32
BỘ CÔNG THƯƠNG CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG SỐ 37 - 2013 Hội thảo “Công bố Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế” Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần 2 Hàng hóa có khuyết tật và trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật theo quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

  • Upload
    others

  • View
    6

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

BỘ CÔNG THƯƠNGCỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH

BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG

SỐ 37 - 2013

Hội thảo “Công bố Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế”

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc

nhìn của EU – Phần 2

Hàng hóa có khuyết tật và trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật theo quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Page 2: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

BỘ CÔNG THƯƠNG

CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH

Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập trong hệ thống tổ chức của Bộ Công Thương có nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh về Bảo vệ người tiêu dùng (nay là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng), Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp và Pháp lệnh tự vệ.

Với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2006, Cục Quản lý cạnh tranh hoạt động nhằm mục tiêu thúc đẩy và duy trì môi trường cạnh tranh hiệu quả cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Lãnh đạo Cục Quản lý cạnh tranh gồm một Cục trưởng do Thủ tướng bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương, và một số Phó Cục trưởng do Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ nhiệm.

• Thúc đẩy tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả• Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước

những hành vi hạn chế cạnh tranh• Chống các hành vi phản cạnh tranh• Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng• Hỗ trợ cho ngành sản xuất trong nước phòng, chống các vụ

kiện bán phá giá, trợ cấp và tự vệ của nước ngoài.

CƠ CẤU TỔ CHÚC CỦA CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH - BỘ CÔNG THƯƠNG

CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH

Trung tâm Đào tạo điều tra viên

Ban Điều tra và xử lý các hành vi không

lành mạnh

Văn phòng đại diện tại TP. Đà Nẵng

Ban Xử lý chống bán phá giá, chống trợ

cấp và tự vệ

Ban Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng

Ban Hợp tác quốc tế

Ban Giám sát và quản lý cạnh tranh

Văn phòng đại diện tại TP. Hồ Chí Minh

Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh Văn phòngTrung tâm thông tin

cạnh tranh

Lãnh đạo Cục

Page 3: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

BẢN TINCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG

Của Cục Quản lý cạnh tranh

Giấy phép xuất bản số 06/GP-XBBT Cấp ngày 15/01/2013

Phát hành vào ngày 20 hàng tháng

NGƯỜI CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢNBẠCH VĂN MỪNG

Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương

BAN BIÊN TẬPNGUYỄN PHƯƠNG NAM, LÊ PHÚ CƯỜNG,

PHẠM CHÂU GIANG, PHẠM HƯƠNG GIANG, NGUYỄN VĂN THÀNH, HỒ TÙNG BÁCH,

BÙI NGUYỄN ANH TUẤN, PHAN ĐỨC QUẾ, NGUYỄN ĐỨC MINH

HỘI ĐỒNG CỐ VẤNTRƯƠNG ĐÌNH TUYỂN

Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mạiPGS. TS. LÊ DANH VĨNH

Nguyên Thứ trưởng Bộ Công ThươngÔNG TRẦN QUỐC KHÁNH

Thứ trưởng Bộ Công ThươngGS. TS. HOàNG ĐỨC THÂNĐại học Kinh tế Quốc dân

PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁTViện Nhà nước và Pháp luật

TS. BÙI NGUYÊN KHÁNHViện Nhà nước và Pháp luật

Tổ chức sản xuất và phát hànhTRUNG TÂM THÔNG TIN CẠNH TRANH (CCID)

25 Ngô Quyền - Hà NộiĐT: (04) 2220 5305 * Fax: (04) 2220 5303

Email: [email protected]

Đại diện tại TP. Hồ Chí MinhTầng 6, số 8 Nam Kỳ Khởi Nghĩa - TP. HCM

Phát hành tạiCông ty phát hành báo chí Trung ương

Trong số này

Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng xin trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp của độc giả nhằm nâng cao chấtlượng của Bản tin. Mọi ý kiến đóng góp, thư từ, tin, bài xin gửi về:

Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng25 Ngô Quyền - Hoàn Kiếm - Hà Nội

ĐT: (04) 2220 5009 * Fax: (04) 2220 5303 * Email: [email protected]

04 CHUYÊN MỤC 18 TIN TỨC - SỰ KIỆN

23 VĂN BẢN PHÁP LUẬT MỚI BAN HÀNH

22 HỎI ĐÁP

25 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

30 HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ TỚI

Page 4: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

4 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI NỢ TẠI MỸ VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Kinh tế Việt Nam năm 2012 đã khép lại với nhiều vụ việc nổi cộm về vấn đề nợ xấu và tình trạng tài chính của các tổ chức tín dụng. Đi cùng sự lỏng lẻo trong chính sách quản lý tín dụng của hệ thống các ngân hàng là vấn đề “tín dụng đen” với lãi suất “cắt cổ” và cách thu hồi nợ đầy tính bạo lực đã liên tục được báo chí đưa tin và gây ra tâm lý lo ngại cho toàn xã hội. Tại Mỹ - quốc gia có nền kinh tế phát triển với phương thức chi tiêu hầu hết bằng hình thức tín dụng – tiêu trước trả sau thì vấn đề thu hồi nợ đặc biệt được quan tâm và kiểm soát chặt chẽ. Năm 1978, Quốc hội Mỹ đã thông qua Luật Thu hồi nợ (Fair Debt Collection Practices Act – FDCPA – Luật Thu hồi nợ) nhằm kiểm soát các hoạt động thu hồi nợ tại Mỹ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tạo lập môi trường thu hồi nợ minh bạch, rõ ràng. Dưới đây là một số nội dung của Luật Thu hồi nợ hướng dẫn cách thức các tổ chức, cá nhân tiếp xúc với người tiêu dùng để thu hồi nợ, cũng như quyền của người tiêu dùng liên quan đến việc ứng xử với các bên thu hồi nợ. Những nội dung dưới đây đã được thực thi và chỉnh sửa, bổ sung theo thực tế, vì vậy sẽ là kinh nghiệm quý báu cho các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam tham khảo khi xây dựng các chính sách cho vay cũng như thiết lập các rào cản quy định về việc thu hồi nợ của người tiêu dùng.1. Cơ quan thực thi Luật

Luật Thu hồi nợ được thực thi bởi Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ (Federal Trade Commission - cơ quan trực thuộc Chính phủ & chịu trách nhiệm về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên phạm vi toàn liên bang).2. Phạm vi điều chỉnh

Luật điều chỉnh các khoản nợ của cá nhân và gia đình, bao gồm nợ phát sinh từ chi tiêu bằng thẻ tín dụng, các khoản vay, các hóa đơn y tế và tài sản thế chấp. Luật không điều chỉnh các khoản nợ phục vụ cho mục đích kinh doanh.

3. Đối tượng điều chỉnhTheo quy định của Luật, đối tượng

điều chỉnh là các bên thu hồi nợ. Bên thu hồi nợ là bên thực hiện công việc thu hồi nợ. Bên thu hồi nợ có thể gồm: công ty, đại lý thu hồi nợ, luật sư và bên công ty thứ ba mua lại khoản nợ và tiến hành thu hồi nợ sau đó (công ty mua bán nợ).4. Thời điểm tiếp xúc thu hồi nợ

Bên thu hồi nợ không được phép tùy ý liên lạc, tiếp xúc với bên nợ để thu hồi nợ. Trừ khi bên nợ đồng ý (bằng lời nói hoặc văn bản) thì bên thu hồi nợ mới được liên hệ với bên nợ trước 8h sáng hoặc sau 9h tối hoặc trong thời gian làm việc.5. Quyền của người tiêu dùng từ chối gặp gỡ, trả lời bên thu hồi nợ

Người tiêu dùng có quyền yêu cầu bằng văn bản về việc bên thu hồi nợ chấm dứt liên hệ với mình về việc thu hồi nợ. Để thực hiện quyền này, người tiêu dùng cần lưu ý như sau:

• Gửi văn bản yêu cầu bên thu hồi nợ chấm dứt liên lạc.

• Giữ lại một bản sao của thông báo này.

Nên gửi yêu cầu bằng đường bưu điện và đề nghị bên bưu điện gửi báo cáo đã chuyển phát thành công lại cho mình. Như vậy, người tiêu dùng đã có bằng chứng hợp lệ về việc gửi yêu cầu đề nghị bên thu hồi nợ chấm dứt liên lạc với mình. Sau khi nhận được yêu cầu của người tiêu dùng, bên thu hồi nợ có thể liên lạc lại với bên nợ chỉ trong hai trường hợp: (1) để thông báo là họ sẽ không liên lạc với bạn nữa hoặc (2) để thông báo là họ dự định sẽ kiện người tiêu dùng ra tòa để đòi nợ. Việc yêu cầu chấm dứt liên lạc chỉ giúp người tiêu dùng không bị quấy nhiễu bởi bên thu hồi nợ nhưng không giúp cho họ tránh khỏi việc bị kiện tụng bởi bên thu hồi nợ.6. Bên thu hồi nợ có thể liên hệ với bên thứ ba để nói về khoản nợ của người tiêu dùng.

Nếu người tiêu dùng có luật sư riêng được ủy quyền giải quyết nợ thì bên thu hồi nợ có thể liên lạc với luật sư. Nếu không có luật sư, thì bên thu hồi nợ chỉ được liên hệ với người khác để hỏi về địa chỉ và số điện thoại nhà riêng của người tiêu dùng. Thông thường thì bên thu hồi nợ chỉ được liên hệ với bên thứ ba không quá một lần và không được phép nói về các khoản nợ của bên nợ.7. Bên thu hồi nợ có thể tiếp tục liên hệ với người tiêu dùng nếu như người tiêu dùng nghĩ mình không bị nợ.

Nếu người tiêu dùng gửi văn bản cho

bên thu hồi nợ thông báo họ không nợ hoặc yêu cầu bên thu hồi nợ cung cấp bằng chứng thì bên thu hồi nợ phải chấm dứt liên lạc với bên nợ. Người tiêu dùng phải gửi yêu cầu này trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được thông báo thu hồi nợ. Tuy nhiên, bên thu hồi nợ có thể tiếp tục liên hệ với người tiêu dùng sau khi họ cung cấp bằng chứng nợ như bản copy của hóa đơn chi tiêu.8. Bên thu hồi nợ không được phép thực hiện các hành vi sau đây để thu hồi nợ.

8.1 Đe dọa: Bên thu hồi nợ không được đe dọa, quấy nhiễu người tiêu dùng hoặc bất kỳ bên thứ ba nào mà họ liên hệ để thu hồi nợ. Các hành vi bị cấm bao gồm, nhưng không giới hạn:

- Đe dọa, sử dụng hành vi bạo lực hoặc gây ra tổn hại;

- Công bố danh sách các bên từ chối trả nợ (trừ khi cung cấp thông tin cho công ty đánh giá chất lượng tín dụng);

- Dùng ngôn từ không chuẩn mực;- Quấy nhiễu liên tục bằng điện thoại.8.2 Gian dối: Bên thu hồi nợ không

được lừa dối khi liên hệ với các bên để thu hồi nợ

- Mạo danh là luật sư hoặc nhân viên chính phủ;

- Lừa dối là người tiêu dùng đang vi phạm pháp luật;

- Lừa dối là làm việc cho công ty đánh giá chất lượng tín dụng;

- Lừa dối rằng giấy tờ họ cung cấp cho người tiêu dùng là mẫu văn bản pháp luật hoặc ngược lại.

- Lừa dối rằng người tiêu dùng sẽ bị vào tù nếu không trả nợ;

- Lừa dối rằng bên thu hồi nợ sẽ tịch thu, thanh lý hoặc bán tài sản hoặc lương của người tiêu dùng trừ khi bên thu hồi nợ được phép làm như vậy theo Luật và họ có ý định thật sự làm như vậy;

- Lừa dối sẽ kiện người tiêu dùng nếu như việc này không được Luật cho phép hoặc bên thu hồi nợ không có dự định làm như vậy.

- Cung cấp thông tin tín dụng sai lệch về người tiêu dùng cho bên thứ ba, bao gồm cả công ty đánh giá chất lượng tín dụng;

- Cung cấp cho người tiêu dùng mẫu văn bản giống như văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong khi sự thật không phải như vậy;

- Mạo danh tên công ty khác.8.3 Hành vi đối xử không công

bằng: Bên thu hồi nợ không được thực hiện các hành vi không công bằng khi thu hồi nợ.

- Tận thu các khoản phí, lãi suất không được quy định theo Luật hoặc hợp động;

Page 5: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

5ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

- Tịch thu hoặc đe dọa tịch thu tài sản của người tiêu dùng trái với quy định pháp luật;

- Liên hệ với người tiêu dùng bằng bưu thiếp.9. Quyền lựa chọn thanh toán nợ

Đối với trường hợp người tiêu dùng nợ nhiều khoản thì họ có quyền chọn lựa khoản nợ nào sẽ được thanh toán trước. Bên thu hồi nợ không được phép thu hồi nợ đối với các khoản nợ mà người tiêu dùng cho rằng họ không nợ.10. Việc phong tỏa tài khoản ngân hàng hoặc tài khoản lương

Nếu người tiêu dùng không trả nợ thì bên thu hồi nợ có quyền kiện ra tòa để đòi nợ. nếu bên thu hồi nợ thắng kiện, tòa sẽ ra phán quyết về số tiền mà người tiêu dùng nợ. Khi đó, bên thu hồi nợ có quyền phong tỏa và trích từ tài khoản ngân hàng hoặc tiền lương của người tiêu dùng số tiền mà họ nợ theo quy định của pháp luật.11. Người tiêu dùng làm gì nếu phát hiện bên thu hồi nợ vi phạm pháp luật

Người tiêu dùng có quyền kiện bên thu hồi nợ nợ ra tòa án bang hoặc tòa án liên bang trong vòng một năm kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm pháp luật. Nếu thắng kiện, người tiêu dùng sẽ được bên thu hồi nợ bồi thường số tiền tương ứng với các khoản chi phí mà người tiêu dùng phải chịu do lỗi của bên thu hồi nợ (nếu cung cấp được bằng chứng), ví dụ như giảm lương hoặc hóa đơn y tế và các chi phí khởi kiện. Trường hợp không có bằng chứng về các khoản thiệt hại thì tòa có thể yêu cầu bên thu hồi nợ bồi thường tối đa 1000 đô la Mỹ. Người tiêu dùng có thể khởi kiện tập thể và trong trường hợp này mức bồi thường có thể lên đến 500.000 đô la Mỹ hoặc 1% giá trị trị tài sản của bên thu hồi nợ tùy theo số nào thấp hơn. Cần lưu ý là ngay cả khi bên thu hồi nợ vi phạm pháp luật khi thu hồi nợ thì người tiêu dùng vẫn phải có trách nhiệm trả nợ nếu như họ nợ thực sự.12. Những lưu ý khác

Khi bên thu hồi nợ khởi kiện vụ án đòi nợ thì người tiêu dùng nên chủ động đối phó với vụ kiện theo thông báo của tòa nhằm bảo đảm các quyền của người tiêu dùng. Trao đổi với luật sư ngay khi người tiêu dùng thấy có vấn đề từ phía bên thu hồi nợ để xin ý kiến tư vấn hoặc được cung cấp các quyền của người tiêu dùng liên quan đến các hành vi thu hồi nợ.

TÙNG BÁCH

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm của toàn xã hội, bao gồm sự tham gia không chỉ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp mà còn cả các tổ chức xã hội và chính bản thân người tiêu dùng. Thực tế công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam trong thời gian qua đã cho thấy vai trò đi đầu và thật sự cần thiết của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng.

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định số 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (NĐ 99) đã dành hẳn các điều khoản, chương mục quy định cụ thể và rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng. Theo đó, Bộ Công Thương là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ở cấp địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở địa phương. Sở Công Thương là cơ quan giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương. Bên cạnh hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng quy định rõ ràng về trách nhiệm của các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng, cụ thể là trách nhiệm của các hội bảo vệ người tiêu dùng như thực tế đang diễn ra tại Việt Nam.

1. Trách nhiệm của Sở Công ThươngTại Điều 35 NĐ số 99/2011 của Chính

phủ quy định rõ ràng các trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp huyện và xã. Khoản 1 của Điều này tập trung vào các trách nhiệm của Sở Công Thương – đơn vị được phân công giúp việc cho UBND tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng.

Trách nhiệm đầu tiên của Sở Công Thương là kiểm soát hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung.

Điều 9, NĐ 99 quy định về thẩm quyền của Sở Công Thương trong việc tiếp nhận đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong trường hợp hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung áp dụng trong phạm vi tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương. Danh mục hàng hóa, dịch vụ thuộc

phạm vi kiểm soát bắt buộc được quy định tại Quyết định 02/2012/QĐ-TTg ngày 13 tháng 01 năm 2012 về Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Theo đó, có 09 nhóm hàng hóa, dịch vụ phải đăng ký bắt buộc, bao gồm: điện, nước, mua bán căn hộ chung cư, truyền hình trả tiền...

Thực tế trong lĩnh vực mua bán các nhóm hàng hóa, dịch vụ trên cho thấy phát sinh nhiều vi phạm liên quan đến điều khoản nội dung hợp đồng mẫu. Các hợp đồng mẫu này thường được áp dụng với số lượng khách hàng lớn và chứa đựng nhiều khái niệm, thuật ngữ gây khó hiểu, hiểu nhầm cho người tiêu dùng, từ đó dễ phát sinh các thiệt hại cho người tiêu dùng khi có tranh chấp xảy ra. Trong khi đó, các nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện bắt buộc kiểm soát đều có lợi thế về thị phần, ví dụ: điện, nước,.. là các nhóm hàng hóa cung cấp độc quyền; dịch vụ vận tải hàng không, đường sắt căn hộ chung cư có nhiều khái niệm, thuật ngữ chuyên môn và điều khoản quốc tế...vì vậy, khả năng để người tiêu dùng có điều kiện tìm hiểu, trao đổi và đàm phán ký kết hợp đồng bình đẳng với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ là không thể. Xuất phát từ thực tế đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giao trách nhiệm cho Sở Công Thương kiểm soát các hợp đồng theo mẫu, các điều kiện giao dịch chung áp dụng trong phạm vi tỉnh mình.

Phạm vi xem xét được quy định cụ thể tại Điều 13, NĐ 99. (không bao gồm toàn bộ nội dung của hợp đồng mẫu)

Thủ tục, thời gian kiểm soát được quy định tại NĐ 99 từ Điều 7 đến Điều 15

Trong thời gian vừa qua, Cục Quản lý cạnh tranh đã tổ chức các đoàn công tác tại một số tỉnh thành nhằm tìm hiểu về tình hình thực hiện Quyết định số 02 của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể, kể từ thời điểm Quyết định có hiệu lực thi hành từ tháng 3 năm 2012, hầu hết các địa phương đều đã được quán triệt về nội dung của QĐ và bước đầu thực hiện một số hoạt động cụ thể:

- Có các văn bản gửi các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong tỉnh về trách nhiệm đăng ký hợp đồng;

- Một số tỉnh đã xây dựng quy trình tiếp nhận, kiểm soát hợp đồng theo mẫu;

TRÁCH NHIỆM CỦA SỞ CÔNG THƯƠNG VÀ CÁC HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

Page 6: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

6 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

- Một số tỉnh đã chú trọng cử cán bộ đi học tập kinh nghiệm tại các khóa đào tạo của Cục QLCT hoặc liên hệ để tham khảo kinh nghiệm triển khai của Cục QLCT.

Tuy vậy, kết quả tiếp nhận trên thực tế còn nhiều hạn chế. Trước hết là số lượng hồ sơ tiếp nhận tại các Sở còn rất ít (từ 01 đến 03 bộ, tỉnh nhiều nhất là 7 bộ qua hơn 5 tháng triển khai, thậm chí có nhiều Sở chưa tiếp nhận bộ nào). Nhiều tỉnh chưa hoàn thiện quy trình chuẩn tiếp nhận và xử lý hồ sơ, vẫn giải quyết đơn lẻ từng hồ sơ một. Các hạn chế này cho thấy cần phải tăng cường hơn nữa sự chủ động và quan tâm theo dõi của lãnh đạo các tỉnh, đặc biệt là sự đôn đốc và theo dõi sát sao của lãnh đạo Sở.

Ngoài phạm vi 09 nhóm hàng hóa, dịch vụ được quy định bắt buộc phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong Quyết định 02 nói trên, đối với các hợp đồng của các nhóm hàng hóa, dịch vụ khác, nếu phát hiện sai phạm trong nội dung hợp đồng thì Sở Công Thương có quyền yêu cầu doanh nghiệp tiến hành sửa đổi, hủy bỏ nội dung vi phạm đó.

Trách nhiệm tiếp theo của Sở là thẩm định các đề án, kế hoạch hoạt động của tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao thực hiện nhiệm vụ gắn với nhiệm vụ của Nhà nước

Thực tế hoạt động của các hội bảo vệ người tiêu dùng cho thấy còn nhiều khó khăn về phương hướng hoạt động, nhân sự, đặc biệt là kinh phí để hoạt động. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định các hội bảo vệ người tiêu dùng được thực hiện các nhiệm vụ gắn với nhiệm vụ của Nhà nước và khi thực hiện các nhiệm vụ này, các hội được hỗ trợ kinh phí. Xuất phát từ quy định này, một trong những trách nhiệm quan trọng của Sở Công Thương là thẩm định các đề án, kế hoạch hoạt động của các hội trong phạm vi tỉnh mình; từ đó tham mưu cho lãnh đạo Tỉnh ra quyết định giao thực hiện nhiệm vụ gắn với nhiệm vụ của nhà nước cho các tổ chức xã hội.

