi một vài tổ chức ngân hàng gặp rắc rối.
Ở Việt Nam, vốn nhàn rổi của quỹ bảo hiểm tiền gửi được đầu tư vào các
trái phiếu Chính phủ và chứng khoán doanh nghiệp nhà nước có rủi ro thấp, tính
thanh khoản cao thể hiện mức độ cẩn trọng của nghiệp vụ đầu tư và quỹ bảo hiểm
tiền gửi thực sự phục vụ cho lợi ích của người gửi tiền.
Việc tạo lập bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam thể hiện quyết tâm của Chính
phủ sử dụng công cụ phi thị trường trong việc thiết lập môi trường an toàn cho
các hoạt động ngân hàng và bình ổn thị trường. Quan điểm thực hiện tiền gửi bắt
54
buộc có tác dụng tốt trong việc nâng cao tính an toàn của công cụ đầu tư vào tiền
gửi của ngân hàng có lợi ích thiết thực cho người gửi tiền và cho cả hệ thống ngân
hàng. Đối tượng chi phối của bảo hiểm tiền gửi không phân biệt tổ chức tín dụng
trong hay ngoài nước hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Điều
này thể hiện quyết tâm của nhà nước trong việc đưa ngành NHVN hội nhập vào
các chuẩn mực quốc tế.
Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại trở nên
phong phú và đa dạng hơn bao giờ hết. Bên cạnh các nghiệp vụ ngân hàng mang
tính truyền thống thì các ngân hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài
chính mới, hiện đại, những nghiệp vụ tài chính mới này có thể đem lại lợi nhuận rất
cao cho NHTM, nhưng nó cũng chứa đầy những rủi ro. Để có thể hạn chế được rủi
ro này, ngân hàng sẽ phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa là trích lập các dự
phòng rủi ro, dự trữ bắt buộc và sử dụng các công cụ tài chính phái sinh
2.1.3.5 Rủi ro tác nghiệp
Phân tích, đánh giá về rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián tiếp do cán bộ
ngân hàng, quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt
động hoặc do các sự kiện bên ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng
Một ví dụ về rủi ro tác nghiệp Tại một chi nhánh của Ngân hàng ngoại
thương, Ngày 30/10/2006 một khách hàng đến chi nhánh VCB tại Vinh nộp 4
triệu VNĐ vào tài khoản. Do thanh toán viên đã sơ suất khi thao tác trên máy tính
nên chọn nhầm mã nộp là AUD (đô la Úc) thay vì VNĐ (đồng Việt Nam) nên số
tiền được chương trình máy tính tự động quy đổi thành 48.510.360.000 VNĐ và
được ghi có vào tài khoản của khách hàng, cũng may sự việc đã được kịp thời
phát hiện và được khắc phục.
Một ví dụ khác tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), đầu
năm 2008 khi rà soát hoạt động của các chi nhánh, ngân hàng này phát hiện vụ
việc lừa đảo rút tiền từ BIDV khoảng 200 tỷ đồng, nhân viên ngân hàng đã lừa
đảo lập các sổ tiết kiệm tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và
sửa chữa số dư tiền gửi trong sổ cao hơn nhiều lần so với giá trị thực. Sau đó, họ
mang sổ tiết kiệm cầm cố tại BIDV để rút tiền. Do móc nối với một số nhân viên
của BIDV, việc cầm cố diễn ra suôn sẻ và các sổ tiết kiệm qua được các khâu
55
kiểm soát của ngân hàng. Việc lừa đảo được thực hiện hoàn toàn thủ công, nên đã
qua mắt hệ thống công nghệ của Vietcombank cũng như BIDV, Người trực tiếp
lập các sổ tiết kiệm để mang đi cầm cố là một nhân viên Vietcombank, việc lừa
đảo diễn ra tinh vi gây hậu quả nghiêm trọng.
Qua ví dụ thực tế về những rủi ro tác nghiệp tại một số NHTM Việt Nam
do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do cán bộ ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ, nhiệm vụ không được uỷ
quyền hoặc phê duyệt vượt quá thẩm quyền cho phép và không tuân thủ theo quy
định, quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng và các văn bản pháp luật hiện hành. (đã
được minh họa rõ về việc kinh doanh ngọai tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam 3 tháng lỗ 447,6 tỷ đồng phần trên)
- Do không tuân thủ các quy định /quy trình của hệ thống hỗ trợ,
- Không chấp hành nội quy cơ quan, Hợp đồng lao động và các văn bản
pháp luật đối với người lao động nơi công sở như: an toàn lao động, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng...
- Có hành vi lừa đảo và/hoặc hành động phạm tội, câu kết với đối tượng
bên ngoài nhằm trục lợi cá nhân gây thiệt hại cho ngân hàng.
- Ngòai ra do quy định, quy trình nghiệp vụ còn nhiều điểm bất cập, chưa
hoàn chỉnh, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng
- Rủi ro từ hệ thống công nghệ thông tin: Do dữ liệu không đầy đủ hoặc hệ
thống bảo mật thống tin không an toàn; Do thiết kế hệ thống không phù hợp, gián
đoạn của hệ thống (xử lý, truyền thông, thông tin) và/hoặc do các phần mềm /các
chương trình hỗ trợ cài đặt trong hệ thống lỗi thời, hỏng hóc hoặc không hoạt
động, Ví dụ như máy rút tiền ATM, mọi công đoạn từ kiểm tra bảo mật, xử lý
thông tin, chi trả tiền đều do máy ATM tự động thực hiện, do vậy đã có nhiều
trường hợp khách hàng được trả tiền nhiều hơn bút toán ghi nợ hoặc có khi khách
hàng không nhận được tiền như vẫn bị trừ tiền trên tài khoản do máy đếm tiền
không chính xác hoặc do lỗi hệ thống.
- Do việc chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ chưa kịp thời, chưa hiệu quả hoặc
chồng chéo gây khó khăn, ách tắc cho bộ phận nghiệp vụ; Do cơ chế, quy chế về
công tác hỗ trợ chưa phù hợp, chưa đáp ứng các yêu cầu hỗ trợ cho bộ phận
nghiệp vụ.
56
- Do hành vi lừa đảo, trộm cắp và/hoặc phạm tội của các đối tượng bên
ngoài hệ thống ngân hàng: Có trường hợp tự báo mất thẻ VISA sau đó tới ngân
hàng khác rút tiền, nếu hệ thống không cập nhật kịp thời thì kẻ lừa đảo đã có thể
lấy được tiền của ngân hàng.
- Rủi ro do các sự kiện bên ngoài và/hoặc do tự nhiên (động đất, bão...) gây
gián đoạn thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
- Rủi ro các văn bản, quy định của chính phủ, các ban ngành liên quan có sự
thay đổi hoặc có những quy định mới làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Biện pháp hạn chế rủi ro tác nghiệp hiện đang áp dụng cho các Ngân hàng
thương mại Việt Nam
Nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố con người, các Ngân hàng luôn
chú trọng việc đào tạo bồi dưỡng tư cách đạo đức của cán bộ nhân viên nghiệp vụ
gắn liền với chế độ trả lương, thưởng tương xứng với trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của từng cá nhân thừa hành. Các NHTM phối hợp với các đơn vị liên quan tổ
chức các khoá đào tạo bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đề kháng đối với
các rủi ro tác nghiệp. Nhiều ngân hàng thành lập trung tâm đào tạo cán bộ cho
ngành như BIDV, Vietcombank, Agribank .v.v.
Bên cạnh công tác đào tạo cán bộ thì các Ngân hàng luôn cải tiến hệ thống
quản lý công nghệ thông tin gắn kết với việc xử lý, bảo mật và tính chính xác trong
qui trình nghiệp vụ. Chú trọng hơn nữa đến đầu tư công nghệ thông tin nhằm phục
vụ cho việc phân tích đánh giá đo lường rủi ro , trong đó có rủi ro tín dụng.
Các quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng luôn quy định chặt chẽ từng thao tác
thông thường mỗi giao dịch thực hiện thường qua 03 công đoạn (Thực hiện nghiệp
vụ - Kiểm soát nghiệp vụ - Phê duyệt nghiệp vụ) một số giao dịch rủi ro thấp thì ít
nhất cũng qua 02 công đoạn (Thực hiện nghiệp vụ - Kiểm soát phê duyệt)
Đẩy mạnh công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống. Xây
dựng các giải pháp chính sách để hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán
nội bộ trong các tổ chức tín dụng và tiến tới theo các chuẩn mực quốc tế. Hoàn
thiện mô hình thanh tra ngân hàng theo ngành dọc từ trung ương đến cơ sở và có
sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy
của NHNN. Ứng dụng những nguyên tắc cơ bản về giám sát hiệu quả hoạt động
ngân hàng của ủy ban Basel, tuân thủ các nguyên tắc thận trọng trong thanh tra.
57
2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Tác động và ảnh hưởng đến năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của NHTM bao gồm rất nhiều các yếu tốc khác nhau từ vấn đề con người
đến cơ cở vật chất và kỹ thuật; từ môi trường pháp lý, thể chế chính trị đến các
vấn đề quy mô, đặc điểm sản xuất kinh doanh, tâm lý, xã hội của khách hàng,
vv…, liên quan đến hoạt động kinh doanh NHTM. Trong nội dung này của luận
văn sẽ tổng hợp các nhân tố trên thành 4 nhóm, trong đó các nhóm; (1) chất lượng
nguồn nhân lực; (2) năng lực tài chính của ngân hàng; (3) điều kiện về cơ sở vật
chất và kỹ thuật là những nhân tố chủ quan thuộc về bản thân ngân hàng; và nhóm
(4) môi trường kinh tế xã hội và kinh doanh sẽ phản ánh các nhân tố mang tính
khách quan.
2.2.1 Chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng của nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng nhất quyết
định đến năng lực quản trị rủi ro của NHTM. Nguồn nhân lực tác động đến năng
lực quản trị rủi ro của ngân hàng bao gồm từ nhận thức và quan điểm cho đến khả
năng chuyên môn của ban lãnh đạo, đội ngũ cán bộ quản trị rủi ro và toàn bộ cán
bộ công nhân viên của ngân hàng.
Trước hết, quản trị rủi ro chỉ có thể được thực hiện tốt xuất phát từ quan
điểm, nhận thức của ban lãnh đạo ngân hàng. Tiếp theo, chất lượng đội ngũ cán
bộ của phòng quản trị rủi ro, những cán bộ tác nghiệp trực tiếp thực hiện nhận
biết, xác định, phân tích và đo lường rủi ro, tạo cơ sở cho việc ra quyết định kinh
doanh và kiểm sóat rủi ro. Chất lượng chuyên môn và ý thức nghề nghiệp của các
bộ thuộc bộ phận này trực tiếp quyết định đến năng lực quản trị rủi ro của NHTM
về sự chính xác hiệu quả trong từng nội dung và các bước của quy trình quản trị
rủi ro.
Cuối cùng là chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc tại các phòng ban chuyên
môn khác: cán bộ phòng tín dụng, phòng nguồn vốn, cán bộ phòng nghiên cứu thị
trường, phòng kinh doanh ngoại tệ v.v…, cũng rất quan trọng bởi vì họ chính là
những người trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh doanh mặt đối mặt và chịu
đựng những tổn thất khi xảy ra rủi ro. Những kỹ năng, kinh nghiệm và ý thức tác
58
nghiệp của những cán bộ này tác động rất lớn đến hoạt động quản trị rủi ro và
nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NHTM.
2.2.2 Năng lực tài chính của ngân hàng:
Năng lực tài chính tốt cho phép các NHTM có khả năng huy động nguồn
vốn lớn và cho phép tiến hành các hoạt động kinh doanh đa dạng phong phú, do
vậy không những có thể giảm thiểu rủi ro mà còn có khả năng chấp nhận tổn thất
rủi ro. Với ý nghĩa đó, năng lực tài chính của ngân hàng là một nhân tố quan trọng
tác động đến năng lực quản trị rủi ro được đánh giá trên hai khía cạnh: quy mô
vốn chủ sở hữu và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
2.2.3 Quy mô vốn chủ sở hữu:
Theo quy định chung, quy mô vốn chủ sở hữu lớn thì khả năng huy động
nguồn vốn của ngân hàng (gấp 20 lần vốn chủ sở hữu) sẽ lớn, nguồn vốn lớn sẽ
cho phép ngân hàng hoạt động với quy mô lớn và đa dạng hóa. Quy mô vốn chủ
sở hữu lớn đồng thời cũng là khả năng chịu đựng tổn thất rủi ro lớn. Khi rủi ro
xảy ra, các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bởi trước tiên là lợi
nhuận thông qua quỹ dự phòng rủi ro, sau đó là cuối cùng là vốn chủ sở hữu của
ngân hàng. Các ngân hàng với quy mô vốn lớn luôn có uy tín cao và được khách
hàng tin cậy nhiều hơn và đó là điều kiện quan trọng đảm bảo an toàn cho hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra với quy mô vốn chủ sở hữu lớn, các
ngân hàng luôn có khả năng hòan thiện các điều kiện về cơ sở vật chất và bố trí
nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động quản trị rủi ro có hiệu quả.
Các ngân hàng đứng đầu trong số các NHTM của Mỹ 2002 đã nêu trên, có
lợi nhuận và khả năng tăng trưởng vốn cao cũng là những ngân hàng có khả năng
quản trị rủi ro tốt và luôn có tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản có nguy cơ rủi ro ở
mức ít nhất 12% đối với các ngân hàng lớn và 17% đối với các ngân hàng nhỏ,
trong khi quy định của bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC) cũng như của hầu
khắp các nước khác chỉ là 8%.
2.2.4 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng cách so sánh vốn chủ sở
hữu với tài sản có nguy cơ rủi ro và là quy định chung đối với các NHTM nhằm
đảm bảo an toàn chung cho cả hệ thống ngân hàng. Theo Basel II, tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu được xác định như sau:
59
Vốn tự có (vốn cấp 1 + vốn cấp 2) CAR =
Tổng tài sản có khả năng rủi ro
Quy định của Basel II về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%. Tuy vậy, các
NHTM hàng đầu ở Mỹ luôn có tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản ở mức 9,2%
và tỷ lệ an toàn vốn ở mức thấp nhất là 10% và cụ thể hơn trong đó, tỷ lệ vốn cấp
1 (tier1) là 6% và tỷ lệ vốn cấp 2 (tier 2) là 5% theo xác suất rủi ro của mỗi danh
mục tài sản.
Như vậy, tương tự và kết hợp với quy mô vốn chủ sở hữu, khi đạt được tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của các hiệp hội ngân hàng hay các quốc
gia, các NHTM sẽ có khả năng chống đỡ rủi ro tốt hơn. Nếu các nhân tố khác
không đổi, quy mô vốn chủ sở hữu tăng và tỷ lệ an toàn vốn cao hơn sẽ tạo điều
kiện nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NHTM. Song cũng cần lưu ý rằng chi
phí vốn chủ sở hữu luôn rất cao và tỷ lệ an toàn vốn có quan hệ ngược chiều với
hiệu quả kinh doanh do vậy NHTM cũng cần phải định mức và duy trì các nhân
tố này ở mức nhất định.
2.2.5 Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng
Đây là nhân tố bao hàm những trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tạo điều
kiện cho cán bộ ngân hàng có thể có được hệ thống thông tin, dữ liệu cập nhật cho
phép theo dõi thường xuyên, dự báo chính xác và đầy đủ về xu hướng vận động
của nền kinh tế. Từ đó có thể đo lường về mức độ rủi ro và xây dựng các biện
pháp để chủ động và kịp thời xử lý.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ còn tác động lớn đến năng
suất lao động và chất lượng của các cán bộ công nhân viên ngân hàng. Không có
trang thiết bị cần thiết và các phần mềm tương ứng, việc áp dụng các mô hình
định lượng để ra quyết định sẽ không thể thực hiện. Ngoài ra, công nghệ hiện đại
còn góp phần làm tăng tính thông suốt của hệ thống thông tin trong nội bộ ngân
hàng và kết nối ngân hàng với thị trường tài chính trong nước và quốc tế, cho
phép thực hiện các nghiệp vụ giao dịch kinh doanh và phòng chống rủi ro một
cách hiệu quả nhất.
