27
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 HÀ NỘI - 2017

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 62 22 03 02

HÀ NỘI - 2017

Page 2: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

Công trình được hoàn thành tại:

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh HoànGS. TS NGUYỄN VĂN BÍCH

Phản biện 1: ...................................................................

...................................................................

Phản biện 2: ...................................................................

...................................................................

Phản biện 3: ...................................................................

...................................................................

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện

họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Vào hồi 17 giờ 00 ngày 08 tháng 11 năm 2

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia

và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Page 3: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

1

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Lịch sử loài người là lịch sử các nền văn minh, văn hoá gắn liền với lịch

sử hình thành và phát triển con người (PTCN). Khái niệm PTCN đã được sử dụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một thuật ngữ thông dụng. Hơn 150 năm trước, khi khẳng định tiến trình lịch sử của loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã nói tới sự phát triển toàn diện con người là thước đo chung cho sự phát triển kinh tế xã hội. Phấn đấu vì sự nghiệp PTCN đã trở thành mục tiêu chung của các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Vấn đề ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội và PTCN thường được nhiều quốc gia ưu tiên hàng đầu khi hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế không phải quốc gia nào cũng làm được điều này. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra những cơ hội to lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã hội. Trên thế giới, người ta cũng đã đề cập nhiều đến sự phát triển không đồng đều giữa kinh tế và xã hội, giữa các vùng, khu vực, sự gia tăng của nạn nghèo khổ trong nhiều dân tộc, quốc gia, sự xa cách giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân v.v.. Một điều có thể khẳng định là, sự chênh lệch lớn giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền đã làm mất cơ hội phát triển của nhiều nhóm người, nhiều cộng đồng và chính điều này là nguyên nhân sâu xa của những vấn đề xã hội và sẽ làm tăng thêm gánh nặng của quốc gia, cộng đồng trong tương lai. Do đó, PTCN bền vững luôn đi liền với CBXH.

Ở Việt Nam, xuyên suốt lịch sử, con người luôn hiện ra như một giá trị nhân văn cao cả nhất. PTCN toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt trong mọi chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Để có thể PTCN toàn diện, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều hướng tới chăm lo đến tất cả các mặt liên quan đến đời sống con người: từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần; từ vấn đề kinh tế đến vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ sở công bằng, bình đẳng. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta không những đề ra nội dung, phương thức thực hiện CBXH hội trên các mặt của đời sống xã hội, mà còn chỉ ra những điều kiện để thực hiện CBXH: thực hiện tiến bộ và CBXH ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế.

Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan góp phần quan trọng vào PTCN Việt Nam toàn diện,

Page 4: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

2

đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, sự chênh lệch về PTCN giữa các địa phương, dân tộc, tầng lớp xã hội, vấn đề đói nghèo, việc làm, v.v.. đang là một thách thức cho PTCN bền vững ở nước ta hiện nay. Để đạt được sự PTCN bền vững cần phải có sự phân bổ công bằng giá trị do tăng trưởng mang lại, tạo cơ hội cho nhóm người thiệt thòi vươn lên. Muốn vậy, Nhà nước phải có những chính sách xã hội phù hợp, phải tạo dựng được bộ máy và các nguyên tắc làm việc minh bạch, làm công cụ để quản lý, tổ chức việc thực hiện CBXH. Cùng với đó, sự tham gia của người dân vào việc ban hành các quyết định và giám sát việc thực thi các quyết định đó là một đảm bảo cho chính sách PTCN được thực thi vì lợi ích người dân, hướng vào nhu cầu của người dân.

Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết trên đây, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học của mình.

2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN

2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò

của thực hiện CBXH đối với việc PTCN, luận án phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt CBXH nhằm PTCN ở Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ của luận án - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về CBXH, thực hiện CBXH,

PTCN và vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN. - Phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành

tựu và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam từ đổi mới đến nay.

- Đề xuất các giải pháp giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN ở nước ta hiện nay. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở

Việt Nam dưới góc độ triết học. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở

Việt Nam thời kỳ đổi mới. 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Cở sở lý luận Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH,

Page 5: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

3

CBXH; đồng thời, luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử - lôgic, so sánh, phân tích - tổng hợp v.v.. để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.

5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

- Luận án đã tiếp cận khái niệm CBXH, thực hiện CBXH dưới góc độ PTCN, chỉ ra và làm rõ những nội dung của thực hiện CBXH với việc PTCN. - Luận án đã đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCNi ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH vì mục tiêu PTCN ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN

Luận án có giá trị tham khảo đối với việc nghiên cứu lý luận về CBXH, thực hiện CBXH và PTCN ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập triết học và các ngành khoa học xã hội nhân văn. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể giúp người làm công tác quản lý xã hội xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo thực hiện CBXH, PTCN.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 13 tiết.