Tiếp theo đó, Sở Công Thương cũng cần phối hợp với các sở ban ngành khác, đặc biệt là Sở Nội vụ để ra các văn bản

tạo điều kiện phát triển mạng lưới và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các hội bảo vệ người tiêu dùng. Cà Mau là một tỉnh có kinh nghiệm thực hiện rất tốt trong việc phát triển mạng lưới hội và gắn kết nhiệm vụ của hội với các nhiệm vụ của nhà nước. Cụ thể, hiện tại Cà Mau đã hình thành hội bảo vệ người tiêu dùng tại tất cả 9 huyện.

Tỉnh hội đã được công nhận là hội đặc thù với kinh phí từ ngân sách hàng năm là 198tr và được bố trí 03 biên chế thường xuyên. 7/9 hội tại các huyện được bố trí 02 biên chế hưởng lương thường xuyên. Có được sự phát triển như vậy là nhờ vào sự kết hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo Sở với lãnh đạo Hội và các cơ quan, ban ngành liên quan khác.

Một trách nhiệm mới của Sở Công Thương được quy định trong Luật là Công bố công khai danh sách tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng

Xuất phát từ việc các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ngày càng tinh vi và phổ biến, trong khi đó, các chế tài xử phạt chưa được thực hiện nghiêm minh và có hiệu quả, vì vậy, việc công bố công khai các doanh nghiệp vi phạm quyền lợi người tiêu dùng sẽ là một trong những hình thức xử phạt có giá trị răn đe và cung cấp các thông tin tiêu dùng an toàn cho người tiêu dùng.

Theo quy định tại Điều 23, NĐ 99, Sở Công Thương có trách nhiệm công bố

danh sách vi phạm trong trường hợp vụ việc vi phạm liên quan từ hai huyện trở lên trong phạm vi tỉnh mình. Địa điểm công bố được thực hiện công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên website, cổng thông tin của Sở hoặc tại trụ sở làm việc của Sở. Thời gian công bố là 30 ngày kể từ ngày công bố. Nội dung công bố bao gồm tên người vi phạm; hành vi vi phạm và quyết định xử phạt.

Tại nhiều nước trên thế giới, hình thức xử phạt bằng cách công bố công khai tên doanh nghiệp vi phạm đồng nghĩa với việc chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.

Trách nhiệm tiếp theo của Sở là kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.

Để thực hiện trách nhiệm này, Sở Công Thương cần tăng cường phối hợp với các lực lượng, các sở ban ngành liên quan như Sở Y tế, Quản lý thị trường, các ban quản lý chợ, trung tâm thương mại...để kiểm tra tình hình thực hiện các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại các điểm giao dịch trên địa bàn địa phương. Tại một số tỉnh thành, Sở Công Thương cùng các đoàn kiểm tra liên ngành đã tổ chức các cuộc kiểm tra về tình hình niêm yết giá, bảo quản chất lượng hàng hóa bày bán tại các chợ; đặt các cân đối chứng để người tiêu dùng kiểm tra tình hình cân, đo, đong đếm...

Bên cạnh đó, một trong những nhiệm vụ chính của Sở là tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu của người tiêu dùng. NĐ 99 đã dành hẳn Chương 4, từ Điều 20 đến Điều 23 quy định về quy trình và thủ tục tiếp nhận, xử lý yêu cầu của người tiêu dùng tại các cơ quan quản lý nhà nước.

Nhằm thực hiện tốt hoạt động bảo vệ người tiêu dùng, Luật khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia hoạt động bảo vệ người tiêu dùng. Trong phạm vi tỉnh mình, Sở Công Thương có trách nhiệm tiếp nhận các hồ sơ xin thành lập, giải thể các tổ chức hòa giải. Nội dung này được quy định tại Điều 31 NĐ99.

Nhằm đẩy mạnh hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương thì Sở Công Thương có trách nhiệm hướng dẫn các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện trong việc thực hiện các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Các nội dung cơ bản cần được hướng dẫn cho các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện, xã là: tuyên truyền, phổ biến pháp luật; tiếp nhận và giải quyết yêu cầu của người tiêu dùng và công bố danh sách các tổ chức, cá nhân vi phạm.

Page 7: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

7ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

2. Trách nhiệm của các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Bên cạnh vai trò và trách nhiệm của các Sở Công Thương trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng, theo quy định của pháp luật và thực tế cũng cho thấy, vai trò và trách nhiệm của các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là hết sức quan trọng và có đóng góp hiệu quả tích cực vào thành công của hoạt động bảo vệ người tiêu dùng.

Theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các hội có các trách nhiệm chính nổi bật sau đây:

Tuyên truyền, hướng dẫn, đào tạo nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng.

Tuyên truyền và nâng cao nhận thức tiêu dùng là nhiệm vụ và trách nhiệm hàng đầu của các hội. Thực tế cho thấy, nhờ số lượng và phạm vi hoạt động rộng khắp trên cả nước nên việc truyền tải các nội dung văn bản pháp luật đến nhiều đối tượng khác nhau sẽ được thực hiện dễ dàng nếu có sự tham gia của các Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Phát huy thế mạnh này, hàng năm, các hội tại các tỉnh thành đều đã tổ chức nhiều hội thảo, nhiều hoạt động đa dạng và phong phú như in và phát hành tài liệu, treo băng rôn, tổ chức tọa đàm...để tuyên truyền kiến thức tiêu dùng. Đối tượng hướng tới của các hội cũng rất rộng, từ doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả các thành viên của hội. Chủ đề tuyên truyên cũng rất linh hoạt, tập trung vào kiến thức pháp luật và kinh nghiệm tiêu dùng hoặc các vấn đề tiêu dùng đang thu hút sự chú ý của dư luận như các vấn đề về tương nhiễm hóa chất độc MPCD, thịt lợn có chứa hóa chất tạo nạc, cách chọn mua bỉm, rau sạch...

Cũng cần lưu ý là thông qua các hoạt động tuyên truyền này, thương hiệu và khả năng của các hội sẽ được biết đến ngày càng nhiều hơn trong cộng đồng người tiêu dùng và cộng đồng doanh nghiệp. Cùng với đó, sẽ tăng cường sự phối hợp, trao đổi làm việc giữa các hội với các cơ quan nhà nước, với doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Một trong những chức năng chính và cũng là trách nhiệm mà các hội thực hiện theo quy định của Luật là Tư vấn, hỗ trợ cho người tiêu dùng. Hoạt động tư vấn, hỗ trợ cho người tiêu dùng thực tế đã được thực hiện từ rất sớm và là hoạt động nổi bật của các hội. Thông qua các văn phòng tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng, hàng năm, phần lớn các yêu cầu, khiếu nại của người tiêu dùng đã được giải quyết. Cụ thể, trong năm 2011, chỉ riêng Hội Vinastas đã giải

quyết hơn 900 yêu cầu của người tiêu dùng, tỷ lệ giải quyết thành công hơn 80%, chiếm phần lớn trong tổng số vụ việc của người tiêu dùng trên phạm vi cả nước. Hoạt động tư vấn và giải quyết khiếu nại của các tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới cũng được coi là nhiệm vụ trọng tâm và tại 1 số nước như Đài Loan, Singapore thì đây là hoạt động không chỉ mang lại danh tiếng mà còn đảm bảo kinh phí cho hoạt động của các hội.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, kinh nghiệm cho thấy, lãnh đạo tỉnh, sở và đặc biệt là lãnh đạo Hội cần quan tâm, bố trí văn phòng làm việc, điện thoại để kết nối với người tiêu dùng và quan trọng là tăng cường chất lượng nhân sự, đảm bảo giải quyết nhanh và chính xác các yêu cầu của người tiêu dùng.

Đại diện người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng của các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng.

Liên quan đến trách nhiệm tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng đảm bảo quyền lợi của mình, một trong những trách nhiệm tuy mới nhưng phù hợp với thực tế tình hình bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam trong thời gian vừa qua là trách nhiệm Đại diện người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng của các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng.

Trước thời điểm Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hiệu lực thi hành, các tổ chức xã hội tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chỉ có chức năng tiếp nhận và đại diện người tiêu dùng khởi kiện khi có sự ủy quyền (đơn khiếu nại) của người tiêu dùng. Sự giới hạn này đã ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích chung của xã hội. Các cuộc điều tra, khảo sát cho thấy, phần lớn vi phạm thường ngày đối với người tiêu dùng xuất phát từ các giao dịch nhỏ, lẻ, không có giá trị như mua bán xăng, dầu, lương thực phẩm, nước giải khát…hoặc cao hơn chút là các giao dịch online như mua bán sách, đĩa, hàng hóa…Vì tính chất nhỏ lẻ của các giao dịch này nên khi phát sinh thiệt hại, người tiêu dùng thường bỏ qua các vụ việc, không khiếu kiện hoặc không chú ý tới tổn thất. Những vi phạm này, nếu xét theo khía cạnh lợi ích cá nhân thì không có giá trị, tuy nhiên, tính theo giá trị xã hội thì thiệt hại là rất lớn, và quan trọng là cần phải có tiếng nói để cảnh báo tới những người tiêu dùng khác và tới chính những doanh nghiệp đang lợi dụng tâm lý ngại kiện tụng của người tiêu dùng để trục lợi. Từ thực tế đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho phép các tổ chức xã hội tự

mình khởi kiện khi phát hiện các vụ việc vi phạm lợi ích công cộng. Với quy định này, từ nay, các tổ chức xã hội có thể chủ động thay mặt người tiêu dùng để thực hiện các vụ khiếu kiện trên quy mô lớn.

Bên cạnh các trách nhiệm nêu trên thì trách nhiệm thực hiện các nghiên cứu, khảo sát thực tế, tập hợp ý kiến, phản ánh nhu cầu của người tiêu dùng cũng là nội dung quan trọng trong hoạt động của các hội. Thực tế cho thấy, các cơ quan quản lý nhà nước khó có thể phát hiện tất cả các vấn đề của người tiêu dùng, do vậy, sự tham gia nghiên cứu và công bố các vấn đề tiêu dùng đang gây quan ngại cho cộng đồng là trách nhiệm cần thiết và mang lại giá trị thực tế cao cho người tiêu dùng.

Thời gian vừa qua, thông qua các hoạt động khảo sát thực tế của các hội, rất nhiều vấn đề tiêu dùng nóng bỏng đã được đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng để cảnh báo người tiêu dùng và đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước vào cuộc: ví dụ như hiểm họa chất transfat trong thực phẩm, chất lượng hóa mỹ phẩm, chất lượng an toàn vệ sinh cho trẻ em, vấn đề chất tạo nạc trong thịt lợn...Các đề tài khảo sát và nghiên cứu này không chỉ cảnh báo cho người tiêu dùng về các hiểm họa khi tiêu dùng sản phẩm mà còn giúp các cơ quan nhà nước phát hiện và xử lý các vi phạm tiêu dùng xảy ra trên phạm vi và số lượng lớn.

Cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Kết hợp với trách nhiệm khảo sát, thử nghiệm; công bố kết quả khảo sát, các tổ chức xã hội cũng có thể tận dụng các thông tin điều tra để thực hiện trách nhiệm cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Với lợi thế phạm vi hoạt động sâu rộng, gắn bó trực tiếp với các hoạt động tiêu dùng của người dân, cùng với đó là khả năng chuyên môn cao trong lĩnh vực phát hiện các dấu hiệu vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, các tổ chức xã hội thực sự là “tai mắt” của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc phát hiện các hành vi vi phạm pháp Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Do vậy, Luật đã quy định một trong những nhiệm vụ và cũng là trách nhiệm của các tổ chức xã hội là cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

(xem tiếp trang 15)

Page 8: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

8 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

Thời gian gần đây, trước sự thắt chặt quản lý về tài chính, tiền tệ trong bối cảnh một số ngân hàng lâm vào khó khăn, người tiêu dùng – những người tham gia giao dịch, sử dụng các dịch vụ của ngân hàng – ngày càng bất bình trước những quy định thể hiện sự ép buộc khách hàng của các ngân hàng. Xét dưới góc độ Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật, khách hàng chính là người tiêu dùng tham gia giao dịch và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng thông qua việc ký kết hợp đồng như một giao dịch dân sự. Tuy nhiên, hầu hết các giao dịch và các dịch vụ của ngân hàng khi giao kết với người tiêu dùng đều thể hiện dưới dạng hợp đồng mẫu và/hoặc điều kiện giao dịch chung. Xuất phát từ điều này, những cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng cần kiểm soát, tiếp nhận để giải quyết những khiếu nại của người tiêu dùng khi họ luôn luôn bị lép vế trước những yêu sách và cách hành xử của ngân hàng trong quá trình giao kết với người tiêu dùng.

Có một thực tế rằng, suốt một thời gian dài vừa qua, ngân hàng thương mại (gọi tắt là ngân hàng) và các tổ chức tín dụng có một thứ đặc quyền hoặc họ tự cho mình có đặc quyền được hành xử gần như ban phát trong giao dịch với khách hàng. Muốn sử dụng các dịch vụ, giao dịch với ngân hàng thì hầu như khách hàng phải nhất nhất tuân theo quy định, theo những giao kèo sẵn có do ngân hàng lập ra. Đây chính là một dạng hợp đồng mẫu và/hoặc điều kiện giao dịch chung do các ngân hàng ban hành để giao kết với người tiêu dùng.

Hành vi này được điều chỉnh bởi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và được quy định cụ thể trong Nghị định số 99/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung chỉ ra 09 lĩnh vực kinh doanh thuộc phạm vi phải đăng ký mà không có ngân hàng. Tuy nhiên Nghị định số 99/2011/NĐ-CP đã quy định như sau:

Điều 16. Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung không thuộc phạm vi phải đăng ký.

1. Trường hợp nội dung của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung vi phạm pháp Luật về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc trái với nguyên tắc chung về giao kết hợp đồng, cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 9 Nghị định này có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh phải sửa đổi, hủy bỏ nội dung vi phạm đó.

2. Trường hợp nội dung trong hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung không rõ hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau, cơ quan có thẩm quyền có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh giải trình làm rõ các nội dung trong hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung đó.

3. Trong thời hạn mười (10) ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải sửa đổi, hủy bỏ nội dung vi phạm và thông báo cho người tiêu dùng đã giao kết hợp đồng. Trường hợp việc sửa đổi, hủy bỏ nội dung vi phạm dẫn đến điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực và phát sinh thiệt hại đối với người tiêu dùng thì xử lý theo quy định của pháp luật dân sự.

Điều này cho thấy các cơ quan quản lý nhà nước phải có trách nhiệm kiểm soát các giao kết giữa ngân hàng với người tiêu

dùng khi phản ánh và khiếu nại của người tiêu dùng ngày càng nhiều thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các đường dây tiếp nhận thông tin người tiêu dùng của các cơ quan quản lý và tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng.

Liên tục trong khoảng một tháng lại đây, qua các phương tiện truyền thông và các mạng xã hội, rất nhiều khách hàng sử dụng thẻ rút tiền thông qua máy rút tiền tự động (ATM) của các ngân hàng kêu gọi tẩy chay thẻ ATM khi có nguồn thông tin các ngân hàng sẽ chính thức thu phí rút tiền nội mạng trong thời gian sắp tới, các mức phí rút tiền ngoại mạng và một số giao dịch khác cũng bị thu phí và thu với mức cao hơn. Xét dưới góc độ một giao dịch dân sự được các bên cam kết thực hiện thông qua một hợp đồng thì đây chính là quy định đơn phương từ phía các ngân hàng.

Khi khách hàng tiến hành làm thẻ ATM, khách hàng phải cam kết, phải cung cấp các thông tin cá nhân và phải thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng theo một biểu mẫu sẵn có do ngân hàng phát hành. Trong đó, không hề nói đến việc chủ thẻ phải trả phí khi rút tiền bằng thẻ ATM, trả phí khi thực hiện các giao dịch chuyển/nhận tiền trực tuyến, theo dõi số dư tài khoản…v.v và cũng không nói rõ quy định mức phí này là bao nhiêu, được tính như thế nào. Trong khi đó, cứ mỗi thời điểm khác nhau, ngân hàng lại đưa ra một quy định mới áp đặt ý chí của mình đối với khách hàng sử dụng dịch vụ mà không hề có sự đồng ý của khách hàng.

Tương tự như vậy, khi tiến hành làm thẻ ATM cho khách hàng với mục đích chính là để trả lương/tiền công thông qua tài khoản tại ngân hàng, hợp đồng mẫu do ngân hàng cung cấp yêu cầu chủ thẻ giao kết cũng không hề có quy định về việc

BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG GIAO DỊCH VớI NGâN HÀNG, Tổ CHứC TíN DụNG – CầN KIểM SOÁT HỢP ĐỒNG MẫU, ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG CỦA NGâN HÀNG

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Page 9: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

9ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

ngân hàng sẽ thu phí gọi là “Phí quản lý tài khoản”. Tuy nhiên ngân hàng vẫn trừ tiền trực tiếp bằng cách trích từ tài khoản của chủ thẻ cho việc thu phí này. Hành vi đơn phương của ngân hàng không hề được thông báo cho chủ thẻ biết trước chứ chưa nói đến có được sự đồng ý của chủ thẻ hay không. Đơn cử như ngân hàng kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đã thực hiện khoản thu phí vô lý này bằng cách trích trực tiếp từ tài khoản trả lương của chủ thẻ mà không hề có giải thích. Khi tiếp nhận những thông tin phản ánh hành vi này, chúng tôi đã gọi điện đến đường dây của ngân hàng Techcombank, tuy nhiên sau khi tiếp nhận thông tin, giao dịch viên của ngân hàng đều ghi nhận và sẽ báo cáo với người có trách nhiệm giải quyết mà không có phản hồi.

Các hành vi nêu trên đã vi phạm nghiêm trọng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cụ thể là các hành vi này nằm trong phạm vi điều chỉnh của khoản 1 Điều 16 của Luật. Điều này có nghĩa là hợp đồng giao kết giữa ngân hàng và người tiêu dùng không có hiệu lực. Bởi trong hợp đồng, ngân hàng không quy định rõ ràng hoặc cố tình quy định mập mờ về nghĩa vụ đóng các khoản phí đối với chủ thẻ khi thực hiện các giao dịch, sau đó ngân hàng đơn phương thay đổi điều kiện của hợp đồng đã ký kết trước với người tiêu dùng, quy định chủ thẻ phải nộp các khoản phí theo yêu cầu của ngân hàng. Trong việc này, thậm chí chủ thẻ không hề biết tại sao mình phải đóng các khoản phí đó khi mà không hề được nêu cụ thể trong hợp đồng đã thỏa thuận. Ngân hàng cũng chiếm ưu thế là bên giữ tiền của người tiêu dùng nên tự động trích tiền phí từ tài khoản của chủ thẻ để trả cho chính ngân hàng. Chủ thẻ sau đó được thông báo bị trừ tiền khi việc đã hoàn tất bằng tin nhắn qua điện thoại hoặc hộp thư điện tử (e-mail).

Điều 16. Điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực

1. Điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực trong các trường hợp sau đây:

a) Loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng theo quy định của pháp luật;

b) Hạn chế, loại trừ quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng;

c) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương thay đổi điều kiện của hợp đồng đã thỏa thuận trước với người tiêu dùng hoặc quy tắc, quy định bán hàng, cung ứng dịch vụ áp

dụng đối với người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không được thể hiện cụ thể trong hợp đồng;

d) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương xác định người tiêu dùng không thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ;

đ) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quy định hoặc thay đổi giá tại thời điểm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ;

e) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ giải thích hợp đồng trong trường hợp điều khoản của hợp đồng được hiểu khác nhau;

g) Loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua bên thứ ba;

h) Bắt buộc người tiêu dùng phải tuân thủ các nghĩa vụ ngay cả khi tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không hoàn thành nghĩa vụ của mình;

i) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không được người tiêu dùng đồng ý.

2. Việc tuyên bố và xử lý điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.

Thực tế hiện nay, khi hàng lọat ngân hàng lâm vào tình cảnh khó khăn do bị siết chặt các quy định về tài chính, tiền tệ thì cũng là lúc ngân hàng tìm cách lôi kéo khách hàng, đặc biệt là tìm cách thuyết phục khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng nhằm tìm kiếm nguồn huy động vốn, chiếm giữ vốn và gia tăng lợi nhuận. Đây là thời điểm nở rộ các dịch vụ ngân hàng khi ngân hàng liên tục tung ra các chiêu khuyến khích khách hàng, đặc biệt là phát hành thẻ rút tiền tự động đa năng, thẻ tín dụng (visa, master…và các hình thức gửi/nhận/chuyển tiền tự động, trực tuyến.

Để tham gia sử dụng các dịch vụ này, khách hàng chỉ cần điền thông tin vào các mẫu hợp đồng được in sẵn do ngân hàng cung cấp. Hầu hết khách hàng không ý thức được rằng mình đang tham gia giao kết một hợp đồng với ngân hàng để sử dụng dịch vụ của họ. Chính vì thế người tiêu dùng – một cách chủ quan - đã đặt bút ký, đồng ý với các điều khoản quy định của ngân hàng đưa ra.