60
2.2.6 Môi trường kinh tế xã hội và kinh doanh
Dù các ngân hàng có đầy đủ khả năng về nguồn nhân tài vật lực và các yếu
tố chủ quan khác nhưng môi trường pháp lý, kinh tế xã hội không thuận lợi thì
năng lực quản trị rủi ro dù được đánh giá cao cũng không thể trở thành hiện thực
và không thể đóng góp hiệu quả cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.Trong khi
việc phòng chống rủi ro lại phải tuân thủ theo các quy định của ngân hàng trung
ương hay của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Trong những trường hợp như
vậy, năng lực quản trị rủi ro của các NHTM hầu như không phát huy tác dụng do
vậy không được chú trọng và củng cố.
Sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và tiền tệ liên ngân hàng
nói riêng là yếu tố quan trọng thứ hai đối với việc nâng cao năng lực quản trị rủi
ro của NHTM. Hầu hết các hoạt động của các NHTM đều có quan hệ với nhau và
các ngân hàng thường xuyên giao dịch trên thị trường tiền tệ. Những hoạt động
của thị trường tiền tệ ngày nay trở thành điều kiện sống còn của các NHTM bởi lẽ
thị trường này không chỉ là cơ sở hình thành lãi suất, tỷ giá mà còn là nơi đáp ứng
nhu cầu về khả năng thanh toán và thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh để
phòng chống rủi ro. Giống như điều kiện về môi trường pháp lý, nếu thị trường
tiền tệ liên ngân hàng không phát triển, năng lực quản trị rủi ro trở lên không hòan
tòan có ý nghĩa.
Nhận thức của khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân của ngân hàng
là yếu tố quan trọng thứ ba trong nhóm này, bởi lẽ những suy tính và hành vi giao
dịch của khách hàng góp phần nhất định và rủi ro, chia sẻ rủi ro và đặc biệt là
hành vi phản ứng của khách hàng khi rủi ro xảy ra. ở những nước có trình độ
nhận thức cao, thị trường tài chính phát triển các hoạt động quản trị rủi ro không
chỉ có ý nghĩa mà còn rất được chú trọng phát triển. Khách hàng, dù là các cá
nhân cũng có thể áp dụng các công cụ phòng chống rủi ro để bảo vệ lợi ích của
bản thân và góp phần bảo đảm an toàn cho thị trường. Trái lại, ở những nhận thức
của công chúng hạn chế, dễ nảy sinh tâm lý hoảng lọan, đầu tư hay rút tiền ồ ạt
theo cảm tính, v.v…, sẽ tác động không thuận lợi đến năng lực và hiệu quả quản
trị rủi ro của các NHTM.
Ngoài ra, trong điều kiện các nước theo đuổi và thực hiện chính sách mở
cửa, hội nhập quốc tế như hiện nay thì ảnh hưởng của tình hình thị trường quốc tế
61
đến việc năng lực quản trị rủi ro càng mạnh mẽ hơn trên cả hai mặt tích cực và
tiêu cực. Về mặt tích cực, các ngân hàng có thể mở rộng hoạt động kinh doanh cả
về quy mô và phạm vi, theo đó các nghiệp vụ phòng chống rủi ro cũng được vận
hành một cách dễ dàng hơn. Cơ hội học tập kinh nghiệm và chuyển giao công
nghệ quản trị rủi ro cũng được thực hiện nhanh chóng với chi phí thấp. Song về
mặt tiêu cực, quan hệ tài chính phát triển thì rủi ro xảy ra nhiều hơn, tính chất
phức tạp và phạm vi tác động ảnh hưởng cũng rộng lớn hơn.
2.3 Những thách thức đối với ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều
kiện hiện nay
Trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia vào quá trình hội nhập chung, các
ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn.Tuy nhiên để đạt được
các mục tiêu định hướng phát triển của lĩnh vực ngân hàng, trước nhu cầu mới,
ngành NHVN cũng đang phải đối mặt với những thách thức lớn:
2.3.1 Về hành lang pháp lý
Hệ thống thông tin báo cáo tài chính, kế toán và thông tin quản lý còn chưa
đạt tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam
còn chưa có các Chuẩn mực tương đồng với các Chuẩn mực kế toán Quốc tế về công cụ
tài chính, đặc biệt trong đó là các Chuẩn mực IAS 39 "Các công cụ tài chính: Ghi nhận
và xác định giá trị"; IAS 32 "Công cụ tài chính: Thuyết minh và trình bày thông tin”.
Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ còn yếu, thiếu tính độc lập; Hệ thống
pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất
quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng. Vì vậy có
hạn chế nhất định đối với sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và phát triển thị
trường tiền tệ. Luật hoạt động của các tổ chức tín dụng hiện hành còn có một số
điểm hạn chế như:
- Luật còn khái quát, chưa cụ thể, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ như vấn đề liên
quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng. Có những phần chưa quy định hoặc
phân công trách nhiệm cụ thể cho Chính phủ hay Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước, gây khó khăn cho quá trình thực thi. Các văn bản hướng dẫn luật chưa được
ban hành kịp thời; nhiều thuật ngữ trong Luật Các TCTD chưa được định nghĩa
thật chính xác dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thiếu định nghĩa một số thuật
62
ngữ cần thiết như: "dịch vụ ngân hàng", "ngân hàng liên doanh", "chi nhánh ngân
hàng nước ngoài", "chống rửa tiền"…
Nhiều công cụ chính sách tiền tệ xét về nguyên lý là công cụ điều tiết gián
tiếp, nhưng trong sử dụng thực tiễn lại là những công cụ lưỡng tính vừa can thiệp
gián tiếp vừa trực tiếp do thiếu điều kiện phát huy vai trò đích thực của nó như công
cụ tái cấp vốn của NHTW, nghiệp vụ thị trường mở, công cụ lãi suất cơ bản. Cơ chế
điều hành tỷ giá hối đoái còn bị chi phối bởi sự phân tán về quyền quản lý ngoại tệ
quốc gia cũng như các hoạt động tự do trong lĩnh vực thanh toán và tín dụng ngoại tệ
nội địa - chưa đủ sức tạo ra một thị trường hối đoái sôi động.
Các công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu như (công cụ kỳ hạn, công cụ giao
sau, quyền chọn, hoán đổi…) còn sơ khai và còn nhiều hạn chế có thể tóm tắt quá
trình phát triển các công cụ phái sinh tại Việt Nam như trong bảng sau:
Bảng 2.4 Tóm tắt quá trình phát triển các công cụ tài chính phái sinh.
Công cụ phái sinh Năm phát triển Các lọai sản phẩm
Hoán đổi 1997 Hoán đổi lãi suất, hóan đổi tiền tệ, hóan đổi
tín dụng, hóan đổi lãi suất công dồn
Kỳ hạn 1999 Kỳ hạn về tiền tệ
Quyền chọn 2003 Quyền chọn tiền tệ, quyền chọn vàng,
quyền chọn lãi suất
Giao sau 2004 Giao sau càfê
Nguồn:“Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hậu WTO” – PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang.
Việc tính thuế cũng là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển
công cụ phái sinh, chẳng hạn như quy định về mức thuế đánh trên lãi thu được từ
việc thực hiện nghiệp vụ hoán đổi. Nhiều ý kiến bày tỏ, quy định này vừa kìm
hãm vừa khó thực hiện vì lãi suất thả nổi biến động hàng ngày. Hơn nữa, công cụ
phái sinh mang bản chất phòng ngừa rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận chứ không
phải vì mục đích kiếm lời
Cấu trúc hệ thống ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều rộng (cả ở
khu vực quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng còn quá cồng kềnh, dàn trãi,
chưa dựa trên một mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt
động còn kém so với khu vực
63
Mô hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
vẫn mang tính chất “độc canh”. Sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, thiếu các định
chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như: quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản
có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ .v.v.
Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn bất cập so với nhu cầu của
nghiệp vụ mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động nghiên cứu chiến lược và khoa học
ứng dụng làm cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ ngân hàng của Việt Nam
còn khá xa so với khu vực.
2.3.2 Về khả năng cạnh tranh
Trong những năm qua, ngành Ngân hàng đã có nhiều đổi mới, song đến
nay, hệ thống NHVN vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, năng lực tài chính của
nhiều NHTM còn yếu, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. Các chỉ số đánh giá về nợ
quá hạn, về đảm bảo an toàn vốn, về tỷ trọng chi phí quản lý trong doanh số hoạt
động … so với chuẩn quốc tế đều còn ở mức thấp.
Dịch vụ ngân hàng của các NHTM Việt Nam còn đơn điệu, nghèo nàn,
tính tiện lợi chưa cao, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các khách hàng
thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng,
đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau không có nhiều sự
khác biệt. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các
ngân hàng, các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới
kinh doanh, tư vấn dự án phát triển hạn chế
Hoạt động tín dụng được mở rộng nhanh chóng nhưng rủi ro tín dụng chưa
được kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với chuẩn mực quốc
tế và yêu cầu hội nhập;
Đội ngũ lao động của các NHTM Việt Nam khá đông nhưng trình độ
chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của điều kiện hội nhập. Cơ
cấu tổ chức trong nội bộ nhiều NHTM còn lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn
mực quản lý hiện đại đã được áp dụng phổ biến ở các nước trong nhiều năm qua.
Công nghệ ngân hàng còn yếu kém. Hệ thống mạng nối kết giữa các ngân
hàng còn nhiều hạn chế, công tác triển khai công nghệ mới còn chậm (có thể thấy
mạng lưới họat động của các máy ATM, có những khu vực tập trung rất nhiều
máy của những ngân hàng khác nhau gây lãng phí nếu việc kết nối hệ thống giữa
64
các ngân hàng như BankNet được triển khai sớm thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều
chi phí).
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong giai đoạn hiện nay, bất ổn kinh tế ngày càng leo thang, giá dầu tăng kỷ lục,
khủng hoảng lương thực toàn cầu, sự sụp đổ trên thị trường cho vay bất động sản
của Ngân hàng Mỹ, các ngân hàng Việt Nam chắc chắn cũng sẽ bị ảnh hưởng,
ngân hàng thương mại Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với những rủi ro về tín
dụng cho vay bất động sản, rủi ro thanh khoản, rủi ro tác nghiệp .v.v
Thời gian qua chúng ta đã chứng kiến những yếu tố rủi ro luôn cận kề các Ngân
hàng thương mại, lạm phát tăng cao, các ngân hàng nhận lãi suất thực âm, khả
năng thanh khoản ở mức báo động, một số ngân hàng gần như không hoạt động
mà trông chờ vào khả năng phục hồi và ổn định của nền kinh tế
Có thể thấy rõ rằng việc kiểm soát và phòng ngừa rủi ro đối với ngân hàng thương
mại Việt Nam trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết
65
CHƯƠNG III GIẢI PHÁP GIA TĂNG HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Căn cứ vào mục tiêu phát triển hệ thống ngân hàng trong những năm tới và
thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, để nâng cao năng lực
quản trị rủi ro của các NHTM cần tiến hành nhiều giải pháp một cách hệ thống và
liên tục, cả trong ngắn hạn và trong dài hạn.
3.1 Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại
3.1.1 Giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng
- Các NHTM cần tiến hành tăng vốn điều lệ đảm bảo tiềm lực tài chính
thật sự cho các ngân hàng này, để lành mạnh hóa tài chính và trụ vững trong quá
trình hội nhập, có như vậy chất lượng tài sản có của các NHTM mới được cải
thiện, tạo điều kiện thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có đã
hiệu chỉnh rủi ro. Bên cạnh đó để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu >8% thì yếu
tố vốn bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2 , trong đó chủ yếu vẫn là vốn điều lệ đóng
vai trò then chốt quyết định đến mức độ hoàn thành hay không hoàn thành tỷ lệ
này theo quy định của từng ngân hàng.
- Các NHTM tăng cường huy động vốn thông qua nghiệp vụ nhận tiền gửi
và các nghiệp vụ khác của Ngân hàng. Các khoản tiền này không thuộc quyền sở
hữu của Ngân hàng, nhưng Ngân hàng được quyền sử dụng như là những khoản tiền
tạm thời nhàn rỗi. Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng
nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng. Nó phản ánh rõ nhất bản chất trung gian tài
chính của hoạt động ngân hàng. Những món tiền gửi thông qua hoạt động tín dụng
của ngân hàng sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn
Tuy nhiên, các khoản tiền gửi có nguồn gốc xuất phát chủ yếu từ khoản
tiết kiệm của người dân và tiền nhàn rỗi tạm thời của các tổ chức kinh tế - xã hội.
Điều này đồng nghĩa với việc nguồn vốn này khá phân tán về không gian và quy
mô. Mặc dù vậy, đây lại chính là nguồn huy động truyền thống và quan trọng
nhất của các NHTM. Muốn khai thác tiềm năng này một cách hiệu quả và bền
vững, NHTM cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
66
- Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn.
Đa dạng hoá các hình thức và phương thức huy động vốn là yếu tố tiên
quyết để tăng cường huy động các nguồn vốn tại chỗ đối với NHTM Việt Nam,
các phương thức huy động vốn phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, tạo sự thuận tiện tối đa cho người gửi tiền. Thủ tục nhận tiền
gửi phải đảm bảo nhanh gọn, chính xác. Bên cạnh đó, các thủ tục trả lãi cũng cần
được đơn giản hoá, tránh tâm lý nặng nề giữa nhân viên ngân hàng với người
gửi. Thực hiện sản phẩm rút gốc, lãi linh hoạt sẽ tạo cho người gửi tiền tâm lý tin
cậy và thoải mái. Công tác kế hoạch hoá nguồn vốn và nhu cầu của khách hàng
phải được thực hiện tốt. Việc dự báo phải đảm bảo tính chính xác tương đối, nếu
không ngân hàng rất dễ rơi vào tình trạng thiếu tiền mặt trong những khoảng thời
gian nhất định.
Thứ hai, giảm thiểu chi phí phụ cho việc huy động đối với ngân hàng. Chi
phí huy động chính của ngân hàng là lãi trả cho người gửi tiền. Việc tối thiểu hoá
các chi phí phụ cho phép ngân hàng có khả năng tăng lãi suất huy động nhằm thu
hút người gửi tiền. Tiếp tục bổ sung, điều chỉnh các hình thức huy động truyền
thống như: Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, kỳ phiếu Ngân hàng ghi thu bằng
đồng Việt Nam, bằng ngoại tệ, bằng vàng, tiền gửi tiết kiệm có khả năng chuyển
nhượng, tiền gửi tiết kiệm gửi một nơi lấy nhiều nơi kể cả ở các ngân hàng khác
hệ thống, có như thế mới tạo được thuận lợi cho người gửi tiền có thể gửi vào, lấy
ra theo nhu cầu, kế hoạch của họ, vừa đảm bảo an toàn, bí mật và uy tín đối với
người gửi.
- Mở rộng mạng lưới huy động vốn của Ngân hàng.
Đi đối với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thì cần phải đẩy
mạnh việc mở rộng và phát triển mạng lưới hoạt động của Ngân hàng tạo ra một
cơ cấu hợp lý. Đáng chú ý là nên đặt các điểm huy động vốn ở những nơi trọng
điểm đông dân cư, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu vực kinh tế trọng điểm
mới phát triển, thị trấn, thị tứ, thị xã, gần nơi kinh doanh buôn bán lớn, các chợ,
gần các trường đào tạo chuyên nghiệp. Tuy nhiên khi đẩy mạnh việc mở rộng
mạng lưới hoạt động, Ngân hàng cần phải chú ý tính toán các chi phí có thể làm
ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh và phân bổ hợp lý tránh tình trạng
67
cạnh tranh thái quá, có điểm rất nhiều ngân hàng cùng hoạt động trong khi những
vùng khác lại không có điểm giao dịch nào.
Cùng với việc mở rộng mạng lưới thì Ngân hàng cũng cần phải củng cố
nâng cao chất lượng hoạt động của các quỹ tiết kiệm, phòng giao dịch hiện có để
thực hiện kinh doanh đa năng trong hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng có thể dễ dàng giao dịch với Ngân hàng. Với cách đó Ngân hàng sẽ
thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội.
- Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp với cơ chế lãi suất thoả
thuận do NHNN quy định.
Nếu như hoạt động chính của ngân hàng là kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ, mặt hàng kinh doanh chính là quyền sử dụng vốn thì lãi suất được ví như là
giá cả. Chính vì vậy, giá cả hay lãi suất là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong
chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Đối với hoạt động huy động vốn, lãi suất
là giá mà ngân hàng chào để mua quyền sử dụng vốn của người gửi tiền.
