27
l Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc l Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng: Một số kết quả quan trọng và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới l Ngành Tổ chức Xây dựng Đảng tỉnh Gia Lai 87 năm xây dựng và phát triển l Phát huy truyền thống ngành Kiểm tra của Đảng, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao l Công tác dân vận góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai l Phát huy vai trò của Văn phòng Tỉnh ủy và văn phòng cấp ủy các cấp trong công tác tham mưu, phục vụ l Năm APEC Việt Nam 2017 “Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung” l Một số hoạt động đối ngoại và tình hình quốc tế nổi bật thời gian qua l Xây dựng cam kết, kế hoạch thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng l Một số vấn đề liên quan đến công tác kết nạp người có đạo vào Đảng l Một số vấn đề về các dự án đầu tư theo hình thức BOT trong lĩnh vực giao thông l Ngành Giáo dục Gia Lai với nhiệm vụ năm học mới 2017 - 2018 l Hội LHPN các cấp tích cực tham gia thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh l Một số giải pháp hạn chế tác động tiêu cực từ Internet đối với thanh niên Gia Lai hiện nay l Hiệu quả từ mô hình liên kết hộ trong phát triển kinh tế xóa đói, giảm nghèo l Một số giải pháp khắc phục nhận thức sai lệch trong học tập, nghiên cứu, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh l Bí thư Đoàn năng nổ, làm kinh tế giỏi trên vùng đất Anh hùng Chính trị - Thời sự Xây dựng Đảng Kinh tế - Xã hội - Quốc phòng, An ninh Học tập và làm theo gương Bác Chính sách - Pháp luật Ảnh bìa 1: Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và trưởng đoàn các nước chụp ảnh chung tại Hà Nội, trong chương trình Hội nghị không chính thức các quan chức cao cấp APEC (ISOM) diễn ra Phiên khai mạc với chủ đề “Hội thảo về các ưu tiên của năm APEC. * In 5.500 cuốn khổ 19 x 27 cm tại Công ty CP In - Đầu tư Phát triển Giáo dục Gia Lai - 102 Phạm Văn Đồng - TP. Pleiku - Gia Lai. * Giấy phép xuất bản số: 03/GPBT-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông Gia Lai cấp ngày 15/3/2013 và Công văn số 29/STTTT- TTBCXB ngày 10/01/2017 của Sở TTTT về việc sửa đổi, bổ sung giấy phép xuất bản, bản tin. * In xong và nộp lưu chiểu tháng 9-2017. Trình bày: THANH LÂM Chịu trách nhiệm xuất bản Lê Phan Lương Ủy viên Thường vụ Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ban Biên tập TRẦn ĐÌnh hIỆP TRẦn ĐỨC hÙng ngUYỄn QUang CưỜng hOÀng Thanh hương Địa chỉ: 02 Hai Bà Trưng, TP. Pleiku, Gia Lai ĐT: 0269.3824101 Fax: 0269.3871503 http://thongtintuyengiaogialai.vn Email: [email protected] 2 5 8 12 15 17 20 24 27 30 34 36 38 41 43 45 48 Trang

THANH LÂM - thongtintuyengiaogialai.vnthongtintuyengiaogialai.vn/Files/CLIP/05102017TBNB10.pdf · l Một số vấn đề liên quan đến công tác kết nạp người có đạo

  • Upload
    trinhtu

  • View
    213

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

l Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộcl Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng: Một số kết quả quan trọng và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới l Ngành Tổ chức Xây dựng Đảng tỉnh Gia Lai 87 năm xây dựng và phát triểnl Phát huy truyền thống ngành Kiểm tra của Đảng, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giaol Công tác dân vận góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lail Phát huy vai trò của Văn phòng Tỉnh ủy và văn phòng cấp ủy các cấp trong công tác tham mưu, phục vụl Năm APEC Việt Nam 2017 “Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung”l Một số hoạt động đối ngoại và tình hình quốc tế nổi bật thời gian qua

l Xây dựng cam kết, kế hoạch thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảngl Một số vấn đề liên quan đến công tác kết nạp người có đạo vào Đảng

l Một số vấn đề về các dự án đầu tư theo hình thức BOT trong lĩnh vực giao thôngl Ngành Giáo dục Gia Lai với nhiệm vụ năm học mới 2017 - 2018l Hội LHPN các cấp tích cực tham gia thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnhl Một số giải pháp hạn chế tác động tiêu cực từ Internet đối với thanh niên Gia Lai hiện nay l Hiệu quả từ mô hình liên kết hộ trong phát triển kinh tế xóa đói, giảm nghèo

l Một số giải pháp khắc phục nhận thức sai lệch trong học tập, nghiên cứu, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minhl Bí thư Đoàn năng nổ, làm kinh tế giỏi trên vùng đất Anh hùng

Chính trị - Thời sự

Xây dựng Đảng

Kinh tế - Xã hội - Quốc phòng, An ninh

Học tập và làm theo gương Bác

Chính sách - Pháp luật

Ảnh bìa 1: Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và trưởng đoàn các nước chụp ảnh chung tại Hà Nội, trong chương trình Hội nghị không chính thức các quan chức cao cấp APEC (ISOM) diễn ra Phiên khai mạc với chủ đề “Hội thảo về các ưu tiên của năm APEC.

* In 5.500 cuốn khổ 19 x 27 cm tại Công ty CP In - Đầu tư Phát triển Giáo dục Gia Lai - 102 Phạm Văn Đồng - TP. Pleiku - Gia Lai.* Giấy phép xuất bản số: 03/GPBT-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông Gia Lai cấp ngày 15/3/2013 và Công văn số 29/STTTT-TTBCXB ngày 10/01/2017 của Sở TTTT về việc sửa đổi, bổ sung giấy phép xuất bản, bản tin.* In xong và nộp lưu chiểu tháng 9-2017.

Trình bày: THANH LÂM

Chịu trách nhiệm xuất bảnLê Phan Lương

Ủy viên Thường vụTrưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Ban Biên tậpTRẦn ĐÌnh hIỆP TRẦn ĐỨC hÙng

ngUYỄn QUang CưỜnghOÀng Thanh hương

Địa chỉ: 02 Hai Bà Trưng,TP. Pleiku, Gia LaiĐT: 0269.3824101 Fax: 0269.3871503

http://thongtintuyengiaogialai.vnEmail: [email protected]

2 5 8

12

15

17

20

24

27

30

3436

38

41

43

4548

Trang

2 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 3Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Chính trị -Thời sự

Cụ Huỳnh Thúc Kháng, hay còn gọi là Hoàng Thúc Kháng (1876-

1947) - một trong những chí sĩ yêu nước tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta đầu thế kỷ XX cùng với các nhà yêu nước nổi tiếng như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp… Trong sự nghiệp cách mạng của mình, nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng đã có những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.

Chí só Huyønh Thuùc Khaùng

Nhắc đến ông, nhân dân ta thường gọi ông

với cái tên trìu mến, thân thương và gần gũi, đó là: “cụ Huỳnh”. Ông là người xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Năm Canh Tý (1900), ông dự thi Hương và đậu Giải nguyên. Ông nổi tiếng ở kinh đô Huế, sánh cùng

Trần Quý Cáp, Phạm Liệu. Năm Giáp Thìn (1904), ông đỗ Tiến sĩ. Ông cùng với Phan Châu Trinh, Trần Qúy Cáp đã khởi xướng phong trào Duy Tân với chủ trương: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, kịch liệt lên án bọn vua quan phong kiến thối nát, bài xích lối học và thi cử từ chương khoa cử, công

khai vận động cải cách văn hóa-xã hội, hô hào mở mang trường học dạy chữ quốc ngữ, phát triển công thương…”1. Vì lý do đó, năm 1908, ông bị bắt rồi bị đày ra Côn Đảo suốt 13 năm (1908-1921) mới được trả tự do. Năm 1926, ông đắc cử dân biểu rồi được cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ.

Năm 1927, ông sáng lập ra nhà in và báo Tiếng Dân, đây là tờ báo đầu tiên xuất bản bằng tiếng Việt ở Trung kỳ. Suốt thời gian này, ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo tại Huế cho đến khi tờ báo Tiếng Dân bị đình bản (1943). Báo Tiếng Dân đã góp phần quan trọng tuyên truyền, giáo dục quần chúng tích cực đấu tranh chống thực dân, phong kiến; đòi quyền lợi cho dân, cho nước; làm cho chính quyền thực dân phải dè chừng, không dám ngang ngược ức hiếp dân lành; có ý nghĩa tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân theo con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trân trọng tài năng, đức độ của cụ Huỳnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời cụ tham gia nội các Chính phủ nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Với cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thành viên Chính phủ, cụ Huỳnh đã dồn hết tâm lực và trí tuệ để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; chỉ đạo giải quyết nhiều công việc nội chính, đóng góp quan trọng giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội mới; tham gia ngay từ phiên họp đầu tiên của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến để bàn các vấn đề quan trọng, như chương trình nghị sự, nguyên tắc Hội đồng Chính phủ, Tuyên ngôn của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, chính sách đối với Pháp, quyền hạn của Bộ Nội vụ, các bộ và Ủy ban kháng chiến… Thời gian này, cụ là một trong 6 thành viên của Ủy ban Nghiên cứu đặc biệt các vấn đề sẽ đàm phán ở Pari do Hội đồng Chính phủ lập ra trong cuộc họp sáng ngày 22/5/1946.

Từ năm 1946, để mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm tăng cường lực lượng bảo vệ thành quả cách mạng, Hội Liên hiệp Quốc dân được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng, một trong những

sáng lập viên được bầu làm Hội trưởng. Trong khoảng thời gian từ 31/5/1946 - 20/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua thăm nước Pháp, Người đã đặt niềm tin tuyệt đối vào cụ Huỳnh khi trao chức Quyền Chủ tịch nước cho cụ với lời căn dặn: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Dù tuổi cao, sức yếu, nhưng với cương vị Quyền Chủ tịch nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Cụ đã mang hết nhiệt tâm tranh đấu để giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc trước ngoại bang và ổn định chính trị của đất nước, góp phần ngăn chặn và đập tan âm mưu khiêu khích, phá hoại của các thế lực phản động, mà vụ án Ôn Như Hầu là một điển hình.

Tháng 12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử cụ Huỳnh làm đặc phái viên của Chính phủ đi kinh lý miền Trung. Thời gian này, tuy tuổi đã cao nhưng với chí khí, tâm huyết của người chí sĩ yêu nước, cụ Huỳnh đã dốc hết trí lực tích cực giải thích đường lối toàn quốc kháng chiến và động viên, kêu gọi toàn dân ủng hộ Chính phủ, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Bác Hồ, Cụ Huỳnh Thúc Kháng trong Chính phủ đầu tiên nước Việt Nam DCCH. Ảnh tư liệu.

với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc

Chiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876 - 1947). Ảnh tư liệu.

(1) Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam-Đà Nẵng (1930-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

Lê văn TUYền ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

4 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 5Thông Tin sinh hoạT chi bộ

đoàn kết thực hiện thắng lợi đường lối toàn quốc, nhấn mạnh “đại đoàn kết một khối rất mạnh, ta phải khuyên nhau…”. Đặc biệt, khi đến công tác ở Quảng Ngãi, cụ Huỳnh luôn quan tâm tới mọi tầng lớp nhân dân, nhắn nhủ già, trẻ, gái, trai đồng lòng chung sức phục vụ kháng chiến.

Đầu năm 1947, tiếp tục hành trình kinh lý miền Trung, do tuổi cao, sức yếu và lâm bệnh nặng, ngày 21/4/1947, cụ Huỳnh qua đời tại tỉnh Quảng Ngãi trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trước khi qua đời, cụ Huỳnh còn gửi đến các đảng phái, nhân sĩ, trí thức và các tầng lớp nhân dân lời hiệu triệu đoàn kết xung quanh Chủ tịch Hồ Chí Minh để thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Trong khi tiến hành lễ quốc tang cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ban tổ chức lễ tang đã trang trọng uy nghiêm đọc bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi, trong đó có đoạn:

“…Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà trước đây cụ bị bọn

thực dân làm tội, đầy ra Côn Đảo. Mười mấy năm trường, gian nan cực khổ. Nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi của cụ Huỳnh chẳng những không sờn lại thêm kiên quyết. Cụ Huỳnh là người mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập. Đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Chính phủ ta mời cụ ra. Tuy đã hơn 71 tuổi, nhưng cụ vẫn hăng hái nhận lời. Cụ nói: “Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng phải ra sức phụng sự Tổ quốc”. Nay chẳng may cụ Huỳnh sớm tạ thế, trước khi được thấy kháng chiến thành công. Cụ Huỳnh tuy tạ thế nhưng cái chí vì nước, vì nòi của cụ vẫn luôn sống mạnh mẽ trong lòng hai mươi triệu đồng bào chúng ta…”2.

Để tri ân và ghi nhận công lao, đóng góp to lớn của cụ Huỳnh Thúc Kháng, ngày 27/12/2012, Chủ tịch nước Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 2308/QĐ-CTN, truy tặng Huân chương Sao vàng, phần thưởng cao quý nhất của Đảng, Nhà nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Tấm gương tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, thương dân, nêu cao tinh thần đại đoàn kết vì lợi ích tối cao của dân tộc của cụ Huỳnh Thúc Kháng mãi mãi trường tồn trong lòng các thế hệ người dân Việt Nam.

Kỷ niệm 141 năm ngày sinh chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đây cũng là dịp để chúng ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến to lớn của nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng đối với cách mạng Việt Nam; đồng thời, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng./.

L.V.T (tổng hợp)

MỘT SỐ KẾT QUẢ QUAN TRỌNG VÀ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng:

* Kết quả thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát từ đầu nhiệm kỳ đến nay

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, UBKT Trung ương và UBKT các cấp đã bám sát tinh thần nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, nghị quyết đại hội đảng bộ cấp mình và yêu cầu nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị, chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác, chủ động thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao; trọng tâm là kiểm tra đảng viên và cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm. Đối tượng kiểm tra tập trung vào một số cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; ban cán sự đảng, đảng đoàn, Ban Thường vụ Đảng ủy tập đoàn kinh tế của Nhà nước, một số cá nhân Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương...

Từ Đại hội XII đến nay, cấp uỷ các cấp đã kiểm tra 67.692 tổ chức đảng và 261.594 đảng viên, có 68.876 đảng viên là cấp ủy viên các cấp; trong đó, ở Trung ương, thành lập 16 đoàn kiểm tra 50 tổ chức đảng; cấp ủy các địa phương, đơn vị kiểm tra 67.642 tổ chức đảng và 261.594 đảng viên. Các đoàn kiểm tra ở từng cấp đều do các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, ủy viên Ban thường vụ cấp ủy cấp kiểm tra làm trưởng đoàn.

Cấp ủy, tổ chức đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp đã có nhiều đổi mới trong thực hiện nhiệm vụ giám sát thường xuyên, do đó đã kịp thời nắm tình hình, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và xử lý các điểm nóng, không để xảy ra những vấn đề phức tạp; cấp ủy các cấp giám sát chuyên đề đối với 48.144 tổ chức đảng và 110.527 đảng viên, có 31.813 đảng viên là cấp ủy viên các cấp. Ủy ban kiểm tra các cấp (2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t5.

giám sát đối với 25.289 tổ chức đảng và 48.945 đảng viên, có 32.741 đảng viên là cấp ủy viên các cấp. Trong đó, Ủy ban kiểm tra Trung ương giám sát 38 tổ chức đảng và 64 đảng viên diện Trung ương quản lý; Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị giám sát 25.251 tổ chức đảng và 48.881 đảng viên.

Qua kiểm tra, giám sát, cấp ủy các cấp và chi bộ đã thi hành kỷ luật 182 tổ chức đảng (khiển trách 143, cảnh cáo 39) và 14.142 đảng viên (khiển trách 10.653, cảnh cáo 2.687, cách chức 475, khai trừ 327), với 3.424 là cấp ủy viên các cấp. Trong đó, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 03 tổ chức đảng và 11 đảng viên; cấp ủy các cấp thi hành kỷ luật 144 tổ chức đảng và 12.007 đảng viên, ủy ban kiểm tra các cấp thi hành kỷ luật 4.029 đảng viên, có 1.538 đảng viên là cấp ủy viên các cấp (khiển trách 2.028, cảnh cáo 710, cách chức 44, khai trừ 1.247); Ủy ban

6 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 7Thông Tin sinh hoạT chi bộ

kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 14 đảng viên; Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị thi hành kỷ luật 4.015 đảng viên.

Ủy ban kiểm tra các cấp nhận được 17.118 đơn, thư tố cáo tổ chức đảng, đảng viên, trong đó phải giải quyết tố cáo 55 tổ chức đảng và 2.695 đảng viên, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã giải quyết tố cáo đối với 02 tổ chức đảng và 11 đảng viên; Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị giải quyết tố cáo 53 tổ chức đảng và 2.184 đảng viên. Qua tiếp nhận và xử lý đơn thư, giải quyết tố cáo cho thấy, lượng đơn thư giấu tên, mạo tên nhiều; đối tượng bị tố cáo chủ yếu là cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, trên 30% tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo có vi phạm.

Ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với 35.249 tổ chức; kiểm tra việc thi hành kỷ luật đối với 11.012 tổ chức.Trong đó, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã kiểm tra 42 tổ chức; Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị đã kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với 35.207 tổ chức, kiểm tra việc thi hành kỷ

luật đảng đối với 10.970 tổ chức. Kiểm tra công tác tài chính đảng đối với 3.370 tổ chức đảng về thu, chi ngân sách và sản xuất kinh doanh, kiểm tra 33.555 tổ chức về thu, nộp, quản lý và sử dụng đảng phí.

Ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 3.538 tổ chức đảng và 11.604 đảng viên, có 5.304 cấp ủy viên các cấp; trong đó Ủy ban kiểm tra Trung ương kiểm tra được 13 tổ chức và 24 đảng viên: Ủy ban kiểm tra các đơn vị kiểm tra được 3.525 tổ chức và 11.640 đảng viên.

* Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới

Trong điều kiện tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, bộc lộ nhiều thách thức mới, ảnh hưởng trực tiếp đến sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những

biểu hiện "tự diễn biến", tự chuyển hóa" trong nội bộ”; đòi hỏi công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng phải tiếp tục đối mới, với tinh thần kiên quyết hơn, mạnh mẽ hơn, phục vụ tốt cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm tạo ra một bước chuyển biến mới trên các mặt. Tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:

Một là, cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật đảng. Với phương châm: thường xuyên, toàn diện, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ, trong đó lấy phòng ngừa, xây là chính. Kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng là để kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh, ngăn chặn những hành vi vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thiếu gương mẫu trong cuộc sống với mục đích "trị bệnh cứu người"; đồng thời, kiên quyết xử lý những tổ chức đảng, đảng viên cố tình vi phạm, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, đến sự phát triển của đất nước.

Hai là, xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 4, (khóa XII) và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng.

Ba là, triển khai thực hiện toàn diện, có hiệu quả các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao, trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp và cấp ủy viên cùng cấp, đảng viên thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Chủ động, đề xuất các giải pháp hữu hiệu để giải quyết dứt điểm; kiểm tra đều các khu vực, lĩnh vực, địa phương và phải làm mạnh hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, tránh tình trạng “trông chờ, nghe ngóng". “nặng trên, nhẹ dưới".

Bốn là, Tăng cường chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật các tổ chức, đảng viên ở cấp cơ sở, cấp huyện. Tránh tình trạng bao che sai phạm của các địa phương, cơ quan, đơn vị. Tăng cường phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả, thực chất với các cơ quan có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chủ động phối hợp với các cơ quan tư pháp, thanh tra, kiểm toán trong thực hiện nhiệm vụ, đẩy nhanh tiến độ xem xét, kiểm tra, giám sát các vụ việc với tinh thần quyết tâm cao, bảo vệ cái đúng, không khoan nhượng với hành vi vi phạm kỷ luật Đảng. Rà soát, đánh giá kết quả thực hiện các quy chế phối hợp để có điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho thật sự phù hợp, khắc phục tình trạng phối hợp mang tính hình thức, qua loa, kém hiệu quả.

Năm là, nêu cao tinh

thần trách nhiệm, tính chủ động, chiến đấu và gương mẫu của Ủy ban kiểm tra các cấp; tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng để hoàn thành tốt nhiệm vụ; có phẩm chất đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm, tính chiến đấu cao, có kỹ năng nghiệp vụ thuần thục, phương pháp công tác khoa học, công tâm, khách quan, sâu sát, thận trọng và ứng xử có văn hoá. Đổi mới nội dung chương trình, phương pháp, hình thức đào tạo; bồi dưỡng, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra. Đổi mới phương pháp tuyên truyền, tiếp tục công khai kết quả kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật góp phần đấu tranh, ngăn chặn, giáo dục, răn đe, đẩy lùi các hành vi vi phạm. Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong công tác kiểm tra, giám sát. Phát động và tổ chức phong trào thi đua trong toàn ngành, biểu dương, khen thưởng kịp thời tổ chức đảng, đảng viên có thành tích xuất sắc./. Trần Đức (Tổng hợp từ nguồn UBKTTW)

8 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 9Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Kỷ niệm 87 năm Ngày truyền thống ngành Tổ chức xây dựng Đảng (14/10/1930 - 14/10/2017)

NgàNh Tổ chức Xây dựNg ĐảNg TỉNh gia Lai

Lê ngọC bửU TUV, Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy

Ngày 14 tháng 10 năm 1930, Hội nghị lần thứ nhất

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Bộ Tổ chức kiêm giao thông - tiền thân của Ban Tổ chức Trung ương Đảng ngày nay. Sự kiện khẳng định vai trò quan trọng của công tác tổ chức xây dựng Đảng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ và đảng viên. Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IX đã đồng ý lấy ngày 14/10 hàng năm là Ngày truyền thống Ngành Tổ chức xây dựng Đảng và cơ quan tổ chức cấp uỷ các cấp.

Trải qua 87 năm, công tác tổ chức xây dựng Đảng nói chung và công tác tổ chức của Đảng bộ tỉnh Gia Lai nói riêng không

ngừng được duy trì và phát triển; góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Công tác tổ chức xây dựng Đảng tỉnh Gia Lai hình thành từ khi có chi bộ đầu tiên được thành lập ngày 01/10/1945; rõ nét hơn là ngày 10/12/1945, Đảng bộ Đảng cộng sản Đông Dương tỉnh Gia Lai được thành lập lấy tên là Đảng bộ Tây Sơn. Cùng với sự

trưởng thành lớn mạnh của Đảng, công tác tổ chức xây dựng Đảng không ngừng được củng cố và phát triển: qua từng giai đoạn cách mạng hệ thống cơ quan tổ chức cấp ủy và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức Đảng của tỉnh từng bước trưởng thành, kiên định lập trường, quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; có đạo đức cách

Bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tổ chức - xây dựng Đảng. Ảnh: Lương Thanh .

mạng trong sáng, trung thực, khách quan, đề cao tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm, tích cực học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực chuyên môn, tận tụy với công việc được giao, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của ngành.

Thời kỳ (1945-1960), chưa thành lập Ban tổ chức Tỉnh ủy, chỉ thành lập Ban cán sự tỉnh và công tác tổ chức của Đảng bộ tỉnh lúc này tập trung làm nhiệm vụ củng cố, xây dựng và bảo vệ chính quyền, phát triển đảng, phát triển Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc; xây dựng phát triển lực lượng vũ trang, gấp rút đào tạo đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, cách mạng nước ta đứng trước thời kỳ lịch sử mới, đầy khó khăn và thử thách. Công tác tổ chức của Đảng bộ tỉnh đã lựa chọn số cán bộ dân chính và quân đội bố trí ở lại công tác; thành lập Ban cán sự các huyện, thị xã; thành lập Ban giao liên, bộ phận xây dựng căn cứ và Văn phòng Tỉnh ủy; ổn định tổ chức bộ máy phù hợp với yêu cầu thực tế ở địa phương; sắp xếp lại các chi bộ cũ, chọn lọc đảng viên, lập chi bộ nhỏ, số bị lộ cho ngừng công tác hay điều đi nơi khác. Đến tháng 5/1959, toàn tỉnh có

46 chi bộ với 750 đảng viên.

Năm 1961, Ban Tổ chức Tỉnh ủy được hình thành trên cơ sở bộ phận theo dõi công tác tổ chức cán bộ. Phụ trách trực tiếp là đồng chí Bí thư Tỉnh ủy. Công tác tổ chức xây dựng Đảng thời kỳ này là tham mưu với cấp ủy lãnh đạo đánh bại chiến lược. “Chiến tranh đặc biệt” tiếp theo là chiến lược "Chiến tranh cục bộ” của Mỹ - Ngụy và cùng với toàn Miền Nam tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, thu hẹp vùng kiểm soát của địch, củng cố hệ thống chính trị trong vùng căn cứ và vùng giải phóng; tiến hành cuộc bầu cử HĐND, UBND cách mạng các cấp.

Sau ngày 30/4/1975, thực hiện Quyết định số 24 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), tháng 11/1975, 2 Đảng bộ tỉnh Gia Lai và Kon Tum đã hợp nhất thành Đảng bộ Tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Công tác tổ chức xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh đã tham mưu sắp xếp tổ chức bộ máy phù hợp với yêu cầu thực tế của tỉnh sau chiến tranh; tập trung củng cố tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có và bố trí số cán bộ từ Miền Bắc, từ quân đội tăng cường cho các ngành, các địa phương

trong tỉnh. Từ năm 1975 - 1990, lần

lượt các đồng chí Lê Tiên, Phạm Chánh, Ngô Thành, Hoàng Lê, Nguyễn Duy Khanh làm Trưởng ban. Công tác tổ chức xây dựng Đảng thời kỳ này tập trung vào việc xây dựng và củng cố chính quyền, tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên theo yêu cầu của công cuộc đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra.

Công tác tổ chức xây dựng Đảng sau năm 1990, tập trung vào việc tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy mở Đại hội đảng bộ các cấp (vòng 2), đồng thời tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc chia tách tỉnh Gia Lai - Kon Tum, tiến hành sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ các cơ quan đảng, chính quyền và các đoàn thể ở 2 tỉnh.

Thời kỳ 1991 - 2000, các đồng chí Nguyễn Trà Giang, Trần Ngọc Sơn, Đinh Tiết làm Trưởng ban. Công tác tổ chức của Đảng bộ tập trung triển khai xây dựng và củng cố hệ thống chính trị và tổ chức thực hiện các chính sách đổi mới của Đảng: Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII); Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII).

Giai đoạn 2001 đến

nămxây dựng và phát triển87

10 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 11Thông Tin sinh hoạT chi bộ

nay, lần lượt các đồng chí Đinh Tiết, Hoàng Công Lự, Nguyễn Mộng Hoàng, Nguyễn Văn Quân làm Trưởng ban. Giai đoạn này, công tác tổ chức xây dựng Đảng tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng, là một chặng đường đổi mới cả về nội dung và cách làm. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy định, quy chế, hướng dẫn để thực hiện, đạt nhiều chuyển biến tích cực và có hiệu quả trong thực tiễn, đây là những định hướng quan trọng đối với công tác tổ chức xây dựng Đảng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, chúng ta có thể tự hào và khẳng định ở bất kỳ hoàn cảnh nào, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ hay trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, công tác tổ chức của Đảng bộ đã có bước trưởng thành toàn diện, hoàn thành xuất sắc nhiệm của mình, xứng đáng với

truyền thống của ngành và thế hệ cha anh đi trước. Nhớ về ngày truyền thống của ngành, nhớ công lao của các thế hệ cán bộ, đảng viên, Ban đã đề nghị với Ban Tổ chức Trung ương quyết định tặng 329 kỷ niệm chương cho các đồng chí có nhiều đóng góp cho sự trưởng thành của Ngành tổ chức xây dựng Đảng ở địa phương.

Tiếp nối truyền thống 87 năm xây dựng và trưởng thành của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng, cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp trong tỉnh đã chủ động tham mưu cấp ủy quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Tổ chức Trung ương về công tác tổ chức xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; làm tốt chức năng tham mưu hướng dẫn nghiệp vụ, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể giúp cấp ủy triển khai đồng bộ các chủ trương, giải pháp về công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức cán bộ, chính sách cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Từ năm 2015 đến nay, đã làm tốt công tác tham mưu, hướng dẫn

để các cấp ủy chỉ đạo thành công đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020 và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, bầu cử đại biểu HĐND các cấp, kiện toàn các chức danh lãnh đạo HĐND, UBND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021; tập trung hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020 và xây dựng quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2020 - 2025, 2021 - 2026; thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ sau đại hội Đảng bộ và bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo và chính sách cán bộ, công tác cơ sở Đảng và đảng viên, công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Thực hiện sơ, tổng kết, đánh giá kịp thời, nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy về công tác tổ chức xây dựng Đảng.

Những đóng góp quan trọng của các thế hệ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng đã được ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý do Đảng, Nhà nước trao tặng như Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba (năm 2003), Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 2010) và Huân chương Lao động hạng Nhất (năm 2015). Được Thủ tướng

Chính phủ tặng Cờ thi đua đơn vị dẫn đầu năm 2011 và Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ về thành tích trong công tác bầu cử Quốc hội kóa XIII và bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016. Chủ tịch UBND tỉnh tặng Cờ thi đua đơn vị xuất sắc và đơn vị dẫn đầu trong phong trào thi đua (liên tục từ năm 2008 đến năm 2014); Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tặng bức trướng 6 chữ vàng: Tận tụy, trung thực, công tâm (năm 2006); Ban Tổ chức Trung ương tặng Cờ thi đua đơn vị xuất sắc năm 2013, tập thể cơ quan nhiều năm liền đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh, tập thể lao động xuất sắc…

Phát huy truyền thống vẻ vang của ngành Tổ chức Xây dựng Đảng; nhận thức sâu sắc nhiệm vụ, trách nhiệm của công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời gian tới, Ban Tổ chức Tỉnh ủy và cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp cần tập trung tham mưu và tổ chức thực hiện tốt một số công tác trọng tâm sau:

Một là, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và nghị quyết đại hội Đảng bộ các cấp.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây

dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với thực hiện nghiêm Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Hai là, thực hiện tốt các nhiệm vụ thường xuyên về công tác tổ chức xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Tập trung tham mưu cho cấp ủy xây dựng, củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Quan tâm đào tạo bồi dưỡng, kết nạp, quản lý và nâng cao chất lượng đảng viên; tiếp tục triển khai thực hiện có kết quả Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về đánh giá chất lượng TCCS đảng và đảng viên năm 2017.

Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, góp

phần nâng cao năng lực, trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý, điều hành, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Bốn là, toàn ngành tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo từng chuyên đề cụ thể do Ban Tuyên giáo Trung ương phát động. Xây dựng Ngành Tổ chức xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Phát huy truyền thống vẻ vang của Ngành, đội ngũ những người làm công tác tổ chức xây dựng Đảng và cơ quan tổ chức cấp ủy ở địa phương tiếp tục rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm công tác; tu dưỡng giữ gìn đạo đức, tác phong theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp tục giữ vững đoàn kết, phát huy trí tuệ, dân chủ, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, đáp ứng yêu cầu đổi mới về công tác xây dựng Đảng trên lĩnh vực tổ chức, cán bộ, công tác đảng viên và bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới./.

L.n.b

12 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 13Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công

tác xây dựng đảng, cách đây vừa tròn 69 năm, ngày 16/10/1948, tại Chiến khu Việt Bắc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng (khoá I) đã ra Quyết nghị số 29- QN/TW, do đồng chí Thận (tức Trường Chinh), Tổng Bí thư của Đảng ký thành lập Ban Kiểm tra Trung ương (nay là Ủy ban Kiểm tra Trung ương) - cơ quan kiểm tra chuyên trách đầu tiên của Đảng. Từ đó cho đến nay, ngành Kiểm tra Đảng không ngừng trưởng thành, vững mạnh, từ Trung ương đến cơ sở đã có hàng vạn cán bộ làm công tác kiểm tra với trình độ, năng lực bảo đảm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát được quy định ngày càng cụ thể trong Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các hướng dẫn, quy định, quy trình...

Từ Đại hội Đảng lần thứ

X đến nay, Đảng đã giao thêm chức năng giám sát cho cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp; tại Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã ra Nghị quyết số 14- NQ/TW về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Qua đó, nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát ngày càng sâu sắc hơn. Đó chính là các yếu tố và điều kiện quan trọng để ngành kiểm tra của Đảng luôn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Tại Gia Lai, tháng 6/1970, Tỉnh ủy Gia Lai ra nghị quyết thành lập Ban kiểm tra Tỉnh ủy, sau đó lần lượt các huyện, thị ủy thành lập Ban kiểm tra do đồng chí Bí thư hoặc Phó Bí thư, Thường vụ cấp ủy làm Trưởng ban. Qua mỗi kỳ Đại hội, ủy ban kiểm tra các cấp của Đảng bộ tỉnh ngày càng được kiện toàn về tổ chức, nâng cao về

năng lực, đóng góp tích cực cho việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của Đảng bộ tỉnh.

Quá trình xây dựng và trưởng thành của ngành kiểm tra Đảng tỉnh nhà, bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp ngày càng hoàn thiện, đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra luôn tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Từ năm 2003 đến nay, có 589 cán bộ kiểm tra các cấp của tỉnh được tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp kiểm tra của Đảng”; Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy vinh dự được nhận Huân chương Lao động hạng Nhất; 02 lần được tặng Cờ thi đua nhiệm kỳ của ngành; 02 lần được Chính phủ tặng Cờ thi đua; 05 lần vừa được Ủy ban Kiểm tra Trung ương và UBND tỉnh tặng Cờ thi đua... Đó là những phần thưởng xứng đáng, ghi nhận thành quả

PHẤN ĐẤU THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAOngUYỄn ThỊ Thanh ThỦY

TUV, Phó chủ nhiệm Thường trực, UbKT Tỉnh ủy

Phát huy truyền thống ngành Kiểm tra của Đảng,

Kỷ niệm 69 năm Ngày truyền thống ngành Kiểm tra của Đảng (16/10/1948 - 16/10/2017)

lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và sự nỗ lực không ngừng của các thế hệ cán bộ kiểm tra của Đảng bộ tỉnh.

Năm nay chúng ta kỷ niệm 69 năm ngày truyền thống của ngành Kiểm tra Đảng trong thời điểm Đảng ta đang triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc ban hành Nghị quyết này thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được xác định là giải pháp cơ bản. Theo tinh thần chỉ đạo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau đây:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và phải coi đây là biện pháp quan trọng để thực hiện thành công Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII.

Trước hết, phải quán

triệt sâu sắc mục tiêu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian tới là ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ làm công tác kiểm tra phải nhận diện đúng các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để kịp thời đấu tranh với những sai phạm. Nhận diện đúng những biểu hiện trên, mỗi cán bộ, đảng viên có cơ sở để tự phê bình và phê bình, tự răn mình và tự sửa chữa những biểu hiện đó khi còn manh nha; đồng thời, những biểu hiện này là căn cứ để thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng.