Tuy nhiên, xem xét các hợp đồng này dưới góc nhìn pháp lý, chủ thể phát hành hợp đồng là các ngân hàng và các hợp đồng này được thể hiện dưới hình thức

bằng văn bản là hợp đồng mẫu và/hoặc điều kiện giao dịch chung. Đây là một loại hợp đồng giao kết với người tiêu dùng bị điều chỉnh bởi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Trước tiên, xem xét về mặt hình thức các hợp đồng mẫu do ngân hàng phát hành có thể dễ dàng nhận ra hàng loạt vi phạm. Một trong những vi phạm điển hình nhất là cỡ chữ in trên các tờ hợp đồng. Luật không quy định sử dụng phông chữ in nào nhưng quy định cỡ chữ tối thiểu phải là 12. Hầu hết các hợp đồng của ngân hàng đều in chữ rất nhỏ so với quy định, trình bày chữ dày đặc, khó đọc. Thêm nữa, nền giấy và màu mực trên hợp đồng có khi không tương phản nhau càng hạn chế sự tập trung để ý câu chữ trong hợp đồng của người đọc.

Quy định cũng chỉ ra hợp đồng phải bằng tiếng Việt và phải đảm bảo tiêu chí rõ ràng, dễ hiểu. Điều này thể hiện triết lý bảo vệ người tiêu dùng tức là bảo vệ tất cả các tầng lớp người tiêu dùng tham gia giao dịch với cá nhân, tổ chức kinh doanh. Và tiêu chí rõ ràng, dễ hiểu, sử dụng tiếng Việt một cách tường minh phải được tuân thủ chặt chẽ. Tuy nhiên rất nhiều hợp đồng vi phạm quy định này. Sử dụng hàng loạt các thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài không giải thích trong hợp đồng, viết tắt khiến người đọc khó luận giải và trình bày rườm rà, khó hiểu nhằm mục đích khiến người đọc không hiểu rõ, hiểu đúng và không đủ kiên nhẫn đọc hết hợp đồng. Người tiêu dùng chỉ có một lựa chọn hoặc là đồng ý ký hợp đồng để tham gia sử dụng dịch vụ của ngân hàng hoặc không đồng ý ký thì thôi.

Điều 7 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP cụ thể hóa Điều 14 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định:

Điều 7. Yêu cầu chung đối với hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung

Hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải được lập thành văn bản và phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:

1. Ngôn ngữ sử dụng bằng tiếng Việt, nội dung phải rõ ràng, dễ hiểu; cỡ chữ ít nhất là 12.

2. Nền giấy và màu mực thể hiện nội dung hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải tương phản nhau.

Xem xét về nội dung của hợp đồng mẫu do ngân hàng phát hành có thể thấy rất nhiều điều khoản không rõ ràng, minh bạch. Những điều khoản này hoặc quy định có tính ép buộc người tiêu dùng phải tuân theo ý chí của ngân hàng hoặc quy định không tương xứng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong khi người tiêu dùng

Page 10: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

10 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

là bên yếu thế. Ngoài những điều khoản vi phạm quy định tại Điều 16 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng dẫn đến hợp đồng không có hiệu lực thì rất nhiều hợp đồng mẫu khác của ngân hàng không đảm bảo sự phù hợp với nguyên tắc chung về giao kết hợp đồng.

Cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng xem xét nội dung hợp đồng theo mẫu, điều kiện chung trong phạm vi như theo quy định tại điều 13 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP:

Điều 13. Phạm vi xem xét nội dung hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung

Cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 9 Nghị định này xem xét hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung đối với các nội dung sau:

1. Nội dung không có hiệu lực quy định tại Điều 16 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

2. Các quy định tại Điều 7 Nghị định này.

3. Sự phù hợp với quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nguyên tắc chung về giao kết hợp đồng.

Như vậy, mặc dù hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung của ngân hàng không nằm trong danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký theo Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhưng pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng đã lường trước những trường hợp như thế và cho phép cơ quan có thẩm quyền kiểm soát khi phát hiện có vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Trong những giai đoạn và điều kiện khác nhau, những hàng hóa dịch vụ thiết yếu với đời sống dân sinh cần tiếp tục được bổ sung vào danh mục phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung để đảm bảo ý nghĩa tối thượng của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Trước thực tiễn những sai phạm ngày càng nhiều làm ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng của các dịch vụ do ngân hàng cung cấp, các cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng vào cuộc và đưa ra những giải pháp kiểm soát hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung do ngân hàng phát hành để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các đơn vị kinh doanh dịch vụ ngân hàng.

KHÁNH AN

Theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khi phát hiện hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải tiến hành thông báo và thu hồi hàng hóa có khuyết tật. Nhằm hỗ trợ và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiếp nhận và ra thông báo về nhiều vụ việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật trong thời gian vừa qua. Qua thực tế diễn ra trong lĩnh vực thu hồi hàng hóa có khuyết tật, căn cứ vào các chương trình thu hồi đã được thực hiện trong thời gian vừa qua, Cục tổng hợp một số hướng dẫn tham khảo cho các tổ chức, cá nhân như sau:1. Định nghĩa của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về hàng hóa có khuyết tật.

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định:

Hàng hóa có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho người tiêu dùng, bao gồm:

a) Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật;

b) Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ;

c) Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng.

Tại Việt Nam và trên thế giới, khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển và lưu trữ là loại khuyết tật dễ xảy ra. Các dạng khuyết tật này có thể diễn ra đối với mọi loại hàng hóa, từ hàng tiêu dùng cho đến những hàng hóa xa xỉ phẩm như ô tô, điện thoại, xe máy...Nhiều khuyết tật ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng hàng hóa của người tiêu

dùng như các lỗi kỹ thuật liên quan đến phanh, dầu động cơ của xe máy, ô tô,..Một số khuyết tật có thể không trực tiếp ảnh hưởng tới tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng nhưng có thể gây ra những tâm lý lo ngại cho người tiêu dùng, ví dụ như hiện tượng đóng cặn xảy ra đối với nước mắm Miwon Hải Ngư hoặc tiếng kêu lạ trên vành bánh sau xe Liberty trong thời gian vừa qua. Điều quan trọng đối với các tổ chức, cá nhân là ngay khi phát hiện hoặc nhận được thông tin do khách hàng cung cấp về bất kỳ sự không hài lòng nào liên quan đến hàng hóa thì cần tiến hành các chương trình kiểm tra. Nếu phát hiện khuyết tật và khuyết tật này xảy ra trên phạm vi nhiều sản phẩm thì cần ngay lập tức dừng việc cung cấp hàng hóa có khuyết tật ra thị trường và kịp thời thông báo về khuyết tật này tới người tiêu dùng. Tùy theo phạm vi thị trường phân phối tổ chức, cá nhân cũng cần thông báo rộng rãi tới người tiêu dùng về cách thức mà tổ chức, cá nhân khắc phục khuyết tật đó. 2. Tạm dừng lưu thông và thông báo về hàng hóa có khuyết tật và chương trình thu hồi hàng hóa có khuyết tật.

Ngay khi xác nhận khuyết tật xảy ra, tổ chức, cá nhân phải kịp thời tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngừng việc cung cấp hàng hóa có khuyết tật trên thị trường; đồng thời thực hiện việc công bố hàng hóa có khuyết tật trên các phương tiện thông tin đại chúng và bằng những cách thức khác nhằm nhanh chóng đưa thông tin đến với người tiêu dùng. Theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các nội dung cơ bản trong thông báo về hàng hóa có khuyết tật bao gồm:

Mô tả hàng hóa phải thu hồi;Lý do thu hồi hàng hóa và cảnh báo

nguy cơ thiệt hại do khuyết tật của hàng hóa gây ra;

Thời gian, địa điểm, phương thức thu hồi hàng hóa;

Thời gian, phương thức khắc phục khuyết tật của hàng hóa;

Các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình

HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬTVÀ TRÁCH NHIỆM THU HỒI HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT THEO QUY ĐỊNH TẠI LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢINGƯỜI TIÊU DÙNG

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Page 11: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

11ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

thu hồi hàng hóa.Cách thức thông báo theo quy định

của Luật là thông báo công khai về hàng hóa có khuyết tật và việc thu hồi hàng hóa đó ít nhất 05 số liên tiếp trên báo ngày hoặc 05 ngày liên tiếp trên đài phát thanh, truyền hình tại địa phương mà hàng hóa đó được lưu thông. Trên thực tế, nhiều tổ chức, cá nhân khi ra thông báo về hàng hóa khuyết tật thường đăng tải 05 số liên tiếp trên báo giấy Nhân dân, Hà Nội mới...và kết hợp với việc đăng tải trên các trang thông tin điện tử. Đặc biệt, với những tổ chức, cá nhân đã xây dựng hệ thống thông tin (website, hệ thống thông tin nội bộ...) trong hoạt động của tổ chức, cá nhân và hình thành mạng lưới phân phối/chăm sóc khách hàng thì một trong những kênh truyền tin quan trọng với người tiêu dùng là thông qua website của tổ chức, cá nhân và mạng lưới đại lý phân phối sản phẩm. Cách thức này hiện đã được các công ty Toyota Việt Nam, Công ty Honda Việt Nam...thực hiện hiệu quả trong các chương trình thu hồi đã diễn ra.

Từ phía nội bộ tổ chức, cá nhân, để có thể kịp thời xử lý các vụ việc thu hồi thì cần chủ động xây dựng quy trình phát hiện và thu hồi sản phẩm khuyết tật làm sao để rút ngắn tối đa và chi tiết hóa các bước xử lý khi có vụ việc thu hồi sản phẩm khuyết tật xảy ra. 3. Báo cáo cơ quan có thẩm quyền về hàng hóa và chương trình thu hồi hàng hóa có khuyết tật.

Tùy theo phạm vi thực hiện thu hồi, tổ chức, cá nhân phải báo cáo kết quả thực hiện cho cơ quan có thẩm quyền ở địa phương (trường hợp thu hồi trên địa bàn một tỉnh) hoặc cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở trung ương (trường hợp thu hồi trên địa bàn hai tỉnh trở lên). Thực tế, ngay khi bắt đầu thực hiện chương trình thu hồi, các tổ chức, cá nhân trong thời gian vừa qua đều chủ động thông báo về chương trình tới Cục Quản lý cạnh tranh và báo cáo tiến độ theo từng mốc thời gian thực hiện của chương trình. Sự chủ động phối hợp này từ phía các tổ chức, cá nhân không chỉ tăng cường hiệu quả của chương trình thu hồi mà còn góp phần nâng cao hình ảnh thương hiệu của tổ chức, cá nhân trong suy nghĩ của người tiêu dùng.

Nhằm cung cấp và tổng hợp dữ liệu về các vụ việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật cho các đối tượng tham khảo và tra cứu, Cục Quản lý cạnh tranh mới đây đã đưa vào vận hành Trang thông tin bảo vệ người tiêu dùng Địa chỉ truy cập Trang thông tin: http://bvntd.vca.gov.vn. Tại Trang tin này, người tiêu dùng có thể cập

nhật và tìm hiểu về các vụ việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật đã và đang diễn ra tại thị trường Việt Nam. Ngoài ra, theo kinh nghiệm thực tế được thực hiện tại các quốc gia có hoạt động bảo vệ người tiêu dùng phát triển, hoạt động phát hiện, tiếp nhận và thông báo về các chương trình thu hồi được phân công cho từng bộ, ngành trong từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ: ngành giao thông chịu trách nhiệm về các vụ thu hồi liên quan đến các sản phẩm trong ngành; ngành y tế liên quan đến các vụ thu hồi thuốc, sản phẩm y tế; ngành vệ sinh an toàn thực phẩm chịu trách nhiệm tới các sản phẩm tiêu dùng như thực phẩm, đồ uống…tuy nhiên, chịu trách nhiệm chung đối với các vụ việc thu hồi nói riêng và các vấn đề bảo vệ người tiêu dùng khác nói chung vẫn là cơ quan quản lý nước (Office of Consumer Affairs: http://www.ic.gc.ca/eic/site/oca-bc.nsf/eng/ca00038.html ). Từ mô hình này, Cục Quản lý cạnh tranh – với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng dự định xây dựng một quy trình tiếp nhận và phối hợp thông báo về các thông tin thu hồi sản phẩm với các doanh nghiệp, góp phần đơn giản thủ tục và giảm thiểu thời gian trao đổi giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng.

Cùng với đó, doanh nghiệp cũng cần lưu ý là hiện nay hoạt động thông báo về thu hồi sản phẩm không chỉ giới hạn trong phạm vi một nước, một quốc gia. Do tính chất lưu thông tự do của hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, một sản phẩm có thể sản xuất tại một quốc gia nhưng phạm vi tiêu thụ thì trải khắp trên toàn thế giới. Chính vì vậy, thông qua các chương trình cam kết phối hợp trong từng khu vực, chính phủ các nước hiện nay đã thực hiện các chương trình trao đổi thông tin về các vụ việc thu hồi, cũng như cảnh báo về các sản phẩm tiêu dùng không an toàn giữa các nước với nhau. Hiện nay, Cục Quản lý cạnh tranh đã tham gia vào Nhóm trao đổi và cảnh báo thông tin giữa các nước Asean, theo đó, các thông tin về thu hồi sản phẩm và cảnh báo sản phẩm có nguy cơ gây mất an toàn cho người tiêu dùng đều được các nước Asean chia sẻ và công bố công khai tại website chung là http://www.aseanconsumer.org/alerts/ .

Để biết thêm thông tin chi tiết về trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật, xin liên hệ:

Cục Quản lý cạnh tranh25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà NộiĐiện thoại: 04 222 05 002./.

HỒ TÙNG BÁCH

Sự phát triển của hệ thống thông tin toàn cầu (Internet) đang làm thay đổi tương quan sức mạnh của người tiêu dùng với doanh nghiệp. Rõ ràng, người tiêu dùng đã có nhiều lựa chọn hơn với môi trường “phẳng” và không giới hạn về phạm vi địa lý, thời gian, khối lượng thông tin và cách thức giao dịch, và vì vậy, người tiêu dùng dường như đang ngày càng chiếm vị thế thuận lợi hơn so với các doanh nghiệp.

Môi trường thương mại điện tử - một trong những thành tựu nổi bật của Internet cung cấp cho người tiêu dùng cách thức giao dịch mới: tiện lợi, nhanh chóng và thuận tiện hơn trong việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ. Khối lượng thông tin khổng lồ, sự lưu chuyển, cập nhật liên tục của dòng thông tin và sự tham gia dễ dàng của rất nhiều người mua trên toàn thế giới giúp người tiêu dùng dễ dàng hơn trong việc tìm hiểu thông tin về hàng hóa, dịch vụ; xem xét các đánh giá, nhận xét của các thành viên khác về doanh nghiệp uy tín; hàng hóa, dịch vụ đạt chất lượng. Khi những rào cản về thông tin, giới hạn nhà cung cấp và các trở ngại trong cách thức giao dịch ngày càng giảm đi thì là lúc người tiêu dùng đang ngày càng có sức mạnh thực sự với doanh nghiệp.

Hãy cùng xem xét sự thay đổi về tương quan sức mạnh trong lĩnh vực du lịch, mua bán điện thoại di động và một số hình thức giao dịch đặc biệt trên mạng Internet. Trong từng lĩnh vực, rất dễ dàng nhận thấy sự thay đổi của các doanh nghiệp nhằm “giành giật” sự chú ý, quan tâm của người tiêu dùng.

Thương hiệu công ty Sing Café một thời nổi tiếng trên khắp cả nước, đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Để cung cấp dịch vụ du lịch của mình cho du khách, Sing Café đã mở hàng loạt các văn phòng giao dịch tại các tuyến phố lớn trong cả nước với rất nhiều nhân viên hoạt động liên tục. Tuy nhiên, thời gian gần đây, tình hình kinh doanh của thương hiệu này không còn cảnh nhộn nhịp như xưa. Các văn phòng ít giao dịch hơn và thương hiệu Sing Café không thực sự nổi bật so với rất nhiều công ty non trẻ khác trong lĩnh vực du lịch. Với sự phát triển của thương mại điện tử, một ý tưởng thiết kế tua du lịch độc đáo kết hợp với một website truyền tải đầy đủ thông tin và cung cấp các phương thức thanh toán thuận tiện đã mang tới sự thành công

INTeRNeT Và SứC MẠNH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

Page 12: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

12 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

nhanh chóng cho rất nhiều công ty du lịch. Khách du lịch tới Việt Nam giờ đây không bị phụ thuộc vào các văn phòng đại diện của các công ty du lịch tại nước bản địa mà đã có thể tự do lựa chọn các tua trên cơ sở tham khảo thông tin trên Internet. Thậm chí, khách có thể lên kế hoạch và chuẩn bị sẵn sàng mọi việc cho chuyến du lịch của cả gia đình từ trước đó 1 năm thông qua các trang web đặt tua do các công ty Việt Nam cung cấp. Ở mức độ cao hơn, đi đôi với sự phát triển của môi trường Internet, giờ đây người tiêu dùng có thể tự tìm hiểu các địa danh và tự thiết kế các tua du lịch cho chính bản thân mình. Nhằm tăng doanh thu và thu hút sự chú ý của người tiêu dùng, rất nhiều các khách sạn đã cùng nhau liên kết và thông qua một đại diện chung nhằm cung cấp dịch vụ thuê phòng với giá đặc biệt hấp dẫn cho người tiêu dùng. Mức giá này thường rẻ hơn rất nhiều so với việc khách hàng đặt trực tiếp tại khách sạn đơn lẻ và đi kèm là nhiều dịch vụ gia tăng khác.

Xu hướng tương tự cũng đang hình thành trong lĩnh vực mua bán điện thoại di động. Quãng thời gian những năm 2005 – 2007, thương hiệu Thế giới di động chỉ có 1-2 điểm bán hàng trên các con phố nhỏ ở Hà Nội. Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh, hiện tại, số lượng các điểm bán hàng của Thế giới di động đã tăng rất nhanh trên phạm vi cả nước. Sự phát triển nhanh chóng của thương hiệu này một phần là do những thành công đến từ hoạt động bán hàng trực tuyến của Công ty. Thương mại điện tử đã làm thay đổi cách thức kinh doanh của mô hình truyền thống. Ngày nay, khi cần mua một chiếc điện thoại, người tiêu dùng có thể sử dụng các trang web xã hội để khảo sát giá bán của rất nhiều cửa hàng; xem các nhận xét về tính năng của sản phẩm cũng như các đánh giá về cung cách bán hàng của các công ty. Người tiêu dùng được toàn quyền và hoàn toàn tự do trong việc quyết định mua ở đâu. Vì vậy, để thu hút khách hàng, các cửa hàng bán điện thoại liên tục đưa ra các dịch vụ giá trị gia tăng. Từ chỗ người tiêu dùng phải trả tiền để cập nhật phần mềm, cài đặt điện thoại, cài nhạc chờ, tải về máy các bài hát, hình ảnh…giờ đây, các dịch vụ này gần như trở thành một dịch vụ mặc định miễn phí khi khách hàng mua điện thoại. Các chiêu thức khuyến mại: mua hàng online, giảm ngay giá mua, giao hàng tận nơi khi thanh toán trực tuyến…đã không còn là các chiêu thức hấp dẫn người mua nữa. Rõ ràng, từ lúc một chiếc điện thoại được mua với giá hàng chục triệu đồng mà người mua vẫn

phải tranh nhau cho đến thời điểm hiện tại, Internet đã làm thay đổi diện mạo trên thị trường điện thoại di động theo hướng người tiêu dùng ngày càng được chăm chút và hưởng nhiều tiện ích hơn.

Các ngành hàng, lĩnh vực khác cũng ngày càng chú trọng vào xu hướng mua bán theo hướng tiếp cận với người tiêu dùng thông qua môi trường Internet. Theo báo cáo của Cục Thương mại điện tử, năm 2011, hầu hết các doanh nghiệp trong diện phỏng vấn đã kết nối Internet, tỷ lệ các doanh nghiệp chưa kết nối Internet chỉ còn 2%. Hình thức kết nối Internet phổ biến nhất là ADSL với tỷ lệ là 78%, tỷ lệ này có xu hướng giảm đi khi nhiều doanh nghiệp đã sử dụng hình thức kết nối Internet qua đường truyền riêng với tỷ lệ là 19%. Do vậy, số lượng các doanh nghiệp sử dụng phương tiện điện tử trong giao dịch với khách hàng cũng tăng lên nhanh chóng.

Doanh nghiệp sử dụng phương tiện điện tử để đặt hàng năm 2011

Sức mạnh của người tiêu dùng cũng thay đổi cách thức các doanh nghiệp tiếp cận với nhu cầu của người tiêu dùng trong môi trường Internet. Các công ty nghiên cứu thị trường theo cách thức phỏng vấn hoặc gửi mẫu khảo sát đã không còn phù hợp vì chi phí tốn kém và mất nhiều thời gian. Ngày nay, người tiêu dùng được quan sát và đánh giá hành vi tiêu dùng dựa trên chính những thao tác mà họ sử dụng Internet. Chưa bàn luận về tính pháp lý của việc theo dõi hành vi của người tiêu dùng trong môi trường Internet, điều này cho thấy, doanh nghiệp đang đánh giá và thực sự coi trọng các hành vi và thói quen của người tiêu dùng. Vì vậy, họ đã lập trình ra rất nhiều phần mềm phức tạp, theo dõi từng trang web người tiêu dùng truy cập, đánh dấu thời gian lưu lại trên một trang

thông tin của người tiêu dùng, ghi nhận các từ khóa tìm kiếm khi người tiêu dùng thao tác trên các công cụ tra khảo thông tin…từ những kết quả này, họ tổng hợp và phân tích thói quen của người tiêu dùng, từ đó, chủ động tiếp thị, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Nhiều khi, người tiêu dùng nghĩ là họ vô tình tìm thấy sản phẩm mà họ cần, trong khi thực tế là các doanh nghiệp đã dự đoán trước nhu cầu của họ và chủ động cung cấp sản phẩm cho người tiêu dùng.