Song song với việc đa dạng hoá hình thức và thời hạn huy động vốn thì
vấn đề lãi suất huy động vốn cũng cần được quan tâm. Thời gian vừa qua các
Ngân hàng đã sử dụng các công cụ lãi suất để phòng chống lạm phát, Tuy việc áp
dụng công cụ này cũng còn chưa có hiệu quả, đầu vào quá cao, do đó để đầu tư
ra được thì nó tác động không nhỏ đến việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị
và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng nhưng cũng đã thu hút được một lượng lớn
vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế vào Ngân hàng để tiếp tục đầu tư trở lại
cho phát triển nền kinh tế. Nhìn chung muốn huy động được nhiều vốn cần phải
có mức lãi suất hấp dẫn với người có vốn nhàn rỗi. Từ biến động của thị trường,
ngân hàng cần đưa ra các mức lãi suất phù hợp với người gửi và người vay để họ
chấp nhận được, đồng thời ngân hàng cũng có một phần thu nhập để bù đắp các
chi phí đã bỏ ra.
Thứ ba, tiếp tục hiện đại hoá công nghệ thanh toán để tạo điều kiện thu
hút nguồn vốn hoạt động cho Ngân hàng.
Trong lĩnh vực thanh toán, nếu tốc độ thanh toán nhanh, sẽ góp phần thúc
đẩy tốc độ chu chuyển, vật tư, hàng hoá và dịch vụ. Công tác thanh toán không
dùng tiền mặt của Ngân hàng làm tốt, sẽ thu hút các thành phần kinh tế, các tầng
lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua Ngân hàng, mở rộng thanh
68
toán bằng séc cá nhân, thẻ,v.v..., từ đó tăng qui mô tiền gửi thanh toán qua Ngân
hàng. Đẩy mạnh công tác thanh toán qua Ngân hàng, một mặt Ngân hàng quản lý
và điều hành được lượng tiền mặt trong lưu thông để kiểm soát và kiềm chế lạm
phát, mặt khác thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều với lãi suất thấp để đáp
ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển và mang lại hiệu quả cho Ngân hàng.
+ Động viên khuyến khích cá nhân, doanh nghiệp đẩy mạnh việc thanh
toán bằng séc, thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động thông qua tiền gửi ngân hàng.
Từng bước áp dụng mở rộng thẻ thanh toán điện tử, thẻ thanh toán không dùng
tiền mặt và thẻ rút tiền mặt, thẻ thanh toán séc của Ngân hàng.
+ Cung ứng đầy đủ phương tiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.
Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế và dân
cư nói riêng và kinh tế nói chung. Phát triển và hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà
nhập với thông lệ quốc tế và làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành nguồn vốn theo hướng tập trung
và xây dựng cơ chế điều hành linh hoạt.
Cơ chế điều hành nguồn vốn phải đảm bảo yêu cầu đẩy mạnh việc huy động
nguồn vốn ở những địa bàn có chi phí thấp, tập trung điều chuyển vốn cho các địa
bàn có khả năng đầu tư tín dụng an toàn. Chi phí huy động vốn phải được tính toán
đầy đủ, bao gồm cả chi phí cho thông tin, quảng cáo, chi phí dịch vụ, v.v.... Vốn
điều chuyển phải đảm bảo bù đắp chi phí huy động theo nguyên tắc hạch toán công
bằng giữa các đơn vị thành viên. Phát huy thế mạnh trong việc điều hoà nguồn vốn
trong ngân hàng.
Thứ năm, tăng cường huy động các nguồn vốn trung và dài hạn, quản lý
thanh khoản và chuyển hoán nguồn tiền.
Nguồn của doanh nghiệp và các tổ chức khác thường là nguồn ngắn hạn.
Nguồn từ dân cư đã có nhiều thay đổi, nguồn trung hạn đang gia tăng thông qua
phát hành trái phiếu của ngân hàng. Cần nhấn mạnh trước tiên vai trò của các
nguồn vốn trong nước trong điều kiện của Việt Nam. Kinh nghiệm của các nước
trong quá trình phát triển kinh tế là sử dụng tối đa các nguồn nội lực. Với hơn 80
triệu dân, mặc dù còn nghèo nhưng nguồn vốn bằng tiền trong nước vẫn rất lớn.
Huy động các nguồn vốn trong nước phục vụ cho phát triển vừa làm tăng thu
69
nhập cho các tầng lớp dân cư, khuyến khích tiết kiệm, vừa hạn chế rủi ro do phụ
thuộc quá lớn vào nguồn vốn nóng từ nước ngoài.
- Đẩy mạnh tìm kiếm các nguồn vốn khác.
Trong bối cảnh hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển, mức độ cạnh
tranh trở nên gay gắt giữa các NHTM Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài
hoạt động trên địa bàn, do vậy các NHTM gặp không ít khó khăn về huy động
nguồn vốn tại chỗ, trong khi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất lớn thì việc tìm
kiếm các nguồn vốn khác ngoài vốn huy động là rất cần thiết.
3.1.2 Thực hiện mô hình kiểm soát, dự đoán và định lượng rủi ro họat
động tín dụng.
Nghiên cứu, đưa vào áp dụng các mô hình quản trị rủi ro phù hợp với các
quy định hiện hành, đặc điểm hoạt động của từng NHTM và thông lệ quốc tế.
Mô hình chất lượng: dựa trên yếu tố 5C (Character, Capital, Capacity,
Collateral, Cycle)
• Tư cách người vay (Character ): Tếng tăm của khách hàng vay, thiên ý
trả nợ, lịch sử tín dụng của khách hàng vay
• Vốn (capital) Đóng góp của các chủ sở hữu và các tỷ số nợ
• Năng lực trả nợ ( Capacity ): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ
của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán
thanh lý tài sản, hay tiền từ phát hành chứng khoán… Sau đó cần phân tích tình
hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn để đánh giá năng lực trả nợ của khách
hàng.
• Bảo đảm tiền vay ( Collateral ): đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín
dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể trả nợ vay cho ngân hàng.
• Chu kỳ hoặc các điều kiện kinh tế (Cycle, Conditions): Ngân hàng qui
định các điều kiện tuỳ theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ như cho vay
xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng.
Mô hình xác suất tuyến tính
Chia các khoản vay cũ thành 2 nhóm: nhóm rủi ro mất vốn (Zi=1) và nhóm
không rủi ro (Zi=0)
Thiết lập mối quan hệ giữa nhóm này với nhân tố ảnh hýởng týõng ứng (Xij)
Mô hình: Zi= ∑BjXij + sai số
70
BJ: phản ánh mức độ quan trọng của chỉ tiêu thứ j
Mô hình phân biệt tuyến tính
Z = 1,2X1 + 1,4X2+3,3X3+0,6X4+0,99X5
X1= TSLĐ/Tổng TSC
X2= Lợi nhuận tích lũy/tổng TSC
X3=LNTT&L/Tổng TSC
X4=giá thị trường VTC/giá trị kế toán của khoản nợ
X5 = doanh thu/Tổng TSC
Z>3: người vay không có khả năng vỡ nợ
1,8>Z>3: không xác định được
Z<1,8: người vay có khả năng rủi ro
Các chỉ tiêu trên được lượng hóa và ngân hàng căn cứ vào đó để quyết
định cho vay hay không. Để đảm bảo an toàn cho vay, hạn chế rủi ro và thất thoát
ngân hàng của các nước phát triển thường lựa chọn đối tượng cho vay và theo dõi
sát sao quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Khách hàng mới hay khách
hàng không đủ độ tin cậy muốn vay thì phải có tài sản thế chấp hay ký quỹ có tính
thanh khoản cao.
- Tổ chức lại việc thu nhập, lưu trữ và khai thác thông tin phục vụ việc ra
quyết định đầu tư, giám sát sau khi cho vay.
- Để giảm rủi ro tín dụng xuống mức thấp nhất, cần thiết có sự độc lập giữa
các chức năng: Quan hệ khách hàng, Quản lý giải ngân, Quản trị rủi ro (hiện rất
nhiều chi nhánh ngân hàng thương mại Việt Nam mỗi cán bộ quan hệ khách hàng
thực hiện tất cả chức năng trên)
- Các ngân hàng thương mại tìm hiểu về phương án kinh doanh, mục đích
vay vốn khả năng trả nợ của khách hàng thông qua các biện pháp chuyên môn và
ngoài ra cần truy cập thông tin về khách hàng thông qua trung tâm CIC Ngân
hàng nhà nước để tìm hiểu về các khoản vay của khách hàng tại các TCTD khác,
yêu cầu hồ sơ tín dụng phải có báo cáo CIC làm cơ sở xác minh việc thẩm định
khách hàng.
- Đối với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được TCTD đánh giá là
không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn
trả nợ , thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và việc phạt
71
chậm trả đối với nợ qúa hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thỏa thuận trên cơ sở
quy định của pháp luật.
Kể từ ngày Quyết định 127 có hiệu lực, việc gia hạn nợ được thực hiện
theo văn bản quy định của từng TCTD, phù hợp với quy định tại khoản 6 Quyết
định 127. Đối với những khoản vay sau khi đã phân loại vào các nhóm nợ được
coi là nợ quá hạn , nếu trong khoảng thời gian sau đó , khách hàng vay thực hiện
đúng các cam kết trả nợ và được đánh giá là có uy tín với TCTD, thì các khoản
nợ của khách hàng đó có thể được điều chỉnh vào những nhóm nợ vay có chất
lượng nợ tốt hơn, phù hợp với quy định về phân loại nợ của NHNN.
- Dự đoán yếu tố môi trường kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh như lạm phát, chính trị, tỷ giá hối đoái...
- Đa dạng hóa các danh mục cho vay.
Là việc ngân hàng đa dạng hóa danh mục cho vay để phân tán rủi ro. Việc
đa dạng hóa có thể theo đối tượng vay, mục đích và lĩnh vực sử dụng vốn vay ,
thời hạn cho vay , loại tiền cho vay… Nếu cho vay quá tập trung vào một dạng
nào đó ngân hàng có thể chịu tổn thất nặng nề khi dạng cho vay đó không đạt
hiêu quả hay đổ vỡ. Trong xu thế hội nhập, tự do hóa tài chính hiện nay cùng với
sự phát triển của khoa học công nghệ , việc phân chia địa bàn hoạt động cho các
NHTM chỉ là tương đối nên phải rất linh hoạt và mềm dẻo để tránh cạnh tranh
không lành mạnh nhưng cũng không tạo ra độc quyền bất hợp lý. Hướng phát
triển hiện nay của các NHTM là vươn ra khỏi khuôn khổ mang tính chuyên
doanh, đa dạng hóa tín dụng cho vay chống lại chia cắt thị trường. Để giảm thiểu
rủi ro, NHTW thường có các quy định bắt buộc ngân hàng phải đa dạng hóa cho
vay như không được cho một khách hàng hay một nhóm khách hàng vay quá một
tỷ lệ nào đó so với vốn của ngân hàng hay tổng vốn cho vay, hiện nay đối với 01
khách hàng vay không vượt quá 15% vốn tự có của TCTD. Một số ý kiến cho
rằng quy định tỷ lệ này hiện nay của nước ta là cứng nhắc và cản trở các doanh
nghiệp vay vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên chúng ta không nên tăng tỷ lệ quy định này
vì mức độ rủi ro tín dụng cho vay hiện nay còn rất lớn, tình trạng tài chính yếu
kém của nhiều doanh nghiệp luôn đe dọa tài chính của các ngân hàng với biểu
hiện là mức nợ quá hạn cao, nếu nới lỏng quy định này có thể đặt nhiều NHTM
vào tình trạng phá sản trong ngắn hạn. Ngoài ra , NHNN đã có cơ chế cho vay
72
hợp vốn (đồng tài trợ) để giải quyết những khoản vay quá lớn vượt khỏi giới hạn
của một ngân hàng. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận quy mô vốn ngân hàng quá
nhỏ hiện nay không cho phép mở rộng tín dụng và do đó không đáp ứng nhu cầu
vay của các doanh nghiệp lớn đang trên con đường hội nhập
Việc đa dạng hoá các danh mục cho vay các doanh nghiệp thuộc cùng
ngành, cùng quy mô, cùng lãnh thổ … vì có thể có tương quan rủi ro tín dụng
cao. Quản trị danh mục cho vay cần chỉ ra được với tỷ suất sinh lời chấp nhận
được thì tỷ trọng đầu tư tối ưu vào mỗi ngành, vùng, quy mô … sao cho rủi ro ở
mức thấp nhất.
3.1.3 Giải pháp đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong ngân hàng có chức năng cung cấp
giao dịch ngoại tệ trong thương mại quốc tế cũng như giúp luân chuyển các khoản
đầu tư quốc tế, giao dịch tài chính quốc tế và cả cung cấp các công bảo hiểm rủi
ro tỷ giá cho các khoản thu xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu, các khoản đầu tư
hay đi vay bằng ngoại tệ. Như vậy nhu cầu về ngoại tệ cho doanh nghiệp cũng
như sự phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của các NHTM trong tiến trình
hội nhập là rất lớn.
Các ngân hàng thương mại cần đa dạng hoá các loại ngoại tệ là cách phòng
tránh rủi ro trong hoạt động ngoại hối của ngân hàng. Việc đầu cơ chỉ một loại
ngoại tệ với một số lượng quá lớn có thể sẽ đem lại lợi nhuận lớn nếu đi đúng với
xu hướng biến động của tỷ giá, nhưng bên cạnh đó cũng tiềm ẩn rủi ro rất lớn và
cũng sẽ không lường hết được hiệu quả.
Cần xây dựng chiến lược kinh doanh ngoại tệ trong từng giai đoạn cụ thể
vì ngày nay bất cứ ngân hàng nào cũng có chiến lược kinh doanh cụ thể trong một
giai đoạn nhất định. Chẳng hạn như nếu ngân hàng huy động được lượng ngoại tệ
lớn thì ngân hàng sẽ phải định kế hoạch đầu tư số ngoại tệ này tương ứng với thời
hạn huy động.
Để hạn chế rủi ro ngoại hối, NHTM có thể áp dụng giải pháp cho vay bằng
loại ngoại tệ này nhưng thu nợ bằng loại ngoại tệ khác ổn định hơn với tỷ giá đã
được ấn định trứơc trong hoạt động tín dụng.
Xây dựng các hạn mức kinh doanh ngoại tệ, khối lượng giao dịch, giới hạn
loại tiền kinh doanh một cách hợp lý và linh hoạt. Điều này có nghĩa là tuỳ vào
73
tình hình thị trường của các nước cũng như đơn vị tiền tệ của nước đó để đưa ra
được kế hoạch đầu tư sao cho hợp lý và hiệu quả.
Để đo lường và hạn chế rủi ro tỷ giá, các NHTM nên giới hạn trạng thái
ngoại hối của từng loại ngoại tệ vào cuối mỗi ngày giao dịch. Ngân hàng có thể so
sánh trạng thái ngoại hối với vốn tự có, hoặc với tổng tài sản có. Với giải pháp
này, ngân hàng sẽ xác định được mức lỗ có thể xảy ra và giới hạn nó trong khả
năng chịu đựng rủi ro tối đa của ngân hàng. Ngoài ra, biện pháp này còn nhằm
mục đích đảm bảo chắc chắn rằng lỗ về tỷ giá không làm nguy hại đáng kể đến độ
an toàn trong kinh doanh của ngân hàng.
Đối với các ngoại tệ dễ biến động về tỷ giá và khó chuyển đổi, ngân hàng
nên duy trì trạng thái ngoại hối thuần thấp hơn so với các ngoại tệ ổn định và dễ
chuyển đổi.
Từ các nghiệp vụ vốn có của hầu hết các NHTM là hoạt động cho vay và
huy động vốn, các nhà quản trị ngân hàng phải điều chỉnh các khoản cho vay và
huy động vốn ngoại tệ một cách sáng suốt, tỉnh táo có kết hợp với việc nghiên
cứu sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế.
Ngoài một số phương pháp nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá trên, ngân hàng cần
trích lập một phần lợi nhuận để dành làm quỹ rủi ro về kinh doanh ngoại tệ, rủi ro
luôn luôn xuất hiện đồng thời với giao dịch mở nghĩa là trạng thái ngoại tệ không
cân bằng.
3.1.4 Đối với nghiệp vụ thanh toán.
Để hạn chế rủi ro thanh khoản mỗi Ngân hàng thương mại trung ương nên
quản lý vốn tập trung để không bị lãng phí nguồn vốn và cần phải phân chia nguồn
vốn sao cho phù hợp với mức độ rủi ro khi thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng
Nâng cao hiệu quả, cạnh tranh lành mạnh, nâng cao uy tín của hệ thống
ngân hàng bằng việc tăng vốn hoạt động đối với các ngân hàng thương mại. Một
ngân hàng có uy tín không chỉ thể hiện qua cơ cấu tổ chức, trình độ kinh nghiệm
làm việc, lợi nhuận, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn tự có, thanh toán đúng hạn mà còn
được đánh giá qua vốn hoạt động vì mức vốn thấp sẽ hạn chế ngân hàng trong
việc mở rộng nghiệp vụ.
Đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng
nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo
74
sớm những tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD thông qua việc thành lập đoàn
khảo sát trực tiếp theo nguyên tắc chọn mẫu ngẫu nhiên, phân tích báo cáo tài
chính để xác định các điểm nhạy cảm trong báo cáo tài chính và đưa ra các biện
pháp xử lý.
Mặt khác, đối với từng ngân hàng, để hạn chế rủi ro thanh khoản, các
NHTM cần xác định chính xác mức độ ổn định nguồn vốn ngắn hạn, để có thể sử
dụng một tỷ lệ nhất định nhằm bảo đảm an toàn cho việc đầu tư trung dài hạn của
ngân hàng. Đồng thời xây dựng các chính sách nhằm tạo được lòng tin đối với
người gửi tiền, khuyến khích khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài để tạo được
nguồn vốn ổn định cho ngân hàng.
3.1.5 Đối với chính sách lãi suất
Hiện nay ngân hàng đang rơi vào chu kỳ lãi suất tăng. Do vậy rủi ro về lãi
suất sẽ rất lớn. Vì vậy, để có thể hạn chế rủi ro lãi suất các ngân hàng cần thực
hiện cơ chế lãi suất thả nổi đối với những khoản vay lớn, thời hạn dài, bên cạnh
đó cần thực hiện việc dự báo lãi suất, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất như
cung cầu về vốn tín dụng, tỷ suất lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp, tỷ lệ
lạm phát dự kiến, chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, các Ngân hàng thương mại phải ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất
huy động vốn, lãi suất cho vay) bằng Đồng Việt Nam đối với khách hàng theo
nguyên tắc lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do
NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ. Định kỳ hàng tháng, NHNN công bố
lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, NHNN công bố điều chỉnh kịp thời
lãi suất cơ bản (Thời điểm 08/2008 lãi suất cơ bản NHNN là 14%/năm).
3.1.6 Công tác quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ.
Các NHTM cần thực hiện đồng bộ các chính sách, chế độ để nâng cao
chất lượng cán bộ. Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu kinh
doanh; khai thác triệt để mọi khả năng, tiềm năng của người lao động; phát huy
truyền thống văn hoá doanh nghiệp, tinh thần gắn bó lâu dài với doanh nghiệp;
quản lý nguồn nhân lực theo thông lệ quốc tế hiện đại phù hợp với điều kiện cụ
thể của Việt Nam.
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ, cần chú ý
các vần đề sau:
75
Một là, rà soát lại trình độ cán bộ có tính đến xu hướng phát triển dài hạn
của ngân hàng trong bối cảnh hội nhập và mở cửa thị trường tài chính để có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm hoàn thiện kiến thức chuyên môn. Đối với cán bộ
ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng, trước hết phải có một kiến thức chuyên môn
vững chắc: sâu trong lĩnh vực ngân hàng và rộng trong các lĩnh vực kinh tế xã hội có
liên quan. Do đó, căn cứ vào kết quả rà soát, ngân hàng kiên quyết và có cơ chế hỗ trợ
yêu cầu các nhân viên chưa đạt chuẩn theo các chương trình đào tạo lại. Bên cạnh đó,
do sự biến đổi nhanh của môi trường kinh doanh, ngay cả các cán bộ có chuyên môn
và kinh nghiệm cũng cần được đào tạo lại định kỳ. Mỗi cán bộ phải chuyên sâu và
giỏi một lĩnh vực, nắm được nhiều việc. Xây dựng đội ngũ chuyên gia trên các lĩnh
vực chuyên môn mũi nhọn: Sản phẩm mới, công nghệ ngân hàng.
Hai là, phổ biến và quán triệt đối với toàn bộ cán bộ, công nhân viên của
ngân hàng phưong châm: Hướng tới khách hàng để phục vụ, sự thành công của
khách hàng sẽ mang lại thành quả cho ngân hàng.
Ba là, phân công cán bộ phụ trách và theo dõi từng mảng công việc sâu
theo từng lĩnh vực để tạo ra sự chuyên môn hoá. Mặt khác, xây dựng cơ chế luân
chuyển để tránh sự trì trệ và đề phòng phát sinh các mối quan hệ không lành
mạnh với khách hàng. Quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý kế cận để có kế hoạch
theo dõi, bồi dưỡng nhằm tạo nguồn cán bộ, đảm bảo sự liên tục và kế thừa. Cơ
cấu cán bộ phải đảm bảo sự hợp lý về độ tuổi, kết hợp sự năng động và nhạy cảm
của cán bộ trẻ với kinh nghiệm của cán bộ cũ.
Bốn là, Thực hiện các chính sách động lực như: Chính sách tuyển dụng,
thu hút nhân tài; Chính sách sử dụng, bố trí nhân lực; Chính sách đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực; Về tiền lương, tiền thưởng, v.v. có cơ chế gắn liền thu nhập và
tính tự chịu trách nhiệm của cán bộ với hiệu quả công việc. Kiên quyết xử lý tình
trạng cán bộ ngân hàng lợi dụng quyền hạn để mưu cầu những toan tính cá nhân,
gây thiệt hại về vật chất và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Đối với các ngân hàng cần có trung tâm đào tạo được trang bị hiện đại,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở đào tạo trong ngành ngân hàng.
Chương trình đào tạo phải thiết thực, cụ thể nhằm trau dồi, nâng cao kỹ năng
nghiệp vụ của ngân hàng. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập
quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết
76
hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác
pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới
3.1.7 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, sức mạnh nằm trong tay những ai có đặc
quyền về thông tin. Giả định các điều kiện khác như nhau, thì phần thắng trong
kinh doanh tiền tệ thuộc về những chủ ngân hàng có đủ và sớm các thông tin cần
thiết. Hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng hết sức đa dạng và phức tạp, nhất là
trong bối cảnh nền kinh tế thông tin, kinh tế tri thức đang trở thành xu thế phát
triển mới của thời đại. Các NHTM Việt Nam không thể không tính đến sự phát
triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong
thời gian vừa qua và những năm tiếp theo. Một khi công nghệ thông tin trở thành
nhân tố không thể thiếu, chi phối hoạt động của ngân hàng thì tính phức tạp trong
xử lý nghiệp vụ được giải quyết một cách nhanh chóng mang tính hệ thống và tính
toàn cầu. Chính vì vậy, áp dụng công nghệ tiến tiến để hiện đại hoá hoạt động là
một yêu cầu tất yếu trong quá trình hội nhập của các NHTM Việt Nam
Trong lĩnh vực thanh toán, nếu tốc độ thanh toán nhanh, sẽ góp phần thúc
đẩy tốc độ chu chuyển, vật tư, hàng hoá và dịch vụ. Công tác thanh toán không
dùng tiền mặt của Ngân hàng làm tốt, sẽ thu hút các thành phần kinh tế, các tầng
lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua Ngân hàng, mở rộng thanh
toán bằng séc cá nhân từ đó tăng qui mô tiền gửi thanh toán qua Ngân hàng. Đẩy
mạnh công tác thanh toán qua Ngân hàng, một mặt Ngân hàng quản lý và điều
hành được lượng tiền mặt trong lưu thông để kiểm soát và kiềm chế lạm phát,
mặt khác thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều với lãi suất thấp để đáp ứng
nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế và mang lại hiệu quả cho Ngân
hàng. Từ đó, góp phần giảm đáng kể lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường.
Đối với các hoạt động khác như cho vay, cung ứng các sản phẩm tiện
ích, dịch vụ khách hàng, quản lý rủi ro, quản lý dự trữ và ngoại hối... vai trò của
công nghệ cũng đặc biệt quan trọng. Với các sản phẩm, tiện ích mới được triển
khai như dịch vụ gửi tiền nhiều nơi rút nhiều nơi, chuyển tiền tự động, thấu chi,
rút tiền từng phần, máy rút tiền tự động, thẻ thanh toán,v.v..., uy tín của ngân
hàng được tăng lên rất nhiều, niềm tin của công chúng đối với ngân hàng cũng ổn
định. Các dịch vụ ngân hàng cũng tạo cơ sở và thói quen cho khách hàng tiếp cận
77
với trình độ của khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập. Công tác quản lý,
điều hành và tác nghiệp được đổi mới cả về mặt hình thức lẫn quy trình với
phương thức trực tuyến, đảm bảo nhanh nhất, hiệu quả nhất.
- Công nghệ hiện đại luôn đi kèm với tính phức tạp trong điều hành và xử
lý thông tin. Do đó, cần đặc biệt chú ý và có đề án, quy chế để đảm bảo tính bảo
mật tối đa. Mặc dù trong phần mềm hệ thống đã xác lập rõ và phân quyền chi tiết
đến từng đối tượng từ khách hàng, nhân viên đến các cấp lãnh đạo cao nhất của
hệ thống nhưng thực tiễn hoạt động ngân hàng ở các nước phát triển cho thấy an
ninh mạng luôn là vấn đề gây đau đầu cho các nhà quản trị. Chỉ cần một sơ suất
nhỏ trong hệ thống bảo mật, thiệt hại cho ngân hàng là rất to lớn. Do đó, cần thiết
phải có bộ phận chuyên trách về xử lý sự cố và đảm bảo an toàn trong vận hành ở
từng NHTM
- Tiếp tục duy trì, ổn định và nâng cấp các sản phẩm ứng dụng hiện có
nhằm đáp ứng các nhu cầu nghiệp vụ trước mắt. Cần nâng cao việc chuẩn hoá
các quy trình và yêu cầu nghiệp vụ để có thể xây dựng các sản phẩm ứng dụng có
chất lượng và đáp ứng được yêu cầu ngày càng phức tạp. Đổi mới các công nghệ
nền tảng cho các ứng dụng nhằm nâng cao chất lượng và tính ổn định của các sản
phẩm hiện có.
- Nhanh chóng tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài nhằm đưa
nhanh vào ứng dụng các sản phẩm ứng dụng tiên tiến và theo tiêu chuẩn thông lệ
quốc tế, đặc biệt chú trọng các ứng dụng ngân hàng cốt lõi, từ đó phát triển tiếp các
kênh phân phối dịch vụ đa dạng cho các khách hàng. Từng bước đổi mới quy trình
nghiệp vụ phù hợp với mô hình nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
- Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật đủ về số lượng và chất
lượng thông qua tuyển dụng, đào tạo nhằm có thể đáp ứng được yêu cầu ngày
càng nhiều và phức tạp. Bồi dưỡng kiến thức quản trị dự án công nghệ thông tin
cho các cán bộ chủ chốt, phổ cập các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ ngân hàng,
đặc biệt cho đội ngũ liên quan xây dựng và quản trị các chương trình ứng dụng.
- Tăng cường sự hợp tác có hiệu quả về phát triển ứng dụng công nghệ
thông tin với các đối tác bên ngoài như: các công ty công nghệ thông tin trong và
ngoài nước, các ngân hàng nước ngoài, Cục Công nghệ Tin học Ngân hàng, …
78
Tóm lại, trong thời điểm hiện tại, các NHTM cần rà soát, chỉnh sửa và
hoàn thiện các quy trình nội bộ về hoạt động tín dụng, kinh doanh tiền tệ, ngoại
hối, thanh toán, chuyển tiền, ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với các quy
định của pháp luật có liên quan. Đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng
quy trình nghiệp vụ để triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa, xử lý rủi ro.
Báo cáo kịp thời các khó khăn, vướng mắc về hoạt động kinh doanh cho Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam để xem xét giải quyết; thực hiện việc cung cấp thông
tin và báo cáo về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng theo đúng thời hạn và
đảm bảo chính xác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3.2 Những đề xuất đối với NHNN Việt Nam
3.2.1 Thực hịên quy định chung theo sự điều chỉnh của Basel II
Từ hiệp ước Basel mới đặt ra những trụ cột cơ bản về yêu cầu vốn tối
thiểu, quy trình đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và tính kỷ luật của thị
trường. Quá trình hội nhập hệ thống tài chính - ngân hàng quốc tế đặt ra yêu cầu
cần thiết phải nâng cao tính minh bạch thông tin nhằm kiểm soát rủi ro trong hệ
thống Ngân hàng, những trụ cột này là để hướng tới đảm bảo cho hệ thống tài
chính hiện đại phát triển bền vững hơn. Việt Nam cần phải thực hiện những quy
định chung này, Basel II sắp tới sẽ không chỉ có nước phát triển áp dụng mà là cả
các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu
các tư tưởng cơ bản của Basel II để có thể vận dụng đơn giản hơn nhưng vẫn hiệu
quả cho hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Các chính sách điều hành trong hệ thống Ngân hàng cần phải được thực
hiện trên tinh thần công bằng, kiểm soát được tính an toàn của hệ thống nhưng
đồng thời phải đảm bảo tính cạnh tranh. Mỗi một chính sách ra đời vừa phải bảo
đảm an toàn của toàn hệ thống nhưng không làm hạn chế năng lực cạnh tranh của
các ngân hàng và không đi ngược với xu hướng đa dạng hóa sản phẩm và lợi thế
cạnh tranh của hệ thống tài chính hiện đại.
- Tăng cường công tác quản trị rủi ro
Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn NHTM cách thức tính toán, đo lường rủi
ro cho mình, thiết lập chương trình quản trị rủi ro của mình và gửi bản đề xuất ấy
cho NHNN. NHNN sẽ xem xét, có các điều chỉnh cần thiết, rồi xem đó là một bản
hợp đồng ghi nhớ mà NHTM phải tuân thủ, NHNN sẽ định kỳ yêu cầu báo cáo,
79
kiểm tra giám sát việc tuân thủ bản hợp đồng ấy. Mặt khác, chính NHTM phải gia
tăng tính minh bạch trong các báo cáo của mình, “trình bày” cho công chúng rõ
hơn về những rủi ro mà mình chấp nhận, các cách thức quản trị, mức độ vốn dự
phòng của mình cho các rủi ro, … Chính điều này sẽ tạo ra một “kỷ luật thị
trường” cho các ngân hàng và gia tăng tính an toàn cho hệ thống Ngân hàng. Áp
dụng theo Basel II, NHNN chỉ cần yêu cầu các ngân hàng phân loại, định mức tín
nhiệm và rủi ro của tài sản các ngân hàng (bao gồm các khoản vay), cho phép các
ngân hàng chọn lựa phương thức đánh giá rủi ro và quản trị rủi ro phù hợp (trong
số các phương pháp do Basel II đề xuất), với điều kiện phải báo cáo về cách đánh
giá, phương thức quản trị phù hợp để NHNN thông qua và giám sát. Bên cạnh đó,
theo tinh thần Basel II, cần yêu cầu các ngân hàng phải minh bạch, công khai các
thông tin về các rủi ro mình đang gặp phải, cấu trúc vốn của ngân hàng và mức độ
dự phòng, cũng như khả năng đầy đủ vốn để đáp ứng trong trường hợp có rủi ro
tức là một tỷ lệ phần trăm vốn dự phòng cần có trên các tài sản có rủi ro, tức là
phần tài sản đã được điều chỉnh cho hệ số rủi ro của chúng. Bên cạnh đó NHNN
trên cơ sở nghiên cứu cập nhật số liệu báo cáo thống kê từ các ngành, để đưa ra
dự báo về xu hướng phát triển, rủi ro có thể gặp của các ngành kinh tế từ đó các
NHTM có định hướng đầu tư một cách hiệu quả hạn chế được rủi ro
- Nâng cao tính tin cậy của các tổ chức định mức tín nhiệm.
Xếp hạng tín nhiệm được thực hiện trên trọng số rủi ro quốc gia và trọng
số rủi ro công ty. Tuy vậy, việc đánh giá và xếp hạng rủi ro của nước ta vẫn còn
những điểm chưa đồng nhất dựa trên những tiêu chuẩn xếp hạng rủi ro khác nhau
căn cứ vào các mô hình xếp hạng rủi ro như: mô hình ICRG ( International
country risk guide, mô hình Beta quốc gia, …. ). Điều này có thể xuất phát từ
những quan điểm khác nhau trong đánh giá rủi ro nhưng nguyên nhân quan trọng
hơn hết là tính minh bạch và sự thống nhất trong các thông tin được công bố.
