Upload
lenga
View
219
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
1
Tên học phần:
VĂN HOA TRANG PHUC VIÊT NAM
Số tín chỉ: 02 (24 tiêt ly thuyêt, 6 tiêt thao luân)
Khoa phụ trách: Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN
Mã số học phần: 317189
Dạy cho các ngành: Cư nhân Văn hoa học.
1. Mô tả học phần:
Văn hoa trang phục Việt Nam là môn học cung câp nên tang kiên thưc vê quá
trinh sáng tạo môt bô trang phục, sư phát triên cua trang phục Việt Nam qua các giai
đoạn lich sư. Môn học gop phần làm ro những săc thái nôi bât nhât cua văn hoa dân
tôc thông qua trang phục các dân tôc thiêu số. Cung như ban săc văn hoa, trang phục
dân tôc luôn biên đôi không ngưng tuy theo hoàn canh lich sư, vân đê đăt ra là chung
ta cần làm gi đê vân giữ cái cốt cách, cái nên tang ban đầu, nhưng vân co yêu tố cách
tân, đôi mơi đê trang phục luôn toát lên ve đep con người Việt Nam.
Môn học gồm 5 chương chính: (1) Khái niệm trang phục và văn hoa trang
phục; (2) Trang phục Việt Nam tư truyên thống đên hiện đại; (3) Trang phục hôi he,
nghi lê, tôn giáo ; (4) Môt số trang phục cô truyên các dân tôc thiêu số ; (5) Văn hoa
trang phục Việt Nam – Những vân đê cơ ban .
2. Điều kiện tiên quyết: Không
3. Mục tiêu môn học:
3.1. Mục tiêu chung:
Học xong môn học này, sinh viên co được:
* Về kiến thức:
- Trinh bày được những tri thưc vê khái niệm trang phục và văn hoa trang
phục.
2
- Trinh bày sư phát triên cua trang phục Việt Nam qua các giai đoạn lich sư.
Nêu được những binh diện cơ ban, co hệ thống vê văn hoa Việt Nam.
- Phân biệt tính phu hợp, tính thích nghi cua trang phục và biêu hiện cua tính
phu hợp, tính thích nghi trong trang phục.
- Trinh bày đăc điêm môt số trang phục các dân tôc thiêu số Việt Nam
- Phân tích, đánh, giá, nhân đinh vê đăc trưng, chưc năng, giá tri cua văn hoa
trang phục trong nên văn hoa quốc gia và tôc người.
- Nhân diện những thách thưc đăt ra đối vơi trang phục cô truyên trong đời
sống hiện đại, đây là yêu tố cần bao lưu, đâu là yêu tố cần diêu chỉnh đê thích nghi
vơi nhu cầu cua người sư dụng hiện đại.
* Kĩ năng:
- Phân tích, binh luân, đánh giá các giá tri cua trang phục Việt Nam
- Vân dụng được những kiên thưc đã học vào việc khao ta, nghiên cưu môt bô
trang phục.
- Vân dụng được những kiên thưc đã học đê co thê tư khám phá, tim tòi, phát
hiện những yêu tố văn hoa trang phục mơi.
* Thái đô:
- Yêu thích môn học, ngành học.
- Tư hào ban săc văn hoa trang phục Việt Nam, phê phán những trào lưu trang
phục đi ngược vơi thuần phong my tục cua dân tôc Việt Nam.
- Tích cưc nâng cao sư hiêu biêt vê trang phục các dân tôc thiêu số Việt Nam,
đê gop phần quang bá, giữ gin và phát huy net đep trang phục các dân tôc Việt Nam.
3.2. Mục tiêu khác:
- Gop phần phát triên ky năng công tác, làm việc nhom.
- Gop phần phát triên ky năng tư duy sáng tạo, khám phá tim tòi.
- Gop phần trau dồi, phát triên năng lưc đánh giá.
4. Nội dung chi tiết môn học và hình thức dạy học:
4.1. Nội dung cụ thể:
Chương 1: Khái niệm trang phục và văn hoa trang phục (4 tiêt)
1.1. Trang phục – Biêu hiện cua văn hoa
1.2. Trang phục – Môt thành tố cơ ban cua văn hoa
3
1.3. Khái niệm trang phục và văn hoa trang phục
Chương 2 : Trang phục Việt Nam tư truyên thống đên hiện đại (8 tiêt)
2.1. Trang phục thời kỳ Hung Vương
2.2. Trang phục thời Ngô – Đinh – Tiên Lê
2.3. Trang phục thời Ly
2.4. Trang phục thời Trần
2.5. Trang phục thời nhà Hồ
2.6. Trang phục thời Lê
2.7. Trang phục thời Nguyên
2.8. Trang phục tư cách mạng tháng Tám đên nay
Chương 3: Trang phục hôi he, nghi lê, tôn giáo (4 tiêt)
3.1. Trang phuc cươi
3.2. Trang phục tang
3.3. Trang phục tôn giáo
Chương 4: Trang phục cô truyên các dân tôc Việt Nam (8 tiêt)
4.1. Trang phục dân tôc Kinh
4.2. Trang phục dân tôc Mường
4.3. Trang phục dân tôc Tày
4.4. Trang phục dân tôc Nung
4.5. Trang phục dân tôc Thái
4.6. Trang phục dân tôc Dao
4.7. Trang phục dân tôc Ê-đê
4.8. Trang phục dân tôc Gia Rai
4.9. Trang phục dân tôc Chăm
4.10. Trang phục dân tôc Khơ Me
4.11. Trang phục dân tôc Hoa
Chương 5: Văn hoa trang phục Việt Nam – Những vân đê cơ ban (6 tiêt)
5.1. Quá trinh sáng tạo các giá tri văn hoa trang phục
5.2. Các chưc năng cua trang phục
4
5.3. Các giá tri nôi bât cua văn hoa trang phục
5.4. Trang phục và thời đại
5.5. Vân đê đăt ra đối vơi trang phục cô truyên trong đời sống hiện đại
Kết luận
4.2. Hình thức tổ chức dạy học:
Tên chương
Số
tiêt lí
thuyê
t
Số
tiêt
thưc
hàn
h
Số
tiêt
thao
luân
Số
tiêt
bài
tâp
Tài liệu tham khao cần thiêt
Chương 1.
Khái niệm trang
phục và văn hoa
trang phục
4
Tài liệu số [5] (tư tr.13->18);
Chương 2.
Trang phục Việt
Nam tư truyên
thống đên hiện đại
8
Tài liệu số [5] (tư tr.19->67);
Tài liệu số [7] (tư tr.58 ->75);
Tài liệu số [8](tư tr.363 ->400);
Chương 3.
Trang phục hôi he,
nghi lê, tôn giáo
4
Tài liệu số [1] (toàn bô);
Tài liệu số [2] (toàn bô).
Chương 4.
Trang phục cô
truyên các dân tôc
Việt Nam
2 6
Tài liệu số [4] (tư tr.197 -
>260); Tài liệu số [6] (tư tr.10
->20);
Chương5.
Văn hoa trang phục
Việt Nam – Những
vân đê cơ ban
6
Tài liệu số [3] (tư tr.737 -
>845); Tài liệu số [11] (tư tr.15
->40);
5. Tài liệu tham khảo:
5.1. Tài liệu chính:
5
[1] Nguyên Thi Đưc (1998), Văn hóa trang phục từ truyền thống đến hiện đại,
Nxb Văn hoa – Thông tin, Hà Nôi.
[2] Nguyên Thu Phương (2005), Trang phục Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại, Nxb Lao đông, Hà Nôi.
5.2. Tài liệu tham khảo:
[3] Diệp Trung Binh (2005), Hoa văn trên vai dân tôc Mương, Nxb Văn hoa
dân tôc
[4] Đô Thi Hòa (2004), Trang phục cac dân tôc nhóm ngôn ngư Tạng – Miến,
Nxb Văn hoa dân tôc
[5] Nhiêu tác gia (2012), Trang phục cô truyền va hoa văn trên vai cac dân tôc
Việt Nam, Nxb Văn hoa dân tôc
[6] Lê Ngọc Thăng (1990), Nghệ thuật trang phục Thai, Nxb Văn hoa dân tôc
– Trung tâm văn hoa Việt Nam, Hà Nôi.
[7] Ngô Đưc Thinh (2000), Trang phục cô truyền cac dân tôc Việt Nam, Nxb
Văn hoa dân tôc, Hà Nôi.
[8] Phan Câm Thượng (2011), Văn minh vật chât cua ngươi Việt, Nxb Tri thưc
[9] Đoàn Thi Tinh (1987), Tìm hiểu trang phục Việt Nam (dân tôc Việt), Nxb
Văn hoa, Hà Nôi.
[10] Trần Tư (1978), Hoa văn Mương, Nxb Văn hoa dân tôc, Hà Nôi.
[11] Bui Văn Vượng (2010), Nghề dệt, nghề thêu cô truyền Việt Nam, Nxb
Thanh niên
6. Phương pháp đánh giá học phần
Trọng số:
Chuyên cần: 0,1
Bài tâp cá nhân: 0,1
Kiêm tra giữa học phần: 0,2
Thi kêt thuc học phần 0,6
Công 1,0
Tính theo thang điêm: A, B, C, D, F
Ngay thang năm 2015
Duyệt của Khoa (hoặc bộ môn) Trưởng nhóm giảng dạy
Hoàng Thi Mai Sa
6
Chương 1: Khái niệm trang phục và văn hóa trang phục
1.1. Trang phục – Biểu hiện của văn hóa
Ăn, măc, ở là môt trong những nhu cầu thiêt yêu cua đời sống con người, sư
lưa chọn cua con người trong cách ăn, măc, ở là khác nhau tạo nên các săc thái trong
sinh hoạt khác nhau. Khi sư lưa chọn ây đạt đên tính thống nhât, tính bên vững, tính
giá tri cao thi chung được nâng lên thành văn hoa, trở thành biêu hiện cua văn hoa.
Trang phục là lĩnh vưc hoạt đông sáng tạo riêng cua nữ giơi, chính họ đã xây
dưng cho tôc người mình môt kiêu trang phục riêng, hay noi cách khác, chính họ đã
xây dưng môt hệ biêu tượng cua văn hoa truyên thống trên trang phục. Vi vây, thông
qua hệ biêu tượng này, trang phục trở thành môt trong những săc thái đê nhân biêt
đăc trưng cua môi dân tôc. Cung qua cách phục sưc, chung ta tiêp nhân những thông
tin quan trọng làm cơ sở đê phân biệt tôc người này vơi tôc người khác, các giai tầng
trong xã hôi, trinh đô văn hoa và sở thích cua cá nhân. Môt trong những biêu hiện cua
văn hoa tôc người được bao lưu thường xuyên và lâu bên nhât qua các thời đại là
trang phục, hiêu được tầm quan trọng này, chính sách đồng hoa cua ke thu đêu băt
đầu tư cách ăn măc, cách phục trang cua dân tôc.
1.2. Trang phục – Một thành tố cơ bản của văn hóa
Cung vơi chưc năng cơ ban là bao vệ cơ thê và đáp ưng nhu cầu thâm mĩ, tư
xa xưa, trang phục đã cung vơi ngôn ngữ, chữ viêt trở thành dâu hiệu quan trọng đê
nhân diện môt dân tôc.
Ban săc văn hoa dân tôc thê hiện rât ro trong mọi hoạt đông cua đời sống, tư
việc ăn, măc, ở, đên các mối quan hệ xã hôi, các phong tục tâp quán, nghi lê cươi xin,
ma chay, lê têt hôi he… cua công đồng, tôc người, dân tôc. Đăc biệt, thông qua trang
phục, ban săc văn hoa được biêu hiện ro net, thường xuyên và lâu bên nhât; măt khác
no còn là tâm gương phan chiêu giá tri đạo đưc, tâm ly, nêp sống, lối sống, phong
tục… cua môi công đồng dân tôc.
Trang phục găn bo mât thiêt và tồn tại trong sư vân hành cua đời sống tôc
người. Nhiêu hoạt đông đăc trưng cua văn hoa tôc người đêu co sư tham gia cua trang
phục, đăc biệt là trong những ngày lê lơn, khoanh khăc thiêng liêng cua tôc người,
hoăc thời điêm đánh dâu bươc ngoăt cuôc đời môi người trươc sư chưng giám cua
công đồng, tôc người… Sư chu đáo, cân trọng trong trang phục vào những thời điêm
ây không chỉ đánh dâu tính thiêng cua sư kiện mà còn thê hiện quan niệm tín ngưỡng,
tâm linh và là môt cơ hôi đê con người thê hiện cá tính, ban lĩnh trươc công đồng.
Trong xã hôi, môi giơi tính, môi lưa tuôi, môi nghê nghiệp đêu co lối căt may,
xư ly trang phục khác nhau đê phu hợp vơi tâm ly đăc điêm sinh hoạt khác nhau.
Trang phục tham gia vào hoạt đông giao tiêp gop phần làm nên văn hoa giao tiêp con
người và văn hoa giao tiêp cua công đồng.