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN

CHUNG VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội

Trên thế giới, vấn đề CBXH được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu,

trong đó phải kể đến các tác phẩm tiêu biểu: Bàn về khế ước xã hội của J.J

Rousseau, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2006; Principles of social

justic của David Miller, Principles of social just, Harvard University press

xuất bản năm 2009; The idea of justice của Amartya Sen, Harvard University

press, xuất bản năm 2009; Báo cáo phát triển thế giới 2006: Công bằng và

phát triển của Ngân hàng Thế, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, năm 2005

Page 6: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

4

v.v.. Về cơ bản, các nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải cơ sở xã hội, cơ

sở nhận thức của con người về CBXH; những vấn đề đặt ra trong quá trình

thực hiện CBXH trong thời đại ngày nay. Đồng thời, cũng tùy thuộc vào bối

cảnh xã hội của mỗi quốc gia mà các nghiên cứu này gợi ý những phương án

thực thi CBXH cụ thể.

* Các công trình nghiên cứu trong nước

Xung quanh khái niệm CBXH, có các công trình tiêu biểu: Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội do tác giả Lương Việt Hải làm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2008; Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội do các tác giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich Dornberg làm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2008; Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay do Phạm Thị Ngọc Trầm chủ biên Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2009; Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội của tác giả Nguyễn Minh Hoàn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2009 v.v.. Các công trình đã cho chúng ta thấy được những quan niệm khác nhau về CBXH trong lịch sử triết học Đông và phương Tây cũng như các quan niệm hiện đại về CBXH, đặc trưng, bản chất và nội dung của CBXH.

Có nhiều công trình nghiên cứu về thực hiện CBXH, tuy nhiên, phần lớn các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc thực hiện CBXH, còn vấn đề lý luận thực hiện CBXH gần như chưa có công trình nào đề cập đến.

Các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về công CBXH và thực hiện CBXH phong phú, được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều thống nhất ở quan điểm coi CBXH là một giá trị định hướng con người sinh sống và phát triển, thực hiện CBXH là mục tiêu của các nhà nước dân chủ và tiến bộ. Thực hiện CBXH được thể hiện tập trung ở hai nội dung chính là đảm bảo công bằng trong phân phối và công bằng về cơ hội.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về phát triển con người và thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người

Xung quanh vấn đề PTCN ở nước ta hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu: cuốn sách Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen do Hồ Sĩ Quý làm chủ biên, Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2003; Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người Việt Nam toàn diện của tác giả Nguyễn Hữu Công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010; tác giả Phạm Minh Hạc với ba cuốn sách tiêu biểu: Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1996; Nghiên cứu con người và

Page 7: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

5

nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001, Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu PTCN theo quan điểm mácxít trong những năm gần đây xuất hiện cách tiếp cận mới theo phương pháp lượng hóa PTCN, trong đó phải kể đến: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001 - Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001; Phát triển con người Việt Nam năm 2011, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2011; Báo cáo Phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm - Tăng trưởng vì mọi người của UNDP, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2015.

Có thể thấy, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTCN rất phong phú, đa dạng, tiếp cận dưới nhiều góc độ. PTCN bị quy định bởi nhiều yếu tố trong đó có CBXH. Các nghiên cứu bước đầu đã chỉ ra được vai trò của việc thực hiện CBXH đối với việc PTCN.

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay phải kể đến cuốn sách Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội do các tác giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich Dornberg làm chủ biên với các báo cáo: “Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp” - tác giả Đỗ Huy; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” - tác giả Lê Hữu Tầng; “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - tác giả Nguyễn Duy Quý; “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - tác giả Phạm Xuân Nam; cuốn sách Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội do tác giả Lương Việt Hải làm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2008; cuốn sách Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay do Phạm Thị Ngọc Trầm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2009; Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội của tác giả Nguyễn Minh Hoàn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2009; v.v..

Thông qua những phân tích của các nhà nghiên cứu có thể thấy, thực hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trình độ dân trí, sức khỏe của người dân cũng được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại không ít hiện tượng bất công, bất bình đẳng cản trở sự PTCN. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá chung chung hoặc đi vào một khía

Page 8: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

6

cạnh của thực trạng thực hiện CBXH tác động đến sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Chưa có công trình nào đi sâu phân tích thực trạng thực hiện CBXH tác động đến việc PTCN Việt Nam hiện nay.

1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Để phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay cần đưa ra một hệ thống các giải pháp đồng bộ. Ở mức độ nhất định, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã đưa ra những giải pháp cơ bản.

Những giải pháp mà các tác giả đưa ra rất phong phú mà tác giả luận án

có thể tiếp thu. Có thể khái quát lại thành những nhóm giải pháp chủ yếu: hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và thực thi đầy

đủ các chính sách xã hội, nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện

CBXH, tích cực phòng chống tham nhũng. Các tác giả tùy theo góc độ nghiên

cứu của mình tập trung nhấn mạnh vào một vài nhóm giải pháp hoặc mới chỉ

nêu tên các nhóm giải pháp. Điều này đòi hỏi tác giả luận án cần tiếp tục đi sâu

nghiên cứu và làm rõ. 1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

Các công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề PTCN và thực hiện CBXH có

thể nói là đa dạng. Những kết quả to lớn về mặt khoa học mà các công trình

nghiên cứu trên đã đạt được là những tài liệu tham khảo bổ ích cho những nghiên

cứu tiếp theo của chúng tôi. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về con

người và PTCN, vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN được các tác giả đề

cập đến rất ít, có thể nói là không đáng kể. Còn trong các công trình nghiên cứu về

CBXH và thực hiện CBXH, các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu dưới góc độ

kinh tế, tiến bộ xã hội, một số công trình đề cập đến thực hiện CBXH trong công

tác chăm sóc sức khỏe, trong giáo dục. Cho đến nay, theo chúng tôi được biết thì

chưa có công trình nghiên cứu nào thuộc chuyên ngành triết học nghiên cứu dưới

góc độ vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN. Đây là hướng nghiên cứu mới

đòi hỏi phải có sự đi sâu, tìm tòi, phân tích.

