44
SÁCH THÁNH VNH http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/KINHTHAN/ThanhVinh/00MucLuc.htm o Nguyn Gm Vi Thánh Vnh o Thánh Vnh, Li Ca Nguyn Ca Dân Chúa o Thánh Vnh, Âm Vang Ca Giao Ước Trong Dòng Lch SCu Độ o Thánh Vnh, Danh Xưng Ca Dòng Tc Tin Yêu Thiên Chúa o Thánh Vnh, Thánh Ca Tin Mng o Thánh Vnh, Tp Hi Ký Ca Dân Chúa

SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

SÁCH THÁNH VỊNH http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/KINHTHAN/ThanhVinh/00MucLuc.htm

o Nguyện Gẫm Với Thánh Vịnh o Thánh Vịnh, Lời Ca Nguyện Của Dân Chúa o Thánh Vịnh, Âm Vang Của Giao Ước Trong Dòng Lịch Sử Cứu Độ o Thánh Vịnh, Danh Xưng Của Dòng Tộc Tin Yêu Thiên Chúa o Thánh Vịnh, Thánh Ca Tin Mừng o Thánh Vịnh, Tập Hồi Ký Của Dân Chúa

Page 2: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

NGUYỆN GẪM VỚI THÁNH VỊNH ĐGM Giuse Võ Đức Minh

Tv 8

VINH QUANG THIÊN CHÚA TẠO HOÁ. 1. Yavê Chúa chúng tôi Danh Người uy linh dường bao trên khắp cõi trần ! Ước gì tôi được ca hát uy đức Người chốn trời cao Hơn miệng nhi đồng nhũ tử vang ca. 2. Khi Người dựng nên thành quách chống phường loạn Để tiêu diệt đối địch và đứa căm thù 3. Một khi trông lên trời, ngón tay Người đã làm ra, Trăng sao vằng vặc Người đã định chỗ 4. Thì phàm nhân là gì để Người nhớ đến, Hay con người là gì để Người bận tâm ? 5. So với thần linh Người không để cho thua mấy tí, Vinh dự huy hoàng là triều thiên Người ban tặng 6. Người cho thống trị các kiệt tác tay Người làm Muôn sự Người đã đặt cả dưới chân. 7. Chiên, dê, bò, ngựa hết thảy, Lại thêm các loài mãnh thú 8. Chim trời cá biển, Những vật ngang dọc nẻo đường đại dương. 9. Lạy Yavê, Chúa chúng tôi Danh Người uy linh dường bao trên khắp cõi trần ! Đọc qua Thánh vịnh 8, chúng ta ghi nhận hai yếu tố nổi bật: - Yếu tố cố định: Yavê, Chúa chúng tôi ; - Yếu tố linh động : những quan sát, kể lể của vịnh gia ; Từ đó chúng ta thấy được lối cấu trúc đồng tâm mà tác giả chủ ý sử dụng. Mục

đích là làm nổi bật tâm điểm, chủ đề của bài thơ : “Yavê, Chúa chúng tôi !”. Và từ tâm điểm, chủ đề đó, vịnh gia lần lượt kể ra bao việc Người làm, bao kỳ công Người thực hiện, cũng như tình thương vô biên mà Người dành cho con người.

Trong toàn bài thơ thuộc gia đình ca ngợi này, điều làm chúng ta ngạc nhiên là chỉ có một từ ngữ để diễn tả niềm hân hoan phấn khởi, đó là động từ “ca hát”. Niềm vui ở đây vì thế không mang tính chất ồn ào, náo nhiệt như ở nhiều bài thánh thi khác (như Thánh vịnh 150 chẳng hạn). Chính cách đặt câu của tác giả khiến ta xếp bài thơ nàyvào nhánh thánh thi thuộc gia đình ca ngợi . Tác giả đi từ lời tung hô trang trọng (câu 2) đến thái độ chiêm ngưỡng ngất ngây (câu 4), từ câu hỏi thật đơn sơ (câu 5) đến cách tường thuật, kể lể (câu 6-9). Rồi khi muốn diễn tả Thiên Chúa, vịnh gia lại dùng những từ ngữ thật chỉnh : “uy linh”, “uy đức” khiến độc giả như cảm thấy vừa đối diện với một vị Thiên Chúa thật quyền năng, sâu thẳm, nhưng đồng thời lại rất gần gũi, thân mật với mình. Sự hiện diện gần mà xa này của Thiên Chúa có tính chất xuyên suốt bài thơ. Một yếu tố nữa trong vịêc sử dụng từ ngữ, là vịnh gia đã khoác cho “con người”, “phàm nhân” những tước hiệu cao quý : “vinh dự, huy hoàng, triều thiên, thống trị, đặt dưới chân”. Đó là danh hiệu dành cho các bậc vương đế, những người làm chủ. Vì thế, chỉ dựa trên cách đặt câu và từ ngữ sử dụng, độc giả đã có thể bắt đầu cảm được điều mà tác giả muốn diễn tả, đó là địa vị cao cả của con người ở trong trời đất, bởi lẽ con người chính là “hình ảnh” của Đấng đầy uy đức, uy linh.

a) Danh Yavê Yavê Chúa chúngtôi, Danh Người uy linh dường bao trên khắp cõi trần!”

Page 3: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Đây là lời ca ngợi buột ra từ cửa miệng, quấy động tâm tình, diễn tả sự ngất ngây, thán phục. Tính chất uy linh của Yavê không những rực sáng xuyên qua các kỳ công trong vũ trụ, mà còn chiếu giãi ra và được trần gian nhận biết.

“Danh Người” không phải là một từ ngữ trừu tượng, mà là thực tế sâu xa của Người. Theo truyền thống Hipri, Danh gắn liền với con người cụ thể. Người ta chỉ nói lên tên ai khi người đó tỏ hiện bằng các hành động. Vì thế Danh Yave gắn liền với với chính Yavê, gắn liền với những gì mà cõi trần gian nghe, thấy, biết được.

b) Uy đức và tình thương của Yavê Từ trong thâm tâm của mình : “tôi”, thi hứng của vịnh gia trải rộng ra vũ trụ

bao la : “chốn trời cao”, “thành quách”, “vòm trời”, “trông lên trời”, “trăng sao vằng vặc” … để rồi quy lại trong thân phận của “phàm nhân”, “con người”.

Đứng trước uy đức vô biên, sâu thẳm của Yavê, vịnh gia chỉ có thể bập bẹ như “miệng nhi đồng”, “nhũ tử”, như những đứa trẻ chưa thành nhân, sống còn nhờ sữa mẹ. Vì thế tâm tình ca ngợi này mang tính chất trong sáng, hồn nhiên, siêu thoát như những lời bập bẹ dễ thương của đứa bé đối với mẹ mình.

Dựa trên tài liệu cổ, đối chiếu, thì “nhi đồng”, “nhũ tử” chính là sao hôm, sao mai. Sao hôm, sao mai luôn thay phiên nhau hiện diện trên vòm trời đề xứơng ca trong huyền thoại về tạo dựng của Canaan.

Từ hình ảnh đó, vịnh gia ước mong tâm hồn mình luôn tỉnh thức, hiện diện như sao hôm, sao mai để không bao giờ ngưng lời tán dương Yavê, Thiên Chúa của mình. Động từ “dựng nên” gợi lại hành động tạo dựng của Thiên Chúa. Nhưng “phường loạn” của Thiên Chúa là ai ? Chính là kẻ “đối địch” và “đứa căm thù” của Người (biền ngẫu tiệm tiến).

Thánh kinh thường nhắc tới bốn sức mạnh đối thủ của Thiên Chúa (cf Ys 51,9-10) :

“Há lại không phải chính ngươi đã phân thây Rakhab Và đâm chết thuồng luồng sao ? Há lại không phải chính Ngươi đã tát khô biển cả, nước của vực thẳm bao la ?” Rakhab: - hỗn mang nguyên thủy (Yb 9,13)- Ai cập (Ys 30,9) Thuồng luồng -

thủy quái trong biển nguyên thủy (Yb 7,12) - Pharaô (Ez 29,3) Biển cả - Biển nguyên thủy trước tạo dựng (Yb 38,8) - Biển sậy - biển đỏ (Xh 14,2 Vực thẳm - Vực thẳm nguyên thủy (Kn 1,2) - Lòng biển sậy (Ys 63,13).

Giải thích “phường loạn” của Tv 8,3 dưới ánh sáng của Ys 51,9-10 hình như tác giả cuả bài thơ muốn nói lên sự phá hoại của các sức mạnh đối nghịch cùng Thiên Chúa trong chương trình tạo dựng và cứu độ của Người. Chính hành động cứu độ của Yavê Thiên Chúa đã làm thất bại sức tàn phá mà “phường loạn”, “đứa căm thù” xem ra đã thành công đối với công trình tạo dựng của Thiên Chúa.

Sau khi đã tự đặt mình vào quỹ đạo uy đức của Thiên Chúa, sau khi đã mặc nhiên tuyên xưng sự toàn thắng của Người, vịnh gia muốn chiêm ngắm những kỳ công của Yavê, ngắm nhìn vẻ huy hoàng, trật tự của trời đất, của vũ trụ để rồi nhìn lại thân phận mỏng dòn, yếu đuối của con người. Nét tương phản đó hiện ra trong các câu thơ. Ý và lời thơ toát lên được tâm tình của vịnh gia : vừa bao la, bàng bạc mà cũng vừa day dứt thâm trầm.

Trước cái bao la sâu thẳm của trời đất và chỗ đứng kỳ diệu của con người trong vũ trụ, vịnh gia tự hỏi :

“thì phàm nhân là gì để Người nhớ đến ? hay con người là gì để Người phải bận tâm ?” Tiếng Hipri sử dụng 2 kiểu nói để chỉ con người : - phàm nhân (Enosh - le mortel) : phải chết ; - con người (Ben-adam - le fils d’homme) : mỏng dòn, yếu đuối, tội lỗi Họ thế mà lại là đối tượng của “nhớ đến”, của “bận tâm” của Yavê - Nhớ đến : động từ chuyên biệt trong tưong quan giao ước, gắn liền với hành

động cứu độ của Thiên Chúa. Cf Xh 2,23 ; Lc 1,54 - 55

Page 4: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

- Bận tâm : động từ diễn tả hành động cứu độ, phương thế sử dụng trong cứu độ, chăm sóc, viếng thăm. Cf Xh 3,16 ; Lc 1,68

Ngỡ ngàng, thắc mắc về chỗ đứng của con người trong vũ trụ (tạo dựng), cũng như thân phận con người trong tình thương của Yavê (cứu độ), vịnh gia đặt mình dưới ánh sáng của Lời Chúa, của Giao ước để tìm ra câu đáp trả cho “phàm nhân là gì ?”, “con người là gì ?”

Bằng bốn câu thơ, tác giả đưa ta rảo lại hai câu chuyện về tạo dựng ở Kn 1 và Kn 2 :

- Trong Kn 1 tác giả Thánh kinh đưa ta từ hỗn mang nguyên thủy đến việc hoàn tất tạo dựng theo lối cấu trúc trôn ốc ; nhờ đó, ta hiểu được con người chính là cao điểm của tạo dựng : hình ảnh của Thiên Chúa ;

- Trong khi đó ở Kn 2 nhờ lối cấu trúc đồng tâm, con người được xem là tâm điểm của tạo dựng : đối tượng của tình thương của Thiên Chúa.

Tứ đó, với ý nghĩa về hai câu chuyện của tạo dựng, vịnh gia thấy được con người là gì : đó là tâm điểm và là cao điểm của công trình tạo dựng. Cho nên, con người không những là hình ảnh của Thiên Chúa, mà còn là hình ảnh rất yêu quý của Người. Do vậy, ta sẽ không ngạc nhiên khi bắt gặp những tước hiệu rất là vương giả mà vịnh gia gán cho con người : “vinh dự, huy hoàng, triều thiên, thống trị, đặt dưới chân”.

Trong vũ trụ, vạn vật, con người chính là chủ tế, có nhiệm vụ phải điều khiển sử dụng mọi sự cho xứng với cương vị của mình.

Tác giả bài thơ liệt kê ra những đạo quân súc vật, chim trời, cá biển … để rồi trải rộng chúng đến vô tận bằng câu : “những vật ngang dọc nẻo đừơng đại dương”

Tất cả mọi vật được dựng nên để con người sử dụng, để ở dưới quyền thống trị của con người. Tác giả như ngây ngất với địa vị, vai trò của con người. Nếu không là đối tượng của “nhớ đến” và “bận tâm” của Thiên Chúa, thì con người chỉ là phàm nhân, có giá trị gì đâu ! Nhưng, vì được tạo dựng và nhất là được cứu độ, nên con người mới trở nên hiện thân sâu sắc của chính Yavê Thiên Chúa trong vũ trụ này. Không dằn được nỗi xúc cảm, vịnh gia đã thốt lên :

“Lạy Yavê, Chúa chúng tôi Danh Người uy linh dường bao trên khắp cõi trần !” Tv 74 AI CA VỀ THÁNH ĐIỆN BỊ PHÁ 1. Nhân sao, lạy Thiên Chúa, Người đã từ rẫy đến cùng, Người đã bừng nổi giận với chiên ràn Người ? 2. Xin Người nhớ đến cộng đoàn Người đã tậu từ ngàn xưa Bộ lạc Người đã chuộc làm cơ nghiệp của Người, Núi Sion nơi Người trấn ngự. 3. Xin hãy quá bộ duyệt xem cảnh thê lương vạn đại : Quân thù đã tàn phá cả trong thánh điện ! 4. Chúng rống lên, quân địch của Người, trong công hội Cờ hiệu là cờ hiệu chúng cắm vào 5. Chúng bổ phăng như thể (tiều phu) Múa rìu giữa cây rậm, 6. Hoành phi và đồ cẩn chạm một thể, Chúng giương búa, giương chùy chúng nện 7. Chúng phóng hoả thánh điện của Người Chúng phá bình địa nơi Danh Người trấn ngự 8. Chúng định trong lòng : “Ta hãy triệt hạ chúng đi một trật” chúng đã đốt phá khắp xứ các hội đường thờ Thiên Chúa 9. Dấu lạ đâu, chúng tôi không thấy Tiên tri cũng không còn, Nơi chúng tôi không ai biết còn thế cho đến bao giờ !

Page 5: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

10. Đến bao giờ nữa, lạy Thiên Chúa Kẻ thù còn thoá mạ, Quân thù cứ phỉ báng Danh Người mãi mãi ? 11. Nhân sao Người lại vòng tay Và tay phải Người, Người lại thu dấu vào lòng ? 12. Lạy Thiên Chúa, vua của tôi, từ ngàn xưa, Giữa đất đai này, Người là Đấng dày công cứu độ. 13. Chính Người đã ra oai xả thây đại hải, Đập bể đầu thuồng luồng trong nước. 14. Chính Người đã làm bay đầu hải long Phanh thây nó làm mồi cho giải biển 15. Chính Người đã xẻ ra khe suối, Chính Người đã tát cạn những sông luôn chảy. 16. Ngày là của Người, mà đêm cũng là của Người, Chính Người đã dựng nên ánh nguyệt và mặt trời. 17. Chính Người đã vạch cương giới địa cầu Hạ đông các tiết, chính Người định phân 18. Điều này xin Người ghi nhớ : Kẻ thù đã thoá mạ Yavê Và một dân ngu ngốc đã phỉ báng Danh Người 19. Mạng chim câu của Người, xin chớ thí cho mãnh thú Sinh mạng hạng nghèo khó của Người, Xin chớ lãng quên mãi mãi. 20. Xin hãy đoái nhìn giao ước, vì đã ứa đầy Tận hang cùng ngõ hẻm, những ổ bạo tàn 21. Chớ để kẻ bị áp bức, lui về tủi hổ Cho kẻ khó người nghèo được ngợi khen danh Người ! 22. Xin hãy chỗi dậy, lạy Thiên Chúa Mà bênh lấy vụ kiện của Người Xin ghi nhớ : đưa ngu ngốc thoá mạ Người suốt ngày 23. Đừng quên tiếng gầm của phừơng đối địch Tiếng la lối rên lên mãi của lũ phiến loạn với Người. Bài Thánh vịnh 74 thuộc gia đình lời nguyện, theo nhánh kêu cứu tập thể.

Trọng tâm đặt cơ sở trên giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người. Vì thế tâm tình củabài thơ là tâm tình của cả cộng đoàn. Đó là lời nguyện của toàn dân trong lúc gặp khủng hoảng.

Theo nhận định của đa số các nhà chú giải, Tv 74 được sáng tác một thời gian ngắn sau biến cố năm -587 bởi những người đã chứng kiến cảnh đạo quân của Nabukodonosor tiến vào tàn phá Yerusalem (x. 2V 25,9). Bởi thế đặt song song Tv 74 với Ai 2 ta ghi nhận được nhiều nét tương đồng, không những về nội dung mà còn về cung giọng, tâm tình của những kẻ vừa bị thấm đòn ! Đang ngỡ ngàng về thực tại phũ phàng của mình, chưa hiểu nổi tại sao Thiên Chúa của họ lại hầu như tỏ ra đứng vào hàng ngủ kẻ thù, nếu không dám nói là Người đã đổi trắng thay đen, trở nên kẻ thù của chính dân Người ! Từ đó, cung giọng, lời nói thốt ra từ tâm hồn đoàn dân vừa bị quật ngã là những lời than vãn, kêu cứu, rì rầm, càm ràm như tiếng rù rì độc điệu của chim câu

Bài thơ nói lên sự hiện diện của ba hạng người : đoàn dân đang kêu cứu, phân trần với một vị Thiên Chúa mà họ không muốn Người đồng loã với kẻ thù của họ.

Ta lưu ý đến các từ ngữ sử dụng cho ba hạng người ấy : - Dân : “chiên ràn”, “cộng đoàn Người đã tậu từ ngàn xưa”, “bộ lạc Người đã

chuộc “, “cơ nghiệp của Người”, “núi Sion”, “mạng chim câu của Người”, “hạng nghèo khó”, “kẻ bị áp bức”, “kẻ khó người nghèo”

Page 6: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

- Kẻ thù : “quân thù”, “quân địch của Người”, “kẻ thù”, “một dân ngu ngốc”, “mãnh thú”, “ổ bạo tàn”, “đứa ngu ngốc”, “phường đối địch”, “lũ phiến loạn với Người” …

Toàn thể bài thơ như muốn giải thích – nhưng một cách bất toàn – câu hỏi chua cay, bở ngỡ của đoàn người đối diện với một thực tại mà họ chưa chấp nhận nổi : “nhân sao Người đã từ rẫy đến cùng !!!”.

a. Xin hãy duyệt xem cảnh thê lương vạn đại (74, 1-9) Lời đầu tiên là một câu hỏi : nhân sao ? vịnh gia như chưa chấp nhận là thật

hoàn cảnh mình đang sống. Tâm tư hình như có một cái gì ấm ức, phản kháng, bộc lộ nỗi oan ức, ưất hận. Với câu hỏi “nhân sao”, mệnh để mang hẳn sức mạnh của niềm uất hận, khác hẳn tâm tình trầm lặng, khiêm tốn của Tv 51,3 :

“Lạy Thiên Chúa xin xót thương tôi Theo lòng nhân nghĩa của Người” “Đã từ rẫy đến cùng” : kết hợp giữa từ quá khứ của động từ “đến cùng” càng

diễn tả một cách sâu sắc nỗi khốn quẫn hiện tại. “Từ rẫy” nói lên thái độ đoạn tuyệt, bất can thiệp, phó mặc. Thấy, biết, nhưng che tai, nhắm mắt làm ngơ. “Từ rẫy” nói lên chiều kích bi đát nhất của mối tương quan thân hữu : từ bạn nay trở nên thù ! bạn nay liên minh với kẻ thù ; bạn nay lại chỉ đường cho kẻ thù đánh vào chỗ yếu của mình ; hay tệ hại hơn, bạn nay trở mặt, phản bội để ám hại mình. Thật đúng là tâm tình chua chát của Ai ca :

“Sao ! Người đã khoanh tay mặc kệ khi kẻ thù đến đánh Người đã giương cung như một kẻ thù, tay phải giơ cao Như một kẻ địch Người tru diệt hết những gì là báu vật trước con người Đức Chúa đã nên như một kẻ thù” (Ai 2,1-5) Khi sử dụng từ ngữ “chiên ràn”, vịnh gia không những muốn gợi lại tính chất

thân mật trước kia, mà còn chú ý muốn làm nổi bật chiều kích yếu đuối, cần sự chăm sóc, hướng dẫn của chủ chiên. Thật là mỉa mai !

Sau giây phút bàng hoàng, bỡ ngỡ xen lẫn tâm trạng phản kháng đó, vịnh gia như trút được cơn uất hận. Ông bình tĩnh lại và mời gọi Thiên Chúa hãy “nhớ lại”. “Nhớ lại” gắn liền với giao ứơc. Từ đó vịnh gia phân trần với Thiên Chúa về chỗ đứng của mình trong giao ước. Đó là “cộng đoàn Người đã tậu từ ngàn xưa” ; “bộ lạc Người đã chuộc”, “cơ nghiệp của Người”, “núi Sion nơi Người trấn ngự” (câu 2). Bốn tước hiệu đó như muốn nhắc nhở Thiên Chúa đừng quên Người là ai ! là :

“Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung, Và đầy nhân nghĩa, tín thành” (Xh 34,6) Đặt cơ sở giao ứơc vững chắc rồi, nhắc Thiên Chúa nhớ lại Người là ai và Dân là

ai trong tương quan giao ước, sau đó vịnh gia mời Thiên Chúa “hãy duyệt xem cảnh thê lương vạn đại”.

Từ câu 3 đến câu 9, vịnh gia tuần tự kể ra cảnh đổ nát, điêu tàn, phạm thượng của dân ngoại ; trong khi đó, vịnh gia như hàm ý bộc lộ sự giận lẫy của mình đốivới Thiên Chúa.

Bằng cung giọng dồn dập, bằng những động từ sắc bén triệt để, vịnh gia phơi bày ra cảnh tàn phá của quân thù khi chúng kéo vào thành thánh : “tàn phá”, “bổ phăng”, rốnglên”, “giương búa giương chùy”, “nện”, “phóng hoả”, “phá bình địa”, “triệt hạ”, “đốt phá”.

Sở dĩ có cảnh điêu tàn đổ nát đó là tại sao, nếu không phải là do hành động “bừng nổi giận” của Yave, do thái độ “từ rẫy” của Người ? Xin hãy duyệt xem ! Người đã thấy chưa ? Người có thấy tai hại việc Người từ rẫy đoàn dân mà trước kia Người yêu qúy không ? và rồi, Người còn muốn thấy cảnh đó tới bao giờ ?

b. Nhân sao Người lài vòng tay ? (74, 10-17) Trải rộng cảnh thê lương vạn đại đó rồi, vịnh gia lặp lại câu hỏi “ đến bao giờ

nữa, lạy Thiên Chúa ?”

Page 7: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Ông không dừng lại ở đây. Ông còn tiến xa hơn : ông đồng hoá cảnh thê lương vạn đại của Dân ông với cảnh thê lương vạn đại của chính Thiên Chúa :

“Kẻ thù còn thoá mạ, Quân thù cứ phỉ báng danh Người mãi mãi”. Ông khéo léo nhắc Thiên Chúa : “Đến bao giờ nữa, lạy Thiên Chúa …” Vì gắn liền với giao ứơc, nên kẻ thù của dân cũng chính là kẻ thù của Thiên

Chúa. Từ đó ông mạnh dạn bày tỏ : “Nhân sao Người lại vòng tay Và tay phải Người, Người lại thu giấu vào lòng ?” Câu 12 đến 17 như phần quá trình lịch sử của bản văn giao ước. Ông nhắc lại

quá trình tương quan thân mật giữa Thiên Chúa với Dân. Thiên Chúa tạo dựng (câu 13-17) cũng chính là Thiên Chúa cứu độ :

“Lạy Thiên Chúa, Vua của tôi, từ ngàn xưa Giữa đất đai này, Người là Đấng dày công cứu độ”. Ý tưởng về Thiên Chúa cứu độ xen lẫn ý tưởng về Thiên Chúa tạo dựng khiến

Ông thêm tin tưởng, phấn khởi. Nhịp điệu các câu thơ diễn tả tâm tình đó : “Chính Người đã ra oai … Chính Người đã làm bay đầu… Chính Người đã xẻ ra khe suối… Chính Người đã tát cạn … Chính Người đã dựng nên… Chính Người đã vạch cương giới … … chính Người định phân”. Nhắc lại vài nét trong xuất hành là cốt để tin tưởng vào ơn cứu độ của Thiên

Chúa. c. Xin hãy đoái nhìn giao ước (74, 18-23) Một khi lấy lại lòng tin tửơng của mình vào Thiên Chúa, vịnh gia như cảm thấy

tiêu tan tâm trạng uất hận ban đầu, Ông không còn hằn học thốt lên những lời chua cay : “nhân sao”, “từ rẫy”, “đến cùng” nữa, nhưng Ông quay về lòng trung tín của Thiên Chúa giao ước. Trong phần cuối của bài thơ, những động từ nổi bật là : “xin ghi nhớ” (câu 18,22) ; “xin chớ lãng quên” (câu 19) ; “đừng quên” (câu 23).

Xin ghi nhớ, xin đứng quên giao ứơc. Căn bản giao ứơc đã rõ để phân ranh giới giữa một bên là Dân Chúa, một bên là là kẻ thù của dân Chúa. Họ chính là những ai “thoá mạ Yavê”, là “mãnh thú”, là “dân ngu ngốc phỉ báng Danh Người”, là “những ổ bạo tàn”, là “đứa ngu ngốc thoá mạ Người suốt ngày”, là “phường đối địch”, là “lũ phiến loạn với Người”.

Trong khi đó, dân Chúa là những người mang thân phận “mạng chim câu của Người”, “hạng nghèo khó”, “kẻ bị áp bức”, “kẻ khó người nghèo”.

Trước hai hạng người đó, Yavê Thiên Chúa sẽ có hành động như thế nào ? người sẽ lắng nghe tiếng của ai ? Người là vị Thiên Chúa luôn nâng đỡ kẻ nghèo khó, người bị áp bức, lẽ nào giờ đây lại đứng về phía bọn bạo tàn, lũ phiến loạn ?

Trong tâm trạng của con người gặp cơn cùng khốn, nhục nhã, vịnh gia đã thốt lên :

“Nhân sao, lạy Thiên Chúa Người đã từ rẫy đến cùng ?” Nhưng nhờ ánh sáng của giao ước, của Lời Chúa, vịnh gia ý thức sâu sắc mình

vẫn là “chiên ràn của Người”, là “bộ lạc Chúa đã buộc làm cơ nghiệp”, nên ông đặt hết tin tửơng vào Thiên Chúa : bởi ông tin rằng “vụ kiện” của mình, dựa trên cơ sở giao ứơc, đã trở nên “vụ kịên của chính Thiên Chúa” :

“Xin hãy chỗi dậy, lạy Thiên Chúa Mà bên lấy vụ kiện của Người” Tv 84

Page 8: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

BÀI CA HÀNH HƯƠNG 2. Khả ái thay cung điện của Người Yavê thiên binh ! 3. Hồn tôi mong ước đến hao mòn Hướng về tiền đường Yavê Lòng tôi, xác tôi reo lên Tới Thiên Chúa hằng sống. 4. Ngay se sẻ cũng kiếm được nhà, Và chim én được có tổ đặt con : Nên cạnh bàn thờ của Người, Yavê thiên binh, Vua và là Thiên Chúa của tôi. 5. Phúc thay những ai ở đậu nhà Người Họ sẽ ngợi khen Người mãi mãi ! 6. Phúc thay những kẻ lấy Người làm sức mạnh, Nặng lòng với dặm hành hương. 7. Ngang qua thung lũng Tàm - ma, sẵn trổ mạch nước, Cơn mưa đầu mùa sẽ giáng phúc lành trên chúng. 8. Hết đồi này qua đồi nọ, chúng tiến lên Thiên Chúa sẽ hiện ra cho chúng tại Sion. 9. Yavê Thiên Chúa thiên binh, Xin hãy nghe lời tôi khẩn nguyện Xin hãy lắng tai, lạy Thiên Chúa của Yacob 10. Thuẫn đỡ cho chúng tôi, xin hãy nhìn xem, lạy Thiên Chúa Xin hãy đoái nhìn mặt Đức Kitô của Người ! 11. Vâng, phúc cả dư ngàn một ngày nơi tiền đường Người, Nên tôi thà nán lại cửa nhà Thiên Chúa, Hơn là được ấm cúng nơi dinh trại lũ ác nhân. 12. Chính Người là thành quách, là khiên mộc, Yavê thiên Chúa Người ban diễm lệ vinh quang, Yavê không nỡ khước từ hạnh phúc Cho những ai bước đi trọn lành. 13. Yavê thiên binh Phúc thay kẻ nào tin cậy ở Người ! Đây là một bản Thánh vịnh hành hương đặc sắc. Nhờ một lối cấu trúc hoàn

chỉnh, theo kiểu đồng tâm, lại được thêm nhiều hình ảnh phong phú, đa dạng, bài thơ này khiến độc giả chia sẻ chiều kích nội tâm của vịnh gia tương đối dễ dàng.

Sau những ngày lễ, tác giả biểu lộ tâm tình hiện tại cụ thể của mình, lòng đạo đức được dâng cao trong dịp lễ, để rồi trên đường về với đời sống thực tế, vịnh gia tự vạch ra cho mình một hướng sống đạo mới mẻ, phát xuất từ ý nghĩa của cuộc hành hương : khởi từ cuộc hành hương bên ngoài, vịnh gia hướng về cuộc hành hương nội tâm. Trong 2 cuộc hành hương đó, đền thánh luôn luôn hiện diện, sống động và đóng vai trò tâm điểm.

Từ ngữ nòng cốt của bài thơ là : “cung điện của Người” (84,2). Ý tưởng đó được lặp đi lặp lại trong suốt bài thơ : - Tiền đường Yavê (84,3) - bàn thờ của người (84,4) - nhà Người (84,5) - Sion (84,8) - Tiền đường Người (84,11) - Cửa nhà Thiên Chúa (84,11) Các từ ngữ trên gợi ra ý tưởng kiên cố, vững chắc như : “thành quách”, như

“khiên mộc”, có khả năng tạo nên tâm tình “tin cậy ở Người” cho bất cứ ai. Xoay quanh tâm điểm “cung điện”, ta có bốn hạng người mà vịnh gia gọi là

người được chúc phúc : “Những người ở đậu nhà Yavê” (84,5) “Những người nặng lòng với dặm hành hương” (84,6)

Page 9: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

“Những người bước đi trọn lành” (84,12) “Những người tin cậy ở Yavê” (84,13) 1. Jerusalem hiện diện ở trước mắt (84,2) Sau ngày lễ, đoàn khách hành hương tuần tự ra về. Vịnh gia đứng ngắm nhìn

thánh điện lần cuối, rồi bật lên lời ca ngợi : “khả ái thay !” Đáng yêu thay Yerusalem ! Yerusalem trở nên đối tượng của tâm tình, của tình

yêu, của lẽ sống vịnh gia. Tại sao ? vì nơi đây Yavê uy dũng, quyền năng đang hiện diện.

2. Jerusalem hiện diện trong tâm trí (84,3-6) Chân đã bước đi nhưng lòng còn lưu luyến. Ngày lễ đã qua nhưng dư âm còn

đọng lại. Rời khỏi Yerusalem, nhưng hình ảnh đền thờ đã khắc sâu vào tâm trí. Trên đường về, vịnh gia thả hồn hướng về đền thánh : “hồn tôi mong ước đến hao mòn”

Hao mòn vì sao ? - vì yêu mến ! yêu Yerusalem mà giờ đây đành phải giã từ, ly biệt ! muốn ở mãi bên Yerusalem mà hoàn cảnh đòi buộc phải xa rời ! tình yêu như nung nấu, như thiêu đốt tâm hồn vịnh gia, khiến ông khắc khoải đến hao mòn. Nhưng chỉ cần nghĩ đến Yerusalem, thì điều ấy đã đủ để cho toàn thân ông, cho lòng ông, cho ông phải reo lên :

Hướng về tiền đừơng Yavê, Lòng tôi, xác tôi reo lên Tới Thiên Chúa hằng sống” Nghĩ thế, ông lại đâm ra ao ước đến độ phải ghen với số phận của bất cứ ai

được diễm phúc sống bên cạnh đền thờ, ngay cả với lũ se sẻ, chim én. Chúng thế mà có phúc ! chúng thế mà khôn ngoan hơn mình ! chúng đã xây nhà, đặt tổ ở gần bàn thờ Chúa để đêm ngay được ở gần bên Yavê. Còn tôi đây thì sao ?

Ghen với se sẻ, chim én xong, vịnh gia lại thèm muốn số phận của các tư tế, những người phục dịch đền thờ. Họ là những người có phúc được “ở đậu”, tá túc dưới mái nhà Yavê để đêm ngày không ngừng được xướng ca, ngợi khen Người.

Thế nhưng, có phải chỉ có hạng người “ở đậu” nhà Yavê mới chiếm độc quyền ca ngợi Người không ? nghĩ tới đây, vịnh gia cảm thấy bớt chua cay, để rồi dần dần thêm phấn khởi : nếu Yerusalem là nhà cho Người tá túc, thì Yavê thiên binh lại là “sức mạnh “ cho khách hành hương. Yavê không chỉ hiện diện trong đền thờ, mà còn hiện diện đối với hạng người “nặng lòng với dặm hành hương”.

Với tâm tình đó, vịnh gia không những thấy Yerusalem hiện diện trong tâm trí mình, mà còn hiện diện trong cả mỗi bước đi của mình.

3. Jerusalem hiện diện trong bước đi (84,7-12) Nếu như cuộc đời của Dân Chúa là cuộc hành hương hướng về nhà Chúa, thì

trên lộ trình, họ bắt gặp sự hiện diện của Người trên mỗi bước đi của mình. + “Ngang qua thung lũng Tàm-ma”. Trong nguyên bản và theo nhiều bản

dịch,thì đây là “thung lũng than khóc” . Chính trong thung lũng đầy gian khổ và nước mắt của cuộc sống con người, vịnh gia vẫn thấy được sự hiện diện cùng phúc lành của Thiên Chúa. Người hiện diện như “mạch nứơc” như “cơn mưa đầu mùa” làm nhuyễn đất đai, tạo thuận lợi cho vụ mùa sắp tới. Ở mỗi bước đi, Ông tưởng chừng như đang giẫm lên đồng ruộng ướt sũng, tượng trưng cho lòng từ bi của Chúa (vào dịp lễ Lều, người ta cầu xin mưa. Cf Za 14,17).

+ “Hết đồi này qua đồi nọ” ý nói trong mọi trạng huống của cuộc đời, mọi bước đi của người hành hương, Thiên Chúa vẫn luôn luôn hiện diện, giống như Người hiện diện ở Sion. Để rồi từ đó, vịnh gia bứơc đi trong chiêm niệm, với tâm tình cầu nguyện, liên đới với toàn Dân Thiên Chúa :

“Yavê Thiên Chúa thiên binh Xin hãy nghe lời tôi khẩn nguyện… Xin hãy đoán nhìn mặt Đức Kitô của Người !” Lời nguyện của vịnh gia được mở rộng va hoà tan trong niềm hy vọng của toàn

dân vào Đức Kitô, tức Đấng Mesia, Đấng được xức dầu : trươc thời lưu đày là Đức

Page 10: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Vua ; sau thời lưu đày là vị Thượng tế. Đấng Kitô (Mesia) là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn để hướng dẫn toàn dân sống theo giao ước. Tâm tình cầu nguyện nhắc nhở bước đi của người hành hương phải là bước dấn thân vào thực tế trong cuộc sống hàng ngày. Suy nghĩ về điều này, vịnh gia lại bị giằng co, day dứt. Ông muốn quay trở lại Yerusalem :

“Vâng phúc cả dư ngàn một ngày nơi tiền đường Người”. Vịnh gia nhớ lại niềm vui, nhớ lại bầu khí của cộng đoàn dân thánh trong dịp lễ.

Ông cảm thấy lòng mình tê tái khi phải rời xa cộng đoàn phụng vụ để lao mình vào cuộc sống phũ phàng hàng ngày :

“Nên tôi thà nán lại cửa nhà Thiên Chúa hơn là được ấm thân nơi dinh trại của lũ ác nhân”. Thế nhưng, đối diện với thực thế không phải luôn phù hợp với điều vịnh gia

mong ước. Với cái nhìn mới sau cuộc hành hương, vịnh gia có một tâm tình thần học thật sâu sắc, như con người đã tìm ra lẽ sống :

“Yavê không nỡ khước từ hạnh phúc Cho những ai bước đi trọn lành” Thật vậy, Yavê trở nên “thành quách”, “khiên mộc” bảo vệ, đồng thời chính

Người đem lại “diễm lệ vinh quang”, nguồn hạnh phúc vô tận cho những ai bứơc đi trong giao ước của Người.

4. Jerusalem hiện diện trong cuộc sống (84,13) Với câu kết của bài thơ, chúng ta tìm thấy một tổng hợp thần học về cuộc hành

hương mà vịnh gia muốn chia sẻ với chúng ta : “Yavê thiên binh phúc thay kẻ nào tin cậy ở Người” + “tin cậy” là tâm tình của con người đã cảm thấy mình được ổn định, đã khám

phá ra lẽ sống cho đời mình. Tin cậy tạo nên tư thế vững chắc, kiên cố. Đây là cao điểm của cuộc hành hương. “Cung điện của Chúa “kiên vững đã tạo nên tâm tình “tin cậy” nơi khách hành hương.

Dầu ở trong đền thờ hoặc phải xa đền thờ, tâm tình chưa chan hạnh phúc hoặc phải khắc khoải giằng co … những trạng huống đó của cuộc đời đều được vịnh gia phơi bày ra trong cuộc hành hương. Từ hành hương cụ thể bên ngoài, vịnh gia chuyển đời sống mình thành cuộc hành hương liên tục, hành hương nội tâm. Trong hai cuộc hành hương này, nhà Chúa luôn là tâm điểm, nơi quy tụ cái nhìn, tâm trí, bước đi và đời sống của mình. Với tâm tình “tin cậy ở Chúa”, vịnh gia quả đã đat được mục đích của cuộc hành hương, vì từ nay Thiên Chúa đã thật sự là tâm điểm của cuộc đời vịnh gia.

Tv 2 – VỊ KITÔ CỦA THIÊN CHÚA 1. Làm sao các dân chấn động Và các nước tính chuyện hão huyền 2. Vua chúa trần gian dấy binh khởi nghĩa, Vương hầu liên minh một khối Chống lại Yavê và chống lại Đức Kitô của Người : 3. “Ta hãy giật tung dây chúng trói và quảng xa thừng chão chúng đi” 4. Đấng ngự trời cao phải phì cười, Chúa nhạo báng khinh thừơng bọn chúng. 5. Bấy giờ thịnh nộ, Người phán bảo ; Nổi giận, Người làm chúng kinh hoàng : 6. “Chính Ta, Ta đã tấn phong vua Ta chọn, trên Sion núi thánh của Ta” 7. Đây Ta truyền sắc chỉ của Yavê :

Page 11: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Người phán với Ta : “ngươi là con Ta Chính Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Ngươi 8. Hãy xin Ta Ta sẽ cho ngươi, các dân làm cơ nghiệp, Và lãnh địa đến mút cùng mặt đất. 9. Lấy trượng sắt, Người đập chúng tan tành Và nghiền nát chúng như đồ sành chợ gốm” 10. Vậy bây giờ, hỡi chư vương, hãy xử cho khôn Các ngự sử trần gian, hãy biết điều 11. Hãy phụng thờ kính giới Yavê Và run sợ mà hôn chân Người. 12. Kẻo Người bốc giận mà các ngươi mạt lộ Vì chày kíp khí nộ Người bùng cháy Phúc cho ai ẩn náu bên Người. Đây là một Thánh vịnh đặc biệt, rất phong phú về tư tưởng thần học : xét về ý,

ve lời, về cách giải thích cũng như cách áp dụng trong kinh thánh. a. Về ý: ngày đặng quang của đức vua chính là ngày vua nhận trọng trách đại

diện cho Thiên Chúa đã lãnh đạo dân Người : “Ngươi la con Ta, chính Ta, hôm nay ta đã sinh ra Ngươi” (cf 2, s7-14)

b. Về lời: dựa trên lời, bài thơ sẽ khiến chúng ta ngạc nhiên, vì một số từ ngữ, kiểu nói không những xa lạ đối với thời Davit - Salomon, mà còn cho ta thấy dấu vết của thời lưu đày, khi Israel không còn vua cai trị mình :

c. Về cách giải thích: đây là một bài thơ có trước lưu đày, nhưng được “đọc lại” (re-lecture) sau thời lưu đày. Trước lưu đày để ca ngợi đức vua thuộc dòng tộc Đavit vào dịp đăng quang ; sau lưu đày được “đọc lại”, hướng về vị vua “sẽ đến”. Từ vị vua cụ thể, lòng dân hướng về Đấng Mesia tuyệt đối (xuất phát từ kinh nghiệm lưu đày, mất nước, mất vua…)

Giải thích bài thơ này ta thấy mở ra 3 chiều kích : - Thời gian : hướng về thời Mesia, thời cánh chung - Không gian : hướng về ý phổ cập - Đức tin : nội tâm sâu sắc d. Về cách áp dụng trong thánh kinh: Rõ ràng Tân ước đã sử dụng Thánh

vịnh này để áp dụng một cách có chủ ý và đặc biệt vào Đức Yêsu Nazaret. Mc 1,11 : “Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ Cv 4, 1-27. Trong bài Kerygma, thánh Phêrô đã tuyên bố cách các tông đồ và

hội thánh tiên khởi đã hiểu ý nghĩa bài thánh vịnh này và đã áp dụng cho Đức Yêsu như thế nào.

Cv 13,32-33. Sau này, tại hội đừơng Antiokia, thánh Phaolô cũng đã loan truyền niềm xác tín đó.

Sau khi nói qua về tầm quan trọng của Tv 2 trên một số mặt : ý, lời, cách giải thích, cách áp dụng trong thánh kinh, chúng ta bắt đầu chú giải bài thánh vịnh nổi tiếng này dưới nhãn quan lịch sử cứu độ.

Cung giọng và từ ngữ sử dụng trong bài thơ thật tài tình : giữa cảnh hỗn loạn, mờ ám, giữa thái độ thù nghịch của muôn dân đối với Thiên Chúa : “chấn động … tính chuyện hão huyền … liên minh một khối … chống lại …” chúng ta ghi nhận tính vững chắc, minh bạch của Yavê Thiên Chúa trong thái độ của Người : “ngự trời cao … phì cười… nhạo báng … thịnh nộ… nổi giận … tấn phong … trên sion … truyền sắc chỉ …”.

Từ ngữ “chấn động” đối lập hoàn toàn với từ ngữ “ẩn náu” ở cuối bài thơ. Bài thơ chia làm 4 phần rõ rệt : 2,1-3 thái độ của muôn dân 2,4-6 thái độ của Yavê Thiên Chúa 2,7-9 Vị vua Mesia xuất hiện 2,10-12 lời khuyên đối với muôn dân

Page 12: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

a. Chương trình của Yavê Thiên Chúa Bốn phần cuả bài thơ lược tóm tất cả chương trình của Thiên Chúa trong dòng

lịch sử của con người. Chương trình đó được thực hiện bởi Đấng Mesia (Đấng Kitô - Đấng được xức dầu), Người Con chí ái của Người.

- Thái độ xôn xao, mất định hướng, âm mưu, thù nghịch của muôn dân cùng với những người lãnh đạo của họ để chống lại Yavê Thiên Chúa và chống lại vị đại diện của Người là Đấng Kitô. Họ cho rằng sự hiện diện của Thiên Chúa và Đấng Kitô là những chướng ngại cho đời sống họ. Chỉ sự hiện diện đó thôi đủ khiến họ như bị trói buộc, không còn được tự ý thực hiện điều mình muốn : “làm sao muôn dân chấn động …”

- Thái độ bình thản, ung dung của Thiên Chúa trước cảnh xôn xao của muôn dân. Ta lưu ý chủ tâm của tác giả khi đối lập hai thái độ :

Làm sao các dân chấn động và các nước tính chuyện hão huyền ? Đấng ngự trời cao phải phì cười Chúa nhạo báng khinh thường bọn chúng ! Trong tư thế ổn định, bình thản đó, Thiên Chúa tiến hành chương trình của

mình đối với loài người với sự xuất hiện của đấng Kitô, đấng Thiên Chúa tuyển chọn và tấn phong bằng việc xức dầu.

- Vị Vua Mesia xuất hiện. Ngài không tự mình chiếm lấy ngai vàng và cũng không tự giao phó cho mình một sứ mạng đối với loài người. Ngược lại, Ngài hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và sứ mạng của Ngài hoàn toàn dựa trên sắc chỉ của Thiên Chúa. Từ đó, Ngài xuất hiện trong hai tư thế : - Con Thiên Chúa (2,7) - vị lãnh đạo muôn dân (2,8)

- Đối diện với Đấng Mesia của Thiên Chúa, muôn dân sẽ phải lựa chọn để có thái độ dứt khoát : - hoặc tiếp tục chống lại Thiên Chúa, thì sẽ thấy chung cuộc là bị “nghiền tán như đồ sành thợ gốm” ; - hoặc sẽ “ẩn náu bên Người” để thực sự sống trong an bình, hạnh phúc.

b. Ánh sáng của Thánh vịnh 2 trên giờ khổ nạn của Đức Giêsu Kitô Thánh sử Mattheo dường như đọc lại Tv 2 và nhận định giờ khổ nạn của Đức

Yesu - cao điểm của lịch sử cứu độ - dưới ánh sáng đó : - Các thượng tế, ký lục, trưởng lão Do Thái âm mưu khích động dân chúng

chống lại Đức Yêsu, Đấng Kitô của Thiên Chúa. Họ liên minh với nhau, thậm chí cả với Philato, thuộc giới cầm quyền La Mã mà từ xưa họ vẫn nghi kỵ, chống đối. Trong âm mưu đó, điều nực cười là ngay cả Herode cũng thoả hiệp với Philato, mà mục đích duy nhất là khử trừ một con người, bởi lẽ sự hiện diện của Đấng này làm khổ họ, biến họ nên như tù nhân, vì việc làm mờ ám, sai quấy của họ.

- Thái độ bình thản của Đức Yêsu trong cuộc khổ nạn, đặc biệt trước phiên toà Do Thái và La Mã. Người bị xử và người xử có thái độ thật rõ rệt. Ai bị chấn động và ai bình thản như “Đấng ngự trời cao” ? Và chính trên cây thập tự ở ngọn đồi Sion giữa cảnh rung chuyển của vũ trụ, vạn vật, Đức Yesu đã được tấn phong : “chính Ta, Ta đã tấn phong vua Ta chọn trên Sion, núi thánh của Ta”

- Dầu bị đóng đinh, nhưng Đức Kitô đã chiến thắng, vì Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Qua cuộc khổ nạn - phục sinh, Đức Kitô được tôn phong làm Chúa của vũ hoàn.

- Biến cố trên, đòi buộc mọi người phải suy nghĩ để lựa chọn thái độ. Chính Đức Yesu Kitô đã mang trên bản thân mình mọi tộip hản loạn của loài người. Vì thế, ai khiêm tốn tự nhận mình là người có tội, thì sẽ tìm được thứ tha và hạnh phúc khi náu thân ở nơi Ngài.

c. Ánh sáng của Tv 2 trên đời sống các Tông Đồ và Hội Thánh Thánh vịnh 2 không những chỉ soi sáng trên giờ khổ nạn của Đức Yesu mà thôi,

mà còn trên đời sống các Tông Đồ và Hội Thánh. - Các nhà lãnh đạo dân Do Thái cũng như La Mã liên minh với nhau chống lai

các tông đổ (xem Công vụ)

Page 13: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

- Nhưng chương trình của Thiên Chúa không bị ngăn trở, vì lời của Đức Kitô phục sinh không bị xiềng xích : tin mừng cứu độ được loan truyền đến mút cùng trái đất.

- Các tông đồ tham dự vào vinh quang của Đức Kitô phục sinh. Đau khổ, thử thách họ chịu ở đời này không thể sánh được với vinh quang sau này (xem Rm 8,19)

- Bởi thế, các tông đồ của Chúa không sợ gặp thử thách, gian truân hay bách hại. Ngược lại họ đã vui sướng và tạ ơn Thiên Chúa khi gặp phải thử thách hay bách hại ; vì nhờ hoàn cảnh đó họ có dịp làm chứng cho Đức Kitô hơn. Điều quan trọng là phải hiểu và giải thích cho đúng những thử thách, đau khổ, bách hại dưới ánh sáng thánh vịnh 2, ánh sáng của mầu nhiệm tử nạn – phục sinh của Đức Yêsu. Những thất bại trên con đường các tông đồ và hội thánh trong nhãn quan đó chính là dấu chỉ chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang thực hiện : sự chết mở cửa vào sự sống.

ĐGM Giuse Võ Đức Minh

Page 14: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

TĨNH TÂM VỚI THÁNH VỊNH

BÀI 1 THÁNH VỊNH : LỜI CA NGUYỆN CỦA DÂN CHÚA.

1. MỘT TUYỂN TẬP Theo kinh thánh Hippri, Thánh vịnh được gọi là “Sách ca ngợi” (sêpher -

tơhillim). Bản dịch hy ngữ LXX gọi là “Sách ca vịnh”(Psalmoi hay Biblos psalmôn). Từ đó, bản phổ thông La ngữ dịch Psalterium hay Liber Psalmorum.

Sách ca ngợi hay thuật ngữ thông dụng của chúng ta gọi là Thánh vịnh là một tuyển tập gồm 150 bài ca, chia làm 5 phần, có lẽ theo khuôn mẫu số 5 của bộ Ngũ kinh: Khởi nguyên, Xuất hành, Lêvi, Dân số và Thứ luật ; bởi lẽ, Ngũ Kinh là bộ sách nền tảng của Cựu ước, đồng thời cũng là bộ sách nền tảng của toàn bộ Thánh kinh :

Phần 1 gồm Tv 1 – 41, kết thúc bằng Tv 41,14 Phần 2 gồm Tv 42 – 72, kết thúc bằng Tv 72,18 -19 Phần 3 gồm Tv 73 – 89, kết thúc bằng Tv 89,53 Phần 4 gồm Tv 90 – 106, kết thúc bằng Tv 106,48 Phần 5 gồm Tv 107 – 150, kết thúc bằng Tv 150 Nhìn vào cách bố cục và nhất là câu kết của mỗi phần, chúng ta ghi nhận các

câu kết đều được trình bày dưới hình thức, một vinh tụng ca (doxologie). Cách riêng, ở phần cuối tác phẩm, chúng ta bắt gặp không phải chỉ có một hay hai câu, nhưng toàn bài Thánh vịnh 150 được sử dụng như một bản vinh tụng ca trang trọng, hùng vĩ. Nhờ đó, Tv 150 không những là bản Thánh vịnh kết thúc toàn bộ tác phẩm, nhưng nhờ cung giọng, âm điệu, tâm tình, nội dung … sẽ là bài ca mở rộng tâm hồn mọi người ra với thiên nhiên, vũ trụ, loài người, Thiên Chúa. Vì thế, tuy tác phẩm thánh vịnh kết thúc với Tv 150, nhưng phải nói là Tv 150 như kéo dài tới vô tận mọi tâm tình của con người hàm chứa trong toàn bộ tác phẩm thánh vịnh.

Một trong những đặc điểm khiến chúng ta lưu ý, có lẽ Sách Thánh vịnh là một trong những sách Kinh Thánh mà ta không thể nào đọc một mạch từ đầu chí cuối. Về điểm này, có tác giả có một nhận xét khá ngộ nghỉnh : Thánh vịnh được ví như một cuốn cuốn tự điển : người ta có thể tra ở đầu, ở cuối, hay ở giữa, tuỳ theo nhu cầu. Tuy nhiên , có lẽ khó tra hơn tự điển, vì các thánh vịnh được xếp nối tiếp nhau mà dường như không theo một trật tự nào cả ; dầu cũng có ít chỉ dẫn khá mơ hồ ở đoạn dẫn nhập, cho thấy Thánh Vịnh được đưa vào danh mục phụng vụ như thế nào . Điều nầy giải thích nguồn gốc của Sách Thánh vịnh : Đó là tuyển tập các bài hát được sưu tập nhằm mục đích để xử dụng thường xuyên trong cộng đồng phụng vụ.

2. MỘT TUYỂN TẬP CÁC BÀI THƠ. Dân chúng tất nhiên cần đến lề luật, nhưng văn chương luật pháp thì lạnh lẽo

và theo thứ logic khô khan của lý trí. Lịch sử và các truyện kể thì khác, thường lôi cuốn vì cách này hay cách khác, chúng ta cảm thấy như mình đang ở trong đó. Tuy nhiên, không gì có thể diễn tả tâm tình, tâm sự và cảm xúc của con người đến mức như là thi ca ; hơn nữa chúng lại được sáng tác nhằm có thể hát lên, với nhạc khí phụ hoạ. Mỗi Thánh vịnh là một bài thơ, thậm chí là một tuyệt tác ; vì đã trải qua thử thách của thời gian, cũng như đã in sâu vào tâm khảm và sự chấp nhận của lòng người .

Thi nhân, theo bản chất, sáng tạo nên một điều gì đó độc đáo, nhưng không phải bao giờ cũng tuân theo trật tự luận lý. Chính đó là điều khiến chúng ta đôi khi lúng túng trước bản văn thánh vịnh. Khi mô tả một tình huống, các vịnh gia hẳn có thể đảo trình tự các biến cố, hầu làm nổi bật điều mà họ coi là quan trọng hơn hoặc

Page 15: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

nhằm đưa ra ánh sáng những mối liên hệ phong phú và tế vi trên bình diện thần học.

Vả lại, ngôn ngữ của thi ca thường dò tìm mọi khả năng của trí tưởng và của trực giác biểu tượng. Ở đây, chúng ta cần phân biệt hai cấp độ khác nhau , qua đó thi ca biểu lộ.

Trí tưởng tạo ra những hình ảnh, nghĩa là các so sánh, các ẩn dụ. Nếu một vịnh gia mô tả chẳng hạn cuộc thần hiển như sau : “Thiên Chúa ta ngự đến, Người không nín lặng. Hàng tiền đạo : kìa lửa hồng thiêu đốt, quân tả hữu : đây bạo vũ cuồng phong”(Tv 50,3), thì rõ ràng ông đã phải dùng thứ ngôn ngữ vượt ra ngoài ranh giới văn hoá ; khiến ai cũng đều có thể hiểu ngay rằng, mô tả đó liên quan đến hành động can thiệp đầy uy dũng của Thiên Chúa. Quả vậy, lửa hồng thiêu đốt và bão táp cuồng phong nằm trong hành trang kinh nghiệm của mọi con người, bất kể chủng tộc,văn hoá. Nói đúng ra, đó là những biểu tượng hơn là những hình ảnh đơn thuần. Điều này có lẽ khiến độc giả thoáng nhận ra rằng, ngôn ngữ biểu tượng của các thánh vịnh có khả năng phản ánh, kinh nghiệm sâu xa nhất và phổ quát nhất của nhân loại, giống như một tấm gương trung thực.

3. LỜI CON NGƯỜI HAY LỜI THIÊN CHÚA ? Ở đây có một vấn đề đặt ra. Trong các cộng đoàn của chúng ta, chúng ta luôn

nói và tin rằng tất cả Kinh Thánh là Lời Chúa. Nhưng điều đó có đúng với các Thánh Vịnh hay không ? Trong phần lớn các trường hợp, người nói là một kẻ nghèo đang kêu lên nỗi thống khổ của mình. Trong một số thánh vịnh khác lại là tiếng hát ngợi ca Thiên Chúa của cộng đoàn. Nếu những thánh vịnh đó là Lời của Thiên Chúa thì phải chăng Thiên Chúa đang nói với chính mình ?

Rõ ràng chúng ta không thể hoài nghi về việc các Thánh Vịnh, cũng như phần còn lại của Kinh Thánh, vọng lại tiếng nói thực sự của con người. Đó là những bài thơ gắn chặt vào các tình cảnh cụ thể khác nhau mà chúng ta mãi mãi sẽ không thể nào nắm hết được các tình tiết . Thực ra, các thánh vịnh là những tấm gương phản chiếu cho chúng ta hôm nay. Các tác giả thánh vịnh đã diễn tả cách rất trung thực những gì họ suy nghĩ, những gì họ cảm nhận và sống.

Tuy nhiên, còn có điều hơn thế nữa. Mỗi lần chúng ta đọc hoặc cầu nguyện với một thánh vịnh là chúng ta thực sự mượn lời của Thiên Chúa. Đó là vì Thiên Chúa đã đảm nhận toàn thể kinh nghiệm của dân Người, và qua đó đảm nhận kinh nghiệm của tất cả nhân loại. Có biết bao con người cảm thấy, một lúc nào đó, mình kiệt sức, mỏi mòn vì cuộc sống hằng ngày, đến nỗi không còn có thể kêu lên nỗi đau đớn và ngay cả sự nổi loạn bên trong của mình. Nếu họ không còn gì để thốt ra thì Kinh Thánh lại đặt vào môi miệng họ những lời mang chiều sâu biểu tượng khôn sánh :

“Lạy Chúa Trời, xin cứu vớt con, vì nước đã dâng lên tới cổ. Con bị lún sâu xuống chỗ sình lầy, Chẳng biết đứng vào đâu cho vững, Thân chìm ngập trong dòng nước thẳm, Sóng dạt dào đã cuốn trôi đi. Kêu hoài nên kiệt sức, họng con đã ráo khô ; Đôi mắt đã mỏi mòn vì trông chờ Thiên Chúa” (Tv 69,2-4). Những con người đó tự mình chắc không bao giờ dám thốt lên: “Lạy Chúa, xin tỉnh giấc ! Ngài cứ ngủ được sao ? Xin trỗi dậy đi nào, đừng đuổi xua mãi mãi ! Sao Ngài còn ẩn mặt, quên rằng chúng con bị khổ cực đoạ đày ? Mạng chúng con chôn vùi cát bụi, Tấm thân này nằm bẹp dưới bùn đen. Dám xin Ngài đứng lên phù giúp, Lấy tình thương cứu chuộc dân Ngài” (Tv 44,24-27).

Page 16: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Khi cho những con người bị nghiền tán, bị tổn thương phẩm giá của mình được có những lời lẽ như thế, Thiên Chúa cho họ phương thức cụ thể để đến với Ngài cách hết sức thân tình, như đến với một người chahiền lành, giàu lòng thương xót và vô cùng gần gũi.

Trong những trường hợp khác, dẫu mọi sự tốt đẹp, đôi khi chúng ta không biết phải nói gì với Chúa. Lúc đó Ngài lại ban cho chúng ta những kiểu nói tuyệt vời, thốt ra từ trái tim nhân loại như chúng ta. Mặc dù sau bao nhiêu thế kỷ, những kiểu nói đó vẫn có sức nuôi dưỡng kỳ diệu kinh nguyện chung của chúng ta. Chẳng hạn :

“Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu !” (Tv 8,2). Hay: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng ! Chúa hoàn thành tất cả

thật khôn ngoan” (Tv 104,24). 4. CẤU TẠO BỘ THÁNH VỊNH Bộ Thánh vịnh đã được hình thành như thế nào ? môi trường nào đã làm nảy

sinh Thánh vịnh ? ta có thể xác định niên biểu của Thánh vịnh không ? Trong việc tìm hiểu Thánh vịnh, chúng ta phải cố gắng tìm giải đáp khả dĩ trả

lời cho các câu hỏi trên. Bởi lẽ, trong toàn bộ Thánh Kinh, Thánh vịnh là bộ sách tương đối lủng củng nhất, nếu chưa nói thuộc loại khó nhất của Thánh kinh.

Điều ghi nhận trước tiên, đó là Thánh vịnh chính là tập sách chính thức quy tụ các bài Thánh ca của Israel trong công việc phụng tự. Nếu như trong việc nghiên cứu về Thánh vịnh, có một số tác giả nghi ngờ về nguồn gốc phụng tự của Thánh vịnh – đa số các nhà nghiên cứu đều đồng nhất về nguồn gốc phụng tự của Thánh vịnh – thì điều chắc chắn mà mọi người đều nhất trí, đó là Thánh vịnh được lưu truyền đến chúng ta nhờ con đường phụng vụ; bởi lẽ, các giai đoạn cấu tạo bộ Thánh vịnh hoàn toàn phù hợp với sự phát triển đời sống phụng vụ của Israel. Chính trong bầu khí phụng vụ, Thánh vịnh đưa chúng ta đi vào kinh nghiệm sống của những con người biết đối thoại với vị Thiên Chúa mà mình tin và yêu mến.

Thoạt nhìn qua, chúng ta thấy tập Thánh vịnh được hình thành qua nhiều thời đại, do các chủ đề, điển tích, văn thể, ý tưởng, từ ngữ sử dụng . Nói như thế, chúng ta phải xác nhận Thánh vịnh là những bài ca vịnh do nhiều tác giả khác nhau, có những hoàn cảnh khác nhau, mang nhiều tâm trạng khác nhau, có những kinh nghiệm tôn giáo khác nhau, thậm chí có khi xem ra mâu thuẫn nhau. Những yếu tố tạo ra những nét phong phú cho Thánh vịnh, nhưng đồng thời cũng đem lại nhiều khó khăn, phức tạp cho chúng ta khi tìm hiểu Thánh vịnh.

Theo truyền thống, người ta gán cho Đavit là tác giả bộ Thánh vịnh, tương tự gán cho Môsê là tác giả bộ Ngũ kinh. Truyền thống này mang ít nhiều tính chất giả tạo, vì như trong trường hợp bộ Ngũ kinh, chăc chắn là không phải cá nhân Môsê soạn ra ; bởi trong thực tế, bộ Ngũ kinh được hình thành ít nữa là do bốn nguồn khác nhau : nguồn Y (Yavit), nguồn E (Elohit), nguồn P (Priester Kodex, nguồn tư tế), và nguồn D (Thứ luật). Căn cứ trên lịch sử cấu tạo của bộ Ngũ kinh , ngày nay các tác giả đều xác quyết là các nguồn trên mang dấu vết của các thời đại từ thế kỷ XIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Còn nhân vật Môsê lịch sử lại sống vào thế kỷ thứ XIII. Như thế, không thể nói Môsê là tác giả của bộ Ngũ kinh như truyền thống xưa nay vẫn dạy. Thế nhưng, điều đó không những không sai, nhưng còn rất sâu sắc và chính xác. Vì trong lịch sử thời Cưu ước, khuôn mặt Môsê được xem như tiêu biểu của lịch sử Dân Chúa, của Giao ước Sinai. Ông là khuôn mặt có tính chất quy tụ và là mẫu gương tiêu biểu nhất của dân Giao ước cũ. Các nguồn Y, E, P, D của Ngũ kinh, tuy được hình thành bởi nhiều tác giả, qua các giai đoạn khác nhau … nhưng đều chung quy phát xuất từ Môsê, con người của Giao ước Sinai (Ngũ kinh còn được gọi là sách Luật - Torah hay sách giao ước).

Page 17: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Cũng vậy, Đavit được Thánh kinh Cựu Ước xem như nhân vật “ca ngợi Thiên Chúa”một cách tuyệt hảo. Ông là hiện thân một con người được tuyển chọn một cách nhưng không, yêu mến, tin tưởng, ngoan ngoãn đi theo Thiên Chúa. Ông ca ngợi Thiên Chúa trong suốt cuộc đời, lúc sống đẹp lòng Thiên Chúa cũng như khi sa ngã lỗi phạm. Trong trạng huống nào của cuộc sống, Đavit vẫn luôn luôn là con người hướng về và ca ngợi Thiên Chúa. Vì thế, lời ca ngợi của một Đavit, chính là lời ca ngợi, lời nguyện của những con người, của cả một dân tộc ý thức sâu xa mình được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn, nhưng đồng thời cũng ý thức thân phận yếu đuối mỏng dòn và thường xuyên thất tín của mình.

Vì thế, nói đến Môsê là nói đến dân Giao ước (Ngũ kinh), còn nói đến Đavit là nói đến dân biết ca ngợi, khẩn cầu Vị Thiên Chúa giao ước của mình (= thánh vịnh). Trên cơ sở đó, đi sâu vào nội dung của việc sắp xếp 150 bài Thánh vịnh, chúng ta sẽ khám phá ra phương hướng của Thánh vịnh. Đó chính là đà tiến thiêng liêng của toàn dân Thiên Chúa, một dân biết diễn tả tâm tình tôn giáo của mình qua lời thơ, câu hát của cuộc hành trình con người đến với Thiên Chúa. Và trong cuộc hành trình đó, hình ảnh và cuộc sống của những con người bị giằng co, xâu xé cùng với những phấn đấu nội tâm liên lỉ trước những yêu sách của giao ước sẽ được phơi bày ra một cách hết sức trung thực trong các bài Thánh vịnh.

Thật vậy, ngay từ lúc được Thiên Chúa mời gọi, Dân Chúa như đứng trước một lựa chọn cơ bản, tượng trưng bằng hình ảnh một con người đứng trước hai con đường :

Một bên là : “thú vui để nơi thánh chỉ Yavê Ngày đêm ngâm mãi Thánh chỉ của Người” (Tv 1,2) Còn bên kia : “như trấu lép gió cuốn bay” (Tv 1,4) Đấy là hai con đường con người được mời gọi chọn lựa. Chọn con đường đem

đến “thú vui, hạnh phúc nơi thánh chỉ Yavê, hoặc con đường mà cuối chặng sẽ thấy thân phận mình “như trấu lép gió cuốn bay” ? Để thực hiện công việc chọn lựa này, con người có sự đấu tranh nội tâm, giằng co sâu sắc giữa công chính với gian tà, trung thành với vô đạo. Tâm trạng đó, các Thánh vịnh đầu tiên sẽ gợi lên cho chúng ta. Tiếp đó, ở các Thánh vịnh giữa, chúng ta hầu như lạc vào một thế giới thật nghịch lý, trong đó chúng ta như đối diện một cách ngỡ ngàng và phũ phàng với tình trạng những người chọn Yavê và sống trung thành với giao ứơc lại sẽ gặp biết bao gian nguy, thử thách, bao đau khổ oan ức ; trong khi những người khước từ Yavê, sống xa giao ước của Người, thì hình như được toại nguyện ở đời ! Rồi một khi đi hết chặng đường đầy thử thách đó, người chọn lựa và sống trung thành với thánh chỉ Yavê sẽ thanh thản, an bình xướng lên từ thâm tâm lời hân hoan chúc tụng ngợi khen thiên Chúa trong những Thánh vịnh cuối cùng. Còn những kẻ khước từ Lề luật của Thiên Chúa, mà đã có thời gian thành đạt, rốt cuộc không còn thấy tăm hơi để đi vào bóng tối và lãng quên.

Page 18: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

BÀI 2 :

THÁNH VỊNH : ÂM VANG CỦA GIAO ƯỚC TRONG DÒNG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ.

Như đã gợi ra, một chi tiết quan trọng mà các nhà chuyên môn lưu ý chúng ta:

Thánh vịnh là những bài thơ. Minh xác điều ấy buộc chúng ta phải theo quy luật thi phú để học và hiểu Thánh vịnh. Một bài thơ nhằm giải bày tâm sự của tác giả, và tác giả muốn độc giả chia sẻ thật sự tâm tình của mình.

Vì thế, xuyên qua Thánh vịnh, chúng ta được mời gọi chia sẻ tiếng nói, tâm tình, để cùng rung động, hoà nhịp với dân giao ước. Nếu như cho tới nay, chúng ta chưa cảm thông sâu sắc, chưa rung động hoà nhịp theo tâm tình của tác giả Thánh vịnh, thì hoặc là chúng ta chưa cảm được thi hứng của tác giả, hoặc là chúng ta còn thật sự xa lạ với các hình ảnh biểu trưng được sử dụng trong các bài thơ. Thật vậy, một bài thơ hay, một tuyệt tác phải là một bài thơ không những tiềm ẩn thi hứng, mà còn sống động phong phú nhờ các hình ảnh biểu trưng. Tiếp xúc với Thánh vịnh, chúng ta dần dần khám phá ra nguồn thi hứng tiềm ẩn và xuyên suốt, chính là giao ước : trong khi đó, hình ảnh được sử dụng nhiều nhất là lịch sử Dân Chúa, hay nói cụ thể hơn là những chặng đường lịch sử của Dân Chúa. Đó là lịch sử của một dân có giao ước với Thiên Chúa, cộng thêm tâm tình của người Hippri, người Sêmit mà tự bản chất đã là thi sĩ, chiêm niệm, thần bí … Cho nên, các bài thơ tôn giáo của họ thật là tinh tế, sâu sắc, đầy sức sống, mang nhiều sắc thái thần bí.

1. GIAO ƯỚC, NGUỒN THI HỨNG CỦA THÁNH VỊNH Giao ước (Bơrit – Hipri ; Điathêkê – Hy-lạp) là mối liên hệ không thể chia lìa

giữa Yavê Thiên Chúa với đoàn dân được tuyển chọn. Thánh kinh Cựu ước dùng một từ ngũ chuyên môn để để diễn tả bản chất của giao ước, đó là Khêsed: từ ngữ này quá chuyên môn và phong phú, nên khó chuyển dịch cho hết ý bằng một chữ nào nhất định. Thông thường, các nhà nghiên cứu gọi Khêsed là Tình thương, lòng nhân nghĩa, đức trung thành, sự chân thật (Misericordia et Veritas). (Qua tìm hiểu các bản văn giao ước, chúng ta có thể nói khêsed là bản chất của giao ước cũ, và Agapê là bản chất của giao ước mới). Trong toàn bộ Thánh kinh, từ ngữ Khêsed được ghi khoảng 200 lần, thì nội trong Thánh vịnh chúng ta đã gặp khoảng 100 lần. Chúng ta sẽ thấy, vịnh gia luôn luôn nhân danh Khêsed mà khẩn nài, thưa chuyện với Yavê Thiên Chúa. Một số học giả đã không ngần ngại gọi Giao ước là sợi dây nối kết một bên là Thiên Chúa, một bên là Dân Chúa. Mà tính chất của “sợi dây”đó là khêsed, nên lịch sử giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người là cả một chuỗi biến cố chan hoà tình thương, lòng nhân nghĩa và có giá trị vĩnh cửu.

Nhìn lại lịch sử Dân Chúa, chúng ta biết được những giao ứơc sau đây đã ghi dấu ấn quan trọng trong đời sống của Dân Chúa :

- Kn 3,15 giao ước với Adam - Eva, nguyên tổ loài người, từ miêu duệ của con người sẽ xuất hiện đấng chiến thắng satan, sự dữ :

“Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi thì táp lại gót chân”.

- Kn 6–9 : giao ước với Noê : Thiên Chúa hứa bảo tồn sự sống của con người : “Ta lập Giao ước của Ta với các ngươi : Mọi loài có xác sẽ không còn bị nước

Hồng thủy tiểu trư ... Sẽ không còn có Hồng thủy đến hủy diệt cõi đất”(Kn 6,11). - Kn 15 và Kn 17 : giao ước với Abraham : từ một con người, đến một gia đình,

hướng tới một dân tộc, một tôn giáo dựa trên lời hứa của Thiên Chúa : “Và Người đã dẫn ông ra ngoài trời và phán : “Hãy nhìn lên trời và hãy đếm

tinh sao, nếu ngươi có tài đếm được chúng”. Đoạn Người phán bảo ông : “Dòng giống ngươi sẽ như thế !”. Và Abram đã tin vào Giavê và sự ấy, Người đã kể cho ông như sự công chính”(Kn 15,5-6).

“Phần Ta, nầy giao ước của Ta với ngươi : ngươi sẽ là Cha của hằng hà sa số dân tộc. Tên ngươi không còn là Abram ; tên ngươi phải là Abraham, vì Ta cho

Page 19: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

ngươi trở thành cha của hằng hà sa số dân tộc. Ta sẽ làm cho ngươi nảy nở sinh sôi đông lắm, đông lắm. Ta sẽ cho phát xuất từ ngươi dân dân và vua chúa. Ta sẽ lập giao ước giữa Ta và ngươi và dòng giống ngươi sau ngươi qua các thế hệ, làm giao ước vạn đại, ngõ hầu Ta là Thiên Chúa của ngươi và của dòng giống ngươi sau ngươi” (Kn 17,3-7).

- Xh. 19–24 : giao ước Sinai : qua trung gian của Môsê, đoàn dân Xuất Ai Cập trở nên “dân sở hữu”của Thiên Chúa : họ trở nên một dân, cùng chung một tôn giáo trên căn bản giao ước tình yêu nhưng không của Thiên Chúa :

“Vậy bây giờ, nếu các ngươi quyết nghe tiếng Ta mà giữ giao ước của Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta giữa các dân hết thảy” (Xh. 19,5).

(“Dân sở hữu” = Am Sơgullah : kho tàng vô giá không thể thiếu được, trong khi tự bản chất không có chút giá trị gì. Đây chính là bản chất và là nội dung của Giao Ước Sinai).

- 2 S 7,14-16 : giao ước với Đavit : vương quốc được thiết lập. Thiên Chúa ban vương quyền cho dòng tộc Đavit đến muôn đời :

“… Ta sẽ cho dòng giống ngươi chỗi dậy kế vị ngươi, dòng giống xuất từ lòng dạ ngươi và Ta sẽ cho vương quyền nó kiên vững. Chính nó sẽ xây nhà cho Danh Ta và Ta sẽ cho ngai vương quyền nó kiên vững muôn đời. Ta sẽ là Cha nó và nó sẽ là con Ta” (2 Sam 7,12-14).

- Yr 31,31-34 (Cf. Ez 36,26-28) : lời hứa ban giao ước mới : Luật Chúa, tức là Thánh Thần sẽ được ban cho dân Chúa, sẽ được khắc ghi vào tấm lòng của dân Chúa; nhờ đó, đưa tới hai hậu quả là : họ sẽ được ơn tha tội và sẽ được ơn biết Chúa :

“Này sẽ đến những ngày – sấm của Giavê – Ta kết với nhà Israel và nhà Yuđa, một Giao ước mới, không phải như Giao ước Ta đã kết với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay chúng để đem chúng ra khỏi đất Ai Cập. … Vì nầy là Giao ước Ta sẽ kết với Israel trong những ngày ấy – sấm của Giavê – Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng chúng ; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng, chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn, mỗi người, phải dạy bảo nhau, mỗi người phải nói với anh em mình : “Hãy biết Giavê ! “Vì hết thảy chúng đều biết Ta, từ kẻ bé đến người lớn, sấm của Giavê – bởi Ta sẽ tha tội cho chúng và sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng” (Luật Chúa trong Yêrêmya sẽ được Ezêkiel gọi là Thánh Thần).

Tất cả những Giao ước quan trọng nầy trong dòng lịch sử đều hướng về Đấng Mêsia , Đấng Thiên Chúa sai đến trần gian để thực hiện sứ mạng cứu chuộc nhân loại. Và chúng ta biết rõ, Đấng đó, chính là Đức Giêsu Kitô.

Vậy, nếu thi hứng của các bài Thánh vịnh là Giao ước thì rõ ràng Thánh vịnh chỉ được tròn đầy ý nghĩa và đạt tới chóp đỉnh trong Đức Giêsu Kitô, Đấng hoàn tất các lời hứa và nội dung các Giao ước giữa Thiên Chúa với con người.

2. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ CỦA DÂN CHÚA : LỊCH SỬ CỨU ĐỘ. Ngoài thi hứng của thánh vịnh là giao ước, chính những chặng đường lịch sử

của Dân Chúa đã cung cấp cho các bài thơ những điển tích, những chủ đề, những kỷ niệm, những dấu ấn quan trọng. Do dó, khi chúng ta có một cái nhìn rõ ràng về lịch sử dân Chúa, chúng ta sẽ dễ hoà nhập với tâm tình của vịnh gia. Lịch sử cứu độ khởi từ tổ phụ Abraham cho đến sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô xoay quanh ba cao điểm, đó là Xuất hành , Lưu đày và Tử nạn –Phục sinh của Đức Giêsu.

Có thể nói, cao điểm Xuất hành đã chi phối lịch sử dân Chúa từ thời các tổ phụ đến thời Vương quốc, tức từ thế kỷ - XVIII đến thế kỷ -X, trong đó chúng ta bắt gặp những biến cố, những chủ đề căn bản như : ơn gọi, ơn tuyển chọn, Lời hứa, Xuất hành, giao ước Sinai, cuộc hành trình sa mạc, vào đất hứa,thành lập vương quớc.

Còn cao điểm Lưu đày lại chi phối lịch sử dân Chúa trong suốt khoảng thời gian 10 thế kỷ trước công nguyên. Đặc điểm của giai đoạn này là dân Chúa cảm nghiệm sự rạn nứt, chia rẽ trong vương quốc, chứng kiến những sụp đổ, tiêu diệt của

Page 20: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Samaria và Giuda, sự mất mát to lớn khi Đền thờ bị phá hủy và dân Chúa phải lưu đày. Từ đó họ hiểu thế nào là tội, điều mà các tiên tri trong suốt dòng lịch sử luôn khuyến cáo họ. Chính trong bối cảnh lưu đày, nhờ đọc lại các tiên tri, đối chiếu đời sống của mình với giao ước mà họ nhận ra : tội chính là sống xa Thiên Chúa, đi ngược con đường dẫn đến Thiên Chúa.

Do đó, từ kinh nghiệm Lưu đày, họ ý thức phải hoán cải quay trở về với thiên Chúa. Sự hồi sinh thiêng liêng của cả một dân tộc, việc nội tâm hoá giao ước sẽ giúp dân Chúa từ sau cuộc hồi hương khám phá ra vai trò chủ động và quyết định của Thiên Chúa trong lịch sử và đời sống của mình. Điều đó tạo điều kiện cho họ đón nhận giao ước mới sẽ được thực hiện sau này trong cao điểm thứ ba của lịch sử cứu độ là cuộc Tử nạn - Phục sinh của Đức Yêsu Kitô. Cao điểm này chi phối dân Chúa cho đến ngày Đức Kitô quang lâm.

Thật vậy, như đã nói trong phần về Thi hứng của Thánh vịnh là Giao Ước chỉ thật sự trọn vẹn khi có Đấng thực hiện lời hứa về Giao ước mới : giao ước mới sẽ được Đức Giêsu Kitô thực hiện trong máu của Người, để nên ơn tha tội và cho con người được quyền biết Thiên Chúa, trong tư cách là con Thiên Chúa (cf Mt 26,27-28; Mc 14,22-26 ; Lc 22,19tt ; 1 C 11,23-25) ; thì tất cả những biến cố, những nhân vật, những chặng đường lịch sử cứu độ cũng sẽ hướng về Đức Giêsu Kitô, Đấng là tâm điểm, đồng thời cũng là chóp đỉnh của lịch sử cứu độ. Và nếu Giao Ước cũng như Lịch sử cứu độ hướng về Đức Giêsu Kitô và gặp được ý nghĩa tròn đầy nơi Đức Giêsu Kitô, thì rõ ràng Thánh Vịnh, những bài thơ được sáng tác từ nguồn cảm hứng là Thánh vịnh và sử dụng những hình ảnh biểu trưng từ những chặng đường lịch sử của Dân Chúa cũng sẽ đạt tới đỉnh cao trong mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô, mầu nhiệm được diển ra trong các biến cố Tử nạn-Phục sinh và Quang lâm của Người. Đó là lý do sâu xa giúp chúng ta khi sử dụng Thánh vịnh đều hướng lòng về Đức Giêsu ; và cũng là lý do mà Hội thánh vẫn mãi mãi dạy bảo con cái mình dùng Thánh vịnh mà ca ngợi, tôn vinh, cảm tạ Thiên Chúa trong mọi trạng huống thăng trầm của lịch sử cho đến ngày Quang lâm vinh hiển của Chúa mình.

3. CẤU TRÚC TƯ TƯỞNG Thông thường người Hippri rất ưa chuộng hai lối cấu trúc tư tưởng: đồng tâm

và trôn ốc. - Cấu trúc đồng tâm (construction concentrique). Trong toàn bài thơ thường có

một tư tưởng là trọng tâm, là chủ đề. Trọng tâm được phong phú hoá bởi các tư tưởng, hình ảnh khác nhau, thậm chí có khi mâu thuẫn nhau. Mục đích là tô điểm thêm cho chủ đề, làm cho trọng tâm được thêm phong phú. Khi gặp lối cấu trúc này, điều quan trọng là ta cố tìm ra trọng tâm, đừng để mình bị các hình ảnh khác đánh lạc hướng. Vì dụ : TV 8, trọng tâm là “Yavê, Chúa chúng tôi”. Các hình ảnh, tư tưởng khác diễn tả uy đức, tình thương của Yavê đều quay quanh trọng tâm đó.

- Cấu trúc trôn ốc (construction spirale). Với lối cấu trúc này, chủ đề được triển khai từng bước, ăn khớp với nhau theo hình trôn ốc, như các tầng của một toà nhà cao. Không thể lên đến chót đỉnh, nếu không tuần tự đi từ tầng dưới lên trên. Và khi đã lên đến chót đỉnh, ta sẽ bắt gặp chủ đề của bài thơ, cao điểm của bài thơ. Lối cấu trúc này rất được nhiều người Hippri ưa chuộng. Thoạt nhìn qua, ta thấy có vẻ độc điệu giống nhau, vì hình như tác giả cứ lập đi lập lại một ý tưởng, hoặc một từ ngữ. Nhưng nếu quen, chúng ta sẽ khám phá ra nhịp điệu, âm thanh, tiết điệu sinh động, mang nhiều sắc thái khác nhau. Đây chính là nhịp co thắt đưa độc giả vào thế giới của tác giả, đến độ độc giả sẽ dần dần thâm nhiễm tâm tình của tác giả, để rồi đồng hoá với tâm tình của tác giả cho tới khi đạt tới cao điểm của bài thơ. Ví dụ : Tv 96.

* Hành văn biền ngẫu song đối Thi phú Hippri không có lối gieo vận như một số thi ca của các dân tộc khác. Họ

chuộng thế quân bình giữa các câu thơ, đồng thời bộc lộ tính cụ thể nhưng thần bí chiêm niệm của mình qua lối hành văn biền ngẫu, song đối. Người Hippri rất thích lối diễn tả này:

Page 21: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

“Đoạn họ lôi cậu (Yuse) đi mà vất cậu xuống hầm nước, nhưng hầm ấy trống rỗng không có nước” (Kn 37,24).

“Bà nói : khốn khổ, tôi goá bụa. Chồng tôi đã chết” (2 S 14,5).. Có ba lối biền ngẫu song đối : - Biền ngẫu đồng nghĩa (Parallélisme synonimique) sử dụng từ ngữ hay hình

ảnh văn chương với mầu sắc khác nhau để diễn tả cùng một ý nghĩa, một tư tưởng như nhau. Hậu quả : tư tưởng vẫn là một nhưng được sinh động, phong phú nhờ nhiều âm thanh, màu sắc khác nhau :

“Yavê xin chớ theo giận mà sửa phạt tôi trong cơn lôi đình, xin chớ trừng trị tôi”(Tv 38,2)

“nhà tạm của Người ở tại salem, cung điện Người ngự ở Sion” (Tv 76,3) “Ân nghĩa tín thành cùng nhau hội ngộ Công chính bình an áp má hôn nhau Từ đất tín thành nảy mầm Từ trời công chính đoái lại” (Tv 85,11-12) - Biền ngẫu đối nghĩa (Parallélisme antithetique). Hai câu thơ hoặc hai từ ngữ

đối chọi nhau ở lời văn, ý tưởng, hình ảnh. Hậu quả : sử dụng phản đề cốt làm nội bật chủ đề.

“kẻ được Người chúc phúc sẽ làm chủ đất đai, kẻ Người nguyền rủa sẽ bị tru di” (Tv 37,22).

- Biền ngẫu tiệm tiến (Parallélisme Progressif ou syn-thétique). Sử dụng câu hoặc từ ngữ sau nhằm bổ túc cho câu hoặc từ ngữ trước được rõ và đầy nghĩa hơn :

“Tôi vui mừng khi người ta nói cùng tôi : - nào ! ta đi nhà Yavê !” (Tv 122,1). “Ví thử Yavê không xây nhà, Có vất vả xây dựng rồi cũng luống công ! Ví thử Yavê không canh thành Người canh giữ có thức tỉnh cũng uổng công” (Tv 127,1). Tóm lại, sau khi đã xác định thánh vịnh là những bài thơ, tiếng nói của tâm

tình, chúng ta đi vào thi hứng của vịnh gia là giao ước, đồng thời gặp thấy nơi các hình ảnh biểu trưng của bài thơ dấu vết của những chặng đường lịch sử của Dân Chúa. Điều này sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong việc tìm hiểu và cảm nghiệm tâm tình của Thánh vịnh, khi chúng ta đọc và hát Thánh vịnh dưới ánh sáng của cao điểm tử nạn - phục sinh của Chúa Kitô trong giao ước mới và dòng lịch sử của Dân Chúa lữ hành vươn tới ngày quang lâm. Rồi nhờ vào các lối cấu trúc tư tưởng đồng tâm và trôn ốc, cũng như lối hành văn biền ngẫu song đối, chúng ta bắt đầu có trong tay những chìa khóa thích hợp để mở cửa toà nhà Thánh vịnh.

Page 22: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Bài 3.

THÁNH VỊNH : DANH XƯNG CỦA DÒNG TỘC TIN YÊU THIÊN CHÚA.

Chúng ta hãy đặt Thánh vịnh vào môi trường lịch sử cứu độ, để từ đó, dưới ánh

sáng của lịch sử dân Giao ước, chúng ta tìm hiểu các bài thơ thánh. Với cách đặt vấn đề như thế này, chúng ta sẽ có một kiểu nói vừa bình dân, vừa thân mật, vừa có tính lịch sử, lại vừa biểu lộ một mối tương quan sâu sắc giữa các Thánh vịnh với nhau: thay vì gọi là văn thể Thánh vịnh, thì chúng ta có thể gọi là “gia đình Thánh vịnh”

Tại sao có ý tưởng này ? vì chúng ta quan niệm toàn bộ Thánh vịnh phản ánh tâm tình chung của cả một dân tộc, là tiếng nói của toàn thể cộng đồng dân Chúa, trong đó cá nhân và cộng đồng hài hoà với nhau, cái “tôi” và cái “chúng tôi” gắn bó chặt chẽ với nhau, đến độ không thể và không nên phân biệt nữa ; đúng như cha Albert Gelin PSS đã có lần nhận định : “con người Thánh kinh không bao giờ là con người cô độc trước nhan Thiên Chúa ; ngược lại, đó là con người luôn có chỗ đứng ở giữa anh em mình: vì con người thánh kinh là con người của Giao ước” (kiểu nói “gia đình Thánh vịnh” có lẽ xuất phát từ cha Albert Gelin pss ?)

Bởi thế, trong cái nhìn nầy, tác giả đích thực của Thánh vịnh không phải là một cá nhân nào ; và ở đây cũng không bao giờ phản ánh tâm tình của riêng một ai ! Nhưng chính là sự sống, tâm tình, tiếng ca ngợi của những con người có cùng chung với nhau một huyết thống: huyết thống Giao ước, huyết thống phát xuất từ niềm tin, lòng mến và niềm cậy trông của những con người vào một vị Thiên Chúa đầy yêu thương và tín thành trong giao ước. Và bởi vì Thánh vịnh là sản phẩm của những con người cùng chung một dòng máu, một lẽ sống , một lịch sử, nên các Thánh vịnh có họ hàng với nhau, bà con với nhau. Trong một gia đình, thường người ta có một nét giống nhau, mặt mũi, bộ đi, kiểu nói, tình cảm, truyền thống.. (dĩ nhiên cũng có những nố trừ như khi hai anh em ruột lại có thể khác hẳn nhau). Chính quan hệ trong một gia đình tạo nên cho con cái những nét giống nhau, pha lẫn với nhau cũng như có cảm tình với nhau.

Trong lãnh vực Thánh vịnh cũng thế, khi tiếp xúc với các bài Thánh vịnh, chúng ta ghi nhận các bản văn này có nhiều nét giống nhau về hình thức bên ngoài như cấu trúc, cách đặt câu, cung giọng, từ ngữ sử dụng, đến hoàn cảnh, môi trường của chúng, cũng như nội dung, chủ đề của bài thơ.

Căn cứ trên những nhận định này, chúng ta tìm hiểu các Thánh vịnh khởi từ hình thức để đi đến nội dung (vì là quy luật của thi phú), và giới thiệu ba gia đình lớn :

- Gia đình Thánh vịnh ca ngợi - Gia đình Thánh vịnh lời nguyện - Gia đình Thánh vịnh Giáo huấn 1. Gia đình Thánh vịnh ca ngợi Gia đình này gồm rất nhiều nhánh rải rác trong toàn bộ Thánh vịnh. Theo ý

kiến của các nhà nghiên cứu, thì đa số các bài Thánh vịnh ca ngợi được sáng tác để sử dụng trong các nghi lễ phụng vụ và ca hát vào các dịp đại lễ, ngày hội của Israel. Các Thánh vịnh thuộc gia đình này phản ánh tính chất cộng đoàn rất rõ rệt : đối đáp nhau, ca đoàn, điệp khúc, lời tung hô, lời xướng đáp, những công thức như Amen, Alleluia … Bầu khí trang trọng và tham gia tích cực của cả cộng đoàn phụng vụ, như đoàn rước, kiệu, nhảy múa, vỗ tay, bái quỳ, phủ phục … đều thể hiện rõ trong gia đình Thánh vịnh này.

Cấu trúc các bài Thánh vịnh ca ngợi có nhiều nét chung. - Phần giáo đầu : tạo bầu khí hân hoan phù hợp với tâm tình của cộng đoàn

trong ngày lễ hoặc bằng một lời mời gọi tổng quát, hoặc bằng một công thức đạo đức nâng tâm hồn lên, hoặc bằng một dấu hiệu nào đó.

Page 23: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

- Phần thân đề : lý do, nội dung lời ca ngợi theo ý nghĩa của dịp lễ - Phần kết đề : thừơng lập lại tâm tình của phần giáo đầu hoặc tóm lại các lý

do ca ngợi hoặc kết bằng một lời chúc lành hoặc một lời nguyện chúc khác. Đối tượng của các Thánh vịnh thuộc gia đình ca ngợi là : Thiên Chúa, Đền thờ,

Sion - Yerusalem, Đức Vua a. Thánh Thi. Gọi là thánh thi những bài Thánh vịnh ca ngợi Thiên Chúa của

giao ứơc, gồm 18 bài : Tv 8 ; 19 ; 33 ; 100 ; 103 ; 104 ; 111 ; 113 ; 114 ; 117 ; 135 ; 136 ; 145 ; 146 ; 147 ; 148 ; 149 ; 150 (ngoài ra hai Tv 78 và 105 đôi lúc cũng được xếp vào nhóm thánh Thi).

Trên căn bản giao ước, Israel biểu lộ niềm tin của mình vào một vị Thiên Chúa duy nhất vĩnh cửu, toàn năng, toàn tri, Đấng tạo dựng muôn loài, chủ tể của lịch sử, luôn yêu thương, trung thành với đoàn dân mà Người đã tuyển chọn. Đây là lời dân giao ứơc đáp trả lời Chúa tín thành. Tâm tình này phát xuất từ kinh nghiệm và lịch sử của mình. Dân Chúa có cảm nghiệm đã gặp Chúa, được Chúa dẫn dắt. Người vừa là Đấng thẩm phán, vừa là Đấng bầu chữa, vừa là Đấng giải thoát. Thiên Chúa hành động bằng Lời Hằng sống, bằng các dấu chỉ, bằng các cuộc thần hiển. Vị Thiên Chúa mà Israel ca ngợi không bao giờ đồng hoá với các hiện tựơng sức mạnh trong vũ trụ, nhưng là vị Thiên Chúa của lịch sử, Thiên Chúa của Israel.

b. Thánh vịnh về Nước Thiên Chúa : Tv 93 ; 96 ; 97 ; 98 ; 99 (Tv 47) Tương tự như các bài Thánh thi, đặc điểm của 5 Thánh vịnh trên nhấn

mạnh đến tính phổ quát của vương quyền Thiên Chúa. Các bài thơ đượm tinh thần phấn khởi, náo nhiệt, ca ngợi Yavê Thiên Chúa làVua. Vịnh gia bộc lộ sự hân hoan, tràn đầy hạnh phúc khi được chiêm ngưỡng vị vua của mình ngự trên ngai báu : Người là Vua của Israel và là chủ tể muôn loài. Vị minh quân của các dân, các nước. Loại Thánh vịnh nầy bắt nguồn từ việc phụng tự (Tv 96,8-9 ; 99,5). Đặc điểm của phụng tự Israel là điều hiện tại hiện tại hoá quá khứ và dự báo trước tương lai. Thật vậy, phụng tự làm cho quá khứ trở nên sống động trong hiện tại, tạo ra niềm hy vọng vào tương lai cho toàn thể cộng đồng Dân Chúa. Toàn dân hớn hở vui mùng như trong ngày đăng quang của Đưc vua : Israel, mọi dân tộc, các đảo xa xôi, muôn loài muôn vật trong vũ trụ và lịch sử vang tiếng ngợi khen, tưng bừng, phấn khởi.

c. Thánh vịnh ca ngợi Sion - hành hương. Loại Thánh vịnh này biểu dương Yerusalem và đền thờ ở Sion (Tv 46 ; 48 ; 76 ; 84 ; 87).

Ngoài ra có thể xếp vào loại này các Tv 24 ; 68 ; 122 ; đặc biệt có 15 Thánh vịnh thường được gọi là : “khúc ca lên đền”, từ Tv 120 – 134.

Sion - Jerusalem được vịnh gia khoác cho những tước hiệu hết sức huy hoàng : thủ đô của triều đại Đavit, trung tâm tôn giáo, nơi cực thánh trong số các nơi Đấng tối cao cư ngụ, thành của Thiên Chúa, đô thị của Đức vua đại đế. Vịnh gia mặc cho Sion - Jerusalem một chuỗi vô tận các tước hiệu, vì lẽ Sion - Yerusalem gắn liền với Thiên Chúa, Đấng đã tuyển chọn Sion làm nơi Người ngự. Sự hiện diện của Thiên Chúa là đảm bảo cho sự kiên vững, an toàn của Sion. Từ đó Sion trở nên nơi nương náu bất khả xâm phạm cho Dân Chúa. Họ có một niềm tin tuyệt đối vào điều đó, ngay cả giữa những lúc bi đát nhất trong lịch sử của họ. Các bài Thánh vịnh ca ngợi Sion mở ra một chiều kích thần bí, lý tưởng hoá thành thánh Yerusalem. Họ xem đó là nơi sẽ quy tụ mọi dân mọi nước trong tương lai (Tv 87). Từ tư tưởng đó, các nhà chú giải có khuynh hướng đề cập đến thời cánh chung của lịch sử cứu độ. Thật ra, chúng ta chỉ cần lưu ý đến ý nghĩ phụng tự của Israel như đã nói ở trên, thì có thể hiểu rõ chiều kích thần bí đó : chính phụng tự mở ra cho ta thấy tương lai.

Trong các Thánh vịnh ca ngợi Sion, chúng ta còn gặp một số Thánh vịnh thường được gọi là : “khúc ca lên Đền” (Tv 120 – 134). Theo sách Mishna,các thầy Levi xuống và hát các Thánh vịnh này tại 15 bậc cấp tiến về cửa Nicanor của đền thờ. Các khúc ca này thường được khách hành hương hát mỗi dịp lên Yerusalem trẩy hội.

Page 24: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

d. Thánh vịnh ca ngợi Đức vua - Đấng Mesia : Tv 2 ; 18 ; 20 ; 21 ; 45 ; 72 ; 89 ; 110 ; 132 ; 144

Nếu các Thánh vịnh ca ngợi Nước Thiên Chúa nhằm đề cao Thiên Chúa là Vua vũ hoàn, thì loại Thánh vịnh này nhằm tán dương các vị vua Israel trong lịch sử cụ thể. Các dịp lễ tấn phong, đăng quang, các ngày kỷ niệm, ngày thành hôn của Đức vua, trước khi vua xuất trận, sau một chiến thắng, lúc gặp khủng hoảng hay khi thành công … tất cả biến cố trên đều có các nghi lễ hoặc tại đền vua, hoặc tại đền thờ. Những hoàn cảnh khác nhau đã tạo nên những bài thơ, bài hát khác nhau : tán dương Đức vua và triều đại của người, tạ ơn, khẩn nài, chúc mừng … chính những hoàn cảnh khác nhau trong thể văn ca ngợi Đức vua tạo nên nét phong phú trong cấu trúc tư tưởng, từ ngữ sử dụng, tiết điệu … phù hợp với các lễ nghi ở cung đình. Một trong những đặc điểm của các lời ca ngợi này là hướng tâm hồn mọi người đến vị chủ tế tối cao, đó là Thiên Chúa ; vì, theo chế độ thần quyền, nhà vua thuộc dòng tộc Đavit được gọi là “con Thiên Chúa”, là “thiên tử”, “Đấng được xức dầu” tưc Đấng Mesia. Và từ đó, các Thánh vịnh này làm nổi bật lời sấm của tiên tri Natan, loan báo về sự tồn tại mãi mãi của Vương quyền thuộc dòng tộc Đavit. Tâm tình này nuôi dưỡng niềm hy vọng của toàn dân hướng về Đấng được xức dầu một cách hoàn hảo, mà truyền thống Dân Chúa gọi là Đấng Mesia hay là Đấng Kitô. Do đặc điểm này, các Thánh vịnh ca ngợi Đức vua - đấng Mesia có tương quan chặt chẽ với các Thánh vịnh ca ngợi nước Thiên Chúa, ca ngợi Sion - Yerusalem ; đồng thời hướng tâm hồn toàn dân Chúa về lời hứa ban Đấng Mesia, về vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa, về thành thánh lý tưởng quy tụ muôn dân nước thành Dân của Thiên Chúa.

2. Gia đình lời nguyện Gia đình thứ hai là gia đình lời nguyện. Gia đình này cũng có màu sắc tương tự

như gia đình ca ngợi. Vị Chúa công chính, đầy uy quyền, giàu lòng thương xót, cách riêng trong những lúc dân Chúa kêu cứu, tin tưởng và tạ ơn.

Gia đình này đông đảo nhất và có ba nhánh chính : kêu cứu, tin tưởng, tạ ơn. Ba nhánh này có nhiều nét rất giống nhau vì có cùng một nguồn gốc chung, một xuất xứ chung, đó là hoàn cảnh hiện sinh khốn cùng của con người. Trong cuộc sống, khi gặp khủng hoảng, thử thách, người ta kêu cứu ; trong cơn khủng hoảng, lúc phải chiến đấu vất vả, hy sinh, khổ nhục, tâm tình tin tưởng nổi bật lên như ngọn đèn soi lối, tạo sức mạnh và niềm hy vọng cho người gặp thử thách ; rồi một khi đã gặp qua khủng hoảng, người ta có tâm tình tạ ơn đối với vị Thiên Chúa giao ước, luôn đồng hành và hỗ trợ họ trong lúc gặp gian nguy. Vì có cùng một nguồn gốc chung, nên có khi chúng ta bắt gặp cả ba tâm tình : kêu cứu, tin tuởng, tạ ơn ngay trong một bài Thánh vịnh (x. Tv 22 ; 30 ; 31 ; 54 ; 56 ; 61).

Các Thánh vịnh thuộc gia đình này có khi phát xuất từ lời nguyện riêng lẻ của một cá nhân đạo đức nào đó, có khi là lời nguyện của cộng đoàn phụng vụ. Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu loại Thánh vịnh này, chúng ta không nên quá phân biệt lời nguyện cá thể hay cộng đoàn, tâm tình đạo đức của một cá nhân hay lời cầu của một cộng đoàn phụng vụ ; vì như chúng ta đã biết, trong não trạng của dân Giao ước, người tín hữu không bao giờ cô độc, dầu có cầu nguyện một mình ; ngược lại, qua lời cầu nguyện, người tín hữu luôn luôn liên đới với mọi thành phần Dân Chúa (x. Tv 25,6 ; 28,9 ; 61,7 ; 65,12 ; 69,36) và hoà nhập tâm tình của mình với bầu khí phụng tự của cộng đoàn dân Chúa (x. Tv 5,8 ; 28,2 ; 140 ; 13-14). Thêm vào đó, một bài thơ, dù phát xuất từ lời nguyện của một cá nhân, nhưng khi đã được tuyển chọn và xếp vào bộ Thánh vịnh, thì bài thơ đó đã trở nên của chung của cả cộng đoàn dân Chúa.

a. Thánh vịnh kêu cứu Tv 5 ; 6 ; 6 ; 12 ; 13 ; 7 ; 22 ; 5 ; 26 ; 28 ; 31 ; 36 ; 38 ; 39 ; 42 ; 43 ; 44 ;

51 ; 54 ; 55 ; 56 ; 57 ; 58 ; 59 ; 60 ; 61 ; 63 ; 64 ; 69 ; 70 ; 71 ; 74 ; 79 ; 80 ; 83 ; 85 ; 86 ; 90 ; 94 ; 102 ; 108 ; 109 ; 120 ; 123 ; 130 ; 137 ; 140 ; 141 ; 142 ; 143 (Tv 77 ; 82 ; 106 ; 126)

Page 25: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Trong số 51 Thánh vịnh kêu cứu chúng ta đặc biệt lưu ý đến 7 Thánh vịnh mà truyền thống Kitô giáo gọi là “Thánh vịnh sám hối” (Tv 6 ; 32 ; 38 ; 51 ; 102 ; 130 ; 143)

Loại Thánh vịnh này thường có tiết điệu 4 thì : - khẩn cầu nại đến danh Thiên Chúa - phơi bày hiện trạng bi đát của mình - khẩn nài lòng thương xót của Thiên Chúa - tin tưởng Thiên Chúa chí công sẽ chấp nhận, lắng nghe lời van xin của mình Thánh vịnh kêu cứu chiếm hơn 1/3 toàn bộ Thánh vịnh. Người kêu cứu giãi bày

tâm sự bất ổn, không vui của mình. Các bài thơ mô tả những cảnh khốn cùng, quẫn bách của con người ; tình trạng tội lỗi, đau yếu, bị bách hại, bị hàm oan, bị lưu đày … Họ đang đối diện với biết bao nghịch cảnh. Ho sử dụng một chuỗi từ ngữ và tâm tình trong truyền thống văn chương khôn ngoan của Dân Chúa để mô tả những kẻ làm khổ họ: là những người lính chiến, những thợ săn luôn giăng bẫy mai phục họ, những kẻ lòng lang dạ sói, loại sư tử hung hãn, bò rừng, trâu, chó, rắn rết … kẻ địch thù của họ dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để hãm hại họ, mà thủ đoạn gây đau khổ nhất cho họ là những lời nói ác ý : chứng gian, vu cáo, nói xấu, những lời nguyền rủa …

Trong cơn quẫn bách, vịnh gia nại tới đức công chính của Thiên Chúa ; có khi họ đòi trả oán theo luật “mắt thế mắt, răng thế răng” (luật talion). Tâm trạng khốn quẫn của họ khiến ta liên tưởng đến những lời than vãn nổi tiếng của Yêremia hoặc của Yob. Họ mong đợi Thiên Chúa can thiệp để giải thoát họ khỏi cảnh khốn cùng - và cảnh khốn cùng khiếp hãi nhất đối với họ chính là sự chết, vì cái chết sẽ đưa họ vào thế giới tối tăm, im lặng và quên lãng (Sheol). Vì thế một khi quan niệm rằng tội lỗi là nguyên nhân đem tới hình phạt của Thiên Chúa, họ tin tưởng rằng việc xưng thú tội lỗi sẽ làm giảm cơn giận của Thiên Chúa, đem lại cho họ ơn tha thứ và ơn giải thoát. Trong số 7 “Thánh vịnh sám hối” (Tv 6 ; 32 ; 38 ; 51 ; 102 ; 130 và 143) thì truyền thống và phụng vụ kitô giáo trân trọng đặc biệt hai Thánh vịnh 51 “Miserere, lạy Thiên Chúa, xin thương xót tôi” và Tv 130 “De Profundis, từ chốn thẳm sâu tôi kêu lên Người”. Hai Thánh vịnh sám hối này bộc lộ chiều kích nội tâm và thiêng liêng rất sâu xa của vịnh gia.

b. Thánh vịnh tin tưởng Tv 3 ; 4 ; 11 ; 16 ; 23 ; 27 ; 62 ; 115 ; 121 ; 125 ; 129 ; 131 (Tv 91) Trong lúc kêu cứu, tâm tình tin tưởng của Dân Chúa đã được biệu lộ rõ ràng.

Tuy nhiên có một số Thánh vịnh đề cao đặc biệt tâm tình này, khiến chúng ta gặp được một nền đạo đức thiêng liêng thật siêu thoát. Có lẽ loại Thánh vịnh này phát xuất từ môi trường Lêvi. Qua các bài thơ, bài hát, chúng ta như được chia sẻ sự an bình, thanh thản và niềm vui nội tâm bất tận của những con người đã chọn Chúa làm gia nghiệp, tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngoài chiều kích nội tâm sâu xa, chúng ta còn thấy được niềm tin kiên vững của vịnh gia giữa bao gian truân, uẩn khúc của cuộc đời. Niềm vui, sự an bình của những con người có đời sống nội tâm kết hợp với Thiên Chúa còn được phơi bày ra qua lòng yêu mến, gắn bó của họ với đền thờ, nơi Chúa ngự. Từ đó họ thường kết thúc bài Thánh vịnh tin tưởng bằng cách mời gọi mọi tìn hữu hãy tìm cách nương thân nơi Thiên Chúa bằng cách ẩn náu nơi nhà Chúa.

c. Thánh vịnh tạ ơn Tv 9 ; 10 ; 30 ; 32 ; 34 ; 40 ; 41 ; 66 ; 67 ; 92 ; 116 ; 118 ; 124 ; 138 ; (Tv

65 ; 68 ; 107) Sau khi lời kêu cứu được Thiên Chúa đáp trả, người tín hữu thường lên đền thờ

– cùng với họ hàng và bạn hữu – để chu toàn điều mà họ đã khấn hứa cùng Thiên Chúa. Có lẽ điều này diễn ra trong một nghi lễ phụng vụ. Vịnh gia bắt đầu bằng lời ca ngợi Thiên Chúa, rồi nhắc lại các mối hiểm nguy họ đã trải qua, chia sẻ lại cho mọi người những lời nguyện cầu họ đã dâng lên Thiên Chúa trong cơn thử thách, để rồi công bố hồng ân mà họ đã lãnh nhận do lòng nhân từ của Thiên Chúa ; sau

Page 26: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

cùng họ mời mọi người hiện diện hiệp ý với họ trong tâm tình tạ ơn. Thánh vịnh 107 gợi ra 4 hạng người đặc biệt cần sự trợ giúp của Thiên Chúa và tâm tình của các Thánh vịnh tạ ơn cũng thường phát xuất từ những người này, đó là những khách lữ hành qua sa mạc an toàn, người bị tù đày được trả tự do, người đau yếu được chữa lành, người vượt biển đến bến bình an.

3. Gia đình giáo huấn Thật ra, yếu tố giáo huấn gồm những lời giảng khôn ngoan nhằm mục đích

huấn luyện Dân Chúa cũng đã tiềm ẩn trong hai gia đình ca ngợi và lời nguyện rồi. Thế nhưng, chúng ta còn gặp thấy một số bài Thánh vịnh nhằm mục đích giáo huấn dân Chúa một cách đặc biệt. Vịnh gia sử dụng nhiều phương pháp có tính chất sư phạm để giáo dục, như các bài học về lịch sử của dân giao ước, các lời khuyến dụ theo kiểu các tiên tri, những lời dẫn nhập mời gọi cộng đoàn chuẩn bị tâm hồn tham dự các nghi lễ phụng vụ, các suy niệm của các bậc hiền nhân về một vài kinh nghiệm trong đời sống đạo đức, đời sống luân lý…

Theo truyền thống khôn ngoan trong Israel, vịnh gia sử dụng lối văn cách ngôn, lối dạy học ở nhà trường, như loại Thánh vịnh mà mỗi câu bắt đầu bằng một chữ cái trong mẫu tự (Acrostiche alphabétique), mục đích là giúp cho người học dễ nhớ, dễ thuộc lòng.

Cấu trúc, cung giọng, từ ngữ sử dụng cũng như nội dung của các Thánh vịnh thuộc gia đình giáo huấn không được linh hoạt, sống động, phong phú như các Thánh vịnh thuộc hai gia đình trên, thậm chí khô khan, vì ít hình ảnh biểu trưng và thi hứng. Điều đó cũng dễ hiểu, vì các Thánh vịnh này không nhằm chia sẻ tâm tình của mình cho bằng giáo dục độc giả - tức các thế hệ con cháu - về các đề tài mà vịnh gia quan tâm.

Gia đình giáo huấn chia làm 4 nhánh chính : a. Thánh vịnh về lịch sử thánh Tv 78 ; 105, 106 Trong loại Thánh vịnh này vịnh gia nêu lên những chủ đề căn bản trong lịch sử

Dân Chúa, đó là : truyền thống về các tổ phụ, đất hứa và giao ước,biến cố xuất hành cùng các kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho dân trong cuộc hành trình sa mạc, vào hứa địa. Vịnh gia kể lại những chuyện quá khứ của dân tộc như chính mình là nhân chứng cụ thể. Điều đó bộc lộ ảnh hưởng của phụng tự Israel trong đời sống của Dân Chúa. Bài Thánh vịnh về lịch sử nhằm đề cao vinh quang của Thiên Chúa, đồng thời mời gọi các thế hệ sau này sống trung thành với giao ước, kiên trì, nhẫn nại, cậy trông vào lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa. Ảnh hưởng của văn chương thứ luật sâu đậm đối với loại Thánh vịnh này.

b. Thánh vịnh phụng vụ Tv 15 ; 24 ; 134 - (Tv 91,95) Các Thánh vịnh này nhằm chuẩn bị tâm hồn dân Chúa tham dự các nghi lễ

phụng vụ ở đền thờ : thái độ, tư cách phải có khi vào đền thờ, đến trước nhan Thiên Chúa

c. Thánh vịnh tiên tri - Tv 14 ; 50 ; 52 ; 53 ; 75 ; - (Tv 95) Chúng ta bắt gặp một số Thánh vịnh theo cách thức giáo huấn kiểu thứ luật với

một số đặc điểm sau đây : trong bài thơ còn có các lời sấm, lời hứa và ngay cả những lời răn đe kiểu các tiên tri. Qua các Thánh vịnh này, chúng ta thấy tinh thần và ảnh hưởng tiên tri rất rõ ; bài thơ phơi bày tội lỗi, bất trung của con người, nhắc nhở toàn dân quay trở về với thiên Chúa, nhớ lại giao ước để sống công chính đạo đức.

d. Thánh vịnh về lề luật-Tv1; 49; 57; 73; 112; 119; 127; 133; (Tv 128; 139)

Các bậc hiền nhân, các bậc niên trưởng trong dân Chúa suy ngắm lề luật với niềm tin và lòng yêu mến. Lề luật là nguồn vô tận ban phát mọi hồng ân. Vịnh gia công bố niềm hạnh phúc dành cho người công chính và số phận diệt vong mà kẻ dữ phải chuốc lấy. Trong các Thánh vịnh này, xuất phát từ kinh nghiệm sống cụ thể, các bậc hiền nhân, sau khi nêu ra những thành đạt nhất thời của kẻ dữ và những đắng cay khổ nhục tạm thời của người công chính sẽ cho ta bắt gặp sự công minh

Page 27: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

của Thiên Chúa và thẳng thắn khuyên nhủ mọi người đi vào con đường đem tới nguồn hạnh phúc, đó là con đường “thú vui để nơi thánh chỉ Yavê, ngày đêm ngâm mãi thánh chỉ của Người”.

Page 28: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

BÀI 4. THÁNH CA TIN MỪNG 1. Magnificat : Hồn tôi tôn dương Chúa (Lc 1,46-55) 2. Benedictus: Chúc tụng Chúa (Lc 1,68-79 3. Nunc dinittis : Giờ đây, lạy Chúa (Lc 2,29-32) Trước khi phân tích ba bản thánh ca này, chúng ta hãy đặt vào trong mạch văn Lc 1, 5-2,52 để thấy được chủ ý của tác giả trong công trình biên soạn này. Theo nhiều nhà nghiên cứu về thánh Luca, thì chúng ta biết thánh sử đã ghi lại tác phẩm của mình trên quan điểm lịch sử cứu độ, khởi từ lời hứa về ơn cứu độ, thời gian dân Chúa chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ, cho đến lúc Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ. Do đó, việc đặt các bản thánh ca này : Lc 1,46-55 ; 1,68-79 và 2,29-32 vào mạch văn của chúng sẽ soi sáng cho chúng ta rất nhiều trong việc tìm hiểu ý nghĩa của ba bài thánh ca mà chúng ta xướng lên mỗi ngày trong kinh thần vụ. Cấu trúc của Lc 1,5 – 2,52 Luca trình bày cho chúng ta hai điệp vận (diptyques) về truyền tin và giáng sinh, trước khi hé mở mầu nhiệm Đức Yêsu. a. Điệp vận về truyện tin (Lc 1,5-56) – Truyền tin cho Zacaria (Lc1,6-25) + sứ thần : Gabriel + Người nhận : Zacaria + nơi chốn : đền thờ Yerusalem + kết thúc : “ông đi về nhà”. – Truyền tin cho Đức Maria (Lc 1,26-38) + sứ thần : Gabriel + Người nhận : mẹ của Đức Giêsu + nơi chốn : nhà của Đức Maria ở Nazareth + kết thúc : “sứ thần từ giã và ra đi”.

Page 29: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Mối liên hệ giữa hai câu chuyện truyền tin : Cuộc thăm viếng của hai người mẹ (Lc 1,39-56) – Thánh ca “hồn tôi tôn dương Chúa” (Lc 1,46-55) Kết thúc : “Đức Maria trở về nhà”. b. Điệp vận về giáng sinh (Lc 1,57 - 2,40) – Yoan (Lc 1,57-80) + sinh ra + cắt bì, đặt tên + tiếng đồn khắp nơi + trong gia đình + Thánh ca “chúc tụng Chúa” (Lc 1,68-79) + “Còn hài nhi thì lớn dần, nên dũng mãnh về thần khí và lưu lại nơi hoang tịch cho đến ngày thụ mệnh đến với Israel” . – Đức Yêsu (Lc 2, 1-52) + sinh ra + tiếng đồn khắp nơi + cắt bì đặt tên + dâng cho Thiên Chúa ở đền thờ Yerusalem + Thánh ca “giờ đây, lạy Chúa” (Lc 2,29-32) + “Còn hài nhi thì lớn dần, nên dũng mãnh , tràn đầy khôn ngoan. Và ân sủng của Thiên Chúa đậu trên Ngài”. c. Mạc khải mầu nhiệm Đức Giêsu (Lc 2,41-52) Đức Giêsu từ Nazareth lên đền thờ Yerusalem để mạc khải: Thiên Chúa là Cha của mình. Như thế, trên quan điểm lịch sử cứu độ, nhận ra vị trí của ba bài thánh ca trong cấu trúc của mạch văn Lc 1,51-2,52 chúng ta đã có một cái nhìn sơ khởi : - Bài “hồn tôi tôn dương Chúa” được đặt trong điệp vận truyền tin, trong bối cảnh cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ diễm phúc. Đây chính là tâm tình tạ ơn của những con người phận nhỏ tiêu biểu cho dân Chúa trong dòng lịch sử cứu dộ (Cựu ước và Tân ứơc) ;

Page 30: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

- Bài “chúc tụng Chúa” trong điệp vận giáng sinh, gắn liền với sự xưất hiện của Yoan, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, chuẩn bị tâm hồn đón nhận hồng ân cứu chuộc ; - Bài “giờ đây, lạy Chúa” gắn liền với chính Đức Yêsu Kitô, mạc khải sứ mạng cứu thế của Người. Chúng ta sẽ tuần tự tìm hiểu từng bài thánh ca. 1. MAGNIFICAT, HỒN TÔI TÔN DƯƠNG CHÚA (Lc 1,46-55) 46. Và, Maria nói : “hồn tôi tôn dương Chúa 47. và thần khí tôi nhảy mừng Thiên Chúa, Cứu Chúa của tôi. 48. Vì Người đã đoái nhìn thân phận mọn hèn Tớ nữ của Người. Này từ đây mọi đời sẽ khen tôi có phúc 49. Vì Đấng quyền năng đã làm cho tôi những điều cao cả Danh Người là thánh 50. Và lòng nhân nghĩa của Người suốt đời nọ đến đời kia Trên những kẻ kính sợ Người 51. Người đã ra oai sức mạnh cánh tay Người Làm cho tan tác lũ kiêu căng lòng trí 52. Hạ kẻ quyền năng khỏi ngôi báu Và suy tôn những người khiêm nhượng 53. Đói khó Người cho no phỉ sự lành Giàu sang Người xua đuổi về không 54. Người đã nâng đỡ Israel tôi tớ Người Bởi nhớ lại tình nhân nghĩa 55. Như Người đã phán cùng tổ tiên chúng ta Hứa với Abrham và dòng dõi cho đến muôn đời”.

Page 31: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Bài Magnificat theo lối cấu trúc của một bài Thánh vịnh tạ ơn, sử dụng từ ngữ, nguồn cảm hứng từ Cựu ước, từ đầu đến cuối. Bài thánh ca tạ ơn này diễn tả tâm tình của Đức Maria (1,46-49) và của toàn dân Chúa trong dòng lịch sử (1,50-55). Vì thế chúng ta có thể chia bài thơ này làm hai phần : Lc 1,46-49 tâm tình tạ ơn của Đức Maria 1,50-55 lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ - Tâm tình tạ ơn của Đức Maria : Trước lời chúc phúc của bà Elizabeth : “trong nữ giới, có người là diễm phúc ! và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng Người ! … phúc cho người là kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho người !” Đức Maria đã hiểu, và như để đáp trả lời chúc phúc của con người đầy Thánh Thần đó, Đức Maria chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao của mình : “Hồn tôi tôn dương Chúa Và thần khí tôi nhảy mừng Thiên Chúa Cứu Chúa của tôi” Đức Maria đã bộc lộ tâm tình “tôn dương” và “nhảy mừng”. Không phải là tiếng nói của tâm tình mà thôi, nhưng là tiếng nói của “hồn”, của “thần khí” Đức Maria ; tức la tiếng nói của con ngừơi Maria đang sống (= hồn) và đang ngoan ngoãn để Thánh Thần Thiên Chúa (Thần Khí) tác động và hướng dẫn mình. Đối tượng của “tôn dương” và “nhảy mừng” chính là Chúa. Đức Maria muốn xác định rõ hơn khi biểu lộ niềm tin của mình vào Vị Chúa đó, chính là Thiên Chúa, Cứu Chúa của mình (ho Kyrios - ho theos ho sôter mou). Tâm tình hoan lạc tri ân phát xuất từ thâm tâm Đức Maria dựa trên những hành động cụ thể của Thiên Chúa. Hai trạng từ “vì” (hoti) ở câu 48 và 49 nói lên lý do tạ ơn : “Vì Người đã đoái nhìn thân phận mọn hèn tớ nữ của Người, - này từ đây mọi đời sẽ khen tôi có phúc ; vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả, - Danh Người là Thánh” Theo cha Albert Gelin Pss , câu này là tâm điểm của bài thơ ! Đó là bài ca của người nghèo, của người hèn mọn. Từ ngữ nòng cốt ở đây là “thân phận mọn hèn” (tapeinosis). Theo một số học giả, từ ngữ này nói lên địa vị khiêm tốn, tầm thường, bị lãng quên của Đức Maria. Vì thế, tapeinosis như muốn diễn tả thân phận cùng khốn của Đức Maria xét như một con người trong xã hội, trong thế giới, trong lịch sử.

Page 32: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Nhưng nét đặc sắc của từ ngữ này, là Thánh kinh lại thường sử dụng để nói tới thân phận hèn mọn, khiêm nhu, nhục nhã của chính dân Chúa, cf 1 S 1,11 ; Nê 9,9 ; Tv 25,18; 31,8 ; 119,153 ; Tv 149,4 Dân Chúa, từ trong thân phận khốn cùng, bị đoạ đày, khổ nhục … đã kêu lên cùng Chúa. Lời kêu cũng như lời ca ngợi của những người Anawim này chính là lời kêu, lời ca ngợi chân thành nhất ; bởi lẽ, theo cách hiểu của Thánh kinh, người nghèo của Yavê Thiên Chúa là người sống đặt tin tưởng hoàn toàn và tuyệt đối vào Yavê. Khi xưng mình là “thân phận mọn hèn”, Đức Maria chắc chắn đã tự nhận mình thụôc hạng Anawim, nói lên tâm tình và tiếng nói của họ, để bộc lộ niềm tin và sự trung thành, phó thác nơi Yavê Thiên Chúa. Trong cương vị đó, Đức Maria quả là người “tớ nữ” của Thiên Chúa. Người tôi tớ là người tin vàyêu mến Thiên Chúa. Động từ “đoái nhìn” luôn gắn liềnvới tình thương, ân sủng. Đó là cái nhìn có tính chất tạo dựng của Thiên Chúa (Kn 1) ; đó cũng là cái nhìn có tính chất cứu độ (Xh 3,7). Vì lẽ đó mà từ nay về sau, mọi đời, mọi thế hệ sẽ công bố chân lý này là Dân Chúa – tức hạng người Anawim mà Đức Maria là nhân vật tiêu biểu – chính là hạng người có phúc, vì họ là đối tượng của cái nhìn tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Lý do thứ hai của tâm tình tạ ơn là việc Thiên Chúa đã thực hiện cho Đức Maria “những điều cao cả” (mirabilia). Từ tình trạng một người trinh nữ, son sẻ, Đức Maria đã trở thành mẹ một cách nhiệm mầu mà vẫn là người nữ đồng trinh. Thánh kinh Cựu ứơc đã sử dụng từ ngữ “những điều cao cả” để nói về việc Thiên Chúa tạo dựng (Yb 5,9), biến cố xuất hành (Xh 3,20 ; 34,10 ; Ys 3,5) và việc Thiên Chúa ban luật thánh của Người cho dân (Tv 119,18). Nay tất cả những điều đó như được kết tinh một cách diệu kỳ nơi con người của Đức Maria. Do đó, cũng như bà Anna xưa (1S2,2), Đức Maria đã tuyên xưng Thiên Chúa là “Đấng thánh” khác hẳn các tà thần ngẫu tượng. Đó là tiếng nói của đức tin. - Lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ (1,50-55) Tới đây, Đức Maria như chiêm ngắm hành động của Thiên chúa nơi bản thân mình: Người đang cưu mang Đấng là hiện thân của lòng nhân nghĩa của Chúa (to eleos, Hy lạp; khêsed, Hipri). Nhìn vào mình, nhìn lại lịch sử của Dân Chúa, hứơng về tương lai với tâm hồn con người, Đức Maria khẳng định: “Lòng nhân nghĩa của Người suốt đời nọ đến đời kia trên những kẻ kính sợ Người” Mệnh đề không có động từ ! Lời tuyên xưng đó diễn tả tính chất phi thời gian của lòng nhân nghĩa của Thiên chúa. “Kẻ kính sợ Thiên Chúa” chính là những người mọn hèn, người Anawim (cf 22, 26-27 ; 34,3-8). Như thế, theo mạch văn, họ là những kẻ bị bỏ rơi, bị coi thừơng, không được xếp vào hàng những người được gọi là hạnh phúc của xã hội trần thế. Đó là những người “khiêm nhượng”, những người “đói khó” đối lại hạng người “kiêu căng lòng trí”, hạng người quyền thế, “giàu sang”, chính từ nghèo hèn khiêm nhượng mà nảy sinh ra mầm mống của hạnh phúc siêu nhiên. Tại sao thế ? - vì do lòng nhân nghĩa (khêsed) của Thiên Chúa. Từ đó trật tự bị đảo lộn : Thiên Chúa đứng về phía những con người phận nhỏ, những kẻ biết kính sợ Người. Chính lịch sử dân Chúa đã chứng minh chân lý đó. Abraham và miêu duệ ông – tức những người Anawim – mãi mãi là đối tượng của lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa. Ysaya II đã lớn tiếng công bố niềm hạnh phúc của dân Chúa : “Trời hãy reo vui, đất hãy nhảy mừng !

Page 33: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Núi non hãy hớn hở hò reo ! Vì Yavê an ủi dân người Người chạnh thương những kẻ cùng khốn của Người” (Ys 49,13) Qua bài Magnificat, Đức Maria quả là kết tinh của lời ca ngợi, lời tạ ơn của toàn thể dân Chúa trong xã hội loài người thụôc muôn thế hệ. 2. BENEDICTUS, CHÚC TỤNG CHÚA (Lc 1,68-69) 68. Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa của Israel Vì Người đã thăm viếng và cứu chuộc dân Người 69. Người đã làm chỗi dậy cho ta uy cứu độ Trong nhà Đavit tôi tớ Người 70. Như Người đã phán nhờ miệng chư thánh Các tiên tri từ muôn thuở 71. Nguồn cứu độ khỏi quân thù ta Khỏi tay mọi kẻ ghét ta 72. Trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên chúng ta Và nhớ lại giao ứơc thánh của người 73. Lời nguyền đã thề với Abraham cha chúng ta, để cho ta 74. Hết khiếp sợ, thoát tay địch thù, được thờ phụng Người 75. Trong thánh thiện và công minh Trước mặt Người mọi ngày đời ta 76. Hài nhi, con ơi, con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng tối cao, Vì con sẽ đi trứơc mặt Chúa, dọn lối cho Người 77. Để ban cho dân Người biết ân cứu độ Bởi ơn tha thứ các tội khiên 78. Nhờ lòng Thiên Chúa chúng ta chạnh thương nhân nghĩa

Page 34: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Làm cho thái dương từ cao xanh khấn viếng thăm ta 79. Sáng soi những kẻ ngồi trong tối tăm bóng chết Và hướng chân ta thẳng đường bình an. Trong ngày lễ đặt tên cho người con của mình, ông Zacaria sau khi viết dòng chữ: “Yoan là tên nó” (1,63) và trước sự bở ngỡ của mọi người, “tức khắc miệng lưỡi ông mở ra và ông tuyên lời ngợi khen Thiên Chúa” (1,64), thánh Luca ghi rõ thêm : “Zacarya được đầy Thánh Thần, nói tiên tri rằng: “Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa của Israel ...” Như vậy, bài thánh ca này chính là lời tiên tri, làm vang vọng lại âm hưởng sứ điệp các tiên tri trong quá khứ, chuẩn bị tâm hồn của toàn dân đón tiếp hồng ân trong giai đoạn mới của lịch sử dân Chúa. Bản thánh ca có cung giọng thâm trầm, bình thản, tin tưởng. Đây là cung giọng của con người có đời sống nội tâm sâu xa (tiên tri) biết đón nhận mọi biến cố trong niềm vui “chúc tụng Chúa”. Bài ca diễn tả đúng chủ đề : “sự thăm viếng cứu độ của Thiên Chúa”. Chúng ta có thể chia bài thơ làm 3 phần : Lc 1,68-75 sự thăm viếng cứu độ của Thiên Chúa : a. Ơn cứu độ là bảo chứng Thiên Chúa trung thành (1,68,71) b. Ơn cứu độ để ta được thờ phượng Thiên Chúa (1,72-75) Lc 1,76-77 sứ vụ của hài nhi Yoan Lc 1,78-79 thời cứu độ đã đến 1. Sự thăm viếng cứu độ của Thiên Chúa (1, 68-75) “Chúc tụng Chúa”. Đây là một công thức chúc tụng thường gặp trong Cựu ước (cf Kn 9,26 ; 14,20 ; 24,27 ; Xh 18,10 ; 1S 25,32 ; 1 V 1,48 ; 8,15…), diễn tả đức tin và lòng đạo đức của dân Chúa (Yb 1,21). Zacarya nói rõ vị Chúa mà mình chúc tụng chính là Thiên Chúa của Israel : đây là niềm tin căn bản của toàn dân Giao ước : “Hãy nghe, hỡi Israel, Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Yavê độc nhất Người sẽ yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi” (Tl 6,4-5) Zacarya tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa mà mình yêu mến, điều đó thật hợp lý, vì: “Người đã thăm viếng và cứu chụôc dân Người” Israel có kinh nghiệm về sự “thăm viếng” của Thiên Chúa. Từ ngữ đó gợi lại bao kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện vì “thăm viếng” gắn liền với ân sủng, cứu độ (cf Kn 21,1 ; 50,24-25 ; Xh 3,16 ; Yr 29,10) ; “thăm viếng” đồng thời cũng gắn liền với hình phạt (cf Xh 32,34 ; Ys 10,12 ; Ez 23,21 ; 34,11-12)

Page 35: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Ở đây, Zacarya nhận ra sự thăm viếng của Thiên Chúa gắn liền với hoạt động cứu chuộc. Từ câu 69-75, Zacarya mô tả ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa sẽ thực hiện. a. Ơn cứu độ là bảo chứng Thiên Chúa trung thành. Trước hết, từ hoàng tộc Davit, Thiên Chúa đã cho chỗi dậy “uy cứu độ”. Trong nguyên ngữ Hy Lạp viết là “sừng cứu độ”. Theo Cựu ước, sừng chỉ sức mạnh 1S 2,10 ; Tv 89,25 ; 132,17 Kiểu nói “làm chỗi dậy… uy cứu độ” có hai nội dung : - Thiên Chúa cho xuất hiện vị cứu tinh, Đấng Mesia từ dòng tộc Davit - Từ ngữ chuyên biệt của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi để ám chỉ việc Đức Kitô phục sinh từ cõi chết (cf Mt 16,21 ; 17,9 ; Cv 3,15 ; 4,10 ; 5,30) Cho nên “uy cứu độ” chính là đấng Mesia (Kitô) và là Đấng Mesia (Kitô) phục sinh. “Quân thù” và “mọi kẻ ghét ta” ở đây là ai ? ý thơ gợi hứng từ Tv 106,10 : “Người đã cứu họ khỏi tay kẻ chết Người đã chụôc họ khỏi tay kẻ thù” Tức là những kẻ đàn áp, bách hại dân người như trong thời Xuất hành thuở xưa. b. Ơn cứu độ để ta được thờ phượng Thiên Chúa. Các câu thơ ở tiểu đoạn này như lập lại ý các câu thơ trên : câu 72 // câu 68 ; câu 73 // câu 69-70 ; câu 74-75 // câu 71. Giới thiệu song song hai khuôn mặt Đavit và Abraham, Zacarya như muốn nói lên chiều kích thân mật giữa Thiên Chúa với Dân người. Tương quan thân mật đó chỉ đem đến cho Dân Người một hậu quả là “ơn cứu độ” và nhờ được cứu độ mà dân Người nhận ra và sống ơn gọi đích thực của mình : “thờ phượng Thiên Chúa trong thánh thiện và công minh” Thánh Phaolô trong Ep 4,24 đã viết : “Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” Thánh Gioan đã ghi mạc khải của Đức Giêsu (Yn 4,24) “Thờ phượng trong Thánh Thần và Sự Thật” Đó sẽ là đời sống của con người như tổ phụ Abraham, tự do đi đứng trứơc mặt Thiên Chúa, ở trọn nghĩa với Người. Cf 17,1 : “hãy bước đi trước mặt ta”. 2. Sứ vụ của hài nhi Yoan (1,76-77) Ca tụng sự thăm viếng cứu độ của Thiên Chúa rồi, trong tâm tình của con ngừơi thật sự hạnh phúc, Zacarya âu yếm nhìn vào đứa con bé nhỏ của mình: “hài nhi, con ơi …” Từ ngữ “hài nhi” (Paidion, Pais) nói lên sự thân mật gần gũi. Với tâm tình yêu thương trìu mến, Zacaria nói tiên tri về sứ mạng của người con thân yêu :

Page 36: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

“Con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng tối cao vì con sẽ đi trứơc mặt Chúa, dọn lối cho Người” Sứ mạng tiên tri là nói thay cho Thiên Chúa, công bố cho dân ý muốn của Thiên Chúa. Yoan sẽ thi hành sứ mạng này bằng cách : “đi trứơc mặt Chúa, dọn lối cho Người”. Đó là sứ mạng tiền hô của Đấng Cứu Thế mà tiên tri Malaiki đã loan báo (3,1). Trong vai trò đó, Yoan sẽ là tiên tri, công bố sứ điệp, chuẩn bị lòng dân đón nhận Đấng cứu thế. Vị tiền hô sẽ khơi dậy trong tâm hồn dân Chúa lòng khao khát ơn cứu độ : ơn cứu độ đã thực hiện trong thời xuất hành, giải thoát dân Chúa, ban cho họ Giao ước và đưa về đất hứa ; ơn cứu độ đã thực hiện trong thời lưu đày, giúp dân Chúa ý thức về tội để biết hoán cải nếp sống, đào sâu đời sống nội tâm sau khi được hồi hương xây dựng lại đền thờ ; ơn cứu độ hoàn hảo mà Thiên Chúa đã thực hiện trong giao ứơc mới khi Người tha thứ tội lỗi cho dân Chúa. Vì thế, sứ mạng tiên tri của Yoan sau này sẽ nhằm vịêc mời gọi dân Chúa hoán cải nếp sống để đón nhận ơn tha tội. 3. Thời cứu độ đã đến (1,78-79) Zacarya kết thúc bài ca chúc tụng của mình khi cho ta biết lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa được tỏ hiện vì Người “chạnh thương” chúng ta. “Chạnh thương” (les entrailles) là một từ ngữ rất gợi hình trong cựu ước, diễn tả lòng củaThiên Chúa khác nào lòng của một người mẹ, cảm thông sâu xa, chia sẻ tâm tình sâu đậm nhất (cf Ys 54,7 ; 63,7 ; yr 31,20 ; Za 1,16 ; Tv 79,8, 119,77 ; 145,9). Chính vì lòng nhân nghĩa (khêsed) mà “thái dương từ cao xanh khấn viếng thăm ta” “Thái dương” trong cựu ứơc có hai nghĩa : - Chồi lộc cứu độ mọc ra rừ nhà Davit (cf Yr 23,5 ; Za 3,8 ; 6,12) - Ngôi sao Đấng Mesia trong lời sấm của Balaam (cf Ds 24, 17 ; Ma 3,20) Như vậy, “thái dương”chính là đấng Mesia, Đấng Kitô của Thiên Chúa khấn viếng thăm ta, do lòng nhân nghĩa của Người ; nhờ đó Người sẽ: “Sáng soi những kẻ ngồi trong tối tăm bóng chết” (cf Ys 9,1) “Và hướng chân ta thẳng đường bình an” (cf Ys 9,5-6 ; Mi 5,4) Tâm tình của Zacarya mở ra con đường đầy hy vọng của dân Chúa. 4. NUNC DIMITTIS, GIỜ ĐÂY, LẠY CHÚA (Lc 2,29-32) 29. Giờ đây, lạy Chúa,xin thả tôi tớ Người về Chiếu theo lời Người, trong bình an 30. Bởi chứng mắt tôi đã thấy ơn cứu độ

Page 37: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

31. Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân 32. Ánh sáng mạc khải cho dân ngoại Và vinh quang của Israel dân Người Chúng ta thấy được chỗ đứng và tác dụng của bài thánh ca này trong mạch văn của tin mừng theo thánh Luca. Bài ca này gắn liền với mầu nhiệm Đức Yêsu trong bối cảnh Người được dâng vào Đền Thánh. Cụ già Simeon, “một người công chính và mộ đạo” (2,25) “những ngóng đợi niềm an ủi của Israel và Thánh Thần ở trên ông” không theo hình thức một bản Thánh vịnh, nhưng bộc lên tíêng nói, tâm tình của chính thánh kinh mạc khải về mầu nhiệm của Đức Yêsu. Thật vậy lời mạc khải này phát xuất từ một con người đầy tràn Thánh Thần và là lời mạc khải từ đền thờ Yerusalem, tâm điểm và là cao điểm của dòng lịch sử cứu độ theo cái nhìn thần học của Luca. Khi nói Simeon là “người công chính và mộ đạo”, Luca diễn tả đay là con người “những ngóng đợi niềm an ủi của Israel”, Luca làm sống lại lời sấm của Ysaya II về hình ảnh của người sứ giả loan báo tin mừng bình an, tin mừng cứu độ cho dân Chúa, cf Ys 52,7-10 Đặt lời sấm Ys 52,7-10 gợi hứng cho đoạn Lc 2,29-32 chúng ta sẽ hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của bài thánh ca mạc khải này: 2,29 “Giờ đây, lạy Chúa, xin thả tôi tớ Người về chiếu theo lời Người, trong bình an” Với danh hiệu “tôi tớ của Chúa”, Simeon trở nên đại diện cho tất cả những ai mang tước hiệu đó trong lịch sử dân Chúa. “Giờ đây” mang tính hiện đại của thời gian. Thế nhưng trong phụng vụ của Israeel, “hôm nay” luôn gắn liền với “hôm qua” và “ngày mai”. “Hôm qua” của cả một quá khứ của một đoàn dân chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ và bắt đầu khai mở cánh cửa tương lai. Tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa với người tôi tớ, hôm nay Người thực hiện ; và hậu quả của việc đó la dẫn đưa Người tôi tớ đến bình an. Đây là lời nói tạ ơn của một tâm hồn đã gặp được hạnh phúc. Nguồn hạnh phúc đem lại sự bình an trong đời sống người tôi tớ phát xuất từ lý do nào? 2,30 “bởi chưng mắt tôi đã thấy ơn Người cứu độ Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân” Ơn cứu độ được hiểu như một sức mạnh (Lc 1,69) giải thoát người tôi tớ khỏi tay quân thù và mọi kẻ ghen ghét (Lc 1,71) bằng cách tha thứ các tội khiên (Lc 1,77) Ơn Cứu độ đó đã tỏ hiện trước mắt Simeon và đang ở trong vòng tay của ông : đó là hài nhi Yêsu. Đối với Simeon, hài nhi Yêsu là hiện thân của sự chạnh thương của Thiên Chúa. Từ niềm vui gặp gỡ đó, Simeon thấy trải rộng ra trước mắt ông cảnh “muôn dân” cũng sẽ được hưởng hồng ân cứu độ.

Page 38: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Luca có chủ ý khi sử dụng từ ngữ muôn dân (tôn laôn). Trong thánh kinh, từ ngữ “dân” (ho laos) là một từ ngữ chuyên biệt để chỉ Dân Giao ước. Khi sử dụng từ ngữ “Ho laos” ở số nhiều, Simeon như báo trứơc hiệu quả của ơn cứu độ do hài nhi Yêsu thực hiện là biến “muôn dân” trở nên “dân giao ước ” (từ ngữ thánh kinh thừơng dàng để chỉ “dân ngoại” là “Hoi ethnoi”, tiếng Hipri là “Goyim”) 2,32 “ánh sáng mạc khải cho dân ngoại và vinh quang của Israel dân Người” Theo ngữ pháp, thì từ “ơn Người cứu độ” được triển khai bằng hai mệnh đề: Ánh sáng mạc khải cho dân ngoại Vinh quang của Israel dân Người (Ho laos) Nhờ hai mệnh đề này mà chúng ta thấy được vai trò và sứ mạng của Đức Yêsu : Người thực sự là “người tôi tớ Yavê” mà tiên tri Ysaya đã loan báo : “Này đây tôi tớ của Ta… Ta đặt ngươi làm ánh sáng các nước” (Ys 42,1.6) “…Tôi tớ của Ta Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng các dân tộc để ơn cứu độ của Ta đạt thấu mút cùng cõi đất” (49,6) “vinh quang Yave sẽ tỏ mình và mọi xác phàm một trật đều thấy” (Ys 40,5) Như vậy, hài nhi Yêsu mà Simeon đang ẵm trong vòng tay chính là “nguồn an ủi của Israel”, là “ơn cứu độ của Thiên Chúa” biểu lộ qua hai chiều kích : ánh sáng dân ngoại và vinh quang của Israel. Từ đó, bài thánh ca xác định vai trò của hài nhi Yêsu chính là người tôi tớ của Yavê và sứ mạng của Người là thực hiện ơn cứu độ mà Ysaya II đã vẽ ra cho người tôi tớ: con đường đau khổ của người vô tội, con đường cứu độ bằng hành động vâng phục của người tôi tớ. Và một khi Đức Yêsu thực hiện hoàn toàn con đường đó, thì ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đến với muôn dân.

Page 39: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

BÀI 5.

THÁNH VỊNH : TẬP HỒI KÝ CỦA DÂN CHÚA. 1. Thánh vịnh là tập hồi ký của Dân Chúa Đối với dân Chúa thời Cựu ước,chắc chắn thánh vịnh không phải là cuốn sách

duy nhất chiếm vai trò độc tôn trong sinh hoạt phụng vụ - vì còn Lề luật, Ngôn sứ và các sách khác - nhưng trong thực tế Thánh vịnh đã chiếm một chỗ đứng rất đặc biệt trong sinh hoạt phụng vụ và ngay cả trong đời sống thừơng nhân của Israel qua dòng lịch sử. Thật vậy, đối với dân giao ước, một khi xác tín mình là “dân sở hữu”, “dân cưng” của Thiên Chúa (Xh 19,5) và Thiên Chúa là kho báu riêng tư của mình, họ đã không có gì mà không bộc lộ, phơi bày ra với Thiên Chúa. Họ chia sẻ mọi biến cố, mọi tâm tình của mình với Thiên Chúa ; đến độ ta có thể nói họ đã biến lịch sử đời mình trở thành kinh nguyện. Mà chính bởi vì lịch sử thì phức tạp và đời sống thì đa dạng, nên những nét đa dạng và phức tạp của các trạng huống trong lịch sử dân Chúa được phơi bày ra một cách trung thực trong kinh nguyện của họ, trong tập Thánh vịnh. Khi nhận ra tình Chúa yêu thương họ, khi niềm tin dâng cao, họ hát lên những bài ca ngợi ; khi được giải thoát khỏi gian nguy, bệnh tật, thử thách, họ dâng lên Người những tâm tình tạ ơn và quý mến ; trên đường tiến về Đền thánh, lòng hân hoan vui sứơng hứơng về nơi Thiên Chúa hằng sống ngự trị, tâm hồn họ rộn rã hát bài ca hành hương, ca ngợi Sion ; có những khi suy nghĩ về tình yêu, về Giao ứơc, họ trầm tư qua những Thánh vịnh suy niệm về luật Chúa, về giáo huấn của Người ; rồi trong những ngày hội lớn của toàn dân, tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ thiết lập vương quốc của Người ở trần gian, họ vang ca bài Thánh vịnh hy vọng ca tụng Đấng Mesia của Thiên Chúa ; ngay cả khi toàn dân gặp khủng hoảng, niềm tin bị lung lạc, họ cũng không ngần ngại bộc lộ với Thiên Chúa tâm tình chua chát đến tuyệt vọng của mình.

Vì thế, không phải là quá đáng, nếu chúng ta gọi Thánh vịnh là “tập hồi ký” của dân Chúa.

Nhưng gọi là “tập hồi ký” chúng ta có sợ làm cho Thánh vịnh trở nên một tuyển tập những bài thơ phản ánh tâm tình Dân Chúa trong quá khứ không ? - thưa không ! bởi các bài thơ bài ca trong Thánh vịnh luôn luôn được dân Chúa “đọc lại” (re-lecture) dưới ánh sáng các cao điểm trong lịch sử dân Chúa. Và mỗi dịp “đọc lại” này, trong các cộng đoàn phụng vụ hoặc trong gia đình, dân Chúa lại càng thấm thía nội tâm hoá lịch sử giao ước giữa Thiên Chúa với họ ; đồng thời họ càng ý thức hơn rằng họ phải sống trung thành với Thiên Chúa của họ. Về điểm này, chúng ta co thể mượn lời của André Chouraqui để kết luận : “Dân Chúa yêu mến Thánh vịnh, vì tập Thánh vịnh chính là tập hồi ký, ghi lại lịch sử của dân tộc họ. Họ đã sinh ra và lớn lên trong lịch sử đó”.

2. Thánh vịnh với Đức Giêsu Chỗ đứng của Thánh vịnh trong đời sống Israel như thế. Nhưng đối với Hội Thánh là Israel mới, và cách riêng đối với Đức Giêsu thì sao ? Trước tiên, nhìn vào Tân Ước, chúng ta bắt gặp có khoảng 300 câu Cựu ước

được trích dẫn ; trong số đó có tới 1/3 xuất phát từ Thánh vịnh, thậm chí có người quả quyết khoảng một nửa câu trích dẫn Cựu ước đã được lấy từ Thánh vịnh. Như thế, Thánh vịnh là cuốn sách Cựu Ước đã được đã được Tân ước trích dẫn nhiều nhất. Điều hấp dẫn chúng ta ở đây là xem coi Đức Giêsu có thái độ thế nào đối với Thánh vịnh ?

Qua nghiên cứu tìm hiểu, chúng ta thấy Đức Yêsu có hai tương quan sau đây với Thánh vịnh :

- Đức Yêsu cầu nguyện bằng Thánh vịnh - Đức Yêsu là tâm điểm của Thánh vịnh * Đức Giêsu cầu nguyện bằng Thánh vịnh

Page 40: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Trong Tân Ước và cách riêng trong các sách Tin Mừng, không ai cầu nguyện nhiều và liên lỉ như Đức Yêsu. Người đối thoại thường xuyên với Chúa Cha và kết hợp mật thiết với Ngài qua lời nguyện, lời ca ngợi. Tâm tình cầu nguyện của Đức Yesu phản ánh thái độ tin tưởng, vâng phục. Người còn bộc lộ cho thấy một nhu cầu kết hợp với Chúa Cha, đến độ ta có thể nói là Đấng luôn luon hướng về Thiên Chúa : “Ad Patrem” (hướng về Cha) như các nhà thần học nhận định ; hoặc “pros ton Thêon” (ở nơi Thiên Chúa, apud Deum, touné vers Dieu - TOB), như thánh Yoan khẳng định trong lời tựa sách Tin mừng (Yn 1,1)

Thánh Luca ghi lại Đức Yesu cầu nguyện trong mỗi giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của Ngài : lúc chịu phép rửa, chọn 12 tông đồ, lên núi, đặt Phêrô làm đầu, biến hình … trong vườn Ghetsemani, hấp hối trên thập giá…

Nhìn sâu vào lời cầu nguyện của Đức Yesu, chúng ta sẽ khám phá ra Người đã dùng Thánh vịnh để cầu nguyện. Thật vậy, Người đã sử dụng lối cầu nguyện, ca ngợi theo truyền thống của dân Người và Người soi sáng lời nguyện của dân Người bằng chính con người của Người. Người không đến “để bãi bỏ lề luật hay các tiên tri, mà là để làm cho trọn” (Mt 5,17). Từ đó ta có thể nói : Người không đến để bãi bỏ lời ca ngợi, lời nguyện đã có từ ngàn xưa trong lịch sử dân tộc, nhưng để đem lại ý nghĩa trọn vẹn cho những lời ca ngợi đó. Đúng như thánh Augustinô nhận định : “Iste Cantator Psalmorum” (Người là vị ca sĩ kỳ tài diễn đạt Thánh vịnh một cách tuyệt hảo).

Năm lên 12 tuổi, tuổi trưởng thành về mặt tôn giáo, Đức Yesu đã theo cha mẹ và đoàn khách hành hương tiến về Yerusalem (Lc 2,41-42). Chắc hẳn Người đã hát các Thánh vịnh 122, Tv. 84 … Trong thời gian hoạt động công khai, Người luôn luôn trung thành với các ngày lễ (Vượt qua, Ngũ tuần, Lều, Cung hiến đền thờ). Cùng đồng hành và tham dự các nghi lễ phụng vụ, làm sao Người có thể lặng thinh giữa một cộng đoàn luôn ca ngợi, cầu nguyện bằng Thánh vịnh ? Người còn thường xuyên đến các hội đừơng vào các ngày hưu lễ. Đây cũng là dịp Người hát Thánh vịnh với đồng bào của Người.

Rồi, khi tự xưng mình là Đấng “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29), Người đã minh nhiên tự giới thiệu mình là thành viên thuộc hạng người Anawim trong Kinh thánh : hiền lành, nghèo khó … sống theo truyền thống các Anawim trong lịch sử dân Chúa. Chính trong quỹ đạo của người “hiền lành”, “nghèo khó”, chúng ta mới hiểu được tâm ttình của Đức Yêsu khi Người nói với Yuda trong bữa tiệc ly (Yn 13,18 ; cf Tv 41), khi Người bộc lộ lời tín thác ở trên thập giá (Lc23,46 ; cf Tv 31,6) hoặc Người phải bật ra tiếng kêu của người nghèo, ngừơi công chính bị bách hại (Yn 19,28 ; cf Tv 22,16 ; Mt 27,46 // Mc 15,34 ; cf Tv 22,2). Những tiếng kêu này, đối với não trạng Kinh thánh, không phải là tiếng kêu tuyệt vọng, phản kháng, nhưng là tiếng kêu của người Anawim luôn phó thác, tín nhiệm Thiên Chúa của mình ; đồng thời nại đến giao ước để biểu lộ tâm tình mình thật sự gắn bó với Thiên Chúa của giao ước, ngay cả trong những lúc khốn quẫn, đầy nguy nan, thử thách.

Thật đúng như lời thánh Augustinô : “Người là Vị ca sĩ kỳ tài diễn đạt Thánh vịnh một cách tuyệt hảo”.

* Thánh vịnh nói về Đức Yêsu Ở đây, chúng ta dựa vào câu tuyên bố của chính Đức Yêsu : “các ngươi truy

tầm kinh thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ngươi có sự sống đời đời ; ấy mà chính kinh thánh lại làm chứng cho Ta” (Yn 5,39). Rồi sau khi sống lại, Đức Yêsu Kitô cũng đã nói : “phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật Môsê và các tiên tri cùng Thánh vịnh “ (Lc 24,44)

Đối với chúng ta, đức tin dạy cho biết Đức Yêsu - Kitô là tâm điểm kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, tâm điểm của lịch sử cứu độ. Trong cuộc tranh luận về Đấng Mesia xảy ra tại Yerusalem, trung tâm tôn giáo, nơi toàn dân mong đợi Đấng Mesia. Đức Yêsu đã sử dụng Tv 110 để biện minh (x. Mt 22,41-46). Rõ ràng Người

Page 41: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

nói về Người ! Rõ ràng Người sử dụng Tv 110, Thánh vịnh ca ngợi Đấng Mesia, để tự giới thiệu mình với toàn dân.

Kết hợp trình thuật ghi lại ở Mt 22,41-46 với câu chuyện tiệc cưới Cana trong Yn 2,1-11 ; chúng ta thấy rõ hơn Đức Yêsu mạc khải cho ta biết Người chính là Đấng Mesia, nhưng là Đấng Mesia thực hiện sứ mạng của mình trong “giờ của Người”. Từ đó, thánh Yoan cũng như các tác giả Tin mừng khác đều mô tả khuôn mặt của Đức Yêsu - Mesia chính là khuôn mặt của “người tôi tớ Yavê”, người công chính bị bách hại, đau khổ, dùng cái chết của mình để thực hiện ơn cứu độ. Cuộc đời của Đức Yesu qủa đã thực hiện điều mà Tiên tri Ys 52,13 – 53,12 đã loan báo. Điểm này hàm chứa trong trình thuật của Yoan và Matthêô về cuộc khổ nạn và tử nạn của Đức Yêsu. Họ đã ghi lại các lời lăng nhục, chia áo của Người … dưới ánh sáng của Tv 22, đặc biệt ở các câu 8, 19 và sau này trong lời rao giảng tiên khởi (kerygma) thánh Phêrô đã không ngần ngại sử dụng Tv 16,10 :

“Người sẽ không thí bỏ mạng tôi cho âm phủ Người sẽ không để kẻ thành tín phải thấy mồ chôn” để nói về sự sống lại của Đức Yêsu (x. Cv 2,31). Như vậy ta có thể nói, tất cả

các Thánh vịnh đều quy chiếu, nói về Đức Yêsu. Chính hội thánh sơ khai (x. Sách Công vụ) minh xác điều đó, vì Người được tin và được hiểu là Vị Ebed Yavê, Người tôi tớ của Yave, người Anaw trọn hảo.

3. Nhờ Thánh vịnh, Hội Thánh nói với Đức Yêsu Tập Thánh vịnh không phải chỉ nói về Đức Yêsu, nhưng còn nói với Chúa Yêsu.

Điều này sẽ khiến chúng ta vô cùng ngạc nhiên, vì một khi hiểu Đức Yêsu và Thánh vịnh, chúng ta sẽ không ngần ngại thay thế Danh Yavê trong Thánh vịnh bằng chính Danh Yêsu.

Plinius Junior trong một bức thư viết cho hoàng đế Roma, để báo cáo về sinh hoạt của giáo đoàn kitô hữu tiên khởi, có đoạn viết : “carmen Christo tamquam Deo” (bài thơ ca ngợi Đức Kitô như thể Ngài là Thiên Chúa)

Đây là một chứng từ quý báu nói về đức tin và sinh hoạt của hội thánh sơ khai : họ hoàn toàn đồng hoá Đức Yêsu Kitô với Thiên Chúa. Họ ca ngợi Đức Kitô, cầu nguyện với Đức Kitô bằng những bài Thánh vịnh ca ngợi Yavê, cầu nguyện với Yavê Thiên Chúa.

Thư Hippri 1,10 nói về địa vị Chúa Kitô vượt trên các thiên thần. Tác giả đã trích dẫn Thánh vịnh 102 nói về chỗ đứng trỗi vượt của Yavê. Khải huyền 2,23 đề cập đến Đức kitô la Đấng thấu suốt tâm can của con người. Đây chính là đặc điểm của Yavê theo tinh thần Thánh vịnh 7,10 :

“Người là Đấng dò thấu lòng dạ can trường Lạy Thiên Chúa chí công” Khi diễn tả Đức Yesu lên trời, vinh thăng, toàn thắng, thánh Phaolô trong Ep

4,8-10 đã sử dụng tư tưởng của Tv 68,19. Lời mời gọi của vịnh gia Tv 34,9 : “Hãy nếm và xem Yavê tốt lành dừơng bao ! Phúc cho ai ẩn náu bên Người” đã được thánh Phêrô trong 1 P 2,3 lặp lại : “quả anh em đã được nếm biết

Chúa (Kitô) tốt lành nhường bao !” Ngoài ra, trong các bài phụng vụ của lễ Hiển linh, lễ Chúa Lên Trời, Lễ Chúa

Biến hình, lễ Mình Máu Thánh Chúa, Lễ Chúa Yêsu Kitô Vua … Hội Thánh đã mời gọi con cái mình hát lại những bản Thánh vịnh nói về Yavê Thiên Chúa, để ca ngợi, cầu nguyện với chính Đức Yêsu Kitô.

********** BÀI 6 THÁNH VỊNH, TIẾNG NÓI CỦA CON NGƯỜI BẤT TOÀN Thấy được chỗ đứng của Thánh vịnh trong dòng lịch sử cũng như đời sống của

dân Israel, đồng thời khám phá ra con người và thái độ của Đức Yêsu Kitô đối với

Page 42: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Thánh vịnh, chắc hẳn chúng ta không những yêu quý Thánh vịnh mà còn muốn thật sự biến Thánh vịnh trở nên như “tập hồi ký” của bản thân,của hội thánh mình.

Thế nhưng, trong việc sử dụng Thánh vịnh, hình như chúng ta đôi khi vẫn cảm thấy Thánh vịnh là tập sách xa lạ, khô khan, khó hiểu, thậm chí còn chứa đựng những tư tửơng thần học xem ra như nghịch với sứ điệp tin mừng. Dầu có thiện chí muốn tìm hiểu và có khát vọng muốn biến Thánh vịnh thành lời ca ngợi, lời kêu cứu, lời giáo huấn của chính mình, nhưng hình như còn có một cái gì ngăn cách giữa ta với tư tưởng, ngôn từ, tâm tình Thánh vịnh .

Vậy làm thế nào để “những ai tham dự vào kinh thần vụ, phải hoà hợp tâm hồn mình với lời kinh mình đọc” như lời dạy của công đồng Vatican II trong hiến chế về phụng vụ thánh (PV 90) ?

Để góp phần vào công vịêc này,chúng ta hãy có cái nhìn của dân Chúa, dựa trên cơ sở giao ước. Từ đó, khi đọc, hát Thánh vịnh, ta “đọc lại” “tập hồi ký” của Dân Chúa, nhờ đó ta sẽ khám phá ra Thánh vịnh là tiếng nói của con người bất toàn, đồng thời là tiếng nói của con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.

1. Thánh vịnh, tiếng nói của con người bất toàn. Những thế hệ đã ca ngợi, đã cầu nguyện bằng Thánh vịnh, dĩ nhiên là những

con ngừơi chưa hoàn hảo. Đó là những con người đang còn khắc khoải tìm kiếm, đang vươn lên … Không những thế, họ còn là những con người đầy dẫy mâu thuẫn trong tâm hồn, luôn tìm kiếm bản thân mình, luôn phải dằng co với cuộc sống, luôn phải đấu tranh cam go để sống còn, để giữ vững niềm tin, để tìm ra lẽ sống.

Thế giới của Thánh vịnh là một thế giới chưa gặp được bình an một cách trọn vẹn, chưa hoàn toàn được giao hoà.

Thế giới của Thánh vịnh như muốn chứng minh rằng công lý đích thực chưa hoàn toàn ngự trị trên mặt đất này, giữa những con người mà ta vẫn tin tưởng, vẫn gọi là anh em.

Thế giới của Thánh vịnh là thế giới trong đó dung mạo Thiên Chúa như ẩn như hiện, và hình như Thiên Chúa thường giấu mặt và im lặng hơi nhiều.

Thế giới của Thánh vịnh phơi bày một thực tại phũ phàng : xã hội còn đầy dẫy những con người tìm cách lợi dụng kẻ khác, những con người châm biếm, phản bội nhau, những con người còn đùa giỡn trên đau khổ, trên niềm hy vọng hay niềm tin của kẻ khác …

Vì thế, Thánh vịnh là tiếng nói của những tâm hồn tôn giáo chưa gạt bỏ hết được mọi mâu thuẫn, bạo lực chứ chưa nói đến tìonh trạng chan hoà tâm tình ca ngợi tinh trong.

Vậy mà, đã có biết bao người, trong số đó có chúng ta là những đồ đệ của sứ điệp tin mừng tân ước, đôi khi cũng đã phải thốt lên :

- Làm sao tôi có thể ca ngợi, cầu nguyện cách trung thực, khi lòng tôi, môi tôi còn phải khẩn khoản cầu xin với một danh Thiên Chúa xa lạ : “Thiên Chúa các đạo binh”, “Thiên Chúa một trang dũng sĩ” ?

- Làm sao tôi có thể khẩn xin Thiên Chúa của Đức Yêsu là Thiên Chúa của tình yêu, phải “trả thù”, “báo óan” cho tôi ?

- Làm sao, trong một xã hội khoa học tân tiến, tôi lại còn phải gọi Thiên Chúa là “Chúa chiên tôi” ?

* Qua Thánh vịnh, con người khám phá ra chính mình Có thể nào, qua kinh nghiệm bản thân, chúng ta gặp được Thiên Chúa, nếu

chúng ta chưa bao giờ tìm kiếm Người ? Có thể nào chúng ta bắt gặp được sự bình an, nếu chúng ta không phải dày gian nan tranh đấu ? có thể nào chúng ta đạt tới hạnh phúc vì được yêu thương, nếu chúng ta không bao giờ phải đau khổ ? có thể nào chúng ta hiểu được sự gần gũi, thân mật, nếu chúng ta chưa bao giờ kinh nghiệm những đau xót vì phải chia ly ? Trên môi miệng, không ai trong chúng ta chấp nhận bạo lực, chấp nhận cảnh con người bóc lột, đàn áp… nhưng thực tại của thời đại hôm nay như thế nào ? xã hội hôm nay đã hoàn toàn hết bạo lực, chèn ép, bóc lột nhau chưa ?

Page 43: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Vì thế, lời nguyện trung thực mà con người dâng lên Thiên Chúa là lời nào, nếu không phải là tiếng nói tâm tình hồn nhiên, chân thật nhất, phản ánh trung thực nhất hiện trạng của xã hội hôm nay ? Đối với Chúa, chúng ta có cần gọt dũa lời nguyện thành một bài diễn văn chải chuốt, hay là chỉ cần nói với Chúa bằng ngôn ngữ cụ thể, chứa đựng những phản ứng của con người bất toàn, với giận dữ, khắc khoải, đau khổ hoặc sung sướng ? trong tâm hồn chúng ta đã chắc không còn một phần đất nhỏ nào dành cho những tâm tình xấu xa là giận giữ, thù hận, oán ghét không ?

Vì vậy, tâm tình của vịnh gia đâu có quá xa lạ với tâm tình trung thực của chúng ta và của xã hội hôm nay ?

* Qua Thánh vịnh, con người dần dần hiểu được tương quan Giao Ước với Thiên Chúa

Đọc Thánh vịnh, chúng ta biết Thiên Chúa đã nhiều lần ký kết giao ứơc với loài người, đặc biệt là giao ứơc cũ và giao ứơc mới với dân Người.

Chúng ta hãy tự hỏi : để hiểu và sống giao ứơc với Thiên Chúa, Môsê và đoàn dân Do Thái trong cuộc hành trình sa mạc đã có những thái độ nào ? Davit, người tôi trung, người con ngoan của Thiên Chúa, đã hành động ra sao ? các ngôn sứ, chẳng hạn như Yêremia, khi tìm cách đáp lại tiếng Yavê, đã cảm thấy tâm hồn tan nát đến chừng nào ? Từ lời nói ngoan ngoãn : “vâng, con xin theo Ngài” đến tiếng than đầy bất mãn “tại sao ngài lại quyến rũ tôi?” Yeremia đã hiểu Chúa nhiều hơn trong giai đoạn nào ?

Rồi ngay các tông đồ, là những người đã chia sẻ cuộc sống và sứ vụ với Đức Yesu, các ngài đã sống thế nào ? Từ tâm tình nhiệt thành của Phêrô : “lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, vì Thấy mới có lời ban sự sống” đến lời phản bội “không, tôi không biết người ấy bao giờ” - thử hỏi lúc nào Pherô đã thực sự hiểu Thầy mình ?

Bởi thế, từ tâm tình hiền dịu theo Chúa đến thái độ phản kháng khi thấy Người im lặng và có vẻ bất lực, con người chúng ta hình như được dẫn dắt từng bứơc đi vào giao ứơc với Thiên Chúa, để khám phá ra những yêu sách của giao ứơc, những bất trung thừơng xuyên của mình đối diện với lòng nhân nghĩa bao la của Người.

* Qua Thánh vịnh, con người còn được đi sâu vào tâm tình của một dân được tuyển chọn

Thánh vịnh giúp chúng ta đi sâu vào tâm tình của một dân được Thiên Chúa tuyển chọn riêng. Dân đó đã thành hình trong tư thế là một “dân cưng”, sở hữu riêng của Thiên Chúa (Xh 19,5), từ ngày được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, được Người giáo dục, dẫn dắt từng bứơc như một người mẹ tập cho đứa con thơ chập chững bứơc đi… cho đến ngày vào Đất Hứa, sống niềm tin của mình qua những bứơc thăng trầm vinh nhục, vấp ngã rồi chỗi dậy … (Cf. “Lời trối trong lò lửa” – Tes-tament dans la fournaise).

Qua bao biến cố, Dân ấy dầu lắm bao phen bất trung, vẫn không bao giờ quên được Yavê Thiên Chúa của họ. Họ biết tâm sự với Chúa lúc tràn trề niềm vui hay khi được hạnh phúc. Họ cũng biết giãi bày tâm sự với Chúa lúc tức giận, căm hờn hay trong cơn tuyệt vọng. Họ còn biết xích lại gần Đấng mà họ yêu mến, dầu hình như Người cứ lánh xa, ruồng rẫy họ ! còn gì sâu sắc và trung thực hơn tiếng nói của con người đau khổ sau đây:

“Tôi nhẩm lại những ngày xưa kia Tôi hoài tưởng lại những năm quá vãng Lòng với lòng tôi ôn lại thâu đêm Tôi ngẫm nghĩ, trí óc tôi cố tìm ra manh mối Phải chăng Chúa bỏ cho đến muôn muôn đời Và không còn thương đoái nữa” (Tv 77,6-8). * Qua Thánh vịnh, con người bắt gặp tiếng kêu của người nghèo :

“Anawim”

Page 44: SÁCH THÁNH V ỊNH - thanhnhacvietnam.infothanhnhacvietnam.info/dominico_dung/Dung/TimHieuThanhVinh/... · SÁCH THÁNH V ỊNH o Nguy ện G ẫm V ới Thánh V ịnh o Thánh

Thánh vịnh còn đưa chúng ta đến gặp gỡ những ngừơi anh chị em nghèo của ta. Tâm tình và lời nói của họ, dẫu là tâm tình và lời nói của cá nhân, cũng đều được nuôi dưỡng múc nguồn từ lịch sử của toàn dân họ. Bởi thế, chỉ có thể sử dụng Thánh vịnh để ca ngợi, cầu nguyện, nếu chúng ta cũng thuộc hạng người nghèo, hạng ngừơi không giữ riêng gì cho bản thân, nhưng có tâm hồn rộng mở ra với Thiên Chúa và mọi người. Chỉ những ai chọn con đừơng đó mới có thể cầu nguyện bằng Thánh vịnh, vì Thánh vịnh chính là lời ca của hạng người nghèo “Anawim”.

Do đó, nếu chúng ta sống ích kỷ, sống sa hoa, sống đóng kín, ta không thể chia sẻ được tâm tình hàm chứa trong các Thánh vịnh. Và khi ấy, nếu chúng ta sử dụng Thánh vịnh, thì Thánh vịnh cũng chỉ dừng lại trên môi miệng, chứ không thâm nhập vào tâm hồn ta được.

2. Thánh vịnh, tiếng nói của con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.

Môi sinh phát xuất ra Thánh vịnh là dân Chúa, một Dân tin và nhận biết Chúa là lẽ sống của mình.

Khung cảnh tiêu biểu của Dân Chúa là Yerusalem : Yerusalem của Cựu Ứơc cũng như của Tân ước.

Chúng ta cùng đưa mắt, lắng tai, hướng lòng về Yerusalem, chúng ta sẽ thấy được chân lý này : Thánh vịnh quả là tiếng nói của một con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.

Tại Yerusalem, trên ngoạn đồi Sion hôm nay, chúng ta đang thấy gì ? - bên cạnh những con người đang gục mặt vào vách từơng ngày đêm đọc, hát Thánh vịnh bằng ngôn ngữ Hipri, chúng ta còn nghe tiếng hát Thánh vịnh xen lẫn tiếng chuông của biết bao kitô hữu thuộc các hệ phái khác nhau (khoảng 31 hệ phái có mặt tại Yerusalem), thuộc các nghi lễ khác nhau (La tinh, chính thống, thệ phản, Copte..). tất cả những con người ấy đều xứơng lên những bài thơ, bài hát đã được dịch ra trên 2000 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.

Họ là ai ? - Là những thầy Rabbi, là những giám mục, linh mục, những mục sư, những tu

sĩ, những khách hành hương, những tín hữu từ mọi phương trời quy tụ về Yerusalem. Họ khác nhau về hệ phái, về tôn giáo, khác nhau về màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, tuổi tác, địa vị, lập trường chính trị… nhưng họ đều gặp nhau tại một điểm cốt yếu : tất cả đều ca ngợi Thiên Chúa, cầu nguyện cùng Thiên Chúa bằng một bản văn duy nhất. Bản văn đó có địa vị và sức mạnh nào để có thể trở nên yếu tố hợp nhất, trở nên chất keo liên kết mọi thành phần Dân Chúa thụôc mọi thời đại ?

Vì, trong bản văn đó, con người của mọi thời đại cùng đối diện với những khó khăn, thử thách như nhau ;

Vì, cũng trong bản văn đó, con người của mọi thời đại cùng múc được một nguồn hy vọng cứu độ như nhau ;

Và hôm nay, khi dùng bản văn đó để ca ngợi, cầu nguyện cùng Thiên Chúa, mọi tín hữu đều làm công việc đó nhân danh toàn thể nhân loại.

Vì thế, chúng ta có thể nói một cách thâm tín rằng : THÁNH VỊNH quả thực là LỜI NGUYỆN CỦA DÂN CHÚA LUÔN ĐỒNG

HÀNH VỚI LỊCH SỬ CON NGƯỜI.

ĐGM. Giuse Võ Đức Minh