21
Bắt đầu dịch: 16:21, 21-09-2010 Kaiten Từ Wikipedia, bách khoa toàn thư tự do Jump to: navigation, search Bài này là về ngư lôi cảm tử. Cho các nghĩa khác, hãy xem Kaiten (chống nhầm lẫn (Nd: disambiguation)). Kaiten Các Kaiten, trên boong của một tàu ngầm đang khởi hành. Loại Ngư lôi người (Nd: Human torpedo) Nơi khởi nguồn (Nd: Place of origin) Đế quốc Nhật Bản Lịch sử phục vụ Thời gian phục vụ (Nd: In service) 1944-1945 Được sử dụng bởi Hải quân đế quốc Nhật Các cuộc chiến tranh Thế chiến II Lịch sử sản xuất Số được đóng ~400 Các biến thể 6 Đặc điểm kỹ thuật

Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Kaiten từ Wikipedia, bách khoa toàn thư tự do

Citation preview

Page 1: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

Bắt đầu dịch: 16:21, 21-09-2010

Kaiten

Từ Wikipedia, bách khoa toàn thư tự do

Jump to: navigation, search Bài này là về ngư lôi cảm tử. Cho các nghĩa khác, hãy xem Kaiten (chống nhầm lẫn (Nd: disambiguation)).

Kaiten

Các Kaiten, trên boong của một tàu ngầm đang khởi hành.

Loại Ngư lôi người (Nd: Human torpedo)

Nơi khởi nguồn (Nd: Place of origin)

Đế quốc Nhật Bản

Lịch sử phục vụ

Thời gian phục vụ (Nd: In service) 1944-1945

Được sử dụng bởi Hải quân đế quốc Nhật

Các cuộc chiến tranh Thế chiến II

Lịch sử sản xuất

Số được đóng ~400

Các biến thể 6

Đặc điểm kỹ thuật

Page 2: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

Hệ thống hướng dẫn (Nd: Guidancesystem)

Được lái một cách thủ công với sự ổn định con quay hồi chuyển và sự chạy tự động (Nd: with gyroscopic stabilisation and automatic running).

Nơi hạ thủy/ Nền phóng (Nd: Launch

platform)Tàu ngầm, tàu bề mặt, boong-ke bờ biển

Chiếc Kaiten (tiếng Nhật: 回天 (Nd: phát âm Hán Việt có lẽ là “Hồi Thiên”), dịch nguyên văn/ dịch sát nghĩa (Nd: literal translation): "Về bầu trời/ Về Trời (Nd: Return to the sky; chắc chắn không giống Thánh Gióng rồi)", mà thông thường được dịch (Nd: rendered) là: "Sự rẽ hướng về thiên đường (Nd: The turn toward heaven)", "Kẻ làm rúng động thiên đường (Nd: The Heaven Shaker; tiếng Việt mình hay nói “Kinh thiên động địa” hay “Long trời lở đất”, chắc giống giống thế)" hay "Thay đổi thế giới (Nd: Change the World; chắc kiểu như “Bình thiên hạ”; hình như những kiểu dịch càng về sau càng... bậy)" [1]) đã là các ngư lôi và các tàu cảm tử (Nd: suicide craft) có người (Nd: manned), chúng đã được dùng bởi Hải quân đế quốc Nhật vào các giai đoạn cuối của Thế chiến II.

Page 3: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

Contents

• 1 History • 2 Development • 3 Pilots • 4 Deployment • 5 Types

• 5.1 Type 1 • 5.1.1 General arrangement • 5.1.2 Performance • 5.1.3 Specifications • 5.1.4 Effectiveness

• 5.2 Type 2 • 5.2.1 General arrangement • 5.2.2 Performance • 5.2.3 Specifications

• 5.3 Type 4 • 5.3.1 General arrangement • 5.3.2 Performance • 5.3.3 Specifications

• 5.4 Type 10 • 5.4.1 General arrangement • 5.4.2 Performance • 5.4.3 Deployment plans • 5.4.4 Specifications

• 6 Effectiveness • 6.1 Missions

• 6.1.1 The first deployment • 6.1.2 The second deployment • 6.1.3 The third deployment • 6.1.4 The fourth deployment • 6.1.5 The fifth deployment • 6.1.6 The sixth deployment • 6.1.7 The seventh deployment • 6.1.8 The eight deployment • 6.1.9 The ninth deployment

• 6.1.9.1 Sinking of the USS Underhill • 7 Further reading

• 7.1 External links • 7.2 Books • 7.3 References

Page 4: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

[edit] Lịch sử

Kính tiềm vọng của Kaiten Loại 1 (Nd: Type 1), đài tưởng niệm chiến tranh Yasukuni ở Tokyo.Về cuối năm 1943, bộ tư lệnh Nhật theo sự đáp ứng lại với tiến triển không thuận lợi trong cuộc chiến tranh đã lắng nghe những sự gợi ý cho các tàu cảm tử khác nhau. Những gợi ý này ban đầu đã bị bác bỏ nhưng về sau lại được thấy rằng là cần thiết. [2] Cho sở hải quân (Nd: naval department), điều này có nghĩa là các máy bay kamikaze, các tàu, các tàu ngầm cảm tử và các mìn người (Nd: human mines). Trong khi các kamikaze hơi gọi là thành công một chút (Nd: were somewhat successful), cái kế tiếp thành công nhất trong những cái này lại là kaiten (Nd: the next most successful of these was the kaiten). [3]Sự nghiên cứu về các kaiten đầu tiên bắt đầu vào tháng Hai 1944. Theo sau, vào ngày 25 tháng Bảy cùng năm, là nguyên mẫu (Nd: prototype) đầu tiên. Cho đến ngày 1 tháng Tám, một đơn đặt hàng (Nd: order) đã được đặt cho 100 cái (Nd: units). [4][edit] Sự phát triển

Chiếc kaiten thật là đầu tiên (Nd: The very first kaiten) chẳng khác gì (Nd: was nothing more than) một ngăn động cơ ngư lôi loại 93 gắn vào một hình trụ mà sẽ trở thành buồng của hoa tiêu và bồn chỉnh độ chênh (trimming ballast) thay chỗ của đầu nổ (Nd: warhead) và các hệ thống điện tử (Nd: electronics) và hệ thống thủy lực (Nd: hydraulics) khác. Con quay hồi chuyển khí nén của quả ngư lôi đã được thay thế bằng một kiểu chạy điện và các điều khiển đã được kết nối (Nd: were linked up) để trao cho hoa tiêu sự điều khiển đầy đủ trên cái vũ khí.Các nhà thiết kế và những người thử nghiệm nguyên thủy của vũ khí mới này đã là đại úy hải quân (Nd: Lieutenant) Hiroshi Kuroki và đại úy hải quân Sekio Nishina (Nd: Hình như họ tên của người Nhật cũng giống thứ tự của người Việt nhưng trong các tài liệu tiếng Anh, thứ tự này cũng bị đảo ngược). Họ đều đã chết lúc đang điều khiển các kaiten (Nd: They were both to die at the controls of kaitens). Đại úy hải quân Kuroki đã ở trong một nguyên mẫu huấn luyện rất nguyên thủy (Nd: a very early training prototype). [5] [6]Về tổng số, có sáu kiểu kaiten đã được thiết kế, các loại 1, 2, 4, 5 và 6 được dựa trên ngư lôi loại 93. Loại 10 là mẫu duy nhất được dựa trên ngư lôi loại 92. Các loại 2, 4, 5, 6 và 10 đã chỉ được sản xuất như các nguyên mẫu và không bao giờ được dùng trong chiến đấu. [2]Các mẫu thiết kế sớm đã cho phép người hoa tiêu thoát ra sau sự tăng tốc cuối cùng về phía mục tiêu. Không có bản ghi nhận nào về bất kì hoa tiêu nào mà cố thoát hay có ý định làm thế và sự dự phòng này đã bị loại bỏ khỏi các kaiten về sau (Nd: was dropped from later kaitens) để, một khi đã ở bên trong, người hoa tiêu không thể tự đưa mình ra (Nd: the pilot could not let himself out). Chiếc kaiten được lắp một bộ điều khiển cho sự tự hủy, được dự định dùng nếu một cuộc tấn công thất bại hay kíp va chạm (Nd: impact fuse) hư hỏng.