Từ nhận thức đó, phải biến thành hành động cụ thể, tự giác của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp, thông qua việc xác định, xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc tổ chức

thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng. Người đứng đầu cấp ủy phải đích thân tổ chức thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát; thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng ở những vị trí quan trọng, lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra vi phạm. Mọi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên đều phải được xem xét, xử lý công minh, chính xác, kịp thời theo đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục của Đảng. Qua kiểm tra, giám sát phải chú trọng phát hiện những nhân tố tích cực trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cấp ủy, tổ chức đảng để nhân rộng, lấy cái tích cực lấn át cái tiêu cực.

Hai là, trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian tới là phục vụ có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, với phương châm: “kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”.

Công tác kiểm tra, giám sát phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, phục vụ nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, đây là vấn đề có tính nguyên tắc, bảo đảm cho hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng được thực hiện đúng mục tiêu, quan điểm, có chất

14 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 15Thông Tin sinh hoạT chi bộ

lượng, hiệu quả. Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không để người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế và các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm”. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải căn cứ vào nội dung trên và các nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII cùng với đặc điểm của địa phương, đơn vị mình để lựa chọn lĩnh vực, đối tượng kiểm tra, giám sát cho phù hợp.

Ba là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các văn bản thuộc thẩm quyền về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, trong thời gian tới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ ban hành các quy định, quy chế… nhằm bổ sung, phát triển quan

điểm, nguyên tắc về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, nhất là những vấn đề còn bất cập, vướng mắc cần làm rõ trong công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; quy định về kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên…

Cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp phải căn cứ vào các quy định, quy chế của Trung ương để thực hiện hoặc kịp thời ban hành hệ thống văn bản ở cấp mình để bảo đảm cho công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng phương pháp công tác Đảng.

Bốn là, để hoàn thành các nội dung nêu trên, điều quan trọng và tiên quyết là phải tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp, đáp ứng yêu cầu “Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ; có phẩm chất đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm, tính chiến đấu cao, có kỹ năng nghiệp vụ thuần thục, phương pháp công tác khoa học, công tâm, khách

quan, sâu sát, thận trọng và ứng xử có văn hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khoá X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian tới hết sức nặng nề; cán bộ kiểm tra luôn phải đối mặt, đấu tranh với những sai phạm, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, thậm chí là những người thân. Đó là những thách thức không nhỏ đối với cán bộ kiểm tra. Từ tính chất đặc thù đó, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp phải thường xuyên đổi mới công tác tuyển chọn, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, bổ nhiệm, đề bạt, bố trí, luân chuyển, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật để xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp. Phối hợp với các cơ quan liên quan tập trung đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ kiểm tra các cấp, không chỉ về phương pháp công tác, các quy định của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, mà còn phải tăng cường nghiên cứu về lý luận chính trị để có đủ kiến thức, trình độ đáp ứng cho hoạt động kiểm tra, giám sát, đấu tranh với những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ./.

N.T.T.T

Công tác dân vận góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về "Ðổi mới và

nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở", Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành Nghị quyết chuyên đề xây dựng chương trình và kế hoạch cụ thể về đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ của hệ thống chính trị cơ sở, trong đó tập trung vào củng cố các cơ sở yếu kém. Từ năm 2001, Tỉnh ủy đã tổ chức 04 đợt luân chuyển và tăng cường có thời hạn 234 lượt cán bộ ở các sở, ban, ngành tỉnh và các phòng ban của huyện xuống, xã phường, thị trấn công tác; phân công 49 cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh phụ trách 49 xã đặc biệt khó khăn; 487 cơ quan cấp huyện, thị xã phụ trách 487 thôn, làng; gần 100 doanh nghiệp làm kinh tế của Trung ương và địa phương đứng chân trên địa bàn,

đăng ký kết nghĩa giúp các xã khó khăn...

Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được Đảng bộ và Chính quyền các cấp thường xuyên quan tâm, tính từ năm 2013 đến nay, đã có gần 1.000 cán bộ là người dân tộc thiểu số tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng. Trong năm 2013, 2014, tỉnh đã tuyển dụng 478 viên chức, trong đó có 76 người dân tộc Jrai và Bahnar; Giáo viên: 644 người, trong đó có 144 người dân tộc Jrai và Bahnar, 23 người dân tộc khác. Công chức cấp xã 523 người, trong đó có 109 người Jrai và Bahnar, 13 người dân tộc khác.

Các cấp, ngành đã thực hiện tốt công tác dân vận, công tác vận động quần chúng và đã có nhiều việc làm ý nghĩa, thiết thực chăm lo về phát triển kinh

tế, tích cực, chủ động tham gia xây dựng Ðảng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo, điều hành của Cấp ủy Đảng, Chính quyền cơ sở, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các buôn làng, đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm thất bại âm mưu kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân của bọn phản động. Từ đó, hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã có sự tiến bộ rõ nét, nhất là nhận thức về xây dựng Chính quyền, quản lý và phát triển kinh tế - xã hội, công tác xóa đói giảm nghèo, đổi mới mối quan hệ giữa tổ chức Đảng với tổ chức Chính quyền. Bộ máy chính quyền được kiện toàn, từng bước được chuẩn hóa. Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã

ngUYỄn danh xUân ban Dân vận Tỉnh ủy

Kỷ niệm 87 năm Ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2017)

16 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 17Thông Tin sinh hoạT chi bộ

có nhiều chuyển biến, nội dung, hình thức chuẩn bị các kỳ họp và ra nghị quyết được đổi mới, có chất lượng hơn. Hoạt động của UBND cấp xã từng bước đi vào nền nếp, việc nắm bắt và tuân thủ pháp luật trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt có chuyển biến tích cực, phong cách làm việc gần dân, sát dân, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đã được đề cao.

Nhìn chung, công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác dân vận đã phát huy được sức mạnh của các tầng lớp nhân dân. Các lực lượng làm công tác dân vận đã vận động nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước ở địa phương. Có thể kể đến cuộc vận động “làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm vươn lên thoát nghèo bền vững trong đồng bào dân tộc thiểu số”; cuộc vận động “năm không, ba sạch”; cuộc vận động xây dựng quỹ “Vì người nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa” và các loại quỹ nhân đạo từ thiện, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, không ngừng nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Để làm tốt công tác dân vận trong việc xây dựng hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thời gian đến tỉnh Gia Lai tiếp tục triển khai thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác dân tộc: Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá (IX); Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Hai là, thường xuyên coi trọng xây dựng hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số vững mạnh toàn diện, trọng tâm là tổ chức đảng; nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn) là cơ quan chỉ đạo, quản lý, điều hành và giám sát mọi hoạt động ở cơ sở.

Do đó, Ủy ban nhân dân cấp xã phải thực hiện đúng chức năng của mình, thực sự là chính quyền của dân, do dân và vì dân.

Ba là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tạo “cầu nối” giữa “ý Đảng” với “lòng dân”, làm cho quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân càng thêm gắn bó, Đảng hiểu dân, dân tin Đảng. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, giữ vững sự đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc, không để kẻ xấu lợi dụng, kích động, gây chia rẽ giữa các dân tộc, làm mất ổn định chính trị, xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, việc chăm lo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai vững mạnh vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài của của Cấp ủy, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội địa phương, góp phần quan trọng xây dựng Gia Lai giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng - an ninh./.

n.d.x

TRẦn ngọC ChI TUV, chánh Văn phòng Tỉnh ủy

Văn phòng cấp ủy các cấp có vai trò rất quan trọng

trong việc tham mưu, phục vụ giúp cấp ủy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao. Qua các thời kỳ cách mạng, trong bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào, đội ngũ cán bộ, công chức văn phòng cấp ủy đều nỗ lực phấn đấu, phát

huy tinh thần trách nhiệm, phục vụ đắc lực cho hoạt động của cấp ủy các cấp. Đối với tỉnh Gia Lai nói riêng, từ khi Đảng bộ tỉnh được thành lập, đã có một số bộ phận giúp việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan văn phòng cấp ủy, là những bộ phận tiền thân của Văn phòng Tỉnh ủy Gia Lai. Cùng với lịch sử Đảng bộ tỉnh, Văn

phòng Tỉnh ủy đã trải qua những chặng đường hoạt động đáng ghi nhớ và tự hào.

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong điều kiện cơ quan Tỉnh ủy phải thường xuyên di chuyển, điều kiện ăn ở, sinh hoạt cực kỳ khó khăn, thiếu thốn, ốm đau, bệnh tật nhưng hầu

Phát huy vai trò của Văn phòng Tỉnh ủy và văn phòng cấp ủy các cấp

Đại hội Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy Gia Lai lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015-2020. Ảnh: T.N.

trong công tác tham mưu, phục vụ

Kỷ niệm 87 năm Ngày truyền thống Văn phòng cấp ủy (18/10/1930 - 18/10/2017)

18 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 19Thông Tin sinh hoạT chi bộ

hết cán bộ, công chức của Văn phòng Tỉnh ủy đều làm việc cần mẫn, không quản khó khăn, gian khổ, không sợ hy sinh, một mực trung thành với Đảng; đảm bảo chu đáo, nhanh gọn, an toàn cơ quan và các điều kiện làm việc cho các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy không bị gián đoạn.

Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Văn phòng Tỉnh ủy đã có những chuyển biến đáng kể. Là cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy, trực tiếp là giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Thường trực Tỉnh ủy về tổ chức điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, phối hợp điều hoà hoạt động của các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy; đồng thời, là một trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ cấp ủy, Văn phòng Tỉnh ủy đã luôn nâng cao tính chủ động, tìm tòi, sáng tạo để đổi mới phương pháp công tác, nâng cao chất lượng tham mưu, giúp cấp ủy xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc, chương trình làm việc của cấp ủy. Văn phòng đã chủ

động phối hợp với các cơ quan, ban, ngành giúp cấp ủy lãnh đạo tổ chức tốt các đại hội, hội nghị Đảng bộ tỉnh1; thẩm tra các đề án dự thảo, hoàn chỉnh văn kiện, dự thảo các quyết định; xây dựng và theo dõi thực hiện các chương trình làm việc toàn khoá, hằng năm, hằng quý và từng tháng của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo của cấp ủy với Trung ương theo định kỳ, đột xuất hoặc chuyên đề2. Bên cạnh đó, Văn phòng Tỉnh ủy đã thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác thông tin tổng hợp tình hình, quản lý ngân sách Đảng, phát hành, lưu trữ văn kiện, công tác thư từ - tiếp dân, công tác văn thư - lưu trữ. Đến nay, đã cập nhật 6.442 bản ghi cơ sở dữ liệu văn kiện đảng, xây dựng cơ sở dữ liệu mục lục hồ sơ được 28/29 phông lưu trữ với 27.446 đơn vị bảo quản, đáp ứng tốt yêu cầu tra tìm và khai thác tài liệu lưu trữ điện tử; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin; bảo đảm điều kiện vật chất - kỹ thuật và làm tốt công tác phục vụ hoạt động của cấp ủy...

Có thể khẳng định rằng, kết quả hoạt động của Văn phòng Tỉnh ủy gắn chặt với những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh giành được qua các thời kỳ cách mạng. Sự kiên trì bền bỉ, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của tập thể cán bộ, công chức, nhân viên Văn phòng Tỉnh ủy thật sự xứng đáng với vai trò là cơ quan tham mưu, giúp cấp uỷ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng bộ tỉnh.

Hiện nay, với sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, kéo theo sự thay đổi về mọi mặt trong đời sống xã hội, đòi hỏi cấp ủy các cấp phải luôn có sự đổi mới, linh hoạt, kịp thời, nhạy bén trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Điều đó đặt ra cho Văn phòng Tỉnh ủy nói riêng và văn phòng cấp ủy các cấp trong tỉnh nói chung những thách thức mới. Để tiếp tục thực hiện tốt chức năng tham mưu, phục vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Văn phòng Tỉnh ủy và văn phòng cấp ủy các cấp trong tỉnh phải

(1) Trung bình mỗi năm, Văn phòng tham mưu giúp cấp ủy tổ chức khoảng 10 hội nghị do Tỉnh ủy triệu tập, 18 - 24 hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy, 18 - 24 cuộc họp Thường trực Tỉnh ủy và nhiều hội nghị sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề.(2) từ năm 2007 đến nay, đã tham mưu ban hành 291 báo cáo định kỳ, 46 báo cáo đột xuất, 326 báo cáo chuyên đề, 385 báo cáo khác và hàng nghìn văn bản các loại để lãnh đạo, chỉ đạo.

không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, phát huy tinh thần “Tuyệt đối trung thành với Đảng, chủ động khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, tận tụy, đoàn kết, sáng tạo trong công việc, sống thủy chung, nghĩa tình”; đồng thời, tập trung thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, đội ngũ cán bộ, công chức văn phòng, mà trước hết là các đồng chí lãnh đạo văn phòng phải tâm huyết, nâng cao trách nhiệm, đổi mới phong cách lề lối làm việc theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, đảm bảo nhanh gọn, hiệu quả, thiết thực. Bên cạnh đó, phải chú trọng đổi mới tư duy, nâng cao năng lực nghiên cứu, đặc biệt là năng lực tổng kết thực tiễn để tham mưu cho cấp ủy những vấn đề mang tính chiến lược của tỉnh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Phải cải tiến phương pháp thu thập, xử lý thông tin, tổng hợp báo cáo và đề xuất những vấn đề, những nội dung phục vụ kịp thời sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.

Thứ hai, thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin theo hướng: Tổ chức tốt các kênh thông

tin; thực hiện tốt công tác định hướng thông tin cho các đầu mối; thực hiện tốt quy trình thu nhận và xử lý thông tin; tăng cường công tác đi cơ sở để nắm thông tin tình hình phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy. Chú trọng công tác cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện nhiệm vụ công tác.

Thứ ba, thực hiện tốt công tác phối hợp với các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc, các ban cán sự đảng, đảng đoàn, cấp ủy các cấp. Thông qua đó, tạo mối quan hệ gắn bó, mật thiết giữa văn phòng cấp ủy với các văn phòng khác, theo phương châm bám sát cơ sở, nhạy bén nắm tình hình, trao đổi, góp ý với địa phương và báo cáo kịp thời tình hình địa phương với ban chấp hành, ban thường vụ, thường trực cấp ủy.

Thứ tư, tập trung kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ văn phòng cấp ủy ngày càng vững mạnh. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, công chức văn phòng cấp ủy, nhất là về tin học, ngoại ngữ và chuyên sâu về nhiệm vụ công tác văn phòng, năng lực thực tiễn

công tác tham mưu, phục vụ cấp ủy. Xây dựng đề án vị trí việc làm để cụ thể hóa từng vị trí công việc. Cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ, công chức văn phòng cấp ủy về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đổi mới cơ chế tuyển chọn cán bộ, công chức văn phòng cấp ủy trên cơ sở đặc điểm tình hình thực tiễn, cơ cấu tổ chức bộ máy văn phòng cấp ủy, bảo đảm yêu cầu, tiêu chuẩn ngạch công chức, chú ý đến tính đa dạng về chuyên môn và nguồn tuyển cán bộ, công chức. Đồng thời, thực hiện tốt công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ văn phòng.

Thứ năm, cần hiện đại hóa phương tiện, tạo điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi, nhất là trang bị các phương tiện tin học để thực hiện nhiệm vụ tin học hóa công tác văn phòng. Quan tâm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công chức, nhân viên của văn phòng cấp ủy. Có chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ, công chức văn phòng, nhằm kịp thời động viên, khích lệ, tạo khí thế thi đua sổi nổi, khơi dậy tính nhiệt tình, hăng say trong thực hiện nhiệm vụ./.

T.n.C

20 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 21Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Năm APEC Việt Nam 2017“ Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung”

APEC được thành lập vào tháng 11/1989 tại Australia với mục tiêu thúc đẩy tự do hóa kinh tế, thương mại và đầu tư khu vực. Từ 12 nền kinh tế sáng lập, tới nay, APEC đã quy tụ 21 nền kinh tế thành viên (bao gồm: Australia, Mỹ, Canada, New Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Brunei, Papua New Guinea, Trung Quốc, Hồng Kông - Trung Quốc, Đài Bắc - Trung Hoa, Nga, Mexico, Chile, Peru và Việt Nam), chiếm 39% dân số thế giới, 57% GDP toàn cầu, khẳng định vị thế là diễn đàn hợp tác kinh tế quy mô hàng đầu tại châu Á - Thái Bình Dương.