Trên cơ sở kế thừa kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước đó, duới góc

độ triết học, luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau:

Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về CBXH, thực hiện CBXH, PTCN, vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN.

Thứ hai, làm rõ thực trạng vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN ở Việt Nam hiện nay. Tìm ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.

Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN ở Việt Nam trong thời gian tới.

Page 9: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

7

Chương 2 THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN

CON NGƯỜI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

2.1. CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI

2.1.1. Quan điểm của triết học Mác về công bằng xã hội Xem xét từng thời kỳ khác nhau trong lịch sử của xã hội loài người,

triết học Mác coi CBXH là một phạm trù có lịch sử và có tính giai cấp. Triết

học Mác đã chỉ ra, ai nắm quyền sở hữu TLSX chủ yếu của xã hội thì là

người quyết định việc phân phối sản phẩm, đồng thời là giai cấp thống trị xã

hội. Nhà nước tư bản tuyên bố công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật,

nhưng trên thực tế, giai cấp tư sản chi phối sản xuất, phân phối sản phẩm xã

hội thì cũng chi phối phối pháp luật và các quan hệ xã hội chủ yếu khác. Để

xây dựng một xã hội công bằng thực sự, phải làm cho mọi người bình đẳng

trong quan hệ sở hữu, tức phải làm cho mọi người phải ngang bằng về địa vị

trong quan hệ đối với TLSX. Đó chính là xuất phát điểm bình đẳng làm cơ sở

để thực hiện được công bằng thực sự trong xã hội. Trong CNXH, CBXH là

làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Mặc dù vậy, triết học Mác cũng đã

chỉ rõ rằng, trong điều kiện của CNXH, sự phân phối công bằng đó chẳng

những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một

tình trạng “bất bình đẳng” nhất định giữa các thành viên trong xã hội, tức vẫn

chưa có CBXH hoàn toàn. CBXH thật sự sẽ đạt được khi xã hội bước vào

giai đoạn cao - giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Nguyên tắc phân phối: “làm

theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Lúc này, CBXH đồng nhất với bình

đẳng xã hội, còn bình đẳng ở đây đạt tới trình độ bình đẳng hoàn toàn, con

người được hoàn toàn giải phóng, được hoàn toàn tự do phát triển toàn diện

những năng lực bản chất của mình.

2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về công bằng xã hội * Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội Quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH rất phong phú, thể hiện trên tất

cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị; văn hóa - xã hội... Để

thực hiện CBXH hội, theo Người, phải xử lý thật tốt mối quan hệ giữa chính

sách phát triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội, phải tính đến điều

kiện đặc thù của nước ta là nền kinh tế kém phát triển, phải trải qua những

cuộc chiến tranh kéo dài nên ngoài những vấn đề chung phải có trọng tâm,

Page 10: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

8

chú ý đến các đối tượng chính sách, các vùng dân tộc miền núi, vùng căn cứ

cách mạng, coi trọng xóa đói giảm nghèo…, chú trọng đến lợi ích cá nhân.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH luôn gắn liền với vấn đề con

người. Mọi suy nghĩ và hành động của Người đều toát lên tư tưởng chủ đạo

coi con người là trung tâm của sự phát triển, mọi chính sách phát triển kinh tế

- xã hội của Đảng và Nhà nước đều phải vì con người, cho con người. Thực

hiện CBXH chính là giải quyết mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ,

giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thành viên trong xã hội; là việc tạo ra

điều kiện cho mỗi người có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển của xã

hội và hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, là đảm bảo quyền tự do

của mỗi người trong quan hệ gắn bó với cộng đồng. Tư tưởng của Người về

vấn đề này là một trong những đóng góp quan trọng cho sự phát triển lý luận

của CNXH nói chung, lý luận về CBXH nói riêng.

* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội Quan điểm của Đảng ta về CBXH hội có thể khái quát ở những điểm

cơ bản sau: Một là, Đảng ta xác định CBXH là một trong những đặc trưng cơ

bản của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, là cơ sở cho sự PTCN; Hai

là, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với CBXH; Ba là, về nội dung của thực

hiện CBXH, thể hiện ở 2 nội dung chính: phân phối công bằng và tạo điều

kiện cho mọi người có cơ hội để phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình;

Bốn là, điều kiện để thực hiện CBXH: xây dựng và phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN, cùng với đó tăng cường hiệu lực quản lý của nhà

nước trên các mặt giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, văn hóa...