Page 5: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

[edit] Các hoa tiêu

Các tình nguyện viên kaiten trong giai đoạn huấn luyện.Các hoa tiêu kaiten đều là đàn ông, có tuổi giữa 18 và 20. Trong trường hợp họ chết trong khi làm nhiệm vụ (Nd: In the event of their being killed in action), gia đình họ được hứa trả “tiền thưởng” 10 000 yên (Nd: ¥10 000 "reward"). Người ta đã nghĩ rằng do kinh tế thời chiến và xu thế chính trị, điều đó thường là sự lựa chọn nhỏ nhoi nhưng là không đối với tình nguyện viên cho nhiệm vụ kaiten (hay cảm tử khác) (Nd: It is thought that because of the wartime economy and political climate there was often little choice but to volunteer for kaiten (or other suicide) duty). Sự huấn luyện bao gồm việc lái các tàu Shinyo chỉ bằng kính tiềm vọng và đọc thiết bị (Nd: by periscope and instrument readings alone).Khi một hoa tiêu đã tiến qua sự huấn luyện cơ bản với các tàu bề mặt, giờ anh ta có thể lái một kaiten. Trong các giai đoạn huấn luyện ban đầu, chiếc tàu được lắp một ngăn huấn luyện phía trước, không có đầu nổ và một khoang thổi khẩn cấp nếu như thực tập sinh lặn xuống một độ sâu nguy hiểm. [2]Trong chiến đấu thực tế (Nd: In action), chiếc kaiten luôn được lái bởi một người đơn lẻ. Tuy nhiên, trong huấn luyện, các mẫu lớn hơn (loại 2, 4 và 5) có thể mang hai hay thậm chí bốn nhân viên.[edit] Sự triển khai

Bản đồ các vị trí căn cứ Kaiten được biết vào cuối Thế chiến II. (Nd: Chú thích: Major city: thành phố chính, kaiten base: căn cứ kaiten, team: đội, unknown location: không biết vị trí)Tất cả các kaiten, ngoại trừ những chiếc loại 10, được thiết kế cho thủy thủ đoàn đi vào từ một tàu ngầm trong khi lặn. Các kaiten đã có một khả năng độ sâu rất hạn chế và khi được mang trên một boong tàu

Page 6: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

ngầm đã ngăn chính chiếc tàu ngầm khỏi việc lặn sâu hơn. Đây là một trong vài nhân tố mà chịu trách nhiệm cho tỉ lệ sống sót rất tồi của các tàu ngầm mang chúng, tám tàu ngầm bị mất cho việc chỉ đánh đắm hai tàu địch và phá hỏng vài chiếc khác. [7]Các kaiten được thiết kế để được mang vào phạm vi tầm tấn công (Nd: to be carried to within striking distance) trên boong của một tàu ngầm hoặc tàu nổi (Nd: surface ship) hay qua đất liền (Nd: overland) như một vũ khí phòng thủ bờ biển/ duyên hải (Nd: coastal). Chiếc tàu nổi duy nhất mà được ghi nhận là được trang bị để phóng các kaiten đã là chiếc tuần dương hạm (Nd: cruiser) Kitakami mà đã tham gia vào các thử nghiệm phóng ở biển của các kaiten loại 4 [8] . Trong thực tế, tuy nhiên, chỉ có phương pháp triển khai bằng tàu ngầm (Nd: submarine delivery method) là đã từng được dùng trong chiến đấu. Các kaiten đã được buộc vào tàu chủ trên các khối gỗ với một ống hẹp mà được nối từ tàu ngầm đến cửa sập dưới của chiếc kaiten (tất cả ngoại trừ loại 10). Các tàu ngầm được trang bị đặc biệt đã mang từ hai đến sáu kaiten tùy theo lớp của chúng.Một khi mục tiêu đã được tóm bắt (Nd: acquired) và tàu ngầm chủ ở trong cự ly, người hoa tiêu được chỉ dẫn (Nd: briefed), các chai không khí khởi động của kaiten được nạp và buồng lái được thông hơi. Người hoa tiêu sau đó đi vào chiếc tàu (Nd: entered the vessel), con quay hồi chuyển được lập trình (Nd: programmed) bằng hướng (Nd: bearing) và độ sâu chạy đúng và người hoa tiêu được trao sự chỉ dẫn/ sự chỉ thị (Nd: briefing) cuối cùng.Chiếc kaiten tách khỏi tàu ngầm chủ và hướng đi thật nhanh (Nd: headed at speed) theo hướng mà được đặt định vào con quay hồi chuyển. Một khi ở trong tầm tấn công cuối cùng, chiếc kaiten sẽ nổi lên và người hoa tiêu sẽ kiểm tra tầm và hướng của anh ta qua kính tiềm vọng và thực hiện bất kỳ các điều chỉnh nào cần thiết. Sau đó, anh ta sẽ lặn xuống đến một độ sâu thích hợp, bỏ chốt an toàn (Nd: arm) đầu nổ và tiến lên trong sự chạy tấn công cuối cùng. Nếu anh ta trượt, tất nhiên anh ta có thể thực hiện các điều chỉnh và cố lần nữa. Nếu nhiệm vụ thất bại, anh ta sẽ kích nổ tàu của anh ta như một phương kế cuối cùng. [2][edit] Các loại

Trong số các lớp loại khác nhau được tạo (Nd: Of the six different type classes created), chỉ có bốn là từng có ý nghĩa đủ để được chú ý bởi các nhiệm vụ công nghệ của người Mĩ (Nd: American technological missions) vào nước Nhật hậu chiến.[edit] Loại 1

[2] [9] Chỉ có loại 1, một mẫu một người với một đầu nổ 1.550 kg (3.400 cân Anh (Nd: lb)), đã được dùng một cách có hiệu lực (Nd: operationally). Hơn 300 chiếc đã được đóng, hơn 100 chiếc trong số đó đã được gửi đi trong các nhiệm vụ cảm tử.[edit] Sự bố trí chung (Nd: General arrangement)

Sơ đồ (Nd: Schematic) của một Kaiten loại 1 (Nd: Các bạn nhớ từ “schematic” hay “schematics” này. Nó mạnh hơn các từ “plan” hay “diagram” trong việc tìm kiếm các đồ hình máy móc nếu dùng Google; Chú thích sơ đồ: Warhead: đầu nổ; Firing pistol: bí, mình đoán đại loại nó là kíp nổ va chạm của ngư lôi; electric fuse: kíp nổ điện; steering air: không khí lái; type 93 torpedo air vessel: bình không khí của ngư lôi loại 93; hand steering control: bộ điều khiển lái bằng tay; periscope: kính tiềm vọng; deck hatch: cửa sập trên boong; bulwark: thành boong; type 93 mod3 torpedo afterbody: phần thân sau của ngư lôi mẫu biến cải (modification?) 3 loại 93; cover plate: tấm che; hand operated rudder: tấm lái/

Page 7: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

bánh lái vận hành bằng tay; rudder: tấm lái; propeller: chân vịt; diving plane: mặt phẳng lặn; aft trim tank: bồn chỉnh độ chênh phía lái; electric gyroscope: con quay hồi chuyển (chạy bằng) điện; keel hatch: cửa sập dưới sống (tàu); forward trim tank: bồn chỉnh độ chênh phía trước).Quả ngư lôi loại 93 hình thành phần lớn của mẫu kaiten này với các sửa đổi duy nhất là hiệu suất (Nd: yield) đầu nổ được gia tăng từ 490 kg (1.100 cân Anh) và các mặt phẳng điều khiển được mở rộng và được sửa đổi để cho phép sự điều khiển của cả con quay hồi chuyển và hoa tiêu. Giữa đầu nổ của quả ngư lôi và phần động cơ được đặt chai không khí của ngư lôi, 6 (hay 8 trong những lần đóng sau (Nd: later builds)) chai không khí lái và bồn chỉnh độ chênh phía trước, tiếp theo là khu vực điều khiển và chỗ ngồi của hoa tiêu. Ở các lần đóng sau, chai không khí khởi động Tetrachloromethane 5,5 l (9,7 imp pt) được đặt trong buồng lái và thêm một bồn chỉnh độ chênh nhỏ hơn được cung cấp cho sự dùng lúc phóng ban đầu. Phần động cơ được xẻ khe vào bên trên bồn chỉnh độ chênh phía lái (Nd: The engine section is slotted in above the aft trim tank), chỗ nối được bảo vệ bởi một nắp đậy (Nd: cowling) kim loại tấm.Khoang của hoa tiêu được đi vào từ bên dưới qua cửa sập dưới mà được ghép cặp vào tàu ngầm chủ. Có một kính tiềm vọng được vận hành bằng tay nhỏ với một phạm vi thẳng đứng (Nd: vertical range) khoảng 70 cm và các điều khiển để hoạt hóa (Nd: arm) và kích nổ vũ khí nếu cuộc tấn công thất bại, các điều khiển lái, tốc độ và độ sâu cũng được gồm vào. Bên dưới chỗ ngồi của hoa tiêu là các ắc-quy cho con quay hồi chuyển 20 000 vòng/ phút (Nd: RPM).Không khí được giữ cho sạch bởi sự dùng sodium peroxide mà được trữ trong khoang hoa tiêu.Kaiten loại 6 là một cái loại 1 với một bình không khí phía trước được biến cải.[edit] Hiệu suất

Sau lần thử nghiệm chạy dưới nước ban đầu, nó được quyết định là có một tốc độ chạy tiết kiệm trên bề mặt tối đa (Nd: it was decided to have a maximum surface cruising speed; là bao nhiêu???) và do các lý do kỹ thuật, một tốc độ chạy tối thiểu ở bất kỳ độ sâu nào là 9,5 km/h (5,1 kn) và một độ chênh mũi chúi xuống khi chạy ngầm là 1-3° (Nd: and a submerged running trim of 1-3° nose-down).Trong quá trình phát triển và sử dụng, vài vấn đề đã bị gặp phải. Điều cấp bách nhất là những rò rỉ nước nhiều vào khoang hoa tiêu trong khi vận chuyển và lặn sâu và những vụ nổ bị gây ra bởi sự vào nước (Nd: ingress of water) vào động cơ của ngư lôi. Những điều này đã không bao giờ được loại trừ hoàn toàn trong sự phục vụ thực sự của vũ khí này.[edit] Đặc điểm kỹ thuật

Một Kaiten Loại I, Bảo tàng tưởng niệm chiến tranh Yasukuni ở Tokyo (Nd: Tokyo Yasukuni War Memorial Museum).

