Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN MINH PHƯƠNG
THỦ CÔNG NGHIỆP
QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
(1802-1945)
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. BÙI THỊ TÂN
2. PGS.TS. TRƯƠNG CÔNG HUỲNH KỲ
Huế, Năm 2017
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận
án là trung thực.
Tác giả Luận án
Nguyễn Minh Phương
iii
Lời Cảm Ơn
Để thực hiện và hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình về nhiều mặt của các cá nhân và tổ chức. Với tình cảm chân thành và lòng quý trọng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến:
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng trân trọng, và biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Bùi Thị Tân và PGS.TS. Trương Công Huỳnh Kỳ đã luôn nhiệt thành, tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn để tôi có được định hướng đúng đắn trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Lãnh đạo và đồng nghiệp của tôi tại Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng đã luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành chương trình học, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Ban Giám đốc, Ban Đào tạo Đại học Huế, Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau Đại học, Ban Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, cùng toàn thể quý Thầy giáo, Cô giáo đã quan tâm giúp đỡ và tận tình giảng dạy trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại Trường.
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, Thư viện Quốc gia, Thư viện Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Phòng Tư liệu Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Huế, Phòng Tư liệu Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế, Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng, Thư viện Tổng hợp thành phố Đà Nẵng, Hội Văn nghệ dân gian thành phố Đà Nẵng, các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân tại Quảng Nam, Đà Nẵng, lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo ngành Văn hóa Thông tin các địa phương thuộc tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đã giúp đỡ tôi trong công tác thu thập tư liệu.
Gia đình luôn là nguồn động viên, cỗ vũ, tiếp thêm động lực để tôi vượt qua mọi khó khăn trong quá trình học tập cũng như thực hiện luận án.
Dù đã rất cố gắng, song luận án sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý Thầy, Cô, và quý bạn đọc góp ý để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả Luận án
Nguyễn Minh Phương
iv
NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
B.A.V.H Tập san Những người bạn cố đô Huế
CTQG Chính trị Quốc gia
ĐHQG Đại học Quốc gia
ĐN Đà Nẵng
H Huế
HN Hà Nội
KHXH Khoa học Xã hội
NCLS Nghiên cứu lịch sử
NXB Nhà xuất bản
SG Sài Gòn
T Tập
Tr Trang
TVQG Thư viện Quốc gia
TTLTQG Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
Tp HCM Thành phố Hồ Chí Minh
VHTT Văn hóa Thông tin
iv
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................. 1
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .............................................. 2
2.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................... 3
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 3
3.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 3
4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................... 4
4.1. Nguồn tư liệu ...................................................................................... 4
4.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 4
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN ....................................................................... 5
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN ............................................................................. 5
NỘI DUNG ................................................................................................................ 6
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 6
1.1. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................................................ 6
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỦ CÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM ................................................................................................................. 10
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
CÓ ĐỀ CẬP ĐẾN THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG ....... 15
1.4. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG
NAM – ĐÀ NẴNG .......................................................................................... 20
1.5. NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐƯỢC LUẬN ÁN KẾ THỪA ...... 21
1.6. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU .............................. 22
Chương 2. THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1802
ĐẾN NĂM 1885 ....................................................................................................... 24
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG
NAM - ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885 .................................... 24
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ......................................................................... 24
2.1.1.1. Vị trí ....................................................................................... 24
v
2.1.1.2. Địa hình .................................................................................. 26
2.1.1.3. Khí hậu ................................................................................... 28
2.1.1.4. Nguồn tài nguyên ................................................................... 29
2.1.2. Các nhân tố lịch sử - xã hội ........................................................... 30
2.1.2.1. Về lịch sử vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng .......................... 30
2.1.2.2. Con người và truyền thống xứ Quảng .................................... 32
2.1.3. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng trước năm 1802 và di sản
để lại ......................................................................................................... 34
2.1.4. Tình hình chính trị, xã hội và kinh tế Quảng Nam-Đà Nẵng (1802-
1885) ........................................................................................................ 37
2.1.4.1. Tình hình chính trị .................................................................. 37
2.1.4.2. Tình hình xã hội ..................................................................... 38
2.1.4.3. Tình hình kinh tế .................................................................... 39
2.1.5. Chính sách của triều Nguyễn đối với thủ công nghiệp.................. 43
2.2. THỦ CÔNG NGHIỆP NHÀ NƯỚC......................................................... 46
2.3. THỦ CÔNG NGHIỆP DÂN GIAN .......................................................... 49
2.3.1. Các nghề thủ công tiêu biểu .......................................................... 49
2.3.2. Làng nghề thủ công tiêu biểu ........................................................ 77
2.3.3. Những nét mới trong thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng thời
Nguyễn so với trước .............................................................................. 103
Chương 3. THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1885
ĐẾN NĂM 1945 ..................................................................................................... 106
3.1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ MỚI .... 106
3.1.1. Tình hình chính trị ....................................................................... 106
3.1.2. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp .................................... 107
3.1.3. Sự chuyển biến về xã hội ............................................................. 113
3.1.4. Sự biến đổi trong kinh tế ............................................................. 116
3.2. THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG TỪ 1885 ĐẾN 1945
........................................................................................................................ 119
3.2.1. Khái quát tình hình sản xuất thủ công nghiệp ở Quảng Nam – Đà
Nẵng thời thuộc địa................................................................................ 119
3.2.1.1. Khái quát .............................................................................. 119
vi
3.2.1.2. Các nghề mới ........................................................................ 120
3.2.1.3. Các làng nghề mới ................................................................ 122
3.2.2. Các nghề thủ công tiêu biểu ........................................................ 133
3.2.3. Các làng nghề thủ công tiêu biểu................................................. 141
Chương 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ
NẴNG (1802 - 1945) .............................................................................................. 151
4.1. MỘT SỐ ĐIỂM NỔI BẬT ...................................................................... 151
4.1.1. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng phát triển trên vùng đất
có điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa và đô thị ................................. 151
4.1.2. Các nghề và làng nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng phong
phú, đa dạng hơn các tỉnh Nam Trung Bộ ............................................. 157
4.1.3. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng từng bước phát triển theo
kinh tế thị trường ở giai đoạn đầu của kinh tế tư bản chủ nghĩa ........... 161
4.2. TÁC ĐỘNG CỦA THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
(1802-1945) .................................................................................................... 166
4.2.1. Đối với kinh tế và đời sống ......................................................... 166
4.2.2. Đối với chính trị và xã hội ........................................................... 168
4.2.3. Đối với văn hóa ........................................................................... 170
4.2.3.1. Góp phần bảo tồn những giá trị tri thức bản địa .................. 170
4.2.3.2. Góp phần làm phong phú lễ hội địa phương ........................ 171
4.2.3.3. Sự gắn kết, giữ gìn tâm hồn những người con xa quê ......... 172
4.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN THỦ
CÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG XỨ QUẢNG ...................................... 173
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 179
CHÚ THÍCH .......................................................................................................... 182
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 191
CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ .............. 206
PHỤ LỤC .....................................................................................................................
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thủ công nghiệp là một ngành kinh tế có truyền thống lâu đời ở Việt Nam.
Thủ công nghiệp đã hỗ trợ, thúc đẩy nông nghiệp, thương nghiệp phát triển tạo nên
một nền kinh tế bền vững. Mặt khác, thủ công nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng
tạo nên dấu ấn trong nền văn hóa dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa vùng
miền trong bức tranh đa sắc màu của văn hóa Việt Nam.
Trong vài thập niên gần đây, thủ công nghiệp đã và đang nhận được sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm đánh giá đúng hơn về thủ
công nghiệp trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
Quảng Nam - Đà Nẵng là vùng đất chiến lược của nước ta kể từ khi sáp nhập
vào quốc gia Đại Việt (1306). Cùng với quá trình khai hoang, vỡ hóa, lập làng, mở
đất về phía Nam, phát triển kinh tế nông nghiệp, nền kinh tế thủ công nghiệp có
nhiều chuyển biến, các nghề và làng nghề truyền thống ra đời và phát triển trên
vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng. Nhiều sản phẩm đã tạo được thương hiệu, trở
thành hàng hóa có giá trị trên thị trường trong và ngoài nước, tạo cơ sở cho sự phát
triển của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng trong các thế kỷ XIX, XX.
Sau khi thiết lập vương triều (1802), các vua Nguyễn đứng trước những khả
năng to lớn để phát triển đất nước. Sau 200 năm bị chia cắt đến đầu thế kỷ XIX,
Việt Nam thực sự là một quốc gia thống nhất về cương vực, thị trường, tiền tệ. Các
vua Nguyễn đã chọn Đà Nẵng làm nơi đón tiếp các sứ thần, quan hệ ngoại giao,
thương mại, Quảng Nam là đất “tả trực” của kinh đô Huế, một địa bàn chiến lược
quan trọng để phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng. Trong bối cảnh nền kinh tế
chung của nước ta, kinh tế Quảng Nam - Đà Nẵng, trong đó có thủ công nghiệp tiếp
tục tạo nên những bước tiến mới.
Dưới thời thuộc Pháp, Quảng Nam – Đà Nẵng là một trong những địa bàn
chính của công cuộc khai thác thuộc địa ở Nam Trung Kỳ. Nền kinh tế Quảng Nam
- Đà Nẵng nói chung và kinh tế thủ công nghiệp nói riêng phát triển lệ thuộc vào sự
cai trị của thực dân Pháp. Mặc dầu vậy, thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng
thời kỳ này có nhiều sự chuyển biến.
2
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay đang tiếp tục đặt ra vấn đề là phải nghiên cứu và đề ra
phương án tốt cho sự phát triển thủ công nghiệp nhằm gìn giữ, khôi phục và phát
huy các nghề, làng nghề truyền thống, góp phần phát triển kinh tế và gìn giữ những
giá trị truyền thống trong bối cảnh quá trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ. Trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, thủ công nghiệp vẫn có vai trò khá
quan trọng trong việc tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, phục vụ đời sống và giữ gìn bản
sắc dân tộc.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà
Nẵng, đặc biệt từ là thời kỳ từ 1802 đến 1945, nhưng còn nhiều vấn đề cần phải tiếp
tục nghiên cứu và lí giải như quá trình hình thành các nghề thủ công và làng thủ
công truyền thống, cơ cấu ngành nghề, vai trò và vị trí của nghề thủ công đối với
đời sống kinh tế, văn hoá, chính trị và xã hội ở địa phương và cả nước, sự biến
chuyển của nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng qua các thời kỳ lịch sử, bản sắc
văn hoá xứ Quảng thể hiện trong các nghề thủ công, đặc điểm của các nghề thủ
công ở Quảng Nam – Đà Nẵng.....
Việc tái hiện lại một cách có hệ thống thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà
Nẵng (1802-1945) sẽ giúp chúng ta hiểu rõ về quá trình ra đời phát triển của thủ
công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng trong mối tương quan với nền thủ công nghiệp
của cả nước trong thời kì này. Mặt khác, sẽ giúp chúng ta thấy được những đặc
trưng cơ bản của thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng và tác động của nó đối với
đời sống kinh tế, văn hoá, chính trị và xã hội cùng những phong tục, tập quán của
cư dân trên mảnh đất này.
Như vậy, việc nghiên cứu thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng 1802-
1945 thực sự mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Xuất phát từ thực tế trên,
chúng tôi chọn đề tài “Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng (1802-1945)” cho
luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam của mình.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc làm rõ chính sách đối với thủ công nghiệp của nhà Nguyễn
và Pháp, so sánh tình hình thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng giữa hai thời kỳ
trước thời thuộc Pháp và thời thuộc Pháp, luận án nhằm khôi phục bức tranh thủ
3
công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng (1802-1945), khẳng định những nét đặc trưng
thông qua việc nghiên cứu một số nghề và làng nghề tiêu biểu, làm rõ đóng góp của
thủ công nghiệp đối với tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa trong tiến trình lịch sử
của vùng đất này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích các yếu tố tác động đến sự phát triển của thủ công nghiệp Quảng
Nam – Đà Nẵng qua các thời kỳ lịch sử.
Nghiên cứu tình hình thủ công nghiệp ở Quảng Nam – Đà Nẵng từ 1802 -
1945, trong đó có nghiên cứu cụ thể một số nghề, làng nghề thủ công tiêu biểu
Rút ra những đặc điểm, đóng góp của thủ công nghiệp đối với địa phương
Quảng Nam – Đà Nẵng. Đưa ra những giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển các
nghề, làng nghề tiêu biểu ở Quảng Nam – Đà Nẵng.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm
1802 đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 trên các phương diện:
- Thủ công nghiệp nhà nước.
- Thủ công nghiệp dân gian.
- Quan hệ sản xuất.
- Kỹ thuật và bước tiến về kỹ thuật.
- Nguồn nguyên liệu, thị trường, nhân công, đời sống người thợ.
- Các tác động bên ngoài có ảnh hưởng đến thủ công nghiệp.
- Tác động của thủ công nghiệp đối với địa phương trên các khía cạnh: kinh
tế và đời sống, chính trị và xã hội, văn hóa.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Khảo sát và nghiên cứu tình hình phát triển thủ công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Về thời gian: Từ năm 1802 đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong đó chia thành hai thời kỳ là trước thời Pháp thuộc (từ 1802 – 1885, trước
tháng 7/1885) và thời Pháp thuộc (1885 - 1945, sau khi ký Hiệp ước Patenôtre đến
trước Cách mạng tháng Tám).
Về nội dung: Những nhân tố tác động đến thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà
4
Nẵng. Cơ cấu ngành nghề, tổ chức sản xuất, sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm của các
nghề và làng nghề thủ công tiêu biểu. Đặc điểm, vai trò, tác động của thủ công
nghiệp đối với tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa địa phương.
4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tư liệu
Luận án khai thác các tư liệu có liên quan đã được công bố từ trước đến nay
bao gồm các thư tịch, công trình khoa học, các sách, báo, tạp chí:
- Nguồn tư liệu thư tịch cổ như các sách của Dương Văn An, của Lê Quý
Đôn, các bộ sách của Quốc sử quán và Nội các triều Nguyễn...
- Nguồn tư liệu lưu trữ: Chủ yếu là Châu bản triều Nguyễn, văn bản của
chính quyền thuộc địa...
- Các công trình thời cận đại và hiện đại đã được xuất bản trong và ngoài nước.
- Nguồn tư liệu điền dã tại địa phương:
Tư liệu thư tịch tại các làng nghề: Gia phả, sắc phong, phổ hệ, khoán ước,
hương ước, hương phổ, địa chí của làng xã, các bài văn tế những người có công lập
làng, các vị tổ nghề, gia phả một số dòng họ lớn ở các làng, những dấu tích ngành
nghề, nhân vật, sản phẩm...
Tư liệu truyền miệng: Truyền thuyết, ca dao, hò vè, chuyện kể của những
người lớn tuổi. Đây là nguồn tài liệu rất phong phú, phản ánh cách nhìn nhận, tâm
thức của dân gian địa phương về một số nghề và làng nghề nên chúng tôi cố gắng so
sánh, đối chiếu với các nguồn tài liệu khác nhằm chắt lọc những thông tin có giá trị.
Nguồn tư liệu thu thập được thông qua việc phỏng vấn các nghệ nhân, những
người lớn tuổi tại các làng nghề.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp
với phương pháp logic là chủ yếu. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các phương
pháp so sánh, thống kê, đối chiếu, phân tích, tổng hợp trên cơ sở khảo cứu các
nguồn tài liệu văn bản, thực địa và tiếp xúc nhân chứng. Đồng thời cũng vận dụng
phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
Các phương pháp trên được vận dụng đồng thời kết hợp, bổ sung cho nhau
trong quá trình khai thác tài liệu nhằm nghiên cứu thủ công nghiệp Quảng Nam -
Đà Nẵng một cách khách quan, hệ thống và khoa học.
5
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Đề tài đạt được mục đích nghiên cứu đề ra sẽ có những đóng góp sau đây:
* Về mặt khoa học:
- Bổ sung nguồn tư liệu về thủ công nghiệp Quảng Nam- Đà Nẵng từ 1802
đến 1945.
- Tái hiện lại bức tranh thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng từ 1802 đến
1945, thông qua đó làm rõ quá trình phát triển, một số đặc điểm cơ bản, tác động
của nó đối với tình hình phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của địa phương.
- Góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử nghề thủ công Việt Nam.
* Về mặt thực tiễn:
- Góp phần nghiên cứu lịch sử kinh tế địa phương tỉnh Quảng Nam, thành
phố Đà Nẵng và cả nước.
- Đề tài là cơ sở khoa học đề xuất những biện pháp nhằm bảo tồn, khôi phục
phát triển kinh tế thủ công nghiệp trong quá trình đô thị hóa của Quảng Nam - Đà
Nẵng trong giai đoạn hiện nay cho phù hợp với tiềm năng của nó. Bên cạnh đó,
chúng tôi đề xuất một số nội dung liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống của địa phương trong thời kỳ hội nhập.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu (18 trang).
Chương 2. Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng từ 1802 đến 1885 (80 trang).
Chương 3. Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng từ 1885 đến 1945 (45 trang).
Chương 4. Đặc điểm, vai trò của thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng
(1802 - 1945) (25 trang).
6
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Từ bao đời nay, cha ông ta đã biết kết hợp giữa nông nghiệp, thủ công
nghiệp và thương nghiệp vừa để phục vụ thiết yếu cho đời sống sinh hoạt, vừa đảm
bảo sản xuất và kinh tế ngày một phát triển.
Thủ công nghiệp tồn tại như một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế
nông nghiệp. Thủ công nghiệp có vai trò bổ trợ cho nông nghiệp trên nhiều phương
diện như cung cấp công cụ sản xuất, hàng tiêu dùng, là nơi tiêu thụ sản phẩm cho
nông nghiệp, giải quyết lao động dư thừa, tăng thu nhập cho các hộ nông dân… Thợ
thủ công đồng thời là người nông dân, các gia đình nông dân làm ruộng và làm
thêm một số nghề thủ công. Thủ công nghiệp phát triển đã hình thành nhiều làng
chuyên một nghề như đan lát, dệt vải, dệt chiếu, làm gốm…
Thủ công nghiệp với những sản phẩm là nguồn hàng được trao đổi, buôn bán
trong các phiên chợ làng, chợ vùng. Cùng với sự phát triển của thủ công nghiệp, các
sản phẩm thủ công ngày càng phong phú, đa dạng và chất lượng trở thành hàng hóa
được các thương nhân nước ngoài ưa chuộng. Như vậy, thủ công nghiệp cũng đã
góp phần thúc đẩy thương nghiệp (cả nội thương và ngoại thương) phát triển.
Bên cạnh kinh tế, thủ công nghiệp còn có tác động tích cực đến các lĩnh vực
chính trị, xã hội, văn hóa dưới nhiều góc độ.
Thời Nguyễn và thời Pháp thuộc, thủ công nghiệp tiếp tục phát triển và có
những đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. “Nhìn một cách tổng quát trong
thời kỳ từ khi Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam đến trước cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất (1858-1896), nền thủ công nghiệp Việt Nam đã bắt đầu có những
chuyển biến mới mẻ trên con đường tiến triển” [80, tr. 213].
Xuất phát từ vai trò đối với nền kinh tế cũng như những dấu ấn về mặt lịch
sử, thủ công nghiệp cần được nghiên cứu một cách toàn diện bao gồm hoạt động
của các ngành nghề, làng nghề trong mối quan hệ tổng thể với các ngành kinh tế
khác và mối tương quan giữa các vùng, miền và trên phạm vi cả nước.
Một số khái niệm thuộc vấn đề nghiên cứu
7
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó nhờ được đào tạo mà
con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật
chất hay tinh thần, đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Nghề thủ công là lĩnh vực hoạt động lao động chân tay là chủ yếu tạo ra
những vật dụng dùng trong sinh hoạt, hay chế biến một số sản phẩm từ nông
nghiệp, chế biến những sản phẩm mang tính nghệ thuật. Khái niệm về nghề thủ
công hay nghề thủ công truyền thống bao gồm:
Là một nghề lâu đời được lưu truyền và có sức lan tỏa mạnh mẽ.
Hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, bằng tay và những công cụ thô sơ.
Sản phẩm vừa có ý nghĩa kinh tế vừa mang những giá trị vật thể, phi vật thể
phản ánh được lịch sử, văn hóa và xã hội.
Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về làng nghề truyền thống
nhưng có thể hiểu làng nghề truyền thống là làng nghề làm nghề thủ công truyền
thống được gọi tắt là làng nghề. Theo GS. Trần Quốc Vượng:
Làng nghề là làng ấy, tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn
nuôi nhỏ (gà, lợn, trâu, bò...) cũng có một nghề phụ khác (thêu, rèn, đan
lát...) song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thủ công
chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông
trùm, ông phó cả cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình
công nghệ “nhất định sinh ư nghệ”, “tử ư nghệ, nhất nghệ tinh nhất thân
vinh”, sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những hàng thủ công,
những mặt hàng có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có
quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng xung quanh với thị trường đô thị,
thủ đô (Kẻ chợ, Huế, Sài Gòn...) và tiến tới mở rộng ra cả nước và có thể
xuất khẩu ra cả nước ngoài [15, tr. 16].
Như vậy, làng nghề là một thực thể được tồn tại ổn định về mặt địa lý, ổn
định về nghề nghiệp hay một nhóm các nghề có mối liên hệ mật thiết với nhau để
làm ra một sản phẩm, có bề dày lịch sử và tồn tại, lưu truyền trong dân gian. Khái
niệm về làng nghề bao hàm các nội dung:
Là một địa danh gắn với một cộng đồng dân cư có một nghề truyền thống lâu
đời được lưu truyền và có sức lan tỏa mạnh mẽ.
8
Ổn định về một nghề hay một số nghề có quan hệ mật thiết với nhau trong
quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm.
Có một đội ngũ nghệ nhân và thợ có tay nghề cao, có bí quyết nghề nghiệp
được lưu truyền lại cho con cháu hoặc thế hệ sau.
Sản phẩm vừa có ý nghĩa kinh tế để nuôi sống một bộ phận dân cư và quan
trọng hơn là nó mang những giá trị vật thể và phi vật thể phản ánh được lịch sử, văn
hóa và xã hội liên quan đến chính họ.
Thuật ngữ tiểu thủ công nghiệp (hay tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp)
mới xuất hiện thời cận đại, từ sau cách mạng công nghiệp tại các nước Âu – Mỹ (từ
cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX), để phân biệt đại công nghiệp cơ khí với
nền sản xuất nhỏ, thô sơ và vốn là tiền thân của nó trước đây. Tuy vậy, định nghĩa
về thuật ngữ này đến nay vẫn chưa thống nhất.
Theo Bách khoa toàn thư Liên Xô: “Thủ công nghiệp là sản xuất thủ công sử
dụng lao động thô sơ chế biến nguyên liệu thành sản phẩm” [120, tr. 59].
Một số nước khác không dùng thuật ngữ “thủ công nghiệp” mà dùng thuật
ngữ “tiểu công nghiệp”. Tại Anh, người ta dùng “petty industry” để chỉ sản xuất tiểu
công nghiệp có quy mô nhỏ, không dùng máy móc, lao động thủ công dưới 4 người.
Tại Ấn Độ, năm 1960, người ta quy định các cơ sở sản xuất nhỏ hơn 100 người,
không dùng máy móc hoặc cơ sở sản xuất nhỏ hơn 50 người có dùng máy móc đều
thuộc tiểu công nghiệp. Tuy nhiên, sau đó, thuật ngữ này được thay thế bằng quy
định khác như: Vốn đầu tư không quá 500.000 rupi (tương đương 100.000 USD)
đều thuộc tiểu công nghiệp. Một số nước như Hàn Quốc, Philippin, Nhật Bản,
Trung Quốc, Singapore, Mỹ… đều lấy chỉ tiêu về vốn, số lượng công nhân (vốn
nhỏ hơn 100.000 USD, số lượng công nhân từ 5-300 người) để xác định thuộc tiểu
công nghiệp. Năm 1962, một nhóm chuyên gia về tiểu công nghiệp trong Uỷ ban
kinh tế Châu Á ở Viễn Đông (The Economic Commission for ASie and the for
East-Ecafe ) đã định nghĩa “Tiểu kỹ nghệ là các xí nghiệp kỹ nghệ sử dụng không
quá 50 công nhân trường hợp xưởng cơ khí không có máy móc hoặc không quá 20
công nhân trong trường hợp xưởng cơ khí sử dụng máy móc ứng với một công suất
dưới 50 mã lực ” [77, tr. 20].
Ở nước ta, thời Pháp thuộc đã có nhiều cụm từ được sử dụng để chỉ các hoạt
động công nghệ tiểu sản xuất như “tiểu thủ công nghệ”, “công nghệ gia đình”,
“công nghệ nông dân”, “công nghệ thôn xóm”, “công nghệ cổ truyền”.
9
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các văn bản của nhà nước đã sử dụng
các thuật ngữ “thủ công nghiệp”, “tiểu công nghiệp”, hay “tiểu công nghệ”. Từ điển
tiếng Việt, Hà Nội, 1997 giải thích: “thủ công – công việc chế tạo vật dụng bằng
tay, không dùng máy móc. Thủ công nghiệp – nghề chế tạo vật dụng bằng tay và
tiểu công nghệ - nghề thủ công (cũ)”. Như vậy, quan niệm phổ biến trước đây thủ
công nghiệp và tiểu công nghiệp là một. Tiểu công nghiệp cũng được hiểu theo
nghĩa chế tạo vật dụng bằng tay.
Trong tác phẩm Sơ thảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam, tác giả
Phan Gia Bền chỉ sử dụng thuật ngữ “thủ công nghiệp”. Ông đưa ra quan niệm về
thủ công nghiệp Việt Nam: “Thủ công nghiệp là một bộ phận – bộ phận trình độ
thấp của công nghiệp”, “thủ công nghiệp là từ nông nghiệp mà ra, và có thể nói thủ
công nghiệp là nền sản xuất trung gian giữa nông nghiệp và công nghiệp”, “phạm
vi của thủ công nghiệp đi từ những nghề phụ nông thôn đến những nghề thủ công
cá thể tiểu sản xuất hàng hóa, rồi đến hình thức công trường thủ công tư bản chủ
nghĩa” [17, tr. 15, 16]. Tác giả cũng cho rằng, cần có sự phân biệt giữa những nghề
thủ công và những nghề dịch vụ vốn không sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng cho xã
hội. Nhưng các nghề như chữa xe đạp, hàn nồi, chữa kính, chữa đồng hồ, chữa giày,
chữa khóa… dù không tạo nên những sản phẩm mới, nhưng cũng có thể sắp xếp
vào thủ công nghiệp vì chức năng tái tạo sản phẩm của chúng.
Nhà nghiên cứu Vũ Huy Phúc trong tác phẩm Tiểu thủ công nghiệp Việt
Nam 1858-1945 cho rằng thủ công nghiệp và công nghiệp cùng tồn tại, phát triển
song hành, đồng thời thâm nhập lẫn nhau cả về trình độ sản xuất lẫn quan hệ sản
xuất. Sự thâm nhập lẫn nhau đã làm nảy sinh một hình thức sản xuất có tính chất
cầu nối giữa thủ công nghiệp và công nghiệp, đó là tiểu thủ công nghiệp.
Trong tác phẩm Tiểu thủ công nghiệp tỉnh Thái Bình 1954 – 1995 (lịch sử
và di sản), tác giả Phạm Quốc Sử cho rằng để có một quan niệm phù hợp đối với
tiểu thủ công nghiệp Việt Nam cần chú ý đến trình độ kỹ thuật (thủ công thô sơ
hay máy móc hiện đại) của các cơ sở công nghệ. Đấy cũng là căn cứ chủ yếu để
xác định thuật ngữ “tiểu công nghiệp”, “thủ công nghiệp” và “tiểu thủ công
nghiệp”. Theo tác giả, sự khác nhau giữa thủ công nghiệp và công nghiệp là ở việc
sử dụng phương tiện lao động. Thủ công nghiệp là những nghề chỉ sử dụng công
cụ thô sơ, bằng tay, trong khi đó công cụ chủ yếu của công nghiệp là máy móc và
10
phương tiện kỹ thuật hiện đại. Tuy vậy, ngày càng nhiều cơ sở thủ công nghiệp
được trang bị máy móc và các thiết bị kỹ thuật, cũng như sử dụng các vật liệu vốn
là sản phẩm công nghiệp. Không ít cơ sở thủ công nghiệp đã trở thành “vệ tinh”,
đảm trách phần việc nào đó cho các cơ sở công nghiệp lớn. Tình hình trên đây dẫn
đến sự phổ biến một hình thức hoạt động công nghệ vừa mang tính chất thủ công
nghiệp, vừa mang tính chất công nghiệp, gọi là “tiểu công nghiệp”. Do vậy, “thủ
công nghiệp là hoạt động sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm (gồm cả những vật dụng
nhỏ lẫn công trình lớn) từ nguyên liệu động – thực vật hay khoáng vật, bằng tay
và những công cụ thô sơ” [77, tr. 22].
Trong luận án tiến sĩ Tiểu thủ công nghiệp nông thôn đồng bằng sông Hồng
(1954-1994), tác giả Lưu Thị Tuyết Vân sử dụng thuật ngữ “tiểu công nghiệp, thủ
công nghiệp”, “tiểu thủ công nghiệp” nhằm chỉ các cơ sở sản xuất và các hoạt động
sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh lấy sản xuất bằng tay làm chính và sử dụng
phần nào máy móc.
Trong tác phẩm Con đường phát triển tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Việt
Nam, tác giả Nghiêm Phú Ninh quan niệm: “Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp
không phải một ngành công nghiệp mà chỉ là một bộ phận của công nghiệp ở trình
độ kỹ thuật thấp” [55, tr. 6].
Việc làm rõ các khái niệm liên quan nhằm đi đến xác định chính xác đối
tượng và nội dung nghiên cứu của luận án. Cụ thể, luận án sẽ đề cập đến các hoạt
động công nghệ còn ở trình độ thủ công và cơ khí nhỏ, bao gồm các nghề, làng
nghề được tổ chức dưới các hình thức lao động khác nhau.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỦ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam đã được tiến hành từ thời Pháp
thuộc qua một số bài viết trên báo chí, một số công trình được xuất bản. Sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, bắt đầu nghiên cứu có tính hệ thống.
Việt Hồng (1946), Tư bản Pháp với nền kinh tế Việt Nam, NXB Xã hội, HN.
Tác giả đã trình bày chính sách của Pháp đối với nền kinh tế Việt Nam trong công
cuộc khai thác thuộc địa “chúng tôi chỉ cần nhập cảng những thứ máy dùng để sản
xuất hơn sự cần mua những đôi giày ấy đem vào nước tôi” [38, tr. 1]. Tác động của
chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đối với nền kinh tế Việt Nam. Qua đó, tác
giả đã trình bày khái quát bức tranh kinh tế Việt Nam thời kỳ này. Trong đó, thủ
công nghiệp của Quảng Nam – Đà Nẵng được đề cập trong bối cảnh chung của nền
kinh tế Việt Nam. Một số chính sách của Pháp đối với thủ công nghiệp ở Quảng
Nam – Đà Nẵng, một số mặt hàng thủ công được xuất khẩu... đã được nêu ra.
11
Phan Gia Bền (1957), Sơ thảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam,
NXB Văn Sử Địa, HN. Đây được xem là một trong những tác phẩm đầu tiên trình
bày một cách hệ thống và đầy đủ về thủ công nghiệp Việt Nam. Công trình đã trình
bày hệ thống và khái quát về lịch sử phát triển của thủ công nghiệp Việt Nam,
những nét chính về tình hình phát triển của nền thủ công nghiệp nước ta qua các
thời kỳ. Đặc biệt, tác giả đã rất công phu thực hiện việc giám định tư liệu. Qua đó,
cung cấp một nguồn tư liệu xác thực. Việc trình bày khái quát cùng với những nhận
định về thủ công nghiệp qua từng thời kỳ đã cung cấp nguồn tư liệu bổ ích, nhất là
trong việc đối sánh, liên hệ. Tác giả đã trình bày một cách hệ thống sự ra đời, phát
triển của một số nghề, làng nghề thủ công tiêu biểu trên phạm vi cả nước trong đó
có Quảng Nam – Đà Nẵng trong từng thời kỳ.
Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, NXB Lửa Thiêng, SG. Đây là công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội Việt
Nam thời Nguyễn bao gồm hai giai đoạn trước và sau khi Pháp đô hộ. Tình hình
phát triển kinh tế nói chung, thủ công nghiệp nói riêng trong giai đoạn 1802 – 1945
được trình bày khá đầy đủ trong chương IV: Các hoạt động công nghệ. Đặc biệt, tác
giả đã trình bày khá chi tiết sự xuất hiện và tác động của nhân tố sản xuất tư bản chủ
nghĩa đối với hoạt động sản xuất thủ công nghiệp nước ta và có cả một số làng nghề
tại Quảng Nam – Đà Nẵng (tiêu biểu là nghề làm mắm). Tình hình phát triển của
thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng được trình bày trong bức tranh tổng thể của
nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này.
Nghiêm Phú Ninh (1986), Con đường phát triển tiểu công nghiệp, thủ công
nghiệp Việt Nam, NXB Thông tin lý luận, HN. Tác giả trình bày khái về sự hình
thành và phát triển của tiểu thủ công nghiệp Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra các nhân tố
tác động đến sự ra đời và phát triển của thủ công nghiệp, vai trò, sự tác động tương
hỗ của thủ công nghiệp với các ngành kinh tế khác.
Phạm Xuân Nam (1994), Quá trình phát triển công nghiệp ở Việt Nam và
triển vọng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, NXB KHXH, HN. Tác giả trình
bày khái quát về quá trình phát triển công nghiệp trong đó chứa đựng một số thông
tin về thủ công nghiệp.
Lưu Thị Tuyết Vân (1995), “Tiểu thủ công nghiệp nông thôn đồng bằng
sông Hồng (1954-1994”, luận án Tiến sĩ sử học, Viện Sử học. Tác giả nghiên cứu,
12
chỉ ra sự phát triển của thủ công nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong
thời kỳ hiện đại. Qua đó, tác giả đã đề xuất hướng giải quyết vấn đề thị trường tiêu
thụ sản phẩm cho tiểu thủ công nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở
nông thôn. Chúng tôi có thêm cơ sở đối chứng về sự phát triển của thủ công nghiệp
các vùng miền qua từng thời kỳ.
Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam 1858 – 1945, NXB
KHXH, HN. Tác giả nghiên cứu công phu về tình hình phát triển tiểu thủ công nghiệp
Việt Nam trong giai đoạn 1858 – 1945. Tác giả đã chia thành các thời kỳ nhỏ: 1858 –
1896, 1897 – 1918, 1919 – 1930, 1930 – 1945. Trong từng thời kỳ, tác giả đi sâu vào
phân tích tình hình phát triển của từng vùng miền, đưa ra những nhận định, kết luận,
qua đó, thấy được sự đối sánh giữa các thời kỳ và các địa phương. Thủ công nghiệp
Quảng Nam – Đà Nẵng được trình bày trong các các nội dung liên quan của xứ Trung
Kỳ. Một số nghề, làng nghề, sản phẩm thủ công, các mặt hàng xuất khẩu... của Quảng
Nam – Đà Nẵng được trình bày khá chi tiết. Với nguồn tư liệu chính xác, lập luận khoa
học, chặc chẽ, tác giả đã trình bày và chứng minh một cách thuyết phục quan điểm mới
về tiểu thủ công nghiệp Việt Nam thời cận đại. Bức tranh tiểu thủ công nghiệp Việt
Nam thời thuộc Pháp được phục dựng thể hiện sự chuyển biến, phát triển mới chứ
không phải phát triển “què quặt”, hay bị bóp chết.
Đỗ Bang (1996), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB
Thuận Hóa, H. Tác giả đã trình bày chính sách của triều đình Huế đối với nền kinh tế,
sự trao đổi buôn bán, các mặt hàng được trao đổi buôn bán trong và ngoài nước trong
đó có các mặt hàng là sản phẩm thủ công nhiệp... Qua đó, tình hình thương nghiệp tại
Quảng Nam – Đà Nẵng cũng đã được đề cập trong mối quan hệ với thủ công nghiệp tại
vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng dưới triều Nguyễn.
Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (1996), Nghề thủ công truyền thống Việt Nam
và các vị tổ nghề, NXB VHDT, HN. Tác giả đã trình bày một cách hệ thống về nghề
thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề. Nghề thủ công truyền thống Quảng
Nam – Đà Nẵng, tổ nghề của một số nghề cũng đã được đề cập trên nền chung của thủ
công truyền thống nước ta.
Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc (1998), Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển
công nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, H. Tác giả đi sâu vào
13
nghiên cứu tình hình thủ công nghiệp dưới triều Nguyễn. Bức tranh tổng quan về
thủ công nghiệp dưới triều Nguyễn với chính sách của nhà nước đối với thủ công
nghiệp, các nhân tố tác động, các sản phẩm thủ công, thủ công nghiệp với tư cách là
nghề phụ, các làng nghề thủ công chuyên nghiệp, một số nghề và làng nghề thủ
công tiêu biểu... Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng với sự góp mặt của
những thợ giỏi phục vụ trong các công xưởng của triều đình, các sản phẩm biệt nạp
triều đình, một số nghề, làng nghề thủ công tiêu biểu đã được đề cập đến. Qua đó,
phần nào khái quát được tình hình, đóng góp, sự tương quan chung của thủ công
nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng so với thủ công nghiệp cả nước thời nhà Nguyễn.
Cao Văn Biền (1998), Công nghiệp than Việt Nam thời kỳ 1888-1945, NXB
KHXH, HN. Tác giả nghiên cứu về ngành công nghiệp than của nước ta trong giai
đoạn 1888-1945. Qua đó, tác giả đã trình bày chính sách của nhà nước đối với
ngành công nghiệp này. Hai mỏ than ở Quảng Nam – Đà Nẵng là Nông Sơn, Ngọc
Kinh cũng đã được đề cập đến.
Bùi Thị Tân (1999), “Làng nghề ở Thừa Thiên Huế và vấn đề đô thị hóa”, Kỷ
yếu Hội thảo “Phú Xuân – Huế, từ đô thị cổ đến hiện đại”, NXB Thuận Hóa, H. Tác
giả trình bày về làng nghề ở Thừa Thiên Huế trước tình hình đô thị hóa. Qua đó, đề
xuất các giải pháp nhằm bảo tồn làng nghề trước ảnh hưởng của quá trình đô thị
hóa. Chúng tôi có thêm cơ sở để đối sánh tình hình phát triển các làng nghề ở
Quảng Nam – Đà Nẵng so với Thừa Thiên Huế dưới tác động của quá trình đô thị
hóa. Từ đó, đặt ra vấn đề bảo tồn các làng nghề thủ công truyền thống trước ảnh
hưởng của quá trình đô thị hóa.
Bùi Thị Tân (1999), Về hai làng nghề truyền thống Phú Bài và Hiền Lương,
NXB Thuận Hóa, Huế. Tác phẩm nghiên cứu về hai làng nghề rèn sắt Phú Bài và Hiền
Lương tại Thừa Thiên Huế. Tác phẩm đã trình bày khái quát về chính sách của triều
đình đối với thủ công nghiệp, sự phát triển làng nghề ở Thừa Thiên Huế. Qua đó,
chúng tôi có cái nhìn đối sánh với thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng cùng thời.
Nguyễn Văn Khánh (2000), Cơ cấu Kinh tế - Xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858-1945), NXB ĐHQG HN. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu về cơ
cấu kinh tế - xã hội nước ta thời thuộc địa Pháp. Cơ cấu kinh tế - xã hội của Quảng
Nam – Đà Nẵng được trình bày trên nền kinh tế chung của nước ta thời kỳ này.
Tình hình phát triển thủ công nghiệp với các nghề và làng nghề tiêu biểu tại Quảng
Nam – Đà Nẵng đã được trình bày.
14
Bùi Thị Tân, Lê Đình Phúc (2006), “Thủ công nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế
trong quá trình đổi mới và hội nhập”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “700 năm Thuận
Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế”, NXB CTQG, HN. Bài viết trình bày tình hình
thủ công nghiệp thừa Thiên Huế trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Tạ Thị Thúy (2007), “Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn khai thác thuộc
địa lần thứ hai của người Pháp (1919-1930)”, NCLS, (3), tr. 38 - 59. Tác giả đã trình
bày ngành công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1919-1930. Các ngành: khai thác mỏ,
bông vải, tơ lụa, xay xát gạo, nấu rượu, chế biến đường... tại Quảng Nam – Đà
Nẵng thời kỳ này được đề cập đến.
Phạm Quốc Sử (2008), Tiểu thủ công nghiệp Thái Bình 1954-1995 (lịch sử và
di sản), NXB ĐHQG HN. Tác giả đã nghiên cứu tiểu thủ công nghiệp ở Thái Bình
thời hiện đại. Chúng tôi tiếp cận phương pháp nghiên cứu ở cùng mảng đề tài
nghiên cứu, các khái niệm có liên quan và những nhận định, đánh giá về tiểu thủ
công nghiệp trong sự đối sánh với tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của
địa phương.
Nguyễn Thế Anh (tái bản 2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, NXB Văn học,
HN. Đây là những công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội Việt Nam thời Pháp
thuộc. Tình hình phát triển của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng được trình
bày trong bức tranh tổng thể của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này. Tác phẩm này
cũng đã trình bày chính sách của thực dân Pháp đối với thủ công nghiệp.
Claude Bourrin (Lưu Đình Tuân dịch) (2009), Đông Dương ngày ấy 1898-
1908, NXB Lao Động, HN. Tác giả trình bày về các nước trong khu vực Đông
Dương từ 1898 đến 1908. Tình hình kinh tế của các nước Đông Dương, sự giao
thương qua lại, các mặt hàng trao đổi buôn bán, chính sách của Pháp đối với các
nước Đông Dương… được tái hiện. Trong bối cảnh ấy, Quảng Nam – Đà Nẵng là
một trong những cửa ngõ trong hoạt động giao thương, các mặt hàng thủ công
nghiệp được trao đổi đến thị trường Lào, Campuchia.
Lê Minh Quốc (2010), Các vị tổ ngành nghề Việt Nam, NXB Trẻ, Tp. HCM.
Tác giả trình bày các vị tổ nghề của một số nghề thủ công ở Việt Nam, từ đó sơ
lược về sự ra đời và phát triển của một số nghề trong đó có một số nghề tại vùng đất
Quảng Nam – Đà Nẵng.
15
Bên cạnh đó, một số tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu thủ công nghiệp Việt
Nam dưới góc độ các làng nghề thủ công truyền thống:
Nghề và làng nghề thủ công truyền thống của Nguyễn Hữu Thông, NXB
Thuận Hóa, H, 1994, Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam của Bùi Văn
Vượng, NXB VHTT, HN, 2002, Làng nghề truyền thống Việt Nam của Phạm Côn
Sơn, NXB Văn hóa Dân tộc, HN, 2009... trình bày một số nghề, làng nghề truyền
thống ở Việt Nam trong đó có một số nghề và làng nghề truyền thống của Quảng
Nam – Đà Nẵng.
Các tác phẩm kể trên đã đi sâu vào nghiên cứu thủ công nghiệp Việt Nam,
đây là những tư liệu rất có giá trị cho chúng tôi tham khảo trong quá trình thực hiện
luận án. Tuy nhiên, những tác phẩm này trình bày dưới dạng giới thiệu chung, chưa
đi sâu làm rõ đặc điểm của từng vùng, miền nên rất khó trong việc sử dụng trong
việc nghiên cứu ở cấp độ địa phương. Đây là khó khăn lớn mà chúng tôi đã gặp
phải khi sử dụng những tư liệu này trong quá trình thực hiện luận án.
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG CÓ
ĐỀ CẬP ĐẾN THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
Năm 1883, A.J. Gouin với bài Tourane et le centre de l’ Annam, Imprimerie
Rouillé Ladevère (Tourane (Đà Nẵng) và miền Trung An Nam, nhà in Rouillé
Ladevère) đã trình bày về thành phố Đà Nẵng trong mối tương quan của miền Trung
Việt Nam. Qua đó, tác giả đề cập đến một số sản phẩm thủ công của Đà Nẵng.
Năm 1899, Marcel Monnier với bài Le tour d’ Asie, Eplon, Nourrit et Cie,
Imprimeurs – E’diteurs (Vòng quanh châu Á, Eplon, Nourrit và Cie , nhà in, nhà
xuất bản) đã trình bày chuyến du hành đến Đà Nẵng trong hành trình vòng quanh
châu Á, đồng thời đã trình bày ở Đà Nẵng cảnh mua bán với sự góp mặt của một
số sản phẩm thủ công.
Năm 1900, G.H. Monod với bài báo Les montagnes de marbre à Tourane
(Núi Non Nước ở Tourane) đã miêu tả về danh thắng Ngũ Hành Sơn cùng với nghề
thủ công mỹ nghệ đá nơi đây.
Năm 1905, Ricquebourg với bài báo La légende de la montagne de marbre
(Tourane) (Truyền thuyết núi Non Nước) nói về truyền thuyết danh thắng Ngũ
Hành Sơn. Tác giả cũng đã đề cập đến làng thủ công Non Nước.
16
Năm 1917, Guillon với bài viết Voyage de Bougainville à Tourane (Du hành
từ Bougainville đến Tourane) đã miêu tả chuyến du hành đến Đà Nẵng. Trong đó,
tác giả trình bày một số cảnh vật, hoạt động trao đổi tại một số chợ ở vùng đất này.
Năm 1924, A. Sallet với những bức hình mang chủ đề La légende de la
montagne de marbre (Tourane), Les montagnes de marbre, Atlas de L’Indochine
(Truyền thuyết núi Non Nước, núi Non Nước, Át lát của Đông Dương) đã miêu tả
khá đặc sắc về làng thủ công mỹ nghệ Non Nước.
Năm 1925, J.L. Fontana với tác phẩm L'Annam: Ses provinces, ses ressources
(An Nam: Các tỉnh thành và nguồn lợi) đã trình bày một số đặc sản miền Trung Việt
Nam. Trong đó, tác giả đề cập đến một số sản phẩm được chế biến từ một số nghề thủ
công tại Quảng Nam – Đà Nẵng.
Năm 1925, H. Cucherousset với bài báo Le Débloquement du Laos et le Port de
Tourane (Phá thế phong tỏa của Lào và cảng Tourane) đã trình bày nội dung liên quan
đến việc trao đổi các mặt hàng từ Lào đến cảng Đà Nẵng trong đó có các mặt hàng thủ
công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng.
Năm 1931, H. Norden với bài báo A travers I’Indochine, Payot (Xuyên qua
Đông Dương, Payot), đã trình bày về chuyến đi qua các nước Đông Dương, trong
đó có đến Đà Nẵng cùng với việc trình bày việc thông thương buôn bán giữa Đà
Nẵng và các nước Đông Dương.
Năm 1933, Nguyen Trong Thuat với bài báo Note sur les montagnes de marbre
à Tourane (Ghi chép về Núi non nước) đã miêu tả chuyến du hành đến danh thắng Ngũ
Hành Sơn. Tác giả cũng đã miêu tả về nghề thủ công điêu khắc đá Non Nước.
Ngoài ra còn một số bài báo: Cucherousset, Une belle intiative indigène dans
le Centre – Annam (Sự khởi xướng ngoạn mục của dân bản địa ở miền Trung – An
Nam) của Henri (1927), L’évolution économique de l’Indocine (Sự tiến triển kinh tế
của Đông Dương) của Charles Robequain (1939), Les montagnes de marbre à
Tourane (Núi Non Nước ở Tourane) của G.H. Monod (1900), Voyage de
Bougainville à Tourane (Du hành từ Bougainville đến Tourane) của Guillon
(1917)… Những tác phẩm này chỉ đề cập những góc độ, khía cạnh liên quan
đến nghề, làng nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng thời kỳ này.
Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời đại, quyển thượng, Khảo cổ tùng
thư, Sài Gòn. Tác phẩm đã trình bày vùng đất Quảng Nam qua các thời đại. Trong
đó, công trình đã trình bày về kinh tế nói chung và thủ công nghiệp nói riêng qua
các thời kỳ.
17
Huỳnh Công Bá (1991), “Bài Văn bia chùa Phổ Khánh”, Tạp chí Hán Nôm,
(11). Theo văn bia ở chùa Phổ Khánh (xã Đại An, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam)
ghi lại rằng Hội chủ Lê Cao Trí, pháp danh Chơn Thuyên và bà Nguyễn Thị Diệp,
hiệu Diệu Huệ có ruộng tư mua được từ hai xứ Sa Khố và Suối Giữa thuộc xã La
Đái được 5 mẫu, 4 sào, 8 thước đem cúng chùa làm ruộng Tam Bảo. Quan viên và
toàn dân xã Ái Nghĩa có 3 mẫu ruộng công tại xã Thi Lân, cùng với đất thổ cư bên
trong vườn chùa là 3 sào dâng làm của Tam Bảo. Bia được dựng năm Mậu Ngọ, Vĩnh
Trị thứ III (thời vua Lê Hy Tông năm 1678), mặc dầu đã bị đục nhưng vẫn đọc được
tên của người thợ đá khắc bài văn trên bia là Lê Phúc Thông và Lê Hữu Thái quê ở
Quán Khái xã. Như vậy, vào thời kỳ này, nghề điêu khắc đá ở xã Quán Khái đã khá
phát triển, người thợ của làng Quán Khái đã khắc bia cho cả một vùng rộng lớn. Điều
đó cũng cho thấy Làng Quán Khái ít nhất đã thành lập trước đó một thời gian.
Nguyễn Văn Xuân (1995), Phong trào Duy Tân, NXB Đà Nẵng. Tác phẩm
đã trình bày về phong trào Duy Tân khởi phát từ vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng
vào đầu thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi những người khởi xướng: Phan Châu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Tiểu La... Một trong những nội dung hoạt động
của phong trào là lĩnh vực kinh tế. Trong đó, các nhà khởi xướng đều xuất phát từ
các nhà buôn. Phong trào đã có những tác động đến hoạt động kinh tế của vùng đất
Quảng Nam – Đà Nẵng thời bấy giờ trong đó có thủ công nghiệp.
Dương Trung Quốc (1997), Đà Nẵng trong mối tương quan với đô thị cổ
Hội An, Tạp chí Non Nước, (1). Bài viết đã trình bày sự tương quan giữa Hội An
và Đà Nẵng trong đó chú trọng việc nối liền, giao thương buôn bán, sự tác động
đến kinh tế Quảng Nam – Đà Nẵng.
Nguyễn Đình Đầu (1998), “Đà Nẵng qua các thời đại”, Tạp chí Xưa và Nay,
(54B). Bài viết trình bày khái quát vùng đất Đà Nẵng qua các thời kỳ trong đó có đề
cập sự phát triển kinh tế nói chung và thủ công nghiệp nói riêng.
Nguyễn Đình Đầu “Địa lý lịch sử Quảng Nam”, Tạp chí Xưa và Nay, (3).
Tác giả đã trình bày về lịch sử vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng dưới góc nhìn địa
lý. Qua đó, nghiên cứu về kinh tế thủ công nghiệp của vùng đất này.
Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ Bang, Nguyễn Văn Đăng (2000), Đô thị Việt Nam
dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế. Tác giả đã trình bày các đô thị ở Việt
Nam dưới triều Nguyễn trong đó có Đà Nẵng. Sự phát triển của đô thị Đà Nẵng thời
nhà Nguyễn được trình bày khái quát, trong đó có sự phát triển về các ngành nghề
kinh tế nói chung và thủ công nghiệp nói riêng.
18
Nguyễn Trọng Hoàng (2000), Ngũ Hành Sơn, NXB Đà Nẵng. Đây được
xem là một trong những sách “cẩm nan” khi du lịch đến danh thắng Ngũ Hành
Sơn. Tác phẩm giới thiệu khá chi tiết về danh thắng Ngũ Hành Sơn, trong đó có
đề cập đến làng nghề điêu khắc đá mỹ nghệ nơi đây nhưng chủ yếu thời hiện đại.
Kỉnh Thảo (2000), “Phố cảng Đà Nẵng trong tiến trình lịch sử”, Đà Nẵng
bước vào thế kỷ XXI, NXB Tp. HCM. Bài viết đã trình bày khái quát lược sử
vùng đất Đà Nẵng trong đó có tình hình phát triển về kinh tế.
Dương Trung Quốc, Trần Hữu Đính, Nguyễn Tố Uyên (2001), Lịch sử
Thành phố Đà Nẵng, NXB Đà Nẵng. Công trình đã nghiên cứu về lịch sử thành phố
Đà Nẵng trong đó chú trọng nghiên cứu về tình hình kinh tế nói chung, kinh tế thủ
công nghiệp nói riêng.
Nguyễn Q. Thắng (2002), Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ nước,
NXB Tổng hợp, Tp. HCM. Công trình đã trình bày lịch sử vùng đất Quảng Nam từ
khi sáp nhập vào quốc gia Đại Việt. Qua đó, tác giả trình bày khái quát tình hình
kinh tế của Quảng Nam qua các thời kỳ. Kinh tế thủ công nghiệp cũng được trình
bày một cách khái quát.
Lê Duy Anh, Lê Hoàng Vinh (2004), Lịch sử Đà Nẵng 700 năm (1306-
2006), NXB Đà Nẵng. Công trình đã khái quát lịch sử của thành phố Đà Nẵng từ
khi sáp nhập vào quốc gia Đại Việt cho đến thời hiện đại. Qua sự trình bày khái quát
lịch sử, tác giả đã đề cập đến tình hình kinh tế.
Hồ Ngận (2004), Quảng Nam xưa và nay, NXB Thanh Niên, Tp. HCM, đã
nghiên cứu về lịch sử Quảng Nam qua góc nhìn đối sánh theo các thời kỳ lịch sử. Sự
đối sánh lịch sử vùng đất này qua các thời kỳ lịch sử đã miêu tả bức tranh kinh tế
Quảng Nam qua các thời kỳ trong đó có thủ công nghiệp.
Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam (2004), 100 năm thành lập Duy Tân hội,
thân thế sự nghiệp Tiểu La Nguyễn Thành. Tác phẩm tập hợp các bài viết của các
nhà nghiên cứu đánh giá về Duy Tân hội cũng như vai trò của Tiểu La Nguyễn
Thành đối với Duy Tân hội. Một số bài viết đã đánh giá hoạt động của Duy Tân hội
trên lĩnh vực kinh tế, tác động đến kinh tế Quảng Nam – Đà Nẵng lúc bấy giờ. Các
nhà nghiên cứu cũng đã tập trung trình bày về Tiểu La Nguyễn Thành. Trong đó nêu
bật tại Nam Thành sơn trang là nơi các nhà khởi xướng phong trào gặp nhau và
quyết định thành lập Duy Tân hội. Nam Thành sơn trang cũng thể hiện hoạt động về
kinh tế của phong trào Duy Tân.
19
Nguyễn Thị Anh Lý (2005), “Vai trò của trị sở Quảng Nam đối với đất
Quảng trong giai đoạn từ 1802 đến 1945”, luận văn Thạc sĩ sử học, Trường Đại học
Sư phạm – Đại học Huế, đã trình bày vai trò, sự tác động của trị sở Quảng Nam đối
với sự phát triển của vùng đất này. Qua đó, tác giả đã trình bày tác động đối với phát
triển kinh tế trong đó có thủ công nghiệp. Tình hình phát triển thủ công nghiệp
Quảng Nam từ năm 1802 đến năm 1945 nhất là một số nghề và làng nghề tập trung
quanh trị sở Quảng Nam được trình bày một cách khái quát.
Võ Văn Dật (2007), Lịch sử Đà Nẵng 1306-1975, Nam Việt, USA. Tác giả
đã nghiên công phu về lịch sử vùng đất Đà Nẵng từ đầu thế kỷ XIV đến năm 1975.
Trong suốt diễn trình lịch sử, kinh tế Đà Nẵng trong đó có thủ công nghiệp được
trình bày khá chi tiết. Đặc biệt, tác giả đã trình bày khái quát một số nghề, làng nghề
tiêu biểu của Đà Nẵng dưới tác động của tình hình chính trị - xã hội.
Hội Khoa học Lịch sử thành phố Đà Nẵng (2007), Lịch sử thành phố Đà
Nẵng (1858-1945), NXB Đà Nẵng. Công trình đã nghiên cứu lịch sử thành phố Đà
Nẵng từ năm 1858 đến năm 1945. Công trình đã trình bày tình hình phát triển kinh
tế Đà Nẵng trong đó có thủ công nghiệp trong giai đoạn đầy biến động từ khi thực
dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta.
Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Nam, Thành ủy, UBND Tp. Đà Nẵng (2010),
Địa chí Quảng Nam – Đà Nẵng, NXB KHXH, HN. Đây là công trình công phu
trình bày về vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng. Tác phẩm đã trình bày về tình hình
chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của vùng đất này qua các thời kỳ lịch sử. Trong
đó, tình hình phát triển thủ công nghiệp được trình bày khái quát đặt trong bối cảnh
chung của tình hình chính trị - xã hội. Một số nghề, làng nghề thủ công tiêu biểu
cũng đã được miêu tả trong công trình này.
Nguyễn Minh Triều (2010), Quảng Nam và Đà Nẵng qua các triều đại phong
kiến, NXB Quân đội Nhân dân, HN. Công trình tập trung nghiên cứu sự phát triển của
Quảng Nam – Đà Nẵng qua các triều đại phong kiến. Đặc biệt, tác phẩm đã tổng hợp về
thủ công nghiệp dưới góc độ nghề và làng nghề được trình bày trong các bộ sử liệu do
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn.
Nguyễn Thị Thịnh (2011), “Chợ làng Quảng Nam thế kỷ XVI-XIX”, luận
văn Thạc sĩ sử học, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế. Mặc dù không trực
tiếp đề cập đến thủ công nghiệp hay nghề, làng nghề song tác giả đã thể hiện khá
20
công phu về hệ thống chợ làng Quảng Nam – Đà Nẵng, qua đó, đề cập đến quá trình
ra đời và phát triển của hệ thống chợ làng, các sản phẩm trao đổi buôn bán tại chợ...
giúp chúng tôi có được những tư liệu về tác động qua lại của thủ công nghiệp với
nông nghiệp và thương nghiệp và phần nào khái quát được sự phát triển của một số
nghề thủ công trong giai đoạn này.
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (nhóm tác giả Võ Văn Hòe, Trần Hồng,
Hồ Tấn Tuấn) (2015), Văn hóa dân gian Việt – Chăm nhìn trong mối quan hệ (qua
cứ liệu văn hóa dân gian miền Trung, NXB KHXH, HN. Mặc dù tác phẩm tập trung
nghiên cứu văn hóa dân Việt – Chăm, từ đó, làm sáng tỏ tính giao lưu, kế thừa dưới
góc độ văn hóa Việt – Chăm nhưng tác phẩm đã đề cập đến một số nghề thủ công
như làm mắm, chế biến các loại bánh, nghề kim hoàn, nghề mộc, nghề chế tạo công
cụ trong nông nghiệp hay dệt vải, dệt chiếu... Qua đó, làm sáng tỏ thêm về nguồn
gốc, sự ảnh hưởng, sự kế thừa của người Việt đối với người Chăm trong một số
nghề thủ công.
1.4. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG
NAM – ĐÀ NẴNG
Phạm Hữu Đăng Đạt Chuyện kể làng nghề đất Quảng (2003) và Chuyện xưa
đất Quảng (2013), NXB Đà Nẵng. Hai tập sách này đã khảo cứu một số nghề và
làng nghề thủ công xứ Quảng nên lượng thông tin chứa đựng khá nhiều. Tuy nhiên,
trong tác phẩm này, tác giả thể hiện và nguồn tư liệu được tiếp cận thông qua
“chuyện kể” nên tư liệu mang tính dân gian, các mốc lịch sử, nhân vật không được
thể hiện chính xác cụ thể.
Nguyễn Phước Tương (2003), Bà chúa Tàm Tang xứ Quảng, NXB Đà
Nẵng. Tác phẩm đã trình bày khá công phu về “Tổ nghề” cũng như quá trình ra
đời và phát triển của nghề ươm tơ dệt lụa nổi tiếng xứ Quảng. Tuy nhiên, tác
phẩm viết theo lối kể chuyện giai thoại về người truyền nghề nên cần phải kiểm
chứng thông tin qua những tư liệu lịch sử.
Hồ Vũ Thị Minh Châu (2004), “Nghề ươm tơ dệt lụa làng Thi Lai (xã Duy
Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) từ thế kỷ XVII đến năm 2002”, luận
văn Thạc sĩ sử học, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế. Luận văn đã nghiên
cứu về làng dệt lụa Thi Lai.
21
Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô (2007), Văn hóa xứ Quảng một góc
nhìn, NXB Đà Nẵng. Tác phẩm đề cập đến văn hóa Quảng Nam – Đà Nẵng trong
đó có văn hóa làng nghề: một số làng nghề tiêu biểu, tín ngưỡng tổ nghề, sinh hoạt
văn hóa tại làng nghề...
Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An (2008), Nghề truyền thống Hội
An, Quảng Nam. Tác phẩm đã giới thiệu khá đầy đủ về nghề truyền thống tại Hội
An. Chúng tôi tiếp cận khá nhiều tư liệu về các nghề truyền thống tại Hội An.
Hội văn nghệ dân gian thành phố Đà Nẵng (2009), Nghề và làng nghề truyền
thống đất Quảng, NXB Đà Nẵng. Đây là tác phẩm đầu tiên đã trình bày một cách
khá đầy đủ về nghề và làng nghề thủ công đất Quảng, cung cấp rất nhiều thông tin
và tư liệu có giá trị để thực hiện luận án.
Huỳnh Ngọc (2012), “Nghề đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng)”, luận văn Thạc
sĩ sử học, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế. Đây là công trình nghiên cứu công
phu về nghề thủ công mỹ nghệ Non Nước, một trong những nghề thủ công tiêu biểu
của vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng. Công trình cũng đã trình bày khái quát về tình
hình phát triển nghề và làng nghề tại Quảng Nam – Đà Nẵng.
Dương Thị Ngọc Bích (2014), “Làng nghề điêu khắc đá Non Nước tại
Phường Hòa Hải, Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng (truyền thống và biến
đổi)”, luận án Tiến sĩ Nhân học Văn hóa, Viện KHXH, HN. Luận án đề cập khá
toàn diện về làng thủ công mỹ nghệ Non Nước.
1.5. NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐƯỢC LUẬN ÁN KẾ THỪA
Các công trình đã đề cập trên đây cùng với những tư liệu trong quá trình điền
dã, các tài liệu lưu trữ là những tư liệu vô cùng quý, giúp ích rất nhiều cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận án.
Trước hết, lịch sử của vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng qua các thời kỳ đã
được trình bày khá hệ thống. Cùng với đó, các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,
chính trị được đề cập khá đầy đủ và chi tiết. Đây những tư liệu giúp ích chúng tôi
trong quá trình thực hiện một số nội dung của luận án.
Các công trình nghiên cứu về kinh tế Việt Nam đã phản ánh bức tranh kinh
tế nước ta thời kỳ trước với nhiều góc độ. Đây là nền tảng giúp chúng tôi có được
góc nhìn tổng quan về kinh tế nước ta nói chung, kinh tế thủ công nghiệp nói riêng.
Từ đó, đối sánh với nền kinh tế vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng.
22
Các công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam cũng phản ánh tình
hình chung của thủ công nghiệp nước ta qua các thời kỳ lịch sử. Mặc dù các tác
phẩm chỉ đề cập đến thủ công nghiệp Việt Nam dưới góc nhìn khái quát nhưng đã
trình bày những đặc điểm, tình hình phát triển, những nhân tố tác động, sự biến đổi
qua các thời kỳ, thành tựu chủ yếu... đã giúp chúng tôi có được những tư liệu tổng
quan từ đó so sánh, đối chiếu, rút ra những đặc trưng của thủ nghiệp Quảng Nam –
Đà Nẵng trong mối tương quan của thủ công nghiệp Việt Nam qua các thời kỳ. Đặc
biệt, một số tác phẩm đã đề cập trực tiếp đến thủ công nghiệp Miền Trung, hay đề
cập đến một số nghề, làng nghề, hoạt động xuất cảng tại Đà Nẵng, Hội An... thời
Pháp thuộc đã giúp cho chúng tôi có được những tư liệu quý giá khi nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng đã tập
trung nghiên cứu về thủ công nghiệp của vùng đất được mệnh danh “xứ trăm nghề”
dưới góc độ nghề và làng nghề. Một số nghề và làng nghề được đề cập đến là nền
tảng cơ bản để nghiên cứu sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo mà luận án tập
trung giải quyết (1802-1945).
Các công trình nghiên cứu liên quan đến thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà
Nẵng từ năm 1802 đến 1945 đã tập trung nghiên cứu về nghề và làng nghề thủ công
trên vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng là những tư liệu làm nền tảng để chúng tôi đi
sâu vào nghiên cứu, chọn lọc, tổng hợp, phân tích, đánh giá dưới góc độ sử học làm
tiền đề giải quyết mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
1.6. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Những vấn đề thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng từ 1802 đến 1945 cần
được tiếp tục nghiên cứu là:
Sự tác động của tình hình chính trị, xã hội, kinh tế đến thủ công nghiệp, sự
phát triển của thủ công nghiệp, các nghề thủ công tiêu biểu (nhu cầu và sự phát
triển, sự phân bố của nghề, nguyên liệu, công cụ sản xuất, kỹ thuật, tổ chức sản
xuất, sản phẩm, sản lượng, thị trường và tiêu thụ, vai trò kinh tế), các làng nghề thủ
công tiêu biểu (điều kiện tự nhiên và sự ra đời của làng, nguồn gốc nghề, quá trình
phát triển, bí quyết làng nghề thành tựu tiêu biểu...), sự biến đổi trong cơ cấu ngành
nghề, một số nét mới so với trước...
Sự phát triển của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng, các nghề, làng
nghề thủ công tiêu biểu từ 1802 đến 1945.
23
Tác động của thủ công nghiệp đối với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và
văn hóa vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng.
Những nét đặc trưng của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng từ 1802
đến 1945.
24
Chương 2
THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM
- ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí
Quảng Nam - Đà Nẵng thuộc khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam, có
hình thể như một hình bình hành hơi khuyết ở góc Tây – Nam, có diện tích tự nhiên
11.656.4 km2, thuộc loại tỉnh lớn và đông dân của miền Trung. Phía Bắc giáp với
Thừa Thiên Huế ở ải Vân Quan, phía Nam giáp với Quảng Ngãi ở rừng Trì Bình,
phía Tây là đường biên giới với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, phía Đông
giáp với biển Đông.
Quảng Nam - Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước và từ thế kỷ XV
xem là "yết hầu của miền Thuận - Quảng", là giao điểm nối liền ba miền Bắc -
Trung - Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước lân cận. Nơi
đây sớm phát triển giao thương trong và ngoài nước. Điều này đã góp phần thúc đẩy
sản xuất, trong đó có thủ công nghiệp phát triển, nhằm cung ứng nguồn hàng cho
hoạt động thương nghiệp.
Quảng Nam - Đà Nẵng “liền mạch” trong “thế bàn cờ” của “nội bộ” xứ
Quảng, tạo điều kiện thuận lợi rất lớn trong giao thương, thúc đẩy thương nghiệp phát
triển. Từ thế kỷ XVI-XVIII, Đà Nẵng là “tiền cảng” (avant port) hay “cảng tạm
dừng” (port de relache) trong buổi thịnh thời của của thương cảng Hội An. Thông
qua sông Cổ Cò, Đà Nẵng đã hòa mạch với sự sầm uất Hội An như lời của giáo sĩ
C. Borri miêu tả: “Quảng Nam có hai ngõ vào. Hai ngõ ấy là cửa biển Fullo Ciara
fallo (Cù Lao Chàm, tức Đại Chiêm) và Turon (Đà Nẵng). Hai cửa biển ấy ban đầu
cách nhau ba, bốn dặm sau lại cùng gặp nhau ở một điểm...” [44, tr. 87]. Trong khi
thuyền lớn không thể cập cảng Đại Chiêm, thuyền nhỏ từ Đại Chiêm muốn vào Hội
An phải có thuyền dắt thì thuyền từ Đà Nẵng vào Hội An rất thuận lợi. Mặt khác,
thuyền phương Tây có tải trọng lớn, thiết bị kỹ thuật cao nên đã chọn vịnh Đà Nẵng
vì có độ sâu, độ an toàn hơn hẳn cửa Đại Chiêm “Vịnh Đà Nẵng xứng đáng mang
25
danh hải cảng hơn là vịnh. Đó là một trong những cảng lớn và vững chắc nhất
được thấy... Nó rất sâu nên khi cần thiết phải di chuyển các tàu bè vẫn yên ổn dù
gió to bão lớn. Đáy biển nhiều bùn nên bỏ neo rất bám” [44, tr. 87]. Đà Nẵng đã trở
thành nơi dừng chân, thương thuyền các nước phương Tây bỏ neo, chuyển hàng
sang thuyền nhỏ vào Hội An và ngược lại nên các nhà buôn lập kho chứa hàng, cho
thủy thủ nghỉ chân, nơi tu sửa thuyền và khu vực dọc làng Nại Hiên, Hải Châu diễn
ra cả hoạt động trao đổi, buôn bán. Điều này đã thu hút thương nhân Hoa kiều, Nhật
Bản đến lập cư buôn bán. Nhân dân nơi đây cũng tham gia vào hoạt động buôn bán
đó: “Chúa Nguyễn lập ra ở đây cơ quan tuần ty làm nhiệm vụ thu thuế, kiểm soát và
các thủ tục buôn bán với số thuế thu được hàng năm là 64 quan so với Đại Chiêm;
70 quan, Tiểu Ấp: 60 quan” [44, tr. 88]. Chính những điều kiện thuận lợi này nên
khi mực nước Cửa Đại xuống thấp, sông Cổ Cò bị bồi lấp, giao thương với Hội An
khó khăn, Đà Nẵng nhanh chóng trở thành một cảng thị, vùng đất Quảng Nam – Đà
Nẵng vẫn giữ được vị thế trong giao thương.
Phố cảng Đà Nẵng nối với thương cảng Hội An qua con sông Cổ Cò, giao
thương dễ dàng với trị sở Thanh Chiêm qua sông đào Vĩnh Điện, tiếp giáp với kinh
đô Huế qua dãy núi Hải Vân, nằm ngay trục đường thiên lý Bắc – Nam và rộng mở
với thế giới bên ngoài bằng đường biển. Chính vị thế “thiên thời, địa lợi” này đã thúc
đẩy kinh tế Quảng Nam - Đà Nẵng trong đó có thủ công nghiệp sớm phát triển.
Thời các chúa Nguyễn, trị sở được đặt tại dinh trấn Thanh Chiêm, từ Đà
Nẵng đến Thanh Chiêm qua một quảng đường không xa, quãng đường này càng
được rút ngắn khi triều đình nhà Nguyễn cho đào sông Vĩnh Điện nối liền sông Thu
Bồn với Đà Nẵng vào năm 1822, dời tỉnh lị Quảng Nam từ Thanh Chiêm (gần Hội
An) ra La Qua (gần Vĩnh Điện, chỉ cách Đà Nẵng hơn 22 km) vào năm 1833. Qua
đây, ta thấy Quảng Nam - Đà Nẵng trở thành đầu mối giao thông, trung tâm quân
sự, chính trị. Hệ quả khách quan là sự tập trung binh lính xây dựng tập đoàn cứ
điểm và duy trì một đội quân thường trực lớn đã làm tăng dân số lưu trú, mọi nhu
cầu đều tăng lên. Thêm vào đó, nhu cầu cung ứng hàng hóa của trị sở Quảng Nam
cũng đã thúc đẩy nền kinh tế của vùng đất này phát triển.
Phố cảng Đà Nẵng vừa là nơi đón tiếp các thương thuyền và sứ thần phương
Tây, vừa là vùng đất nằm trong “Nam – Ngãi trù phú”, cung ứng cho nhu cầu của
kinh đô Huế. Các mặt hàng thủ công được triều đình ưa chuộng, các thợ giỏi được
26
trưng dụng vào các xưởng thủ công nhà nước. Bên cạnh đó, các mặt hàng này ngày
càng đạt đến trình độ tinh xảo nên thị trường các chợ ở Huế ngày càng ưa chuộng
“sản phẩm các nghề này không chỉ dừng lại ở việc phục vụ cho nhu cầu của cư dân
trong từng làng xã mà còn mở rộng ra các vùng khác trong tỉnh, nhiều sản phẩm
còn cung ứng cho triều đình Huế và các tỉnh lân cận” [106, tr. 59]. Cảng Đà Nẵng
cũng là nơi nhập khẩu hàng hóa đặc biệt cho triều đình, kể cả vũ khí và hàng dùng
cho quan lại cao cấp, đồng thời cũng là nơi xuất khẩu các mặt hàng do nhà nước
độc lập kinh doanh như: đường cát, quế, yến sào, ngà voi, nhung nai, vây cá... [90,
tr. 781]. Từ một tiền cảng, Đà Nẵng nhanh chóng trở thành đô thị, nơi cung ứng
hàng hóa cho các thương thuyền nước ngoài, cho trị sở Quảng Nam và kinh đô Huế.
Đây là nền tảng thúc đẩy kinh tế Quảng Nam - Đà Nẵng trong đó có thủ công
nghiệp có những bước phát triển mạnh mẽ.
2.1.1.2. Địa hình
Quảng Nam - Đà Nẵng có đầy đủ các dạng địa hình từ núi, đồi, sông, biển,
vịnh đến đồng bằng, hải đảo và vùng cồn bãi cát ven biển. Phía Tây là vùng núi
rừng và đồi gò chiếm gần ¾ diện tích của tỉnh, trong đó có 583.300 ha rừng. Ngoài
việc tạo dựng bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, núi đồi là nơi cung cấp nguyên liệu cho
các làng nghề như: gỗ, mây, tre, nứa, lá nón, đoác… Phía Đông Nam thành phố Đà
Nẵng là Ngũ Hành Sơn (còn được gọi là Ngũ Uẩn Sơn, Non Nước hay Tam Thai) -
dãy núi đá vôi với một cụm 5 hòn: Kim Sơn – Mộc Sơn – Thủy Sơn – Hỏa Sơn và
Thổ Sơn là tuyệt thắng danh lam của mảnh đất này, đồng thời, nguồn đá cẩm thạch
nơi đây là nguyên liệu thúc đẩy sự phát triển của nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non
Nước - một trong những nghề thủ công tiêu biểu của xứ Quảng.
Vùng đồng bằng Quảng Nam - Đà Nẵng nhỏ hẹp (khoảng 1500 km2) tương
đối phì nhiêu, tạo thành một chuỗi nối tiếp nhau chạy dài từ Bắc xuống Nam. Tác
giả Lê Bá Thảo viết:
Đồng bằng Quảng Nam - Đà Nẵng là một vụng biển cũ (trong thực tế
là một địa máng cũ) cắm sâu vào giữa hai khối nối Hải Vân và Ngọc Linh
như một cái nêm lớn. Sau khi nước biển rút, do vận động nâng lên của
Trường Sơn, sông Thu Bồn và các sông nhánh của nó đã bồi nên một vùng
đất rộng 540 km2, diện tích này bao gồm cả cửa sông Hội An, nằm dịch về
phía biển. Đồng bằng thu hẹp lại ở huyện Thăng Bình, rồi mở rộng ra – tuy
27
vẫn giữ dạng một dải đất phù sa chạy dọc theo sông Tam Kỳ - ở đồng bằng
cũng mang tên ấy rộng 510 km2 [85, tr.227].
Đất nông nghiệp có khoảng 189.000 ha. Đất phù sa khoảng 57.050 ha nằm
ven các sông suối. Đất lúa nước có nguồn gốc feralit chiếm 18.838 ha. Đất bạc màu
có 38.888 ha tập trung chủ yếu ở Tam Kỳ, Thăng Bình, Quế Sơn. Đất mặn có
14.084 ha phân bổ dọc sông Trường Giang, phần nhiều ở Hội An, Tam Kỳ rất thích
hợp cho việc trồng cói, dừa, làm ruộng muối. Với tình hình đất canh tác như trên,
lúa gạo ở Quảng Nam – Đà Nẵng không nhiều. Bên cạnh cây lúa, Quảng Nam - Đà
Nẵng nổi tiếng với khoai lang Trà Đỏa, thuốc lá Cẩm Lệ, chè Phú Thượng, Tùng
Sơn, Đức Phú, quế, hồ tiêu Trà My, Tiên Phước, bắp Đại Lộc, đường Điện Bàn, tơ
lụa Duy Xuyên....
Dọc theo duyên hải là những cồn cát, bãi cát trắng, phía bên trong những dải
cồn rộng lớn này bao giờ cũng có những đầm hồ dài và hẹp, nguyên là di tích những
vụng biển cũ. Rìa phía sau những dải cát từ cửa Đại đi về phía Nam, những đầm hồ
được cải tạo và nối lại thành những con đường giao thông thủy nội địa. Sông
Trường Giang nối từ sông Thu Bồn ở phía Bắc đến sông Bến Ván ở phía Nam là
một ví dụ điển hình. Quảng Nam - Đà Nẵng là địa phương duy nhất có thể đi từ đầu
tỉnh đến cuối tỉnh bằng đường thủy nội địa qua sông Hàn, sông Vĩnh Điện, sông
Thu Bồn, sông Trường Giang đến vũng An Hòa, ngược lên thị trấn An Tân, hoặc ra
cửa Kỳ Hà đến Dung Quốc (Quảng Ngãi).
Hệ thống sông ngòi ở Quảng Nam - Đà Nẵng khá dày trên nền mạch chủ
sông Thu Bồn đã tạo nên một mạng lưới giao thông thủy nội địa thông suốt cả hai
chiều Đông - Tây, Bắc - Nam, ngược - xuôi, nối liền các trung tâm kinh tế, chính trị
quan trọng như Hội An, Đà Nẵng, Vĩnh Điện, Thanh Chiêm, Ái Nghĩa, Tam Kỳ,
cùng với đó là nối liền sự giao lưu kinh tế, tạo lợi thế về thương nghiệp. Các bến
thuyền, bến chợ ven sông sớm hình thành và hoạt động để “mít non gửi xuống, cá
chuồn gửi lên”, các mặt hàng trong đó có các sản phẩm thủ công nghiệp được trao
đổi rộng khắp.
Quảng Nam - Đà Nẵng có bờ biển dài khoảng 150 km. Đây là đoạn bờ biển
nằm ở trung tâm bờ Tây của biển Đông và cũng là bờ Tây Thái Bình Dương, có
thềm lục địa ở chặng hẹp, chỉ cách bờ khoảng trên dưới 100 hải lý là lưu vực biển
sâu, địa hình máng sâu từ 200 m đến trên 2000 m. Cả bờ biển này từ lâu đã trở
thành bao lơn trông ra hành lang giao lưu thủy vận có đông tàu thuền qua lại.
28
Phía Đông là đường bờ biển dài 30 km chạy xuống từ đèo Hải Vân. Bờ biển dài
và hẹp, song cũng rất đẹp và giàu tiềm năng với nhiều loại hình kinh tế từ đánh bắt,
nuôi trồng, chế biến thủy hải sản, đến khai thác tiềm năng du lịch, phát triển dịch vụ.