Không thể phủ nhận những đóng góp tích cực của Internet đối với sự phát triển của thương mại điện tử, đặc biệt, trong việc thay đổi cán cân vị thế giữa người tiêu dùng với doanh nghiệp. Internet, một mặt nâng cao vị thế của người tiêu dùng, khiến cho doanh nghiệp phải hoạt động tích cực hơn trong việc thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng; mặt khác, cũng đang tạo ra rất nhiều thuận lợi và cơ hội cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận và khai thác cộng đồng người tiêu dùng trên phạm vi toàn thế giới. Người tiêu dùng, từ chỗ bị động trong việc mua bán, giờ đây có thể hoàn toàn làm chủ các giao dịch trên cơ sở tìm hiểu kỹ các thông tin vốn luôn luôn có sẵn và đầy đủ trên môi trường Internet rộng lớn. Tuy vậy, ranh giới giữa cái được và cái mất trên môi trường Internet vẫn còn rất rõ ràng và có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Từ phía các doanh nghiệp là thách thức đến từ tính cạnh tranh mở và không giới hạn đối thủ tham gia. Trong Internet, doanh

nghiệp không có tuổi. Các công ty hoạt động lâu năm không có ưu thế đa số so với các công ty non trẻ mới bước chân vào lĩnh vực kinh doanh. Thậm chí, nhiều mô hình kinh doanh thương mại điện tử với những ý tưởng độc đáo, sáng tạo có thể hạ gục cả một mô hình kinh doanh đồ sộ và tồn tại lâu đời. Cùng với đó, sự thay đổi và cập nhật liên tục của công nghệ khiến cho số vốn đầu tư vào hoạt động thương mại điện tử của các doanh nghiệp, trong nhiều trường hợp là con số không hề nhỏ. Chưa kể đến các hạn chế khác về quy định pháp luật, tính bảo mật khi giao dịch, thói quen người tiêu dùng và nhiều cản trở khác. Từ phía người tiêu dùng, thói quen và sự tin tưởng vào một môi trường mua bán an toàn là trở ngại

(xem tiếp trang 15)

Phương tiện Điện thoại Fax email Website

Tỷ lệ 91% 82% 64% 10%

(nguồn: Báo cáo thương mại điện tử 2011)

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Page 13: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

13ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

Sau gần một năm triển khai thực hiện Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung, các tổ chức, cá nhân kinh doanh 09 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi phải đăng ký đã bước đầu có ý thức tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, ngoài 09 nhóm thuộc Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg nói trên còn có một số lĩnh vực kinh doanh khác nữa sử dụng hợp đồng mẫu và/hoặc điều kiện giao dịch chung có biểu hiện vi phạm Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Thực tế cho thấy, các dịch vụ ngân hàng đang ngày càng bị người tiêu dùng khiếu nại do vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Qua một số kinh nghiệm kiểm soát hợp đồng mẫu của ngân hàng và các tổ chức tín dụng của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng của Ba Lan, chúng ta có thể rút ra bài học thực tiễn với công tác này.

147 hợp đồng mẫu, 31 đơn vị kinh doanh dịch vụ ngân hàng bị thanh kiểm tra, 26 quy trình, thủ tục tố tụng và 17 hành vi vi phạm đã được đưa ra giải quyết tại tòa án. Đây là kết quả của việc siết chặt kiểm soát hợp đồng mẫu của các ngân hàng theo pháp luật về ngân hàng, tín dụng và bảo vệ người tiêu dùng do Cục trưởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Ba Lan khởi xướng. Tất cả những hợp đồng mẫu và các hợp đồng cho vay tiêu dùng đều được thẩm tra kỹ lưỡng.

Đợt kiểm tra này kéo dài suốt từ tháng 3 cho đến tháng 11 năm 2012 và được chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là cơ quan chuyên môn tiến hành phân tích, thẩm định các hợp đồng mẫu, giai đoạn hai là công bố công khai qua các phương tiện thông tin đại chúng.

20 tổ chức tín dụng bị đặt vào vòng kiểm soát chặt chẽ bao gồm 11 ngân hàng, 4 đơn vị kinh doanh dịch vụ ngân hàng, 5 quỹ tiết kiệm và tổ chức tín dụng. 16 đơn vị khác bị điều tra về các nghiệp vụ cho vay tiêu dùng bao gồm 6 ngân hàng, 9 tổ

chức thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng và 1 quỹ tín dụng.

Đối với hợp đồng mẫuCơ quan điều tra đã yêu cầu tiến hành

những thủ tục thẩm tra 28 đơn vị kinh doanh và ra quyết đinh thiết lập 26 quy trình thủ tục tố tụng. Cục trưởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đang xem xét đưa 17 hành vi vi phạm ra tòa án bởi đây là các điều khoản giao dịch gian dối, lừa gạt khách hàng. Trong hầu hết các giao dịch này bên cấp tín dụng hầu như không thể xác định được những lý do thay đổi lãi suất một cách chính xác cũng như không xác định được các điều kiện dẫn đến sự thay đổi mức phí thu từ khách hàng.

Đối với các hợp đồng cho vay tiêu dùng

Cơ quan điều tra xác minh 17 hợp đồng thầu của 16 đơn vị kinh doanh và đặt câu hỏi nghi vấn với 10 hợp đồng. Bên cấp tín dụng đã không đưa ra được một cách chi tiết, cụ thể các dữ liệu cần thiết liên quan đến chi phí đối với khoản tín dụng cho vay. Thay vào đó họ chỉ có thể đưa ra được tỷ lệ lãi suất thực tế hàng năm hoặc giá trị khoản tiền phải trả một cách không cụ thể trong tổng giá trị khoản tiền bên vay phải trả.

Trong một hợp đồng cho vay tiêu dùng cụ thể được xem xét, chỉ có khoản tiền phải trả được thể hiện mà không hề chỉ ra bất kỳ chi phí cho vay nào khác. Theo luật ngân hàng thì bất cứ khi nào bên cấp tín dụng cũng phải đưa ra các khoản chi phí tín dụng, nó phải được xem xét dưới góc độ liên quan đến các yếu tố khác như lãi suất tín dụng, tổng giá trị khoản tín dụng phải trả hoặc tỷ lệ lãi suất thực tế hàng năm. Việc che dấu các thông tin về chi phí khoản tín dụng cho vay là không minh bạch và vi phạm luật. Do vậy Cục trưởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đã thiết lập 7 quy trình thủ tục tố tụng đối với lĩnh vực cho vay tiêu dùng.

Những thông tin bắt buộc phải cung cấp cho người tiêu dùng

Theo luật, các thông tin về chi phí

một khoản cho vay phải được bên cấp tín dụng cung cấp cho người tiêu dùng theo một bản mẫu. Những bản mẫu này được in sẵn và người tiêu dùng có thể dễ dàng so sánh các mức phí cho vay khác nhau của các tổ chức tín dụng khác nhau trước khi lựa chọn vay tiền của đơn vị nào. Tất cả các tổ chức tín dụng đều phải cung cấp cho người tiêu dùng các bản mẫu chi tiết về mức phí cho vay để họ xem xét. Trong thực tế, Luật về cho vay tiêu dùng không đặt ra một thời hạn nào đối với hiệu lực của các bản mẫu này khi người tiêu dùng đang xem xét, tuy nhiên có khuyến nghị là thông tin về mức phí nên được gửi tới người tiêu dùng trong khoảng thời gian đủ để họ biết chi tiết.

Những sai phạm về hình thức các bản thông tin mẫu bao gồm: thông tin không đầy đủ, rõ ràng, không phải tất cả các khoảng trống trên mẫu là để điền thông tin và không chỉ ra tất cả các khoản phí phải trả. Hơn nữa, 9 đơn vị cho vay tín dụng tự xác định thời gian có hiệu lực của bản mẫu thông tin này quá ngắn. Hầu hết chỉ có một ngày, tức là người tiêu dùng chỉ có khoảng thời gian 1 ngày để quyết định ràng buộc với khoản vay hay không. Theo Cục trưởng Cục cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, một thời hạn ngắn như vậy không đảm bảo cho người tiêu dùng hiểu các thông tin để đưa ra quyết định vay. 9 tổ chức cho vay tín dụng vi phạm các quy định liên quan đến hình thức thông tin mẫu đã bị đưa ra xem xét.

Thay đổi mức lãi suất và mức phíCơ quan điều tra quan tâm về các điều

khoản không rõ ràng làm căn cứ cho việc thay đổi lãi suất và mức phí của bên cấp tín dụng. Dựa vào các điều khoản đó, tổ chức tín dụng có thể thay đổi mức phí theo quyết định của họ tại bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời hạn của hợp đồng. Họ không chỉ ra bất kỳ lý do cụ thể, số lần tăng hoặc mức tăng . Thêm vào đó, theo điều kiện bị hạn chế quy định bởi tổ chức tín dụng đó, trong trường hợp giảm tỷ lệ tín dụng trên tài sản thế chấp của Ngân hàng Quốc gia Ba Lan(NBP), người tiêu dùng cá nhân phải tự chỉ định đến một ngân hàng để giảm lãi suất, nếu không bên cấp tín dụng áp dụng tỷ lệ tiêu chuẩn, tức là cao hơn so với mức lãi suất tối đa. Theo luật, bất kỳ sự thay đổi nào của các yếu tố kinh tế thì tự động ảnh hưởng đến lãi suất.

13 tổ chức tín dụng đã áp dụng điều khoản quy định không đồng nhất cho sự thay đổi về lãi suất, mức phí. Do đó, cơ quan điều tra đã lập thủ tục tố tụng liên quan đến hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng hoặc sẽ đưa ra tòa án.

Phan Khánh An

THắT CHặT KIểM SOÁT HỢP ĐỒNG MẫU CỦANGâN HÀNG VÀ CÁC Tổ CHứC TíN DụNG– KINH NGHIỆM CỦA BA LAN

Page 14: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

14 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

Nhằm cập nhật tiến độ thực hiện các Chương trình kiểm tra xe và sửa chữa, thay thế (nếu có) của Công ty ô tô Toyota Việt Nam (TMV); đồng thời khuyến cáo người tiêu mang xe tới các đại lý để thực hiện kiểm tra, đảm bảo an toàn trong quá trình vận hành; trên cơ sở báo cáo của TMV, Cục Quản lý cạnh tranh thông báo như sau:

1. Chương trình triệu hồi để kiểm tra thay thế puli trục khuỷu xe Camry 3.0Phạm vi xe bị ảnh hưởngNội dung Chương trình

TMV tiến hành kiểm tra và thay thế miễn phí (nếu cần) bộ phận puli trục khuỷu của những xe bị ảnh hưởng. Thời gian thực hiện Chương trình bắt đầu từ ngày 21 tháng 11 năm 2011 và kéo dài không hạn chế. Chương trình được tiến hành tại tất cả các đại lý và trạm dịch vụ ủy quyền của TMV trên toàn quốc.

Kết quả thực hiện tính tới ngày 31 tháng 12 năm 2012Trong tổng số 320 xe thuộc diện bị ảnh hưởng có 127 xe đã tham gia Chương trình,

đạt 40,3% tỷ lệ thực hiện, trong đó 74 xe đã được thay thế puli trục khuỷu. Danh sách chi tiết các xe chưa tham gia Chương trình được nêu tại Phụ lục đính kèm của Thông cáo này.

2. Chương trình kiểm tra xe miễn phí và sửa chữa

 Kiểm tra và xiết lại Bu

lông cam bơ

Kiểm tra lực xiết bu lông bắt móc neo chân ghế sau (Van LSPV)*

Tổng số xe 7370 xe 53.280 xe 12.423 xe 6108 xe

INNOVA 366 xe 5123 xe   42 xe

FORTUNER 2.220 xe

Tỷ lệ thực hiện ~ 4,97% ~ 9,62% ~ 17,87% ~ 0,69%

Loại xe Kiểu loại Dải số khung Số xe Thời gian sản xuất

Camry 3.0 MCV30L-JEAEKU

9010001-9010320

320 08/7/2004-07/4/2005

THÔNG CÁo BÁo CHí Về TIếN ĐỘ THựC HIỆN CHƯƠNG TRìNH TRIỆU HỒI Để KIểM TRA THAY THế PULI TRỤC KHUỷU Xe CAMRY 3.0 Và CHƯƠNG TRìNH KIểM TRA Xe MIễN PHí Và SửA CHữA CỦA CÔNG TY Ô TÔ ToYoTA VIỆT NAM

Chương trình nêu trên được bắt đầu thực hiện từ tháng 4 năm 2011 và hiện vẫn đang tiếp tục thực hiện tại tất cả các đại lý và trạm dịch vụ ủy quyền của TMV trên toàn quốc. Mục đích của Chương trình nhằm kiểm tra và sửa chữa miễn phí (nếu cần) các bộ phận bu lông Cam bơ, bu lông chân ghế và Van LSPV trên một số dòng xe Innova và Fortuner.

Tiến độ thực hiện Chương trình đến ngày 31 tháng 12 năm 2012 như sau:

*: Van LSPV nếu lắp đặt không chuẩn có thể làm áp suất dầu phanh của xi lanh phanh bánh sau của một số xe Toyota Innova J cao hơn so với mức áp suất xi theo tiêu chuẩn kỹ thuật của Toyota.

Như vậy, tỷ lệ thực hiện của Chương trình đến thời điểm hiện tại vẫn rất thấp và không có biến chuyển trong các tháng gần đây. Nhằm đẩy mạnh tiến độ thực hiện, TMV đã yêu cầu các đại lý và trạm dịch vụ tiếp tục kéo dài thực hiện Chương trình; chủ động liên lạc thông báo với các khách hàng và kiểm tra, tư vấn khi khách hàng mang xe tới các trạm kiểm tra.

Nhằm đảm bảo an toàn trong quá trình vận hành xe và giúp doanh nghiệp ổn định hoạt động kinh doanh, Cục Quản lý cạnh tranh khuyến cáo các khách hàng đang sử dụng xe của TMV chủ động liên hệ và mang xe tới các đại lý và trạm dịch vụ của TMV để kiểm tra và sửa chữa (nếu cần).

(Ban Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng - Cục Quản lý cạnh tranh)

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Page 15: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

15ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

Trong thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, dữ liệu cá nhân cũng là một trong những tài sản có giá trị và được các doanh nghiệp tìm mua nhằm phục vụ mục đích marketing và nghiên cứu thị trường. Chính vì vậy, nhiều dữ liệu cá nhân đã bị đánh cắp và mua bán trái phép. Nhằm bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng, tại Việt Nam, Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng đã quy định “Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ”. Theo đó, trong trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì các công ty phải có trách nhiệm thông báo và được người tiêu dùng đồng ý trước. Ngoài ra, các công ty còn phải bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng và chuyển giao thông tin của người tiêu dùng. Luật còn quy định các doanh nghiệp chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng.

Để thực thi Luật, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2012/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2012, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng với mức phạt lên đến 50 triệu đồng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn chưa có vụ việc vi phạm về bảo vệ thông tin người tiêu dùng bị phạt và Cục Quản lý cạnh tranh cũng chưa nhận được tố cáo nào của người tiêu dung lien quan đến việc bị đánh cắp dữ liệu cá nhân.

Trong khi đó, tại Singapore, Quốc hội nước này vừa thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân sau 3 vòng hội đàm và thu thập ý kiến từ các bên liên quan. Để thực thi Luật hiệu quả, Singapore sẽ thành lập Ủy ban Bảo vệ Dữ liệu Cá nhân, Hội đồng tư vấn Bảo vệ Dữ liệu và Hệ thống Do-Not-Call – Hệ thống cho phép người dùng chặn những cuộc gọi, tin nhắn quảng cáo và tin

nhắn đa phương tiện). Ủy ban Bảo vệ Dữ liệu cá nhân là cơ quan có trách nhiệm điều hành và thực thi Luật còn Hội đồng Tư vấn Bảo vệ Dữ liệu có chức năng giám sát việc thực thi Luật với những quyền hạn như: Hướng dẫn thực thi Luật; Tiếp nhận khiếu nại và xử lý những trường hợp không tuân thủ Luật; Khởi xướng điều tra và áp dụng phạt tiền với mức phạt lên tới 1 triệu đô la Singapore.

Mục tiêu của Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, đúng theo như tên gọi, là để xác định quyền và trách nhiệm của tổ chức trong việc thu thập và sử dụng thông tin khách hàng. Luật này hướng tới cân bằng giữa quyền của khách hàng trong việc bảo vệ thông tin cá nhân so với nhu cầu của các doanh nghiệp trong việc sử dụng thông tin khách hàng vì mục đích hoạt động hay thương mại của tổ chức đó. Drew & Napier Singapore cho biết, theo chủ trương của Bộ Thông tin và Truyền thông, để có thời gian cho các doanh nghiệp điều chỉnh chính sách và thủ tục pháp lý cho phù hợp với Luật, thì thời gian để các điều khoản quy định về Hệ thống Do-Not-Call có hiệu lực ít nhất phải là 12 tháng kể từ khi ban hành, tức là đầu năm 2014. Còn đối với các điều khoản quy định bảo vệ dữ liệu ít nhất phải là 18 tháng, tức là vào giữa năm 2014.

Luật Bảo vệ Dữ liệu cá nhân được cho là sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến công việc kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay. Để đảm bảo tính tuân thủ Luật, thì việc tuyên truyền và phổ biến Luật trong cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức được chính phủ Singapore xác định mang tính chiến lược.

VÂN ANH

SINGAPORE TăNG CƯỜNG BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHâN

(tiếp theo trang 12)...lớn nhất cho các doanh nghiệp cung

cấp dịch vụ trên môi trường Internet. Cùng với đó, vấn đề về chính sách riêng tư của người tiêu dùng khi “lướt” web đang ngày càng trở nên nghiêm trọng và làm quan ngại nhiều người tiêu dùng.

Như vậy, Internet đã và đang làm thay đổi xu hướng tiêu dùng theo hướng cân bằng hóa vị thế của các bên trong giao dịch. Quyết định của người tiêu dùng đang ngày càng có sức nặng với doanh nghiệp; tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều nhận thức và hiểu được rõ sức mạnh này. Người tiêu dùng cần biết và phát huy các lợi thế của mình khi giao dịch trên môi trường Internet; cẩn thận với các chiêu thức lừa đảo một thế hệ kinh doanh mới. Và quan trọng, dù ở bất kỳ môi trường nào thì người tiêu dùng cũng cần suy nghĩ và quyết định kỹ trước khi thực hiện giao dịch.

TÙNG BÁCH

INTeRNeT Và SứC MẠNH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

TRÁCH NHIỆM CỦA SỞ CÔNG THƯƠNG...

(tiếp theo trang 7)Từ những kinh nghiệm triển khai

thực tế các hoạt động bảo vệ người tiêu dùng, với tư cách là đại diện tiếng nói của người tiêu dùng thì các đóng góp, góp ý của các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vào nội dung các văn bản pháp luật là hết sức cần thiết và có giá trị thực tiễn cao. Chính vì vậy, Chính phủ đã quy định rõ ràng về trách nhiệm tham gia góp ý, xây dựng chính sách pháp luật của các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thực tế, các văn bản được ban hành trong thời gian vừa qua trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng như Luật, các nghị định đều mang tiếng nói và bao gồm nhiều đóng góp thiết thực của các tổ chức xã hội. Các hội, trong phạm vi hoạt động của mình, đã chủ động và rất tích cực trong việc tổ chức các hội nghị lấy ý kiến đóng góp cho các văn bản pháp luật và thực tế, nhiều góp ý của hội đã được tiếp thu và đưa vào các văn bản pháp luật. Việc thực hiện trách nhiệm trên đây của các Hội không chỉ đảm bảo tiếng nói quyền lợi của các hội trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà còn thể hiện trách nhiệm của hội trong việc đóng góp, xây dựng môi trường pháp lý tiêu dùng công bằng và đáp ứng các thay đổi của thực tế hoạt động bảo vệ người tiêu dùng.

TÙNG BÁCH

Page 16: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

16 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

Trong một động thái để bảo vệ người tiêu dùng tốt hơn Ofcom, cơ quan quản lý thông tin liên lạc củaAnh đang xem xét việc sửa đổi các điều kiện chung để cho phép khách hàng sử dụng mạng điện thoại di động từ bỏ hợp đồng hàng tháng của họ giữa kỳ nếu một nhà điều hành quyết định tăng giá trong thời hạn của các thỏa thuận 12, 18 hoặc 24 tháng.

Ofcom đã tiến hành một cuộc tham vấn và rà soát nhằm đảm bảo tính công bằng cho các hợp đồng mạng di động, sau khi cơ quan này nhận được 1644 đơn khiếu nại của khách hàng từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012, đưa ra quy định cho phép cơ quan này có thể can thiệp và cung cấp đến khách hàng quyền được thoái hợp đồng, và cũng yêu cầu các nhà cung cấp mạng đề xuất mức tăng giá rõ ràng hơn.

Theo hướng dẫn mới, các nhà cung cấp mạng sẽ vẫn có thể tăng giá, nhưng người tiêu dùng sẽ có thể hủy hợp đồng

nếu họ không đồng ý.Ofcom giải thích quyết định của họ:Sự thay đổi này sẽ giải quyết các thắc

mắc của người tiêu dùng về sự không công bằng khi các nhà cung cấp hiện tại có thể tăng giá, trong khi bản thân người tiêu dùng có ít lựa chọn, chỉ có thể chấp nhận giá tăng hoặc trả tiền phạt để thoát khỏi hợp đồng.

Ofcom cũng sẽ hy vọng các nhà cung cấp minh bạch về khả năng tăng giá để người tiêu dùng có đầy đủ thông tin để lựa chọn khi kí hợp đồng.