• Khối lượng tổng cộng: 8,3 tấn (Nd: t) (9,1 tấn Mĩ (Nd: short tons)) • Chiều dài: 14,75 m (48,4 bộ Anh) • Đường kính:: 1 m (3,3 bộ Anh) • Đầu nổ 1.550 kg (3.400 cân Anh) • Cơ cấu kích nổ: Kíp nổ chạm, điện dùng tay (Nd: Contact, Manual electric fuse) • Động cơ: Động cơ ngư lôi loại 93. Hai xi-lanh chuyển động qua lại hoạt động kép có bộ sưởi nóng

kiểu ẩm (Nd: Wet heater Double action Reciprocating) 410 kW (550 mã lực (Nd: hp)) • Chất đẩy (Nd: Propellant): Không khí nén • Tầm tối đa: 78 km (42 hải lý (Nd: nmi)) • Tốc độ tiết kiệm nhiên liệu (Nd: Cruising speed): 22 km/h (12 kn) • Tốc độ tối đa: 56 km/h (30 kn) • Độ sâu vận hành tối đa: 80 m (260 bộ Anh)

Page 8: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

• Số được đóng: 330 [edit] Tính hiệu quả

Các cuộc tấn công của Kaiten loại 1 đã gây nên vụ đắm của chỉ hai tàu Mĩ với mất mát 162 sinh mạng Mĩ, so sánh với 106 hoa tiêu kaiten mất mạng (gồm 15 người bị giết (Nd: killed; đọc cứ như là có ai ám sát mấy người đó trong khi huấn luyện vậy. Có lẽ đúng hơn là “chết”) trong các tai nạn huấn luyện). Thêm vào các hoa tiêu, hơn 800 người đã chết khi tám tàu ngầm Nhật mang kaiten bị đánh chìm. [7] [10][edit] Loại 2

[2] [9] Vào cuối năm 1944, các nguyên mẫu loại 2 đã được thử nghiệm ở ụ khô (Nd: dry-dock; nếu cái này dịch đúng thì xin cám ơn anh em kỹ sư đóng tàu nhiều lắm nghen!) và trong các điều kiện lặn có kiểm soát, tuy nhiên chúng không bao giờ thỏa một tiêu chuẩn mà tốt đẹp cho việc chạy ở vùng nước rộng (Nd: however they never met a standard that was satisfactory for open water running).[edit] Sự bố trí chung

Sơ đồ của một Kaiten loại 2 (Nd: Chú thích hình vẽ: warhead: đầu nổ; firing pistol: bó tay; electric fuse: kíp nổ điện; fuel chamber: khoang nhiên liệu; steering air: không khí lái; periscope: kính tiềm vọng; depth gear: hộp số độ sâu; deck hatch: cửa sập boong; battery: ắc-quy; auxiliary water chamber: khoang nước phụ; generator: máy phát (điện); vertical plane: mặt phẳng đứng; rudder: tấm lái; manual rudder: tấm lái dùng tay; propeller: chân vịt; diving plane: mặt phẳng lặn; man hole: cửa bảo dưỡng; engine: động cơ; aft trim tank: bồn chỉnh độ chênh phía lái; hydrazine hydrate container: thùng chứa hydrazine hydrate; keel hatch: cửa sập dưới sống; pressure oil cylinder: bình trụ dầu áp suất; electric gyroscope: con quay hồi chuyển điện; hydrogen peroxide container: thùng chứa nước ô-xy già; forward trim tank: bồn chỉnh độ chênh phía trước).Loại 2 được cung cấp nhiên liệu bởi (Nd: was fuelled by) diesel và bị ô-xít hóa (Nd: oxidised (danh từ tiếng Anh: oxidation); nôm na là bị ô-xi đốt; nhiều sách giáo khoa hay dịch nhầm là ô-xi hóa; thực ra ô-xít hóa có nghĩa gần đúng là làm cho một chất nào đó trở thành chất ô-xít; ô-xi hóa (danh từ tiếng Anh: oxygenation) có nghĩa là làm cho nồng độ ô-xi trong mô của cơ thể tăng lên, như tế bào hồng cầu mang ô-xi được gọi là ô-xi hóa và hồng cầu này không hề bị ô-xi đốt; hai nghĩa này rất khác nhau) bởi sản phẩm của phản ứng giữa nước ô-xi già (Nd: hydrogen peroxide) và hydrazine hydrate, được xúc tác bởi potassium cuprocyanide, nó cũng dùng nước như chất pha loãng (Nd: diluent) trong chu kỳ đốt (Nd: combustion cycle; hình như cái này cũng là một loại AIP). Cái động cơ đã là một mẫu thiết kế được dành riêng (Nd: bespoke) mà được chế chuyên biệt để thỏa các đòi hỏi cho chiếc kaiten. Nó thuộc một cấu hình U8 và ở ngăn phía lái của tàu, ngăn này thông với biển và nước biển được dùng như chất làm mát. Sự vận hành hoàn chỉnh của động cơ này phải đơn giản đối với một hoa tiêu mà đang bị căng thẳng nhiều rồi (Nd: who was already under immense stress), vậy nó được thiết kế để được điều khiển với một đòn bẩy (Nd: lever) đơn lẻ.Sự chế tạo chung (Nd: general construction) của loại 2 về căn bản là khác với loại 1. Ở phần trước của tàu là đầu nổ, tiếp theo là các bồn nhiên liệu, chỉnh độ chênh và 2 bồn không khí lái. Phần trước của đoạn giữa do khoang nước ô-xi già phức tạp/ phức hợp lớn chiếm (Nd: is occupied by the large complex hydrogen peroxide chamber). Đây là một bồn hình trụ 2.600 l (570 imp gal) mà, do vật liệu mà nó đang mang, là rất phức tạp khi chế tạo (Nd: immensely complicated to make). Sự chế tạo nó (Nd: Its construction) gồm việc hàn 5 gọng (Nd: ribs) cách đều nhau quanh bồn rồi bọc bên trong bồn bằng thiếc

Page 9: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

(Nd: tin), rồi nhựa đường/ hắc ín (Nd: asphalt) và cuối cùng là một lớp mạ thiếc dày (Nd: thick tin plating; Khi cần nạt, má nhôm mang giáp crôm sắt, nịt thiếc chì hay đồng bạc, hao phí vàng). Sự chế tạo (Nd: Construction) của mỗi bồn mất trung bình 2 tuần lễ (Nd: took on average 2 weeks) và tập hợp các kĩ năng được đòi hỏi là rất cao.Tiếp theo sau kể từ khoang peroxide là khoang hoa tiêu. Đây là một khoang phức tạp hơn nhiều với nhiều điều khiển hơn so với loại 1. Các điều khiển từ mũi cho đến lái mà có sẵn cho hoa tiêu là: Hộp số điều khiển độ sâu (Nd: Depth control gear), các điều khiển bồn chỉnh độ chênh, các công tắc (Nd: switches) điện, con quay hồi chuyển, điều khiển tấm lái đứng (Nd: rudder), đòn bẩy điều khiển động cơ, các máy đo cho nhiều thuộc tính khác nhau, hộp số an toàn cho đầu nổ (Nd: warhead safety gear), bộ khởi động động cơ và điều khiển dòng nhiên liệu và các đèn với các công tắc tương ứng của chúng.Ở một phần tư sau của tàu là (Nd: are found) ắc-quy cho con quay hồi chuyển và các thiết bị điện khác (Nd: other electrics), các bồn chỉnh độ chênh phía lái và 2 thùng chứa hydrazine hydrate. Các thùng chứa này là thép, được lót bằng một túi cao su để ngăn nước biển mà được dùng để đẩy hydrazine hydrate vào động cơ và hydrazine hydrate thực sự (Nd: the actual hydrazine hydrate) khỏi đi vào tiếp xúc với nhau. Ngay sau các bồn này là một bồn nước phụ, rồi đến ngăn động cơ.Ngăn động cơ luôn được làm ngập hoàn toàn bằng nước biển (Nd: is always completely filled with sea-water) nên chỉ có các thành phần cơ khí (Nd: tức là không có hóa chất nào khác). Ngay sau đoạn giữa là máy phát điện, rồi động cơ, theo sau là các hộp số giảm (Nd: reduction gears) và cuối cùng là chân vịt và các mặt phẳng điều khiển. (Nd: Không biết cơ chế xả như thế nào nhỉ???)[edit] Hiệu suất