2.1.3. Một số quan điểm hiện đại về công bằng xã hội Trên thế giới ngày nay, công bằng hơn bao giờ hết đang trở nên là điều

kiện tối cần thiết để con người được tự do, hạnh phúc. Trong điều kiện đó,

nhiều lý thuyết mới về CBXH đã ra đời, phản ánh những biến đổi trong nhận

thức về CBXH. Theo J.Rawls, một thể chế xã hội được coi là công bằng khi

các cá nhân tự nguyện tham gia vào hợp tác xã hội cho dù có sự khác biệt

bẩm sinh và địa vị xã hội trong cơ chế hợp tác xã hội chung. Còn theo Iris M.

Young, muốn thực hiện CBXH thì phải phân phối công bằng, bên cạnh việc

phân chia mọi nguồn của cải vật chất, còn phải phân chia cả quyền tự chủ

cho mỗi cá nhân, thực hiện phân công lao động và văn hóa. UNDP cho rằng,

nội dung bao trùm của CBXH là công bằng về cơ hội phát triển.

Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu về CBXH, dưới các góc

độ triết học, kinh tế học, chính trị học, luật học… Tùy theo góc độ nghiên

cứu, các tác giả đưa ra quan niệm của mình về CBXH. Phổ biến hiện nay là

Page 11: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

9

cách luận giải khi tập trung vào quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực

phân phối sản phẩm xã hội, tập trung ở nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống

hiến) ngang nhau thì sẽ được hưởng quyền lợi (hưởng thụ) ngang nhau.

2.1.4. Khái niệm công bằng xã hội, thực hiện công bằng xã hội

2.1.4.1. Khái niệm công bằng xã hội Đứng trên lập trường duy vật của học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí

Minh về CBXH, đồng thời tiếp thu những giá trị trong quan niệm của các

nhà nghiên cứu đi trước và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới

góc độ tiếp cận vai trò CBXH đối với việc PTCN, theo chúng tôi, công bằng

xã hội là một giá trị nhằm định hướng cho sự phát triển con người được hình

thành trên cơ sở của bình đẳng giữa những con người về nghĩa vụ và quyền

lợi, về cống hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và

điều kiện phát triển… trên mọi phương diện của đời sống xã hội, phù hợp với

điều kiện hiện thực của xã hội.

Từ những phân tích ở trên CBXH gồm những đặc trưng sau:

Thứ nhất, CBXH là một giá trị nhằm xác lập mối quan hệ giữa người

với người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc tương

xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa phẩm

chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển.

Thứ hai, CBXH là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể.

Thứ ba, CBXH là một trường hợp riêng của bình đẳng xã hội.

Công bằng xã hội có 2 nội dung chính: công bằng trong phân phối và

công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển.

2.1.4.2. Khái niệm thực hiện công bằng xã hội Thực hiện CBXH là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống

chính trị, các lực lượng, tổ chức xã hội và người dân theo chức năng, vị trí,

vai trò của mình làm cho những nội dung của công bằng xã hội trở thành

hiện thực trong đời sống xã hội.

Xét trong phạm vi một quốc gia, chủ thể thực hiện CBXH gồm: đảng

cầm quyền, nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các lực

lượng, tổ chức xã hội, người dân ở quốc gia đó. Ngoài ra, còn các tổ chức phi

chính phủ, các tổ chức hoạt động nhân đạo, từ thiện... hỗ trợ, tham gia thực

hiện CBXH. Tùy theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong xã

hội, từng tổ chức sẽ tiến hành các hoạt động cụ thể để các nội dung của

CBXH thành hiện thực trong đời sống xã hội.

Việc thực hiện CBXH do nhiều nhân tố tác động, trong đó phụ thuộc

chặt chẽ vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất (thông qua trình độ

Page 12: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

10

phát triển kinh tế), vào chế độ chính trị, vào các giá trị văn hóa truyền thống

của dân tộc và tính chất của thời đại. 2.2. PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

2.2.1. Quan niệm của triết học Mác về phát triển con người Triết học Mác ra đời thực sự là bước ngoặt cách mạng trong quan niệm

về con người, đặc biệt là những luận điểm về giải phóng và PTCN. Với luận

điểm coi con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử; con người là

động lực và cũng là mục đích của sự phát triển xã hội, con người đã bằng

hoạt động thực tiễn cách mạng của chính mình để phát triển bản thân mình

và thông qua đó làm cho xã hội phát triển. PTCN là giải phóng con người

khỏi mọi sự tha hóa, khỏi sự phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của

chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó, con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự

tự do và năng lực làm chủ xã hội của mình. Để con người được phát triển

toàn diện cần xây dựng một xã hội công bằng - xã hội xã hội chủ nghĩa và

cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng về giải phóng con người, về PTCN của các

nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta cơ sở phương pháp

luận trong việc xem xét, đánh giá các quan điểm hiện đại về PTCN, cũng như

xem xét, đánh giá các vấn đề thực tiễn của PTCN trong giai đoạn hiện nay.