7
Trang phục là những san phâm mang giá tri văn hoa vât thê được hinh thành
do nhu cầu cua đời sống con người và no không ngưng phát triên cung vơi lich sư
phát triên cua các công đồng tôc người và quốc gia. Trang phục là san phâm văn hoa
tiêu biêu mang đâm dâu ân văn hoa cua tưng thời đại, gop phần quan trọng tạo nên
ban săc văn hoa riêng cua tưng tôc người và quốc gia. Trang phục mang tính hai măt:
vưa bao lưu những yêu tố văn hoa truyên thống, vưa giao thoa hòa đồng đê thay đôi,
bô sung thêm các thành tố cua môt bô trang phục cung như chât liệu, kiêu dáng… cho
phu hợp vơi cuôc sống hiện đại.
Trang phục co mối quan hệ sâu săc vơi đời sống văn hoa tôc người nên trang
phục là môt thành tố cơ ban cua nên văn hoa nươc nhà.
1.3. Khái niệm trang phục và văn hóa trang phục
1.3.1 Trang phục
Trang phục là môt thành tố văn hoa co nôi dung đa dạng và phong phu. Tư
trươc đên nay, nhiêu học gia trong và ngoài nươc đã dung nhiêu khái niệm, thuât ngữ
đê câp đên hiện tượng văn hoa trang phục. Những thuât ngữ thường được đê câp đên
là:
- Y phục: thuât ngữ dung đê chỉ các đồ măc cua con người (kê ca nam và nữ,
tư tre em đên người già) như khăn, áo, váy, khố, quần, thăt lưng, v.v… được làm ra tư
nhiêu loại chât liệu khác nhau.
- Trang sưc: thuât ngữ chỉ những vât dụng mà con người thường mang trên cơ
thê, vưa co tác dụng làm đep cho con người, dung đê trư tà khí, vưa găn vơi những
quan niệm tín ngưỡng cua các tôc người. Trang sưc thường là những vât dụng như:
vòng cô, vòng tay, trâm cài toc, hoa tai, khuyên tai, nhân, kiêng, xà tích… thường
được tạo hinh tư chât liệu binh dân là những thư sẵn co trong tư nhiên như trai, sò,
đá… đên kim loại quy như vàng, bạc, đồi mồi, ngà voi…
- Phục sưc: là môt tư ghep đê chỉ nôi dung y phục và trang sưc.
- Trang phục: là môt tư ghep chỉ nôi dung cua trang sưc và y phục. Trang phục
gồm hai yêu tố cơ ban tạo nên môt chỉnh thê, theo công thưc trang phục = y phục +
trang sưc.
Giữa hai thuât ngữ phục sưc và trang phục, người ta hay dung thuât ngữ trang
phục hơn.
1.3.2 Văn hóa trang phục
Trang phục là môt phần không thê thiêu đối vơi con người, do đo con người
luôn tim tòi sáng tạo đê tim ra được trang phục phu hợp vơi điêu kiện sống, hoạt đông
kinh tê, phu hợp vơi lưa tuôi, giơi tính và mục đích sư dụng trang phục. Điêu kiện
8
sống, tín ngưỡng, văn hoa môi dân tôc khác nhau nên môi dân tôc đêu co kiêu trang
phục khác nhau.
Văn hoa trang phục là kêt qua cua hoạt đông sống và sáng tạo cua con người,
là văn hoa ưng xư vơi môi trường tư nhiên và xã hôi, qua đo thê hiện ban săc dân tôc
rõ nét.
Câu hỏi ôn tâp chương 1:
1. Trang phục là gi? Tại sao noi trang phục là môt biêu hiện cua văn hóa ?
2. Chưng minh trang phục là môt thành tố cơ ban cua văn hoa tôc người ?
3. “Văn hóa trang phục la kết qua cua hoạt đông sống va sang tạo cua con
ngươi, la văn hóa ứng xử với môi trương tự nhiên va xã hôi”, anh (chi) hãy làm ro
nhân đinh trên ?
Chương 2: Trang phục Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại
2.1. Trang phục thời kỳ Hùng Vương
Trươc thời kỳ Hung Vương, cái măc cua con người được đam bao chu yêu tư
da thu, các loại be lá, lá cây; và tư khi biêt dung vỏ cây, bằng mọi ky thuât chằm, vá,
vân, bện… con người đã tạo nên những bô trang phục sơ khởi nhât.
Đên thời kỳ Hung Vương cung vơi sư phát triên cua nghê nông (trồng lúa,
khoai, cây ăn qua…), cư dân Việt cô đã biêt trồng môt số cây như gai, đay, dâu và
nuôi tằm, ươm tơ dệt vai, nên nguyên liệu may trang phục đã dần phong phu và thâm
mĩ hơn.
Hoạt đông tạo ra trang phục găn liên vơi nghê trồng bông, nuôi tằm, ươm tơ,
dệt vai, nhuôm vai do chu thê sáng tạo đôc đáo là những người phụ nữ, nên trang
phục nữ được ưu tiên hơn vê số lượng và chât lượng. Trang phục nữ thời kỳ này thê
hiện ở áo, váy, thăt lưng, mu.
Trang phục cua đàn ông, như những hinh anh còn lại mà chung ta thây trong
canh cheo thuyên trên trống đồng, là những chiên binh, minh trần, đong khố. Khố là
môt dai vai, chiêu ngang khoang 10cm, chiêu dài khoang 1,2m hoăc dài hơn nữa. Tuy
theo chiêu dài cua khố, người ta quân môt hoăc nhiêu vòng quanh bụng tha đuôi khố
(ngăn hoăc dài) ra hai phía trươc sau, thường tha đuôi khố vê phía trươc bụng. Các
khối tượng nôi cho thây đàn ông Đông Sơn thường cởi trần, hoăc măc những chiêc áo
chui đầu hay những tâm áo choàng đôc đáo vơi những hoa văn trang trí phưc tạp.
Qua môt số hiện vât bằng gốm, manh gô, miêng da còn lại, co thê thây màu
săc phô biên thời đo là màu vàng, màu đen, màu đỏ nâu, xám nhạt, vàng nhạt…
9
Cư dân thời Hung Vương đã chu y nhiêu hơn đên cách phục trang, như: đê các
kiêu đầu toc, chê tạo và hoàn thiện các loại vòng tay chuôi hạt bằng đá đep và ngọc,
tục xăm vẽ lên thân minh.
Trang phục cua chiên binh thời kỳ này gồm môt số bô phân như những manh
giáp, đai lưng đồng, bao ống chân, bao ống tay bằng đồng.
2.2. Trang phục thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
Nươc ta trai qua hơn mười thê kỷ Băc thuôc, sau chiên thăng Bạch Đằng oanh
liệt, Ngô Quyên xưng vương, lâp quốc. Nhưng triêu đại nhà Ngô không tồn tại được
lâu nên chưa làm được nhiêu việc. Du vây Ngô Vương cung đã đăt ra các chưc quan
văn vo, quy đinh các nghi lê trong triêu và đăc biệt đã quy đinh vê màu săc phâm
phục quan lại các câp…
Đên triêu đại nhà Đinh (968 – 980), trang phục được sư sách đời sau nhăc đên
rât ít. “Năm 974, quân lính đều đôi mũ chỏm bằng, bốn bên hình vuông”, mũ lam
bằng da, bốn cạnh khít lại, trên hẹp dưới rông, gọi la mũ “tứ phương bình đính”.
Hoăc “Năm Thai Bình thứ sau (975) Đinh Tiên Hoang định phẩm phục cua cac quan
văn võ”. Năm 980 trong môt bưc thư cua nhà Tống gưi cho triêu đinh ta co noi tơi
việc nhân dân ta thời đo đêu căt toc ngăn, hoăc mu cua các đạo sĩ thời đo màu vàng,
áo cua các nhà sư màu thâm, các quan được dung ân vàng thi thăt lưng dai tím, được
dùng ân bạc thi thăt dai xanh…
Sang thời Tiên Lê (981 – 1009), ta thây vua Lê Đại Hành lên ngôi măc áo long
côn, vê sau áo măc thường dung voc đỏ, mu trang sưc trân châu.
2.3. Trang phục thời Lý
Thời kỳ này, nên kinh tê phát triên, xuât hiện nhiêu cơ sở nuôi tằm, dệt lụa vơi
các măt hàng thu công như gâm, voc, lụa, đoạn nhiêu màu, họa tiêt đăc săc.
Năm 1029, vua Ly Thái Tông đinh quy chê mu áo cua các công hầu và các
quan văn vo. Nhưng quy đinh này còn chưa chăt chẽ kê ca vê hinh thưc trang phục và
cách thưc sư dụng.
Các vu nữ, toc thường bui cao đên đỉnh đầu, trên trán co môt điêm trang trí,
mái toc điêm những bông hoa, tay đeo vòng, cô đeo những chuôi hạt, măc váy ngăn
co nhiêu nêp. Trang phục cua nhạc công cung khá đôc đáo. Mu chum kín toc, phía
trên mu được làm cao lên và trang trí các diêm uốn lượn. Áo cánh trong: tay dài và
chít ở cô tay. Bên ngoài là môt chiêc áo côc tay. Quanh cô áo co chiêc vân kiên (như
chiêc yêm dài) chum ca môt phần ngưc, lưng và vai. Quanh bụng đeo những miêng
diêm vai rông co trang trí nhiêu đường thêu đep. Bọng chân quân xà cạp và chân đi
giày vai mui nhọn.
Thời gian này vân còn tục xăm minh. Tư vua đên quân sĩ ai cung xăm minh.
Quân câm vệ xăm vào ngưc và chân những dâu hiệu riêng và được phep xăm hinh
10
rồng lên người. Nhân dân cung xăm minh nhưng chỉ được xăm hinh răn, hinh các lối
hoa văn như hinh khăc trên trống đồng.
Ngoài môt số ít tư liệu thành văn chỉ noi vê trang phục triêu đinh, còn đối vơi
áo quần cua nhân dân, ta tham khao những hiện vât như tượng tròn, tượng nôi cua
thời này đê biêt được những thông tin tối thiêu vê quy cách may măc, vê chât liệu. Co
lệnh câm những ke nô bôc ở các nhà nôi ngoại thành thích dâu mưc vào bụng, ngưc
và chân như kiêu câm quân, câm thích hinh rồng trên minh. Câm người dân măc áo
màu vàng, con gái dân gian không được băt chươc kiêu bui toc như cung nhân.
Thời kỳ này, tục nhuôm răng và ăn trầu rât phô biên. Đàn bà thường đeo
khuyên bạc, vu nữ thường bui toc cao và buôc diêm hoa trên đầu giống hinh anh
trang điêm ở tượng người phụ nữ trên cán dao găm, trên chuôi kiêm ngăn tư thời
Hung Vương.
2.4. Trang phục thời Trần
Thời gian này nghê dệt khá phát triên, nhân dân ta đã làm ra nhiêu loại vai
bông, vai gai, lụa, lĩnh, sa, the, nái, sồi, đoạn, gâm, voc... Nghê thêu cung phát triên.
Thời Trần đã co sư cung cố môt bươc hệ thống quan lại triêu đinh và găn bo
vơi no là những quy đinh vê phâm phục theo thư bâc, theo bên văn và bên vo. Và sau
ba lần đánh thăng quân Nguyên, triêu đinh mơi ban hành các quy đinh vê mu áo cho
các quan, và vê thưc chât, các kiêu trang phục ây, tuy không được gian đơn như thời
kháng chiên nhưng vân giữ được phong cách khoáng đạt, khỏe khoăn chung mang
hơi thở cua thời đại.
Cuối thời Trần, vân chuông dung đồ trang sưc như vòng tay và chuôi hạt đeo
cô… bằng đồi mồi, xương sưng, ít dung vàng, bạc.
Riêng trang phục cua nhân dân, sư sách thời kỳ này không thây ghi lại những
quy đinh cụ thê, trong nhân dân, trư phụ nữ không ai được măc màu trăng. Ai măc
màu trăng là phạm pháp. Các màu xanh, vàng, tía cung không được dung.
Đàn bà thường măc áo tư thân màu đen, trong lot vai trăng đê may viên vào cô
áo, rông khoang 13cm, căt toc đê lại chưng 10cm rồi buôc tum lên đỉnh đầu, xong
uốn cong đuôi toc và buôc lại lần nữa hinh giống như cây but, không đê toc mai,
không búi tóc phía sau đầu, không đeo vòng khuyên. Người giàu cài trâm đồi mồi,
còn những người khác thi cài trâm bằng xương hoăc sưng, không dung phân sáp hay
vàng ngọc.
Đàn ông thưởng cởi trần hoăc măc áo tư thân màu đen, cô áo tròn bằng the,
quần mỏng bằng lụa thâm. Đại đa số cạo trọc đầu. Co người chum đầu bằng khăn lụa.
Trong nhân dân vân phô biên tục nhuôm răng và ăn trầu. Tục xăm minh thời
Trần rât phô biên, đạt đên trinh đô nghệ thuât, và đã co thợ chuyên vẽ hinh xăm.
Trong khi quân đôi thời Trần đêu thích lên cánh tay hai chữ "Sát Thát", thì nhân dân
Đại Việt, nhiêu người, du là người đã co con cháu, cung xăm lên bụng những chữ
11
"Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu bao quốc" thê hiện tinh thần vi việc nghĩa liêu thân, báo
đên ơn nươc.