Một số người tiêu dùng Anh đã có thể khiếu nại đối với các nhà cung cấp và huỷ bỏ hợp đồng của họ bằng cách kháng cáo theo quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Anh. Tuy nhiên, Ofcom muốn các nhà cung cấp mạng minh bạch hơn , thông tin đầy đủ cho khách hàng về khả năng tăng giá và cho phép họ hủy hợp đồng nếu không đồng ý.

Đồng thời Ofcom cũng đã đề nghị

cung cấp hướng dẫn cho các nhà cung cấp, cho phép họ có những điều chỉnh để phù hợp với quy định của Ofcom và Luật bảo vệ người tiêu dùng Anh. Điều này có thể sẽ được kết hợp với một điều khoản ‘ràng buộc’, yêu cầu người tiêu dùng đồng ý rằng họ hiểu giá cả có thể tăng lên trong thời hạn hợp đồng.

Ofcom đã xem xét ý tưởng cấm hoàn toàn việc tăng giá đối với các hợp đồng cố định, nhưng cho rằng điều này có thể vi phạm luật doanh nghiệp Châu Âu, do đó đã không đưa ra nội dung này và các quy định mới ban hành.

Trong phiên thảo luận ngày 03 tháng 1 năm 2013, Ofcom sẽ mời các bên tham gia đưa ra ý kiến của họ trước thời hạn ngày 14 tháng 3. Cơ quan giám sát dự kiến sẽ đưa ra phán quyết về vấn đề tăng giá trong tháng 6 năm 2013.

QUYếT THắNG(Nguồn: Ofcom)

NGƯỜI TIÊU DÙNG ANH CÓ THể Sẽ SớM Từ Bỏ HỢP ĐỒNG Sử DụNG MẠNG DI ĐỘNG NẾU CÁC NHÀ KHAI THÁC MẠNG TăNG GIÁ

Chính quyền thành phố Đài Bắc có kế hoạch kháng cáo Bản án của tòa án tối cáo Đài Bắc, trong đó hủy bỏ khoản phạt áp với tập đoàn Google, trong một vụ tranh chấp liên quan đến việc tập đoàn internet khổng lồ này hạn chế quyền của các khách hàng trong việc dùng thử các ứng dụng điện thoại di động sau khi mua.

Tổ chức Người tiêu dùng Đài Loan (Consumers Foundation -CF), một tổ chức độc lập và phi lợi nhuận bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, cho biết họ hoàn toàn ủng hộ kế hoạch của chính quyền thành phố tiếp tục cuộc chiến chống lại Google. Tổ chức Người tiêu dùng cho biết các doanh nghiệp không nên vi phạm các quy định của quốc gia và không nên có sự khác biệt giữa việc mua sản phẩm công nghệ cao và hàng tiêu dùng khác.

Chính quyền thành phố đề nghị mức phạt đối với Google là 1 triệu Đài tệ (NTD) (tương đương 34,000USD) trong năm 2011 vì công ty này từ chối thực hiện các quy định bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan, trong đó khách hàng được hưởng khoảng thời gian bảy ngày để sử dụng thử miễn phí các ứng dụng điện thoại di động.

Mức phạt này vẫn được giữ nguyên khi Google kháng cáo lên Bộ Kinh tế năm

ngoái.Tòa án Tối cao Đài Bắc đã ra phán

quyết để bác bỏ mức tiền phạt chính quyền thành phố đề nghị và nói rằng họ không nên can thiệp vào một vụ tranh chấp giữa công ty và người tiêu dùng. “Chúng tôi không muốn để Google rời khỏi thị trường Đài Loan - Trung Quốc nhưng chúng tôi kêu gọi Google tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Chúng tôi sẽ kháng cáo phán quyết của tòa án”, một quan chức tại cơ quan bảo vệ người tiêu dùng phát biểu.

Từ năm 2011, Chính quyền thành phố Đài Bắc đã cho rằng cả Google và Apple đã vi phạm quy định quốc gia về bảo vệ người tiêu dùng khi không cho người tiêu dùng một “giai đoạn đánh giá” bảy ngày sau khi mua bất kỳ sản phẩm nào để họ có thể có một thử nghiệm miễn phí trước khi ra quyết định cuối cùng về việc mua các sản phẩm.

Họ cũng đã đề nghị cả hai công ty của Mỹ sửa đổi các chiến lược kinh doanh của họ phù hợp với pháp luật của quốc gia.

Apple đã tuân thủ quy định của pháp luật và thay đổi chính sách của mình.

Tuy nhiên, Google từ chối việc sửa đổi chính sách của mình bằng cách đòi

quyền được phép trả lại tiền cho khách hàng mua trên mạng các sản phẩm phần mềm Android của hãng này nếu khách hàng quyết định không mua sản phẩm trong vòng 15 phút.

Google cũng đã ngừng việc cung cấp các ứng dụng đã trả tiền tại Đài Loan - Trung Quốc kể từ khi tranh chấp xảy ra.

CF cho rằng các doanh nghiệp không nên vi phạm các quy định của quốc gia và không nên có sự khác biệt giữa việc mua sản phẩm công nghệ cao và hàng tiêu dùng khác.

Một số người sử dụng các ứng dụng Android của Google tại Đài Loan - Trung Quốc đã kêu gọi chính quyền thành phố không kháng cáo phán quyết của tòa án, vì quyền lợi của họ với các sản phẩm của Google đang bị tước đi khi công ty có các hành động đáp trả việc kháng cáo nêu trên.

Tuy nhiên nhiều người tiêu dùng lại ủng hộ hành động chống lại Google của chính quyền thành phố Đài Bắc vì thời gian 15 phút cho việc đánh giá sản phẩm là quá ngắn và ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của người tiêu dùng

QUYếT THắNG (Nguồn: Chinadaily)

CHíNH QUYỀN THÀNH PHố ĐÀI BắC (ĐÀI LOAN - TRUNG QUốC) KHÔNG ĐỒNG ý VớI PHÁN QUYẾT CỦA TòA ÁN TRONG Vụ VIỆC HOÀN TRẢ TIỀN CHO CÁC ứNG DụNG CỦA GOOGLE

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Page 17: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

17ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

Ngày 19 tháng 12 năm 2012, cùng với sự hợp tác của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Cục Quản lý cạnh tranh (Cục QLCT) đã tổ chức Hội thảo “Cạnh tranh lành mạnh trong ngành xây dựng – Kinh nghiệm của Nhật Bản” tại Khách sạn Kim Đô – thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời đại nền kinh tế năng động, các ngành công nghiệp phát triển độc lập nhưng vẫn có mối liên hệ và ảnh hưởng tới nhau, thì ngành xây dựng được coi là một trong những ngành công nghiệp có ảnh hưởng rất lớn. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, ngành xây dựng Việt Nam sẽ phải đối mặt với các vấn đề về cạnh tranh, trong đó có thông đồng đấu thầu. Chính vì thế, trong khuôn khổ Dự án hợp tác giữa JICA và Cục QLCT, trong năm 2012-2013, Cục QLCT đã chọn ngành xây dựng là một trong những ngành ưu tiên trong chiến lược tuyên truyền về chính sách cạnh tranh. Hội thảo này đã được tổ chức như một phần trong chiến lược tuyên truyền Luật Cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp, công ty và hiệp hội ngành xây dựng tiếp cận Luật Cạnh tranh cũng như áp dụng Luật trong quá trình kinh doanh.

Tham dự hội thảo có ông Trần Anh Sơn – Phó Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh, ông Nguyễn Đức Minh – Phó trưởng Ban điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, ông Osamu Igarashi – chuyên gia thường trú của Ủy ban Thương mại công bằng Nhật Bản (JFTC) tại Việt Nam cùng với sự tham gia của Hiệp hội xây dựng, các công ty xây dựng tại thành

phố Hồ Chí Minh, đại diện của các công ty luật và các học giả.

Trong bài phát biểu khai mạc hội thảo, ông Trần Anh Sơn đã gửi lời cảm ơn chân thành tới JICA vì sự hợp tác lâu dài của JICA và Cục QLCT. Ông Trần Anh Sơn bày tỏ mong muốn các đại biểu tham dự học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản về việc tuân thủ Luật Cạnh tranh trong ngành xây dựng, từ đó có thể chủ động hơn trong việc gửi đơn khiếu nại tới Cục QLCT để xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực này.

Sau bài phát biểu khai mạc của ông Trần Anh Sơn, ông Nguyễn Đức Minh đã có một bài giới thiệu về Luật Cạnh tranh Việt Nam, giải thích các điều khoản chính của Luật Cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh (bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trị thống lĩnh thị trường/độc quyền và tập trung kinh tế) và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo ông Minh, có một số dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh như hành vi thông đồng đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng, tuy nhiên, do thiếu bằng chứng, Cục QLCT chưa thể khởi xướng điều tra chính thức một vụ việc nào.

Ông Minh cũng giải thích về quy trình xử lý các vụ việc theo Luật Cạnh tranh. Đối với các vụ việc hạn chế cạnh tranh, Cục QLCT thực hiện điều tra vụ việc, sau đó Hội đồng cạnh tranh quyết định xử lý vụ việc. Còn đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, Cục QLCT phụ trách điều tra và xử lý vụ việc. Cuối cùng, ông Minh đề

nghị các đại biểu tham dự chủ động hơn trong việc cung cấp thông tin về các hành vi bị nghi ngờ là vi phạm Luật Cạnh tranh trong ngành xây dựng cho Cục QLCT để giúp cho việc thực thi Luật Cạnh tranh tốt hơn, đặc biệt trong việc chống lại thông thầu và các hành vi vi phạm khác trong ngành xây dựng.

Ông Osamu Igarashi – Chuyên gia thường trú của Ủy ban Thương mại công bằng Nhật Bản (JFTC) có một bài thuyết trình về kinh nghiệm của Nhật Bản về hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng. Ông Igarashi bắt đầu bằng việc giới thiệu về cấu trúc của ngành công nghiệp xây dựng Nhật Bản và xu hướng thị trường, trong đó tại Nhật Bản, số lượng các công ty xây dựng giảm khoảng 117.000 công ty từ năm 1999 cho đến nay. Theo ông Igarashi, trong kinh nghiệm của Nhật Bản, hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh điển hình nhất trong ngành xây dựng là hành vi thông đồng đấu thầu, và đây được coi là một trong những hành vi vi phạm nghiêm trọng nhất. Ngoài ra, ông Igarashi còn giới thiệu về việc JFTC áp dụng Luật Chống độc quyền và pháp luật cạnh tranh của Nhật Bản đối với việc thông thầu và các nội dung của Luật về thông thầu bao gồm (i) lệnh nộp phạt, (ii) chương trình khoan hồng và chính sách của JFTC về tố cáo vi phạm Luật.

Cũng trong buổi hội thảo, ông Igarashi đã giới thiệu các vụ việc thông thầu mà JFTC đã xử lý, bao gồm (i) vụ việc thép xây dựng công trình cầu, (ii) vụ việc xây dựng hệ thống thông gió đường hầm và (iii) vụ việc xây dựng công trình tàu điện ngầm, sau đó là vấn đề đấu thầu giá thấp trong lĩnh vực xây dựng. Ông Igarashi cũng giải thích nội dung của Luật Chống thỏa thuận và việc thực thi Luật của JFTC chống lại các hành động phi pháp của đại lý cung ứng. Cuối cùng, dựa trên những kinh nghiệm của Nhật Bản, ông Igarashi đề nghị đại biểu tham dự tích cực tuân thủ Luật Cạnh tranh hợp tác với Cục QLCT.

Hội thảo đã góp phần nâng cao nhận thức của các đại biểu tham dự về cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng. Thông qua buổi hội thảo, các đại biểu đã đánh giá cao tính thiết thực của Luật Cạnh tranh trong ngành xây dựng, đánh dấu một bước quan trọng trong chiến lược tuyên truyền Luật Cạnh tranh tới các ngành công nghiệp nói chung và ngành xây dựng nói riêng.

THU HIềN

CụC QUẢN Lý CẠNH TRANH (QLCT) Tổ CHứC HỘI THẢO CẠNH TRANH TRONG NGÀNH xâY DựNG TẠI THÀNH PHố HỒ CHí MINH VớI Sự HỢP TÁC CỦA JICA

Page 18: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

18 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

Ngày 12 tháng 12 năm 2012, tại khách sạn Nikko (Hà Nội), Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương đã tổ chức buổi hội thảo công bố “Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế”. Nhằm mục đích đánh giá mức độ và môi trường cạnh tranh của các lĩnh vực dưới góc độ của chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam dựa trên bộ tiêu chí của DFID, 10 lĩnh vực của nền kinh tế được lựa chọn bao gồm: lĩnh vực sản xuất (ô tô tải, bột giặt, giấy, dầu thực vật, kính xây dựng) và lĩnh vực dịch vụ (phân phối dược phẩm, vận tải biển, bảo hiểm nhân thọ, quảng cáo và truyền hình trả tiền).

Các yếu tố được báo cáo xem xét và đánh giá bao gồm: quy mô thị trường; rào cản gia nhập và rút lui khỏi thị trường; cấu trúc thị trường, thực trạng hoạt động cạnh tranh trên thị trường, nhận diện các hành vi phản cạnh tranh đã và đang có khả năng xuất hiện trong từng lĩnh vực được đánh giá.

Các đối tượng phục vụ chính mà báo cáo hướng tới là các cơ quản lý nhà nước, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế, cũng như các chủ thể đang hoạt động kinh doanh trên thị trường trong việc điều chỉnh chính sách quản lý ngành, quản lý cạnh tranh, chiến lược hay quyết định kinh doanh.

            Chủ trì buổi hội thảo là ông Bạch Văn Mừng – Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) và các diễn giả là: lãnh đạo Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và Ủy ban tư vấn chính sách

thương mại quốc tế. Ngoài ra, hội thảo còn có sự tham dự của các đại biểu là đại diện các tổ chức quốc tế, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia kinh tế và pháp lý trong nước – quốc tế cùng đông đảo các Hiệp hội, tổng công ty và doanh nghiệp hoạt động trong 10 lĩnh vực của báo cáo.            Sau bài phát biểu khai mạc của Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh, bà Trần Phương Lan – Trưởng ban Giám sát và quản lý cạnh tranh – Cục Quản lý cạnh tranh đã có bài phát biểu giới thiệu tổng quan về báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế. Báo cáo đã tổng kết các kết quả đạt được cũng như hạn chế, tồn tại trong công tác thực thi Luật Cạnh tranh trong thời gian qua. Trong các lĩnh vực sản xuất, mặc dù mức độ tập trung kinh tế trong các lĩnh vực này là khá cao, cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa xuất hiện các hành vi phản cạnh tranh được qui định trong Luật Cạnh tranh. Báo cáo đã chỉ ra rằng do sức ép cạnh tranh giữa các nhà sản xuất và giữa các nhà sản xuất với doanh nghiệp thương mại (nhập khẩu, đóng gói và phân phối sản

phẩm) nên mức độ cạnh tranh trong các lĩnh vực này là tương đối cao. Bên cạnh đó hệ thống phân phối cũng là một yếu tố không nhỏ ảnh hưởng tới giá cũng như là mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Đối với các lĩnh vực dịch vụ lĩnh vực quảng cáo và lĩnh vực truyền hình trả tiền là có mức độ cạnh tranh khá cao. Hai lĩnh vực này thường tồn tại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như gây rối hoạt động kinh doanh và gièm pha đối thủ cạnh tranh.

Đây là lần thứ hai Cục Quản lý cạnh tranh thực hiện báo cáo đánh giá cạnh tranh trong các lĩnh vực của nền kinh tế nhận được sử ủng hộ, đánh giá cao từ các bên tham dự hội thảo. Các ý kiến nhận xét, bình luận tại hội thảo, đặc biệt là ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung – Phó Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) – Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Luật sư Trần Hữu Huỳnh – Chủ tịch Ủy Ban Tư vấn về Chính sách thương mại Quốc tế đều cho rằng báo cáo này là một sản phẩm có ý nghĩa, phục vụ tốt công tác quản lý nhà nước của Cục và các cơ quan hữu quan, cũng như cung cấp thông tin hữu ích cho các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế Báo cáo đã đề cập.

Báo cáo này do Nhóm nghiên cứu của Cục Quản lý cạnh tranh cùng với một số chuyên gia kinh tế, pháp lý thực hiện và được sự tham gia, cố vấn của Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung và Luật sư Trần Hữu Huỳnh.                               Thông tin chi tiết về các Báo cáo xin liên hệ Trung tâm thông tin cạnh tranh:

Địa chỉ: 25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam

Điện thoại: (+84 4) 222.05305   Fax: (+84 4) 222.05303

Email: [email protected]ẠI BìNH

HỘI THẢO “CÔNG Bố BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ CẠNH TRANH TRONG 10 LĩNH VựC CỦA NỀN KINH TẾ”

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 19: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

19ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

Nằm trong khuôn khổ hợp tác giữa Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) và Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA), hội thảo công bố Báo cáo Rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh đã được tổ chức vào sáng ngày 05 tháng 12 năm 2012 tại Hà Nội.13/12/2012

Tham dự hội thảo có Ông Bạch Văn Mừng – Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), Ông Akira Shimizu – Phó trưởng đại diện Văn phòng Jica tại Việt Nam cùng các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các luật sư, đại diện các doanh nghiệp cùng các cơ quan báo chí và truyền thông.

Mục đích của hội thảo nhằm công bố và giới thiệu báo cáo rà soát pháp luật cạnh tranh nhằm đánh giá các kết quả đã đạt được và các khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của pháp luật để từ đó có những đề xuất/ khuyến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới. Hội thảo công bố báo cáo lần này cũng nhằm tạo ra một diễn đàn mở tiếp nhận những ý kiến đóng góp quý giá từ phía các đại biểu tham dự để Ban soạn thảo hoàn hiện hơn nữa các nội dung của báo cáo bởi lẽ Luật Cạnh tranh ra

đời từ 2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 nhưng sau gần 8 năm thực hiện, thực tiễn thi hành đã bộc lộ không ít vướng mắc. Báo cáo Rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh chính là cơ sở để chỉnh sửa những bất cập, để luật thực sự “đi” vào cuộc sống.

Ông Cao Xuân Hiến, Trưởng ban Điều tra các vụ việc hạn chế cạnh tranh (Cục Quản lý cạnh tranh) đã giới thiệu các nội dung chính của Báo cáo Rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh bao gồm việc rà soát các quy định chung, các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền, hành vi tập trung kinh tế, hành vi cạnh tranh không lành mạnh; đồng thời đưa ra các kiến nghị sửa đổi, cũng như chia sẻ một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Lấy ví dụ về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền được quy định trong các văn bản pháp luật hiện

hành gồm: Luật Cạnh tranh, Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh và Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Trong năm 2009, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiến hành 8 vụ điều tra tiền tố tụng liên quan đến các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền. Tuy nhiên, đến nay chỉ chuyển được 1 vụ việc thành điều tra chính thức theo quy định của pháp luật cạnh tranh... Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do các văn bản chính thức chưa hướng dẫn cụ thể về cách thức đánh giá các yếu tố gây ra “khả năng gây hạn chế cạnh tranh” của doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, nhiều chuyên gia cho rằng chỉ nên coi thị phần chỉ là một trong những dấu hiệu để xem xét doanh nghiệp đó có hành vi thống lĩnh/độc quyền hay không bên cạnh các yếu tố khác như: rào cản gia nhập và mở rộng sản xuất, rào cản rút lui khỏi thị trường, sức mạnh của người mua, độ co giãn về cầu và khả năng sinh lợi nhuận.

Trong khi đó, tính đến nay, Cục Quản lý cạnh tranh đã xử lý tới 61 vụ cạnh tranh không lành mạnh, trong đó 28 vụ liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, còn lại là các vụ liên quan đến hành vi bán hàng đa cấp bất chính, hành vi dèm pha, nói xấu doanh nghiệp khác, hành vi khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn và hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hành vi liên quan đến quảng cáo, khuyến mãi không lành mạnh, mức phạt tiền thấp nhất chỉ 15 triệu đồng, mức cao nhất cũng chỉ 50 triệu đồng. Mức phạt này bị xem là chưa thỏa đáng so với mức phạt quy định của nhiều nước trên thế

HỘI THẢO CÔNG Bố BÁO CÁO RÀ SOÁT LUẬT CẠNH TRANH

Page 20: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

20 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

giới, trong đó có Nhật Bản, như ông Akira Shimizu, Phó Trưởng Đại diện Văn phòng JICA tại Việt Nam đã chia sẻ.

Một số khuyến nghị chính được đề cập tại buổi hội thảo bao gồm: điều chỉnh các quy định theo hướng duy trì sự cân bằng giữa phương pháp liệt kê và áp dụng linh hoạt tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể trong các nội dung về xác định thị trường liên quan, xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh và các quy định cấm/miễn trừ; bổ sung quy định về chương trình khoan hồng, ngưỡng thông báo tập trung kinh tế; sửa đổi quy định về thời hạn điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh cho phù hợp với tình hình thực tế; sửa đổi các quy định về hình thức xử lý vi phạm, biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả.

Cũng tại buổi hội thảo, Ban soạn thảo đã nhận được nhiều phản hồi từ phía các đại biểu tham dự đối với báo cáo. Đây là một tín hiệu đáng mừng bởi điều này cho thấy sự quan tâm rất lớn của các nhà nghiên cứu, các luật sư cũng như các doanh nghiệp đối với Luật Cạnh tranh. Các ý kiến đều cho rằng việc rà soát này là việc làm cần thiết, tuy nhiên cần hoàn thiện lại báo cáo cả về nội dung và hình thức thể hiện. Trong đó, báo cáo cần nêu bật được mục đích thực hiện cũng như nêu rõ được góc độ và tiêu chí rà soát, đánh giá, trên cơ sở đó xác định được những nguyên tắc để đề xuất sửa đổi luật cho phù hợp. Cũng có một số ý kiến cho rằng, việc rà soát sửa đổi này mới chỉ đứng trên góc độ “vướng mắc” của cơ quan quản lý mà chưa tính đến những trở ngại về cạnh tranh đối với các đối tượng chịu sự tác động của luật cạnh tranh. Đây là vấn đề cần được nhìn nhận và xem xét kỹ lưỡng trước khi tiến hành sửa đổi luật bởi suy cho cùng, việc sửa đổi luật cũng nhằm hướng đến mục tiêu cuối cùng là khơi thông dòng chảy thị trường, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các nhà đầu tư.