2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về phát triển con người Lý luận của chủ nghĩa Mác về PTCN đã được Hồ Chí Minh tiếp thu,

vận dụng sáng tạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với quan niệm con

người là một thực thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố, sự kết hợp chặt chẽ

giữa nhiều yếu tố, các mặt, Hồ Chí Minh cho rằng, muốn PTCN thì phải xây

dựng và phát triển các bộ phận cấu thành nên chỉnh thể đó: thể lực, trí lực và

tâm lực. Theo Hồ Chí Minh, muốn PTCN toàn diện cả về thể lực, trí lực và

tâm lực, thì nhất thiết phải tạo lập được các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội vững chắc phù hợp. Hồ Chí Minh coi thực hiện CBXH là một động

lực rất quan trọng để PTCN. Chỉ sống trong một xã hội công bằng thực sự

con người mới có được cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh

đã chỉ ra nội dung thực hiện CBXH trên những lĩnh vực: kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội; cũng như cách thức để thực hiện CBXH.

Vận dụng đúng đắn và sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênnin, kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh về CBXH, suốt những năm lãnh

đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, con người là vốn

quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao

nhất của chế độ ta. Con người được coi là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là

Page 13: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

11

mục tiêu của sự phát triển và xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn

diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Tiếp thu những

yếu tố tích cực trong quan điểm về PTCN trên thế giới, đặc biệt là quan niệm

của Liên hợp quốc về bộ tiêu chí đánh giá sự PTCN, nội dung cụ thể của con

người Việt Nam phát triển toàn diện ngày càng được chỉ ra rõ ràng hơn cả về

mặt định tính và về mặt định lượng, cả mục tiêu chung cũng như các mục

tiêu cụ thể. Để có thể PTCN toàn diện, phải chăm lo đến tất cả các mặt liên

quan đến đời sống con người: từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần; từ

vấn đề kinh tế đến vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ sở công bằng,

bình đẳng và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng góp phần mở

rộng cơ hội và nâng cao điều kiện cho con người phát triển.

2.2.3. Quan điểm hiện đại về phát triển con người Có thể nói, thuật ngữ “phát triển con người” chính thức được biết đến và

sử dụng rộng rãi kể từ năm 1990 khi Báo cáo đầu tiên về phát PTCN của

UNDP ra đời. Theo quan điểm của Chương trình này, PTCN có hai chiều cạnh

quan trọng là: mở rộng quyền tự do lựa chọn và nâng cao năng lực của con

người. Quan điểm của UNDP về PTCN đã được lượng hóa bằng các chỉ số HDI

với ba chỉ số quan trọng: thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ và giáo dục.

Đây là ba chỉ số đặc trưng cho các phương diện cơ bản của con người.

Từ toàn bộ quan điểm của triết học Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan

điểm hiện đại về PTCN có thể hiểu, phát triển con người là kết quả vận động

và phát triển xã hội bị quy định bởi tổng hòa các quan hệ xã hội, trong đó cốt

lõi là các quan hệ xã hội công bằng làm định hướng chung của các giá trị của

xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa của các xã hội cụ thể.

Trên cơ sở đó, hội tụ đầy đủ các điều kiện để con người trở thành chủ thể toàn

vẹn trong chỉnh thể phong phú của năng lực thể chất và năng lực tinh thần, đáp

ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội hiện đại.

Như vậy, PTCN là sự gia tăng các giá trị trong con người trên cả ba

mặt: thể lực, trí lực và tâm lực. Sự PTCN không chỉ đơn thuần là sự phát

triển tự thân mà còn chịu tác động của nhiều nhân tố, có những nhân tố trực

tiếp, có những nhân tố tiếp, có những nhân tố bên trong, có những nhân tố

bên ngoài, có những nhân tố của quá khứ, cũng có nhân tố của thực tại.

Trong đó kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là những thành tố cơ bản tác động

trực tiếp đến sự PTCN. PTCN không phải chỉ là sự phát triển các mặt của cá

nhân con người, mà là sự phát triển các mặt đó ở những tầng lớp người, cộng

đồng người, những lứa tuổi, những giới tính người. Do đó, thực hiện CBXH

là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu để đảm bảo cho mọi người

Page 14: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

12

dân của của quốc gia đó đều có cơ hội và điều kiện để phát triển, cũng như

được được hưởng thụ những thành quả của quá trình phát triển đất nước. 2.3. VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT

TRIỂN CON NGƯỜI

Thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay được hiểu là

những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống chính trị, các lực lượng, tổ

chức xã hội và người dân Việt Nam theo chức năng, vị trí, vai trò của mình

làm cho những nội dung của công bằng xã hội trở thành hiện thực trong đời

sống xã hội chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, từ

đó tạo động lực, cơ hội và điều kiện cho sự phát triển con người, đáp ứng

yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội hiện đại. Cụ thể:

2.3.1. Thực hiện công bằng xã hội đảm bảo điều kiện kinh tế cho sự

phát triển con người Thực chất của CBXH là giải quyết trên phương diện lợi ích. Thực hiện