Vấn đề này cũng tồn tại trong các xếp hạng tin nhiệm đối với các công ty, vì vậy
để đảm bảo độ tin cậy của bảng xếp hạng này làm cơ sở cho quản trị rủi ro của
các NHTM, các doanh nghiệp cần gia tăng tính trung thực, kịp thời và chịu trách
nhiệm về các thông tin do mình công bố, đồng thời, Nhà nước cần có những biện
pháp chế tài thích đáng trong những trường hợp vi phạm các quy định về công bố
thông tin, tránh tình trạng “ giơ cao đánh khẽ” như thời gian qua.
80
- Phối hợp các ban ngành liên quan để hoàn thiện hệ thống kế toán theo
thông lệ quốc tế.
Xây dựng các giải pháp chính sách để hoàn thiện phương pháp kiểm soát
và kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng, phối hợp với các bộ, ngành hòan
thiện hệ thống kế tóan theo chuẩn mực kế tóan quốc tế (IAS).
3.2.2 Phát huy sức mạnh tài chính cho các NHTM:
Phương án then chốt trong việc tăng sức mạnh tài chính cho các NHTM là
giảm bớt số lượng những tổ chức tài chính nhỏ, không đáp ứng nhu cầu vốn tối
thiểu, tăng cường số lượng các ngân hàng có quy mô vốn lớn, hoạt động hiệu
quả. Có thể thực hiện được điều này thông qua một số giải pháp như: Trước hết,
thực hiện tăng vốn tự có của các ngân hàng bằng lợi nhuận giữ lại, cho phép và
khuyến khích các ngân hàng phát hành cổ phiếu, trái phiếu huy động vốn dài hạn
trên thị trường chứng khoán sơ cấp .v.v.
Thứ hai, nhanh chóng xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân
đối. Xây dựng cơ chế ngăn chặn sự gia tăng của nợ xấu mới. Nâng cấp cơ sở hạ
tầng tài chính cho các NHTM, phát triển thị trường vốn theo hướng tạo điều kiện
đa dạng hóa các chủ thể tham gia, các công cụ và phương thức giao dịch trên thị
trường, đặc biệt là các sản phẩm phái sinh, công cụ phòng ngừa rủi ro. Đồng thời
hỗ trợ tổ chức tín dụng phát hành các giấy tờ có giá có độ an toàn cao, bao gồm
các loại trái phiếu niêm yết trên thị trường tập trung.
Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, quy định về
tổ chức, hoạt động và quản lý, điều hành thị trường tiền tệ theo hướng mở rộng
quyền tiếp cận thị trường và khả năng phát hành các công cụ tài chính có mức độ
rủi ro thấp, trong đó khuyến khích một số ngân hàng thương mại lớn có đủ điều
kiện và năng lực trở thành thành viên chủ đạo, có vai trò kiến tạo trên các thị
trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường tiền tệ phái sinh. Phát triển thị trường chứng
khoán theo hướng tăng số lượng, chủng loại hàng hóa tham gia trên thị trường.
Thực hiện tốt yêu cầu minh bạch và công khai hóa thông tin đối với mọi nhà đầu
tư. Có những quy định chặt chẽ và xử lý nghiêm những tổ chức cá nhân thực hiện
đầu cơ và tạo giá trên trị trường. Xu hướng tự do hóa tài chính và các giao dịch
tài chính là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cấp cơ sở hạ tầng
81
tài chính tại VN hiện nay. Xem xét và bãi bỏ những rào cản pháp luật, những quy
định không cần thiết gây cản trở quá trình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
3.2.3 Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho việc kinh doanh sản phẩm phái sinh:
Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có liên quan cần nhanh chóng nghiên
cứu, xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh
điều chỉnh hoạt động kinh doanh các công cụ tài chính phái sinh của các NHTM.
Do tính chất mới mẻ của các sản phẩm phái sinh nên cho đến tận bây giờ các
chuẩn mực kế toán và quy định về thuế vẫn chưa đuổi kịp với thế giới các công cụ
phái sinh. Trong rất nhiều năm, các sản phẩm phái sinh được ghi chép vào các
khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán (như ở Việt Nam thì hạch toán vào các chi
phí khác, chi phí tài chính, doanh thu từ hoạt động khác, hoạt động tài chính …)
vì thế cho nên rất khó xác định từ các báo cáo tài chính truyền thống các công cụ
phái sinh nào được sử dụng và tác động của những giao dịch phái sinh lên thu
nhập của công ty như thế nào. Hầu hết những khó khăn này bắt nguồn từ việc sử
dụng rộng rãi và các ứng dụng của các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro,
nên đã tạo ra các phức tạp đáng kể trong kế toán.
Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, việc xây dựng và ban hành các
văn bản nêu trên cần phải lưu ý một số vấn đề pháp lý sau đây:
Về hình thức văn bản: Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Nhà nước xem xét
ban hành luật giao dịch công cụ tài chính phái sinh điều chỉnh thống nhất về tổ
chức, hoạt động của thị trường tài chính phái sinh (không chỉ chú ý vào các thị
trường có tổ chức như sàn giao dịch giao sau, sàn giao dịch quyền chọn, mà phải
chú ý vào các giao dịch OTC vì theo kinh nghiệm thì đây là những giao dịch phổ
biến hơn tại Việt Nam) và hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh
như thông lệ ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực.
Về mặt quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh các công cụ tài
chính phái sinh của các NHTM theo nguyên tắc và theo thông lệ quốc tế, các
NHTM có thể tham gia thực hiện các nghiệp vụ phái sinh theo một trong các tư
cách: (1) Người cung cấp dịch vụ ngân hàng liên quan đến công cụ phái sinh hoặc
cung cấp dịch vụ môi giới, tư vấn cho khách hàng mua, bán công cụ phái sinh (
ngân hàng cung cấp dịch vụ); (2) Nhà đầu tư mua, bán các sản phẩm phái sinh.
82
Theo loại tài sản cơ sở, các sản phẩm phái sinh có thể chia thành các sản phẩm
phái sinh dựa trên tài sản tài chính (như ngoại tệ, lãi suất, cổ phiếu, trái phiếu,
khoản vay, tiền gửi …) và các sản phẩm phái sinh dựa trên hàng hoá (như gạo,
cao su, cà phê, xăng dầu …)
- Xây dựng tiêu chí trong việc quản lý và cấp phép sản phẩm phái sinh
Nâng cao tiêu chí trong việc cấp giấy phép và đòi hỏi kỹ thuật đối với các
NHTM dựa trên những tiêu chuẩn về độ vững chắc tài chính và các chỉ số an tòan
trong họat động các Ngân hàng thương mại; căn cứ vào tính chất của từng loại
hình công cụ phái sinh, mức độ rủi ro và tư cách tham gia vào giao dịch phái sinh
của NHTM để có hình thức quản lý phù hợp.
Thứ nhất, nhóm các hoạt động /dịch vụ không cần xin phép là các dịch vụ
ngân hàng cung cấp cho khách hàng kinh doanh các công cụ phái sinh như hoạt
động môi giới, tư vấn, nhận ủy thác và quản lý tài khoản đầu tư vào các sản phẩm
phái sinh của khách hàng. Với tư cách là người cung cấp các dịch vụ cho khách
hàng đầu tư vào sản phẩm phái sinh, NHTM không phải gánh chịu rủi ro nảy sinh
từ hoạt động kinh doanh công cụ phái sinh, do vậy, việc cấp phép riêng cho các
nghiệp vụ này là không cần thiết.
Thứ hai, nhóm các hoạt động/ dịch vụ cần xin phép là hoạt động kinh
doanh công cụ tài chính phái sinh giữa các NHTM và giữa NHTM với khách
hàng. Với tư cách là một bên tham gia giao dịch mua bán các công cụ tài chính
phái sinh, các Ngân hàng thương mại sẽ phải gánh chịu rủi ro từ giao dịch nên
việc cấp phép, thanh tra và giám sát của Ngân hàng Nhà nước là cần thiết để bảo
vệ lợi ích của người gửi tiền, bảo đảm sự an toàn của bản thân ngân hàng và sự ổn
định của cả hệ thống.
Về quy trình, điều kiện cấp phép và giám sát rủi ro, do yêu cầu của quá
trình cải cách hành chính, Ngân hàng Nhà nước cần thay đổi căn bản cơ chế cấp
phép cho việc cung cấp từng dịch vụ tài chính phái sinh cụ thể của các ngân hàng
thương mại theo hướng: Ngân hàng Nhà nước không cấp phép cho từng sản phẩm
tài chính phái sinh của NHTM, mà quy định các điều kiện cần thiết để được cung
cấp từng nhóm sản phẩm tài chính phái sinh (trên cơ sở đảm bảo an toàn, có chính
sách quản trị rủi ro phù hợp, có đủ năng lực cung cấp dịch vụ). Khi có đủ các điều
kiện này, tổ chức tín dụng sẽ được thực hiện hoạt động kinh doanh các sản phẩm
83
tài chính phái sinh và Ngân hàng Nhà nước chi giám sát, thanh tra việc cung cấp
dịch vụ của tổ chức tín dụng trên cơ sở tuân thủ các điều kiện do Ngân hàng Nhà
nước quy định, Ngân hàng Nhà nước không nên quy định cụ thể các loại sản
phẩm tài chính phái sinh mà NHTM được phép cung cấp trong giấy phép của
từng ngân hàng, mà nên quy định chung theo nhóm các dịch vụ tài chính phái
sinh sẽ được cung cấp (có thể theo tiêu chí phân loại dựa vào tài sản tài chính gốc
của công cụ phái sinh như các công cụ tài chính phái sinh dựa trên giao dịch
ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế, tiền gửi, khoản vay, lãi suất …).
- Tổ chức thị trường chính thức về công cụ tài chính phái sinh, tăng cường
giám sát, quản lý thông qua các quy định và kiểm toán bắt buộc
Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức thị trường chính thức về công cụ tài
chính phái sinh, cần có các cơ chế, chính sách chặt chẽ để thị trường vận hành
thông suốt. Đồng thời, cơ quan giám sát an toàn thị trường tài chính phải có đầy
đủ thông tin và có năng lực thanh tra, giám sát tốt đối với các thành viên tham gia
thị trường.
Để đảm bảo thị trường công cụ phái sinh hoạt động hiệu quả cần thực hiện
các quy định sau:
+ Quy định giới hạn giá mua và mức phí các sản phẩm phái sinh
Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá
cao hay quá thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác,
đây là những quy định nhằm kiểm soát các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc
kết hợp các chiến lược phòng ngừa rủi ro trong các sản phẩm phái sinh là rất
phong phú, nó cho phép kết hợp vừa phòng ngừa vừa tiến công khi có cơ hội (đặc
biệt đối với các định chế muốn tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiên mặt trái là đầu cơ
rất cao. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các sản
phẩm phái sinh đăc biệt là sản phẩm quyền chọn
+ Quy định về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh
Ngân hàng Nhà nước cần phải đưa ra quy định về mức tài khoản ký quỹ và
mức duy trì cao hơn mức quy định trên thị trường thế giới để bảo đảm việc tuân
thủ hợp đồng mặc ngay cả trong những khi có biến động cao trong giá, có thể lên
tới 25% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà
môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù
84
họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao
dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các
ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi
ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới
+ Quy định bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế
Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống NHTM trong nước
không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc
kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong
nước và sau đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng
trong hầu hết các nứơc phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt
buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến
những yếu kém về vốn trong hệ thống NHTM, Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét
và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch hoán đổi theo quy định
quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm từ
các giao dịch phái sinh trong nước
+ Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các
hợp đồng phái sinh
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ
biến hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể
nói “thí điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách.
Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ
là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế
giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người
mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công
cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư,
hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với
cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên
những thị trường bất đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì
thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ
các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên đi liền với đó
là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này
85
Thực hiện cơ chế giám sát các thành viên tham gia thị trường bằng
việc thanh tra trực tiếp hoặc yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính
(Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả
thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường
phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau,
tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch)
- Tư vấn, đào tạo các công cụ phái sinh và phòng ngừa rủi ro cho các
doanh nghiệp (đối tác mua, bán công cụ tài chính phái sinh với các NHTM)
Sản phẩm phái sinh là loại sản phẩm cao cấp và tương đối phức tạp. Việc
kết hợp các sản phẩm này trong các chiến lược phòng ngừa rủi ro rất đa dạng và khó.
Hiện nay các doanh nghiệp tuy có nhu cầu phòng ngừa rủi ro nhưng đa số họ chưa
biết sử dụng công cụ này. Muốn cho các doanh nghiệp triển khai chiến lược phòng
ngừa rủi ro thì vai trò tư vấn vô cùng quan trọng, đây là một quá trình dài cùng với
việc đào tạo thực tiễn về các công cụ phái sinh. Ngân hàng Nhà nước cùng với các
NHTM vừa phải đảm nhiệm vai trò đào tạo thực tiễn vừa làm công tác tư vấn cho
các doanh nghiệp về cách sử dụng các chiến lược phòng ngừa cũng như tổ chức các
chương trình quản trị rủi ro phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp.
- Xây dựng văn hoá quản trị rủi ro cho toàn xã hội
Hiện nay trong nền kinh tế nước ta tồn tại một tâm lý ỷ lại và liều lĩnh khá
phổ biến. Đó là người dân sẵn sàng đi gửi tiền ở một ngân hàng có số vốn khá
nhỏ, lại thường xuyên phải đi vay tiền trên thị trường liên ngân hàng để bù đắp
thanh khoản hàng ngày. Người dân “ liều lĩnh” như vậy một phần vì họ thiếu
thông tin, nhưng quan trọng hơn là vì họ ỷ lại Ngân hàng Nhà nước sẽ “bảo kê”
cho hệ thống ngân hàng, không để xảy ra hiện tượng khủng hoảng tín dụng như
nhiều năm trước đây.
Khi đã tạo ra một văn hoá quản trị rủi ro cho toàn xã hội và có các công cụ
phòng ngừa rủi ro thì người dân và doanh nghiệp sẽ tự cứu được bản thân họ, ví
dụ khi Thị trường chứng khoán giảm giá người ta có thể bán khống cổ phiếu,
hoặc phòng phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn, cho nhà đầu tư công cụ tự bảo vệ
khi giảm giá như bán khống hay quyền chọn, vừa không đi ngược quy luật, vừa
tạo ra cơ hội kinh doanh cho công ty chứng khoán và nhà đầu tư.
86
Một số quan điểm cho rằng dùng công cụ phòng ngừa rủi ro đôi khi lại còn
bị thua lỗ nhiều hơn. Đã có biết bao người bị lỗ khi kinh doanh quyền chọn vàng,
ngoại tệ, giao sau, cà phê .. Nhưng vấn để ở chỗ là khi cho làm sản phẩm nào thì
phải khuyến khích người ta học, tìm hiểu rõ ràng về sản phẩm, phải có tư vấn bài
bản cho người dùng.
Đặc biệt đối với một nước đang phát triển như nước ta, những rủi ro các
chính sách mang tính chiến thuật ngắn hạn để đối phó với diễn biến kinh tế phức
tạp là khá lớn, thì cần phải làm cho người dân biết tự bảo vệ mình. Làm được như
vậy thì cũng tạo ta tính độc lập cho chính sách mang tính chiến lược dài hạn của
Nhà nước, không phải bận tâm ra các quy định ngắn hạn làm yên lòng dân nữa.
- Nâng cao chất lượng các công cụ đo lường rủi ro
Để xác định được mức độ rủi ro trong các hoạt động của NHTM một cách
chính xác hơn, các NHTM cần phải nâng cao chất lượng các công cụ đo lường rủi
ro cũ và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường rủi ro mới. Chẳng hạn như đối với
việc dự báo tỷ giá, để dự đoán được sự tăng hoặc giảm của tỷ giá, NHTM cần
đánh giá được tình hình ngoại tệ đó trên thị trường qua màn hình Reuter và áp
dụng mô hình dự báo tỷ giá thích hợp. Từ đó, ngân hàng tìm ra giải pháp để ngăn
ngừa rủi ro tỷ giá thích hợp. Hoặc đối với hoạt động tín dụng, cần nâng cao chất
lượng các công cụ phục vụ cho việc đánh giá cho vay đối khách hàng như cập
nhật nhanh thông tin khách hàng chính xác và hiệu quả, ứng dụng các phần mềm
hiện đại cho việc phân tích cho vay, … để từ đó giảm được rủi ro trong hoạt động
tín dụng. Tuy nhiên nếu lựa chọn một phương pháp quá hiện đại trong khi nền
tảng về cơ sở hạ tầng chưa đủ sẽ tạo ra một hiệu ứng ngược, làm tăng rủi ro trong
hoạt động của cả hệ thống NHTM trong khi các rủi ro khác vẫn còn tiềm ẩn.