Như vậy, hội thảo công báo Báo cáo rà soát pháp luật cạnh tranh đã thành công tốt đẹp. Các ý kiến đóng góp của các đại biểu tại hội thảo sẽ được các thành viên Ban soạn thảo tiếp thu và cân nhắc để hoàn thiện báo cáo tổng thể trong thời gian sớm nhất.

PHƯƠNG THẢo

Ngày 11 tháng 01 năm 2013, Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (USITC) thông báo sẽ tổ chức cuộc họp biểu quyết để đưa ra kết luận cuối cùng về thiệt hại trong vụ việc điều tra AD và CVD đối với sản phẩm Mắc áo thép nhập khẩu từ Việt Nam (Steel wire garment hangers) và vụ việc điều tra AD đối với sản phẩm Tháp điện gió nhập khẩu từ Việt Nam (Utility scale wind towers).

Theo thông báo này, USITC sẽ tổ chức buổi họp biểu quyết vụ việc “Mắc áo thép” vào ngày 16 tháng 01 năm 2013 và vụ việc “Tháp điện gió” vào ngày 18 tháng 01 năm 2013.

Trong trường hợp USITC đưa ra quyết định cuối cùng khẳng định việc nhập khẩu mặt hàng sản phẩm mắc áo thép của Việt Nam và tháp điện gió nhập khẩu từ Việt Nam gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành công nghiệp sản xuất

nội địa của nước này, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) sẽ ban hành lệnh áp thuế, dự kiến vào ngày 07 tháng 02 năm 2013.

Trong trường hợp ngược lại, nếu USITC kết luận phủ định về thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa từ việc nhập khẩu sản phẩm trên, các cuộc điều tra sẽ được chấm dứt ngay lập tức và hành lệnh áp thuế sẽ không được DOC ban hành.

Trước đó, DOC đã ban hành quyết định cuối cùng về cả hai vụ việc. Cụ thể, DOC xác định biên độ phá giá và trợ cấp đối với mắc áo thép tương ứng là: 157% - 220.268% và 31.50% - 90.42%; đối với sản phẩm tháp điện gió, biên độ phá giá sản phẩm của Việt Nam là 51.50% - 58.49%.

(Ban Phòng vệ thương mại – Cục Quản lý cạnh tranh)

USITC TỔ CHứC BUỔI HọP BIểU QUYếT Để ĐƯA RA KếT LUẬN CUỐI CÙNG Về THIỆT HẠI TRoNG VỤ VIỆC ĐIềU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Và CHỐNG TRợ CẤP ĐỐI VớI SẢN PHẩM MắC Áo THéP Và THÁP ĐIỆN GIó

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 21: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

21ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Liên minh các nhà chế biến tôm của Hoa Kỳ (nguyên đơn) đã đệ đơn kiện lên Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DoC) yêu cầu điều tra áp thuế chống trợ cấp (CVD) và đệ đơn lên Ủy ban Thương mại quốc Hoa Kỳ (ITC) yêu cầu điều tra về thiệt hại liên quan đến mặt hàng “tôm nước ấm đông lạnh” nhập khẩu từ một số quốc gia trong đó có Việt Nam.

Vụ kiện chống trợ cấp được nước nhập khẩu tiến hành đối với một loại hàng hoá nhập khẩu từ các nước khác khi có những nghi ngờ rằng hàng hoá xuất khẩu được nhận những khoản trợ cấp trái với quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và gây thiệt hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu.

Đây là vụ việc cáo buộc trợ cấp thứ tư của các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhằm vào các sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam kể từ

năm 2009 (sau túi nhựa P.E; ống thép hàn các-bon và mắc áo thép). Tuy nhiên, đối với Việt Nam, đây là vụ việc cáo buộc trợ cấp đầu tiên đối với sản phẩm nông nghiệp.

Trong vụ việc chống trợ cấp, bên cạnh các bị đơn là doanh nghiệp thì Chính phủ nước bị điều tra cũng là một bên của vụ việc vì vậy cũng phải tham gia trả lời bảng câu hỏi điều tra do cơ quan điều tra gửi và tham gia trong giai đoạn thẩm tra tại chỗ.

Sản phẩm tôm nhập khẩu từ Việt Nam hiện cũng đang bị Hoa Kỳ áp thuế chống bán phá giá kể từ năm 2004 (dự kiến cuối tháng 1/2013 sẽ bước vào giai đoạn rà soát hành chính thứ 9 – POR9).

Theo số liệu từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), trong 11 tháng đầu năm 2012, Hoa Kỳ là thị trường lớn thứ hai nhập khẩu tôm của Việt Nam, sau Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong

LIÊN MINH CÁC NHà CHế BIếN TÔM CỦA HoA Kỳ Đã ĐỆ ĐƠN KIỆN LÊN BỘ THƯƠNG MẠI HoA Kỳ (DoC) YÊU CầU ĐIềU TRA ÁP THUế CHỐNG TRợ CẤP ĐỐI VớI MặT HàNG “TÔM NƯớC ẤM ĐÔNG LẠNH” NHẬP KHẩU Từ VIỆT NAM

giai đoạn này đạt trên 425,4 triệu đô la Mỹ, giảm 15,6% so với cùng kỳ năm trước, và chiếm 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam.

Theo trình tự thủ tục DOC sẽ có 20 ngày (kể từ ngày nhận đơn kiện) để xem xét, đưa ra quyết định có khởi xướng điều tra vụ việc hay không.

Theo pháp luật chống trợ cấp của Hoa Kỳ, DOC và Ủy ban Thương mại quốc Hoa Kỳ (ITC) là hai cơ quan điều tra vụ việc với vai trò khác nhau. DOC sẽ điều tra xác định biên độ trợ cấp còn ITC sẽ điều tra xác định thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ. Nếu một trong hai cơ quan ra quyết định phủ nhận tồn tại trợ cấp hoặc thiệt hại, cuộc điều tra sẽ được hủy bỏ.(Ban Phòng vệ thương mại – Cục Quản lý )

cạnh tranh

Ngày 21 tháng 12 năm 2012, Ủy ban Chống bán phá giá Indonesia (KADI) đã ban hành kết luận cuối cùng trong vụ việc điều tra chống bán phá giá thép cuộn cán nguội nhập khẩu từ Việt Nam, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Một số thông tin chung về vụ việc: - Ngày khởi xướng điều tra:

24/6/2011 - Giai đoạn điều tra: 2010- Sản phẩm bị điều tra: thép cuộn

cán nguội gồm các mã HS sau: +) Mã HS 7209: 7209.16.00.10;

7 2 0 9 . 1 7 . 0 0 . 1 0 ; 7 2 0 9 . 1 8 . 9 0 . 0 0 ; 7 2 0 9 . 2 6 . 0 0 . 1 0 ; 7 2 0 9 . 2 7 . 0 0 . 1 0 ;

72.09.28.90.00 và 7209.90.90.00; +) Mã HS 7211: 7211.23.20.00;

7 2 1 1 . 2 3 . 9 0 . 9 0 ; 7 2 1 1 . 2 9 . 2 0 . 0 0 ; 7211.29.90.00; 7211.90.10.00 và 7211.90.90.00.

- Nguyên đơn: Công ty PT Krakatau Steel

Thông tin trong quyết định của KADI - Biên độ phá giá KADI xác định

đối với các công ty xuất khẩu sản phẩm trên của Việt Nam là từ 13.5% – 36.6%.

- Theo số liệu của Bộ Thương mại Indonesia, năm 2010, Indonesia đã nhập khẩu 924.801 tấn thép cuộn cán nguội (loại nguyên liệu sử dụng chủ yếu trong ngành sản xuất ôtô, ống dẫn và nội thất) tăng 57,19% so với năm 2009.

Thông tin chi tiết vụ việc vui lòng truy cập tại: http://kadi.kemendag.go.id/home

(Ban Phòng vệ thương mại – Cục Quản lý cạnh tranh)

ỦY BAN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ INDoNeSIA (KADI) BAN HàNH QUYếT ĐỊNH CUỐI CÙNG VỤ VIỆC ĐIềU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ THéP CUỘN CÁN NGUỘI NHẬP KHẩU Từ VIỆT NAM

Page 22: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

22 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

HỎI - ĐÁP

Câu hỏi 1: Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định về bảo vệ thông tin người tiêu dùng như thế nào?

Trả lời:Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

(có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011) đã quy định tại Điều 6 về bảo vệ thông tin người tiêu dùng. Theo đó:

Điều 6. Bảo vệ thông tin của người tiêu dùng

1. Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.

2. Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm:

a) Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng;

b) Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý;

c) Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng;

d) Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;

đ) Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Câu hỏi 2: Thế nào được gọi là hàng hóa có khuyết tật (theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định) ?

Trả lời:Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

quy định:Hàng hóa có khuyết tật là hàng hóa

không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho người tiêu dùng, bao gồm:

a) Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật;

b) Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ;

c) Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng.

Câu hỏi 3: Khi phát hiện hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa phải có trách nhiệm gì?

Trả lời:Điều 22 Luật Bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng quy định: Khi phát hiện hàng hóa có khuyết

tật, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa có trách nhiệm:

1. Kịp thời tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngừng việc cung cấp hàng hóa có khuyết tật trên thị trường;

2. Thông báo công khai về hàng hóa có khuyết tật và việc thu hồi hàng hóa đó ít nhất 05 số liên tiếp trên báo ngày hoặc 05 ngày liên tiếp trên đài phát thanh, truyền hình tại địa phương mà hàng hóa đó được lưu thông với các nội dung sau đây:

a) Mô tả hàng hóa phải thu hồi;b) Lý do thu hồi hàng hóa và cảnh

báo nguy cơ thiệt hại do khuyết tật của hàng hóa gây ra;

c) Thời gian, địa điểm, phương thức thu hồi hàng hóa;

d) Thời gian, phương thức khắc phục khuyết tật của hàng hóa;

đ) Các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình thu hồi hàng hóa;

3. Thực hiện việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật đúng nội dung đã thông báo công khai và chịu các chi phí phát sinh trong quá trình thu hồi;

4. Báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp tỉnh nơi thực hiện thu hồi hàng hóa có khuyết tật sau khi hoàn thành việc thu hồi; trường hợp việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật được tiến hành trên địa bàn từ hai tỉnh trở lên thì báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở trung ương.

AN BìNH

Page 23: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

23ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

Quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả

Ngày 10 tháng 01 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả.

Theo Nghị định này các loại hàng giả bao gồm: Hàng không có giá trị sử dụng; hàng giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa; hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ và tem, nhãn, bao bì giả.

Tùy theo hành vi vi phạm, tính chất mức độ vi phạm, đối tượng vi phạm áp dụng mức phạt tiền sau: Đối với hành vi buôn bán hàng giả phạt tiền từ 100.000 đồng đến 70.000.000 đồng; đối với hành vi sản xuất hàng giả phạt tiền từ 200.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật phương tiện được áp dụng đối với các trường hợp: tang vật là nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, bộ phận, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến, các loại vật tư, nguyên liệu khác và tem, nhãn, bao bì, giả được sử dụng để sản xuất hàng giả; tang vật là hàng giả mà nếu áp dụng biện pháp buộc cá nhân, tổ chức vi phạm tự tiêu hủy sẽ ảnh hưởng đến môi sinh, môi trường, sức khỏe con người vật nuôi, cây trồng và trật tự an toàn xã hội; tang vật là hàng giả không thể loại bỏ yếu tố vi phạm trên nhãn, bao bì sản phẩm, hàng hóa hoặc việc loại bỏ yếu tố vi phạm dẫn đến khả năng vi phạm tiếp theo; việc buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam buộc tái xuất tang vật là không thể thực hiện được và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả có dấu hiệu của tội phạm theo quy định của pháp luật Hình sự thì người có thẩm quyền phải chuyển hồ sơ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nghị định cũng quy định cụ thể thẩm quyền, mức xử phạt, hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi buôn bán, sản xuất hàng giả không có giá trị sử dụng, công dụng; hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa; hành vi sản xuất, buôn bán tem, nhãn, bao bì giả và hành vi sản xuất buôn bán hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2013.

Kinh doanh thức ăn đường phố phải tập huấn về an toàn thực phẩm

Ngày 05 tháng 12 năm 2012, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 30/2012/TT-BYT quy định về điều kiện an

toàn thực phẩm (ATTP) đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thức ăn đường phố.

Trong đó, đáng chú ý là quy định về tiêu chuẩn đối với người kinh doanh thức ăn đường phố. Cụ thể, người kinh doanh thức ăn đường phố phải tập huấn và được cấp Giấy xác nhận tập huấn kiến thức ATTP theo quy định; phải được khám sức khoẻ và cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện sức khoẻ theo quy định. Người đang mắc các bệnh hoặc chứng bệnh thuộc danh mục các bệnh hoặc chứng bệnh truyền nhiễm mà người lao động không được phép tiếp xúc trực tiếp trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm thì không được tham gia kinh doanh thức ăn đường phố.

Đồng thời, Thông tư cũng quy định rõ, nguyên liệu dùng để chế biến thức ăn đường phố phải đảm bảo có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và bảo đảm ATTP; địa điểm kinh doanh phải có đủ trang thiết bị, dụng cụ để chế biến, bảo quản, bày bán riêng biệt thực phẩm sống và thức ăn ngay; được trang bị che đậy, bảo quản thức ăn trong quá trình vận chuyển, kinh doanh và bảo đảm luôn sạch sẽ; bàn ghế, giá tủ để bày bán thức ăn, đồ uống phải cách mặt đất ít nhất 60 cm. Đặc biệt, khi tiếp xúc với thức

ăn, đồ uống ăn ngay, người bán hàng phải đeo găng tay sử dụng 1 lần.

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 20 tháng 01 năm 2013 và bãi bỏ Quyết định số 41/2005/QĐ-BYT ngày 08 tháng 12 năm 2005.

Vi phạm an toàn thực phẩm bị phạt tối đa 100 triệu đồng

Ngày 08 tháng 11 năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2012/NĐ-CP quy định mức xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) về an toàn thực phẩm (ATTP) trong đó có quy định mức phạt tối đa đối với 01 hành vi VPHC về ATTP là 100 triệu đồng.

Đồng thời, Nghị định quy định các khung phạt đối với từng loại VPHC về ATTP, cụ thể như: Phạt từ 03 - 05 triệu đồng đối với hành vi sử dụng thịt hoặc sản phẩm chế biến từ thịt chưa qua kiểm tra vệ sinh thú y hoặc không đạt yêu cầu để chế biến; phạt từ 10 - 15 triệu đồng đối với hành vi sử dụng nguyên liệu không đảm bảo ATTP hoặc không rõ nguồn gốc, xuất xứ…

Riêng đối với các vi phạm về sử dụng hóa chất trong sản xuất, chế biến, thực phẩm, Nghị định quy định mức phạt khá nặng với khung phạt từ 15 - 20 triệu đồng đối với hành vi sử dụng hóa chất không rõ nguồn gốc, quá hạn sử dụng hoặc không

Rà SoÁT VĂN BẢN PHÁP LUẬT

Page 24: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

24 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

có hạn sử dụng; từ 30 - 50 triệu đồng đối với hành vi sử dụng hóa chất bị cấm sử dụng.

Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định rõ, đối với các vi phạm về ATTP ở mức độ nghiêm trọng, nếu mức tiền phạt cao nhất của khung tiền phạt thấp hơn 7 lần giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm nhưng số tiền phạt không quá 100 triệu đồng thì phạt tiền bằng 7 lần giá trị thực phẩm vi phạm.

Ngoài ra, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung như tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, Giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy; tịch thu tang vật, phương tiện để vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm… hoặc các biện pháp khắc phục

hậu quả như: Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do VPHC gây ra; buộc thu hồi, tiêu hủy hoặc tái chế đối với thực phẩm, nguyên liệu, dụng cụ vi phạm…

Nghị định này làm hết hiệu lực một phần của Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 06 tháng 04 năm 2005, và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 12 năm 2012

Trình tự và thủ tục cấp Giấy Chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm

Ngày 13 tháng 11 năm 2012, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 6835/QĐ-BCT về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành trong lĩnh vực quản lý an toàn thực phẩm (ATTP) thuộc phạm vi, chức năng quản lý của Bộ Công thương.

Quyết định này công bố và hướng dẫn về thủ tục cấp, cấp lại Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP

Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Quyết định có các biểu mẫu sau đi kèm:

- Đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP

- Bản thuyết minh cơ sở vật chất, trang thiết bị và dụng cụ sản xuất, chế biến thực phẩm

- Bản thuyết minh cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ kinh doanh thực phẩm

- Báo cáo kết quả khắc phục- Đơn đề nghị cấp lại giấy chứng nhận

cơ sở đủ điều kiện ATTPDanh sách các nhà máy điện tham

gia thị trường phát điện cạnh tranh năm 2013

Ngày 25 tháng 12 năm 2012, Cục Điều tiết Điện lực (Bộ Công thương) ban hành Danh sách các nhà máy điện tham gia Thị trường phát điện cạnh tranh năm 2013 tại Quyết định số 52/QĐ-ĐTĐL.

Theo đó, 45 nhà máy điện (13 nhà máy điện ở Miền Bắc, 19 nhà máy điện ở Miền Trung, 13 nhà máy điện ở Miền Nam như Nhà máy Thủy điện Thác Bà, Nhà máy Thủy điện Cửa Đại, Nhà máy nhiệt điện Quàng Ninh, Ninh Bình v.v…) là các nhà máy trực tiếp tham gia thị trường phát điện cạnh tranh năm 2013; 22 nhà máy dự kiến trực tiếp tham gia thị trường phát điện cạnh tranh trong năm 2013 khi chính thức vận hành thương mại và đáp ứng đủ điều kiện (Nhà máy điện Văn Chấn, Nhà máy nhiệt điện Mạo Khê, Nhà máy điện Uông Bí MR1, Uông Bí MR 2, v.v…). Danh sách này được nêu trong Phụ lục 1 của Quyết định nói trên.

Phụ lục 2 của Quyết định nêu Danh sách 25 nhà máy điện gián tiếp tham gia thị trường phát điện cạnh tranh năm 2013 (gồm 14 nhà máy thủy điện, 5 nhà máy tuabin khí, 5 nhà máy nhiệt điện dầu và 1 nhà máy than nhập), 10 nhà máy điện gián tiếp tham gia thị trường phát điện cạnh tranh năm 2013 do chưa đủ điều kiện (Nhà máy điện Nậm Chiến 2, Nhà máy điện Sông Tranh 2, Nhà máy điện Hương Sơn, Nhà máy điện Thái An, Nhà máy điện Bá Thước 2, Nhà máy điện Nho Quế 3, Nhà máy điện Đa Dâng 2, Nhà máy điện Sử Pán 2, Nhà máy điện Nậm Chiến 1, Nhà máy điện Bắc Hà).

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

LÊ DUY – TỔNG HợP

VĂN BẢN PHÁP LUẬT MỚI BAN HÀNH

Page 25: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

25ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

5. Xác định thị trường liên quan – yêu cầu đầu tiên trong quá trình đánh giá sức mạnh đáng kể hay xác định vị trí thống lĩnh

Sức mạnh thị trường đáng kể hay vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp như đề cập trên đây không phải là một khái niệm chung chung và không thể tồn tại độc lập hay tách biệt mà phải gắn với một hoàn cảnh cụ thể trong một sự việc cụ thể được gọi là thị trường liên quan. Các yếu tố như thị phần, rào cản, cấu trúc thị trường, khả năng tài chính, mối tương quan sức mạnh giữa các doanh nghiệp trên thị trường…phải được xem xét và đánh giá trên cơ sở một thị trường liên quan đã được xác định. Khi có đầy đủ các thông tin, chứng cứ để xác định doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể trên một thị trường liên quan xác định thì doanh nghiệp sẽ được coi là có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan đó. Vì vậy, để xác định xem doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể hay có vị trí thống lĩnh thì trước hết cần phải xác định được thị trường liên quan.

Xác định thị trường liên quan được coi là bước quan trọng, mang tính quyết định trong các vụ việc liên quan đến hành vi lạm dụng. Xác định thị trường liên quan ngoài việc giúp đánh giá được sức mạnh thị trường đáng kể của các chủ thể kinh doanh còn giúp đánh giá tác động của hành vi lạm dụng được thực hiện bởi doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể hay có vị trí thống lĩnh. Việc xác định thị trường liên quan còn làm cơ sở cho việc tính thị phần cũng như là xem xét các yếu tố liên quan khác.

Xác định thị trường liên quan chính là việc đi trả lời câu hỏi: Đâu là những sản phẩm mà người tiêu dùng cho là có khả năng thay thế cho nhau ở mức chấp nhận được căn cứ trên các yếu tố đặc điểm đặc trưng, đặc tính, giá cả, mục đích sử dụng và các thuộc tính quan trọng khác của sản phẩm, và ở trong phạm vi nào ?