2.5. Trang phục thời nhà Hồ
Nhà Hồ sau khi thay thê nhà Trần, đã tồn tại không lâu. Sư sách hầu như
không nhăc tơi các quy đinh vê trang phục cua nhà Hồ đối vơi quan lại và dân chung.
Năm 1406, nhà Minh phái quân sang xâm chiêm nươc ta, nhưng mãi đên năm
1414 chung mơi đăt được bô máy cai tri. Trong thời gian đô hô (1414 - 1427), quân
Minh đôi nươc ta thành quân Giao Chỉ vơi y đồ thu tiêu nên đôc lâp dân tôc, âm mưu
đồng hoa nươc ta, băt nhân dân ta thay đôi phong tục, tâp quán, cách ăn măc… theo
lối phương Băc. Nhà Minh tuyên bố “phong tục có liên quan đến việc trị đạo”. Do đo
chung ban bố thiêt lệnh hạn đinh trong môt tháng, tât ca quan lại, kỳ chính, giám thu,
quan lang, đầu mục, binh lính… đêu phai co sư phân biệt vê y phục, nhât thiêt phai
thay đôi theo chê đô hiện hành, nêu trái lệnh sẽ bi tri tôi.
Thời kỳ này quan lại và nho sinh đêu đôi mu co cạnh, măc áo vạt dài, cô áo
viên tròn, đi giày ung co dây thăt. Quan lại măc áo may bằng tơ lụa. Nho sinh măc áo
màu xanh lam. Đàn bà lây chồng làm quan, khăn áo phai theo đung thê lệ quy đinh.
Người nào lây chống là thường dân thi măc áo rông, váy dài, phai bui toc, chum khăn
lụa đen, trâm thoa, khuyên mâm tuy nghi sư dụng, còn giày dep làm bằng vai hay
bằng da. Câm căt toc, câm đê lô chân. Câm mọi người dung các màu huyên, vàng, tía.
Trươc đo, đàn ông nươc ta thường cạo trọc đầu, đàn bà thường căt toc ngăn, thi nay
“con trai, con gái không được cắt tóc, đan ba con gai phai mặc ao ngắn, mặc quần
dai, theo phong tục phương Bắc”.
Ke thu băt nhân dân ta phai ăn măc theo chung, nhưng người dân vân ăn măc
theo truyên thống, quân khởi nghĩa đôi mu tư phương binh đính, loại mu được dung
tư thời nhà Đinh, Tiên Lê. Nhân dân ta biêu thi sưc chống đối mãnh liệt nên nhiêu lần
chúng đã phai ra thông cáo, nêu quy đinh…, trong đo co những điêu khoan vê trang
phục.
2.6. Trang phục thời Lê
Thời Lê đánh dâu bươc phát triên cao cua nhà nươc phong kiên tâp quyên Đại
Việt nên sư quy đinh vê lê, nhạc, trang phục càng nghiêm ngăt và tỉ mỉ.
Tư năm 1429, sau khi lên ngôi môt năm, vua Lê Thái Tô đã quan tâm đên
trang phục cua các quan, nhưng do điêu kiện kho khăn cua đât nươc nên chỉ mơi biêu
thi qua môt số hinh thưc: quan vo tư thượng tương tươc trí tư và tươc phục hầu trở
lên, quan văn tư chưc nhâp nôi, hành khiên, và quan phục hầu trở lên đêu cho măc áo
lụa màu đỏ.
Trang phục cua chua Trinh không khác biệt gi trang phục cua vua Lê mà chỉ
khác vê màu săc (vua dung màu vàng, chua dung màu tía), biêu hiện môt sư lân
quyên nghiêm trọng. Điêu này còn được chưng minh ca ở trang phục tầng lơp con
12
cháu vua chúa. Người con sẽ được nối ngôi vua (Hoàng Thái Tư) măc áo xanh, đôi
mu dương đường. Người con sẽ được nối ngôi chua (Vương Thê Tư) măc áo đỏ, đôi
mu dương đường cánh chuồn dát vàng, bô tư hinh kỳ lân thêu kim tuyên, mang đai
đính đá quy bit vàng. Khi chầu ở phu chua mơi măc áo thanh cát có dây thao kép
(giáp thao) xâu hạt ngọc, dát vàng, đôi mu ô sa.
Trang phục cua phụ nữ trong triêu đinh cung được phan ánh trên những tượng
chân dung hay ở các bưc chạm gô, như tượng vợ vua Lê, tượng người hầu trong
cung... Trang phục cua các vợ vua Lê: bên trong là tâm yêm cô tròn, kín ngưc, bên
ngoài măc áo dài mở giữa, buông vạt, nep trang trí đep, thăt bao lưng vai buôc mui
trươc bụng. Môt tượng khác co đeo vân kiên rông, thêu nhiêu hinh trang trí, phu ca
hai vai và ngưc. Tiêp theo là những dai vai đep tỏa kín bụng. Tượng nào cung đôi mu
đep, chạm trô tinh vi. Đăc biệt tư thời gian này, ta thây xuât hiện hinh anh người phụ
nữ Việt Nam đê toc dài, vân khăn, rẽ đường ngôi giữa, măc áo dài cô tròn, tay áo
chât, co xe môt đoạn ở cô tay áo đê khi măc cho bàn tay luồn qua dê dàng. Thăt lưng
buông dai trươc bụng, váy dài và rông. Co người còn mang những dai xiêm đep ru
xuống chân.
Ở những tượng cung nữ ta thây hinh thưc bui toc gọn lên đỉnh đầu tư thời Trần
đên thời Lê vân còn tồn tại. Đời vua Lê Hiên Tông (1418 - 1504) cho phép cung nhân
khi hầu được bui toc lệch, luc ra tâu nhạc thi đôi mu chữ đinh tròn.
Đồ trang sưc co vòng tay tròn det, hoa tai hinh qua bầu, hinh hoa sen hay
khuyên tròn.
Dươi thời Lê, triêu đinh rât quan tâm đên vân đê trang phục, không những đối
vơi quan, quân mà ca đối vơi nhân dân lao đông, trên cơ sở quyên lợi cua giai câp
thống tri. Sư phân biệt giai câp, đẳng câp thời kỳ này được biêu hiện ro net qua hinh
thưc trang phục, săc màu trang phục. Điêu đo co thê thây ro bằng lệnh câm nhân dân
vê trang phục, không cho phep lân lôn giữa vua, quan, quân dân (không được măc áo
kích thươc như các quan, không được măc màu vàng, đi hài, đôi non thuy ma, non
sơn đỏ…)
2.7. Trang phục thời Nguyễn
Đầu thời Nguyên, trang phục cua vua quan cung được quy đinh tỉ mỉ như ở
những triêu đại phong kiên trươc và co môt cơ quan là Bô Lê chăm lo việc ăn măc,
song no đã không mang được săc thái riêng cua dân tôc.
Nhin vào hệ thống trang phục cua vua, quan nhà Nguyên, người ta đã thây
được thưc chât tham vọng cua những con người măc no. Ví dụ như trên bê măt nhỏ
hep cua môt chiêc áo lai căng, vua Nguyên đã cho thêu vẽ đầy họa tiêt rồng, mây,
hoa, lá, song nươc, vàng bạc, châu báu... như muốn thu ca đât trời, cua cai vê minh.
Cái non dân tôc gian di, trang nhã được găn đầy ngọc ngà. Còn trang phục các quan,
hầu như là môt sư sao chep trang phục triêu đinh phương Băc... Tưởng là phô trương
13
được uy quyên và sư giàu co, nhưng ngược lại no lại noi lên sư yêu đuối vê tinh thần
đôc lâp, tư chu, sư ngheo nàn vê xu hương thâm mĩ...
Vê trang phục nhân dân, phụ nữ lao đông ở miên Băc và Băc Trung Bô thường
măc áo cánh ngăn bằng vai nâu, cô tròn, viên nhỏ, tà mở, đa số không cài cuc trươc
ngưc. Bên trong là yêm màu vàng tơ tằm hay bằng vai màu hoa hiên hoăc màu nâu
non. Váy thường măc ngăn đên ống chân. Họ thường quân thăt lưng bằng vai màu
môt hoăc rât nhiêu vòng ngoài cạp váy. Ngoài ra còn co kiêu áo dài, áo năm thân,
măc áo dài đêu phai thăt thăt lưng màu đep buông xuống phía trươc. Phụ nữ thường
đê toc dài và vân khăn. Các loại non thường thây: non lá gồi, lá cọ, non chỏm bằng,
non lòng chao, non thung, non chân tượng... Áo tơi là trang phục chống mưa, chống
ret và ca chống năng.
Vào những năm 1920 – 1930, trang phục ở nông thôn vân giữ được cách ăn
măc cô truyên, nhưng trang phục cua thành thi Băc, Trung, Nam co nhiêu thay đôi.
Vơi chính sách cai tri cua Pháp, làn song “văn hóa” Tây Âu tràn vào Việt Nam
đã anh hưởng tơi thi hiêu cua những người tư san, tiêu tư san, đên tầng lơp thanh niên
thành thi trong các phong trào sống mơi, vui khỏe, tre trung. Năm 1935, ở Hà Nôi, áo
dài Lơ Muya các kiêu ra đời, được xem là mốt tân tiên.
Giai đoạn này, trang phục đàn ông trong ca nươc đêu giống nhau. Đàn ông
thuôc tầng lơp lao đông, miên Băc, miên Trung thường măc quần áo bằng vai Đồng
Lầm nhuôm nâu. Áo cánh ngăn bốn thân cài cuc giữa hay năm thân cài cuc bên, may
cô tròn đưng, vuông goc. Quần lá tọa đung thâp, ống thẳng rât phu hợp cho việc sinh
hoạt và lao đông. Toc đàn ông đê đài như toc đàn bà, bui cao gần lên phía sau đỉnh đầu.
Do thời tiêt nong bưc, đa số đàn ông đi lao đông hay cởi trần nhưng vân thăt dây lưng
vai.
Tư năm 1910, nhiêu đàn ông đã căt toc ngăn nhưng vân quân khăn lượt. Ra đường
găp mưa, dung ô màu trăng hoăc đen, thường gọi ô cánh dơi.
Những năm 1930, phong trào căt toc ngăn rẽ ngôi lệch càng rầm rô. Những
người đưng tuôi măc áo dài, đôi khăn xêp, khăn xêp hinh thưc vân như khăn quân.
Những người đi làm, ngoài các trang phục dân tôc, áo the khăn xêp còn măc quần áo
Âu.
2.8. Trang phục từ Cách mạng tháng Tám đến nay
Sau cách mạng tháng Tám 1945, trang phục đàn ông ở thành thi được Âu hoa
khá nhanh. Ở nông thôn còn phai trai qua môt quá trinh lâu hơn mơi co sư thay đôi
căn ban.
Tư năm 1975 đên nay, đa số đàn ông trong ca nươc đêu măc quần Âu (thường
gọi là quần Tây). Trang phục cua đàn ông trong ca nươc, nhât là ở thành thi, đã được
may theo các kiêu trang phục châu Âu, xem ra cung co phần gọn gàng, thuân tiện.
Tuy vây, vơi những đăc điêm khí hâu, thoi quen thâm mĩ, điêu kiện kinh tê... ở tưng
14
vung Việt Nam, các loại trang phục đàn ông cung đã được cai tiên nhiêu cho thích
hợp. Điêu thây ro là qua trang phục đàn ông, người ta không thây còn sư cách biệt
giữa các tầng lơp như trong xã hôi cu nữa.
Kê tư năm 1954, chiêc áo dài Việt Nam đã được nhiêu nữ sinh măc đên trường
vơi kiêu tà rông, eo thăt, cô cao co lot cưng, ống tay hep. Phong trào măc áo sơ mi,
váy đầm cung song song phát triên.
Váy, tư kiêu dài quá đầu gối, may phồng đên những năm 1960 lại may thẳng,
xe chut ít ở giữa thân sau, hoăc may xêp li, hoăc may bo. Măc vơi áo ngăn tay hoăc
áo không tay, ngang lưng co dai vai thăt ngoài, bỏ giọt bên cạnh hay ở giữa. Hoăc
măc vơi áo thẳng, cô viên, tui viên... môt màu hay nối màu.
Áo dệt thun chui đầu vơi các kiêu côc tay hay không tay, cô be hay không cô,
gâu áo bỏ ra ngoài váy. Co ca các loại quần thun bo sát, ống ngăn, hoăc rông dài hơn.
Sau năm 1968, chiêc váy mi-ni ra đời, ngăn trên đầu gối, càng ngăn càng hợp
thời trang. Quần Âu ống loe 30cm - 40cm xuât hiện vơi nhiêu loại thăt lưng da các
màu, to ban. Người ta dung ca thăt lưng bằng kim khí.
Áo quần kiêu "híp-pi" đã môt thời chiêm lĩnh mốt thời trang cua Sài Gòn. Áo
may bằng vai xô mỏng, thêu rối răm, tay dài hoăc tay ngăn. Co loại áo may rât ngăn,
đê hở ca lưng, bụng người măc, ống tay áo dài hoăc ngăn nhưng rông, gâu tay áo thít
lại cho tay áo phồng lên. Quần bò Jeans bạc phêch, co khi vá miêng da ở đầu gối, ở
mông... Xuât hiện thêm loại váy dài đên măt cá nhân, co hàng khuy ở giữa tư thăt
lưng xuống gâu, cài mây khuy là tuy thuôc ở chu nhân.
Vê đầu toc, tư năm 1954, nhiêu bà đã thôi bui toc mà uốn quăn. Toc cua nữ
thanh niên cung diên ra đu kiêu: căt ngăn, uốn điện, uốn lượn song. Rồi đên giai đoạn
uốn toc, rẽ đường ngôi lệch trở thành lạc hâu, luc này người ta rẽ đường ngôi giữa và
đê toc buông tha tư nhiên đên ngang vai, ngang lưng, gio thôi bay lòa xòa che ca măt.
Hoăc cuôn thành nhiêu cuôn toc nhỏ trên đầu, hoăc đánh rối làm cho toc bu xu...
Giày dep cung thay đôi nhanh chong. Đồ trang sưc phô biên co vòng tay bằng
nhưa nhiêu màu đeo ở cô tay hay ở băp tay. Nhân phần nhiêu đêu găn măt đá nhiêu
màu, cỡ lơn. Tai đeo vòng to. Cô đeo các vòng đồng hoăc các chuôi hôt to.
Kính đeo măt, gọng bằng nhưa, măt kính càng ngày càng to ra vơi các hinh
tròn, hinh chữ nhât, hinh vuông, nhiêu cạnh, vơi các màu xanh, tím nhạt, hồng nâu
v.v... Các mốt trang điêm tât nhiên theo hương phát triên cua mốt trang phục. Càng
vê sau, măt càng đánh bư phân. Môi son, má hồng đỏ chot. Măt ke đâm net, trên mi
tô màu xanh, hoăc nâu, hoăc tím, co người tô ca hai màu hoăc ba màu nối tiêp, căp
hàng lông mi gia. Lông mày nhô, đê lại môt hàng chỉ nhỏ rồi vẽ cho đâm. Mong tay,
mong chân đánh màu hồng rồi đỏ, thâm chí màu nâu, màu tím, màu xanh…
Câu hỏi ôn tâp chương 2:
1. Trinh bày trang phục thời Hung Vương?
15
2. Trinh bày khái quát tục xăm minh?
3. Các loại non được sư dụng dươi triêu Hâu Lê?
4. Tính phân tầng xã hôi thê hiện qua trang phục vua quan triêu Nguyên?
5. Giơi thiệu sơ lược trang phục tre em tư sau cách mạng tháng Tám?
6. Những xu hương trang phục mơi giai đoạn tư 1945 đên 1975?
Chương 3: Trang phục hội hè, nghi lễ, tôn giáo
3.1. Trang phục cưới
Tư trươc đên nay, những bô trang phục cươi bao giờ cung mơi, đep hơn trang
phục ngày thường. Thời xưa, bô trang phục cô dâu cung chính là bô trang phục các cô
măc trong những ngày hôi cô truyên, thâm chí còn được bô sung thêm cho đep hơn,
phong phu hơn.
Thời chua Nguyên, ngày cươi, công chua đôi mu ngu phượng, dệt bằng lông
đuôi ngưa, đính 5 con phượng bằng vàng, cầu mu bằng vàng, giữa co bông hoa đỏ.
Hai bên co dây tua được kêt bằng 120 hôt trân châu và pha lê. Áo bào bằng đoạn bát
ty màu đỏ, tay áo thụng thêu hoa tròn và chim phượng, thăt đai đỏ. Xiêm bằng đoạn
bát ty màu bạch tuyêt, trang trí hinh chim phượng và viên kim tuyên. Hài màu đỏ.
Chu rê (phò mã) đôi mu co cầu vàng, phía trươc đính môt bông hoa bằng
vàng, hai cánh chuồn bằng đồng thau bọc vàng. Áo màu lục, ống tay rông, đính bô tư
màu đỏ thêu đám mây, chim hạc, thăt đai màu hồng, chân đi hia.
Trong tầng lơp nhân dân lao đông, trang phục cươi cua các cô dâu miên Băc
thường măc bô áo mơ ba, ngoài cung là chiêc áo the thâm, bên trong ân hiện hai chiêc
áo màu hồng và màu xanh. Rồi đên áo cánh trăng, cuối cung là chiêc yêm hoa đào co
dai bằng lụa bạch. Váy sồi đen hoăc váy lĩnh. Thăt lưng gồm hai chiêc bằng lụa màu
hoa đào, hoa ly, ngoài cung là thăt lưng sồi, ca ba thăt lưng đêu co tua ở hai đầu. Vân
khăn, đầu khăn gài chiêc đanh ghim, co đính con bươm vàng chạm bạc, đê toc đuôi
gà. Luc đưa dâu đi đường đôi non thung quai thao. Chân đi dep cong. Đồ trang sưc co
khuyên tai đeo bằng vàng hoăc bạc. Sườn đeo bô xà tích, con dao, ống vôi bằng bạc
chạm trô tinh vi.
Cô dâu miên Trung cung măc áo mơ ba, trong cung là áo màu đỏ, hoăc hồng
điêu, áo giữa bằng the màu xanh chàm, áo ngoài cung bằng the màu đen. Măc quần
trăng, đi hài thêu, toc chai lât bui sau gáy. Cô đeo kiêng hoăc quân chuôi hôt vàng
cao lên quanh cô. Cô tay đeo vòng vàng, xuyên vàng. Cô dâu con quan, nhà giàu măc
áo dài gâm, ngoài khoác áo tư thân mệnh phụ, bằng gâm dệt hoa, co nep to trang trí
hoa văn họa tiêt chim phượng nhiêu màu săc viên quanh cô áo đên dươi ngưc, tay áo
thụng…, kiêng vàng được đeo ở phía trong cô áo mệnh phụ.
16
Cô dâu miên Nam măc áo dài gâm, quần lĩnh đen, đi hài thêu. Toc chai lât bui
lại và cuốn ba vòng phía sau đầu, gài lược bằng đồi mồi hoăc bằng vàng, bạc, hoăc
cài trâm vàng. Đeo dây chuyên nách bằng vàng, đeo nhiêu chuôi hôt vàng ở cô.
Chu rê ba miên đêu măc áo thụng bằng gâm hay the màu lam, quần trăng, bui
tóc, chít khăn nhiêu màu lam, chân đi hài thêu đep.
Tư sau năm 1975, đât nươc thống nhât, mối giao lưu văn hoa mở rông, cô dâu
ở thành thi miên Nam và miên Băc măc áo liên váy màu trăng hoăc màu vàng, màu
xanh nhạt. Váy xòe rông, dài quá got chân. Co những chiêc váy tư thăt lưng đên gâu
chia làm nhiêu đoạn vơi những khoanh đăng ten gọi là váy ba tầng hay năm tầng hoăc
váy dài gâp nhiêu đường… Đi giày cao got trăng. Tay đeo găng mỏng. Cô đeo chuôi
hạt kim cương hoăc gia kim cương long lánh.
Ngày nay, cuôc sống co nhiêu thay đôi, hiện đại và tiện nghi hơn. Trang phục
cô dâu chu rê ngày càng hợp mốt, thời trang và phong cách hơn. Ngày càng co nhiêu
lưa chọn vê kiêu dáng, mâu mã, màu săc trong trang phục cươi xin.
3.2. Trang phục tang
Trang phục lê tang ngoài mục đích đê biêu thi tinh cam, thái đô đối vơi người
chêt còn nhằm đê phân biệt mối quan hệ thân sơ ruôt thit xa gần vơi người chêt. Vê
sau, giai câp thống tri đã dung no làm phương tiện đê phô trương, thi uy, tuyên truyên
cho quan điêm giai câp đương thời.
Trong xã hôi phong kiên, tư thời nhà Ly đã noi tơi quốc tang vơi trang phục:
dung vai xô, gai. Vua chêt ca nươc phai đê tang. Tuy các triêu vua mà co quy đinh đê
tang dài hay ngăn vê thời gian (ba tháng, hoăc ba năm…). Đên thời nhà Nguyên, tô
chưc quốc tang được bày biện quy mô, linh đinh, tốn kem. Trang phục lê tang cua
hoàng gia và các tầng lơp quan, quân cung co nhiêu kiêu cách phưc tạp.
Ngoài quốc tang, môi người dân khi nhà co tang đêu tuân thu những quy đinh
vê gia lê. Co các loại tang phục sau:
1. Tram thôi và ti thôi:
2. Cơ phục
3. Đại công
4. Tiêu công
5. Ti ma
Đối vơi người chêt, cung co trang phục như khăn chít đầu (bưc cân), khăn phu
măt (khăn minh mục), bao tay (các thu bạch), áo thâm, áo trăng, quần trăng, thăt
lưng, bít tât, giày… Lưu y: áo phai căt hêt khuy, măc le không nên măc chẵn.
Trươc kia những người đê tang đêu măc quần áo tang trăng nhưng vê sau, chỉ
quân khăn là chính. Nam nữ quân khăn vai trăng. Hàng chăt khăn màu vàng. Hàng
chut chít khăn màu đỏ.
17
Đi đưa ma, xưa thường phai đi chân đât, vê sau nhà giàu ở thành thi bỏ lệ ây
mà đi dep têt bằng coi.
Sau ngày lê tang, nhưng người thân vân còn chít khăn cho tơi môt trăm ngày.
Áo quần đê xô gâu. Sống áo dài đê hai nep máy ra ngoài (như măc áo trái). Đôi mu
phai quân khăn trăng quanh mu.
Tư cách mạng tháng Tám đên nay, trang phục lê tang đơn gian nhiêu. Đi dep
binh thường. Nhiêu người không đôi mu rơm, không chống gây nữa. Ngày thường đê
tang bằng cách dung miêng vai đen đeo quanh cánh tay. Co người đính ở trươc ngưc
môt miêng vai đen nhỏ. Co gia đinh trong đám tang vân măc binh thường và chỉ đê
tang bằng cách chít khăn.
Nhin chung, tang phục thường dung màu trăng may bằng các loại vai thô, re
tiên như xô, gai… Khi may, khi măc, còn cố tinh làm cho xâu đi đê tỏ lòng thương
tiêc đối vơi người quá cố, đê chưng minh ban thân người sống đau buồn đên mưc
không muốn hưởng thụ gi…
3.3. Trang phục tôn giáo
Vân đê trang phục trong tôn giáo không phai là quá mơi me, nhưng mưc đô
phô quát hiêu biêt vê chung trong nhân dân còn quá khiêm nhường. Hiện nay ở nươc
ta co nhiêu tôn giáo, co hai tôn giáo lơn đang tồn tại vơi quy mô tô chưc chăt chẽ, vơi
số lượng tín đồ khá đông, là Phât giáo và Thiên Chua Giáo. Vi vây, trong khuôn khô
bài giang này, chỉ xin giơi thiệu trang phục Phât Giáo và Thiên chua giáo.
3.3.1.Trang phục Phật giáo
Phât giáo ở nươc ta chia làm hai tông phái: Băc tông và Nam tông.
Các nhà sư Băc tông ở các chua miên Băc măc loại vai thô màu nâu - vai
nhuôm bằng cu nâu. Vê sau đã dung loại vai tốt, min hơn và co thê nhuôm bằng
thuốc nhuôm.
Ngày thường măc áo cánh ngăn nâu, quần nâu, nam cung như nữ. Lúc ra
đường hoăc khi co việc chưa, măc áo dài tương đối rông, không căng ngưc, cô tròn
đưng, mêm, cài khuy kín cô, khuy têt bằng vai nâu.
Luc làm lê, các sư bâc thâp măc áo tràng vạt nâu tay rông cô cheo. Các sư bâc
cao măc áo tràng vạt màu vàng. Bên ngoài còn khoác môt tâm vai gọi là áo cà sa màu
nâu hoăc màu vàng tuy theo câp bâc.
Theo truyên thuyêt trong đạo Phât, chiêc áo cà sa hinh thành tư những manh
vai le cua nhân dân gop lại cho người tu hành. Khi co nhiêu manh vai rồi, các nhà sư
thỉnh xin đưc Phât cho biêt nên may áo theo kiêu cách nào. Nhân đi qua môt cánh
đồng, đưc Phât liên chỉ tay và truyên may theo hinh các thưa ruông. Cung vi lẽ đo mà
tâm áo cà sa còn co tên gọi là tâm pháp phuc điên, y cầu mong lua gạo nhiêu, chung
sinh âm no. Trong kinh Phât còn gọi là y pháp, gồm co y ngu điêu (do năm manh
điêu ghep lại), y thât điêu (do bay manh điêu ghep lại), y cưu điêu (do chín manh điêu
18
ghep lại).... Vê sau đã co trường hợp dung tơi y 25 điêu và dung nhiêu màu săc, chât
liệu khác nhau tuy theo điêu kiện cua nhà chua. Ngoài ra còn loại áo cà sa nhiêu màu
đê dung khi chay đàn.
Loại áo cà sa nhiêu màu (xanh, đỏ, tím, nâu....) ghep lại cung may theo quy
cách như áo cà sa môt màu, noi lên y nghĩa tâm áo nhà chua là do nhiêu nhà đong
gop, môi nhà môt manh, môt màu khác nhau. Vê sau, nhât là ở thành thi, các chua
dung loại áo cà sa cung môt màu, nhưng vân do nhiêu manh điêu ghep lại.
Các nhà sư Nam tông, trang phục không may thành quần áo như phái Băc tông
mà chỉ dung vai vàng hoăc nâu quân, văt trên người vơi các kiêu khác nhau. Co các
hinh thưc sau đây:
a. Y nôi
b. Y vai trái
Vê đồ đôi: xưa kia co loại non riêng cho nhà sư gọi là non tu lờ. Non làm bằng
lá, gần như chiêc mu rông vành. Ngày nay, khi đi năng, các sư ông đôi mu lá. Trời ret
đôi mu len màu nâu. Các sư bà đôi non binh thường. Các nhà sư Nam tông không đôi
mu, khi ra đường dung ô màu vàng hoăc màu đen.
Các nhà sư đêu cạo trọc đầu, riêng nữ co khăn chít đầu: khi đôi khăn, gâp mep
khăn theo chiêu dài, trum khăn lên đầu, mep đầu gâp đê trươc trán, hai đầu khăn đưa
ra phía sau rồi văt cheo nhau ở gáy, nhet môt phần vai hai bên ở đầu khăn vào trong,
ở ngay sau hai tai.
Luc làm lê chay đàn, nhà sư còn đôi môt loại mu nhiêu màu hinh hoa sen, gọi
là mu thât Phât gồm bay cánh, môi cánh thêu môt hinh Phât hay hinh hoa sen, hình
chữ Phạn... Ngoài ra, tuy theo đám lê, đàn lê, còn dung mu ti lư, mu Phât quang, mu
Quan Âm, mu hiệp chưởng.
Tât ca các sư sãi Băc tông đêu đeo chuôi hạt gọi là tràng hạt. Co thê là môt
chuôi dài hoăc hai ba chuôi ngăn nhưng nhât thiêt phai co 108 hạt tượng trưng cho
108 qua bồ đê. Lần tràng hạt đê bỏ đi 108 điêu phiên não, điêu xâu trong coi đời trần
tục. Các nhà sư phái Nam tông không đeo tràng hạt.
3.3.2. Trang phục Thiên Chúa giáo
Thiên Chua Giáo phân thành các nhánh nhỏ như đạo Công giáo và đạo Tin
lành, trong khuôn khô bài giang này, xin chỉ giơi thiệu trang phục thường thây trong
đạo Công giáo ở việt Nam như sau:
Tín đồ thường co sao măc vây, tầng lơp học sinh ở các tiêu chung viện trươc
đây băt buôc phai măc áo dài bằng vai màu đen, quần trăng. Ngày nay, co thê măc
quần áo binh thường nhưng màu săc không được săc sỡ. Toc căt ngăn, không được
trai chuốt.
Khi lên nhà thờ hay ở cuôc lê nghi nào đo, vơi chưc Thầy đã được măc áo
chung đen rông, dài châm got chân, tay áo rông thẳng đêu. Cô áo tròn không cao lăm
19
và được lot ở trong môt khoang vai hồ cưng màu trăng. Ở trươc ngưc áo xe môt đoạn
đê chui đầu, xỏ tay. Suốt tư cô đên gâu áo chạy dài môt hàng khuy to.
Cha phai măc áo chung đen. Khi Cha mơi chiu chưc phai căt tròn môt ít toc trên đỉnh
đầu. Sau đê toc cung được nhưng không được đê toc dài. Chân đi giày đen. Đầu đôi mu làm
bằng vai hinh tròn đôi môt tí trên đỉnh đầu.
Giám mục vân măc áo chung đen như Cha, còn khoác thêm môt áo choàng
đen ngăn bên ngoài, đeo thánh giá, thăt quanh bụng môt băng vai màu tím đỏ.
Giám mục được đeo nhân biêu thi sư găn bo vơi Chua. Thánh giá và nhân
thường bằng vàng kiêu cách tuy nghi. Đi giày đen.
Tông Giám mục trang phục như Giám mục, đầu đôi mu bằng vai màu tím đỏ
như màu thăt lưng.
Đưc Hồng Y măc áo chung màu đỏ, áo choàng ngăn cung màu đỏ. Trong áo
choàng ngăn là môt áo bằng ren trăng mỏng dài đên đầu gối, ống tay áo rông. Ngoài
ra khi làm lê, Đưc Hồng y, Tông Giám mục, Giám mục đôi mu mitra. Mu co cốt,
ngoài bọc lụa trăng thêu vàng, loại đơn gian chỉ bọc lụa tráng, co trang trí hoa văn.
Những người nữ tu tuy theo các dòng khác nhau mà trang phục co sư khác
nhau. Như măc áo váy đen, đôi mu bằng vai trăng, hồ cưng, vành mu rât rông, hai
bên được uốn lên, tạo thành môt mỏ nhọn ở phía trươc hoăc măc áo dài đen, quần
đen, đầu trum khăn lup (khăn đen, co viên trăng phía trên trán, phần khăn còn lại
buông phu sau lưng).
Gần đây, khi không hành lê, tiêp xuc vơi xã hôi thường nhât, các vi chưc săc
công giáo đã măc trang phục đời thường, tuy nhiên vân giữ lại môt vài dâu hiệu nhât
đinh.
Xuât phát tư mục đích, nôi dung cua tưng tôn giáo, hầu hêt những người làm
tôn giáo đêu tư nguyện sống gian di. Điêu này thê hiện ro qua trang phục cua họ. Vê
hinh thưc, trang phục trong Phât giáo cung như Thiên Chua giáo thường gian di, áo
quần không diêm dua, cầu kỳ. Màu săc tối được sư dụng trong hầu khăp trang phục.
Đăc biệt, trang phục Phât giáo Việt Nam đã được ban đia hoa cao đô, đăc biệt
là ở phái Băc tông. Áo cánh cài khuy giữa, áo dài cài khuy cạnh, quần ống rông cua
các nhà sư đêu xuât phát tư mâu quần áo cua dân tôc ta. Kiêu chít khăn cua sư nữ
cung là môt sáng tạo cua Việt Nam. Trong Thiên Chua giáo thường thây sư dụng
chiêc áo dài đen cài khuy cạnh, quần trăng kiêu dân tôc ta. Kiêu áo lê khởi thuy co
hàng khuy ở giữa thân áo, đã co thời gian sưa thành cài khuy cheo tư cô xuống nách,
giống kiêu áo năm thân Việt Nam.
Như vây, co thê noi, trong lĩnh vưc trang phục, y thưc ban đia hoa đê phu hợp
vơi phong tục, tâp quán, vơi thưc tê khách quan ở Việt Nam đã đem lại cho tôn giáo
Việt Nam môt màu săc đôc đáo.
Câu hỏi ôn tâp chương 3:
20
1. Giơi thiệu những net cơ ban vê áo cà sa nhà Phât?
2. Trang phục nhà sư phái Nam Tông?
3. Phân tích tính phu hợp cua trang phục tang ma?
4. Trang phục cươi cua nhân dân lao đông thời phong kiên?
Chương 4: Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam
Việt Nam bao gồm nhiêu dân tôc, trong đo người Việt có số dân đông nhât và
là môt trong những tôc người có gốc tích lâu đời trên dai đât này. Môi dân tôc mang
đâm nét môt ban săc văn hóa đôc đáo. Do đo, trang phục nói chung cua tưng tôc
người nói riêng thât phong phú đa dạng và đầy tính năng qua tưng thời kỳ cua lich sư
Việt Nam.
4.1. Trang phục dân tộc Kinh
Co đu các chung loại y phục khăn áo, váy, quần, khố (trươc đây), mu non, giày
dep... và trang sưc. Co đăc trưng riêng vê phong cách my thuât khác vơi các dân tôc
cung nhom ngôn ngữ và lân cân.
+ Trang phục nam
Trang phục thương nhật: Nhìn chung người Việt thường ngày măc áo cánh nâu,
xe ngưc, cô tròn, xe tà, hai tui dươi. Đây là loại áo ngăn măc vơi quần lá tọa ống rông.
Đo là loại quần co cạp hoăc dung dây rut. Trươc đây nam đê toc dài, bui to, hoăc thăt
khăn đầu riu, đong khố...
Trong lễ, tết, hôi hè: Nam thường măc áo dài màu đen, hoăc loại vai the co lot
trăng bên trong, đầu đôi khăn xêp, quần tọa màu trăng. Đo là loại áo dài, xe nách phai
không trang trí hoa văn, nêu co chỉ là loại hoa văn dệt cung màu tinh tê trên vai. Chân
đi guốc môc.
+ Trang phục nư
Trang phục thương nhật: Phụ nữ miên Băc và Băc Trung Bô thường măc áo
cánh ngăn vai nâu, phía trong măc yêm. Váy là loại váy kín (ống), co nơi măc ngăn
đên ống chân như Băc và Trung Bô. Thăt lưng là bao lương bằng vai màu (co nơi gọi
là ruôt tượng) quân ra ngoài cạp váy. Khi ra đường họ thường mang khăn vuông đôi
theo lối "mỏ quạ" hoăc các loại non: thung, ba tầm...
Trang phục trong lễ, tết, hôi hè: Trong những dip này phụ nữ Việt thường
mang áo dài. Họ thường đê toc dài vân khăn thành vành tròn quanh đầu, ngoài trùm
khăn hoăc đôi non ba tầm, non thung. Các thiêu nữ thường bui toc đuôi gà. Mua ret
phô biên quân trên đầu chiêc khăn vuông màu thâm. Đồ trang sưc thường mang là
các loại trâm, vòng cô, hoa tai, nhân, vòng tay mang phong cách tưng vung.
Phụ nữ Nam Bô thường ngày măc áo bà ba vơi các kiêu cô tròn, cô trái tim, cô
bà lai. Phụ trang đi kem vơi bô bà ba là chiêc khăn rằn thường co ô vuông xen kẽ hai
màu, là loại khăn co nguồn gốc cua người Khơ Me mà người Việt đã anh hưởng.
21
Chiêc non lá co sườn non gồm những nan tre xêp thẳng dọc và khoang 16 vòng nan
tre xêp tròn, đường kính tư nhỏ xíu trên đỉnh non đên lơn dần theo vành nón.
4.2. Trang phục dân tộc Mường
Nghê thu công tiêu biêu cua người Mường là dệt vai, đan lát, ươm tơ. Nhiêu
phụ nữ Mường dệt thu công vơi ky nghệ khá tinh xao. Người Mường co đăc trưng
riêng vê tạo hinh và phong cách thâm mĩ trên trang phục.
Thầy mo khi hành lê măc y phục riêng. Ðo là chiêc áo dài 5 thân cài khuy bên
nách phai, nhuôm màu xanh hoăc đen, thăt dây lưng trăng, đôi mu vai nhọn đầu.
Thầy môi khi cung chữa bệnh thường đôi mu chầu.
Trang phục nam
Nam măc áo cánh xe ngưc, cô tròn, cuc sưng vai, hai tui dươi hoăc thêm tui
trên ngưc trái. Đây là loại áo cánh ngăn phu kín mông. Đầu căt toc ngăn hoăc quân
khăn trăng. Quần lá tọa ống rông dung khăn thăt giữa bụng còn gọi là khăn quần.
Xưa co tục đê toc dài bui toc. Trong lê hôi dung áo lụa tím hoăc tơ vàng, khăn màu
tím than, ngoài khoác đôi áo đen dài tơi gối, cài cuc nách và sườn phai.
Trang phục nư
Bô y phục nữ đa dạng hơn nam giơi và còn giữ được net đôc đáo. Khăn đôi
đầu là môt manh vai trăng hinh chữ nhât không thêu thua, yêm, áo cánh (phô biên là
màu trăng) thân rât ngăn thường xe ở ngưc và váy dài đên măt cá chân gồm hai phần
chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nôi tiêng bởi các hoa văn được dệt kỳ công.
Trang sưc gồm vòng tay, chuôi hạt và bô xà tích 2 hoăc 4 dây bạc co treo hôp qua
đào và mong vuốt hô, gâu bit bạc.
Áo măc thường ngày co tên là áo pắn (áo ngăn). Bên trong là loại áo báng,
cung vơi đầu váy nôi lên giữa hai vạt áo ngăn. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bô
phân được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi măc mang hoa văn nôi lên giữa trung
tâm cơ thê.
4.3. Trang phục dân tộc Tày
Dân tôc Tày còn co tên gọi khác là Thô và bao gồm ca các nhom: Ngạn, Phen,
Thu Lao, Pa Dí. Phần đông người Tày cư tru ven các thung lung, triên nui thâp ở các
tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Băc Cạn, Thái Nguyên, Quang Ninh và môt số vung thuôc
Băc Giang v.v...
Người Tày co đăc trưng riêng vê phong cách thâm mĩ. Người Tày thường măc
quần áo vai bông nhuôm chàm. Bô y phục cô truyên cua người Tày làm tư vai sợi
bông tư dệt, nhuôm chàm, hầu như không thêu thua, trang trí. Phụ nữ măc váy hoăc
quần, co áo cánh ngăn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài.
Trang phục nam
Y phục cua nam giơi Tày gồm loại áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn đôi đầu,
quần và giày vai. Áo cánh 4 thân là loại xe ngưc, cô tròn cao, không cầu vai, xe tà,
22
cài cuc vai (7 cái) và hai tui nhỏ phía dươi 2 thân trươc. Trong dip têt, lê, hôi nam
giơi măc thêm loại áo dài 5 thân xe nách phai, đơm cuc vai hay cuc đồng. Quần
(khoa) cung làm bằng vai sợi bông nhuôm chàm như áo, căt theo kiêu quần đung
chéo, đô choãng vưa phai dài tơi măt cá chân. Quần co cạp rông không luồn rut, khi
măc co dây buôc ngoài. Khăn đôi đầu màu chàm (30cm x 200cm) quân trên đầu theo
lối chữ nhân.
Trang phục nư
Y phục cua nữ thường gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thăt lưng,
khăn đôi đầu, hài vai. Áo cánh là loại 4 thân xe ngưc, cô tròn, co hai tui nhỏ phía dươi
hai vạt trươc, thường được căt may bằng vai chàm hoăc trăng. Khi đi hôi thường
được măt lot phía trong áo dài. Vi vây người Tày còn được gọi là người áo trăng đê
phân biệt vơi người Nung chỉ dung màu chàm. Áo dài cung là loại 5 thân, xe nách
phai cài cuc vai hoăc đồng, cô tròn ống tay và thân hep co eo. Trươc đây phụ nữ măc
váy, nhưng gần đây phô biên măc quần; đo là loại quần vê nguyên tăc căt may giống
nam giơi kích thươc co phần hep hơn. Khăn phụ nữ Tày cung là loại khăn vuông màu
chàm khi đôi gâp cheo giống kiêu mỏ quạ cua người Kinh. Non cua phụ nữ Tày khá
đôc đáo. Non bằng nan tre lợp lá co mái non bằng và rông. Trang sưc phụ nữ Tày đơn
gian song co đu các chung loại cơ ban như vòng cô, vòng tay, vòng chân, xà tích...
Co nơi còn đeo tui vai.
4.4. Trang phục dân tộc Nùng
Dân tôc Nung sống tâp trung là ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Băc Cạn, Thái
Nguyên, Băc Giang, Tuyên Quang. Tiêng noi cua người Nung rât gần vơi tiêng Tày
và thuôc nhom ngôn ngữ Tày - Thái.
Nguồn sống chính cua người Nung là cây lua và cây ngô. Họ kêt hợp làm
ruông nươc ở các vung khe dọc vơi trồng lua cạn trên các sườn đồi. Đồng bào Nung
sống thành tưng ban trên các sườn đồi. Họ co môt kho tàng văn hoa dân gian phong
phú.
Đồng bào ở nhà sàn làm bằng gô tốt, lợp ngoi máng hoăc lợp tranh. Đồng bào
Nung măc quần áo chàm. Tâm áo chàm cua người Nung đã tưng che chở cho Bác Hồ
khi Bác tư nươc ngoài vê sống và hoạt đông cách mạng ở Păc Bo (1941). Môt số
vung đồng bào còn lưu truyên câu chuyện cô noi vê sư tích màu chàm là màu chung
thuy cua người vợ tre chờ chồng đi đánh giăc giữ nươc.
Nam, nữ người Nung đên tuôi trưởng thành đêu bit môt chiêc răng bằng vàng
ở hàm trên và như thê được xem là làm đep, là người sang trọng. Phụ nữ măc áo năm
thân và cài môt hàng cuc bằng nut vai phía bên nách phai. Tuy tưng nhom Nung đia
phương mà áo dài, ngăn, rông, hep khác nhau, nhưng ở đoạn cô tay và lá sen bao giờ
cung đăp môt miêng vai và bốn tui áo không co năp. Nam, nữ đêu măc môt loại quần
23
nhuôm màu chàm, cạp to, ống rông, dài tơi tân măt cá chân. Phụ nữ Nung thường đeo
tạp dê trươc bụng, khi gồng gánh còn mang thêm miêng nệm vai.
4.5. Trang phục dân tộc Thái
Người Thái nôi tiêng vê nghệ thuât thêu, dệt vai. Các san phâm cua họ trươc
hêt thỏa mãn nhu cầu măc nôi tôc. Hầu hêt các cô gái Thái đêu kheo leo trong việc
thêu dệt, không chỉ váy, áo cho minh mà còn cho chồng con, anh em, đồng thời đo
còn là những san phâm trao đôi, mua bán. Học thêu là ca môt quá trinh vât va. Ban
đầu, các cô chỉ thêu được những đường thẳng hoăc những mô típ hoa văn đơn gian,
dần dần tiên tơi biêt xư ly đồ án, bố cục, biêt xư ly màu săc ở nhiêu mô típ hoa văn
phưc tạp.
Vê trang phục nam: trong sinh hoạt và lao đông thường nhât, nam giơi măc áo
cánh ngăn, xe ngưc, quần xe dung. Áo là loại cô tròn, không cầu vai, hai tui dươi và
trươc cài cuc vai hoăc xương. Đăc điêm cua áo cánh nam giơi người Thái khu Tây
Băc không phai là lối căt may (vi cơ ban giống ngăn nam Tày, Nung, Kinh...) mà là ở
màu săc đa dạng cua loại vai cô truyên cua công đồng sáng tạo nên: không chỉ co
màu chàm, trăng mà còn co màu cà phê sữa, hay dât các vuông bằng các sợi màu đỏ,
xanh... Trong các ngày lê, têt, họ măc loại áo dài xe nách phai màu chàm, đầu quân
khăn, chân đi guốc. Trong tang lê họ măc nhiêu loại áo săc sỡ, tương phan màu săc
vơi ngày thường vơi lối căt may dài, thụng, không lượn nách vơi các loại: xe ngưc, xe
nách, chui đầu.
Vê trang phục nữ co sư phân biệt giữa Thái đen và Thái trăng:
Thái Trăng: thường nhât, phụ nữ măc xửa cỏm, váy màu đen không trang trí
hoa văn. Xửa cỏm Thái Đen, cô áo hinh chữ V, thân áo ngăn hơn áo cánh người Kinh,
tạo dáng ôm chăt lây thân, khi măc cho vào trong cạp váy. Áo thường là màu sáng,
trăng, phần cô áo và tay áo được viên tinh tê bên trong, chỉ đê lô môt đường nhỏ, tạo
cho cô áo co đô tròn tư nhiên. Phần nep áo được làm bằng vai màu sâm tạo sư nôi
bât, trên nep áo được đơm những hàng cuc bạc hinh con bươm, con ve, con ong...
Hàng cuc áo thê hiện quan niệm âm dương hài hòa co nam co nữ. Vơi phụ nữ đã co
chồng thi số hàng cuc sẽ chẵn, con gái chưa chồng thi hàng cuc sẽ le, co thê là 11, 13,
15. Chiêc áo cua người Thái cung hêt sưc gợi cam nhờ phần nách sẽ căt nối thêm môt
miêng vai nhỏ, gọi là tó son, nhờ no mà tạo được đô ôm cho ngưc và phần eo.
Váy trong tiêng Thái được gọi là Hua a xin, làm bằng vai bông, được nhuôm
chàm, nay thường được làm bằng vai nhung hay sa tanh. Cạp váy làm bằng vai ke thô
câm hoăc được thêu bằng những màu săc săc sỡ, mep dươi váy cung được viên tinh tê
bằng vai thô câm đỏ.
Khi măc xửa cỏm và váy phụ nữ còn tâm choàng ra ngoài được trang trí nhiêu
màu. Khăn đôi đầu không co hoa văn mà chỉ là băng vai chàm dài trên dươi 2m...
24
Trong các dip lê têt họ măc áo dài màu đen. Phụ nữ chưa chồng hay co chồng không
co dâu hiệu quy đinh nhân biêt... Họ co loại non rông vành.
Thái Đen: thường nhât phụ nữ măc áo ngăn màu tối (chàm hoăc đen), cô áo là
loại cô tròn, đưng. Đầu đôi khăn gọi là "piêu" thêu hoa văn nhiêu mô-típ trang trí
mang phong cách tưng mường. Váy là loại giống phụ nữ Thái Trăng đã noi ở trên.
Lối đê toc khi đã co chồng bui lên đỉnh đầu gọi là "Tằng cẩu"; khi chồng chêt co thê
bui toc thâp xuống sau gáy ; chưa chồng không bui toc. Trong lê, têt áo dài Thái Đen
đa dạng vơi các loại xe nách, chui đầu, trang trí phong phu đa dạng vê màu.
Phục trang không thê thiêu trong trang phục phụ nữ Thái là dây lưng, được
làm bằng tơ, nhuôm màu xanh. Ngoài ra còn phai kê đên dây xà tích. Xà tích thường
đính vơi phần dây lưng.
4.6. Trang phục dân tộc Dao
Dân tôc Dao co nhiêu nhom đia phương và phương ngữ khác nhau, môi nhom
đêu co trang phục riêng. Trang phục Dao Đỏ thích dung màu đỏ tươi rưc rỡ đê trang
trí: khăn đỏ, bông trên ngưc áo, cô áo, trên khăn đỏ, tua đỏ, yêm đỏ, nep ngưc áo đỏ,
yêm lưng đỏ, yêm che trươc bụng đỏ, màu thêu trên quần cung dung các màu săc đỏ.
Hoa văn trang trí thêu dày đăc. Các vât liệu trang trí như bạc, nhôm, hạt cườm co tác
dụng phát sáng, màu săc long lánh, lung linh được sư dụng nhiêu càng làm tôn ve rưc
rỡ sang trọng cho bô y phục đầy ban săc dân tôc.
Dao Đỏ, Dao Tiên, Dao Cooc mun, Dao Ôgang, Dao Quần chet đêu co ky
thuât thêu thoáng trên nên vai đen, vai chàm. Ngoài những họa tiêt là vốn chung cua
nhiêu dân tôc như hinh hoa tám cánh, chữ S, mào gà, chữ vạn, người Dao co nhiêu
sáng tạo họa tiêt riêng cho trang trí, khai thác các hinh tượng trong thiên nhiên có
cách điệu kỷ hà hoa cao nhưng vân nghiêng vê xu hương diên ta gần gui vơi hiện
thưc như: cây thông, người, ngưa, chim, cho, song nươc, măt trời, măt trăng, ngôi
sao... là những thành tưu trang trí đăc săc cua họ.
Trong trang trí Dao co những họa tiêt thê hiện tín ngưỡng vât tô cua dân tôc
như hinh "Tua chồ" (Con chó).
Môt bô trang phục hoàn chỉnh cua người Dao gồm: áo, yêm, xà cạp, cung đồ
trang sưc vàng bạc, khăn vân đầu... Duy nhât trong công đồng người Dao chỉ co
người Dao Tiên là măc váy (váy cua người Dao Tiên phía băc dài hơn váy cua người
Dao Tiên phía nam). Áo cua người Dao Tiên gồm hai thân trươc, nep và môt xỏ tà.
Thường trên đo họ dung họa tiêt hinh gâu, cho. Áo thường co bô khuy quy bằng bạc
hinh tròn chạm khăc tinh vi. Cô áo cua người phụ nữ Dao được trang trí bằng num
bông hoa đỏ như năm tay nôi bât trên nên áo chàm xanh đằm thăm. Yêm cua người
Dao khá đơn gian, chỉ là môt vuông lụa trăng đính môt miêng vai hinh tam giác làm
cô yêm. Xà cạp co hinh hoa văn moc câu hay răng cưa hinh chim. Đê bô trang phục
thêm hoàn my, họ thường dung nhiêu loại khăn vân đầu (co 3 loại khăn: khăn vuông,
25
khăn chữ nhât và khăn dài). Trong đám hát ví, họ thường dung khăn thêu trăng dài
chưng 12m, rông 30 - 40 cm, hai đầu gồm hai mang hoa văn hinh vuông tạo nên cam
giác mêm mại.
Ngoài trang phục chính, người phụ nữ Dao còn ưa dung đồ trang sưc: vòng cô,
nhân, tui ăn trầu, các đồ trang sưc bằng bạc hinh bán cầu, hinh sao 8 cánh. Co những
cô gái Dao đeo 10 chiêc vòng cô, 12 chiêc nhân, cung những chiêc khuy bạc đường
kính 6 - 7 cm, nôi bât trên màu áo chàm.
Vào dip lê hôi, người phụ nữ Dao còn giữ tục chai đầu bằng sáp ong cho mái
toc mượt mà. Đây cung là môt bí quyêt giup mái toc cua những cô gái Dao khỏe vê
sưc sống, đep trong con măt mọi người.
4.7. Trang phục dân tộc Ê-đê
đât và kha năng hồi phục cua đât. Rây đa canh và môi năm chỉ trồng môt vụ.
Người Ê-đê co đầy đu các thành phần, chung loại trang phục và phong cách
thâm mĩ khá tiêu biêu cho các dân tôc khu vưc Tây Nguyên. Y phục cô truyên cua
người Ê-đê là màu chàm, co điêm những hoa văn săc sỡ. Đàn bà măc áo, quân váy.
Đàn ông đong khố, măc áo. Đồng bào ưa dung các đồ trang sưc bằng bạc, đồng, hạt
cườm. Trươc kia, tục cà răng quy đinh mọi người đêu căt cụt 6 chiêc răng cưa hàm
trên, nhưng lơp tre ngày nay không cà răng nữa. Người đàn ông Ê-đê đê toc ngăn
quân khăn màu chàm nhiêu vòng trên đầu. Y phục gồm áo và khố. Áo co hai loại cơ
ban:
Loại áo dài tay: khoet cô chui đầu, thân dài trum mông, xe tà. Đây là loại áo
khá tiêu biêu cho người Ê-đê qua trang phục nam. Trên nên chàm cua thân và ống tay
áo ở ngưc, hai bên ba vai, cưa tay, các đường viên cô, nơi xe tà gâu áo được trang trí
và viên vai đỏ, trăng. Đăc biệt là khu giữa ngưc áo co mang sọc ngang trong bố cục
hinh chữ nhât tạo ve đep, khỏe.
Loại thư hai: loại áo dài (quá gối), khoet cô, ống tay binh thường không trang
trí như loại áo ngăn trên,...
Khố co nhiêu loại và được phân biệt ở sư ngăn dài co trang trí hoa văn như thê
nào. Đep nhât là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong và băl là loại khố
thường. Áo thường ngày ít co hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn co loại áo côc
tay đên khuy, hoăc không tay.
Áo co giá tri nhât là loại áo Ktêh cua những người quyên quy, co dai hoa văn
"đại bang dang cánh", ở dọc hai bên nách, gâu áo phía sau lưng co đính hạt cườm.
Nam giơi cung mang hoa tai và vòng cô.
Phụ nữ Ê-đê thường đê toc dài buôc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang
phục thường nhât. Áo phụ nữ là loại áo ngăn dài tay, khoet cô (loại cô thâp hinh
thuyên) măc kiêu chui đầu. Thân áo dài đên mông khi măc cho ra ngoài váy. Trên
nên áo màu chàm các bô phân được trang trí là: cô áo lan sang hai bên ba vai xuống
26
giữa cánh tay, cưa tay áo, gâu áo. Đo là các đường viên kêt hợp vơi các dai hoa văn
nhỏ bằng sợi màu đỏ, trăng, vàng. Cái khác cua trang phục áo nữ Ê-đê so vơi Gia Rai
vê phong cách trang trí là không co đường ở giữa thân áo.
Cung vơi áo là chiêc váy mở (tâm vai rông làm váy) quân quanh thân, được
gia công trí các sọc nằm ngang ở mep trên, mep dươi và giữa thân bằng chỉ các màu
tương tư như áo. Đồ án trang trí tâp trung hơn ở mep trên và dươi thân váy. Váy có
nhiêu loại phân biệt ở các dai hoa văn gia công nhiêu hay ít. Váy loại tốt là myêng
đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại binh thường măc đi làm rây là bong. Hiện
nay nữ thanh niên thường măc váy kín. Ngoài ra phụ nữ còn co áo lot côc tay. Xưa họ
đê toc theo kiêu bui to và đôi non duôn bai. Họ mang đồ trang sưc bằng bạc hoăc
đồng. Vòng tay thường đeo thành bô kep nghe tiêng va chạm cua chung vào nhau họ
co thê nhân ra người quen, thân.
4.8. Trang phục dân tộc Gia Rai
Người Gia Rai còn co các tên gọi khác là người Giơ Rai, Chơ Rai, Tơ
Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor hay Gia Lai. Người Gia Rai sinh sống và cư tru chu yêu
tâp trung ở tỉnh Gia Lai (90%), môt bô phân ở tỉnh Kon Tum (5%) và phía Băc
tỉnh Đăc Lăc (4%).
Thường nhât, nam đôi khăn, theo lối quân nhiêu vòng trên đầu rồi buông sang
môt bên tai, hoăc quân gọn ghẽ như khăn xêp cua người Kinh. Khăn màu chàm. Nhin
chung nam giơi Gia Rai đong khố. Khố này thường ngăn hơn khố ngày hôi, là loại
vai trăng co ke sọc. Ngày lê họ mang khố màu chàm (dài 410 cm x 29 cm), khố loại
này được trang trí hoa văn màu trăng, đỏ thành các đường viên ở mep khố, đăc biệt
hai đầu vơi các tua trên nên chàm. Co nhom ở trần, co nhom mang áo (loại côc tay và
loại dài tay màu chàm, khoet cô chui đầu). Loại ngăn tay thường co đường viên chỉ
màu trăng bên sườn. Loại dài tay giống phong cách áo dài nam Ê-đê hay Mnông.
Phụ nữ đê toc dài bui sau gáy hoăc quân gọn trên đỉnh đầu. Áo là loại áo ngăn,
chui đầu, phô biên là kiêu chui đầu cô "hinh thuyên", riêng nhom Gia Rai Mthur lại
co kiêu cô thâp hinh chữ V và các loại cô phô biên. Trên nên chàm áo được trang trí
các sọc hoa văn theo bố cục ngang thân áo ở cô, vai, ống tay, giữa ngưc, gâu áo và
hai cô tay áo. Đo là các sọc màu đỏ xen trăng và vàng trên nên chàm hoăc màu xanh
nhạt diệp và màu chàm. Váy là loại váy hở quân vào thân (kích thươc trên dươi 140 cm
x 100 cm). Phong cách trang trí trên váy cung thiên vê lối bố cục ngang vơi các đường
sọc màu (như áo là chính). Co nhom ở Plây-cu vơi nguyên tăc trên nhưng được mở
rông thành các mang hoa văn ở giữa thân váy, nưa thân dươi áo và hai ống tay. Trang
sưc co vòng cô, vòng tay.
4.9. Trang phục dân tộc Chăm
Trang phục Chăm du là dành riêng cho vua chua, cho các chưc săc tôn giáo
hay trang phục nam giơi, nữ giơi đêu co những net chung là sư hài hòa giữa trời đât,
27
âm – dương, môc mạc mà tinh xao, vưa duyên dáng vưa tê nhi. Trang phục Chăm
thiên vê màu trăng.
+ Trang phục vua chúa
Trang phục vua chua Chăm ngày xưa rât phong phu và đa dạng, nhưng cung
vơi sư tàn lụi cua vương triêu Chăm, loại trang phục này đã bi mât đi, chỉ tim hiêu
được qua tư liệu cô, bia ky, tượng thờ…
+ Trang phục chức sắc:
Thầy keo đàn Kanhi măc áo dài trăng, măc váy trăng viên hoa văn rồng, đầu
đôi khăn co tua đỏ, vai văt khăn đỏ và đeo tui. Thầy bong măc áo aw lah, măc váy
không co cạp váy và dây thăt lưng bằng vai trăng thô không co hoa văn, đôi khăn co
tua đỏ. Bà bong măc áo aw sah kamey, được may bằng loại vai thô màu trăng, cô áo
hình trái tim, đầu đôi khăn màu trăng co viên hoa văn và đeo hoa tai co đính tua vai
màu đỏ…
+ Trang phục nam
Nam măc áo aw lah xe ngưc màu sáng hoăc tối. Đo là loại áo cô tròn cài cuc.
Co người măc áo ngăn, xe ngưc, côc tay. Các đường viên ở cô sườn, hai thân trươc và
gâu được trang trí và đính các miêng kim loại hinh tròn, co nhom măc lê phục là loại
áo dài xe nách trăng hoăc đỏ. Trang phục cô truyên là chiêc váy (sarông) và quần.
Vung Thuân Hai, đàn ông lơn tuôi thường đê toc dài, quân khăn. Đo là loại
khăn màu trăng co dệt thêu hoa văn ở các mep và hai đầu khăn cung như các tua vai.
Khăn đôi theo lối chữ nhân, hai đầu tha ra hai mang tai. Nhom Chăm Hroi đôi khăn
trăng quân gọn trên đầu.
+ Trang phục nư
Vê cơ ban, phụ nữ các nhom Chăm thường đôi khăn. Cách đôi hoăc là phu
trên mái toc hoăc quân gọn trên đầu, hoăc quân theo lối chữ nhân, hoăc vơi loại khăn
to quàng tư đầu rồi phu kín vai. Khăn đôi đầu chu yêu là màu trăng, co loại được
trang trí hoa văn theo lối viên các mep khăn (khăn to), nhom Chăm Hroi thi đôi khăn
màu chàm. Lê phục thường co chiêc khăn văt vai ngoài chiêc áo dài màu trăng. Đo là
chiêc khăn dài tơi 23m văt qua vai cheo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cân thân
vơi các màu đỏ, trăng, vàng cua các mô tip trong bố cục cua dai băng.
Phụ nữ các nhom Chăm thường đôi khăn, hoăc phu trên mái toc, hoăc quân
gọn trên đầu, hoăc quân theo lối chữ nhân, hoăc vơi loại khăn to quàng tư đầu rồi phu
kín vai. Lê phục thường co chiêc khăn văt vai ngoài chiêc áo dài màu trăng. Nhom
Khánh Hòa và môt số nơi, chi em măc quần bên trong áo dài. Nhom Chăm Hroi măc
váy quân (hở) co miêng đáp sau váy. Nhom Quang Ngãi măc áo cánh xe ngưc, cô đeo
vòng và các chuôi hạt cườm. Màu săc trong trang phục Chăm thiên vê màu trăng.
4.10. Trang phục dân tộc Khơ Me
28
Người Khơ Me ở nươc ta khoang hơn 100 vạn người, cư tru chu yêu ở các
tỉnh thuôc vung châu thô sông Cưu Long như: Trà Vinh, Soc Trăng, An Giang,
Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau, Long An v.v...
Trang phục cô truyên cua người Khơme co cá tính ở lối măc váy và phong
cách trang phục găn vơi tín giáo đạo Phât.
Thường nhât nam giơi trung niên và người già thường măc bô bà ba đen, quân
khăn rằn trên đầu. Trong dip lê, têt họ măc áo bà ba trăng, quần đen (hoăc áo đen,
quàng khăn quàng trăng cheo ngang hông văt lên vai trái. Trong đám cươi chu rê th-
ường măt bô "xà rông" và áo ngăn bỏ ngoài màu đỏ. Đây là loại áo xe ngưc, cô đưng
cài cuc, quàng khăn trăng văt qua vai trái và đeo thêm con dao cươi vơi y nghĩa bao
vệ cô dâu. Thanh niên hiện nay khi ở nhà thường không măc áo và quân chiêc xà
rông ke sọc.
Cách đây ba, bốn mươi năm phụ nữ Khơ Me Nam Bô thường măc váy. Đo là
loại váy bằng tơ tằm, hinh ống (kín). Chiêc váy điên hinh là loại xăm pốt chân khen,
môt loại váy hở, quân quanh thân nhưng khác nhiêu tôc người khác cung co loại váy
này là cách mang váy vào thân. Đo là cách mang luồn giữa hai chân tư sau ra trươc,
rồi keo lên dăt cạnh hông tạo thành những chiêc quần ngăn và rông. Nêu cách tạo
hinh váy và môt số mô tip hoa văn trên váy co thê co sư tiêp xuc vơi các tôc người
khác thi cách măc váy này co thê xem là đăc trưng đôc đáo cua Khơ Me Nam Bô. Họ
thường măc váy trong những ngày lê lơn, môi ngày măc môt màu khác nhau trong
suốt tuần lê đo. Đo là loại xăm pốt pha muông. Ngày nay các loại trên ít thây, chỉ tồn
tại trên sân khâu cô truyên mà thôi.
4.11. Trang phục dân tộc Hoa
Dân tôc Hoa gồm những nhom co khác biệt nhau nhât đinh vê tiêng noi, tên
gọi, lich sư di cư, v.v... Đồng bào sinh sống ở nhiêu nơi tư Băc đên Nam, ở ca nông
thôn và thành thi. Tiêng noi cua người Hoa thuôc nhom Hán.
Đàn bà măc quần, áo 5 thân cài cuc vai ở bên nách phai, dài trum mông, áo côc tay
cung 5 thân. Các thầy cung co y phục riêng khi làm lê. Non, mu, ô là các đồ đôi trên đầu
thông dụng cua người Hoa.
Những trang phục gọi là truyên thống cua người Hoa hiện chỉ còn thây ở môt
số người co tuôi hay trong các nghi lê cươi xin, tang ma. Phụ nữ thường măc áo cô
viên cao, cài khuy môt bên, xe tà cao hoăc môt chiêc áo "sươn xam" may dài, ôm
ngang hông, xe tà dươi phần đui. Màu săc trang phục cua họ, nhât là các thiêu nữ
thích màu hồng hoăc màu đỏ, cung vơi các săc màu đâm. Ðàn ông măc áo màu đen
hay xanh đâm, cài khuy vai môt bên, vai liên cô đưng, xe tà hoăc kiêu áo tư thân, xe
giữa, cô đưng, vai liên, co tui. Phụ nữ thích dung đồ trang sưc, đăc biệt là vòng tay
29
(bằng đồng, vàng, đá, ngọc...), bông tai, dây chuyên... Ðàn ông thích bit răng vàng và
xem như môt lối trang sưc.
Câu hỏi ôn tập chương 4:
1. Tính đa dạng cua trang phục dân tôc Kinh?
2. Trang phục dân tôc Mường?
3. Nghệ thuât trang trí trang phục dân tôc Tày?
4. Trinh bày những net khái quát trang phục dân tôc Nung?
5. Thi hiêu thâm mĩ cua đồng bào dân tôc Ê-đê được thê hiện như thê nào qua
trang phục truyên thống?
6. Ve đep trang phục dân tôc Thái?
7. Ban săc văn hoa dân tôc Dao qua sư thê hiện trên trang phục?
Chương 5: Văn hóa trang phục Việt Nam – Những vấn đề cơ bản
5.1. Quá trình sáng tạo các giá tri văn hóa trang phục
Đê co môt bô trang phục, người phụ nữ trai qua quá trinh lao đông vât va tư
trồng bông, nuôi tằm ươm tơ, dệt vai, nhuôm, trang trí hoa văn, thêu... đên căt may
hoàn thiện. Công đoạn nào cung đòi hỏi sư kheo leo và ky thuât cao ở người phụ nữ.
Nhăc đên nghê dệt Việt Nam, thât thiêu sot khi không kê đên nghê dệt thô câm
cua đồng bào dân tôc thiêu số, đăc biệt là thô câm Ê-đê. Đê dệt thô câm, người Ê-đê ở
Đăc Lăc đã sáng tạo ra công cụ dệt đôc đáo. Đo là khung cưi chuyên dụng, gọi là
khung dệt thô câm. Co hai loại khung dệt vai đôc đáo này: khung dệt vai váy và
khung dệt vai khô hep.
Loại khung chuyên dệt vai váy co thê dệt ca chăn và tâm đăp co câu tạo phưc
tạp, co tơi 10 bô phân, chi tiêt khác nhau đê bao đam thưc hiện chưc năng riêng.
Trong đo, bô phân cài dệt hoa văn được sáng chê rât tinh vi. Loại khung dệt vai khô
hep đê làm tui thô câm, điu, khố, dây đeo.
Vi khung dệt thô câm cua người Ê-đê được câu tạo khác vơi khung cưi cua
người Việt, nên môt đầu khung dệt thô câm này co khung dây vòng qua sau lưng
người thợ dệt, còn đầu kia buôc cố đinh vào vách, côt nhà sàn, gốc cây.
Thô câm Ê-đê co đăc điêm: dày, chăc, bên, hoa văn và họa tiêt đep, nên nã và
sinh đông. Màu săc đan dệt trên thô câm được người Ê-đê ưa chuông, gồm các màu:
đỏ, đen, trăng, vàng, xanh lam... Màu được ưa chuông nhât vân là màu đỏ và màu
đen. Trên san phâm dệt cua người Ê-đê, hoa văn, họa tiêt được bố cục chăt chẽ, theo
chiêu dọc tâm vai. Các hoa văn sọc được điêm những họa tiêt phô biên là hoa văn
châm dai, các hinh dệt cài được cách điệu rât cao: bông hoa, con chim, con mối, con
kỳ đà, con bươm, con rua, hinh người, hinh khâu sung săn... Sư bố trí đan dệt màu săc
30
tâm thô câm do đo đã trở nên hài hòa, tinh xao. Nhiêu nhà khoa học xưa nay coi thô
câm Ê-đê cung như thô câm các dân tôc ít người khác (Chăm, Thái, Mường) là loại
san phâm my thuât, là những tác phâm nghệ thuât do nghệ nhân dân gian và khung
dệt cô truyên tạo ra.
Sau khi co tâm vai đep, những người phụ nữ lại điêm tô thêm cho no bằng
những hoa văn trang trí, bằng net thêu nhe nhàng, uyên chuyên và cung đầy sinh
đông
Công cụ dung trong nghê thêu khá đơn gian. Các thợ thêu chỉ sư dụng môt số
thư ở mưc tối thiêu :
- Kim thêu, kim khâu
- Khung thêu các cỡ, kiêu tròn và kiêu chữ nhât
- Keo, thươc, phân mờ, vê sau co thêm but lông
- Vai thêu (vai trăng, xa tanh, lụa...)
Hoa văn trang trí trên vai là môt dâu hiệu thông tin đăc biệt, no thê hiện quan
niệm vê cái đep, phan ánh nhân sinh quan, vu trụ quan... cua môi dân tôc, giup chung
ta phân biệt được tôc người này vơi tôc người khác. Thông qua việc tim hiêu hoa văn
trên vai dân tôc H'mông ta sẽ thây ro điêu này.
5.2. Các chức năng của trang phục
Khi noi chưc năng cua trang phục là noi đên y nghĩa cua trang phục đối vơi
con người.
- Chưc năng ích dụng:
+ Bao vệ cơ thê con người trươc điêu kiện bât lợi cua môi trường tư nhiên:
nong, lạnh, ret, gio.
+ Phòng chống bệnh tât (trang sưc bạc, guốc gô…), trư tà.
+ Tính thưc tiên cua trang phục trong việc phục vụ đời sống con người. Tư đo
dân đên đa dạng các loại trang phục: trang phục trong lao đông, hôi he, trang phục
chiên đâu...
- Chưc năng thâm mĩ:
+ Trang phục gop phần tô điêm thêm ve đep cua con người. Sáng tạo cua con
người hầu hêt tuân theo quy luât cái đep. Đep là sư hài hòa khi no đạt đên chân -
thiện - mĩ, khi nó găn vơi thoi quen thâm mĩ cua công đồng dân tôc.
+ Tính thâm mĩ thê hiện qua hinh dáng, màu săc, hoa văn, chât liệu… cua
trang phục. Lâu nay, nhiêu người quan niệm ve đep cua trang phục được đánh giá
tượng cua thi giác nên đòi hỏi nó phai biêu hiện được những chuân mưc cho sư nhìn.
Nhưng nhìn qua bô trang phục cua người Việt tư đầu thê kỷ XX trở vê trươc, chúng
ta thây rõ ngoài việc đáp ưng yêu cầu nhìn, còn có ca thính giác, vi giác và tât nhiên
dân đên ca xúc giác nữa.
31
Môt xu hương thường thây ở người Việt là sư dụng môt vât kiêm nhiêu chưc
năng. Chiêc khăn trùm đầu, còn đê quàng cô, văt vai, làm khăn lau và găp lúc bât
ngờ cung có khi là vu khí phòng hô. Vân đê đa chưc năng cua trang phục người Việt,
trong nhiêu trường hợp chưa hẳn đã là vì nghèo.
5.3. Các giá tri nổi bật của văn hóa trang phục
* Giá tri lich sư
Trang phục là tài liệu lich sư, nhìn vào trang phục co thê đoán đinh được thời
kỳ lich sư san sinh ra no. Trang phục phan ánh trinh đô phát triên kinh tê, chính tri,
văn hoa, xã hôi cua xã hôi đương thời.
* Giá tri văn hóa
Trang phục cung là môt hiện tượng văn hóa vê măt vât chât, hay văn hóa vât
chât. Trươc kia, bên cạnh nghê trồng lúa nươc, nghê trồng dâu, nuôi tằm là hoạt đông
san xuât cơ ban trong đời sống cua xã hôi người Việt.
Đưng ở góc đô văn hóa tinh thần, trang phục còn có ý nghĩa vê ý thưc chính
tri, vê đạo đưc con người...
* Giá tri thâm mĩ
Trang phục là môt nhu cầu vât chât quan trọng trong đời sống cua nhân dân
ta. Vơi tính chât thưc dụng, nó là môt san phâm; dươi góc đô thâm mĩ, nó lại là môt
tác phâm.
* Giá tri sáng tạo
Giá tri sáng tạo cua trang phục thê hiện ở: chât liệu tạo trang phục, quy trinh
ky thuât và việc sư dụng trang phục cung như y nghĩa các dâu hiệu trên trang phục.
5.4. Trang phục và thời đại
Trang phục thê hiện tâp trung tính truyên thống và hiện đại, trang phục là bô
măt cua thời đại. Noi cách khác, tính thời đại cua măc là sư kêt hợp nhuần nhuyên,
hợp ly và khoa học giữa truyên thống và hiện đại.
Noi tơi khái niệm hiện đại là noi tơi môt vân đê rât rông. “Hiện đại” thê hiện
rât nhiêu ngữ nghĩa, co thê chỉ mốc thời gian sau cân đại, co thê chỉ thời hiện tại
v.v… Trong lĩnh vưc trang phục, hiện đại chính là chỉ thời trang, là chỉ cách suy nghĩ,
nêp sống tân tiên. Măc khác, noi tơi truyên thống và hiện đại trong trang phục tưc là
noi tơi tính kê thưa và cách tân. Đây là môt điêu rât quan trọng, thê hiện đăc trưng và
ban lĩnh văn hoa cua môt công đồng, môt tôc người.
Môt số giai đoạn lich sư, trang phục cua người Việt chiu anh hưởng cua quan
niệm thâm mĩ văn hoa Trung Hoa, văn hoa Pháp và gần đây là các trào lưu văn hoa
trên khăp thê giơi. Du co luc sư anh hưởng này đã bôc lô những măt trái cua no
nhưng nhin chung, sưc sống văn hoa cua người Việt đã giup họ biêt chọn lọc những
gi là tinh tuy làm phong phu thêm cho truyên thống văn hoa, tránh sư sao chep, lệ
thuôc, lai căng.
32
5.5. Vấn đề đặt ra đối với trang phục cổ truyền trong đời sống hiện đại
Ngày nay, trang phục cô truyên Việt Nam đang co nhiêu thay đôi vê tần suât
sư dụng.
Co thê nhân thây thời trang trong những năm gần đây co những bươc tiên khá
dài. Trang phục đang đòi hỏi sư vươn tơi cái đep, thê hiện sư hoàn my hay che bơt
những nhược điêm, khuyêt điêm trên cơ thê. Người phụ nữ ngày nay co rât nhiêu cơ
hôi thê hiện ve đep qua trang phục.
Trong thê giơi thời trang phong phu vơi những làn song mốt đên rồi lại đi,
thay đôi đên chong măt, trang phục truyên thống cua người Việt vân thê hiện ro ban
lĩnh cua minh. Sau thời gian bi loa măt trươc những cơn song thời trang tư bên ngoài
tràn vào, trang phục cô truyên lại lên ngôi, lăng sâu hơn và thê hiện ro ban săc cua
minh hơn, biêu hiện ngày càng ro net phong cách trang phục vốn co tư ngàn đời.
Trang phục cô truyên còn tồn tại vi no còn phu hợp vơi nhu cầu sư dụng thưc tiên và
tính giá tri cua san phâm trang phục Việt Nam.
Tom lại, kêt hợp giữa truyên thống và hiện đại trong trang phục là môt nguyên
tăc cơ ban, nguyên tăc vàng trong quá trinh bao tồn và phát huy ban săc văn hoa, đăc
biệt là ban săc văn hoa trang phục Việt Nam.
Câu hỏi ôn tập chương 5:
1. Kê tên các nguyên liệu sợi dệt ở nươc ta?
2. Kê tên môt số san phâm tơ lụa cua nươc ta?
3. Nêu các chưc năng trang phục?
4. Đăc điêm truyên thống cua trang phục Việt Nam?
5. Chọn và phân tích môt đăc điêm truyên thống cua trang phục Việt Nam?
33
TÀI LIÊU THAM KHẢO
1. Toan Ánh (1992), Nêp cu – Con người Việt Nam, Nxb Tre Tp HCM.
2. Diệp Trung Binh (2005), Hoa văn trên vai dân tôc Mường, Nxb Văn
hoa dân tôc.
3. Ngô Văn Doanh (1994), Văn hoa Chăm Pa, Nxb Văn hoa – Thông tin,
Hà Nôi.
4. Nguyên Thi Đưc (1998), Văn hoa trang phục tư truyên thống đên hiện
đại, Nxb Văn hoa Thông tin, Hà Nôi.
5. Nguyên Quang Ngọc (1995) (chu biên), Tiên trinh lich sư Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nôi.
6. Phan Ngọc (2000), Ban săc văn hoa Việt Nam, Nxb Văn hoa – Thông
tin, Hà Nôi.
7. Nguyên Thu Phương (2005), Trang phục Việt Nam tư truyên thống
đên hiện đại, Nxb Lao đông, Hà Nôi.
8. Li Tana (1990), Xư Đàng trong, Nxb Tre, Tp Hồ Chí Minh
9. Lê Ngọc Thăng (1990), Nghệ thuât trang phục Thái, Nxb Văn hoa dân
tôc – Trung tâm văn hoa Việt Nam, Hà Nôi.
10. Ngô Đưc Thinh (2000), Trang phục cô truyên các dân tôc Việt Nam,
Nxb Văn hoa dân tôc, Hà Nôi.
11. Nguyên Khăc Thuần (2004), Đại cương lich sư văn hoa Việt Nam, 5
tâp, Nxb Giáo dục, Hà Nôi
34
12. Nguyên Tài Thư (1993) (chu biên), Lich sư tư tưởng Việt Nam, tâp
1, Nxb Khoa học xã hôi, Hà Nôi
13. Đoàn Thi Tinh (1987), Tim hiêu trang phục Việt Nam (dân tôc Việt),
Nxb Văn hoa, Hà Nôi.
14. Trần Tư (1978), Hoa văn Mường, Nxb Văn hoa dân tôc, Hà Nôi.
15. Bui Văn Vượng (2010), Nghê dệt, nghê thêu cô truyên Việt Nam,
Nxb Thanh niên.