Trong gần 30 năm hình thành và phát triển, APEC đã đạt nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển tại khu vực cũng như

đưa Châu Á - Thái Bình Dương trở thành động lực của tăng trưởng và liên kết kinh tế toàn cầu; góp phần tích cực nâng cao năng lực hội nhập, liên kết của các nền kinh tế thành viên đang phát triển, đồng thời góp phần vào sự phát triển và liên kết kinh tế của Châu Á - Thái Bình Dương. Đi đầu thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế thương mại và đầu tư khu vực, góp phần cắt giảm các rào cản thương mại và đầu tư. Tiên phong trong việc đẩy mạnh tăng trưởng bền vững, bao trùm và sáng tạo, cải cách cơ cấu, hợp tác trong các vấn đề thương mại, đầu tư thế hệ mới, kết nối, liên kết các chuỗi cung ứng, thương mại điện tử, thương mại dịch vụ, góp phần hình thành và điều phối các thỏa thuận, các khu vực thương mại tự do như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác kinh tế

TỔng QUan về aPECDiễn đàn Hợp tác Kinh

tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) là cơ chế hợp tác kinh tế hàng đầu ở khu vực với mục tiêu chủ yếu là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và thịnh vượng ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Các nền kinh tế thành viên APEC cùng hướng tới mục tiêu chung xây dựng một Cộng đồng Châu Á - Thái Bình Dương năng động, hài hòa và tự cường, thông qua việc đi đầu tự do hóa và mở cửa thương mại và đầu tư, đẩy nhanh liên kết kinh tế khu vực, khuyến khích hợp tác kinh tế và kỹ thuật và thúc đẩy hình thành môi trường kinh doanh thuận lợi và bền vững. Các sáng kiến APEC nhằm đưa các mục tiêu chính sách, các thỏa thuận thành những kết quả và lợi ích cụ thể, thiết thực đối với người dân và doanh nghiệp.

toàn diện khu vực (RCEP), Cộng đồng ASEAN, Liên minh Thái Bình Dương... hướng tới hình thành Khu vực thương mại tự do toàn Châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP). Đóng góp quan trọng vào việc củng cố hệ thống thương mại đa phương và xử lý các vấn đề toàn cầu.

vIỆT naM vỚI aPEC* Việt Nam tham gia

Diễn đàn APECTháng 11 năm 1998,

Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC. Trong gần 20 năm qua, diễn đàn có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.

Diễn đàn APEC hội tụ hầu hết các đối tác hàng đầu của Việt Nam về chiến lược, kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch, công nghệ, viện trợ phát triển và đào tạo nguồn nhân lực. Trong 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay thì có 7 là các nền kinh tế thành viên APEC, gồm: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông - Trung Quốc, Singapore và Malaysia.

* Năm APEC Việt Nam 2017 và những kỳ vọng của Việt Nam

Việt Nam luôn là một

trong những thành viên tích cực và có trách nhiệm của Diễn đàn APEC. Đây là lần thứ hai nước ta đảm nhận trọng trách chủ nhà APEC (lần đầu tiên năm vào năm 2006).Với thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao sau gần 30 năm đổi mới và kinh nghiệm tổ chức thành công năm 2006, việc một lần nữa đăng cai Năm APEC là đóng góp quan trọng của Việt Nam đối với Diễn đàn nhằm thúc đẩy quan tâm chung trong bối cảnh mới. Năm APEC 2017 còn có ý nghĩa hướng tới kỷ niệm 20 năm Việt Nam trở thành thành viên của Diễn đàn (1998-2018).

Cùng với việc đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020 và ứng cử thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 cũng như nỗ lực hoàn tất các cam kết gia nhập WTO vào năm 2018, Năm APEC 2017 khẳng định quyết tâm của Việt Nam tiếp tục đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện.

Việc đăng cai Năm APEC 2017 còn giúp nước ta có thêm những cơ hội mới để tranh thủ nhiều hơn sự ủng hộ và hỗ trợ của APEC phục vụ việc hoàn tất các mục tiêu trong

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 của đất nước.

Với chủ trương nâng tầm đối ngoại đa phương của Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016), việc tổ chức thành công Năm APEC 2017 là một trọng tâm của đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng. Với ý nghĩa đó, Việt Nam có bốn kỳ vọng lớn:

Thứ nhất, Việt Nam có thể đóng góp thiết thực vào sự phát triển của tiến trình APEC, làm cho hợp tác APEC thực chất và có hiệu quả hơn. Trước những thách thức đan xen đối với phát triển, APEC cần tìm kiếm động lực mới thúc đẩy tăng trưởng bền vững và làm sâu rộng liên kết, kết nối khu vực. Trong đó, then chốt là việc hoàn tất các Mục tiêu Bogor về tự do hoá thương mại - đầu tư vào năm 2020.

Thứ hai, kết quả hoạt động của năm 2017 tiếp tục nâng cao vị thế APEC là diễn đàn hợp tác kinh tế hàng đầu, tiên phong khởi xướng và hình thành liên kết khu vực sâu rộng hơn cũng như thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Điều này có ý nghĩa quan trọng để chuẩn bị

22 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 23Thông Tin sinh hoạT chi bộ

cho APEC bước vào thập niên phát triển thứ tư.

Thứ ba, thông qua Năm APEC 2017 để tăng cường tình hữu nghị, làm sâu sắc quan hệ đối tác với các nền kinh tế thành viên hiện là những trung tâm kinh tế và công nghệ hàng đầu thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam có thêm điều kiện kết nối, thiết lập các mối quan hệ kinh doanh với các đối tác hàng đầu thế giới.

Thứ tư, quảng bá rộng rãi hơn hình ảnh đất nước Việt Nam đổi mới, năng động, giàu tiềm năng và tích cực hội nhập; mang lại những cơ hội phát triển, quảng bá, giao lưu cho các vùng miền, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp Việt Nam có thêm điều kiện học hỏi kinh nghiệm, nâng cao nhận thức và hiểu biết về Diễn đàn APEC.

* Ý nghĩa của chủ đề Năm APEC Việt Nam 2017

Chủ đề của Năm APEC Việt Nam 2017 là “Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung”. Đề xuất của Việt Nam nhận được sự ủng hộ của tất cả các nền kinh tế thành viên, cộng đồng doanh nghiệp và các chuyên gia hàng đầu khu vực. Ý nghĩa chủ

đề thể hiện trên ba khía cạnh:

Thứ nhất, phản ánh sự quan tâm chung của các nền kinh tế thành viên APEC về tìm kiếm “động lực mới” cho hội nhập, liên kết và tăng trưởng kinh tế của Châu Á - Thái Bình Dương.

Thứ hai, thể hiện mẫu số chung, mục tiêu dài hạn của APEC và Châu Á - Thái Bình Dương về “vun đắp một tương lai chung”, đó là hoà bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng.

Thứ ba, thể hiện kỳ vọng về những phát triển mới của APEC trong năm 2017 góp phần khẳng định vị thế của Diễn đàn trong cục diện mới.

* Các ưu tiên chính của Năm APEC Việt Nam 2017

Để cụ thể hoá chủ đề “Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung”, Việt Nam đã đề xuất bốn hướng ưu tiên lớn sau: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững, sáng tạo và bao trùm; Đẩy mạnh liên kết kinh tế khu vực sâu rộng; Nâng cao năng lực cạnh tranh, sáng tạo của các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs) trong kỷ nguyên số và tăng cường an ninh lương thực và nông nghiệp bền

vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Những trọng tâm trên là nhằm đáp ứng nhu cầu chung về khôi phục đà tăng trưởng và liên kết sâu rộng ở khu vực, góp phần hoàn tất các Mục tiêu Bogor và thực hiện Chương trình nghị sự của Liên hợp quốc về phát triển bền vững đến năm 2030.

* Các sự kiện lớn của Tuần lễ cấp cao APEC Việt Nam 2017

Tuần lễ cấp cao APEC lần thứ 25 tại Thành phố Đà Nẵng dự kiến sẽ diễn ra từ ngày 06 - 11/11/2017. Khoảng hơn 10.000 đại biểu quốc tế, trong đó có lãnh đạo 21 nền kinh tế thành viên, hàng nghìn doanh nghiệp hàng đầu khu vực và trên thế giới cũng như đại diện các cơ quan truyền thông lớn của quốc tế sẽ đến dự.

Tuần lễ cấp cao APEC năm 2017 gồm các hoạt động nổi bật: Hội nghị lần thứ 25 các nhà Lãnh đạo kinh tế APEC; Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế lần thứ 29 (AMM 29); Hội nghị tổng kết các quan chức cao cấp (CSOM); Cuộc họp Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC); Hội nghị Thượng đỉnh doanh nghiệp APEC (CEO

Summit); Đối thoại giữa các nhà Lãnh đạo kinh tế APEC với Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC).

Trong dịp này, dự kiến cũng diễn ra một số hoạt động do Việt Nam đề xuất nhằm tăng cường giao lưu, quảng bá văn hoá... của APEC, giữa APEC với các đối tác, tổ chức khu vực và quốc tế cũng như về Việt Nam.

* Các cơ hội của Năm APEC Việt Nam 2017 đối với các địa phương, doanh nghiệp

Các hoạt động phong phú của APEC sẽ diễn ra trên khắp cả nước và trong suốt năm 2017 là những cơ hội lớn để các địa phương, doanh nghiệp đấy mạnh kinh doanh, kết nối, hoạt động du lịch, quảng bá hình ảnh, giới thiệu các sản phẩm vùng miền với các đối tác then chốt và các tập đoàn hàng đầu thế giới.

Với sự chuẩn bị chu đáo, các tỉnh thành có thể tranh thủ nhiều hơn tiềm năng to lớn về thị trường, tài chính, công nghệ của APEC; gặp gỡ lãnh đạo, quan chức và các tập đoàn khu vực để tìm kiếm đối tác đầu tư, đối tác chiến lược, ký kết thoả thuận hợp tác... Qua tham gia, đóng góp tổ chức các

sự kiện, nhận thức và kỹ năng hội nhập của cán bộ, doanh nghiệp và người dân có điều kiện nâng cao, góp phần hình thành văn hoá hội nhập của địa phương.

* Đóng góp của các doanh nghiệp Việt Nam vào thành công của Năm APEC Việt Nam 2017

Đóng góp của các doanh nghiệp là rất quan trọng để góp phần tạo dấu ấn Việt Nam cho Năm APEC Việt Nam 2017, thông qua nhiều hình thức:

Trước hết là thông qua phát huy vai trò trong các hoạt động của doanh nghiệp APEC mà nước ta tổ chức và ở tầm cao hơn là đóng góp, đề xuất ý tưởng thúc đẩy hợp tác APEC. Quan trọng nhất là tham gia, đóng góp vào thành công của Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp APEC (CEO Summit), các cuộc họp của Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC), Đối thoại giữa các nhà lãnh đạo kinh tế APEC và các thành viên ABAC, các đối thoại công tư giữa các nhóm công tác chuyên ngành APEC với các doanh nghiệp. Việt Nam hiện là đồng Chủ tịch của ABAC năm 2016 và đảm nhận vai trò Chủ tịch ABAC năm 2017.

Góp phần làm cho các chuyến thăm song phương của lãnh đạo các nền kinh tế thành viên APEC trong năm 2017 đạt kết quả thiết thực, tham gia ký kết thoả thuận, hợp đồng, tọa đàm, kết nối doanh nghiệp...

Phát huy vai trò năng động, sáng tạo trong quảng bá tiềm năng mới của đất nước, địa phương và doanh nghiệp, thúc đẩy kinh doanh, hoạt động du lịch...

* Đóng góp của ngưòi dân vào thành công chung của Năm APEC Việt Nam 2017

Năm 2017, Việt Nam sẽ đón tiếp, gặp gỡ hàng chục nghìn đại biểu, doanh nghiệp, phóng viên từ các nền kinh tế thành viên APEC. Đây vừa là vinh dự vừa là trách nhiệm của người dân. Để góp phần vào thành công Năm APEC Việt Nam 2017, mỗi người dân cần: Ứng xử văn minh, chào đón hoà nhã, thân thiện; Gìn giữ môi trường, cảnh quan sạch đẹp để giúp bạn bè quốc tế cảm nhận được những nét đẹp của nền văn hiến và con người Việt Nam. Đó cũng chính là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập của nước ta trong giai đoạn phát triển mới./.

Trần Đình (tổng hợp)

24 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 25Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Một số hoạt động đối ngoại và tình hình quốc tế

Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng thống Abdel Fattah el-Sisi duyệt Đội danh dự tại Lễ đón. Ảnh: Nhân Sáng.

1. Tổng thống nước Cộng hòa A-rập Ai Cập Áp-đen Pha-ta An Xi-xi thăm cấp Nhà nước Việt Nam từ ngày 06 - 07/9/2017. Hai bên đã trao đổi về hợp tác song phương, các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm; nhất trí tăng cường trao đổi đoàn các cấp thông qua các kênh chính phủ, quốc hội, địa phương, giao lưu nhân dân và kết nối doanh nghiệp hai nước; khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, công nghiệp, nghề cá, vận tải, xây dựng cảng biển,

đóng tàu, văn hóa, du lịch, công nghệ thông tin, giáo dục và hợp tác giữa các địa phương hai nước.

Về tình hình quốc tế và khu vực, hai bên cho rằng, hòa bình và ổn định ở khu vực Ðông - Nam Á và khu vực Trung Ðông - Châu Phi cần được duy trì vì lợi ích của nhân dân các nước; ủng hộ tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các cuộc khủng hoảng tại một số nước khu vực Trung Ðông, bảo đảm thống nhất của các quốc gia trên; nhất trí ủng hộ quyền chính đáng của nhân dân Pa-le-xtin và sự cần thiết tái khởi

động đàm phán hòa bình để đạt được một giải pháp đúng đắn, toàn diện cuối cùng vì lợi ích của nhân dân Pa-le-xtin trên cơ sở giải pháp hai nhà nước. Hai bên khẳng định mong muốn và quyết tâm duy trì một trật tự trên biển phù hợp với các nguyên tắc của luật quốc tế được thể hiện trong Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS).

Hai bên đã ra Thông cáo báo chí chung và ký 9 văn kiện hợp tác.

2. Việt Nam đề nghị Trung Quốc không làm phức tạp tình hình tại Biển Đông

Trước việc Trung Quốc thông báo tiến hành diễn tập quân sự tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ: “Việt Nam hết sức quan ngại về việc Trung Quốc công bố tiến hành diễn tập quân sự trong khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Lập trường của Việt Nam là mọi hoạt động của nước ngoài trong vùng biển thuộc quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam cần phải được thực hiện phù hợp các quy định của luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam đề nghị Trung Quốc chấm dứt và không lặp lại các hành động làm phức tạp tình hình tại Biển Đông”.

Ngày 31/8/2017, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội để nêu rõ lập trường của Việt Nam.

3. Việt Nam kiên quyết phản đối Đài Loan diễn tập bắn đạn thật ở đảo Ba Bình

Trước việc Đài Loan (Trung Quốc) diễn tập bắn đạn thật ở đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa, người phát ngôn Bộ

Ngoại giao Việt Nam nêu rõ: “Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Đài Loan nhiều lần tổ chức diễn tập bắn đạn thật ở vùng biển xung quanh đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo này, đe dọa hòa bình, ổn định, an toàn, an ninh hàng hải, gây căng thẳng và làm phức tạp tình hình ở Biển Đông. Một lần nữa, Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Đài Loan không để tái diễn các hành động tương tự”.

4. Tình hình bán đảo Triều Tiên thời gian gần đây và dự báo thời gian tới

Thời gian gần đây, tình hình bán đảo Triều Tiên thay đổi theo hướng khó lường và nguy hiểm hơn trước. Bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế, ngày 03/9/2017, CHDCND Triều Tiên tuyên bố thử thành công một loại bom H (bom hydro) có thể gắn vào tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM).

Trước hành động trên của Triều Tiên, Tổng thống

Mỹ Đô-nan Trăm khẳng định, Mỹ cam kết bảo vệ lãnh thổ quốc gia và đồng minh và sẽ đáp trả quân sự mạnh mẽ nếu Mỹ hay các đồng minh bị tấn công. Bộ Ngoại Trung Quốc ra tuyên bố yêu cầu Triều Tiên chấp hành nghiêm túc ý kiến của cộng đồng quốc tế về phi hạt nhân hóa tại Bán đảo Triều Tiên và tuân theo Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc (HĐBA LHQ); chấm dứt những hành động tương tự như trên và tiến hành đối thoại để giải quyết vấn đề. Hàn Quốc tuyên bố sẽ không chấp nhận việc Triều Tiên tăng cường phát triển hạt nhân và tên lửa và sẽ cùng với Mỹ thống nhất phương án triển khai vũ khí chiến lược mạnh nhất mà Mỹ đang sở hữu. Các nước: Nhật Bản, Nga, Na Uy, Thụy Sỹ, các tổ chức quốc tế: Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), các nước BRICS, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA)… đã lên án mạnh mẽ vụ thử bom H của Triều Tiên và yêu cầu Triều Tiên chấm dứt các hoạt động thử vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn

nổi bật thời gian qua

26 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 27Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un (thứ tư từ trái sang) chỉ đạo các nhà khoa học Triều Tiên khi đứng cạnh một thiết bị được cho là

vũ khí hạt nhân mới. Ảnh: REUTERS.

đạo. Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc ngày 04/9/2017 đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp về vụ thử bom H của Triều Tiên theo đề nghị của Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản và Hàn Quốc. Sau nhiều lần thương lượng giữa Mỹ và Trung Quốc, ngày 11/9/2017, HĐBA LHQ đã nhất trí thông qua các biện pháp trừng phạt mới đối với CHDCND Triều Tiên. Đáng chú ý là, Nghị quyết đã được loại bỏ một số nội dung so với dự thảo trước đó của Mỹ, như cấm hoàn toàn Bình Nhưỡng nhập khẩu dầu mỏ hay phong tỏa tài sản của nhà lãnh đạo Kim Jong Un. Đây là nghị quyết thứ 9 mà 15 nước thành viên HĐBA LHQ nhất trí thông qua để trừng phạt Triều Tiên chung quanh các chương trình tên lửa và hạt nhân của nước này kể từ năm 2006 đến nay. Tuy nhiên, bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế và các biện pháp trừng phạt của HĐBA LHQ, ngày 15/9/2017, CHDCND Triều Tiên tiếp tục phóng tên lửa bay qua không phận Nhật Bản. Ngày 16/9/2017, kết thúc cuộc họp khẩn về vụ thử tên lửa mới nhất của CHDCND Triều Tiên, HĐBA LHQ ra tuyên bố kịch liệt lên án

vụ thử là hành động mang tính "kích động nghiêm trọng" và yêu cầu Triều Tiên ngừng ngay những hành động tương tự và thúc giục các nước thực thi ngay các biện pháp trừng phạt Triều Tiên đã đề ra trong cuộc họp ngày 11/9/2017.

Ngày 17/9/2017, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: “Việt Nam quan ngại sâu sắc trước việc CHDCND Triều Tiên phóng tên lửa đạn đạo qua không phận Nhật Bản ngày 15/9/2017, vi phạm nghiêm trọng các nghị quyết liên quan của HĐBA LHQ, làm gia tăng căng thẳng ở khu vực. Việt Nam nhất quán ủng hộ mọi nỗ lực thúc đẩy đối thoại và duy trì hòa bình, ổn định trên bán đảo Triều Tiên; kêu gọi các bên

tuân thủ nghiêm túc các nghị quyết liên quan của HĐBA LHQ và có những hành động mang tính xây dựng, thiết thực, đóng góp cho việc duy trì hòa bình, an ninh và ổn định của khu vực và trên thế giới”.

Trước những diễn biến phức tạp, căng thẳng diễn ra trên bán đảo Triều Tiên, các chuyên gia dự báo một số kịch bản có thể sẽ xảy ra trên Bán đảo Triều Tiên trong thời gian tới, đó là: Mỹ sẽ thực hiện “chiến tranh phủ đầu” đối với Triều Tiên. Mỹ và các đồng minh thực hiện chính sách răn đe mạnh mẽ. Gia tăng áp lực kinh tế đối với Triều Tiên. Nối lại đàm phán 6 bên. Tiếp tục theo dõi, quan sát và đối thoại thăm dò./.

Phạm hằng (tổng hợp)

Xây dựng Đảng

Xây dựng cam kết,

Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn tỉnh học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Ảnh: Thanh Lâm.

kế hoạch thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, Quy định của Đảng

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW,

ngày 30-10-2016 của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những

biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (viết tắt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa

võ hOÀng bÌnh ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

28 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 29Thông Tin sinh hoạT chi bộ

XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), các văn bản hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương và Ban Tổ chức Trung ương; Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu hàng năm, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải có 01 bản cam kết tu dưỡng, rèn luyện và 01 bản kế hoạch cá nhân phấn đấu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để thực hiện và làm cơ sở để đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên vào dịp cuối năm.

Qua thực tế tổ chức thực hiện ở nhiều tổ chức cơ sở đảng trong những tháng đầu năm 2017 đã phát hiện những bất cập, vướng mắc; đó là việc mỗi cán bộ, đảng viên cùng lúc phải làm nhiều bản cam kết, kế hoạch nộp về chi bộ (nếu là người đứng đầu cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị thì có thêm 01 bản kế hoạch hành động cá nhân thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và gửi cả 03 bản về ban thường vụ cấp ủy theo phân cấp quản lý cán bộ) để theo dõi và làm cơ sở đánh giá, phân

loại cuối năm. Xuất phát từ phản ánh, đề nghị của nhiều tổ chức đảng, được sự đồng ý của Thường trực Ban Bí thư, ngày 20-6-2017, Ban Tổ chức Trung ương ban hành Công văn số 2952-CV/BTCTW hướng dẫn chỉ xây dựng 01 bản cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của cá nhân để thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; đồng thời yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị nơi cán bộ, đảng viên sinh hoạt, công tác căn cứ vào bản cam kết của cán bộ, đảng viên để thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát thực hiện cam kết và làm cơ sở kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên cuối năm.

Bản cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của cá nhân (theo mẫu gợi ý của Ban Tổ chức Trung ương) có 6 nội dung cam kết, đó là: (1) Về tư tưởng chính trị; (2) Về phẩm chất đạo đức, lối sống; (3) Về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; (4) Về tổ chức kỷ luật; (5) Về khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm thời gian qua

và qua kiểm điểm, đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên cuối năm trước liền kề (nếu có); (6) Về kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng(1). Như vậy, việc cho tích hợp chung vào 01 bản cam kết và ban hành mẫu cam kết thống nhất sẽ giúp khắc phục những vướng mắc trong khâu thực hiện; đồng thời, những nội dung cam kết được xác định và sắp xếp phù hợp, đồng bộ với nội dung yêu cầu kiểm điểm, đánh giá, phân loại đảng viên định kỳ hành năm theo Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW, ngày 25-9-2014 của Ban Tổ chức Trung ương về kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng viên hằng năm(2). Từ đó, sẽ giúp cho việc kiểm điểm, đánh giá kết quả đấu tranh, khắc phục suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu; kết quả lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo

(1) Mục này chỉ áp dụng đối với cá nhân là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị (các đồng chí đã xây dựng kế hoạch hành động sau khi học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XII thì nội dung này là cam kết thực hiện kế hoạch hành động đã xây dựng).(2) Theo Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW, ngày 25-9-2014 của Ban Tổ chức Trung ương, nội dung kiểm điểm đối với cá nhân đảng viên gồm 04 nội dung: (1) Về tư tưởng chính trị; (2) Về phẩm chất đạo đức, lối sống; (3) Về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; (4) Về tổ chức kỷ luật.

đức, phong cách Hồ Chí Minh của đảng bộ, chi bộ sát với thực tế và đáp ứng yêu cầu công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp.

Gắn việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012 của Ban Bí thư (khóa XI) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Bản cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của cá nhân gợi ý, nhấn mạnh các nội dung cần chú ý khi đăng ký, đó là:

- Về tư tưởng chính trị: Luôn trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

- Về phẩm chất đạo đức, lối sống: Luôn rèn luyện, tu dưỡng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ

Chính trị (khóa XII); giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; gương mẫu trong công tác và cuộc sống, trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí; chấp hành Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về những điều đảng viên không được làm; không có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống).

- Về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao: Luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ; đổi mới phương pháp công tác và lề lối làm việc; chấp hành và bảo vệ, tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, gia đình và nhân dân thực hiện tốt đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác; hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

- Về tổ chức kỷ luật: Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; chấp hành sự phân công của tổ chức; tự giác chấp hành các nghị quyết, quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, quy chế, quy định, nội quy của cơ

quan, đơn vị và nơi cư trú(3).

Thiết nghĩ, với ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ tỉnh, thời gian tới việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) và đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) là nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay, góp phần thực hiện tốt phương châm “trên trước, dưới sau”; “trong trước, ngoài sau”; “học đi đôi với làm theo”, kết hợp giữa “xây” với “chống”, đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước để nêu gương của người đứng đầu và cán bộ chủ chốt các cấp, của cán bộ, đảng viên là điều kiện tiên quyết để gó phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng./.

v.h.b

(3) Căn cứ chức trách, nhiệm vụ được giao, đặc điểm của địa phương, cơ quan, đơn vị, cá nhân có thể bổ sung các nội dung 1, 2, 3, 4 cho phù hợp.

30 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 31Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Một số vấn đề liên quan đến công tácKẾT NẠP NGƯỜI CÓ ĐẠO VÀO ĐẢNG

Quan điểm Trải qua quá trình cách

mạng đã chứng minh đồng bào các tôn giáo ở nước ta đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đường hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật. Các tôn giáo được Nhà nước công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đồng thời, kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng nhằm chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các Văn kiện Đảng, nhất là từ Đại hội II (2/1951) đến Đại hội XII,

Đảng ta liên tục khẳng định quan điểm cơ bản, mang tính định hướng của Đảng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhưng dấu mốc quan trọng thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo là Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị (khóa VI). Với Nghị quyết này, Đảng ta thừa nhận: tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân lao động có đạo và đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Sự đổi mới tư duy về tôn giáo của Đảng tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), coi tôn giáo không chỉ tồn tại lâu dài mà sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, đặc biệt là đồng hành với chế độ XHCN mà nhân dân

ta đang xây dựng. Quan điểm “lương giáo đoàn kết” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiếp tục khẳng định, những người có niềm tin tôn giáo và không có tôn giáo đều là con em của dân tộc Việt Nam, đều là công dân của nước Việt Nam XHCN, đều có quyền lợi và nghĩa vụ đoàn kết, chung sức, chung lòng xây dựng đất nước: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề tôn giáo đã được ban hành, như: Nghị định 69/HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành ngày 21/3/1991; Nghị định 26/1999/ NĐ-CP ngày 14/9/1999 của Chính phủ; Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo ngày 18/6/2004 và đặc biệt là Luật tín ngưỡng, tôn giáo được

ngUYỄn hUY ChâU ban Tổ chức Tỉnh ủy

Quốc hội Khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 02 ngày 18/11/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Những văn bản pháp luật trên đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tôn giáo, góp phần quan trọng vào việc giải quyết những vấn đề tôn giáo nảy sinh trong tình hình mới.

Thực tiễn Gia Lai là tỉnh Bắc Tây

Nguyên với diện tích hơn 15.536 km2, dân số trên 1,4 triệu người, với 34 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 44% (chủ yếu là người Jrai và Bahnar), tổng số người theo đạo trên địa bàn tỉnh hiện có 367.363 người chiếm trên 26% dân số toàn tỉnh; trong đó: Công giáo: 124.844 người; Tin lành: 138.033 người; Phật giáo: 100.337 người; Cao đài: 4.108 người và Baha’i: 41 người. Số lượng người theo các tôn giáo đông nên công tác phát triển đảng viên trong các tôn giáo trên địa bàn tỉnh cần phải được chú trọng để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong đồng bào tôn giáo nói riêng và thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nói chung. Sau khi có Quy định số 123-QĐ/

TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị về “Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo”, công tác phát triển đảng viên là người có đạo ở tỉnh ta có sự thay đổi mang tính đột phá, nếu như vào đầu năm 2005, toàn tỉnh chỉ có 30 đảng viên là người có đạo thì đến nay, qua 12 năm thực Quy định số 123-QĐ/TW đã phát triển được 690 đảng viên mới, đưa tổng số đảng viên là người có đạo của Đảng bộ lên 720 đồng chí, trong đó: Công giáo: 288 đồng chí, Tin lành: 201 đồng chí, Phật giáo: 227 đồng chí, Cao Đài: 04 đồng chí.

Nhìn chung, đa số đảng viên là người có đạo đã thể hiện rõ tinh thần, trách nhiệm, nghĩa vụ của đảng viên khi tham gia sinh hoạt tôn giáo, luôn nghiêm chỉnh chấp hành Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đảng viên trong các tôn giáo đã góp phần ổn định sinh hoạt tôn giáo, ổn định chính trị - xã hội, là cầu nối giữa Đảng với đồng bào có đạo; có lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân vùng đồng bào có đạo, hoàn thành tốt

các nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, số đảng viên là người có đạo hiện vẫn còn quá ít, chỉ chiếm 1,3% tổng số đảng viên toàn tỉnh (720/53.862) và 0,19% trong tổng số đồng bào có đạo. Nguyên nhân là do một số cấp ủy đảng chưa nhận thức đúng đắn ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phát triển đảng viên là người có đạo, nên chưa chủ động nắm bắt nguồn quần chúng có đạo để có biện pháp giáo dục, bồi dưỡng. Nhiều chi bộ không xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên là người có đạo trong năm, nhiệm kỳ; chưa phân công nhiệm vụ cho đảng viên trong chi bộ theo dõi, kèm cặp, tuyên tuyền, giáo dục, bồi dưỡng quần chúng ưu tú là người có đạo vào Đảng; chưa khắc phục khó khăn trong quá trình tạo nguồn, xác minh lý lịch, theo dõi giúp đỡ cảm tình đảng, còn “e ngại” kết nạp chức sắc, chức việc; một số quần chúng có đạo chưa biết chủ trương kết nạp đảng viên là người có đạo của Đảng, thậm chí cho rằng mình có đạo nên không thể vào Đảng, vào Đảng thì sợ bị bắt bỏ đạo nên không cần tìm hiểu, phấn đấu; một bộ phận thanh

32 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 33Thông Tin sinh hoạT chi bộ

niên các dân tộc thiểu số theo đạo có trình độ học vấn thấp, sinh nhiều con hoặc quan hệ gia đình liên quan đến lịch sử chính trị và chính trị hiện nay phức tạp; ngoài ra, sự tác động không tích cực, không ủng hộ từ gia đình, cộng đồng và giáo hội đối với quần chúng có đạo cảm tình Đảng cũng làm ảnh hưởng đến công tác kết nạp đảng viên. Vì thế kết quả công tác kết nạp đảng viên là người có đạo chưa tương xứng với số lượng quần chúng trong các tôn giáo trên địa bàn tỉnh, vô hình chung đã tạo ra “một bức tường” ngăn cách giữa công việc Đảng với công việc đạo, tạo kẻ hở cho các thế lực phản động lợi dụng chống phá. Nói điều này, chúng ta phải học tập Bác Hồ trong việc ứng xử rất khéo léo với vấn đề tôn giáo. Trong thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ ngày 23/3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Một đàng, chúng ta cần giải thích cho người Công giáo hiểu rõ chủ trương chính sách của Chính phủ như Đức cha đang làm. Đằng khác, cần giáo dục cán bộ của Chính phủ như bản thân tôi đang làm. Như vậy thì bọn gây rối sẽ không còn

có thể chia rẽ chúng ta và sự đoàn kết của toàn dân sẽ được thực hiện”.

Kinh nghiệmTừ thực tiễn công tác

phát triển đảng viên là người có đạo ở tỉnh ta trong thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn, thực hiện tốt Quy định số 123-QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị về “Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo”, Hướng dẫn số 40-HD/BTCTW ngày 08/4/2005 của Ban Tổ chức Trung ương về thực hiện Quy định số 123-QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị về “Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo”, Hướng dẫn số 18-HD/BTCTU ngày 01-8-2008 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về một số điểm thực hiện tốt Quy định số 123-QĐ/TW của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 40-HD/BTCTW ngày 08/4/2005 của Ban Tổ chức Trung ương và Công văn số 2350-CV/BTCTU ngày 19/02/2014 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về việc điều

chỉnh nội dung Hướng dẫn số 18-HD/BTCTU ngày 01/8/2008 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Nội dung cơ bản của các văn bản trên là: (1) Chỉ xem xét, kết nạp quần chúng là người có đạo trong những tôn giáo đã được Nhà nước công nhận; (2) Quần chúng là người có đạo có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để kết nạp vào Đảng theo quy định tại Điều 1 Điều lệ Đảng; (3) Thực sự là quần chúng ưu tú, có khả năng thuyết phục và vận động quần chúng, được đồng bào có đạo và không có đạo ở nơi công tác, nơi cư trú tín nhiệm, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ đảng viên quy định tại Điều 2 Điều lệ Đảng; (4) Đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận người xin vào Đảng không vi phạm lịch sử chính trị và chính trị hiện nay theo quy định của Đảng; (5) Người có đạo được kết nạp vào Đảng vẫn được tham gia sinh hoạt đạo; (6) Đảng viên có thể tham gia làm chức việc, hội đoàn tôn giáo nếu được tín đồ tín nhiệm, được cấp ủy cơ sở đề nghị và được ban thường vụ huyện ủy và tương đương đồng ý bằng văn bản; có thể tham gia làm chức sắc nếu được tín

đồ tín nhiệm, được cấp ủy cơ sở đề nghị và được Ban Thường vụ Tỉnh ủy đồng ý bằng văn bản.

Thứ hai, Tăng cường công tác kết nạp đảng viên đối với quần chúng là người có đạo nhằm củng cố, xây dựng và nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, nhất là ở chi bộ thôn, làng; làm trong sạch đội ngũ đảng viên và bảo vệ chính trị nội bộ Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng trên địa bàn, khu dân cư, góp phần ổn định sinh hoạt tôn giáo và thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với đồng bào có đạo.

Thứ ba, các chi bộ ở vùng đồng bào có đạo phải thường xuyên xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển đảng viên là người có đạo cụ thể trong từng quý, từng năm và nhiệm kỳ; có danh sách quần chúng ưu tú là người có đạo, phân công đảng viên chính thức theo dõi, giúp đỡ, đồng thời dự kiến thời gian kết nạp cho từng đối tượng cụ thể. Thực tiễn cho thấy, ở hầu hết các chi bộ nơi có đông đồng bào có đạo, xác định chỉ tiêu, kế hoạch phát triển đảng viên không chỉ góp phần chuẩn bị tốt nguồn kết nạp mà công tác kết nạp cũng

được chủ động, thuận lợi.Thứ tư, các chi bộ thôn,

làng, tổ dân phố phải luôn bám sát tình hình địa phương, tình hình hoạt động của tôn giáo trên địa bàn, lãnh đạo, chỉ đạo ban công tác mặt trận và các đoàn thể ở thôn, làng, tổ dân phố thông qua các phong trào quần chúng để xây dựng các cá nhân điển hình tiên tiến trong quần chúng là người có đạo, gắn xây dựng cốt cán trong tôn giáo với tạo nguồn kết nạp đảng viên.

Tôn giáo và người theo các tôn giáo chính thống luôn song hành trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, hướng tới độc lập - tự do - hạnh phúc, và như vậy, hạnh phúc cho con người là đích đến của chủ nghĩa xã hội và cũng là mục tiêu tối thượng của các tôn giáo mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã tìm thấy sự tương đồng giữa các học thuyết cách mạng và tôn giáo đều có một mẫu số chung đó là vì hạnh phúc của con người, qua đoạn văn rất nổi tiếng: "...Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jesus có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương

pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jesus, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy”. Vì vậy, kết nạp đảng viên là người có đạo là chủ trương nhất quán của Đảng ta, để sự đoàn kết lương giáo ngày càng bền chặt; các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường các biện pháp chỉ đạo phát triển đảng viên là người có đạo, để góp phần gìn giữ mối liên hệ gắn bó giữa tổ chức đảng với người dân có đạo; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cảnh giác, đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân và đoàn kết tôn giáo./.

n.h.C

34 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 35Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Kinh tế - Xã hội - Quốc phòng, An ninh

N hững kết quả đạt được

Trước thực trạng kết cấu hạ tầng giao thông quốc gia còn nhiều hạn chế, đòi hỏi phải được đầu tư lớn để nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu giao thông và phát triển kinh tế - xã hội, trong điều kiện nguồn lực Nhà nước còn hạn hẹp; với nhiều cố

gắng, nỗ lực triển khai, trong thời gian qua, Bộ Giao thông vận tải cùng các cơ quan chức năng và các địa phương đã thực hiện nhiều dự án đầu tư trong lĩnh vực giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT) với quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu đầu

tư chung của ngành, địa phương đã thực hiện; góp phần tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn, giảm bớt áp lực nợ công, cải thiện đáng kể năng lực phục vụ của hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông quốc gia. Cụ thể là: tính đến tháng 8/2017, Bộ Giao thông vận tải đã huy động được khoảng 209.347 tỷ đồng để

BOT trong lĩnh vực giao thông Một số vấn đề về các dự án đầu tư theo hình thức

Dự án đầu tư nâng cấp tuyến đường Pháp Vân - Cầu Giẽ vừa được Thanh tra Chính phủ chỉ ra có nhiều sai phạm và khuất tất. Ảnh: VOV

đầu tư 70 dự án đường bộ theo hình thức hợp đồng BOT. Đã hoàn thành đưa vào vận hành khai thác 55 dự án với tổng mức đầu tư là 142.146 tỷ đồng. Đang triển khai đầu tư 15 dự án với tổng mức đầu tư là 67.201 tỷ đồng. Các dự án đi vào hoạt động, đã làm tăng thêm phương thức quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông mới, bước đầu mang lại hiệu quả, phù hợp xu thế phát triển, tạo điểm nhấn cho sự phát triển của Việt Nam; người tham gia giao thông có thêm lựa chọn với điều kiện giao thông thông thoáng an toàn hơn.

Một số yếu kém, vi phạm trong triên khai dự án boT

Chưa thực hiện đúng quy định về việc xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu thư theo hình thức đối tác công tư; việc công bố sau khi phê duyệt danh mục dự án, không đúng thời điểm (tháng 1 hằng năm) là thiếu chặt chẽ và ảnh hưởng không tốt đến kết quả lựa chọn nhà đầu tư.

Quyết định chủ trương đầu tư một số dự án còn bất hợp lý trong cân đối tổng thể và quy hoạch; phê duyệt một số nội dung đầu tư, tổng mức đầu tư chưa

đúng quy định, còn một số khoản sai lệch.

Lựa chọn nhà đầu tư, đàm phán, ký kết và giám sát thực hiện hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn thiếu chặt chẽ; nhà đầu tư đã lập, duyệt không đúng nhiều khối lượng, định mức, đơn giá trong dự toán công trình.

Việc thanh quyết toán xác định giá trị công trình dự án còn bất hợp lý, hầu hết các công trình dự án hoàn thành giai đoạn xây dựng đã đưa vào khai thác, thu phí đều chậm và chưa quyết toán được theo đúng thời gian hợp đồng.

Kết quả huy động vốn thực hiện các dự án BOT không đạt mục tiêu đa dạng các nguồn vốn, các thành phần kinh tế tham gia đầu tư; xác định phương án tài chính thiếu chính xác, nhất là phương án thu phí giao thông.

giải pháp thực hiện trong thời gian tới

Thứ nhất, đẩy nhanh tiến độ rà soát, xử lý các bất cập về chính sách phí, trạm thu phí; khắc phục ngay tình trạng quyết toán công trình chậm trễ bằng những giải pháp mạnh, cụ thể, trong đó gắn chặt với quyền thu phí; tiến hành ngay việc miễn giảm cho người dân khu vực lân cận

các trạm thu vé theo chỉ đạo của Chính phủ.

Thứ hai, khẩn trương hoàn thiện thể chế chính sách: rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hình thức đầu tư đối tác công tư, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam; tổng kết, xây dựng và ban hành Luật đầu tư đối tác công tư.

Thứ ba, công khai, minh bạch thông tin các dự án từ chủ trương đầu tư, quá trình thực hiện đầu tư, quản lý vận hành thu phí và đặc biệt ưu tiên đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; áp dụng một số chính sách thí điểm để kêu gọi nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng nước ngoài.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra để nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với các dự án BOT; xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân có vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện các dự án BOT.

Thứ năm, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để nhận được sự đồng thuận cao của xã hội đối với chủ trương xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông. Thanh Lan(Bài viết có sử dụng nguồn BTGTW)

36 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 37Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Với nhiệm vụ năm học mới

2017-2018

Năm học 2016-2017, ngành giáo dục tỉnh

Gia Lai đã linh hoạt, sáng tạo triển khai thực hiện 9 nhiệm vụ chủ yếu và 5 giải pháp cơ bản của ngành, chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo. Được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp của các cấp, các ngành, các đoàn thể, các địa phương, ngành Giáo dục và Đào tạo với nỗ lực vượt bậc của cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh, sinh viên đã nâng cao chất lượng giáo dục của các bậc học một cách toàn diện, với nhiều thành tích nổi bật và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học 2016-2017, được Bộ Giáo dục và Đào tạo ghi nhận, tặng Bằng khen cho ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai đã đạt thành tích xuất sắc trong phong trào

thi đua "Đổi mới, sáng tạo trong dạy và học”.

Thẳng thắn nhìn nhận vào những khó khăn, hạn chế trong năm học qua, để khắc phục và tiếp tục tham mưu các cấp, các ngành quan tâm, Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai đã chủ động trong công tác chuẩn bị các điều kiện để sẵn sàng bước vào năm học mới 2017-2018.

Ngay từ đầu hè, Ngành Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các trường học trên địa bàn tỉnh chủ động trong công tác tham mưu đề nghị cấp kinh phí sửa chữa các hạng mục bị xuống cấp, xây mới phòng học có nhu cầu; hoàn tất công tác tuyển sinh, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ và rà soát đội ngũ cán bộ, giáo viên để đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học mới.

Ngoài việc chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, ngành Giáo dục và Đào tạo phối hợp

với Trường Cán bộ Quản lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh, Trường Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ và bồi dưỡng chính trị trong hè cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên nhằm cập nhật, tăng cường kiến thức, khả năng quản lý, phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu cũng như nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Công tác tuyển sinh vào các lớp đầu cấp đã hoàn tất ở tất cả các cấp học, bậc học trên địa bàn tỉnh.

Ngoài ra, Sở Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo rà soát lại những em học sinh bỏ học của năm học trước để vận động các em trở lại trường trong năm học mới. Đồng thời, cũng đã rà soát lại biên chế đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên của các cấp học để điều chuyển ở những trường có giáo viên thừa qua các trường

gia Lai Ngaønh Giaùo duïc

Ths. hUỲnh MInh ThUẬn TUV, giám đốc sở giáo dục và Đào tạo

có giáo viên thiếu, nếu vẫn còn thiếu thì tiếp tục đề xuất với UBND tỉnh bổ sung để đáp ứng yêu cầu trong năm học 2017-2018.

Bước vào năm học mới 2017-2018, toàn tỉnh có 835 trường mầm non, phổ thông (tăng 8 trường so với năm học trước) và 382.672 học sinh mầm non, phổ thông (tăng 3.921 học sinh so với năm học trước, trong đó học sinh dân tộc là: 163.985 học sinh, chiếm 43,15%) với cơ sở vật chất trường, lớp học đảm bảo nhu cầu cho học sinh, không có học sinh nào nghỉ học vì thiếu trường lớp.

Để ngày Khai giảng năm học mới 2017-2018 thật sự là “Ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường”, sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục phối hợp cùng với các ban ngành, đoàn thể ở địa phương triển khai thực hiện cuộc vận động “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường” với mục tiêu: huy động hết học sinh 5 tuổi vào lớp Mẫu giáo; 6 tuổi vào lớp 1; trẻ trong độ tuổi phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi, độ tuổi Phổ cập giáo dục THCS đã bỏ học tiếp tục đi học lại. Đồng thời, chỉ đạo các trường tổ chức Lễ khai giảng trang trọng, tiết

kiệm và hiệu quả, với các hoạt động linh hoạt, sáng tạo, hấp dẫn có tác dụng thiết thực đối với giáo dục đạo đức học sinh, tránh hình thức phô trương, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường giáo dục; thời gian tổ chức Lễ khai giảng phải đảm theo quy định và thống nhất trên toàn tỉnh.

Trên cơ sở phương hướng nhiệm vụ năm học 2017-2018, với 9 nhóm nhiệm vụ chủ yếu và 5 giải pháp cơ bản theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo và căn cứ tình hình thực tế của tỉnh Gia Lai, trong năm học 2017-2018, toàn ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như: tham mưu UBND tỉnh bổ sung kinh phí để sửa chữa, mua sắm, đầu tư cho các đơn vị, đặc biệt là các đơn vị ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn; huy động và duy trì sỹ số học sinh ra lớp đạt tỉ lệ cao nhất, khắc phục tình trạng bỏ học của học sinh; tăng cường quản lý chất lượng các cơ sở giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục mầm non, phổ thông; tăng cường cho học sinh dân tộc thiểu số làm quen với tiếng Việt vào đầu năm học mới; nâng cao chất lượng dạy và học ở các trường PTDTNT,

PTDTBT trên địa bàn tỉnh; chú trọng nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua "Đổi mới, sáng tạo trong dạy và học”, “Duy trì sĩ số học sinh”, “Nâng cao tỉ lệ tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2018”, “Trường Xanh-Sạch-Đẹp-An toàn”, các cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”; “Xây dựng nhà trường văn hóa, nhà giáo mẫu mực, học sinh thanh lịch”, “Mỗi cán bộ, giáo viên nhận đỡ đầu một học sinh có nguy cơ bỏ học vì hoàn cảnh gia đình khó khăn hoặc học yếu”; kiểm tra giám sát việc dạy thêm, học thêm; công tác bảo quản, khai thác, sử dụng các trang thiết bị đồ dùng dạy học, cơ sở vật chất trường lớp học; duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục Mầm non, Tiểu học, THCS và đẩy mạnh công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2016-2020.

Có thể khẳng định ngành Giáo dục và đào tạo đã sẵn sàng cho năm học mới 2017-2018 với quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh đã đề ra đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo./.

H.M.T

38 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 39Thông Tin sinh hoạT chi bộ

hỘi LhPN cÁc cẤP TÍch cực ThaM gia

thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh Đặng ThỊ KIM sáU

Trưởng ban hỗ trợ Phụ nữ phát triên hLhPn tỉnh

Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức gặp mặt 27 cán bộ Hội Phụ nữ qua các thời kỳ và đại diện các gia đình chính sách, người công với cách mạng trên địa bàn thành phố Pleiku. Ảnh: Anh Huy.

Trong những năm qua, các cấp Hội truyên truyền,

vận động hội viên phụ nữ thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ giảm nghèo góp phần thực hiện mục tiêu phát triển

kinh tế xã hội của tỉnh. Xác định nhiệm vụ hỗ

trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững là nội dung trọng tâm, có tính lâu dài và đòi hỏi cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành. Các cấp Hội trong tỉnh đã tập trung nguồn lực, vận

động phụ nữ phát triển kinh tế bằng nhiều hình thức:

Trong hoạt động hỗ trợ phụ nữ tiếp cận với các nguồn vốn, Hội LHPN nhận ủy thác với Ngân hàng Chính sách xã hội cao nhất với tổng dư nợ 1.420.194 triệu

đồng, thông qua 1.336 tổ TK&VV, với 53.400 lượt hộ vay. Bên cạnh đó, Hội đã phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tín chấp cho 930 hộ vay vốn tổng dư nợ lên 46,677 triệu đồng. Hoạt động của Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh được duy trì và phát triển với nguồn vốn hơn 18 tỷ đồng cho 3.006 phụ nữ vay vốn. Thông qua hoạt động vay vốn đã giúp hội viên phụ nữ có điều kiện phát triển kinh tế gia đình, tạo việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo, tham gia phát triển kinh tế xã hình hội tại địa phương.

Mô hình tiết kiệm được các cấp Hội triển khai có hiệu quả nhằm tăng nguồn vốn với số tiền 48,1 tỷ đồng; hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho 6.368 chị hộ cận nghèo. Mô hình “3 trong 1” được triển khai làm điểm trong hội viên người dân tộc thiểu số, đến nay nhân rộng được 293 điểm đã giúp 293 hộ gia đình thoát nghèo. Năm 2017, Hội LHPN tỉnh đã triển khai Kế hoạch“Vận động hộ hội viên DTTS thay đổi nếp nghĩ thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu vươn lên thoát nghèo bền vững, giai đoạn 2017-2021” đến các huyện, thị,

thành Hội và chọn 5 đơn vị làm điểm: Kông Chro, Ia Pa, Đăk Đoa, Krông Pa (mỗi huyện 01 chi Hội), các đơn vị tập trung tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức, hình thành thói quen, ý thức tiết kiệm trong cuộc sống hàng ngày của hội viên dân tộc thiểu số… cho 3.542 chị tham gia, thành lập 15 CLB “Phụ nữ DTTS tiết kiệm từ 5-10 triệu đồng” với 235 thành viên.

Thực hiện Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm”, tư vấn nghề, tư vấn việc làm gắn với dạy nghề và hỗ trợ việc làm cho phụ nữ; Các cấp Hội phối hợp phối hợp với ngành Lao động, Thương Binh và xã hội tại địa phương, liên kết với Trường Trung cấp nghề Lê Thị Riêng (TP. Hồ Chí Minh) dạy nghề cho 21.378 lao động nữ, giới thiệu việc làm cho 2.200 phụ nữ. Điểm mới là công tác dạy nghề đã được gắn với xây dựng các mô hình tổ liên kết kinh tế phù hợp như: Chăn nuôi lợn siêu nạc, Cải tạo và chăm sóc cây hồ tiêu năng suất cao, Chăn nuôi heo lai - siêu nạc, Dịch vụ chăm sóc gia đình, Chăm sóc cây hồ tiêu, Trồng chăm sóc cây chanh dây cho quả

tím, Trồng rau sạch. Hoạt động của các mô hình đã góp phần làm chuyển đổi phương thức hỗ trợ giảm nghèo của các cấp Hội gắn kết hỗ trợ của người khá với người nghèo, thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên.

Các cấp Hội chủ động phối hợp với ngành nông nghiệp phát triển nông thôn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi cho 23.426 phụ nữ. Tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia các mô hình sản xuất, chăn nuôi có hiệu quả như: “Nuôi heo trên nệm lót sinh học”, “Trồng lúa năng xuất chất lượng cao”, “Canh tác dưới tán rừng bằng cây dược liệu và hồ tiêu dây lươn”, “Nuôi cá trong ruộng”... tuyên truyền, vận động hội viên, phụ nữ tích cực tham gia hưởng ứng tham gia Cuộc vận động“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh phát động góp phần tạo sự chuyển biến về nhận thức, hành động, tạo thói quen tiêu dùng hàng Việt.

Thực hiện chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn tỉnh lần thứ XIII, Hội LHPN tỉnh xây

40 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 41Thông Tin sinh hoạT chi bộ

kế hoạch 174/KH-BCH, ngày 7/7/2017 và tổ chức đối thoại giữa Ủy ban nhân dân thị, thành, các cơ quan chức năng với hội viên phụ nữ về hỗ trợ phụ nữ khởi sự kinh doanh và khởi nghiệp tại Ayun Pa, An Khê và Pleiku cho 380 hội viên phụ nữ có nhu cầu doanh nghiệp, khởi nghiệp. Bên cạnh hoạt động khởi nghiệp, trong khuôn khổ triển khai hoạt động của Dự án Plan, Hội LHPN tỉnh được hỗ trợ 38 sáng kiến cộng đồng cho nhóm cha mẹ với số tiền 190 triệu đồng.

Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với xây dựng nông thôn mới được Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh xác định lựa chọn nội dung ưu tiên triển khai thực hiện, tập trung chỉ đạo, hướng dẫn các cấp Hội giải quyết dứt điểm tiêu chí “3 sạch”, chủ động phối hợp với các ngành lựa chọn giải quyết từng tiêu chí “5 không” phù hợp với từng địa bàn. Hội LHPN tỉnh phát động phong trào thi đua “Phụ nữ Gia Lai tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới”, đăng ký với Ban chỉ đạo nông thôn mới của tỉnh 3/8 tiêu chí: “3

sạch”, “không đói nghèo”, “không sinh con thứ 3”; tham mưu UBND tỉnh bổ sung nội dung Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” vào tiêu chí xét gia đình văn hóa của tỉnh và đăng ký phần việc của Hội tham gia thực hiện tiêu chí 17 về môi trường của Chương trình xây dựng nông thôn mới; Đến nay, 100% hộ gia đình hội viên phụ nữ được tuyên truyền, hướng dẫn, cung cấp về Cuộc vận động.

Với nhiều cách làm sáng tạo trong khai thác nguồn lực, hướng dẫn chuyển giao khoa học kỹ thuật, dạy nghề, tạo việc làm, xây dựng các mô hình tổ liên kết, mô hình phát triển sản xuất và tích cực phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh triển khai Cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số để vươn lên thoát nghèo bền vững”... đến nay có 28.575/31.751 hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được các cấp Hội giúp đỡ, đã có 13.144 hộ thoát nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh hàng năm từ 4-5% góp phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo tại địa phương. Qua

đó, đã xuất hiện nhiều gương điển hình sản xuất giỏi như chị Đinh H’Yang (xã Bờ Ngoong - huyện Chư Sê), chị Nay H’ Win (phường Đoàn Kết - thị xã Ayun Pa), chị Chu Thị Phất (xã Ia Bă - huyện Ia Grai)... hàng năm thu nhập từ việc trồng cây hồ tiêu, cà phê từ 200 - 400 triệu đồng góp phần nâng cao đời sống của hộ gia đình, vươn lên thành hộ khá giả...

Những kết quả đạt được đã khẳng định vai trò, vị trí và tiềm năng của phụ nữ trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Có thể nói, với nhiều cách làm mạnh dạn, sáng tạo, Hội LHPN các cấp trong tỉnh đã trở thành chỗ dựa vững chắc của phụ nữ trong phát triển kinh tế trên cơ sở phát huy nội lực, tinh thần hợp tác, tương thân, tương ái trong các tầng lớp phụ nữ. Qua đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giúp chị em phấn khởi tự tin, vươn lên trong cuộc sống, từng bước nâng cao vị thế người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới của tỉnh.

Đ.T.K.s

Internet, các trang mạng xã hội facebook là những

cụm từ trở nên phổ biến nhất hiện nay, đặc biệt là trong thanh thiếu niên. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nhất là Internet đã và đang tác động không nhỏ đến đến mọi hoạt động và sinh hoạt của con người, nhất là giới trẻ. Với đặc điểm nổi trội kết nối thông tin nhanh, chia sẻ rộng, chỉ với một chiếc điện thoại hay một máy tính kết nối mạng Internet, chúng ta dễ dàng truy cập và tham gia vào rất nhiều trang mạng như: Facebook, Zalo, Youtube, Twitter… trong đó, phổ biến nhất là Facebook. Mỗi bạn trẻ đến với các trang mạng theo những mục đích, cách thức, mức độ khác nhau tuy nhiên có một điểm chung đó là

xem nó như là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần.

Không ai phủ nhận những tiện tích mà mạng Internet đem lại, nếu chúng ta biết tận dụng, khai thác hợp lý thì nó mang lại hiệu quả rất lớn cả trong học tập, công tác, sinh hoạt và đời sống xã hội cho thanh niên, ngược lại nó sẽ gây ra nhiều hệ lụy không tốt. Bên cạnh tiện ích nổi bật là cung cấp thông tin nhanh, nhiều song rất nhiều thông tin trên mạng xuất hiện tràn lan, hỗn loạn, thiếu chính xác, độ tin cậy hạn chế thậm chí là vô bổ.

Điều đáng quan tâm, lo ngại nhất hiện nay là xuất hiện nhiều thông tin trên mạng xã hội hàm chứa nội dung “độc hại”, dụ dỗ, lôi kéo người tham gia như: phim ảnh khiêu dâm, lối

sống trụy lạc, kích động bạo lực, khiêu khích chiến tranh, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo… Các thông tin này rất dễ làm cho các bạn trẻ tham gia bị sa đà vào “biển thông tin” hỗn loạn đó lúc nào mà không hay biết, làm cho họ sao nhãng việc học hành, giảm năng suất lao động, tinh thần uể oải, sa sút, đắm chìm vào thế giới ảo trong đời sống thực. Đây chính là tác nhân làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm sinh lý và việc hình thành, phát triển nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người, nhất là trong lứa tuổi thanh thiếu nhi.

Nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các trang mạng xã hội đến việc giáo dục, nuôi dưỡng phát triển hoàn thiện nhân cách và lối sống tốt đẹp

Moät soá giaûi phaùp

hạn chế tác động tiêu cực từ internet đối với thanh niên gia Lai hiện nay

KSOR H’UYên ban Tuyên giáo Tỉnh đoàn

42 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 43Thông Tin sinh hoạT chi bộ

của con người, nhất là thanh thiếu niên hiện nay, các cấp bộ Đoàn cần chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức lối sống văn hóa cho thanh thiếu qua đó góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, hoàn thiện đạo đức, nhân cách, hình thành lối sống lành mạnh, tích cực; tích cực đấu tranh, nâng cao khả năng phản biện đối với các luồng thông tin sai sự thật. Tăng cường triển khai tuyên truyền, quán triệt và thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”, duy trì và phát huy hoạt động của các mô hình, việc làm hiệu quả trong việc “Tuổi trẻ Gia Lai học tập và làm theo lời Bác” trong đoàn viên, thanh thiếu nhi.

Hệ thống báo chí của Đoàn bao gồm: website Tỉnh đoàn, các trang mạng xã hội cần chú trọng, ưu tiên đăng tải, cập nhật các thông tin chính thống, có độ chính xác cao; tích cực phản ảnh các hoạt động, phong trào của Đoàn, Hội, tuyên truyền và nhân rộng gương thanh niên điển hình tiên tiến trong mọi lĩnh vực để thanh thiếu

niên tiếp cận, học tập và noi theo.

Các cấp bộ Đoàn thường xuyên duy trì và đẩy mạnh tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh phù hợp với nhu cầu và đặc điểm tâm sinh lý của giới trẻ. Đồng thời, tăng cường tổ chức các hoạt động an sinh xã hội, phong trào tình nguyện hướng về cộng đồng, đặc biệt là những người nghèo, kém may mắn trong xã hội qua đó tạo môi trường sống lành mạnh để thanh thiếu niên chủ động tham gia cống hiến và trưởng thành, từ đó dần hình thành nên nhân cách sống tốt đẹp, hướng thiện và biết sống ưu tiên vì lợi ích cộng đồng xung quanh.

Đặc biệt quan tâm, coi trọng việc bồi dưỡng nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội, rèn luyện thói quen tích cực, kỹ năng sống cho thanh niên, nhất là kỹ năng ứng xử trong xã hội, điều tiết và kiểm soát bản thân thông qua các chương trình “Học kỳ trong quân đội”, “Học làm người có ích”…qua đó giúp cho thanh thiếu niên trang bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết để ứng

xử phù hợp với thực tiễn cuộc sống.

Phát huy tốt vai trò của hệ thống thiết chế văn hóa, các phương tiện thông tin đại chúng của Đoàn kết hợp đẩy mạnh hoạt động của các loại hình văn hóa dân gian, duy trì và đẩy mạnh hoạt động các câu lạc bộ, tổ đội nhóm theo sở thích, các buổi sinh hoạt tập thể…thông qua đó tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, đơn vị, trên cơ sở đó giáo dục, định hướng chính trị, tạo niềm tin và nhiệt huyết của tuổi trẻ, chống lại các loại sản phẩm văn hóa độc hại, âm mưu “xâm lăng văn hóa”, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch qua có thể tác động tiêu cực đến tư tưởng, đời sống tinh thần của thanh thiếu niên

Triển khai đồng bộ và thường xuyên các giải pháp trên, các cán bộ Đoàn nói riêng và các ban, ngành, đoàn thể khác nói chung sẽ góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của mạng Internet, trang mạng xã hội đối với thanh thiếu niên hiện nay./.

K.Y

Những năm gần đây, trên địa bàn huyện Đak

Đoa, tỉnh Gia Lai đã xuất hiện nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số có quỹ đất nhưng thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất liên kết với những hộ người Kinh có vốn, có kinh nghiệm nhưng không có đất sản xuất cùng nhau xây dựng mô hình kinh tế mới giúp tăng thêm thu nhập góp phần xóa đói, giảm nghèo. Mô hình liên kết này bước đầu đã cho thấy được sự bổ trợ hoàn hảo cho nhau trong phát triển kinh tế hộ gia đình, giúp hai bên cùng có lợi, đặc biệt hạn chế được tình trạng chuyển nhượng, cho thuê đất trái pháp luật trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo ổn định an ninh kinh tế vùng nông thôn.

Đến thời điểm này, toàn huyện Đak Đoa đã có 28 cặp hộ liên kết với nhau canh tác trên diện tích hơn

13 ha, trong đó tập trung chủ yếu vào các mô hình sản xuất cây hồ tiêu, cà phê. Hà Bầu là địa phương điển hình của huyện Đak Đoa về mô hình liên kết này với 21 cặp hộ đã tham gia liên kết phát triển kinh tế tạo thu nhập ổn định cho gia đình. Sau 3 năm liên kết trồng 800 trụ tiêu trên đất trồng cà phê giống cũ kém năng suất trước đây, đến giờ vườn tiêu của cặp gia đình ông Bak ở làng Weh, xã Hà Bầu và ông Nguyễn Văn Hà ở xã Nam Yang đã cho thu bói được 1 tấn quả. Với giá hiện tại, mỗi gia đình thu nhập được khoảng 30 triệu đồng. Ông Bak vui mừng cho biết: Không có vốn lại thiếu kinh nghiệm chăm sóc nên vườn cà phê của gia đình mình trước đây năng suất rất kém không có thu nhập, do đó mình quyết định liên kết với gia đình ông Hà chuyển sang trồng tiêu. Ông Hà đầu tư giống, trụ, phân bón, kỹ

thuật chăm sóc còn mình đóng góp quỹ đất và công lao động cùng chăm sóc. Đến giờ, vườn tiêu của mình đã cho thu bói được 1 tấn quả và kết quả rất khả quan. Hy vọng rằng nếu phát triển ổn định, năm tới vườn tiêu sẽ cho thu hoạch khoảng 3 tấn, thu nhập cao hơn gấp nhiều lần so với trồng cà phê trước đây.

Cũng như cặp hộ ông Bak và ông Hà, cặp gia đình ông Ykhil ở làng Sao, xã Hà Bầu và anh Nguyễn Tấn Long ở xã Nam Yang cũng đã liên kết với nhau trồng 0,7ha cà phê từ năm 2010. Theo thỏa thuận liên kết, gia đình ông Ykhil đóng góp quỹ đất còn gia đình anh Long đầu tư toàn bộ các khâu từ giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… đến kỹ thuật canh tác với mức tỷ lệ ăn chia 3/7 sau khi thu hoạch. Sau nhiều năm đầu tư công sức, từ vườn đất bỏ hoang giờ đây đã hình thành nên

Hiệu quả từ mô hình liên kết hộ

trong phát triển kinh tế xóa đói, giảm nghèo ngUYỄn hOÀI naM

Thông tấn xã Việt nam

44 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 45Thông Tin sinh hoạT chi bộ

một vườn cà phê xanh mướt, trĩu trái cho năng suất đạt gần 4 tấn cà phê nhân mang lại thu nhập cả trăm triệu đồng cho 2 gia đình. Anh Long tâm sự: Trước đây, vườn đất này bỏ hoang, tôi thấy phí quá nên liên kết với chú YKhil đầu từ trồng cà phê để tăng thu nhập cho 2 gia đình. Sau 8 năm canh tác, vườn cà phê của chúng tôi phát triển rất thuận lợi, mỗi năm thu về hơn 100 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí, tôi chia lại cho gia đình chú Ykhil hơn 30 triệu. Thời gian tới rất mong địa phương tạo điều kiện cho chúng tôi vay thêm ít vốn để mở rộng vườn cà phê và mua bò nuôi tận dụng nguồn phân xanh chăm bón cho vườn cây.

Anh YPren, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã Hà Bầu cho biết: Thời gian qua, tình trạng buôn bán, sang nhượng đất trái phép trong đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra rất phức tạp, phần lớn các gia đình đều thuộc diện hộ nghèo, khó khăn, không biết cách tổ chức cuộc sống hoặc thiếu vốn sản xuất. Do đó, mô hình liên kết giữa hộ Kinh và hộ đồng bào dân tộc thiểu số giúp nhau tạo dựng kinh tế gia đình đã mang lại lợi ích thiết thực trong việc ngăn chặn tình

trạng sang nhượng đất trái phép, tạo nguồn thu nhập cho gia đình đặc biệt qua đó là cơ hội để các hộ dân tiếp cận với khoa học kỹ thuật trong canh tác mang lại giá trị kinh tế cao cho cây trồng. Thời gian tới, xã sẽ tiếp tục hỗ trợ để nhân rộng mô hình này đến các thôn, làng khác trong xã nhằm tạo điều kiện để người dân có thu nhập ổn định trên chính mảnh đất của mình.

Một thực tế đang hiện hữu là người đồng bào dân tộc thiểu số sau khi canh tác trên phần đất của mình không hiệu quả, họ thường có xu hướng cho thuê đất dài hạn hoặc thậm chí là bán đất khi có nhu cầu phục vụ cho cuộc sống, sinh hoạt, chi tiêu của gia đình. Do đó mô hình liên kết hộ trong phát triển kinh tế đã phần nào giải quyết được bài toán này và trên cơ sở này huyện Đak Đoa cũng đã ra nghị quyết, xác định rõ các giải pháp vận động người dân tham gia mô hình liên kết hộ, tránh tình trạng bán đất, sang nhượng đất trái pháp luật.

Ông Nguyễn Hữu Thọ, Bí thư huyện ủy Đak Đoa đánh giá: Qua sơ kết triển khai 1 năm thực hiện mô hình liên kết hộ, bước đầu cho thấy người dân rất

đồng tình ủng hộ từ cả 2 phía, đặc biệt hạn chế được tình trạng chuyển nhượng và cho thuê đất sản xuất trái pháp luật trên địa bàn. Chúng tôi đã vận dụng linh hoạt mô hình này để phát huy hiệu quả khai thác quỹ đất của người đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Qua thời gian triển khai, chúng tôi nhận thấy, mô hình này còn có một tiềm năng rất lớn trong việc khuyến khích nhiều hộ liên kết với nhau tạo nên cánh đồng lớn và hình thành các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở khu vực nông thôn giúp người dân dần tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật để canh tác bền vững, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo thu nhập ổn định và lâu dài cho người dân.

Mặc dù mới chỉ hình thành trên qui mô nhỏ, song mô hình liên kết hộ đã minh chứng được sự hỗ trợ hoàn hảo những khiếm khuyết của nhau trong phát triển kinh tế gia đình, tạo thu nhập chính đáng và đặc biệt là giữ được quỹ đất để ổn định sản xuất lâu dài góp phần xóa đói, giảm nghèo nơi vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

N.H.N

Học tập và làm theo gương Bác

khắc phục nhận thức sai lệchtrong học tập, nghiên cứu, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Ths. ĐỖ văn hÒa - Cn. Rơ ô TRúC Trường chính trị tỉnh gia Lai

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ

Chí Minh luôn coi trọng lý luận và việc học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của V.I.Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”1. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, lý luận cách mạng ấy là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước. Nó là: “Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước; khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản”…”2.

Theo Người, trước hết là lý luận trong công tác của Đảng - đó là lý luận chính trị, lý luận cách mạng, lý luận về con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; lý

luận về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; lý luận về sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc; lý luận về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; lý luận về đạo đức cách mạng; lý luận về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh… Đó là những lý luận liên quan trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, tới việc củng cố nền tảng tư tưởng, lập trường giai cấp công nhân và nhân sinh quan cách mạng trong toàn Đảng cũng như trong mỗi người cán bộ, đảng viên.

Tuy nhiên, hiện nay việc nghiên cứu, vận dụng lý luận chính trị nói chung, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng gặp không ít khó khăn, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện nhận thức lệch lạc, thiếu đúng đắn về vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này. Như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đánh giá: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý”3, và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;

MỘT SỐ giải PhÁP

(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, H, tr.93.(2) Hồ Chí Minh, Sđd, tr.96

46 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 47Thông Tin sinh hoạT chi bộ

ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chỉ ra một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trong đó có sự “hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” và “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.

Một trong những nguyên nhân của việc nhận thức sai lệch là do lười học tập, nghiên cứu và vận dụng lý luận chính trị nói chung và Nghị quyết của Đảng nói riêng, là một trong những biểu hiện suy thoái rất nguy hiểm, nó làm cho cán bộ, đảng viên không nắm được đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, biện pháp lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng. Điều đó dẫn đến tình trạng, Nghị quyết của Đảng dù rất đúng đắn, nhưng chậm được triển khai, cụ thể hóa và trở thành hiện thực. Thậm chí

có những trường hợp, cán bộ, đảng viên hiểu sai, làm trái với đường lối, nghị quyết của Đảng, gây ra sự bất bình, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cũng do lười học tập lý luận chính trị, không nắm chắc, hiểu sâu chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, nên cán bộ, đảng viên không thể tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện.

Điều đáng lo ngại hiện nay là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học lý luận. Do đó, chưa tích cực, chủ động đầu tư thời gian thích đáng cho việc nghiên cứu lý luận chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, nhiều người đi học chỉ để hoàn thiện hệ thống văn bằng, chứng chỉ, chưa chú trọng chất lượng, hiệu quả thu được về nhận thức lý luận. Còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên ngại học tập lý luận, học tập mang tính đối phó, chiếu lệ, cốt chỉ để có bằng cấp, để phù hợp với tiêu chuẩn đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại.Bằng cấp không còn vai trò đúng nghĩa là thước đo

trình độ lý luận, “vũ khí” lý luận được trang bị để hoạt động thực tiễn được đúng đắn, thành công, thậm chí bị mất tác dụng, phản tác dụng.

Một số người khi học tập lý luận chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh lại không liên hệ vào công tác, tư tưởng để tự đổi mới bản thân về lập trường, quan điểm, phương pháp, do đó không khắc phục được hạn chế, không tiến bộ cả về phẩm chất và năng lực công tác. Cùng với các biểu hiện trên là sự thiếu tính Đảng, hạn chế về tri thức lý luận, không nắm chắc bản chất cách mạng, khoa học và giá trị phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn tới không bảo vệ chân lý, sự thờ ơ, không chủ động tích cực đấu tranh chống sự xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực xấu, thù địch, các phần tử chống đối chế độ.

Bên cạnh đó, phải nhìn nhận thẳng thắn rằng, một số báo cáo viên, giảng viên khi truyền đạt, giảng nghị quyết, lý luận chính trị chưa làm tốt chức tránh, nhiệm vụ của mình, còn

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2016, tr.193.

nặng về lý thuyết, thiếu thực tiễn, hạn chế về kỹ năng, phương pháp...

Để khắc phục các lệch lạc về nhận thức trong nghiên cứu và vận dụng lý luận chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cơ bản như sau:

Một là, cần tiếp tục giáo dục làm cho mọi đối tượng, tập trung vào cán bộ và đảng viên, trước hết là “cán bộ cốt cán” của Đảng nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của lý luận chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh, thấy rõ sự cấp thiết phải học tập nâng cao trình độ lý luận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên nhận thức rõ lý luận đóng vai trò quan trọng trong nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ và phương pháp tư duy, năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Học tập là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao

trình độ lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn… Kết quả học tập lý luận chính trị là một trong những tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ, đánh giá tư cách đảng viên và tổ chức đảng Trong sạch vững mạnh.

Hai là, thực hiện tốt công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn với phương pháp thật sự khoa học. Tổng kết thực tiễn là xuyên qua những tình hình, những hiện tượng mà phát hiện được, đúc rút được những vẫn đề cơ bản có tính cốt lõi, tìm ra được bản chất và quy luật vận động của thực tiễn, từ đó đề xuất được những biện pháp giải quyết đúng đắn. Vì vậy, muốn tổng kết được thực tiễn, phải nắm vững những vấn đề lý luận cơ bản, có quan điểm nhìn nhận thực tiễn đúng đắn, có phương pháp luận khoa học trong đánh giá và giải quyết các vấn đề, tức là phải nắm vững những nguyên lý cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ba là, nâng cao trình

độ lý luận chính trị, nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên. Muốn vậy, cần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học của người thầy trong giáo dục lý luận chính trị. Trong đó, người cán bộ giảng dạy lý luận chính trị đòi hỏi phải có một nền tảng lý luận và vốn thực tiễn phong phú, để kiểm nghiệm lý luận và nâng nhận thức lý luận lên tầm cao mới. Có như thế người giảng viên mới có thể thực hiện mục tiêu giáo dục lý luận: “Mục đích học để vận dụng chứ không phải học vì lý luận”4. Và, tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng của mình.

Bốn là, phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và các lực lượng trong công tác tuyên truyền giáo dục và đấu tranh với những biểu hiện, nhận thức sai lệch trong nghiên cứu, vận dụng lý luận chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh./.

Đ.v.h - R.O.T(4) Hồ Chí Minh (1995), Sđd, t.2, tr.289

48 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 49Thông Tin sinh hoạT chi bộ

Trong những năm qua, phong trào “Thanh niên học tập và làm theo lời Bác”, phát triển kinh tế, từng bước vươn lên làm giàu trên quê hương được đông đảo người trẻ nhiệt tình hưởng ứng. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã đi lên từ hai bàn tay trắng để trở thành những thanh niên tiêu biểu làm kinh tế giỏi của địa phương. Một trong số đó là tấm gương về phát triển kinh tế vườn - rừng của người cán bộ Đoàn - Lê Minh Hiếu, buôn Ma Giai, xã Đất Bằng, huyện Krông Pa.

Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ của gia đình, anh chia sẻ cơ

duyên đến với con đường

trang trại của mình: Vốn sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đông anh em nên sau khi hoàn

thành chương trình Trung học phổ thông, anh phải khép lại cánh cửa đại học để phụ giúp gia đình làm

Lê Minh Hiếu- cán bộ Đoàn buôn Ma Giai, xã Đất Bằng, huyện Krông Pa. Ảnh: HVV.

kinh tế. “Vùng đất nơi đây vốn chỉ toàn đồi núi đá, dân cư đa số là người dân tộc Jrai với nghề nông “gia truyền” là trồng mỳ, bắp. Trong khi đó, thời tiết vùng này lại khá khắc nghiệt, mùa hè thường khô hạn nên điều kiện kinh tế vô cùng khó khăn, khó có thể làm giàu nếu cứ mãi tiếp tục “truyền thống” của ông cha.

Song, những khó khăn đó chẳng thể ngăn cản ý chí làm giàu của mình. Với sự năng động, sáng tạo của tuổi trẻ, lại có cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn thông tin từ sách báo và mạng Internet, anh nuôi quyết tâm biến những đồi núi đá nơi đây “đẻ” ra tiền. Với diện tích 4 ha đất rẫy có sẵn của gia đình, anh quyết định mở trang trại chăn nuôi bò và kết hợp với trồng rừng.

Sau thời gian tìm hiểu các mô hình trang trại vườn - rừng ở các địa phương cũng như tìm hiểu qua sách báo về kỹ thuật chăn nuôi bò, anh bắt tay vào hiện thực hóa ý tưởng của mình. Anh tiến hành chuyển đổi 4ha đất rẫy sản xuất kém hiệu quả của gia đình sang trồng bạch đàn, xà cừ, keo. Đồng thời, anh đầu tư lưới thép để khoanh vùng, xây dựng chuồng trại kiên cố thả hơn 10 con bò. Để gây đàn, hàng

năm bò sinh bê, anh Hiếu không bán mà để lại nuôi. Cứ thế đến nay, anh sở hữu trên 20 con bò lớn, nhỏ, tổng trị giá trên 100 triệu đồng. Anh Hiếu cho biết: “Đối với 4ha đất rẫy trồng bạch đàn, keo, xà cừ tôi thường xuyên dọn cỏ, phát cây dại xung quanh nên phát triển tốt. Năm 2014, tôi khai thác bạch đàn bán được 60 triệu đồng. Còn xà cừ và keo được tôi chăm sóc và cây đang phát triển rất tốt”.

Không chỉ nhanh nhẹn, làm kinh tế giỏi, Lê Minh Hiếu còn được biết đến với vai trò là một cán bộ Đoàn năng nổ, nhiệt tình. Theo Hiếu, ở buôn Ma Giai đa số là người dân tộc Jrai sinh sống, đời sống kinh tế còn khó khăn nên thanh niên trong buôn thường đi làm ăn xa kiếm sống. Hiện toàn buôn Ma Giai có 28 thanh niên tham gia sinh hoạt đoàn. Để thu hút thanh niên tham gia tổ chức Đoàn và duy trì phong trào Đoàn hoạt động thường xuyên, trong các buổi sinh hoạt Đoàn Lê Minh Hiếu thường xuyên lồng ghép công tác Đoàn vào công việc làm ăn, phát triển kinh tế. Đơn cử, đến mùa thu hoạch mỳ, Hiếu tổ chức vần công giữa các thanh niên trong buôn, qua đó đã tạo được sự đoàn kết giữa

các bạn trẻ. Ngoài ra, phát huy vai trò, trách nhiệm của mình, Hiếu thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, vận động đoàn viên, thanh niên phát huy, cống hiến sức trẻ trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội...Đặc biệt là trong thời điểm địa phương đang tập trung cao độ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới. Chính vì làm tốt công tác tập hợp đoàn kết thanh niên nên khi Đoàn cấp trên tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, hiến máu nhân đạo, kỳ nghỉ hồng..., đoàn viên, thanh niên trong buôn đều hưởng ứng tích cực.

Nhận xét về Lê Minh Hiếu, Bí thư Đoàn Thanh niên xã Đất Bằng, Rcom Bết nhận xét: Đồng chí Hiếu không chỉ là cán bộ đoàn xuất sắc, gương mẫu và sáng tạo mà anh còn là người “thổi lửa” cho phong trào đoàn viên, thanh niên phát triển kinh tế ở địa phương. Anh là tấm gương điển hình, tiêu biểu để các đoàn viên thanh niên khác noi theo. Mới đây anh được Ủy ban Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam tỉnh Gia Lai tặng giấy khen cán bộ Hội, hội viên, thanh niên xuất sắc tiêu biểu giai đoạn 2014-2016.

H.V.V

Bí thư Đoàn năng nổ, làm kinh tế giỏi

hOÀng văn vĩnh ban Tuyên giáo huyện ủy Krông Pa

trên vùng đất Anh hùng

50 Thông Tin sinh hoạT chi bộ 51Thông Tin sinh hoạT chi bộ

1. Quyết định số 35/201/QĐ-TTg, ngày 25/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 75/2013/QĐ-TTg, ngày 06/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ, chính sách và công tác bảo đảm đối với tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Quyết định gồm có 03 điều, 03 Phụ lục, có hiệu lực thi hành từ ngày 10/9/2017. Một số nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu của Quyết định:

1. Điểm đ khoản 1 Điều 3 được sửa đổi: “đ) Bồi dưỡng sức khỏe: Mức 500.000 đồng/người (không quá 02 lần/năm)”.

2. Điểm b, điểm c và điểm đ khoản 2 Điều 3 được sửa đổi: “b) Bồi dưỡng trực tiếp làm nhiệm vụ khảo sát, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ: Mức 220.000 đồng/người/ngày thực tế làm nhiệm vụ. Trong thời gian làm nhiệm vụ nếu hưởng tiền bồi dưỡng thì thôi hưởng chế độ công tác phí; c) Bồi dưỡng sức khỏe: Mức 500.000 đồng/người (không quá 02 lần/năm); đ) Được cấp trang phục chuyên dùng bằng hiện vật theo quy định tại Phụ lục I, ban hành kèm theo Quyết định này”.

3. Khoản 1 Điều 4 được sửa đổi: “1. Chế độ sinh hoạt phí: Mức 220.000 đồng/người/ngày thực tế khi trực tiếp đi kiểm tra, chỉ đạo công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong nước và ngoài nước. Trường hợp hưởng chế độ sinh hoạt phí thì không hưởng chế độ phụ cấp lưu trú theo quy định đối với cán bộ, công chức đi công tác trong nước”.

4. Điểm a khoản 1 Điều 5 được sửa đổi: “a) Mức 220.000 đồng/người/ngày thực tế được huy động làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong nước và ngoài nước”.

5. Điểm a khoản 2 Điều 5 được sửa đổi, bổ sung: “a) Được bồi dưỡng mức 3.000.000 đồng đối với thông tin chính xác, tìm kiếm, quy tập được 01 hài cốt liệt sĩ; mức 5.000.000 đồng đối với thông tin chính xác, tìm kiếm, quy tập được mộ tập thể có từ 02 đến 05 hài cốt liệt sĩ; mức 10.000.000 đồng đối với thông tin chính xác, tìm kiếm, quy tập được mộ tập thể có từ 06 hài cốt liệt sĩ trở lên”.

6. Khoản 1 Điều 6 được sửa đổi, bổ sung: “1. Các đội tìm kiếm, quy tập làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong nước và ngoài nước được bảo đảm: a) Trang bị, phương tiện chuyên dụng, hậu cần, đời sống theo quy định tại Phụ lục II, ban hành kèm theo Quyết định này; b) Chi bảo đảm xăng dầu; c) Kinh phí làm nhà tạm; d) Chi cất bốc mộ liệt sĩ có hài cốt; đ) Chi sửa chữa, thay thế phụ tùng ô tô; e) Chi hỗ trợ cho Ban công tác đặc biệt, Ban chuyên trách cấp tỉnh của Bạn làm lễ tiễn hài cốt liệt sĩ; g) Chi hỗ trợ vận động nhân dân nước Bạn; h) Chi mua thuốc phòng và chữa bệnh thông thường (ngoài nguồn thuốc Bộ Quốc phòng cấp theo chế độ); i) Chi mua quà đối ngoại khi sang nước Bạn phối hợp triển khai

Chính sách - Pháp luật

nhiệm vụ; k) Chi thanh toán viện phí, vận chuyển bệnh nhân…; l) Chi mua dụng cụ phục vụ đào bới (cuốc, xẻng, xà beng, dao, rựa và các vật dụng khác) với các mức chi được quy định cụ thể, chi tiết trong Quyết định…”.

7. Điểm a khoản 2 Điều 7 được sửa đổi: “a) Trang bị, phương tiện thực hiện theo quy định tại Phụ lục III, ban hành kèm theo Quyết định này”.

2. Cấp dưới trực tiếp có thể nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạoĐây là nội dung đáng chú ý tại Quy định 89-QĐ/TW của Bộ Chính trị ban hành

ngày 04/8/2017 về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Theo đó, cấp dưới trực tiếp là một trong các chủ thể có thẩm quyền tham gia nhận xét, đánh giá cán bộ; cụ thể, quy trình đánh giá như sau:

- Bước 1: Cán bộ tự kiểm điểm, nhận mức xếp loại.- Bước 2: Nhận xét, đánh giá cán bộ.+ Cấp trên trực tiếp nhận xét, đánh giá.+ Tập thể đồng cấp nhận xét, đánh giá.+ Cấp dưới trực tiếp nhận xét, đánh giá (nếu cần).- Bước 3: Xem xét, quyết định đánh giá và xếp loại cán bộ: Cấp có thẩm quyền

quản lý cán bộ quyết định nội dung đánh giá; bỏ phiếu kín xếp loại; công khai kết quả.

- Bước 4: Hoàn chỉnh và lưu hồ sơ cán bộ: Cơ quan tổ chức của cấp ủy có thẩm quyền, hoàn chỉnh và lưu giữ hồ sơ đánh giá cán bộ.

3. Cán bộ xã nghỉ việc được tăng trợ cấp hàng tháng từ 01/7/2017Thông tư 04/2017/TT-BNV hướng dẫn điều chỉnh mức trợ cấp hàng tháng đối

với cán bộ xã đã nghỉ việc theo Quyết định 130-CP năm 1975 và Quyết định 111-HĐBT năm 1981.

Theo đó, mức trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã già yếu đã nghỉ việc thuộc đối tượng nêu trên sẽ được điều chỉnh tăng thêm 7,44% từ ngày 01/7/2017 theo công thức tính:

Mức hưởng từ ngày 01/7/2017 = Mức trợ cấp được hưởng tháng 6/2017 x 1,0744Cụ thể, mức trợ cấp hàng tháng (đã làm tròn) như sau:- Đối với cán bộ nguyên là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã: 1.846.000 đồng/

tháng;- Đối với cán bộ nguyên là Phó Bí thư, Phó Chủ tịch, Thường trực Đảng ủy,

Ủy viên thư ký UBND, Thư ký HĐND xã, Xã đội trưởng, Trưởng công an xã: 1.786.000 đồng/tháng;

- Đối với các chức danh còn lại: 1.653.000 đồng/tháng.Thông tư 04/2017/TT-BNV thay thế Thông tư 01/2015/TT-BNV ngày 13/02/2015.4. Đơn giản hóa TThC khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtĐây là nội dung nổi bật tại Nghị quyết 79/NQ-CP về việc đơn giản hóa TTHC

thuộc phạm vi quản lý của BTN&MT.Theo đó, đơn giản hóa TTHC về đất đai nhóm các lĩnh vực:

52 Thông Tin sinh hoạT chi bộ

- Đăng ký QSDĐ lần đầu;- Cấp GCN QSDĐ, QSH nhà và tài sản gắn liền với đất cho người đã đăng ký

QSDĐ lần đầu;- Đăng ký, cấp GCN QSDĐ, QSH nhà và tài sản gắn liền với đất lần đầu;- Đăng ký, cấp GCN QSDĐ, QSH nhà và tài sản gắn liền với đất lần đầu mà chủ

sở hữu không đồng thời là người sử dụng;- Đăng ký bổ sung tài sản vào GCN đã cấp;- Đăng ký đất đai lần đầu trường hợp được giao đất để quản lý;- Đăng ký, cấp GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất cho

người nhận chuyển nhượng trong dự án phát triển nhà ở.Cụ thể, mẫu đơn và tờ khai tại Thông tư 24/2014/TT-BTNMT sẽ thay đổi:- Mẫu 04a/ĐK: Thay thế cụm từ “số CMND” và “số chứng minh nhân dân” đổi

thành “số định danh cá nhân”;- Mẫu 04b/ĐK: thay thế cụm từ “ghi thông tin về CMND” bằng “số định danh

cá nhân”.Nghị quyết 79/NQ-CP có hiệu lực từ ngày 18/8/2017.5. bổ sung đối tượng phải lập hồ sơ đưa đi cai nghiện bắt buộcNgày 18/8/2017, Chính phủ ban hành Nghị định 97/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.

Theo đó, bổ sung thêm đối tượng phải lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cụ thể:

- Người đang tham gia chương trình cai nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng;

- Người đang tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.

Như vậy, người đang tham gia các chương trình cai nghiện ma túy tại cộng đồng không còn nằm ngoài phạm vi đối tượng bị lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bên cạnh đó, Nghị định còn ban hành 55 mẫu biên bản và mẫu quyết định được sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính thay thế các mẫu trong Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013.

Nghị định 97/2017/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 05/10/2017./.Thành Đạt (tổng hợp)