Vịnh Đà Nẵng được xem là một trong những hải cảng tốt nhất Việt Nam với
chiều sâu trung bình là 20 m, riêng chiều sâu thủy lộ sông Hàn là 7 m, thương
thuyền trọng tải 2.000 tấn có thể ra vào neo đậu ở bến sông Hàn rất dễ dàng, tàu có
trọng tải 5.000 tấn trở lên thì đậu ở cảng Tiên Sa để bốc dỡ hàng. Quốc sử quán
triều Nguyễn ghi lại:
Vịnh Đà Nẵng ở Bắc huyện Hòa Vang lại có tên là vũng Sơn Trà, phía
Đông là núi Sơn Trà, phía Bắc là Hải Vân, phía Tây là tấn Cu Đê, dài rộng
ước chừng 29 dặm linh, phía Đông Nam là vụng Sơn Trà là vụng biển lớn,
vừa rộng, vừa sâu có thể chứa được hàng ngàn ghe thuyền, phía ngoài có núi
che, không phải lo về sóng, tàu thuyền đi lại gặp lúc chưa tiện đều đỗ ở đây
[63, t. 2, tr. 364].
Chính điều kiện thuận lợi này mà kể từ thế kỷ XVII Đà Nẵng đã sớm trở
thành một thương cảng vô cùng hấp dẫn đối với các nhà buôn và hàng hải phương
Tây cũng như các nước bên bờ vùng biển Thái Bình Dương.
Với đầy đủ các dạng địa hình: núi đồi, sông, biển, vịnh hồ, đồng bằng, hải
đảo, Quảng Nam - Đà Nẵng có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Trên nền
tảng ấy, thủ công nghiệp sớm ra đời và phát triển, tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu
ngành nghề của địa phương.
2.1.1.3. Khí hậu
Quảng Nam - Đà Nẵng nằm trong phạm vi của đới rừng á xích đạo, không có
mùa khô rõ rệt, do tác dụng của bức chắn khối núi bắc Kontum nên trong mùa gió
Đông Bắc lượng mưa còn đáng kể “khí trời nóng nực, nhiều tạnh, ít mưa; .... Hết
tháng chạp thì gió đông nổi, tiết kinh trập thì mưa xuân nhuần; gió Nam mạnh về
mùa hạ; gió bấc rét về mùa đông; mùa thu gió mát mà hay mưa lụt... thỉnh thoảng
cũng có gió bão” [64, tr. 337]. Hải Vân như một bức tường thành làm giới hạn cuối
cùng cho mùa đông gió bấc lạnh lùng của miền Bắc nước ta. Nhiệt độ trung bình
trong năm là 25.670C, lượng mưa bình quân là 2.504 mm/năm, được điều tiết bởi
biển nên hai mùa mưa - nắng khí hậu đều hiền hòa, dễ chịu, thuận lợi cho trồng trọt,
chăn nuôi, cũng như hoạt động của một số ngành thủ công. Tuy nhiên, giống như các
29
tỉnh thành ở khu vực miền Trung nước ta, khí hậu ở Quảng Nam - Đà Nẵng cũng khá
khắc nghiệt. Mùa mưa thường có nhiều cơn bão lớn đổ bộ vào tháng 9 và tháng 10,
mùa nắng thì khô hạng nhiều khi kèm theo hiện tượng gió Phơn (thường gọi là gió
Lào) gây nhiều thiệt hại cho đời sống kinh tế - xã hội của cư dân nơi đây: “Mống
đóng Cu Đê, trở về dọn gác; Mống đóng Cửa Đại, cá mại chết khô”.
2.1.1.4. Nguồn tài nguyên
Quảng Nam – Đà Nẵng có diện tích rừng rộng lớn và là rừng nhiệt đới giàu
nguyên liệu quý cung cấp cho các ngành sản xuất mà chủ yếu là các ngành nghề thủ
công. Rừng có nhiều loại gỗ quý như gỗ vang, gỗ sơn, kiền kiền, trắc, gụ, chò chỉ,
chò đen, chò nâu, dầu lông, táu, huỳnh đàn, muồng… Các loại cây cho nhựa như
dầu rái, tràm. Đặc biệt, dầu rái được dùng như một loại sơn chống mục, chống thấm
nước cho ghe thuyền đi sông, đi biển. Các loại tre, lồ ô, nứa, hóp cũng là nguồn
nguyên liệu đáng kể từ rừng. Các loại cây cho quả, hạt như lòn bon – một loại đặc
sản của rừng Quảng Nam được vua ban tên Nam Trân và được dùng để tiến vua, và
các loại quả khác như ươi bay, hạt dẻ, hạt gấm, mít nài… “Các loại cây cho lá cũng
là nguồn lâm sản đáng kể nhưng giá trị lớn nhất là cây dược liệu kỳ nam, trầm
hương, quế, sâm Ngọc Linh, sa nhân, đậu khấu, ngũ gia bì, hà thủ ô, thiên niên
kiện, thổ phục linh, bồ công anh, dền, chỗi, màng tang…” [106, tr. 13].
Quảng Nam – Đà Nẵng có nhiều loại khoáng sản: sắt, chì, kẽm, vàng, thiết,
than đá, mica, đá cẩm thạch, đá vôi... nhưng trữ lượng không lớn. Riêng vàng nằm
rải rác nhiều nơi “xứ Quảng Nam, các núi Trà Nô, Trà Tế nguồn Thu Bồn, Phủ
Thăng Hoa sản vàng năm xưa khí vàng phát mạnh” [63, tr. 285]. Thương nhân
Pháp Pierre Poivre trong hồi ký của mình đã dành riêng một mục nói về vàng xứ
Quảng: “các mỏ vàng có tiếng thuộc Dinh Chiêm ở một địa điểm gọi là Phường Rác
cách Hội An gần tám dặm… và được thu gam dưới dạng vàng vụn hoặc thành từng
cục nhỏ rồi đun thành thỏi, mang ra chợ bán như mọi hàng hóa khác” và ông kết
luận “Đàng Trong là xứ của vàng. Vàng ở đây tốt, đẹp và tinh khiết nhất thế giới”
[125, tr. 84]. Dù không xếp vào nhóm quý nhưng nguồn đất sét đã thúc đẩy nghề
làm gốm khá phát triển với những làng gốm nổi tiếng Thanh Hà, Phước Tích,
Thắng Trà…
Bên cạnh việc trồng lúa, phát triển nông nghiệp, vùng đồng bằng còn trồng
các loại cây như dâu, bông, đay, mía, tre, cói... là nguồn nguyên liệu phát triển các
30
nghề thủ công: dệt vải, làm đường, đan lát, dệt chiếu... Ở các vùng Liên Chiểu,
Thăng Bình, Quế Sơn còn có nguồn cát trắng quý giá, đây là cơ sở sau này Pháp
xây dựng các nhà máy thủy tinh. Những vùng đất cát pha phù hợp với trồng cây đậu
phụng (cây lạc), nguồn nguyên liệu phát triển nghề thủ công ép dầu phụng phát
triển hầu khắp các miền quê xứ Quảng.
Hệ thống sông biển cung cấp nguồn lợi thủy hải sản đa dạng, phong phú và
trữ lượng lớn đã sớm hình thành trên vùng đất này những “xóm vạn đò”, phát triển
việc đánh bắt nuôi trồng thủy hải sản. Cùng với đó, nghề làm muối, chế biến thủy
hải sản, làm mắm đã sớm hình thành và phát triển. Do có nhiều cửa sông thông ra
biển nên nhiều vùng đất ngập mặn, diện tích đất ngập mặn phù hợp với trồng cây
lác (cây cói) dệt chiếu vì vậy có địa danh gọi là “Bàu Lác”. Từ vỏ các loại động vật
nhuyễn thể như nghêu, sò, ốc, hến… đã hình thành nghề nung vôi.
Như vậy, với lợi thế “rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”, khí hậu ôn hòa,
“thổ sản, lâm sản,khoáng sản, nông sản, hải sản... được phân bố hầu khắp trên địa
bàn .... đó là cơ sở làm xuất hiện các nghề thủ công tương ứng rải khắp từ các địa
phương” [80, tr. 9]. Các nghề thủ công dân gian ra đời từ sự đa dạng của tài nguyên
thiên nhiên cùng với nhu cầu của con người. Chính đây là nguyên nhân cho sự phát
triển đa dạng của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng, vùng đất được mệnh
danh “xứ trăm nghề”.
2.1.2. Các nhân tố lịch sử - xã hội
2.1.2.1. Về lịch sử vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng
Quảng Nam - Đà Nẵng thuộc địa bàn văn hóa Sa Huỳnh. Thông qua các di
chỉ như Bàu Dũ, Bàu Trám, Phú Hòa, Quế Lộc, Gò Đình, Đồi Vàng, Tiên Sa, Hậu
Xá, Tabhing… Các nhà khảo cổ học đã biết đến dấu tích xưa nhất của con người
sinh sống trên đất Quảng Nam và Đà Nẵng khoảng 6.000 năm B.P.
Nguyên xưa kia, nơi đây là địa bàn cư trú của bộ tộc Dừa – một bộ tộc của
người Chăm cổ. Thời thuộc Hán nằm trong địa bàn Lư Dung và Châu Ngô thuộc
Quận Nhật Nam. Nhật Nam khi ấy là đất cực Nam của Giao Chỉ bộ từ Hoành Sơn
đến Quảng Nam chia thành 5 huyện, trong đó có Tượng Lâm là Quảng Nam - Đà
Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay. Nhân dân Nhật Nam cùng với nhân dân
Giao Chỉ, Cửu Chân liên tục nổi dậy khởi nghĩa nhằm lật đổ ách thống trị của nhà
Hán. Năm 190-193, lợi dụng lúc chính quyền Trung Quốc mất ổn định, Khu Liên đã
lãnh đạo nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giành chính quyền tự chủ và lập ra tiểu quốc
31
Lâm Ấp. Đến giữa thế kỷ thứ IV, hai tiểu vương quốc là Lâm Ấp (Bắc Chăm) và
Panduranga (Nam Chăm) hợp nhất thành vương quốc Champa. Quảng Nam là đất đế
đô của Champa trong nhiều thế kỷ: Gangajaya, Indrapura. Đây cũng là nơi tập trung
tiêu biểu nhất những tinh hoa văn hóa, những thành tựu nhiều mặt của đất nước
Champa. Ngày nay vẫn còn nhiều khu đền tháp nổi tiếng như: Mỹ Sơn, Đồng Dương,
Trà Kiệu, Chiên Đàn, Khương Mỹ, Phú Hưng, An Mỹ…
Đến đầu thế kỷ XI, dưới thời vương triều Vijaya, kinh đô của vương quốc
Champa được dời vào Trà Bàn (Bình Định). Từ đây trở đi, Quảng Nam không còn
là đất đế đô của vương quốc Champa nữa.
Năm 1306, vua Champa là Chế Mân đã dâng hai châu Ô – Lý làm sính vật
dẫn cưới công chúa Huyền Trân. Vua Trần Anh Tông cho đổi thành châu Thuận và
châu Hóa (từ Quảng Trị đến Bắc sông Thu Bồn tỉnh Quảng Nam). Từ đây, Quảng
Nam - Đà Nẵng thuộc đất Hóa Châu của Đại Việt.
Tuy nhiên, quan hệ Việt – Chiêm trở nên xấu đi sau ngày vua Chế Mân
mất, do đó, công cuộc khai phá đất đai, làm ăn sinh sống của người Việt bị trở
ngại. Chỉ sau cuộc “bình Chiêm” của Lê Thánh Tông năm 1471 thì tình hình mới
được ổn định. Đất Quảng Nam (từ Hải Vân vào đến Bình Định) trở thành đạo
thừa tuyên thứ 13 của quốc gia Đại Việt - danh xưng Quảng Nam chính thức ra
đời sau sự kiện này.
Năm 1558, theo lời sấm truyền của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng đã xin
vào trấn thủ đất Thuận Hóa rồi sau đó được tin tưởng giao kiêm trấn thủ Quảng
Nam (1570), Thuận Hóa và Quảng Nam trở thành đất dựng nghiệp của các chúa
Nguyễn. Năm 1604, Nguyễn Hoàng “lấy huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong
đặt làm phủ Điện Bàn lệ thuộc vào xứ Quảng Nam” [65, t. 6, tr. 40].
Thời nhà Nguyễn (1802-1945), tỉnh thành Quảng Nam đặt tại xã La Qua,
huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn được gọi là La Thành. Đây là trung tâm chính trị
của chế độ phong kiến Quảng Nam dưới triều Nguyễn cho đến Cách mạng tháng
Tám năm 1945. Các vua Nguyễn đã chọn Đà Nẵng làm nơi đón tiếp sứ thần đến
quan hệ ngoại giao, thương mại… Từ đây, Đà Nẵng trở thành hải cảng chính thức
và duy nhất thực thi chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước đến quan
hệ qua đường biển.
32
Ngày 01/9/1858, thực dân Pháp nổ súng mở đầu cuộc xâm luợc nước ta tại
cảng Đà Nẵng gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của nhân dân ta, mà trực tiếp là nhân
dân Quảng Nam – Đà Nẵng, làm thất bại kế hoạch ban đầu khiến cho chúng phải
chuyển hướng tấn công vào Sài Gòn – Gia Định và dần dần, từng bước thôn tính,
đặt ách đô hộ trên toàn cõi nước ta. Ngay sau khi ký hiệp ước Giáp Thân (1884),
căn cứ vào điều 13, người Pháp được tự do thông thương, được mua đất dựng cửa
hàng. Đồng thời với đạo dụ vua Đồng Khánh ký ngày 3/10/1888, Đà Nẵng trở thành
nhượng địa của thực dân Pháp. Theo nghị định ngày 3/01/1893, thành phố Đà Nẵng
(Ville de Tourane) được thành lập và biệt lập khỏi Quảng Nam. Cùng chung với số
phận của cả nước, Quảng Nam - Đà Nẵng từng bước trở thành thuộc địa của Pháp
và chịu sự cai trị của chúng thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa kéo dài đến tận
năm 1945.
Như vậy, Quảng Nam - Đà Nẵng đã sớm hội nhập với sự phát triển của quốc
gia Đại Việt. Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, Quảng Nam - Đà Nẵng luôn
thể hiện vai trò của một vùng đất được mệnh danh là “yết hầu miền Thuận –
Quảng”, là hậu phương trù phú của đế kinh.
2.1.2.2. Con người và truyền thống xứ Quảng
Sau khi hòa mình vào dòng chảy của quốc gia Đại Việt, qua các thời kỳ,
Quảng Nam – Đà Nẵng trở thành vùng đất hứa của các luồng di dân. Công trình Địa
chí Quảng Nam – Đà Nẵng nhận định:
Con đường đi về phương Nam là một lối thoát đúng đắn lúc bấy giờ...
kết quả khai phá vùng đất thừa tuyên Quảng Nam đã đạt được có sức hấp dẫn
mạnh mẽ những người muốn đến đây lập nghiệp. Chắc rằng mối quan hệ qua
lại, đi về giữa những lưu dân, những người “tòng binh lập nghiệp” đối với
gia đình, họ hàng, bà con nơi quê hương bản quán, kể cả những người phiêu
lưu mạo hiểm đi tìm vận rủi may, người dân Bắc Hà có thêm cơ sở để lựa
chọn cho mình một lối thoát dễ thở hơn, có tương lai hơn..... Đất nước liền
một dải, núi liền núi, biển liền biển, đó là những điều kiện thuận lợi cho việc
chuyển cư. Không có một sức mạnh bạo quyền nào có thể ngăn cản được
bước chân của một cộng đồng người đông đảo đi tìm đường sống [90, tr. 33].
Nếu cuộc di dân thời Lê Thánh Tông sau chiến thắng Trà Bàn năm 1471 vào
vùng Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hòa Nhơn với tư thế của người chiến thắng đi làm nhiệm
vụ khai mở bờ cõi thời thịnh trị, thì cuộc di dân thời các chúa Nguyễn “là cuộc vượt
33
thoát một cảnh ngộ bi đát, bế tắc, một hành động chối bỏ cái thực trạng xã hội đang
chìm ngập trong khủng hoảng triền miên, để đi tìm một cuộc đổi mới” [90, tr. 34].
Về thành phần của số di dân dưới thời chúa Nguyễn có những thay đổi đáng
kể, không chỉ có dân nghèo đói khát đi tha phương cầu thực, mà còn nhiều thành
phần khác như thợ thủ công, thầy thuốc, thầy đồ, nhà buôn, số thuộc tầng lớp khá
giả bị phá sản trong thời loạn lạc, những người phiêu lưu mọi hiểm...
Chính cuộc di dân đông đảo và đa thành phần này không chỉ giải quyết vấn
đề khan hiếm sức lao động ở vùng đất mới, mà còn mang đến một sự thay đổi về
chất của xã hội. Đây là nhân tố quan trọng, tạo nên sự phát triển kinh tế hàng hóa
của Đàng Trong ở thế kỷ XVII và các thế kỷ sau đó “những người dân có vật lực
của phủ Điện Bàn, phủ Quảng Ngãi, phủ Quy Nhơn” [90, tr. 34].
Với những cuộc di dân qua các thời kỳ, những thân phận tìm đến vùng đất
mới, đã chắt chiu qua bao đời tạo nên cốt cách của con người trên vùng đất này tính
ham học hỏi, tính tìm tòi, rộng mở. Cùng với đó, khí hậu khắc nghiệt đã thôi thúc
hình thành bản lĩnh chế ngự thiên nhiên, tính cần cù, chịu thương, chịu khó. Các sử
thần triều Nguyễn đã khẳng định điều này: “Học trò chăm học hành, nông phu
chăm đồng ruộng; siêng sản xuất mà ít đem cho; vui làm việc nghĩa và sốt sắng việc
công. Quân tử giữ phận mà hỗ thẹn việc bôn cạnh, tiểu nhân khí khái mà hay kiện
tụng. Dân ven núi sinh nhai về nghề hái củi đốn cây mà tính chất phác, dân ven
biển sinh nhai về nghề tôm cá mà tính nóng nảy” [63, tr. 339].
Cư dân nơi đây gồm nhiều thành phần, địa lý giáp ranh với Lào, sự phồn
thịnh của phố cảng Đà Nẵng, thương cảng Hội An, việc giao thương buôn bán với
người nước ngoài sớm hình thành nên người xứ Quảng có tình hài hòa, hiếu khách,
thích giao thiệp, khéo léo trong ứng xử, nhạy bén trong buôn bán. Cùng với đó, vun
đắp thêm truyền thống hiếu học, thích khám phá, tìm tòi. Chính vì vậy, vùng đất
này đã sinh ra nhiều danh nhân với tư tưởng canh tân, tư tưởng phát triển thương
nghiệp như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Tiểu La… và
vùng đất này được phong tặng danh xưng tôn quý “ngũ phụng tề phi”, “tứ hùng”,
“tứ kiệt”, “tứ hổ”, “tứ tuyệt” (1).
Cùng với những ngành nghề được truyền vào theo dòng chảy “Nam tiến” của
cha ông, xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống, lao động và sản xuất, thông qua quá
trình giao thương, buôn bán, nhiều ngành nghề thủ công nghiệp cũng đã hình thành,
34
phát triển. Các nghề, làng nghề với những tôn chỉ, đạo đức nghề nghiệp, tâm linh...
đã thắp lên nhiều nét đẹp trong truyền thống của các ngành nghề, làng nghề thủ
công truyền thống.
Quảng Nam – Đà Nẵng cũng là vùng đất gánh chịu nhiều đau thương trong
các cuộc chiến tranh. Vì vậy, tự bao đời đã hun đúc nên truyền thống anh dũng, kiên
trung, đấu tranh chống lại mọi áp bức, gìn giữ những giá trị vật chất và tinh thần mà
cha ông đã dày công vun đắp tự bao đời. Sang thời bình, tinh thần ấy lại chuyển thể
thành tinh thần chế ngự mọi khó khăn, vượt qua những thử thách, đạt được những
thành quả trong lao động và sản xuất.
2.1.3. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng trước năm 1802 và di sản để lại
Những lớp cư dân đầu tiên đến khai phá vùng Thuận Quảng có nguồn gốc
từ Thanh, Nghệ, Tĩnh. Từ thế kỷ XVII trở về sau, cư dân từ đồng bằng sông
Hồng, sông Thái Bình đến tụ cư trên vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng rất đông.
Họ đã mang theo những nghề thủ công từ đồng bằng Bắc Bộ, làm đa dạng các
nghề thủ công tại xứ Quảng.
Quảng Nam vốn là đất kinh đô của vương quốc Champa qua nhiều thế kỷ.
Khác với trước đây, sau năm 1471, Người Champa không đi về phía Nam nữa
mà chấp nhận ở lại chung sống với người Việt [47, tr. 126]. Trong quá trình cộng
cư, người Việt đã tiếp nhận từ người Chăm những tiến bộ về kỹ thuật, những
ngành nghề mới: “Kỹ thuật đóng ghe bầu vốn có nguồn gốc từ Mã Lai, kỹ thuật
khai thác và luyện vàng, nghề chế biến mắm cái, mắm nước từ cá biển, nghề làm
đường cát, đường phèn từ mía (ở miền Bắc người ta chỉ ép mía nấu thành mật)”
[90, tr. 655]. Đặc biệt, người Champa với kỹ thuật điêu khắc tuyệt mỹ, những
đền tháp kỳ vĩ xây bằng gạch đất nung với chất kết dính mà đến ngày nay vẫn
“nhuốm màu huyền bí”. Tại Chiêm cảng (Hội An) đã có quan hệ giao thương với
nước ngoài từ rất sớm. Hội An trở thành cửa ngõ chính giao lưu quốc tế của
Đàng Trong và là một trong những cảng thị phát triển nhất khu vực Đông Nam Á
trong thế kỷ XVII - XVIII. Quan hệ mậu dịch, đối ngoại của Hội An đã kéo theo
sự hình thành và phát triển của nhiều nghề thủ công: chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa,
dệt vải, làm đường... Quanh Hội An, nhiều làng nghề đã được hình thành: gốm
Thanh Hà, mộc Kim Bồng, đúc đồng Phước Kiều, dệt lụa Thi Lai, dệt chiếu Bàn
Thạch... “Nghề gốm Thanh Hà và nghề mộc Kim Bồng không chỉ đóng góp cho
35
nhu cầu xây dựng phố xá, nhà cửa, đền miếu, chợ của đô thị Hội An, mà đồ mộc
chạm trổ của Kim Bồng và đồ gốm Thanh Hà còn được lái buôn phương Tây
mua một số lớn đem bán lại cho Nhật Bản, Mã Lai”[119, tr.119].
Các mặt hàng của xứ Quảng có sức hấp dẫn lái buôn nước ngoài do chất
lượng tốt và mang lại lợi nhuận cao nhất là tơ lụa, đường và vàng. “Tơ lụa Đàng
Trong so với Trung Quốc thì hơn hẳn về phẩm chất và sự tinh tế” [119, tr.236].
Ngay từ thế kỷ XVI, Ô Châu cận lục đã miêu tả: “Người Lang Châu dệt nhiều
lụa trắng” [1, tr. 44]. Thế kỷ XVII, người phương Tây đến Đàng Trong không
dấu nổi sự ngạc nhiên, khi thấy cư dân ở đây dùng rất phổ biến áo quần bằng tơ
tằm. C. Borri sống ở Quảng Nam từ 1618 đến 1621 nhận xét “Ở xứ Đàng Trong
có rất nhiều tơ lụa, đến nỗi những người lao động và hạ lưu dùng thường xuyên
hằng ngày” [21, tr. 53]. Còn A. De Rhodes thì nhận xét: “Có nhiều tơ đến nỗi
người ta dùng để đan lưới và bện dây buộc thuyền” [90, tr. 684]. Tơ lụa làm ra
không những thỏa mãn nhu cầu trong nước, mà đã trở thành mặt hàng xuất khẩu
hàng đầu, do chất lượng tốt, giá cả rẻ, dễ bán, thương nhân thu lãi cao. Lợi
nhuận hàng xuất khẩu tơ lụa hấp dẫn đến nỗi “năm 1646, các quan lại định
chiếm độc quyền thu mua mặt hàng này, lái buôn Hà Lan là Van Riebeck đêm
đêm phải đi đến tận nhà người sản xuất để mua tơ trực tiếp” [119, tr. 113].
“Đường là một thứ hàng được bán chạy nhất. Đường có độ trắng và mịn hạt.
Đường phèn thì tinh khiết, trong suốt, phẩm chất tốt. Người Trung Quốc mua rất
nhiều, đem về nước tán ra và bán lãi từ 30 đến 40%”. “Chính là ở tỉnh Chàm,
trên bờ sông Faifo có nhiều lò đường được dựng lên... tất cả những công việc
tinh chế đường đều đơn giản... Duy chỉ có họ chưa biết cách dùng máy ép bằng
guồng nước mà dùng sức trâu để quay bàn ép” [119, tr. 239, 240]. Người Quảng
Nam đã dành một phần lớn đất đai để trồng mía “vào những năm 1630, người Việt
Nam tại Đàng Trong quá hăng say đối với việc sản xuất cho thị trường tơ và đường
của Nhật Bản đến độ đã dành nhiều diện tích trồng trọt cho cây dâu tằm và mía
thay cho cấy lúa” [48, tr. 133].
Lê Quý Đôn miêu tả về nghề làm đường ở phủ Điện Bàn vào giữa thế kỷ
XVII: “Đường phổ đăng sản xuất ở huyện Điện Bàn xốp, nhẹ, màu trắng, mỗi
phiến nặng một cân. Họ Nguyễn thường sai ký lục Quảng Nam mua ở châu Xuân
Đài và xã Đông Thẩm có kỳ 300 cân, có kỳ 800 cân, để cúng kỵ, chạp. Hai châu
36
và xã ấy có thể làm đường phèn, đường cát, mỗi năm nộp lên trên bằng sản
phẩm cộng 48.320 cân thay tiền thuế sai dư” [33, tr. 340]. Năm 1792, J. Barrow
miêu tả: “Ở vùng phụ cận của Turon, chúng tôi quan sát thấy rất nhiều đồn điền
trồng mía và thuốc lá. Nước mía ép một phần trở thành bánh mật, được xuất
khẩu sang thị trường Trung Quốc. Những bánh mật này có màu sắc, bề dày và rỗ
lỗ chỗ giống như những tảng mật ong” [120, tr. 84].
Theo sách Phủ biên tạp lục, các vua chúa chỉ chọn mua các mặt hàng tơ
lụa từ hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn của xứ Quảng Nam vì hai phủ này tập
trung nhiều thợ giỏi, dệt khéo các loại lụa, đoạn có nhiều màu sắc (thái đoạn),
lụa mỏng có hoa (lăng la) tinh xảo “không thua kém hàng Tàu”.
Nghề đóng thuyền ở Quảng Nam cũng rất phát triển. Trong Bình Nam đồ,
một bản đồ vẽ hoàn chỉnh vào thế kỷ XVII thời các chúa Nguyễn có ghi một địa
danh là “Chu Tượng”. Chu là ghe thuyền, Tượng là thợ, Chu Tượng có thể hiểu là
xưởng đóng ghe, trại đóng ghe, nơi có các hiệp thợ chuyên về đóng ghe thuyền cư
trú, hành nghề. Địa danh này có vị trí nằm giữa cửa Đại Chiêm (Hội An) và cửa An
Hòa (Tam Kỳ). Phải phát triển đến một mức độ nào đó thì mới có tên trong bản đồ
như vậy. Nhà sư Thích Đại Sán trong Hải ngoại ký sự đã chép về tàu thuyền tại
Đàng Trong như sau: “Các thị trấn ở đây thường quay lưng vào núi và mặt ngó ra
biển, không có đường giao thông giữa hai phủ với nhau. Ở bất cứ đâu, khi người ta
vào một hải cảng là bước vào một phủ. Muốn từ một phủ này tới một phủ khác,
người ta phải bắt buộc rời cảng mình đang ở, xuống thuyền ra biển dọc theo núi và
vào một hải cảng khác” [21 tr. 32], trong Phủ Biên tạp lục đã ghi “tại huyện Duy
Xuyên thuộc xứ Quảng Nam có 10 xã, 11 thôn, 10 phường, 1 tộc chuyên về đóng
ghe” [33, tr. 86]. Ngoài ra, một số sổ đinh của làng Minh Hương ở Hội An có niên
đại thế kỷ XVIII cũng cho biết rằng, họ đã cư trú tại nhiều địa phương chuyên về
đóng ghe. Một số trát văn thời Quang Trung hiện đang được lưu giữ tại Hội An có
nội dung liên quan đến việc điều các thợ đóng ghe của địa phương đi tu bổ, đóng
mới các chiến thuyền cho quân đội. Điều này cho thấy rằng trong các thế kỷ trước,
nghề đóng ghe đã rất phát triển và giữ một vị trí đáng kể ở Hội An.
Nghề rèn cũng sớm ra đời đáp ứng cuộc sống và sản xuất của cư dân vùng đất
này. Trước đây, ở Quảng Nam - Đà Nẵng, sắt rất khó tìm do kỹ thuật khai khoáng
37
không hiện đại như bây giờ, sắt chủ yếu nhập của nước ngoài “Vào năm 1567,
tàu bè qua lại và buôn bán với các nước Đông Nam Á, nhiều ghe mành của người
Trung Hoa tới buôn bán ở vùng Nam Hải. Theo thuyền Xa Binh Chế khảo, một
thập niên sau, năm 1577, 14 ghe mành chở đồng, sắt và đồ sành sứ từ Phúc Kiến
tới Thuận Hóa để bán” [48. tr. 85]. Năm 1792, J. Barrow miêu tả về nghề làm sắt
cũng như nghề chế tác kim loại tại Đà Nẵng: “Chất lượng những bình, chậu đúc
bằng sắt cũng ngang bằng đồ Trung Quốc. Họ tỏ ra khá tinh xảo trong nghề chế
tác kim loại. Đốc kiếm của những võ quan hầu hết làm bằng bạc và khá trau
chuốt, và những đồ vàng bạc chạm trổ cũng tinh xảo như hàng Trung Quốc”
[120, tr. 84]. Nghề làm chiếu thì “chiếu để che phủ sàn nhà được dệt tinh xảo với
những màu sắc khác nhau” [120, tr. 84].
Như vậy, cho đến trước năm 1802, diện mạo thủ công nghiệp Quảng Nam –
Đà Nẵng đã khá phong phú và đa dạng với nhiều nghề thủ công nổi tiếng, nhiều
truyền thống công nghệ có khả năng tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, khiến
cho khách buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Âu chú ý. Những công nghệ truyền
thống đó chính là những di sản quý giá mà lịch sử thủ công nghiệp xứ Quảng từ
mấy trăm năm trước còn để lại cho Quảng Nam – Đà Nẵng từ triều Nguyễn về sau
có thể kế thừa.
2.1.4. Tình hình chính trị, xã hội và kinh tế Quảng Nam-Đà Nẵng (1802-1885)
2.1.4.1. Tình hình chính trị
Năm 1802, Nguyễn Ánh thiết lập triều Nguyễn. Gia Long đã thừa hưởng
một đất nước trải dài từ mục Nam Quan đến mũi Cà Mau do công sức mở mang,
khai phá, bảo vệ của nhiều thế hệ, nhất là công cuộc “mở cõi” về phía Nam dưới
thời các chúa Nguyễn. Nhà Nguyễn đã thực thi nhiều chính sách để cai quản đất
nước. Trong đó tập trung quản lý về mặt hành chính, tạo nên sức mạnh quyền lực
của nhà nước phong kiến.
Quảng Nam – Đà Nẵng - vùng đất “tả trực” của đế kinh nên Nhà Nguyễn
rất chú trọng với nhiều lần thay đổi. Ngay từ năm 1801, Nguyễn Ánh tách phủ
Điện Bàn (gồm hai huyện Diên Khánh và Hòa Vang) và phủ Thăng Hoa (bao gồm
ba huyện Duy Xuyên, Lễ Dương, Hà Đông) lập thành dinh Quảng Nam cùng thời
với các dinh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức ở phía Bắc đèo Hải Vân. Năm
Gia Long thứ năm (1806), đặt dinh Quảng Nam thành dinh “trực lệ” vào kinh sư.
38
Năm Minh Mạng thứ ba (1822) đổi huyện Diên Khánh thành huyện Diên Phước.
Năm Minh Mạng thứ tám (1827), đổi dinh Quảng Nam thành trấn Quảng Nam, bỏ
hai chữ “trực lệ”. Năm Minh Mạng thứ mười ba (1832), trấn Quảng Nam đổi
thành tỉnh Quảng Nam. Năm Minh Mạng thứ mười lăm (1834), tỉnh Quảng Nam
gọi là tỉnh “Nam Trực”.
Tuy mang những tên gọi đơn vị hành chính khác nhau, từ dinh đổi sang trấn
(thời Gia Long), từ trấn đổi sang tỉnh (thời Minh Mạng) nhưng địa giới tỉnh Quảng
Nam không thay đổi: phía Bắc đến đèo Hải Vân giáp tỉnh Thừa Thiên Huế; phía Nam
đến Dốc Sỏi giáp tỉnh Quảng Ngãi. Quảng Nam tiếp tục đóng vai trò là dinh trấn bên
cạnh kinh đô Huế và Đà Nẵng được chọn làm nơi đón tiếp các sứ thần đến quan hệ
ngoại giao, thương mại… Đà Nẵng là hải cảng chính thức thực thi chính sách ngoại
giao của nhà Nguyễn với các nước đến quan hệ qua đường biển.
Nằm trong ý đồ xâm lược của Pháp và các nước phương Tây, Quảng Nam -
Đà Nẵng là mục tiêu đánh chiếm đầu tiên của Pháp. Nơi đây trở thành chiến trường
xảy ra cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam và Pháp. Từ ngày 01/9/1858 đến ngày
23/3/1860, nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng đã sát cánh cùng quân đội triều đình
ngăn chặn âm mưu xâm lược của Pháp tại Đà Nẵng.
Với sự chiến đấu ngoan cường, nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng đã làm thất
bại kế hoạch ban đầu, Pháp phải chuyển hướng tấn công Sài Gòn – Gia Định. Ngày
5/6/1862, triều đình Huế đã ký với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất bao gồm 12 điều,
trong đó điều 5, điều 6, người Pháp được tự do buôn bán, tự do đậu thuyền và tự do
đi lại trên con đường bộ từ cửa biển đến kinh đô. Với hai hiệp ước Quý Mùi (1883),
Giáp Thân (1884), về danh nghĩa, Đà Nẵng vẫn thuộc chủ quyền của triều Nguyễn
nhưng Pháp đã từng bước làm chủ dần mọi hoạt động ở hải cảng này: tổ chức quan
thuế, tự do lập phố, kiểm soát cửa khẩu...
Nhìn chung, trước khi Pháp xâm lược, triều Nguyễn đã thể hiện sức mạnh
của một bộ máy tập quyền chuyên chế, đất nước được thống nhất, quản lý hành
chính được tăng cường. Quảng Nam – Đà Nẵng vùng đất “phên dậu” ở phía nam
luôn được chú trọng đã tạo tiền đề cho kinh tế phát triển.
2.1.4.2. Tình hình xã hội
Đầu thế kỷ XIX, về cơ bản, các giai cấp và tầng lớp xã hội ở nước ta vẫn giữ
nguyên như trước: địa chủ và nông dân, thợ thủ công và thương nhân, cùng các tầng
lớp sĩ phu, văn thân và quan lại.
39
Dân số Quảng Nam – Đà Nẵng “đời Gia Long số đinh là 36.900 người, nay
(đời Tự Đức) số đinh là 51.458 người” [63, t. 5, tr. 341]. Mặc dù bộ địa chí chính
thống được biên soạn dưới triều Nguyễn chỉ đề cập đến “đinh” tức nam từ 18-60
tuổi chứ không nói đến toàn bộ dân số bao gồm “nam, phụ, lão, ấu” song chúng ta
có thể phỏng đoán dân số Quảng Nam – Đà Nẵng thời kỳ này thuộc diện khá đông.
Cư dân Quảng Nam – Đà Nẵng sống chủ yếu dựa vào nghề nông. Lực lượng
lao động tham gia và diện tích đất khẩn hoang được đẩy mạnh thời Minh Mạng sau
cuộc khởi nghĩa của hoàng tôn Lê Duy Lương (1833-1838) bị dập tắt “vì chuyện
vua Lê Duy Lương dấy binh, nên nhà vua truyền bắt dòng dõi nhà vua đem đày vào
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, cứ chia 15 người cho một huyện và phát cho
10 quan tiền và 2 mẫu ruộng để làm ăn” [90, tr. 303]. Theo Hoàng Lê Ngọc Phả,
năm 1833, vua Minh Mạng buộc còn cháu nhà Lê từ phía Bắc vào cư trú ở Quảng
Nam, Quảng Ngãi là 297 người. Năm 1848 là đông nhất, riêng ở Quảng Nam – Đà
Nẵng có 27 đơn vị gia đình đến cư trú ở các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Duy
Xuyên, Quế Sơn.
Đời sống của nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng phần lớn “khốn khổ, bần
cùng, thực trạng xã hội có những diễn biến phức tạp” [90, tr. 304]. Đây cũng là
thực trạng chung của nhân dân nước ta đầu thế kỷ XX. Nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng thực trạng này nguyên nhân là do nạn chiếm đoạt, tập trung ruộng đất của địa
chủ, nạn tham nhũng của quan lại, cường hào, chế độ tô thuế, lao dịch nặng nề, khắc
nghiệt, thiên tai triền miên... Đây là nguyên nhân làm bùng lên những cuộc nổi dậy
chống triều Nguyễn trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX. Theo thống kê của các nhà
nghiên cứu, dưới triều Nguyễn có đến 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, riêng thời Gia
Long khoảng 50 cuộc, thời Minh Mạng khoảng 250 cuộc, thời Thiệu Trị khoảng 50
cuộc [10, tr. 937]... Chính tình hình này đã dẫn đến sự xáo trộn về dân cư trong
phạm vi cả nước trong đó có Quảng Nam – Đà Nẵng.
2.1.4.3. Tình hình kinh tế
Đất nước được thống nhất nên các ngành nghề và giao lưu hàng hóa có điều
kiện phát triển và mở rộng khắp đất nước, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân và nhà nước. Công trình Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công nghệ Việt
Nam dưới triều Nguyễn của tác giả Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc nhận định “trong
hơn ¾ thế kỷ quản lý đất nước độc lập tự chủ từ năm 1802 đến năm 1884 (ký hiệp
ước Patenôtre) nhà Nguyễn đã có những cố gắng nhất định trong việc xây dựng
40
một nền kinh tế dựa trên nông nghiệp và thủ công nghiệp để duy trì sự tồn tại của
triều đại và phát triển của quốc gia” [80, tr. 12]. Việc mở rộng hệ thống đường
thủy như đào nối các con sông trong nội địa được hình thành. Tại Quảng Nam –
Đà Nẵng các con kênh được đào để tưới tiêu đồng thời thuận lợi trong giao thông
như: Kênh Thanh Hà, kênh Minh Châu, kênh Phú Xuân, kênh Thanh Khê, kênh
Địch Thái, kênh Đức An, kênh Bạch Câu [63, tr. 365].
Về giao thông vận tải cả đường thủy và đường bộ đều được củng cố và phát
triển. Trên bộ con đường thiên lý từ Hà Nội vào Huế đến Gia Định được mở rộng 3
trượng. Cứ khoản 16 km đặt một trạm dịch, công việc được hoàn tất vào năm 1809.
Trong đó, Quảng Nam – Đà Nẵng có “thất trạm”: Nam Châm, Nam Ổ, Nam Giản,
Nam Phúc, Nâm Ngọc, Nam Kỳ, Nam Vân [63, tr. 375]. Phần lớn giao thông vận
tải vào thế kỷ XIX chủ yếu được thực hiện bằng đường thủy (cả đường sông và
đường biển). Phép đo lường tiền tệ được thống nhất do Bộ Công thương ban hành.
Đơn vị đo chiều dài có 3 loại: thước mộc, thước đo vải và thước đo ruộng. Đơn vị
đo trọng lượng chia thành hai loại: đo trọng lượng thông thường thì dùng cân
Thuyên bình, còn đối với vàng bạc thì dùng cân Trung bình. Đơn vị tiền tệ phổ cập
gồm ba loại: quan, tiền và đồng.
Nông nghiệp: Vào những thập niên đầu của thế kỷ XIX, trong nông nghiệp,
nhà Nguyễn vẫn tiếp tục chủ trương khai hoang, phục hóa, xây ấp, lập đồn điền
“nhà nước còn đề ra và thay đổi một số chính sách nhằm khuyến khích dân tích cực
tổ chức khai hoang” [45, tr. 19]. Nhờ đó, diện tích đất tăng lên nhanh chóng. Tuy
nhiên, việc gia tăng ruộng đất cũng không thể bù lại được với tình trạng dân lưu tán,
ruộng đất bị bỏ hoang do thiên tai, mất mùa và nạn giặc ngoại xâm “việc mở rộng
diện tích ruộng đất canh tác ít nhiều góp phần giải quyết những khó khăn của nông
dân, nhưng vẫn không giải quyết dứt điểm vấn đề dân phiêu tán, vì ở nơi này ruộng
đất có được khai khẩn thì ở nơi kia nông dân lại bị bọn địa chủ cướp mất ruộng
đất” [10, tr. 929]. Sản xuất nông nghiệp mang nặng tính chất độc canh, tuyệt đại bộ
phận diện tích được đem trồng lúa. Do kỹ thuật canh tác lạc hậu nên năng suất lúa
đạt mức thấp.
Diện tích đất trồng lúa ở Quảng Nam – Đà Nẵng không thật sự nhiều, nhiều
vùng đất bị ngập mặn, nhiễm chua nhưng với lượng phù sa được bồi đắp, người
nông dân cần cù trong lao động nên nhìn chung sản lượng lúa thu hoạch đạt năng
suất khá “giống lúa tẻ có thứ tên là lúa mắc cửi, hạt gạo nhỏ mà dài, trắng như
41
bông, rất thơm, có thứ tên là nhự đông, hạt gạo tròn trắng, được cơm nhiều mà
chắc” đặc biệt ở Quảng Nam còn có “loại lúa tám trắng rất thơm ngon, các hộ đãi
vàng phải nộp loại gạo này cho nhà chúa để thay tiền sai dư” [33, tr. 139].
Ngoài lúa, người dân còn trồng nhiều loại cây hoa màu: bắp, đậu, mè, sắn, củ
cải, củ kiệu, sắn dây… Ở vùng đất cát thường trồng khoai lang, đây là nguồn lương
thực chủ yếu của cư dân “bỏ khoai lang mang lấy nợ”, đặc biệt khoai Trà Đỏa
(huyện Lễ Dương) nổi tiếng thơm, bùi, ngọt, củ to nặng cả kilôgam nên được gọi là
“khoai cân”. Ở những vùng đất thịt, tơi xốp người dân trồng “la gim” với khổ qua,
mướp, bí, các loại rau… ở Quảng Nam trồng nhiều trầu, cau “ở chân núi Ải Vân
cùng các xứ phường Lạc, phường Giá, phường Rây thuộc Quảng Nam cau mọc
thành rừng, quả già da sém, người địa phương lấy hạt chứa cao như gò, tàu Bắc
mua chở về Quảng Đông bán ăn thay chè” [33, tr. 415].
Về chè lá, nổi tiếng có chè An Bằng, chè Phú Thượng ở Hòa Vang và chè
ở Quế Sơn “ngon nhất là chè nguồn Thu Bồn, huyện Quế Sơn, thứ đến chè huyện
Hà Đông” [63, tr. 397]. Bên cạnh đó, nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng còn trồng
nhiều loại cây khác nhau như mía, tiêu, dâu, bông, đay, cói, bo bo, thơm, chuối,
mít, mãng cầu…
Những vùng đất ít mùn, phù sa giảm như Phong Lệ, Cẩm Lệ, Thanh Quýt nhân
dân trồng thuốc lá. Riêng thuốc lá Cẩm Lệ lá nhỏ, dài, mùi đậm, rất được ưa chuộng “ở
Hoa viên là tốt nhất, thứ đến thuốc ở Xuân Phương và Cẩm Lệ” [63, tr. 397].
Đánh bắt thủy hải sản: Với hệ thống sông biển dày đặc, giàu các loại thủy
hải sản, trong bối cảnh nông nghiệp gặp khó khăn, cư dân Quảng Nam – Đà Nẵng
đã sớm phát triển nghề đánh bắt thủy hải sản. Phát tích của nghề là việc bắt con ốc,
con cua, con cá, con hến nơi bờ ruộng, chân đê, về sau cư dân đã chế ra các dụng cụ
từ thô sơ như lờ, đăng, nơm, câu, lưới, vó đánh bắt ven sông, ven bờ biển... đến việc
dùng thuyền, thúng, thuyền buồm đánh bắt xa bờ. Việc đánh bắt theo mùa, theo
điều kiện phương tiện, nhu cầu và khả năng. Dần dần đây trở thành nghề mang lại
nguồn lợi cao được cư dân chú trọng. Đã có nhiều làng ven sông, ven biển chuyên
về việc đánh bắt. Một số làng như Đông Hòa, Tân Mỹ dân chuyên nghề cào hến.
Việc đánh bắt thời kỳ này chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng các
phương tiện thô sơ, đánh bắt gần bờ. Mặc dù vậy, sản phẩm thu được từ nghề này
khá phong phú, ngoài việc đáp ứng khả năng tại chỗ đã thực hiện việc trao đổi buôn
42
bán. Cùng với đó là việc chế biến, ban đầu là cá hấp, cá khô, mực khô, muối cá để
khỏi ôi thiu đần dần là chế biến mắm. Điều đáng nói là bên cạnh việc đánh bắt, cư
dân đã hình thành việc nuôi trồng thủy hải sản để cung cấp cho gia đình và cung cấp
cho người dùng thông qua việc trao đổi buôn bán tại các phiên chợ.
Khai thác lâm thổ sản: Với một diện tích rừng lớn, giàu lâm thổ sản, cư dân
xứ Quảng sớm chú trọng việc khai thác lâm thổ sản. Nghề này cũng ở nhiều mức độ
khác nhau, đơn giản thì hái rau rừng, măng rừng, hái trái ươi bay, bứt mây, hái lá
nón, bẫy chim, lấy mật ong, khai thác tổ yến... Quy mô hơn là việc tổ chức săn bắt,
săn bắn các con thú như hưu, nai, hoẵng, man. Làng Thắng Lộc (xã Đại Chánh,
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) sống chuyên nghề săn.
Đặc biệt là việc khai thác các loại gỗ quý trong rừng, khai thác trầm hương,
kỳ nam. Việc khai thác gỗ mang lại nguồn lợi rất lớn, bên cạnh việc cung ứng nhu
cầu của cư dân địa phương còn cung ứng nguồn gỗ cho một vùng rộng lớn để làm
nhà cửa, trang trí, các công trình chung... Trong đó, nghề khai thác trầm hương, kỳ
nam mang lại nguồn lợi khổng lồ và nhuốm màu huyền bí “ngậm ngãi tìm trầm”,
“kỳ nam hương xuất từ đầu núi thuộc hai phủ Bình Khang và Diên Khánh xứ Quảng
Nam là thứ tốt nhất” [33, tr. 331]. Đây cùng là sản phẩm được các thương nhân
Nhật Bản rất ưa chuộng khi mua bán nguồn hàng từ Quảng Nam [48, tr. 97]. Tại
làng Bàng Tân (xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) dân chủ yếu sống
bằng nghề khai thác trầm hương.
Giống như nghề đánh bắt thủy hải sản dẫn đến nghề nuôi trồng thủy hải sản, từ
khai thác lâm thổ sản cũng hình thành nghề trồng các loại dược liệu quý, trồng quế ở
Tiên Phước, Trà My, trồng sâm ở núi Ngọc Linh, nuôi ong rừng, nuôi yến... cho đến
ngày nay vẫn còn rất phát triển và được mệnh danh là “công nghiệp không khói”.
Việc khai thác các khoáng sản dưới lòng đất cũng đã được tiến hành. Nghề
khai thác vàng đã hình thành ở nhiều nơi, trong đó quy mô nhất là khai thác vàng ở
Bồng Miêu hay khai thác than ở Nông Sơn, Ngọc Kinh đã thực hiện từ rất sớm sau
này bị Pháp chiếm. Việc đãi vàng trong dân gian chủ yếu là vàng cám, vàng vụn, dản
xuất với phương pháp thô sơ, tự phát, sản lượng không nhiều.
Thương nghiệp: Do sự phong phú về sản vật cộng với sự tinh xảo của các ngành
nghề thủ công, các mặt hàng nông sản dồi dào, lại có các thương cảng tốt, vị thế thuận
43
lợi, thương nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng phát triển rất sớm. Quảng Nam – Đà Nẵng
có rất nhiều chợ và đầu mối buôn bán tập trung. Nhiều thị xã, thị trấn sớm hình thành
(Hội An, Tam Kỳ, Vĩnh Điện, Túy Loan, Ái Nghĩa, Nam Ô, Hà Lam...). Các ngõ
nguồn: Câu Đê, Lỗ Đông, Ô Gia, Trung Phước, Chiên Đàn, Hữu Bằng, các vạn ghe,
bến chợ là những nơi buôn bán tấp nập. Huyện nào cũng có nhiều chợ. Điện Bàn có
các chợ Bảo An, Bến Đền, Tư Phú, Cẩm Sa, La Nghi, Chợ Cầu, Bình Long, Lạc
Thành, Đông Quang, Phong Thử, Vĩnh Điện. Quế Sơn có các chợ Phú Gia, Khánh
Bình, Đồng An, Đồng Tranh, Trung Phước, Cây Bùi, Đông Phú, Chợ Đàn, chợ Đụn,
An Xuân, Hương An, Mộc Bài, Bà Rén... đặc biệt là “Phố Hội”. Sau khi Hội An suy
tàn, Đà Nẵng trở thành “phố cảng”, một thương cảng quan trọng trong việc xuất nhập
khẩu hàng hóa ở Trung Kỳ “cảng Đà Nẵng là nơi nhập khẩu những hàng hóa đặc biệt
cho triều đình, kể cả vũ khí và hàng dùng cho quan lại cao cấp, đồng thời cũng là nơi
xuất khẩu các mặt hàng do nhà nước độc quyền kinh doanh như: đường cát, quế, yến
sào, ngà voi, nhung nai, vây cá...” [90, tr.781].
Các hoạt động kinh tế khác:
Do sự phát triển của hệ thống chợ, thị trấn, thị tứ và nằm trên tuyến đường
huyết mạch giao thông Bắc – Nam nên một số hoạt động dịch vụ, hàng quán, quán
ăn, quán nước... sớm hình thành và phát triển.
Bên cạnh đó một số dịch vụ như đò thuyền chuyên chở khách, chở hàng hóa,
vật tư cũng khá phát triển.
2.1.5. Chính sách của triều Nguyễn đối với thủ công nghiệp
Về chính sách đối với thủ công nghiệp của triều Nguyễn có thể quy lại trong
chế độ công tượng và chế độ biệt nạp.
Chế độ công tượng đã có từ thời Lý. Ngay từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu
cũng đã áp dụng chế độ này nơi kinh đô và các phủ, thành. Sang thời vua Nguyễn,
hình thức này trở thành một loại hình kinh tế có tổ chức quy mô lớn nhất và một
chế độ quản lý chặt chẽ nhất nhằm tái thiết đất nước sau những năm tháng chiến
tranh vào cuối thế kỷ XVIII. Ban đầu các công xưởng của nhà nước được giao cho
vũ khố (cơ quan quản lý kho tàng của nhà nước) trông coi. Đến năm Minh Mạng
thứ 10 (1829) được chuyển giao cho Bộ Công trực tiếp quản lý. Thợ thủ công
được trưng dụng từ các địa phương tập trung về các công trường ở kinh đô, chịu
44
sự quản lý của các đơn vị quản lý gọi là Tượng cục. Để đảm bảo nguồn lao động,
nhà nước quy định hàng năm các tỉnh phải cung cấp đủ theo số lượng đã được
phân bổ. Chẳng hạn, năm Minh Mạng thứ 13 (1832), nhà nước quy định tỉnh
Quảng Nam phải cung cấp 2.051 người, Quảng Ngãi 893 người, Bình Thuận 347
người. Mỗi loại thợ, tùy theo ngành nghề, nhu cầu mà có chế độ lương bổng, sinh
hoạt phí khác nhau, nhưng nhìn chung, việc quản lý họ bị quân đội hóa rất chặt
chẽ ở các mức độ khác nhau.
Hình thức trưng tuyển thợ và cách thức tổ chức công tượng dưới thời
Nguyễn phong phú, chặt chẽ hơn các triều đại trước. Nhà nước đồng thời sử dụng
ba hình thức trưng dụng thợ thủ công. Thứ nhất là theo ngạch với quy chế bắt
buộc cho các địa phương. Công việc này diễn ra thường xuyên vào tháng chạp mỗi
năm. Nhà nước ước lượng số thợ cần tuyển vào trong năm tới ở các ngạch phân bổ
cho các địa phương. Thứ hai là tuyển mộ theo quy chế tự nguyện. Thứ ba là thuê
mướn nhân công.
Liên quan đến hoạt động của các công xưởng còn có Bộ Hộ và Bộ Binh. Bộ
Hộ quản lý, định mức và trả lương bổng, cấp phát nguyên liệu... Bộ Hộ quản lý
cũng như định ra tỷ lệ miễn giảm các khoản thuế lệ của thợ thuyền, dự trù kinh phí
trong các trường hợp thuê mướn, điều phái thợ. Mọi sổ sách thu chi ở công trường
phải cụ thể, chi tiết, đưa lên Bộ Hộ để Bộ Hộ cử phái viên cùng các cơ quan Hội
đồng kiểm xét rồi mới dâng lên vua.
Công xưởng là một loại hình kinh tế của nhà nước nên mọi hoạt động của
nó nên đều phải tuân thủ pháp quy chặt chẽ và chịu sự giám sát của nhiều cơ quan.
Mọi hành vi hoạt động bất thường trong công xưởng đều có sự can thiệp, giải
quyết của Bộ Hình, Nội Các, Đô Sát Viện...
Như vậy, về mặt thiết chế, hoạt động thủ công nghiệp nhà nước dưới thời
Nguyễn được tổ chức chặt chẽ và quy mô hơn hẳn các vương triều trước. Điều này
có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của loại hình kinh tế này.
Chế độ công tượng của triều Nguyễn đã trói chân những người thợ vào hoạt
động của công trường hay các xưởng thủ công tại chốn kinh thành, gây ảnh hưởng
đến đời sống gia đình và tương lai con cái họ. Lính thợ phải làm việc lâu dài, có khi
đến già mới cho nghỉ. Những thợ có tay nghề cao cũng tìm cách giấu nghề, để được
an thân, có thể sớm về được với vợ con. Việc bỏ trốn bị xử theo phép đào binh, nên
45
càng làm nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa những người có tay nghề cao, am hiểu kỹ
thuật với chính sách của nhà nước.
Ngoài chế độ công tượng, nhà nước còn gián tiếp khai thác sức lao động của
thợ thủ công tự do và nửa tự do (làm việc ở các tượng cục địa phương) ở các tỉnh
thành, làng xã bằng chế độ thuế sản phẩm (biệt nạp). Chính sách biệt nạp được đặt
ra từ lâu, trở thành một ngạch thuế quan trọng và là nguồn thu lớn của nhà nước
trước đây. Đây là loại thuế đánh vào các thợ thủ công chuyên nghiệp. Mỗi năm,
người thợ phải nộp cho nhà nước một số sản phẩm nhất định (có khi thay bằng
tiền). Vào thế kỷ XIX, nhà nước thông qua các làng, xã, các tổ chức tượng cục để
thực hiện gián tiếp quản lý thợ thủ công và thu thuế. Các tượng cục này là tổ chức
của những người thợ thủ công chuyên nghiệp ở tỉnh, thành hay các làng nghề. Nó
hoàn toàn khác với các tượng cục được thành lập trong các công xưởng nhà nước.
Thợ thủ công chuyên nghiệp trong dân gian đều được phép cùng nhau thành lập các
tập đoàn sản xuất theo nghề gọi là cục (cuộc hay ty). Người thợ lành nghề, có uy tín
đứng ra thành lập cục, các thợ thủ công khác có thể tự nguyện tham gia cục. Hàng
năm, cục trưởng lập danh sách, họ tên, tuổi, quê quán các thành viên, mức thuế dự
kiến của từng cá nhân, tổng sản lượng và tổng số thuế dự kiến của cục trình lên
quan bố chánh duyệt. Như vậy, nghĩa vụ chủ yếu nhất của các thợ thủ công thuộc
các cục hay hộ thủ công chuyên nghiệp ở các thôn xã là đóng thuế biệt nạp cho nhà
nước. Chế độ biệt nạp nhìn chung là nặng nề, vụn vặt và tùy tiện ở từng địa phương.
Hầu như trong dân chúng có nghề thủ công gì thì nhà nước đều đặt lệ thuế sản phẩm
từ những thứ quý hiếm như vàng, yến sào đến chiếc chiếu, tôm, cá khô và cả đến
sợi mây. “Nghề dệt và nghề làm đường ở Quảng Nam năm Tự Đức thứ 18 (1865)
cũng được tập hợp thành 9 “hộ nghề nghiệp” có quy định rõ số người và số thuế
phải nộp cho nhà nước hàng năm” [69, tr. 52].
Bên cạnh lệ nộp thuế bằng sản phẩm, các thợ thủ công còn phải chịu gánh
nặng lệ tiến cống và việc thu mua của nhà nước. Giá cả thu mua bao giờ cũng thấp
hơn nhiều so với thị trường. Chính sách trưng tập thợ giỏi, thợ khéo về làm trong
các xưởng theo chế độ trưng mua sản phẩm, vật liệu của thợ thủ công đã làm suy
giảm động lực sản xuất, gây nên những tác động tiêu cực đến sự phát triển của thủ
công nghiệp thế kỷ XIX.
46
2.2. THỦ CÔNG NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Thủ công nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng, nhưng dưới thời
phong kiến tập trung chủ yếu ở kinh đô. Thời Nguyễn, kinh đô Huế với hệ thống
công xưởng, tượng cục phát triển. Ở Quảng Nam – Đà Nẵng, thủ công nghiệp nhà
nước chỉ tập trung ở một số nghề.
Dưới triều Nguyễn nhất là thời Minh Mạng, triều đình đứng ra khai thác
hàng chục mỏ quý như mỏ vàng, mỏ than, mỏ kẽm, mỏ bạc... “vàng là của báu nằm
dưới lòng đất, rất có quan hệ đến thuế khóa của nhà nước, phải nhân mối lợi mà
làm ra lợi” [66, t. 10, tr. 333]. Năm 1831, Phan Thanh Giản được lệnh đem 30 lính
và huy động 700 dân địa phương khai thác mỏ vàng Chiên Đàn (Tam Kỳ, Quảng
Nam). Năm 1867, triều đình cho lập thêm một sở đúc vàng bạc tại Quảng Nam
(chung các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) chọn một tay thợ
khéo và lành nghề cho làm Tượng mục, phong tòng cửu phẩm. Thế nhưng sau một
thời gian bị thua lỗ do quản lý kém, do lối bóc lột nhân công thu lợi theo kiểu nô
dịch phong kiến, cộng thêm sự chống phá của kỹ thuật viên Hoa Kiều, nên phải
đình chỉ sản xuất. Triều Nguyễn rất chú trọng việc thu thuế từ người dân khai thác
tổ yến. Năm 1805, Gia Long ban hành quy định mỗi người khai thác tổ yến một
năm phải nộp tám lượng yến loại I, được miễn quân dịch. Năm Gia Long thứ 17
(1816), triều đình thành lập đội lấy tổ yến do Hồ Văn Hòa làm hộ trưởng. Số thuế
yến sào mỗi năm nộp lên cho triều đình của đội lấy tổ yến từ Quảng Nam đến Bình
Định, Khánh Hòa là 304 lượng [67, q. 25, t. 4, tr. 345].
Bên cạnh các xưởng chế tạo vũ khí đóng ở kinh đô Huế, tại nhiều tỉnh thành,
nhà Nguyễn cũng đặt các công xưởng, tập trung thợ thuyền sản xuất vũ khí cung cấp
cho quân lính đóng trên địa bàn. Đối với ống phun lửa, nhà vua xuống chỉ cho các
quan ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định... hằng năm theo định kỳ giao nộp. Tại
Quảng Nam chế thêm 2.000 ống phun lửa lưu tại tỉnh để dùng. Riêng đối với xe giã
thuốc súng, năm 1834, Minh Mạng sai tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị, mỗi tỉnh là hai
xe “thủy hỏa ký tế”, chọn đất, lập trường sở để luyện thuốc súng. Năm sau, vua lệnh
đặt thêm các xe (nguồn Ô Lâu, Hương Trà, Quảng Nam thêm 2 xe là 5 xe, Quảng
Ngãi thêm 1 xe là 3 xe, Bình Định thêm 2 xe là 4 xe...) [80, tr. 58]. Hệ thống tượng
cục mở khắp các tỉnh thành trong cả nước đã hạn chế được công việc vận chuyển, đỡ
47
hao tốn công sức, trang bị kịp thời vũ khí cho lính, thuận lợi cho việc phòng thủ ở các
thành. Năm 1835, Minh Mạng sai thủy quân chở diêm tiêu, lưu hoàng cấp cho các
tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định để giã luyện thuốc súng.
Thuyền được đóng trong các công xưởng gọi là Hải Vận đại dịch, Hải Vận
miễn Dịch... Ở kinh và các tỉnh thành, nơi nào còn thiếu thì đóng mới để điền vào.
Theo đó, Quảng Nam cùng 9 tỉnh khác là Quảng Ngãi, Bình Định, Vĩnh Long, Định
Tường, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định, Hải Dương thiếu ngạch 28
chiếc phải đóng để bổ sung.
Bên cạnh đó, dấu ấn thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng đối với thủ
công nghiệp nhà nước thể hiện qua các sản phẩm được dâng tiến triều đình, những
thợ giỏi tham gia các công xưởng nhà nước hay nhân lực, vật lực thực hiện theo chế
độ công tượng và biệt nạp.
Cơ sở quan trọng của chế độ công tượng là vấn đề nhân công. Lực lượng lao
động chủ yếu trong các công xưởng là thợ thủ công và binh phu. Trong đó sức khỏe
và kỹ thuật được đặt lên hàng đầu. Nhà nước quy định số lượng tượng cục và số
người cụ thể trong đó ở các địa phương. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), nhà nước
định ngạch số thợ trong tượng cục từ Quảng Nam đến Bình Thuận. Theo đó, Quảng
Nam là 2.051 người, “lấy số ngạch năm nay làm chuẩn nếu số thợ ít không đủ làm
việc thì tỉnh thần tâu xin để mộ thêm” [80, tr. 16]. Để đảm bảo thường xuyên có số
thợ trong ngạch, triều đình quy định: “Trong các ngạch thợ, nếu có thợ khuyết thì
nhân đinh địa phương đó phải bổ sung điền vào ngay” [80, tr. 17]. Đạo dụ năm
Minh Mạng thứ 6 (1825) quy định cho làng làm đá ở Ngũ Hành Sơn: “Dân thợ
Giáp Đông xã Quán Khái trấn Quảng Nam biết rõ nghề đá, về sau có ai mới về
hoặc đến tuổi theo lệ cũ đăng ký để dự bị bổ sung bổ làm thợ đá, không được tự tiện
vào các nha môn. Định làm lệ mãi mãi” [67, t. 9, tr. 402]. Hình thức trưng tuyển thợ
của triều đình cũng phong phú, trong đó có cả việc triều đình thuê mướn nhân công
“với tính nghĩa vụ và cưỡng bức rất cao” [80, tr. 19]. Ngày 21 tháng 01 năm Thiệu
Trị thứ 7: “Bộ Công tâu xin bắt thêm 60 thợ đá ở xã Quán Khái (Quảng Nam) về
kinh làm việc vì số thợ đá Thanh Hóa hiện đang còn quá ít” [80, tr. 20]. Đôi khi nhà
nước còn giao cả nguyên liệu thuê thợ ở các làng làm trả công theo sản phẩm. Thợ
dệt Quảng Nam được triều đình thuê lãnh tơ sống dệt các loại vải, lụa, trừu...
48
Các lò nung gạch ngói được triều đình xây dựng nhằm đáp ứng công cuộc
xây dựng kinh thành, dinh thự, lăng tẩm, công sở, thành quách. Triều đình trưng tập
số lượng lớn thợ nung gạch ngói khắp nơi nhằm đảm bảo nhân công. Trong 3 tháng
đầu năm 1805, “nhà nước bắt các dinh trấn từ Quảng Bình đến Quảng Nam đem
dân thợ đến làm ở 50 lò” [80, tr. 67].
Thợ tập trung ở các công xưởng của triều đình gồm nhiều loại, được phân bổ
trong 57 cục thợ thuộc Ty chế tạo Vũ Khố, 13 cục thợ thuộc Ty Tiết Thận, 7 cục
thợ thuộc Doanh Thiện Ty tại kinh đô. Sự tham gia của thợ thủ công Quảng Nam –
Đà Nẵng tại các tượng cục vào năm Minh Mạng thứ hai (1822) được Nội các triều
Nguyễn ghi lại:
Các Tượng cục công xưởng chế tạo Ty Vũ Khố:
TT Cục thợ Tổng số
thợ
Số thợ
từng phiên
Thời gian
mỗi phiên Quê quán thợ
1 Đúc 148 50 6-12 tháng
Thừa Thiên,
Quảng Nam,
Quảng Ngãi,
Bình Định,
Bắc Ninh
2 Sơn 129 64 6-12 tháng
Thừa Thiên,
Quảng Nam,
Quảng Bình,
Hà Nội,
Hải Dương,
Nam Định
3 Thuộc da 34 Theo nhu cầu Thừa Thiên,
Quảng Nam
4 Đá 102 34 6 tháng Quảng Nam
5 Bạc 59 Quảng Nam,
Quảng Ngãi
6 Lợp nhà 40 Quảng Nam
7 Nung ngói 217 Quảng Nam
8 Xây gạch 43 Quảng Nam
Nguồn: [67, t. 15, tr. 58, 59].
Các Tượng cục công xưởng Tiết Thận Ty:
TT Cục thợ Tổng số
thợ
Số thợ
từng phiên
Thời gian
mỗi phiên Quê quán thợ
1 Thợ thêu 67 22 6-12 tháng
Quảng Nam,
Thừa Thiên,
Hà Nội,
Hưng Yên
Nguồn: [67, t. 15, tr. 159, 160].
49
Các Tượng cục công xưởng Doanh Thiện Ty:
TT Cục thợ Tổng số
thợ
Số thợ
từng phiên
Thời gian
mỗi phiên Quê quán thợ
1 Thợ mộc 778 22
6 tháng;
4 tháng với
thợ Hà Tĩnh
Thừa Thiên,
Quảng Nam,
Quảng Ngãi,
Bình Định
2 Đóng đinh
thuyền 507 169
6 tháng Quảng Nam
3 Chữa
thuyền 90 30
6 tháng Quảng Nam
Nguồn: [67, t. 15, tr. 159, 160].
Qua các bảng trên, ta thấy số thợ tại Quảng Nam tham gia tại các tượng cục
của triều đình với số lượng khá nhiều, các nghề phong phú. Điều này chứng tỏ thợ
giỏi ở Quảng Nam – Đà Nẵng nhiều, các nghề thủ công trong dân gian phát triển
phong phú.
Tóm lại, các xưởng của triều đình tại Quảng Nam – Đà Nẵng không nhiều,
tập trung ở một vài nghề, một vài sản phẩm, đóng góp của các xưởng nhà nước tại
Quảng Nam – Đà Nẵng không lớn. Chế độ công tượng, biệt nạp chủ yếu là hình
thức trưng dụng nguồn nhân công, các sản phẩm thủ công làm cho những người thợ
giỏi bị trói chân, đời sống của người thợ bị ảnh hưởng, sự phát triển của thủ công
nghiệp dân gian bị ảnh hưởng.
2.3. THỦ CÔNG NGHIỆP DÂN GIAN
2.3.1. Các nghề thủ công tiêu biểu
Theo Đại Nam nhất thống chí phần Thổ sản thì Quảng Nam – Đà Nẵng có
các sản phẩm thủ công tiêu biểu:
Sản phẩm Địa phương (huyện) Ghi chú
Đũi Diên Phước, Duy Xuyên,
Đông An
Lụa đũi của Đông An
châu dệt tốt nhất
Lụa
Thăng Bình (huyện Diên
Phước), Mã Châu (huyện
Duy Xuyên)
Lụa ở Thăng Bình thì
chất dày, lụa Mã Châu
thì chất mỏng
Sa (sa mỏng Nam Hoa và
sa dày hoa)
Diên Phước Dệt khéo không kém gì
Quảng Đông
50
Nhiễu Diên Phước và Hà Đông
Lãnh thâm Đông Minh (huyện Diên
Phước)
Vải Các huyện đều có
Đường cát (có hạng đường
phèn, đường hoa mơ,
đường đen, mật thô)
Diên Phước Có hộ chuyên nghiệp
Bánh đậu xanh Phố Hội An ngon nhất
Muối Hòa Vang, Lễ Dương
Đồ gốm Thanh Hà (huyện Diên
Phước)
Có hộ chuyên nghiệp
Quế Quế Sơn, Hà Đông
Đá cẩm Thạch Diên Phước
Đá Nam Châm Quế Sơn
Đá La Vân Duy Xuyên, Quế Sơn Dùng làm bia đá, cối
xay bột, cối giã
Đá xanh Hòa Vang Làm ghế ngồi hoặc đá
lát
Nung vôi từ vỏ sò Hòa Vang Dùng để xây, công dụng
ngang vôi đá
Nguồn: [63, tr. 395, 396]
Theo công trình Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng, vào thế kỷ XIX,
vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng có khoảng 100 nghề thủ công và có thể chia thành
khoảng 10 nhóm ngành nghề. Trong đó các nghề cơ bản như sau:
1. Nghề làm dầu rái 2. Nghề đan dụng cụ bằng tre 3. Nghề đan dụng cụ bằng lưới
4. Nghề đan dụng cụ bằng mây 5. Nghề đan dụng cụ bằng dây 6. Nghề đan dụng cụ bằng sợi
7. Nghề đóng thuyền 8. Nghề làm ghe 9. Nghề nung vôi
10. Nghề làm nem, chả 11. Nghề ép chuối 12. Nghề làm mắm
13. Nghề nấu rượu 14. Nghề làm các loại bánh 15. Nghề làm bánh tráng
16. Nghề làm mỳ Quảng 17. Nghề làm bún tươi 18. Nghề làm cao lầu
51
19. Nghề chế biến chè 20. Nghề chế biến chè 21. Nghề làm đường
22. Nghề làm nón lá 23. Nghề dệt vải 24. Nghề dệt chiếu
25. Nghề làm gốm 26. Nghề mộc 27. Nghề làm pháo
28. Nghề làm đá mỹ nghệ 29. Nghề đóng cối xay đá 30. Nghề đóng cối xay gỗ
31. Nghề làm trống 32. Nghề đúc đồng 33. Nghề làm lồng đèn
34. Nghề làm hương 35. Nghề rèn 36. Nghề làm guốc mộc
37. Nghề làm yến sào 38. Nghề làm mật ong 39. Nghề làm trầm hương
40. Nghề kẹp quế 41. Nghề nhuộm vải 42. Nghề khảm xà cừ
43. Nghề làm nhôm 44. Nghề làm kính thủy tinh 45. Nghề làm sắt
46. Nghề kim hoàng 47. Nghề làm đăng ten 48. Nghề sơn
49. Nghề thuộc da 50. Nghề làm giấy 51. Nghề thêu
52. Nghề nung vôi
Nguồn: [40, tr.18].
Nghề dệt, may, đan lát
Nghề dệt vải
Vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu
phù hợp với việc trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa, phát triển nghề dệt vải. Từ
thời các chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, việc trồng dâu nuôi tằm đã
phát triển ở vùng đất Duy Xuyên, phủ Điện Bàn và một cô gái hái dâu sau này đã
trở thành Hiếu Chiêu Hoàng Hậu của triều Nguyễn. Trong đó vùng đất Duy Xuyên,
Điện Bàn, Đại Lộc nổi tiếng từ nghìn xưa với những làng dệt Mã Châu, Vân Hà,
Bảo An, Giao Thủy, Thi Lai, Phú Bông, Hà Mật, Đông Bàn, Tư Phú, Bàn Lãnh,
Quảng Đợi, La Qua...
Theo Phủ biên tạp lục, Phường Thái Nghệ ở sau Phú Cam (Huế) có ông tổ xa
đời là người Thăng Hoa, học được nghề dệt của người khách Tàu rồi đời đời truyền
cho con cháu dệt những hàng, thái, đoạn, sa tanh, gấm, trừu thực là tinh xảo. Ở
Dinh Quảng Nam có đội thợ dệt quang lăng (một thứ lụa mỏng có hoa sáng). Hằng
năm họ phải mua các khoản tiền sai dư, lễ thường tân và thuế tết liệu bằng 46 tấm
lụa quang lăng [33, tr.46, 47]. Thợ dệt Quảng Nam có tay nghề cao, có thể dệt ra
nhiều loại vải tơ lụa. Thứ lụa xứ Quảng Nam người ta chỉ chọn mua từ hai phủ
Thăng Hoa và Điện Bàn: “Đũi: Ở hai huyện Diên Phước và Duy Xuyên có hộ
52
chuyên nghiệp, Lụa đũi của Đông An châu dệt tốt nhất. Lụa: ở xã Thăng Bình,
huyện Diên Phước thì chất dày, ở Mã Châu, huyện Duy Xuyên thì chất mỏng. Sa: ở
huyện Diên Phước các thư sa mỏng Nam Hoa và sa dày hoa dệt khéo không kém gì
Quảng Đông. Nhiều: ở hai huyện Diên Phước và Hà Đông. Lãnh thâm: ở xã Đông
Minh, huyện diên Phước. Vải; các huyện đều có” [63, tr. 396].
Vào năm Minh Mạng thứ 20 (1839) thợ dệt Quảng Nam từng được tuyển về
kinh để dạy cho thợ kinh đô nghề dệt cải hoa (vải lụa có hoa), được cấp cho nhiều
lạng bạc nhằm khen thưởng tay nghề và khích lệ sự tận tâm truyền nghề. Khi lớp
thợ chính ngạch ở kinh học thành nghề thì thợ Quảng Nam được trở về địa phương.
Triều đình còn tin tưởng đem tơ sống ở kho kinh đô giao cho thợ lành nghề Quảng
Nam dệt thành trừu, lụa, trả công hậu cho mỗi tấm trừu (dài 18 thước) 1 quan 3 tiền.
Vào năm Tự Đức thứ 18, một số thợ tay nghề cao ở Quảng Nam còn được
rút tên ra khỏi ngạch lính để sung vào đội ngũ nhân công của các hộ dệt vải, lụa, sa,
trừu, hộ dệt sa mỏng nam 50 người, 4 hộ dệt lụa hạng tốt và hạng vừa 114 người, hộ
dệt vải trắng 100 người; 5 thôn Nam An, Đông Phú, Khương Đông, Phú Trường,
Lộc Đông được rút khỏi ngạch lính 50 người để lập hộ dệt sa mỏng trơn; thôn Ngọc
Sa bớt ngạch lính 33 người để lập hộ dệt trừu hoa nam. Tất cả các hộ trưởng được
phong hàm cửu phẩm, các dinh trong hộ được miễn sai dịch [t. 30, tr. 235].
Minh Mạng năm thứ 12 (1831), nhà vua đã đưa cây dâu vào danh mục các
loại cây được khuyến khích trồng trên các đồng đất mới vỡ hoang (lúa, ngô, dâu,
đay). Ai có công khai phá nhiều được nhận làm ruộng tư.
Minh Mạng năm thứ 13 (1832) xuống dụ “Trẫm nghe vua đời cổ đều trọng
việc làm ruộng, trồng dâu... Nay muốn mở rộng việc này, để tỏ ra khuyên bảo làm
ruộng, trồng dâu, các địa phương nên làm việc cày ruộng tịch điền” [67, t. 5, tr.
276]. Cũng trong năm này vua ra lệnh cho các phi tần thực hiện việc nuôi tằm, ươm
tơ ngay trong khuôn viên hoàng cung, đồng thời giao cho bộ Lễ bàn kỹ việc khuyên
bảo nhân dân làm ruộng, trồng dâu. Theo chỉ dụ của vua, quan tỉnh Quảng Nam
cũng phải lập nhà nuôi tằm ngay trong sảnh đường của tỉnh, sắm sửa thiết bị nghề
tằm tơ, chọn đất trồng dâu, thuê người sung làm “tàm phụ”, “tàm mẫu”. Hằng năm,
vào tháng giêng đầu xuân, chọn ngày tốt đặt lại bài vị thần “tiên tàm”, đồ tế, vật tế
giữa nhà nuôi tằm, quan tỉnh cử người đến làm lễ. Sau đó những người phụ trách
tiếp tục công việc chăn tằm, ươm tơ [67, t. 5, tr. 279, 280].
53
Thi hành dụ của vua, một năm sau (Minh Mạng thứ 14, 1833), quan tỉnh Quảng
Nam là Đỗ Khắc Thư đã dâng vua 100 cân tơ sống, là thành phẩm do chính cơ sở tằm
tơ trong sảnh đường của tỉnh sản xuất. Vua khen thành tích cao của tỉnh Quảng Nam
đạt được, thưởng cho Đỗ Khắc Thư và ghi nhận công trạng: “Lệnh cho các địa phương
làm lễ chăn tằm là muốn khiến các quan đầu tỉnh phải thân hành làm việc để hướng
dẫn nhân dân chăm lo việc căn bản... Quảng Nam thu được tơ nhiều như thế, thật là
quan tỉnh gia tâm khuyến khích bọn người thừa hành công việc” [110, tr. 128].
Tự Đức năm 17, lệnh cho 6 tỉnh có đất đai thích hợp với việc trồng dâu nuôi
tằm trong đó có Quảng Nam, hằng năm chiếu theo số tơ theo lệ phải nộp đổi nộp
bằng thứ lụa tốt dâng cúng làm lụa thờ [110, tr. 94, 95].
Xe tơ dệt vải đã trở thành nét duyên của phụ nữ xứ Quảng. Hầu hết, nhà nào
cũng có khung cửi. Vì vậy, dệt vải phát triển theo hộ gia đình. Những làng dệt vải
nổi tiếng thì nhiều hộ trong làng tham gia nghề thủ công này chứ chưa có sự tập hợp
phát triển theo kiểu xưởng hay nhà máy.