Trong điều kiện của VN hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho quá trình
phân tích và đánh giá rủi ro là một trong những khó khăn lớn, bên cạnh đó còn
thiếu các văn bản hướng dẫn, thiếu các điều kiện tiên quyết về tính chủ động
trong mỗi ngân hàng cũng như khó khăn về mặt chi phí, cho nên cần lựa chọn
phương pháp đo lường rủi ro phù hợp
- Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong dự trữ
Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò cuối cùng trong hoạt động can thiệp thị
trường khi cần thiết. Tập trung dự trữ ngoại tệ có kế hoạch sử dụng hợp lý. Quỹ
87
dự trữ ngoại tệ có tác dụng khi thị trường liên ngân hàng đóng băng, ngoại tệ
khan hiếm, lúc này ngân hàng nhà nước sẽ dùng quỹ này để can thiệp. Và khi thị
trường ổn định ngân hàng nhà nước sẽ mua vào để tăng trạng thái ngoại tệ.
NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tạo ra một thị trường
ngoại hối phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ. NHNN cần tiếp tục nới rộng
biên độ dao động so với tỷ giá bình quân và thường xuyên điều chỉnh linh hoạt
biên độ này cho phù hợp với thị trường hơn. Đây là cơ sở để NHTM cũng như
doanh nghiệp quen dần với các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá.
NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều
hành nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ
chức tín dụng là thành viên thị trường. Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường
với tư cách là người mua, người bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết
vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Qua việc phân tích những rủi ro đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam,
những định hướng phát triển của hệ thống ngân hàng và những thách thức trong
quá trình hoạt động và hội nhập quốc tế, các Ngân hàng thương mại Việt Nam
cần phải xây dựng và hòan thiện những giải pháp cụ thể để phòng ngừa và kiểm
soát rủi ro. Nguyên nhân do chính bản thân ngân hàng sẽ được phòng ngừa qua
các quy trình nghiệp vụ và kỹ năng kiểm soát. Vận dụng một cách linh hoạt, kịp
thời và hợp lý các biện pháp phòng ngừa rủi ro sẽ hạn chế được rủi ro. Ngoài ra
cần có sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng nhà nước thông qua các thông tư, quyết định
và nhất là một hành lang pháp lý thông thoáng từ đó giúp các ngân hàng thương
mại Việt Nam ngày càng vững mạnh hơn trong quá trình chuẩn bị hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và kinh tế quốc tế hiện nay.
Trong chương 3 cũng đề cập nhiều đến việc phòng ngừa rủi ro thông qua
việc vận dụng các công cụ phái sinh. Giải pháp phát triển sản phẩm phái sinh nếu
được kiểm sóat tốt sẽ giảm thiểu rủi ro không chỉ cho Ngân hàng mà cho cả
doanh nghiệp
88
PHẦN KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoàng tài chính xảy ra ở Mỹ và châu Âu đầu năm 2007 đã ảnh
hưởng tới các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, Do đó trong tình hình hiện
nay việc quản trị rủi ro trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam rất cần thiết và
cấp bách. Khủng hoảng tài chính không thể một sớm một chiều mà có thể ngăn
chặn mà cần phải có thời gian và các phương thuốc thích hợp.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro, qua luận văn
này tác giả chỉ mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé về việc nhận định rủi ro và
đưa ra một số giải pháp vể quản trị rủi ro trong hệ thống Ngân hàng thương mại
Việt Nam :
1. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động kinh
doanh và rủi ro chủ yếu của Ngân hàng thương mại Việt Nam. khái niệm, bản
chất, phân loại, nguyên nhân rủi ro.
2. Luận văn đưa ra khái niệm về rủi ro tín dụng, Rủi ro thanh khoản, Rủi ro
thị trường, Rủi ro tác nghiệp và đánh giá toàn diện thực trạng và những rủi ro trong
hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Những thành tựu đã đạt được
cũng như những tồn tại trong các mặt hoạt động . Qua đó đi sâu phân tích một cách
sâu sắc những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng rủi ro trong hoạt động Ngân hàng cả
về môi trường kinh tế, pháp lý, bản thân các Ngân hàng và khách hàng của họ.
3. Luận văn đã đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện một số giải pháp
phòng ngừa rủi ro cụ thể:
- Đối với các Ngân hàng thương mại: Luận văn đã kiến nghị một số vấn đề
nhằm tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động của ngân hàng thương mại hạn chế
được những rủi ro có thể xẩy ra.
- Đối với Ngân hàng Nhà nước, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị nhằm
tạo điều kiện thuận lợi để các Ngân hàng thương mại có những công cụ phòng
ngừa rủi ro hũu hiệu.
Tuy nhiên kinh nghiệm còn hạn chế, công trình nghiên cứu không thiếu
khỏi thiếu sót. Kính mong Quý thày cô và các bạn đóng góp thêm cho luận văn.
PHỤ LỤC 1
BASEL II VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NHTM VIỆT NAM.
Giới thiệu về sự hình thành và hoạt động của Ủy ban Basel.
Ủy ban Basel được thành lập vào năm 1974 bởi thống đốc ngân hàng trung
ương của nhóm 10 nước (G10). Hiện nay, các thành viên của Ủy ban này gồm các
nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxemembourg, Nhật, Pháp, Tây
Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Các quốc gia được đại diện bởi ngân hàng
trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng. Ủy ban này được nhóm
họp 4 lần trong một năm. Trong Ủy ban còn có 25 nhóm kỹ thuật và một số bộ
phận khác được nhóm họp thường xuyên để thực hiện các nội dung công việc của
Ủy ban. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh
toán Quốc tế ở Basel. Hội đồng thư ký 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt
động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tài chính
thành viên. Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các
cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có
bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của nó không có tính pháp lý
và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy
ban này chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát
rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng
các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho
hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp
dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các
kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo cho thống đốc ngân
hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10. Từ
đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Những tiêu chuẩn bao
quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng trong công
việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ
bản là (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám
sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu đề ra, từ năm
1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên quan đến
vấn đề này. Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường
vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay
Basel I. Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn
tối thiểu là 8%. Từ năm 1988, Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia
thành viên mà còn ở hầu hết các nước khác với các ngân hàng hoạt động quốc tế.
Trong nhiều năm qua, Ủy ban Basel đã dịch chuyển nhanh chóng để đưa ra các
tiêu chuẩn giám sát rộng rãi toàn cầu. Qua việc hợp tác chặt chẽ với nhiều ủy ban
giám sát hoạt động.
Basel II được ban hành vào ngày 26/06/2004. Tài liệu này có thể làm cơ sở
cho các quá trình phê duyệt và xây dựng luật lệ quốc gia về giám sát hoạt động
ngân hàng và cho các ngân hàng hoàn chỉnh sự chuẩn bị của họ cho việc thực
hiện các tiêu chuẩn mới. Tuy nhiên, tình hình thực hiện hiệp ước đã bị đình trệ.
Tháng 9 năm 2005, các đại diện của phía ngân hàng ở Mỹ (bao gồm FED, FDIC,
OCC và OTS) đã đề nghị xem xét lại vấn đề áp dụng Basel 2 ở Mỹ. Việc này làm
tiến trình áp dụng chậm đi 12 tháng, chủ yếu là để điều chỉnh lại cách tính rủi ro
thị trường và hiệu ứng không có khả năng chi trả kép (double default effects). Và
sau đó tiến trình này tiếp tục chậm lại đến mãi tháng 11/2007 thì phía Mỹ mới
chính thức chấp nhận áp dụng Basel 2. Và tiếp đó là đến năm 2008 thì tất cả ngân
hàng của khối EU mới tiến hành báo cáo về mức độ an toàn vốn (captial
adequacy) theo chuẩn mực Basel mới. Hiệp ước Basel II bao gồm những khuyến
nghị về luật và quy định ngành ngân hàng, được ban hành bởi Uỷ ban Basel về
giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision – BCBS). Hiệp
ước mới tỏ ra là một bước tiến bộ lớn, cụ thể:
- Về mặt kinh tế, Về mặt định lượng công tác đo lường rủi ro tín dụng,
Hiệp ước này đưa ra một chọn lựa giữa các phương pháp “được tiêu chuẩn hóa”,
“cơ bản” và “nâng cao”. Nó khắc phục những hạn chế của các “tỷ số Cooke”,
bằng một số hạn chế các trọng số và một trọng số duy nhất cho mọi đối tác rủi ro
100%. Không có thay đổi nào đối với định nghĩa về vốn và vốn Cấp 1/Cấp 2 lẫn
hệ số 8%.
- Một loạt các tỷ số mới (các tỷ số McDonough) được đưa ra nhằm khắc
phục sự thiếu sót này. Các trọng số về rủi ro xác định tỷ lệ vốn quy định đối với
rủi ro tín dụng. Các trọng số được dựa trên “các thành phần” rủi ro tín dụng, sẽ
cho phép phân biệt rủi ro tín dụng rõ hơn nhiều. Các ngân hàng đã dựa vào các
trọng số quy định và tiền phạt không gắn với rủi ro, dẫn tới sự bóp méo trong
đánh giá rủi ro, giá cả và các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động đã điều chỉnh
với rủi ro v.v… Hiệp ước Mới cung cấp một khung “nhạy cảm với rủi ro” hơn, sẽ
giảm đáng kể những bóp méo như vậy. Hơn nữa, nó làm rõ rằng ưu tiên chính sẽ
là thu thập số liệu về tất cả các nhân tố quan trọng gây ra rủi ro tín dụng, sẽ tạo ra
một động cơ lớn giải quyết “sự không đầy đủ” của dữ liệu rủi ro tín dụng.
- Nó cũng mở rộng phạm vi yêu cầu vốn đối với rủi ro hoạt động. Các đo
lường về rủi ro hoạt động vẫn rất “sơ sài” trong một thời gian bởi vì thiếu thông
tin, nhưng hiệp ước này sẽ kích thích sự thay đổi một cách nhanh chóng.
Từ quan điểm kinh tế, hiệp ước này gặp phải những hạn chế về sự chính
xác của các chỉ tiêu đo lường dựa trên tiền phạt, một hạn chế được làm giảm nhẹ
bởi nhu cầu làm cân đối giữa tính chính xác và tính thực tiễn.
Basel II sử dụng khái niệm “ba trụ cột” :
Trụ cột 1: Các yêu cầu về vốn tối thiểu
Trụ cột 2: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất lượng
quản lý rủi ro của ngân hàng
Trụ cột 3: Tuân thủ kỷ luật thị trường
Ba trụ cột này sẽ góp phần tạo ra một mức độ an toàn và lành mạnh cao
hơn trong hệ thống tài chính.
Trụ cột 1: Các yêu cầu về vốn tối thiểu
Những thay đổi cơ bản đối với yêu cầu vốn tối thiểu được đề ra trong Hiệp
ước 1988 là những phương cách tiếp cận rủi ro tín dụng và tính cả những yêu cầu
vốn về rủi ro hoạt động. Hiệp ước này đưa và một loạt những “chọn lựa nhạy cảm
với rủi ro” để nhấn mạnh đến cả hai loại rủi ro. Đối với rủi ro tín dụng, những
chọn lựa này bao gồm phương pháp chuẩn hóa, với những yêu cầu đơn giản nhất,
và mở rộng thành các phương pháp Dựa trên Xếp hạng Nội bộ (IRB) “cơ bản” và
“nâng cao”. Xếp hạng nội bộ là những đánh giá rủi ro tín dụng tương đối của
người đi vay và/hoặc các tổ chức đi vay, do các ngân hàng quy định.
Hiệp ước mới mong muốn không đưa ra một sự gia tăng thuần hoặc giảm
thuần – tính trung bình – trong vốn điều lệ tối thiểu. Với các phương pháp IRB,
mục tiêu cuối cùng là nâng mức vốn điều lệ để hỗ trợ cho rủi ro tín dụng và để
đưa ra những khích lệ về vốn đối với phương pháp chuẩn hóa thông qua trọng số
rủi ro tín dụng thấp cho các phương pháp “cơ bản” và “nâng cao”.
Theo Hiệp ước mới này, mẫu số của tỷ số tổng vốn tối thiểu sẽ bao gồm 3
phần: tổng tài sản đã điều chỉnh với rủi ro đối với rủi ro tín dụng, cộng với 12,5
lần tổng tỷ lệ vốn quy định cho rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Giả định
rằng một ngân hàng có 875$ tài sản đã điều chỉnh rủi ro, vốn quy định đối với rủi
ro thị trường là 10$ và vốn quy định cho rủi ro hoạt động là 20$, mẫu số của tỷ số
tổng vốn sẽ bằng 875+[(10+20)x12.5] hay bằng 1.250$.
Các trọng số rủi ro theo Trụ cột 1
Hiệp ước mới này phân biệt rõ ràng giữa các trọng số rủi ro, sử dụng một
“danh mục” các phương pháp được chọn là “chuẩn hóa”, “cơ bản”, “nâng cao”.
Như trong hiệp ước hiện tại, các trọng số rủi ro phụ thuộc vào loại người đi vay:
quốc gia, ngân hàng, hoặc công ty. Không giống như trong hiệp ước hiện nay, sẽ
không có sự khác biệt về trọng số đối với rủi ro quốc gia phụ thuộc vào việc quốc
gia đó có là thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) hay không.
Thay vào đó, các trọng số rủi ro đối với các yếu tố rủi ro phụ thuộc vào đánh giá
tín dụng bên ngoài. Việc xử lý khả năng bị rủi ro ngoài bảng cân đối kế toán vẫn
hầu như không thay đổi trừ một vài ngoại lệ.
Để cải thiện độ nhạy cảm rủi ro trong khi vẫn giữ phương pháp chuẩn được
đơn giản, Ủy ban đề nghị cơ sở để xác định trọng số rủi ro là đánh giá tín dụng
của các tổ chức bên ngoài. Việc sử dụng các trọng số giám sát là sự khác biệt lớn
so với phương pháp IRB, mà chủ yếu dựa trên việc xếp hạng của tổ chức bên
ngoài. Phương pháp này nhạy cảm với rủi ro hơn hiệp ước hiện tại, thông qua việc
đưa thêm rủi ro công ty vào (50%), cộng với trọng số rủi ro 150% cho khả năng
xếp hạng thấp. Trường hợp không được xếp hạng có trọng số 100%, thấp hơn
trọng số 150%. Loại có rủi ro cao (150%) cũng được dùng cho một số loại tài sản
nhất định. Phương pháp chuẩn hóa không cho phép trọng số thay đổi theo kỳ hạn,
ngoại trừ trong trường hợp cho vay ngắn hạn đối với các đối tác ngân hàng trong
loại xếp hạng trung bình, nơi trọng số giảm từ 50% xuống còn 20% và từ 100%
xuống còn 50% tùy thuộc vào mức độ xếp hạng.
Loại chưa được xếp hạng có trọng số 150% có thể gây ra một hành vi “lựa
chọn ngược/bất lợi”, theo đó các thể nhân bị xếp hạng thấp có thể từ bỏ việc xếp
hạng để hưởng trọng số rủi ro 100% thay vì 150%. Mặt khác, hầu hết các công ty –
và ở nhiều nước, phần lớn các ngân hàng – không cần có xếp hạng để tài trợ cho
các hoạt động của họ. Do vậy, việc mà một người đi vay không có xếp hạng thường
không phải là một dấu hiệu về chất lượng tín dụng thấp. Hiệp ước này cố gắng phá
bỏ sự thỏa hiệp giữa các sự kiện mâu thuẫn này và khuyến khích các tổ chức thanh
gia giám sát của quốc gia có sự linh hoạt trong việc điều chỉnh trọng số. Trọng số
150% hiện nay vẫn phụ thuộc vào việc tham vấn của ngành ngân hàng.
Chúng ta đưa ra bảng về các trọng số rủi ro cho xếp hạng ngân hàng và
công ty.