CBXH đảm bảo sự thống nhất lợi ích giữa các thành viên trong xã hội theo

nguyên tắc phân phối lợi ích phù hợp giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến

và hưởng thụ, giữa thưởng và phạt... Thực hiện CBXH đảm bảo mỗi cố gắng,

mỗi đóng góp đều được đánh giá một cách thỏa đáng, đảm bảo sự hài hòa

giữa những lợi ích cá nhân và cộng đồng. Khi lợi ích của người lao động

được đảm bảo sẽ kích thích tính năng động, sáng tạo của họ. Có CBXH,

người lao động mới phát huy hết nhiệt tình và khả năng lao động, không

ngừng nâng cao năng suất lao động để tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có

chất lượng cao, thúc đẩy kinh tế phát triển. Kinh tế phát triển góp phần nâng

cao đời sống của người lao động (đời sống vật chất và lẫn đời sống tinh

thần). Mặt khác, để nâng cao năng suất, người lao động không ngừng suy

nghĩ, tìm tòi, tích cực học tập nâng cao tay nghề, kỹ năng. Thông quá đó, bản

thân người lao động cũng không ngừng phát triển. Do đó, để phát huy được

vai trò động lực của CBXH trước hết đòi hỏi phải đảm bảo thực hiện CBXH

trong phân phối.

Đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất (tư liệu sản xuất): đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, sự hỗ trợ từ chính sách..., thực hiện công bằng trong phân phối có nghĩa cần căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội. Việc phân phối công bằng kết quả sản xuất phụ thuộc vào quan hệ sản xuất. Xét trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có 3 hình thức phân phối cơ bản: phân phối theo lao động, phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản vào sản xuất, phân phối thông qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, trong đó, phân phối theo lao động vẫn luôn được xác định là nguyên tắc phân phối chủ đạo.

Page 15: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

13

2.3.2. Thực hiện công bằng xã hội tạo cơ hội và điều kiện cho sự phát triển con người về thể lực, tâm lực và trí lực

Phát triển con người là sự gia tăng các giá trị trong con người trên các mặt: thể lực, trí lực và tâm lực. Mỗi con người sinh ra đều có những khả năng và năng lực nhất định, nhưng nó thường tồn tại dưới dạng tiềm năng. PTCN có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người để con người có thể làm việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất; là hướng vào việc tạo ra cho con người có cơ hội tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội). Để biến điều đó thành hiện thực cần phải có những điều kiện cần thiết về tự nhiên, xã hội, đặc biệt là các nhân tố thuộc về xã hội. CBXH liên quan đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thực hiện CBXH tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội tiếp cận với các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của mình để có thể phát huy khả năng vốn có của mình cống hiến cho xã hội và nhận được kết quả tương xứng với những cống hiến ấy.

2.3.3. Thực hiện công bằng xã hội tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định cho sự phát triển con người

CBXH là nguyên tắc và đòi hỏi tối quan trọng trong việc xác lập mối

quan hệ giữa công dân với nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân

trong đời sống chính trị - xã hội cũng như các quyền tự do cơ bản của công

dân. Chỉ sống trong một xã hội công bằng con người mới bộc lộ hết được

chính mình, mới có thể tự do phát biểu ý kiến, tự do sáng tạo, tự do tham gia

thảo luận, quyết định những vấn đề chung của tập thể và có thể đảm bảo các

quyền và cơ hội phát triển của mỗi cá nhân trong tập thể, cộng đồng và xã

hội. Thông qua đó, với tư cách là chủ thể của mọi hành động, con người

không ngừng hoàn thiện và phát triển bản thân. Đồng thời, thực hiện CBXH

là đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, mọi công dân bình đẳng

trước pháp luật. Nhà nước phải tạo điều kiện để mọi công dân được tham gia

vào các công việc của nhà nước theo quy định của hiến pháp và pháp luật;

được kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền và các công

chức nhà nước theo quy định.... Với ý nghĩa đó, thực hiện CBXH tạo môi

trường để con người thoải mái cống hiến, tự do sáng tạo và phát triển.

Chương 3

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON

NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ 3.1. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI

VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Page 16: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

14

3.1.1. Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực phân phối đảm bảo

điều kiện kinh tế cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay

3.1.1.1. Thực hiện công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất thúc

đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân Trong bối cảnh nước ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định

hướng XHCN, thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng TLSX có ý nghĩa

vô cùng quan trọng. Bởi vì, nó đảm bảo cho mỗi người dân lao động chân

chính có những TLSX tối thiểu, làm chủ chúng, trên cơ sở đó tự tạo ra việc

làm và phát huy tốt mọi khả năng lao động của bản thân mình. Sự điều tiết

phân phối công bằng, hợp lý TLSX trong những năm qua đã góp phần thúc

đẩy sản xuất, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân đặc biệt

vùng nông thôn, miền núi. Nhân dân ở những vùng này được hưởng những

thành quả của quá trình phát triển kinh tế, kết cấu hạ tầng được nâng cấp và

xây dựng mới; thị trường hàng hóa được hình thành thay thế dần nền kinh tế

tự cung, tự cấp. Các dịch vụ xã hội thiết yếu như y tế, giáo dục, nước sạch,

vệ sinh môi trường đã được cải thiện, từng bước rút ngắn sự chênh lệch về

đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân giữa các vùng, miền. Việc thực

hiện công bằng trong phân phối TLSX còn góp phần quan trọng trong việc

ổn định xã hội. Bởi nó tạo ra sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể kinh tế, các

nhóm xã hội, từ đó tạo dựng được lòng tin của các chủ thể kinh tế vào Nhà

nước và chế độ xã hội. Xã hội ổn định là cơ sở để PTCN.