Loại 2 có vài cải tiến so với loại 1. Nó có thể duy trì một cách tương đối đáng tin cậy trên hướng đi mà không cần hoa tiêu điều khiển (Nd: It could stay relatively reliably on course with no pilot input) và có thể chịu đựng các độ sâu gấp hai lần (Nd: twice as deep as) loại 1.Nhiều vấn đề đã bị gặp phải trong mẫu thiết kế và việc chế tạo (Nd: in the design and engineering) của loại 2. Hầu hết là liên quan đến động cơ. Ở các thử nghiệm ban đầu, áp suất của nước đã gây ra sự biến dạng và kẹt động cơ và dù sự gia cố (Nd: strengthening) đã được thêm vào, vấn đề đã không bao giờ được giải quyết đầy đủ. Một khi cái động cơ đã được cài đặt vào một nguyên mẫu loại 2, nó đã không thể đạt được công suất lực được đòi hỏi (Nd: the required power rating) và điều này kèm với tính phức tạp của phương pháp sản xuất của bản thân loại 2 đã dẫn đến sự từ bỏ dự án này.[edit] Đặc điểm kỹ thuật

Bên trong khoang nước ô-xi già của một kaiten loại 2.• Khối lượng tổng cộng: 18,37 tấn (20,25 tấn Mĩ) • Chiều dài: 16,5 m (54 bộ Anh) • Đường kính: 1,35 m (4,4 bộ Anh) • Đầu nổ 1.500 kg (3.300 cân Anh) • Cơ cấu kích nổ: Kíp nổ va chạm, điện dùng tay • Động cơ: Động cơ U8 4,3 l (260 phân Anh khối (Nd: cu in; 4,3 l tức là 4.300 phân khối/ cc)). Loại

làm nóng kiểu ẩm (Nd: Wet heater) 1.110 kW (1.490 mã lực) • Chất đẩy (Nd: Propellant; lẽ ra nên là “nhiên liệu”): Diesel, nước ô-xi già, hydrazine hydrate và

nước biển • Tầm cực đại: 83 km (45 hải lý (Nd: nmi; Tầm quá đã!))

Page 10: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

• Tốc độ cực đại: 75 km/h (40 kn) (Nd: Ối giời!) • Độ sâu vận hành cực đại: 100 m (330 bộ Anh) • Số được đóng: 2

[edit] Loại 4

[2] [9] Vào đầu năm 1945, lo lắng cho nhịp độ chậm chạp của sự phát triển và tính không đáng tin cậy của nguồn cung cấp hydrogen peroxide, bộ hải quân (Nd: admiralty) Nhật Bản quyết định theo đuổi một dòng phát triển kaiten khác (Nd: another line of kaiten development). Các kỹ sư mà chịu trách nhiệm cho sự phát triển kaiten đã chống lại bất kì công việc mới nào (Nd: were opposed to any new work) và mong muốn là dùng cạn các nỗ lực của họ lên sự phát triển và sự sản xuất của loại 1.Về tổng số, có khoảng năm mươi nguyên mẫu loại 4 được chế tạo (Nd: In all about fifty type 4 prototypes were made), tuy nhiên, chúng không bao giờ đi vào sự sản xuất quy mô (Nd: full-scale production) và cuối cùng bị bãi bỏ.[edit] Sự bổ trí chung

Sơ đồ của một Kaiten loại 4 (Nd: Chú thích hình vẽ: warhead: đầu nổ; firing pistol: bó tay; electric fuse: kíp nổ điện; air vessels: các bình không khí; type 93 torpedo air vessel: bình không khí của ngư lôi loại 93; mid trim tank: bồn chỉnh độ chênh giữa; không biết trọng tâm của ngư lôi này ở đâu; tại sao lại có cái giữa?; fuel tank: bồn nhiên liệu; periscope: kính tiềm vọng; deck hatch: cửa sập boong; auxiliary water chamber: khoang nước phụ; vertical plane: mặt phẳng thẳng đứng; hand operated rudder: tấm lái đuôi đứng vận hành bằng tay; rudder: tấm lái đuôi đứng; propeller: chân vịt; diving plane: mặt phẳng lặn; man hole: lỗ bảo dưỡng; engine: động cơ; aft trim tank: bồn chỉnh độ chênh phía lái; keel hatch: cửa sập dưới sống; electric gyroscope: con quay hồi chuyển điện; depth gear: hộp số độ sâu; steering air: không khí lái; forward trim tank: bồn chỉnh độ chênh phía trước).Loại 4 là một nỗ lực nhằm biến cải chiếc kaiten loại 2 để được cấp nhiên liệu bởi cùng tổ hợp kerosene (Nd: dầu hôi/ dầu hỏa) và ô-xi như ngư lôi kiểu (Nd: model) 3, loại 93. Các kích thước, trang bị và động cơ đều giống hệt loại 2 dù sự xếp đặt là khác biệt ở vài khu vực chủ chốt.Đầu nổ giống hệt với loại 2, dù vài kiểu sau này có một nắp đậy cửa tiếp cận (Nd: access cover) ở đầu sau của đầu nổ.Đầu trước của phần trước chứa các bình không khí, có bốn cái trong đoạn này, một bình không khí của ngư lôi loại 93 được cặp sườn (Nd: flanked) mỗi bên bởi 2 bồn chỉnh độ chênh nhỏ ở dưới sống và ba bình nhỏ hơn ngay bên trên nó. Các bình này được giữ tại chỗ đơn giản bằng vật liệu đệm bằng gỗ (Nd: wood packing). Các bình không khí nhỏ hơn là một mẫu thiết kế độc quyền/ độc đáo (Nd: proprietary) mà tiêu tốn một ít nghiên cứu công phu (Nd: that took some heavy research) để hoàn chỉnh. Chúng được niêm kín bởi áp suất của khí, khi áp suất tăng lên, một nắp đậy (Nd: cap) có ren lỏng lẻo ấn lên vào một vòng niêm kín (Nd: sealing ring) mà được vặn ốc xuống (Nd: is screwed down) bằng một nắp đậy khác, do đó làm nên một sự niêm kín khí chặt chẽ (Nd: air tight seal). Ngay phía lái của các bình không khí là bồn nhiên liệu mà được bao vòng (Nd: ringed) bởi các bồn chỉnh độ chênh chính phía trước (Nd: main forward trim tanks). Bồn nhiên liệu được chế nhẹ nhàng/ sơ sài (Nd: is lightly constructed) và chứa các vách ngăn (Nd: baffles) để ngăn sự va đập (Nd: sloshing). Ngay phía sau cái này là 4 chai không khí lái.Không gian của hoa tiêu giống hệt với loại 2 (trừ đi các điều khiển mạch chuyên biệt nước ô-xi già (Nd: hydrogen peroxide specific circuit controls)). Ngay phía sau người hoa tiêu là thêm ba bình trụ ô-xi nhỏ hơn, tuy nhiên trong vài kiểu, những cái này bị bỏ qua (Nd: omitted) và các ghế được đặt vào cho các

Page 11: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

mục đích huấn luyện. Giữa các vách ngăn mà nối phần này với phần động cơ là hai máy phát điện loại 93, cấp điện (Nd: feeding) cho cùng động cơ loại 6 như trong kaiten loại 2.Kaiten loại 5 là một cái loại 4 với một bình không khí phía trước được biến cải (Nd: with a modified forward air vessels).[edit] Hiệu suất

Những lần chạy đầu tiên của loại 4 được thực hiện vào đầu năm 1945 (Nd: It was in early 1945 that the first runs were made of the type 4). Ban đầu là không có hoa tiêu trong nước ở tốc độ tiết kiệm nhiên liệu (Nd: Initially pilot-less in the water at a cruising speed). Người ta đã chú ý thấy rằng hiệu suất của ô-xi là rất thấp. Cùng vấn đề đã lặp lại ở lần chạy thử đầu tiên với một hoa tiêu (Nd: The same problem applied in the first test run with a pilot). Các số ghi của bộ thụ cảm (Nd: Sensor readings) chỉ ra rằng có một tỷ lệ phần trăm lớn ô-xi chưa cháy trong các khí thải.Vũ khí này không bao giờ thực sự làm ra bất kì sự tiến bộ nào trong sự phát triển và chỉ có thể từng cố hết sức để đạt một tốc độ chưa đến 40 km/h trong các thử nghiệm biển khơi (Nd: open sea trials); điều này kết hợp với các rò rỉ không thể dò ra được trong động cơ và tính kém hiệu quả từ đó mà ra của hệ thống đẩy với sự cung cấp ô-xi của nó đã dẫn đến việc mẫu thiết kế này bị ghi hồ sơ (Nd: filed) là một sự thất bại và sự từ bỏ cuối cùng của nó. Sự kiện là hiện kaiten loại 1 đang được sản xuất hàng loạt cũng không giúp được công việc chế tạo loại 4 khỏi bị lâm vào sự đình trệ (Nd: The fact that by now the kaiten type 1 was in mass production also did not help to keep the work on the type 4 from being mothballed).[edit] Đặc điểm kỹ thuật

Một kaiten loại 4 đang được hạ thủy/ phóng (Nd: launched) từ tuần dương hạm được biến cải đặc biệt Kitakami.