Triều đình đặt mua từ Quảng Nam, các loại vải lụa dệt từ sợi dệt bông và từ
tằm: Mặt hàng tơ sống: Minh Mạng thứ 3, đặt mua tơ sống Quảng Nam với giá một
cân 6 quan. Năm Minh Mạng thứ 14 lại mua tơ sống Quảng Nam: tơ hạng nhất giá
6 quan 6 tiền, tơ hạng nhì giá 6 quan hai tiền. Năm thứ 16 tăng giá mua, tơ hạng
nhất 7 quan, tơ hạng nhì giá 6,5 quan một cân. Mặt hàng lụa sống: Minh Mạng năm
thứ 14, thu mua lụa sống Quảng Nam với giá 7 quan 3 tiền mỗi tấm. Năm thứ 17
đặt mua lụa sống theo kích thước mỗi tấm dài 9 thước, rộng 8 tấc, giá 3,5 quan một
tấm. Tự Đức năm thứ 4 (1851) cũng đặt mua lụa sống từ Quảng Nam. Mặt hàng the
dày và the lương nam hoa: Minh Mạng năm thứ 14 đặt mua hai loại hàng trên đều
với giá 4 quan một tấm (the nam là the dệt theo hoa văn của xứ ta, phân biệt với hoa
văn kiểu Trung Quốc). Mặt hàng sa bóng nam trơn: các thời Minh Mạng, Thiệu trị
đều có đặt mua với giá mỗi thước 9 tiền. Mặt hàng trừu nam: có nhiều loại hoa văn
(trừu nam hoa to màu tuyết bạch, trừu nam hoa sen, trừu nam 4 kiểu hoa), giá mỗi
thước đều 5 tiền, 24 đồng. Mặt hàng sa nam giá mỗi thước 2 tiền 17 đồng. Mặt hàng
vải trắng đời Thiệu Trị mua với giá 3 quan hai tiền một tấm. Nghề dệt vải tạo ra sản
phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngay trong chính từng hộ gia đình, trong làng, trong
vùng. Không những vậy, với chất lượng tốt, nổi tiếng, vải Quảng Nam – Đà Nẵng
có mặt trên thị trường cả nước và xuất sang nhiều nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
54
Quốc, Campuchia, Pháp... Gia Long năm thứ 18 (1819) hai tàu buôn Pháp là Rose
và Henri mang hàng hóa sang bán tại cửa biển Đà Nẵng đồng thời mua một số lớn
chè và lụa mang về.
Nghề dệt chiếu
Nhiều vùng ở Quảng Nam – Đà Nẵng có diện tích đất ngập mặn phù hợp với
trồng cây cói (cây lác), nguyên liệu của nghề dệt chiếu. Chưa có tài liệu nào nói rõ
nghề dệt chiếu ở Quảng Nam – Đà Nẵng ra đời tự bao giờ, ai là tổ nghề, chỉ biết
rằng nghề dệt chiếu được truyền vào từ Thanh Hóa theo chân các vị tiền nhân từ
những ngày đầu khai khẩn, lập làng.
Theo Phủ biên tạp lục thì xã Hoa Sơn, huyện Tân Phước (tên một huyện thời
Lê - Trịnh ở phủ Điện Bàn) là nơi có nghề dệt chiếu tốt nhất (nay là thôn Cẩm Nê
thuộc huyện Hoà Vang). Hộ làm chiếu phải nộp chiếu thay cho thuế thân và khỏi
binh dịch. Hằng năm, trước Tết Nguyên Đán, Quảng Nam phải thu nộp 35 đôi chiếu
mềm, 4 đôi chiếu mềm nhỏ, 8 đôi chiếu cù du (thảm lông), 1 đôi chiếu sạp dài, 4 đôi
chiếu sạp ngắn, 1 đôi chiếu bạch liên bài trí tại Văn Miếu, 1 đôi chiếu cù du cạp lụa
huyền, tổng cộng 50 đôi. Lại nộp 75 đôi chiếu trắng cho công đường các phủ cùng
các chùa miếu tại địa phương. Ngoài ra, còn có chiếu hoa, lệ định chiều dài phải 5
thước 4 tấc, chiều ngang 4 thước.
Thời Nguyễn, ở Quảng Nam – Đà Nẵng có nhiều làng nghề chuyên dệt chiếu
nổi tiếng như: Cẩm Nê, Bàn Thạch, Triêm Tây, Hội Sơn, Thạch Tân...
Theo giai thoại làng Cẩm Nê, nhân chuyến kinh lý của vua Bảo Đại qua vùng
Hòa Vang, một người thợ của làng Cẩm Nê đã dệt chiếc chiếu có hình chữ Thọ để
trải đường vua qua. Cảm kích trước tài hoa của người thợ, vua đã phong cho chức
Thủ gọi là Thủ Lọ và phong tặng ấn phẩm cho chiếu của ông. Từ đó chiếu Cẩm Nê
nổi tiếng và mang theo màu ngũ sắc của mình đi khắp các tỉnh miền Trung. Thời
Nguyễn, chợ Bàn Thạch còn phồn thịnh còn gọi là “chợ chiếu”. Đầu thế kỷ XIX,
nghề dệt chiếu Thạch Tân ở vào giai đoạn phát triển. Cả làng, hầu như nhà nào cũng
dệt chiếu. Cùng thời, làng chiếu Triêm Tây “trăm nhà trăm làm”. Giữa thế kỷ XIX,
làng chiếu Hội Sơn cũng đã ra đời.
Nghề may
Nghề may sớm ra đời đáp ứng nhu cầu về trang phục và các vật dụng khác
dùng trong sinh hoạt. Tại vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng, nghề thủ công này ra đời
55
rất sớm và khá nổi tiếng, không chỉ đáp ứng nhu cầu của địa phương mà còn trở
thành hàng hóa xuất sang nước ngoài qua cảng thị Hội An. Thời Nguyễn, nghề may
tại Quảng Nam – Đà Nẵng tiếp tục phát triển.
Để may được trang phục hay các vật dụng như bao gối, màn che, rèm cửa...
nghề may sử dụng nguyên liệu là các loại vải và chỉ. Tùy theo độ tuổi, điều kiện
kinh tế, mục đích sử dụng, thời tiết... mà chọn các loại vải tương ứng như lụa tơ
tằm, thao, lượt, sa, xuyến, nhiễu, đũi, sồi, đoạn, văn, lãnh, gấm... Chỉ may thường
được xe từ xơ lá cây dứa, hay xe sợi từ cây bông. Vải và chỉ được nhuộm để tạo ra
các màu sắc cho phù hợp với mục đích may. Ngoài ra, nghề may cần dùng đến các
loại khuy, cúc, khoen...
Trước đây chưa có máy may như bây giờ, người thợ khi may vá chỉ sử dụng
cây kim may, tùy loại sản phẩm mà sử dụng các loại kim với kích cỡ phù hợp.
Thước (gồm thước dây và thước cây) để đo khổ vải, kéo để cắt vải, phấn màu để kẻ
đường vạch và vẽ hình để cắt khổ vải, tạo hình dạng. Để may được những sản phẩm
phải trải qua các công đoạn: chọn vải, đo, cắt, ráp, lượt, luôn, bấm, đơm khuy. Mỗi
công đoạn có những đặc thù riêng, độ khó cũng tăng dần. Vì vậy, tùy theo trình độ
mà người thợ đảm nhận công việc tương ứng. Công việc may được thực hiện bằng
kim tay nhưng đường kim mũi chỉ rất đều đặn và chính xác. Thời xưa, việc may vá
là một trong những “tứ đức” của người phụ nữ. Những người thợ tạo được thương
hiệu nhờ vào sản phẩm có độ bền, đường chỉ giữ được lâu ngày không bị tuột mí,
kiểu dáng đẹp, cân đối.
Ở các làng quê, việc may được thực hiện cá thể bởi những người thợ khéo
tay (thường là nữ) nhận may quần, áo, chăn, màn... và sử dụng vật dụng cũ đáp ứng
nhu cầu tại địa phương cũng như những vùng lân cận. Thường thì những người thợ
này bày nghề cho một số người học việc, cũng có khi là cô con gái trong nhà, người
học việc cũng chính là người phụ việc cho thợ chính. Tại các chợ, các thị trấn, đô
thị, người thợ may nhất là những người có tay nghề khéo có điều kiện mở ra tiệm
may, cửa hiệu lớn hơn với nhiều người thợ tham gia để nhận may theo yêu cầu đặt
hàng. Dần dần, tích cóp được vốn, nắm bắt được yêu cầu thị trường, nơi hàng tiệm
có điều kiện giao lưu buôn bán, họ may sẵn những bộ quần áo, mũ vải, bọc tay, bọc
gốm, ra, chăn, nệm... để sẵn và bán cho những người khách qua lại cũng như xuất
khẩu. Phố cổ Hội An, phố cảng Đà Nẵng trong buổi thịnh thời tiếp xúc với các nhà
ngoại thương đến trao đổi buôn bán trong đó các sản phẩm may mặc. Tại các tiệm
56
may lớn này, có sự phân công, sản phẩm may mặc được thực hiện chuyên biệt, theo
công đoạn, những người thợ chuyên cắt vải, có người chuyên may, có người chuyên
làm khuy nút...
Người thợ may bên cạnh đáp ứng được nhu cầu may mặc của người trong làng,
trong vùng, cũng đã có được nguồn thu để trang trải cuộc sống của gia đình. Một số
người chỉ tranh thủ làm thêm, tận dụng được thời gian nhàn rỗi, nhưng đa số chọn nghề
này làm kế sinh nhai nên đã giải quyết được nhu cầu việc làm cho một số người. Nghề
thủ công này cũng đã tiêu thụ số lượng lớn vải vóc, góp phần thúc đẩy nghề ươm tơ,
dệt lụa phát triển, góp phần cho sự phát triển của hoạt động mua bán trong các phiên
chợ làng, liên làng và chợ vùng cũng như giao thương buôn bán với nước ngoài.
Nghề đan lát
Quảng Nam - Đà Nẵng có đầy đủ các dạng địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, nên
hệ thực vật cũng đa dạng, có rất nhiều các loại cây, dây, lá như: tre, nứa, lồ ô, mây,
bông, đay, lá dừa, lá dứa, lá nón, đoác, ngô đồng... nên nghề đan lát sớm ra đời và gắn
chặt với cuộc sống của cư dân nơi đây, hầu như làng nào cũng có, bởi lẽ, không có
gia đình nào lại không cần đến các vật dụng như: rổ, rá, nong, nia, dần, sàng, nôi,
võng... Trải qua quá trình hình thành, phát triển, đầu sang thế kỷ XIX, đan lát trở
thành một “nghề”, với đòi hỏi rất cao, điều này được thể hiện qua ca dao xứ Quảng:
“Liệu bề đát đặng thì đan
Đừng gầy rồi bỏ thế gian chê cười”
Sản phẩm được tạo thành từ nhiều nguồn nguyên liệu, với nhiều chức năng:
sử dụng trong sinh hoạt gia đình, phục vụ việc đồng áng, sản xuất, trang trí thẩm
mĩ... Nghề cũng nhanh chóng được truyền dạy cho các thành viên trong gia đình,
xóm giềng, rồi phổ biến rộng khắp. Tại các vùng miền cũng đã tạo ra các sản phẩm
mang tính đặc trưng, phù hợp với nhu cầu của các hộ gia đình cũng như cư dân
trong cộng đồng. Từ chỗ sản xuất để sử dụng, dần dần người ta đem trao đổi, buôn
bán, tạo ra nguồn thu nhập cải thiện cuộc sống.
Nguyên liệu sẵn có ở các làng, sản phẩm làm ra nhằm đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của cư dân địa phương cũng như các vùng lân cận nên nghề đan lát phân bổ đều
khắp, hầu hết các làng ở Quảng Nam - Đà Nẵng đều có nghề thủ công này. Tùy thuộc
vào nguồn nguyên liệu tại chỗ mà các làng đan được những sản phẩm đặc trưng.
57
Các làng nghề đan lát tại Quảng Nam – Đà Nẵng đầu thế kỷ XIX:
TT Địa phương
(làng tiêu biểu)
Nguyên
liệu Sản phẩm nổi tiếng
1 Yến Nê Tre Các sản phẩm phục vụ đồng áng nong,
nia, thúng, mủng, dần, sàng....
2 An Thanh Tre Cót
3 Mỹ Nam Mây Gióng
4 Trung An Tre Lờ thả cá
5 Xuân Thái Tre Nong
6 Bình Phụng Tre Thúng, Mủng
7 Phước Đức Tre Gàu giai
8 Cù Lao Chàm Ngô đồng Võng
9 La Bông Lá nón Nón lá
10 Giảng Hòa Lá nón Nón lá
11 Xuyên Đông Lá nón Nón lá
12 Diên Lộc Lá nón Nón lá
13 Các vùng ven biển Lưới Lưới
Nguồn: [40]
Đan lát chỉ là nghề phụ, được tiến hành lúc nông nhàn rỗi nên việc sản xuất đa
phần mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ, gói gọn trong phạm vi các hộ gia đình, không
được tổ chức thành các đội, nhóm. Do vậy, mặc dầu có sự phân bố đều khắp trong tất cả
các làng xã ở Quảng Nam - Đà Nẵng nhưng lẻ tẻ, chưa được tổ chức với quy mô lớn.
Dần dần, một số làng nghề chuyên tâm về số sản phẩm nhất định đã hình thành và phát
triển, tạo nên thương hiệu. Mặc dù vậy cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ các hộ gia đình,
làng nghề, xóm nghề, chưa thành “hội”, chưa có quy mô và tính tổ chức.
Sản phẩm làm ra chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ, không nhằm mục
đích buôn bán. Tuy nhiên, do gắn chặt với nhu cầu sử dụng trong đời sống cũng như
sinh hoạt của cư dân địa phương và những vùng lân cận nên cũng đã vượt ra khỏi
làng để tìm đến những địa phương khác. Một số gia đình đã cử thành viên vận
chuyển các sản phẩm nhỏ, gọn như rổ, rá, thúng, mủng, lờ, võng… sang các chợ
xung quanh để bán, thậm chí họ còn đi đến các vùng khác nhau Đại Lộc, Điện Bàn,
Duy Xuyên, Tam Kỳ, Quế Sơn, nhưng nhìn chung, do điều kiện đi lại khó khăn nên
việc này cũng hạn chế. Một số người khác đến tận làng để tìm mua các vật dụng
phục vụ sản xuất như bồ đựng lúa, nong, gàu tát nước…
58
Nghề đan lát đã giúp cho các hộ gia đình tận dụng được thời gian nhàn rỗi để
cải thiện thu nhập. Nhưng do quy mô nhỏ lẻ, sản phẩm làm ra không nhiều, nên lợi
nhuận mang lại không cao, tác động đối với kinh tế địa phương không thể hiện rõ.
Mặc dù vậy, nghề này bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu của cư dân địa phương đã
từng bước đưa một số làng ra khỏi tình trạng “thuần nông”, tạo điều kiện cho sự
phát triển thành các làng nghề chuyên nghiệp sau này.
Nghề chế biến nông sản, lương thực, thực phẩm
Nghề nông vẫn là nghề chủ đạo của đa phần cư dân Quảng Nam – Đà Nẵng.
Gắn chặt với nghề nông, đáp ứng nhu cầu của cư dân, nghề chế biến nông sản,
lương thực thực phẩm ra đời và phát triển khá đa dạng với đặc trưng của nhiều địa
phương, nhiều vùng miền.
Nghề làm mỳ Quảng: Mỗi một tỉnh thành có một món ăn đặc trưng mang
đậm hương vị quê nhà, xứ Quảng từ nghìn đời nổi tiếng với mỳ Quảng – món ăn
đặc trưng được đặt chính tên của mảnh đất này trở thành hương vị không thể pha
lẫn. Không ai biết chính xác mỳ Quảng có từ bao giờ, song theo các vị cao niên thì
món ăn này có mặt từ thuở cha ông “mang gươm đi mỡ cõi”, khai phá vùng đất này.
Bởi lẽ món này dễ chế biến, không cầu kỳ, không đòi hỏi nguyên liệu, kỹ thuật,
bất kỳ ai cũng có thể làm được, chỉ cần bột gạo hoặc loại bột gì mịn, nồi nước
sôi là có thể tiến hành. Mỳ Quảng có thể để ướt chấm mắm không cần gia vị,
hoặc có thể ăn với nước nhưng với những loại thực phẩm sẵn có dễ tìm, các loại
rau xung quanh. Điều đặc biệt là rau sống với nhiều loại rau sẵn có trong đó có
bắp chuối, chuối cây, lá ổi, lá lộc vừng, lá sim, lá móc... đảm bảo không bị đau
bụng. Mỳ Quảng cũng có thể để lâu, ăn ngày ba bữa mà không thấy chán, khi ăn
không hết có thể phơi khô để dành.
Nghề làm bún tươi: Quảng Nam – Đà Nẵng vốn nổi tiếng với đặc sản “mỳ
Quảng”. Tại Hội An, người Hoa cũng đã mang đến vùng đất này món “hủ tiếu”, và
không biết hình thành tự bao giờ, bước sang thế kỷ XIX, nơi đây tiếp tục hiện hữu nghề
làm bún tươi. Nghề này cũng đã đã để lại dấu ấn trong bức tranh kinh tế - xã hội của
địa phương.
Để làm nên những sợi bún tươi ngon, người làm bún cần dùng đến những
công cụ: Cối giã bột, bếp lò, nồi nấu nước sôi, rổ đựng, “con vơ” (đũa tre dùng để
đảo sợi bún trong nồi nước nóng cho chín đều và sợi bún không bị gãy). Dụng cụ
59
quan trọng nhất là “khuôn bún” hay còn gọi là “cái bâng”, là một tấm ván dài, có bề
rộng tương đối, được đặt trên bốn chân cao trông như một chiếc ghế dài, đầu trên
tấm ván khoét một lỗ tròn và tại đây đặt một ống tròn, đáy ống được bịt kín và trên
đó người ta đục nhiều lỗ tròn theo kích thước của sợi bún.
Để làm bún, trước hết người ta phải chọn gạo, đây là khâu quan trọng nhất,
quyết định cho sản phẩm bún tươi lâu, vừa dẻo, vừa dai, không bị gãy khúc. Gạo
được đem ngâm nước, vớt ra và vo xát nhiều lần cho sạch những bụi cám, sau đó
ngâm lại một lần nữa trong khoảng thời gian 4-5 giờ, rồi vớt ra rổ thưa, có độ hở
nhỏ, để nước rút xuống. Khi gạo đã ráo hết nước, đem ủ gạo trong khoảng 48 giờ để
gạo lên men.
Gạo đã lên men được đem giã thật nhuyễn thành bột, đổ nước lã vào khuấy đều,
rồi dùng vải mỏng để lọc lại những hạt gạo chưa nát, đem giã tiếp cho bột được đều.
Bột được đem luộc chín, rồi mang ra nhồi bằng cách cho vào cối để giã cho
đến khi bột nổi váng thì cho vào ảng nước hay thau nước lớn để nhồi cho đến khi
nào dùng tay vớt, bột chảy thành những sợi dài mà không đứt đoạn.
Bột đã nhồi xong, đem bỏ vào cái bâng, rồi đẩy thanh đòn ép xuống để tạo
thành sợi bún. Bún được cho vào nồi nước nóng, sơ đều cho chín. Cuối cùng, bún được
vớt ra rổ, cho ngay vào thau lớn, dùng nước lã dội chao bún vài lần để khử vị chua.
Bún được những người trong làng đến mua về để sử dụng, gia đình làm bún
cũng mang đi bán ngoài chợ, cung cấp cho các quán ăn.
Vào thế kỷ XIX, nghề làm bún góp phần giải quyết thêm việc làm và thu
nhập cho cư dân địa phương. Bên cạnh các hộ làm bún, một số người khác đã mở
hàng quán bán bún tươi hay mở quán ăn. Mặc dù số lượng người tham gia không
nhiều nhưng nghề thủ công này cũng đã làm cho bức tranh ngành nghề nơi đây đa
dạng hơn. Bên cạnh đó, nghề làm bún đã góp thêm vào danh mục ẩm thực trên vùng
đất này.
Nghề làm bánh tráng: Bánh tráng (tên gọi địa phương của bánh đa) đã có mặt
từ rất lâu đời và rất đỗi quen thuộc trong đời sống, sinh hoạt của cư dân Quảng Nam -
Đà Nẵng. Trong các lễ cúng bái, đây là vật phẩm không thể thiếu, trong các buổi đám
tiệc, bánh tráng được xem là món khai vị. Nghề làm bánh tráng cũng đã xuất hiện khá
sớm trên đất Quảng Nam – Đà Nẵng, bước sang thế kỷ XIX, nghề thủ công này đã có
mặt hầu khắp các miền quê, nổi tiếng hơn cả là Đại Lộc, Điện Bàn.
60
Tùy theo mục đích sử dụng mà người ta tráng các loại bánh khác nhau: Bánh
dày dùng để nướng cúng, ăn khô, hoặc ăn chung với mì, bún,... thường có rắc thêm
mè được gọi là bánh mè. Loại bánh tráng mỏng để nhúng nước quấn rau, quấn thịt,
quấn cá. Bánh mỏng, nhỏ dùng để gói ram, cuốn mì sợi gọi là “bánh lều”...
Thời nhà Nguyễn, bánh sản xuất ra được bán tại nhà cho bà con ở trong làng
hằng ngày. Bên cạnh đó, người phụ nữ trong gia đình cũng thường gánh bánh đi bán
trong các phiên chợ, cung cấp cho các hàng quán ở chợ, cho các quán ăn ở địa
phương... Nhưng nhìn chung phạm vi trao đổi chủ yếu vẫn là trong làng xã. Những
địa phương có nghề tráng bánh nổi tiếng như Đại Lộc, Điện Bàn, nhất là làng Phú
Chiêm (Xã Điện Phương) thì bánh tráng được bán ở khắp các vùng, đặc biệt là
những nơi phát triển món Mỳ Quảng và Cao Lầu.
Việc tráng bánh thường do người phụ nữ đảm nhận, họ tranh thủ lúc nông
nhàn để tăng thêm nhu nhập cho gia đình. Bên cạnh đó, trong làng cũng có những
gia đình làm nghề tráng bánh chuyên nghiệp quanh năm. Họ cung ứng lượng bánh
cần thiết cho nhu cầu sử dụng của địa phương, cung cấp vật phẩm không thể thiếu
cho các hàng quán, quán ăn, về sau đã phát triển thành món ăn nổi tiếng của Đà
Nẵng và xứ Quảng nói chung là “bánh tráng thịt heo”.
Ngoài nghề làm mỳ Quảng, bún tươi, bánh tráng, làm mắm khá nổi tiếng,
nhóm nghề chế biến nông sản, lương thực, thực phẩm còn có: nghề làm đậu hủ,
nghề làm bánh (bánh in, bánh nổ, bánh tổ, bánh đậu xanh, bánh tét, bánh rò, bánh
chưng, bánh ít, bánh khô, bánh da, bánh gừng, bánh ú...), các loại kẹo, bánh khô mè,
bánh trôi nước, bánh xèo, bánh bèo, ốc hút, làm nem, chả, ép chuối khô...
Các loại sản phẩm này có mặt hầu khắp các miền quê, đa số người phụ nữ
khéo tay trong các hộ gia đình đều có thể làm để phục vụ gia đình, trong các dịp lễ,
cúng. Nhiều gia đình hay một vùng nào đấy chuyên tâm một loại sản phẩm, hay chú
tâm buôn bán, dựa vào để cải thiện cuộc sống.
Nghề làm mắm: Quảng Nam – Đà Nẵng có đường bờ biển dài, giàu các loại
thủy hải sản. Hoạt động đánh bắt thủy hải sản đã sớm ra đời gắn chặt với quá tụ cư
trên mảnh đất này. Ban đầu, cư dân ven miền sông biển dựa vào nguồn cá, tôm, các
loại hải sản để cải thiện bữa ăn. Từ chỗ khai thác để cải thiện bữa ăn, cải thiện cuộc
sống, dần dần những làng xã quanh miền sông biển như Nại Hiên, Mỹ Khê, Bình
Minh đã dựa vào việc khai thác hải sản làm nghề nghiệp và kế sinh nhai.
61
Thời Nguyễn, trong số các làng, hộ gia đình làm nước mắm, nổi tiếng ngon
nhất là làng làm nước mắm Nam Ô. Cùng với làng nước mắm Nam Ô là nghề muối
mắm cái, mắm ruốc của làng chài Tân Thái (nay thuộc phường Mân Thái, quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng). Mắm của làng chài Tân Thái có chất lượng thơm, ngon.
Bên cạnh đó là làm mắm ở vùng biển Bình Minh (huyện Thăng Bình).
Mắm bao gồm các loại: mắm nước, mắm cái (còn gọi là mắm nêm), mắm
thính, mắm lò kho, mắm dành. Mỗi một địa phương có bí quyết riêng, tạo nên
những sản phẩm với chất lượng tạo nên thương hiệu: làng mắm Nam Ô nổi tiếng
về nước mắm, làng Tân Thái nổi tiếng về mắm cái, mắm ruốc, vùng biển Bình
Minh nổi tiếng mắm cái...
Khác với các nghề thủ công khác, nghề làm mắm đòi hỏi phải có sự đầu tư
về vốn để mua cá, muối, các vật dụng cần thiết, thời gian để cho ra sản phẩm từ 6
tháng đến một năm nên thời gian xoay vòng vốn lâu, nên chỉ có những gia đình
tương đối khá giả mới có điều kiện đầu tư sản xuất. Nhưng việc sản xuất chỉ diễn ra
trong phạm vi gia đình, người đàn ông lớn tuổi có kinh nghiệm thường nắm giữ bí
quyết của nghề là chủ công, con cháu trong gia đình phụ trợ. Những người ngoài
không tham gia, nếu có thì là cung cấp nguyên liệu, hay đem sản phẩm đi bán. Vì
vậy, việc tổ chức sản xuất chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình, quy mô cũng dừng lại
ở chừng mực nhất định. Một điều đáng lưu ý là mỗi gia đình nắm giữ bí quyết riêng
nên bị bó hẹp, không tựu trung được những nét tinh tế nhất của nghề. Một số gia
đình không khá giả nhưng vẫn làm mắm nhưng quy mô nhỏ, sản lượng không cao,
sức ảnh hưởng không lớn.
Thế kỷ XIX, tại Quảng Nam – Đà Nẵng, mắm được sản xuất đã sớm có mặt
trên hầu khắp các làng xã trong thành phố, các tỉnh thành lân cận. Một số người đã
gánh mắm đi bán ở các chợ làng lân cận, là nơi hội tụ của các thương nhân tìm đến
mua hàng hóa trong đó có mắm để mang đi khắp các vùng trong cả nước.
Nghề thủ công này khởi nguồn từ quá trình chinh phục biển cả, cải tạo cuộc
sống nên đã giúp cho cư dân Việt ổn định trên vùng đất mới, đây cũng là điểm khác
biệt, trong khi các nghề thủ công khác chỉ là nghề phụ bổ trợ cho nghề nông thì
nghề làm mắm đã trở thành kinh tế chủ đạo của các làng ven sông ven biển ở Quảng
Nam – Đà Nẵng ngay từ buổi đầu lập nghiệp.
62
Nghề nấu rượu: Vùng đất Quảng Nam - Đà Nẵng khá nổi tiếng với “Rượu
Hồng Đào chưa nhấm đã say” hay với rượu Xuân Đài... Và len lỏi trong từng làng
quê là những mẻ rượu được chưng cất để cung ứng nhu cầu của người trong làng.
Để chưng cất nên những mẻ rượu thơm ngon người ta dùng lúa xay bằng cối
xay tay, bóc vỏ, lấy hạt gạo lứt, giữ nguyên vỏ lụa để có hàm lượng vitamin B. Gạo
được nấu thành cơm, ủ với men để cho cơm lên men. Ngoài gạo và men, khi nấu
rượu cần dùng đến đường hạ hoặc mật mía. Một số người còn nấu rượu bằng gạo
nếp, củ sắn (củ mì), trái cây...
Dụng cụ nấu rượu gồm một chiếc chảo lớn làm bằng gang, có miệng rộng
chừng một mét. Trên miệng chảo úp một chiếc chảo thủng đáy hoặc khoét lỗ, dùng
rơm và đất sét, hay dùng cơm trộn với cám gạo ướt chằm chặt nơi hai miệng chảo
không cho hơi nước thoát ra ngoài (người nấu rượu gọi đây là “kiềng”). Đặt trên
hai chiếc chảo ấy một thùng gỗ trát kín, chứa nước lã có công dụng làm giảm nhiệt
của phần hứng rượu bên trong gọi là “cái lao”, cái lao làm bằng thiếc pha chì. Khi
rượu ở bể sôi bốc hơi lên, gặp lạnh ngưng tụ và chảy ra theo cái ống vòi (còn gọi
là “ống điếu”) làm bằng ống tre ngọn, chảy vào hủ sành hứng rượu.
Sau khi trộn đều với men, cơm được đựng vào thúng tre, lót lá chuối kín để
giữ ẩm và giữ nước ngả men. Sau khi ủ được vài ba ngày thì dùng đường hạ hoặc
dùng mật mía pha với nước lã theo tỷ lệ một thùng đường – mười thùng nước, một
thùng mật – 5 thùng nước, pha xong cho vào thau hoặc vại, thêm vào một ít men than.
Sau năm đến bảy ngày tùy theo thời tiết mát hay nóng, chum vại rượu ngấm
men hết sủi bọt, cơm rượu lắng xuống đáy, dung dịch nước biến thành màu cam
nhạt, người thợ nếm thử, nước có vị chát là rượu đã lên men đúng độ và được đưa
vào nấu. Trong khi nấu, người thợ dùng cây khuấy (dài khoảng một mét, một đầu
quấn lá chuối khô) để nước nguội và dùng ống nỏ lớn làm bằng tre để thay nước
trước khi quá nóng.
Sau khi nấu xong, nước trong chảo (gọi là hèm) được gạn lọc để dùng chất
xúc tác, gầy lại mẻ rượu khác, phần xác cơm còn lại dùng làm thức ăn nuôi lợn.
Thời nhà Nguyễn, rượu được nấu tại hộ gia đình, việc nấu rượu theo kiểu
nhỏ lẻ, lấy công làm lời, nấu rượu kết hợp với mục đích “lấy hèm nuôi heo”. Do đó,
hầu như không có “xưởng” rượu nào lớn ở Quảng Nam – Đà Nẵng. Nghề nấu rượu
ở Quảng Nam – Đà Nẵng chỉ có làng Xuân Đài (Điện Bàn) hay còn gọi là Tiệm
Rượu nổi tiếng cả làng nấu rượu, rượu được bán theo từng hàng, từng tiệm.
63
Tùy theo cách thức pha chế, kinh nghiệm của người nấu, nguyên liệu tạo thành,
nồng độ, chất lượng của rượu mà sản phẩm được chia thành các loại như: rượu gạo (tên
thường gọi ở Quảng Nam – Đà Nẵng), rượu nếp, rượu sắn, rượu nhất, rượu nhì...
Thời kỳ này, gạo và các loại củ quả chỉ đủ dùng làm lương thực nên không có
nhiều nguyên liệu để nấu rượu. Bên cạnh đó, đời sống của cư dân phần đa là lao động
vất vả, đời sống còn nhiều khó khăn nên không phải lúc nào cũng sẵn tiền mua rượu
uống. Rượu chỉ được dùng trong các dịp giỗ kỵ, đình đám... nên chủ yếu được tiêu
thụ ngay trong làng, các làng lân cận. Người nấu rượu bán tại nhà, một số người già
thường mở quán nhỏ dưới bóng cây đầu làng để bán cho khách qua lại bát nước chè,
chén rượu... Một số hàng quán trong các chợ cũng mua sẵn một ít rượu để bán dần.
Duy chỉ có trường hợp làng rượu Xuân Đài với những tiệm rượu lớn. Do đã có
thương hiệu, rượu của làng Xuân Đài được đặt mua từ Huế, Đà Nẵng, Quãng Ngãi,
Bình Định. Một số người trong làng còn chuyên nghề quang gánh rượu đi khắp nơi
đến tận Chợ Hàn, Hội An, Vĩnh Điện, Quảng Huế để bán và rất được ưa chuộng.
Bên cạnh đáp ứng nhu cầu của cư dân địa phương, nghề nấu rượu đã giúp cho
các hộ gia đình tận dụng được thời gian nhàn rỗi, có thêm thu nhập để cải thiện đời
sống. Người nấu rượu ở Quảng Nam - Đà Nẵng còn nhằm mục đích “lấy hèm nuôi
heo” nên có sự kết hợp với chăn nuôi, tạo nên phương thức làm ăn hiệu quả, kinh tế
khá giả hơn.
Nghề ép dầu phụng: Nghề ép dầu phụng có mặt hầu khắp các địa phương ở
Quảng Nam – Đà Nẵng nhất là những vùng có đất cát thịt hợp với trồng cây này.
Bước sang thế kỷ XIX, cứ đôi ba làng ở Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Thăng
Bình, Quế Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước... lại có một địa điểm ép dầu phụng.
Để ép dầu, chủ lò ép dầu làm một cái bộng dầu (khoét bụng một cây to,
đường kính chừng non một mét), sắm khuôn, chảo, vại, thùng ván, chày gỗ săng…
Khuôn dầu là dụng cụ quan trọng nhất, khuôn có hình bánh xe cút kít, lót rơm làm
vỏ bọc, các khuôn đặt đan xen nhau trong bộng.
Để ép dầu, phải trải qua các công đoạn: Đậu phộng đã được phơi khô, sau khi
bỏ vỏ, đậu được rang sơ qua cho dầu chảy ra, rồi bỏ vào cối giã cho nát, bỏ vào bao
bố hay bao đay, tre có lót rơm để sắp vào bộng. Một đầu bộng thì bịt kín, một đầu để
trống. Đậu bỏ hết vào, bộng được đậy bằng một miếng cây tròn như cái đĩa, lấy nọng
chêm dài theo rạch rỗng của bộng cho tới miệng. Lấy vồ hay búa để chêm, chêm
64
càng nhiều chừng nào, dầu sẽ chảy ra nhiều chừng ấy. Có thể hấp xác đậu mà ép lần
thứ hai để lấy thêm dầu. Dầu ép xong cần phải lọc và khử chua, khử mùi cho đỡ hôi.
Lọc dầu phụng phải đun nóng dầu rồi dùng vải dày, giấy hay nỉ mà lọc. Muốn khử
hết mùi hôi của dầu thì cho một nửa phần nước sôi vào dầu, tiếp tục đun dầu với nước
cho sôi. Lấy gậy khuấy luôn tay để dầu được quyện với nước. Màu xanh cũng như
mùi hôi của dầu sang nước hết. Sau đó, bỏ ra ngoài lửa, để yên, dầu nhẹ sẽ nổi lên
trên còn nước ở phía dưới. Đem gạn nước, rồi đun sôi cho nước còn sót lại bốc hơi.
Dầu phụng có màu vàng trong, béo nhưng vị béo thanh, dễ chịu. Ngoài dầu,
vỏ và các phụ phẩm được ép thành những tấm bánh dầu đem bón phân cho cây
trồng, làm thức ăn cho lợn, cho cá. Dầu phụng được các gia đình ép để sử dụng
quanh năm, năm nào ép được nhiều thì bán bớt lại cho những người trong làng, hay
đem ra chợ bán lấy tiền mua thêm thực phẩm. Một số người đi buôn đến mùa thì đi
thu mua đậu để ép dầu bán lấy lời. Họ cũng tìm đến tận các bộng dầu chờ mua.
Thế kỷ XIX, ở Quảng Nam - Đà Nẵng, một số gia đình có điều kiện, họ sắm
bộng dầu để đến mùa ép cho bà con, thu nhập từ việc ép dầu cũng kha khá. Sau khi
đã trừ chi phí, số tiền thu được, họ trang trải thêm chi tiêu cho gia đình, và tiện tặn
chút đỉnh làm của để dành. Còn đối với các hộ trồng đậu thì có được số dầu phụng
để dùng cho bữa ăn hàng ngày. Số dư thì mang bán phụ thêm chi tiêu trong gia
đình. Bên cạnh đó các phụ phẩm như thân cây đậu, bã đậu đã thành bánh dầu lại
dùng cho trồng trọt và chăn nuôi.
Nghề làm đường
Nghề làm đường đã ra đời và phát triển ở các huyện Điện Bàn, Duy Xuyên,
Thăng Bình, Quế Sơn. Với nghề trồng mía, làm đường, đã làm cho làng Bảo An
(huyện Điện Bàn) và các làng phụ cận trở nên trù phú. Bến sông bên bờ sông Thu
Bồn gọi là Bến Đường còn được lưu danh đến ngày nay. Bến Đường từng là nơi
xuất phát những chuyến ghe chở đường đi phân phối khắp nơi. Đặc sản đường Bảo
An đã đi vào ca dao, tục ngữ:
“Nông Sơn than đá thiếu chi
Bảo An đường tốt, Trà My quế nhiều”.
Thợ nấu đường Quảng Nam được xem là có tay nghề cao. Minh Mạng năm
thứ 6 có 5 người nấu đường ở Quảng Nam được chọn đưa về kinh làm việc, mỗi
người được cấp lương tháng hai quan tiền, một phương gạo, đến năm Minh Mạng
65
thứ chín lại tiếp tục được triệu tập. Tự Đức năm thứ 18 lập thêm một hộ làm
đường cát tại Quảng Nam (50 người), mỗi người một năm đóng thuế 40 cân
đường, Hộ trưởng được phong hàm cửu phẩm, các hộ viên được miễn sai dịch
[110, tr. 127].
Quá trình sản xuất ra đường đã tạo nên quy trình, nghề làm đường thủ công
truyền thống ra đời và phát triển tạo sản xuất đường chuyên biệt theo từng hộ gia đình,
hoặc nhóm hộ trong xóm, làng. Trong sản xuất ra đường có sự phân chia nhau, được
chuyên môn hoá, có hộ chuyên trồng mía, hộ chuyên ép mía nấu nước mía thành các
loại đường: đường bát, đường muổng, đường xòa, đường hạ, đường non, đường cát.
Đường ở Quảng Nam – Đà Nẵng nhiều và tốt nên được sử dụng rộng rãi.
Đến mùa, các lái buôn đến các chòi mía thu mua đường và mang đi phân phối khắp
các tỉnh thành. Không những vậy, đường là loại hàng hóa được các thương nhân
nước ngoài rất ưa chuộng.
Thời Nguyễn, vua Minh Mạng cho đào sông Câu Nhí nối dài từ sông Thu Bồn
ra Đà Nẵng, vừa có tính chiến hào quân sự, vừa có tính thương mại, cụ thể là buôn
đường, quế sang các nước vùng Đông Nam Á. “Năm 1838, tỉnh Quảng Nam tâu đã
chuyển số lượng đường cát sau đây cho các thuyền mang ra ngoại quốc bán (có cả
đường thu mua của Quảng Ngãi): Thuyền An Dương: 100.000 cân, thuyền Thụy Long;
396.000 cân, thuyền Phấn Bằng: 350.000 cân, thuyền Tiên Ly: 220.000 cân, thuyền
Linh Phụng; 249.000 cân” [13, tr. 99].
Nghề xay xát gạo: Từ hạt lúa chế biến thành hạt gạo phải qua một quá trình
xay xát. Nghề xay xát gạo đã ra đời xuất phát từ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
Ban đầu, việc xay xát gạo được thực hiện ngay tại chính các hộ gia đình
thông qua việc cho lúa vào cối và giã. Việc làm này tốn nhiều công sức, thời gian,
hạt gạo không đều, bị gãy vụn, không thật sạch dẫn đến hạt cơm không ngon.
Các hộ gia đình khá giả đã đầu tư máy gạo để đảm nhận công việc xay xát
gạo. Máy gạo lúc bấy giờ chỉ là máy cơ thủ công còn thô sơ. Đây là loại máy thùng
gỗ, có tua quay, khi cho lúa vào hệ thống tua quay sẽ nghiền, quay làm bung lớp trấu
của hạt lúa và thổi bay ra ngoài qua khe rộng, hạt gạo đưa ra một khe khác hẹp hơn.
Do hạt gạo là lương thực chính nuôi sống con người nên nghề xay xát gạo
đóng vai trò rất quan trọng và hầu như không hết việc làm. Nghề thủ công này cung
ứng nguồn gạo cho cuộc sống hằng ngày, bên cạnh đó, một số người đứng ra thu
66
mua lúa, xay xát thành gạo và mang gạo bán thu lời. Hoạt động này đã thúc đẩy
nghề nông phát triển.
Máy xay xát gạo còn tạo ra cám (lớp vỏ lụa của gạo bên trong lớp vỏ trấu),
đây nguồn thức ăn dùng trong chăn nuôi, nhất là nuôi lợn.
Nghề chế tạo công cụ lao động, phương tiện sinh hoạt
Nghề mộc
Xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, sinh hoạt và lao động sản xuất, nghề mộc có
mặt hầu kháp các địa phương Quảng Nam – Đà Nẵng, từ nông thôn đến thành thị,
từ miền ngược đến miền xuôi. Người thợ mộc ở Quảng Nam – Đà Nẵng có tay nghề
rất tinh xảo, nhiều người giỏi, đặc biệt là nghề mộc ở Kim Bồng (trước đây thuộc
huyện Diên Phước, nay thuộc thành phố Hội An). Các thợ mộc Quảng Nam thường
được gọi về kinh đô để phục dịch, nhất là trong thời kỳ xây dựng kinh thành Huế
đời Gia Long hoặc xây dựng, trùng tu lăng miếu, cung điện các vua đời sau, cùng
phủ đệ của các vương công, quận chúa thuộc hoàng tộc Nguyễn, “Thiệu Trị năm
thứ 3 (1843) lập Cục Thợ mộc thuộc Công sở kho gỗ ở kinh đô, định ngạch 471 thợ
mộc đều lấy người của tỉnh Quảng Nam” [67, t. l5, tr. 161].
Hoạt động sản xuất của nghề mộc chủ yếu với hai hình thức: cá thể, hộ gia
đình hay các làng nghề. Một số người thợ thạo nghề nhận làm việc tại các gia đình
khác theo yêu cầu như dựng nhà cửa, làm các vật dụng, công cụ sản xuất, hoặc làm
việc tại nhà mình, tạo ra sản phẩm bán cho những người có nhu cầu.
Bên cạnh đó, một số người thợ giỏi cùng làm chung thành những trại mộc
hay những làng mộc chuyên nghiệp như làng mộc Kim Bồng (Hội An) hay làng
mộc Vân Hà (Tam Kỳ).
Nghề mộc tạo ra rất nhiều sản phẩm, từ những sản phẩm thông dụng dùng
trong sinh hoạt hằng ngày như đôi đũa dùng trong bữa ăn, bàn ghế dùng để ngồi, tiếp
khách, kệ để chén, bát, son, nồi, tủ để quần áo, tủ thờ, giường để ngủ..., đến các công
cụ dùng trong sản xuất nông nghiệp như cày, bừa, cối giã gạo... và công cụ sản xuất
của các nghề thủ công khác như khung cửi dệt vải, khung quay tơ, khung dệt chiếu...
Trước hết, sản phẩm làm ra nhằm đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp của các hộ
gia đình, phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của cư dân địa phương. Một số thợ
cũng đã đến các địa phương lân cận để nhận làm nhà, cửa, đóng bàn, tủ, giường hay
sửa lại các cánh cửa bị hỏng, bào lại mặt bàn lâu ngày đã cũ, sửa lại cày, bừa bị
hỏng... Điều này được phản ánh qua câu ca:
67
“Anh đi làm thợ nơi nao
Để em gánh đục, gánh bào đi đưa
Trời nắng cho chí trời mưa
Để em gánh đục, gánh cưa đi cùng”
Một số sản phẩm được đem đến các chợ làng, liên làng để bán, nhưng việc
này rất ít vì đặc trưng của nghề mộc là sản phẩm nặng, cồng kềnh, khó vận chuyển.
Mặc khác, để bán được sản phẩm đòi hỏi giá thành phải thấp, điều này dẫn đến
người thợ sẽ không đầu tư nhiều thời gian làm nên sản phẩm tinh xảo, nguyên liệu
thì tận dụng, nên chất lượng không cao, không được ưa chuộng.
Một số người thợ có tay nghề khéo, làm lâu năm, tạo dựng được tiếng tăm,
được nhiều người đến đặt các mặt hàng như tủ, giường, cối xay... nhưng thường
cũng chỉ là người trong làng hoặc các làng gần, đường sá để đi lại và dễ vận chuyển.
Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu tự cung, tự cấp, nghề mộc giúp cho các hộ
gia đình tận dụng được thời gian nông nhàn, tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn
có, góp thêm thu nhập để trang trải cuộc sống sinh hoạt. Bên cạnh đó, nghề mộc còn
cung cấp vật dụng, công cụ cho các ngành khác, thúc đẩy các ngành này phát triển,
trong sự phát triển chung của thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng.
Nghề rèn: Nghề nông cần đến cái rựa để phát quang bờ bãi, lưỡi liềm để cắt
lúa, cắt cỏ, lưỡi cày để làm cho đất tơi xốp, lưỡi cuốc để cuốc đất, hay đắp đập, be
bờ..., nghề mộc cần đến lưỡi cưa để xẻ gỗ, mũi khoan để xuyên lỗ, mũi đục để chạm
khắc..., nghề chẻ đá cần đến búa tạ để đập đá, búa tay, búa con chạm để tạo hình, xà
beng để nạy và di chuyển nguyên liệu... Như vậy, nghề rèn đã thâm nhập vào tất cả
các nghề, thúc đẩy các ngành nghề này phát triển. Đây cũng là một trong những
nghề vất vả, nặng nhọc:
“Giữa trăm nghề chọn nghề thợ rèn.
Ngồi xuống nhọ lưng, quệt ngang nhọ mũi
Suốt tám giờ chân than, mặt bụi”
Nghề rèn là một nghề nặng nhọc, kỹ thuật khó, nguyên liệu hiếm nên số
lượng làm nghề ít hơn so với một số nghề khác như mộc, đan lát... Mặc dù vậy, do
yêu cầu từ lao động sản xuất nên nghề rèn cũng có mặt khá rộng, thường thì vài
làng hay một vùng thì có một hay vài lò rèn, thợ rèn.
Nghề rèn dùng sắt để tạo nên các loại sản phẩm. Tùy theo mục đích chế tạo
mà sử dụng các loại sắt với kích cỡ, độ cứng mềm, hình thể tương ứng. Việc lựa
68
chọn nguyên liệu rất quan trọng vì ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm sau này.
Người thợ giỏi luôn biết cách chọn được loại sắt ưng ý để sử dụng. Với kinh
nghiệm của mình, người dùng cũng biết được sản phẩm chế tạo từ nguyên liệu như
thế nào, chất lượng ra sao, thậm chí do người thợ nào làm ra.
Thời kỳ này, tại Quảng Nam – Đà Nẵng, sắt – nguyên liệu chính của nghề rèn
cũng rất hiếm. Theo Đại Nam nhất thống chí (thời Tự Đức): “Ở huyện Duy Xuyên,
nộp thuế mỗi năm 60 cân” [63, tr. 396].
Nghề rèn tạo ra rất nhiều sản phẩm từ những bộ phận nhỏ của công cụ như
khoen rựa, khoen liềm, khoen cuốc đến các công cụ như rựa, liềm, cuốc, lưỡi cày,
dao, rìu, búa... Bên cạnh đó, những người thợ cũng đã sửa chữa, cải tạo các vật
dụng như cắt chấu lại lưỡi liềm, làm sắc lại lưỡi dao, lưỡi cày...
Nghề rèn là một nghề nặng nhọc, đòi hỏi phải được tiến hành trong lò nên
những người thợ không đi xa mà làm tại nhà, người trong làng, những làng gần tìm
đến đặt hàng, vì vậy, sản phẩm chủ yếu làm ra theo đơn đặt hàng. Bên cạnh đó, một
số người đã đặt mua một số công cụ như dao, liềm, rựa... rồi mang đi bán cho các
địa phương khác. Tùy theo chất lượng của sản phẩm, uy tín được tạo dựng, người
đặt hàng ngày càng nhiều, việc tiêu thụ được đẩy mạnh.
Nghề rèn đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống và sinh hoạt của cư dân
Quảng Nam - Đà Nẵng, nghề thủ công này đã len lỏi vào tất cả các ngành kinh tế
khác, góp phần thúc đẩy các nghề này phát triển. Nghề thủ công này rất nặng nhọc,
vất vả, song do vai trò quan trọng của mình nên những người làm nghề này có được
thu nhập tương đối khá, cuộc sống được cải thiện.
Nghề đóng cối xay lúa: Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo ở Quảng Nam -
Đà Nẵng, cuộc sống của cư dân nơi đây gắn chặt với ruộng đồng. Sau khi thu hoạch,
lúa được xay hay giã cho ra hạt gạo trắng thơm. Nghề đóng cối xay lúa ra đời đã giúp
cho người nông dân bớt khó nhọc. Đóng cối xay cũng là một nghề khó nên cũng ít
người theo nghề này. Nổi tiếng nhất là xóm nghề Triều Châu (Duy Phước, Duy
Xuyên) ra đời khoảng nửa đầu thế kỷ XIX.
Thợ đóng cối xay làm việc tự do, họ đi khắp các vùng quê để đóng cối xay
cho các hộ gia đình có nhu cầu hoặc sửa các cối xay cũ bị hỏng. Thợ đóng cối xay
cũng nhận đặt hàng và làm việc tại nhà. Do đặc thù của nghề nên đóng cối xay chưa
69
hình thành nên làng nghề, chỉ có xóm nghề Triều Châu có khoảng 15 thợ nhưng
càng về sau càng giảm.
Sản phẩm làm ra phục vụ cho nhu cầu của địa phương, nhưng một chiếc cối
sử dụng cũng được một thời gian khá dài, nhiều khi vài làng lân cận mới có một gia
đình sắm cối, đứng ra nhận xay lúa nên việc tiêu thụ sản phẩm không phải là nhiều.
Vì vậy, những người thợ đi đến các làng lân cận để sửa cối. Khi có người đặt làm
cối, họ làm tại chỗ, khi xong, người đặt đến khiêng về. Làm như vậy, người thợ
tranh thủ được thời gian rỗi, ăn uống tại nhà nên chi phí cũng giảm, nhưng thường
thì những người trong làng hay những làng gần mới đặt. Những người ở xa đặt hàng
thì nhóm thợ mang dụng cụ đến tận nơi, nhiều khi cả nửa tháng mới về.
Nghề đóng cối xay nhằm đáp ứng nhu cầu xay lúa trong làng, cũng như các làng
gần nhau. Nghề thủ công này đã giải phóng bớt sự nặng nhọc của người lao động trong
khi tạo ra hạt gạo, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp. Để làm nên chiếc
cối cần phải có một thời gian khá dài, những người thợ tận dụng được tối đa thời gian
nông nhàn. Thu nhập mang lại cũng kha khá nên cuộc sống của những người thợ khá
giả hơn rất nhiều so với những gia đình thuần nông. Nghề này cũng có những bí quyết
riêng, bí quyết này được truyền lại cho con cháu, trong bối cảnh ngày xưa chủ yếu làm
nông, không nhiều loại hình kinh tế như bây giờ thì đây cũng là một nghề giúp cho
những người kế nghiệp có điều kiện xây dựng kinh tế ổn định.
Nghề đóng ghe thuyền:
Quảng Nam – Đà Nẵng là vùng đất có hệ thống sông ngòi dày đặc, thông
suốt, nối liền với nhau, đường bờ biển trải dài, hoạt động giao thông, giao thương
đường thủy và đánh bắt thủy hải sản sớm phát triển. Vì vậy, ghe thuyền trở thành
nhu cầu cấp thiết phục vụ cho hoạt động giao thông, thương mại và đánh bắt. Nghề
làm ghe, thuyền trải qua một quá trình ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử khai
phá và phát triển vùng đất này. Tùy theo nhu cầu, mục đích sử dụng mà người dùng
ghe hay thuyền.
Chiếc ghe là vật dụng gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày của nhiều gia
đình ở các vùng sông nước. Thế kỷ XIX, tại các địa phương: Hội An, Duy Xuyên,
Đại Lộc, Điện Bàn, Thăng Bình, Đà Nẵng... ghe thuyền là phương tiện không thể
thiếu để đi lại, đánh bắt thủy hải sản trên biển và trên sông, để giao lưu buôn bán, để
70
ứng phó những khi mưa gió bão lụt... Đánh bắt hải sản trên biển có các loại ghe giả,
ghe mành mũi cao, thân vững chắc, đi lại buôn bán dọc các bến cảng ven biển có
loại ghe bầu bụng to, buồm rộng. Hành nghề trên sông có các loại ghe nhỏ hơn như
ghe rớ, ghe rỗi, ghe vợi, ghe lưới bén, ghe chài, các loại sõng, xuồng,...
Buôn bán nội địa giữa vùng xuôi với các vùng trung du, miền núi có các loại
ghe nguồn, đưa đón khách qua lại ở những bến sông là các loại ghe đò, để thi tài
trong các dịp hội hè lại có các loại ghe đua mình dài, thân thon nhỏ. Trước đây, cư
dân Hội An còn tham gia đóng các loại chiến thuyền để phục vụ các mục đích quân
sự và gần đây đang đảm nhận đóng những kiểu tàu đánh bắt xa bờ cho Quảng Nam
và một số tỉnh miền Trung. Việc đóng mới và tu bổ các loại ghe thuyền này là một
nhu cầu tất yếu, không thể thiếu, từ đó dẫn đến sự ra đời khá sớm của nghề đóng
ghe, một nghề thủ công truyền thống khá đặc biệt ở Quảng Nam – Đà Nẵng, đặc
biệt là ở làng đóng ghe ở Kim Bồng, Hội An, sau này có thêm làng đóng tàu Tân
Phú (Tam Phú, Tam Kỳ).
Cũng giống như các nghề thủ công truyền thống khác, đan ghe thoạt đầu là
một công việc mang tính tự cung tự cấp của các gia đình sinh sống bằng nghề sông
nước. Sản phẩm của thời kỳ này là những chiếc ghe nan đan bằng tre, trét bằng dầu
rái, chai phà, phân trâu khô. Đây là hình ảnh xa xưa của một loại ghe khá đặc trưng
của địa phương. Từ đan ghe để dùng trong gia đình đến đan ghe thuê cho người
khác, từ đan ghe nan đến đóng săn bằng gỗ là một quá trình phát triển đi từ tự cung
tự cấp đến chuyên nghiệp, từ kỹ thuật đơn giản đến kỹ thuật cao, phức tạp.
Vào thế kỷ XIX, lực lượng đóng ghe ở Hội An, Tam Kỳ khá đông, tập trung
chủ yếu ở bờ Nam nhánh sông Thu Bồn chảy qua Hội An. Phần lớn thợ và các trại
đóng ghe nằm ở làng mộc Kim Bồng, nay thuộc xã Cẩm Kim, Hội An. Trước đây
tại một số địa phương khác ở Hội An như Thanh Châu, Cẩm Phô cũng có những trại
đóng ghe những không quy mô và tập trung như ở Kim Bồng. Làng mộc Kim Bồng
từ rất sớm đã nổi tiếng về đóng đồ mộc dân dụng, làm nhà và đóng ghe. Những
người thợ đóng ghe ở Hội An hiện nay hầu hết đều có gốc gác từ làng mộc Kim
Bồng. Tại Kim Bồng thường xuyên có lực lượng thợ đóng ghe đông và thiện nghệ.
Họ lập những trại đóng ghe ở các cồn bãi, bến nước ven sông và đóng đủ các loại
ghe, từ ghe đua đến các loại ghe đi sông, đi biển. Ngoài việc đóng các loại ghe
thuyền tại địa phương thợ mộc Kim Bồng còn đi đóng ghe thuê ở Huế, Sông Cầu,
Phan Thiết và các vùng trong miền Nam.
71
Về phương thức hành nghề, những người thợ đóng ghe ở Hội An không tổ
chức thành các phường, hội như một số nơi. Họ liên kết với nhau theo từng nhóm
để lập thành các trại đóng ghe hoặc đi đóng ghe thuê. Mỗi nhóm thợ có một thợ cả,
là người có tay nghề cao, tính toán giỏi đứng ra tập hợp và điều hành công việc của
nhóm. Thợ cả chịu trách nhiệm hợp đồng với chủ ghe về giá cả, thời gian thực hiện,
định thước tấc các bộ phận của ghe, chuẩn bị vật liệu, tổ chức phân công và phân
phối tiền công cho các thành viên của nhóm. Dưới thợ cả, tùy theo tay nghề chia
làm các loại thợ nhất, nhì, ba, tư. Tiền công thợ được trả theo cách phân loại này.
Thu nhập chủ yếu của thợ đóng ghe là tiền công, ngoài ra trong những ngày rỗi họ
còn tham gia sản xuất nông nghiệp cùng gia đình hoặc làm một số đồ gỗ dân dụng
để thu nhập thêm. Đây là cách sử dụng thời gian lao động rảnh rỗi một cách phù
hợp, hiệu quả.
Sự chuyên môn hóa trong quá trình phân công ở những nhóm thợ đóng ghe
đã hình thành chứng tỏ sự phát triển nhất định về trình độ sản xuất. Trước đây khi
đóng một chiếc ghe bầu số lượng thợ cần phải có gồm:
Thợ xẻ
gỗ Thợ xảm
Thợ làm
bánh lái
Thợ đóng
chính Thợ phụ Thợ cả Cộng/ người
4 - 6 1 - 2 1 - 2 6 - 8 2 - 4 1 15 - 23
Với số lượng thợ như trên, một chiếc ghe bầu cỡ 80 - 100 tấn trọng tải, phải
đóng ít nhất từ 4 - 5 tháng mới xong. Tất nhiên những loại ghe nhỏ, ghe đi sông thì
số lượng thợ sẽ ít hơn và thời gian đóng sẽ ngắn hơn.
Ban đầu đóng thuyền bằng tre nan (thường gọi là ghe) sau đóng bằng gỗ
(thường gọi là thuyền rồi tàu).
Việc đóng ghe thuyền trước hết phục vụ cho nhu cầu rất lớn của các địa
phương trong tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng có bộ phận lớn cư dân đi lại, buôn bán trên
sông nước và đánh bắt thủy hải sản. Bên cạnh đó, làng nghề đóng thuyền Kim Bồng,
Tân Phú được ngư dân các làng cá đảo Lý Sơn, Sa Huỳnh (tỉnh Quảng Ngãi), tỉnh
Phú Yên, vùng Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang)... biết
đến và thường xuyên đặt hàng đóng mới và sửa tàu thuyền. Người thợ nơi đây quanh
năm suốt tháng bận rộn với công việc, thường xuyên có công việc để làm.
Nghề đóng ghe thuyền mang lại cho các hộ sản xuất nguồn thu rất lớn vì
những chiếc ghe thuyền đóng ra có giá cao, sản phẩm không tồn ế, bên cạnh việc
đóng mới tàu thuyền là việc sửa chữa, công việc ổn định quanh năm.
72
Nghề đóng tàu thuyền đã thúc đẩy các ngành kinh tế khác như thương
nghiệp, trao đổi buôn bán, đánh bắt thủy hải sản, nông sản... phát triển thông qua
việc tạo điều kiện nối liền giao thông giữa các vùng miền và những con thuyền xa
khơi đánh bắt.
Vào thế kỷ XIX, dọc bên sông Bàn Thạch, sông Thu Bồn nơi có các làng
đóng ghe thuyền Kim Bồng, Tân Phú, đàn bà con gái buôn cơm bán nước, làm dịch
vụ cho thợ và khách thập phương. Đời sống kinh tế của hàng trăm hộ dân rất khấm
khá nhờ vào sự phát triển của nghề thủ công này.
Nghề kim khí
Quảng Nam – Đà Nẵng có nhiều khoáng sản (vàng, đồng, chì, sắt...). Nghề
khai thác khoáng sản của nhà nước và trong dân gian phát triển. Các nghề về kim
khí (nấu, đúc) được hình thành khá sớm. Nghề rèn sắt phát triển khắp nơi như đã
trình bày trên đây, nghề làm đồng nổi tiếng ở Phước Kiều (Điện Phương, Điện
Bàn), các tiệm vàng (kim hoàn) được lập ở các thị trấn, thị xã, thành phố lớn. Chủ
tiệm là người buôn bán vàng, trong có có nuôi thợ để chế tác.
Thợ nấu kim khí ở Quảng Nam – Đà Nẵng được sung vào ngạch thợ, tuyển mộ
và chia thành hai ban thay nhau về kinh đô Huế để làm việc, mỗi tháng mỗi người
được phát 1 quan tiền, 1 phương gạo. Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) có lệnh “phàm thợ
nấu kim khí Quảng Nam có con em ở xã thôn nào đi làm ăn ỏ các địa phương khác đều
phải rút về nguyên quán bổ vào ngạch thợ” [67, t. 15, tr. 160].
Tự Đức năm thứ 20 (1867) cho lập thêm một sở đúc vàng bạc tại Quảng
Nam (chung cho các tỉnh Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên), chọn
một tay thợ khéo và lành nghề cho làm Tượng mục, phong trật tòng cửu phẩm.
Ở các thị trấn còn có người làm nghề thợ bạc, chuyên chế các đồ trang sức
bàng vàng, bạc.
Nghề chế biến vật liệu, hương liệu
Nghề gốm
Quảng Nam – Đà Nẵng nổi tiếng với nghề làm gốm. Nhiều làng gốm nổi
tiếng đã được hình thành: Thanh Hà, Thắng Trà, Lò Nổi, C’nooh. Trong đó nổi
tiếng nhất là làng gốm Thanh Hà, một làng nghề nằm sát cạnh Hội An. sản phẩm
gốm Thanh Hà khá đa dạng. Ngoài các đồ gốm dân dụng, còn sản xuất các mặt
hàng theo yêu cầu của triều đình.
73
Nghề làm gốm tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong dân gian,
đáp ứng nhu cầu của triều đình, đồng thời là một trong những mặt hàng xuất khẩu.
Nghề làm gốm đã tách khỏi nông nghiệp, trở thành một nghề chuyên biệt,
thu hút một lực lượng lớn lao động của địa phương, giúp cho nhiều hộ gia đình
thoát cảnh nghèo khó. Nhờ đó, các làng gốm vượt qua những giai đoạn khó khăn,
tiếp tục phát triển cho đến ngày hôm nay.
Liên quan đến làm gốm, ở Quảng Nam – Đà Nẵng còn có nghề làm gạch
ngói: Nhu cầu sử dụng gạch ngói trong nhân dân để làm nhà cửa, các công trình
công cộng như đình, chùa, miếu mạo... đòi hỏi cần phải sử dụng một lượng lớn gạch
ngói. Bên cạnh đó, triều đình Huế cũng có nhu cầu về thợ làm gạch ngói để trưng
dụng trong các việc chung của triều đình.
Thợ làm gạch ngói ở Quảng Nam – Đà Nẵng được đánh giá là thợ khéo. “Từ
đời Gia Long năm thứ 6 (1807) khi bắt đầu xây dựng kinh thành Huế, đã lập ở kinh
đô hai sở ngói, lấy 600 thợ Quảng Nam về làm việc” [65, t. 1, tr. 687]. Đời Thiệu
Trị năm thứ 3 (1843) lập lệ chọn thợ nung ngói, xây gạch và thợ lợp nhà, lấy thợ
quê Quảng Nam chia thành ban thay nhau về kinh phục dịch.
Như vậy, nghề làm thủ công gạch, ngói trong dân gian tại Quảng Nam – Đà
nẵng khá phát triển, tay nghề của người thợ khéo, được triều đình ưa chuộng và
trưng dụng trong các công trình chung của nhà nước.
Nghề làm giấy
Nghề làm giấy ra đời và phát triển đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cư dân địa
phương. Triều đình Huế cũng đặt hàng làm giấy tại Quảng Nam – Đà Nẵng để đưa
về kinh thành.
Các loại giấy sản xuất tại địa phương gồm: giấy nguyên giáp (giấy thường,
dùng để viết hay làm giấy gói, làm pháo), giấy hậu thảo (loại giấy rơm, giấy moi),
giấy vàng bạc đôi đầu (giấy dùng vào việc cúng tế, có rắc nhũ vàng, nhũ bạc ở hai
đầu), giấy vàng bạc đại định, giấy vàng bạc bậc trung; giấy hoa ngũ sắc, giấy hồng
đơn, giấy đỏ thẩm, giấy đại xích, giấy đen, giấy kim bảng, giây kim tượng, giấy chu
sa (trên đây là tên riêng một số loại giấy được gọi theo màu sắc, công dụng).
74
Nghề làm hương (nhang):
Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây là truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Vì vậy, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị thần... trở thành nét đẹp
trong tín ngưỡng dân gian đã sớm ra đời từ buổi sơ khai của dân tộc ta. Cây hương
(nhang) là hình ảnh quen thuộc có từ nghìn xưa gắn chặt với tín ngưỡng của dân tộc
Việt. Tại Quảng Nam – Đà Nẵng, nghề làm hương đã ra đời từ rất sớm theo bước
chân khai phá của cha ông tại mảnh đất này, nổi tiếng là nghề làm hương ở Phú Lộc
(Đại An, Đại Lộc) và Xóm Hương (Hà Lam, Thăng Bình):
“Phú Lộc ngan ngát hương thơm
Mời anh ghé lại nghe đờn câu ca”
Làng nghề làm hương tại Phú Lộc gắn với tiền hiền tộc Hứa là ông Hứa Tàu,
người đầu tiên học và phát triển nghề làm hương. Từ một hộ làm hương ban đầu là
ông Hứa Tàu, chẳng mấy chốc, nghề đã thu hút hầu hết các hộ còn lại trong làng
tham gia tạo nên thương hiệu làng hương Phú Lộc. Làng nghề Xóm Hương (còn gọi
Xóm Cây Cốc Bà Ty) gắn liền với Bà Thơ người đầu tiên học và phát triển nghề
làm hương còn Bà Ty là người bán hương nổi tiếng tại Cây Cốc địa danh đã trở
thành quen thuộc của địa phương và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Ngoài hai làng làm hương nổi tiếng trên đây, nghề làm hương còn có mặt ở
nhiều làng xã: Quế Xuân, Quế Minh (huyện Quế Sơn), Hà Lam, Bình Quý (huyện
Thăng Bình), Nam Phước (huyện Duy Xuyên)... nhưng quy mô nhỏ, không nổi
tiếng bằng.
Trong quá trình vào ra Đà Nẵng, ông Võ Tấn Đồng (người Xóm Hương) có
quen biết với gia đình ông Huỳnh Ngọc Thượng, trú tại khu vực cầu vồng thuộc
phường Hải Châu, Đà Nẵng, ông Huỳnh Ngọc Thượng có biết làm hương nhưng
không rành lắm. Thế là ông Võ Tấn Đồng bày vẽ, hướng dẫn thêm. Mục đích của
ông là khi ông Huỳnh Ngọc Thượng học được ngón nghề, sẽ lấy nguyên liệu của
mình. Không chỉ bày vẽ, hướng dẫn cho ông Huỳnh Ngọc Thượng, ông Võ Tấn
Đồng cũng dạy nhiều học trò nghề làm hương gia truyền ấy. Lúc nào, nhà ông cũng
có trên mười người theo học. Phần đông, họ ở các xã thuộc huyện Thăng Bình.
Nhưng, số học viên là người các huyện, các tỉnh từ Quảng Trị đến Huế không hiếm.
75
Có thể nói, ông đã đào tạo hàng trăm thợ làm hương nội ngoại tỉnh. Dĩ nhiên,
người theo học phải ngày ngày xe hương nhưng sản phẩm làm ra đều của thầy. Đổi
lại, trong quá trình thực tập, thầy sẽ uốn nắn, sửa dần những sai sót cho đến lúc thạo
nghề. Hơn nữa, thầy sẽ bao cơm nước trong ngày chu đáo. Cái lợi của ông Võ Tấn
Đồng về lâu dài là sau khi ra nghề, họ sẽ mua nguyên liệu của ông. Cho nên, nghề
làm hương chẳng mấy chốc lan ra nhiều vùng nội ngoại tỉnh.
Nguyên liệu chính để làm nên cây hương là cây bù lời (còn gọi là bời lời, cây
bù) một loại cây phân bố nhiều trên rừng nhưng cũng sinh trưởng rải rác khắp các
miền trung du, đồng bằng Quảng Nam – Đà Nẵng. Đâu cũng có cây bù lời sinh
sống, chỉ mật độ phân bố là nơi ít nơi nhiều. Tuy nhiên, không chỉ lá bù lời, người
dân Phú Lộc còn có thể làm hương bằng nhiều loại lá rừng khác như lá mô, lá
trường, lá bướm, lá dủ dẻ, đó là những thứ lá có chất dẻo, tạo độ kết dính tốt, thích
hợp dùng làm nguyên liệu để sản xuất hương. Ngày xưa, dân làng chỉ làm một loại
màu là màu đà vốn sẵn có trong tự nhiên. Còn hiện nay, với đà phát triến của khoa
học kỹ thuật, họ có thể dễ dàng làm các gam màu. Chỉ cần bỏ ra chút ít tiền là có thể
mua các loại bột màu hoặc hoá chất tạo mùi.
Các gia đình làm hương có thể đặt mua lá bù lời ở Làng Đông thuộc huyện
Quế Sơn. Những người dân làng này tranh thủ lúc nông nhàn đi bứt lá, phơi khô,
gánh từng gánh bán cho các hộ làm hương. Còn bột quế, họ mua lá quế ở mạn Tiên
Phước, Trà My, vùng đất này nổi tiếng nghề trồng quế. Cho nên, lá quế có sẵn. Họ
dồn lại, lâu lâu được nhiều mang bán lại cho những gia đình làm hương. Riêng tăm
hương được chẻ tại chỗ. Thường, mỗi hộ hành nghề hợp đồng với một số gia đình
trong làng, trong xóm chẻ tăm hương. Tiêu biểu như gia đình ông Võ Tấn Đồng
hợp đồng với gia đình các ông Chinh, ông Nhung, ông Phường, ông Liễu...
Nghề làm hương thủ công truyền thống không kén chọn thợ hành nghề,
người trong nhà ai cũng có thể xe được hương, nếu chịu khó học tập các thao tác
trong vài hôm là có thể nắm bàn xoa xe được cây hương. Tuy nhiên, những người
thợ chính, thợ cả, những người với kinh nghiệm lâu năm bao giờ cũng đóng vai trò
quan trọng.
Tại làng Phú Lộc, làng Hương từ hàng mấy trăm năm nay, vào lúc nông nhàn
nghề làm hương lại rộ lên và trở thành nghề hữu ích cho đời sống người dân. Vào
các tháng Mười, Mười Một, tháng Chạp người làng hương kéo mành mành ra phơi
76
hương dọc hai bên đường, trên các nong, nia, trẹc... sân nhà. Vào thời gian cao
điểm, ước tính có trên 95% số hộ làm nghề. Đôi khi thị trường tiêu thụ tăng cao,
một số nhà làm hương phải thuê nhân công từ các huyện, thị trấn Hà Lam, Thăng
Bình, đến ăn ở tại chỗ phụ công giúp việc.
Phân phối hương ra thị trường tiêu thụ, người Quảng gọi là bỏ mối. Thường
việc bỏ mối diễn ra tại các chợ làng, chợ huyện, các quán tạp hoá, các vùng quanh
huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn... Trước kia bỏ mối thường gánh bộ.
Cũng trong thời kỳ này, bên cạnh việc làm hương, bán hương, vợ chồng ông
Võ Tấn Túc và bà Võ Thị Túc còn mở quán chuyên bán hương. Chính quán bán
toàn hương của bà là nguyên nhân làm xóm có tên mới là xóm Quán Hương. Hương
được sản xuất nhiều, đội ngũ những người bán hương cũng ra đời và phát triển. Có
hàng mấy chục người, cả đàn ông lẫn phụ nữ, mua hương gánh đi bán khắp nơi.
Trong đó, buôn bán có quy mô nhất và lâu nhất phải kể đến hai ông Tán Tửu
Kinh và Nguyễn Đức Cơ, người ngoài làng, chuyên bán ở các vùng nội tỉnh, từ Phú
Thuận, dọc sông Thu Bồn đến cả vùng Trung Phước, Đại Bường... Mỗi lần đi, ông
gánh một gánh đầy ắp hương. Khoảng tuần lễ, khi bán xong, ông quay về để tiếp tục
chuyến đi khác. Thỉnh thoảng, ông cũng vào bán tận Quảng Ngãi. Còn ông Nguyễn
Đức Cơ chuyên đem hương vào Đập Đá (Bình Định), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) để
bán. Nhờ đội ngũ những người bán hương này, hương ở xóm Hương có điều kiện
tỏa đi các nơi nội ngoại tỉnh phục vụ nhu cầu hương thắp cho bà con xa gần
Do nghề làm hương làng Phú Lộc, Xóm Hương phát triển cho nên từ xưa đến
nay người dân làng Phú Lộc, Xóm Hương chưa bao giờ xảy ra nạn đói. Làm hương
không chỉ tạo nên nếp văn hoá đặc trưng của làng mà còn có thể phát triển kinh tế,
làm giàu chính đáng từ cây hương
Cây hương Phú Lộc, Xóm Hương không chỉ là sản phẩm của thời gian nông
nhàn tạo ra của cải vật chất nuôi sống người dân làng hương, mà còn là sản phẩm
mang đầy bản sắc văn hoá dân tộc Việt (nói chung) trong thờ cúng tổ tiên, ngưỡng
vọng các vị thần, thánh đã được nhân dân tôn kính
77
2.3.2. Làng nghề thủ công tiêu biểu
Các làng nghề thủ công tại Quảng Nam – Đà Nẵng:
TT Tên làng
nghề Địa phương hiện nay
Nghề thủ
công
Thời gian hình
thành nghề
(ước tính)
1. Non Nước P. Hòa Hải, Q. Ngũ Hành Sơn Đá mỹ nghệ Thế kỷ XVII
2. Nam Ô X. Hòa Tiến, H. Hòa Vang Nước mắm Thế kỷ XV
3. La Bông X. Hòa Tiến, H. Hòa Vang Nón lá Thế kỷ XVII
4. Giảng Hòa X. Đại Thắng, H. Đại Lộc Nón lá Thế kỷ XIX
5. Xuyên Đông TT Nam Phước, H. Duy Xuyên Nón lá Thế kỷ XX
6. Diên Lộc X. Quế Minh, H. Quế Sơn Nón lá Thế kỷ XIX
7. Vân Hà X. Tam Thành, H. Phú Ninh Dệt vải Thế kỷ XVIII
8. Mã Châu X. Duy Trinh, H. Duy Xuyên Dệt vải Thế kỷ XVIII
9. Bảo An Gò Nổi, H. Điện Bàn Dệt vải
Làm đường
Thế kỷ XVIII
10. Cẩm Nê X. Hòa Tiến, H. Hòa Vang Dệt chiếu Thế kỷ XV
11. Bàn Thạch X. Duy Vinh, H. Duy Xuyên Dệt chiếu Thế kỷ XVIII
12. Thạch Tân X. Tam Thăng, TP. Tam Kỳ Dệt chiếu Thế kỷ XVII
13. Triêm Tây X. Điện Phương, H. Điện Bàn Dệt chiếu Thế kỷ XVIII
14. Hội Sơn X. Duy Nghĩa, H. Duy Xuyên Dệt chiếu Thế kỷ XIX
15. Thanh Hà X. Cẩm Hà, TP. Hội An Gốm Thế kỷ XVII
16. Thắng Trà X. Quế An, H. Quế Sơn Gốm Thế kỷ XIX
17. Lò Nồi X. Bình Định, H. Thăng Bình Gốm Thế kỷ XVIII
18. C’nooh Làng C’nooh, H. Tây Giang Gốm Thế kỷ XIX
19. Kim Bồng X. Cẩm Kim, TP. Hội An Mộc Thế kỷ XVII
20. Vân Hà X. Tam Thành, H. Phú Ninh Mộc Thế kỷ XVIII
21. Trung An TT. Ái Nghĩa, H. Đại Lộc Đan lờ Thế kỷ XX
22. Xuân Tây X. Đại Thạnh, H. Đại Lộc Cối xay Thế kỷ XIX
23. Triều Châu X. Duy Phước, H. Duy xuyên Cối xay Thế kỷ XIX
24. Tân Phú X. Tam Phú, TP. Tam Kỳ Đóng tàu Thế kỷ XX
25. Lâm Yên X. Đại Minh, H. Đại Lộc Trống da Thế kỷ XVIII
26. Phước Kiều X. Điện Phương, TX. Điện Bàn Đúc đồng Thế kỷ XVII
27. Xuân Thái X. Bình Định, H. Thăng Bình Nong Thế kỷ XIX
78
28. Bình Phụng X. Bình Quế, H. Thăng Bình Mủng Thế kỷ XIX
29. Phước Đức X. Quế Châu, H. Quế Sơn Gàu giai Thế kỷ XIX
30. TP. Hội An TP. Hội An Lồng đèn Thế kỷ XVII
31. Phú Lộc X. Đại An, H. Đại Lộc Hương Thế kỷ XVIII
32. Hà Lam TT. Hà lam, H. Thăng Bình Hương Thế kỷ XIX
33. Phú Nhiêu X. Đại Chánh, H. Đại Lộc Rèn Thế kỷ XIX
34. Gia Cát X. Quế Phong, H. Quế Sơn Rèn Thế kỷ XIX
35. Xuân Dương X. Hòa Liên, H. Hòa Vang Guốc mộc Thế kỷ XX
36. Yến Nê X. Hòa Tiến, H. Hòa Vang Đan lát Thế kỷ XV
37. An Thanh X. Điện Thắng, H. Điện Bàn Cót tre Thế kỷ XIX
38. Phương Hòa P. Hòa Thuận, TP. Tam Kỳ Bún tươi Thế kỷ XIX
39. Phú Chiêm X. Điện Phương, TX. Điện Bàn Mỳ Quảng
Bánh tráng
Thế kỷ XX
40. Xuân Đài X. Điện Thọ, TX. Điện Bàn Rượu Thế kỷ XIX
41. Mỹ Nam X. Đại Tân, H. Đại Lộc Gióng mây Thế kỷ XIX
42. Phước Tích X. Tiên Lộc, H. Tiên Phước Kẹp quế Thế kỷ XX
43. Nại Hiên Đông P. Nại Hiên Đông, Q. Sơn Trà Muối Thế kỷ XVI
44. Nại Hiên Tây P. Nại Hiên Tây, Q. Sơn Trà Vôi hàu Thế kỷ XVI
45. An Hải P. An Hải Bắc, Q. Sơn Trà Vôi hàu Thế kỷ XVI
Nguồn: [40].
Làng điêu khắc đá Non Nước
Làng điêu khắc đá Non Nước thuộc làng Quán Khái Đông (Phường Hòa Hải,
Quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng (2). Trước đây, làng có địa giới khá thuận
lợi (3), đặc biệt, là làng tiếp giáp với núi Ngũ Hành Sơn về phía Bắc. Núi Ngũ Hành
nằm ở rìa Đông Bắc của Trường Sơn Nam nên còn mang nhiều dấu ấn của Trường
Sơn Bắc, được hình thành từ khối đá vôi và mang đầy đủ tính chất của đá vôi Việt
Nam (thuộc địa hình catxtơ kiểu nhiệt đới). Đá vôi Non Nước có độ tuổi 360 đến
410 triệu năm được hình thành vào kỷ Đề vôn, giữa thời đại cổ sinh. Đá vôi ở đây
rắn chắc và biến thành đá cẩm thạch với nhiều màu sắc đẹp hết sức độc đáo, mỗi
ngọn núi có một màu sắc riêng biệt: Thủy Sơn màu hồng, Mộc Sơn màu trắng, Hỏa
Sơn màu đỏ, Kim Sơn màu thủy mặc. Đá cẩm thạch được xếp vào hàng “sản vật”
của vùng đất này “núi sẵn đá hoa, chất trắng, vân đen, dùng để chế đồ vật có hoa
văn đẹp, lại có thứ đá trắng mịn như cục mỡ” (4) [63, t. 2, tr. 344].
79
Trên hòn Thủy Sơn, hiện nay còn lưu lại bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật”
và bia “Ngũ uẩn sơn cổ tích Phật diệt lạc”. Đây là hai văn bia được tạc trực tiếp vào
vách đá. Bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” được tạc vào vách đá động Hoa
Nghiêm, bia nói về nhân dân các làng xung quanh núi Ngũ Hành Sơn và Hội An
đóng góp tiền để xây dựng chùa Phổ Đà, bia được lập năm Canh Thìn (1640). Còn
bia “Ngũ uẩn sơn cổ tích Phật diệt lạc” được tạc vào vách động Vân Thông, nội
dung nói về sự tích đức Phật, bia được lập vào năm Tân Tỵ (1641).
Tháng 12 năm 2000, dưới chân núi Mộc Sơn đã phát hiện hai ngôi mộ của vợ
chồng ông bà họ Lê. Trên bia của cụ ông ghi “Việt Cố: Tướng thần lại ty Câu Kê Lê
quý bá chi mộ - Tuế tại Mậu Dần mạnh xuân cốc nhật”, còn trên bia mộ cụ bà ghi
“Việt Cố: Câu Kê Lê công chánh thê Mai Thị quý nương chi mộ - Ất Dậu quý hạ
cốc đán”. Như vậy, đây là hai ngôi mộ của vợ chồng: ông là người họ Lê, giữ chức
quan Câu kê (quan thu thuế), ở Tướng Thần lại Ty Quảng Nam, một chức quan
dưới thời các chúa Nguyễn, bia cụ ông được lập vào mùa xuân năm Mậu Dần
(1638), còn cụ bà họ Mai, người vợ chính, khi mất mang tước hiệu của ông, bia cụ
bà được lập vào mùa xuân năm Ất Dậu (1645). Như vậy, vào thế kỷ XVII, làng
Quán Khái đã là một đơn vị hành chính chặt chẽ, có người làm đến chức quan câu
kê. Qua tư liệu văn bia, ta cũng thấy rằng lúc bấy giờ nghề điêu khắc đá đã hình
thành, ít ra đã làm được các bia ký.
Văn bia ở chùa Phổ Khánh (tức chùa làng Ái Nghĩa, nay thuộc Xã Đại An,
Huyện Đại Lộc, Tỉnh Quảng Nam) được dựng năm Mậu Ngọ, Vĩnh Trị thứ III (thời
vua Lê Hy Tông năm 1678) (5), mặc dầu chữ viết chỗ này có bị bị đục mờ nhưng
theo Tiến sĩ Huỳnh Công Bá người phát hiện ra tấm bia “Phổ Khánh tự bi” đã nhận
ra người thợ khắc bia có họ Huỳnh quê ở xã Quán Khái [11]. Như vậy, vào thời kỳ
này, nghề điêu khắc đá ở xã Quán Khái đã khá phát triển, người thợ của làng Quán
Khái đã khắc bia cho cả một vùng rộng lớn. Điều đó cũng cho thấy Làng Quán Khái
ít nhất đã thành lập trước đó một thời gian.
Nghề điêu khắc đá Non Nước có nguồn gốc từ Thanh Hóa và người có công
mang nghề vào truyền dạy là cụ Huỳnh Bá Quát. Trước cổng nhà thờ Thạch nghệ tổ
sư tọa lạc tại chân ngọn Thổ Sơn ghi hai dòng chữ “Tổ đức khai sinh nguyên Bắc
địa. Sư công sáng đạo hóa Nam thiên”. Như vậy, tại nơi diễn ra sinh hoạt làng nghề
và cũng là nơi cúng tổ nghề, những người thợ thủ công điêu khắc đá Non Nước luôn
hướng về vùng đất khởi nguồn của nghề nghiệp hôm nay.
80
Theo lời của những bậc cao niên, thời phong kiến nhà Nguyễn, Làng Quán
Khái được triều đình tặng 36 sắc phong, đáng tiếc là cả 36 sắc phong này đều đã bị
đốt cháy trong thời kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, hiện nay, trên bia mộ tiền
hiền tộc Huỳnh Bá (được lập vào thời Bảo Đại) chép lại nội dung sắc phong “Thạch
tượng Quán Khái xã. Huỳnh Bá tộc thủy khai” (Cục thủ công điêu khắc đá xã Quán
Khái do tộc Huỳnh Bá khai sinh đầu tiên). Đối chiếu với lời kể của các bô lão trong
làng, chúng ta đủ căn cứ khẳng định cụ Huỳnh Bá Quát là người có công truyền
nghề điêu khắc đá và cụ được tôn là tiền hiền của làng.
Mặc dầu hiện nay không tìm thấy tài liệu nào phản ánh trình độ chế tác của
người thợ làng Quán Khái trong những thế kỷ trước, nhưng thông qua các văn bia,
ta thấy những người thợ nơi đây đã “hành nghề” trên một phạm vi rộng. Điều này
thể hiện họ có tay nghề cao, tạo ra được thương hiệu riêng cho mình và nhận được
sự tin tưởng của nhân dân trong vùng.
Dưới thời nhà Nguyễn, tay nghề của người thợ điêu khắc đá Non Nước ngày
càng hoàn thiện, triều đình đã tuyển rất nhiều thợ giỏi của làng cùng với thợ giỏi
trong cả nước phục vụ nhu cầu xây dựng cung đình, lăng tẩm. Đạo dụ năm Minh
Mạng thứ 6 (1825) quy định “dân thợ đá Giáp Đông xã Quán Khái, trấn Quảng
Nam biết rõ nghề đá, về sau có ai mới về hoặc đến tuổi theo lệ cũ đăng ký để tự bổ
sung làm đá, không được tự tiện vào các nha môn, định làm lệ mãi mãi” [80, tr. 18].
Năm Minh Mạng thứ 6 (1827), triều đình lại ra đạo dụ:
Sai Bộ Công vẽ tượng quan văn, quan võ, lính thị vệ, voi đá, ngựa đá để đưa
vào Quảng Nam, Thanh Hóa chế tạo (tượng quan văn, quan võ mỗi thứ một đôi,
sáu đôi tượng thị vệ cao 3 thước 6 tấc, ngựa đá hai con, mỗi con cao 2 thước 7 tấc,
voi đá hai con, mỗi con cao 4 thước 6 tấc, khi chế tạo xong đệ về Kinh sai đem bày
ở lăng Thiên Thụ (lăng Gia Long) [80, tr. 19].
Chúng ta không biết rõ triều đình phân công như thế nào giữa thợ đá Thanh Hóa
và thợ đá Quảng Nam, nhưng điều đó chứng tỏ tay nghề của người thợ làng đá Non
Nước đã đạt đến trình độ cao trong kỹ thuật chế tác tượng và đã được triều đình tin cậy
như người thợ đá Thanh Hóa, một vùng đất mà nghề này tồn tại hàng ngàn năm.
Nghề làm đá chia thành: khai thác đá đục bia, chì lưới, chạm trổ, điêu khắc và
chế tác vòng trang sức, sản phẩm làm ra cũng đa dạng, mặc dầu không phải ngay từ
đầu nó đã có sự hoàn chỉnh, trơn tru của loại hình chế tác như ngày nay, mà nó phải trải
81
qua một quá trình phát triển lâu dài thông qua bàn tay lao động, cần cù, sáng tạo, tích
luỹ kinh nghiệm của người thợ nơi đây.
Những lúc mùa vụ nhàn rỗi, với nguồn nguyên liệu sẵn có ở núi Ngũ Hành
Sơn, họ mang dụng cụ tạo nên những vật dụng thiết yếu của gia đình, bên cạnh đó
còn nhắc nhở con cháu nhớ về nguồn gốc quê hương, gìn giữ cái nghề của cha ông
truyền lại. Do chỉ là nghề phụ, nên nghề làm đá chỉ phổ biến trong một vài hộ gia
đình mang tính tự phát, cha truyền con nối.
Đầu thế kỷ XIX, nghề điêu khắc đá có phần phát triển hơn, cả làng có trên
mười gia đình chuyên làm nghề này để sinh sống. Mặc dầu vẫn còn có sự kết hợp
với nông nghiệp, nhưng các hộ gia đình đã dựa vào nghề đá để mưu sinh và có sự
phân công lao động theo kiểu “chồng thợ, vợ nông”.
Buổi ban đầu, sản phẩm làm ra nhằm đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp, chưa
trở thành hàng hóa trao đổi trên thị trường. Tuy nhiên, những người thợ chuyên
khắc bia ký thì đã cùng với nghề lặn lội khắp nơi. Dần dần, cùng với sự phát triển
của nghề, các sản phẩm làm ra đã được mang đi khắp nơi ở Quảng Nam, Huế. Đầu
thế kỷ XIX, cụ Huỳnh Bá Thắm đã đến lập nghiệp tại làng Xuân Tây (lúc bấy giờ
thuộc địa phận La Vân xã, nay thuộc xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng
Nam), từ đó, nghề khai thác đá Xuân Tây ra đời và phát triển thành một làng nghề
rất nổi tiếng của Quảng Nam chuyên sản xuất bia, cối, đá lát bằng đá xanh. Đặc
biệt, những người thợ giỏi được triều đình tuyển chọn đã góp phần xây dựng kinh
đô Huế và các công trình nơi đây thêm phần tráng lệ.
Các sản phẩm làm ra đã đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của cư dân trong làng.
Bên cạnh đó, nghề thủ công này cũng đã giúp cho những hộ gia đình có thêm thu
nhập, bổ trợ cho nghề nông. Nền kinh tế của địa phương cũng có những sự chuyển
biến với sự góp mặt của nghề thủ công này. Sự chuyển biến đó càng thể hiện rõ
cùng với sự phát triển của nghề.
Làng làm mắm Nam Ô
Vào trước thế kỷ XIX, Nam Ô thuộc Ba Ổ Xuân Sơn xã. Theo Phủ biên tạp
lục của Lê Quý Đôn viết vào thế kỷ XVIII thì “Xuân Sơn xã thuộc tổng Lệ Sơn,
huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn” [33, tr. 252]. Có lẽ Xuân Sơn xã chỉ vùng đất Ba
Ổ Xuân Sơn xã. Sau này, làng có người con gái xinh đẹp tên là Trần Thị Ba được
vua Thiệu Trị chọn làm thiếp, vì kiêng húy nên địa danh Ba Ổ đổi thành Hóa Ổ.
82
Theo các vị cao niên trong làng, những nghĩa sĩ trong đoàn quân theo chân Đoan
Quận công Nguyễn Hoàng vào Nam năm 1558 “họ chỉ đi một mình, không dẫn theo
vợ con, gia đình. Rất có thể lúc bấy giờ đã diễn ra cuộc hôn nhân mà chú rể là
chàng lính Việt mà cô dâu là cô gái Chăm. Cho nên trong gia phả các tộc Đinh,
Phạm, Mai, Trần…, những vị tiền hiền của tộc, chỉ có tên ông mà không có tên bà”
[40, tr. 418]. Trên vùng đất mới đã diễn ra sự hòa hợp giữa người Việt và người
Chăm, họ chung sống hòa bình để cùng chế ngự mọi khó khăn, tìm lấy sự sống trên
vùng đất mới định cư này. Như vậy, làng Nam Ô ra đời vào khoảng chừng nửa sau
thế kỷ XVI, trong diễn trình Nam tiến của cha ông ta thời các chúa Nguyễn.
Sau khi theo chân Tiên chúa vào Nam, cuộc sống ban đầu của những cư dân
tại vùng đất mới còn gặp nhiều khốn khó do diện tích đồng bằng “mỏng như lá lúa”,
việc canh tác trên những vùng gò đồi, hay sườn núi cũng gặp nhiều trở ngại và theo
quy luật sống còn, cư dân đã tiến ra biển để tìm lấy sự sống. Ban đầu, cư dân ven
miền sông biển dựa vào nguồn cá, tôm, các loại hải sản để cải thiện bữa ăn. Từ chỗ
khai thác để cải thiện bữa ăn, cải thiện cuộc sống, dần dần những làng xã quanh
miền sông biển như Nại Hiên, Mỹ Khê đã dựa vào việc khai thác hải sản làm nghề
nghiệp và kế sinh nhai. Từ chỗ đánh bắt chỉ đáp ứng nhu cầu hằng ngày, về sau,
công cụ được cải tiến, kinh nghiệm được tích lũy nên sản lượng đánh bắt ngày càng
cao. Sản phẩm đánh bắt được cư dân mang đi trao đổi hoặc rao bán ở các chợ. Việc
trao đổi, buôn bán cũng chỉ được thực hiện ở một số chợ nhỏ lân cận chứ chưa có
điều kiện bán ở các chợ vùng xa nên tiêu thụ không được nhiều, cá tôm lại mau ươn
chóng ối, người bán đã bỏ muối vào để giữ được độ tươi trong thời gian lâu hơn.
Dần dần, việc này đã trở thành kinh nghiệm và phổ biến, nghề chế biến hải sản khởi
nguồn từ đó. Đây cũng là biện pháp giúp cho cư dân thay đổi khẩu vị của bữa ăn,
ngoài ăn cá tươi còn ăn cá khô, cá được muối thành mắm cái, cá được chiết xuất
thành nước mắm…
Ở nước ta, nghề làm nước mắm có ở nhiều nơi như: Phú Quốc, Nha Trang,
Phan Thiết, Quảng Ngãi…, song nước mắm Nam Ô với nguyên liệu và công thức
chế biến riêng đã tạo được hương vị đặc trưng. Loại nước mắm nổi tiếng nhất là
nước mắm cá cơm than. Nguyên liệu chính là cá cơm than và muối Cà Ná hay muối
Đề Gi, Sa Huỳnh (6). Ngoài nước mắm làm bằng cá cơm than là loại thượng hảo
hạng còn có các loại nước mắm làm bằng cá cơm khác, đây là nước mắm ăn thường
83
ngày của người dân Nam Ô, cũng như của các làng lân cận. Bên cạnh đó còn có
mắm thính cá chuồn, cá nục, cá thu, cá ngừ, mắm viên, mắm bột, mắm ruốc…
Nước mắm Nam Ô ra đời, tạo dựng được thương hiệu từ khá sớm, điều này
đã được dân gian phản ánh: “Nước mắm Nam Ô; Cá rô Xuân Thiều”. Thế kỷ XVII,
giáo sĩ C. Bori khi đi qua Đàng Trong đã từng nhận xét:
Họ chuyên đánh cá vì rất ham thứ nước “sốt” gọi là balaciam (nước
mắm) làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là thứ
nước cốt cay cay tựa như mù tạt của ta, nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn
trong chum, vại giống như nhiều nơi ở Châu Âu người ta dự trữ rượu. Thứ nước
cá này dùng một mình thì không nuốt được nhưng được dùng để gợi lên hương
vị và kích thích tì vị để ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nên không thể
không có thứ nước sốt đó [21, tr. 19].
Càng về sau, nước mắm được chế biến càng đạt đến độ thơm ngon đặc biệt,
Tạ Chí Đại Trường đã cung cấp tư liệu về “Bữa cơm của viên trấn thủ Tourane (Đà
Nẵng) đãi phái đoàn Macartney thịnh soạn. Có những đĩa đựng thịt bò xát miếng
vuông chấm với nước rất ngon” [104].
Mắm Nam Ô đã sớm có mặt trên hầu khắp các làng xã trong thành phố, các
tỉnh thành lân cận, một số món ăn ngon do sự kết hợp trong chế biến với mắm Nam
Ô: “Nước mắm Nam Ô, cá rô Xuân Thiều”, “Bún chợ Chùa thương nước mắm
Nam Ô”, “Bữa nay đợi bún chợ Chùa; Đợi mắm Nam Ổ, đợi cua làng Gành”. Một
số người đã gánh mắm đi bán ở các chợ làng lân cận, chợ Nam Ô đã ra đời khá
sớm, là nơi hội tụ của các thương nhân tìm đến mua hàng hóa trong đó có mắm
Nam Ô để mang đi khắp các vùng trong cả nước.
Nghề làm mắm Nam Ô ra đời gắn liền với quá trình khai phá, lập nghiệp
trong diễn trình “Nam tiến” của cha ông ta thời các chúa Nguyễn. Nghề thủ công
này khởi nguồn từ quá trình chinh phục biển cả, cải tạo cuộc sống nên đã giúp cho
cư dân Việt ổn định trên vùng đất mới, đây cũng là điểm khác biệt, trong khi các
nghề thủ công khác chỉ là nghề phụ bổ trợ cho nghề nông thì nghề làm mắm đã trở
thành kinh tế chủ đạo của làng Nam Ô ngay từ buổi đầu lập nghiệp.
Làng đúc đồng Phước Kiều
Làng Phước Kiều nằm trên quốc lộ 1 thuộc xã Điện Phương, huyện Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam. Theo tư liệu gia phả của các tộc họ hiện còn lưu giữ, làng
84
Phước Kiều được thành lập từ buổi đầu thời các chúa Nguyễn dựng nghiệp ở hai
xứ Thuận – Quảng. Từ xa xưa những người dân cùa hai làng Phước Ninh và Đề
Kiều (tỉnh Lạng Sơn) trên đường làm ăn, qua nhiều địa phương từ Đông Triều
Bắc Ninh, Hưng Yên, Thăng Long, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa, Thừa
Thiên,... đã tụ hội vào dinh trấn Thanh Chiêm (phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam)
nơi tộc Dương hiện nay là con cháu nhiều đời sinh cơ lập nghiệp, đến nay là làng
An Quán, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn. Để tưởng nhớ tổ tiên, họ ghép hai
tên làng Phước Ninh - Đề Kiều thành làng Phước Kiều. Vì thế có tên gọi làng
đúc đồng Phước Kiều hay An Quán cũng là một. Đây vốn là vùng đất truyền
thống đúc đồng nổi tiếng, các ông tiền hiền của tộc Dương Ngọc và Nguyễn Bá
đã truyền dạy nghề đúc cho bà con đồng tộc, lập ra làng đúc Phước Kiều cho tới
nay. Khi các chúa Nguyễn ra sức mở mang, ổn định ở hai xứ Thuận – Quảng,
nghề thủ công trong đó có nghề đúc đồng, sản xuất đồ gia dụng phát triển.
Cuối thế kỉ XVIII, nơi đây đã hình thành hai khu vực là phường tạc tượng
Đông Kiều và phường chú tượng Phước Kiều. Đến đầu thế kỉ XIX, triều Nguyễn
sáp nhập hai phường lại thành “xã hiệu Phước Kiều”, còn được gọi là làng đúc đồng
Phước Kiều. Làng đúc đồng Phước Kiều nổi tiếng tự bao đời đã đi vào câu ca và
xây dựng thành nhiều giai thoại với “Trống Lâm Yên, Chiêng Phước Kiều”.
Lần theo gia phả tộc Dương qua nhiều đời, ông tổ làng đúc đồng Phước Kiều
là Dương Không Lộ, Sinh năm 1019 quê xã Đề Kiều, tổng Bình Quân, châu Thất
Truyền, phủ Tường Khánh, tỉnh Lạng Sơn. Dương Không Lộ mất năm 1094, thọ 75
tuổi, tước phong “Không Lộ Giác Hải đại Thiền sư” (7).
Từ ông tổ họ Dương đã qua mười tám đời, còn con cháu vào sinh sống ở làng
Phước Kiều đã là đời thứ tám. Theo ông Dương Nhi 83 tuổi, Dương Nhị 80 tuổi,
Dương Mẹo 83 tuổi, ông Nguyễn Dư 90 tuổi là những tay nghề lão luyện còn lại
ông cố là Dương Ngọc Cơ, ông nội là Dương Ngọc Cũ, cha là Dương Ngọc Dung,
đều chuyên mỗi nghề đúc cha truyền con nối. Nhưng ở Phước Kiều không chỉ có họ
Dương, mà trên 10 tộc họ cũng làm nghề, như tộc Nguyễn Ngọc, tộc Nguyên, Lê
Văn, tộc Trần Trung, Trần Văn, Nguyễn Bá, tộc Đỗ, tộc Phan Viết...
Dưới thời phong kiến, người làng Phước Kiều phải thay phiên nhau mỗi
người ba tháng trong một năm, theo lệnh vua quan ra kinh đô Huế, đúc tiền, thẻ bài,
ấn triện, đồ ngự dụng cho triều đình. Dưới triều vua Tự Đức, Phước Kiều có 12 thợ
85
giỏi được vua cho thay phiên nhau ra kinh đô Huế đúc tiền, đúc thẻ bài cho triều
đình. Hễ tốp thợ này về thì tốp thợ kia ra thế. Kíp thợ đúc đồng hơn mười người ra
Huế đúc tiền rồi ở lại lập phường đúc, hành nghề và truyền dạy cho nhiều lớp thợ
đúc đến giờ. Trong số đó, có một người thợ thuộc phái ba tộc Nguyễn bén duyên
với một cô gái Huế và định cư luôn ngoài quê vợ. Tuy ở luôn, nhưng mọi thứ thuế
đều phải về Phước Kiều mà nộp vì ở Huế ông chỉ là dân ngụ cư. Đến đời vua Duy
Tân, Phước Kiều lại có ông Xã Mãi, tên thật là ông Trần Tạo, làm lý trưởng làng,
nhận đúc ấn cho vua. Ông xã Mãi đã đúc ấn vua Duy Tân ngay tại làng Phước Kiều.
Vua Duy Tân đã dùng ấn này đóng vào các chiếu dụ, sắc phong, trong đó có sắc
phong cho Lê Đình Dương người Gò Nổi, huyện Điện Bàn làm Tổng đốc tỉnh
Quảng Nam [40, tr.489].
Trước đây, làng chỉ đúc những sản phẩm truyền thống như chiêng, chuông,
thanh la, chân đèn, lư hương, đồ gia dụng... Đặc biệt, sản phẩm cồng chiêng của
Phước Kiều đã có mặt ở hầu khắp các bản làng dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Sự nổi tiếng của Phước Kiều, không chỉ ở mẫu mã, độ bền và cách chọn pha
chế đồng thau, mà còn là sự tinh xảo độc quyền, đặc biệt là đúc chuông, khánh,
thanh la (sênh), cồng chiêng, xạp xoả, đại hồng chung. Mỗi sản phẩm làm ra khi
đánh lên phải phát ra âm thanh theo sở thích của vùng, từng dân tộc vốn đã có ngôn
ngữ thứ tiếng riêng của họ, dân trong nghề gọi là “dạy tiếng” tức là tạo ra âm thanh
âm vực, hoàn chỉnh. Một bộ cồng chiêng từ 3 đến 5 chiếc, hoặc từ 5 đến 9 chiếc, 12
chiếc, mỗi chiếc đảm nhận một chức năng cung bậc nhất định, nhưng phải là tổng
thể âm thanh không cho lọt âm ra ngoài khi cả giàn cồng chiêng cùng đánh. Vì thế,
làm một bộ chiêng cho đồng bào dân tộc C’Tu ở A Lưới (Thừa Thiên Huế) gồm ba
chiếc, một lớn, hai nhỏ. Khi đánh lên âm thanh phải cùng một thang âm. Bộ chiêng
cho vùng Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk gồm sáu chiếc, chiếc này bỏ lọt vào lòng
chiếc kia, khi đánh lên, có chuỗi âm thanh cao, thấp vang dài. Bộ chiêng cho đồng
bào vùng Lâm Đồng gồm một cặp hai chiếc, khi đánh lên “tiếng trống”, “tiếng
mái”. Bộ chiêng cho vùng Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Trà My Quảng
Nam gồm năm đến bảy chiếc to, nhỏ khác nhau, khi đánh lên phải có âm thanh
“chìm”, “nổi” khác nhau. Những sản phẩm đặc trưng như độc bình, mặt trống đồng,
son, nồi, chảo, muỗng, cối xay tinh bột sắn... thể hiện bàn tay tài hoa và tâm hồn
tinh tế của người dân bản địa. Về âm thanh, âm sắc của những nhạc cụ dân tộc từ
86
Nam Đông - A Lưới (các vùng dân tộc miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế) đến tỉnh
Bình Phước hay kể cả một số nhạc cụ của đồng bào các dân tộc vùng Tây Nguyên
đều do làng đồng Phước Kiều cung cấp.
Việc tổ chức sản xuất ở làng Phước Kiều theo hộ gia đình, hoặc nhiều hộ,
nhiều người thợ tập trung làm chung thành hội. Trong khi sản xuất thì phân chia
công việc theo công đoạn, theo nhiệm vụ từng bước của quy trình như trình bày trên
đây dựa vào trình độ tay nghề của người thợ. Việc phân công còn thể hiện ở những
người đảm nhận các khâu khác nhau từ khi bắt đầu đến khi sản phẩm hoàn thiện. Có
người chuyên việc cung cấp nguyên liệu đồ đồng, có người chuyên sản xuất tạo sản
phẩm, có người chuyên buôn bán, có người chuyên tìm mối và bỏ hàng cho mối...
Thị trường tiêu thụ đồ đồng của làng đúc Phước Kiều xưa nay không bó hẹp
ở Quảng Nam, Đà Nẵng mà còn mở rộng ra tận Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, vào
Quảng Ngãi, Phú Yên và lên đến Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng... Bên cạnh hàng
chục hộ chuyên đúc các loại sản phẩm bằng đồng thì số người đi buôn đồ đồng
cũng nhiều. Người trong làng có, ngoài làng có. Mỗi một thương lái đều có thị
trường riêng của mình, ở Huế có ông Võ Chánh thường vào Phước Kiều mua các
loại thanh la đem ra bán tận miền A Sao (Quảng Trị), A Lưới (Thừa Thiên Huế). Ở
Quảng Nam, vùng Trà My có ông Tư Nghĩa, ông Lưu Xong... kinh doanh mặt hàng
này. Ở Phước Sơn có ông Dương Hộ người chính gốc Phước Kiều mua cồng chiêng
mang đi bán. Ông Phạm Bàn ở Phước Kiều cũng là thương lái buôn bán đồ đồng
nhưng vào tận Trà Bồng, Đồng Ké thuộc Quảng Ngãi tiêu thụ.
Tuy mặt hàng buôn bán ở miền núi chủ yếu chiêng, thanh la nhưng không
phải cái nào cũng giống cái nào. Ngoài hình thức to nhỏ thì âm thanh mỗi vùng
mỗi khác. Trong đó, âm thanh của các loại hình nhạc cụ ở Buôn Mê Thuột dễ lấy
tiếng. Ngược lại, âm thanh ở Trà Bồng Nam Trà My, Bắc Trà My, Hiên, Nam
Giang khó lấy tiếng phù hợp cách thẩm âm của các dân tộc vùng này. Để lấy
được, đòi hỏi người lấy tiếng phải là thợ giỏi. Đấy là kể huyện thanh la. Còn lấy
tiếng cho chiêng một loại hình nhạc cụ dùng cúng bái ở các đình chùa... lễ hội
miền núi lại càng khó hơn.
Riêng với mặt hàng chuông hay còn gọi là đại hồng chung, người Phước
Kiều thường làm theo đơn đặt hàng. Hễ có khách hàng đến đặt họ mới làm. Do làm
đại hồng chung chiếm nhiều thời gian, công sức nên số người tham gia khá đông, từ
87
ba mươi đến bốn mươi người. Thường muốn đúc chuông nặng chừng 200 kg; họ
phải dùng đến 300 kg đồng. Mỗi mẻ có 4 người nấu. Nấu xong, lần lượt rót vào
khuôn, hết mẻ này đến mẻ khác. Xưa nay, những người thợ giỏi của làng đúc đồng
Phước Kiều được các chùa trong và ngoài tỉnh thay nhau mời đúc đại hồng chung.
Có lúc, họ phải lên nhiều tỉnh ở Tây Nguyên làm theo đơn đặt hàng của khách.
Nhiều gia đình trở nên khá giả, có của ăn của để cũng nhờ có nghề thủ công
truyền thống này. Một số gia đình như các ông Phan Tự, Trần Đức, Trần Phàn,
Nguyễn Cải, Dương Ca... bỏ tiền ra thuê thợ làm quanh năm để kịp có sản phẩm
cung cấp thị trường các nơi. Đấy là những gia đình giàu có, nhiều công lao động.
Còn những gia đình khác cũng sản xuất ra đồ đồng nhưng chỉ trong phạm vi gia
đình, không có công phụ giúp nên không vươn lên được nhưng vẫn có thu nhập khá
hơn rất nhiều nghề làm nông. Một số người thì chuyên cung cấp nguyên liệu hay
buôn bán, tìm mối, bỏ mối theo đơn đặt hàng... quanh năm suốt tháng vẫn có việc
làm, dù vất vả nhưng thu nhập cũng tương đối.
Nghề đúc đồng có những bí quyết riêng để có thể tạo ra được những sản
phẩm nổi tiếng mà nhiều nơi biết đến. Một trong những bí quyết đó là pha hợp kim.
Qua bao thời tồn tại, phát triển nghề đúc làng Phước Kiều đã tích luỹ được những
kinh nghiệm lớn. Để có được sản phẩm (nhất là các loại nhạc khí) người thợ phải
mất nhiều thời gian, công sức với sự tỉ mỉ, khéo léo trong việc làm khuôn. Khuôn
đất sét qua nhiều công đoạn: nhồi đất, làm bìa, giáp khuôn, thét khuôn, trổ điệu...
Tuỳ sản phẩm mà làm khuôn sống (dùng một lần) hoặc khuôn bền (dùng nhiều lần).
Cũng tuỳ sản phẩm, thợ đúc làng áp dụng những kỹ thuật khác nhau trong việc
nung khuôn, nấu kim loại, rót khuôn và ra khuôn. Mỗi gia đình có bí quyết pha chế
hợp kim riêng để đúc. Như đồng đỏ, đồng thau (đồng pha thiếc), đồng (đồng pha
nhôm), đồng xanh (đồng pha kẽm) và đồng thoà (đồng pha vàng).
Trong nghề đúc truyền thống, thì làm nguội chính là công đoạn cuối trong
việc quyết định chất lượng sản phẩm. Người trong làng nghề Phước Kiều quan
niệm, một cái chiêng mới ra khuôn đánh lên vẫn có tiếng, nhưng chưa phải là tiếng
chiêng, mà chỉ như âm thanh ban đầu của một đứa bé mới tập nói, vì thế cần phải
tạo cho chiêng ngân vang. Kỹ thuật lấy tiếng nhạc khí là nét riêng của làng đúc
Phước Kiều, nhờ đó có thể phân biệt nhạc khí của làng với bất cứ nơi nào khác.
88
Ngoài ra, các nghệ nhân Phước Kiều phải có kỹ thuật thẩm âm để tạo ra sản
phẩm có tiếng vang, phù hợp với phong tục, tập quán và văn hóa tâm linh của từng
tộc người. Điều này đòi hỏi người thợ Phước Kiều phải có đôi tai tinh nhạy, sự từng
trải, am hiểu và kinh nghiệm cảm nhận âm thanh tinh tế.
Làng dệt chiếu Cẩm Nê
Làng Cẩm Nê (nay là thôn Cẩm Nê) (8) ở phía Đông Bắc xã Hòa Tiến được
bao bọc bởi hai con sông: phía Bắc là sông Cái (đoạn cuối sông Yên) và phía Nam
là sông Trong (đoạn cuối sông Tây Tịnh). Sông Yên còn có tên là sông Thạch Bồ (9)
là một chi lưu của sông Cầu Đỏ, nằm về phía hữu ngạn, nhưng đồng thời cũng là
phân lưu từ sông Vu Gia ở Quảng Nam (10). Sông Yên hợp lưu với sông Túy Loan
(11) tạo thành sông Cầu Đỏ. Sông Cầu Đỏ chảy dài qua địa phận huyện Hòa Vang
đến các xã thuộc địa phận quận Cẩm Lệ gọi là sông Cẩm Lệ trước khi làm thành
sông Hàn và đổ ra biển. Sông Yên - sông Túy Loan - sông Cầu Đỏ - sông Cẩm Lệ
đã tạo nên một dòng chảy xuyên suốt trước khi hòa mình vào biển cả. Do vậy, làng
Cẩm Nê chịu tác động của hiện tượng biển xâm thực, một số vùng đất ven sông bị
ngập mặn. Trong khi đó, buổi đầu khai phá, đất đai chủ yếu là bùn lầy do tác động
của hệ thống thủy lưu các con sông. Cư dân nơi đây bên cạnh việc trồng lúa đã
trồng thêm các loại cây chịu được đất bùn lầy và nhiễm mặn, trong đó có cây cói
(lác), là nguyên liệu của nghề dệt chiếu.
Sau khi sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, cư dân người Việt đã đến đây khai
khẩn, lập làng. Tiền hiền của làng Cẩm Nê là các ông: Ngô Quang Thành, Nguyễn
Hữu Biên, Lê Văn Mưng, Phan Thế Khanh và những người kế tục là các ông: Ngô
Kỉnh Đại Lang, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phan Văn Đôn, Huỳnh Công Thâu, Võ Văn Lang.
Theo gia phả tộc Ngô, thủy tổ của tộc là ông Ngô Quang Thành, một trong
những người lập ra làng Cẩm Nê (12). Cùng với họ Ngô, Lê, ông Phan Thế Khanh
cũng là một trong những người đầu tiên lập nên làng Cẩm Nê (13).
Cũng giống như các làng xã khác ở Việt Nam, buổi ban đầu, cư dân nơi đây
sống chủ yếu bằng nông nghiệp, cuộc sống của họ gắn chặt với nghề nông khốn
khó. Bên cạnh đó, những lúc nhàn rỗi, họ tranh thủ làm thêm nghề dệt chiếu. Trải
qua thời kỳ chiến tranh ác liệt, tất cả những sổ sách, gia phả đều bị đốt cháy, các gia
phả hiện nay chỉ được viết lại theo trí nhớ của các bậc cao niên. Vì vậy, chúng ta
không thể biết chính xác là nghề dệt chiếu Cẩm Nê ra đời từ bao giờ, chỉ biết rằng
89
được truyền vào từ Thanh Hóa theo chân các vị tiền nhân từ những ngày đầu khai
khẩn, lập làng.
Hầu hết các vị tiền nhân đều có nguồn gốc từ Thanh Hóa, khi vào đây, họ đã
mang theo gia quyến và chiêu tập người dân cùng địa phương đến sinh sống, lập
nghiệp. Do đó, ta khẳng định nghề dệt chiếu Cẩm Nê có nguồn gốc từ Thanh Hóa,
nhưng từ địa phương nào của tỉnh Thanh Hóa truyền vào thì có hai ý kiến khác
nhau: có ý kiến cho rằng nghề dệt chiếu Cẩm Nê có nguồn gốc từ Hoằng Hóa, bởi
vị tiền hiền của làng Ngài Ngô Quang Thành là người Hoằng Hóa , nhưng có ý kiến
khác lại cho rằng có nguồn gốc từ làng Nga Sơn (14). Chúng ta chưa có được tư liệu
tin cậy, xác thực nguồn gốc của nghề dệt chiếu Cẩm Nê, song với những nguồn tư
liệu trên đây, cùng với lời kể của các bậc cao niên, ta khẳng định nghề dệt chiếu
Cẩm Nê đã có lịch sử trên dưới 500 năm, đây không phải là nghề bản địa mà được
truyền vào từ Thanh Hóa.
Cây đay và cây lác (một số nơi còn gọi là cây cói) là nguyên liệu chính tạo
nên những chiếc chiếu. Lác được trồng ven cửa sông, vùng đất thường xuyên có
nước ngập, một số nơi có nước thủy triều tràn vào, cây lác sẽ cứng và đẹp hơn. Sau
khi thu hoạch, lác được phơi khô, chẻ thành những sợi mịn và tùy theo kích thước
mà chiếu được dệt với khổ dài hay ngắn. Những sợi lác được kết lại với nhau nhờ
vào sợi đay. Cây đay dài thẳng được lột vỏ ngoài, ngâm, cạo thật sạch, phơi khô, xé
thành những sợi nhỏ, xe thành những sợi dài. Bên cạnh đó, phải dùng thêm phẩm
màu để nhuộm, tạo cho chiếc chiếu có màu sắc đẹp. Trong buổi đầu lập làng, nơi
đây còn là vùng đầm lầy, và chịu ảnh hưởng của hiện tượng xâm thực nên cây lác
được trồng khá nhiều và đủ để cung ứng cho nghề dệt chiếu ở nơi đây.
Với nguồn nguyên liệu và công cụ trên đây, việc dệt chiếu được tiến hành ngay
tại các hộ gia đình, kỹ thuật dệt chiếu cũng giản đơn, không thật cầu kỳ. Mặc dầu vậy,
để tạo nên chiếc chiếu, người sản xuất phải trải qua quá trình lao động đầy khó nhọc.
Chiếu Cẩm Nê chủ yếu là chiếu hoa nên phải sử dụng lác màu, đây là loại lác
được nhuộm bằng phẩm màu đã được pha chế qua việc đun sôi, để tạo thành màu
đỏ thì dùng gỗ cây vang (tô mộc), màu xanh thì dùng phẩm thanh, vàng thì dùng
nghệ và bột cây dành dành (chi tử).
Ở Cẩm Nê chủ yếu dệt chiếu hoa (còn gọi là chiếu bông, chiếu cải) và chiếu
màu. Dệt chiếu màu, người đưa thoi chỉ sử dụng lác mỗi sợi một loại màu khác
90
nhau, lựa màu lác rồi trao xen với nhau cân đối để tạo nên chiếc chiếu với những
màu sắc hài hòa. Chiếu hoa ở giữa dệt chữ “Thọ” hoặc chữ “Song Hỷ”, còn bốn góc
là “tứ linh” (long, lân, quy, phụng) hoặc bốn hoa văn lớn. Chiếu hoa dệt bằng lác
nhuộm sẵn, sau khi dệt, hoa văn nổi lên cả hai mặt chiếu.
Đa phần cư dân nơi đây sống bằng nghề nông, dệt chiếu chỉ là nghề phụ diễn
ra lúc mùa vụ nhàn rỗi, sản phẩm làm ra không mang lại thu nhập cao cho các hộ
gia đình cũng như kinh tế của địa phương, quy mô nhỏ lẻ, công cụ thô sơ, tổ chức
giản đơn, điều đó phản ánh trình độ thấp của nghề thủ công này. Nghề dệt chiếu
Cẩm Nê được diễn ra trong phạm vi gia đình, không được tổ chức thành các đội
hay các xưởng. Lao động tham gia dệt chiếu nhằm tận dụng thời gian nhàn rỗi, do
đó, lao động không có sự tách biệt với nghề nông. Trong bản thân nghề dệt chiếu
cũng không có sự phân công lao động, sản xuất theo kiểu khép kín trong các hộ
gia đình, họ tận dụng nhân lực sẵn có để thực hiện tất cả các công đoạn từ đi mua
lác, sơ chế, nhuộm phẩm, dệt, hoàn thiện sản phẩm và mang chiếu rao bán trên thị
trường. Do chưa có sự phân công chuyên biệt nên sản xuất không tạo nên động lực
thúc đẩy sự phát triển của nghề cũng như không thúc đẩy sự phát triển của việc
giao thương buôn bán.
Chiếu là vật phẩm thiết yếu trong đời sống của mọi người dân Việt Nam, nên
bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu ngay trong gia đình, chiếu còn được đem ra chợ làng
và các chợ lân cận để bán. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu sử dụng ngày
càng tăng, chiếu Cẩm Nê đã có thị trường rộng hơn, tuy nhiên do điều kiện giao
thông lúc bấy giờ còn khó khăn nên số lượng chiếu xuất đi xa còn nhiều hạn chế.
Cư dân nơi đây chủ yếu sống bằng nghề nông, nhưng diện tích trồng lúa ít,
phần lớn đất đai là bùn lầy, ngập mặn nên đời sống còn nhiều khó khăn. Nghề dệt
chiếu ra đời đã bổ trợ thiết thực cho nghề nông, vùng đầm lầy đã được sử dụng để
trồng lác, thời gian nông nhàn đã được sử dụng hữu ích, thu nhập từ nghề dệt chiếu
đã góp phần làm cho đời sống các hộ gia đình được cải thiện, cơ cấu ngành nghề của
địa phương đa dạng hơn. Mặc dầu vậy, do sản xuất còn nhỏ, mang tính thủ công nên
đây cũng chỉ là nghề phụ, tác động đối với kinh tế của địa phương chưa thật rõ nét.
Người thợ dệt chiếu ở Cẩm Nê có bí quyết trong việc pha màu gọi là “trao
màu”, tạo hoa văn hình thể cho chiếc chiếu. Vì vậy những chiếc chiếu hoa (chiếu
bông, chiếu cải) và chiếu màu luôn cân đối, màu sắc hài hòa. Chiếu hoa ở giữa dệt
91
chữ “Thọ” hoặc chữ “Song Hỷ”, còn bốn góc là “tứ linh” (long, lân, quy, phụng)
hoặc bốn hoa văn lớn. Chiếu hoa dệt bằng lác nhuộm sẵn, sau khi dệt, hoa văn nổi
lên cả hai mặt chiếu thể hiện sự sáng tạo của người dệt chiếu nơi đây mà không nơi
đâu cũng có được.
Làng gốm Thanh Hà
Làng Thanh Hà nằm ven sông Thu Bồn, cách thành phố Hội An 3 km về
phía Tây. Làng Thanh Hà xưa, nay được mang địa danh chỉ số: thôn 5 và thôn 6 của
xã Cẩm Hà, thành phố Hội An, nằm phía bờ bắc sông Thu Bồn. Làng Thanh Hà bấy
giờ có cả thảy hơn mười xóm là Cồn Động, Đồng Nà, Bến Trễ, Bàu Ốc, Bàu Súng,
An Bang, Hậu Xá, Bập Thủy, Xóm Kế, Cửa Suối, An Điện và Nhự Quế. Như vậy,
làng Thanh Hà xưa đất rộng, sau tách thành nhiều xã. Thanh Hà chỉ là địa danh
chung. Qua điền dã cho biết, dân làng gốm đều tập trung ở xóm Nam Diêu. Lúc bấy
giờ các Thủy tổ của làng thuộc các tộc Nguyễn Viết, Nguyễn Văn, Bùi, Ngụy, Võ,
Lê, Nguyễn Kim, Nguyễn Đức từ các xứ Thanh Hóa, Nghệ An ở Đàng Ngoài di dân
và lập nghiệp ờ Đàng Trong, tạo dựng nên làng Thanh Hà, với nghề thủ công truyền
thống cùng phát triển nhộn nhịp; đồng thời với sự thịnh vượng của cảng thị Hội An
dưới thời Chúa Nguyễn. Dưới thời triều Nguyễn, Thanh Hà là một đơn vị hành
chính cấp xã bao gồm các ấp Nam Diêu, Hậu Xá, An Bang, Thanh Chiêm, Đông
Nà, Bến Trễ, Trà Quế, Cồn Động, Bàu Ốc, Trảng Kẻo và Cửa Suối.
Làng nghề gốm Thanh Hà sớm phát triển ở cảng thị Hội An trước hết là nhờ
có vị trí địa lý hội đủ các điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất các sản phẩm sành
gốm vì ấp Nam Diêu, trung tâm của làng nghề ở gần các địa điểm có trữ lượng
nguyên liệu đất sét như ấp An Bang (thuộc Thanh Hà) và Thanh Chiêm (Điện
Phương - Điện Bàn). Gốm Thanh Hà phát triển mạnh từ thế kỷ XVII, XVIII với sự
ra đời và phát triển của Hội An, trung tâm thương nghiệp Đàng Trong lúc bấy giờ.
Ngoài những mặt hàng chủ yếu phục vụ nhu cầu hàng ngày của người dân địa
phương và các vùng lân cận, còn có các loại vại, muỗng đựng đường dần dần trở
thành mặt hàng thiết yếu cung cấp cho người sản xuất đường tại Bảo An và các
địa phương khác cũng như các thương gia ra vào buôn bán ở Đàng Trong. Mặt
khác, ấp Nam Diêu là một cồn đất cao, các mặt phía Bắc, Tây và Nam đều giáp
với sông Lai Nghi và sông Hội An và nằm gần con đường đi đến Thanh Chiêm
chừng 5 - 6 km (về sau phát triển thành đường tỉnh lộ 607, cách không xa đường
92
quốc lộ 1), rất thuận tiện cho việc tiếp nhận nguyên liệu cùng như lưu thông sản
phẩm bằng đường bộ lẫn đường thủy. Thêm vào đó, sự phát triển của cảng thị Hội
An trong các thế kỷ XVII và XVIII có nhu cầu rất lớn về các sản phẩm sành gốm
xây dựng và gia dụng đồng thời với việc bán ra cho các địa phương khác trong nội
địa và xuất khẩu ra nước ngoài.
Nghề gốm Thanh Hà theo bước chân cha ông từ Thanh Hoá vào Nam khoảng
đầu thế kỷ thử XV, phát triển phồn thịnh trong thế kỷ thứ XVII - XVIII cùng với
làng đúc Phước Kiều, làng trống Lâm Yên. Cùng với làng mộc Kim Bồng bên kia
sông Hoài, làng rau Trà Quế (xã Cẩm Châu, Hội An), làng gốm Thanh Hà (xã Cẩm
Hà, Hội An) là một trong những làng nghề truyền thống nối cửa Đại Chiêm – phố
Hội An - dinh trấn Thanh Chiêm tạo nên khung cảnh sầm uất của thủ phủ xứ Đàng
Trong, thế kỷ thứ XVII - XVIII.
Theo các nghệ nhân cao niên trong làng, họ cũng chỉ biết rằng ông tổ của
làng nghề là người có nguốn gốc từ xứ Đàng Ngoài, là những cư dân đầu tiên đến
đây lập nghiệp. Khởi nguyên, họ làm họ xây dựng lò gốm tại xóm Thanh Chiêm
chứ không phải xóm Nam Diêu, sau đó thấy vùng đất kề bên tốt hơn, thích họp với
việc làm nguyên liệu nghề gốm nên họ dời sang ở và đặt tên là Nam Diêu. Nam là
hựớng Nam, Diêu là lò. Xóm Nam Diêu, Thanh Chiêm nằm trong làng gốm Thanh
Hà. Tương truyền rằng, ban đầu các vị tiền hiền đã chọn ấp Thanh Chiêm (nay là
khối VI, phường Thanh Hà) là nơi có nhiều nguyên liệu đất sét và gần sông để khởi
phát nghề gốm. Nhưng sau đó do bờ sông Thu Bồn chuyển dịch dần về phía Nam,
nên muộn nhất vào đầu thế kỷ XIX, các tiền hiền đã chuyển dời đến ấp Nam Diêu.
Và đến năm 1868, miếu ông Tổ nghề gốm được xây dựng tại đây... Qua thời gian
phát triển của làng nghề, địa bàn sản xuất sành, gốm còn lan rộng Xuân Mỹ (hiện
nay là khối V phường Thanh Hà), ấp An Bang (nay là khối IV, phường Thanh Hà),
nhưng ngày nay ở Thanh Hà việc sản xuất gốm chỉ còn ở Nam Diêu.
Nguyên liệu chính để làm các sản phẩm gốm và sành là đất sét bao gồm
nhiều loại đất mở gà, đất sét trắng, đất sét vàng... trong đó chủ yếu là đất sét vàng có
độ dẻo và độ kết dính cao. Do vậy, khi sản phẩm gốm làm ra, gõ vào sẽ phát ra
tiếng kêu độc đáo. Trước đây, đất sét vàng được khai thác ở những khu vực lân cận
Nam Diêu. Hiện nay, thợ gốm phải mua đất sét vàng tại Thi Lai, xã Điện Phương và
Thanh Quýt, xã Điện Thắng thuộc huyện Điện Bàn. Các cơ sở bán đất sét vàng
dùng ghe vận chuyển nguyên liệu đến cho Thanh Hà.
93
Theo các nhà nghiên cứu về gốm thì gốm Thanh Hà chủ yếu là gốm đất nung
và gốm sành nâu. Gốm đất nung là sản phẩm được làm từ đất sét thường, lấy ngay
từ các cánh đồng ruộng Thanh Hà và được nung qua lửa ở nhiệt độ thấp từ 600°c -
900°c, phần lớn có màu đỏ hoặc vàng gạch. Gốm sành nâu được nung ở nhiệt độ
cao hơn 1000°c, xương đất chớm chảy, kết dính mịn và chắc chắn, gần như màu
gang, dân làng nghề quen gọi là hàng lò xanh, sản phẩm ra lò, có nhiều sản phẩm
chín xanh như ánh thép, gõ vào tiếng vang lên trong, thanh.
Việc sản xuất được thực hiện theo hộ gia đình, thường những người thợ cả,
thợ lành nghề, có uy tín, có điều kiện đứng ra làm chủ, thuê thợ phụ làm việc tại lò
gốm. Ban đầu các hộ sản xuất tự tìm hướng ra của sản phẩm thông qua phụ nữ trong
gia đình đứng ra bán hoặc thực hiện theo các đơn đặt hàng. Về sau, với sự phát triển
và thương hiệu ngày càng vang xa, đã xuất hiện các thương nhân, mối lái thực hiện
việc buôn bán, tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, dần dần về sau đã có sự phân công
trong sản xuất giữa người thợ cả, thợ phụ, người bán hàng, người tiêu thụ sản phẩm
giúp cho các lò gốm của các hộ gia đình tại Thanh Hà ngày càng phát triển.
Từ xa xưa, nhân dân xứ Quảng đã phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của làng
nghề gốm Thanh Hà qua những dòng ca dao:
“Lửa chi lửa rực sáng lòa,
Nghề gốm nghề gạch Thanh Hà là đây,
Đêm khuya phảng phất gió Tây
Người thương thức dậy lời bày đón đưa”
Các sản phẩm gốm, sành truyền thống của làng nghề gốm Thanh Hà rất đa
dạng, có đến 40 loại khác nhau, gồm gốm gia dụng (hũ, vại, nôi, thạp, trả, om
v.v...), dụng cụ sản xuất nghề dệt (vại ươm tơ, âu suốt đựng chỉ dệt) nghề làm
đường (muổng lọc đường) và gạch ngói.
Thời kỳ đầu là những sản phẩm thông dụng trong các gia đình người Quảng,
phục vụ thiết thực đời sống nhân dân và sinh hoạt cá nhân như nồi, niêu, trã, hũ,
chum ché, tĩn, ông táo, bát hương, bình vôi, siêu, âu, chậu...
Càng về sau, sản phẩm làng gốm Thanh Hà rất phong phú, gồm các loại hũ
như hũ hiếu, hũ bồi ngang, hũ lon chai, hũ lon mắm, hũ bốn, hũ năm cùng các loại
nồi đất đủ kích cở, chưa kể bùng binh, cối giã tiêu... Ngoài ra, Thanh Hà còn làm
các loại gạch thẻ dày, mỏng, ngói âm dương lợp nhà, ngói móc (kiểu ngói Tây, mặt
94
phẳng, có khe rảnh chồng, móc lên nhau) và các loại gạch thẻ, gạch vuông 4 lỗ, 6 lỗ
và gạch thẻ lớn cỡ 13 X 19 cm, cung cấp cho xây dựng nhà cửa và các công trình
kiến trúc phố cổ Hội An và nhiều lăng tẩm, chùa chiền, công sở tại Quảng Nam-Đà
Nẵng. Một số sản phẩm gốm mỹ nghệ được bày và sử dụng trong cung vua, ngói
được chọn lợp và trùng tu lăng tẩm ở Huế. Một số sản phẩm khác như tượng, con
giống đất nung với nhiều hình dáng, kích cỡ khác nhau như con trâu, chó, gà. lợn,
cua, cá, nai, hổ... đến bình vôi, nồi hương, siêu, ấm và hình nhũng ngôi nhà, ngọn
tháp, lão tiều phu. ngư ông, mục đồng, ghe thuyên... trưng bày trong tủ, trên bàn.
tạo tiểu cảnh, hòn non bộ...
Đến khi nghề làm đường tại Quảng Nam phát triển phồn thịnh, làng gốm
Thanh Hà lại sản xuất thêm muỗng dùng vào việc sản xuất đường cát, các loại
chum, vại đựng đường... đặc biệt là hàng chum vại cung ứng cho nghề làm đường,
làm mắm và bán cho thương lái các nước:
“Thanh Hà vẫn gạch, bát, nồi
Thuốc thơm Cẩm Lệ mấy đời lừng danh”
Các loại hình gốm truyền thống Thanh Hà gồm đồ gốm, sành không có lớp
áo men phủ bên ngoài, xương mịn, đa số không có hoa văn, riêng một vài loại hũ
sành được trang trí đường viền răng cưa nổi, văn lượn sóng ở cổ, vai. Tiểu sành
cũng có những hoa văn chìm ở xung quanh. Dưới thời Minh Mạng, triều đình đã đặt
mua các mặt hàng “Bát ăn cơm kiểu chữ Phúc Lộc Thọ, kiểu Trúc Điểu (chim và
cành trúc), kiểu Long Ẩn (rồng ẩn trong mây); các bộ đồ trà kiểu Phúc Lộc Thọ,
kiểu Sơn Điểu thích cầm (chim núi nghe đàn)”; các loại đôn sứ, chậu hoa, siêu đất
[110, tr. 131].
Ở Quảng Nam – Đà Nẵng cũng có nơi làm đồ gốm như tại La Tháp (Duỵ
Xuyên), Hoà Quý (Thăng Bình), Lò Chén (Quế Sơn) nhưng sản xuất không nhiều
loại sản phẩm, chủng loại mẫu mã và đạt chất lượng như gốm Thanh Hà. Vì thế các
mặt hàng tại đây được ưa chuộng và tiêu thụ đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế, Quảng Ngãi, Bình Định. Tại bến sông Thanh Hà hầu như ngày nào cũng
có ghe thuyền vào “ăn hàng” cùng với phương tiện đường bộ vào ra đông vui suốt
cả ngày mùa. Cùng với đội ngũ những người thợ gốm, Thanh Hà cũng xuất hiện
những người buôn gốm, chuyên mua gốm đem đi bán các nơi. Các ông Bể, ông
Khái, ông Lự, ông Hương Mần... nổi tiếng một thời về công việc “tiếp thị” cho làng
95
nghề gốm. Hầu hết họ đều có ghe bầu riêng chuyên chở gốm đi khắp các địa
phương trong và ngoài tỉnh cung cấp cho nhu cầu bà con xa gần. Đặc biệt, ông Bê
có đến hai lò, một lò gạch và một lò gốm. Nhờ vậy, ông thuộc lớp giàu có nhất nhì
làng. Những người buôn chuyến hoặc tự người làm nghề chuyển sản phẩm đi bán.
Gốm Thanh Hà là một trong những mặt hàng được thương nhân nước ngoài,
đặc biệt là người Nhật ra vào buôn bán ở Đàng Trong ưa chuộng. Sự nổi tiếng của
làng gốm Thanh Hà được thể hiện cụ thể qua hàng gốm xuất khẩu sang Nhật Bản
vào nửa đầu thế kỷ XVII. Nhiều tài liệu còn lưu lại ghi rõ gốm Cochi hay Cauchi,
tức Giao Chỉ rất được người Nhật ưa chuộng: “Từ thế kỷ XVII, Hội An đã xuất khẩu
được một hàng gốm, hàng mộc. Gốm “Cochi” mà người Nhật ưa chuộng có cả gốm
Thanh Hà xứ Quảng” [40, tr, 372], về vấn đề này, Giáo sư khảo cổ học Nhật Bản
Hasabe Gakuji đã viết “Các tàu buôn (Nhật Bản) đến Việt Nam mua tơ sống, hàng
lụa, hương liệu và cúc loại tạp hóa, đồng thời còn mua một khối lượng gốm sứ
Nam. Điều này có thể chứng minh bằng nhiều vật còn nguyên vẹn hiện nay vẫn còn
lưu giữ ở Nhật Bản” [40, tr, 372].
Làng gốm Thanh Hà phát triển mạnh vào nửa đầu thế kỷ XIX trở về trước.
Theo ước tính, cả xóm Nam Diêu có hơn hai chục bàn xoay. Cứ tính mỗi bàn xoay
bình quân ba lao động, gồm một người làm đất, nhào đất; một người nhồi kỹ lại,
lượm sỏi, rác lẫn lộn trong đất; một người chuốt gốm rồi đem ra phơi... thì tổng số
lao động làng nghề gần cả trăm. Cùng với lực lượng thợ làm đất, chuốt gốm. Thanh
Hà là nơi có nhiều lò nung gốm. Hồi đầu thế kỷ XIX, trong xóm có nhiều lò tiêu
biểu như lò ông Bể, ông Bài, ông Đãnh, ông Kỷ Nhự, ông Tòng, ông Tỵ... và nhiều
người khác. Theo tập san B.A.V.H: Dưới thời Tự Đức có thợ gốm tên Võ Văn Ba
người làng Thanh Hà, từng được triệu tập ra Huế phục dịch tại lồ gốm Long Thọ
[99, t5, tr. 205].
Nghề làm gốm đã giúp cho đời sống nhân dân được nâng cao, đã có nhiều hộ
gia đình làm gốm xây dựng được nhà ngói 3-5 gian, đã có đến 10 hộ gia đình buôn
gốm có ghe bầu.
Làng mộc Kim Bồng
Làng Kim Bồng, tên cũ là Kim Bồng Châu, thuộc tổng Mỹ Khê, huyện Duy
Xuyên, nay một phần lớn diện tích thuộc xã Cẩm Kim, thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam. Đây là một làng được hình thành rất sớm tại thương cảng Hội An vào
96
thế kỷ thứ XVI dưới thời chúa Nguyễn. Làng Kim Bồng còn là nơi hình thành nghề
thủ công nổi tiếng đã trở thành truyền thống vói tên gọi Làng nghề mộc Kim Bồng.
Qua các thư tịch cổ còn lưu lại của các tộc họ Nguyễn, Phan, Huỳnh, Trương
ở xã cẩm Kim thì vị thủy tổ nghề mộc làng Kim Bồng là người gốc tỉnh Thanh Hóa
đã di cư vào lập nghiệp tại đây vào thế kỷ thứ XVI. Nhận thấy vùng đất Kim Bồng
có ba mặt giáp sông, nằm bên bờ một con sông lớn là sông Thu Bồn, sát bên cạnh
đô thị thương cảng mang tầm quốc tế Hội An, rất thuận tiện cho sự phát triển nghề
mộc xây dựng cũng như nghề mộc gia dụng mà các tiền hiền của làng Kim Bồng đã
chọn nơi đây làm nơi định cư lâu dài để xây dựng làng nghề mộc truyền thống. Do
làng Kim Bồng nằm về phía hữu ngạn hạ lưu sông Thu Bồn, chảy qua thành phố
Hội An trước khi đổ ra biển nên từ làng Kim Bồng nhìn qua bên kia sông là phố cổ
Hội An - thương cảng của xứ Đàng Trong xưa. Làng Kim Bồng cỏ vị trí thuận lợi,
vừa không cách xa trung tâm đô thị, vừa dễ dàng trong việc giao thông vận chuyển
vật liệu bằng đường thuỷ, lẫn đường bộ để phát triển ngành nghề.
Tổ tiên nghề mộc Kim Bồng vốn từ đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ, đặc
biệt là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh hội tụ về làm ăn sinh sống từ thế kỷ thứ XV. Họ
bắt đầu ngôi nhà của mình bằng tranh tre cổ truyền giống như bao ngôi nhà làng quê
khác trên đất Quảng, đến khi làm ăn nên nổi lại có ngôi nhà khung gỗ bình thường
tam gian nhị hạ, rồi đến các tiện nghi, đồ dùng trong gia đình, các phương tiện đi lại
như ghe, thuyền,... Nhưng may mắn hơn nghề mộc ở một số địa phương khác, vào
cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII do Hội An với nhiều yếu tố thuận lợi đã nhanh
chóng phát triển thịnh vượng trở thành một đô thị thương cảng ngoại thương quan
trọng tại Đàng Trong vào thời các chúa Nguyễn. Các nghành nghề thủ công lúc bấy
giờ có điều kiện phát triển mạnh nhằm đáp ứng các yêu cầu sinh hoạt, xây dựng, tu
bổ và tôn tạo các di tích, công thự, đình chùa trong đó đáng kể có sự tham gia của
nghề mộc làng Kim Bồng.
Đóng thuyền cũng là bí quyết thành thạo của các chủ trại mộc ở Kim Bồng.
Gỗ đóng thuyền là gỗ kiền kiền có sẵn ở vùng Tây tỉnh Quảng Nam, được khai thác
kết bè thả dọc theo sông Thu Bồn cập vào Kim Bồng. Gỗ được cưa xẻ, phơi tại chỗ,
chỉ dùng để đóng tàu thuyền là chính, vì kiền kiền chịu nước, chịu lực đàn hồi tốt,
càng ngâm lâu dưới nước càng chắc, ít mối mọt, nứt nẻ. Mỗi trại mộc, đóng cùng
97
lúc từ 7 đến 10 chiếc. Để đóng một chiếc thuyền loại trung, có sức chở mười tấn
hàng phải cần hai thợ chính, ba thợ phụ và phải làm liên tục từ một đến một tháng
rưỡi mới xong. Đóng thuyền khó nhất không phải làm khung lắp gỗ mà chính là
khâu xàm kẽ (dùng dăm bào của gỗ, nhét vào từng lớp giữa hai kẽ gỗ dọc theo thân
thuyền) càng xảm kĩ bao nhiêu, càng tránh được nước theo kẽ gỗ rỉ vào lòng thuyền.
Khi xảm xong, người ta cho thuyền nằm úp xuống để phơi nắng và quét đầu rái. Dầu
rái phải quét ba lớp mỏng để chống thấm nước. Tàu thuyền (ghe bầu, thuyền chiến)
ở Kim Bồng về mẫu mã có khác một số vùng lòng thuyền sâu, thân thuyền bầu
(phình ra) hơi về cuối đàng lái, mũi thuyền nhô cao và thon dáng để xẻ nước lướt
sóng mạnh hơn, do ít lực cản.
Tài hoa của những người thợ làng Kim Bồng là có con mắt chọn gỗ, đưa
những đường vân, thớ gỗ vào các đồ vật đúng chổ, đúng hình nét, hình thể để tăng
vẻ đẹp hài hoà. Vì thế, đồ mộc Kim Bồng kén khách hàng, giá cao, do không sản
xuất đại trà được. Sản phẩm làm ra, đều có sự chọn lọc với một óc sáng tạo tinh tế
trong cách thể hiện ra bản vẽ (thiết kế) rồi người thợ trực tiếp cưa xẻ, đục đóng hoặc
chạm khoét trổ hình theo các phác thảo đó, cộng với sự tưởng tượng bay bổng, phá
cách càng làm đẹp thêm ra.
“Phú Bông dệt lụa, dệt sa
Kim Bồng thợ mộc, Ô Gia thợ rừng”
Nghề gỗ nói chung, nghề làm từng sản phẩm mỹ nghệ thường công phu và
phải trải qua nhiều công đoạn, tránh để sứt gãy, làm mất giá trị mặt hàng. Cho đến
nay, việc dùng máy móc chỉ áp dụng thay thế sức người được vài khâu như cưa xẻ
gỗ, đánh bóng loại sản phẩm thông thường, còn lại làm bằng đôi tay là chính. Đục,
chàn, bào cưa nhỏ, giấy nhám, dăm bào, thước kẻ nẩy mực là những đồ nghề chủ
lực của người thợ.
Tổ chức nghề mộc xây dựng hay nghề mộc gia dụng Kim Bồng thường có
quy mô của những trại gỗ lớn, lực lượng lao động là thành viên trong gia đình hay
liên kết với những thợ mộc làm công, chủ trại thường là thợ cả, quản lý mọi lĩnh
vực tài chính, ký hiệp đồng, trả lương cho thợ...Trong trại sản xuất, chủ trại và các
thợ cả là những nghệ nhân cùng các thợ phụ phối họp với nhau để chế tác sản phẩm.
Các nghệ nhân tay nghề cao, giàu kinh nghiệm là những người có khả năng thiết kế
các sản phẩm, thực hiện thành thạo các công đoạn chế tác tạo ra các sản phẩm có
chất lượng cao, mẫu mã tinh xảo.
98
Ngoài làm nhà, đóng thuyền, làng Kim Bồng còn kết hợp với việc chế tác sản
phẩm một số mặt hàng gỗ mỹ nghệ phục vụ cho xuất khẩu đang được các nước ưa
chuộng như Phù Điêu, vũ nữ Chăm, bộ khay trà, tràng kỹ, thuyền buồm thế kỷ XVI
— XVII (loại trang trí)... bằng những loại gỗ quý. Bên cạnh đó, việc đóng các vật
dụng đồ dùng trong gia đình như bàn, ghế, tủ, giường... cũng rất tinh tế, nổi tiếng,
được ưa chuộng.
Nhiều thế hệ làng thợ mộc Kim Bồng không những đã để lại dấu ấn tài nghệ
tuyệt vời của mình ở quần thể di tích đô thị cổ Hội An mà còn trong nhiều công
trình, di tích khác như lăng tẩm, miếu mộ tại kinh thành Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn,
Phan Thiết... nhiều sản phẩm dân dụng từ Kim Bồng theo thuyền buôn vượt đại
dương có mặt ở các nước xa xôi bằng các sản phẩm khung kính chạm thủng hình
hoa trái, tứ linh, bộ khay trà chạm nổi tứ quý (mai, cúc, trúc, sen), bộ tràng kĩ có cẩn
xà cừ, đôn, kệ đặt lọ sứ mỹ nghệ, đặt tượng Phật, tượng mỹ nghệ; các loại tranh
phong cảnh chạm nổi, liễn đối, tượng mỹ thuật mục đồng, ngư tiều, canh mục, thiếu
nữ, chim, cá, nhiều nhất là tượng các vị La Hán, tượng Phật... tuỳ theo từng loại đồ
vật mà dùng gỗ để đóng, để chạm trổ, chủ yếu là gỗ trắc, gõ, mun, lát, cẩm lai, mít
là những thứ gỗ có độ bền dẻo và có màu đẹp, vân gỗ nổi tự nhiên.
Như đã trình bày trên đây, việc tổ chức nghề mộc xây dựng hay nghề mộc
gia dụng Kim Bồng thường có quy mô của những trại gỗ lớn, với nhiều công đoạn
làm việc, nhiều sản phẩm khác nhau. Điều này cần một lực lượng lao động đông với
những nhiệm vụ khác nhau, đã giải quyết một lượng lớn lao động. Bên cạnh đó, các
thương nhân, mối lái, người cung cấp nguyên liệu... cũng tham gia cùng với người
thợ, các trại sản xuất.
Với sự nổi tiếng của nghề mộc Kim Bồng, sản phẩm được chuộng, công việc
làm thường xuyên, đã mang đến nguồn thu nhập cao, ổn định. Bức tranh kinh tế của
vùng quê này khấm khá nhờ vào nghề thủ công nổi tiếng này.
Làng dệt vải Mã Châu
Làng Mã Châu (theo tên địa giới hành chính là thôn Châu Hiệp) thuộc thị trấn
Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam đã có tên trong Ô châu cận lục với
tên gọi Lang Châu (15).
Tương truyền, cách đây 300 năm có một ngôi đình được xây dựng gọi là đình
Tứ Mã. Đình thờ bà Mã Châu, bà có công khai hoang vùng đất Mã Châu và phát
99
triển nơi đây nghề trồng dâu nuôi tằm. Tên tuổi của bà có ghi trong thần phả đặt tại
chùa Phúc Kiến thành phố Hội An. Ngôi đình Tứ Mã nay nhân dân Mã Châu vẫn
còn thờ cúng bà “Tổ ba đời Nguyên là người dinh Quảng Nam, phủ Thăng Hoa học
dệt cùa người Bắc Khách, đời đời truyền nghề cho nhau. Các hàng vóc, lãnh, gấm,
trừu cài hoa rất khéo...", "Ở Quảng Nam, lụa thuế lấy hai phủ Thăng Hoa, Điện
Bàn. Phủ Điện Bàn, huyện Phủ Châu hằng năm nộp lụa thuế 2.538 tan... Dinh
Quảng Nam có thợ dệt bóng, mỗi năm nộp thay thuế sai dù, thường tân, tiết liệu
bằng bóng. Thuận Hoá không có nhiều của cải, đến lấy ở Quảng Nam là đất phì
nhiêu nhất thiên hạ... người Thăng Hoa, phủ Điện Bàn biết dệt lụa, vóc, the, đoạn,
lĩnh hoa màu khéo, đẹp chẳng kém Quảng Đông” [33, tr. 332].
Trong Ô châu cận lục có nhắc tới việc làng Lang Châu (Mã Châu) dệt lụa
trắng. Từ thế kỷ thứ XVII trở đi, tàu thuyền một số nước ở châu Á, châu Âu giao
thiệp với Hội An đã chở đến, mang đi mỗi mùa chợ phiên không biết bao nhiêu hàng
tơ lụa, đã thúc đẩy ngành trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa phát triển không
ngừng. Nhưng sự kiện đầy ấn tượng ở Quảng Nam là cuộc đời của cô gái trồng dâu,
nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa ở làng Chiêm Sơn, huyện Diên Phước, thuộc trấn Quảng
Nam bên bờ sông Thu Bồn đã đi vào sử sách và truyền thuyết dân gian về “Bà chúa
Tàm Tang”, mà trong Đại Nam liệt truyện tiền biên đã viết: Năm mười lăm tuổi bà
hái dâu bên bãi, trông trăng mà hát, bấy giờ Hy Tông Hoàng đế (Chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên) đi tuần du Quảng Nam, Thần Tông Hoàng đế (tức Chúa thượng
Nguyễn Phúc Lan) theo hộ giá, đêm đến, đáp thuyền chơi trăng, đỗ thuyền ở ghềnh
Điện Châu (bấy giờ là bãi An Phú Tây) câu cá, nghe tiếng hát lấy làm lạ, sai người
đến biết là con gái họ Đoàn, cho tiến vào hầu chúa ở Tiềm đế, được yêu chiều
lắm...” [40, tr.332] (16).
Thế tử Nguyễn Phúc Lan trở thành Nhân quận công trấn giữ Quảng Nam, bà
Đoàn Thị Ngọc Phi đã hết lòng khuỵến khích, ủng hộ nhân dân các phủ Điện Bàn,
Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Nhờ vậy được
mệnh danh “Bà Chúa tàm tang” ở Đàng Trong. Các cô gái trồng dâu, nuôi tằm, dệt
lụa ở quê hương Bà mãi truyền tụng câu hát:
“Chiêm Sơn là lụa mỹ miều
Mai vang tiếng cửi, chiểu chiều tơ giăng”
100
“Nương dâu xanh thẳm quê mình
Nắng lên Gò Nổi đượm tình thiết tha
Con tằm kéo kén cho ta
Tháng ngày cần mẫn làm ra lụa đời”
Về sau, ngành dệt phát triển mạnh và huyện Duy Xuyên trở thành chiếc nôi
của nghề dệt truyền thống:
“Duy Xuyên tơ lụa mỹ miều,
Mai vàng canh cửi, chiều chiều ươm tơ” (17)
Mã Châu nằm trong vùng trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa dọc theo hai
bên bờ sông Bà Rén, hàng năm sông Bà Rén bồi đắp phù sa cho làng sau mùa lũ lụt,
đất được bồi tụ thường xuyên, thuận lợi cho việc trồng dâu nuôi tằm phát triển.
Cây dâu ở đây được trồng vào tháng 10, trên bãi đất bồi bằng những cành nhỏ
(miền Bắc gọi là hom dâu). Cây dâu sau khi trồng thì 10 đến 15 năm sau mới phải
trồng lại. Mỗi năm vào tháng 11, người ta chặt hết cành dâu và chờ nảy ra vụ mới.
Đó cũng là mùa nước lũ, nước sông Bà Rén dâng cao đem lại môt nguồn dinh
dưỡng lớn để nuôi cây dâu. Cây dâu ở đây có khả năng chịu hạn cao.
Tháng 3, lá dâu lên tốt cũng là lúc bước vào vụ tằm. Một năm ở đây nuôi
được tám lứa tằm, trong đó có một lứa tằm xuân vào tháng 3. Từ tháng 4, tháng 5
bắt đầu vào vụ, kết thúc vào tháng 11 và tháng 7, tháng 8 là thời điểm thích hợp nhất
để nuôi tằm. Tằm ở đây là giống tằm đa hệ, tức là một năm có thể đẻ nhiều lượt
trứng liên tục (khác với giống tằm đơn hệ - đẻ một lứa trứng một năm và giống tằm
lưỡng hệ - đẻ hai lứa trứng một năm. Mỗi lứa tằm từ 20 - 22 ngày).
Như vậy, Mã Châu là vùng đất trù phú, trong đó việc trồng dâu, nuôi tằm
thuận lợi, đảm bảo cung ứng nguyên liệu cho ngành dệt vải nơi đây.
“Lãnh Đông Yên
Đũi Chợ Chùa
Lụa Mã Châu”,
“Mã Châu tơ lụa mỹ miều
Bên kia cửi mắc, bên này tơ giăng”
Những câu ca như vậy phần nào in đậm dấu ấn các địa danh làng xã, nơi
trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, lãnh nổi tiếng trong và ngoài đất Quảng một
thời của tỉnh Quảng Nam trong đó có làng Mã Châu. Sự nổi tiếng của nghề Mã
101
Châu đã được nhắc đến ngay từ thế kỷ XVI “Lang Châu sản xuất nhiều lụa trắng”
[1, tr, 43]. Đại Nam nhất thống chí, mục thổ sản cũng chép: “Lụa - sản ở xã Thăng
Bình huyện Diên Phước thì chất dày, sản ở Mã Châu huyện Duy Xuyên thì chất
mỏng” [63, tr. 336].
Thật ra không chỉ các nơi ấy mà còn nhiều làng khác có nghề thủ công truyền
thống về dệt vải như Thi Lai, Phú Bông, Hà Mật, Đông Bàn, Bảo An, Tư Phú,
Quảng Huế, Bàng Lãnh, Quáng Đợi, La Qua, Giao Thủy... ở các huyện Duy Xuyên,
Điện Bàn đều có nhiều hộ gia đình ươm tơ dệt lụa. Nhưng chỉ có hai làng đã được
ghi vào sử sách và được nhắc đến như một niềm tự hào của đất Quảng và làng nghề
cổ truyền của cả nước. Mã Châu thời bấy giờ còn gọi là Vạn Buồng. Vạn Buồng
(Mã Châu) là vùng bãi đất bồi màu mỡ ven sông, những người hành nghề nuôi tằm
đến ở, vây buồng nuôi tằm. Mỗi buồng có vài ba chục nong tằm lớn, các làng nghề
có ươm tơ thường đến đây mua kén.
Thị trường Sài Gòn, Hà Nội. Hải Phòng, Nam Vang, Vạn Tượng, tiêu thụ mặt
hàng lãnh, lụa, tuýt-xo rất nhanh. Ban đầu dệt lĩnh trơn, dần dần theo thị hiếu của thị
trường, người ta đóng các khung dệt các loại lãnh đệm, như đệm to, chỉ cần thay đổi
kiểu trục chữ ngũ, hoa thị, bông to, bông dây, chỉ cần thay đổi kiểu trục gùi chính và
trục gùi bông, số lượng các lá go và cải đổi cách mắc go. Chẳng bao lâu số lượng
khung cửi dệt phát triển nhanh, nhiều gia đình làm ruộng cũng chuyên sang nghề
dệt. Một số gia đình giàu lên nhờ dệt hoặc đi buôn tơ lụa. Có lúc nguồn tơ ở địa
phương không đủ, người ta phải nhập tơ trắng, tơ vàng từ Thượng Hải. Ông Võ Dần
là một trong số đó. Ngành dệt rộ lên và phát đạt khắp các làng, xã vùng Duỵ Xuyên,
Điện Bàn, Đại Lộc, đến nỗi đi đâu người ta cũng nghe tiếng lắc cắc cùa khung cửi
và phụ tùng va đập vào nhau như tiếng mõ suốt ngày đêm và nó đã đi vào một thành
ngữ ngộ nghĩnh “Thanh Hà cháy nhà, Phú Bông, Thi Lai, Hà Mật đánh mõ” (Thanh
Hà là làng nung gốm, khói lửa mù mịt).
Khác với những làng nghề miền Bắc xem nghề thủ công là nghề phụ, ở Mã
Châu, người dân coi nghề dệt là nghề chính “làm ruộng ba năm, nuôi tằm một lứa”.
Nhiều hộ gia đình và đặc biệt là một số dòng họ ở Mã Châu chỉ chuyên làm nghề
dệt. Ước tính có đến có 3/4 lao động của làng tham gia vào nghề dệt, còn lại 1/4 là
sản xuất nông nghiệp và làm các nghề khác. Nghề dệt đã ăn sâu vào đời sống và chi
phối mọi hoạt động của những người dân nơi đây. Họ đã tự hào:
102
“Làng nghề truyền thống Mã Châu
Ươm tơ dệt lụa, trồng dâu nuôi tằm”.
Nghề dệt ở đây không chỉ là nghề riêng của người phụ nữ, đàn ông cũng tham
gia vào nghề dệt và cả việc buôn bán sản phẩm đi các vùng khác. Nhờ nghề dệt mà
Mã Châu có một diện mạo khá trù phú.
Nghề dệt đã thúc đẩy sự giao thương buôn bán giữa Mã Châu với các vùng
xung quanh. Nơi đây từ rất sớm đã trở thành một điểm giao thương sầm uất, hàng
hoá đi về tấp nập. Hàng đi là những cây vải, tơ lụa được sản xuất từ Mã Châu, được
các thương nhân từ nơi khác tới mua hoặc người dân ở đây đem đi bán:
“Tơ, cau thuốc chở đầy ghe
Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần”.
Hàng đến là các loại sản vật ở các vùng, các làng khác đem đến để cung cấp
cho nhu cầu của cư dân Mã Châu. Với 3/4 dân số làm nghề dệt dẫn đến việc sản
xuất nông nghiệp ở Mã Châu không đủ để đáp ứng cho nhu cầu của người dân nơi
đây. Vì vậy, người dân ở đây cũng có nhu cầu mở rộng giao lưu buôn bán với các
vùng khác. Mặt khác, nghề dệt cùng sự giao thương tấp nập đã làm cho đời sống
kinh tế của cư dân Mã Châu tương đối ổn định và người dân có mức sống khá cao.
Trong thời kỳ phát triển nhất của làng thì Mã Châu là nơi tập hợp những của ngon
vật lạ, những đặc sản của các vùng xung quanh.
Là làng chuyên nghề dệt nên đời sống của cư dân ở đây cũng phụ thuộc rất
nhiều vào việc buôn bán sản phẩm. Khi sản phẩm làm ra bán được thì cuộc sống của
họ tương đối ổn định nhưng khi sản phẩm làm ra không bán được hoặc buôn bán
thua lỗ thì đời sốn của họ cũng rất vất vả, cơ cực.
“Con gái có chồng về đất Mã Châu
Cái bụng xẹp lép, áo quần láng o”
Làng Mã Châu trước còn có nghề nhuộm đến nay vẫn còn lưu giữ, họ sử
dụng cách nhuộm như người Cơ Tu ở miền núi Quảng Nam. Người Cơ Tu dùng
những bộ phận của cây rừng làm thuốc nhuộm. Muốn có màu đỏ họ dùng củ cây
ahứ giã nát, nấu lấy nước làm thuốc; màu vàng thì lấy rễ cây vàng đắng, một loại
cây dây leo (angoăn mrớt); màu đen thì dùng lá cây tarâm giã nát, ngâm lâu ngày.
Riêng màu trắng thì có khi để nguyên màu trắng của bông nhưng tông màu này bị
chói, nên họ lấy vỏ ốc dưới suối nướng chín giã thành bột và nhuộm để chúng không
còn màu trắng lóa nữa.
103
2.3.3. Những nét mới trong thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng thời
Nguyễn so với trước
Cho đến trước thế kỷ XIX, thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng đã có
một chặng đường dài phát triển. Nhiều nghề đã đạt đến trình độ rất cao “người
Thăng Hoa Điện Bàn biết dệt vải lụa vóc đoạn lĩnh là hoa màu khéo đẹp chẳng kém
Quảng Đông” [33, tr. 371].
Kế thừa những nét tinh anh được chắt chiu qua bao đời, thủ công nghiệp
Quảng Nam – Đà Nẵng thời nhà Nguyễn (giai đoạn 1802-1885) đã có bước phát
triển mới. Người thợ thủ công đã áp dụng những kỹ thuật mới vào sản xuất như
nghề làm gốm đã sử dụng bàn xoay, nghề làm đá đã sử dụng các mũi khoan, sử
sụng kỹ thuật khoan tách lõi, nghề làm mộc đã sử dụng kỹ thuật tiện, nghề làm mắm
đã sử dụng kỹ thuật đóng chai, nghề ép dầu phụng đã sử dụng kỹ thuật máy kít...
Chính kỹ thuật mới đã tạo năng suất cao, sản phẩm tinh xảo, quan trọng hơn là thể
hiện tính chuyên nghiệp.
Thủ công nghiệp đã thực sự là “nghề” và người thợ thủ công coi đây là
“nghiệp” mà mình đã dấn thân vào. Sự phân công lao động rõ ràng “chồng thợ, vợ
nông”, thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp và đóng vai trò tương xứng trong
cơ cấu ngành nghề của địa phương. Sự phân chia lao động không chỉ diễn ra giữa
nghề nông và nghề thủ công và chính trong nội bộ nghề thủ công cũng đã có sự phân
chia: người chuyên đi cung cấp nguyên liệu, người chuyên phụ việc, người chuyên
tâm sản xuất, người chuyên việc buôn bán, phát triển thị trường.
Việc tổ chức sản xuất đã mang một số đặc điểm của phương thức “doanh
nghiệp”. Các làng nước mắm Nam Ô, làng đá Non Nước, mộc Kim Bồng, đường Bảo
An sản xuất theo kiểu công ty, có đầu tư phát triển, tạo thương hiệu, sản xuất đáp ứng
thị hiếu người tiêu dùng, tìm hướng đầu ra để mang lại lợi nhuận cao.
Với việc Đà Nẵng là hải cảng chính thức và duy nhất là nơi giao thương với
nước ngoài đã giúp cho hàng hóa trong đó có mặt hàng thủ công nghiệp theo chân
thương lái nước ngoài xuất khẩu sang các nước tạo nên thị trường ngoài nước bên
cạnh nội thương truyền thống.
Triều đình phong kiến cũng đã chú trọng đến việc đầu tư theo kiểu công
xưởng như trường hợp khai thác vàng Bồng Miêu cho thấy được lối tư duy mới
trong đầu tư khai thác nhằm mang lại lợi nhuận.
104
Tiểu kết chương 2
Quảng Nam - Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước. Điều kiện tự
nhiên ở đây phong phú, đa dạng với đầy đủ các dạng địa hình từ núi đồi, sông, biển
đến đồng bằng và hải đảo. Với cấu tạo địa hình và một chế độ khí hậu vừa khắc
nghiệt vừa hiền hòa, thuận lợi cho các luồng cư dân người Việt sớm đến đây khai
phá. Nhưng do những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, trong đó quan trọng là đất
sản xuất nông nghiệp ít ỏi và kém màu mỡ làm cho quá trình tụ cư ổn định ở Quảng
Nam - Đà Nẵng trải qua thời gian dài từ đầu thế kỉ XIV, đã tác động lớn đến sự hình
thành và phát triển của Quảng Nam - Đà Nẵng. Với vị trí địa lý đặc biệt đó, nơi đây
trở thành gạch nối Bắc – Nam, Đông – Tây, đất liền – hải đảo của nước ta. Trong
suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, mảnh đất này luôn thể hiện vai trò của một vùng
trọng yếu. Chính điều kiện thuận lợi này đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
Quảng Nam - Đà Nẵng, trong đó có thủ công nghiệp.
Tiếp nối những thành tựu thời kỳ trước, thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà
Nẵng thời kỳ này tiếp tục phát triển và đạt được những thành tựu tiêu biểu.
Số lượng các nghề, làng nghề có sự gia tăng và phân bổ đều khắp so với thời
kỳ trước, sự đa dạng hơn về chủng loại ngành nghề, các loại sản phẩm. Bên cạnh
các nghề, làng nghề truyền thống, một số nghề và làng nghề mới đã ra đời nhằm đáp
ứng sự gia tăng về dân số, sự phát triển của các ngành kinh tế khác như nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, đáp ứng thị hiếu của người dùng và sự
phát triển của các chợ, thị trấn, thị tứ, đô thị và giao thương buôn bán với người
nước ngoài. Điều này được thể hiện qua việc đối sánh phần miêu tả ở nội dung thổ
sản của hai tác phẩm Phủ biên tạp lục và Đại Nam nhất thống chí. Số lượng các
nghề và các địa phương có các sản vật nổi tiếng trong Đại Nam nhất thống chí
thống kê tăng rất nhiều so với Phủ biên tạp lục.
Thông qua chế độ công tượng, biệt nạp, nguồn nhân lực, vật lực trên lĩnh vực
thủ công nghiệp đóng góp cho triều đình, trong đó những thợ giỏi, nghệ nhân tham
gia xây dựng những công trình công cộng tại kinh thành Huế ngày nay đã trở thành
di sản văn hóa thế giới, niềm tự hào chung nhân loại.
Đây là thời kỳ lịch sử dân tộc có nhiều biến cố mà những hệ lụy của nó có
ảnh hưởng trực tiếp đến vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng, tình hình chính trị, kinh
tế, xã hội có nhiều chuyển biến, song sự đóng góp đối với thủ công nghiệp nhà
105
nước, sự phát triển của thủ công nghiệp dân gian, cùng với đó, một số yếu tố mới
xuất hiện càng khẳng định vai trò của thủ công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của địa
phương cũng như trong bức tranh kinh tế chung thủ công nghiệp nước ta thời kỳ
này. Sự phát triển của các ngành kinh tế khác đã đặt ra yêu cầu đối với thủ công
nghiệp, ngược lại, sự phát triển của thủ công nghiệp là đòn bẩy thúc đẩy các ngành
kinh tế khác phát triển. Các ngành kinh tế có sự tương hỗ, giúp cho bức tranh kinh
tế Quảng Nam – Đà Nẵng thời kỳ này với những gam màu sáng trong bối cảnh tình
hình chính trị - xã hội có những chuyển biến.
106
Chương 3
THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 1885 ĐẾN NĂM 1945
3.1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ MỚI
3.1.1. Tình hình chính trị
Sau sự kiện Thuận An thất thủ ngày 18/8/1883, “triều đình Huế hoang mang
cực độ, đã chấp nhận tất cả những yêu sách của thực dân Pháp đưa ra và ký kết với
chúng hàng ước Quý Mùi, còn gọi Điều ước Harmand (25/8/1883)” [10, tr. 1018,
1019]. Sau Hiệp ước này, về mặt đối ngoại, nước ta đặt dưới sự “bảo hộ” của nước
Pháp. Nam Kỳ vốn là thuộc địa của Pháp thì mở rộng thêm tỉnh Bình Thuận. Bắc
Kỳ bao gồm cả Thanh - Nghệ - Tĩnh là đất bảo hộ. Triều đình Huế quản lý phần còn
lại nhưng có một khâm sứ Pháp đóng ở Huế để chỉ đạo và theo dõi các công việc
đối nội và đối ngoại. Thực chất đây là chế độ nửa bảo hộ. Theo tác giả Huỳnh Công
Bá trong công trình Lịch sử Việt Nam cổ trung đại:
Chính phủ Pháp cho điều chỉnh lại chút ít Hòa ước Quý Mùi bằng Hòa
ước Giáp Thân, còn gọi là Điều ước Patenotre (6/6/1884). Theo đó, Pháp trả
lại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh về cho Trung Kỳ thuộc triều đình
Huế quản lý. Từ đây, nước Việt Nam vốn là một quốc gia độc lập, thống
nhất, có chủ quyền đã trở thành một xứ “bảo hộ” của nước Pháp, mà thực
chất là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp, cùng với chế độ chính trị khác
nhau được thiết lập trên ba kỳ, thực chất là chính sách “chia để trị” của
chúng [10, tr. 1019].
Sau vụ biến kinh thành Huế ngày 05/7/1885, nhà nước phong kiến độc lập đã
sụp đổ hoàn toàn. Triều Nguyễn do Đồng Khánh đứng đầu trở thành tay sai của
Pháp, Việt Nam thực sự trở thành một nước thuộc địa.
Ngày 01/11/1888 (Mậu Tý), vua Đồng Khánh ký một đạo dụ nhượng trọn
quyền sở hữu ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng cho chính phủ Pháp kiến
lập thuộc địa. Theo phụ đính của đạo dụ, Đà Nẵng gồm các xã Hải Châu, Phước
Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên. Đó chính là lãnh địa đầu tiên của
thành phố Đà Nẵng thời nhượng địa.
107
Ngày 13/01/1901 (Canh Tý), vua Thành Thái ký thêm một đạo dụ nới rộng
nhượng địa Đà Nẵng, cắt thêm tám xã thuộc huyện Hòa Vang (Xuân Đán, Thạc
Gián, Liên Trì, Bình Thuận, Xuân Hòa, Thanh Khê, Đông Hà Khê, Yên Khê) và sáu
xã thuộc huyện Diên Phước (Mỹ Khê, An Hải, Tân Thái, Nại Hiên Đông, Mậu
Quang, Vĩnh Yên) nhập vào nhượng địa.
Ngày 19/9/1905, một nghị định của toàn quyền Đông Dương Paul Beau tách
thành phố Tourane (Đà Nẵng) thành đơn vị hành chính độc lập khỏi Quảng Nam
gồm 17 xã và bán đảo Sơn Trà.
Là nhượng địa, Đà Nẵng không có quan lại Nam triều trong bộ máy cai trị
như ở Quảng Nam. Đứng đầu thành phố là một viên đốc lý người Pháp do toàn
quyền Đông Dương bổ nhiệm trong hàng công chức Pháp thuộc ngạch “quan cai trị
thuộc địa” theo đề nghị của Khâm sứ Trung Kỳ. Thành phố có một hội đồng thị xã
gồm bảy người (năm người Pháp và hai người Việt) do Khâm sứ Trung Kỳ chỉ
định, ghế chủ tịch Hội đồng do nghị viện người Pháp nắm giữ.
Ở Quảng Nam, thực dân Pháp lập ra hai bộ máy hành chính: bộ máy của
triều đình nhà Nguyễn, đứng đầu là viên tổng đốc, đóng ở thành La Qua (Điện
Bàn), bên cạnh đó lại có tòa sứ đóng ở Hội An (Faifo) do viên công sứ Pháp cầm
đầu để quản lý điều hành mọi mặt tại Quảng Nam – Đà Nẵng.
Như vậy, thời Pháp thuộc, Quảng Nam – Đà Nẵng có hai chế độ chính trị
khác nhau: Đà Nẵng là thành phố nhượng địa của Pháp, Quảng Nam là phần đất
giao cho triều đình nhà Nguyễn cai trị nhưng lại có chính phủ Pháp bảo hộ.
3.1.2. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp
Hiệp ước Harmand (1883) và Hiệp ước Patenôtre (1884) được ký kết, nước
Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Thực dân Pháp đã tiến hành hai cuộc khai
thác thuộc địa: lần thứ nhất (1897 - 1914), lần thứ hai (1919-1929). Qua hai lần khai
thác thuộc địa của Pháp, tình hình kinh tế - xã hội Quảng Nam – Đà Nẵng có nhiều
chuyển biến.
Nền kinh tế truyền thống của Quảng Nam – Đà Nẵng dưới thời phong kiến là
nông nghiệp. Thực dân Pháp xem đây là ngành vốn ít mà thu lãi nhanh. Vì vậy,
Pháp đã tập trung chiếm đất lập đồn điền. Do bị lệ thuộc vào chính sách khai thác
thuộc địa của Pháp, quá trình chuyển biến kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng
ở Việt Nam cũng như ở Quảng Nam – Đà Nẵng chuyển biến phức tạp, vừa mang
108
những yếu tố tiêu cực, vừa mang những yếu tố tích cực, hai hiện tượng này đan xen
vào nhau và tồn tại cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Những năm đầu thế kỷ XX, Ty Canh nông của Pháp đã đưa vào Quảng Nam
– Đà Nẵng nhiều cây trồng, con vật nuôi mới: sắn canh nông, mía tây, ngựa, gà tây,
vịt xiêm... Về sản xuất lúa gạo, mãi đến năm 1932, Pháp mới đầu tư xây dựng các
đập Vĩnh Trinh, An Thạch, Thạch Bàn... cho phép tư sản Pháp và tư sản Việt Nam
đứng ra kinh doanh các trạm bơm nước thì tình hình canh tác trên các đồng ruộng
có sự chuyển biến rõ “trước kia, toàn tỉnh chỉ có khoảng 2.000 ha cấy hai vụ nhờ
tiểu thủy nông thì nay thì nay có hàng nghìn ha của Điện Bàn, Đại Lộc, Hòa Vang,
Duy Xuyên cấy được hai vụ ăn chắc, năng suất lúa hàng năm không quá 20 tạ/ha
nâng lên 30-36 tạ/ha” [83, tr. 17].
Đồng thời do giao lưu thuận lợi hơn và nhờ tiếp thu những kỹ thuật mới, họ
đã tận dụng điều kiện, khí hậu, thời tiết thuận lợi để đưa trình độ canh tác đất đai đạt
hiệu quả khá hơn, “tuy nhiên, cách làm ăn theo thời vụ, luân canh trên đất khô, kinh
nghiệm về cơ cấu giống cây trồng, tiểu thủy nông và công cụ của nông dân Chiêm
Thành được nông dân tiếp thu từ trước vẫn còn chi phối lớn chế độ canh tác của
người dân xứ Quảng suốt thời kỳ cận đại” [83, tr. 17].
Với mục tiêu tối thượng là vơ vét, thu về lợi nhuận, Pháp cũng tập trung khai
thác khoáng sản: mỏ vàng Bồng Miêu, quặng sắt ở vùng Thiết Khoáng (Quế Lộc,
Nông Sơn), mõ kẽm ở Đức Bố (Tam Kỳ), đất cao lanh ở Việt An (Hiệp Đức), đá
cẩm thạch ở Ngũ Hành Sơn, mỏ mica ở Đại Lộc, cát trắng làm thủy tinh ở Liên trì,
An Thới (Hòa Vang), mỏ than ở Nông Sơn, Ngọc Kinh... Pháp thực hiện chủ trương
không khai thác mới mà chủ yếu chiếm đoạt các mỏ có sẵn ở địa phương. Cùng với
đó là chủ trương lấy việc bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt là chủ yếu nên khai thác
các mỏ theo lối thủ công. Hàng năm “chúng thâu tóm được khoảng 14.000 tấn than,
100 kg vàng, 10 tấn quặng hợp kim” [83, tr. 23].
Các công ty của Pháp thu lãi cao bằng con đường biến tư sản người Việt và
người Hoa thành đại lý tiêu thụ của Pháp và chèn ép, thu mua nông thổ sản, các sản
phẩm thủ công với giá rẻ rồi đem bán trong nước hoặc xuất khẩu với giá cao. Chẳng
hạn, chúng mua chè đen với giá 40 đồng và bán lại 55 đồng một tấn. Tại Đà Nẵng,
Pháp đã xây dựng một nhà máy gạo lớn để thu mua lúa, xay xát thành gạo, xuất
khẩu thu lợi nhuận [149].
109
Để nắm độc quyền về muối, rượu và thuốc phiện, Pháp đánh thuế gián thu rất
nặng. Giá thu mua một tạ muối ở Tam Kỳ là 0.75 đồng nhưng thuế gián thu gấp ba
lần giá mua. Năm 1928, chỉ riêng thuế muối vùng An Hòa (Tam Kỳ) đã đem lại cho
chúng 7.500 đồng. Về rượu, thuốc phiện, chúng tăng số đại lý bán lẻ ở các làng xã,
đồng thời cho thương chánh lùng sục bắt rượu, thuốc phiện lậu.
Khai thác nguồn lợi về cây công nghiệp và lúa, thực dân Pháp đã chiếm
17.200 ha trong tổng số 117.101 ha đất canh tác ở Quảng Nam – Đà Nẵng để lập
đồn điền. Ở Quảng Nam, có tổng 10 đồn điền của Pháp với tổng diện tích 3.403
ha trồng chè, lúa, cà phê, ca cao, tiêu, thầu dầu... Công ty chè Lombard et Cie
chiếm 500 ha ở vùng Tùng Sơn – An Ngãi (huyện Hòa Vang). Công ty Dutilh de
la Tuque & Devost chiếm 700 ha ở ngoại vi Đà Nẵng. Đồn điền trồng chè De la
Geau chiếm 420 ha ở Đức Phú (Tam Kỳ). Ở Giao Thủy (Đại Lộc), chúng lập nhà
máy hấp kén tơ có đến 400 công nhân làm việc, chuyên cung cấp sợi cho công ty
Delignon dệt vải tuýt – xo xuất cảng. Tại Đà Nẵng, ngày 15/9/1923, Công ty các
nhà máy gạo Trung Trung Kỳ được thành lập với số vốn 65.000 USD, tương
đương 549.900 francs [92]. Nông nghiệp tại Quảng Nam – Đà Nẵng thời kỳ này
chủ yếu là lúa, trà, mía, cau, thuốc lá (Les principals cultures sont: Le rez, le thé,
la canne a sucre, I’ arec, le tabac) [127, tr. 488].
Pháp thiết lập hàng rào quan thuế, đánh thuế cao hàng hóa nhập từ Trung
Quốc, Nhật Bản, Đức, đảm bảo tiêu thụ được hàng hóa Pháp với giá cao.
Tuy là thành phố, nhưng số dân cư ở Đà Nẵng sống bằng nghề nông và nghề
đánh bắt hải sản chiếm tỷ lệ không nhỏ, có cả phú nông và địa chủ nhỏ. Đó là các xã ở
ngoại ô, giáp với biển hoặc giáp với nông thôn Quảng Nam như An Hải, Thanh Khê,
Hà Khê, Mỹ Khê, Vĩnh Yên, Thạc Gián, Xuân Đán, Xuân Hòa, Phục Đán. Họ làm
nghề chài lưới với phương pháp đánh bắt thô sơ. Làm nông thì thường thu hoạch thua
kém, vì đất ít màu mỡ và thường bị thiên tai, nghề trồng rau có thu nhập cao hơn.
Pháp đặc biệt chú ý việc quản lý rừng, chính quyền thực dân lập sở Thủy
Lâm (Service Eaux et Forêts) để trông coi nguồn nước và rừng. Gỗ khai thác từ
rừng đưa ra bến sông phải có dấu búa đóng của kiểm lâm và chịu thuế mới được
vận chuyển hợp pháp. Một hệ thống đồn bót được thiết lập ở các ngõ nguồn như An
Điềm, Bến Giằng, Bốt Xít (Poste six – bót số 6), Tân An, Trà My chủ yếu để bảo vệ
an ninh và kiểm soát việc khai thác, vận chuyển các hàng lâm thổ sản như gỗ, song
110
mây, tre nứa, dầu rái, trầu nguồn và việc săn bắt thú rừng. Vào những thập niên đầu
thế kỷ XX, Pháp đã du nhập cây phi lao từ châu Phi sang và tổ chức việc trồng rừng
phi lao dọc theo các tỉnh ven biển miền Trung trong đó có Quảng Nam – Đà Nẵng
để chống nạn cát bay.
Về ngư nghiệp thì hầu như Pháp không đầu tư khai thác ngành này, từ tàu
thuyền đến phương tiện đánh bắt, chế biến trong phạm vi cả nước chứ không riêng
gì ở Quảng Nam – Đà Nẵng.
Nhằm khai thác, bóc lột thuộc địa, người Pháp bắt đầu sửa sang cảng Đà Nẵng
và mở đường sắt Bắc – Nam. Việc đào vét lòng và cửa sông Hàn được xúc tiến: “Việc
tiến hành nạo vét được thực hiện cho phép các tàu trọng tải một tấn có thể vào neo đậu
ở sông đối diện với thành phố. Đà Nẵng có tiềm năng phát triển nhanh và rất quan
trọng” [149]. Cảng Đà Nẵng dành cho tàu có đáy sâu, trọng tải lớn.
Đường xe lửa xuyên Bắc – Nam đến Đà Nẵng đã có ga chính, thường được
gọi là Ga Lớn (Tourane Central), từ ga lớn có đoạn đường sắt nối xuống bến chợ
Hàn, đến Ga chợ (Tourane Marché). Năm 1904, hỏa xa Pháp đặt con đường sắt nối
Đà Nẵng với Hội An thay cho đường nước sông Cổ Cò bị tắt nghẽn tạo điều kiện
lưu thông, nối liền Đà Nẵng và Hội An.
Được nhà cầm quyền Pháp khích lệ, nhiều công ty tư bản nắm độc quyền
kinh doanh, trong đó có các công ty hàng hải Messageries Maritimes, Chargeurs
Réunis, công ty bốc dỡ vận chuyển hàng hóa SACRIC, hãng ô tô STACA, các công
ty dầu lửa SHELL, SOCONY, MOBIL OIL... Về nhập khẩu, chế biến nông sản có
Denis Frères, Descours et Cabaud, Optorg, Fiard, L’UCIA, SICA, hãng bia nước
ngọt BGI và nhà máy gạo. Kinh doanh điện nước có công ty nhà đèn SIPÉA.
Các công ty Pháp sử dụng tư sản người Hoa và người Việt làm đại lý tiêu thụ
hàng hóa Pháp và thu mua nông thổ sản các tỉnh miền Trung.
Người Pháp nắm độc quyền ngoại thương làm cho Đà Nẵng trở thành một
trung tâm hấp dẫn đối với giới thương nhân Hoa kiều, Ấn kiều và Việt Nam. Họ buôn
bán hàng xuất nhập cảng của các công ty Pháp và phụ thuộc vào chúng [83, tr. 22].
Toàn bộ quá trình khai thác sức người sức bằng chính sách độc quyền về
kinh tế của thực dân Pháp đã biến Quảng Nam – Đà Nẵng – một tỉnh nghèo lúa gạo
nhưng giàu lâm thổ sản, có hải cảng tốt, có vị trí giao thông thuận lợi trở thành một
111
địa bàn độc chiếm về thương mại của tư bản Pháp, xây dựng Đà Nẵng trở thành
trung tâm xuất nhập khẩu của Trung Kỳ.
Vào thế kỷ XVIII, Hội An không còn là trung tâm nhộn nhịp như trước đây.
Bước vào thời kỳ suy thoái, việc giao thương quốc tế không còn như trước nữa,
hoạt động xuất cảng ra nước ngoài, việc buôn bán với thương nhân ngoại quốc
thông qua các thương thuyền lớn không còn nữa song thời kỳ 1884-1945, Hội An
vẫn còn là một phố thị lớn nhất tỉnh Quảng Nam. Hoạt động nội thương vẫn phát
triển, nguồn hàng trong đó có các sản phẩm thủ công nghiệp trao đổi qua Hội An
vẫn rất lớn bởi Hội An vẫn còn là một đô thị, một nơi buôn bán vốn đã có tiền đề từ
nhiều thế kỷ trước trong buổi thịnh thời.
Đối với thủ công nghiệp, trong công cuộc khai thác lần thứ nhất, Pháp tập
trung khai thác, vơ vét, bóc lột những mặt hàng thu lại lợi nhuận cao. Pháp tuyên bố
độc quyền sản xuất và mua bán hai mặt hàng thủ công là rượu (1902) và muối
(1904). Bên cạnh đó, việc mở rộng hàng nhập cảng từ nước ngoài vào cũng gây sự
cạnh tranh và khó khăn cho một số ngành như bông vải, tơ tằm... Tuy nhiên điều có
lợi hơn đối với thủ công nghiệp là Pháp tìm cách phát huy mọi thế mạnh của thủ
công nghiệp truyền thống, tăng cường hàng xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, ổn
định xã hội. Pháp rất chú ý tới việc xuất khẩu các mặt hàng thủ công truyền thống
nhất là tơ tằm. Năm 1905, Pháp miễn thuế trồng dâu. Các mặt hàng thủ công mỹ
nghệ cổ truyền cũng được Pháp chú trọng. Tại các đô thị lớn, Pháp mở các trường
mỹ nghệ thực hành, kỹ nghệ thực hành nhằm dạy nghề cho nhân dân: nguội, rèn,
mộc, tằm tơ, khảm, sơn mài, chạm khắc, gốm, đúc đồng... Tại miền Trung có
trường kỹ nghệ tại Huế. Nhiều “học sinh” tại Hội An được cử ra học tại trường kỹ
nghệ Huế. Các mặt hàng thủ công nghiệp được người Pháp đưa sang Pháp và một
số nước để giới thiệu, quảng cáo thông qua các hội chợ hay còn được gọi là “đấu
xảo” mở đầu năm 1893 tại Lyon. Sau này, Pháp tổ chức hội chợ tại Việt Nam bắt
đầu năm 1918 trong đó có Đà Nẵng. Ngày 30/4/1900, Toàn quyền Đông Dương đặt
ra “Danh dự bội tinh” làm giải thưởng cho các nghệ nhân và thợ thủ công có công
trau dồi nghề nghiệp, hoặc tạo ra một nghệ thuật mới, hoặc nhập cảng một nghệ
thuật mới. Những người được cấp danh dự bội tinh hạng nhất thì được xếp ngang
112
hàng với chức Tổng đốc, hạng nhì ngang hàng với Tri phủ, hạng ba ngang hàng với
Tri huyện. Trong công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, Pháp tiếp tục chú trọng
việc tổ chức nhiều hội chợ giới thiệu sản phẩm thủ công nghiệp nhất là các hàng thủ
công mỹ nghệ. Cùng với việc tổ chức triển lãm, giới cầm quyền đã chú ý tới việc
xây dựng và cải tiến các trưỡng mỹ nghệ. Như vậy, Pháp mới chỉ chú ý đến tài năng
của thủ công nghiệp, đến việc giới thiệu và mua bán sản phẩm. Chính quyền thuộc
địa chưa có một chính sách nào rõ rệt về con đường đi lên của thủ công nghiệp:
“Chính phủ không có chính sách kinh tế theo đúng nghĩa của từ này. Chính phủ đã
thúc đẩy ngày càng mạnh một số kỹ nghệ của địa phương bằng các quyền bảo trợ
và để suy vong một số công nghệ khác mà không có lý do chính đáng nào cho sự
phân biệt đối xử đó” [153, tr. 171]. Mặc dù vậy, các biện pháp của nhà cầm quyền
là những nhân tố kích thích sự tồn tại và phát triển của thủ công nghiệp truyền
thống. Do đó, thời kỳ này, thủ công nghiệp phát triển một bước rõ rệt hơn so với
thời kỳ trước. Nhìn vào danh mục các sản phẩm xuất cảng của Trung Kỳ, ta thấy rõ
sự phát triển của thủ công nghiệp:
Danh mục các sản phẩm của Trung Kỳ xuất cảng sang Pháp và các
nước ngoài (Hồng Kông, Trung Hoa, Singapore, các nước Viễn Đông, các xứ
Châu Mỹ, Đức, Bỉ, Anh, Thái Lan) trong năm 1929: da thuộc, thúng mủng,
đồ gỗ chạm và các thứ khác, khoáng sản, muối, xà phòng, đăngten và đồ thêu
tay, lụa bản xứ, bông gòn, mây (nguyên và chẻ), ximăng, than đá, gỗ xây
dựng, bông vải không tỉa hột, cafe, hồ tiêu, quế, trà, sa nhân, đậu khấu, dầu
dừa, dầu phụng, gạo trắng, lúa, tấm, bột gạo, đậu xanh, đậu phụng, mè,
đường đen, đường trắng, xương, móng, sừng, thú thô, bắp hột, xơ tơ, trứng
gà vịt, cá khô, xông khói hay ướp muối, tôm khô, mắm ruốc, nước mắm, mai
và gập rùa, trâu, bò, heo, nai, hươu, da khô [99, t. 18, tr. 212-214].
Đối với triều đình nhà Nguyễn, trên danh nghĩa vẫn còn cai quản xứ Quảng
Nam vì Quảng Nam là xứ “bảo hộ”. Tuy nhiên, trên thực tế chính quyền nhà
Nguyễn đã là chính quyền bù nhìn, không còn vai trò đối với vùng đất này. Về
chính sách đối với thủ công nghiệp thời kỳ này, nhà Nguyễn chỉ chú ý đến bộ phận
thủ công chuyên nghiệp và được gọi là “công nghệ” và giao cho Bộ Công quản lý.
113
Bộ Công chủ yếu lo việc sản xuất các mỏ khoáng sản, xây dựng, tôn tạo cung điện,
lăng tẩm, đền đài, thành trì, việc phục vụ các nhu cầu chiến tranh hoặc các nhu cầu
của nhà nước như đúc tiền, đúc súng, trang thiết bị của các dinh thự, trang phục của
vua quan trong triều...
3.1.3. Sự chuyển biến về xã hội
Nhìn chung từ khi Pháp biến Quảng Nam - Đà Nẵng thành nhượng địa, và xứ bảo
hộ, kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa đã làm chuyển biến mạnh xã hội phong kiến
đương thời và dẫn đến sự biến động mới về cơ cấu giai cấp xã hội tại mảnh đất này.
Theo thống kê của Sở Trồng trọt Đông Dương, năm 1925, tỉnh Quảng Nam –
Đà Nẵng có 462.000 nhân khẩu lao động nông nghiệp [83, tr. 35]. Bị thực dân Pháp
và địa chủ chiếm hữu 74.420 ha đất canh tác, nông dân chỉ còn lại 42.681 ha “do
thiếu ruộng, nông dân Quảng Nam – Đà Nẵng phải cày rẽ, làm thêm các nghề phụ
như nghề mộc, nề, đan lát, làm thuê mướn để sinh sống” [83, tr.36].
Là thành phố nhượng địa, Đà Nẵng được Pháp tập trung xây dựng, đẩy mạnh
quá trình đô thị hóa. Trong giai đoạn đầu, Pháp chủ yếu xây dựng cơ sở hạ tầng, một
số kiến trúc kiên cố được xây dựng làm công sở, hệ thống cầu đường, giao thông vận
tải và cung ứng điện nước được xây dựng. Việc thiết kế và quy hoạch thành phố theo
mô thức phương Tây đã làm diện mạo phố phường Đà Nẵng khác hẳn với đô thị cổ
và làm biến đổi to lớn bộ mặt nông thôn truyền thống. Ở giai đoạn sau (1918-1945),
gắn liền với cuộc khai thác lần hai, công cuộc đô thị hóa được đẩy mạnh lên một
bước. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức thương mại Pháp ở Trung Kỳ đều có chi
nhánh ở Đà Nẵng. Đà Nẵng xuất hiện một tầng lớp thị dân mới và ngày càng đông
đảo. Cuộc sống Âu hóa đã thay da đổi thịt từ một làng quê nghèo trên bãi cát đứng
đầu sóng ngọn gió, trở thành một phố thị sầm uất theo như lời của Khâm sứ Trung
Kỳ Baille: “Về lâu dài chính đời sống kinh tế và thương mại đòi hỏi được nảy sinh,
miễn là ban bố cho nó một chút đỉnh hòa bình và tất cả những gì còn giữ lại, không
một chút kiêu căng, đó là nền bảo hộ có thể chứng minh ở cái góc cỏn con của bản
đồ xứ An Nam, nơi một bãi cát đã trở thành một thành phố thật sự” [86].
Đà Nẵng trở thành nơi thu hút đông đảo nhân lực ở miền Trung, nhưng do
chính sách thuộc địa, thực dân Pháp chú trọng phát triển thương mại, ít mở mang
công nghiệp nên số công nhân chính ngạch không nhiều, tập trung chưa cao.
114
Giới tư sản, trước hết là tư sản Hoa Kiều, nhờ biết tổ chức mạng lưới thương
mại rộng lớn, vốn liếng dồi dào, làm đại lý tiêu thụ và thu mua hàng của các công ty
Pháp rất đắc lực. Đáng kể là hiệu buôn Quảng Hòa Mỹ, La Thiên Thái, Vạn Phát,
Ving Chéong Seng, Tống Lý Long, Vĩnh Xương Long, Kim Sơn, Quảng Triều
Hưng, Diệp Hòa Hưng, Đông Lợi Hưng.
Tư sản người Việt ở Quảng Nam - Đà Nẵng cũng ngày càng phát triển. Nhu
cầu nhập cảng và tiêu thụ hàng hóa của Pháp ngày càng tăng làm cho việc buôn bán
trở nên tập trung và có quy mô rộng lớn hơn nên các công ty và hiệu buôn của
người Việt đã ra đời như công ty bông vải sợi của Lý Quý (có xe chạy Hà Nội, Hải
Phòng, Sài Gòn), Lê Văn Tập, Trương Côn, Nguyễn Hữu Thí, Kim Quy là những tư
sản buôn gạo và xuất khẩu nông thổ sản, Nghĩa Lợi buôn bán đồ sắt, Nguyễn Tấn
Hà buôn sơn, Phạm Doãn Điềm mở cửa hàng thuốc Tây...
Những công trình đường sá, xây cất nhà cửa, mở mang thành phố cũng tạo điều
kiện cho tư sản Việt Nam phát triển. Lãnh thầu cung cấp tà – vẹt làm đường xe lửa
Quảng Trị - Đà Nẵng có Bùi Huy Tín. Vận tải có công ty Hòa Hưng. Nghè Giá, Nghè
Phụng, Nghè Mại là những nhà thầu khoán lớn ở Đà Nẵng và có rất nhiều nhà cho thuê.
Thế lực tư sản người Việt ở Quảng Nam - Đà Nẵng nhỏ bé, không thể cạnh
tranh nổi với tư bản Pháp và tư sản người Hoa. Là tư sản ở một nước thuộc địa, họ
bị chèn ép, lép vế.
Với sự ra đời của giai cấp tư sản người Việt, trong đó có các chủ tư sản xuất
phát từ các ngành nghề thủ công cổ truyền, toàn bộ sản xuất thủ công nghiệp Quảng
Nam – Đà Nẵng chính là cái nền cho sự phát triển đó. Vai trò của nó được đánh giá
cao, được phản ánh ý thức vào các phong trào vận động đương thời mà tại Quảng
Nam – Đà Nẵng là nơi bùng nổ phong trào Duy Tân. Tinh thần chung của phong
trào có nội dung thúc đẩy nền sản xuất thủ công nghiệp của dân tộc, hô hào đổi mới,
cải tiến để nâng cao trình độ sản xuất, tự lực tự cường vươn lên, đua tranh giành ưu
thế với những Hoa kiều, tư sản Pháp trong sản xuất và kinh doanh, người Việt dùng
hàng Việt... Phong trào Duy Tân “vừa là kết quả hay tác động lại vừa là động lực
thúc đẩy bước phát triển thực sự của nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp Việt Nam...
Đó cũng là cái đà mạnh mẽ cho giai đoạn lịch sử sau này” [58, tr. 108]. Bên cạnh
đó, năm 1919, ở Việt Nam đã dấy lên phong trào gọi là “tẩy chay khách trú” từ
Nam ra Bắc và được đông đảo ủng hộ, nhất là tư sản dân tộc. Phong trào này có
115
nhiều ý nghĩa, nhưng nó còn có tác dụng khuyến khích hàng nội hóa, loại bỏ hàng
của người Tàu từ xưa vẫn dùng. Đây là một trong những phong trào có tác động
quan trọng thuận lợi cho sự phát triển của thủ công nghiệp.
Thương mại phát triển, các nhà buôn đua nhau mở cửa hiệu. Dân từ các nơi
đến ngụ cư ở Đà Nẵng ngày càng đông. Năm 1920, Đà Nẵng có 10.000 dân, 1935-
1936 có 25.000 dân trong tổng dân số ở Quảng Nam – Đà Nẵng là 779.000 người,
đến năm 1945 lên đến 32.000 dân trong tổng dân số ở Quảng Nam – Đà Nẵng là
1.000.000 người, “từ một hải cảng vắng vẻ, dân cư thưa thớt, diện tích nhỏ hẹp, Đà
Nẵng trở thành thành phố tiêu biểu cho xứ Trung Kỳ” [83, tr. 12]. Một số chợ và lò
mổ rải rác được dựng lên ở Đà Nẵng. Lúc bấy giờ, chợ Cồn, chợ Hàn, chợ An Hải,
chợ Cống đã ra đời nhưng mới chỉ là một dãy lều quán tranh tạm bợ.
Cùng với sự phát triển đô thị, tầng lớp tiểu thị dân tập hợp khá đông: tiểu
thương, tiểu chủ, thợ thủ công, những người làm nghề tự do, những viên chức công
tư sở, giáo viên, học sinh... Sự xâm nhập của sách báo tiến bộ, sách báo cách mạng
đã thức tỉnh một bộ phận trí thức học sinh có hoài bão giải phóng dân tộc cũng như
có tư tưởng canh tân.
Giai cấp công nhân có nguồn gốc từ nông dân lao động, thợ thủ công bị bần
cùng hóa, học sinh ra trường không kiếm được công ăn việc làm. Số lượng công nhân
ăn lương chính ngạch rất ít, chủ yếu hưởng lương công nhật, thợ học việc và “cu li”.
Phần lớn gia đình công nhân vẫn gắn bó với nông thôn, hoặc có người ra làm công
nhân theo thời vụ rồi trở về làm nông. Số công nhân phân bổ như sau:
Ngành nghề Năm Số lượng Năm Số lượng Ghi chú
Mỏ than Nông Sơn 1891 74 1919 207 Chưa kể số thuê
mướn thời vụ
Mỏ vàng Bồng Miêu 1895 150 1924 750
Mỏ kẽm Đức Bố 1900 70 1919 300
Các đồn điền Tùng
Sơn, Đức Phú, Hòa An 1914 257
Hỏa Xa 1913 155
Kể cả hệ thống ga
nhỏ và hưởng sửa
chữa
Cảng Đà Nẵng 1938 100 Số thường trực
116
Thương khẩu Hội An 1919 58
Nhà đèn Đà Nẵng và
nhà đèn Hội An 7/1922 80
Bưu điện 7/1922 50
Staca 7/1922 200
Xưởng gạch ngói Hội
An 1909 40
Thuộc công ty
gạch ngói Đông
Dương
Hai xưởng chế biến
chè và nông sản 1909 Trên 200
Của Denis Frères
và Descours et
Cabaut
Hãng chè Fiard 1909 1000
Hai nhà máy ươm tơ
và chè của dè robert 1909 1000
Nhà máy Giao
Thủy 400
Nhà máy xay xát gạo 1909 50
Nhà hàng Morin 1909 50
Nguồn: [83, tr. 39].
3.1.4. Sự biến đổi trong kinh tế
Pháp tập trung khai thác khoáng sản: mỏ vàng Bồng Miêu, quặng sắt ở vùng
Thiết Khoáng (Quế Lộc, Nông Sơn), mõ kẽm ở Đức Bố (Tam Kỳ), đất cao lanh ở
Việt An (Hiệp Đức), đá cẩm thạch ở Ngũ hành Sơn, mỏ mica ở Đại Lộc, cát trắng
làm thủy tinh ở Liên Trì, An Thới (Hòa Vang), mỏ than ở Nông Sơn, Ngọc Kinh...
Pháp đã chiếm 17.200 ha trong tổng số 117.101 ha đất canh tác ở Quảng
Nam – Đà Nẵng để lập đồn điền. Ở Quảng Nam, có tổng 10 đồn điền của Pháp với
tổng diện tích 3.403 ha trồng chè, lúa, cà phê, ca cao, tiêu, thầu dầu... Đây là những
nhân tố mới trong thủ công nghiệp gắn liền với công cuộc khai thác thuộc địa, hoạt
động xuất cảng tư bản của Pháp, là biểu hiện cho sự xuất hiện bộ phận kinh tế mới
tư bản chủ nghĩa. Như vậy, trong cơ cấu ngành thủ công nghiệp đã có sự chuyển
biến với sự tham gia của các ngành kinh tế mới và quan trọng hơn là sự đánh dấu
một phương thức sản xuất mới đã hiện hữu trong ngành kinh tế này.
Về tổng thể thì cơ cấu ngành nghề vẫn giống so với thời kỳ trước song một
số ngành nghề gặp khó khăn, trong đó phải kể đến nghề nung vôi hàu, nghề làm
muối, nghề nấu rượu, nghề ươm tơ dệt lụa... các nghề và làng nghề khác vẫn duy trì
và phát triển.
117
Ngoài những nghề thủ công đã có từ trước tiếp tục tồn tại và phát triển, trong
giai đoạn này xuất hiện một số nghề mới như nghề làm guốc mộc Xuân Dương, nghề
khảm xà cừ, nghề làm kính thủy tinh, nghề nhôm, nghề đăng ten, nghề thuộc da, nghề
làm mũ cối, nghề chế biến chè, chế biến cafe, chế biến cao su, làm đèn dầu hỏa.
Trước đây, các nghề thủ công chủ yếu tập trung ở các vùng quê nay “các
thành phố, thị trấn mọc lên ngày càng nhiều... cũng dần dần phát triển cơ sở ở ngay
hoặc ở cạnh các nơi tập trung (thành phố, thị trấn), để phục vụ cho dân chúng
những nơi này và cũng để tiện việc tiêu thụ sản phẩm, qua sự trung gian của các
nhà buôn” [17, tr. 155].
Nói đến thủ công nghiệp người ta nghĩ ngay đến yếu tố thủ công, lao động
chân tay, ít có sự tham gia của máy móc, phương tiện hiện đại. Nhưng thời kỳ này,
sự tham gia của máy móc trong các nghề và làng nghề thủ công ngày càng nhiều.
Điều này thể hiện qua sự cải tiến khung cửi của nghề dệt vải, các công cụ cưa,
khoan dùng trong chế tác đá hay gỗ, máy xay xát gạo, máy ép dầu phụng, máy
may... đã góp phần giảm thiểu sự vất vả trong lao động cũng như nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Bên cạnh đó, một số hóa chất, chất liệu mới được sử dụng như thuốc nhuộm,
màu hóa chất dùng trong nhuộm, dệt vải, dệt chiếu, men hóa chất dùng trong nấu rượu,
cimen dùng trong xây dựng, nilon dùng làm nguyên liệu trong một số mặt hàng như
nứt vành trong đan lát thay dây mây hay dùng để bảo quản các mặt hàng lương thực
thực phẩm tay cho lá gói... đã làm thay đổi chất liệu và sản phẩm thủ công.
Một số cơ sở sản xuất thủ công nghiệp đã mang xuất hiện những dấu hiệu
chuyển sang lề lối sản xuất tư bản chủ nghĩa. Điều này được thể hiện qua việc nhiều
người chủ, thương nhân, người giàu có đã xuất vốn, sắm máy móc, thuê thợ để sản
xuất trên một quy mô rộng lớn hơn là sản xuất thủ công nghiệp cá thể mà tiêu biểu
như làng mắm Nam Ô, làng đá Non Nước, làng gốm Thanh Hà, làng mộc Kim
Bồng... Người làm kinh doanh mà dân gian vẫn thường gọi là “con buôn”, “mối
lái” ngày càng nhiều với phương thức buôn bán đa dạng hơn, chú trọng đến thị hiếu
của từng thị trường trong từng vùng miền của đất nước hay của nước ngoài. Nhờ họ
mà sản phẩm tiêu thụ ngày càng nhiều, phạm vi ngày càng rộng, không chỉ bó hẹp
trong lũy tre làng mà từng bước góp mặt trên thị trường thế giới, ngay cả thị trường
nước Pháp. Không chỉ chú trọng về tiêu thụ sản phẩm, người kinh doanh còn có cả
118
trong việc thu mua, bao tiêu nguyên liệu để cung cấp cho các cơ sở sản xuất. Đến
đây, người lao động, sản xuất từng bước chuyên tâm tập trung vào cải tiến, nâng
cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng còn các công việc khác thì đã
có tầng lớp trung gian thực hiện.
Trước đây, trong thủ công nghiệp ở nước taViệt Nam cũng như ở Quảng
Nam – Đà Nẵng đã có quan hệ phường hội, song đến nay chưa có tài liệu nào nói rõ
về tổ chức, nội quy của các phường hội đó, cũng như trong quan hệ của các tổ chức
đó “có thể là đơn vị hành chính, có thể là tổ chức có tính chất tôn giáo của những
người thợ thủ công cùng nghề, có thể là tổ chức tương trợ của một nhóm người
cùng nghề hoặc ở gần nhau, có thể là tổ chức của một nhóm thợ chuyên về một
nghề có tính chất kỹ thuật, hặc có những làng thủ công chuyên nghiệp không tổ
chức thành phường thành hội nhưng có những luật lệ khắc khe tương tự như nội
quy của các phường hội” [17, tr. 167].
Tình hình chính trị với nhiều biến động có tác động trực tiếp đến mọi mặt đời
sống kinh tế - xã hội của vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng, thủ công nghiệp cũng
chịu tác động không nhỏ. Nhưng nhìn chung, thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà
Nẵng thời kỳ này có nhiều chuyển biến.
Từ những tác động khách quan, tác động của tình hình kinh tế - xã hội, một
số nghề gặp khó khăn, tuy nhiên, đa số các nghề và làng nghề vẫn ổn định và phát
triển, một số nghề, làng nghề bước vào buổi thịnh thời. Bên cạnh các nghề và làng
nghề trước đây, một số nghề và làng nghề mới ra đời bổ sung vào danh mục các
nghề và làng nghề tại xứ Quảng. Các nhân tố mới xuất hiện trong kỹ thuật, công cụ
được cải tiến hiện đại với sự tham gia của máy móc, một số nguyên liệu mới,
phương thức sản xuất và kinh doanh theo hướng thị trường đã thúc đẩy thủ công
nghiệp phát triển sang một giai đoạn mới với nhiều dấu ấn mạnh mẽ. “Từ thế kỷ XIX
cho đến năm 1945, kinh tế Việt Nam ở Trung Kỳ vẫn giới hạn trong các hoạt động
sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, khai thác tài nguyên thiên nhiên và thương
nghiệp truyền thống... và nhất là chỉ giới hạn trong phạm vi bộ phận người Việt ở
các khu vực ven biển và đồng bằng” [66, tr. 42].
Những nhân tố mới của bộ phận kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện, mặc
dù còn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong nền kinh tế Quảng Nam-Đà Nẵng nhưng
đây là tiền đề cho sự triển trong các giai đoạn tiếp theo.
119
3.2. THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG TỪ 1885 ĐẾN 1945
3.2.1. Khái quát tình hình sản xuất thủ công nghiệp ở Quảng Nam – Đà Nẵng
thời thuộc địa
3.2.1.1. Khái quát
Trong Địa dư Đông Dương (phần Trung Kỳ), J. Bouanbt et E. De Rozario
đã nhận xét: “Trung Kỳ có ít ngành công nghiệp lớn ngoài khoáng vật và than.
Những nền công nghiệp nhỏ (tiểu thủ công nghiệp) của người bản xứ thì nhiều và
khác nhau, đôi khi có tính cách rõ rệt về kỹ thuật. Những công nghiệp nhỏ ở Trung
Kỳ có đặc diểm giống Bắc Kỳ. Công nghiệp sản xuất đồ vật như mũ, sọt, đồ sành
theo phương pháp cổ hủ, rải rác ở một số làng xã có chuyên môn theo nghề cổ
truyền,... lụa thêu, nhiễu, sa tanh trơn hay có hoa ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú
Yên nhất là Bình Định” [100, tr. 55-57].
Theo Địa chí Quảng Nam – Đà Nẵng: “Bước sang thế kỷ XX, sự mở rộng
của các đô thị, việc tập trung dân cư trong các thị trấn, thị tứ, chợ đầu mối cũng
như sự du nhập phương tiện, máy móc, nguyên liệu mới đã góp phần thúc đẩy thủ
công nghiệp truyền thống phát triển mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu dùng
trong nước vào thời này cũng tăng nhiều so với trước” [90, tr. 307].
Ở Quảng Nam – Đà Nẵng vào thời kỳ này, nghề buôn bằng ghe bầu theo
tuyến Bắc – Nam vẫn được duy trì và phát triển: “Vào đầu thế kỷ XIX, số lượng
thuyền ghe tư nhân buôn bán phát triển rất nhiều đã hình thành các xưởng đóng
thuyền nổi tiếng như... Kim Bồng (Hội An), Duy Vinh (Duy Xuyên). Trên đất Quảng
đã xuất hiện nhiều chủ lái buôn ghe bầu nổi tiếng với luồng buôn bán Nam – Bắc
của đất nước” [13, tr. 11]. Các nghề thủ công như làm đường, ươm tơ, dệt lụa lĩnh,
tuýt xo, dệt chiếu, làm hàng mỹ nghệ phát triển như lưu thông thuận lợi, nhanh
chóng. Trên các tuyến quốc lộ và tỉnh lộ đã hình thành nên những chợ mới, những
thị tứ đông đúc như Vĩnh Điện, Phong Thử, Túy Loan, Hà Lam, Chợ Được, Tam
Kỳ, An Tân... Bên cạnh đó, một số tư sản người Việt đầu tư kinh doanh một số mặt
hàng thủ công nghiệp như Lý Quý chuyên kinh doanh về bông vải sợi nội địa lưu
thông cả ba kỳ. Một số thương nhân người Hoa và người Ấn Độ kinh doanh vải lụa
[90, tr. 786].
Thời thuộc Pháp, việc mở mang đường giao thông, việc xây cất nhà cửa, cầu
cống phát triển mạnh. Nghề làm gạch, ngói, gốm, sứ, đá, nghề mộc, rèn, sửa chữa cơ
120
khí... thu hút một lực lượng lao động đông đảo. Nhiều ngành nghề thủ công cổ truyền
được khuyến khích, một số ngành nghề mới như may máy, làm đăng – ten, thủy tinh,
đóng dày dép, làm pháo, cắt tóc, làm đèn dầu hỏa. Việc nhập khẩu những nguyên liệu,
hóa chất mới đã góp phần làm cho sản xuất thủ công đạt chất lượng tốt hơn, đẹp hơn.
Việc xuất khẩu hàng hóa qua cảng Đà Nẵng thuận lợi đã thu hút các nguồn hàng lâm
thổ sản như gỗ quý, vỏ quế, cau khô, dầu rái. Như vậy, đây là thời kỳ phát triển mạnh
mẽ và đa dạng hơn các ngành nghề thủ công, mặc dù nó ra đời dưới chế độ thực dân.
Sự phát triển này là kết quả của sự vận động theo quy luật kinh tế trong xã hội với
những tìm tòi, sáng tạo của những nhà doanh nghiệp và những người thợ Việt Nam.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), thị trường gần như bị
phong tỏa, thông thương hàng hóa giữa Pháp và Đông Dương bị ngưng trệ. Hàng
ngoại trên thị trường trở nên khan hiếm. Nhu cầu tiêu dùng của người dân trở thành
động lực, thúc đẩy các cơ sở sản xuất hàng thủ công đua nhau phát triển hàng hóa
thay thế hàng nhập, đặc biệt các ngành chế biến thực phẩm, dệt vải, lụa... Một số
ngành nghề thủ công đã phát huy bản lĩnh và sức sống của mình, góp phần quan
trọng khắc phục sự sa sút về kinh tế nói chung, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, giải
quyết công ăn việc làm cho cư dân địa phương, tạo sự ổn định xã hội.
3.2.1.2. Các nghề mới
Ngoài những nghề thủ công đã có từ trước tiếp tục tồn tại và phát triển, trong
giai đoạn này xuất hiện một số nghề mới như nghề làm guốc mộc Xuân Dương,
nghề khảm xà cừ, nghề nhôm, nghề làm kính thủy tinh, nghề đăng ten, nghề thuộc
da, nghề làm mũ, nghề chế biến trà, chế biến cafe, chế biến cao su...
Nghề khảm xà cừ thực hiện đầu tiên ở làng mộc Kim Bồng, làng mộc Vân
Hà. Người thợ bắt những con ốc xà cừ, nung cho vỡ ra từng mảnh, gắn vào những
dụng cụ như tủ, giường, bàn ghế... rồi mài nhẵn tạo hoa văn trang trí. Bên cạnh đó
là việc tạo nên bức tranh bằng cách khảm xà cừ.
Nghề nhôm ra đời (trước đây chỉ là rèn sắt) sản xuất ra các công cụ, vật dụng
thay thế cho một số công cụ trước đây làm bằng sắt, gỗ, tre...
Nghề làm kính thủy tinh do công ty của Pháp thực hiện tại các nhà máy chế
biến tại Liên Trì, An Thới. Một vài hộ đã mua lại kính thủy tinh và thực hiện các
sản phẩm như cửa, gương, một số mặt hàng trang trí để bán cho các dân cư thành thị
đáp ứng nhu cầu trong điều kiện phát triển mới của quá trình đô thị hóa nơi đây.
121
Nghề làm Đăng ten (từ tiếng Pháp: dentelle) hay ren là một loại vải đan
thủng, thuộc hàng thủ công. Người thợ có thể tạo lỗ thủng bằng cách rút chỉ từ một
miếng vải nguyên vẹn nhưng thông thường thì người làm đăng ten cố ý đan lỗ thưa
hay dùng chỉ móc, vặn, hoặc bện lại với nhau thành mảnh vải thưa có hình mỹ
thuật. Chỉ đan đăng ten xưa làm bằng lanh, tơ lụa và cả vàng bạc cũng được xe
thành chỉ. Nay thì chuộng chỉ bông vải hoặc sợi nhân tạo. Nghề đăng ten du nhập
Việt Nam vào khoảng năm 1900 thời Pháp thuộc do một phụ nữ người Pháp tên
Autigeon dạy cho dân vùng Thường Tín. Năm 1902 và 1903 nhân cuộc đấu xảo Hà
Nội đã có triển lãm hàng đăng ten độc đáo sản xuất ở Bắc Kỳ. Tên bà Autigeon sau
được dùng đặt tên cho con phố ở Hà Nội. Con đường đó đến thập niên 1950 đổi tên
thành đường Đặng Tất. Ở Đà Nẵng nghề này xuất hiện với những chiếc khăn bàn,
khăn trải đế lọ hoa... nhưng không nhiều, chưa thật sự phổ biến.
Nghề thuộc da với các sản phẩm mũ da, dày da, áo da, thắt lưng da, ví da,
cặp da... được người Pháp du nhập vào Việt Nam. Trước đây ở nước ta những sản
phẩm này chưa phổ biến mà chủ yếu là các nước Châu Âu với thời tiết lạnh.
Nghề làm mũ ngoài mũ da chủ yếu là mũ nhựa vành tròn theo kiểu dáng
người Pháp (chủ yếu là lính Tây, Cò Tây đội) du nhập vào Việt Nam.
Nghề chế biến chè chủ yếu do các công ty của Pháp thực hiện dựa trên
nguyên liệu do người Pháp trồng tại các đồn điền. Trước đây ở Quảng Nam – Đà
Nẵng cũng như cả nước có trồng chè, chế biến chè theo phương thức thủ công vì
chè là nước uống truyền thống của người Việt.
Nghề chế biến cafe mới du nhập vào Việt Nam phục vụ nhu cầu, lối sống,
thói quen của người Pháp. Thức uống truyền thống của người Việt là nước chè,
nước trà chứ không uống cafe như người Châu Âu.
Nghề chế biến cao su do người Pháp trực tiếp thực hiện dựa trên nguyên liệu
là cây cao su được người Pháp trồng tại các đồn điền. Tại Quảng Nam – Đà Nẵng
diện tích trồng rất ít (chủ yếu trồng ở miền Nam) do thường xuyên mưa bão dẫn đến
hư hại dù đất đai thổ nhưỡng phù hợp với cây cao su.
Đặc điểm chung là các nghề mới này (nghề nhôm, nghề đăng ten, nghề thuộc
da, nghề làm mũ cối, nghề chế biến chè, chế biến cafe) còn nhỏ lẻ chưa có sự phát
triển thành làng nghề, xóm nghề, “phần lớn chỉ phục vụ cho nhu cầu của nhân dân
ở các thành thị, thị trấn” [17, tr.42].
122
3.2.1.3. Các làng nghề mới
Các nghề, làng nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng ra đời thời kỳ trước
tiếp tục phát triển thời Pháp thuộc. Trong đó các nghề, làng nghề tiêu biểu: gốm
Thanh Hà, mộc Kim Bồng, đá mỹ nghệ Non Nước, chiêng Phước Kiều, dệt vải Mã
Châu, Thi Lai, dệt chiếu Bàn Thạch, Cẩm Nê... Bên cạnh đó, một số nghề mới ra
đời và phát triển thời Pháp thuộc.
Nghề đẽo guốc mộc Xuân Dương
Làng Xuân Dương (nay là khối phố Xuân Dương) thuộc địa phận xã Hòa
Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, được tách ra từ làng Xuân Thiều,
là một trong những làng xã được hình thành sớm ở huyện Hòa Vang xưa(19).
Theo Hòa Vang huyện chí thì phần đất Xuân Dương thuộc xã Hóa Ô và được
mô tả như sau: “Trông về phía Đông thì đảo ghềnh sóng phun trong ánh nắng buổi
sớm. Trông về phía tây thì sông Hóa Ổ (sông Cu Đê) như ngậm dòng nước biếc.
Trông về phía Bắc thì ráng sớm của Liên Chiểu rọi màu. Đây là nơi đủ sắc núi mây
trời, thật là một thắng cảnh của đất Hòa Vang” (20).
Người miền Trung quen sử dụng guốc hơn miền Bắc và miền Nam do ở
miền Trung mưa nhiều, lầy lội, đi guốc là thích hợp hơn. Vì vậy, guốc đã trở nên
quen thuộc với người dân vùng đất này. Mỗi độ tết đến, xuân về, mọi nhà nô nức
sửa soạn chuẩn bị để đón một cái tết thật sung túc với nhiều hứa hẹn, trong đó việc
sắm một đôi guốc mới là việc không thể thiếu.
Nghề làm guốc mộc ở Xuân Dương không có gốc bản địa mà tương truyền là
từ Huế du nhập vào. Cho đến nay, người dân Xuân Dương vẫn cho rằng, “ông tổ”
nghề guốc mộc ở Xuân Dương là một chàng thanh niên từ Huế vào sinh sống khoảng
năm 1920. Trong dịp lễ tết, chàng trai ấy đã hướng dẫn cho dân làng cách làm guốc
mộc mà mình đã từng làm ở Huế để tặng người thân trong gia đình, từ đó, người làng
Xuân Dương đã học hỏi phương pháp, nghệ thuật làm guốc, phát triển nó, rồi dần dần
xem nghề guốc mộc như một nghề phụ trong lúc nông nhàn.
Để làm được những đôi guốc mộc tiêu thụ ngoài thị trường, đem lại đời sống
cho mình, người dân làng Xuân Dương lúc bấy giờ phải đi tìm nguồn nguyên liệu
gỗ ở các nơi, nhất là những vùng rừng núi phía Tây huyện Hoà Vang. Chất liệu làm
guốc là các loại gỗ: gỗ chim chim, sầu đông, xác mướp, mức, nhưng chủ yếu là gỗ
chim chim, vì nó dẻo, dễ đẽo gọt. Bên cạnh đó còn dùng các nguyên liệu khác như
da trâu, da bò, dầu màu, sơn màu…
123
Một đôi guốc mộc muốn hoàn thành phải qua các công đoạn: khi gỗ được
đưa về, người thợ làm guốc thường phải chọn những cây gỗ tốt, thẳng, và đẽo cho
nhỏ lại có đường kính khoảng 10 cm, rồi cưa thành lóng, vừa bằng chiều dài chiếc
guốc, sau đó chẻ thành miếng, và dùng chàng, đục đẽo cho ra thành hình chiếc guốc.
Khi đẽo xong chuyển qua xã cho có chiều cong, tiếp theo là rập cho có khuôn, từ đó
mới đẽo lại gọi là đẽo thuyền (đẽo dọc theo miếng gỗ), rồi mới vanh tròn chiếc guốc,
sau khi vanh tròn rồi chấn bụng dưới để tạo thành đế guốc, tiếp theo là bào cho nhẵn
các bên, sau đó bào lại bề mặt chiếc guốc cho sạch, mịn, rồi đánh số thứ tự từng đôi
theo các số 1 - 1, 2 - 2… đôi nào theo đôi nấy, sau đó chỉnh trang lại hai đế cho bằng
nhau. Khi xong việc đẽo gọt hình thành được đôi guốc, thì đóng quai guốc. Quai guốc
ngày xưa làm bằng da bò, sau này mới làm quai bằng nilon và nhựa mềm.
Sau khi đóng xong quai thì bắt đầu sơn từng chiếc guốc. Sơn thường dùng là
sơn ta trộn với dầu màu, gồm có ba màu chính đó là đỏ, đen và vàng. Tuỳ theo tuổi
tác và giới tính mà guốc được sản xuất thành hai loại, loại đế cao gọi là cao gót, cao
từ 6 đến 7 cm, loại đế bằng cao từ 3 đến 4 cm. Loại cao gót dùng cho thiếu nữ, loại
đế bằng dùng cho nữ trung niên, và nam giới có tuổi.
Lúc phồn thịnh, làng Xuân Dương luôn tấp nập tiếng gõ, tiếng đục, tiếng đẽo
từ mọi nhà. Việc làm ra những đôi guốc, bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu sử dụng
của các thành viên trong gia đình, sau đó là đem bán để tăng thu nhập cho gia đình.
Sản phẩm làm ra ngày càng tiếng tăm, guốc mộc Xuân Dương không chỉ có mặt
trong làng, trong vùng mà đã xuất đi ngoại tỉnh với số lượng lớn. Vào thập niên 40,
50 của thế kỷ XX, thị trường tiêu thụ mạnh là các tỉnh miền Trung như Huế, Quảng
Ngãi, Bình Định, Nha Trang… các chủ thương thường đặt hàng nhiều, và hàng
được xuất đi thường là bán sỉ chứ không phải chỉ là buôn bán nhỏ lẻ.
Ngày xưa, nghề làm guốc đã nuôi sống nhiều gia đình, làng Xuân Dương lúc
bấy giờ có khoảng 20 hộ làm guốc, mỗi người trong một ngày nếu làm tích cực thì
có thể làm đến vài chục đôi guốc, mỗi đôi thời kỳ đó bán được ba đồng hai. Mặc dù
không tạo ra sức bật lớn về mặt kinh tế, nhưng nghề làm guốc đã giúp cho các hộ
gia đình bớt phần khó nhọc, có được tý ít của ăn, của để và trang trải chi tiêu. Bộ
mặt kinh tế của địa phương nhờ thế cũng khấm khá hơn so với thời kỳ trước.
124
Các làng đan lát
Đầu thế kỷ XX, ở Quảng Nam – Đà Nẵng phát triển nhiều làng nghề, xóm nghề
đan lát, nổi tiếng nhất là làng nghề đan lát Yến Nê.
Làng Yến Nê (nay là thôn Yến Nê) tiếp giáp với làng Cẩm Nê về phía Bắc. Đây
là một trong những làng ra đời khá sớm ở Đà Nẵng, và đã có tên trong Ô châu cận
lục(21). Về cơ bản, điều kiện tự nhiên giống với làng Cẩm Nê và làng La Bông, diện tích
chủ yếu là đồng bằng với thổ nhưỡng là đất pha nên quanh làng cây tre mọc rất nhiều.
Vì vậy, nghề thủ công này sớm ra đời và khá nổi tiếng:
“Yến Nê vốn thiệt quê nhà
Nông tang đan lát nghề ta sở trường”
“Xưa bày nay bắt chước”, đời này sang đời khác đã nối tiếp nhau làm nghề
đan lát, kỹ thuật đan không thật phức tạp, không quá khó, song không phải ai cũng
có thể làm được, đây là công việc đòi hỏi phải có tính tỉ mĩ, cẩn thận, chịu khó, và
khéo tay. Mỗi sản phẩm có những yêu cầu khác nhau trong quá trình đan, song
chung quy vẫn là đan theo kiểu lóng mốt, lóng hai, lóng ba… Cái khó nhất vẫn là
tạo dáng cho sản phẩm, mỗi sản phẩm mang một công năng riêng nên hình dáng,
kích thước cũng có nét đặc trưng. Sau khi đã đan, và tạo dáng, đến công đoạn nứt
vành cũng không kém phần quan trọng vì nứt vành sẽ giữ được độ bền, góp phần
làm cho sản phẩm đẹp hơn. Vành thường đước nứt bằng mây, lựa những dây chắc,
dẽo, độ dài vừa phải. Cũng có thể sử dụng những sợi mây để lâu ngày song đã được
bảo quản bằng cách để trên giàn bếp hay còn gọi là “hun khói”. Một số vật dụng lại
được đem ngâm nước vài ngày rồi vớt lên phơi nắng trước khi sử dụng để không bị
mọt, độ bền lâu hơn.
Trong khi một số nghề như làm muối, nung vôi hàu bị tác động mạnh, lâm
vào cảnh suy tàn do quá trình đô thị hóa và chính sách kinh tế của Pháp thì nghề đan
lát Yến Nê lại bước vào thời kỳ thịnh đạt nhất. Những năm 30, 40 thế kỷ XX được
coi là thời “hoàng kim” của làng nghề này. Cả làng, hầu như gia đình nào cũng
tham gia, đã xuất hiện nhiều bậc thợ tài danh như các ông Trưởng Khánh, Trùm
Thơm, Thủ Xử… Các sản phẩm làm ra phải đáp ứng đòi hỏi cao về kỹ thuật, độ
tinh xảo và đạt đến độ thẩm mĩ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bước phát triển mới:
trải qua quá trình mấy trăm năm hình thành cùng với quá trình tụ cư trên mảnh đất
này, kỹ thuật đan lát ngày càng tinh xảo, tiếng tăm của làng nghề đã lan xa, việc
125
giao thương giữa các vùng miền có nhiều thuận lợi, sự gia tăng về dân cư đặt ra
những yêu cầu ngày càng lớn hơn về các vật dụng đáp ứng nhu cầu trong đời sống
và sinh hoạt, sự phát triển nông nghiệp và thương nghiệp cùng với một số nghề thủ
công khác cũng đã góp phần vào sự phát triển của ngành đan lát Yến Nê.
Sản phẩm chủ yếu là những vật dụng phục vụ cho đời sống sinh hoạt thường
ngày như rổ, rá, giần, sàn, nôi, giường lèo, chõng tre, lờ, đó, bồ đựng lúa…
Ban đầu, việc đan lát nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tại chỗ, về sau đã được
đem bán ở các chợ lân cận. Tuy nhiên, phạm vi nhỏ hẹp do điều kiện đi lại khó
khăn, lợi nhuận mang lại không cao, chưa có người chuyên tâm vào việc thu mua
sản phẩm và phân phối lại cho các mối lái. Mặc dầu vậy, tiếng tăm của nghề thủ
công nơi đây đã lan xa, nhiều nơi đã đến đặt các mặt hàng như: chõng, bồ đựng lúa,
nôi… làm cho hoạt động của nghề này thêm phần sôi động.
Các sản phẩm ngày càng phong phú hơn về chủng loại, từ những vật dụng
nhỏ như cái rổ, cái rá đến những vật dụng lớn, khó đan hơn như bồ đựng lúa… Đặc
biệt là những chiếc gàu sòng đã giúp nhà nông rất nhiều trong việc dẫn nước vào
ruộng trong những mùa khô hạn, hay những đôi thùng gánh nước sông về sử dụng
trong gia đình. Kỹ thuật đan vẫn giống như thời kỳ trước nhưng đạt đến độ tinh xảo
và hoàn mỹ. Có 4 cách đan chính là lóng mốt, lóng hai, mặt mủng và mặt nia. Khó
nhất là đan mặt nia (đè năm bắt hai), đan cả hai mặt, mặt chính dễ đan hơn, mặt phụ
(gọi là mặt vợt) thì khó đan hơn.
Một nét mới là bên cạnh các vật dụng thông dụng của cuộc sống đời thường,
các người thợ đã chú tâm đan một số đồ dùng mang yếu tố tâm linh như màn thờ,
giường thờ, tủ thờ… và đã chú trọng đến yếu tố thẩm mỹ, những chiếc rèm cửa,
rèm thờ, bức bình phong… đã được in màu những những hình ảnh trang trí đẹp mắt,
hài hòa và phù hợp với công năng sử dụng.
Sản phẩm làm ra không còn nhằm mục đích sử dụng mà nhằm đem bán để
tăng nguồn thu nhập. Do vậy, có rất nhiều người đã quang gánh khắp các miền quê,
các chợ trong thành phố và các vùng lân cận như Đại Lộc, Điện Bàn, Hội An… để
rao bán. Một số người đã đến để đặt đan những vật dụng quan trọng và khó đan như
gàu sòng, bồ, tủ thờ… Nhiều thương lái đã đến tận nơi để thu gom các vật dụng để
đem đi bỏ cho các mối buôn ở chợ. Hoạt động buôn bán đã làm sôi động không khí
của làng quê này, các sản phẩm đã có mặt khắp nơi làm cho tiếng tăm của làng nghề
126
Diện tích đất ít ỏi nơi đây không đáp ứng được sự gia tăng về dân số, nghề
nông không đảm bảo cho cuộc sống, nên các hộ gia đình phải dựa hẳn vào nghề đan
lát để tăng nguồn thu nhập, đảm bảo cuộc sống, điều này được phản ánh qua câu ca
dao: “Được mùa xoài hoài mùa lúa. Mất mùa lúa được mùa đan”. Nghề đan lát trở
thành ngành kinh tế chính, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của địa phương.
Nếu như làng Yến Nê đan nhiều sản phẩm thì một số làng khác lại chuyên
một loại sản phẩm. Làng Trung An (nay thuộc khu Trung An, thị trấn Ái Nghĩa,
huyện Đại Lộc) chuyên đan lờ. Làng Xuân Thái (nay thuộc xã Bình Định, huyện
Thăng Bình) chuyên đan nong. Làng Bình Phụng (trước có tên là làng Phụng Loan,
nay thuộc xã Bình Quế, huyện Thăng Bình) chuyên đan mủng. Làng Phước Đức
(nay thuộc xã Quế Châu, huyện Quế Sơn nổi tiếng với nghề đan gàu giai, làm từ
nan tre dùng để tát nước chống hạn. Làng An Thanh (nay thuộc xã Điện Thắng,
huyện Điện Bàn) chuyên đan cót tre. Làng Mỹ Nam (xã Đại Tân, huyện Đại Lộc)
chuyên thắt gióng mây.
Nhìn chung các làng nghề đan lát vẫn phát triển theo quy mô hộ gia đình.
Mặc dù nghề đan lát giúp các hộ gia đình có thêm thu nhập, cải thiện đời sống, thoát
khỏi cảnh thuần nông nhưng nghề đan lát vẫn chỉ là nghề phụ, bổ trợ cho nghề
nông, sản xuất lúc nông nhàn.
Làng chằm nón lá La Bông
Làng La Bông ngày nay thuộc xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà
Nẵng. Theo Ô Châu cận lục, vào nửa đầu thế kỷ XVI, La Bông không có tên trong
12 làng của thành phố Đà Nẵng trong tổng thể 66 làng của huyện Điện Bàn. Theo
sách Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn biên soạn năm 1775, thì làng La Bông và La
Bông Tây thuộc tổng Lệ Sơn, huyện Hòa. Như vậy, đến thế kỷ XVIII thì La Bông
và La Bông Tây đã xuất hiện. Đối chiếu giữa hai tác phẩm trên ta thấy tên làng La
Bông ra đời vào khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ XVI đến nửa sau thế kỷ XVIII.
Trong quá trình điền dã, chúng tôi đã tiếp xúc với các bậc cao niên trong làng
thì được biết, tiền hiền tộc Nguyễn và cũng là tiền hiền của làng là ngài Nguyễn
Phước Diệm, tước Huyền Quận công, gốc đất Bắc đã vào đây khai phá từ thế kỷ
XVI. Hiện nay, Ngài được làng thờ tại đình tiền hiền làng La Bông. Dựa vào gia
phả của tộc Nguyễn do ông Nguyễn Đình Ty (sinh năm 1881, đời thứ 14) nguyên là
quan thất phẩm dưới triều nhà Nguyễn biên soạn thời Duy Tân và con ông là Đại tá
Nguyễn Đình Thị (sinh năm 1929) soạn lại và bổ sung thì điều này càng có thêm
căn cứ để khẳng định.
127
Cuộc sống dần ổn định trên vùng đất mới, cư dân nơi đây chăm lo làm ăn,
cuộc sống của họ gắn chặt với nghề nông. Đời sống kinh tế của các hộ gia đình nơi
đây còn khá chật vật trong khi thời gian nông nhàn kéo dài. Người dân trông chờ
vào một ngành nghề nào đó tồn tại bên cạnh nghề nông để khỏa lấp thời gian nhàn
rỗi và cải thiện cuộc sống khốn khó nơi đây. Điều này đã được giải quyết sau khi
nghề chằm nón lá ra đời tại làng La Bông và nghề thủ công này nhanh chóng trở
thành một ngành khá nổi tiếng trong cơ cấu kinh tế của địa phương và góp phần
quan trọng trong việc làm thay đổi diện mạo của vùng đất này.
Cho đến nay, không hề có tài liệu hay một ai biết chính xác nghề thủ công
này có nguồn gốc từ đâu và được truyền vào làng thời điểm nào. Song các bậc cao
niên trong làng đều khẳng định người có công đem nghề về làng là ông Nguyễn
Tích (còn gọi là Trùm Tích), hậu duệ đời thứ 14 của họ Nguyễn làng La Bông. Ông
Nguyễn Tích cùng đời thứ 14 với ông Nguyễn Đình Ty nên ta suy ra hai ông cũng
có độ tuổi hơn kém nhau không nhiều. Ông Nguyễn Tích đi làm ăn xa đã mang một
chiếc nón lạ về làng giống như mũ mà Pháp thường đội nhưng lại có vành. Dựa vào
chiếc mũ lạ đó ông và vợ con bắt chước làm theo, sau này thì bày lại cho bà con
trong làng. Như vậy là vào thời điểm truyền nghề này con ông đã lớn và đủ khả
năng theo học, từ đó, ta khẳng định thời điểm ra đời của nghề vào khoảng những
năm đầu thế kỷ XX.
Để tạo nên những chiếc nón thì cần nguyên liệu chính là lá nón, làng La
Bông không có sẵn mà phải đi mua từ làng Mới (nay thuộc phường Thọ Quang,
quận Sơn Trà). Nghề chằm nón ngày càng phát triển, nhu cầu về nguồn nguyên liệu
đặc biệt là lá nón ngày càng cao nên một số gia đình như Hương Lịch, Hương
Thuận, Xã Bính… vừa làm nghề chằm nón vừa đứng ra cung cấp nguyên liệu cho
các hộ gia đình khác.
Việc chằm nón được tiến hành trong nội bộ từng gia đình, họ tự tìm mua
nguyên liệu, tự làm khung, tự chằm nón, rồi tự mang đi bán. Sự tập trung chỉ nhằm cho
đông vui chứ không phải tổ chức sản xuất. Những năm đầu thế kỷ XX là thời kỳ thịnh
đạt nhất của nghề chằm nón nơi đây. Họ lập nên Hội quy tụ những người tự nguyện xin
vào, hội có khoảng 20 hội viên (tất cả đều là nam giới). Ban ngày các thành viên của
hội chằm nón lo cuộc sống cho gia đình, ban đêm tập trung lại chằm nón bán lấy tiền
chung lại lập thành quỹ, cuối năm trích quỹ tổ chức bữa tiệc liên hoan.
128
Nghề nón cũng chỉ là nghề phụ bên cạnh nghề nông, đầu thế kỷ XX, hơn 80%
số hộ trong làng tham gia nghề thủ công này. Trong số đó, một số hộ đã tách ra khỏi
nghề nông, chuyển hẳn sang chằm nón. Một số hộ lại chuyên đi mua nguyên liệu về
bán, một số khác lại chuyên đi thu gom nón để mang đi bán cho các mối lái ở chợ.
Nón ở La Bông chủ yếu là nón thô hay còn gọi là nón thường, đây là loại nón
được sử dụng thường ngày. Đặc điểm của nón La Bông là thô, không được đẹp, nhưng
rất bền, điều này được dân gian đúc kết:
“Cái khuôn lừng chừng không sâu không cạn
Cái nón nửa Quảng nửa Kinh
Trên thao dưới đoác tận tình
Trên đầu cài bông hoa lý dưới cắt bộ hình răng cưa
Nứt bông dâu mũi nhặt mũi sưa
Chạy đàng con tít chân vào chân ra”
Ngoài nón thô còn có nón diễn, loại nón này khác nón thô ở chỗ có năm sáu
hình con bướm có cánh làm bằng giấy kim bảng gắn xung quanh, nằm ở giữa vành
thứ năm và thứ sáu kể từ chân lên đỉnh. Phía trong đỉnh nón lại có gắn hoa thị bằng
giấy kim bảng ở giữa, xung quanh có hình răng cưa. Người đầu tiên tạo ra nón này
là ông Nguyễn Nghiêm (1912-1969), một trong những người chằm nón nổi tiếng ở
La Bông. Nón diễn tồn tại trong những năm đầu thập kỷ 30, đến những năm đầu
thập kỷ 60 thì không còn nữa.
Những người đàn ông trong làng như Trùm Trình, Hương Lịch, Xã Bính,
Hương Thuận… đã đi bộ, gánh nón La Bông đi bán khắp nơi từ Hòa Vang ra vùng
trung tâm Đà Nẵng, các chợ có sức mua nhiều là Túy Loan, Miếu Bông, Lệ Trạch,
Tùng Sơn, An Ngãi, Hòa Mỹ…
Nhìn chung, thị trường tiêu thụ là các chợ trên địa bàn thành phố, nón La
Bông ít được xuất đi xa, bởi lẽ giá của nón còn thấp, xuất đi xa sẽ không có lợi
nhuận. Vả lại, các tỉnh thành lân cận đều có nghề chằm nón rất phát triển, ở Huế
vốn nổi tiếng với chiếc nón bài thơ, ở Quảng Nam có đến ba làng nghề chằm nón:
Giảng Hòa, Xuyên Đông, Diên Lộc.
Kể từ khi nghề chằm nón xuất hiện, bộ mặt kinh tế làng La Bông đã có nhiều
thay đổi. Nghề thủ công này đã giúp cho các hộ gia đình bớt khó nhọc. Những hộ
gia đình ít ruộng đất, hay những người không đủ sức dầm sương dãi nắng bám trụ
nghề nông, thì chằm nón là nghề cứu cánh của họ. Chính vì vậy, những thập niên
129
đầu thế kỷ XX, 80% số hộ trong làng tham gia nghề chằm nón, trong đó 20% chỉ
chuyên tâm làm nghề thủ công này và không làm nông.