3.1.1.2. Thực hiện công bằng trong phân phối sản phẩm đảm bảo lợi ích vật chất cho người lao động, phát triển kinh tế

Ở nước ta hiện nay, các chính sách phân phối thường xuyên được cải cách cho phù hợp với tính chất của nền kinh tế mới. Có thể kể một số thay đổi quan trọng về chủ trương và chính sách phân phối như sau: chính sách tiền lương luôn được điều chỉnh nhằm đảm bảo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động; chính sách thuế góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo công bằng xã hội; phân phối theo mức đóng góp vốn đã khuyến khích được nhiều cá nhân và chủ thể sản xuất, kinh doanh bỏ vốn, tài sản để tham gia đầu tư, mở rộng, phát triển sản xuất; phân phối qua an sinh xã hội đã được hoàn chỉnh, dần góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống của các tầng lớp dân cư.

Thực tiễn 30 năm đổi mới của nước ta cho thấy, chính việc thực hiện các nguyên tắc phân phối ngày càng công bằng đã có tác động trực tiếp đến PTCN. Thực hiện công bằng trong phân phối đảm bảo lợi ích của người lao động. Khi lợi ích được đảm bảo sẽ kích thích tính tích cực lao động trong mỗi người, không ngừng suy nghĩ tìm tòi, học tập để nâng cao năng suất lao

Page 17: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

15

động, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo nên bước tăng trưởng đáng kể của nền kinh tế. Thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta trong những năm vừa qua là rất đáng tự hào. Nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm. Những thành tựu đạt được trong tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất để PTCN Việt Nam ngày càng đáp ứng yêu cầu của đổi mới.

Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam không ngừng được cải thiện. Cùng với việc thu nhập gia tăng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao. Với những kết quả thu được từ tăng trưởng kinh tế, ngân sách đầu tư cho các lĩnh vực xã hội y tế, giáo dục, văn hóa cũng tăng lên góp phần phát triển con người trên các mặt: thể lực, trí lực và tâm lực.

3.1.2. Thực hiện công bằng xã hội đảm bảo cho sự phát triển con người về trí lực, thể lực và tâm lực

3.1.2.1. Thực hiện công bằng trong giáo dục góp phần phát triển trí lực con người Việt Nam

Thực hiện CBXH trong giáo dục được Đảng ta đặc biệt coi trọng. Chủ trương thực hiện công bằng trong giáo dục được quán triệt trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội, trong Hiến pháp cũng như Luật Giáo dục. Cùng với sự phát của triển của kinh tế trong những năm qua, chúng ta không ngừng tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo. Nhờ vậy, quy mô, hình thức giáo dục, đào tạo không ngừng được mở rộng, tạo cho mọi người dân có cơ hội được học tập, nâng cao trình độ. Chúng ta đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo với các loại hình trường, lớp, từng bước hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Trên cơ sở tạo sự bình đẳng về cơ hội học tập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tạo nhiều cơ hội khác nhau phù hợp cho mọi người dân đều được học tập, phát huy năng lực, sở trường của mình. Cùng với đó, Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Đối với những người có năng khiếu Nhà nước tạo điều kiện để họ phát triển tài năng.

Với những nội dung như trên, thực hiện CBXH trong giáo dục tạo cơ hội và điều kiện cho sự PTCN về mặt trí lực. Trình độ dân trí của người Việt Nam được nâng lên đáng kể, óc sáng tạo, kỹ năng ứng xử và chỉ số thông minh cũng được nâng cao; trình độ của người lao động được nâng lên nhanh chóng về cả số và chất lượng. Phản ánh những thành tựu phát triển trí lực của con người Việt Nam theo chỉ số HDI, có thể thấy, chỉ số giáo dục trong HDI của Việt Nam không ngừng tăng lên.

3.1.2.2. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe góp phần phát triển thể lực con người Việt Nam

Page 18: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

16

Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống cung ứng dịch vụ y tế khá hoàn chỉnh với mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp giúp người dân dễ dàng tiếp cận và thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe. Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em ngày càng được chú ý. Bảo hiểm y tế đang đóng vai trò tích cực giúp tăng khả năng tiếp cận của người dân với các dịch vụ y tế. Thực hiện CBXH trong lĩnh vực y tế ở nước ta thời gian qua đã đảm bảo cho mọi người dân có quyền được chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận với nguồn lực của xã hội đầu tư vào lĩnh vực y tế. Nhờ đó, thể lực con người Việt Nam trong những năm gần đây đã được nâng cao.