Bảng 1.1: Trọng số rủi ro cho xếp hạng ngân hàng và công ty
Trọng số rủi ro ngân hàng
Từ AAA
đến AA-
A+ đến
A-
BBB+
đến BBB-
BB+ đến
B-
Dưới B- Không được
xếp hạng
Trọng số
rủi ro
0% 20% 50% 100% 150% 100%
Trọng số rủi ro công ty
Từ AAA
đến AA-
A+ đến A- BBB+ đến
BB-
Dưới BB- Không được
xếp hạng
Trọng số
rủi ro
20% 50% 100% 150% 100%
Phương pháp IRB đề ra những nguyên tắc để đánh giá rủi ro tín dụng về
mặt kinh tế. Nó đề xuất một sự xử lý tương tự với phương pháp chuẩn hóa cho rủi
ro công ty, ngân hàng và quốc gia, cộng với các chương trình riêng cho khả năng
bị rủi ro của ngân hàng bán lẻ, tài chính dự án và vốn cổ phần. Có hai phiên bản
của phương pháp IRB: phương pháp “cơ bản” và phương pháp “nâng cao”.
Đối với mỗi loại rủi ro, việc xử lý sử dụng ba thành tố chính được gọi là
“các thành phần rủi ro”. Một ngân hàng có thể sử dụng hoặc là ước tính riêng của
mình cho từng ngân hàng hoặc các ước tính giám sát được chuẩn hóa, phụ thuộc
vào phương pháp này. Một “Chức năng trọng số rủi ro” chuyển các thành phần
rủi ro thành các trọng số rủi ro để tính tài sản được điều chỉnh rủi ro.
Các thành phần rủi ro là xác suất vỡ nợ (DP), thiệt hại do vỡ nợ (Lgd) và
“Dễ bị vỡ nợ - Exposure At Default” (EAD). Ước tính về DP phải thể hiện quan
điểm bảo thủ về DP trung bình dài hạn, “thông qua chu kỳ này” hơn là đánh giá
ngắn hạn về rủi ro. Các trọng số rủi ro là một chức năng của DP và Lgd.
Kỳ đáo hạn là một thành phần rủi ro tín dụng mà sẽ ảnh hưởng đến các
trọng số rủi ro, căn cứ vào mục tiêu của độ nhạy cảm rủi ro đã tăng lên. Tuy
nhiên, việc tính đến cả kỳ đáo hạn sẽ làm tăng thêm tính phức tạp và làm nản chí
đối với việc cho vay dài hạn. Do vậy, hiệp ước này đưa ra các công thức thay thế
cho việc tính đến cả kỳ đáo hạn, mà làm giảm bớt ảnh hưởng đơn giản của cơ chế
lên vốn.
Phương pháp này đưa vào Trọng số Rủi ro Tiêu chuẩn (BRW) cho việc
tính đến ảnh hưởng của kỳ đáo hạn lên rủi ro tín dụng và các trọng số vốn. Chức
năng này phụ thuộc vào xác suất vỡ nợ DP. Các tiêu chuẩn rủi ro đề cập đến
trường hợp cụ thể của một tài sản có kỳ hạn 3 năm, với các xác suất vỡ nợ khác
nhau và một Lgd 50%. Ba điểm đại diện này thể hiện độ nhạy của các trọng số
rủi ro đối với xác suất vỡ nợ hàng năm.
Độ nhạy cảm về trọng số rủi ro có tính đến kỳ hạn: trường hợp tiêu chuẩn
(tài sản có kỳ hạn 3 năm, 50% Lgd)
Xác suất vỡ nợ (%) DP 0.03 0.7 20
Trọng số rủi ro tiêu chuẩn (%)
BRW 14 100 625
Đối với DP = 0.7, BRW là 100% và trọng số rủi ro tối đa, với DP = 0,2 đạt
625%.Giá trị này là mức trần cho mọi kỳ đáo hạn và mọi xác suất vỡ nợ. Nét đặc
trưng trọng số này với sự thay đổi DP nhạy cảm hơn các trọng số trong phương
pháp chuẩn hóa mà thay đổi từ 20% đến 150% cho mọi kỳ hạn dài hơn 1 năm.
Những trọng số này tăng với tỷ lệ ít hơn với xác suất vỡ nợ cho đến khi chúng đạt
mức trần.
Hiệp ước này đề nghị sử dụng kỳ hạn phạt 3 năm đối với mọi tài sản cho
phương pháp “cơ bản” nhưng để mở cửa đối với việc sử dụng kỳ đáo hạn hiệu
dụng. Các trọng số rủi ro đã điều chỉnh đối với kỳ hạn hiệu dụng được áp dụng
trong phương pháp “nâng cao”.
Khả năng bị rủi ro cho các khỏan cho vay cá thể
Hiệp ước này đề nghị xếp các khả năng bị rủi ro của từng nhóm thành các
loại khác nhau.Việc đánh giá thành phần rủi ro sẽ theo mức độ của từng loại hơn
là mức độ sẽ bị rủi ro của từng cá nhân.Trong trường hợp có khả năng bị rủi ro
bán lẻ, hiệp ước này cũng đề nghị một sự đánh giá khác về rủi ro, để đánh giá một
cách trực tiếp “lỗ kỳ vọng”. Lỗ kỳ vọng là sản phẩm của xác suất vỡ nợ (DP) và
thiệt hại do vỡ nợ (Lgd). Phương pháp này né tránh việc đánh giá riêng, cho từng
loại của DP và Lgd
Phương pháp IRB cơ bản
Phương pháp xếp hạng nội bộ IRB “cơ bản” cho phép các ngân hàng đáp
ứng các chuẩn mực giám sát thiết thực để đưa vào đánh giá của chính mình về xác
súât vỡ nợ cùng với con nợ. Những ước tính về những nhân tố rủi ro tăng thêm
như thiệt hại xảy ra bị gánh chịu bởi ngân hàng trên cơ sở vỡ nợ sẽ theo những
ước tính được chuẩn hóa. Khả năng bị rủi ro không được đảm bảo bởi một hình
thức cầm cố sẽ gặp phải thiệt hại vỡ nợ cố định và phụ thuộc vào việc giao dịch
này là giao dịch chính hay giao dịch phụ. Các yêu cầu tối thiểu cho phương pháp
IRB cơ bản liên quan đến sự khác biệt đầy ý nghĩa về rủi ro tín dụng với hoạt
động xếp hạng nội bộ, tính toàn diện của hệ thống xếp hạng, các tiêu chí của hệ
thống xếp hạng..
Có nhiều phương pháp và nguồn dữ liệu mà các ngân hàng có thể sử dụng
để kết hợp một ước tính về DP với từng mức điểm nội bộ của nó. Ba phương
pháp lớn là: sử dụng dữ liệu dựa trên kinh nghiệm vỡ nợ của chính ngân hàng;
phác thảo dữ liệu bên ngoài và sử dụng mô hình thống kê về phá sản. Do vậy, một
ngân hàng có thể sử dụng phương pháp cơ bản để xếp hạng theo xác suất vỡ nợ.
Phương pháp IRB nâng cao
Sự khác biệt đầu tiên so với hương pháp “cơ bản” là việc các ngân hàng
đánh giá các thành phần rủi ro đó cộng với thông số thiệt hại vỡ nợ nhằm mô tả
sự phục hồi. Thường thì các ngân hàng đã thực hiện các thang xếp hạng trong một
thời gian, nhưng họ thiếu dữ liệu rủi ro về sự phục hồi.
Việc xử lý kỳ đáo hạn cũng khác phương pháp “cơ bản”, đề cập đến một
chuẩn mực duy nhất cho mọi tài sản. Phương pháp trong số rủi ro tiêu chuẩn
(BRW) phụ thuộc vào kỳ đáo hạn trong phương pháp “nâng cao”. Mức trần 625%
sẽ áp dụng như trong mức phạt kỳ hạn 3 năm. Ảnh hưởng kỳ hạn này phụ thuộc
vào xác suất vỡ nợ hàng năm như trong phương pháp “cơ bản”, cộng với số hạng
b trong hàm BRW của xác suất vỡ nợ và kỳ đáo hạn phụ thuộc vào kỳ đáo hạn
hiệu dụng của tài sản. Đây là một phản ứng toàn diện hơn đối với nhu cầu làm
cho vốn nhạy cảm hơn với ảnh hưởng kỳ hạn. Nó phá vỡ một thỏa thuận giữa “sự
nhạy cảm rủi ro” và yêu cầu thực tế về việc tránh tỷ lệ vốn quy định nặng đối với
các cam kết dài hạn mà sẽ làm nản lòng các ngân hàng trong việc tham gia vào
các giao dịch như vậy.
Cần chấm dứt ngay việc cho phép các ngân hàng tính yêu cầu vốn của họ
dựa trên các mô hình rủi ro tín dụng của danh mục của chính mình. Các lý do là
hiện nay thiếu độ tin cậy của các thông tin đầu vào được đòi hỏi bởi các mô hình
như vậy, cộng với khó khăn trong việc xác định độ tin cậy của các ước tính về
vốn của mô hình. Tuy nhiên, bằng cách đề ra việc hình thành dữ liệu rủi ro cho ba
năm tới, Hiệp ước Basel Mới chuẩn bị cho việc thực hiện sau này.
Do khó khăn của việc đánh giá ý nghĩa của những phương pháp này về yêu
cầu vốn, có thể đưa ra một vài hướng dẫn thận trọng như mức vốn tối thiểu của
Ngân hàng. Các ngân hàng có thể dự đoán và thiết lập mức đệm vốn tăng thêm
của chính họ (cụ thể thông qua Trụ cột 2) trong các kỳ tăng trưởng kinh tế.
Tài sản bảo đảm
Hiệp ước Mới chấp nhận sự ghi nhận rộng hơn về các kỹ thuật làm giảm rủi
ro tín dụng, kể cả cầm cố, bảo đảm, và các phái sinh tín dụng, và tính giá trị ròng.
Vật cầm cố
Định nghĩa về tài sản cầm cố hợp lệ rộng hơn định nghĩa trong Hiệp ước
năm 1988. Nói chung, các ngân hàng có thể công nhận tài sản cầm cố là: tiền mặt;
một số loại chứng khoán nợ do các quốc gia phát hành, các tổ chức thuộc khu vực
công, ngân hàng, các công ty chứng khoán, và các công ty cổ phần phát hành; các
chứng khoán vốn được giao dịch trên các thị trường chính thống; các cổ phần của
các quỹ hỗ tương, vàng.
Để cầm cố, cần thiết phải tính đến thay đổi thời gian của giá trị cũng như
khả năng bị rủi ro của vật cầm cố. “Mức vay thế chấp” xác định tài sản cầm cố bổ
sung cần thiết đối với khả năng bị rủi ro để đảm bảo việc bảo vệ rủi ro tín dụng
một cách hiệu quả, căn cứ vào các khoảng thời gian cần thiết để điều chỉnh lại
mức độ cầm cố (cầm cố bổ sung), ghi nhận thất bại của đối tác trong việc thanh
toán hoặc giao lợi nhuận và khả năng thanh lý vật thế chấp của ngân hàng.
Tài sản đảm bảo và các phái sinh tín dụng
Đối với một ngân hàng, để đạt được bất kỳ sự trợ giúp về vốn nào đó từ
việc nhận các sản phẩm phái sinh tín dụng hoặc vật bảo đảm, việc bảo đảm tín
dụng phải là trực tiếp, rõ ràng, không thể hủy ngang và không có điều kiện. Các
ngân hàng chỉ chịu thiệt hại trong các giao dịch được đảm bảo khi có sự vỡ nợ
của cả người mắc nợ và người bảo đảm. Ảnh hưởng “sự vỡ nợ của cả hai” sẽ
giảm rủi ro tín dụng nếu có tương quan thấp giữa xác suất vỡ nợ của người mắc
nợ và người bảo lãnh. ( Ảnh hưởng “vỡ nợ kép”).
Khả năng kết thành danh mục
Một mở rộng khác của Hiệp ước mới là yêu cầu vốn tối thiểu không chỉ
phụ thuộc vào tính chất của khả năng bị rủi ro của cá nhân mà còn phụ thuộc vào
“rủi ro tập trung” của danh mục cho vay của ngân hàng. Sự tập trung chỉ rõ những
quy mô lớn về khả năng bị rủi ro đối với những người đi vay đơn lẻ, hoặc các
nhóm những người đi vay có quan hệ chặt chẽ với nhau, về mặt tiềm năng gây ra
thiệt hại lớn. Hiệp ước này đưa ra một chỉ tiêu đo lường tính kết thành danh mục
(granularity) và gắn nhân tố rủi ro này vào phương pháp IRB bằng cách điều
chỉnh vốn giám sát chuẩn được áp dụng cho mọi khả năng bị rủi ro, ngoại trừ
những khả năng trong danh mục bán lẻ. Xử lý này không bao gồm ngành, địa lý,
hoặc các dạng tập trung rủi ro tín dụng hơn là tập trung về quy mô. Điều chỉnh
“tính kết thành danh mục” áp dụng đối với toàn bộ những tài sản được điều chỉnh
rủi ro ở cấp độ ngân hàng hợp nhất.
Các rủi ro cụ thể khác
Hiệp ước mới nhắm vào các loại rủi ro khác nhau: chứng khoán hóa tài
sản, tài chính dự án, khả năng bị rủi ro của vốn cổ phần.
- Hiệp ước này xem việc chứng khoán hóa tài sản cần phải xử lý nghiêm
khắc hơn.
- Nó cũng đặt ra một nguyên tắc “clean break” theo đó việc bán tài sản
miễn truy đòi nên là không mơ hồ, giới hạn sự cám dỗ của các ngân hàng đối với
việc hỗ trợ các cơ cấu được tài trợ vì động cơ danh tiếng (rủi ro danh tiếng).
- Các vấn đề chứng khoán khác liên quan đến rủi ro hoạt động. Sự chứng
khoán hoá quay vòng có đặc điểm trừ dần trong giai đoạn đầu, hoặc các dòng
thanh khoản được cung cấp cho các sản phẩm phái sinh.
- Hiệp ước này cũng đặt ra các phương pháp nhạy cảm với rủi ro cho các vị
thế vốn CP được nắm giữ trong sổ sách của ngân hàng. Mục đích là cứu vãn khả
năng các ngân hàng có thể hưởng lợi từ một tỷ lệ vốn quy định thấp hơn khi họ
nắm giữ vốn cổ phần hơn là nợ.
Rủi ro lãi suất
Hiệp ước này cho rằng sẽ phù hợp hơn nếu xử lý rủi ro lãi suất trong sổ
sách ngân hàng theo Trụ cột 2, hơn là xác định các yêu cầu vốn. Việc này hàm ý
không có gánh nặng về vốn, nhưng sẽ có một quy trình giám sát nâng cao. Hướng
dẫn về rủi ro lãi suất xem hệ thống nội bộ ngân hàng là công cụ chính cho việc đo
lường rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng và phản ứng của hoạt động giám sát.
Để tạo điều kiện cho việc điều hành rủi ro lãi suất của các chuyên gia giám sát
của các định chế, các ngân hàng nên đưa ra kết quả từ hệ thống đánh giá nội bộ
của mình thông qua việc sử dụng các biến động lãi suất được chuẩn hóa. Nếu các
chuyên gia giám sát xác định rằng ngân hàng đang không nắm giữ mức vốn tương
xứng với mức độ rủi ro lãi suất, họ có thể đòi hỏi ngân hàng giảm rủi ro hoặc gia
tăng lượng vốn nắm giữ hoặc cả hai.
Rủi ro hoạt động
Hiệp ước mới nêu ra một định nghĩa chuẩn về rủi ro hoạt động: “ là loại rủi ro
xảy ra tổn thất do các qui trình, hệ thống hay nhân viên trong nội bộ ngân hàng vận hành
không tốt hoặc do các nguyên nhân khách quan bên ngoài”.
Đây là căn cứ đầu tiên trong việc phát triển tỷ lệ vốn quy định tối thiểu,
ước tính rủi ro hoạt động ở mức 20% vốn điều lệ tối thiểu như được đo lường
theo Hiệp ước 1988. Hiệp ứơc mới đề nghị một loạt gồm 3 phương pháp đo lường
mức vốn tối thiểu căn cứ vào rủi ro hoạt động là: chỉ số cơ bản; tiêu chuẩn; đo
lường nội bộ.
“Phương pháp chỉ số cơ bản” nối tỷ lệ vốn quy định cho rủi ro hoạt động
với một chỉ số duy nhất được dùng như một con số chung đo lường khả năng bị
rủi ro của toàn hệ thống ngân hàng. Ví dụ, nếu chỉ số này là thu nhập gộp, mỗi
ngân hàng sẽ nắm giữ vốn cho rủi ro hoạt động bằng với một tỷ lệ phần trăm cố
định của thu nhập gộp.
“Phương pháp chuẩn” xây dựng trên cơ sở phương pháp chỉ số cơ bản
bằng cách chia các hoạt động của ngân hàng thành một số hoạt động kinh doanh
tiêu chuẩn (cụ thể là tài chính doanh nghiệp và ngân hàng bán lẻ). Với mỗi loại
hoạt động kinh doanh, tỷ lệ vốn quy định là một chỉ số riêng về rủi ro hoạt động
nhân với một tỷ lệ cố định.
“Phương pháp đo lường nội bộ” cho phép các ngân hàng riêng lẻ dựa trên
dữ liệu nội bộ đề tính toán vốn điều lệ. Kỹ thuật này đòi hỏi 3 thông tin nhập lượng
cho một nhóm những hoạt động kinh doanh cụ thể và các loại rủi ro: chỉ số khả
năng bị rủi ro hoạt động; xác suất xảy ra thiệt hại, những thiệt hại do những sự kiện
như thế gây ra. Đồng thời, những thành phần này tạo nên một sự phân phối thiệt hại
cho các rủi ro hoạt động. Tuy nhiên, phân phối thiệt hại này có thể khác phân phối
thiệt hại trong toàn ngành, bằng cách ấy đòi hỏi một sự điều chỉnh.
Trụ cột 2: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất
lượng quản lý rủi ro của ngân hàng
Trụ cột thứ hai của hiệp ước mới nhắm vào việc đảm bảo rằng mỗi ngân
hàng có quy trình nội bộ tốt để đánh giá mức an toàn vốn dựa trên đánh giá toàn
diện về rủi ro. Các chuyên gia giám sát sẽ chịu trách nhiệm đánh giá ngân hàng
làm tốt như thế nào trong việc đánh giá nhu cầu vốn của họ tương quan với rủi ro.
Ủy ban này lưu ý đến tính lỷ luật của thị trường thông qua việc cải tiến việc công
bố thông tin như là một phần cơ bản của Hiệp ước mới. Nó xem yêu cầu công bố
thông tin và những kiến nghị sẽ cho phép các thành viên của thị trường đánh giá
các mẩu thông tin quan trọng để áp dụng hiệp ước điều chỉnh.
Các phương pháp tính độ nhạy cảm với rủi ro do Hiệp ước mới phát triển
sẽ chủ yếu dựa trên các phương pháp nội bộ, cho ngân hàng nhiều chủ động hơn
trong việc tính toán yêu cầu vốn của họ. Do vậy, các yêu cầu công bố thông tin
riêng rẽ trở thành những điều kiện tiên quyết cho việc ghi nhận hoạt động thanh
tra giám sát của các phương pháp nội bộ đối với rủi ro tín dụng, kỹ thuật làm
giảm rủi ro tín dụng và những lĩnh vực hoạt động khác.
Bốn nguyên tắc cơ bản tạo nên chính sách của các chuyên gia giám sát:
- Các ngân hàng nên có một quy trình đánh giá tổng thể vốn tương quan
với rủi ro và một chiến lược duy trì mức vốn của họ.
- Các chuyên gia giám sát nên xem xét và đánh giá việc đánh giá và chiến
lược bảo đảm đủ vốn nội bộ của các ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và
đảm bảo sự tuân thủ với các tỷ số vốn điều lệ. Các chuyên gia giám sát sẽ thực
hiện các hành động giám sát thích hợp nếu họ không thỏa mãn với kết quả của
quá trình này.
- Các chuyên gia giám sát sẽ kỳ vọng các ngân hàng hoạt động trên mức
các tỷ số vốn điều lệ tối thiểu và sẽ có khả năng đòi hỏi ngân hàng nắm giữ vốn
cao hơn mức tối thiểu này.
- Các chuyên gia giám sát sẽ cam thiệp ngay ở giai đoạn đầu tiên để ngăn
chặn tình trạng vốn giảm xuống thấp hơn mức tối thiểu cần có để hỗ trợ cho rủi ro
của một ngân hàng cụ thể, và nên đòi hỏi các hành động điều chỉnh nếu vốn
không được duy trì và khắc phục
Trụ cột thứ III: Tuân thủ kỷ luật thị trường.
Trụ cột thứ III làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân
hàng phải công bố. Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có một bức
tranh hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối
tác của ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý
Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách
các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về
cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy
cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro
tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Uỷ Ban Basel và những Hiệp ước mà
tổ chức này đưa ra, các NHTM càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách
minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy
vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
PHỤ LỤC 2
VỐN ĐIỀU LỆ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Stt Tên ngân hàng Số, ngày cấp
giấy phép
Vốn điều
lệ (Tỷ
đồng)
Địa chỉ trụ sở chính
1 Ngân hàng Chính sách xã hội
Việt Nam
230/QĐ-NH5
ngày
01/09/1995
5.988
68 Đường Trường
Chinh, Đống Đa, Hà
Nội
2 Ngân hàng Công thương Việt
Nam
285/QĐ-NH5
ngày
21/09/1996
7.554 108 Trần Hưng Đạo,
Hà Nội
3
Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt
Nam
280/QĐ-NH5
ngày
15/01/1996
10.400 Số 2 Láng Hạ, Ba
Đình, Hà Nội
4 Ngân hàng cổ phần ngọai
thương Việt Nam
Quyết định số
115/CP Ngày
30/10/1962
12.100
198 Trần Quang
Khải, Hoàn Kiếm,
Hà Nội
5 Ngân hàng Phát triển nhà
Đồng bằng sông Cửu Long
769/TTg ngày
18/09/1997 744
Số 9 Võ Văn Tần -
Quận 3 - TP Hồ Chí
Minh
6 Ngân hàng phát triển Việt
Nam
108/2006/QĐ-
TTg ngày
15/05/2006
5.000 25A Cát Linh, Hà
Nội
7 Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam
287 /QĐ-NH5
ngày
21/09/1996
7.490 191 Bà Triệu, Hoàn
Kiếm, Hà Nội
8 An Bình (An Binh 0031/NH-GP 2.300 47 Điện Biên Phủ,
Commercial Joint Stock
Bank- ABB)
ngày
15/04/1993
Q1, TPHCM
9 Bắc Á (Bac A Commercial
Joint Stock Bank)
0052/NHGP
ngày
01/09/1994
940 117 Quang Trung.
TP Vinh. Nghệ An
10
Dầu khí Toàn Cầu (Global
Petro Commercial Joint Stock
Bank)
0043/NH-GP
ngày
13/11/1993
1.000 273 Kim Mã, Ba
Đình, Hà Nội
11
Gia Định (Gia Dinh
Commercial Joint Stock
Bank)
0025/NHGP
ngày
22/08/1992
500
135 Phan Đăng Lưu,
Q. Phú Nhuận,
TPHCM
12
Hàng hải (Maritime
Commercial Joint Stock
Bank)
0001/NHGP
ngày
08/06/1991
1.500
Tòa nhà VIT 519
Kim Mã, Ba Đình,
Hà Nội
13
Kiên Long (Kien Long
Commercial Joint Stock
Bank)
0054/NH-GP
ngày
18/09/1995
580
44 Phạm Hồng Thái
– P.Vĩnh Thanh
Vân–TX Rạch giá-
Tỉnh Kiên Giang
14
Kỹ Thương (Vietnam
Technological and
Commercial Joint Stock
Bank)
0040/NHGP
ngày
06/08/1993
2.521 70-72 Bà Triệu. Hà
Nội
15
Liên Việt (LienViet
Commercial Joint Stock
Bank)
91/GP-NHNN
ngày 28/3/2008 3.300
32 Nguyễn Công
Trú, TX Vị Thanh,
Tỉnh Hậu Giang
16 Miền Tây (Western Rural
Commercial Joint Stock
0016/NH-GP
ngày 1.000
127 Lý Tự Trọng, P.
An Hiệp, TP Cần
Bank) 06/04/1992 Thơ
17
Nam Việt (Nam Viet
Commercial Joint Stock
Bank)
0057/NH-GP
ngày
18/09/1995
1.000
39-41-43 Bến
Chương Dương, Q1,
TPHCM
18
Nam Á (Nam A Commercial
Joint Stock Bank- NAMA
Bank)
0026/NHGP
ngày
22/08/1992
1.252 97 bis Hàm Nghi,
Q1, TPHCM
19
Ngoài quốc doanh (Vietnam
Commercial Joint Stock Bank
for private Enterprise)
0042/NHGP
ngày
12/08/1993
2.000 Số 8 Lý Thái Tổ,
Hoàn Kiếm, Hà Nội
20 Nhà Hà Nội (Habubank)
0020/NHGP
ngày
06/06/1992
2.000 B7 Giảng Võ, Ba
Đình. Hà Nội
21
Phát triển Nhà TPHCM
(Housing development
Commercial Joint Stock
Bank)
0019/NHGP
ngày
06/06/1992
1.000 33-39 Pasteur. Q1.
TP HCM
22 Phương Nam
0030/NHGP
ngày
17/03/1993
1.434 279 Lý Thường
Kiệt. Q11. TP HCM
23
Phương Đông (Orient
Commercial Joint Stock
Bank)
0061/NHGP
ngày
13/04/1996
1.111 45 Lê Duẩn. Q1. TP
HCM
24
Quân Đội (Military
Commercial Joint Stock
Bank)
0054/NHGP
ngày
14/09/1994
2.000 03 Liễu Giai. Q Ba
Đình. Hà Nội
25 Quốc tế (Vietnam 0060/NHGP 2.000 64-68 Lý Thường
International Commercial
Joint Stock Bank- VIB)
ngày
25/01/1996
Kiệt. Hà Nội
26 Sài Gòn (Saigon Commercial
Joint Stock Bank-SCB)
0018/NHGP
ngày
06/06/1992
1.970 193- 203 Trần Hưng
Đạo, Q1 TPHCM
27
Sài Gòn-Hà Nội (Saigon-
Hanoi Commercial Joint
Stock Bank)
0041/NH-GP
ngày
13/11/1993
2.000
138- Đường 3/2-
Phường Hưng Lợi –
TP Cần Thơ - Tỉnh
Cần Thơ
28 Sài gòn công thương (Saigon
bank for Industrial and trade)
0034/NHGP
ngày
04/05/1993
1.020 Số 2C Phú Đức
Chính,Q1. TPHCM
29 Sài gòn thương tín
(Sacombank)
0006/NHGP
ngày
05/12/1991
4.449
266-268 Nam kỳ
khởi nghĩa.
Q3.TPHCM
30
Thái Bình Dương (Pacific
Commercial Joint Stock
Bank)
0028/NHGP
ngày
22/08/1993
566
340 Hoàng Văn Thụ,
Q.Tân Bình,
TPHCM
31
Tiên Phong ( TienPhong
Commercial Joint Stock
Bank)
123/GP-NHNN
ngày
05/05/2008
1.000
Tòa nhà FPT, Lô B2
Cụm SX tiểu thủ
công nghiệp và công
nghiệp nhỏ, P.DỊch
Vọng Hậu, Cầu
Giấy, Hà Nội
32
Việt Nam Thương tín (Viet
Nam thuong tin Commercial
Joint Stock Bank)
2399/QĐ-
NHNN ngày
15/12/2006
500
35 Trần Hưng Đạo,
TX Sóc Trăng, tỉnh
Sóc Trăng
33 Việt Á (Viet A Commercial
Joint Stock Bank)
12/NHGP ngày
09/05/2003 1.000
115-121 Nguyễn
Công Trứ.Q1.TP
HCM
34
Xuất nhập khẩu (Vietnam
Commercial Joint Stock
Export-Import Bank-
Eximbank)
0011/NHGP
ngày
06/04/1992
2.800 7 Lê Thị Hồng Gấm.
Q1. TPHCM
35
Xăng dầu Petrolimex
(Petrolimex Group
Commercial Joint Stock
Bank)
0045/NH-GP
ngày
13/11/1993
500
132-134 Nguyễn
Huệ, Thị xã Cao
Lãnh-Tỉnh Đồng
Tháp
36 Á Châu (Asia Commercial
Joint Stock Bank- ACB)
0032/NHGP
ngày
24/04/1993
2.630
442 Nguyễn Thị
Minh Khai. Q3. TP
HCM
37
Đông Nam Á (South East
Commercial Joint Stock
Bank)
0051/NHGP
ngày
25/03/1994
3.000 16 Láng Hạ, Đống
Đa, Hà Nội
38
Đông Á (Dong A
Commercial Joint Stock
Bank-EAB)
0009/NHGP
ngày
27/03/1992
1.600
130 Phan Đăng Lưu.
Q Phú Nhuận.
TPHCM
39
Đại Dương (Ocean
Commercial Joint Stock
Bank)
0048/NH-GP
ngày
30/12/1993
1.000
Số 199-Đường
Nguyễn Lương
Bằng - TP Hải
Dương
40
Đại Tín (Great Trust
Commercial Joint Stock
Bank)
0047/NH-GP
ngày
29/12/1993
504
Xã Long Hoà-Huyện
Cần Đước-Tỉnh
Long An
41
Đại Á (Great Asia
Commercial Joint Stock
Bank)
0036/NH-GP
ngày
23/09/1993
500
56-58Đường Cách
mạnh tháng 8-Thành
phố Biên Hoà-Tỉnh
Đồng Nai
42 Đệ Nhất (First Joint Stock
Commercial Bank)
0033/NHGP
ngày
27/04/1992
609 715 Trần Hưng Đạo.
Q5. TPHCM
43 Mỹ Xuyên
0022/NH-GP
ngày
12/09/1992
500
248,Trần Hưng Đạo-
Phường Mỹ Xuyên-
Thị xã Long Xuyên-
Tỉnh An Giang
Nguồn : Ngân hàng nhà nước
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách
1. PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa, “Hiệp ước BASEL mới và vần đề kiểm soát rủi
ro trong các ngân hàng thương mại” –Tạp chí phát triển kinh tế 6/2008
2. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, “Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh
nghiệp Việt Nam thời kỳ hậu WTO”
3. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, “Quản trị rủi ro tài chính”, NXB Thống kê 2006.
4. TS. Trần Huy Hoàng, “Quản trị ngân hàng thương mại”, NXB thống kê 2003.
5. PGS. TS. Nguyễn Đăng Dờn, “Tiền tệ ngân hàng”, NXB thống kê 2004,
6. PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt, “Đầu tư tài chính”, NXB Thống kê 2006
7. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa, PGS.TS Phan Thị
Bích Nguyệt, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS.Nguyễn Thị Uyên Uyên,
“Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, NXB Thống kê 2007
8. PGS.TS Sử Đình Thành (2006), “Lý Thuyết tài chính- tiền tệ”, NXB Thống kê
9. Basel II - Sự thống nhất quốc tế về đo lường và các tiêu chuẩn vốn, NXB VHTT 2008
II. Tạp chí, thời báo, các văn bản
1. Báo cáo thường niên 2006, 2007 Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Ngọai thương .v.v.
2. Thời báo kinh tế Việt Nam 2006-2007
3. Thời báo kinh tế Sài Gòn số 04/2008; 05/2008; 06/2008; 07/2008
4. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ngày 12/12/1997, luật số
20/2004/Qh11 ngày 16/05/2004 sử đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng.
5. Quyết định số 663/2003/QĐ-NHNN ngày 26/6/2003; Quyết định
627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001;Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày
03/02/2005; Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005; Quyết định
số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22/04/2005 .v.v
6. Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/04/2005.
7. Nghị định 49/2000/NĐ-CP ban hành ngày 12/9/2000
8. Một số quyết định, thông tư, chỉ thị khác
III. Thông tin tham khảo trên các Website
http://vneconomy.vn
http://www.sbv.gov.vn - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
http://www.mof.gov.vn – Bộ tài chính Việt Nam
http://vneconomy.vn – Thời báo kinh tế Việt Nam Online
http://www.tapchiketoan.com – Tại chí kế tóan Online
http://www.tienphongonline.com.vn – Báo tiền phong Online
http://www.laodong.com.vn – Báo lao động Online
http://hanoitimes.net- Thời báo tài chính Hà Nội Online
http://www.div.gov.vn- Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
http://www.tuoitre.com.vn – Báo tuổi trẻ Online
http://www.vov.org.vn – Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam Online
http://vietnamnet.vn
http://vietbao.vn – Trung tâm báo chí và hợp tác truyền thông quốc tế
http://atpvietnam.com Công ty chứng khóan KIMENG Việt Nam
http://www.inteves.com – Tin nhanh chứng khóan
http://www.sacombank.com.vn –Ngân hàng TMCP Sài gòn thương tín Online
http://www.tcptkt.ueh.edu.vn/ -Tạp chí phát triển kinh tế - ĐHKT-TP.HCM