Có nhiều loại thông tin, tài liệu giúp cơ quan cạnh tranh đánh giá mức độ về khả năng thay thế giữa các sản phẩm hay sự khác biệt giữa các khu vực bán sản phẩm. Trong từng vụ việc, các loại thông

tin, chứng cứ khác nhau sẽ đóng vai trò quyết định cho việc xem xét, phân tích. Điều này phụ thuộc nhiều vào những đặc tính, đặc trưng riêng của ngành công nghiệp và các sản phẩm, dịch vụ mà cơ quan cạnh tranh đang xem xét.

Khi xác định thị trường liên quan thường phải xem xét khả năng thay thế về cầu và khả năng thay thế về cung. Trong hầu hết các trường hợp, thị trường liên quan được xác định dựa trên quan điểm của khách hàng, tức là xét từ góc độ khả năng thay thế về cầu. Trong trường hợp cần thiết có thể xác định dựa trên quan điểm của nhà cung cấp.

Dưới góc độ kinh tế, khả năng thay thế về cầu tạo nên sức mạnh thường xuyên, có hiệu quả và ngay tức thì cho các nhà cung cấp một loại sản phẩm hay dịch vụ cụ thể. Nếu như khách hàng có thể dễ dàng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế sẵn có hoặc chuyển sang một nhà cung cấp ở một khu vực địa lý khác, thì doanh nghiệp không bị coi là có thể tác động đáng kể lên những yếu tố của thị trường như giá cả, sản lượng…trong điều kiện cạnh tranh thông thường.

Về cơ bản, việc xác định thị trường liên quan bao gồm xác định các nguồn cung về mặt sản phẩm hay dịch vụ và phạm vi địa lý mà nhà cung cấp có khả năng thay thế hiệu quả cho khách hàng. Tức là, thị trường liên quan được xác định trên phương diện sản phẩm, dịch vụ và phương diện địa lý.

Từ cách tiếp cận trên đây, pháp luật cạnh tranh và các cơ quan áp dụng, thực thi ở các nước trên thế giới đều thống nhất quan điểm “thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan”. Mặc dù cách thức diễn đạt, phương pháp xác định thị trường liên quan của các cơ quan áp dụng, thực thi ở các nước khác nhau có thể khác nhau. Ví dụ, pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ quy định thị trường liên quan được xác định là một sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm và một khu vực địa lý mà trong đó chỉ có một doanh nghiệp giả định tối đa hóa lợi nhuận sản xuất và phân phối, không thuộc đối tượng điều chỉnh giá, đó là nhà sản

xuất hoặc nhà phân phối sản phẩm duy nhất tại khu vực đó có khả năng tăng giá nhỏ nhưng đáng kể và liên tục (small but significant and nontransitory) trong hiện tại và tương lai, giả sử các điều kiện bán tất cả các sản phẩm khác là không đổi28. Theo cách định nghĩa đơn giản hơn, pháp luật cạnh tranh Châu Âu quy định thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan29. Cũng theo cách này, Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.

Như vậy, để xác định thị trường liên quan trong các vụ việc, cơ quan cạnh tranh phải xác định được thị trường sản phẩm/dịch vụ liên quan và thị trường địa lý liên quan.

Theo cách tiếp cận chung nhất trong pháp luật cạnh tranh và của cơ quan cạnh tranh ở các nước trên thế giới thì thị trường sản phẩm/dịch vụ liên quan bao gồm tất cả các hàng hóa và/hoặc dịch vụ được coi là có thể hoán đổi hoặc thay thế cho nhau trên cơ sở của những đặc điểm đặc trưng, đặc tính, giá cả và mục đích sử dụng của các loại hàng hóa và/hoặc dịch vụ đó theo quan điểm của người tiêu dùng.

Theo hướng dẫn của Ủy ban Châu Âu, một thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả những sản phẩm và/hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng cho là có thể hoán đổi, thay thế cho nhau căn cứ trên cơ sở các đặc điểm hay đặc tính, giá cả và mục đích sử dụng của các sản phẩm đó30. Cũng như vậy, OFT xác định thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả các sản phẩm và/hoặc dịch vụ mà được người tiêu dùng coi là có thể hoán đổi hay thay thế cho nhau, căn cứ trên cơ sở các đặc điểm của những sản phẩm/dịch vụ đó, giá cả của chúng và

28 Theo quy định trong Hướng dẫn sáp nhập của Hoa Kỳ.

29 Theo quy định trong Hướng dẫn xác định thị trường sản phẩm liên quan của Uỷ ban Châu Âu.

30 Xem Thông cáo của Ủy ban Châu Âu về xác định thị trường liên quan theo mục đích của các điều khoản cạnh tranh đăng trên Tạp chí chính thức số 97 C372.

SứC MẠNH THỊ TRƯỜNG ĐÁNG Kể Từ GÓC ĐỘ Lý THUYẾT KINH TẾ ĐẾN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

(TIẾP PHầN TRƯớC)

NGHIÊN CứU - TRAo ĐỔI

Page 26: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

26 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

mục đích sử dụng của chúng31. Trên cơ sở đó, trong vụ việc CP/0717/01 liên quan đến hành vi thỏa thuận giá giữa các công ty John Bruce Limited, Fleet Parts Limited và Truck and Trailer Components, OFT xác định thị trường sản phẩm liên quan là thị trường đòn điều chỉnh phanh khí nén tự động dựa trên những đánh giá như sau:

• Trên thị trường Anh, đòn điều chỉnh phanh khí nén tự động hiệu MEI phải cạnh tranh với vài nhãn hiệu khác như ATM, Blatec, BPW, Ecksil, Fermi, Haldex, Knorr-Bremse, Martec, Meritor, Sabex, SBT và Truck Technik.

• Mặc dù sản phẩm của các hãng có chức năng giống nhau, nhưng trên thực tế chúng không hoàn toàn thay thế cho nhau. Có những loại sản phẩm có thể dùng cho nhiều loại phương tiện khác nhau nhưng có loại sản phẩm lại chỉ được dùng cho một lượng hạn chế phương tiện. Vì vậy, khả năng hoàn toàn thay thế hay hoán đổi chỉ ở những loại phương tiện phổ thông.

• Cũng có rất nhiều loại sản phẩm đòn điều chỉnh phanh thủ công. Về khía cạnh kỹ thuật thì đòn điều chỉnh phanh khí nén tự động và đòn điều chỉnh phanh thủ công có thể thay thế cho nhau. Tuy vậy, đòn điều chỉnh phanh thủ công không tiện lợi cho dù giá rẻ hơn rất nhiều so với đòn điều chỉnh phanh tự động. Vì vậy, đòn điều chỉnh phanh thủ công dường như không được coi như có thể thay thế hoàn toàn cho đòn điều chỉnh phanh tự động nên thị trường sản phẩm liên quan không bao gồm sản phẩm đòn điều chỉnh phanh thủ công.

• Thỏa thuận giữa các bên không có sự phân biệt giữa các dạng sản phẩm khác nhau của MEI với các kiểu phương tiện khác nhau.

Cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ cũng xác định khi một sản phẩm được bán bởi một công ty sáp nhập (sản phẩm A) cạnh tranh với một hoặc nhiều sản phẩm được bán bởi một công ty sáp nhập khác, cơ quan cạnh tranh sẽ xác định thị trường sản phẩm liên quan xung quanh sản phẩm A để đánh giá về tầm quan trọng của quan hệ cạnh tranh này. Thị trường sản phẩm liên quan đó bao gồm nhóm các

31 Tham khảo Phán quyết mã số No. CA98/12/2002 của Cơ quan thương mại công bằng Anh trong vụ thỏa thuận ấn định giá đòn điều chỉnh phanh khí nén tự động (Vụ việc mã số CP/0717/01 ngày 13 tháng 5 năm 2002).

sản phẩm có khả năng thay thế cho sản phẩm A, và bao gồm cả sản phẩm A. Vì vậy, cơ quan cạnh tranh có thể xác định một thị trường liên quan bao gồm nhiều sản phẩm32. Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả33.

Như vậy, khi xác định thị trường sản phẩm liên quan, cơ quan cạnh tranh cần xác định nhóm các sản phẩm được coi là thuộc cùng một thị trường sản phẩm liên quan để phục vụ quá trình phân tích các tác động cạnh tranh mà hành vi phản cạnh tranh đang bị nghi ngờ có thể gây ra đối với những sản phẩm đó. Để thực hiện được điều này, các cơ quan cạnh tranh trên thế giới thường (i) phân tích khả năng thay thế về cầu của sản phẩm dẫn đến hình thành một nhóm các sản phẩm mà theo đánh giá của người tiêu dùng đó là các sản phẩm có khả năng thay thế cho nhau, (ii) phân tích khả năng thay thế về cung trong trường hợp ảnh hưởng của khả năng thay thế về cung tương đương với khả năng thay thế về cầu liên quan đến tính hiệu quả và kịp thời, (iii) sử dụng phép thử SSNIP hay còn gọi là phép thử nhà độc quyền giả định.

Thị trường sản phẩm/dịch vụ liên quan trên đây phải được xem xét đồng thời và gắn với một phạm vi địa lý nhất định được gọi là thị trường địa lý liên quan. Thông thường, thị trường địa lý liên quan được hiểu là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận. Theo hướng dẫn của Ủy ban Châu Âu, thị trường địa lý liên quan bao gồm khu vực địa lý mà trong đó các doanh nghiệp có liên quan tham gia vào cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ và các điều kiện cạnh tranh là tương đối đồng đều. Cụ thể, nó bao gồm các khu vực nơi mà các doanh nghiệp có liên quan có mối liên hệ với nhau trong việc cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, trong đó các điều kiện cạnh tranh là đồng nhất và có thể phân biệt với các khu vực địa lý lân cận do các điều kiện cạnh tranh tại các khu vực này là khác biệt đáng kể. Các nhân tố có liên quan trong quá trình xác định thị trường địa lý liên quan bao gồm bản chất và các đặc tính của sản phẩm hoặc dịch vụ có liên quan, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường hay thị hiếu của người tiêu dùng, sự khác biệt đáng kể về

32 Thao khảo tài liệu Hướng dẫn sáp nhập theo chiều dọc, Cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ công bố ngày 19/8/2010.

33 Khoản 1, Điều 3, Luật Cạnh tranh.

thị phần của các doanh nghiệp giữa các khu vực địa lý lân cận hay các khác biệt đáng kể về giá34. Cũng như vậy, OFT xác định thị trường địa lý liên quan là khu vực địa lý mà tại đó các doanh nghiệp liên quan tham gia vào quá trình cung ứng hoặc cầu về sản phẩm hay dịch vụ trong điều kiện về cạnh tranh tương tự và có thể phân biệt được với các khu vực địa lý lân cận trên cơ sở điều kiện cạnh tranh tương đối khác biệt giữa các vùng này35.

Một số bằng chứng mà cơ quan cạnh tranh có thể xem xét để đưa ra kết luận về thị trường địa lý liên quan như (i) bằng chứng về sự phân chia đơn đặt hàng tới các khu vực khác nhau trong quá khứ, (ii) các đặc tính cơ bản của cầu, (iii) quan điểm của khách hàng và đối thủ cạnh tranh, (iv) mô hình mua sắm trong phạm vi địa lý hiện tại, (v) các rào cản gia nhập và rút khỏi thị trường v.v…

Sau khi xác định được thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan, cơ quan cạnh tranh sẽ đưa ra kết luận về thị trường liên quan.6. Kết luận và đề xuất

Từ những nội dung đã trình bày trên đây, kết luận của bài viết như sau:

Thứ nhất, bản chất của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đó là có sức mạnh thị trường một cách đáng kể, đó là khả năng của chủ thể kinh doanh có thể thu lợi nhuận từ việc tăng và duy trì giá cao hơn giá được xác định trong điều kiện thị trường cạnh tranh thông thường hoặc từ việc kiểm soát sản lượng hay loại trừ cạnh tranh để tăng giá.

Thứ hai, xác định thị trường liên quan là bước quan trọng, mang tính quyết định trong các vụ việc liên quan đến hành vi lạm dụng.

Thứ ba, chỉ một yếu tố thị phần là không đủ để có thể kết luận về sự thống lĩnh. Bản thân số liệu thị phần sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu không xem xét nó trong mối quan hệ qua lại cùng với các yếu tố bổ sung khác để có thể minh chứng cho một sức mạnh hay vị trí thực sự của doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, việc quy định nhằm đơn giản hóa việc xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp cần phải được xem xét và cân nhắc lại.

PHÙNG VĂN THàNH(Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công Thương)

34 Xem Thông cáo của Ủy ban Châu Âu về xác định thị trường liên quan theo mục đích của các điều khoản cạnh tranh đăng trên Tạp chí chính thức số 97 C372.

35 Tham khảo Phán quyết mã số No. CA98/12/2002 của Cơ quan thương mại công bằng Anh trong vụ thỏa thuận ấn định giá đòn điều chỉnh phanh khí nén tự động (Vụ việc mã số CP/0717/01 ngày 13 tháng 5 năm 2002).

NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI

Page 27: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

27ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

6. Thỏa thuận cung cấp độc quyền (exclusive supply)

Thỏa thuận cung cấp độc quyền là các thỏa thuận trong đó cấu thành chính của nó là nhà cung cấp có nghĩa vụ hoặc được khuyến khích chỉ bán sản phẩm cho một người mua hoặc chủ yếu cho một người mua nói chung hoặc nhằm một mục đích sử dụng cụ thể. Thỏa thuận cung cấp độc quyền có thể được thực hiện dưới hình thức một nghĩa vụ cung cấp độc quyền, buộc nhà cung cấp chỉ bán sản phẩm cho một người mua để bán lại hoặc nhằm mục đích sử dụng cụ thể, nhưng cũng có thể dưới hình thức ép buộc số lượng đối với nhà cung cấp, khi nhà cung cấp và người mua thống nhất một điều khoản khuyến

khích nhà cung cấp tập trung việc bán hàng chỉ cho một người mua. Đối với các hàng hóa và dịch vụ trung gian, cung cấp độc quyền thường được gọi là cung cấp công nghiệp.

Thỏa thuận cung cấp độc quyền có thể được miễn trừ theo Quy định về miễn trừ khi cả nhà cung cấp và người mua có thị phần không vượt quá 30%, ngay cả khi nó được kết hợp với các hành vi hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc ít nghiêm trọng khác, chẳng hạn như điều khoản loại trừ. Các trường hợp thị phần vượt ngưỡng, thì hành vi thỏa thuận cung cấp độc quyền sẽ được xem xét, đánh giá tùy thuộc vào từng trường hợp.

Rủi ro cạnh tranh chủ yếu của thỏa thuận cung cấp độc quyền là phong tỏa phản cạnh tranh đối với những người mua khác. Tác động tiêu cực của thỏa thuận cung cấp độc quyền trong trường hợp này cũng tương tự như thỏa thuận phân phối độc quyền, đặc biệt khi nhà phân phối độc quyền trở thành người mua độc quyền đối với toàn bộ thị trường.

Thị phần của người mua trên thị trường sơ cấp là một yếu tố rất quan trọng trong việc đánh giá khả năng người mua “áp đặt” hành vi cung cấp độc quyền để phong tỏa người mua khác được tiếp cận nguồn cung. Tuy nhiên, vai trò quan trọng của người mua trên thị trường thứ cấp cũng là yếu tố để xác định liệu có phát sinh các vấn đề về cạnh tranh hay không. Nếu người mua không có sức mạnh trên thị trường thứ cấp, thì tác động tiêu cực đáng kể đối với người tiêu dùng có thể sẽ không phát sinh. Tác động phản cạnh tranh có thể gia tăng nếu thị phần của người mua trên thị trường thứ cấp cũng như thị trường sơ cấp vượt quá 30%. Khi thị phần của người mua trên thị trường sơ cấp dưới 30%, tác động phong tỏa đáng kể đối với thị trường vẫn có thể xảy ra, đặc biệt khi thị phần của người mua trên

thị trường thứ cấp vượt quá 30% và cung cấp độc quyền liên quan đến mục đích sử dụng cụ thể. Khi một công ty có vị trí thống lĩnh trên thị trường thứ cấp, thì bất kỳ một nghĩa vụ cung cấp độc quyền nào chỉ cho một hoặc chủ yếu cho một người mua thống lĩnh rất dễ gây ra tác động phản cạnh tranh đáng kể.

Không chỉ có vị trí thị trường của người mua trên thị trường sơ cấp và thứ cấp, mà quy mô và thời hạn áp dụng nghĩa vụ cung cấp độc quyền cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tác động phản cạnh tranh của hành vi. Tỷ lệ bị ràng buộc cung cấp độc quyền càng cao, thời gian thực hiện nghĩa vụ cung cấp độc quyền càng dài thì nguy cơ phong tỏa thị trường càng lớn. Hợp đồng cung cấp độc quyền thời hạn dưới 5 năm do các doanh nghiệp không có vị trí thống lĩnh tham gia, thực hiện đòi hỏi phải có sự cân bằng giữa các tác động thúc đẩy cạnh tranh và phản cạnh tranh, trong khi đó các hợp đồng thời hạn quá 5 năm đối với phần lớn các hình thức đầu tư đều không được coi là cần thiết để đạt được các hiệu quả đặt ra hoặc hiệu quả không đủ lớn để bù đắp các tác động phong tỏa thị trường do hợp đồng cung cấp độc quyền dài hạn như vậy gây ra.

Các yếu tố khác như sức mạnh thị trường của các nhà thu mua cạnh tranh, rào cản gia nhập thị trường ở khâu cung cấp, sức mạnh đối kháng của các nhà cung cấp, cấp độ thương mại và bản chất, đặc thù của sản phẩm cũng là các yếu tố liên quan, quan trọng mà các cơ quan cạnh tranh EU cần xem xét khi đánh giá tác động của hành vi thỏa thuận cung cấp độc quyền. 7. Thỏa thuận thanh toán tiếp cận trả trước (Upfront access payments)

Thanh toán tiếp cận trả trước là một khoản phí cố định mà nhà cung cấp trả cho các nhà phân phối trong khuôn khổ mối quan hệ theo chiều dọc vào đầu một giai đoạn thỏa thuận nhằm mục đích tiếp cận vào mạng lưới phân phối của họ và trả thù lao dịch vụ cho các nhà bán lẻ. Dạng thỏa thuận này bao gồm các hành vi khác nhau như thỏa thuận về lệ phí chỗ (slotting allowances28), phí duy trì trưng bày sản phẩm (pay-to-stay fees29), khoản phí để tham gia vào một chiến dịch khuyến mãi của nhà phân phối...

Thanh toán tiếp cận trả trước có thể

28 Một khoản lệ phí cố định mà nhà sản xuất phải trả cho các nhà bán lẻ để đưa sản phẩm vào gian trưng bày của họ

29 Khoản thanh toán đảm bảo tiếp tục duy trì sự có mặt của sản phẩm trên kệ hàng của nhà bán lẻ trong một khoảng thời gian nhất định.

THỏA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH THEO CHIỀU DọC Từ GÓC NHìN CỦA EU – PHầN 2

Page 28: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

28 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

được miễn trừ khi thị phần của cả nhà cung cấp và người mua không vượt quá 30%. Đối với các trường hợp thị phần của một trong hai bên tham gia thỏa thuận vượt ngưỡng, thì việc đánh giá thỏa thuận thanh toán tiếp cận trả trước được xem xét tùy vào từng trường hợp cụ thể.

Thanh toán tiếp cận trả trước đôi khi có thể dẫn đến những tác động phong tỏa thị trường đối với các nhà phân phối khác nếu khoản phí đó khuyến khích nhà cung cấp phân phối các sản phẩm của mình chỉ thông qua một hoặc một số lượng hạn chế các nhà phân phối. Khoản phí cao có thể khiến cho nhà cung cấp mong muốn bán một lượng lớn hàng hóa của mình thông qua nhà phân phối này để trang trải cho các khoản phí đó. Trong trường hợp này, thỏa thuận thanh toán tiếp cận trả trước có tác động phong tỏa thị trường thứ cấp giống như một dạng nghĩa vụ cung cấp độc quyền. Việc đánh giá các tác động tiêu cực này cũng tương tự như đánh giá tác động tiêu cực của hành vi cung cấp độc quyền.

Đặc biệt, thanh toán tiếp cận trả trước cũng có thể phát sinh tác động phong tỏa thị trường đối với các nhà cung cấp khác, nếu việc sử dụng rộng rãi hình thức thanh toán tiếp cận trả trước làm tăng các rào cản gia nhập thị trường đối với các doanh nghiệp nhỏ. Việc đánh giá tác động phản cạnh tranh của hành vi này cũng tương tự như đối với hành vi thỏa thuận duy trì một nhãn hiệu.

Ngoài các tác động tiêu cực kể trên, thanh toán tiếp cận trả trước còn có thể làm giảm cạnh tranh và tạo điều kiện câu kết giữa các nhà phân phối. Thanh toán tiếp cận trả trước có khả năng khiến tăng giá sản phẩm khi nhà cung cấp buộc phải trang trải các khoản phí trả trước cho nhà phân phối. Giá cung cấp cao hơn có thể làm giảm động cơ của các nhà bán lẻ để cạnh tranh về giá trên thị trường thứ cấp, khi lợi nhuận của các nhà phân phối tăng lên nhờ các khoản phí tiếp cận này. Tác động giảm cạnh tranh giữa các nhà phân phối thông qua việc đồng thời cùng sử dụng hình thức thanh toán tiếp cận trả trước thường xảy ra khi thị trường phân phối có mức độ tập trung cao.