Ngoài làng La Bông, ở Quảng Nam – Đà Nẵng thời kỳ này nghề chằm nón
còn có ở làng Giảng Hòa (xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc), làng Xuyên Đông (xã
Duy An, huyện Duy Xuyên) và Diên Lộc (xã Quế Minh, huyện Quế Sơn). Nhìn
chung, nghề chằm nón ở các làng này không nổi tiếng và không phát triển bằng làng
La Bông. Nón ở Giảng Hòa là nón bù hụp khác với nón lá thường, nón bù hụp
không dùng để đội mà được xuất vào nam để đậy mũ cao su.
Làng đẽo cối xay đá Xuân Tây
Thôn Xuân Tây thuộc xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam khá
nổi tiếng với nghề khai thác đá sử dụng trong xây dựng, các công trình đình, chùa,
miếu mạo, làm đường sá, mộ chí... Bên cạnh đó, làng cón phát triển nghề đẽo cối
xay đá.
Theo sự phát triển của làng, có thể suy đoán nghề xuất hiện vào cuối thế kỷ
XIX. Tại làng, không chỉ có đẽo cối xay bằng đá mà còn đẽo các sản phẩm khác từ
đá như cối giã lúa, cối giã gạo, cối xay tiêu, chày đâm tiêu, các loại sản phẩm trong
xây dựng nhà ở như tán đá lót chân cột hình tròn trái bí, hình vuông... và cả bia mộ.
Đôi khi các tay nghề trong làng còn tạc tượng Phật.
Trong làng, lớp người đẽo cối xay bằng đá, cối giã các loại chừng hai, ba
chục người. Đầu thế kỷ thứ XX, xuất hiện một số người hành nghề có tiếng là các
ông Trương Liền, Trương Khôi, Trương Kiệm... Rồi đến thế hệ các ông Xã Châu,
Hương Thời, Hương Chánh, Hương Nhiều, ông Đỗ Lợi, Hồ Sáu, Trương Lam...
Dụng cụ dùng đẽo đá thành cối xay gồm: mũi só, mũi bụp xuôi, mũi bụp
mỏng. Mỗi loại tùy theo kích cỡ và công dụng mà chế tác dụng cụ thích hợp từ hai,
ba cái đến chín mười cái lớn nhò khác nhau: Mũi só chuyên dùng vào việc xia từng
đườns chẻ một và đục lỗ. Mũi đe để nhân vành cối. Mũi bụp xuôi có công dụng làm
cho bằng phẳng. Mũi bụp láng làm cho mặt đá trơn láng.
Đá thì khai thác các nơi chung quanh làng Xuân Tây và An Chánh. Ở Đại
Tân, huyện Đại Lộc cỏ nhiều mỏ đá xanh rất cứng và chắc. Để khai thác được
đá, những người thợ đá đào đất chung quanh, dùng chiếc xà ben, búa tạ, búa con
để đập và đục đá ra từng khổ, lát theo mô hình của các sản phầm sản xuất. Kế
đến người thợ dùng mũi só xỉa theo vân đá, thớ đá để tách lát đá ra. Tùy thuộc
130
vào hình dạng, kích cỡ sản phẩm mà người thợ quyết định cắt đá ra làm cối xay
bột hay cối giã gạo, hoặc bia mộ, tán đá đợ cột nhà... Để lấy được một lượng đá
để hành nghề là rất nặng nhọc, đòi hỏi phải có sức lực và sự chịu đựng dẻo dai
cùng với kinh nghiệm tích lũy nhiều năm của người thợ đá mới có thể khai thác
được mà không bị hao tổn đá và sức lực.
Tại những gia đình thợ đẽo cối xay có sự phân công lao động khá rõ rệt: Đàn
ông, thanh niên sức bền vai rộng quanh năm suốt tháng chuyên đẽo cối xay. Người
phụ nữ và các con cái trong nhà chuyên lo canh tác mấy sào ruộng, một ít sào khoai,
sắn. Nghề đẽo cối xay giúp các hộ gia đình có thu nhập khá.
Bên cạnh những sản phẩm làm ra theo yêu cầu của khách hàng đặt trước,
một số hộ gia đình cũng làm hàng chợ, chủ yếu cung cấp cho các đại lý ở thành
phố Đà Nẵng.
Làng kẹp quế Tích Phước
Làng Tích Phước, nay là thôn 2, xã Tiên Lộc, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam, thuộc vùng đất bán sơn địa, nằm kẹp giữa hai con sông Tiên và sông Đông, có
hình dáng giống như chiếc mu rùa.
Tổng diện tích tự nhiên của làng khoảng 600 ha nhưng diện tích đất trồng lúa
chỉ có 50 ha. còn lại là đất đồi trọc và đất màu. Ruộng ở đây phần lớn là ruộng cạn,
gieo sạ, còn lại là một ít ruộng lầy cấy lúa nước. Do không có công trình thuỷ lợi,
thường xuyên thiếu nước nên năng suất lúa rất bấp bênh. Do đó, ngay từ thời xa
xưa, người dân địa phương đã tích cực trồng nhiều loại hoa màu phụ như sắn, khoai
rồi các loại cây có thể được liệt vào loại cây đặc sản của địa phương như quế, tiêu,
chè... “Riêng về cây quế, có trồng nhiều ở huyện Hà Đông, thứ cây này góp phần
quan trọng vào trao đổi buôn bán” [149]. Những loại cây này cỏ giá trị kinh tế rất
cao. Nhờ vậy, cuộc sống người dân làng Tích Phước được cải thiện.
Những năm đầu thế kỷ XX, ở làng Tích Phước có những Hoa kiều giàu có
như ông Tạ Bổn, Trần Gia Hùng, Tạ Ba chuyên thu mua quế bán lại lấy lãi. Ông
mang những thanh quế kẹp kiểu số 3 từ bên Hồng Kông về, bày cho những người
dân trong làng như các ông Trần Hình, Trùm Nghi, Hồ Thâm, Trần Chừng... cách
kẹp quế theo kiểu này. Nhờ đó, lớp thợ kẹp quế đầu tiên của Tích Phước ra đời,
đánh dấu sự hình thành làng nghề kẹp quể Tích Phước về sau này.
131
Lúc bấy giờ, một người thu mua quế người Hoa ở Tam Kỳ với tên thường
gọi là ông Cau được xem như “bá chủ” quế của vùng đất Tiên Phước và Trà My.
Theo các cụ già cao tuổi trong làng, ông ta có nhiều kho chất đầy quế không chỉ ở
Trà My, Tiên Phước mà còn ở Tam Kỳ và ngay tại Đà Nẵng. Chính ông là người
xuất khẩu nhiều quế sang Hồng Kông.
Lớp thợ kẹp quế thứ hai từ những năm 1930 trở về sau, chủ yếu là con cháu
của lớp thợ kẹp quế đầu tiên cũng như con cháu của ông Tạ Bổn như các ông Tạ
Đình, Tạ Diều, Trầm Lợi, Võ Buôn, Võ Điền, Tạ Diệu Vinh, Hồ Ưng, Nguyễn
Danh Xưng, Nguyễn Có, Mai Tuấn... Ước tính, lúc bấy giờ có khoảng 50 đến 60 hộ
dân trong làng hành nghề kẹp quế. Họ đều là đàn ông, thanh niên. Đàn bà chủ yếu
lo việc nông tang, trông coi vườn tược, con cái.
Gọi thợ là gọi chung nhưng trong nghề kẹp quế cũng có thợ cả và thợ phụ.
Thợ cả hưởng tiền công cao hơn. Thường, thợ cả hưởng cao gấp rưỡi so với thợ
phụ. Đã thành lệ, khi thuê công thợ, những ông chủ quế thường thuê thợ cả. Rồi thợ
cả mới gọi thợ phụ. Bấy giờ, thợ cả đóng vai trò rất quan trọng, là người được cầm
dao. Thợ cả vào nửa đầu thế kỷ XX nổi nhất là các ông Trần Hinh, Nguyễn Ngọc
rồi đến các ông Võ Biền, Trần Lợi, Nguyễn Có, Tạ Đình, Tạ Diệu Vinh... Những
thanh quế do chính tay họ kẹp trông rất đẹp.
Mỗi năm, làng nghề kẹp quế Tích Phước cỏ hai mùa kẹp quế là mùa tiên
và mùa hậu. Mùa tiên từ tháng 1 đến tháng 4 âm lịch. Mùa hậu từ tháng 7 đến
tháng 9 âm lịch.
Dụng cụ kẹp quế gồm: Dây lạt sợi nhỏ (như lạt ghém) dài 40 cm, hoặc các
loại dây ni lon khác; Ống tre khô hoặc thanh gỗ đã khô.
Sau khi người thợ khai thác quế thành từng tấm vỏ dài 30 cm, người thợ kẹp
dùng ống tre, hoặc thanh, miếng gỗ lồng vào giữa ruột vỏ quế và dùng dây lạt ghém
cột chặt, bên ngoài vỏ có dùng các thanh tre khác kẹp quế định vị như tiêu chuẩn ép
quế đã cho trước, vỏ quế kẹp có nhiều loại: số 3, vòng tròn, vòng cuộn... tùy theo ý
đồ của chủ quế, vỏ quế kẹp xong mang ra nắng phơi thật khô. Sau khi vỏ quế đã
khô, các thợ kẹp lại tháo dụng cụ ra, vỏ quế có hình dạng như đã quy ước trước.
Mỗi mùa kẹp quế họ thường làm ba tháng, trùng với mùa khai thác vỏ quế.
Địa điểm cũng chỉ ở hai nơi là Tiên Phước hoặc Trà My. Thỉnh thoảng, chủ lại yêu
cầu thợ vào Hội An làm. Về tiền công, thợ có thể chọn hai cách là ăn lương theo
132
tháng và ăn lương theo sản phẩm. Dù làm ăn theo cách nào, hồi ấy, người thợ cũng
được chủ rất coi trọng, đối đãi rất tử tế, cơm nước chủ lo tươm tất.
Tuy nhiên, trong hai hình thức lao động ăn lương, thợ thích ăn theo sản
phẩm. Trước khi làm, thợ được ứng trước tiền. Thường thường, làm công ăn lương
theo tháng được ứng nhiều hơn làm ăn theo sản phẩm. Mỗi mùa, một người thợ có
thể kiếm được ba nghìn đồng, tương đương với bốn triệu đồng theo thời giá hiện
nay. Đó là số tiền không nhỏ, đặc biệt với người dân sống ở vùng trung du Tiên
Phước. Cho nên, thời trước muốn học nghề kẹp quế không phải chuyện dễ. Phải
thân quen lắm, họ mới dạy. Còn lại, hầu hết, họ chỉ dạy cho con cháu trong nhà.
Làng bún Phương Hòa
Phương Hòa là tên gọi một làng nhỏ mà thời xưa còn có tên gọi là làng An
Hòa gồm ba ấp An Tường, Hòa Tây và Hòa Đông thuộc tổng An Hòa, phủ Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam, nay thuộc phường Hòa Thuận, thành phố Tam Kỳ, nằm cách
trung tâm thành phố khoảng hơn một cây số về phía Bắc và cách quốc lộ 1A hai
trăm mét về phía Tây. Nơi đây cố nghề làm bún tươi nổi tiếng đã đi vào câu ca:
“Bún Phương Hòa vừa ngon vừa dẻo,
Ai ăn rồi nhở mãi không quên”
Tiền nhân của làng Phương Hòa là những cư dân ở Đàng Ngoài đã theo chân
các đoàn quân nam tiến vào Đàng Trong khai hoang lập ấp. Theo các bô lão của
phường Hòa Thuận và theo gia phả tộc Võ của phường này thì tiền hiền của làng
An Hòa là tướng thần Võ Đình Thông cùng con cháu và một số họ tộc khác đã đến
vùng đất An Hòa khá sớm. Cùng với công việc nông tang, các tiền nhân ngoài việc
trồng trọt ruộng vườn, còn làm thêm nghề buôn bán để nâng cao đời sống. Từ cái
khó đã ló cái khôn, chính các tiền nhân của các tộc họ Đỗ, Trần như các ông Đỗ
Dột, Trần Đăng Khanh và Trần Đăng Tuấn đã đem nghề làm bún truyền dạy tại địa
phương này, tính đến nay đã hơn 200 năm.
Làng nghề bún Phương Hòa cùng như các địa phương làm bún khác của xứ
Quảng, trong quá trình hình thành và phát triển từ buổi sơ khai sản phẩm ban đầu
đựng trên những chiếc lá chuối, lá dong mà người ta gọi là bún lá. Ban đầu khi trao
đổi hoặc buôn bán, người ta tính bằng đơn vị lá, mãi về sau này người ta mới tính
bằng đơn vị lạng và ki lô như hiện nay.
133
Từ thời kỳ làm ra sản phẩm bún tươi bằng các công cụ sản xuất thô sơ cho
đến thời kỳ cơ giới hóa sản xuất là một quá trình cải tiến kỹ thuật công cụ sản
xuất, nhưng từ ban đầu cho đến tận ngày nay, hương vị của bún Phương Hòa vẫn
giữ được đặc thù riêng, có lẽ do có được gạo ngon, nước giếng trong lành, nghệ
thuật ủ bột... như một bí quyết gia truyền nên làng bún tươi Phương Hoà được
nhắc đến tới ngày nay.
3.2.2. Các nghề thủ công tiêu biểu
Nghề đan lát chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có, không cần đến máy
móc, kỹ thuật không cầu kỳ, được làm lúc nông nhàn nên đã tiếp tục được duy trì.
Sản phẩm của nghề thủ công này rất đa dạng từ các vật dụng đơn giản nhưng vô
cùng thiết yếu cho sinh hoạt con người như rổ, rá, nong, nia, thúng, mủng, dần, sàng
đến các vật dụng trong sản xuất, sinh hoạt như gàu sòng, thuyền thúng, lưới, võng...
“Tre, mây đóng một vai trò trọng yếu trong đời sống kinh tế bản xứ, chúng được
dùng để chế tạo gần như tất cả các vật dụng cần thiết hàng đầu và hơn nữa còn
dùng để làm nhà ở... Người ta có thể nói rằng ở tất cả mọi làng đều có những thợ
đan thúng, họ làm mây và tre” [99, t. 18, tr. 205].
Do đúc kết được những kinh nghiệm vốn đã truyền từ đời này sang đời khác,
kỹ thuật đan lát ngày càng hoàn hảo, sản phẩm làm ra tinh tế, chất lượng nâng cao.
Chính điều này đã đưa các sản phẩm của nghề đan lát vượt ra khỏi lũy tre làng, góp
mặt ở các phiên chợ liên làng, phiên chợ vùng, cung cấp cho một số làng của Quảng
Nam, tuy không lớn, nhưng cũng đã làm phong phú thêm sản phẩm trao đổi giữa
các phiên chợ, cũng như thúc đẩy hoạt động buôn bán trên vùng đất này.
Từ chỗ chỉ được làm trong các gia đình, dần dần nghề đan lát đã tỏa rộng ra,
nhiều gia đình tham gia làm nghề, thậm chí cùng phối hợp với nhau, từ chỗ chủ yếu
là nghề phụ dẫn đến hình thành các “xóm nghề”, “làng nghề” như làng nghề đan lát
Yến Nê. Sản phẩm làm ra ngoài mục đích sử dụng đã chú trọng đến việc cung ứng
cho việc buôn bán nên số lượng và chất lượng được nâng cao. Một số người có tay
nghề khéo đã tách hẳn khỏi nghề nông, chuyên tâm vào nghề đan lát để tạo ra các
sản phẩm đem bán, lấy tiền trang trải cuộc sống của gia đình. Do chuyên tâm sống
bằng nghề thủ công này nên công việc được tiến hành một cách chuyên nghiệp, họ
tìm tòi để sản phẩm làm ra đẹp hơn, tốt hơn, đáp ứng được thị hiếu của người dùng.
134
Bên cạnh những người đan chính, một số người trong gia đình tham gia hỗ trợ
như tìm nguyên liệu, đem sản phẩm đi bán... Trong làng, một số người cũng đã tách
khỏi nghề nông, chuyển sang đốn tre, bứt mây, lấy dầu rái về bán lại cho các hộ sản
xuất, một số người khác lại chuyên đi thu mua các sản phẩm mang ra các phiên chợ
để bán lại lấy lời. Như vậy, nghề thủ công này đã có sự phân công lao động, dẫn đến
sự chuyên biệt, không còn đóng vai trò phụ trợ như thời kỳ trước đây.
Trước đây, ở Quảng Nam – Đà Nẵng, việc buôn bán các sản phẩm của nghề
đan lát chủ yếu là những người phụ nữ, họ đem ra các phiên chợ bán lấy ít tiền mua
thức ăn hay một vài đồ dùng thiết yếu, nhiều khi bán không được nên tan buổi chợ
lại gánh về. Thời Pháp thuộc, đã có nhiều người chuyên thu mua các sản phẩm, đem
bán trong các phiên chợ như một mặt hàng thiết yếu. Bên cạnh đó, còn có hiện
tượng “ký gửi” tức là các gia đình đã gửi sản phẩm tại các quày hàng ở chợ để bán
dần dần. Như vậy, sự góp mặt của các sản phẩm đan lát đã làm phong phú thêm các
mặt hàng trong các phiên chợ.
Điểm mới của nghề đan lát ở Quảng Nam - Đà Nẵng thời Pháp thuộc là sự
xuất hiện của một số nguyên liệu mới. Trước đây, mây được dùng để nứt vành thì
thời kỳ này đã sử dụng dây cước, mặc dầu không bền so với mây nhưng lại gọn,
đẹp, dễ sử dụng hơn. Bên cạnh việc tạo ra các sản phẩm như trước đây, người ta lại
đan các sản phẩm mang tính thẩm mĩ, được bán cho các du khách, hay trang trí
trong gia đình như gùi mây đựng đồ trang sức của phụ nữ, các hộp tre làm ống dắt
bút, ống đựng tăm, các đồ vật xinh xắn như chiếc thuyền, con trâu, thiếu nữ mặc áo
dài, hay các nhạc cụ bằng tre, nứa, lồ ô...
Nghề mộc không chịu nhiều ảnh hưởng trước những biến động của kinh tế
Quảng Nam - Đà Nẵng thời Pháp thuộc. Không những vậy, trước sự gia tăng dân
số, đời sống của cư dân ngày càng cao, các ngành thủ công khác cũng có bước phát
triển mới đã đòi hỏi nghề mộc phải phát triển để cung ứng các vật dụng và công cụ
sản xuất. Chính điều này, làm cho nghề mộc phát triển hơn so với thời kỳ trước.
“Người ta thấy ở đây có nhiều người thợ chạm giỏi. Các đồ bằng gỗ gụ, trắc, huê,
giả hương mà người ta có thế kiếm được ở Quảng Bình,, Thừa Thiên, Quảng Nam,
Thanh Hóa và Bình Định là rương, sập, bàn, ghế băng, bình phong, ghế dựa, ống
điếu, hộp đựng thuốc lá, dĩa, tráp để tất tay, mâm các loại, tủ chè, bàn thờ, các đồ
vật trên bàn thờ, đế đèn, tượng nhỏ.. Người ta thấy có nhiều đồ cẩn và sơn mài khá
tinh tế” [99, t. 18, tr. 206].
135
Cùng với quá trình đô thị hóa, chất lượng của tầng lớp thị dân được nâng cao
thì tư duy thẩm mỹ ngày càng phát triển. Nghề mộc cũng đã chú trọng đến việc chạm
khắc, tạo nên những hoa văn đẹp, làm cho sản phẩm có giá trị hơn.
Nghề rèn luôn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống và sinh hoạt của cư
dân địa phương nên thời kỳ này không những không bị tác động bởi chính sách kinh
tế của Pháp mà ngược lại ngày càng phát triển nhằm để đáp ứng sự phát triển của
đời sống kinh tế - xã hội của địa phương. Thời kỳ này, Pháp đầu tư mạnh và nắm
độc quyền về những mặt hàng này, nhưng Pháp cũng đã tạo ra số lượng sắt thép khá
nhiều, việc mua nguyên liệu dễ hơn trước, nhưng giá cả thì khá đắt hơn, lợi nhuận
mang lại không cao.
Nghề kim khí, thời kỳ này, nhiều thợ kim hoàn làm nhẫn, vòng đeo tay, hoa tai,
hộp bằng vàng, bạc hay mạ vàng bạc. Rất nhiều thợ mã sản xuất đồ mã bằng giấy vàng
bạc [99, t. 18, tr. 205].
Nghề đóng ghe thuyền ổn định và phát triển, tại Hội An có ba trại đóng ghe
lớn, một ở làng Thanh Châu của ông Thủ Biền, hai ở làng Kim Bồng, một của ông
Hương Chạy, một của ông Hương Phòng. “Kể từ tỉnh Quảng Nam trở về phía Nam,
ngư dân cơ dụng cụ khá hơn, thuyền của hộ buồm lớn, cho phép họ ra khơi trong
nhiều ngày” [99, t.18, tr. 208].
Nghề đóng cối xay: Giống như thời kỳ trước, việc xay xát lúa gạo vẫn chủ
yếu bằng cối xay nên nghề thủ công này vẫn giữ được vai trò của mình. Trải qua
quá trình truyền nghề, “lớp cha trước, lớp con sau” đã nối nhau gìn giữ, vì vậy,
nghề đã được duy trì và ngày càng hoàn thiện hơn.
Đầu thế kỷ XX, ông Huỳnh Tấn Trí là con của một gia đình đóng cối xay nổi
tiếng ở làng Triều Châu (xã Duy Phước, huyện Duy Xuyên) về làm rể tại làng Yến
Nê. Ông đã mang nghề này truyền bá trên quê vợ và Yến Nê là một trong những
làng đóng cối xay lúa nổi tiếng ở Đà Nẵng lúc bấy giờ.
Nghề nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa vốn là nghề truyền thống lâu đời của đất
Quảng đã phát triển mạnh mẽ nhất trong thời kỳ này song song với nghề dệt vải bằng
sợi bông. Những làng dệt vải hình thành với hàng ngìn khung cửi như Bảo An, La Thọ,
Thanh Quýt... Đây là thời kỳ ra đời của một số chợ chuyên mua bán sợi vải bông và vải
thành phẩm như chợ Vải (Thanh Quýt), chợ Phong Thử, chợ Bảo An (Điện Bàn), chợ
Quảng Huế (Đại Lộc)... Chính người Pháp cũng công nhận “ngành lụa được sản xuất
136
nhiều nơi” [127, tr. 488]. “Nghề dệt lụa của người bản xứ chiếm một nửa số kén sản
xuất trong xứ, gần 750.000 kg và sau khi quay thành sợi được 30.000 kg. Việc quay sợi
được thực hiện với máy móc rất đơn giản” [99, t. 31, tr. 202].
Tại Quảng Nam – Đà Nẵng “có ngành trồng dâu nuôi tằm rất phổ biến, và
lụa là một trong những sản phẩm đóng góp mạnh nhất vào sự giàu có của tỉnh”
[149]. Đặc biệt, nghề ươm tơ, dệt hàng lụa lĩnh rất phát đạt ở vùng Gò Nổi của
huyện Điện Bàn và một số xã ven bờ Nam sông Thu Bồn của huyện Duy Xuyên.
Nơi đây được xem là trung tâm tơ lụa của Quảng Nam trong thập kỷ 20 đến 40 của
thế kỷ XX “một nhà máy hấp kén và ươm tơ của công ty Delignon đặt tại Giao
Thủy (huyện Đại Lộc) sử dụng khoảng 400 công nhân” [90, tr. 693]. Ở Đại Lộc
(trong đó có Giao Thủy), được hưởng một chế độ thưởng của chính quyền Pháp cho
từng kg tơ trong năm (1905 – 1909). Năm 1927, công ty này đã sản xuất 25 tấn tơ
và 300.000 m lụa nhiễu [154]. Cũng trong thời gian này, ra đời xí nghiệp dệt của
chủ tư sản người Việt là xưởng Phạm Hội ở Duy Xuyên.
Một sự kiện độc đáo và cũng là quan trọng nhất của lịch sử ngành dệt Quảng
Nam đã tạo nên một sự “bứt phá” mới về kỹ thuật dệt, đó là việc ông Võ Dẫn
(thường gọi là Cửu Diễn) người xã Thi Lai (huyện Duy Xuyên) chuyên về nghề dệt
đã sáng chế ra cái khung cửi gỗ cải tiến theo mô hình của khung cửi sắt vận hành tự
động bằng điện của Pháp. Khung cửi cải tiến này đạp bằng chân, chỉ giải phóng đôi
tay đưa thoi, nhưng đã tăng năng suất gấp ba, bốn lần so với phương thức dệt cổ
truyền. Một nhân vật thứ hai là ông Nguyễn Thống, người thợ chuyên đóng khung
cửi đã nghĩ ra cách chế ra cái trục gùi để dệt hàng cẩm tự (có ô vuông âm dương) và
hàng cải hoa nổi. Ông Võ Diễn (đã được triều đình nhà Nguyễn ban tặng hàm bát
phẩm với tước hiệu “Hàn lâm viện khiển bộ”. Công sứ Pháp và Tổng đốc Quảng
Nam đã đến tận nơi để quan sát cùng những lời chúc tụng ông trân trọng. Ngay Phó
vương Bắc Kỳ là Hoàng Trọng Phu cũng đã đến tận nơi để quan sát, chụp ảnh,
mang bản vẽ kiểu máy dệt để nghiên cứu và phổ biến [40, tr. 337].
Nhờ những sáng chế phát minh của ông Võ Diễn và ông Nguyễn Thống,
ngành dệt hàng tơ lụa của Quảng Nam đã có thể cạnh tranh được với hàng ngoại
nhập. Hàng dệt ra được đưa đi tiêu thụ cả trong Nam, ngoài Bắc, vào Sài Gòn lên
tận Nam Vang (Phnom Penh). Nhiều gia đình dệt có đến hàng chục khung cửi, trở
137
thành chủ thuê thợ làm công. Nhà ngói ở vùng này mọc lên san sát, cùng với sự
phát triển một số dịch vụ khác của nghề tơ lụa. Với sáng kiến cải tiến kỹ thuật dệt
này, ông Võ Diễn trở nên giàu có, thuở ấy, ông là người duy nhất ở Quảng Nam có
xe hơi Traction II.
Nghề dệt lụa lĩnh vùng Gò Nổi (huyện Điện Bàn) và các xã ven sông Thu
Bồn của huyện Duy Xuyên như Thi Lai, Hà Mật, Đông Yên, Mã Châu. Đây không
còn là những làng dệt thủ công thông thường mà đã có bước phát triển nhảy vọt
bằng cách cải tiến máy dệt đưa lại năng suất cao gấp ba lần khung dệt thủ công. Về
mặt kỹ thuật, các mặt hàng lụa lĩnh làm ra đạt chất lượng cao không thua kém hàng
ngoại nhập, được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường cả nước từ Hà Nội, đến Sài Gòn,
được bán sang tận Nam Vang. Do đó, sản lượng lụa lĩnh sản xuất từ Quảng Nam lên
đến hàng triệu mét/năm [90, tr. 693].
Người thợ dệt ở đây còn dệt được cả tussor (tuýt xo), một loại hàng dệt bằng
thao càng (sản phẩm thứ cấp của tơ tằm) dày để may Âu phục thay hàng ngoại,
được dân thành thị ưa chuộng lúc bấy giờ. Năm 1919, Pháp tổ chức Hội chợ triển
lãm (đấu xảo) tại Hà Nội, mặt hàng tơ lụa của Quảng Nam tham gia góp mặt tại hội
chợ. Báo Nam Phong số 30 ra tháng 12/1919 ghi lại: “Sa trắng, nhiễu đơn, nhiễu
hoa (Liên Thành, Hội An)”. “Các khung cửi hầu như nằm rải rác khắp các làng...
các loại vải có rất nhiều và thay đổi tùy theo vùng, tùy theo ý thức và nhu cầu của
dân chúng. Các loại chính là; nhiễu trơn, vải hoa, lụa hoa, lụa mỏng tơ tằm, lụa tơ
tằm” [99, t. 8, tr. 203].
Nghề nhuộm vải, với sự xuất hiện của các phẩm màu bằng hóa chất, người
thợ có thể sử dụng dung dịch này để thay cho việc nấu dung dịch như trước đây và
người thợ cũng có mang phẩm màu đi dạo để nhận nhuộm đồ dùng ngay tại chỗ.
Tuy nhiên, việc tự nấu phẩm màu vẫn là chủ yếu vì nguyên liệu dễ tìm, giá thành rẻ,
người thợ lấy công làm lời, kiếm thêm được thu nhập.
Nghề may: Đầu thế kỷ XX, máy may (máy khâu) đã xuất hiện. Ban đầu là loại
máy hoạt động bằng tay quay, tiếp đó là loại máy may bằng chân đạp và sau này là
máy may bằng mô tơ điện. Việc may bằng tay chỉ còn làm các công đoạn như làm
khuy áo, đơm cúc... nên đã giúp cho người thợ đỡ vất vả hơn, sản phẩm làm ra nhiều
hơn và đẹp hơn.
138
Thời kỳ này, bên cạnh trang phục truyền thống, đã khá phổ biến Âu phục, loại
trang phục hiện đại, sang trọng, gồm áo sơ mi và quần tây dài. Trang phục này đắt
tiền nên chỉ có một số người mặc, chủ yếu là trí thức, công chức hoặc người giàu có.
Vải may áo quần loại này thường là lụa, đũi hay tuýt xo (loại vải lụa sợi xe to).
Nghề nấu rượu: Pháp nắm độc quyền về rượu và muối. Rượu là do Pháp
nhập vào, rượu nấu tại địa phương bị nghiêm cấm. Bên cạnh đó, nhiều năm liền bị
thiên tai, mùa màng thất bát, nguyên liệu nấu rượu khó khăn, nhu cầu sử dụng ít nên
nghề nấu rượu không còn phổ biến như thời kỳ trước.
Nghề ép dầu phụng, thời kỳ này có điểm mới, bên cạnh việc ép dầu bằng
bộng như trước đây còn có ép dầu bằng máy. Ép bằng bộng cây thì lấy được 25%
dầu mà thôi, nhưng ép bằng máy thì nhanh và lấy được nhiều dầu hơn (khoảng 32-
35%). Bên cạnh đó, dầu sẽ được lọc mau và tốt. Tuy nhiên, để đầu tư mua máy ép
rất tốn kém nên không phổ biến, chủ yếu vẫn ép dầu bằng phương pháp thủ công
như trước đây.
Nghề làm đường từ cây mía cùng phát triển khá mạnh. Từ mía, các lò đường
ở đây làm ra đường bát, đường cát trắng, đường cát vàng và mật đường để cung cấp
cho các lò nấu rượu. Đường cát Quảng Nam được bán ra Huế, Vinh, Thanh Hóa và
cả Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Cùng với Quảng Ngãi, Quảng Nam là địa
phương có sản lượng đường lớn nhất cả nước. Năm 1913, Khâm sứ Trung Kỳ đã
từng báo cáo rằng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi “việc sản xuất đường hiện nay nhiều
không kể xiết, các trục ép mía làm việc suốt ngày đêm, thiếu cả thuyền mành đi biển
để chở các bao đường ra Faifo và Đà Nẵng” [58, tr.107]. Theo báo Trung Bắc chủ
nhật, số 98, tháng 02/1942, trong những năm 1939 – 1941, nghề làm đường ở nước
ta phát triển mạnh ở Trung và Nam Kỳ như Tây Ninh, Tuy Hòa, Phú Yên, Quảng
Nam, Quảng Ngãi. Hằng năm nước ta sản xuất khoảng 70.000 tấn đường. Riêng ở
Quảng Nam “đường cát thủ công so với đường trắng của các nhà máy đường sản
xuất ra rẻ hơn, được tiêu thụ nhiều hơn” [58, tr. 229]. Tập san B.A.V.H ghi lại: “Ba
tỉnh sản xuất nhiều đường là Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định, kế đó là Nhệ
An, Phú Yên. Mỗi năm An Nam xuất cảng gần như tất cả sang Trung Hoa, trung
bình 1000 tấn đường đen, số còn lại tiêu thụ trong xứ” [99, t. 8, 178]. “An Nam sản
xuất đường trắng, đường đen và mật mía. Sản phẩm này ước lượng khoảng 35. 000
tấn, trong đó 2/3 tiêu thụ trong nước, phần còn lại chủ yếu xuất khẩu sang Hồng
Kông” [99, t. 8, tr. 201].
139
Vào đầu thập niên 1930, tại làng Bảo An đã ra đời một công ty đường mục
đích là đối phó với sự chèn ép của người Hoa ở Hội An. Ban quản lý công ty gồm
có hai Trưởng, Phó ban, một thư ký, một thủ quỹ, một kế toán và một thủ kho. Các
thành viên tham gia đóng góp bằng tiền theo khả năng, hoặc bằng dụng cụ làm
đường. Lãi suất được chia theo cổ phần đóng góp. Cơ sở vật chất của công ty đươc
xây dựng bằng tranh tre trên một khu đất công của làng, gọi là Con Nậy. Trong suốt
thời gian công ty này hoạt động, nghề làm đường ở Bảo An là thời cực thịnh, so với
các nghề khác.
Ở đất Quảng không những nghề trồng mía làm đường phát triển ở làng Bảo
An mà một số xã thuộc huyện Điện Bàn cũng rất phổ biến ở các huyện Duy Xuyên,
Quế Sơn, Thăng Bình thuộc tỉnh Quảng Nam. Nghề làm đường, buôn đường đã tồn
tại trên một trăm năm, tuy có thời nở rộ, có thời tạm lắng nhưng nói chung vẫn
được duy trì cho đến trước năm 1945.
Những năm 1941 - 1942, phát xít Nhật đưa quân sang xâm chiếm nước ta,
trong đó có Quảng Nam - Đà Nẵng nên nghề mía đường mai một đi ít nhiều. Chúng
áp dụng chính sách cướp bóc, vơ vét các loại nông thổ sản của ta như gạo, bông,
đậu, bắt buộc nông dân phải huỷ bỏ trồng lúa, khoai, bông, mía mà phải trồng đậu
phụng để nộp cho chúng, không tính là đất ấy có trồng được đậu phụng hay không.
Do đó sản lượng mía cũng ít dần. Nghề làm đường cũng chỉ tồn tại đến năm 1945 -
1946 rồi mai một trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân các huyện Điện Bàn,
Duy Xuyên phải rời làng tản cư, nghề làm đường bị mai một.
Nghề làm bún vẫn tồn tại và phát triển như thời kỳ trước. Một số nơi, với sự
cơ giới hóa trong các khâu xay xát gạo, máy bột, và quá trình buôn bán được mở
rộng đã làm cho nghề làm bún đỡ vất vả hơn và số lượng tiêu thụ nhiều hơn, thu
nhập của các hộ sản xuất cũng khấm khá hơn.
Nghề chế biến thủy hải sản: “Sau khi đánh bắt về, cá không ăn tươi liền được
dùng làm cá ướp và nước mắm. Hai ngành kỹ nghệ này rất quan trọng trong xứ
này, chúng có mặt ở khắp nơi. Ở miền Bắc: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Ở miền
Trung: Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ở miền Nam: Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận”... “Người bản xứ tiêu thụ một lượng lớn cá khô, nước mắm,
mắm tôm, ruốc. Dù vậy, An Nam cũng xuất cảng một lượng lớn. Các tỉnh phía Bắc
An Nam xuất cảng sản phẩm của mình ra Nam Định, Hà Nội. Các tỉnh phía Nam
xuất cảng vào Nam Kỳ và các xứ Viễn Đông” [99, t. 18, tr. 210, 211].
140
“Nghề gốm – kỷ nghệ này ít phát triển, các tách trà hay những vật dụng
khác bằng sành đều nhập cảng từ Bắc kỳ và từ Trung Hoa. Trong xứ, người ta
chỉ làm các loại chậu và nồi bằng đất nung... các loại gạch ngói và vôi có rải
rác ở tất cả các tỉnh và đủ cho nhu cầu trong xứ” [99, t. 31, tr. 204]. Bước sang
nửa sau thế kỷ XX, do sự cạnh tranh mạnh mẽ của các sản phẩm gia dụng bằng
kim loại (đồng, sắt, gang, nhôm) và bằng nhựa, việc tiêu thụ các sản phẩm bàng
sành gốm đã bị thu hẹp lại. Tuy nhiên, làng nghề gốm Thanh Hà vẫn phát triển
so với thời kỳ trước.
Nghề làm hương ở xóm Hương tuy có bị ảnh hưởng ít nhiều qua cuộc kháng
chiến chống Pháp nhưng vẫn được duy trì và có bước phát triển mới. Lúc này, trong
xóm có 4 hộ làm hương là hộ các ông Võ Tấn Đồng, Võ Tấn Minh, Nguyễn Công
Quý và một người con của ông Nguyễn Hữu Cày.
Trước kia, việc giã bột lá bời lời, lá quế hoàn toàn thủ công, thường những
hộ làm hương phải thuê nhân công giã bằng tay. Công việc cực nhọc, tốn nhiều tiền
của, công sức. Thế nên, ông Võ Tấn Đồng mua liền một lúc hai máy xay giá 30.000
đồng mỗi máy cùng một máy nổ 100.000 đồng. Đó là bước cơ giới hóa đầu tiên
trong nghề làm hương ở Quảng Nam. Kể từ đó, ông là người cung cấp bột hương
chính cho những hộ làm hương trong và ngoài làng.
Bên cạnh những nghề trên đây, thời kỳ này, một số nghề làm đồ lặt vặt, đồ
chơi, đồ kỹ nghệ phát triển mạnh. Theo tập san B.A.V.H, năm 1931: “Họ dùng sừng
bò, sừng trâu để làm móc màn, móc áo, bộ căng dây đàn ở các nhạc cụ, ống hút
thuốc, quân cờ, hộp đựng đồ xức tóc, chai rượu, tù và, ống đựng tăm xỉa răng, ống
giã trầu, conn thoi, lược, lược dày, hộp đựng thuốc lá, nút mawmh – sét, giá ddeer
bút lông, giá để đũa, đồ thờ, đồ làm bánh, gậy chống”.... “Đồ bằng xương cá: giá
để bấc hút thuốc Lào, cán gậy chống, ống điếu hút thuốc, hộp thuốc phiện, ống
đựng tăm xỉa răng, nút áo veste, nhẫn, hoa tai”... “Đồ bằng xương voi: nghiên mực,
ly rượu, lọ đựng mực để viết chữ, gạt tàn thuốc lá, hộp thuốc phiện, cán bút lông,
khuôn dấu. Đồ bằng ngà voi: khuôn dấu, đũa,hộp đựng thuốc lá” [99, t. 18, tr. 206].
Như vậy, nhìn chung các nghề thủ công trước đây tiếp tục tồn tại và phát triển,
một số nghề mới xuất hiện dù chưa thật sự nổi bật, song cũng đã góp phần làm thay đổi
diện mạo, bức tranh thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng thời kỳ này. Những nghề
mới đã làm đa dạng các nghề thủ công, đáp ứng nhu cầu của một bộ phận cư dân và tạo
141
nền cho sự phát triển về sau. Tập san B.A.V.H năm 1931 nhận định: “Thợ làm mũ, thợ
may, thợ giày, thợ guốc, thợ rèn, thợ làm nông cụ, thợ mộc, thợ nề, thợ tiện, thợ đồ gỗ
có rất nhiều và trong số họ có rất nhiều người lành nghề. Tóm lại, phần lớn các ngành
nghề đều do người bản xứ làm” [99, t. 18. tr. 207].
3.2.3. Các làng nghề thủ công tiêu biểu
Các làng nghề thủ công trước đây tiếp tục tồn tại trong thời kỳ này, về cơ bản
vẫn ổn định và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của cư dân địa phương. Các làng
nghề thủ công tiêu biểu đã góp mặt từ thời kỳ trước có bước phát triển mới thể hiện
các nét chính sau đây:
Làng điêu khắc đá Non Nước
Về công cụ, đã sử dụng một số công cụ mới, khá hiện đại như cưa dùng để xẻ
đá, khoan dùng để khoan các lỗ nhỏ, eo hiểm, máy cưa dùng để cắt vòng, bàn mài để
mài cho sản phẩm bóng, nhẵn và có màu sắc đẹp… Chính sự tham gia của những
công cụ mới này đã góp phần giải phóng sức lao động nặng nhọc của người thợ và
làm cho sản phẩm tinh xảo hơn.
Sau khi có được nguyên liệu từ việc khai thác đá, việc chế tác được tiến hành
theo hai công đoạn là ra phôi và thực hiện chi tiết, hoàn thiện sản phẩm. Ra phôi là
giai đoạn tạo nên hình hài, hình dạng của sản phẩm ở dạng thô, chưa trang trí, chưa
chạm khắc dựa trên những hình vẽ phác thảo. Sau khi ra phôi, các sản phẩm sẽ được
hoàn thiện, khâu này gồm nhiều công việc như chạm hình nét, trang trí hoa văn, mài
bóng sản phẩm. Trong đó, chạm hình nét và trang trí hoa văn là khâu quan trọng
nhất, đây là công đoạn thể hiện kỹ thuật chạm khắc đá và đôi tay vàng của người
thợ, bởi những chi tiết hoa văn đó sẽ toát lên cái đẹp và cái hồn của tác phẩm, nó
còn thể hiện giá trị nghệ thuật độc đáo và tâm huyết của người thợ đã gửi vào tác
phẩm của mình. Bên cạnh đó, kỹ thuật nhuộm màu cũng là công việc rất quan trọng,
mặc dù đây chỉ là công việc thủ công, nhưng thể hiện những bí quyết riêng của
những nghệ nhân, màu sắc sẽ làm cho những sản phẩm đẹp hơn, đa dạng hơn, bổ
sung những khiếm khuyết của những mẫu đá tự nhiên.
Thời kỳ này, với sự tiến bộ của công cụ chế tạo, kỹ thuật chế tác với những
công đoạn tiến bộ hơn như kỹ thuật khoan đá (đặc biệt là kỹ thuật khoan tách vòng),
sử dụng cưa để cưa đá thay vì chỉ dùng búa, đục để chẻ đá như trước đây…
142
Giữa thế kỷ XIX, một thời kỳ mới đã mở ra với sự xuất hiện của kỹ thuật
điêu khắc chạm trổ đá, mà lần đầu tiên xuất hiện bộ ấm trà do ông Cửu Đàn Huỳnh
Bá Triêm sản xuất. Sự kiện này đánh dấu nghề chạm trổ đá tuy mới mở đầu nhưng
ngày càng phát triển và hoàn chỉnh hơn. Từ khi bộ ấm trà ra đời, người thợ điêu
khắc đá làng Quán Khái Đông đã tìm tòi, chạm trổ các hình quen thuộc khác như
voi, cóc, kì lân, sư tử... Cụ Hương Sum là người đầu tiên chạm trổ tượng sư tử đá,
sau khi ông vào Sài Gòn nhìn thấy và tìm cách học hỏi. Đến những năm đầu thế kỷ
XX, họ đã chạm được những hình sư tử đẹp và đến ngày nay, đây là một trong
những sản phẩm có giá trị trên thị trường trong và ngoài nước. Về sau, làng còn nổi
tiếng với nghề điêu khắc chân dung mà ông Nguyễn Chất là nghệ nhân nổi tiếng
trong lĩnh vực này (18). Còn cụ Huỳnh Đàn là nghệ nhân tạc loại tượng cỡ lớn: long,
lân, quy, phụng. Càng ngày đồ đá càng có nhu cầu cao trong xây dựng, trang trí nhà
cửa, lát nền công sở, vườn tược, đền thờ…, chính điều này đã thúc đẩy nghề điêu
khắc đá ngày càng phát triển và số lượng người thợ ngày càng đông. Cũng trong
thời gian này, thị hiếu của du khách, nhất là du khách Pháp rất lớn, người Pháp đã
xây dựng bảo tàng điêu khắc Chăm, trưng bày rất nhiều tác phẩm nghệ thuật nên
các nghệ nhân đã nghĩ đến việc phục chế và tạc tượng để bán cho Pháp.
Sản phẩm làng đá Non Nước đa dạng về loại hình và phong phú về màu sắc,
kích cỡ, chủng loại. Ta có thể phân loại thành các nhóm sản phẩm như: Nhóm các
sản phẩm dân dụng phục vụ cuộc sống thường ngày như ấm trà, chén, bát, chày,
cối… Nhóm các sản phẩm phục vụ đời sống tín ngưỡng như bia, mộ, lư hương…
Nhóm các sản phẩm phục vụ cho sản xuất như chì lưới, đá ganh, đá xây dựng…
Làng đá mỹ nghệ Non Nước nổi tiếng nhất vẫn là việc chế tác tượng (chia
thành hai loại là tượng tròn và tượng phù điêu). Trong đó nhóm tượng tròn là phổ
biến hơn được chia thành nhóm các tượng gắn liền với tâm linh, nhóm tượng Chăm,
nhóm tượng trang trí, nhóm các tượng điêu khắc hiện đại. Bên cạnh đó những tượng
mang tính mỹ thuật cao như: tượng mục đồng, ông lão đi câu, tượng ngựa trong tư
thế nằm phi, tiên cá, quả cầu, lồng đèn, đóa sen, đài phun nước…
Để duy trì và phát triển nghề, những người thợ đã tập hợp và lập nên Hội,
đứng đầu là Hội chủ, là nghệ nhân cao tuổi, đức độ và uy tín trong nghề. Hội đề ra
những quy định rất nghiêm ngặt, chặt chẽ về sản xuất, sinh hoạt văn hóa, cách đối
nhân xử thế, việc thờ cúng tổ nghề… Điều này cho thấy nghề điêu khắc đá đã hoàn
toàn tách biệt ra khỏi nghề nông và được tổ chức sản xuất một cách quy cũ.
143
Việc phân công lao động trong quá trình sản xuất cũng đã được thể hiện rõ.
Người thợ được phân chia thành các bậc tương ứng với trình độ tay nghề: Thợ mới
học việc (thợ nhất) có nhiệm vụ đục đá theo phác thảo, thợ nhì làm công việc tiếp
theo, hỗ trợ cho thợ cả ra phôi, thợ cả (thợ chính, thợ bậc nhất) là người ra phôi, tạo
hình dáng theo chuẩn kích thước đã định, hoàn thiện sản phẩm. Mỗi người chỉ được
đảm nhận một công đoạn, do đó, đã tạo nên những nhóm thợ chuyên làm những
công đoạn tương ứng với trình độ tay nghề của mình. Các công việc phụ, nhẹ nhàng
như mài, rửa, đánh bóng bằng tay… thường được giao cho phụ nữ đảm nhận theo
kiểu “ông làm, bà mài”.
Các sản phẩm của làng nghề này tiếp tục phục vụ cho nhu cầu của nhân dân
trong vùng, những người thợ tiếp tục đi khắp nơi để hành nghề. Người Pháp cũng
rất thích thú và đã sử dụng thợ và nguyên liệu phục vụ cho các nhu cầu của họ. Năm
1920, Pháp đã xây dựng tại Đà Nẵng Công trường con gà. Người Việt gọi đây là
Công trường con gà hay Tháp con gà (22). Công trường con gà cùng với Cổ viện
Chàm và Công trường Pièrre Loti (23) là 3 công trình do người Pháp xây dựng tô
điểm làm đẹp thêm cho Đà Nẵng lúc bấy giờ. Điều đặc biệt là Tháp con gà được
người Pháp làm bằng đá cẩm thạch của Non Nước dưới sự tham gia khai thác, chế
tác, xây dựng của người thợ nơi đây. Điều này càng cho thấy giá trị của nguồn đá
quý này cũng như nghề chế tác đá Non Nước.
Năm 1922, một sự kiện khá đặc biệt đã xảy ra, Pháp mở hội chợ thuộc địa tại
thành phố cảng Marseille, trong số những sản phẩm được trưng bày tại hội chợ có
sự góp mặt của những sản phẩm làng nghề điêu khắc đá Non Nước. Năm 1925, tác
phẩm L'Annam: Ses provinces, ses ressources, của J.L. Fontana xuất bản tại Hà Nội
đã ghi lại tên tuổi người đem những sản phẩm của làng nghề này là Nguyễn Diên
(Nguyen Dien) và các sản phẩm được trưng bày tại hội chợ rất phong phú.
Làng nghề làm mắm Nam Ô
Nguyên liệu để làm mắm cũng giống như thời kỳ trước, nhưng thời kỳ này,
Pháp lập Sở Thương chính và nắm quyền kinh doanh một số mặt hàng trong đó có
muối nên dân làng Nam Ô chuyển qua mua muối Thương chính, tuy phải gánh bộ xa
hàng chục cây số, nhưng bù lại có thể mua bất cứ lúc nào, không phải bị động chờ
các lái buôn từ làng Bàn Thạch chỉ ghé bán vào dịp cuối năm. Nhờ vậy, nguồn muối
luôn được chủ động và không cần phải bỏ tiền ra mua trữ như trước đây. Pháp cũng
đã đầu tư công nghệ ciment nên một số hộ đã mua về xây những khoảng sân, xây kho
144
chứa muối, mắm nên việc bảo quản sau khi chế biến tốt hơn, không bị hư hại do ảnh
hưởng của thời tiết. Các hủ, kiệu chứa mắm thì được mua từ Bao Vinh (Huế).
Nghề làm mắm Nam Ô vẫn được tiến hành theo như cách thức truyền thống,
không có sự can thiệp của máy móc. Những người làm mắm lâu năm đã đúc kết quy
trình làm mắm, ghi lại trong tấm bia nhà thờ tộc Đinh được xây dựng cách ngày nay
gần hai thế kỷ. Theo Hội văn nghệ dân gian thành phố Đà Nẵng thì “Tuy bia không
khảo tả chi tiết cách thức mà chỉ nói đến sự tính toán, sáng kiến tài giỏi của ông tổ
nghề họ Đinh trong khâu chọn cá, pha muối và định ra được thời gian mắm chín để
lấy nước mắm, phân loại nước mắm” [40, tr. 422]. Dựa vào đó, tùy theo mùa vụ, loại
cá mà làm mắm, giữ được cái gốc, cốt cách của nước mắm nơi đây. Nhưng đây chỉ là
công thức chung, các bí quyết vẫn là bí mật của mỗi gia đình, mỗi hộ làm mắm.
Thời kỳ này, có nhiều làng làm nước mắm như Nam Dương (quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng), Bàn Thạch (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), Tam Quan
(Tam Kỳ - Quảng Nam), Hội An… nhưng hương vị, tinh chất thì không thể sánh
kịp mắm Nam Ô, không cất giữ được lâu, độ thơm không bền. Nước mắm Nam Ô
rót ra chén, bát dùng trong bữa ăn, khi rửa dính tay vẫn còn nghe mùi thơm thoang
thoảng “nước mắm dính đĩa có nghĩa với người”.
Bên cạnh đó, còn có thêm các loại mắm cất giữ trong nhà để ăn dần, bán đi
xa như: mắm kem, mắm viên, bột mắm, tuy không thơm bằng nước mắm nhưng vẫn
ngon, hợp với khẩu vị của một số người và cũng dễ bán vì giá bình dân hơn. Ngoài
ra, còn có kỹ thuật “ướp chượp” cá cơm, cá thu, cá chim với số lượng ít trong các
hũ, lọ sành, đây là cách muối cá cũng để lâu ngày cho cá chín, dùng mành tre đan
dày miệng hũ, lọ rồi ép từ trên xuống cho nước mắm rỉ ra, rồi lấy nước mắm đó lọc
lại lần nữa, cho ra loại nước mắm cũng khá ngon.
Ngoài việc sản xuất theo hộ gia đình như trước đây, thời kỳ này, có gia đình
bà Tú Lâm (24) và gia đình bà Đốc Núc giàu có khét tiếng trong vùng, đã tổ chức sản
xuất với quy mô lớn. Bà Tú Lâm lập kho mắm lớn, chứa một lúc mấy trăm kiệu,
thuê hẳn người giữ kho, trông coi mắm. Đến cuối năm, tiến hành lọc mắm và chở đi
bán khắp nơi. Nước mắm của gia đình bà đặt tên là “Ô Long” (25), loại nước mắm
này thơm ngon nổi tiếng. Sau bà Tú Lâm và bà Đốc Núc có các ông Chánh Kiên và
Ký Thạc với hai loại nước mắm mang thương hiệu “Hồng Hương” và “Thanh
Hương” cũng vang tiếng khắp vùng.
145
Thời Pháp thuộc đã xuất hiện các gia đình đứng ra sản xuất nước mắm với
quy mô lớn, tích trữ số lượng nhiều để tung ra thị trường vào thời điểm nhu cầu cao.
Đây là điểm mới trong việc tổ chức sản xuất thời kỳ này.
Trước đây, nước mắm Nam Ô đã có mặt trong các chợ làng, chợ vùng, các
địa phương lân cận và theo thuyền buôn xuất sang một số nước. Sở dĩ, nước mắm
Nam Ô có mặt trên những thị trường này chủ yếu là các mối lái tìm mua và chuyên
chở bằng đường biển, các hộ chưa chủ động tìm hướng xuất đi. Thời kỳ này, bà Đốc
Núc, ông Chánh kiên, ông Ký Thạc, tiêu biểu là bà Tú Lâm đã chủ động tìm thị
trường, tìm đầu ra cho sản phẩm của mình, bà đã chuyển hàng vào Hội An, các
vùng Quảng Nam, nhất là thị trường Huế. Đặc biệt, Sở Thương chính mặc dù nắm
độc quyền kiểm soát thị trường nhưng đã đồng ý cho nước mắm Ô Long của gia
đình bà được xuất khẩu sang thị trường chính quốc. Tuy vậy, công việc này gặp
nhiều khó khăn, số lượng không nhiều, lợi nhuận mang lại không cao.
Ngoài ra, nước mắm Nam Ô đã được các thương lái chuyên chở bằng đường
biển, đường bộ sang bán tận Lào, Campuchia, Thái Lan, Pháp, Nhật Bản và rất
được ưa chuộng.
Như vậy, nước mắm Nam Ô đã sớm có mặt trên thị trường rộng lớn và là một
trong những sản phẩm thủ công sớm được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.
Làng nghề đúc đồng Phước Kiều
Làng đúc Phước Kiều thịnh nhất vào khoản đầu thế kỷ XX. Hồi ấy, nhiều gia
đình trở nên khá giả, có của ăn của để cũng nhờ có nghề thủ công truyền thống này.
Đó là gia đình các ông Phan Tự, Trần Đức, Trần Phàn, Nguyễn Cải, Dương Ca... Họ
bỏ tiền ra thuê thợ làm quanh năm để kịp có sản phẩm cung cấp thị trường các nơi.
Đấy là những gia đình giàu có, nhiều công lao động. Còn những gia đình khác cũng
sản xuất ra đồ đồng nhưng chỉ trong phạm vi gia đình, không có công phụ giúp nên
không vươn lên được.
Những thập niên đầu thế kỷ XX, khi phương tiện giao thông phát triển,
những sản phẩm Phước Kiều lại có dịp đi xa, lên tận các tỉnh Tây Nguyên, vào đến
Phú Yên. Người có công trong việc này là ông Trần Bình.
Làng nghề làm trống Lâm Yên
Ở nước ta không một làng nào là không sử dụng trống, nhu cầu các loại trống
hàng năm với số lượng ngày càng tăng, nghề làm trống Lâm Yên tiếp tục phát triển.
146
Cùng với nghề làm trống, cũng xuất hiện những người buôn trống. Hồi đầu
thế kỷ XX, có hai người hay buôn trống là các ông Tào Niên, Nguyễn Phát. Sau đó,
đến lượt các ông Trần Yến, rồi ông Hồ Trịnh, ông Trịnh Giáo. Bên cạnh những
người buôn trống ấy, ngay những người thợ làm trong tộc Phan thỉnh thoảng cũng
mang trống đi bán khắp nơi như các ông Phan Ba, Phan Sự... Bấy giờ, mỗi lần đi,
hai ông mang chừng 10 cái trống. Tùy theo đoạn đường, họ có thể đi tàu hay đi xe
ra tận ngoài Huế hay Quảng Trị. Cũng nhiều khi họ bán sĩ cho các mối quen biết
như Bà Nghè ở Huế, ông Chương ở Bao Vinh. Nói chung, thế hệ những người buôn
trống thời ông Phan Ba, Phan Sự chủ yếu cung cấp trống cho thị trường từ Quảng
Nam, Đà Nẵng ra Huế, Quảng Trị... là chính. Ngoài ra, có một số người còn mang
trống bán ở một số nơi khác ở Quảng Ngãi và các tỉnh Nam Trung bộ, Tây Nguyên.
Như vậy, vào đầu thế kỷ XX, với sự phát triển của phương tiện giao thông,
đường sá đi lại thuận lợi, cùng với nhu cầu sử dụng ngày càng cao, nghề làm trống
Lâm Yên phát triển thị trường tiêu thụ, xuất hiện những người làm nghề buôn bán,
mang trống đi phân phối các thị trường xa.
Làng nghề dệt chiếu Cẩm Nê
Càng về sau, đất đai được bồi tụ, đầm lầy được cải tạo nên diện tích trồng
cây cói giảm thiểu so với trước đây, nguồn nguyên liệu tại chỗ không nhiều nên
phải mua thêm từ Bàn Thạch – làng nghề dệt chiếu nổi tiếng ở huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quảng Nam. Ở Bàn Thạch hiện nay vẫn còn truyền tụng câu thơ:
“Lác hàng một bó bảy quan
Lác cao đồng rưỡi tôi bán cho bạn hàng Cẩm Nê”
Nguyên liệu tại chỗ giảm sút làm cho lợi nhuận mang lại không cao, ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của nghề dệt chiếu nơi đây.
Nghề dệt chiếu với công cụ thô sơ, sản xuất theo kiểu thủ công, không có sự
tham gia của máy móc, sự tinh tế của chiếc chiếu là kết tinh những kinh nghiệm và
bàn tay sáng tạo của người thợ. Ở thế kỷ XIX - XX, thế giới đã trải qua cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, với sự tiến bộ vượt bậc
của máy móc. Khi Pháp tiến hành quá trình khai thác đã đầu tư về máy móc trong
một số ngành kinh tế nhưng dệt chiếu và một số ngành thủ công khác không phải là
mục tiêu chú trọng vì nguồn lợi mang lại không nhiều nên đã không nhận được sự
đầu tư cải tiến về kỹ thuật. Vì vậy, nghề dệt chiếu Cẩm Nê vẫn sản xuất dựa trên
những công cụ truyền thống.
147
Thời nhà Nguyễn, chiếu Cẩm Nê khá nổi tiếng, chiếu được đưa ra bán ở các
chợ tại Huế và rất được ưa chuộng. Theo lời kể của các bậc cao niên, trước đây ông
Phan Huẩn, Phan Tấn có lúc mỗi tháng thu gom 200-300 chiếc chiếu chở ra bỏ cho
các mối ở Huế. Loại chiếu hoa láng bóng, chính giữa có chữ Thọ rất được ưa dùng.
Trong cung đình, quan lại nhà Nguyễn dưới thời Pháp thuộc còn bắt dân nơi đây
nộp chiếu thay sưu thuế. Chính vì vậy, chiếu Cẩm Nê dần thoát khỏi phạm vi chợ
làng vốn mang đậm tính tự cung, tự cấp để có mặt trên thị trường các tỉnh lân cận:
Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, có thời vào đến các tỉnh phía Nam và sang tận Lào,
Campuchia, nhưng thị trường chính vẫn là Đà Nẵng và Huế.
Tuy nhiên, nghề dệt chiếu có ở nhiều địa phương trong cả nước, ngay tại
Quảng Nam, chiếu Bàn Thạch và Triêm Tây vốn khá nổi tiếng, nên Cẩm Nê bị cạnh
tranh gay gắt và ngày càng rơi vào tình thế bất lợi. Chính điều này đã làm cho thị
trường chiếu Cẩm Nê ngày càng bị thu hẹp.
Dệt chiếu vẫn chỉ là nghề phụ của người nông dân, tuy nhiên, đời sống kinh
tế của các hộ gia đình có nghề dệt chiếu vẫn khá giả hơn so với các hộ gia đình
thuần nông. Chính nhờ nghề dệt chiếu mà bức tranh kinh tế của làng Cẩm Nê có
nhiều biến chuyển.
Với sự góp mặt của nghề dệt chiếu Cẩm Nê đã làm cho bức tranh kinh tế Đà
Nẵng đa dạng hơn. Sản phẩm của nghề dệt chiếu đã có mặt trong các phiên chợ
làng, chợ vùng, góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động trao đổi, buôn bán giữa
các làng và các vùng miền.
Thực dân Pháp đặt ách đô hộ, nền kinh tế bị tác động, phát triển lệ thuộc vào
chính sách cai trị của Pháp. Mặc dầu bị ảnh hưởng nhưng nghề dệt chiếu Cẩm Nê ít
bị tác động nên đã góp phần giữ được nền kinh tế “bản địa”. Chính điều này giúp
cho kinh tế của thành phố phát triển ổn định trước những yếu tố “ngoại lai”.
Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch
Vào nửa đầu thế kỷ XX, khi chợ Bàn Thạch còn phồn thịnh, trở thành địa
điểm trung chuyển một số loại hàng hóa, sản phẩm trong và ngoại tỉnh thì nghề dệt
chiếu có thể nói đang ở giai đoạn cực thịnh. Người thợ dệt chiếu có thu nhập đồng
ra đồng vào, đời sống thong thả hơn. Một số hộ làm giỏi, làm nhiều còn có dư dả
như hộ các ông Xã Búa, bà Ấm, ông Giáp, ông Bốn, ông Xã Thành, ông Đắc...
148
Ngoài những người dệt chiếu, số người buôn chiếu ngày càng nhiều, theo
ước tính có khoảng 15 hộ buôn chiếu lớn nhỏ. Nhờ đó, chiếu Bàn Thạch vươn ra
nhiều nơi trong và ngoài tỉnh, vào tận các tỉnh Nam Bộ.
Làng nghề gốm Thanh Hà
Đầu thế kỷ XX, đội ngũ lái buôn gốm bằng ghe bầu ở Nam Diêu phát triển
mạnh. Gốm Thanh Hà là mặt hàng được các nhà buôn rất ưa thích và thị trường
được mở rộng hơn trước nhiều. Theo các nghệ nhân cao niên trong làng, đầu thế kỷ
XX là thời kỳ hưng thịnh của làng gốm Thanh Hà dù thời kỳ này Pháp xâm lược,
tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa.
Làng nghề Mộc Kim Bồng
Đầu thế kỷ XX, tại vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng, dân cư tập trung ngày
càng đông đúc nhất là trong bối cảnh Pháp tập trung phát triển thành phố nhượng
địa Đà Nẵng, Quảng Nam trở thành dinh trấn của triều Nguyễn đặt dưới sự quản lý
của chính quyền “bảo hộ”. Dó đó, nhu cầu về nhà ở, vật dụng gia đình, trang trí,
công cụ bằng mộc... tăng cao. Cùng với đó, hoạt động ngoại thương trên vùng đất
này ngày càng phát triển. Tất cả đã thúc đẩy nghề mộc Kim Bồng phát triển hơn
trước rất nhiều.
Bên cạnh các sản phẩm truyền thống, làng mộc Kim bồng đã chế tác những
sản phẩm mặt hàng mỹ nghệ phục vụ cho xuất khẩu rất được ưa chuộng như Phù
Điêu, vũ nữ Chăm, bộ khay trà, tràng kỷ, thuyền buồm thế kỷ XVI, XVII, khung
kính treo tường... bằng gỗ quý.
Làng nghề dệt vải Mã Châu
Làng dệt và người dân xứ Quảng trong những năm đầu của thế kỷ XX vẫn ghi
nhớ mãi công lao của ông Võ Dần đã sáng chế, cải tiến chiếc khung cửi máy, sáng
chế của ông đã làm biến đổi bộ mặt làng dệt. Hồi ấy, công sứ Pháp, tổng đốc địa
phương cũng tìm cách gặp ông và khen tặng. Hoàng Trọng Phu, một “phó vương”
Bắc kỳ cũng tìm đến quan sát sự thành công của ông để mang về Bắc. Triều đình nhà
Nguyễn phong tặng ông hàm bát phẩm với tước hiệu “Hàn lâm viện Khiển bộ”. Có lẽ
là phẩm tước hàm cao nhất dành cho những người giỏi các ngành nghề của chế độ
phong kiến này. Do lẽ đó. người ta gọi ông là Bát Diễn, hay Nghè Diễn, cũng là sự
trân trọng, kính phục ông, một người sống chết với nghề dệt suốt cuộc đời.
149
Với việc sáng chế ra được khung dệt máy, ông Võ Dần đã trở nên khá giả hơn
nhờ nghề nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Ông đi Sài Gòn, Nam Vang (Campuchia) buôn
bán tơ, lụa, lãnh. Một thời gian sau ông trở về quê gọi thợ mộc đóng một khung dệt
lãnh trơn, khổ rộng, kiểu đạp chân do ông vẽ kiểu. Khung dệt kiểu này đã đưa năng
suất dệt lãnh lên gấp nhiều lần, dệt được khổ rộng mà hàng lãnh vẫn đẹp. Lúc đầu ông
cũng định giữ độc quyền kiểu khung dệt này. Nhưng sự việc không đơn giản, vì tình
làng nghĩa xóm và những người thợ dệt, thợ đóng khung cửi cũng tìm hiểu, mày mò
để đóng kiểu khung dệt phỏng theo kiểu khung bằng sắt, mà ông Võ Dần học được ở
xưởng dệt Tân Châu, nhưng cái chính là tự ông nghiền ngẫm pha chế, đưa vào những
ổ bi, những trục răng cưa và bàn đạp, sau này cải tiến tiếp, sử dụng thay thế sức
người, càng làm cho “máy dệt” hoàn chỉnh hơn.
Nghề làm lồng đèn Hội An
Vào thời kỳ này, việc làm đèn lồng vẫn ở dưới dạng tự cung tự cấp, nhất
thời, người nào thích thì làm treo chơi, bởi nó khá đơn giản và dễ làm, chưa phát
triển quy mô lớn, chưa có các xưởng thủ công lớn như một số làng nghề khác.
Tiểu kết chương 3
Thời Pháp thuộc, kinh tế Quảng Nam – Đà Nẵng trong đó có thủ công
nghiệp chịu tác động qua hai lần khai thác thuộc địa của Pháp. Nền kinh tế Quảng
Nam – Đà Nẵng thời Pháp thuộc về cơ bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp
mang tính chất tự cung tự cấp. Trong cơ cấu kinh tế, bộ phận kinh tế truyền thống
với hai ngành cơ bản là nông nghiệp và thủ công nghiệp vẫn đóng vai trò chủ đạo.
Chính sách của Pháp về thủ công nghiệp chủ yếu đầu tư vào các ngành
sinh lợi nhuận cao, phục vụ cho hoạt động xuất cảng tư bản, những nguyên liệu
thô như tơ sống, những mặt hàng, sản phẩm không cạnh tranh, không ảnh hưởng
đến nền sản xuất của nước Pháp. Các ngành thủ công khác lại được Pháp nâng
đỡ bằng nhiều hình thức trong đó có ưu tiên về thuế [98], “những ngành này mở
mang không những không mâu thuẫn với một ngành kinh tế nào ở chính quốc,
mà ở đây lại cần nguyên liệu, nhân công rẻ có thể thu lợi được nhiều” [16]. Pháp
thực hiện chính sách quảng bá về sản xuất, nền kinh tế thuộc địa thông qua các
cuộc đấu xảo, các hội chợ triển lãm hàng hóa các nước thuộc địa, trong đó có sản
phẩm thủ công nghiệp, mở các trường dạy nghề mỹ nghệ, kỹ nghệ, vinh danh
những nghệ nhân giỏi...
150
Thời kỳ này, tại Quảng Nam – Đà Nẵng, nông dân và thợ thủ công đông đảo.
Tuy hàng hóa của Pháp du nhập mạnh nhưng khả năng kinh tế của đại đa số người
dân Quảng Nam – Đà Nẵng không đủ sức sử dụng hàng hóa ngoại nhập, phương
tiện sống hàng ngày vẫn chủ yếu dựa vào thủ công sản xuất tại địa phương. Do đó,
trừ một số nghề như nung vôi, làm muối, nấu rượu... gặp khó khăn, nhìn chung thủ
công nghiệp với các nghề và làng nghề vẫn ổn định và phát triển. Mạng lưới các
nghề và làng nghề vẫn bảo tồn được so với thời kỳ trước. Bên cạnh đó, một số nghề,
làng nghề mới xuất hiện làm cho bức tranh thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng
thời kỳ này đa sắc hơn, với những gam màu mới mẻ hơn. Sự tham gia của máy
móc, của các nguồn nguyên liệu mới, sự phân công lao động trong phạm vi rộng đã
thể hiện thủ công nghiệp phát triển một quy mô mới so với thời kỳ trước đây.
Một số nghề mới ra đời gắn liền với hoạt động khai thác thuộc địa, xuất cảng
tư bản của Pháp. Một số làng nghề, cơ sở sản xuất với sự đầu tư trong tổ chức sản
xuất, hoạt động kinh doanh theo phương thức mới, phân công lao động, quan hệ
trong lao động... đã chứng minh nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa đã ra đời mặc dù
mới ở giai đoạn đầu, còn nhỏ bé.
Đây cũng là thời kỳ mà nhu cầu và thị trường được mở rộng, bao gồm nhu
cầu và thị trường trong nước và cả thị trường nước ngoài. Thị trường trong nước với
một lượng dân cư đông đúc tập trung ở Quảng Nam – Đà Nẵng, giao thương nội địa
thông suốt, hoạt động mua bán với các địa phương khác thuận lợi, hệ thống chợ và
các trung tâm buôn bán hình thành nhiều, nối liền với nhau. Thị trường nước ngoài
mà trước hết với các nước lân cận trong khu vực Đông Nam Á với sự năng động
của các lái buôn và cả thương thuyền của các nước giao thương thông qua phố cảng
Đà Nẵng và cả cảng thị Hội An.
Sự phát triển của thủ công nghiệp đã góp phần vào sự phát triển chung của
kinh tế Quảng Nam – Đà Nẵng thời kỳ này và là tiền đề cho sự phát triển trong
những giai đoạn tiếp theo.
151
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT THỦ CÔNG NGHIỆP
QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG (1802 - 1945)
4.1. MỘT SỐ ĐIỂM NỔI BẬT
4.1.1. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng phát triển trên vùng đất có điều
kiện phát triển kinh tế hàng hóa và đô thị
Nằm ở vị trí trung độ của đất nước, nằm trên tuyến đường thiên lý Bắc -
Nam, nằm ở vị trí cửa ngõ của kinh đô Huế, với hai phố cảng Hội An và Đà Nẵng,
Quảng Nam - Đà Nẵng là giao điểm nối liền ba miền Bắc - Trung - Nam với các
nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước lân cận. Nơi đây sớm phát triển giao
thương trong và ngoài nước.
Nằm trên tuyến đường huyết mạch, Quảng Nam - Đà Nẵng rất thuận lợi
trong việc tiếp nhận hàng hóa từ các tỉnh trù phú phía Nam, từ kinh đô Huế và
các tỉnh phía Bắc, các nước trong khu vực Đông Nam Á, các nước phương Tây,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Từ phía Nam, hàng hóa được vận chuyển
bằng đường bộ đến Quảng Nam – Đà Nẵng thuận lợi hơn so với Huế, vì muốn
vận chuyển đến Huế phải quả ải Vân Quan vốn là nỗi khiếp sợ “đi bộ thì sợ Hải
Vân”. Từ Lào, hàng hóa được vận chuyển qua đường biên giới rồi xuôi về Quảng
Nam – Đà Nẵng với quãng đường không xa và có thể nhận các mặt hàng đa dạng
để vận chuyển ngược trở lại. Đối với các nước Phương Tây, Bắc Á như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… thương thuyền dễ dàng vận chuyển hàng hóa để
trao đổi qua lại tại cảng biển Đà Nẵng, hay tại Hội An vì cảng Đà Nẵng nằm ở vị
trí tiếp giáp giữa biển và lục địa, từ Hội An (sau khi Cửa Đại bị bồi tụ, thương
thuyền có thể đến Hội An qua Cù Lao Chàm) thương thuyền đến các địa phương
khác của Quảng Nam qua các sông ở đây và đến cảng Đà Nẵng qua sông Cổ Cò.
Vì vậy, hàng hóa được lưu thông qua lại dễ dàng. Bên cạnh đó, hệ thống chợ
làng có mặt khắp nơi, đã thúc đẩy quá trình giao thương phát triển.
Hệ thống sông ngòi ở Quảng Nam - Đà Nẵng khá dày trên nền mạch chủ
sông Thu Bồn đã tạo nên một mạng lưới giao thông thủy nội địa thông suốt cả hai
chiều Đông - Tây, Bắc – Nam, ngược – xuôi, nối liền các trung tâm kinh tế, chính
152
trị quan trọng như Hội An, Đà Nẵng, Vĩnh Điện, Thanh Chiêm, Ái Nghĩa, Tam Kỳ,
cùng với đó là nối liền sự giao lưu kinh tế, tạo lợi thế về thương nghiệp. Quảng
Nam – Đà Nẵng là một trong số ít các địa phương có hệ thống giao thông đường
thủy thông suốt từ đầu đến cuối tỉnh. Các bến thuyền, bến chợ ven sông sớm hình
thành để đáp ứng nhu cầu trao đổi buôn bán. “Hàng hóa được mang ra trao đổi
buôn bán là những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt thiết yếu và sản xuất
như lương thực, thực phẩm, các loại nông sản, công cụ sản xuất, đồ dùng gia đình...
và các mặt hàng phục vụ cho ngoại thương” [106, tr. 65]. Tựu trung lại có thể chia
hàng hóa thành các nhóm như sau:
Nhóm mặt hàng phục vụ cho nhu cầu ăn uống: gạo, nếp, thủy hải sản, rau,
quả, gia vị, thịt gia súc, gia cầm, chè, trầu cau, thuốc lá...
Nhóm mặt hàng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt: Nhóm hàng dụng cụ
sinh hoạt, công cụ sản xuất và vật liệu xây dựng (các mặt hàng mây, tre như nong,
nia, giần, sàng, thúng, rổ, giỏ, gùi, trúm, nơm, đăng, nò, sa, sịa, nhũi, đậm...). Nhóm
công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt bằng sắt (lưỡi cuốc, lưỡi cày, dao, mác, rựa,
liềm...). Nhóm hàng đồ gốm (nồi, niêu, ấm trà, hũ, chum, ché, tũn, ông táo, bát
hương, bình vôi, siêu, sâu...). Nhóm mặt hàng chất đốt (than, củi, nhựa thông), dầu
rái... Nhóm mặt hàng hương liệu, gia vị (đường, quế, trầm hương, sâm Ngọc Linh,
sa nhân, đậu khấu...). Nhóm mặt hàng vật liệu may mặc (lụa, đũi, lãnh, vải hoa, vải
thô...). Nhóm các mạt hàng như chiếu, nón lá...
Như vậy, các mặt hàng trao đổi đều là sản phẩm của nông nghiệp và thủ công
nghiệp. Thủ công nghiệp một mặt trực tiếp tạo ra sản phẩm trao đổi, buôn bán trên
thị thường còn giúp tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh từ nghề nông như bánh làm từ các
loại bột, xay xát gạo từ lúa, tạo nên dầu từ đậu phụng...
Quảng Nam – Đà Nẵng nằm ở lớp kiến tạo địa máng và khí hậu, thổ nhưỡng
phù hợp nên có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng từ lâm thổ sản đến thủy hải
sản hải. Đây là nguồn nguyên liệu hết sức dồi dào thúc đẩy sự đa dạng về cơ cấu
ngành nghề của thủ công nghiệp. Bên cạnh đó, sự giao thông liền mạch giữa các
vùng, các miền làm cho quá trình trao đổi theo kiểu “mít non gửi xuống, cá chuồn
gửi lên” đã giúp giao thương buôn bán phát triển, thủ các sản phẩm thủ công nghiệp
có điều kiện trở thành hàng hóa trao đổi, buôn bán.
153
Nằm ở vị trí “dựa lưng vào núi, quay mặt về biển” nên Quảng Nam – Đà
Nẵng hẹp về chiều ngang, dẫn đến vùng đồng bằng nhỏ hẹp (khoảng 1500 km2), tạo
thành một chuỗi nối tiếp nhau chạy dài từ Bắc xuống Nam, đa phần là diện tích đất
bạc màu, đất nhiễm mặn, nhiễm phèn, thêm vào đó thời tiết khắc nghiệt “nắng lắm,
mưa nhiều, bão thường xuyên” đã làm cho nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, hạn
chế, cuộc sống của cư dân nông nghiệp bấp bênh, không ổn định. Để vươn lên,
thoát cảnh khốn khó của vùng “Ô châu ác địa”, cư dân nơi đây đã tìm đến với các
nghề thủ công như là một cứu cánh và chính nghề phụ này đã giúp cho cuộc sống
đỡ bớt khó nhọc.
Quảng Nam – Đà Nẵng có đến hai thương cảng lớn có mối quan hệ mật thiết
với nhau là Hội An và Đà Nẵng. Hội An trong buổi thịnh thời là đô thị lớn của xứ
Đàng Trong có tác động rất lớn đến kinh tế của vùng đất này trong đó có thủ công
nghiệp. Mặc dù bước vào thế kỷ XIX, Hội An mất đi vai trò của một thương cảng
lớn nhưng những tiền đề trước đó vẫn còn tồn tại, đặc biệt là hoạt động nội thương
vẫn rất phát triển. Điều này được thể hiện qua tình hình buôn bán tại chợ Hội An.
Theo Đại Nam nhất thống chí đời Tự Đức:
Chợ Hội An ở xã Hội An về phía Đông huyện Diên Phước tục gọi phố
Hội An, phía Nam liền sông cái, trên bờ hai bên phố ngói liên tiếp chừng hai
dặm, bến sông thuyền ghe tấp nập đi lại như mắc cửi; có nhiều khách buôn
người Thanh trú ngụ, có bốn bang là Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và
Hải Nam, buôn bán hàng hóa phương Bắc, có đình chợ và hội quán, buôn
bán tấp nập làm nơi đô hội lớn xưa nay. Lại ở phía Nam sông là đầm Trà
Nhiêu, chỗ thuyền buôn các nước dừng đậu [63, tr. 376].
Qua đoạn miêu tả trên đây, ta thấy dưới thời Tự Đức, chợ Hội An buôn bán
rất tấp nập. Chợ Hội An có mối liên hệ mật thiết với chợ Trà Nhiêu (ở bãi Trà
Nhiêu thuộc huyện Duy Xuyên) là một chợ được hình thành rất sớm và khá phát
triển. Theo Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư: “Bãi Kẻ Chỏm có kho thóc. Kho Hội An có
hai đồn lính canh giữ, trong sông có một hòn núi, trên núi có chùa gọi là chùa Non
Nước. Đầm Hội An gọi là đầm Trà Nhiêu, có thể chứa các thuyền đi biển của các
nước đậu lại ở đây” [106, tr. 53]. Quan hệ mật thiết giữa chợ Hội An và chợ Trà
Nhiêu làm cho mối giao thương được mở rộng cả một vùng rộng lớn của tỉnh
Quảng Nam thời bấy giờ.
154
Mặt khác, tại Hội An, người Hoa và người Nhật vốn đã định cư và giao
thương buôn bán ở vùng đất này từ khá sớm và tiếp tục tồn tại, phát triển như sử
quán triều Nguyễn đã ghi trên đây.
Đà Nẵng và Hội An vốn có mối quan hệ mật thiết với nhau: “Tuy Hội An và
Đà Nẵng là hai cửa biển khác nhau nhưng ở gần nhau và giao thông với nhau dễ
dàng nên người châu Âu coi là một hải cảng duy nhất với hai ngã vào và gọi tên
chung là hải cảng tỉnh Quảng Nam (Port de la province Cacciam)” [47, tr. 530].
Sau khi Hội An suy thoái, Đà Nẵng vươn lên trở thành phố cảng, cửa ngõ
thông thương với thế giới bên ngoài. Đầu thế kỷ XIX, cảng Hội An không còn phù
hợp cho các tàu thuyền lớn của thời đại công nghiệp cập bến. Trong khi đó, Đà
Nẵng từng là một thương cảng quan trọng quen thuộc với các thương khách đang
trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ, có đủ điều kiện để thay thế vai trò của Hội An về
hoạt động thương mại. Thời gian đầu, Đà Nẵng dựa vào Hội An để phát triển và với
lợi thế hàng hải của mình đã thu hút thương nhân Pháp, Hoa, Việt đến kinh doanh,
kiện toàn cơ sở cùng các phương tiện kinh doanh. Đồng thời, Đà Nẵng tạo điều kiện
cho Hội An trở thành nơi tập trung hàng hóa. Mối liên hệ giữa Đà Nẵng và Hội An
được nối liền bằng tuyến đường sắt Decauville Tourane – Faifo dài 27 km xây dựng
năm 1904 thay thế cho sông Cổ Cò đã bị bồi lấp và một con đường rải đá dài 32 km
ra đời. Đà Nẵng đã trở thành thương cảng lớn nhất miền Trung, thể hiện vai trò của
một trung tâm kinh tế của xứ Quảng đối với miền Trung và cả nước. Xét về góc độ
vai trò của một trung tâm kinh tế, Đà Nẵng đã vượt hẳn so với Huế và sánh vai cùng
với Hà Nội, Sài Gòn.
Phố cảng Đà Nẵng trở thành trung tâm thương mại trọng yếu của triều
Nguyễn: Xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước, cùng những thuận lợi
của phố cảng Đà Nẵng, vào buổi đầu triều Nguyễn đã chọn Đà Nẵng làm
trung tâm thương mại trọng yếu của nước ta để giao thương với các nước
trên thế giới. Trao cho Đà Nẵng trọng trách lớn lao đó, không phải một sự
ngẫu nhiên hay chủ quan mà là một sự lựa chọn rất phù hợp và sáng suốt của
nhà Nguyễn. Điều đó được thể hiện trên phương diện tự nhiên lẫn xã hội của
nước ta lúc bấy giờ [95, tr. 75].
Hội An trở thành nơi tập trung hàng hóa trước khi chuyển ra Đà Nẵng để
xuất khẩu sang nước ngoài như Pháp đã công nhận “mọi ngành thương mại đều tập
trung ở Hội An” [127, tr. 488]. Bên cạnh tầng lớp thương nhân người Hoa, người
Pháp bắt đầu có mặt tại Hội An và có ảnh hưởng đến nền kinh tế Quảng Nam:
155
“Gia đình ông Dérobert et J. Fiard đã sinh sống ở Hội An từ năm 1890. Gia
đình ông buôn bán trà, lụa, và tất cả những mặt hàng xuất nhập khẩu, những mặt
hàng dễ trao đổi với dân bản xứ.
Ông Dérobert et J. Fiard có một gian hàng ở Tam Kỳ buôn bán những mặt
hàng như ở Hội An” [127, tr. 488].
Triều Nguyễn quy định tàu thuyền có mục đích buôn bán đều phải cập cảng
Đà Nẵng. Tại đây, triều Nguyễn đã tổ chức một bộ máy giao thương khá hoàn
chỉnh, từ khâu tổ chức buôn bán, kho bãi tiếp nhận và cung ứng hàng hóa, đến đảm
bảo an toàn cho tàu thuyền và thương khách trong thời gian lưu trú ở Đà Nẵng để
buôn bán. Việc buôn bán trực tiếp tại chỗ, hay cho thuyền buôn của nhà nước ra
nước ngoài cũng được triều Nguyễn tổ chức tại đây.
Từ đầu thế kỷ XIX, do tác động của những điều kiện thế giới và
những thay đổi về tựu nhiên và xã hội trong nước, đã thúc đẩy nhanh
chóng Đà Nẵng trở thành trung tâm ngoại giao về kinh tế ngoại thương
của nước ta. Do đó, một mặt thu hút mạnh mẽ sứ thần và thương nhân các
nước đến quan hệ và buôn bán; mặt khác, cuốn hút nhiều luồng cư dân ở
nhiều địa phương đến cư trú lập nghiệp làm cho phố cảng Đà Nẵng trở
nên đông đúc [95, tr. 103].
Buôn bán nội địa của các thương nhân Quảng Nam – Đà Nẵng với các địa
phương khác trong nước lúc bấy giờ khá nhộn nhịp. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841),
“tỉnh Quảng Nam trình sổ khai số thuyền buôn nội địa nhỏ 5 thước của tỉnh ấy hiện
có 1650 chiếc với thuyền hộ 1567 người” [97, t. 6, tr. 124]. Năm 1851, Bộ Hộ tâu:
“Ty Tào chính làm sổ kê khai các hạng ghe thuyền của các địa phương trong nước
năm ngoái tổng cộng là 2305” [97, t. 6, tr. 83]. Như vậy, số thuyền buôn của tỉnh
Quảng Nam hơn gấp hai lần số thuyền của các địa phương khác.
Thị trường buôn bán của các thuyền từ Đà Nẵng vào phía Nam là các tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Định...; ra Bắc chủ yếu với
Thừa Thiên Huế. Hàng hóa các thuyền chở từ Đà Nẵng vào Nam ra Bắc ngoài
các sản phẩm hải sản địa phương như cá, tôm, vôi hàu, còn có các sản phẩm
nhập ngoại của Trung Quốc hoặc Tây phương như các loại tạp hóa, trà, thuốc
bắc, các loại vải, đồ gốm, đồ đồng, giày dép, giấy viết, hương khoanh, đèn sáp,
hàng nữ trang... Hàng mua về Đà Nẵng chủ yếu là các sản phẩm nông lâm thổ
sản và hàng thủ công mỹ nghệ để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu
156
của hải cảng Đà Nẵng như: thuốc lá, ớt, tơ sống, lụa, cau, hạt tiêu, gỗ, sơn, sừng
tê, ngà voi... [95, tr. 116]. Hàng hóa xuất khẩu từ cảng Đà Nẵng là các sản phẩm
từ nông nghiệp, thủ công nghiệp và các thứ lâm thổ sản từ Quảng Nam và các
vùng lân cận như: hồ tiêu, đậu khấu, sừng tê, ngà voi, đường cát, ớt, chè, tôm
khô, cá khô, vi cá, bóng cá, mực khô, tơ lụa, gỗ...
Trong các thập kỷ đầu thế kỷ XIX, hải cảng Đà Nẵng nhộn nhịp hẳn lên.
Thương thuyền của các nước phương Tây đến Đà Nẵng buôn bán với số lượng
ngày càng tăng. Năm 1826, trong số 5 tàu của các nước phương Tây cập bến
nước ta thì 2 tàu cập bến Đà Nẵng. Trong hai năm kế tiếp, chỉ tính riêng tàu
Pháp đến Đà Nẵng là 6 chiếc. Mục lục châu bản còn lưu lại nhiều bản tấu của
các quan binh Quảng Nam – Đà Nẵng báo về việc tàu thuyền phương Tây cũng
như các tàu thuyền các nước Trung Quốc, Đông Nam Á vào ra buôn bán tấp nập.
Nhiều tàu buôn Anh, Pháp... không chỉ bán hết hàng hóa mà còn mua được đầy
đủ các loại hàng hóa cần mua. “Tháng 6/1819, tàu Henri và La Rose của Pháp
đến Đà Nẵng với đầy hàng vải vóc, đồ thủy tinh, đồ chơi, rượu, súng đạn... đã
bán hết và đến tháng 11 năm ấy rời cảng với đầy đường, trà và tơ lụa” [137, t. 2,
tr. 317]. Người Pháp đã nhận định về Đà Nẵng: “Vào thời gian này (1891), thành
phố trở thành một đô thị thương mại phát triển trong một thời gian ngắn nhờ vào
vị trí đáng ngưỡng mộ của nó, nơi mà dân chúng đến từ khắp nơi, nhiều dự án rất
hay đã được thiết lập do nhu cầu thực tế” [149].
Sự hình thành và phát triển đô thị ở phương Tây và phương Đông có nhiều
điểm khác biệt: ở phương Tây, một trung tâm kinh tế sẽ trở thành trung tâm chính
trị còn ở phương Đông thì ngược lại. Đặc điểm này ta thấy rõ đô thị ở Quảng Nam.
Chức năng thủ phủ (phần “đô”) của Quảng Nam với tổng thể nhu cầu đồ sộ về an
ninh (nhất là phục vụ phong kiến quan liêu), quân sự, kiến thiết quốc gia... là lực
hấp dẫn lớn, trở thành nguồn sinh lực chủ quan cho phần “thị”. Yếu tố “thị” phát
triển mạnh nhờ xuất phát từ nhu cầu khách quan. Đặt trong mối quan hệ với Huế thì
Huế là trung tâm chính trị - kinh đô, còn Quảng Nam là trung tâm chính trị - kinh tế.
Nhà Nguyễn đặt trị sở tại dinh trấn Thanh Chiêm, “từ sự kích thích của trị
sở Quảng Nam với vai trò là một trung tâm kinh tế, các ngành nghề thủ công cổ
truyền khá phong phú, đa dạng và gắn liền với chiều hướng phục vụ giai cấp
phong kiến và tự cung cấp” [49, tr. 42]. Trị sở Quảng Nam là nơi tập trung lực
157
lượng quan lại, quân đội, học trò (phần “đô” trong phần “thị”), nên thu hút nhu
cầu về sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp... từ đó, kích thích các hoạt động
kinh tế trong khu vực.
Tập trung xung quanh trị sở Quảng Nam là các làng nghề nổi tiếng. Làng
dệt ở Duy Xuyên đã cung cấp những sản phẩm phục vụ cho triều đình Huế và là
món hàng mà thương nhân trong nước, Pháp, Trung Quốc đều rất thích và
người tiêu dùng ưa chuộng. Làng đúc đồng Phước Kiều đã cung cấp cho triều
Nguyễn những thợ nổi tiếng ra Huế đúc ấn, triện, tiền đồng và đồ ngự dụng.
Nhiều người đã ở lại và tạo thành phường đúc đồng ở Huế. Thợ mộc làng Kim
Bồng trực tiếp phục vụ nhu cầu đồ mộc dân dụng, đóng thuyền. Trong đó, có
các loại thuyền buôn đường xa, trọng tải lớn [49, tr. 43].
Xứ Quảng - một hậu phương hàng hóa phong phú, đa dạng đã tạo nên một
trung tâm kinh tế dưới triều Nguyễn. Với vai trò điều tiết của mình, trị sở Quảng
Nam đã đại diện cho nhà nước tác động vào sự phát triển kinh tế vùng.
4.1.2. Các nghề và làng nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng phong phú, đa
dạng hơn các tỉnh Nam Trung Bộ
Sự đa dạng của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng thể hiện qua sự đa
dạng về số lượng các nghề, làng nghề, sự phân bố các nghề, làng nghề và nguồn gốc
các nghề.
Trong thời gian từ 1802 đến 1945, vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng hội tụ
trên dưới 100 nghề thủ công chia thành các nhóm: nhóm nghề dệt, may, đan lát
(nghề dệt vải, nghề dệt chiếu, nghề may, nghề đan lát); nhóm nghề chế biến nông
sản, lương thưc thực phẩm (nghề làm mỳ Quảng, nghề làm bún tươi, nghề làm bánh
tráng, nghề làm mắm, nghề nấu rượu, nghề ép dầu phụng, nghề làm đường, nghề
xay xát gạo); nghề chế tạo công cụ lao động, phương tiện sinh hoạt (nghề mộc, nghề
rèn, nghề đóng cối xay lúa, nghề đóng ghe thuyền, nghề kim khí); nhóm nghề chế
biến vật liệu, hương liệu (nghề gốm, nghề làm giấy, nghề làm hương)... Trong mỗi
nghề lại đa dạng với nhiều nghề theo nguyên liệu chế tạo như nghề đan lát chia
thành đan lát bằng tre, bằng mây, bằng dây, bằng lưới... Đan lát bằng tre có đan
nong, nia, thúng, mủng, dần sàng, cót, ghe... hay làm bánh với hàng chục loại bánh
khác nhau chia theo nguyên liệu, sản phẩm, cách sử dụng: bánh tét, bánh tổ, bánh
nổ, bánh ú, bánh xèo, bánh in, bánh nậm, bánh bột lọc, bánh trôi nước, bánh khô
158
mè... Như vậy, nếu tính theo kiểu chia nhỏ như trên thì ở Quảng Nam – Đà Nẵng
nghề thủ công rất phong phú và đa dạng.
So với các tỉnh khác trong khu vực Nam Trung Bộ thì Quảng Nam có số
lượng nghề thủ công đa dạng hơn. Đại Nam nhất thống chí (thời Tự Đức) phần Thổ
sản đã đề cập đến các nghề thủ công tiêu biểu của các tỉnh như sau:
TT Địa phương Số lượng nghề thủ công tiêu biểu
1 Quảng Nam 16
2 Quảng Ngãi 11
3 Bình Định 7
4 Phú Yên 2
5 Khánh Hòa 8
6 Bình Thuận 7
Nguồn: [63].
Sang đầu thế kỷ XX, Quảng Nam tiếp tục là tỉnh có nhiều nghề thủ công nổi
trội so với các tỉnh. Trong tác phẩm Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán
Triều Nguyễn (viết thời Duy Tân) đã đề cập đến nghề thủ công nổi bật ở các tỉnh
Nam Trung Kỳ như sau:
Quảng Nam có các nghề tiêu biểu: Nghề dệt (với các sản phẩm lụa, sa, nhiễu
hoa, lãnh đen bằng tơ tằm không thua gì hàng Quảng Đông), đồ gốm, đường (đường
cát, đường phèn, đường bông, đường đen, đường mật, bánh bằng đường cát có hình
long, ly, quy, phụng), làm bánh (đậu xanh), chế tác đá (đồ thờ, vật trang trí, cối xay,
cối giã gạo, ghế ngồi, chân cột…), than đất, ép dầu (dầu rái, dầu phụng), nghề nung
vôi hàu, khai thác vàng, sắt….Có nhiều hộ chuyên nghiệp trong các nghề dệt, đồ
gốm, làm đường [64, q.5, tr. 123 - 128].
Bình Định có các nghề thủ công tiêu biểu: dệt lụa và vải (lương, sa, lụa
có hoa, lãnh đen, vải, túi, đẫy), dệt chiếu, làm nón, chế biến thực phẩm (rượu,
bún song thằng), đồ dùng sinh hoạt (đồ gốm, muổng bằng vỏ dừa, đèn gió)…
[64, q.9, tr. 103-104].
Phú Yên có các nghề tiêu biểu dệt lụa, lãnh đen, dầu rái, chỉ gai… [64, q.10,
tr. 118 - 120].
Bình Thuận có các nghề tiêu biểu như mộc (sản xuất ván gỗ), nghề rèn, chế
biến mắm, cá… [64, q.12, tr 104- 105].
159
Quảng Ngãi có các nghề: làm đường (đường muổng, đường phèn, đường
phổi, đường bông), kẹo gương, làm gốm, chế tạo bờ xe nước, chế biến mắm, cá, sản
xuất muối…. [64, q.6].
Khánh Hòa có các nghề chế biến mắm cá, sản xuất muối… [64, q.11]
Sự phát triển theo hướng chuyên nghiệp dẫn đến sự hình thành các làng nghề
thủ công. Ở Quảng Nam – Đà Nẵng có trên dưới 40 làng nghề thủ công. Mỗi làng
nghề có một sản phẩm đặc trưng tạo nên thương hiệu của làng nghề.
Các nghề và làng nghề có sự phân bố rộng khắp các vùng miền từ các đô thị
(Đà Nẵng, Hội An, Thanh Chiêm), các nơi tập trung đông dân cư như các chợ, các
thị trấn, thị tứ (Phong Thử, Vĩnh Điện, Tân An, Ái Nghĩa, Hà Lam, Hương An), từ
các vùng nông thôn, các vùng sông biển, vùng đồng bằng, miền núi...
Sự đa dạng của thủ công nghiệp xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, lao động,
sản xuất của cư dân địa phương. Quảng Nam – Đà Nẵng là một tỉnh thuộc dạng
đông dân cư của Miền Trung. Cư dân đa dạng về thành phần như nông dân, thợ thủ
công, ngư dân, thương nhân, thị dân... Trong đó phần đa là dân nghèo với cuộc sống
chủ yếu mang tính tự cung tự cấp.
Sự đa dạng của thủ công nghiệp còn xuất phát từ đa dạng về nguồn nguyên
liệu. Quảng Nam – Đà Nẵng là vùng đất có nhiều thuận lợi về khí hậu, thỗ nhưỡng,
tài nguyên cũng như sự đa dạng về động, thực vật. Vì vậy, nguồn nguyên liệu khá
dồi dào. Các nghề thủ công ra đời dựa trên nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa
phương. Điều này dẫn đến giá thành giảm, dễ trao đổi buôn bán, người sản xuất có
điều kiện tự làm ra để sử dụng trong gia đình. Ngoài ra, thủ công nghiệp Quảng
Nam – Đà Nẵng tồn tại và phát triển trên vùng đất có điều kiện phát triển kinh tế
hàng hóa hơn trong truyền thống và lúc này so với các tỉnh Nam Trung Kỳ.
Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng trong thời kỳ này có nguồn gốc tiếp
biến đa dạng, phong phú. Hầu hết các nghề truyền thống ở Quảng Nam - Đà Nẵng
được cư dân Thanh – Nghệ truyền vào trong diễn trình Nam tiến của tổ tiên từ thế
kỷ XIV. “Tổ tiên chúng ta tiến về Nam đến đâu thì phổ biến nghề thủ công đến đấy”
[47, tr. 65]. Bên cạnh đó, một số người dân địa phương đã học nghề phương xa trở
về lập nghiệp như ông Nguyễn Tích với nghề chằm nón La Bông, ông Huỳnh Thùy
với nghề đan lờ Trung An, nghề kẹp quế Tích Phước học theo kiểu Hồng Kông,
nghề làm lồng đèn Hội An học từ người Trung Hoa... Nhưng cũng cần nói thêm là
160
cư dân Quảng Nam - Đà Nẵng, trên con đường lập nghiệp, cũng mang nghề ở quê
mình truyền dạy trên vùng đất mới, chẳng hạn, nghề đá Non Nước đã vào tận
Khánh Hòa để phát triển tại đây nghề chẻ đá hóa cương đã vang bóng một thời,
nghề đá Non Nước truyền vào Quảng Nam phát triển thành làng đá Xuân Tây nổi
tiếng, làng dệt Mã Châu sau này truyền vào thành phố Hồ Chí Minh phát triển cơ sở
sản xuất Bảy Hiền. Bên cạnh đó, một số nghề có nguồn gốc tại địa phương, gắn liền
với nguồn nguyên liệu tại chỗ như nghề làm mắm Nam Ô, nghề nung vôi hàu ở An
Hải và Nại Hiên Tây, nghề làm muối ở Nại Hiên, nghề ép dầu phụng, nghề đan lát
Yến Nê, nghề gốm Thanh Hà…
Bên cạnh đó, cư dân Việt có sự kế thừa, tiếp biến từ người Champa trong
một số nghề như nghề như làm vàng, làm gốm, nghề làm gạch ngói, xây dựng, làm
mắm... Theo công trình Văn hóa dân gian Việt – Chăm nhìn trong mối quan hệ (qua
cứ liệu văn hóa dân gian miền Trung), một số công cụ của người Việt đã có sự tiếp
biến của người Champa. Chiếc cày của người Việt phía Bắc là cày chìa vôi, tại miền
Trung thì giống cày người Champa hơn để phù hợp với đất đai nông nghiệp canh
tác nơi đây: chân đế cày phát triển to hơn, thân cày lớn hơn và chắc hơn, náng cày
lắp vào thân cày tại vị trí sát lưỡi cày. Chiếc bừa phía Bắc chỉ sử dụng một sức kéo
và điều khiển phải cầm bừa đi sau, bừa của người miền Trung sử dụng một hoặc hai
sức kéo phía trước, phía sau một hoặc hai người đứng trên bừa điều khiển. Người
Việt phía Bắc sử dụng chiếc liềm hái gặt lúa, cắt lúa, người miền Trung sử dụng
giằng (vằng) có cán dài, lưỡi không tra trên thân giằng mà tra ở đỉnh vòi giằng phù
hợp với việc gặt lúa tại miền Trung thường bị ngã rạp. Người Việt tại miền Trung
dùng loại cuốc có bản rộng, lưỡi mỏng hình chữ nhật phù hợp với vùng đất cát pha,
ruộng bùn lầy. Vùng gò đồi thì lưỡi cuốc dài, bề ngang lưỡi hẹp hơn. Phần trên lưỡi
cuốc gắn đai, cán cuốc dùng bằng tre hoặc gỗ, được tra thật chặt vào đai cuốc, tạo
với lưỡi cuốc một góc 500 để có thể dẫy được cỏ và lật cỏ sang một bên dễ dàng.
Cối xay lúa của người Việt tại miền Trung gần với cối xay lúa của người Champa
với các bộ phận: tay xay, cần xay, đoạn tre, tai cối, thớt trên, thớt dưới, nừng cối,
chân cối. Ngoài ra một số công cụ khác như cối giã gạo, cối đá, mỏ xãy (gãy), cào
(bù cào), trang, xe trâu... đặc biệt là ghe bầu Quảng Nam thể hiện rõ nét nhất dấu ấn
sự tiếp biến của người Việt đối với kỹ thuật đóng thuyền của người Chăm.
161
Sự tiếp biến của người Việt đối với văn hóa người Chăm còn thể hiện qua kỹ
thuật làm mắm, kỹ thuật làm các loại bánh (bánh tét, bánh gừng, bánh thuẩn, bánh
ít, bánh bèo, bánh xèo, bánh căn ...) mà rõ nét nhất là hình ảnh những chiếc bánh ú,
bánh nậm, bánh gói, bánh ít làm ta hình dung đến những tòa tháp của người
Champa mà đến nay đã trở thành di sản thế giới.
Đà Nẵng trở thành nhượng địa, Quảng Nam là xứ bảo hộ của thực dân Pháp.
Gắn liền với quá trình khai thác thuộc địa, xuất cảng tư bản, một số nghề thủ công
mới đã ra đời bổ sung vào “danh mục” nghề và làng nghề vốn rất đa dạng của vùng
đất được mệnh danh “xứ trăm nghề”. “Hơn bất kỳ một tỉnh nào ở Trung Việt kể cả
Huế, người Quảng Nam được tiếp xúc với đủ hạng người ở hai cửa biển nên họ sớm
quen với nền văn minh châu Âu hơn hết” [121, tr. 70].
Như vậy, đa số các nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng có nguồn gốc
truyền vào từ đất Bắc, các nghề tiếp biến văn hóa Việt – Chăm, một vài nghề do người
dân đi làm ăn xa học nghề truyền lại và một số nghề do thực dân Pháp du nhập, phát
triển trong công cuộc khai thác thuộc địa, phục vụ nhu cầu xuất cảng tư bản.
Sự đa dạng phong phú còn thể hiện ở số lượng mặt hàng thủ công buôn bán và
xuất khẩu. Tại Hội An, các mặt hàng thủ công xuất khẩu nổi tiếng là tơ, lụa, đường.
Ngoài ra, còn có các sản phẩm mộc Kim Bồng (bàn ghế, trường kỷ, giường, tủ), gốm
sứ Thanh Hà (gạch lát, ngói âm dương, ngói ấm, bộ ấm, chén trà, lục bình, chén đĩa
sứ), giấy quyến, gương đồng, cá chuồng khô... [108, tr. 84 - 91].
4.1.3. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng từng bước phát triển theo kinh
tế thị trường ở giai đoạn đầu của kinh tế tư bản chủ nghĩa
Thủ công nghiệp với các nghề và làng nghề chủ yếu gắn với làng xã, thể hiện
tính tự cung tự cấp, đáp ứng nhu cầu của một vùng đất với cư dân đông. Bên cạnh
đó, một số cơ sở sản xuất thủ công thể hiện sản xuất theo phương thức tư bản chủ
nghĩa. Điều này được thể hiện qua các yếu tố sau:
Thứ nhất, một số cơ sở sản xuất thủ công lớn đã vượt ra khỏi giới hạn tự
cung tự cấp, sản xuất khép kín trong phạm vi gia đình. Nhiều người chủ, thương
nhân, người giàu có đã xuất vốn, đầu cơ, sắm máy móc, thuê thợ để sản xuất trên
một quy mô rộng lớn hơn so với sản xuất thủ công nghiệp cá thể trước đây. Điều
này được thể hiện rõ qua các làng nghề nổi tiếng như mắm Nam Ô, điêu khắc đá
Non Nước, mộc Kim Bồng, đúc đồng Phước Kiều, gốm Thanh Hà... Trường hợp
162
của nghề làm mắm Nam Ô là điển hình. Theo nhà nghiên cứu Vũ Huy Phúc: “Quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành trong nghề này (nghề làm mắm), nhất là
ở Quảng Nam” [58, tr. 210]. Thời Pháp thuộc đã xuất hiện các gia đình đứng ra sản
xuất nước mắm với quy mô lớn, tích trữ số lượng nhiều để tung ra thị trường vào
thời điểm nhu cầu cao. Bà Tú Lâm lập kho mắm lớn, chứa một lúc mấy trăm kiệu,
thuê hẳn người giữ kho, trông coi mắm. Đến cuối năm, tiến hành lọc mắm và chở đi
bán khắp nơi. Nước mắm của gia đình bà đặt tên là “Ô Long”, loại nước mắm này
thơm ngon nổi tiếng. Sau bà Tú Lâm và bà Đốc Núc có các ông Chánh Kiên và Ký
Thạc với hai loại nước mắm mang thương hiệu “Hồng Hương” và “Thanh Hương”
cũng vang tiếng khắp vùng. Bên cạnh việc có mặt trong các chợ làng, nước mắm
Nam Ô đã theo thuyền buôn xuất sang một số nước. Bà Đốc Núc, ông Chánh Kiên,
ông Ký Thạc, tiêu biểu là bà Tú Lâm đã chủ động tìm thị trường, tìm đầu ra cho sản
phẩm của mình, bà đã chuyển hàng vào Hội An, các vùng Quảng Nam, nhất là thị
trường Huế. Đặc biệt, Sở Thương chính mặc dù nắm độc quyền kiểm soát thị
trường nhưng đã đồng ý cho nước mắm Ô Long của gia đình bà được xuất khẩu
sang thị trường chính quốc. Loại nước chấm đặc sản này được các nhà khoa học
Pháp khẳng định: “Là một loại thực phẩm tuyệt diệu và kỹ thuật chế biến hiện nay
hoàn toàn có tính kinh nghiệm không cần phải thay đổi, cải tiến gì” [153, tr. 175].
Ngoài ra, nước mắm Nam Ô đã được các thương lái chuyên chở bằng đường biển,
đường bộ sang bán tận Lào, Campuchia, Thái Lan, Nhật Bản và rất được ưa chuộng.
Tại làng nghề làm đá Non Nước, môt số hộ có điều kiện đã quy tụ nhiều thợ,
sản xuất với quy mô lớn, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thì trường tiêu
thụ. Để duy trì và phát triển nghề, những người thợ đã tập hợp và lập nên Hội, đứng
đầu là Hội chủ, là nghệ nhân cao tuổi, đức độ và uy tín trong nghề. Hội đề ra những
quy định rất nghiêm ngặt, chặt chẽ về sản xuất, sinh hoạt văn hóa, cách đối nhân xử
thế, việc thờ cúng tổ nghề… Việc phân công lao động trong quá trình sản xuất cũng
đã được thể hiện rõ. Người thợ được phân chia thành các bậc tương ứng với trình độ
tay nghề: Thợ mới học việc (thợ nhất) có nhiệm vụ đục đá theo phác thảo, thợ nhì
làm công việc tiếp theo, hỗ trợ cho thợ cả ra phôi, thợ cả (thợ chính, thợ bậc nhất) là
người ra phôi, tạo hình dáng theo chuẩn kích thước đã định, hoàn thiện sản phẩm.
Mỗi người chỉ được đảm nhận một công đoạn, do đó, đã tạo nên những nhóm thợ
chuyên làm những công đoạn tương ứng với trình độ tay nghề của mình.
163
Đầu thế kỷ XX, tại làng đúc đồng Phước Kiều, nhiều gia đình trở nên khá giả
như gia đình các ông: Phan Tự, Trần Đức, Trần Phàn, Nguyễn Cải, Dương Ca... Họ
bỏ tiền ra thuê thợ làm quanh năm để kịp có sản phẩm cung cấp thị trường các nơi.
Việc tổ chức sản xuất tại làng mộc Kim Bồng được thực hiện với quy mô của
những trại gỗ lớn, lực lượng lao động là thành viên trong gia đình hay liên kết với
những thợ mộc làm công. Chủ trại thường là thợ cả, quản lý mọi lĩnh vực tài chính,
ký hiệp đồng, trả lương cho thợ...
Tại làng gốm Thanh Hà, việc sản xuất được thực hiện theo hộ gia đình,
thường những người thợ cả, thợ lành nghề, có uy tín, có điều kiện đứng ra làm chủ,
thuê thợ phụ làm việc tại lò gốm. Ban đầu các hộ sản xuất tự tìm hướng ra của sản
phẩm thông qua phụ nữ trong gia đình đứng ra bán hoặc thực hiện theo các đơn đặt
hàng. Về sau, với sự phát triển và thương hiệu ngày càng vang xa, đã xuất hiện các
thương nhân, mối lái thực hiện việc buôn bán, tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, dần dần
về sau đã có sự phân công trong sản xuất giữa người thợ cả, thợ phụ, người bán
hàng, người tiêu thụ sản phẩm giúp cho các lò gốm của các hộ gia đình tại Thanh
Hà ngày càng phát triển. Đặc biệt khi kỹ thuật làm gốm bằng bàn xoay ra đời đòi
hỏi cần có vốn đầu tư mua bàn xoay, một số chủ đã đầu tư mua bàn xoay, thuê thợ
về làm gốm và trả lương theo ngày công.
Nhờ những sáng chế phát minh của ông Võ Diễn và ông Nguyễn Thống,
ngành dệt hàng tơ lụa của Quảng Nam đã có thể cạnh tranh được với hàng ngoại
nhập. Hàng dệt ra được đưa đi tiêu thụ cả trong Nam, ngoài Bắc, vào Sài Gòn lên
tận Nam Vang (Phnom Penh). Nhiều gia đình đã đầu tư hàng chục khung cửi, trở
thành chủ thuê thợ làm công. Nghề dệt lụa lĩnh vùng Gò Nổi (huyện Điện Bàn) và
các xã ven sông Thu Bồn của huyện Duy Xuyên như Thi Lai, Hà Mật, Đông Yên,
Mã Châu. Đây không còn là những làng dệt thủ công thông thường mà đã có bước
phát triển nhảy vọt bằng cách cải tiến máy dệt bằng sắt sang bằng gỗ, đưa lại năng
suất cao gấp ba lần khung dệt thủ công. Đặc biệt, nghề ươm tơ, dệt hàng lụa lĩnh rất
phát đạt ở vùng Gò Nổi của huyện Điện Bàn và một số xã ven bờ Nam sông Thu
Bồn của huyện Duy Xuyên. Nơi đây được xem là trung tâm tơ lụa của Quảng Nam
trong thập kỷ 20 đến 40 của thế kỷ XX “một nhà máy hấp kén và ươm tơ của công
ty Delignon đặt tại Giao Thủy (huyện Đại Lộc) sử dụng khoảng 400 công nhân”
[90, tr. 693]. Cũng trong thời gian này, ra đời xí nghiệp dệt của chủ tư sản người
Việt là xưởng Phạm Hội ở Duy Xuyên.
164
Vào đầu thập niên 1930, tại làng Bảo An đã ra đời một công ty đường với
mục đích là đối phó với sự chèn ép của người Hoa ở Hội An. Ban quản lý công ty
gồm có hai Trưởng, Phó ban, một thư ký, một thủ quỹ, một kế toán và một thủ kho.
Những người tham gia công ty đóng góp bằng tiền theo khả năng, hoặc bằng dụng
cụ làm đường. Lãi suất được chia theo cổ phần đóng góp. Ta thấy việc sản xuất
đường ở Bảo An đã trở thành “công ty”, mặc dù chưa hoàn chỉnh như ngày nay
nhưng từ mục đích, sự tham gia góp vốn cổ phần, cơ cấu tổ chức, sự phân chia lãi
suất... thể hiện rõ nét phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, trong sản xuất có sự phân công lao động theo hướng mới. Trước
đây, thủ công nghiệp gắn chặt với nghề nông, là nghề phụ, nghề bổ trợ cho nghề
nông, thợ thủ công cũng chính là những người làm nông tranh thủ thời gian nông
nhàn. Việc tham gia sản xuất các nghề thủ công mang tính tự cung tự cấp, đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình, nếu có hơn là mang các sản phẩm thủ
công trao đổi các mặt hàng cần thiết hoặc bán kiếm ít tiền trang trải chi tiêu trong
buổi chợ. Về sau, với sự phát triển của thủ công nghiệp, đã có sự phân công nhất
định theo kiểu người đàn ông tạo ra sản phẩm, người đàn bà mang sản phẩm ra chợ
bán, cao hơn là “ông làm bà mài”, “chồng thợ vợ nông”.
Đầu thế kỷ XX, trong sản xuất thủ công nghiệp, sự phân công lao động thể
hiện rất rõ rệt. Trong sản xuất là sự phân công giữa “chủ” và “thợ”, trong thợ phân
thành thợ cả, thợ bạn, thợ học việc, thợ chính, thợ phụ... Mỗi người thợ, tùy theo vị
trí, trình độ tay nghề được phân công đảm nhận thực hiện các công đoạn khác nhau
của quá trình sản xuất sản phẩm. Điều này thể hiện rõ qua nghề mộc, nghề đúc
đồng, nghề điêu khắc đá, nghề làm gốm...
Sự phân công còn thể hiện theo công đoạn của quá trình sản xuất: người
chuyên cung cấp nguyên liệu, người chuyên sản xuất ra sản phẩm, người chuyên
tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, hoạt động tiêu thụ sản phẩm tiến hành theo phương thức mới. Trước
đây việc tiêu thụ sản phẩm chủ yếu theo lối trao đổi tại các phiên chợ làng do những
người phụ nữ đảm nhận nhằm cải thiện thu nhập cho gia đình, việc sản xuất, buôn
bán khép kín trong phạm vi gia đình. Cuối thế kỷ XIX, nhất là đầu thế kỷ XX, hoạt
động trao đổi buôn bán thực sự gọi là “kinh doanh”. Người làm kinh doanh mà dân
gian vẫn thường gọi là “con buôn”, “mối lái” ngày càng nhiều với phương thức
165
buôn bán đa dạng hơn, chú trọng đến thị hiếu của từng thị trường trong từng vùng
miền của đất nước hay của nước ngoài. Không chỉ chú trọng về tiêu thụ sản phẩm,
người kinh doanh còn có cả trong việc thu mua, bao tiêu nguyên liệu để cung cấp
cho các cơ sở sản xuất. Đến đây, người lao động, sản xuất từng bước chuyên tâm
tập trung vào cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng còn
các công việc khác thì đã có tầng lớp trung gian thực hiện.
Một số tư sản người Việt đầu tư kinh doanh một số mặt hàng thủ công
nghiệp như Lý Quý chuyên kinh doanh về bông vải sợi nội địa lưu thông cả ba kỳ.
Một số thương nhân người Hoa và người Ấn Độ kinh doanh vải lụa [90, tr. 786].
Năm 1929, xuất hiện một cửa hàng to đẹp và nổi tiếng về đủ mọi mặt hàng tơ
lụa của nước ta và một số nước Đông Nam Á. Đó là cửa hàng của Đào Thảo Côn
với số vốn ban đầu là 30.000$. Chủ cửa hàng này đồng thời là chủ của các xưởng
dệt thảm bằng cói bện đay tại Hà Nội mà số nhân công khoảng 100 người. Cửa
hàng Đào Thảo Côn kinh doanh nhiều mặt hàng, ứng tiền và nguyên liệu cho nhiều
thợ thủ công ở Hà Đông và Quảng Nam [58, tr. 168].
Những năm đầu thế kỷ XX, ở làng Tích Phước có những Hoa kiều giàu có
như ông Tạ Bổn, Trần Gia Hùng, Tạ Ba chuyên thu mua quế bán lại lấy lãi. Lúc bấy
giờ, một người thu mua quế người Hoa ở Tam Kỳ với tên thường gọi là ông Cau
được xem như “bá chủ” quế của vùng đất Tiên Phước và Trà My. Ông ta có nhiều
kho chất đầy quế không chỉ ở Trà My, Tiên Phước mà còn ở Tam Kỳ và ngay tại Đà
Nẵng. Chính ông là người xuất khẩu nhiều quế sang Hồng Kông.
Tại làng dệt chiếu Cẩm Nê, các ông Phan Huẩn, Phan Tấn chuyên thu gom
chiếu để mang đi bán, có lúc mỗi tháng thu gom 200-300 chiếc chiếu chở ra bỏ cho
các mối ở Huế. Giữa làng chiếu Cẩm Nê và làng chiếu Bàn Thạch có mối liên kết,
cung cấp nguyên liệu trong sản xuất thông qua các mối lái:
“Lác hàng một bó bảy quan
Lác cao đồng rưỡi tôi bán cho bạn hàng Cẩm Nê”
Đầu thế kỷ XX, tại làng làm trống Lâm Yên, xuất hiện những người buôn
trống là các ông Tào Niên, Nguyễn Phát, Trần Yến, Hồ Trịnh, Trịnh Giáo.... Các
ông thu mua trống, đi tàu hay đi xe ra tận ngoài Huế, Quảng Trị, hay bán sĩ cho các
mối quen biết như Bà Nghè ở Huế, ông Chương ở Bao Vinh. Ngoài ra, có một số
người còn mang trống bán ở một số nơi khác ở Quảng Ngãi và các tỉnh Nam Trung
bộ, Tây Nguyên.
166
Những thập niên đầu thế kỷ XX, khi phương tiện giao thông phát triển, một
số nhà buôn như ông Trần Bình đã thu mua những sản phẩm của làng đúc đồng
Phước Kiều lên bán tận các tỉnh Tây Nguyên, vào đến Phú Yên.
Như vậy, với hoạt động sôi nổi của các nhà buôn, các nhà kinh doanh thì
“phạm vi thủ công nghiệp đi từ những nghề phụ nông thôn, đến các nghề thủ công
cá thể tiểu sản xuất hàng hóa rồi đến hình thức công trường thủ công tư bản chủ
nghĩa, tức là hình thức còn nhiều quan hệ với nông nghiệp đến hình thức quá độ
sang công nghiệp” [58, tr.18].
4.2. TÁC ĐỘNG CỦA THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
(1802-1945)
4.2.1. Đối với kinh tế và đời sống
Các nghề thủ công ở Quảng Nam - Đà Nẵng vẫn chỉ là các nghề phụ, chưa
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế địa phương. Tuy nhiên, các nghề thủ
công này đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm lúc nông nhàn, giúp
cho đời sống của một bộ phận dân cư được cải thiện. Với bàn tay tài hoa, những
nghệ nhân đã tạo ra công cụ sản xuất: nông cụ, ngư cụ và ngay cả công cụ cho các
nghề thủ công. Thủ công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp và ngư nghiệp phát triển, tạo
ra một thị trường trao đổi, buôn bán.
Sản phẩm thủ công nghiệp làm ra ngày càng nhiều, không chỉ cung cấp các
vật dụng thiết yếu cho các hộ gia đình mà còn trở thành hàng hóa được ưa chuộng
trên thị trường. Tại các làng thủ công nổi tiếng, phát triển theo phương thức sản
xuất mới như nước mắm Nam Ô, điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước, gốm Thanh Hà,
mộc Kim Bồng, đúc đồng Phước Kiều, dệt vải Mã Châu, Thi Lai.... đã thu hút một
lực lượng lao động lớn từ việc những người thợ trực tiếp tham gia sản xuất, tạo ra
sản phẩm đến những người cung cấp nguyên liệu, kinh doanh buôn bán. Đặc biệt,
sản phẩm các làng nghề nổi tiếng này đã được xuất khẩu sang nước ngoài kể cả thị
trường chính quốc là Pháp. Xét về góc độ này thì ngay cả những nghề, làng nghề
thủ công được xem là “nghề phụ” cũng đã giải quyết được một lực lượng lớn lao
động, thu nhập chắc chắn sẽ khấm khá hơn so với những gia đình sống thuần nông.
Nền kinh tế Quảng Nam – Đà Nẵng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
trước và thời kỳ Pháp thuộc vẫn là nền kinh tế dựa trên nền tảng của hai nghề truyền
thống nông nghiệp và thủ công nghiệp. Nông nghiệp đảm bảo nhu cầu về lương
thực và thực phẩm, đáp ứng nhu cầu ăn uống của cư dân. Bên cạnh đó, lúa gạo cũng
167
là một trong những mặt hàng được trao đổi, buôn bán và xuất khẩu. Thủ công
nghiệp đảm nhận việc chế biến sản phẩm nông nghiệp thành lương thực, thực phẩm
và tạo ra những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: ăn mặc, ở, đi lại, học hành... Thủ công nghiệp có vai trò rất lớn trong
đời sống kinh tế - xã hội. Thủ công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp để trực
tiếp đáp ứng nhu cầu sử dụng của cư dân. Thủ công nghiệp chế tạo các công cụ lao
động phụ vụ cho hoạt động sản xuất, lao động, tạo ra các đồ dùng cho đời sống sinh
hoạt. Với sự phát triển của thủ công nghiệp, công cụ lao động được cải tiến, sức lao
động của nhà nông được giải phóng bớt, năng suất được nâng cao, sản phẩm làm ra
được chế biến thành các sản phẩm một cách phong phú đa dạng.
Thủ công nghiệp tạo ra các sản phẩm trở thành hàng hóa được trao đổi,
buôn bán trên thị trường trong và ngoài nước đã thúc đẩy sự phát triển của
thương nghiệp cả về nội thương lẫn ngoại thương đặc biệt trong thời kỳ gắn với
sự xuất cảng tư bản của Pháp. Hệ thống chợ và các thị trấn, thị tứ được hình
thành khắp nơi là những trung tâm buôn bán, tập trung dân cư. Quảng Nam – Đà
Nẵng với hai thương cảng lớn là Hội An và Đà Nẵng bên cạnh dinh trấn Thanh
Chiêm là những trung tâm kinh tế, thúc đẩy sự giao thương buôn bán cả nội
thương và ngoại thương. Tập trung quanh các đô thị là những làng nghề nổi
tiếng, cùng với đó là tập trung các mặt hàng thủ công có giá trị để xuất khẩu
sang nước ngoài. Tại các trung tâm buôn bán (Hội An, Tam Kỳ, Vĩnh Điện, Túy
Loan, Ái Nghĩa, Nam Ô, Hà Lam...), các ngõ nguồn (Câu Đê, Lỗ Đông, Ô Gia,
Trung Phước, Chiên Đàn, Hữu Bằng...), các chợ (Bảo An, Bến Đền, Tư Phú,
Cẩm Sa, La Nghi, Chợ Cầu, Bình Long, Lạc Thành, Đông Quang, Phong Thử,
Vĩnh Điện, Phú Gia, Khánh Bình, Đồng An, Đồng Tranh, Trung Phước, Cây
Bùi, Đông Phú, Chợ Đàn, chợ Đụn, An Xuân, Hương An, Mộc Bài, Bà Rén...)
sản phẩm thủ công là những mặt hàng rất được ưa chuộng.
Với những tác động qua hai lần khai thác thuộc địa của Pháp, thủ công nghiệp
Quảng Nam – Đà Nẵng đã được thúc đẩy phát triển về lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Có một số nghề suy thoái theo quy luật tự nhiên và do cạnh tranh của các
mặt hàng do Pháp du nhập, song đa phần các nghề tiếp tục phát triển, nhiều nghề mới
ra đời như nghề làm đăng ten, nghề làm thủy tinh, nghề khảm xà cừ, nghề thuộc da,
nghề làm kính, nghề làm nhôm... “Thủ công nghiệp phân biệt rõ với nền công nghiệp
168
do Pháp đưa vào, nhưng nó không trở thành nhân tố đối kháng mà gia nhập vào
guồng máy kinh tế thuộc địa như một yếu tố cần thiết, thậm chí tích cực cho tiến bộ
xã hội” [58, tr. 169].
4.2.2. Đối với chính trị và xã hội
Sự phát triển của thủ công nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển của các ngành
kinh tế khác mà trực tiếp là nông nghiệp và thương nghiệp, giúp cho kinh tế của địa
phương phát triển, cùng với đó là quá trình tụ cư, sinh sống, tìm đến của các luồng
dân cư ngày càng đông, số đinh thời Gia Long là 36.900 người, thời Tự Đức là
51.458 người, năm 1935-1936, số dân ở Quảng Nam – Đà Nẵng là 25.000, đến năm
1945 lên đến 1.000.000 người. Các làng xã hình thành ngày càng nhiều, diện tích
đất hoang hóa được khai phá, cải tạo, diện tích đất canh tác được mở rộng thêm.
Sự phát triển của các nghề thủ công và làng nghề thủ công đã góp phần vào
sự phát triển của đô thị Hội An buổi thịnh thời và sau này là phố cảng Đà Nẵng. Tập
trung quanh Hội An, Đà Nẵng là các nghề và làng nghề nổi tiếng: Gốm Thanh Hà,
Mộc Kim Bồng, Đúc Đồng Phước Kiều, dệt vải Thi Lai, dệt chiếu Cẩm Nê, đan lát
Yến Nê, làm mắm Nam Ô, điêu khắc đá Non Nước. Sự phát triển của thủ công
nghiệp góp phần vào quá trình làm chuyển biến thành phần xã hội. Bên cạnh thợ thủ
công tách khỏi nghề nông còn có sự xuất hiện của các thương nhân, “mối lái”, thời
Pháp thuộc còn có cả tư sản người Việt đầu tư kinh doanh các mặt hàng thủ công
nhất là tơ sợi, vải vóc...
Dân cư đông đúc, kinh tế phát triển, Quảng Nam thể hiện tầm nhìn của
những người cầm quyền lúc bấy giờ “Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất
dụng võ của người anh hùng nếu biết dạy luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì
đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thể lực không địch được thì cố giữ vùng
đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta” [65, t. 6, tr. 44].
Sự phát triển thủ công nghiệp của vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng, sự đóng
góp của các làng nghề đối với triều đình đã làm thay đổi cách nhìn nhận của triều
đình, bên cạnh “dĩ nông vi bản” đã chú trọng phát triển và thủ công nghiệp thủ công
nghiệp cũng đã góp phần làm phong phú di sản kiến trúc triều Nguyễn.
Thực dân Pháp chọn Đà Nẵng là thành phố nhượng địa trước hết là vì giao
thông thuận lợi, gắn liền với nó là một vùng kinh tế phát triển mạnh nhất ở phía Nam
169
Trung kỳ. Người Pháp đã quan tâm đến vùng đất Quảng Nam không chỉ về địa -
chính trị mà vì vị trí địa – kinh tế, trong đó có các ngành nghề thủ công có thể đem lại
lợi nhuận cho người Pháp. Sự chèn ép của thực dân Pháp đối với một số ngành nghề
thủ công cũng là một trong những nguyên nhân làm cho thợ thủ công Quảng Nam –
Đà Nẵng tham gia cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Thủ công nghiệp “có ích lợi cho lợi ích dân tộc, hết sức cần thiết cho sự
nghiệp đấu tranh giải phóng” [58, tr. 169]. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng
thời kỳ này không mâu thuẫn với chủ nghĩa tư bản nhưng đối kháng với chính chủ
nghĩa thực dân về mặt chính trị. Bởi lẽ, từ nền sản xuất thủ công nghiệp đã ra đời tư
sản dân tộc. Đây là hệ quả khách quan của hoàn cảnh lịch sử. Tư sản dân tộc còn nhỏ
bé, bị chèn ép song đã tìm cách tồn tại và vươn lên. Một số nhà tư sản dân tộc đã kinh
doanh, buôn bán, tập trung đầu tư, góp phần vào sự phát triển của kinh tế Quảng Nam
– Đà Nẵng trong đó có thủ công nghiệp. Tư sản dân tộc cũng đã đấu tranh chống lại
sự chèn ép của các nhà tư sản Pháp, Hoa, góp phần vào phong trào đấu tranh chung
của nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng chống lại chủ nghĩa thực dân.
Cùng với quá trình khai thác thuộc địa của Pháp, tại vùng đất Quảng Nam –
Đà Nẵng, giai cấp công nhân đã ra đời. Giai cấp công nhân có nguồn gốc từ nông
dân lao động, thợ thủ công bị bần cùng hóa, học sinh ra trường không kiếm được
công ăn việc làm. Số lượng công nhân ăn lương chính ngạch rất ít, chủ yếu hưởng
lương công nhật, thợ học việc và “cu li”. Mặc dù giai cấp công nhân chưa đông, chưa
phải là lực lượng chính trong xã hội, song sự ra đời của giai cấp công nhân làm cho
cơ cấu giai cấp trong xã hội Quảng Nam – Đà Nẵng có thêm một giai cấp mới mà sau
này phát triển mạnh thành giai cấp nắm giữ ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc
thông qua vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng tại Quảng Nam – Đà Nẵng.
Sự phát triển của nền thủ công nghiệp hàng hóa cùng với nền thương mại phát
triển, với vai trò của cảng biển, đô thị Hội An và Đà Nẵng đã khiến cho vùng đất
Quảng Nam – Đà Nẵng có điều kiện tiếp thu sớm tư tưởng tư sản phương Tây và
hình thành tư tưởng duy tân. Và thực tế, Quảng Nam – Đà Nẵng trở thành nơi phát
nguyên phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ. Theo nhận xét của những nhà lãnh đạo của
phong trào Duy Tân thì ở Quảng Nam “các ngành, các nghề ươm dệt, mía đường
cũng tạo ra một cảnh sống nhộn nhịp, khác hẳn đời sống nông nghiệp chỉ biết cây
170
lúa, củ khoai. Các sông đào như Câu Nhí được khai thông khiến cho ghe thuyền ngày
càng tấp nập và những cuộc buôn bán bằng ghe bầu đã vượt biển cả vào Nam, ra
Bắc ngày càng mở mang để tranh thương với Trung Hoa, ít nhất là trong nội địa và
đã mang lại những kết quả lớn lao” [121, tr. 70]. Đi theo ngọn cờ Duy Tân, “các
nông gia, các nhà trồng cây công nghệ (quế, mía), các nhà chăn tằm, dệt vải, các nhà
buôn đều nhận thấy một cách rõ ràng là họ không thể theo phương thức cũ để phát
triển trong một xã hội có nhiều thay đổi lớn, phải thay đổi” [121, tr. 71]. Đúc kết về
phong trào Duy Tân, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân cho rằng:
Nghiên cứu về phong trào Duy Tân mà không tìm thấy những lý do
chính trị chống thực dân, phong kiến, lý do kinh tế - thoát khỏi chèn ép thương
gia Tàu, phát triển những ngành sản xuất để cung ứng những đòi hỏi của thị
trường mới chỉ là lướt đi bên trên, xem nó như một ngẫu nhiên của lịch sử là
một lầm lẫn đáng kể. Tưởng cũng nên nhắc: hai khu vực mà phong trào Duy
Tân lớn mạnh nhất đã xuất phát các lãnh tụ tiếng tăm đều là khu vực mà nền
sản xuất và thương mại phồn thịnh nhất: Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Lê Cơ: quế, Trần Quý Cáp, Phan Thúc Diện, Phan Thành Tài: mía,
đường, dệt, tơ lụa, ghe bầu đi biển [121, tr. 77, 78].
Thủ công nghiệp cũng là một cơ sở kinh tế để đánh giá một nền chính trị có
còn tiến bộ, còn có vai trò đối với lịch sử hay không. Khi nhà nước chăm lo khuyến
khích, các nghề và làng nghề phát triển là biểu hiện nền chính trị ổn định, phát triển.
Khi thủ công nghiệp bị đình đốn, người thợ thủ công phải phá bỏ công cụ sản xuất...
là biểu hiện nguy cơ đối với nền chính trị, và thực tế chế độ phong kiến, chế độ thực
dân đều đã trải qua những thời kỳ như vậy.
Thủ công nghiệp hấp dẫn các nhà tư bản Pháp, nhưng thủ công nghiệp cũng
góp phần tạo ra những phong trào đấu tranh để chôn vùi nền thống trị của Pháp. Nhân
dân Quảng Nam – Đà Nẵng trong đó có đông đảo những người thợ thủ công đã tham
gia công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với nhân dân cả nước đập tan
xiềng xích nô lệ, giành lấy độc lập tự do.
4.2.3. Đối với văn hóa
4.2.3.1. Góp phần bảo tồn những giá trị tri thức bản địa
Thủ công nghiệp là một yếu tố quan trọng của cơ sở văn hóa Việt Nam. Dó
171
đó, nó có ý nghĩa trên nhiều mặt. Các nghề và làng nghề truyền thống trải qua một
quá trình hình thành và phát triển, là sự tiếp nối của bao thế hệ, các nghề và làng
nghề thủ công truyền thống chứa đựng nhiều giá trị về mặt vật chất và tinh thần,
góp phần đem lại những giá trị tri thức bản địa. Giá trị tri thức bản địa là những kỹ
thuật, kinh nghiệm quý báu, bí quyết nghề nghiệp, những gì tinh anh nhất mà tổ
nghề và các thế hệ đi trước đã hun đúc trong quá trình sản xuất, tìm ra những
nguyên vật liệu, không ngừng cải tiến kỹ thuật, tạo ra những kiểu dáng, mẫu mã
mới bên cạnh chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao. Sự phát triển về kỹ
thuật, sản phẩm vẫn dựa trên những yếu tố nền đã vun đắp từ trước. Hay nói cách
khác, những tri thức bản địa được hình thành trong quá trình học hỏi từ truyền
thống, sáng tạo những cái mới, vận dụng và kết hợp cả hai yếu tố truyền thống và
hiện đại nhưng vẫn giữ được bản chất, những nét tinh anh mang tính đặc trưng của
vùng đất này.
Nếu so sánh sản phẩm thủ công nghiệp là những tác phẩm nghệ thuật, thì
những người thợ cần mẫn, những nghệ nhân chính là những người nghệ sĩ góp phần
thổi hồn vào trong mỗi tác phẩm nghệ thuật đó. Các sản phẩm được kết tinh từ sự
nhiệt huyết, đam mê trong mỗi người thợ, nghệ nhân. Do đó, nghệ nhân cũng chính
là một phần của tri thức bản địa. Với khối óc sáng tạo, đôi bàn tay khéo léo, đôi mắt
thẩm mỹ... thì vẫn chưa đủ điều kiện để làm nên một nghệ nhân thực thụ. Ở họ còn
phải chứa đựng tình yêu đối với nghề, sự đam mê cộng với những bí quyết, kinh
nghiệm được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thì mới có thể trở thành những
người kế nghiệp xứng đáng với tổ nghiệp. Và cũng để tồn tại được với nghề thì họ
phải không ngừng sáng tạo nên những cái mới, góp phần tạo nên sự độc đáo và đặc
trưng riêng biệt. Có như vậy, họ mới có thể cống hiến hết mình cho sự phát triển
của nghề, góp phần làm nên kho tàng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
4.2.3.2. Góp phần làm phong phú lễ hội địa phương
Các làng nghề thủ công ở Quảng Nam - Đà Nẵng luôn lưu giữ truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”,
điều này thể hiện lòng thành kính đối với tổ nghề và các bậc tiền nhân đã dày công
vun đắp. Các làng nghề đều lưu giữ gốc tích, xuất xứ của nghề, ông tổ làng nghề,
người có công và truyền bá, dạy nghề cho làng. Nghề điêu khắc đá Non Nước có
nguồn gốc từ Thanh Hóa và người có công mang nghề vào truyền dạy là cụ Huỳnh
172
Bá Quát. Trước cổng nhà thờ thạch nghệ tổ sư tọa lạc tại chân ngọn Thổ Sơn (núi
Ngũ Hành Sơn) ghi hai dòng chữ “Tổ đức khai sinh nguyên Bắc địa. Sư công sáng
đạo hóa Nam thiên”. Như vậy, tại nơi diễn ra sinh hoạt làng nghề và cũng là nơi
cúng tổ nghề, những người thợ thủ công điêu khắc đá Non Nước luôn hướng về
vùng đất khởi nguồn của nghề nghiệp hôm nay. Tại làng Nam Ô, vào tiết tháng 3
âm lịch hằng năm, con cháu các họ tộc cùng làm nghề cá tổ chức ngày giỗ tổ để ghi
nhớ công đức tiền hiền và làm lễ cầu an cho mùa đánh bắt, mùa làm mắm. Thông
qua hội làng, con cháu tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những vị khai sinh lập địa,
truyền dạy nghề cho làng. Nghi lễ trong ngày giỗ tổ còn thể hiện văn hóa tâm linh,
triết lý âm dương, khát vọng về sự dung hợp giữa trời – đất – người trong vũ trụ bao
la. Hội làng là hoạt động văn hóa tạo nên nét đặc trưng của các làng nghề thủ công.
Hằng năm, vào ngày 20 tháng Giêng, con cháu làng nghề đúc đồng Phước Kiều dù
sinh sống nơi đâu cũng tìm về dự ngày giỗ tổ, bày tỏ lòng thành kính của mình đối
với tổ nghề. Nhà thờ tổ được xây dựng từ lâu đã được tu bổ nhiều lần và vẫn giữ
nguyên bản bàn thờ cổ. Bàn thờ chính diện có bài vị “Cửu Thiên Huyền nữ” là
người làm ra thước đo làm nghề, bài vị “Không Lộ giác hỷ” là người đầu tiên pha
nấu đồng, bài vị “Lịch đợi bổn tổ sư” là ông thầy dạy nghề. Hai bàn thờ hai bên,
mỗi bàn 5 bài vị thờ mười tộc họ nghề đúc đồng Phước Kiều... Hầu hết các làng
nghề đều có nhà thờ, đều có ngày cúng tổ nghề hay còn gọi là lễ giỗ tổ.
Lễ giỗ tổ là ngày thiêng liêng nhất, có nơi kéo dài đến vài ngày, đông vui
đầm ấm. Trong ngày này, các tộc họ hay những hộ nghề chọn đưa các sản phẩm độc
đáo để trình nghề như một cuộc sát hạch kỹ thuật tay nghề và có khen thưởng. Các
ngả đường làng và nhà thờ treo cờ, phướn. Trong chương trình có phần hội với
những sinh hoạt đông vui, náo nhiệt, thắm tình đoàn kết. Chính vì vậy, lễ giỗ tổ của
các làng nghề là nét đẹp văn hóa, bổ sung vào kho tàng văn hóa, làm phong phú
danh mục các lễ hội của địa phương.
4.2.3.3. Sự gắn kết, giữ gìn tâm hồn những người con xa quê
Những người con lớn lên, vì một lý do nào đó phải xa quê nhưng đối với
người Việt “ly thân bất ly hương”, mặc dù phải xa rời nơi chôn nhau cắt rốn nhưng
tâm hồn vẫn luôn nhớ về cố hương. Người Việt nhớ quê bắt nguồn từ nỗi nhớ cây
đa, giếng nước, mái đình, dòng sông nơi tắm mát tuổi thơ, những kỷ niệm thời thơ
ấu… và như lẽ thường tình, họ nhớ về những món ăn mang đậm hương vị quê nhà
đã tạo nên dư vị không thể nào quên được. Người Quảng Nam xa quê nhớ nhất là
173
mỳ Quảng, đường Bát Gò Nổi, nước mắm Nam Ô... “Nam Ô nước mắm thơm nồng;
Đi mô cũng nhớ mùi hương quê nhà”, “Bữa nay đợi bún chợ Chùa; Đợi mắm Nam
Ổ đợi cua làng Gành”. Hay nhớ về những lễ hội, nhớ ngày giỗ tổ nghề... Tất cả
những điều ấy đã làm thành ngọn lửa âm ỉ cháy trong lòng người con xa quê. Trong
quá trình tiếp xúc với các bậc cao niên, chúng tôi thấm thía cái nghĩa tình nhiều khi
thật thật giản đơn nhưng đầy thi vị: nước mắm Nam Ô với mùi thơm đặc trưng, ăn
xong, nước mắm dính ở chén đĩa vẫn còn ngan ngát “nước mắm dính đĩa có nghĩa
với người”, cái nghĩa thể hiện tình cảm của người dân thật mộc mạc, giản dị nhưng
cũng thật chan chứa như chính sản phẩm của làng nghề này. Cái nghĩa ở đây còn là
cái nghĩa của một vùng quê gian khó đã chắt chiu, nuôi lớn bao tâm hồn, và cho dù
họ có đi đâu, về đâu, làm bất cứ địa vị nào trong xã hội, họ vẫn luôn hướng về nơi
khởi nguồn của dòng máu nồng ấm trong cơ thể.
4.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN THỦ
CÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG XỨ QUẢNG
Bất luận ở thời điểm nào, dù quá khứ hay hiện tại, thủ công nghiệp vẫn luôn
có vai trò và ảnh hưởng to lớn đối với mọi mặt trong bức tranh kinh tế - chính trị -
xã hội của Quảng Nam - Đà Nẵng. Tuy nhiên, hiện nay, bức tranh về các nghề và
làng nghề thủ công ở Quảng Nam - Đà Nẵng, tựu trung, là những gam màu khá ảm
đạm. Dưới tác động của quá trình đô thị hóa, sự phát triển mạnh mẽ của quá trình
giao thương, hàng hóa tràn ngập trên thị trường, hầu hết các làng nghề đã bị mai
một và mất đi. Một số làng nghề tiêu biểu như làng thủ công mỹ nghệ Non Nước,
làng nước mắm Nam Ô, làng mộc Kim Bồng, làng gốm Thanh Hà, làng đúc đồng
Phước Kiều, làng dệt vải Mã Châu... vẫn tồn tại nhưng đối mặt với muôn vàn khó
khăn, một số làng nghề khác như dệt chiếu Cẩm Nê, đan lát Yến Nê, làm trống Lâm
Yên... tuy vẫn còn tồn tại nhưng chỉ là “cái bóng” của “thời xa vắng”. Để có thể giữ
lại nét đẹp hồn quê, cùng với những nét tinh anh của các nghề và làng nghề, đã trải
qua quá trình hình thành và phát triển mấy trăm năm, từ thuở cha ông ta “mang
gươm đi mỡ cõi”, chính quyền địa phương cần đầu tư, đề ra các giải pháp để gìn giữ
khôi phục các nghề truyền thống. Trong cuộc sống hối hả, xô bồ của thời hiện đại,
nhiều giá trị văn hóa đan xen, con người có xu hướng tìm về khoảng lặng của giá trị
tinh thần, tìm về với những làng nghề truyền thống, nơi ấy còn lưu giữ chút hồn quê
đã làm nên giá trị lâu đời của vùng đất giàu truyền thống này. Để làm được điều này
cần tập trung các nội dung sau:
174
Giải quyết nguồn nguyên liệu: Nguyên liệu là một trong những nhân tố quyết
định sự ra đời và phát triển của các nghề, làng thủ công. Hầu hết các nghề và làng
nghề ra đời dựa trên nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Hiện nay, đa số các
nghề thủ công tại Quảng Nam – Đà Nẵng gặp khó khăn về nguyên liệu do quá trình
bồi tụ đất đai, kiến tạo địa chất, sự biến đổi thời tiết, quá trình tụ cư, khai phá đất
đai, quá trình đô thị hóa, quá trình khai thác tài nguyên của con người... dẫn đến đất
đai dùng trồng các loại cây dùng làm nguyên liệu cho một số nghề thủ công như cói
dệt chiếu, bông, đay..., sự ít dần của các loại cây, dây như mây, lá nón, lá đoác, ngô
đồng, bù lời... các loại nguyên liệu từ gỗ, đá, kim loại cũng ít dần, quá trình bồi tụ,
lấn biển làm cho diện tích ruộng muối gần như biến mất, sự thay đổi của các dòng
hoàng lưu trên biển, hậu quả của quá trình đánh bắt không tuân thủ quy luật, quá
trình ô nhiễm môi trường đã làm cho nguồn thủy hải sản khan hiếm dần, sản lượng
đánh bắt ven bờ giảm rõ rệt làm cho nghề làm mắm gặp nhiều khó khăn về nguyên
liệu lẫn chất lượng sản phẩm...
Để giúp cho các nghề và cơ sở sở sản xuất thủ công giải quyết được sự khó
khăn trong nguyên liệu, lãnh đạo chính quyền cần có chính sách quy hoạch, thống
kê, hỗ trợ đối với các vùng nguyên liệu hiện có hay đầu tư khuyến khích khôi phục
các nguồn nguyên liệu còn có khả năng khôi phục, tái tạo. Bên cạnh đó, cần có sự
phối hợp với một số tỉnh thành, có nguồn nguyên liệu để có thể chia sẻ, cung ứng,
giải quyết bớt sự khan hiếm về nguồn nguyên liệu tại chỗ như hiện nay.
Phát huy vai trò của nghệ nhân truyền nghề: Từ nghìn xưa, cha ông ta đã đúc
kết “không thầy đố mày làm nên”. Đối với thủ công nghiệp, vai trò người nghệ nhân
truyền nghề là vô cùng quan trọng, bởi lẽ, trong tình hình kinh tế thị trường, hầu hết
lớp trẻ đều quay lưng hay thờ ơ với các nghề thủ công. Những người thợ lành nghề,
những bậc cao niên, những nghệ nhân nắm giữ những bí quyết, kinh nghiệm được
tích lũy từ bao đời. Vì vậy, phải phát huy vai trò của những nghệ nhân truyền nghề.
Nếu không, dần dần các nghề thủ công sẽ thất truyền, mai một rồi biến mất trong
lốc của kinh tế thị trường. Những năm gần đây, nhà nước đã có chính sách phong
tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân, bàn tay vàng... nhằm tôn vinh
những nghệ nhân có nhiều đóng góp. Song như vậy vẫn chưa đủ, phải chính sách hỗ
trợ, để những nghệ nhân, người thợ cao niên đủ điều kiện về cuộc sống cơ bản
chuyên tâm truyền nghề cho lớp trẻ, tạo ta những thế hệ tiếp nối. Tập trung nghiên
175
cứu, phát hành các ấn phẩm về các nghề thủ công truyền thống để phát hành rộng
rãi cho thế hệ trẻ có đam mê theo học và cũng để gìn giữ khi các nghệ nhân, bậc thợ
cao niên ngày càng ít đi, cùng với đó là nguy cơ thất truyền của các nghề thủ công.
Chú trọng việc đào tạo nghề cho thế hệ trẻ: Hiện nay đang diễn ra nghịch lý
là lớp trẻ thất nghiệp ngày càng nhiều, cùng với đó là các vấn đề về xã hội, trong
khi các nghề thủ công truyền thống lại không có người kế nghiệp, mai một, nguy cơ
biến mất. Để giải quyết nghịch lý này, nhà nước cần có chính sách đưa các nghề thủ
công vào đào tạo trong các cơ sở dạy nghề, phát huy vai trò của các nghệ nhân, bậc
thợ cao niên để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng tham gia các nghề thủ công.
Thực hiện được điều này vừa tạo nguồn việc làm, giảm tình trạng thất nghiệp, dôi
dư lao động vừa gìn giữ được các nghề thủ công truyền thống. Một số làng nghề, cơ
sở sản xuất thủ công có hướng sản xuất phù hợp nên vẫn phát triển tốt, tạo được
nguồn lao động, những mô hình này cần được nhân rộng, tạo điều kiện giao lưu,
chia sẻ kinh nghiệm.
Đầu tư vốn, tổ chức sản xuất: Đa số các làng nghề, cơ sở sản xuất thủ công
hiện nay khó khăn trong nguồn vốn, muốn phát triển không thể tiếp tục theo phương
thức nhỏ lẻ trước đây. Nhà nước cần có chính sách đầu tư vốn, hỗ trợ cho vay ưu
đãi, trợ giá để các làng nghề có điều kiện vòng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất. Bên
cạnh đó, chính quyền địa phương cùng với các chuyên gia sắp xếp lại, tìm ra hướng
để các làng nghề tổ chức sản xuất theo một phương thức mới, mang lại hiệu quả,
không để tiếp tục duy sản xuất cá thể, nhỏ lẻ, tự phát.
Tìm đầu ra của sản phẩm, nghiên cứu thị hiếu của người dùng: Với sự phát
triển của kinh tế thị trường, hàng hóa tràn ngập, quá trình sản xuất với sự tham gia
của máy móc hiện đại, kiểu dáng đẹp, giá cả rẻ, sản phẩm thủ công khó cạnh tranh
lại sản phẩm của nền công nghiệp. Lãnh đạo chính quyền địa phương cần tiến hành
một nghiên cứu nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của thị trường, từ đó tìm đầu ra cho các
sản phẩm thủ công. Các sản phẩm thủ công cần phải được quảng bá, giới thiệu, có
mặt trên một thị trường rộng lớn, không chỉ bó hẹp trong các phiên chợ làng mang
tính tự cung tự cấp.
Xây dựng tuyến điểm du lịch, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu: Quảng Nam –
Đà Nẵng có tiềm năng lớn trong du lịch, đặc biệt nằm trong hành trình di sản miền
176
Trung: Huế - Hội An - Mỹ Sơn, bên cạnh các di tích, danh lam thắng cảnh, lễ hội
nổi tiếng trong và ngoài nước. Chính quyền địa phương cần nghiên cứu đưa các
làng nghề, cơ sở sản xuất thủ công truyền thống vào tuyến điểm du lịch như đang
thực hiện tại làng đá Non Nước, mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà. Với cách thực
hiện này, hình ảnh các các làng nghề, cơ sở sản xuất sẽ được biết đến rộng rãi, các
sản phẩm làm ra hướng đến mục tiêu phục vụ du lịch (nghề làm lồng đèn Hội An rất
thành công với mô hình này). Các công ty du lịch xây dựng các city tour, xây dựng
các tour du lịch làng nghề, tổ chức các hoạt động lễ hội, giao lưu, sinh hoạt tại làng
nghề... Như vậy, các làng nghề sẽ mang một sức sống mới, sản phẩm có điều kiện
tiêu thụ, mang lại nguồn thu, giúp các cơ sở sản xuất có điều kiện thu hồi vốn. Các
trường dạy nghề, các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học tổ chức
cho sinh viên nhất là sinh viên khối ngành văn hóa, du lịch, xã hội nhân văn thực
hiện các chuyến đi thực tế, tìm hiểu, nghiên cứu về các nghề và làng nghề thủ công
truyền thống. Một mặt giúp cho sinh viên có góc nhìn đa chiều về các nghề và làng
nghề thủ công truyền thống, một mặt góp phần quảng bá hiệu quả về hình ảnh các
nghề, làng nghề.
Sự liên kết, phối hợp giữa các địa phương: Các tỉnh thành cần có chương
trình phối hợp, liên kết với nhau trong việc khôi phục và phát triển các nghề thủ
công truyền thống. Một mặt sẽ trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau, mặt khác sẽ
cùng tìm ra hướng giải quyết về nguyên liệu, đầu ra của sản phẩm, cùng xây dựng
các điểm tham quan du lịch trong các tour du lịch.... Các nghề và làng nghề giữa các
địa phương sẽ tạo nên một mạng lưới rộng khắp, cùng tồn tại và phát triển trong bối
cảnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra ngày càng sâu rộng, thủ công
nghiệp đối diện với muôn vàng khó khăn.
Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường: Cùng với quá trình đô thị hóa, sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội, dân cư tập trung đông đúc, các cơ sở sản xuất thủ
công phải có biện pháp để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến
an sinh xã hội. Các làng nghề, cơ sở sản xuất gặp khó khăn về nguyên liệu do ảnh
hưởng đến môi trường như làng thủ công mỹ nghệ Non Nước không thể tiếp tục
khai thác đá cẩm thạch ở núi Ngũ Hành Sơn, nghề làm mộc không thể khai thác
nguồn gỗ lâu năm như trước đây... Điều này đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp
177
hữu hiệu vừa đảm bảo giúp các làng nghề có nguồn nguyên liệu vừa phải đảm bảo
bảo vệ môi trường, giữ gìn an sinh xã hội.
Có sự cân đối giữa phát triển kinh tế và gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền
thống: Thủ công nghiệp lưu giữ nét đẹp truyền thống được kết tinh từ bao đời. Vì
vậy, cùng với việc đầu tư, phát triển các nghề và làng nghề thủ công với tư cách là
một ngành kinh tế trong cơ cấu kinh tế song song với việc gìn giữ những nét đẹp
trong dấu ấn văn hóa. Không để việc phát triển kinh tế làm mất đi những nét đẹp
văn hóa. Những nét đẹp văn hóa sẽ làm tăng thêm giá trị sản phẩm thủ công nghiệp,
làm cho các sản phẩm này có hồn, thực sự là công trình nghệ thuật với sự tận tâm
của bàn tay khối óc người nghệ nhân.
Xây dựng bảo tàng làng nghề: Quảng Nam – Đà Nẵng là vùng đất mà thủ
công nghiệp đạt được thành tựu lớn qua các thời kỳ và được mệnh danh “xứ trăm
nghề”. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có được một bảo tàng, nhà truyền thống hay
nhà lưu niệm, nhà trưng bày về thủ công nghiệp so với một chặng đường hình thành
và phát triển, đóng góp to lớn của thủ công nghiệp vào sự phát triển của địa phương
cũng như của cả nước. Vì vậy, nhà nước cần nhanh chóng đầu tư xây dựng một bảo
tàng, nhà truyền thống hay nhà lưu niệm, nhà trưng bày về thủ công nghiệp. Nơi
đây sẽ là nơi tập trung quy tụ những công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp của
vùng đất này, trưng bày những hình ảnh, những sản phẩm, những thành tựu về thủ
công nghiệp và nơi đây cũng sẽ trở thành một trong những điểm du lịch. Làm được
điều này, chúng ta sẽ có điều kiện tập trung những nghiên cứu, có được nguồn tư
liệu dồi dào về thủ công nghiệp của vùng đất này, giúp cho du khách, người dân
nhất là thế hệ trẻ có cái nhìn tổng quan, đa chiều về sự phát triển của thủ công
nghiệp địa phương qua những chặng đường lịch sử. Qua đó, góp phần gìn giữ nét
đẹp tinh anh của văn hóa làng nghề, giáo dục thế hệ trẻ tiếp tục gắn bó với thủ công
nghiệp vốn giàu truyền thống và đượm chất nhân văn. Nếu không thực hiện được
điều này, với những khó khăn hiện nay của thủ công nghiệp, dần dần những thành
tựu rực rỡ được chắt chiu qua bao đời sẽ mai một, lụi tàn và đến một lúc nào đó
tuân thủ theo quy luật nghiệp ngã sẽ trở thành “ăn mày dĩ vãng”. Lúc đó, dù có cố
gắng, tập đầu tư, làm nhiều cách vẫn sẽ không thể nào khôi phục được như những gì
thủ công nghiệp đã tồn tại, đóng góp và chúng ta mãi mãi có tội với lịch sử.
Bàn về giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở Quảng Nam, Báo Quảng Nam
178
cuối tuần số ra ngày 08 và 09/4/2017 trích dẫn ý kiến của bà Saeko Noda – chuyên
gia kinh tế cộng đồng của tổ chức cứu trợ - phát triển quốc tế (FIDR): “Ưu tiên hỗ
trợ những kênh vốn vay ưu đãi để những hợp tác xã, chủ cơ sở đầu tư mua sắm
trang thiết bị, máy móc hiện đại và mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng
suất chất lượng sản phẩm”, “cần tích cực hỗ trợ các đơn vị, cá nhân ở các làng
nghề trong việc định hướng thông tin thị trường, xây dựng thương hiệu, đẩy mạnh
việc liên doanh, liên kết để tạo đầu ra ổn định sản phẩm”, “hết sức quan tâm đến
việc phát triển ngành du lịch theo hướng gắn kết chặt chẽ với các làng nghề nhằm
đưa những sản phẩm của làng nghề đến tay du khách”.
179
KẾT LUẬN
1. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng (1802 - 1945) có bước chuyển
biến so với thời kỳ trước. Sự hình thành và phát triển các đô thị, các thị trấn, các
trung tâm hành chính, kinh tế, quân sự, hệ thống chợ, sự mở mang về giao thông...
đã thúc đẩy sự gia tăng của các nghề và làng nghề, các làng nghề thủ công nối liền
với các trung tâm, đô thị, thị trấn, một số nghề mới ra đời, kỹ thuật được cải tiến,
chất lượng sản phẩm được nâng cao, sự xuất hiện các nhân tố mới theo phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cùng với đó, những chuyển biến về mặt kinh tế, chính
trị, xã hội, nhu cầu trong đời sống, sinh hoạt và sản xuất của con người, những phát
sinh từ sự thay đổi của bộ mặt kinh tế xã hội, sự mở rộng thị trường trong và ngoài
nước... đã tạo nên diện mạo mới của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng thời
kỳ này.
2. Quá trình hình thành và phát triển: “Thủ công nghiệp là từ nông nghiệp mà
ra, và có thể nói thủ công nghiệp là nền sản xuất trung gian giữa nông nghiệp và
công nghiệp. Vì là trung gian nên còn mang nặng tính chất nông nghiệp mà đồng
thời cũng đã có nhiều tính chất công nghiệp” [58, tr. 17, 18].
Đa số, các nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng được hình thành trong
quá trình tụ cư của người Việt tại mảnh đất này vào đầu thế kỷ XVI và có nguồn
gốc từ phía Bắc truyền vào nên quá trình hình thành và phát triển của các nghề
thủ công ở Quảng Nam - Đà Nẵng muộn hơn so với các nơi khác trong cả nước.
Mặc dù thời gian hình thành muộn nhưng các nghề truyền thống với những sản
phẩm đặc biệt thể hiện tài năng sáng tạo của nghệ nhân trên mảnh đất này đã
sớm tạo được dấu ấn sâu sắc trong nền kinh tế - xã hội và văn hóa của địa
phương cũng như cả nước.
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên của địa phương, một số nghề thủ công đã ra
đời: Nghề làm muối Nại Hiên khởi nguồn từ việc cư dân nơi đây dựa vào sự lên
xuống của nước biển đã tạo nên các ruộng muối; cư dân làng Nam Ô dựa vào nguồn
cá phong phú của vùng biển, đã khai thác và chế biến, tinh chế nên sản phẩm nổi
tiếng hay với nguồn đá cẩm thạch sẵn có ở núi Ngũ Hành Sơn, nhân dân làng Quán
Khái Đông đã phát triển nghề điêu khắc đá mỹ nghệ. Đây là những nghề đã tạo nên
nét đặc trưng của vùng đất giàu truyền thống này.
180
Cùng với sự phát triển của đời sống, nhu cầu của con người ngày càng tăng,
sự phát triển của các đô thị cùng với nền sản xuất hàng hóa đã làm cho nhiều sản
phẩm làng nghề không chỉ đáp ứng nhu tự cung, tự cấp mà nó đã trở thành hàng hóa
để trao đổi, mang lại lợi ích về mặt kinh tế cho người dân. Với nguồn thu nhập ngày
càng cao, thủ công nghiệp đã trở thành một ngành kinh tế trong cơ cấu kinh tế của
địa phương.
3. Cấu trúc của thủ công nghiệp: Cấu trúc thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà
Nẵng trước và sau khi Pháp xâm lược về cơ bản không có sự khác biệt. Thủ công
nghiệp bao gồm thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp dân gian. Pháp xâm
lược không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thủ công nghiệp. Không những
vậy, thời Pháp thuộc, thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng có những bước phát
triển mới, đạt được những thành tựu so với thời kỳ trước: sự phát triển của các
nghề, làng nghề, sự tham gia của máy móc, của nguyên vật liệu mới, sản xuất
chuyển từ thủ công thô sơ mang tính tự cung tự cấp sang sảng xuất hàng hóa, sự
xuất hiện của nhân tố sản xuất tư bản chủ nghĩa...
4. Tổ chức sản xuất: Các nghề thủ công đã có mặt hầu khắp trong các làng
xã, ban đầu, quy mô nhỏ, tự phát, mang tính gia đình, không có sự kết hợp, tổ chức
thành các đội, các xưởng thủ công nên hiệu quả không cao. Tính gia đình thể hiện
nhân công thực hiện không phải là nhân công thuê mướn, mà là nhân công ngay
trong các hộ gia đình “mỗi gia đình thợ thủ công là một đơn vị sản xuất, nhà ở
của gia đình người thợ vừa là xưởng chế tạo, vừa là cửa hàng. Trong đó, người
làm việc là bà con đặt dưới quyền của người gia trưởng” [5, tr. 172]. Tuy nhiên,
ở một số làng nghề như Kim Bồng, Thanh Hà, Non Nước, Phước Kiều, những
người thợ cả thuê người làm và thợ học nghề, để phụ giúp trong việc sản xuất:
“Ở những nơi đây, trường hợp thuê mướn nhân công rất phổ biến và nghề thủ
công không còn là thuần túy công nghệ gia đình nữa” [17, tr. 111].
Cùng với sự phát triển, nhiều nghề thủ công nổi tiếng đã phát triển thành làng
nghề chuyên nghiệp, quá trình tổ chức sản xuất quy mô, quy cũ, chặt chẽ hơn song
cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ phường, hội, chưa trở thành công xưởng. Phường,
hội có thể là một đơn vị hành chính về mặt thuế khóa. Phường, hội còn là một tổ
chức mang tính tôn giáo và tương tế, cùng thờ tổ nghề, cùng làm lễ giỗ tổ sư, đóng
góp tiền để giúp đỡ hội viên trong những dịp cưới gả, ma chay. Đặc biệt, phường,
181
hội mang tính kỹ thuật. Đây là những nhóm thợ chuyên môn, hiệp lại dưới sự điều
khiển của người thợ cả là người nắm kỹ thuật thành thạo nhất và thay mặt nhóm để
giao nhận công việc, thương lượng giá cả, chi trả tiền công cho các thành viên trong
nhóm. Thời Pháp thuộc, tại một số làng nghề những nhân tố trong tổ chức sản xuất,
trong kinh doanh đã mang dấu ấn của một phương thức sản xuất mới – phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Việc tổ chức sản xuất còn liên quan đến việc nắm giữ “bí quyết nghề
nghiệp”. Có người thợ cả muốn nắm giữ nghề mình như một của riêng, là gia
truyền, không truyền cho người ngoài, chỉ dạy cho con cháu hay người trong họ là
cùng. Có làng giữ rất kín, chỉ truyền cho con trai, không truyền cho con gái chưa lấy
chồng hoặc lấy chồng làng khác. Điều này, làm cho các làng nghề với những bí
quyết riêng tạo ra những sản phẩm mang tính đặc trưng nhưng điểm hạn chế là bó
hẹp, không nhân rộng, thậm chí bị mai một khi người kế nghiệp không giỏi như
người truyền nghề.
5. Sản phẩm và tiêu thụ: Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với những
chuyển biến của tình hình kinh tế - xã hội, cùng với quá trình xuất cảng tư bản,
sự phát triển của ngoại thương, đã đưa sản phẩm của thủ công nghiệp mở rộng về
thị trường, không bó hẹp trong quan hệ nội thương mà đã trở thành hàng hóa
theo các thương thuyền đến với thị trường các nước trên thế giới. Sản phẩm của
các làng nghề nổi tiếng như chiếu Cẩm Nê, nước mắm Nam Ô, đá mỹ nghệ Non
Nước, mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, chiêng Phước Kiều, vải Mã Châu, vải Thi
Lai... đã có mặt trên thị trường rộng lớn hơn, thậm chí được xuất sang Pháp, và
một số nước lân cận mặc dù số lượng chưa thật nhiều.
Bên cạnh đó, chiếu Cẩm Nê đã làm “rực rỡ hoàng cung triều Nguyễn”,
những người thợ giỏi của làng Quán Khái Đông, làng mộc Kim Bồng, làng gốm
Thanh Hà... đã tham gia vào các công xưởng của triều đình nhà Nguyễn, góp phần
xây dựng nên kinh thành Huế, thương cảng Hội An - di sản của nhân loại.
182
CHÚ THÍCH
(1). Ngũ phụng tề phi: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Ngô Chuân,
Dương Hiển tiến. Tứ Hùng: Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,
Tiểu Lai. Tứ Hổ: Phạm Như Xương, Phạm Phú Thứ, Phạm Liệu, Trần Quý Cáp. Tứ
Tuyệt: Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Lê Bá Trinh.
(2). Theo Phủ biên tạp lục, làng Quán Khái xưa có tên là “Quán Khái Đông
Giáp và Quán Khái Tây Giáp, cả hai giáp này đều thuộc tổng Hà Khúc, huyện Hòa
Vang, xứ Quảng Nam” được hình thành vào đầu thế kỷ XVII [33, tr. 84]. Thông qua
các tư liệu thực địa, tư liệu thư tịch Hán – Nôm, các văn bia cho biết rằng danh
xưng “Quán Khái Xã” ra đời muộn nhất cũng vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII.
(3). Về mặt địa giới của làng: phía Bắc giáp Ngũ Hành Sơn (còn gọi là núi
Non Nước, Ngũ Uẩn Sơn), đây là cụm núi đá vôi gồm 5 ngọn là Kim Sơn (núi Đá
Chồng), Mộc Sơn (núi Mồng Gà), Thủy Sơn (núi Chùa), Hỏa Sơn (núi Ông Chài)
và Thổ Sơn (núi Ông Biền); Về phía Tây làng tiếp giáp với làng Quán Khái Tây
(nay là Phường Hòa Quý); phía Đông giáp với làng Tân Lưu và với biển Đông; phía
Nam giáp với các làng Tứ Câu, Cẩm Sa (nay thuộc xã Điện Nam và Điện Ngọc,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Trước thế kỷ XIX, có một dòng sông chảy
ngang qua địa phận của làng gọi là Lộ Cảnh Giang (sông Cổ Cò). Sông Cổ Cò
nối liền sông Hàn và sông Hội An. Trải qua thời gian, với nhiều lý do khác nhau,
sông Cổ Cò đã bị bồi lấp và đến nay chỉ còn lại một đoạn giống như kênh thủy
lợi, nối liền những đoạn sông ngắn, đoạn phía Tây Nam có tên là Bãi Chài, đoạn
phía Tây Bắc gọi là Ba Chà. Khi sông Cổ Cò còn rộng và sâu, làng Quán Khái
nằm ở vị trí đặc biệt thuận lợi: ven biển lại ven sông, bên bến Hóa Khê nổi tiếng,
trên con đường tắt từ cửa Hàn đến cửa Đại Chiêm, là con đường chính cho hoạt
động thương mại từ Đà Nẵng đến Hội An.
(4). Đá ở núi Nhồi (Đông Sơn- Thanh Hóa) chủ yếu là đá xanh cứng, hay đá
Ninh Bình rất rắn, ít màu sắc, còn đá ở Ngũ Hành Sơn là đá cẩm thạch có nhiều
màu sắc, hoa văn đẹp như màu đỏ, đen, trắng, kết cấu mịn, mềm nên dễ đục. Cũng
không như các mỏ đá quý khác nằm sâu trong lòng núi hoặc bị kẹp giữa các mạch
đá lớn của một vùng núi non hiểm trở, đá ở Ngũ Hành sơn chủ yếu là đá lộ thiên
nên thuận lợi cho việc khai thác và chế tác tại chỗ. Chính nguồn đá cẩm thạch quý
183
này là cơ sở quyết định cho việc ra đời, phát triển qua nhiều thăng trầm, biến động
của thời gian để tồn tại trở thành một trong những làng đá nổi tiếng của nước ta.
(5). Bia chùa ghi lại rằng: Hội chủ Lê Cao Trí, pháp danh Chơn Thuyên và
bà Nguyễn Thị Diệp, hiệu Diệu Huệ có ruộng tư mua được từ hai xứ Sa Khố và
Suối Giữa thuộc xã La Đái được 5 mẫu, 4 sào, 8 thước đem cúng chùa làm ruộng
tam bảo. Quan viên và toàn dân xã Ái Nghĩa có 3 mẫu ruộng công tại xã Thi Lân,
cùng với đất thổ cư bên trong vườn chùa là 3 sào dâng làm của Tam bảo.
(6). Cá cơm than là loại cá có đường sọc đen chạy dọc hai bên thân và ruột
màu đen. Tháng ba âm lịch hằng năm là mùa đánh bắt cá cơm than, thời điểm này
còn tiết xuân, cá chưa bị nước chế (tức là chưa bị nước lụt từ thượng nguồn sông
nước ngọt chảy ra biển), con cá theo đàn xuôi dọc theo hướng hạ lưu miền Trung
trong vịnh Đà Nẵng ngoài khơi hòn đảo Chổ hoặc Mũi Bấc, Mũi Nghê, thuộc làng
Tân Thái (Mỹ Khê - Đà Nẵng), có đàn lại vào trong Cửa Đại (Hội An). Cá cơm than
ở trong vịnh Đà Nẵng kể từ tháng 3 âm lịch cho đến tháng 8 âm lịch. Những tháng
ấy dân làng đi bắt về để làm nước mắm, gọi là nước mắm cá cơm tháng ba. Cuối
tháng 5 âm lịch cá lại bắt đầu đổi hướng theo dòng nước lên tới miệt Huế, Thuận
An, Tư Hiền, sau đó đi ra tận miền Bắc. Đến tháng 8 âm lịch, cá cơm than trở lại
vịnh Đà Nẵng, lần này có cả thảy 3 loại cá cơm lẫn lộn, cơm than, cơm đỏ (ruột
màu đỏ), cơm sùng (ruột tựa cá rầu). Dân làng xuôi ghe ra bắt đem về làm mắm, đó
là mắm cá cơm tháng 8, nước mắm này không ngon và ít mùi thơm hơn nước mắm
cá cơm tháng 3.
Hòn Chổ (hòn đảo nhỏ nằm một mình) và những địa danh quanh hòn núi
Chổ: Sũng Bàn, Mũi Dứa, Giếng Nước… là những nơi có nhiều cá cơm than. Theo
truyền thuyết ông bà kể lại, con cá cơm than di chuyển dọc theo bờ biển Việt Nam từ
Nam đến Bắc. Từ tháng giêng âm lịch cá cơm than đi từ miệt Cà Mau chạy theo dòng
nước đến Phan Thiết, Mũi Né, thuộc tỉnh Bình Thuận, ở đây dân làng làm nghề biển
cũng bắt được cá cơm than đem về làm mắm gọi là nước mắm cá cơm Phan Thiết.
(7). Thiền sư Dương Không Lộ xuất thân bằng nghề đánh cá, ông đã sớm
theo học đạo đến tu tại chùa Keo (tỉnh Thái Bình) và hành đạo ở nhiều nơi. Không
những là vị sư thông tuệ kinh Phật mà ông còn có pháp thuật cao cường, có thể
dùng tay moi được đồng trong lòng đất để chế tạo vũ khí trừ gian diệt bạo và chế tác
thành các vật dụng khác theo nhu cầu cuộc sổng. Hằng ngày ông đi khắp nơi chữa
184
bệnh cho nhân dân và quyên góp đồng để đúc chuông cho các ngôi chùa. Trong dân
gian kể rằng: Một ngày kia ông sang tận Trung Quốc để chữa bệnh cho Thái tử khỏi
chứng nan y. Cảm kích trước tài năng của ông, Hoàng đế Trung Hoa đã ban thưởng
cho ông rất nhiều vàng bạc nhưng ông từ chối và chỉ muốn xin đồng. Nhà vua
đồng ý cho ông vào kho muốn lấy bao nhiêu tùy ý. Ông đã thu vào túi ba gang
của ông mười kho đồng mà vẫn chưa đầy, không có ghe thuyền nào có thể chờ
nổi. Ông bèn lật cái nón đang đội thả xuống biển làm thuyền, ung dung vượt
trùng dương về cố hương. Tương truyền rằng, ông mang đồng về góp vào đúc
chuông, tạo nên tứ đại khí của nước ta. Tại làng Phước Kiều bà con truyền tụng
danh xưng ông là Đức thánh:
“Nam mô Không lộ Như Lai
Giáng sinh triều Lý đương thời thải minh”;
“Túi đồng đã quảy về Nam
Đúc nên tứ khí để làm chân tâm”
Hằng năm, vào ngày 20 tháng Giêng, con cháu làng nghề dù sinh sống nơi
đâu cũng tìm về dự ngày giỗ tổ, bày tỏ lòng thành kính của mình đối với tổ nghề.
Nhà thờ tổ được xây dựng từ lâu đã được tu bổ nhiều lần và vẫn giữ nguyên bản bàn
thờ cổ. Bàn thờ chính diện có bài vị “Cửu Thiên Huyền nữ” là người làm ra thước
đo làm nghề, bài vị “Không Lộ giác hỷ” là người đầu tiên pha nấu đồng, bài vị
“Lịch đợi bổn tổ sư” là ông thầy dạy nghề. Hai bàn thờ hai bên, mỗi bàn 5 bài vị thờ
mười tộc họ nghề đúc đồng Phước Kiều. Ngày trước, các tộc họ cùng nhau mua ba
mẫu ruộng gọi là “tam bảo tự ”, giao luân phiên nhau canh tác thu hoạch lợi để giỗ
tổ hằng năm. Lễ giỗ tổ là ngày thiêng liêng nhất, kéo dài đến hai ngày hai đêm,
đông vui đầm ấm không kém lễ hội kỳ yên ở đình làng. Trong ngày này, các tộc họ
chọn đưa các sản phẩm độc đáo để trình nghề như một cuộc sát hạch kỹ thuật tay
nghề và có khen thưởng. Các ngả đường làng và nhà thờ treo cờ, phướn; riêng lá cờ
làng nghề hình vuông khổ lớn, màu vàng, viên đỏ tượng trưng cho sự trường tồn
của vũ trụ của nghề đúc đồng tung bay trước nhà thờ tổ, cùng với chiêng, trống,
kèn, nhị tấu nhạc và xướng hát ca ngợi công đức tổ tiên. Đặc biệt, hiện vật cổ xưa
nhất mà dân làng còn giữ được là chuông đại hồng chung nặng 45 kg, cao gần một
mét, đúc từ năm 1858, vào đời vua Tự Đức năm thứ XI. Những hàng chữ Hán trên
chuông ghi “Phước Kiều thôn, bổn thôn bổn cuộc, đồng chế tạo”, về niên đại, đó là
185
“Tự Đức thập nhất niên lục nguyệt kiết nhựt”. Như vậy, ngôi nhà thờ tổ được xây
dựng ít ra cũng trước năm 1858. Tộc họ Dương được giao cất giữ chiếc đại hồng
chung, do ông tổ làng nghề đúc năm 1858, niên hiệu Tự Đức thứ XI, vật gia bảo
này được chế tác rất kỹ thuật, các đường nét hoa văn, chữ khắc, đầu rồng, quay treo
đều sắc sảo, đem ra nhà thờ gióng tiếng trong tế lễ, xong lễ đem về cất giữ đề năm
sau lại lấy ra cho con cháu nhìn thấy vả nghe tiếng tổ tiên.
(8). Theo sách Ô Châu cận lục do Dương Văn An nhuận sắc, huyện Điện
Bàn lúc bấy giờ có 66 làng, trong đó có 12 làng thuộc địa phận của Đà Nẵng ngày
nay [1, tr, 38, 39]. Trong số 12 làng đó ta thấy không có tên làng “Cẩm Nê”, mà chỉ
thấy có tên làng “Kim Nê”. Theo Phủ biên tạp lục, huyện Hòa Vang bao gồm 3 tổng
với 57 xã, ty và giáp. Theo đó, tổng Lệ Sơn gồm 21 xã trong đó có các làng “Cẩm
Toại”, “Cẩm Nê” [33, tr. 106]. Đối chiếu giữa hai tác phẩm trên đây ta thấy có sự
chuyển đổi tên gọi của các làng: “Kim Toại”, “Kim Nê” thành “Cẩm Toại”, “Cẩm
Nê”. Phải chăng “Kim Toại”,“Kim Nê” chính là “Cẩm Toại”, “Cẩm Nê”? Vì sao có
sự thay đổi như thế? Trong quá trình điền dã, tiếp xúc với các bậc cao niên trong
làng, chúng tôi được các cụ giải thích như sau: Thời phong kiến có tục “kỵ húy”,
kiêng gọi tên đối với những người thuộc dòng họ vua chúa. Do đó, khi Đoan Quận
công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Quảng Nam (1570), tất cả các địa danh có từ
“Kim” đều phải đổi vì trùng với tên của An Thành hầu Nguyễn Kim (cha Nguyễn
Hoàng) nên“Kim Toại”,“Kim Nê” đổi thành “Cẩm Toại”, “Cẩm Nê”. Như vậy, tên
gọi Cẩm Nê có sau khi Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Quảng Nam năm 1570.
(9). Thạch Bồ với nghĩa là loại cỏ dược liệu có hương thơm, đồng thời cũng
là tên làng Thạch Bồ ở ven sông.
(10). Tọa độ tại khu vực hạ lưu sông Yên là 15°59’42” vĩ độ Bắc và
108°09’45” kinh độ Đông. Sông Vu Gia từ Kon Tum khi chảy đến thị trấn Ái Nghĩa
(huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) thì có phân lưu là sông Quảng Huế chia nước đổ
vào sông Thu Bồn, còn sông Yên thì tách ra ở chỗ giáp ranh giữa xã Đại Hòa và Đại
Nghĩa chảy lên phía Bắc, qua các xã Đại Hiệp (huyện Đại Lộc), Điện Tiến và Điện
Hồng (huyện Điện Bàn), rồi chảy vào huyện Hòa Vang thuộc thành phố Đà Nẵng
qua các xã Hòa Khương, Hòa Phong và hợp lưu với sông Túy Loan ở xã Hòa Tiến,
tạo thành sông Cầu Đỏ.
186
(11). Sông Túy Loan bắt nguồn từ sườn phía Đông núi Bà Nà, dài chừng 30
km, chảy theo hướng Tây - Đông tạo thành sông Cầu Đỏ. Sông Cầu Đỏ chảy dài
qua địa phận huyện Hòa Vang đến các xã thuộc địa phận quận Cẩm Lệ gọi là sông
Cẩm Lệ trước khi làm thành sông Hàn và đổ ra biển.
(12). Xuất thân từ một gia đình khoa bảng, theo bước cha ông phò vua giúp
nước, ngài Ngô Quang Thành làm quan dưới hai triều Lê Nhân Tông và Lê Thánh
Tông đến chức Ngự sử điện tiền kiêm chức Đồng bình chương sự tại triều, được
phong tước Cai tổng Trấn Nghĩa hầu Ngô Quý Công năm Canh Dần (1470). Đến
năm Hồng Đức thứ hai (1471), Ngài theo vua Lê Thánh Tông giành thắng lợi trong
cuộc chinh phạt Champa, được phong làm Tổng trấn, ở lại cai quản đạo Quảng
Nam. Năm Tân Mão (1479), Ngài đi kinh lý vùng đất Tây Bắc đạo Quảng Nam, khi
đến đây nhìn thấy đất đai trù phú, ngài cùng Lê Thứ đội trưởng (Lê Văn Mưng) là
hai người đến đây đầu tiên, chiêu tập dân làm ăn, sinh cơ lập nghiệp.
(13). Tiếng tăm của nghề dệt chiếu Nga Sơn vốn đã nổi tiếng cả nước, còn ở
Hoằng Hóa có nghề dệt chiếu hay không? Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, ở
Hoằng Hóa dù không nổi tiếng bằng làng Nga Sơn, nhưng nghề dệt chiếu cói cũng
đã ra đời khá lâu: “ngoài nghề nông là chủ yếu, Hoằng Hóa là mảnh đất có nhiều
nghề tryền thống nổi tiếng… như dệt chiếu cói, bện thảm, bện thừng ở Xuân Vi
(Hoằng Thanh), Bằng Trì (Hoằng Phụ)” [12, tr. 14]. Đến nay, nghề này vẫn còn
khá phát triển, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thông
tin đăng tải tại trang thông tin điện tử của huyện Hoằng Hóa vào ngày 4/5/2011
nhấn mạnh: “bên cạnh đó, huyện còn mở thêm nghề dệt thảm, chiếu cói vì mặt hàng
này có thị trường tương đối ổn định, có khả năng chiếm tỷ trọng tới 10%”.
(14). Theo gia phả tộc Phan (gốc làng Đà Sơn), ông Phan Công Thiên lập làng
Đà Sơn thế kỷ XIV, ông Phan Thế Khanh thuộc đời thứ bảy. Gia phả tộc Phan chép
rằng “ông Phan Thế Khanh năm Quang Thuận thứ tư (1463) khai khẩn năm xứ Đồng
Rau lập xã Cẩm Nê, bảy xứ Đồng Quang lập xã Cẩm Toại”.
(15). Về địa giới hành chính, phía Tây tiếp giáp sông Cầu Chìm (một đoạn
của sông Bà Rén, vì ở đoạn sông này có cây cầu Chìm bắt qua sông nên gọi như
vậy), bên kia sông là Ngũ xã Trà Kiệu. Phía Đông - Nam giáp làng Mâu Hoà cũng
cách nhau ở nhánh thượng lưu sông Bà Rén. Phía Bắc tiếp giáp với làng Trung
Lương (thôn Xuyên Tây 1) lấy đường gianh giới là con đường tỉnh lộ 610 (chạy từ
187
Bàn Thạch đến Mỹ Sơn). Mã Châu nằm ở phía đỉnh tam giác đồng bằng châu thổ
Duy Xuyên, nơi chia dòng giữa hai con sông Thu Bồn và Bà Rén.
Làng Mã Châu có tổng diện tích đất tự nhiên là 126 ha, trong đó diện tích đất
nông nghiệp là 46 ha, diện tích đất thổ cư là 43 ha, phần còn lại là diện tích ao hồ,
sông suối và đất bồi ở ven sông. Mã Châu với vị trí sát sông Bà Rén nên có thuận lợi
chủ động được nước tưới, việc nông tang ít phải phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết.
Người Việt vào đây đã kết hợp hệ thống thuỷ lợi của người Việt và người Chăm để
đưa nước vào đồng ruộng. Họ đặt ở sông những guồng quay nước dùng sức trâu
hoặc sức người kéo, đưa nước từ kênh mương vào chứa ở những ao chứa nước được
đào ở góc đầu mỗi thửa ruộng và sau đó người ta dùng gàu tre để tát nước vào
ruộng. Hệ thống kênh mương ở đây có từ rất sớm, nước trời là một nguồn nước
quan trọng nhưng không phải là chủ yếu.
(16). Chuyện kể rằng: vào một đêm trăng đẹp (năm 1615), Thái bảo quận
công Nguyễn Phúc Nguyên lúc đó đang trấn giữ Quảng Nam, cùng con là Thế tử
Nhơn Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan dạo thuyền trên sông Thu Bồn, khi thuyền rồng
ngược dòng sông từ Thanh Chiêm đến địa phận làng Chiêm Sơn, thuộc huyện Diên
Phước nổi tiếng trồng dâu, ươm tơ, dệt lụa thì một giọng hát trong ngần quyến rũ
của một có thôn nữ từ một nương dâu bên bờ sông vọng tới:
“Thiếp nghe Chúa ngự thuyền rồng
Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa”
Một lát sau cũng giong hát đó lại cất lên thanh trong, mượt mà nghe da diết
làm sao:
“Thuyền rồng Chúa ngự nơi đâu?
Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình”
Đại Nam liệt truyện tiền biên đã viết về người thục nữ đó rằng: “đó là con gái
thứ ba của Thạch quận công Đoàn Công Nhạc, mẹ là phu nhân Võ Thị. Bà là người
minh mẫn, thông sáng, tú mỵ, phép tốt trinh thuần” [33, tr. 337].
(17). Chiêm Sơn, Gò Nổi đều là những nơi có nghề dệt nổi tiếng thuộc huyện
Duy Xuyên, huyện Điện Bàn. Đến năm 1635, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên băng
hà, Nhân Lộc hầu Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng. Bà Đoàn Thị Ngọc Phi
được Chúa Thượng phong tước là Đoàn Quý Phi và thân phụ của Bà là Đoàn Công
Nhạc cũng được phong tuớc là Thạch Quận công. Lúc bấy giờ bà dốc lòng khuyến
188
khích nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ. dệt lụa ờ Phú Xuân. Đoàn Quý phi sinh hạ
được ba hoàng tử, các hoàng tử đều mất sớm, chỉ hoàng từ thứ hai là Nguyễn Phúc
Tần trở thành Thế tử và út nữ là Nguyễn Phúc Ngọc Dung trở thành công chúa. Thế
tử Nguyễn Phúc Tần về sau trở thành Chúa Hiền. Đoàn Quý phi mất ngày 17 tháng
5 năm Tân Sửu (tức ngày 22.7.1661), thọ 60 tuổi. Sau khi Bà qua đời, Chúa Hiền đã
đua mẫu hậu về an táng tại quê hương Bà tại Gò Hùng, làng Chiêm Sơn, xã Duy
Trinh, huyện Duy Xuyên, xây lăng Vĩnh Diện, mộ phần của Hiếu Chiêu Hoàng hậu
Đoàn Thị Ngọc Phi (1601 - 1661), nhân dân địa phương quen gọi là Lăng Trên, được
đặt tên vào năm Gia Long thứ V, tức năm 1806 và được tu bổ vào năm Gia Long thứ
XIII, tức năm 1814. Ở giữa lăng là mộ của Hiếu Chiêu Hoàng hậu Đoàn Thị Ngọc Phi
và may mắn thay đến nay vẫn còn nguyên vẹn theo kiểu kiến trúc cổ xưa.
Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, đến năm 1741, Thế tôn Hiếu Võ hoàng
đế, tức Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã truy tặng Bà Đoàn Quý Phi là Trinh Thục
Từ Tĩnh Huệ Phi và sau đó thêm hai chữ Mầu Duệ. Vua Gia Long, sau khi lên ngôi,
năm 1806, lại truy tôn Bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mầu Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng
hậu và khắc tên lên danh sách vàng của Hoàng tộc thờ phụng tại Thái Miếu.
Để tỏ lòng biết ơn công đức của Bà Chúa Tàm Tang đã có công phát triển
nghề trồng dâu nuôi tằm ở trấn Quảng Nam vào thế kỷ thứ XVII, hậu duệ họ Đoàn
đã dựng nhà thờ, thờ Bà toạ lạc trên đất thuộc xã Điện Phương hiện nay. Hằng năm,
bà con họ Đoàn cũng như Nguyền Phước tộc tổ chức ngày giỗ của Bà long trọng
vào ngày 17 thánh 5 âm lịch.
Công đức và thiên tình sử diễm tình cùa Đoàn Quý Phi và sự ra đời nghề dệt
cố truyền tại Quảng Nam được truyền tụng và phát triển ngày càng đa dạng.
(18). Ông Nguyễn Chất còn phục chế, chế tác tượng Chăm theo nguyên mẫu
các tượng trưng bày tại bảo tàng điêu khắc Chăm: những tượng thần Siva, nữ thần
Laskmi cùng hàng ngàn mẫu mã sản phẩm như tượng Phật, tượng thiếu nữ, chim
thú, cây cảnh, vòng đeo tay, chuỗi hạt, bộ bàn ghế, bia mộ, chén đĩa mỹ nghệ đến
chạm khắc chân dung đá đủ màu, đủ kích cỡ đã làm ngẩn ngơ du khách và người
tiêu dùng.
(19). Người dân làng Xuân Dương từ bao dời vẫn truyền tụng câu chuyện
rằng: khi Trần Khắc Chung đưa Huyền Trân Công Chúa trở về đất Đại Việt, lúc đến
được làng Xuân Dương thì quân Chiêm đuổi kịp. Tại đây nhiều người lính của
189
Khắc Chung liều chết cản đường cho hai người chạy thoát, nên họ bị giết rất nhiều,
trong đó có cả vị tướng chỉ huy dưới quyền Trần Khắc Chung. Sự hy sinh của anh
hùng sử cũ không ghi tên tuổi, dù khuyết danh nhưng nhân dân trong vùng vẫn thờ
cúng hàng trăm năm qua. Ông cũng chính là người được dân làng Xuân Dương và
Nam Ô xem như là tiền hiền của làng mình.
(20). Tư liệu này, chúng tôi trích dẫn lại theo cung cấp của Ban Tuyên giáo
Quận ủy Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
(21). Năm 2008, tộc Nguyễn Văn làng Yến Nê đã ra Thanh Hóa và đối
chiếu tư liệu gốc với tộc Nguyễn Văn làng Gia Miêu. Sau khi đối chiếu gia phả, đã
đi đến kết luận: ông Nguyễn Văn Tráng là ông nội bác của chúa Nguyễn Hoàng.
Năm 61 tuổi theo phò trợ chúa Nguyễn Hoàng (25 tuổi) vào Nam mở mang bờ
cõi. Nhờ có nhiều công lao, năm 1805 được Hoàng đế Gia Long truy tặng và
phong chức Thống chưởng phủ sự, tước Dương Oai Hầu, Chánh vị tiền hiền làng
Yến Nê. Cả 2 sắc chỉ của Hoàng đế Gia Long và của Hoàng đế Thiệu Trị ban cho
ông Nguyễn Văn Tráng đang được lưu giữ tại gia tộc đã được Trung tâm phục vụ
đối ngoại thành phố Đà Nẵng dịch: “Trước đây phụng thờ vị thần là tiền hiền
Nguyễn Văn Tráng. Truy phong cho là Thống chưởng phủ sự, tước Dương Oai
Hầu”. Tại gia phả (trang thứ 7) được dịch “Đoan quận công Nguyễn Hoàng (chúa
Tiên) phong cho Đức Tráng là Thượng Phụ Thái sư”.
Với những tài liệu đang được lưu giữ tại tộc Nguyễn Văn làng Yến Nê cùng
với những biên bản đã được đại diện tộc Nguyễn Văn làng Gia Miêu và Yến Nê xác
lập ngày 11-4-2008 cho thấy: Tộc Nguyễn Văn tại Yến Nê có nguồn gốc từ Gia
Miêu và ông tổ của họ đã có công giúp chúa Nguyễn Hoàng mở mang bờ cõi.
(22). Công trường Con Gà tọa lạc trước đồn Khố Xanh, giới hạn bởi bốn
đường Đồng Khánh, guillemin (Nguyễn Tri Phương), Guyemer (Phạm Hồng Thái)
và Galliénie (Yên Bái). Một đường chữ T chia khu này thành ba ô, trồng cây cao
bóng mát, ở chính giữa là một đài kỷ niệm lính Việt tòng chinh qua Pháp và tử trận
trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trên đỉnh đài là con gà bằng đồng, đó là Coq
Gaulois, biểu tượng của nước Pháp. Đài Con Gà được xây dựng khoảng năm 1920
bằng chất đá cẩm thạch Non Nước. Năm 1945, con gà bị phá, năm 1957 công
trường này trở thành chợ Diên Hồng và bến xe Sơn Trà, Non Nước.
190
(23). Công trường Pièrre Loti được lập ở đường Edouard de l’ Hortet (đường
Khải Định trước đây).
(24). Theo tư liệu do nhà nghiên cứu Võ Văn Hòe cung cấp thì: vào khoảng
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở Nam Ô có hai gia đình muối cá có tiếng nhiều và
ngon là gia đình bà Tú Lâm và gia đình ông Đốc Núc. Họ cũng là gia đình giàu có
khét tiếng quanh vùng. Bà Tú Lâm là vợ ông Phạm Sĩ Lâm, một người vốn học
giỏi, đỗ tú tài nên gọi là Tú Lâm. Lúc bấy giờ ở Xuân Thiều có ông bà Thừa Văn,
họ Mai là gia đình giàu có ít ai sánh bằng “Ve ve bắt vè Thừa Văn/ Trong nhà gà
chọi mun săn/ Ruộng trâu ấp bộ gần bằng của vua”. Ông bà Thừa Văn dùng tiền
đút lót cho Pháp để chiếm ruộng đất do dân làng khai phá nhưng chưa vô bộ điền,
chưa được chính quyền chứng nhận. Thấy nguy cơ mất đất, dân làng nhờ ông Tú
Lâm ra triều đình Huế kêu kiện.
Lúc ra kinh đô ông đã làm quen với bà Tôn Nữ Thị Huyền và lấy làm vợ hai.
Còn vụ kiện trên thì triều đình phân xử dân làng thắng. Lúc về làm dâu nhà họ
Phạm, thấy dân địa phương muối mắm ngon, bà nảy ra ý định học hỏi làm theo, bà
lập kho mắm lớn chứa lần mấy trăm kiệu, thuê hẳn người vừa giữ kho, vừa lọc
mắm. Cuối năm là thời điểm thị trường có nhu cầu lớn, bà cho lọc mắm và chở đi
khắp nơi để bán.
(25). “Ô” là làng Nam Ô, “Long” là rồng, chắc hẳn bà muốn thương hiệu
nước mắm của mình thăng tiến, phát triển mạnh.
191
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Dương Văn An (Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính) (2009), Ô Châu cận lục,
NXB Giáo dục Việt Nam, HN.
2. Đào Duy Anh (1996), Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Thuận Hóa, H.
3. Lê Duy Anh, Lê Hoàng Vinh (2004), Lần giở lịch sử - văn hóa miền Thuận
Quảng, NXB ĐN.
4. Lê Duy Anh, Lê Hoàng Vinh (2006), Lược sử Đà Nẵng 700 năm (1306-2006),
NXB ĐN.
5. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, NXB Văn Học, HN.
6. Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, NXB Lửa thiêng, SG.
7. Toan Ánh (2005), Làng xóm Việt Nam, NXB Trẻ, Tp HCM.
8. Huỳnh Công Bá (1991), “Bài Văn bia chùa Phổ Khánh”, Tạp chí Hán Nôm,
(11), tr. 93.
9. Huỳnh Công Bá (1996), “Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở Bắc
Quảng Nam thế kỷ XV, XVI”, luận án Tiến sĩ sử học, Trường ĐHSP –
ĐHQG HN.
10. Huỳnh Công Bá (2001), Lịch sử Việt Nam cổ trung đại, NXB Thuận Hóa, H.
11. Huỳnh Công Bá (2006), “Trên nền văn hóa Quảng Nam và văn hóa dân tộc,
hội nhập văn hóa thời đại để phát triển”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Văn hóa
Đà Nẵng hội nhập và phát triển”, Sở Văn hóa Thông tin Đà Nẵng.
12. Ban Chấp hành Đảng bộ và UBND huyện Hoằng Hóa (1995), Lịch sử Đảng bộ
và phong trào cách mạng của nhân dân Hoằng Hóa (1930-1945), Thanh Hóa.
13. Đỗ Bang (1996), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB Thuận
Hóa, H.
14. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII - XVIII, NXB Thuận
Hóa, H.
15. Dương Thị Ngọc Bích (2014), “Làng nghề điêu khắc đá Non Nước tại Phường
Hòa Hải, Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng (truyền thống và biến
đổi)”, luận án Tiến sĩ Nhân học Văn hóa, Viện KHXH, HN.
192
16. Phan Gia Bền (1958), “Tư bản Pháp với thủ công nghiệp Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn Sử Địa, tr. 18-33.
17. Phan Gia Bền (1957), Sơ thảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam,
NXB Văn Sử Địa, HN.
18. Cao Văn Biền (1998), Công nghiệp than Việt Nam thời kỳ 1888-1945, NXB
KHXH, HN.
19. Hồ Vũ Thị Minh Châu (2004), “Nghề ươm tơ dệt lụa làng Thi Lai (xã Duy
Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) từ thế kỷ XVII đến năm 2002”,
luận văn Thạc sĩ Khoa học, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế.
20. Nguyễn Khoa Chiêm (2003), Nam triều công nghiệp diễn chí, NXB Hội Nhà
văn, HN.
21. Cristophoro Bori (Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị dịch)
(1998), Xứ Đàng trong, NXB Tp HCM.
22. Võ Văn Dật (2007), Lịch sử Đà Nẵng 1306-1975 , Nam Việt (U.S.A).
23. Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề văn hóa làng xã Việt Nam, NXB CTQG, HN.
24. Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời đại, quyển thượng, Khảo cổ tùng
thư, SG.
25. Nguyễn Đức Dương, Nguyễn Đăng Tiến (1998), “Đà Nẵng – cầu nối giữa lục
địa và hải đảo”, Xưa & Nay, (45B).
26. Nguyễn Thị Đảm (2003), Một số vấn đề kinh tế Việt Nam thời cận đại (1858-
1945), Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế.
27. Phạm Hữu Đăng Đạt (2003), Chuyện làng nghề đất Quảng, NXB ĐN.
28. Phạm Hữu Đăng Đạt (2013), Chuyện xưa đất Quảng, NXB ĐN.
29. Phạm Văn Đấu, Phạm Võ Thanh Hà (1998), Những nền văn hóa khảo cổ tiêu
biểu ở Việt Nam, NXB VHTT, HN.
30. Nguyễn Đình Đầu (1998), “Đà Nẵng qua các thời đại”, Xưa & Nay, (54B).
31. Nguyễn Đình Đầu (1998), “Địa lý lịch sử Quảng Nam”, Xưa & Nay, (3).
32. Nguyễn Đình Đầu (2010), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tập I, II, NXB
ĐHQG Tp HCM.
33. Lê Quý Đôn (tái bản 2007), Phủ biên tạp lục, NXB VHTT, HN.
34. Thái Nhân Hòa, Mạc Đường, Nguyễn Hoàng Long, Lâm Quang Huyên
(1996), Quảng Nam - Đà Nẵng xưa và nay, NXB ĐN.
193
35. Nguyễn Trọng Hoàng (2000), Ngũ Hành Sơn, NXB ĐN.
36. Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô (2007), Văn hóa xứ Quảng một góc
nhìn, NXB ĐN.
37. Võ Văn Hòe (2012), Địa danh Đà Nẵng, NXB ĐN.
38. Việt Hồng (1946), Tư bản Pháp với nền kinh tế Việt Nam, NXB Xã hội, HN.
39. Hội Khoa học Lịch sử thành phố Đà Nẵng (2007), Lịch sử thành phố Đà
Nẵng (1858-1945), NXB ĐN.
40. Hội Văn nghệ dân gian thành phố Đà Nẵng (2009), Nghề và làng nghề truyền
thống đất Quảng, NXB ĐN.
41. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (nhóm tác giả: Võ Văn Hòe, Trần Hồng, Hồ
Tấn Tuấn) (2015), Văn hóa dân gian Việt – Chăm nhìn trong mối quan hệ
(qua cứ liệu văn hóa dân gian miền Trung), NXB KHXH, HN.
42. Vũ Từ Huy (2007), Làng cổ đất Việt , NXB VHTT, HN.
43. Trương Duy Hy (2004), Danh xưng tôn quý của sĩ tử Quảng Nam dưới thời
Nho học, NXB Văn học, HN.
44. Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ Bang, Nguyễn Văn Đăng (2000), Đô thị Việt Nam dưới
triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, H.
45. Nguyễn Văn Khánh (2000), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858-1945), NXB ĐHQG HN.
46. Phan Khoang (1968), “Những trang sử đầu tiên của lịch sử hai xứ Thuận
Quảng”, Tập san Sử - Địa.
47. Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong 1558-1777, NXB Văn học.
48. Li Tana (bản dịch của Nguyễn Nghị) (1999), Xứ Đàng Trong, Lịch sử kinh tế
- xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, Tp. HCM.
49. Nguyễn Thị Anh Lý (2005), “Vai trò của trị sở Quảng Nam đối với đất Quảng
trong giai đoạn từ 1802 đến 1945”, luận văn Thạc sĩ sử học, Trường Đại học
Sư phạm – Đại học Huế.
50. Phạm Xuân Nam (1994), Quá trình phát triển công nghiệp ở Việt Nam triển
vọng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, NXB KHXH, HN.
51. Hồ Ngận (2004), Quảng Nam xưa và nay, NXB Thanh Niên, Tp. HCM.
52. Nguyên Ngọc (2004), Tìm hiểu mảnh đất và con người xứ Quảng, NXB ĐN.
194
53. Huỳnh Ngọc (2012), “Nghề đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng)”, Luận văn
thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế.
54. Nguyên Ngọc (2005), Tìm hiểu con người xứ Quảng, NXB ĐN.
55. Nhiều tác giả (2004), Duyên hải Miền Trung đất và người, tạp chí Xưa và
Nay- NXB Tổng hợp Tp HCM.
56. Nghiêm Phú Ninh (1986), Con đường phát triển tiểu công nghiệp, thủ công
nghiệp Việt Nam, NXB Thông tin Lý luận, HN.
57. Nguyễn Hồng Phong (1959), Sự phát triển kinh tế hàng hóa chủ nghĩa tư bản
ở Việt Nam thời phong kiến, NXB Văn Sử Địa, HN.
58. Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp 1858 – 1945, NXB KHXH, HN.
59. Lê Đình Phúc, Nguyễn Khắc Sử (2006), Khảo cổ học Tiền sử - Sơ sử Miền
Trung – Tây Nguyên, NXB Thuận Hóa, H.
60. Lê Đình Phúc (2006), Khảo cổ học Tiền sử - Sơ sử Miền Trung – Tây
Nguyên,NXB Thuận Hóa, H.
61. Phan Khoang (1959), “Những biến chuyển đầu tiên của xã hội Việt Nam khi
tiếp xúc văn minh Âu - Tây”, Bách Khoa, (68), tr. 15-19.
62. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884), NXB Tp HCM.
63. Quốc sử quán triều Nguyễn (Phạm Trọng Điềm dịch) (1992), Đại Nam nhất
thống chí (thời Tự Đức), NXB Thuận Hóa, H.
64. Quốc sử quán triều Nguyễn (1965), Đại Nam nhất thống chí (Thời Duy Tân),
Nha Văn hóa, Bộ Văn hóa – Giáo dục, Sài Gòn.
65. Quốc sử quán triều Nguyễn (Viện Sử học dịch) (2001), Đại Nam thực lục, NXB
Giáo dục, HN.
66. Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Tự Thanh dịch) (2012), Đại Nam thực lục chính
biên đệ lục kỷ phụ biên, NXB Văn hóa Văn nghệ, Tp. HCM.
67. Quốc sử quán triều Nguyễn (Viện sử học dịch) (1992), Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ, 15 tập, NXB Thuận Hóa, H.
68. Dương Trung Quốc, Trần Hữu Đính, Nguyễn Tố Uyên (2001) Lịch sử Thành
phố Đà Nẵng, NXB ĐN.
69. Dương Trung Quốc (2005), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 - 1945),
NXB Giáo dục, HN.
70. Lê Minh Quốc (2003), Người Quảng Nam, NXB ĐN.
195
71. Lê Minh Quốc (2010), Các vị tổ ngành nghề Việt Nam, NXB Trẻ, Tp HCM.
72. Dương Kinh Quốc (1988), “Đà Nẵng – Việt Nam trong bối cảnh phát triển
của chủ nghĩa tư bản Pháp”, Tham luận kỷ niệm 130 năm nhân dân Đà Nẵng
chống Pháp xâm lược.
73. Dương Kinh Quốc, Việt Nam - những sự kiện lịch sử (1858-1918), NXB Giáo
dục, HN.
74. Dương Trung Quốc (1997), “Đà Nẵng trong mối tương quan với đô thị cổ Hội
An”, Non nước (1).
75. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam (2001), Vai trò lịch sử của dinh
trấn Quảng Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Tam Kỳ.
76. Phạm Côn Sơn (2004), Làng nghề truyền thống Việt Nam, NXB Văn hóa Dân
tộc, HN.
77. Phạm Quốc Sử (2008), Tiểu thủ công nghiệp Thái Bình 1954-1995 (lịch sử và
di sản), NXB ĐHQG HN.
78. Bùi Thị Tân (1989), “Họ Nguyễn với công cuộc phát triển vùng Thuận Hóa”,
NCLS, (3).
79. Bùi Thị Tân, Lê Đình Phúc (2006), “Thủ công nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế
trong quá trình đổi mới và hội nhập”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “700 năm
Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế”, NXB CTQG, HN.
80. Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc (1998), Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển
công nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, H.
81. Bùi Thị Tân (1999), “Làng nghề ở Thừa Thiên Huế và vấn đề đô thị hóa”, Kỷ
yếu Hội thảo “Phú Xuân – Huế, từ đô thị cổ đến hiện đại”, NXB Thuận Hóa, H.
82. Bùi Thị Tân (1999), Về hai làng nghề truyền thống Phú Bài và Hiền Lương,
NXB Thuận Hóa, H.
83. Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng (1991), Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà
Nẵng - Tập 1 (1930-1945), NXB ĐN.
84. Thành ủy Đà Nẵng (1996), Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng - Tập 1
(1925-1954), NXB ĐN.
85. Lê Bá Thảo (1990), Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, HN.
86. Kỉnh Thảo (2000), “Phố cảng Đà Nẵng trong tiến trình lịch sử”, Đà Nẵng
bước vào thế kỷ XXI, NXB Tp HCM, tr. 48-55.
196
87. Nguyễn Q. Thắng (2000), Quảng Nam đất nước và nhân vật, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Quảng Nam.
88. Nguyễn Q. Thắng (2002), “Vai trò lịch sử dinh Quảng Nam (Thanh Chiêm)
vào hai thế kỷ XVII-XVIII”, Hội thảo khoa học Vai trò lịch sử dinh trấn
Quảng Nam.
89. Nguyễn .Q. Thắng (2002), Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ
nước, NXB Tp HCM.
90. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Nam, Thành ủy, UBND Tp. Đà Nẵng (2010), Địa
chí Quảng Nam – Đà Nẵng, NXB KHXH, HN.
91. Nguyễn Hữu Thông (1994), Nghề và làng nghề thủ công truyền thống, NXB
Thuận Hóa, H.
92. Tạ Thị Thúy (2007), “Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn khai thác thuộc
địa lần thứ hai của người Pháp (1919-1930)”, NCLS, (3), tr. 38 - 59.
93. Lưu Trang (2003), “Vài nét về ngoại thương ở cảng biển Đà Nẵng nửa đầu thế
kỷ XIX”, NCLS, (3).
94. Lưu Trang (2003), “Hoạt động ngoại giao ở Đà Nẵng trong nửa đầu thế kỷ
XIX”, NCLS, số (3), tr. 50-56.
95. Lưu Trang (2005), Phố cảng Đà Nẵng (1802-1860), NXB ĐN.
96. Thùy Trang (2009), Văn hóa làng xã: Tín ngưỡng, tục lệ và hội làng, NXB
Thời Đại, HN.
97. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Huế, Mục lục châu bản
triều Nguyễn, 122 tập (18200 trang bảo thảo viết tay), lưu tại Thư viện Trường
Đại học Khoa học – Đại học Huế.
98. Trung kỳ bảo hộ (1929), Nghị định số 2762 của Quan Khâm sứ đại thần về
ngạch thuế môn bài, Nhà in Đắc Lập, H (ký hiệu M 16, TVQG HN).
99. Nguyễn Như Tùng (dịch), Bửu Ý (hiệu đính) (1997), Những người bạn cố đô
Huế, NXB Thuận Hóa, H.
100. J. Bouanbt et E. De Rozario, Địa dư Đông Dương (TVQG HN, ký hiệu
M2/9402).
101. Nguyễn Chí Trung (2005), Cư dân Faifo – Hội An trong lịch sử, Tam Kỳ
102. Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An (2008), Nghề truyền thống Hội An.
197
103. Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771-1802), Văn học
sử, SG.
104. Tạ Chí Đại Trường (1968), “Dân Đại Việt ở cuối thế kỷ XVIII”, tập san Sử
Địa, (9-10), tr. 59-73.
105. Hồ Tấn Tuấn (2003), “Phát hiện hai ngôi mộ thời chúa Nguyễn ở Ngũ Hành
Sơn”, Những phát hiện mới khảo cổ học, tr. 512 – 513.
106. Nguyễn Thị Thịnh (2011), “Chợ làng Quảng Nam thế kỷ XVI-XIX”, luận văn
Thạc sĩ sử học, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế.
107. Nguyễn Phước Tương (2002), “Sự ra đời của tỉnh Quảng Nam trong lịch sử”,
Văn hóa Quảng Nam.
108. Nguyễn Phước Tương (2004), Hội An - di sản thế giới, NXB Văn nghệ Tp HCM.
109. Nguyễn Phước Tương (viết chung) (2003), Bà chúa Tàm Tang xứ Quảng,
NXB ĐN.
110. Nguyễn Minh Triều (2010), Quảng Nam và Đà Nẵng qua các triều đại phong
kiến, NXB Quân đội nhân dân, HN.
111. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB
KHXH, HN.
112. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1985), Lịch sử Việt Nam, tập 2, NXB
KHXH, HN.
113. Lưu Thị Tuyết Vân (1995), “Tiểu thủ công nghiệp nông thôn đồng bằng sông
Hồng (1954-1994)”, luận án Tiến sĩ sử học, Viện Sử học.
114. Trần Quốc Vượng (1985), Những di tích thời tiền sử và sơ sử, Sở VHTT
Quảng Nam – Đà Nẵng.
115. Trần Quốc Vượng (1998), “Đà Nẵng qua cái nhìn địa lý – văn hóa – lịch sử”,
Xưa & Nay, (54 B), tr. 07-15.
116. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (1996), Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và
các vị tổ nghề, NXB VHDT, HN.
117. Bùi Văn Vượng (2002), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, NXB
VHTT, HN.
118. Bùi Văn Vượng (2010), Làng nghề thủ công truyền thống: Nghề đúc đồng và
nghề sơn, NXB Thanh Niên, HN.
198
119. Thành Thế Vỹ, Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và nửa đầu thế kỷ
XIX, NXB Sử học, HN.
120. Viện Bách Khoa thư (1958), Bách khoa toàn thư Liên Xô, NXB Sự thật, HN.
121. Nguyễn Văn Xuân (1995), Phong trào Duy Tân, NXB Đà Nẵng.
122. Nguyễn Văn Xuân (1998), “Minh Mạng và thành phố Đà Nẵng”, tạp chí Xưa
& Nay, (54B), tr. 44-50.
123. Nguyễn Văn Xuân (2000), “Cù Lao Chàm và Đà Nẵng với người Anh”, Đà
Nẵng bước vào thế kỷ XXI, NXB Tp HCM.
124. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại ký sự, Viện Đại học Huế.
125. Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam (2000), Vai trò lịch sử Dinh trấn Quảng Nam.
126. Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam (2001), Danh xưng Quảng Nam.
II. TIẾNG NƯỚC NGOÀI
127. Annuaire général de L’Indo – chine Partie Commerciale 1912, Ha Noi – Hai
Phong, Imprimerie d’ Extrême – Orient, 1912 ( ký hiệu NV516, TVQG HN).
128. P. Brocheux, D. Hémery, Indochine la colonization ambigue (1858-1954),
Découverte, Paris, 1995, tr.248.
129. Chales Robequain (1929), Le Thanh Hoa, eslude geogra-phique d’une
province annamile, tom II, Paris.
130. Bùi Quang Chiêu (1913), Contribulion à l’eslude de la séri ciculture en
Indochine L’industrie de la soie, B.E.I.
131. Philippe Devillers (1998) Francais et Annammites Partenaires ou ennemis?
1856 – 1902, Deneol, Paris.
132. V. Demenge (1918), Les pelils mesliers du Tonkin 1, Provinlce de Hà Đông,
B.E.I.
133. A.J. Gouin (1883), Tourane et le centre de l’ Annam, Imprimerie rouillé ladevère,
Tours.
134. Lotzer (1943), Siluation acluelle de l’arlisanal indigene, B.E.I, f.I.
135. J.L. Fontana (1925), L'Annam: Ses provinces, ses ressources, Hà Nội.
136. Guillon (1917), Voyage de Bougainville à Tourane, Hue.
137. G. Taboulet (1955), La Geste franỗaise en Indochine, Histoire par les textes
de la France en Indochine des origines à 1924, 2 vol, Paris.
199
138. Nguyen Trong Thuat (1933), Note sur les montagnes de marbre à
Tourane, Nam Phong.
139. H. Norden (1931), Atravers I’Indochine, Payot, Paris (France).
140. Marcel Monnier (1899), Le tour d’ Asie, Eplon, Nourrit et Cie, Imprimeurs –
E’di teurs, Paris (France).
141. A. Sallet (1924), Les montagnes de marbre ( ký hiệu C29, TVQG HN)
142. A. Sallet (1928), Atlas de I’ Indochine (ký hiệu G183, TVQG HN).
143. Bulletin du Syndicat des Etudes Indochinoises du Tonkin.
144. Charles Robequain (1939), L’evolution economique de l’Indochine, Paris.
145. H. Cucherousset (1925), Le D’bloquement du Laos et le Port de Tourane (ký
hiệu C51, TVQG HN).
146. G.H. Monod (1900), Les montagnes de marbre à Tourane (ký hiệu C1290,
TVQG HN).
147. Henri (1927), Cucherousset, Une belle intiative indigène dans le Centre –
Annam (TVQG HN).
148. Le Centre – Annam, I.D.E.O, Hà Nội, 1931.
149. L’ Annam en 1906, Marseille, 1906.
150. Ricquebourg (1905), La légende de la montagne de marbre (Tourane) (ký
hiệu C26, TVQG HN).
151. Marcel Monnier (1899), Le Tour d’ Asie, E.Plon, Nourrit et Cie , Imprimeurs-
E’di teurs.
152. Philippe Devillers (1998), Francais et Annammites Partenaires ou ennemis?
1856 –1902
153. P. Bernard (1934), Le problème ésconomique Indochinois, Paris.
154. G. Maspéro, Un Empire colonial Français, L’ Indochine, T. 2, tr. 196.
155. Renseignements sur des filatures et tissages du coton de l'Indochine (hồ sơ số
2458, TTLTQG 1).
156. Tableaux comparatifs des exportations de la soie du Tonkin, de l'Annam, de la
Cochinchine et du Cambodge (hồ sơ số 3177, TTLTQG 1).
157. Projet de culture en grand du coton en Annam (hồ sơ số 6029, TTLTQG 1).
158. Statistiques commerciales de la province de Quang Nam de l'ann de 1905 (hồ
sơ số 9471, TTLTQG 1).
200
159. Statistiques commerciales de la province de Quang Nam de l'ann de 1906 (hồ
sơ số 9483, TTLTQG 1).
160. Statistiques commerciales de la province de Quang Nam de l'ann de 1907 (hồ
sơ số 9494, TTLTQG 1).
161. Statistiques commerciales de la province de Quang Nam de l'ann de 1908 (hồ
sơ số 9508, TTLTQG 1).
162. Statistiques commerciales de la province de Quang Nam de l'annÐe 1909 (hồ
sơ số 9519, TTLTQG 1).
163. Statistique commerciale de la province de Quang Nam de 1910 (hồ sơ số
9083, TTLTQG 1).
164. Rapports économiques de la province de Quang Nam de l'ann de 1905 (hồ sơ
số 9096, TTLTQG 1).
165. Rapports économiques de la province de Quang Nam de 1911 (hồ sơ số 9150,
TTLTQG 1).
166. Renseignements Ðricicoles et agricoles des provinces de l'Annam (hồ sơ số
7588, TTLTQG 1).
167. Rapport sur la éation d'ateliers provinciaux de grainage en Annam (hồ sơ số
7577, TTLTQG 1).
168. Rapport sur la situation économique de l'Annam pendant le 1er trimestre 1912
(hồ sơ số 4012, TTLTQG 1).
169. Rapports économiques de l'Annam de l'ann de 1920 (hồ sơ số 4014, TTLTQG 1).
170. Produits fournis par l'Annam (hồ sơ số 4632, TTLTQG 1).
171. Etats des besoins de la population civile de l'Annam (hồ sơ số 4667, TTLTQG 1).
172. Rapports économiques des 1er et 2e trimestre de l'annde 1910 de l'Annam (hồ
sơ số 7971, TTLTQG 1).
173. Rapports économiques de l'Annam des 1er, 2e, 3e, 4e trimestre 1911 (hồ sơ số
7972, TTLTQG 1).
174. Rapport sur la situation économique de l'Annam pendant le 2e trimestre 1912
(hồ sơ số 9156, TTLTQG 1).
175. Rapport sur la situation économique de l'Annam pendant le 3e trimestre 1912
(hồ sơ số 9157, TTLTQG 1).
201
176. Rapport sur la situation économique de l'Annam pendant le 4e trimestre 1912
(hồ sơ số 9158, TTLTQG 1).
177. Rapport sur la situation économique de l'Annam pendant l'annle de 1913 (hồ
sơ số 9159, TTLTQG 1).
178. Rapport sur la situation économique de l'Annam pendant l'annle de 1914 (hồ
sơ số 9160, TTLTQG 1).
179. Rapport sur la situation économique de l'Annam pendant l'annle de 1915 (hồ
sơ số 9161, TTLTQG 1).
180. Rapport sur la situation économique de l'Annam pendant l'annle de 1916 (hồ
sơ số 9162, TTLTQG 1).
181. Rapport sur la situation économique de l'Annam de l'annle de 1917 (hồ sơ số
9163, TTLTQG 1).
182. Rapport sur la situation économique de l'Annam de l'annle de 1918 (hồ sơ số
9164, TTLTQG 1).
183. Rapport sur la situation économique de l'Annam de l'annle de 1919 (hồ sơ số
9165, TTLTQG 1).
184. Rapport sur la situation économique de l'Annam de l'annle de 1921 (hồ sơ số
9166, TTLTQG 1).
185. Rapport sur la situation économique de l'Annam de l'annle de 1922 (hồ sơ số
9167, TTLTQG 1).
186. ProcÌs-verbal de la 197 es Dance du 18 Octobre 1933 de la Chambre mixte de
Commerce et d'Agriculture de Tourane (hồ sơ số 9167, TTLTQG 1).
187. ProcÌs-verbal de la 201 es Dance du 15 FÐvrier 1936 de la Chambre Mixte e
Commerce et d'Agriculture de Tourane (hồ sơ số 354, TTLTQG 1).
188. ProcÌs-verbal de la 202 es Ðance du 21 DÐcembre 1936 de la Chambre Mixte
de Commerce et d'Agriculture de Tourane (hồ sơ số 356, TTLTQG 1).
189. Voeux Ðmis par la Chambre Mixte de Commerce et d'Agriculture de Tourane
(hồ sơ số 371, TTLTQG 1).
190. ProcÌs-verbal de la 192e sÐance de la Chambre Mixte de Commerce et
d'Agriculture de l'Annam µ Tourane (hồ sơ số 374, TTLTQG 1).
191. Voeux Ðmis en 1931 par la Chambre mixte de Commerce et d'Agriculture de
Tourane (hồ sơ số 381, TTLTQG 1).
202
192. Procìs-verbal de la 19 es Ðance de la Chambre mixte de Commerce
d'agriculture de Tourane (hồ sơ số 384, TTLTQG 1).
193. ProcÌs-verbal de la 195 es Ðance de la Chambre mixte de Commerce et
d'agriculture de Tourane (hồ sơ số 385, TTLTQG 1).
194. ProcÌs-verbal de la 193 es Ðance du 7 Novembre 1931 de la Chambre mixte
de Commerce et d'Agriculture de Tourane (hồ sơ số 386, TTLTQG 1).
195. Rapport economique de l’Annam (hồ sơ số 87- 110, TTLTQG 1).
196. Rapports economiques de la province de Quang Nam: 1900-1909 (hồ sơ số
105, TTLTQG 1).
III. NHÂN CHỨNG
197. Ông Đinh Hào sinh năm 1915, Làng Nam Ô, P. Hòa Hiệp, Q. Liên Chiểu, TP.
Đà Nẵng
198. Ông Phan Huẩn sinh năm 1937, thôn Cẩm Nê, Hòa Tiến - Hòa Vang - Đà Nẵng.
199. Ông Nguyễn Hữu Nhung sinh năm 1913, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
200. Ông Nguyễn Việt Minh sinh năm 1947, P. Hòa Hải, Q. Ngũ Hành Sơn, TP.
Đà Nẵng.
201. Ông Nguyễn Phòng sinh năm 1936, thôn La Bông, Hòa Tiến - Hòa Vang -
Đà Nẵng.
202. Ông Phan Tấn sinh năm 1947, Cẩm Nê, Hòa Tiến - Hòa Vang - Đà Nẵng.
203. Bà Nguyễn Thị Thẩm sinh năm 1936, thôn Yến Nê, Hòa Tiến - Hòa Vang -
Đà Nẵng.
204. Ông Nguyễn Đình Thị sinh năm 1928, thôn La Bông, Hòa Tiến - Hòa Vang -
Đà Nẵng.
205. Bà Dương Thị Thống sinh năm 1946, Thôn Cẩm Nê, Hòa Tiến - Hòa Vang
- Đà Nẵng.
206. Bà Nguyễn Thị Trĩ sinh năm 1937, thôn La Bông, Hòa Tiến - Hòa Vang -
Đà Nẵng.
207. Ông Trần Ân, sinh năm 1933, trú tại làng Xuân Thái, xã Bình Định, huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
208. Ông Phan Ba, sinh năm 1935, trú tại làng Lâm Yên, xã Đại Minh, huyện Đại
Lộc, tỉnh Quảng Nam
203
209. Ông Nguyễn Biến, sinh năm 1924, trú tại thôn Thanh Nam, xã Cẩm Châu, thị
xã Hội An, tỉnh Quảng Nam.
210. Ông Phan Bốn, sinh năm 1957, trú tại làng Lâm Yên, xã Đại Minh, huyện Đại
Lộc, tỉnh Quảng Nam
211. Ông Đặng Văn Bộ, sinh năm 1946, trú tại xóm Lò Nồi, làng Châu Xuân, xã
Bình Định, huyện Thăng Bình, tinh Quảng Nam.
212. Ông Lê Đương, sinh năm 1935, trú tại làng Giảng Hoà, Đại Thắng, Đại Lộc,
Quảng Nam.
213. Bà Nguyễn Thị Cầu, sinh năm 1918, trú tại xóm Nam Diêu, phường Thanh
Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam
214. Bà Nguyễn Thị Chung, sinh năm 1925, trú tại xóm Nam Diêu, phường Thanh
Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam.
215. Ông Trần Dây, sinh năm 1933, trú tại thôn Thanh Nam, xã cẩm Châu, thị xã
Hội An, tỉnh Quảng Nam.
216. Ông Nguyễn Dăn, sinh năm 1920, trú tại xóm Lò Nồi, xã Bình Định, huyện
Thăng Bình, tinh Quảng Nam
217. Ông Phạm Dục, sinh năm 1928, trú tại thôn Triêm Tây, xã Điện Phương,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
218. Ông Nguyễn Đặng, sinh năm 1921, trú tại xóm Nam Diêu, phường Thanh Hà,
thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam.
219. Ông Bùi Đệ, sinh năm 1958, trú tại thôn Thanh Nam, xã cẩm Châu, thị xã Hội
An, tỉnh Quảng Nam.
220. Bà Võ Thị Hường, sinh năm 1929, trú tại làng Bàn Thạch, xã Duy Vinh,
huyện Duy Xuyên, tỉnh tỉnh Quảng Nam..
221. Ông Phạm Kỳ, sinh năm 1931, trú tại vạn đò Bến Tranh, xã Quế Trung, huyện
Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
222. Ồng Nguyễn Đăng Lệ, sinh năm 1930, trú tại xóm Gióng, thôn Mỹ Nam, xã
Đại Tân, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
223. Ông Trần Liên, sinh năm 1920, trú tại làng Bàn Thạch, xã Duy Vinh, huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
224. Ông Nguyễn Lợi, sinh năm 1928, trú tại xã Điện Phương, huyện Điện Bàn,
tỉnh Quang Nam.
204
225. Ông Trần Đình Nam, sinh năm 1968, trú tại làng Kim Bồng, xã Cẩm Kim, thị
xã Hội An.
226. Ông Nguyễn Minh Nam, sinh năm 1932, trú tại làng Xuân Thái, xã Bình Định,
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
227. Bà Trần Thị Năm, sinh năm 1926, trú tại Mỹ Nam, Đại Tân, Đại Lộc,
Quảng Nam
228. Ông Phạm Ngô, sinh năm 1924, trú tại Mỹ Nam, Đại Tân, Đại Lộc, Quảng Nam.
229. Bà Trần Thị Ngụy, sinh năm 1919, trú tại xóm Lọ Nồi, xã Bình Định, huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
230. Ông Phạm Xuân Nguyên, sinh năm 1955, trú tại làng Xuân Thái, xã Bình
Định, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
231. Ông Trương Nhã, sinh năm 1958, trú tại thôn Triêm Tây, xã Điện Phương,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
232. Ông Trần Cao Phi, sinh năm 1937, trú tại làng Xuyên Đông, thị trấn Nam
Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
233. Ông Huỳnh Ri, sinh năm 1940, trú tại làng Kim Bồng, xã cẩm Kim, thị xã
Hội An.
234. Ông Huỳnh Sáu, sinh năm 1963, trú tại Giảng Hoà, Đại Thắng, Đại Lộc,
Quảng Nam.
235. Ồng Phan Toan, sinh năm 1932, trú làng Kim Bồng, xã cẩm Kim, thị xã
Hội An.
236. Ông Lê Tiên, sinh năm 1922, trú tại thôn Triêm Tây, xã Điện Phương, huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
237. Ông Lê Trọng, sinh năm 1930, trú tại xóm Nam Diêu, phường Thanh Hà, thị
xã Hội An, tỉnh Quảng Nam.
238. Ông Dương Ngọc Thơm, sinh năm 1944, trú tại làng Phước Kiều, xã Điện
Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
239. Ông Huỳnh Toàn, sinh năm 1925, trú tại làng An Thanh, xã Điện Thắng,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
240. Ông Nguyễn Hữu Tửu, sinh năm 1926, trú tại làng Bàn Thạch, xã Duy Vinh,
huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
205
241. Ông Văn Phú Vân, sinh năm 1964, trú tại làng Xuyên Đông, thị trấn Nam
Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
242. Bà Nguyễn Thị Vinh, sinh năm 1929, trú tại thôn Triêm Tây, xã Điện Phương,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
243. Ông Trương Xang, sinh năm 1922, trú tại làng Trung An, thị trấn Aí Nghĩa,
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
244. Ông Nguyễn Đình Xuân, trú tại làng Phú Lộc, xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc,
tỉnh Quảng Nam.
206
CÁC CÔNG TRÌNH
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Minh Phương (2013), “Nghề làm mắm Nam Ô trước năm 1945”, in
trong kỷ yếu Hội nghị khoa học sau đại học lần thứ nhất, Trường Đại học sư
phạm – Đại học Huế, tr. 361 – 367, NXB Đại học Huế.
2. Nguyễn Minh Phương (2017), “Nghề làm đường Quảng Nam đầu thế kỷ XX”,
Tạp chí Khoa học Công nghệ Đại học Đà Nẵng, (8), tr. 44-47.
3. Nguyễn Minh Phương (2017), “Nghề đúc đồng Phước Kiều dưới triều Nguyễn”,
Tạp chí Khoa học Đại học Huế, (6B), tr. 211-220.
PHỤ LỤC
P 1
BẢ
N Đ
Ồ Đ
ỊA L
Ý Q
UẢ
NG
NA
M -
Đ
À N
ẴN
G
(Ngu
ồn
: T
ỉnh ủ
y, U
BN
D t
ỉnh Q
uản
g N
am, T
hàn
h ủ
y, U
BN
D T
p. Đ
à N
ẵng (
2010),
Địa
chí
Quảng N
am
– Đ
à N
ẵng
, N
XB
KH
XH
, H
N)
PH
Ụ L
ỤC
1:
BẢ
N Đ
Ồ
P 2
BẢ
N Đ
Ồ Đ
ỊA L
Ý T
ỈNH
QU
ẢN
G N
AM
(Ngu
ồn
: T
ỉnh ủ
y, U
BN
D t
ỉnh Q
uản
g N
am, T
hàn
h ủ
y, U
BN
D T
p. Đ
à N
ẵng (
201
0),
Địa
chí
Quảng N
am
– Đ
à N
ẵng
, N
XB
KH
XH
, H
N)
P 3
BẢ
N Đ
Ồ Đ
ỊA L
Ý T
HÀ
NH
PH
Ố Đ
À N
ẴN
G
(Ngu
ồn
: T
ỉnh ủ
y, U
BN
D t
ỉnh Q
uản
g N
am, T
hàn
h ủ
y, U
BN
D T
p. Đ
à N
ẵng (
2010),
Địa
chí
Quảng N
am
– Đ
à N
ẵng
, N
XB
KH
XH
, H
N)
P 4
HỆ THỐNG GIAO THÔNG LIÊN LẠC GIỮA ĐÀ NẴNG
VỚI HUẾ - HỘI AN – QUẢNG NAM DƯỚI THỜI NHÀ NGUYỄN
(Nguồn: Lưu Trang (2005), Phố cảng Đà Nẵng, NXB Đà Nẵng)
P 5
LƯỢC ĐỒ PHỐ CẢNG ĐÀ NẴNG THỜI NHÀ NGUYỄN
(Nguồn: Lưu Trang (2005), Phố cảng Đà Nẵng, NXB Đà Nẵng)
P 6
BẢN ĐỒ ĐÀ NẴNG (TOURANE) NĂM 1928
(Nguồn: A. Sallet (1928), Atlas de I’indochine, ký hiệu G183, Thư viện Quốc gia)
P 7
PHỤ LỤC 2:
TƯ LIỆU GIA PHẢ
GIA PHẢ TỘC NGUYỄN, TỘC NGÔ LÀNG CẨM NÊ
(Nguồn: Lưu trữ tại gia tộc)
P 8
GIA PHẢ TỘC NGUYỄN LÀNG LA BÔNG
(Nguồn: Ông Nguyễn Đình Thị cung cấp)
P 9
PHỤ LỤC 3: BÁO CHÍ (TIẾNG PHÁP) NÓI VỀ NGHỀ THỦ CÔNG
QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
THỦ CÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG NĂM 1897
(Nguồn: Thư viện Quốc gia Việt Nam, ký hiệu M5669)
P 10
HÀNG HÓA THÔNG THƯƠNG TỪ LÀO ĐẾN CẢNG ĐÀ NẴNG
(Nguồn: H. Cucherousset (1925), Le D’bloquement du Laos et le Port de Tourane,
ký hiệu C51, Thư viện Quốc gia Việt Nam)
P 11
CÁC SẢN PHẨM ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC
THAM GIA HỘI CHỢ THUỘC ĐỊA Ở PHÁP NĂM 1922
TT Tên sản phẩm Tiếng Pháp Giá
1 Bình cắm hoa Vases à fleurs marbre 0$60
2 Đĩa đá tròn Plateaux ronds 0$20
3 Đồ trà đá trắng Service à thé marbre blance 4$50
4 Đồ chè đá hường Service à thé marbre blance 3$00
5 Đồ chè đĩa vuông Service à thé plateaux carrés 2$50
6 Chén đĩa độc ẩm Soucoup tasse 0$40
7 Đá mặt ghế Carreaux marbre 1$50
8 Ống dắt viết Porte pinceaux marbre 0$60
9 Chận giấy hình con cóc Presse papier crapaud 0$40
10 Chận giấy hình con ngựa Presse papier cheval 0$60
11 Đĩa trái đào Plateaux doubles fruits 1$00
12 Ống dắt tăm Porte curedents 0$10
13 Đĩa đá hình lá cây Plateaux feuillages 0$80
14 Ống dắt thuốc Boites à cigarettes en marbre 1$00
(Nguồn: J.L. Fontana (1925), L’ Annam:Ces Provinces…sesressources, Hà Nội)
P 12
PHỤ LỤC 4: HÌNH ẢNH VỀ NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
SẢN PHẨM ĐAN ĐÁT (HÀNG MỸ NGHỆ)
(Nguồn: www.daynghenongdan.vn)
P 13
QUAY TƠ
(Nguồn: Hội Văn nghệ dân gian Tp. ĐN (2007), Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng)
NGHỀ NẤU ĐƯỜNG
(Nguồn: Hội Văn nghệ dân gian Tp. ĐN (2007), Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng)
P 14
THỢ MỘC CƯA GỖ LÀM NHÀ
(Nguồn: Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô (2007),
Văn hóa xứ Quảng một góc nhìn, NXB Đà Nẵng)
P 15
ĐẬP LÚA
(Nguồn: Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô (2007),
Văn hóa xứ Quảng một góc nhìn, NXB Đà Nẵng)
XAY LÚA
(Nguồn: Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô (2007),
Văn hóa xứ Quảng một góc nhìn, NXB Đà Nẵng)
P 16
NUNG SẮT
(Nguồn: www.hrpc.com.vn)
THỢ RÈN NGÀY XƯA
(Nguồn: Hội Văn nghệ dân gian Tp. ĐN (2007), Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng)
P 17
MÔ HÌNH GHE THUYỀN QUẢNG NAM
(Nguồn: Hội Văn nghệ dân gian Tp. ĐN (2007), Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng)
P 18
THỢ MAY MÁY MAY
(Nguồn: www.hcm.edu.vn) (Nguồn: www.hcm.edu.vn)
DỤNG CỤ MAY
(Nguồn: www.hcm.edu.vn)
P 19
NHUỘM VẢI
(Nguồn: http://vietpictures.net)
THUỐC NHUỘM
(Nguồn: http://vietpictures.net)
P 20
Ủ MEN CƠM RƯỢU DỤNG CỤ NẤU RƯỢU
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org) (Nguồn: http://vi.wikipedia.org)
NẤU RƯỢU
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org)
P 21
BỘT LÀM BÚN
(Nguồn: http://www.vietsfun.com)
BÚN TƯƠI
(Nguồn: http://www.vietsfun.com)
P 22
PHƠI BÁNH TRÁNG
(Nguồn: www.danangcuisine.com)
P 23
THU HOẠCH ĐẬU PHỤNG
(Nguồn: www.nld.com.vn)
XAY ĐẬU PHỤNG
(Nguồn: www.nld.com.vn)
P 24
ÉP DẦU PHỤNG
(Nguồn: www.nld.com.vn)
DẦU PHỤNG
(Nguồn: www.nld.com.vn)
P 25
PHƠI HƯƠNG
(Nguồn: cand.com.vn)
P 26
CÂY CÓI (LÁC) LÀM CHIẾU LÀNG CẨM NÊ
(Ảnh: Nguyễn Minh Phương)
LÁC NHUỘM MÀU
(Nguồn: www.baodanang.vn)
P 27
ĐAY XE
(Ảnh: Lê Thị Phúc)
CON NGỰA
(Ảnh: Lê Thị Phúc)
P 28
DỆT CHIẾU LÀNG CẨM NÊ
(Nguồn: www.baodanang.vn)
CHIẾU HOA LÀNG CẨM NÊ TỪNG ĐƯỢC TRIỀU ĐÌNH SẮC PHONG
VÀ LÀM RỰC RỠ HOÀNG CUNG TRIỀU NGUYỄN
(Nguồn: www.baodanang.vn)
P 29
CÁ CƠM TƯƠI LÀM NÊN MẮM NAM Ô NỔI TIẾNG
(Nguồn: avala.vn)
NƯỚC MẮM NAM Ô
(Nguồn: danangcity.gov.vn)
P 30
BIA CHÙA PHỔ KHÁNH
(Ảnh: Huỳnh Công Bá)
ĐÀI CON GÀ ĐƯỢC PHÁP XÂY NĂM 1920
BẰNG ĐÁ CẨM THẠCH NON NƯỚC
(Nguồn: Võ Văn Dật (2007), Lịch sử Đà Nẵng 1306-1975, Nam Việt (U.S.A))
P 31
CHẾ TÁC ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC
(Nguồn: A. Sallet (1924), Les montagnes de marbre, ký hiệu C29, Thư viện Quốc gia)
SẢN PHẨM ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC
(Nguồn: A. Sallet (1924), Les montagnes de marbre, ký hiệu C29, Thư viện Quốc gia)
P 32
PHƯỚC KIỀU XƯA
(Nguồn: Hội Văn nghệ dân gian Tp. ĐN (2007), Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng)
CHIÊNG PHƯỚC KIỀU
(Nguồn: dongphuockieu.com.vn)
P 33
GỐM THANH HÀ
(Nguồn: hoianworldheritage.org.vn)
THỢ MỘC KIM BỒNG XƯA
(Nguồn: Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô (2007),
Văn hóa xứ Quảng một góc nhìn, NXB Đà Nẵng)
P 34
KHUNG CỬI DO ÔNG CỬU DIỄN SÁNG CHẾ
(Nguồn: duyxuyenquetoi.com.vn)
P 35
ĐÌNH LÀNG NẠI HIÊN
(Nguồn: sontra.danang.gov.vn)
NGHỀ LÀM MUỐI
(Nguồn: www. tuoitre.vn)
P 36
RẶNG TRE LÀNG YẾN NÊ
(Ảnh: Nguyễn Minh Phương)
SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ ĐỒ TRE
(Nguồn: www.daynghenongdan.vn)
P 37
CHẰM NÓN LÁ
(Nguồn: dauchanviet.vicongdong.vn)
NGUYÊN LIỆU CHẰM NÓN NÓN LÁ
(Nguồn: www.vietbao.com) (Nguồn: baodatviet.vn)
P 38
CÁNH RỪNG VÀ ĐÌNH LÀNG XUÂN DƯƠNG
TỪNG GẮN BÓ VỚI NGHỀ LÀM GUỐC MỘC
(Nguồn: chaobuoisang.net)
SẢN PHẨM GUỐC MỘC
(Nguồn: quehuongonline.vn)
P 39
KẸP QUẾ LÀNG TÍCH PHƯỚC
(Ảnh: Võ Văn Hòe)
PHÒNG HỖN HỢP THƯƠNG MẠI VÀ CANH NÔNG TRUNG KỲ
(Nguồn: Võ Văn Dật (2007), Lịch sử Đà Nẵng (1306-1975), Nam Việt (U.S.A))