• Khối lượng tổng cộng: 18,17 tấn (20,03 tấn Mĩ) • Chiều dài: 16,5 m (54 bộ Anh) • Đường kính: 1,35 m (4,4 bộ Anh) • Đầu nổ 1.800 kg (4.000 cân Anh) • Cơ cấu kích nổ: Kíp nổ va chạm, điện dùng tay • Động cơ: Động cơ U8 4,3 l (260 phân Anh khối (Nd: cu in)). Loại làm nóng kiểu ẩm 900 kW

(1.200 mã lực) • Chất đẩy: Dầu hôi/ dầu hỏa (Nd: Kerosene) và ô-xi • Tầm cực đại: 38 km (21 hải lý (Nd: nmi)) • Tốc độ cực đại: 37 km/h (20 kn) • Độ sâu vận hành cực đại: 100 m (330 bộ Anh) • Số lượng được đóng: ~50

[edit] Loại 10

[2] [9] Sự từ bỏ các loại 2, 4 và các loại trung gian (Nd: intermediaries) của chúng, sự phát triển của các ắc-quy dung lượng (Nd: capacity) lớn hơn, sự thừa thãi các ngư lôi loại 92 và sự cần kíp gia tăng chưa từng có (Nd: the ever increasing urgency) để có thể phòng vệ lãnh thổ chính của Nhật Bản (Nd: the Japanese mainland) đã dẫn đến một sự thay đổi về phương pháp học (Nd: methodology) cho các đội thiết kế kaiten (Nd: kaiten design teams). Loại 10 là kết quả. Về bản chất, nó là một ngư lôi điện loại 92 với một khoang hoa tiêu ở giữa đầu nổ và đơn vị đẩy (Nd: in-between the warhead and drive unit).Hơn 500 chiếc (Nd: units) đã được đặt hàng (Nd: ordered) để được sản xuất giữa tháng Tám và tháng Mười 1945, tuy nhiên, chỉ có khoảng 6 (bao gồm cả các nguyên mẫu) là từng được hoàn tất.

Page 12: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

[edit] Sự bố trí chung

Sơ đồ của một Kaiten loại 10 (Nd: Chú thích sơ đồ: warhead: đầu nổ; electric fuse: kíp nổ điện; starting switch: công tắc khởi động; firing switch: công tắc khai hỏa; periscope: kính tiềm vọng; Các bạn chú ý cách bố trí kính tiềm vọng của cả 4 loại ngư lôi này; nó hạn chế tầm nhìn của người lái rất nhiều, nhất là sang hai bên và ra sau; adjusting handle for oblique-running device: tay cầm điều chỉnh cho thiết bị chạy xiên/ chếch; hatch: cửa sập; adjusting handle for depth gear: tay cầm điều chỉnh cho hộp số độ sâu; air chamber: khoang không khí; hand operated rudder: tấm lái đứng dùng tay; rudder: tấm lái đứng; propeller: chân vịt; gyroscope: con quay hồi chuyển; depth gear and servo-motor: hộp số độ sâu và động cơ của bộ chế động?; electric motor: động cơ điện; aft battery: ắc-quy phía lái; starting valve for gyroscope: van khởi động cho con quay hồi chuyển; steering: thiết bị lái; forward battery: ắc-quy phía trước).Loại 10 nhỏ hơn đáng kể so với loại 1 và do đó là có một đầu nổ nhỏ hơn nhiều là 300 kg (660 cân Anh). Đoạn trước của vũ khí chứa đầu nổ và kíp nổ điện dùng tay nhưng không có bộ kích nổ va chạm (Nd: contact detonator), không như các loại kaiten khác. Đoạn giữa chứa bộ ắc-quy đầu tiên của loại 92 cũng như một chai không khí lái mà được buộc vào bên dưới của vũ khí. Khoang hoa tiêu chứa các công tắc khai hỏa, khởi động và khởi động con quay hồi chuyển cũng như một kính tiềm vọng cố định mà chỉ có thể quay nhưng không thể nâng hay hạ thấp, điều khiển tấm lái đuôi đứng, máy đo độ chênh (Nd: trim gauge) và một hộp thiếc chứa sodium peroxide (Nd: sodium peroxide tin) để lọc không khí. Phần sau của vũ khí chứa phần còn lại của các ắc-quy và một chai không khí lái bên ngoài nhỏ. Các mặt phẳng điều khiển giống hệt với ngư lôi loại 92, có khác hơn là có một tấm lái đuôi đứng dùng tay được lắp vào (Nd: The control planes are identical to the type 92 torpedo's other than having a manually operated rudder fitted).Không như tất cả các kaiten trước đó, loại 10 chỉ có một cửa sập trên, vậy không thể được đi vào từ bên trong một tàu ngầm chủ. Điều này phản ánh mục đích của mẫu thiết kế và sự vận hành của vũ khí như là một vũ khí phòng thủ bờ biển được phóng từ đất liền.[edit] Hiệu suất

Trên giấy/ giấy tờ/ tài liệu (Nd: On paper), mẫu này có vài lợi thế so với các loại trước đó. Trước tiên, nó rất đơn giản để chế tạo và bảo trì (Nd: construct and maintain). Do nó không có các điều khiển của hoa tiêu ngoài sự khởi động và lái, việc huấn luyện các hoa tiêu dùng nó là không phức tạp. Nó được cấp lực bởi điện và do đó là không có vấn đề (Nd: no issue) về sự giảm khối lượng khi nhiên liệu được dùng hết (Nd: used up), một vấn đề mà đã làm đau đầu cho các hoa tiêu thử nghiệm và các hoa tiêu chiến đấu của tất cả các mẫu trước đó. Không như các mẫu khác, động cơ của loại 10 có thể ngừng và thậm chí là đảo ngược được, dù điều này có ít giá trị thực tiễn (Nd: although this would be of little practical value) trong một hoàn cảnh chiến đấu. Cuối cùng, nó rất nhẹ và nhỏ, vậy nó có thể được vận chuyển dễ dàng đến các căn cứ hoạt động khác nhau nếu nhu cầu nảy sinh. [11]Tuy nhiên trong thực tế, loại 10 tỏ ra phiền phức. Những sự rò rỉ nước vào các ngăn ắc-quy và khoang hoa tiêu thường được báo cáo bởi các hoa tiêu thử nghiệm. Nó cũng rất chật chội và bất tiện cho hoa tiêu. Chiến tranh đã kết thúc trước khi sự phát triển có thể thực sự giải quyết các vấn đề này, vậy loại này đã không bao giờ đi vào sự sản xuất hàng loạt.

Page 13: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

[edit] Các kế hoạch triển khai

Loại 10 đã được thiết kế và được dự định như một vũ khí phòng thủ duyên hải để đối phó sự xâm lấn được mong đợi vào lãnh thổ chính của Nhật Bản bởi quân Đồng minh. Vào ngày 16 tháng Bảy 1945, bộ tư lệnh hải quân đế quốc Nhật đã ra lệnh/ đặt hàng sự chế tạo (Nd: construction) của hơn 500 chiếc loại 10 để được đóng quân (Nd: be stationed) và sẵn sàng cho sự phóng/ hạ thủy từ vài căn cứ kaiten đã có sẵn và mới. Các chi tiết có sẵn trong đoạn Sự triển khai ở trên. [11][edit] Đặc điểm kỹ thuật

• Khối lượng tổng cộng: 3 tấn (3,3 tấn Mĩ) • Chiều dài: 9,0 m (29,5 bộ Anh) • Đường kính: 0,70 m (2,3 bộ Anh) • Đầu nổ 300 kg (660 cân Anh) • Cơ cấu kích nổ: Kíp nổ điện dùng tay • Động cơ: Động cơ điện 6 kW (8,0 mã lực) • Chất đẩy/ máy đẩy (Nd: Propellant): 112 pin ắc-quy (28×4) (Nd: 112 (28×4) battery cells) sinh ra

54V ở 120A • Tầm cực đại: 3,5 km (1,9 hải lý) • Tốc độ cực đại: 13 km/h (7,0 kn) • Độ sâu vận hành cực đại: 20 m (66 bộ Anh) • Số lượng được đóng: <6

[edit] Tính hiệu quả

Chiếc USS Mississinewa, nạn nhân của một cuộc tấn công kaiten, ngày 20 tháng Mười một 1944.Khi so sánh với ngư lôi loại 93 mà được phóng từ tàu nổi, các kaiten có các lợi thế hiển nhiên về việc có một hoa tiêu hướng dẫn vũ khí này và được phóng từ một tàu ngầm đang lặn. Tuy nhiên, bất chấp các lợi thế này, chúng không gần như hiệu quả theo kiểu tương đương như (Nd: they were not nearly as effective round-for-round as) quả ngư lôi loại 93 thành công cao mà chúng được dựa vào đó. Các nguồn (tin) (Nd: Sources) từ Mĩ cho là (Nd: claim) các vụ đánh đắm duy nhất mà đạt được bởi các cuộc tấn công kaiten đã là chiếc tàu chở dầu hạm đội (Nd: fleet oiler) USS Mississinewa vào ngày 20 tháng Mười một 1944 với thiệt hại 63 người [12] và chiếc hộ tống khu trục hạm (Nd: destroyer escort) USS Underhill vào ngày 24 tháng Bảy 1945 với thiệt hại 113 người. [13] Trái ngược với ở trên, vài nguồn tin của Nhật cho các số vụ thành công kaiten lớn hơn nhiều, điều này một phần được quy cho (Nd: this is partially attributed to) kích cỡ của vụ nổ sau cú tấn công vào chiếc USS Mississinewa.[edit] Các nhiệm vụ

[edit] Lần triển khai đầu tiên

Nhóm kaiten Kikusui là nhóm đầu tiên được phóng chống lại các tàu địch, trận giao chiến đã xảy ra ở Ulithi vào ngày 20 tháng Mười một 1944. Nhóm gồm hai tàu ngầm (I-47, I-36) mang một tổng số tám kaiten.Nhiệm vụ này đã ghi nhận cho các kaiten trận đánh đắm đầu tiên (Nd: This mission scored the kaitens their first sinking) nhưng ở cái giá là tám hoa tiêu kaiten được huấn luyện để đánh chìm chỉ chiếc USS Mississinewa. Cùng lúc đó, chiếc tàu ngầm I-37 đã bị phát hiện (Nd: spotted) và bị giao chiến bởi các tàu Mĩ ngoài khơi đảo Leyte. Thêm vào sự mất mát tất cả các kaiten của nó, bản thân chiếc tàu đã bị đánh đắm bởi cú tấn công con nhím (Nd: hedgehog) từ khu trục hạm USS Conklin và USS McCoy Reynolds, gây ra sự thiệt hại 117 sĩ quan và lính (Nd: officers and men). [10]Chiếc kaiten đầu tiên mà được phóng từ I-47 do Sekio Nishina lái, một trong các nhà thiết kế ban đầu của

Page 14: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

vũ khí này. Ông đã mang cùng mình tro cốt (Nd: the ashes) của người tạo lập còn lại Hiroshi Kuroki mà đã chết trong một tai nạn huấn luyện rất sớm trong quá trình phát triển của kaiten. [14] [15][edit] Lần triển khai thứ nhì

Nhóm kaiten Kongo được giao nhiệm vụ (Nd: was undertaken) vào ngày 9 tháng Giêng 1945 chống lại các tàu Mĩ neo đậu (Nd: U.S. anchorage) ở Hollandia, Ulithi, Manus và Kossol Roads.I-47 phóng thêm một loạt bốn kaiten nữa (Nd: a further four kaitens) và thành công chỉ trong việc phá hỏng chiếc SS Pontus H Ross, một "tàu Tự do (Nd: Liberty ship)" nhỏ. [14]Ở Ulithi, I-48 bị đánh chìm bởi USS Conklin. Không ai trong số 122 người trên tàu sống sót. [10]I-36 giao chiến các tàu Mĩ bằng các kaiten ở Ulithi vào ngày 12 tháng Giêng 1945. Một trong các kaiten của nó bị tiêu diệt bởi sự bắn khối nổ độ sâu (Nd: depth charge fire) từ VPB-21 nhưng các kaiten khác của nó thành công trong việc phá hỏng USS Mazama và đánh đắm một tàu đổ bộ lục quân (Nd: infantry landing craft) (USS LCI(L)-600).I-53 thành công trong việc phóng bốn kaiten của nó nhưng chỉ có 2 chiếc là đi được (Nd: but only 2 travel any distance) và không có chiếc nào đến được các mục tiêu.I-58 phóng tất cả bốn kaiten mà một trong số đó nổ ngay sau khi xuất phát, một lúc sau sự phóng, các cột khói được phát hiện (Nd: spotted) ở xa dọc theo hướng chung của chúng.I-56 thậm chí không thể đến được các khu vực phóng (Nd: fails to even reach the launching areas) cho các kaiten của nó và quay về nhà mà không bắn một phát đạn nào (Nd: without firing a single shot). [15] [16][edit] Lần triển khai thứ ba

Lực lượng Chihaya khởi hành vào ngày 20 tháng Hai 1944, hướng về (Nd: headed for) Iwo Jima.I-44 bị phát hiện và bị săn đuổi trong hơn 2 ngày chạy dưới nước; tỉ lệ phần trăm khí các-bô-ních (Nd: carbon dioxide) đã đạt đến 6% trước khi nó có thể trốn thoát.I-368 trong lúc tiếp cận Iwo Jima bị phát hiện bởi một Grumman TBF Avenger vào ngày 26 tháng Hai và sau đó bị tấn công bằng các mìn mark 24 và bị đánh đắm với thiệt hại tất cả 85 nhân mạng (Nd: and sunk with the loss of all 85 hands). [10]I-370 bị phát hiện và bị tấn công bởi USS Finnegan vào ngày 26 tháng Hai. Sau một lần chạy con nhím và khối nổ độ sâu ban đầu, một lần chạy khối nổ độ sâu cuối cùng đã đánh trúng (Nd: After an initial hedgehog and depth charge run a final depth charge run is commenced) và không lâu sau, các vụ nổ nhỏ và các bọt bong bóng được phát hiện. I-370 bị đắm với tất cả 84 sĩ quan và lính trên tàu cũng như tất cả các kaiten và các hoa tiêu của nó. [10] [15][edit] Lần triển khai thứ tư

Lượt xuất kích (Nd: sortie) Shimbu ban đầu được dự định là bổ sung cho các cuộc tấn công trước đó vào Iwo Jima và được mở (Nd: launched) vào ngày 1 tháng Ba 1945. I-58 và I-36 đã cách Iwo Jima không quá một ngày (Nd: were within a day of Iwo Jima) khi chúng được gọi lại cho một cuộc hành quân mới (Nd: when they were recalled for a new operation). Cả hai trở về nhà an toàn. [15][edit] Lần triển khai thứ năm

Nhóm Tatara gồm I-44, I-47, I-56 và I-58 sắp tấn công (Nd: was to attack) các tàu Mĩ bỏ neo ở Okinawa, chúng khởi hành vào ngày 28 tháng Ba 1945.Vào ngày 29 tháng Ba, I-47 bị tấn công bởi một phi đội các Grumman TBF Avenger và bị buộc phải lặn xuống. Nó bị truy đuổi trong vài tiếng đồng hồ trước khi phải nổi lên một lần nữa. Khi nổi lên, nó bị bắn trúng bởi vài mảnh đạn hay mảnh vỡ (Nd: shrapnel or fragments) và kính tiềm vọng và các bồn nhiên liệu của nó bị phá hỏng. Nó bị buộc phải ì ạch trở về nhà (Nd: to limp home) để sửa chữa. [14]I-56 bị phát hiện lúc đang tiếp cận Okinawa và bị săn bởi chiếc tuần dương hạm USS Bataan và các khu trục hạm USS Heerman, USS Uhlmann, USS Collet, USS McCord và USS Mertz (Nd: Úi giời!), nó bị đánh khối nổ độ sâu một cách nặng nề bởi các máy bay từ chiếc tuần dương hạm và sau đó là ba khu trục hạm và cuối cùng chịu thua trước sự tàn bạo của cuộc tấn công (Nd: and eventually succumbs to the ferocity of the assault), đắm với tất cả 122 người trên tàu. [10]I-58 bị truy lùng bởi các máy bay và sự bắn chống tàu ngầm (Nd: is hounded by aircraft and anti-submarine fire) và đến được đích đến trễ. Nó quay về mà không bắn một phát đạn nào.Vị trí và các hoạt động của chiếc I-44 thì không ai biết trong toàn bộ nhiệm vụ. [15]

Page 15: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

[edit] Lần triển khai thứ sáu

Nhiệm vụ Tembu gồm I-47 và I-36. Chúng sắp tấn công các tàu hàng và chở quân (Nd: cargo and troop ships) giữa Ulithi và Okinawa. I-47 khởi hành vào ngày 20 tháng Tư và I-36 vào ngày 22 tháng Tư.Vào ngày 27 tháng Tư, I-36 phóng các kaiten của nó (bốn) vào một đoàn công-voa 28 tàu Mĩ, không có chiếc nào trong số chúng thành công trong việc đến được bất kỳ các mục tiêu nào. Hai trong số các kaiten của nó không thể phóng được. I-36 trong khi đi tuần tra (Nd: cruising) phía đông của Okinawa đã chú ý một tàu tiếp liệu (Nd: replenishment vessel) đang đi mà không được hộ tống (Nd: sailing unescorted). Viên chỉ huy cố phóng các kaiten nhưng chúng thất bại, một cuộc tấn công ngư lôi kết thúc khi các ngư lôi bị kích nổ quá sớm (Nd: a torpedo attack ends when the torpedoes detonate prematurely).Vào ngày 2 tháng Năm, I-47 mở một cuộc tấn công hai kaiten vào hai tàu Mĩ, một giờ sau, các vụ nổ được nghe thấy và I-47 phóng một kaiten vào chiếc tàu hộ tống. Sự phân tích về sau cho thấy rằng không có kaiten nào được phóng là thành công và các vụ nổ được nghe thấy có thể là sự tự hủy của các hoa tiêu kaiten hay sự bắn chống tàu ngầm.Trong khi không phải là thành phần của lần triển khai Tembu, một tàu ngầm mà khả năng là I-44 bị phát hiện quanh khu lân cận của Okinawa vào ngày 29 tháng Tư bởi một máy bay từ chiếc USS Tulagi. Trước tiên chiếc tàu ngầm bị đánh trúng bởi một khối nổ độ sâu và cuối cùng bởi một mìn mark 24. Tất cả 129 người đều thiệt mạng (Nd: All 129 hands were lost). [10] [15][edit] Lần triển khai thứ bảy

Lần xuất kích Shimbu chỉ gồm I-367 và được khởi đầu vào ngày 5 tháng Năm 1945 hướng về tây bắc Saipan, nó bị phá hỏng bởi một mìn vào ngày 6 tháng Năm và không thể tiếp tục nhiệm vụ cho đến ngày 17 tháng Năm (Nd: and cannon continue her mission until 17 May). Cho đến ngày 27 tháng Năm, I-367 phát hiện một đoàn công-voa hỗ trợ hậu cần bốn tàu và phóng hai kaiten. Ít nhất một trong các kaiten bị tiêu diệt bởi sự bắn súng từ USS Sioux. Các kaiten còn lại chịu các hư hỏng kiểu nào đó (Nd: The rest of the kaitens suffer from failures of some kind) và không thể phóng. I-367 về nhà. [15][edit] Lần triển khai thứ tám

Nhóm các tàu ngầm Todoroki được trang bị kaiten xuất kích (Nd: sorties) vào ngày 24 tháng Năm để tuần tra phía đông của Guam.I-36 phát hiện một tàu chở dầu (Nd: oiler) đơn độc vào ngày 22 tháng Sáu và khởi phát một cuộc tấn công bằng các kaiten của nó, cả hai đều thất bại và nó mở một cuộc tấn công bằng bốn ngư lôi bình thường mà nổ sớm và phá hỏng chiếc USS Endymion (6), một tàu sửa chữa tàu đổ bộ. Vào ngày 28 tháng Sáu, I-36 tấn công chiếc USS Antares với một kaiten đơn lẻ, tàu này xoay xở để đánh chìm chiếc kaiten bằng các súng phòng vệ của nó và báo hiệu cho một khu trục hạm gần đó (USS Sproston). Chiếc khu trục hạm đến nơi và bắt đầu tấn công bằng các khối nổ độ sâu, chiếc tàu ngầm bắn một ngư lôi đơn lẻ mà không trúng. Thêm các tàu đến khu vực và chúng tiếp tục săn chiếc I-36, tuy nhiên nó xoay xở mà trốn thoát với chỉ một rò rỉ nhỏ ở buồng ngư lôi phía trước và một tấm lái đuôi đứng (Nd: rudder) hư hỏng. Nó sẽ không còn làm nhiệm vụ nữa (Nd: She would not see any more action) trong cuộc chiến tranh và đã đầu hàng quân đồng minh sau khi sự đầu hàng chính thức được tuyên bố.Vào ngày 16 tháng Sáu, I-165 bị USS Devilfish phát hiện, chiếc tàu ngầm Mĩ bắn một cặp ngư lôi nhưng chúng dễ dàng lượn gần chiếc tàu Nhật (Nd: but they easily glide by the Japanese vessel). Vào ngày 27 tháng Sáu, một chiếc Lockheed Ventura tuần tra phát hiện I-165 và ném ba khối nổ độ sâu mark 47 và đánh trúng thành công và đánh chìm chiếc tàu ngầm. Đã có 106 sĩ quan và lính trên tàu. [10]I-361 bị phát hiện bởi một tàu quét mìn (Nd: minesweeper) vào ngày 26 tháng Năm và tàu vận tải/ tàu hàng không mẫu hạm (Nd: the carrier) USS Anzio được báo động và phóng các máy bay để tìm chiếc tàu ngầm. Năm ngày sau, một chiếc Grumman TBF Avenger tuần tra phát hiện chiếc I-361 và phóng một loạt hỏa tiễn (Nd: and launches a volley of rocket fire). Chiếc tàu ngầm lặn xuống và chiếc máy bay thả một mìn mark 24 mà phát nổ gần chiếc tàu ngầm (Nd: detonates close tot he submarine). Vụ nổ được thủy thủ đoàn của chiếc USS Oliver Mitchell nhận thấy cách đó 30 km (16 hải lý). Toàn bộ thủy thủ đoàn 81 người thiệt mạng. [10]Vào ngày 28 tháng Năm, I-363 phát hiện vài tàu nhưng không thể vào được tầm bắn kaiten. Vào ngày 15 tháng Sáu, nó phát hiện một đoàn công-voa và tấn công bằng các ngư lôi thường do biển động (Nd: rough seas). I-363 về nhà. [15]

Page 16: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

[edit] Lần triển khai thứ chín

Lực lượng Tamon là nhóm được trang bị kaiten cuối cùng tham chiến. Nó là một lực lượng lớn gồm I-47, I-53, I-58, I-363, I-366 và I-367. Chúng khởi hành vào ngày 14 tháng Bảy, hướng về một khu vực ở phía đông nam của Okinawa. I-363 và I-367 không giao giờ giao chiến trong các cuộc chiến đấu thêm nữa trước khi sự tuyên bố về sự đầu hàng không điều kiện và một sự kết thúc tất cả các hoạt động quân sự (Nd: hostilities).Chiếc I-47 phóng một kaiten vào một tàu buôn (Nd: merchant) đơn độc vào ngày 21 tháng Bảy nhưng cuộc tấn công không thành công. Nó sẽ không còn thấy hoạt động chiến sự nào nữa/ không còn được giao nhiệm vụ nữa (Nd: She would see no further action). [15][edit] Vụ đánh chìm chiếc USS Underhill

Chiếc USS Underhill (DE-682)Cho thông tin hoàn chỉnh hơn, xin vui lòng xem: Vụ đánh chìm chiếc Underhill.

Người ta còn tranh cãi về việc cú tấn công thành công nhất bởi các kaiten là cú đánh vào chiếc USS Underhill (Nd: Arguably the most successful attack by kaitens was that on the USS Underhill). Nó là một đơn vị thuộc lớp Buckley đông đảo và vào lúc bị đánh chìm là đang hộ tống vài tàu tiếp tế và chở quân. Sau khi bị phát hiện (Nd: Subsequent to being spotted) bởi một máy bay trinh sát hải quân của Nhật; tàu ngầm I-53 mà được sáp nhập vào (Nd: attached to) nhóm Tamon và mang sáu kaiten đã được tái hướng dẫn đến vị trí được mong đợi của đoàn công-voa.Chiếc tàu ngầm đã phóng một mìn mồi nhử (Nd: decoy mine) ở phía trước vị trí của đoàn công-voa, làm cho đoàn công-voa dịch chuyển hướng để tránh quả mìn. Tuy nhiên, điều này chỉ là có tính nghi binh (Nd: diversionary) và quả mìn là một vật giả. Chiếc USS Underhill sau khi nhận ra điều này đã chú ý đến vài sự tiếp xúc sonar (Nd: several sonar contacts), mà hóa ra là một tàu ngầm Nhật và vài kaiten (Nd: which were alter revealed to be a Japanese submarine and several kaitens). Một cú chạy khối nổ độ sâu được thực hiện mà không thành công trong việc diệt chiếc tàu ngầm dù người ta nghi ngờ rằng nó đã thành công trong việc vô hiệu hóa một trong các kaiten. Cú chạy khối nổ độ sâu được theo sau bởi một nỗ lực húc/ ủi/ tông (Nd: a ramming attempt) vào một tàu ngầm ở độ sâu kính tiềm vọng (Nd: Gần quá, súng pháo hạng nặng đủ loại hết tác dụng? Cái này Bác Hồ kêu là “Bám lấy thắt lưng địch mà đánh” đây mà!).Khi chiếc USS Underhill húc chiếc tàu nổi lên (về sau hóa ra là một kaiten (Nd: !!!)), nó bị đánh trúng bởi một kaiten thứ nhì mà đang chờ phục kích (Nd: waiting in ambush). Cả hai hoa tiêu đã kích nổ các khối nổ của họ, một trong số đó dẫn đến sự phát nổ các nồi hơi (Nd: boilers) của chiếc khu trục hạm, dẫn đến việc nó bị xé ra làm đôi bởi các vụ nổ. Vụ chìm đã gây ra sự mất mát của gần nửa quân số đầy đủ (Nd: compliment; đúng ra phải là “complement”) của nó gồm hầu hết các sĩ quan.Một trong các kaiten tấn công cũng đã cố tấn công (Nd: attempt an attack) vào một tàu hàng LST-991, nhưng vì lí do nào đó lại lượn sát (Nd: glided cleanly) bên dưới sống của chiếc tàu. Rất có thể cũng chiếc kaiten này là chiếc mà đã húc thành công và đánh đắm chiếc USS Underhill (Nd: This very same kaiten could be the one which successfully rammed and sank the USS Underhill). [13] [17]Yutaka Yokota, một hoa tiêu kaiten mà ba nhiệm vụ của ông ta đã bị hủy bỏ do hư hỏng cho vũ khí của ông ta hay các lỗi với cái vũ khí, đã là một nhân chứng cho cuộc tấn công vào chiếc USS Underhill. [7]Theo sau cuộc tấn công thành công lên chiếc USS Underhill, I-53 phóng thêm một kaiten nữa vào một tàu

không rõ tên 6 ngày sau. Cuộc tấn công bất thành. Vào ngày 3 tháng Tám, I-53 bị USS Earl. V. Johnson phát hiện và chiếc khu trục hạm đã mở một loạt các cuộc tấn công con nhím bất thành. I-53 phóng hai kaiten cách nhau 30 phút, các vụ nổ đã được nghe thấy và người ta xác nhận là chiếc khu trục hạm đã bị phá hỏng trong cuộc tấn công. Nó trốn thoát cuộc truy kích và về nhà.

Page 17: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

Chiếc I-58 đang tuần tra tuyến đường Guam-Leyte vào ngày 28 tháng Bảy khi nó bị buộc phải lặn xuống bởi một máy bay. Một tàu bồn chở dầu (Nd: tanker) và chiếc USS Lowry bị phát hiện và viên chỉ huy quyết định tấn công. Hai kaiten được phóng nhưng một chiếc bị đánh chìm bởi sự bắn pháo và chiếc kia thì bị chìm do chiếc khu trục hạm húc, tuy nhiên chiếc khu trục hạm bị hư hỏng nhẹ trong lúc đó (Nd: are launched but one is sunk by gun fire and the other when the destroyer rams it although the destroyer is lightly damaged in the process). Một ngày sau, chiếc I-58 phát hiện chiếc USS Indianapolis và kiên quyết (Nd: resolves) làm một đường chạy tấn công (Nd: to make an attacking run), viên chỉ huy ra lệnh 2 kaiten chuẩn bị tấn công. Một khi ở trong tầm bắn, viên chỉ huy nhận ra là tấn công một mục tiêu dễ như thế bằng một kaiten là lãng phí và phóng một cú rải/ cú xõa (Nd: a spread) sáu ngư lôi loại 95, ba trong số chúng đánh trúng, làm chiếc tuần dương hạm chìm nhanh chóng. Vào ngày 9 tháng Tám, chiếc I-58 chú ý một đoàn công-voa được dẫn đầu bởi chiếc USS Salamua và sẵn sàng ba trong số các kaiten của nó để tấn công dù hai chiếc bị hư (Nd: fail). Một kaiten được phóng, tiếp theo một chiếc khác hướng về chiếc USS Johnnie Hutchins, một chiếc trượt sát chiếc khu trục hạm, tuy nhiên, cả hai đều bị tiêu diệt bởi sự bắn súng và khối nổ độ sâu. Đoàn công-voa tổ chức săn các tàu ngầm khác nữa nhưng chiếc I-58 trốn thoát. Vào ngày 12 tháng Tám, một cuộc tấn công kaiten được thực hiện lên chiếc USS Oak Hill (Nd: Đồi cây sồi?) và tàu hộ tống nó, chiếc USS Thomas F. Nickel, chiếc kaiten băng qua bên dưới chiếc khu trục hạm và tự kích nổ (Nd: ???), một mục tiêu/ vật thể thứ nhì (Nd: a second object) bị chiếc khu trục hạm phát hiện và các khối nổ độ sâu được phóng, một vụ nổ xảy ra. Cho dù người ta không biết đây có phải là một chiếc kaiten hay không (Nd: Whether this was a kaiten is unknown; Câu này quái quá!), do tất cả sáu vũ khí của I-58 đều được giải thích (Nd: all six of I-58's weapons are accounted for), nhưng với hai chiếc hư hỏng (Nd: but with two failures), có lẽ một chiếc đã được sửa chữa và được phóng. [18]Vào ngày 11 tháng Tám, I-366 phát hiện và tấn công một đoàn công-voa ở phía bắc Palau. Viên chỉ huy cố phóng tất cả các kaiten của ông ta, tuy nhiên hai trong số chúng không phóng được (Nd: fail to launch) và những chiếc mà được phóng không bao giờ ghi nhận được một cú đánh trúng hay thậm chí là nổ (Nd: the ones that were launched never record a hit or even explode). Nước Nhật đầu hàng và tất cả các tàu ngầm được ra lệnh về nhà. I-366 không bao giờ được hoạt động nữa (Nd: never sees any more action).[edit] Further reading

• Midget submarine • Human torpedo • Living torpedo • Type 92 torpedo • Type 93 torpedo • Kamikaze • Shinyo • Fukuryu • Kairyu

[edit] External links

Wikimedia Commons has media related to: Kaiten

• Kaiten Memorial Museum located at former kaiten base on Otsushima Island . • Kamikaze Submarine Yutaka Yokota a surviving kaiten pilot. • US Navy Historical Center Account of the kaiten program. • Kaitens in action. Details of battles and accounts of kaitens type 1 and 2. • Stories and Battle Histories of the IJN's Submarines • HNSA Web Page: IJN Kaiten

• Human torpedo 回天 Kaiten (Japanese) • Development and history. Information about kaitens, their history, crews, bases, and technical

information. (Japanese). [edit] Books

• Sheftall, M.G. (2005). Blossoms in the Wind: Human Legacies of the Kamikaze. NAL Caliber. pp. 480pp. ISBN 0-451-21487-0.

Page 18: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

• Carpenter and Polmar, Dorr and Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-870-21682-1.

• Kemp, Paul (2003). Midget Submarines of the Second World War. Caxton Editions, London.. pp. 54–58pp. ISBN 1-84067-521-7.

• Gardiner, Robert (2006). All the World's Fighting Ships. Conway Maritime Press, London.. pp. 197–205pp. ISBN 0-85177-146-7.

[edit] References

1. ^ Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet, 1914-1945. Translated by Commander E.H.M. Colegrave. New York: Henry Holt and Company.

2. ^ a b c d e f g h Japanese suicide craft. US Navy. 1946.

3. ^ "Japanese suicide attacks at sea". http://www.ww2pacific.com/suicide.html. Retrieved 11 September 2010.

4. ^ "Kaiten "Kamikaze"". http://www.asahi-net.or.jp/~un3k-mn/kaiten-dainyuu.htm. Retrieved 15 September 2010.

5. ^ Bull, Stephen (2004). Encyclopaedia of technology and innovation. Greenwood Press. pp. 370pp. ISBN 1573565571.

6. ^ "home". http://online.sfsu.edu/~amkerner/Kaiten/. Retrieved 17 September 2010.

7. ^ a b c "Kaiten memorial museum". http://wgordon.web.wesleyan.edu/kamikaze/museums/kaiten/. Retrieved 10 September 2010.

8. ^ "Cruiser Kitakami". http://www.combinedfleet.com/kitakami_t.htm. Retrieved 12 September 2010.

9. ^ a b c d "Kaiten type 10". http://www.asahi-net.or.jp/~un3k-mn/kai-kaiten10.htm. Retrieved 15 September 2010.

10.^ a b c d e f g h i "Japanese submarine losses". http://www.asahi-net.or.jp/~un3k-mn/kai-sen.htm. Retrieved 16 September 2010.

11.^ a b "Kaiten type 10". http://www.asahi-net.or.jp/~un3k-mn/konadae-juugata.htm. Retrieved 15 September 2010.

12.^ "USS Mississinewa memorial page". http://www.ussmississinewa.com/home.html. Retrieved 12 September 2010.

13.^ a b "USS Underhill memorial page". http://www.ussunderhill.org/. Retrieved 12 September 2010.

14.^ a b c "I-47 Japanese Submarine". http://www.pacificwrecks.com/ships/subs/I-47.html. Retrieved 12 September 2010.

15.^ a b c d e f g h i "Japanese submarine TROMs". http://www.combinedfleet.com/sensuikan.htm. Retrieved 12 September 2010.

16.^ "USS Snook". http://aimm.museum/snook.asp. Retrieved 12 September 2010.

17.^ "KAITEN SPECIAL ATTACK SUBMARINE". http://combinedfleet.com/ships/kaiten. Retrieved 12 September 2010.

18.^ "I-58". http://www.history.navy.mil/photos/sh-fornv/japan/japsh-i/i58.htm. Retrieved 13 September 2010.

Retrieved from "http://en.wikipedia.org/wiki/Kaiten"

Categories: Torpedoes of Japan | World War II Japanese suicide weapons

Hidden categories: Articles containing Japanese language text

Page 20: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

Toolbox

• What links here • Related changes • Upload file • Special pages • Permanent link • Cite this page

Print/export

• Create a book • Download as PDF • Printable version

Languages

• Česky • Deutsch • Español • Esperanto • Français • Italiano • Lietuvių • Nederlands

• 日本語 •

Norsk (bokmål) • Polski • Русский • Simple English • Slovenčina • Svenska

• 中文

• This page was last modified on 17 September 2010 at 13:28.

• Text is available under the Creative Commons Attribution-ShareAlike License; additional terms may apply. See Terms of Use for details.Wikipedia® is a registered trademark of the Wikimedia Foundation, Inc., a non-profit organization.

• Contact us

• Privacy policy

• About Wikipedia

• Disclaimers

Page 21: Tàu ngầm cảm tử Hồi Thiên (Nd: Kaiten) của phát xít Nhật

Đuối quá!!! Dịch xong: 22:13, 27-09-2010