Tuy nhiên, việc sử dụng hình thức thanh toán tiếp cận trả trước trong nhiều trường hợp có thể góp phần phân bổ hiệu quả không gian trưng bày các sản phẩm mới. Các nhà phân phối thường có ít thông tin hơn so với các nhà cung cấp về khả năng thành công của sản phẩm mới được đưa vào thị trường, và kết quả là số lượng sản phẩm được dự trữ có thể dưới mức tối ưu. Thanh toán tiếp cận trả trước có thể

được sử dụng nhằm làm giảm sự bất đối xứng thông tin giữa nhà cung cấp và nhà phân phối bằng cách công khai cho phép các nhà cung cấp cạnh tranh về không gian trưng bày sản phẩm. Do đó, nhà phân phối có thể nhận biết được tín hiệu về sản phẩm nào có khả năng thành công nhất khi một nhà cung cấp có thể đồng ý trả một khoản phí thanh toán tiếp cận trả trước nếu họ ước tính được xác suất thất bại thấp khi giới thiệu sản phẩm mới này.

Do sự bất đối xứng về thông tin được đề cập ở trên, các nhà cung cấp có thể có động cơ hưởng khống (free-ride) trên các nỗ lực khuyến mãi của các nhà phân phối nhằm giới thiệu các sản phẩm dưới mức tối ưu. Nếu một sản phẩm không thành công, các nhà phân phối sẽ trả một phần chi phí cho sự thất bại của sản phẩm. Việc sử dụng thanh toán tiếp cận trả trước có thể ngăn ngừa việc hưởng khống như vậy bằng cách chuyển rủi ro thất bại sản phẩm ngược trở lại cho nhà cung cấp, qua đó đóng góp một tỷ lệ tối ưu vào việc giới thiệu sản phẩm. 8. Thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm (Category management agreements)

Thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm là thỏa thuận mà theo đó, trong một hợp đồng phân phối, nhà phân phối ủy thác cho nhà cung cấp (trưởng đại diện sản phẩm) tiếp thị một loại sản phẩm nói chung, không chỉ bao gồm các sản phẩm của nhà cung cấp này mà còn bao gồm cả sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Do vậy, trưởng đại diện sản phẩm có thể có ảnh hưởng đối với việc bố trí, sắp xếp và khuyến mãi sản phẩm trong cửa hàng và lựa chọn sản phẩm cho cửa hàng.

Thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm có thể được miễn trừ khi thị phần của cả nhà cung cấp và người mua không vượt quá 30%. Trong trường hợp thị phần của một trong hai bên vượt ngưỡng, thì thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm sẽ được xem xét, đánh giá tùy vào từng vụ việc cụ thể.

Trong phần lớn các trường hợp, thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm sẽ không có vấn đề, tuy nhiên đôi khi nó cũng có thể gây bóp méo cạnh tranh giữa các nhà cung cấp, và cuối cùng có thể dẫn đến tác động phong tỏa phản cạnh tranh đối với các nhà cung cấp khác, nếu trưởng đại diện do có ảnh hưởng đối với các quyết định tiếp thị sản phẩm của nhà phân phối, có thể hạn chế hoặc gây bất lợi đối với việc phân phối sản phẩm của các nhà cung cấp cạnh tranh. Trong khi ở hầu hết các trường hợp, nhà phân phối có thể không có lợi ích trong việc hạn chế sự lựa chọn sản phẩm, khi đồng thời bán các sản phẩm cạnh tranh

dưới thương hiệu riêng của mình (nhãn hiệu riêng), nhà phân phối vẫn có thể có động cơ loại trừ các nhà cung cấp nhất định, đặc biệt đối với các sản phẩm trung gian. Việc đánh giá tác động phong tỏa đối với thị trường thứ cấp cũng tương tự như đối với thỏa thuận duy trì một nhãn hiệu bằng cách giải quyết các vấn đề như độ bao phủ thị trường của các thỏa thuận này, vị trí trên thị trường của các nhà cung cấp cạnh tranh và khả năng đồng thời cùng áp dụng các thỏa thuận này.

Ngoài ra, thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm có thể tạo điều kiện cho việc câu kết giữa các nhà phân phối khi cùng một nhà cung cấp thực hiện vai trò trưởng đại diện sản phẩm cho tất cả hoặc phần lớn các nhà phân phối cạnh tranh trên thị trường và đưa ra tham khảo chung đối với các quyết định tiếp thị của các nhà phân phối này.

Quản lý theo loại sản phẩm cũng có thể tạo điều kiện câu kết, thông đồng giữa các nhà cung cấp bằng cách tăng cường cơ hội trao đổi các thông tin thị trường nhạy cảm thông qua các nhà bán lẻ, chẳng hạn như thông tin liên quan đến việc định giá trong tương lai, kế hoạch khuyến mãi hoặc chiến dịch quảng cáo.

Tuy nhiên, việc sử dụng thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm cũng có thể mang lại những hiệu quả nhất định. Nó có thể cho phép các nhà phân phối tiếp cận kỹ năng tiếp thị của nhà cung cấp đối với một nhóm các sản phẩm nhất định và đạt được hiệu quả kinh tế về quy mô do họ đảm bảo được một lượng sản phẩm tối ưu có mặt kịp thời và trực tiếp ngay trong gian hàng. Do quản lý theo loại sản phẩm căn cứ trên thị hiếu của người tiêu dùng, nên thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm có thể giúp thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Nói chung, thông qua thỏa thuận quản lý theo loại sản phẩm có thể đạt được mức độ cạnh tranh cao hơn giữa các thương hiệu, chi phí chuyển đổi của người tiêu dùng thấp hơn và lợi ích kinh tế cao hơn. 9. Bán kèm (Tying)

Bán kèm là trường hợp khách hàng khi mua một sản phẩm (sản phẩm bán kèm) bị buộc phải mua một sản phẩm khác biệt khác (sản phẩm được bán kèm) từ cùng một nhà cung cấp hoặc từ một người nào đó được chỉ định. Bán kèm có thể cấu thành nên hành vi lạm dụng theo Điều 102, Hiệp ước EU. Nhưng bán kèm đồng thời cũng có thể cấu thành nên hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc được điều chỉnh bởi Điều 101, khi nó dẫn đến một dạng của hành vi duy trì một nhãn hiệu đối với sản phẩm được

NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI

Page 29: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

29ACV CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37- 2012

bán kèm. Các sản phẩm có được coi là khác

biệt nhau hay không tùy thuộc vào nhu cầu của khách hàng. Hai sản phẩm là khác biệt, nếu khi không có hành vi bán kèm, một lượng lớn khách hàng có thể sẽ mua hoặc đã từng mua sản phẩm bán kèm mà không mua sản phẩm được bán kèm từ cùng một nhà cung cấp, do đó cho phép sản xuất độc lập đối với cả sản phẩm bán kèm và sản phẩm được bán kèm.

Hành vi bán kèm có thể dẫn đến tác động phong tỏa phản cạnh tranh trên thị trường các sản phẩm được bán kèm, thị trường sản phẩm bán kèm hoặc đồng thời trên cả hai thị trường. Tác động phong tỏa thị trường phụ thuộc vào tỷ lệ bán kèm trong tổng doanh số bán hàng trên thị trường sản phẩm được bán kèm.

Ngoài ra, bán kèm cũng có thể dẫn đến giảm cạnh tranh đối với các khách hàng muốn mua sản phẩm được bán kèm, mà không phải sản phẩm bán kèm. Nếu không có một lượng đáng kể khách hàng sẽ mua sản phẩm được bán kèm một cách riêng rẽ để duy trì các đối thủ cạnh tranh của nhà cung cấp trên thị trường sản phẩm được bán kèm, thì bán kèm có thể dẫn đến việc các khách hàng đó phải đối mặt với mức giá cao. Nếu sản phẩm được bán kèm là một sản phẩm bổ sung quan trọng cho sản phẩm bán kèm, thì việc giảm số lượng các nhà cung cấp thay thế cho các sản phẩm được bán kèm và theo đó sự xuất hiện sản phẩm được bán kèm của các nhà cung cấp này cũng giảm, có thể làm cho việc gia nhập riêng thị trường sản phẩm bán kèm càng trở nên khó khăn hơn.

Bên cạnh đó, hành vi bán kèm cũng có thể trực tiếp dẫn đến việc tăng giá cao hơn mức cạnh tranh.

Hành vi bán kèm có thể được miễn trừ nếu thị phần của nhà cung cấp trên cả thị trường sản phẩm bán kèm và thị trường sản phẩm được bán kèm và thị phần của người mua trên thị trường thứ cấp liên quan không vượt quá 30%. 10. Thỏa thuận hạn chế giá bán lại (Resale price restrictions)

Duy trì giá bán lại (resale price maintenance (RPM)) là thỏa thuận hoặc

việc thống nhất cùng hành động nhằm mục tiêu xác định một mức giá bán lại cố định hoặc tối thiểu, hoặc một mức giá cố định hoặc tối thiểu mà người mua hướng đến một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, được xử lý như một loại hành vi hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng. Ràng buộc nghĩa vụ duy trì mức giá bán lại trong một hợp đồng sẽ làm tăng giả thuyết thỏa thuận này gây hạn chế cạnh tranh và do vậy rơi vào phạm vi điều chỉnh của Điều 101(1). Nó cũng làm tăng giả thuyết thỏa thuận này không có khả năng đáp ứng đầy đủ các điều kiện của Điều 101(3), do vậy mà không được áp dụng miễn trừ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, các doanh nghiệp có khả năng bào chữa, biện hộ về hiệu quả của thỏa thuận theo quy định tại Điều 101(3). Đó là trách nhiệm của các bên phải chứng minh hiệu quả từ thỏa thuận duy trì giá bán lại của họ và chứng minh rằng tất cả các điều kiện của Điều 101(3) đều được đáp ứng. Sau đó nghĩa vụ đánh giá các tác động tiêu cực có thể xảy ra đối với cạnh tranh và người tiêu dùng thuộc về Ủy ban châu Âu trước khi quyết định vụ việc có đáp ứng điều kiện được miễn trừ theo Điều 101(3) hay không.

Duy trì giá bán lại có thể gây hạn chế cạnh tranh theo nhiều cách. Thứ nhất, RPM có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc câu kết giữa các nhà cung cấp bằng cách tăng cường sự minh bạch về giá trên thị trường, do đó khiến dễ dàng phát hiện xem một nhà cung cấp có đi trệch khỏi cam kết bằng cách giảm giá hay không. RPM cũng làm giảm động cơ khuyến khích nhà cung cấp giảm giá bán của mình cho các nhà phân phối, do mức giá bán lại đã được ấn định sẽ ngăn cản họ thu được lợi nhuận từ việc mở rộng bán hàng. Tác động tiêu cực này có nhiều khả năng xảy ra đặc biệt khi thị trường thuận lợi cho việc câu kết, chẳng hạn như khi các nhà sản xuất định dạng nên thị trường độc quyền nhóm, và một phần đáng kể thị trường bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận RPM.

Thứ hai, bằng cách loại bỏ cạnh tranh về giá trong cùng một thương hiệu, RPM có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông đồng giữa những người mua, nghĩa là ở cấp phân phối. Các nhà phân phối mạnh hoặc có tổ chức tốt có thể ép buộc/áp đặt một hoặc nhiều nhà cung cấp ấn định giá bán lại trên mức cạnh tranh và do đó giúp họ tìm kiếm hoặc ổn định sự cân bằng nhờ câu kết. Mất đi sự cạnh tranh về giá đặc biệt có vấn đề nếu RPM diễn ra xuất phát từ âm mưu của những người mua mà lợi ích phối hợp theo chiều ngang của chúng có thể tác động tiêu cực đến người tiêu dùng.

Thứ ba, RPM nhìn chung gây hạn chế cạnh tranh nhiều hơn giữa các nhà sản xuất và/hoặc giữa các nhà bán lẻ, nhất là khi các nhà sản xuất phân phối sản phẩm của họ thông qua các nhà phân phối giống nhau và RPM được tất cả hoặc phần lớn các nhà sản xuất này áp dụng cùng lúc.

Thứ tư, tác động trung gian của RPM có thể là tất cả hoặc một số nhà phân phối nhất định bị ngăn cản giảm giá bán của mình đối với một nhãn hiệu cụ thể. Nói cách khác, tác động trực tiếp của RPM là làm tăng giá bán.

Thứ năm, RPM có thể làm giảm áp lực về lợi nhuận đối với các nhà sản xuất, đặc biệt khi nhà sản xuất có vấn đề cam kết, nghĩa là khi họ có lợi ích từ việc giảm giá cho các nhà phân phối thường xuyên. Trong trường hợp như vậy, nhà sản xuất ưa dùng thỏa thuận duy trì giá bán lại, để giúp họ không phải giảm giá bán cho các nhà phân phối thường xuyên và giảm áp lực lợi nhuận của riêng họ.

Thứ sáu, RPM có thể được các nhà sản xuất có sức mạnh thị trường áp dụng để phong tỏa thị trường đối với các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn. Lợi nhuận tăng lên mà RPM mang lại cho các nhà phân phối có thể khiến họ sau đó sẽ ưu tiên phân phối một thương hiệu cụ thể thay vì các thương hiệu của đối thủ cạnh tranh khác khi đưa ra tư vấn đối với khách hàng, thậm chí sự tư vấn đó không đem lại lợi ích cho những khách hàng này, hoặc không bán sản phẩm mang các thương hiệu của đối thủ cạnh tranh.

Cuối cùng, RPM có thể làm giảm động lực phát triển và đổi mới công nghệ ở cấp phân phối. Bằng cách ngăn chặn cạnh tranh về giá cả giữa các nhà phân phối khác nhau, RPM có thể khiến ngăn chặn các nhà bán lẻ hoạt động hiệu quả hơn gia nhập thị trường và/hoặc đạt được quy mô hiệu quả với mức giá thấp. RPM cũng khiến cản trở hoặc kìm hãm sự gia nhập và mở rộng thị trường của loại hình phân phối dựa trên mức giá thấp, chẳng hạn như chiết khấu giá.

Tuy nhiên, RPM không chỉ gây hạn chế cạnh tranh mà trong một số trường hợp, nó có thể dẫn đến những hiệu quả kinh tế và được đánh giá theo Điều 101(3). Phổ biến nhất là khi một nhà sản xuất giới thiệu một sản phẩm mới, RPM có thể hữu ích trong giai đoạn giới thiệu, mở rộng cầu tiêu thụ sản phẩm, khuyến khích các nhà phân phối tính toán nhiều hơn đến lợi ích của nhà sản xuất trong việc quảng bá sản phẩm. RPM có thể thúc đẩy các nhà phân phối tăng cường nỗ lực bán hàng và nếu các nhà phân phối trên thị trường này

(xem tiếp trang 30)

Page 30: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

30 ACVCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNGSỐ 37 - 2013

(tiếp theo trang 29)...đang có áp lực cạnh tranh, thì RPM

có thể khuyến khích họ mở rộng cầu tổng thể về sản phẩm và làm cho sản phẩm được phân phối thành công cũng như mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Tương tự, mức giá bán lại cố định, không chỉ riêng mức giá bán lại tối đa có thể là cần thiết để thiết lập một hệ thống nhượng quyền hoặc một hệ thống phân phối tương tự, áp dụng một hình thức phân phối thống nhất và chiến dịch giá thấp trong một khoảng thời gian ngắn (thông thường, từ 2 đến 6 tuần) cũng sẽ có lợi cho người tiêu dùng. Trong một số trường hợp, siêu lợi nhuận từ chính sách RPM có thể cho phép nhà bán lẻ cung cấp các dịch vụ bán hàng bổ sung, đặc biệt trong việc tư vấn mua các sản phẩm đồng bộ. Nếu có một lượng đủ lớn các khách hàng sau khi được tư vấn lựa chọn sản phẩm nhờ dịch vụ này lại mua sản phẩm của các nhà bán lẻ khác có mức giá thấp hơn sẽ có thể làm giảm hoặc loại bỏ các dịch vụ kích cầu đối với sản phẩm của nhà cung cấp. RPM có thể giúp ngăn chặn tình trạng hưởng khống như vậy

Hoạt động: Hội thảo nâng cao năng lực cạnh tranh trong khuôn khổ Dự án GIZ - ASEAN

Thời gian: 7-8/03/2013Nội dung: Hợp tác quốc tế về các hoạt động liên quan

đến cạnh tranhThành phần/Dự án: Đại diện các cơ quan cạnh tranh

của ASEAN Địa điểm: Tp. Hồ Chí Minh

trên thị trường phân phối. Các bên tham gia thỏa thuận sẽ phải chứng minh RPM có thể giúp ngăn chặn tình trạng hưởng khống giữa các nhà bán lẻ đối với những dịch vụ bán hàng này và những dịch vụ đó có lợi cho người tiêu dùng, do vậy nó là một phần chứng minh các điều kiện của Điều 101(3) đều được thỏa mãn.

Hành vi khuyến nghị mức giá bán lại hoặc ấn định mức giá bán lại tối đa đối với các nhà bán lẻ được miễn trừ theo Quy định về miễn trừ khi thị phần của mỗi bên tham gia thỏa thuận không vượt ngưỡng 30%, miễn là mức giá bán khuyến nghị hoặc mức giá bán tối thiểu không phải là áp lực bắt buộc hoặc khuyến khích bởi bất kỳ một bên nào tham gia thỏa thuận.

Những rủi ro cạnh tranh của hành vi thỏa thuận ấn định mức giá khuyến nghị hoặc mức giá tối đa có thể xảy ra khi chúng là điểm trọng tâm đối với các nhà bán lẻ và có thể được phần lớn hoặc toàn bộ các nhà bán lẻ áp dụng và/hoặc mức giá bán lại khuyến nghị/tối đa có thể làm giảm cạnh tranh hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho việc câu kết giữa các nhà cung cấp.

Một yếu tố quan trọng để đánh giá

tác động phản cạnh tranh của thỏa thuận ấn định mức giá khuyến nghị hoặc tối đa đó là vị trí thị trường của nhà cung cấp. Vị thế của nhà cung cấp trên thị trường càng cao, thì rủi ro thỏa thuận ấn định mức giá bán lại khuyến nghị hoặc tối đa dẫn đến các nhà bán lẻ áp dụng đồng bộ các mức giá này càng lớn, do họ sử dụng nó như một chính sách trọng tâm.

Khi tác động phản cạnh tranh của thỏa thuận ấn định mức giá bán lại khuyến nghị hoặc tối đa được xác định lại phát sinh vấn đề liên quan đến việc miễn trừ theo Điều 101(3). Đối với thỏa thuận ấn định mức giá bán lại tối đa, có thể xác định hiệu quả tránh lợi nhuận kép (double marginalisation). Mức giá bán lại tối đa cũng có thể giúp đảm bảo rằng thương hiệu sản phẩm đang xem xét cạnh tranh nỗ lực hơn với các thương hiệu khác, bao gồm các sản phẩm có nhãn hiệu riêng được cung cấp thông qua các nhà phân phối giống nhau.

HoàNG THỊ THU TRANG(Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh -

Cục Quản lý cạnh tranh)

THỏA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH...

HOẠT ĐỘNG KỲ TỚI

Page 31: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH

TRUNG TÂM THÔNG TIN CẠNH TRANHLuôn vượt sự mong đợi của bạn

CHỨC NĂNG & NHIỆM VỤ� Chủ trì xây dựng và quản lý hệ thống thông tin dữ liệu về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp

dụng biện pháp tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tổ chức lưu giữ và bảo quản hồ sơ vụ việc đã được VCAvà các cơ quan có thẩm quyền khác xử lý để phục vụ cho công tác chuyên môn của VCA;

� Cung cấp thông tin trong nước và quốc tế phục vụ cho công tác quản lý, điều hành, xây dựng pháp luật vàhoạch định chính sách của VCA;

� Chủ động phát triển các hoạt động dịch vụ thông tin phục vụ yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổchức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và chỉ đạo của Cục trưởng;

� Phối hợp với các đơn vị liên quan để biên tập và phát hành các ấn phẩm định kỳ giới thiệu, tuyên truyền vềquản lý cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháptự vệ và các hoạt động khác của Cục;

� Xây dựng và duy trì Hệ thống Quản lý tri thức của VCA;� Tham gia hỗ trợ và phối hợp với các đơn vị thuộc Cục trong công tác nghiên cứu, phân tích thông tin vụ việc

theo chỉ đạo của Cục trưởng; � Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong phạm vi được phân công.

Trung tâm Thông tin cạnh tranh (CCID) là một đơn vị sự nghiệp thuộc Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ CôngThương, được thành lập theo quy định tại Nghị định số 06/2006/ND-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ.

BỘ CÔNG THƯƠNG

Cục Quản lý cạnh tranh (VCA)

Trung tâm Thông tin cạnh tranh(CCID)

Phòng Hành chính Tổng hợpPhòng Khai thác và Phát triển dịch vụ

Phòng Công nghệ - Thông tin

CƠ CẤU TỔ CHỨC

Trụ sở: 25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt NamTel: (84.4) 2220 5305 ; Fax: (84.4) 2220 5303 ; Email: [email protected]

Lãnh đạo CCID

Page 32: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn ...vca.gov.vn/Newsletters/CTNTD_37_VN.pdf · tranh theo chiều dọc từ góc nhìn của EU – Phần

TRUNG TÂM ĐÀO ĐIỀU TRA VIÊNTrung tâm Đào tạo điều tra viên là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Cục Quản lý

cạnh tranh, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động, thực hiện chức năng giúp Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng.

Cùng với Trung tâm Thông tin cạnh tranh, Trung tâm Đào tạo điều tra viên là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục Quản lý cạnh tranh.

Trung tâm Đào tạo điều tra viên có tên giao dịch tiếng Anh là: Competition Training Center (CTC).

Thông tin liên hệ:Trung tâm Đào tạo điều tra viên (CTC)Địa chỉ: Số 25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà NộiĐiện thoại: 04 - 2220 5010

CÁC ẤN PHẩM Đã XUẤT BẢNCỦA CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH