82
Chuyên đề 1 XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1. Tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và quá trình tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời là sự kế thừa và phát triển đường lối, quan điểm văn hóa của Đảng, được thể hiện trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo nêu bật ba tính chất cơ bản của văn hóa Việt Nam là dân tộc, khoa học, đại chúng; được bổ sung, phát triển trong Cương lĩnh và nghị quyết của Đảng từ Đại hội III đến Đại hội VIII, các nghị quyết chuyên đề về văn hóa của Ban Chấp hành Trung ương trong mỗi nhiệm kỳ Đại hội. Nghị quyết nêu bật tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nhất là luận điểm nổi tiếng “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ động đổi mới tư duy, thoát dần tư tưởng giáo điều, bao cấp, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có văn hóa; thể hiện bước chuyển quan trọng về tư duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn những năm đầu đổi mới. Nghị quyết có tầm nhìn sâu rộng, chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn và khoa học. Các quan điểm trong Nghị quyết thực sự đổi mới, có giá trị chỉ đạo cao trong thực tiễn, được nhân dân đón đợi và đồng tình thực hiện. Nghị quyết đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát triển di sản quý báu của văn hóa dân tộc, tích cực mở rộng giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; góp phần hình

tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

  • Upload
    dongoc

  • View
    225

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Chuyên đề 1

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1. Tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và quá trình tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời là sự kế thừa và phát triển đường lối, quan điểm văn hóa của Đảng, được thể hiện trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo nêu bật ba tính chất cơ bản của văn hóa Việt Nam là dân tộc, khoa học, đại chúng; được bổ sung, phát triển trong Cương lĩnh và nghị quyết của Đảng từ Đại hội III đến Đại hội VIII, các nghị quyết chuyên đề về văn hóa của Ban Chấp hành Trung ương trong mỗi nhiệm kỳ Đại hội. Nghị quyết nêu bật tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nhất là luận điểm nổi tiếng “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ động đổi mới tư duy, thoát dần tư tưởng giáo điều, bao cấp, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có văn hóa; thể hiện bước chuyển quan trọng về tư duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn những năm đầu đổi mới. Nghị quyết có tầm nhìn sâu rộng, chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn và khoa học. Các quan điểm trong Nghị quyết thực sự đổi mới, có giá trị chỉ đạo cao trong thực tiễn, được nhân dân đón đợi và đồng tình thực hiện. Nghị quyết đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát triển di sản quý báu của văn hóa dân tộc, tích cực mở rộng giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; góp phần hình thành hệ giá trị chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sản phẩm lai căng, độc hại, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống.

Trong những năm đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội đã tiến hành nghiêm túc việc học tập, quán triệt Nghị quyết; coi trọng công tác tuyên truyền; xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, tạo khí thế sôi nổi. Nội dung xây dựng, phát triển nền văn hóa được đưa vào và nhấn

Page 2: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

mạnh trong chương trình công tác của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp; được kiểm điểm hằng năm, từng nhiệm kỳ Đại hội Đảng.

15 năm qua, Trung ương đã sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX ban hành Kết luận tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5. Ban Bí thư khóa IX ban hành Chỉ thị 42-CT/TW ngày 25-8-2004 về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản, Chỉ thị 49-CT/TW ngày 21-2-2005 về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007… Bộ Chính trị khóa X ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 về văn hóa, nghệ thuật; Kết luận 51-KL/TW ngày 22-7-2009 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12-1-1998 của Bộ chính trị khóa VIII về cưới, tang, lễ hội. Ban Bí thư khóa X ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 về chống sản phẩm văn hóa độc hại; Quy định số 284-QĐ/TW ngày 5-2-2010 về tiêu chuẩn, cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật… Sau khi Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được ban hành, Quốc hội thông qua một số luật về văn hóa (Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hóa, Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo…), Chính phủ xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết và ra nhiều văn bản chỉ đạo, quản lý, tổng kết 10 năm phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”…

Căn cứ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cấp ủy Đảng, chính quyền ban hành các văn bản chỉ đạo, quản lý; tiến hành kiểm điểm, sơ kết, tổng kết; đề ra chủ trương, giải pháp mới tổ chức thực hiện Nghị quyết. Trong nhiệm kỳ khóa X, Đảng ta phát động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Bước sang nhiệm kỳ khóa XI, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 về tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Ban Thường vụ cấp ủy Đảng các cấp đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI, góp phần làm cho tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa thấm sâu vào cuộc sống. Ban Chấp hành Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trong đó đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu khắc phục, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

2

Page 3: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương, ngày 7-2-2012, Ban Bí thư giao Ban Tuyên giáo Trung ương chuẩn bị báo cáo: “Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII   về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Ban Tuyên giáo Trung ương đã hướng dẫn các cấp tổng kết, bám sát nội dung nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII để kiểm điểm; kết hợp đánh giá việc thực hiện một số nghị quyết, chỉ thị của Trung ương liên quan đến văn hóa. Tháng 11-2012, Ban Bí thư thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Báo cáo tổng kết. Ban chỉ đạo đã tổ chức nhiều đợt khảo sát, dự hội nghị tổng kết ở ngành, đoàn thể, địa phương. Các tỉnh, thành ủy chỉ đạo tổng kết điểm ở cấp huyện. Đến tháng 6-2013, các ngành, đoàn thể và 63 tỉnh thành đã tổ chức xong việc tổng kết 15 năm thực hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Nhìn chung việc tổng kết  Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được triển khai nghiêm túc. Phần lớn các báo cáo tổng kết đã bám sát 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn nêu trong Nghị quyết, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh yếu kém, khuyết điểm, đưa ra các giải lớn khắc phục và định hướng phát triển văn hóa trong thời gian tới. Nhiều kinh nghiệm hay, mô hình tốt trong hoạt động văn hóa được đúc kết và nhân rộng. Việc biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có nhiều nổ lực và thành tích đã động viên, cổ vũ cán bộ, nhân dân phát huy tích cực, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ văn hóa trong thời gian tới. 75 cơ quan trung ương và địa phương gửi báo cáo về Ban Chỉ đạo. Căn cứ báo cáo của các đơn vị, Ban Chỉ đạo đã xây dựng dự thảo Báo cáo tổng kết, tổ chức hơn 30 cuộc tọa đàm với các cơ quan, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học để lấy ý kiến đóng góp, gửi lấy ý kiến của các ban, ngành, địa phương (có 15 cơ quan Trung ương, 37 địa phương góp ý) để tiếp tục hoàn chỉnh phục vụ Hội nghị toàn quốc việc tổng kết 15 năm thực hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII do Ban Bí thư tổ chức (tháng 1-2014). Sau Hội nghị toàn quốc, Ban Chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện Báo cáo, gửi lấy ý kiến các ban, ngành, đoàn thể, địa phương lần thứ hai. Đến ngày 26-3-2014, có 19 cơ quan ở Trung ương và 41 tỉnh ủy, thành ủy đã gửi văn bản góp ý để hoàn chỉnh Báo cáo. Ngày 27-3-2014, Bộ Chính trị đã họp, nghe Ban Chỉ đạo báo cáo và cho ý kiến hoàn chỉnh Báo cáo trình Ban chấp hành Trung ương.

Các ý kiến đóng góp của các cơ quan Trung ương, địa phương, của Hội nghị toàn quốc và ý kiến của Bộ Chính trị nhất trí với nội dung Báo cáo và

3

Page 4: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

thống nhất cao kiến nghị của Ban Chấp hành Trung ương ban hành nghị quyết mới về văn hóa.

Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (tháng 5-2014), qua thảo luận tại tổ và hội trường, các đồng chí Trung ương có 147 lượt ý kiến góp ý Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa. Đa số ý kiến cho rằng, báo cáo được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, đầy đủ, hệ thống, toàn diện, khách quan, cung cấp nhiều thông tin, số liệu có sức thuyết phục. Trung ương đã nhất trí cao việc ban hành nghị quyết mới về văn hóa. Ngày 9-6-2014, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa đất nước.

2. Sự cần thiết ban hành Nghị quyết Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, bằng ý chí và quyết tâm của cả hệ thống chính trị và nỗ lực, tự giác của các tầng lớp nhân dân, các lĩnh vực văn hóa của nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Trên cơ sở đánh giá 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã nhất trí cao về việc cần thiết ban hành nghị quyết mới với những lý do sau:

- 15 năm qua, tình hình đất nước ta và thế giới có nhiều thay đổi. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa đã ban hành khi nước ta mới bước vào kinh tế thị trường giai đoạn đầu, chưa thấy hết mặt trái của cơ chế thị trường, có nhiều vấn đề phát sinh mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII chưa đề cập. Vì vậy, cần bổ sung và sắp xếp, hoàn thiện các chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp cho phù hợp.

- Nước ta đang hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa và sự bùng nổ các phương tiện truyền thông, nhất là mạng internet, đã tác động to lớn, sâu sắc trên đến nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có những quan điểm chỉ đạo và chủ trương, giải pháp mới về xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người.

- Cùng với sự phát triển nhiều mặt của đất nước, bên cạnh ưu điểm, thành tựu rất cơ bản, thực trạng văn hóa nước ta cũng xuất hiện một số mặt

4

Page 5: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

phức tạp, bức xúc, đang suy thoái rất nghiêm trọng, nhất là về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; sự xâm nhập các sản phẩm, dịch vụ độc hại, tác động đến nhiệm vụ xây dựng con người, cần được bổ sung về mặt lý luận và đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị để khắc phục.

- Nước ta đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng phát triển hợp lý chiều rộng và chiều sâu; quá trình đó liên quan mật thiết đến đổi mới tư duy, cách làm và huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực cho sự nghiệp văn hóa.

- Yêu cầu phát triển đất nước bền vững trong những năm tới cũng đặt ra vấn đề mới về văn hóa, nhất là phải có nhận thức mới về vai trò của văn hóa trong phát triển.

Do vậy, việc tổng kết đánh giá một chặng đường thực hiện  Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII là xuất phát từ yêu cầu khách quan, qua tổng kết thực tiễn nhằm “làm mới” nhận thức, từ đó chủ động, tích cực, trên tinh thần đổi mới, sáng tạo, đề xuất, bổ sung các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm dà bản sắc văn hóa dân tộc trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Tên gọi của Nghị quyết mới là “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Tên gọi như vậy vừa kế thừa được nội hàm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, vừa nêu được vấn đề mới mà Trung ương đặc biệt quan tâm – nhân tố con người và sự phát triển bền vững đất nước. Như đã biết, nói về văn hóa cũng nói về con người, vì văn hóa là của con người, do con người, vì con người. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít trường hợp đã hiểu sai lệch, coi văn hóa là những công việc, những hoạt động trên lĩnh vực văn hóa (như múa hát, biểu diễn, lễ hội…), không tập trung cho mục tiêu trọng tâm, cốt lõi là xây dựng con người. Chính vì vậy, trong Nghị quyết Trung ương lần này có thêm một quan điểm khẳng định vấn đề trọng tâm, cốt lõi của xây dựng văn hóa là xây dựng con người. Thêm từ “Con người” vào tên Nghị quyết để nhấn mạnh, khẳng định. Để tổ chức thực hiện đưa nội dung nghị quyết vào cuộc sống, Trung ương yêu cầu:

5

Page 6: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

- Các cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức việc học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết.

- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hệ thống pháp luật về văn hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện.

- Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản dưới luật; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện và kịp thời điều chỉnh các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp với yêu cầu thực tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.

- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung tổ chức quán triệt, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.

II. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH 15 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5 KHÓA VIII VỀ VĂN HÓA

1. Ưu điểm, kết quả

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng.

Tư duy về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Nhiều vấn đề văn hóa được nhìn nhận sâu hơn. Nhiệm vụ xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội được đặt trong mối tương quan với các nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xây dựng Đảng.

Vai trò của văn hóa ngày càng được thể hiện rõ hơn trong cuộc sống xã hội, trong việc xây dựng con người, sức sống, nhiều giá trị bền vững của văn hóa dân tộc được phát huy trong thời kỳ đổi mới. Văn hóa là một nội dung quan trọng trong hoạt động của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, được quan tâm hơn về chủ trương, chính sách, nguồn lực và từng bước có sự gắn kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị. Từ năm 1998 đến 2013, có 6 nghị quyết, 14 chỉ thị, 9 kết luận,

6

Page 7: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

thông báo, quy định của Đảng; 12 luật, 3 pháp lệnh của Quốc hội; 95 nghị định, nghị quyết của Chính phủ; 113 chỉ thị, quyết định của Thủ Tướng; 169 thông tư; 292 chỉ thị, quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liên quan trực tiếp đến văn hóa. Nhìn chung, kiến thức, tư duy về văn hóa có bước phát triển. Nhận thức về vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa có bước tiến bộ rõ so với trước. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đã coi trọng hơn các giá trị văn hóa.

Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng; dân trí được nâng lên; quyền con người được tôn trọng. Nhà nước quan tâm hơn đến an sinh, công bằng xã hội trên một số lĩnh vực. Con người Việt Nam năng động, sáng tạo hơn. Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Đại đoàn kết dân tộc, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân dân và các chủ thể văn hóa được phát huy, tạo sức mạnh nội sinh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Đạo đức xã hội được nhìn nhận, đánh giá trên nhiều bình diện mới: Khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng, tôn trọng pháp luật, quy ước của cộng đồng dân cư… Xuất hiện nhiều tấm gương đạo đức tốt đẹp, sống lương thiện, đề cao trách nhiệm, lương tâm vì lợi ích của cộng đồng, xã hội, đất nước, mạnh dạn đấu tranh phê phán cái xấu, cái ác, cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Lối sống phù hợp với tuần phong, mỹ tục nhưng phải đáp ứng với nhịp sống công nghiệp và hội nhập quốc tế. Những tiêu chí đánh giá về đạo đức xã hội đã có một số thay đổi theo hướng phù hợp với kinh tế thị trưởng, mở cửa và hội nhập.

Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú. Môi trường văn hóa đạt được một số tiến bộ. Việc xây dựng gia đình, làng, bản, khu phố, công sở, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, từng bước tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại được quan tâm hơn. Đời sống văn hóa miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa có mặt được cải thiện. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang được nhân dân đồng tình, có một số tiến bộ. Xuất hiện một số lễ hội mới: Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18-11 hằng năm) ở khu dân cư và Hội Nghệ nhân dân gian ở miền núi phía Bắc… Cuộc vận động xây dựng những quỹ tình nghĩa, quỹ vì người nghèo, chăm sóc thương binh liệt sĩ, người có công, nạn nhân chất độc da cam… đã khơi dậy tinh thần đonà kết và nét đẹp văn hóa ở mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Có sự gắn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở với

7

Page 8: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới và công tác giữ gìn an ninh, trật tự, cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn.

Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng… Chính phủ tổ chức Ban chỉ đạo Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở các cấp, kịp thời chỉ đạo, ban hành cơ chế, chính sách thúc đảy phong trào phát triển rộng khắp, đã cổ vũ, huy động được sức dân chăm lo xây dựng đời sống văn hóa tại cơ sở. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và cuộc vận động xây dựng “Gia đình văn hóa” đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ, xuất hiện những điểm sáng văn hóa ở cơ sở (huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu…). Có sự chuyển biến trong việc đề cao giá trị gia đình trong giáo dục nhân cách. Nhà nước lấy ngày 28-6 hằng năm là Ngày Gia đình Việt Nam. Các phong trào xây dựng con người mới với các chuẩn mực cụ thể của từng ngành, từng địa phương được triển khai, cụ thể hóa năm đức tính cơ bản của con người Việt Nam nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII thành những chuẩn mực, đặc trưng phù hợp với từng ngành, từng địa phương. Biểu dương nhiều gương người tốt, việc tốt. Đến tháng 12-2012, cả nước có 70,8% gia đình được công nhận gia đình văn hóa; trên 1,3 triệu “người tốt, việc tốt” được suy tôn ở các cấp, 67,1% làng, bản, ấp văn hóa, tổ dân phố văn hóa được công nhận; 57,9% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 61% khu dân cư đạt chuẩn danh hiệu khu dân cư văn hóa. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, nhân đạo, từ thiện… được đẩy mạnh, tạo sự gắn kết cộng đồng, tăng cường nội lực tinh thần của xã hội. 12 năm (từ năm 1996 đến ngày 31-12-2012), cả nước vận động được 8.568,3 tỷ đồng vào Quỹ vì người nghèo ở bốn cấp.

Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa.  Hoạt động văn hóa đã khai thác tốt hơn nguồn lực xã hội, từng bước đáp ứng yêu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của người dân. Vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng các dân tộc và công đồng dân cư từng bước được khơi dậy. Các thiết chế văn hóa được xây dựng, bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau, đa dạng loại hình, sở hữu. Đến ngày 1-1-2013, 100% đơn vị cấp tỉnh, 78,2% đơn vị cấp huyện, 44,8% đơn vị cấp xã, 46% làng, bản, tổ dân phố trong cả nước xây dựng được thiết chế nhà văn hóa.

8

Page 9: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Văn học, nghệ thuật tiếp tục phát triển, với dòng mạch chính là yêu nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, phản ánh chân thực cuộc sống; có nhiều tìm tòi về đề tài, phương pháp sáng tác, hình thức diễn đạt. Quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng, tăng đáng kể về số lượng và bước đầu có chuyển biến về chât lượng; có một số tác phẩm, công trình có giá trị phản ánh lịch sử dân tộc và các cuộc kháng chiến chống xâm lược. Nhiều tư liệu quý trong văn hóa truyền thống được sưu tầm, tư liệu hóa. Ý thức chính trị, trách nhiệm công dân của phần đông văn nghệ sĩ được phát huy. Tiếng nói phản biện xã hội của văn học, nghệ thuật có một số mặt mạnh mẽ hơn trước, phát hiện, cảnh báo, phê phán cái xấu, cái ác, góp phần xây dựng nhân cách, đề caophẩm giá con người. Từ năm 1996 đến năm 2012, qua bốn đợt xét có 102 tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh; qua ba đợt xét có 458 tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật đạt Giải thưởng Nhà nước. Từ năm 1984 đến năm 2012, qua bảy đợt xét có 266 nghệ sĩ nhân dân, 1.934 nghệ sĩ ưu tú được Nhà nước phong tặng. Đội ngũ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước phát triển, xuất hiện nhiều văn nghệ sĩ trẻ ở nhiều loại hình. Theo báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến cuối năm 2011, tổng số nhân lực hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch trên toàn quốc là 505.393 người. Cả nước có gần 4 vạn nghệ sĩ là hội viên các hội văn học nghệ thuật ở Trung ương và địa phương, trong đó trên 1,4 vạn hội viên các hội ở Trung ương. Bước đầu đã hình thành thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, nghệ thuật. Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Cuộc đấu tranh phản bác các luận điểm, luận điệu sai trái trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ được coi trọng hơn. Giao lưu, hợp tác quốc tế về văn học, nghệ thuật được mở rộng, tổ chức nhiều sự kiện văn học, nghệ thuật có tính quốc tế. Công bố, quảng bá được nhiều công trình, tác phẩm tiêu biểu của văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu khá nhanh giá trị văn hóa, văn học, nghệ thuật thế giới vào Việt Nam.

Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước phát triển; trình độ học vấn, kỹ thuật, công nghệ của nhân dân, nhất là giới trẻ, được nâng lên; nâng cao dân trí, phát triên nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa và con người Việt Nam trước yêu cầu mới. Có chuyển biến bước đầu trong việc xây dựng xã hội học tập và giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa. Xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ, từng bước đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngân sách

9

Page 10: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh, đạt tỷ lệ 20% GDP. Huy động được nguồn lực trong xã hội thông qua xã hội hóa đầu tư cho giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 40%, góp phần quan trọng đưa đất nước ta thoát khỏi nước nghèo. Hình thành hệ thống các trường văn hóa nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương; có một số cố gắng trong đào tạo sau đại học để tạo nguồn lực có trình độ cao. Đưa nội dung chỉ đạo, quản lý văn hóa vào chương trình đào tạo trong các trường chính trị.

Khoa học xã hội và nhân văn quan tâm đi sâu nghiên cứu những vấn đề, lý luận và thực tiễn của đất nước, góp phần cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam… Khoa học kỹ thuật, công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm, đưa một số ngành công nghiệp phát triển nhanh (viễn thông, giống mới trong nông nghiệp, kỹ thuật mới trong y học…) tiếp cận trình độ khu vực và thế giới.

Công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ,  nội dung phong phú, cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ không ngừng được hiện đại hóa, tận dụng được công nghệ mới. Tính đến tháng 12-2013, cả nước có 199 cơ quan báo, 639 tạp chí, 4 đài phát thanh truyền hình trung ương, 67 đài phát thanh truyền hình địa phương, với tổng 198 kênh truyền hình, 64 nhà xuất bản. Đội ngũ nhà báo tăng đáng kể về số lượng với gần 17.000 người hoạt động báo chí được cấp Thẻ Nhà báo. Phần lớn các cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, định hướng chính trị, phản ánh nhanh nhạy, sinh động công cuộc đổi mới đất nước, góp phần mở rộng dân chủ, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Từ một nước thiếu sách, Việt Nam đã xây dựng được nền xuất bản độc lập và tự chủ, đáp ứng cơ bản nhu cầu đọc trong nước và bước đầu xuất khẩu ra nước ngoài. Coi trọng thông tin đối ngoại, hướng tới kiều bào ta ở nước ngoài và nhân dân thế giới, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ta thế giới. Người dân có nhiều cơ hội lựa chọn, tiếp nhận thông tin, tri thức (năm 2012, tỷ lệ hộ gia đình được nghe đài phát thanh là 99,5%, được xem đài truyền hình là 99,5%, số người sử dụng mạng internet đạt 35% dân số, đạt 3,4 đầu sách/người/năm), qua đó góp phần rút ngắn khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền…Nhiều di sản văn hóa vật thể và

10

Page 11: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được giữ gìn, phát huy, kết hợp với văn hóa đương đại. Có chuyển biến tích cực trong công tác bảo tồn di tích. Đến tháng 12-2013, số di tích được xếp hạng gồm: 48 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 3.202 di tích cấp quốc gia, 7.484 di tích cấp tỉnh, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên được UNESCO vinh danh là di sản thế giới, trong đó Vịnh Hạ Long được bầu chọn là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, trong đó có chống xuống cấp di tích: giai đoạn 2001-2005 chống xuống cấp 533 lượt di tích; giai đoạn 2006-2010 chống xuống cấp 1.218 lượt di tích; giai đoạn 2011-2013 chống xuống cấp 904 lượt di tích; tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế hỗ trợ kinh phí, kinh nghiệm tu bổ di tích tại Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Hiện có 135 bảo tàng (120 bảo tàng công lập), với hơn 3 triệu tài liệu, hiện vật. Chú ý nhiều hơn đến công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật  thể: thống kê lập hồ sơ 13.440 di sản; 10 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh; 49 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục Quốc gia. Lấy ngày Giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 (âm lịch) hằng năm là Ngày Quốc lễ của dân tộc. Phục hồi và phát huy lễ hội truyền thống, làng cổ, làng nghề của các dân tộc. Ý thức của người dân hướng về cội nguồn và khả năng huy động được các nguồn lực trong nhân dân giữ gìn, phát huy di sản văn hóa dân tộc tăng lên. Có chuyển biến trong xúc tiến quảng bá, giới thiệu các di sản văn hóa dân tộc ra nước ngoài, góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch gắn với di sản văn hóa. Năm 2013, Việt Nam đón trên 7 triệu lượt khách quốc tế.

Nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng. Văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc được quan tâm sưu tầm, phổ biến. Đội ngũ tri thức, văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số tăng về số lượng và nâng dần về chất lượng. Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa thực hiện một số dự án trọng điểm: Bảo tồn làng bản tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của dân tộc thiểu số…Tăng cường các hoạt động giao lưu, giới thiệu, quảng bá, tôn vinh văn hóa các dân tộc, như tổ chức ngày hội văn hóa vùng, ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc Mông, Chăm, Khmer…Xác lập ngày 19-4 hằng năm là Ngày Văn hóa các dân tộc. Nhà nước đầu tư dự án sưu tầm, công bố sử thi Tây Nguyên; dự án công bố, phổ biến tài sản văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam giai đoạn 2007-2012. Gần 100% số xã vùng dân tộc, miền núi có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt  cộng đồng hoặc điểm bưu điện- văn hóa hóa xã.

11

Page 12: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Nhân rộng mô hình dạy chữ dân tộc ở một số vùng đồng bào Khmer, Chăm, Thái, Ê Đê, Mnông, Hoa…và mô hình nghệ thuật nhân dân gian (Hà Giang).

Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được bảo vệ và bảo đảm trên thực tế. Hoạt động văn hóa tôn giáo được phục hồi, phát triển đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống con người Việt Nam. Cơ quan quản lý nhà nước đã kiên quyết đấu tranh với các hoạt động tôn giáo trái pháp luật. Hoạt động văn hóa từng bước thích ứng dần với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, bổ sung, góp phần tạo hành lang pháp lý cho hoạt động và sáng tạo văn hóa, thiết lập trật tự, kỷ cương, ngăn chặn sự “xâm nhập” của sản phẩm độc hại từ bên ngoài. Một số văn bản luật quan trọng như: Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hóa, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh…được quốc hội thông qua. Ban hành kịp thời nhiều chiến lược phát triển: văn hóa, gia đình, thể thao, du lịch…và các quy hoạch cho từng lĩnh vực văn hóa góp phần điều chỉnh và định hướng phát triển cho từng gia đoạn. Hoàn thành một số đề án nhằm thể chế hóa các nội dung cơ bản của Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị khóa X về văn hóa, nghệ thuật. Hầu hết các cơ quan, đơn vị, trường học, nghệ thuật. Hầu hết các cơ quan, đơn vị, trường học, địa bàn dân cư xây dựng quy ước, hương ước, quy định thực hiện nếp sống văn minh, văn hóa tại cơ sở.

Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa; xây dựng thêm nhiều công trình văn hóa theo hướng xã hội hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, như: Hệ thống nhà văn hóa thôn, bản, bưu điện – văn hóa xã, nhìn chung được xây dựng trong khắp cả nước; đã xây dựng một số công trình văn hóa có quy mô lớn ở trung ương và địa phương (sân vận động Mỹ Đình, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Hà Nội, Thư viện Quốc gia, Trung tâm Chiếu phim Quốc gia, Bảo tàng Tây Nguyên, Nhà văn hóa tỉnh Khánh Hòa, một số tượng đài…); có sự đổi mới trong quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa ở một số thiết chế  văn hóa các

12

Page 13: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

thành phố lớn. Chính sách, pháp luật văn hóa bước đầu đã bắt nhịp những vấn đề mới đặt ra trong kinh tế thị trường về văn hóa, thoát dần tư duy bao cấp, hành chính hóa. Xuất hiện ngày một nhiều các thiết chế văn hóa (bảo tàng, thư viện, khu văn hóa giải trí, khu thể dục, thể thao…) ngoài công lập.

Tỷ lệ chi cho văn hóa ở trung ương cơ bản bảo đảm được tỷ lệ 1,8% tổng chi ngân sách ở trung ương theo Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khoa IX đặt ra. Tổng mức đầu tư  của Nhà nước cho Chương trình mục tiêu giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước.

Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ  có bước trưởng thành. Công tác đào tạo cán bộ và chuẩn bị nhân lực cho hoạt động văn hóa được quan tâm hơn. Cả nước có 33 trường đại học, 47 trường cao đẳng; 27 trường trung cấp có đào tạo nhân lực hoạt động văn hóa. Số trường đào tạo nguồn cán bộ văn hóa tăng và được đầu tư cơ sở vật chất. Ngành đào tạo đa dạng, chú ý tới nhiều ngành học mới nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Số lượng cán bộ được đào tạo lại và đào tạo sau đại học mỗi năm một tăng. Xã hội hóa đào tạo nguồn nhân lực văn hóa ngày một mở rộng. Các chức danh cán bộ được chuẩn hóa. Cán bộ nguồn được đưa vào quy hoạch. Quan tâm hơn công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ hoạt động văn hóa và đào tạo tài năng văn hóa, văn nghệ. Nhiều học sinh giỏi được gửi đi đào tạo ở ngoài nước. Chương trình văn hóa, văn nghệ được đưa vào giảng dạy cho các cán bộ trong hệ thống trường chính trị. Nhiều cán bộ văn hóa được đi tham quan, học hỏi ở ngoài nước. Cấp xã đã bố trí một công chức theo dõi lĩnh vực văn hóa.

Coi trọng xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị. Ban hành một số nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng (Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về công tác xây dựng Đảng; Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27-3-2003 của Ban Bí thư khóa IX về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7-11-2006 của Bộ Chính trị khóa X và Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị khóa XI về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “một số văn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”…) và việc thực hiện đã dần vào nền nếp, đạt một số kết quả bước đầu và tạo chuyển biến trong Đảng và trong xã hội.

Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc, góp phần giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa

13

Page 14: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

nhân loại, cùng với quá trình da phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước. Các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài đã đóng góp tích cực vào việc quảng bá văn hóa Việt Nam. Việc thành lập Trung tâm văn hóa ở nước ngoài là một nỗ lực đúng hướng của Nhà nước ta. Nhiều sự kiện văn hóa quốc tế có quy mô lớn đã được tổ chức ở Việt Nam và sự kiện văn hóa Việt Nam tổ chức ở nước ngoài gây được tiếng vang, tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè về truyền thống văn hóa, nghệ thuật văn hóa, nghệ thuật Việt Nam.

2. Khuyết điểm, hạn chế

Tuy nhiên, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh,  đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh; thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị; giữa các lĩnh vực của văn hóa. Việc xây dựng và phát triển văn hóa mới tiến hành chủ yếu trong lĩnh vực hoạt động văn hóa. Nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế còn nặng nề về tìm lợi ích kinh tế, coi nhẹ nhân tố văn hóa, con người và môi trường.

Văn hóa chưa thật sự trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển. Đời sống văn hóa chưa giảm. Không khí dân chủ, cởi mở, nói thẳng, nói thật còn hạn chế ở một số lĩnh vực; đồng thời cũng xuất hiện tình trạng lợi dụng sự công khai, dân chủ để tán phát những thông tin, sản phẩm văn hóa không lành mạnh, lệch lạc với các chuẩn mực đạo đức và văn hóa. Chưa thành công trong việc xây dựng con người, xây dựng hệ giá trị mới của văn hóa Việt Nam, nhất là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống.

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội. Năm 2012, cả nước xảy ra 8.820 vụ vi phạm pháp luật (tăng 231 vụ so với năm 2011) do 13.300 trẻ em, người chưa thành niên gây ra. Trong đó, độ tuổi từ 14 đến 16 chiếm 31,9% và từ 16 đến 18 chiếm 61,1%; tập trung nhiều nhất ở bậc trung học cơ sở (41,8%), sau đó là trung học phổ thông (31,9%).

Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm đã gây tổn hại đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của

14

Page 15: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

nhân dân đối với Đảng và chế độ. Nhiều giá trị truyền thống, đạo đức nghề nghiệp không còn được coi trọng như trước đây, có mặt bị mai một, đảo lộn; những giá trị mới chưa hình thành hoặc chưa bền vững ảnh hưởng tiêu cực đối với định hướng giá trị nhân cách; chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền có xu hướng gia tăng, chi phối đời sống xã hội, gây hậu quả xấu đối với việc xây dựng con người và môi trường văn hóa. Đạo đức nghề nghiệp sa sút trên nhiều lĩnh vực, cả lĩnh vực vốn vốn được xã hội tôn vinh: Y tế, giáo dục, luật pháp, báo chí…Lý tưởng chung và động cơ cá nhân ngày càng có khoảng cách, làm gia tăng lối sống thực dụng, cơ hội, vụ lợi, buông thả và sính ngoại trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có chức, có quyền đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giáo dục lý tưởng,  nhân cách thế hệ trẻ. Chưa xây dựng, tập hợp được nhiều phong trào thi đua yêu nước trên các ngành, lĩnh vực, vùng miền để động viên tối đa tinh thần dân tộc, sức mạnh tổng hợp của xã hội cho phát triển văn hóa. Vẫn còn tâm lý trong chờ, ỷ lại vào Nhà nước trong một bộ phận nhân dân và các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của Nhà nước; chưa phát huy tính năng động, sáng tạo trong hoạt động văn hóa. Khả năng tự bảo vệ của văn hóa dân tộc trước sự xâm nhập của văn hóa nước ngoài còn hạn chế.

Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn  điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa ở không ít nơi bị xâm hại, thiếu lành mạnh. Việc giao lưu, tiếp thu văn hóa, lối sống từ bên ngoài thiếu chọn lọc. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo có biểu hiện sai lệch những giá trị nhân văn, hiện tượng lợi dụng ngoại cảm để trục lợi, các tệ nạn xã hội, tội phạm…có chiều hướng gia tăng. Theo báo cáo của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm, từ năm 1998 đến năm 2013, cả nước xảy ra 17.141 vụ giết người; 199.371 đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật; 30.862 gái mại dâm; 171.700 người nghiện ma túy. Lực lượng chức năng đã phát hiện bắt giữ 197.878 vụ với 321.087 đối tượng liên quan đến ma túy.

Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Các tệ nạn xã hội, sản phẩm văn hóa độc hại, sự biến tướng của nhiều lễ hội, phim ảnh, biểu diễn nghệ thuật thiên về giải trí, kích động bạo lực, thông tin sai trên các mạng xã hội, gây tâm trạng lo lắng, hoài nghi trong xã

15

Page 16: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

hội. Trong mối quan hệ đồng chí, đồng nghiệp, đồng đội…sự chân thành, quan tâm chia sẻ, giúp đỡ nhau không còn được như trước đây. Thay vào đó là tình trạng kèn cựa, bon chen, chạy chức, chạy quyền…đang lan rộng. Môi trường học đường ở nhiều nơi thiếu lành mạnh. Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn về đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng, khu công nghiệp vẫn chưa được khắc phục. Vai trò của gia đình trong việc giáo dục con cái bị coi nhẹ, với tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nhà trường và xã hội. Nhiều gia đình, bố mẹ không còn là tấm gương sáng cho con cái noi theo; tỷ lệ ly hôn, bạo lực gia đình, trẻ em vi phạm pháp luật gia tăng; việc phụ nữ lấy chống nước ngoài vì mục đích kinh tế còn diễn ra phức tạp ở một số tỉnh…Đời sống văn hóa của công nhân lao động ở các khu công nghiệp còn thiếu thốn, đặc biệt là các khu công nghiệp có yếu tố nước ngoài còn rất nghèo nàn.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” nhiều nơi còn mang tính hình thức. Công tác xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội chưa được quan tâm đúng mức, còn hình thức và nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tham gia vào hoạt động văn hóa với mục đích kiếm lời là chủ yếu, đã hạ thấp chức năng giáo dục, chưa chú ý đến trách nhiệm định hướng thẩm mỹ, hướng thiện, nhân văn. Nhiều dịch vụ, sản phẩm văn hóa trong nước thiếu sức cạnh tranh. Ý thức chấp hành pháp luật, giữ gìn, bảo vệ môi trường chưa cao.

Thành tựu sáng tạo văn hóa, nghệ thuật chưa nổi bật. Chất lượng tác phẩm văn học nghệ thuật chưa tương xứng với số lượng. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Lý tưởng và khát vọng sáng tạo còn hạn chế trong một số văn nghệ sĩ. Một số sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật chất lượng kém vẫn được in ấn, phát hành; nhiều sản phẩm đối trụy, độc hại của nước ngoài xâm nhập vào nước ta ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, lối sống và thuần phong mỹ tục. Hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp, nhất là điện ảnh, sân khấu đang đứng trước nhiều khó khăn, có nguy cơ sa vào khuynh hướng nghiệp dư hóa, giải trí, câu khách. Một số lĩnh vực nghệ thuật gặp khó khăn trong cơ chế thị trường và sa sút nghiêm trọng (văn hóa đọc, điện ảnh, sân khấu truyền thống…). Các loại hình nghệ thuật truyền thống bị mai một. Hoạt

16

Page 17: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác; tính định hướng, tính chiến đấu chưa cao; đấu tranh chống quan điểm sai trái chưa sắc bén, hiệu quả. Một bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ, người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa có khuynh hướng xa rời mục tiêu nhân văn, chạy theo thị hiếu thấp kém tạo ra những sản phẩm văn hóa chất lượng thấp, thâm chí độc hại. Một số văn nghệ sĩ đăng tải trên trang web, blog những tác phẩm có nội dung thiếu khách quan, bôi đen hiện thực cuộc sống, lật lại mặt trái những vấn đề của lịch sử dân tộc… tạo nên sự bức xúc trong dư luận xã hộ và nghệ sĩ. Còn nhiều hiện tượng vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan, thực hiện Luật Sở hữu trí tuệ chưa nghiêm. Một số chính sách đặc thù đối với văn nghệ sĩ đã lạc hậu nhưng chưa được nghiên cứu và chậm sửa đổi. Công tác tổng kết thực tiễn, phát triển bền vững đất nước còn yếu, chưa được coi trọng.

Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Nhiều sinh hoạt văn hóa dân tộc bị biến dạng trước tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường và văn hóa ngoại lai. Việc tôn tạo, trùng tu các di tích lịch sử - văn hóa ở một số nơi thực hiện chưa kịp thời, thiếu nghiêm túc, không tôn trọng các quy định hiện hành, dẫn đến sai phạm, gây bức xúc dư luận. Nguy cơ mai một, thất truyền di sản phi vật thể ngày càng cao. Một số loại hình văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán tốt đẹp của một số dân tộc thiểu số bị mai một. Sự trong sáng, thuần khiết của tiếng Việt đang bị xâm hại. Một số nơi phục hồi cả hủ tục, mê tín dụ đoan hoặc dàn dựng theo kiển sân khấu hóa, phô trương, hình thức, gây lãng phí, tốn kém. Việc đào tạo, truyền nghề cho thế hệ trẻ tiếp nối giữ gìn, phát huy di sản văn hóa dân tộc chưa được quan tâm đngs mức. Nhiều bảo tàng trùng lập về cấu trúc; thiếu bảo tàng chuyên ngành về khoa học kỹ thuật và nghệ thuật; nội dung hoạt động đơn điệu, hiệu quả xã hội thấp; việc tôn vinh nghệ nhân còn chậm. Các dự án bảo tồn thiếu sự tham gia của cộng đồng và các nhà khoa học. Việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có việc cưới, việc tang, lễ hội, có biểu hiện lệch lạc và bị lợi dụng để “thương mại hóa”, biến tướng thành hoạt động mê tín dị đoan.

Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, còn nhiều yếu kém, chưa trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện con người và đào tạo nhân lực, phát triển tài năng nhất là nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước. Giáo dục và đào tạo chủ yếu còn nặng về

17

Page 18: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

phương pháp truyền thụ, cung cấp kiến thức, chưa có nhiều biện pháp khuyến khích học tập sáng tạo, chưa chú trọng đúng mức giáo dục và hình thành nhân cách của con người. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc…chưa  được chú ý về nội dung và phương  pháp; giáo dục phổ thông mới quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy người”, nhất là về kỹ năng sống và “định hướng nghề nghiệp”. Chưa coi trọng giáo dục thẩm mỹ cho giới trẻ. Chất lượng giáo dục chưa đạt yêu cầu và không đồng đều giữa các vùng miền.

Khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên chưa có nhiều công trình, sản phẩm thực sự mang tính đột phá, đem lại hiệu quả cao. Khoa học xã hội, nhân văn chưa giải đáp kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đời sống đang đặt ra. Chưa quan đến tính văn hóa trong khoa học - công nghệ. Chưa nghiên cứu sâu những vấn đề đặt ra trong cuộc sống văn hóa hiện nay, như: Công nghiệp văn hóa, kinh tế trong văn hóa, khai thác dịch vụ văn hóa kết hợp với bảo tôn di sản…Triển khai nhiều để tài nghiên cứu nhưng việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn còn hạn chế.

Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ; thiếu sự nhạy bén chính trị, chỉ tập trung khai thác, phản ánh mặt tiêu cực của đời sống xã hội; đăng tải thông tin không chính xác, khách quan, thậm chí sai  sự thật, chạy theo khuynh hướng giật gân câu khách, tạo ra những sản phẩm yếu kém. Số lượng cơ quan báo chí, xuất bản không ngừng tăng nhưng hiệu quả xã hội chưa tương xứng, chưa quan tâm đúng mức yêu cầu giáo dục, xây dựng con người phát triển văn hóa. Hoạt động xuất bản đang gặp nhiều khó khăn, có nguy cơ thu hẹp. Tình trạng liên kết dễ dãi, thẩm định nội dung cẩu thả tạo ra những ấn phẩm yếu kém về nhiều mặt. Vai trò trách nhiệm của các cơ quan chủ quản báo chí, xuất bản chưa được phát huy. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí, xuất bản và phóng viên, biên tập viên yếu về năng lực chuyên môn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, đạo đức nghề nghiệp, thậm chí vi phạm pháp luật. Tình trạng “thương mại hóa” báo chí xuất bản chưa bị đẩy lùi, thậm chí còn lan rộng, có hiện tượng tư nhân núp bóng nhà nước để kinh doanh báo chí, xuất bản. Còn để lọt một số xuất bản phẩm có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

18

Page 19: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Các chính sách, đề án phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số vẫn thường đứng biệt lập, ít gắn kết với các chương trình, đề án phát triển về kinh tế - xã hội nên hiệu quả không cao, nguồn lực bảo đảm thực hiện còn hạn chế. Khoảng cách về mức hưởng thụ và sáng tạo văn hóa giữa các dân tộc, vùng sâu, vùng xa với khu vực đồng bằng và đô thị còn chênh lệch khá cao.

Chính sách văn hóa đối với tôn giáo chưa theo kịp tình hình phát triển tôn giáo. Sự định hướng xã hội về tín ngưỡng còn hạn chế dẫn đến tư tưởng duy tâm thần bí có xu hướng mở rộng trong xã hội. Xuất hiện một số đạo lạ hoạt động trái phép, tác động vào đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân. Môi trường văn hóa ở một số cơ sở thờ tự thiếu lành mạnh. Một số người lợi dung chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước tổ chức hoạt động kinh doanh văn hóa vụ lợi và truyền bá mê tín dị đoan tại các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Cá biệt có một số chức sắc tôn giáo kích động giáo dân đòi đất, lập tổ chức trái phép…

Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng, làm hạn chế việc dậy và phát huy tiềm năng văn hóa, các nguồn lực xã hội cho xây dựng và phát triển văn hóa. Chưa thực sự phát huy được vai trò chủ thể của người dân, của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số. Chưa xử lý kịp thời những vấn đề mới nảy sinh về văn hóa (công nghiệp văn hóa, thị trường văn hóa, văn hóa mạng, văn hóa cho giới trẻ…).

Năng lực dự báo, định hướng chiến lược của các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ còn nhiều hạn chế, lúng túng. Việc thể chế hóa chủ trương của Đảng về văn hóa còn chậm, thiếu đồng bộ (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X đến nay còn nhiều nội dung chưa thể chế hóa). Đối chiếu các đầu việc nêu ra trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoa VIII thì tất cả các đầu việc đều không thực hiện đúng thời gian đề ra. Có đầu việc chậm tới chục năm. Ví dụ Luật Quãng cáo dự kiến quý III năm 1999 ban hành thì tới năm 2012 Quốc hội mới thông qua. Một số lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật mới phát sinh chưa được bổ sung vào luật để quản lý. Nhiều chính sách đối với văn nghệ sĩ đã lạc hậu nhưng chậm đổi sửa đổi.

19

Page 20: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Việc quản lý, ngăn chặn thông tin, xuất bản phẩm yếu kém, độc hại chưa đạt yêu cầu. Còn để lễ hội diễn ra tràn lan, dịch vụ văn hóa biến tướng, hiệu quả văn hóa thấp. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý sai phạm trong thực hiện các chính sách, pháp luật về văn hóa chưa thường xuyên, liên tục.

Đầu tư cho văn hóa còn thấp, chưa tương xứng, còn dàn trải, gián đoạn, hiệu quả thấp, chưa xác định rõ trọng tâm ưu tiên. Chi cho văn hóa ở nhiều địa phương chưa bảo đảm tỷ lệ 1,8% tổng chi ngân sách ở địa phương. Nguồn lực của dân đầu tư  mất cân đối, chủ yếu cho các công trình văn hóa tâm linh. Chưa xử lý tốt mối quan hệ giữa đầu tư xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng với đầu tư nuôi dưỡng các giá trị văn hóa tinh hoa.

  Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Chưa có nhiều công trình văn hóa và khu vui chơi giải trí lớn; thiếu các điểm vui chơi giải trí cho trẻ em, cho công nhân làm việc tại khu chế xuất, khu công nghiệp. Chưa đánh giá được hiệu quả của mô hình nhà văn hóa cấp xã, điểm bưu điện-văn hóa xã. Nguồn nhân lực cho hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là ở tuyến cơ sở. Nội dung hoạt động đơn điệu, chậm đổi mới, chưa thu hút được đông đảo các tầng lớp xã hội tham  gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Năng lực chưa đủ mạnh để hội nhập quốc tế sâu hơn trên các hoạt động thuộc lĩnh vực thiết chế văn hóa. Nhiều sự kiện văn hóa chưa đem lại giá trị nhân văn tương ứng với đầu tư của Nhà nước và xã hội.

  Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, tham mưu, quản lý văn hóa các cấp chưa được đào tạo, bồi dưỡng đúng cách, bất cập cả về năng lực và kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ các cơ quan đảng theo dõi, chỉ đạo công tác văn hóa còn mỏng, một số hạn chế về trình độ, năng lực, kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số chưa nhiều, trình độ còn hạn chế. Chưa coi trọng công tác quy hoạch nguồn đội ngũ cán bộ ở cấp chiến lược bị hụt hẫng. Một số nơi còn coi nhẹ chuyên môn văn hóa, văn nghệ trong bố trí cán bộ chỉ đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ trong bố trí cán bộ chỉ đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ. Chậm ban hành chính sách đãi ngộ đối với trí thức văn hóa và văn nghệ sĩ có tài năng cống hiến cho sự phát triển văn hóa của quốc gia. Chính sách thu hút học sinh  năng khiếu vào các trường văn hóa,

20

Page 21: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

nghệ thuật chưa hấp dẫn. Thiếu quan tâm đến việc đầu tư để phát hiện, tuyển chọn và đào tạo tài năng về văn hóa, văn nghệ. Chất lượng đội ngũ cán bộ văn hóa ở cơ sở còn nhiều bất cập. Trình độ năng  lực đội ngũ cán bộ văn hóa, nhất là cán bộ ở cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

  Hoạt động giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài còn hạn chế cả về đầu tư nguồn lực, về tầm nhìn, tính hiệu  quả. Hình ảnh Việt Nam, văn hóa Việt Nam còn hạn chế ở khu vực và thế giới. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. Tỷ lệ chiếu phim nước ngoài trên các kênh truyền hình Việt Nam, ở trung ương và các địa phương không thực hiện đúng quy định. Việc chủ động giới thiệu các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật có chất lượng ra nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức khiến vị thế văn hóa, nghệ thuật Việt Nam trong các cuộc thi quốc tế chuyên nghiệp chưa được khẳng định xứng đáng.

  3. Nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế

  Những khuyết điểm, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân.

  3.1. Nguyên nhân khách quan:

  Sự biến đổi nhanh chóng, nhiều yếu tố mới, phức tạp của đời sống xã hội đã tác động nhiều, dẫn tới sự thụ động, lúng túng trong lãnh đạo, quản lý, tổ chức hoạt động văn hóa.

  Mặt trái của cơ chế thị trường, của toàn cầu hóa đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là lớp trẻ.

  Sự phát triển mạnh  mẽ và quốc tế hóa công nghệ thông tin, truyền thông, giải trí, tiêu dùng cùng với quá trình giao lưu văn hóa với nhiều mặt tích cực và cả những mặt tiêu cực đã tạo ra những thách thức, khó khăn lớn cho công tác lãnh đạo, quản lý và hoạt động văn hóa.

  Xuất phát điểm nền kinh tế nước ta còn thấp nên sự đầu tư của Nhà nước và xã hội cho sự nghiệp văn hóa chưa tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư. Điều kiện (trình độ dân trí, văn hóa, đời

21

Page 22: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

sống kinh tế…) không đồng đều giữa các vùng, miền, nhất là những khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.

  Các thế lực  thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, chống phá ta ngày càng quyết liệt.

  3.2. Nguyên nhân chủ quan

  - Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực văn hóa; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Không ít cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị- xã hội, kể cả ở cấp trung ương, chưa quán triệt đầy đủ những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, đặc trưng của văn hóa; hiểu văn hóa là những hoạt động văn hóa cụ thể, còn có biểu hiện lơi lỏng trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết. Chưa chú trọng đúng mức do không thấy hết tầm quan trọng của văn hóa đối với việc xây dựng con người, để cho tình hình tư tưởng, đạo đức, lối sống có nhiều mặt bị sa sút so với thời điểm ra đời Nghị quyết, để nhiều hoạt động văn hóa chạy theo thành tích, phô trương, thiếu chiều sâu nhân văn, thiếu tính bền vững.

  Những yếu kém, sai phạm, bức xúc về văn hóa chỉ đạo, giải quyết chưa quyết liệt, thiếu dứt điểm hoặc phương pháp xử lý không phù hợp, kém hiệu quả, thường nặng về biện pháp hành chính, pháp luật, nhẹ về vận động thuyết phục, cảm hóa, giáo dục. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị thiếu chặt chẽ, đồng bộ.

  - Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Do vậy, chưa động viên tối đa các cá nhân và chủ thể văn hóa tham gia vào sáng tạo và truyền bá văn hóa, ngăn chặn, đẩy lùi sản phẩm độc hại, tiêu cực.

  - Công tác quản lý Nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Phương thức lãnh đạo, quản lý của các cấp từ Trung ương đến địa phương về văn hóa chậm đổi mới, chưa thoát khỏi lối mòn mệnh lệnh, bao cấp, đơn giản; chưa lường hết tính phức tạp và những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

  - Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải.

22

Page 23: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

  - Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về văn hóa lúng túng, bất cập nên tính dự báo và định hướng bị hạn chế; chưa làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến văn hóa trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như những giá trị mới cần được xây dựng, trong xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và đương đại, dân tộc và quốc tế, bảo tồn và phát triển, văn hóa và kinh tế…

  - Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Việc  đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hoạt động văn hóa còn nhiều bất cập về cơ sở vật chất, kỹ thuật; về giáo trình, tài liệu; đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy và học. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ các cấp còn yếu về trình độ, năng lực, kinh nghiệm nên chưa làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp và chỉ đạo, quản lý các hoạt động văn hóa.

  4. Một số kinh nghiệm

  Một là,  Cần đặt  lên hàng đầu việc bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức, lối sống, lấy việc xây dựng nhân cách con người làm trọng tâm cốt lõi của phát triển văn hóa; chăm lo xây dựng con người một cách toàn diện, thiết thực; kiên quyết đấu tranh chống mọi tiêu cực xã hội làm tha hóa con người.

  Hai là,  tôn trọng, phát huy dân chủ, tính tích cực, sáng tạo, gắn với trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng dân cư; tôn trọng pháp luật và thuần phong mỹ tục của dân tộc; khắc phục tình trạng buông lỏng, hữu khuynh hoặc can thiệp thô bạo, mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo trong văn hóa.

  Ba là,  kịp thời thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với phát triển văn hóa; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt, không quan tâm các giá trị văn hóa.

  Bốn là, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành là nhân tố quyết định tạo niềm tin trong nhân dân, làm tấm gương văn hóa, đạo đức cho xã hội noi theo.

23

Page 24: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

  Năm là, coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý văn hóa, văn học, nghệ thuật, báo chí có phẩm chất, năng lực, tâm huyết và trách nhiệm.

  III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Dự báo những yếu tố tác động đến sự phát triển văn hóa nước ta

1.1. Những yếu tố thuận lợi

Hòa bình,  hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung. Thành tựu, kinh nghiệm của những năm đổi mới đã tạo cho đất nước sức mạnh tổng hợp lớn hơn. Nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn. Khoa học, công nghệ phát triển mạnh, thúc đẩy hình thành xã hội thông tin, tạo điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa. Sự phát triển các hình thức thể hiện mới về văn hóa, nghệ thuật (giao lưu trực tuyến, blog, văn học mạng, truyền hình thực tế, sách điện tử…) xã hội hóa hoạt động văn hóa; mở rộng, đa dạng, đa phương trong giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ thuật… đang tác động thúc đẩy các hoạt động văn hóa. Đồng thời với phát triển kinh tế, phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng con người, xây dựng gia đình đang là xu thế của thời đại. Các quốc gia trên thế giới chú trọng đến văn hóa với tư cách là “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Nước ta đang phấn đấu để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải phát huy sức mạnh nội sinh dân tộc, đặc biệt  là văn hóa dân tộc. Dân chủ xã hội ngày càng mở rộng. Các tầng lớp nhân dân tham gia ngày càng đông đảo, năng động, tích cực hơn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nước nhà trong cơ chế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, điện đại hóa và hội nhập quốc tế.

1.2.Những khó khăn và thách thức

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa khắc phục được. Cuộc đấu tranh cho chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc vẫn diễn biến phức tạp; tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải ngày càng gay gắt, khó lường. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, biến đổi khí hậu, mặt

24

Page 25: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

trái của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, công nghệ thông tin, sản phẩm độc hại tác động tiêu cực đến văn hóa, gây biến đổi các giá trị văn hóa truyền thông. Tâm lý bao cấp, thụ động; đội ngũ cán bộ quản lý và trình độ chỉ đạo, quản lý văn hóa bất cập; âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “tự chuyển hóa” xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân ngày càng phức tạp, tác động tiêu cực đến cả xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa.

2. Mục tiêu

Trong quá trình tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, nhiều ý kiến của các nhà quản lý, nhà khoa học cho rằng, cần xác định mục tiêu trước, sau đó mới đề ra các quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu. So với Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết lần này xác định rõ mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa và con người. Mục tiêu chung ngắn gọn, có tính khái quát cao thể hiện tư tưởng nêu trong Cương lĩnh của Đảng về xây dựng, phát triển “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” gắn với mục tiêu phát triển con người, phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

- Mục tiêu chung

Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Mục tiêu cụ thể

+ Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.

25

Page 26: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

+ Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách.

+ Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người thời kỳ dẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

+ Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam.

+ Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị  và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.

- Một số chỉ tiêu văn hóa đến năm 2020 được ghi trong các chiến lược phát triển ở các lĩnh vực của ngành văn hóa, thông tin do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: 100% số tỉnh, thành phố có đủ các thiết chế văn hóa; 90-100% số quận, huyện, thị xã có nhà văn hóa và thư viện; 80-90% số xã, thị trấn có nhà văn hóa; 60-70% số làng, bản, ấp có nhà văn hóa; phủ sóng truyền hình số mặt đất đạt 80% địa bàn dân cư; đạt 01 bản sách/mỗi người trong thư viện công cộng; đạt 05 bản sách/mỗi người/năm; đạt 01 lượt người/năm đến rạp xem phim điện ảnh; 100% di tích quốc gia đặc biệt, 70% di tích quốc gia được Nhà nước đầu tư bảo tồn; 70-80% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; 65-70% số làng, bản, khu phố đạt tiêu chuẩn làng, bản, khu phố văn hóa; 80% “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa” theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; cơ bản đưa các dân tộc thiểu số rất ít người (có số dân dưới 10.000 người ) ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp về văn hóa.

3. Quan điểm

Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, trong bối cảnh quốc tế và đất nước có nhiều biến đổi, đối chiếu nội dung Nghị quyết với thực tiễn, năm quan điểm nêu trong Nghị quyết về cơ bản vẫn còn giá trị, tuy nhiên cần nghiên cứu để bổ sung, phát triển và sắp xếp

26

Page 27: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

lại cho phù hợp hơn với giai đoạn hiện nay và sắp tới, nhất là về vấn đề con người. Quan điểm 1 trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định vị trí, vai trò của văn hóa. Vị trí của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vai trò của văn hóa là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XII của Đảng xác định quan điểm phát triển bền vững và đặt nhiệm vụ văn hóa gắn kết chặt chẽ với kinh tế, chính trị. Tiếp thu quan điểm nói trên, Nghị quyết lần này thay cụm từ “phát triển kinh tế- xã hội” bằng cụm từ “phát triển bền vững đất nước” và đưa thêm nội dung “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” để thống nhất nhận thức trong tổ chức thực hiện. Quan điểm 2 và quan điểm 3 đều nói về tính chất của nền văn hóa: Quan điểm 2 nói về tính tiên tiến và tính dân tộc; Quan điểm 3 nói về tính thống nhất, tính đa dạng; Hai quan điểm trên gộp làm một và bổ sung làm rõ đặc trưng “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”của nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng, sửa lại từ ngữ cho rõ nghĩa. Quan điểm 4 xác định lực lượng, vai trò của các chủ thể trong xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa. Nghị quyết lần này bổ sung thêm vai trò của Nhà nước và nhân dân. Quan điểm 5 nói về cách thức tiến hành, phương châm hành động, xử lý vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa trong thực tiễn được đưa vào nội dung nhiệm vụ và giải pháp. Như vậy, năm quan điểm trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được tổng hợp thành ba quan điểm. Nghị quyết lần này bổ sung hai quan điểm mới để chỉ đạo xây dựng con người, đặc biệt là xây dựng nhân cách, lối sống và chỉ đạo xây dựng môi trường văn hóa, con người trong mối tương quan với kinh tế.

Năm quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI như sau:

- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng  con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản; yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

27

Page 28: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.

- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

IV. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Từ 10 nhiệm vụ ở Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Nghị quyết lần này đề xuất sáu nhiệm vụ. Do Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nên Nghị quyết lần này không đề cập đến hai lĩnh vực trên như trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Xuyên suốt các nhiệm vụ của Nghị quyết là xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam. Với cách tiếp cận đặt văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế, chính trị và vấn đề mới xuất hiện trong xã hội. Nghị quyết có hai nhiệm vụ mới  là Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế và Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường  văn hóa, tạo điểm nhấn trong tổ chức thực hiện. Trong từng nhiệm vụ cụ thể cũng nêu nhiều vấn đề mới đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển văn hóa, con người hiện nay, như  xây dựng nhân cách, lối sống con người, con người với môi trường, văn hóa với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quản lý thông tin truyền thông, quyền tác giả và các quyền liên quan, quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ, xây dựng lý luận văn hóa, văn nghệ, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa…

Cụ thể sáu nhiệm vụ trong Nghị quyết như sau:

1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

28

Page 29: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trưởng định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự  trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.

Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng.

Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ững yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.

2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh

Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ  môi trường sinh thái. Đưa nội dung  giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội.

Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyến thống tốt đẹp, xây dựng gia đình

29

Page 30: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau. Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, giữa các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Tạo điều kiện để nhân dân chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng.

Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyên khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, "tốt đời, đẹp đạo".

Khuyến khích các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn", từ thiện, nhân đạo.

3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế

Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt, với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đối với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái vể tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên.

30

Page 31: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.

4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa   

Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc.

Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tê - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.

Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống; các giá trị văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng.

Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ánh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam.

31

Page 32: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật nhằm tập hợp, tạo điều kiện để văn nghệ sĩ hoạt động tích cực, hiệu quả. Khuyến khích nhân dân sáng tạo, trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.

Có cơ chế khuyến khích văn nghệ sĩ, nghệ nhân phát huy tài năng, năng lực sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật với ý thức đầy đủ về trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình. Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở cống hiến cho đất nước. Chú trọng phát triển năng khiếu và tài năng trẻ.

Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên mạng internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan báo chí, truyền thông chủ lực. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ chủ yếu; nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.

5. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa

Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt. Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển.

Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa.

Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền  liên quan trong toàn xã hội. Củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ quan thực thi quyền tác giả từ Trung ương đến địa phương.

32

Page 33: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

6. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại

Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiếu sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc.

Phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước, trở thành cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài.

Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.

Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài.

V. GIẢI PHÁP

Nghị quyết lần này đề xuất bốn nhóm giải pháp, trong đó có hai nhóm giải pháp mới: Nhóm giải pháp thứ nhất và nhóm giải pháp thứ ba. Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã chi rõ những khuyết điểm yếu kém trong xây dựng và phát triển văn hóa nước ta có nguyên nhân sâu xa từ nhận thức chưa sâu sắc, đầy đủ về vai trò, vị trí, đặc trưng của văn hóa nên cần thiết phải nhấn mạnh việc không ngừng nâng cao nhận thức, tiếp tục đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa, coi đó là khâu đột phá thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện các nhiệm vụ văn hóa trong tình hình mới. Thực tiễn cho thấy, qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý văn hóa ở các cấp chưa đạt kết quả như mong muốn, ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển văn hóa. Để giải quyết khâu này, cần có giải pháp tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới.

33

Page 34: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Bốn nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết như sau:

1. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng  và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.

Phải coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, mà nội dung quan trọng là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Văn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên là yêu cầu quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng.

2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa

Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.

Điều chỉnh  và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật. Bổ sung chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa

34

Page 35: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa; có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa.

Tăng cường công tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa.

Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường.

3. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa

Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.

Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Hình thành một số cơ sở đào tạo đại học, trên đại học trọng điểm, đạt chuẩn khu vực và quốc tế.

Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa.

Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng ngưòi có tài, có đức. Điều

35

Page 36: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.

4. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa

Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật, truyền thống cần bảo tồn, phát huy.

Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người.

Xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản...

Xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, các cơ quan, công sở, trường học, khu công nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư... có thiết chế văn hóa phù hớp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao...)

Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con người./.

____________________

Chuyên đề 2:

MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHUẨN BỊ TIẾN TỚI ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG

Cùng với việc thông qua và ban hành Nghị quyết “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI

36

Page 37: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

cũng đã cho chủ trương và định hướng về một số vấn đề quan trọng liên quan đến công tác xây dựng đảng, chính quyền và chuẩn bị tiến tới Đại hội XII của Đảng, trong đó có Quy chế bầu cử trong Đảng; việc lấy phiếu tín nhiệm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng; chỉ đạo tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XII của Đảng.

I. VỀ QUY CHẾ BẦU CỬ TRONG ĐẢNG

Thực hiện Điều lệ Đảng và chương trình công tác của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Bộ Chính trị đã chỉ đạo các ban tham mưu ở trung ương phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng Quy chế bầu cử trong Đảng cho phù hợp với thực tiễn công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới để trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định.

Quy chế bầu cử được xây dưng trên cơ sở các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổng kết việc thực hiện Quy chế bầu cử số 220-QĐ/TW ngày 17-4-2009 của Bộ Chính trị khóa X và đề xuất nội dung xây dựng dự thảo Quy chế bầu cử mới. Trong quá trình xây dựng Quy chế đã tổ chức hội thảo, thảo luận kỹ cả về bố cục cũng như nội dung, nhất là các vấn đề mới và ý kiến còn khác nhau.

Toàn văn dự thảo đã được lấy ý kiến các bí thư tỉnh ủy, thành ủy, bí thư ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tại hai Hội nghị do đồng chí Thường trực Ban Bí thư được Bộ Chính trị phân công chủ trì; đồng thời cũng được thảo luận, góp ý tại ba Hội nghị giao ban về công tác tổ chức xây dựng Đảng và hội nghị trưởng ban tổ chức một số tỉnh ủy, thành ủy khu vực phía Nam. Những ý kiến đóng góp đã được tập hợp, tiếp thu trong dự thảo Quy chế mà Bộ Chính trị đã trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị lần thứ tám và được Trung ương thảo luận, cho ý kiến để tiếp tục hoàn chỉnh.

Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, hầu hết ý kiến của các đồng chí Trung ương cho rằng: Quy chế được chuẩn bị kỹ, công phu, khoa học, chặt chẽ, ngắn gọn, dễ hiểu, có sự đổi mới, quy định cụ thế, sắp xếp lại một số điều hợp lý hơn, bổ sung nhiều nội dung mới, trên cơ sở kế thừa Quy chế hiện hành, tập hợp và tiếp thu đầy đủ ý kiến của nhiều địa phương, đơn vị. Bố cục các chương, điều, khoản được thế hiện chặt chẽ, nội dung dự thảo quy định vừa thế hiện dân chủ, vừa bảo đảm tính tập trung trong bầu cử của Đảng bao quát đầy đủ, chi tiết từ ứng

37

Page 38: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

cử, đề cử đến bầu cử tại đại hội (hội nghị) từ cấp chi bộ đến Ban Chấp hành Trung ương. Ý kiến còn khác nhau chủ yếu tập trung vào các nội dung: Tự ứng cử và nhận đề cử; về quy định số dư tối đa trong danh sách bầu cử và lập danh sách bầu cử.

Xác định Quy chế bầu cử trong Đảng là văn kiện quan trọng, cần có thời gian để chuẩn bị thêm, Ban Chấp hành Trung ương đã giao Bộ Chính trị chỉ đạo việc tiếp thu ý kiến Trung ương tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện dự thảo Quy chế để trình Hội nghị Trung ương 9 khóa XI. Tiếp thu ý kiến thảo luận tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI và thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, dự thảo Quy chế bầu cử trong Đảng (đã tiếp thu, chỉnh sửa) đã được gửi và đề nghị các ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương nghiên cứu, thảo luận tập thể để góp ý vào toàn văn dự thảo Quy chế; đồng thời, bỏ phiếu thể hiện chính kiến của các đồng chí ủy viên ban thường vụ, ủy viên ban cán sự đảng, đảng đoàn vào một số nội dung qua thảo luận ở Trung ương còn ý kiến khác nhau.

Tính đến ngày 30-1-2014 đã có 63/63 ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy có ý kiến đóng góp vào dự thảo Quy chế chiếm tỷ lệ 100% khối tố chức đảng theo địa bàn hành chính - lãnh thổ; đã có 43/58 các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương có ý kiến đóng góp chiếm tỷ lệ 74,1% khối tổ chức đảng được xin ý kiến ở Trung ương. Điều đó thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của các tổ chức đảng đối với văn kiện quan trọng này của Trung ương.

Sau đây là những nội dung cơ bản của Quy chế bầu cử trong Đảng đã được Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI thông qua:

1. Nguyên tắc xây dựng Quy chế bầu cử trong Đảng

- Tuân thủ Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, các quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

- Phù hợp với tình hình thực tiễn công tác xây dựng Đảng và yêu cầu bầu cử trong Đảng hiện nay; phù hợp với thẩm quyền ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng của Ban Chấp hành Trung ương.

38

Page 39: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

- Kế thừa những nội dung còn phù hợp của Quy chế bầu cử hiện hành, sửa đổi, bổ sung các nội dung không còn phù hợp, những vướng mắc phát sinh cần phải giải quyết để công tác bầu cử trong Đảng được thực hiện chặt chẽ, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

2. Về bố cục của Quy chế bầu cử trong Đảng

2.1. Quy chế bầu cử số 220-QĐ/TW ngày 17-4-2009 của Bộ Chính trị khóa X có 8 chương 33 điều; Quy chế bầu cử mới có 7 chương 38 điều, phù hợp với việc điều chỉnh toàn bộ hoạt động bầu cử trong Đảng. Kết cấu của Quy chế bầu cử mới như sau:

Chương I. Những quy định chung (có 3 điều).

Chương II. Nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử (có 5 điều).

Chương III. Ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử (có 10 điều).

Chương IV. Bầu các cơ quan, các chức vụ lãnh đạo của Đảng, bầu đại biểu dự đại hội cấp trên (có 13 điều).

Chương V. Tính kết quả và chuẩn y kết quả bầu cử (có 3 điều).

Chương VI. Xử lý vi phạm (có 3 điều).

Chương VII. Điều khoản thi hành (có 1 điều).

So với Quy chế bầu cử hiện hành, Quy chế bầu cử mới bỏ Chương quy định về đại biểu Đại hội (từ Điều 13 đến Điều 19); bỏ Điều 11 quy định về Ban thẩm tra tư cách đại biểu, vì các nội dung này đã được thể hiện trong Quy định thi hành Điều lệ Đảng số 45-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương.

2.2. Sắp xếp lại thứ tự các chương

Quy chế bầu cử mới đưa Chương III - Các tổ chức phụ trách việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử, lên Chương II và lấy tên là: Nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử cho phù hợp với nội hàm các quy định đã được sửa đổi, bổ sung của Chương này.

39

Page 40: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Tương tự như vậy, chuyển Chương II - Quyền ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử, xuống thành Chương III và lấy tên là: ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử cho phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ sung của các quy định trong Chương này.

2.3. Bổ sung 12 điều mới

- Điều 6. Nhiệm vụ của Đoàn thư ký đại hội.

- Điều 8. Áp dụng đối với việc bầu cử không phải tại đại hội.

- Điều 9. Ứng cử.

- Điều 11. Đề cử.

- Điều 13. Việc ứng cử, đề cừ của cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ, ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư.

- Điều 18. Danh sách trích ngang của các ứng cử viên.

- Điều 25. Bầu Bộ Chính trị.

- Điều 26. Bầu Tổng Bí thư.

- Điều 27. Bầu Ban Bí thư.

- Điều 28. Bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

- Điều 29. Bầu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

- Điều 31. Bầu bổ sung Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

2.4. Sửa đổi, bổ sung các điều

- Điều 10. Thủ tục ứng cử.

- Điều 12. Thủ tục đề cử của đảng viên và đại biểu đại hội.

- Điều 16. Quy định về số dư và danh sách bầu cử.

3. Những nội dung cơ bản của Quy chế bầu cử trong Đảng

3.1.  Chương I. Những quy định chung

40

Page 41: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Chương này quy định phạm vi điều chỉnh của quy chế, nguyên tắc bầu cử và hình thức bầu cử. Đây là những quy định chung làm cơ sở cho việc bầu cử trong Đảng.

- Điều 1: Đối tượng và phạm vi điều chỉnh.

Điểm mới của Điều này là: Quy chế bầu cử số 220-QĐ/TW do Bộ Chính trị khoá X ban hành được áp dụng từ cấp chi bộ đến các đảng bộ trực thuộc Trung ương. Quy  chế bầu cử lần này  do Ban Chấp hành Trung ương khoá XI ban hành được áp dụng đối với việc bầu cử từ cấp chi bộ đến Ban Chấp hành Trung ương để phù hợp với thẩm quyền  ban hành Quy chế của Ban Chấp hành Trung ương.

- Điều 2: Nguyên tắc bầu cử và Điều 3: Hình thức bầu cử.

Hai điều này cũng được bổ sung và diễn đạt lại cho phù hợp.

3.2. Chương II. Nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử (từ Điều 4 đến Điều 8)

Trên cơ sở  kế thừa  nội dung của Chương III Quy chế hiện hành với tên gọi: Các tổ chức phụ trách việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử, nội dung của Chương này bỏ quy định về Ban Kiểm tra tư cách đại biểu, tách quy định về Nhiệm vụ của Đoàn Thư ký thành một Điều mới (Điều 6) và bổ sung nhiệm vụ  của Đoàn Thư ký cho phù hợp.

Các quy định còn lại về: Nhiệm vụ của cấp uỷ triệu tập Đại hội (Điều 4); Nhiệm vụ của Đoàn Chủ tịch (Điều 5); Quy định về Ban Kiểm phiếu (Điều 7) cơ bản giữ như quy chế hiện hành.

3.3. Chương III. Ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử (Điều 9 đến Điều 18)

Tại Chương này, ngoài việc đổi tên và chuyển thứ tự Chương II xuống Chương III cho phù hợp với logic về bố cục, có các điểm mới sau:

3.1. Bổ sung Điều 9 quy định về ứng cử.

3.2. Bổ sung Điều 10 quy định về các thủ tục ứng cử.

3.3. Bổ sung Điều 11 quy định về đề cử.

41

Page 42: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

3.4. Bổ sung Điều 12 quy định về thủ tục đề cử.

3.5. Quy định cụ thể tại Điều 13 những trường hợp hạn chế quyền  ứng cử, đề cử.

3.6. Điều 16 quy định về số dư và danh sách bầu cử.

3.7. Bổ sung Điều 18 quy định về danh sách trích ngang của các ứng cử viên.

3.4. Chương IV. Trình tự bầu các cơ quan và các chức vụ lãnh đạo của đảng ở các cấp (từ Điều 19 đến Điều 31), có các nội dung chính là:

- Đề xuất danh sách nhân sự cấp uỷ khoá mới do cấp uỷ triệu tập đại hội chuẩn bị là danh sách đề cử chính thức của đoàn chủ tịch (Quy chế bầu cử hiện hành quy định danh sách nhân sự do cấp uỷ triệu tập đại hội chuẩn bị là danh sách để đại hội tham khảo).

- Quy định số dư tối đa trong danh sách bầu cử (Quy chế bầu cử hiện hành không quy định số dư tối đa, do vậy ở một số đại hội (hội nghị) danh sách bầu cử có số dư gấp nhiều lần số lượng cần bầu dẫn đến phân tán kết quả).

- Điều 19 quy định trình tự, thủ tục bầu cấp uỷ.

- Điều 22 quy định trình tự, thủ tục bầu ban thường vụ.

- Bổ sung điều mới, Điều 24, quy định về trình tự, thủ tục bầu Bộ Chính trị.

- Bổ sung điều mới, Điều 25, quy định quy trình bầu Tổng Bí thư.

- Bổ sung điều mới, Điều 26, quy định quy trình bầu Ban Bí thư.

- Bổ sung điều  mới, Điều 28, quy định bầu Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.

- Bổ sung điều mới, Điều 29, quy định bầu Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.

- Bổ sung điều mới, Điều 31, quy định bầu bổ sung Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.

42

Page 43: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Ngoài việc quy định trình tự, thủ tục bầu các chức danh trên, Quy chế quy định: Nếu bầu bổ sung Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương (từ nguồn Uỷ viên dự khuyết), Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương một lần chưa đủ số lượng quy định, có bầu tiếp hay không do Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương quyết định.

4. Một số nội dung chính được thảo luận trong quá trình xây dựng Quy chế bầu cử trong Đảng

4.1. Về việc tự ứng cử và nhận đề cử của cấp uỷ viên và uỷ viên ban thường vụ, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư

Đây là nội dung được thảo luận nhiều nhất ở các cấp uỷ, tổ chức đảng  và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị Trung ương 9 đã thống nhất quy định như sau:

- Cấp uỷ viên cấp triệu tập đại hội không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do cấp uỷ đề cử; không được tự ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của cấp uỷ.

- Ở các hội nghị của ban chấp hành, uỷ viên ban thường vụ không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do ban thường vụ cấp ủy đề cử; không được tự ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của ban thường vụ cấp uỷ.

- Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài  danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được tự ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.

Việc quy định như trên  bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành Nghị quyết của Đảng, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức. Đây là nguyên tắc cơ bản, sống còn của Đảng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập đến nay. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng viên phải có trách nhiệm chấp hành sự giới thiệu, phân công của  tổ chức. Mặt khác, thể  hiện sự tuân thủ nghị quyết của tổ chức mà mình là thành viên tham gia biểu quyết; khi đa số đã quyết định, mọi thành viên phải có nghĩa vụ chấp hành. Thực chất, việc ứng cử, đề cử trong tổ chức, sinh hoạt đảng từ trước đến nay chúng ta vẫn tuân thủ theo nguyên tắc này.

43

Page 44: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

4.2. Về quy định số dư tối đa trong danh sách bầu cử

Tuyệt đại đa số ý kiến của các Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đề nghị nên khống chế số dư tối đa là 30% để việc bầu cử được tập trung, tránh được trường hợp phải bầu cử nhiều lần do số dư quá lớn dẫn đến tình trạng  phân tán phiếu bầu. Mặt khác, để nêu cao vai trò và trách nhiệm của cơ quan triệu tập đại hội (hội nghị), cấp uỷ có thẩm quyền trong chuẩn bị phương án nhân sự và lãnh đạo thực hiện phương án nhân sự theo nghị quyết.

Quy chế bầu cử trong Đảng quy định: Số lượng danh sách bầu cử cấp uỷ và ban thường vụ cấp uỷ phải nhiều hơn số lượng cần bầu; số dư tối đa do đại hội (hội nghị) quyết định nhưng không quá 30% số lượng cần bầu, trong đó cấp uỷ triệu tập đại hội (hội nghị) chuẩn bị nhân sự cấp uỷ và ban thường vụ có số dư từ 10 - 15%.

4.3. Về lập danh sách bầu cử

Danh sách đề cử của cấp uỷ đã qua quy trình quy hoạch, đào tạo, giới thiệu tín nhiệm từ cấp dưới đến cấp trên, đã qua thẩm định rà soát chặt chẽ, toàn diện,...; đã được cấp uỷ xem xét, quyết định trên cơ sở tiêu chuẩn, bảo đảm cơ cấu lãnh đạo cho ngành, lĩnh vực, vì vậy phải được coi là kênh đề cử chính thức của cấp uỷ. Do đó, chỉ nên lập danh sách và lấy phiếu tín nhiệm đối với những đồng chí được đại biểu đề cử và tự ứng cử đại hội (hội nghị) để lựa chọn đưa vào danh sách bầu cử theo số phiếu tín nhiệm từ cao đến thấp bảo đảm số dư theo quy định. Quy chế bầu cử trong Đảng quy định:

- Danh sách do cấp uỷ triệu tập đại hội (hội nghị) đề cử là danh sách đề cử chính thức với đại hội (hội nghị).

- Đại hội (hội nghị) thảo luận và biểu quyết lập danh sách như sau:

+ Trường hợp danh sách gồm nhân sự do cấp uỷ triệu tập đề cử, do đại biểu đại hội (hội nghị) đề cử và người ứng cử chưa đủ số dư 30% so với số lượng cần bầu thì đại hội (hội nghị) quyết định (có thể lấy danh sách đó làm danh sách bầu cử).

+ Trường hợp danh sách gồm nhân sự do cấp uỷ triệu tập đề cử, do đại biểu đại hội (hội nghị) đề cử và người ứng cử nhiều hơn 30% so với số

44

Page 45: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

lượng cần bầu thì xin ý kiến đại hội (hội nghị) về những người được đại hội (hôị nghị) đề cử và người ứng cử; căn cứ kết qủa xin ý kiến lựa chọn theo số phiếu đồng ý từ cao đến thấp để lập danh sách bầu cử có số dư tối đa không quá 30% so với lượng cần bầu.

+ Trường hợp danh sách bầu cử đã đủ số dư 30% mà ở cuối danh sách có nhiều người có số phiếu bằng nhau thì đại hội (hội nghị) xem xét, quyết định lựa chọn theo cơ cấu, tuổi đảng, hoặc có thể để số dư cao hơn 30% so với số lượng cần bầu.

- Danh sách bầu cử xếp thứ tự tên người theo vần A, B, C...; nếu có nhiều người trùng tên thì xếp theo họ; nếu trùng cả họ thì xếp theo tên đệm; nếu cả ba dữ kiện này đều trùng thì người có tuổi đảng cao hơn được xếp tên trên.

- Trường hợp cần bầu lấy số lượng 1 người thì danh sách bầu cử  là 2 người; bầu lấy số lượng 2 người thì danh sách bầu cử là 3 người; bầu  lấy số lượng từ 3 người  trở  lên thì danh sách bầu cử có số dư tối đa không quá 1/3 số lượng cần bầu.

- Nếu bầu một lần  chưa đủ số lượng quy định, có bầu tiếp hay không do đại hội (hội nghị) quyết định. Danh sách bầu cử lần sau phải có số dư lấy theo kết quả bầu cử lần trước từ  cao đến thấp của những người chưa trúng cử.

II. VỀ LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM ĐỐI VỚI  THÀNH VIÊN LÀ  LÃNH ĐẠO CẤP ỦY VÀ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TRONG CÁC CƠ QUAN ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ

CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng  khóa XI về việc lấy phiếu tín nhiệm  đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, Bộ Chính trị đã  ban hành Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 về việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội. Sau một năm triển khai thực hiện, đã có nhiều  dư  luận, ý kiến phản hồi cả mặt tích cực và những mặt hạn chế của việc lấy phiếu tín nhiệm. Bộ Chính trị nhận thấy cần thiết phải có sự đánh giá, rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung, điều chỉnh, bảo đảm việc lấy phiếu tín nhiệm đạt được hiệu quả tốt nhất mục đích, yêu cầu theo như Nghị quyết

45

Page 46: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Trung ương 4 khóa XI đề ra. Với tinh thần đó, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội sơ kết đánh giá, rút kinh nghiệm việc lấy phiếu tín nhiệm  đối với người được Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, đồng thời thành lập Ban Chỉ đạo ở Trung ương do đồng chí Thường trực Ban Bí thư làm Trưởng ban để xem xét, rút kinh nghiệm việc lấy phiếu tín nhiệm theo Quy định số 165-QĐ/TW.

Tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng  khóa XI, Bộ Chính trị đã có báo cáo đánh giá, rút kinh nghiệm và có những đề xuất, kiến nghị với Ban Chấp hành Trung ương sau một năm triển  khai thực hiện Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 về việc lấy phiếu tín nhiệm  hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội.

1. Tình hình triển  khai chủ trương lấy phiếu tín nhiệm

Thực hiện Nghị quyết của đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị đã chỉ đạo:

- Giao Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng xây dựng cơ chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; ban chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên ban thường vụ  cấp ủy cùng cấp; xây dựng quy định việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm hằng  năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể; đối mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, trình Bộ Chính trị vào quý I năm 2013.

- Theo đó, Ban Tổ chức Trung ương đã phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng nghiên cứu, xây dựng dự thảo quy định và trình Bộ Chính trị xem xét, ban hành Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013.

- Giao Đảng đoàn Quốc hội phối hợp với Ban Cán sự đảng Chính phủ và Ban Tổ chức Trung ương xây dựng quy trình, thủ tục, cách thức thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

46

Page 47: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Đảng đoàn Quốc hội đã tập trung chỉ đạo sát sao, phân công nhiệm vụ cụ thể đối với lãnh đạo Quốc hội và các cơ quan giúp việc. Đảng đoàn và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã dành ba phiên họp để thảo  luận, xem xét và ban hành Nghị quyết số 35/2012/QH13 ngày 21-11-2012 của Quốc hội và Nghị quyết số 561/2013/QH13 ngày 16-1-2013 của Ủy  ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị quyết số 35/2012/QH13 ngày 21-11-2012 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tại phiên họp thứ 17, 18 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Ban Công tác đại biểu báo cáo về tình hình chuẩn bị lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII; theo đó tiếp tục chỉ đạo, cụ thể hóa quy trình, thủ tục, chuẩn bị văn bản, tài liệu  và các điều kiện  để Quốc hội tiến hành việc lấy phiếu tín nhiệm một cách chu đáo, thận trọng, bảo đảm đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.

- Để  việc triển khai lấy phiếu tín nhiệm ở hội đồng nhân dân cấp tỉnh được chặt chẽ, bảo đảm đúng mục đích, yêu cầu, Ban Bí thư đã có văn bản chỉ đạo đến ban thường vụ các tỉnh uỷ, thành ủy (Công văn số 166-CV/TW ngày 15-6-2013); Chủ tịch Quốc hội có công thư gửi các đồng chí chủ tịch hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố, quán triệt mục đích, yêu cầu về công tác lãnh đạo lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm ở hội đồng nhân dân các cấp theo đúng quy định của  pháp luật, bảo đảm nguyên tắc thống nhất  Đảng  lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng đoàn và Ủy ban  Thường vụ Quốc hội đã mời đại diện thường trực  hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương dự tham khảo việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, rút kinh nghiệm để tổ chức thực hiện ở địa phương.

- Thường trực hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố đều tiến hành báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy về quy trình, thủ tục lấy phiếu tín nhiệm. Trên cơ sở quy định của  pháp luật, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương; ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy đã ban hành các văn bản  chỉ đạo  việc lấy phiếu tín nhiệm đối với ba cấp tỉnh, huyện, xã; có nơi tổ chức làm  điểm để tham khảo, rút kinh nghiệm.

2. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm

Triển khai thực hiện Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 của Bộ Chính trị về lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp uỷ và cán

47

Page 48: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội thời gian qua đã đạt được một số kết quả bước đầu như sau:

- Quốc hội đã lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XIII). Ở các địa phương, đến nay, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố bầu đối với 907 người; do hội đồng nhân dân cấp huyện bầu đối với 6.664 người; do hội đồng nhân dân cấp xã bầu đối với 58.488 người; 13/63 tỉnh, thành phố đã thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với uỷ viên ban thường vụ cấp tỉnh, thành phố, trong đó 4 tỉnh (Quảng Nam, Gia Lai, Phú Yên, Kon Tum) đã hoàn tất việc lấy phiếu tín nhiệm  ở cấp huyện và xã; 3 tỉnh, thành phố (Cần Thơ, Bình Thuận, Kiên Giang) đã lấy phiếu tín nhiệm ở cấp tỉnh và cấp huyện; 43 tỉnh, thành phố đã xây dựng kế hoạch và hướng dẫn nhưng chưa tiến hành lấy phiếu; 7 tỉnh, thành phố còn lại và các ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị trực thuộc trung ương chưa triển khai, chờ chủ trương mới.

- Đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn: Không có người nào có số phiếu tín nhiệm thấp trên 50% (8 người, chiếm 17%, có tỷ lệ phiếu  "tín nhiệm thấp" từ 20-41%); 34 người, chiếm 72,4%, có tổng số phiếu  "tín nhiệm cao" và "tín nhiệm" đạt từ 50% trở lên, trong đó có 18 người có tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" trên 50%).

- Kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do hội đồng nhân dân các cấp bầu: Ở cấp tỉnh, có 2 người (0,22%) tỷ lệ phiếu "tín nhiệm thấp" trên 50% (tỉnh Gia Lai); có 689 người (76%) tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" từ 50% trở lên, còn lại đều đạt tỷ lệ phiếu "tín nhiệm" trên 50%. Ở cấp huyện, có 12 người (0,2%) tỷ lệ phiếu "tín nhiệm thấp" trên 50%; 4.871 người (73%) đạt tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" trên 50%, còn lại đều đạt tỷ lệ "phiếu tín nhiệm" từ 50% trở lên. Ở cấp xã, có 449 người (0,76%) tỷ lệ phiếu "tín nhiệm thấp" trên 50%, 36.236 người (62%) có tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" trên 50%.

- Đối với thành viên ban thường vụ cấp uỷ: Ở cấp tỉnh, không có đồng chí nào có tỷ lệ phiếu "tín nhiệm thấp" trên 50%; hầu hết đều đạt tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" từ 50% trở lên. Ở cấp huyện và cấp xã chưa có báo cáo cụ thể kết quả.

48

Page 49: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Đánh giá kết quả bước đầu của việc lấy phiếu tín nhiệm cho thấy:

- Chủ trương lấy phiếu tín nhiệm theo Quy định số 165-QĐ/TW là đúng đắn và cần thiết, phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật. Qua lấy phiếu tín nhiệm giúp cho cán bộ tự "soi mình", thấy được ưu, khuyết điểm thông qua mức độ tín nhiệm để tự điều chỉnh, phấn đấu, cố gắng cao hơn trong lãnh đạo, quản lý và tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Đồng thời, kết quả lấy phiếu tín nhiệm là kênh tham khảo để giúp cấp uỷ có thẩm quyền xem xét đánh giá cán bộ chính xác hơn. Ở những nơi có tình trạng nể  nang, ngại va chạm, không dám nói thẳng, nói thật, nhất là đối với người đứng đầu, thì việc lấy phiếu tín nhiệm  là giải pháp cần thiết, là biện pháp tốt  để quản lý, bảo vệ cán bộ.

- Công tác chỉ đạo nghiên cứu xây dựng quy chế, quy định và triển khai lấy phiếu tín nhiệm cơ bản được tiến hành chặt chẽ, kịp thời, theo kế hoạch, quy trình và sự phân công, phân cấp, đúng tinh thần Nghị quyết  Trung ương 4 khoá XI. Kế hoạch triển khai thực hiện  Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về cơ bản bảo đảm đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; có sự phối hợp chặt chẽ  giữa các cơ quan có liên quan.

- Việc lấy phiếu tín nhiệm vừa qua được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ; thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng  trong thực hiện các giải pháp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI; rút ra những kinh nghiệm cần thiết đối với hoạt động giám sát của các cơ quan  dân cử và việc thực hành  dân chủ  trong Đảng, trong hệ thống chính trị.

- Kết quả lấy phiếu tín nhiệm  phản ánh tương đối đúng mức độ tín nhiệm của từng cá nhân trong tương quan chung, giữa các chức danh cán bộ tại thời điểm lấy phiếu; phản ánh được mức độ tín nhiệm của cấp uỷ, đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân đối với các lĩnh vực công tác thông qua phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu; có tác dụng thiết thực đối với người được lấy phiếu trong việc điều chỉnh trách nhiệm, hành vi lãnh đạo, phương pháp công tác, phòng ngừa sai phạm.

Bên cạnh mặt tích cực, việc lấy phiếu tín nhiệm  thời gian qua  cũng đặt ra một số vấn đề liên quan đến vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của

49

Page 50: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

các cấp uỷ đảng và "mặt trái" của việc lấy phiếu, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện để việc lấy phiếu đạt được đúng các mục đích, yêu cầu đề ra, phù hợp với thực tế.

3. Chủ trương lấy phiếu tín nhiệm trong thời gian tới

Trên cơ sở xem xét những đề xuất, kiến nghị, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định một số nội dung về lấy phiếu tín nhiệm:

3.1. Về thời gian lấy phiếu tín nhiệm

Có hai phương án đặt ra: nên tiến hành hằng năm như Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI quy định hay chỉ tiến hành vào giữa nhiệm kỳ và khi có yêu cầu của cấp uỷ có thẩm quyền quản lý cán bộ.

Hội nghị Trung ương 9 khóa XI thống nhất quyết định thời gian lấy phiếu tín nhiệm tiến hành định kỳ vào năm thứ ba (năm giữa nhiệm kỳ đại hội).

3.2. Về đối tượng lấy phiếu tín nhiệm và đối tượng tham gia ghi phiếu tín nhiệm

Có hai phương án để lựa chọn: một là, đối tượng lấy phiếu tín nhiệm  và đối tượng tham gia  ghi phiếu tín nhiệm  như Quy định số 165-QĐ/TW; hai là, đối tượng lấy phiếu tín nhiệm và tham gia ghi phiếu tín nhiệm như Quy định số 165-QĐ/TW và mở rộng thêm đối tượng lấy phiếu  là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trực thuộc Chính phủ (khi lấy phiếu ở Quốc hội) và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trực thuộc uỷ ban nhân dân (khi lấy phiếu ở hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện).

Qua thảo luận, Trung ương đã thống nhất quyết định đối tượng lấy phiếu tín nhiệm thực hiện như Quy định số 165-QĐ/TW; đồng thời giao cho các cấp uỷ, tổ chức đảng, căn cứ vào đặc điểm, tình hình của địa phương, cơ quan, đơn vị có thể  mở rộng thêm đối tượng lấy phiếu tín nhiệm và đối tượng tham gia ghi phiếu tín nhiệm, để phục vụ việc đánh giá cán bộ thuộc thẩm quyền quyết định của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng.

3.3. Về nội dung, hình thức, phiếu tín nhiệm

50

Page 51: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Có hai phương án đặt ra để xin ý kiến: một là, nên tiếp tục thực hiện lấy phiếu tín nhiệm  theo ba mức: "tín nhiệm cao", "tín nhiệm" và "tín nhiệm thấp" như Quy định số 165-QĐ/TW; hai là, lấy phiếu tín nhiệm theo hai mức: "tín nhiệm" và "không tín nhiệm".

Qua thảo luận, Trung ương cho rằng, tác dụng của việc lấy phiếu tín nhiệm là cảnh báo mức độ tín nhiệm để cán bộ tự soi xét, tự sửa mình, người có phiếu tín nhiệm thấp cũng cần có thời gian để tự điều chỉnh, khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, làm cho việc lấy phiếu tín nhiệm vừa có tác dụng để đánh giá cán bộ, vừa xây dựng, bảo vệ cán bộ. Do đó, tại Hội nghị lần này, Trung ương quyết định, nội dung, hình thức phiếu tín nhiệm tiếp tục thực hiện theo ba mức: "tín nhiệm cao", "tín nhiệm", "tín nhiệm thấp" như theo Quy định số 165-QĐ/TW, nhằm bảo đảm kết quả phiếu tín nhiệm là kênh tham khảo trong việc đánh giá cán bộ của cấp có thẩm quyền; đồng thời để  phân biệt rõ việc lấy phiếu tín nhiệm với việc bỏ phiếu tín nhiệm theo hai mức: "tín nhiệm" và "không tín nhiệm".

3.4. Về quy trình lấy phiếu tín nhiệm

Cũng có hai phương án đặt ra để xin ý kiến: một là, lấy phiếu ở Quốc hội và hội đồng nhân dân trước, lấy phiếu ở cấp ủy sau như Quy định số 165- QĐ/TW; hai là, lấy phiếu ở cấp ủy trước, lấy phiếu ở Quốc hội và hội đồng nhân dân sau.

Qua thảo luận, đa số các đồng chí Ủy viên Trung ương đề nghị nên lấy phiếu ở Quốc hội và hội đồng nhân dân trước, lấy phiếu ở cấp ủy sau như Quy định số 165-QĐ/TW để bảo đảm việc lấy phiếu tín nhiệm ở Quốc hội và hội đồng nhân dân là kênh tham khảo quan trọng, giúp cấp ủy có thẩm quvền đánh giá đúng cán bộ. Việc thực hiện quy trình lấy phiếu tín nhiệm theo Quy định số 165-QĐ/TW sẽ bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Việc lấy phiếu của cấp ủy vẫn có đủ thông tin về cán bộ để việc lấy phiếu tín nhiệm chính xác. Bởi vì hằng năm vào cuối năm, mỗi cán bộ, đảng viên đều có kiểm điểm tự phê bình và phê bình và cấp ủy các cấp đều có nhận xét, đánh giá cán bộ; đó là cơ sở để cung cấp thông tin cho người ghi phiếu. Đồng thời, các ý kiến đều kiến nghị, việc hỏi, trả lời giữa người ghi phiếu và người được lấy phiếu cũng cần tăng cường hơn  để cán bộ được lấy phiếu có điều kiện báo cáo, giải trình thêm, tránh sự hiểu lầm dẫn đến sai lệch kết quả phiếu tín nhiệm.

51

Page 52: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Hội nghị Trung ương 9 đã quyết định về quy trình lấy phiếu tín nhiệm là, sẽ lấy phiếu tín nhiệm ở Quốc hội và hội đồng nhân dân trước, lấy phiếu ở cấp ủy sau (như Quy định số 165-QĐ/TW) để bảo đảm việc lấy phiếu tín nhiệm ở Quốc hội và hội đồng nhân dân là kênh tham khảo quan trọng, giúp cấp ủy có thẩm quyền đánh giá đúng cán bộ; bảo đảm đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.

3.5. Về công khai kết quả phiếu tín nhiệm

Đối với nội dung này, Hội nghị Trung ương 9 đã quyết định: Công khai kết quả phiếu tín nhiệm với thành phần lấy phiếu tín nhiệm; tập thể lãnh đạo cấp trên trực tiếp (cấp có thẩm quyền quyết định đối với cán bộ) và cá nhân cán bộ được lấy phiếu tín nhiệm (như Quy định số 165-QĐ/TW).

3.6. Về tiếp tục thực hiện quy định lấy phiếu tín nhiệm

Qua thảo luận, Trung ương thống nhất cho rằng: Việc lấy phiếu tín nhiệm là việc làm mới, bên cạnh những mặt làm được, còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu, quy định đầy đủ, chưa lường hết được những tác động mặt trái, nhất là việc lấy phiếu tín nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương đối vối các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Do vậy, việc kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm là hết sức cần thiết, để có quy trình, cách làm hiệu quả hơn, nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc của việc lấy phiếu tín nhiệm được triển khai thời gian qua. Sau khi điều chỉnh lại Quy định số 165-QĐ/TW, trong nhiệm kỳ này, các cơ quan, đơn vị ở Trung ương và địa phương sẽ tiến hành lấy phiếu tín nhiệm trong năm 2014; nơi nào đã tiến hành trong năm 2013 thì coi đó là thí điểm để rút kinh nghiệm để lần này làm tốt hơn. Đối với việc lấy phiếu về sự tín nhiệm của các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng theo tinh thần này, sau khi hoàn chỉnh Quy định số 165-QĐ/TW, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ tiến hành sau khi lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với các chức danh do Quốc hội khóa XIII bầu hoặc phê chuẩn.

Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã quyết định về chủ trương tiếp tục thực hiện quy định lấy phiếu tín nhiệm như sau: Căn cứ ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo sửa đổi, bổ sung Quy định số 165-QĐ/TW để tiếp tục tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề ra. Trong nhiệm kỳ này, các cơ quan, đơn vị ở Trung ương và địa

52

Page 53: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

phương sẽ tiến hành lấy phiếu tín nhiệm trong năm 2014 (kể cả những nơi đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm năm 2013). Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tiến hành sau khi lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với các chức danh do Quốc hội khóa XIII bầu hoặc phê chuẩn.

III. VỀ ĐỊNII HƯỚNG CHỈ ĐẠO ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ CÁC CẤP TIẾN TỚI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG

Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã thảo luận đánh giá kết qủa thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4-8-2009 của Bộ Chính trị khóa X về đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và cho ý kiến vào dự thảo Chỉ thị của Bộ Chính trị khóa XI về đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ XII của Đảng.

1. Một số kết qủa thực hiện Chỉ thị số 37- CT/TW của Bộ Chính trị khóa X

1.1. Ưu điểm

a) Về triển khai thực hiện

 - Sau khi có Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4-8-2009 của Bộ Chính trị, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đã tổ chức quán triệt nghiêm túc, xây dựng kế hoạch thực hiện Chỉ thị của cấp mình, đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới triển khai thực hiện Chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương.

- Công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội về cơ bản đã phát huy được dân chủ trong Đảng, có tác dụng củng cố đoàn kết, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, coi trọng chất lượng đại hội, bảo đảm an toàn, tiết kiệm, phát huy được trí tuệ, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, các thành viên trong hệ thống chính trị và của cán bộ, đảng viên, nhân dân.

- Các cấp ủy đã chỉ đạo cấp dưới và tiến hành xây dựng có chất lượng báo cáo chính trị của ban chấp hành đảng bộ cấp mình trình đại hội nhiệm kỳ 2010 - 2015; đồng thời, tổ chức thảo luận sâu sắc những quan điểm, chủ trương, định hướng lớn nêu trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng và các văn kiện đại hội đảng bộ cấp trên.

53

Page 54: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Qua đó, tạo ra đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, như yêu cầu của Chỉ thị số 37-CT/TW.

b) Đánh giá chung

Việc thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4-8-2009 của Bộ Chính trị về đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng về cơ bản đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp được tiến hành dân chủ, phát huy được trí tuệ, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, các thành viên trong hệ thống chính trị và của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với công tác xây dựng Đảng. Công tác nhân sự cấp ủy về cơ bản được tiến hành chặt chẽ, đúng nguyên tắc; bầu được cấp ủy các cấp có số lượng, cơ cấu, chất lượng về cơ bản theo định hướng chỉ đạo của Bộ Chính trị, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở các ngành, các cấp. Việc triển khai thí điểm một số chủ trương tại đại hội đảng bộ các cấp, như đảng bộ cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp ủy; việc lấy ý kiến đại biểu đại hội giới thiệu nhân sự bí thư trong số cấp ủy viên vừa trúng cử... là cơ sở quan trọng để nghiên cứu, đối mới quy chế, quy định trong hoạt động của Đảng.

1.2. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, một số chủ trương nêu trong Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4-8- 2009 nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng của cấp ủy chưa được thực hiện có hiệu quả:

a) Việc tăng thêm số lượng cấp ủy viên để tăng tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, “phấn đấu tỷ lệ cấp ủy viên nữ, trẻ tuổi...cao hơn khóa hiện nay" chưa thực hiện được

Tại đại hội đảng bộ nhiệm kỳ 2010-2015, hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã bầu đủ số lượng cấp ủy tăng 10% so với khóa trước. Tuy nhiên, tỷ lệ cấp ủy viên nữ mới đạt 11,4%, thấp so với chỉ tiêu đề ra là không dưới 15% và giảm 0,45% so với nhiệm kỳ trước; tỷ lệ cán bộ trẻ dưới 40 tuổi mới đạt 5,4%, thấp so với chỉ tiêu đề ra là không dưới 10%.

b) Chủ trương phấn đấu bảo đảm cơ cấu ba độ tuổi trong cấp ủy chưa được thực hiện tốt

54

Page 55: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

Kết quả tổng hợp cho thấy, tuổi bình quân của cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xấp xỉ 50, cao hơn 0,7 tuổi so với nhiệm kỳ 2005-2010, trong đó trên 2/3 cấp ủy tỉnh, thành phố có độ tuổi bình quân cao hơn. Nếu theo quy định tại Chỉ thị số 37-CT/TW, tính đến tháng 9-2015, thường trực cấp ủy của 15 tỉnh, thành phố sẽ không có đồng chí nào đủ tuổi tái cử khóa tới; ở 31 tỉnh, thành phố chỉ có 1 đồng chí trong thường trực cấp ủy đủ tuổi tái cử. Có 487/911 (53,46%) ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy nhiệm kỳ 2010-2015, trong đó có nơi trên 70% ủy viên ban thường vụ sẽ không đủ tuổi tái cử.

2. Kết cấu Chỉ thị của Bộ Chính trị khóa XI về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

Kết cấu Chỉ thị của Bộ Chính trị khóa XI về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng gồm có ba phần:

1- Phần yêu cầu  đặt ra việc lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp.

2- Phần nội dung quy định nội dung đại hội, việc chuẩn bị văn kiện đại hội, công tác chuẩn bị nhân sự và bầu cử cấp ủy, trong đó chỉ đạo về tiêu chuẩn, cơ cấu, số lượng, độ tuổi của cấp ủy, số dư trong bầu cử; số lượng đại biểu dự đại hội, việc tố chức thảo luận các dự thảo văn kiện và bầu đại biểu dự đại hội đảng bộ cấp trên; thời gian tiến hành đại hội và một số vấn đề khác liên quan đến việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp.

3- Phần tổ chức thực hiện quy định trách nhiệm của cấp ủy các cấp và các ban đảng ở trung ương có liên quan trong việc quán triệt, tổ chức thực hiện Chỉ thị và trong quá trình chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng bộ các cấp.

Trong Chỉ thị của Bộ Chính trị lần này, Trung ương nhấn mạnh, bổ sung một số vấn đề sau:

a) Về yêu cầu, Chỉ thị mới nhấn mạnh phát huy dân chủ đi đôi với việc giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Báo cáo của ban chấp hành đảng bộ cần đánh giá đúng thực trạng, tình hình thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ 2010-2015, kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, nhất là các giải pháp khắc phục một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Công tác nhân sự cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020 phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các địa phương, ngành, lĩnh

55

Page 56: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

vực nhiệm kỳ 2015-2020 và các nhiệm kỳ tiếp theo; tiến hành đồng thời với chuẩn bị nhân sự lãnh đạo hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 và nhân sự lãnh đạo đoàn đại biểu Quốc hội khóa XIV của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

b) Về nội dung, nhất là các nội dung về cơ cấu, số lượng, độ tuổi tham gia cấp ủy; số lượng đại biểu đại hội đảng bộ các cấp phải được tiếp thu tối đa ý kiến của Trung ương tại Hội nghị này để đưa vào Chỉ thị.

3. Một số vấn đề Trung ương tập trung thảo luận và thống nhất đưa vào Chỉ thị của Bộ Chính trị

Từ kết quả thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4-8-2009 của Bộ chính trị khóa X, Trung ương tập trung thảo luận và đa số các ý kiến đồng tình nhất trí với các nội dung sau đây:

3.1. Về cơ cấu, số lượng cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

a)Về cơ cấu

- Về chủ trương không nhất thiết địa phương nào, ban, ngành nào cũng phải tham gia cấp ủy:

Trong một số nhiệm kỳ đại hội gần đây, Chỉ thị của Bộ Chính trị đều quy định nhất quán về vấn đề này. Thực hiện chủ trương này, việc xác định số lượng cấp ủy viên căn cứ vào yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ chính trị và số lượng tổ chức cơ sở đảng trực thuộc. Theo đó, số lượng trung bình đối với đa số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thường quy định từ 43 - 49 cấp ủy viên và từ 11-13 ủy viên thường vụ (trừ Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An có số lượng cao hơn), ở nhiệm kỳ hiện tại, Chỉ thị của Bộ Chính trị quy định tăng số lượng cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lên 10% nhằm tăng cán bộ trẻ, cán bộ nữ và với số lượng này về cơ bản các ngành, các lĩnh vực công tác của địa phương đều bố trí cấp ủy viên. Thực tế đó đặt ra vấn đề có tiếp tục nêu quan điểm không nhất thiết địa phương nào, ban, ngành nào cũng phải tham gia cấp ủy tại nhiệm kỳ 2015-2020 hay không?

Trung ương thống nhất cho nêu quan điểm này tại Chỉ thị của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ tới, vì đối với cấp ủy các cấp,

56

Page 57: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

phải căn cứ vào tiêu chuẩn là chính để lựa chọn cấp ủy viên; mặt khác, cấp ủy các cấp cần có cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tuy nhiên, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn. Hơn nữa, việc phân công cấp ủy viên sau đại hội phải căn cứ vào số lượng trúng cử, năng lực, sở trường của cấp ủy viên, do vậy, không nên quy định cứng nơi nào cũng cần bố trí cấp ủy viên, sẽ khó khăn cho việc bố trí cán bộ sau đại hội.

Chỉ thị của Bộ Chính trị lần này vẫn tiếp tục khẳng định không nhất thiết địa phương nào, ban, ngành nào cũng phải tham gia cấp ủy tại nhiệm kỳ 2015-2020.

- Về  đề nghị cho chủ trương bố trí cấp ủy viên dự khuyết ở cấp tỉnh và cấp huyện, Trung ương nhận thấy: Đến nay, công tác quy hoạch cán bộ ở cấp tỉnh và cấp huyện đã tương đối đi vào nền nếp; công tác đào tạo, bố trí, sử dụng nguồn quy hoạch do ban thường vụ cấp ủy quyết định; khi cần thiết bổ sung cấp ủy viên sẽ do ban thường vụ lựa chọn nhân sự trong quy hoạch, trình ban chấp hành xem xét và trình cấp trên trực tiếp chỉ định. Việc bổ sung cấp ủy viên ở cấp tỉnh, cấp huyện theo Điều lệ Đảng là việc đang thực hiện bình thường, không nhất thiết phải là cấp ủy viên dự khuyết do đại hội bầu mới được: bổ sung vào cấp ủy khóa mới. Điều này khác với việc bổ sung ủy viên Ban Chấp hành Trung ương từ Ủy viên Trung ương dự khuyết theo quy định của Điều lệ Đảng khóa XI.

Tuy nhiên, vấn đề này thuộc phạm vi quy định của Điều lệ Đảng, do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thông qua, do vậy, Chỉ thị của Bộ Chính trị sẽ không quy định vấn đề này.

b) Về số lượng

- Về số lượng cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trung ương thống nhất số lượng cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhiệm kỳ 2015-2020 như dự thảo Chỉ thị của Bộ Chính trị.

Với đa số các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, việc dãn cách giữa số lượng cấp ủy tối thiểu và tối đa (43-55) sẽ thuận lợi trong quy định số lượng của các cấp ủy phù hợp với quy mô, số lượng đảng viên và tổ chức đảng trực thuộc. Trừ các tỉnh, thành phố lớn: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An có số lượng các tổ chức đảng trực thuộc từ 21 đến 30; số còn lại có số lượng tổ chức đảng trực thuộc cách biệt nhau khá lớn: 2 tỉnh có 17 và 18 đơn vị; 8 tỉnh, thành phố có từ 13 đến 15 đơn vị; 20

57

Page 58: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

tỉnh, thành phố có từ 10 đến 12 đơn vị và 29 tỉnh, thành phố còn lại có từ 6 đến 9 đơn vị. Thực tế trên cho thấy cần quy định nới rộng dãn cách giữa số lượng cấp ủy tối thiểu và tối đa đối với cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để phù hợp với nhiệm vụ lãnh đạo của từng địa phương.

Chỉ thị của Bộ Chính trị lần này quy định số lượng cấp ủy tối thiểu và tối đa của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ 43 đến 55 đồng chí; riêng Hà Nội 75 đồng chí; Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An: 67 đồng chí.

- Về số lượng ủy viên thường vụ cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trung ương đồng tình với ý kiến của đa số tỉnh ủy, thành ủy về quy định số lượng cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy khóa tới như Chỉ thị số 37-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X, vì thời gian qua các địa phương đã thực hiện quy hoạch cán bộ theo số lượng này. Việc giữ số lượng cấp ủy như Chỉ thị số 37-CT/TW sẽ tạo điều kiện để các tỉnh ủy, thành ủy giới thiệu cán bộ trẻ, cán bộ nữ tham gia cấp ủy. Đồng thời, cần kiên quyết hơn trong kiểm tra, giám sát quá trình chuẩn bị nhân sự cấp ủy; nơi nào chuẩn bị đủ cơ cấu cán bộ trẻ, cán bộ nữ thì có thể duyệt số lượng tối đa; nơi nào chưa chuấn bị đủ thì không nên bầu đủ số lượng tối đa, số còn lại sẽ bổ sung trong nhiệm kỳ để phấn đấu đạt được chỉ tiêu cơ cấu cán bộ trẻ, cán bộ nữ theo quy định.

Chỉ thị của Bộ Chính trị lần này quy định số lượng ban thường vụ cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020 như sau: đa số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ 13 đến 15 đồng chí; riêng Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An: không quá 17 đồng chí.

3.2. Về chỉ tiêu cán bộ trẻ, cán bô nữ của cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

- Về tỷ lệ cán bộ nữ: Trung ương cho ý kiến và Chỉ thị của Bộ Chính trị quy định tỷ lệ cán bộ nữ không dưới 15% như quy định ở nhiệm kỳ 2010-2015, vì chỉ tiêu này tuy có thấp so với yêu cầu tại Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị (không dưới 25%), nhưng sát thực tế hơn và có thể phấn đấu thực hiện được. Hơn nữa, thực tế nhiều khóa gần đây chỉ có một số ít tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc trung ương đạt được chỉ tiêu này.

- Về tỷ lệ cán bộ trẻ (dưới 40 tuổi) không dưới 10%, một số ý kiến tuy đồng tình như vậy nhưng còn băn khoăn, cho là số cán bộ trẻ dưới 40 tuổi ở

58

Page 59: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

cấp tỉnh rất ít, nhiều nơi chỉ có đồng chí bí thư tỉnh đoàn ở độ tuổi này, nếu vẫn giữ quy định như các kỳ đại hội trước sẽ không sát thực tế, nên chăng sửa lại tiêu chí tuổi trẻ dưới 45 tuổi đối với cấp ủy tỉnh và có thể quy định tỷ lệ này cao hơn?

Đa số ý kiến cho rằng tiêu chí tuổi trẻ dưới 40 tuổi ở cấp tỉnh đã được tính toán, quy định trong nhiều nhiệm kỳ đại hội đảng bộ các cấp và quy định như vậy là hợp lý, vì độ tuổi từ 40- 50 tuổi đã là một trong ba độ tuổi quy định bắt buộc đối với cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (ở các kỳ đại hội, cơ cấu độ tuổi đối với cấp ủy tỉnh thường định hướng: dưới 40 tuổi: 5-10%; từ 40-50 tuổi: 50-60%; từ 51 - 55 tuổi: 20 - 30%). Hơn nữa, chúng ta đã thống nhất tăng thêm số lượng cấp ủy viên nhằm tăng tỷ 1ệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và quy định này sẽ thúc đẩy công tác phát hiện, quy hoạch, đào tạo cán bộ trẻ ở địa phương, nhằm tạo nguồn lâu dài.

Trung ương đồng ý và Chỉ thị của Bộ Chính trị quy định tiêu chí tuổi trẻ cấp tỉnh dưới 40 tuổi, đồng thời phấn đấu đạt tỷ lệ không dưới 10% như định hướng về cơ cấu tuổi trẻ của cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của một số kỳ đại hội gần đây.

3.3.Về đổi mới và độ tuổi tham gia cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

a) Về đổi mới cấp ủy: Trung ương thống nhất để Bộ Chính trị quy định: ở nhiệm kỳ 2015-2020, cấp ủy các cấp đổi mới không dưới 1/3 tổng số cấp ủy viên mỗi nhiệm kỳ và cần bảo đảm ba độ tuổi trong cấp ủy; phấn đấu có ba độ tuổi trong ban thường vụ và thường trực các cấp ủy.

b) Về tuổi lần đầu tham gia cấp ủy: Chỉ thị của Bộ Chính trị ở các kỳ đại hội đều quy định nhất quán: “nói chung phải đủ tuổi công tác từ hai khóa trở lên, ít nhất cũng trọn một khóa”. Trung ương cho rằng quy định này là phù hợp và tiếp tục thực hiện chủ trương này tại đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ tới.

c) Về tuổi tái cử cấp ủy : một số kỳ đại hội gần đây quy định như sau:

+ Khóa IX: tuổi tái cử còn thời gian công tác 2/3 khóa (40 tháng), không phân biệt cấp ủy viên và ủy viên thường vụ.

59

Page 60: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

+ Khóa X: cấp ủy và thường vụ cấp ủy tái cử nói chung phải trọn 1 khóa; riêng bí thư, phó bí thư 2/3 khóa (40 tháng).

+ Khóa XI: cấp ủy viên còn thời gian công tác 4 năm (48 tháng), ủy viên thường vụ còn 3 năm (36 tháng), bí thư còn ít nhất nửa khóa (30 tháng); đồng thời quy định tuổi tái cử đến tháng tổ chức đại hội (đối với cấp ủy tỉnh là tháng 9).

Đa số ý kiến đề nghị nhất thiết phải quy định mốc thời gian tái cử, tính đến tháng tổ chức đại hội đảng bộ các cấp (đối với đại hội nhiệm kỳ 2015-2020, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là tháng 9-2015; cấp huyện từ tháng 6-2015; cấp cơ sở từ tháng 4-2015), như đã thực hiện ở nhiệm kỳ 2010- ‘2015, để phù hợp với thời điểm tính tuổi quy hoạch cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020. Điều này tạo thuận lợi cho các địa phương khi tiến hành công tác nhân sự, tránh việc vận dụng tràn lan sẽ gây tâm tư so sánh, thắc mắc.

Trung ương xem xét, cho ý kiến về ba phương án quy định độ tuổi tái cử theo đề nghị của các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc trung ương như sau:

- Phương án 1: Cấp ủy viên, ủy viên thường vụ, phó bí thư, bí thư cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn thời gian công tác nửa nhiệm kỳ (30 tháng) trở lên.

Đề nghị phương án này vì vừa qua Ban Bí thư đã quy định tuổi tái cử đối với cán bộ chuyên trách công tác Mặt trận Tố quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (phải còn đủ thời gian công tác nửa nhiệm kỳ trở lên), quy định này cũng nên thực hiện đối với cấp ủy đảng để bảo đảm sự công bằng, thống nhất trong hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, thực hiện phương án này sẽ tận dụng được năng lực, kinh nghiệm của một số đồng chí lớn tuổi, có tính kế thừa trong cấp ủy. Ở phương án này, tuy độ tuổi bình quân đầu nhiệm kỳ của cấp ủy có cao hơn nhưng khi số đồng chí lớn tuổi nghỉ hưu sẽ bổ sung được cán bộ trẻ và tuổi bình quân của cấp ủy cả nhiệm kỳ sẽ giảm đi. Hơn nữa, phương án này sẽ giải quyết tốt hơn tâm tư, tình cảm đối với các đồng chí còn dưới 3-4 năm công tác, nhưng không đủ tuổi tham gia cấp ủy theo quy định của nhiệm kỳ 2010-2015, góp phẩn tháo gỡ những vướng mắc về tuổi tham gia cấp ủy và tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp ủy trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ, nhất là đối với các đồng chí làm chuyên trách công tác đảng.

60

Page 61: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

- Phương án 2: Giữ như quy định tại Chỉ thị số 37-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X: cấp ủy viên còn thời gian công tác ít nhất 4 năm (48 tháng) trở lên; ủy viên thường vụ, phó bí thư còn ít nhất 3 năm (36 tháng) trở lên; trường hợp đặc biệt có thể vận dụng độ tuổi bí thư cấp ủy tỉnh, thành phố còn nửa nhiệm kỳ (30 tháng) trở lên.

Thực hiện phương án này sẽ trẻ hóa được cấp ủy các cấp; đồng thời, một số ý kiến đồng ý phương án này cũng đề nghị cần quy định khi thôi tham gia cấp ủy thì thôi giữ các chức vụ khác có cơ cấu cấp ủy viên và nghiên cứu, quy định cụ thể hơn về chế độ nghỉ trước tuổi để sắp xếp, bố trí cán bộ không đủ tuổi tham gia cấp ủy...

- Phương án 3: Cấp ủy viên còn thời gian công tác ít nhất 40 tháng trở lên; ủy viên thường vụ, phó bí thư còn ít nhất 36 tháng trở lên; bí thư cấp ủy còn ít nhất nửa nhiệm kỳ (30 tháng) trở lên.

Đây là phương án dung hòa giữa hai phương án trên.

Qua thảo luận, Trung ương thống nhất lựa chọn phương án 1 về độ tuổi tái cử cấp tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2015-2020 và do vậy, Chỉ thị của Bộ Chính trị lần này quy định các đồng chí lần đầu tham gia cấp ủy nói chung phải đủ tuổi công tác từ hai nhiệm kỳ trở lên, ít nhất cũng trọn một nhiệm kỳ. Những đồng chí được giới thiệu tái cử nói chung phải đủ tuổi công tác trọn một nhiệm kỳ, ít nhất phải còn đủ tuổi công tác từ nửa nhiệm kỳ ( 30 tháng ) trở lên.

61

Page 62: tài lieu viêt bài thu hoạch hè 2014

62