3.1.2.3. Thực hiện công bằng trong văn hóa, thông tin góp phần phát triển tâm lực con người Việt Nam

Trong những năm qua, truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về số lượng, quy mô lẫn chất lượng. Nhờ đó, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền được rút ngắn, cơ hội lựa chọn và tiếp cận thông tin của người dân được mở rộng, góp phần nâng cao tri thức, ý thức chính trị, pháp luật, tâm hồn con người cũng phong phú hơn. Công tác phát triển văn hóa ở địa phương cũng được đầu tư nhiều hơn. Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua dành nhiều sự quan tâm phát triển văn hóa cho các đối tượng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo... Trong lĩnh vực sáng tác, các tài năng văn hóa nghệ thuật được khuyến khích phát triển.

Những thay đổi trong đời sống văn hóa, tinh thần theo hướng ngày càng tốt đẹp hơn hướng con người vào các giá trị, chuẩn mực chân, thiện, mỹ trong đời sống hàng ngày để mỗi người sống tốt hơn, tin tưởng hơn, yêu thương nhau hơn. Người dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH; thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới của Đảng đề ra là đúng đắn, theo kịp trào lưu của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân: tất cả vì sự phát triển toàn diện của con người.

Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện CBXH ở nước ta thời kỳ đổi mới đã kích thích được tính tích cực, chủ động trong mỗi con người, đã mang lại các cơ hội phát triển cho đông đảo quần chúng nhân dân, đã tạo ra như điều kiện tốt nhất có thể để con người Việt Nam phát huy hết khả năng của mình và phát triển toàn diện cho mọi cá nhân cả về thể lực, trí lực lẫn tâm lực. Điều này được biểu hiện bằng sự cải thiện đáng kể trong chỉ số PTCN.

3.1.3. Thực hiện công bằng xã hội tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay

Thực hiện CBXH đã tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho người dân tham dự vào đời sống chính trị của đất nước. Người dân được tham gia vào công việc chung của cộng đồng, họ được nói tiếng nói của mình, đề đạt nguyện vọng của mình để đảm bảo lợi ích của mình. Những vấn đề về quyền lợi của người dân được giải quyết tạo ra bầu không khí cởi mở, thẳng thắn,

Page 19: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

17

có sự đồng thuận cao, góp phần nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, ổn định xã hội. Đây là cơ sở, nền tảng cho sự thúc đẩy phát triển kinh tế, mở ra cơ hội, nâng cao năng lực và tiếp cận với các nguồn lực xã hội. Đồng thời, làm cho con người năng động hơn, phát huy được tính tích cực, chủ động trong các hoạt động, nâng cao năng lực cá nhân.

3.1.4. Nguyên nhân của những thành tựu Thứ nhất, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực

đổi mới trong tư duy lý luận về CBXH, thực hiện CBXH và PTCN. Thứ hai, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã

đạt được những thành tựu cơ bản tạo tiền đề quan trọng đảm bảo thực hiện có hiệu quả CBXH ở nước ta.

Thứ ba, truyền thống dân tộc là một trong những nhân tố có tác động không nhỏ tới việc thực hiện CBXH.

3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Sự bất cập của thực hiện công bằng xã hội trong phân phối dẫn đến cản trở sự phát triển con người

3.2.1.1. Sự bất cập của việc thực hiện công bằng xã hội trong phân phối tư liệu sản xuất hạn chế việc phát huy vai trò chủ thể của người lao động

Nhiều năm qua chúng ta đã cố gắng ban hành và thực thi nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phát huy năng lực sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Trong việc tiếp cận TLSX vẫn còn phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân hoạt động rất hiệu quả, đem lại nhiều lợi ích cho đất nước lại bị phân biệt đối xử, chịu nhiều rào cản. Các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được hưởng nhiều ưu đãi về phương diện tiếp cận nguồn lực, nhưng hiệu quả và sự đóng góp cho nền kinh tế lại rất hạn chế và đang trên đà đi xuống. Không công bằng trong phân phối TLSX còn thể hiện ở chỗ, trong quá trình phân phối, chúng ta chưa kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Nhân dân ở nhiều nơi đã di dời nhường đất canh tác cho các dự án lớn nhưng họ vẫn chưa hoặc chậm nhận được hưởng thành quả do dự án đó đem lại. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp gây bức xúc cho người dân... Nếu chúng ta không giải quyết tốt những vấn đề này sẽ gây ra những bất ổn trong xã hội: tệ nạn xã hội gia tăng, người dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước, môi trường tự nhiên ô nhiễm. Tất cả điều này đã và đang cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và PTCN Việt Nam nói riêng.

3.2.1.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập hạn chế việc phát triển con người Việt Nam hiện nay

Quá trình triển khai thực hiện công bằng trong phân phối ở nước ta trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, chưa giải quyết hài hòa vấn đề lợi ích, chưa trở

Page 20: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

18

thành phương thức đem lại hiệu quả cao trong việc thực hiện CBXHs. Điều này được phản ánh rõ nhất qua chính sách tiền lương. Tiền lương chưa phản ánh đúng giá trị sức lao động, còn nhiều bất cập. Tình trạng không công bằng còn thể hiện ở sự chênh lệch quá mức về thu nhập giữa các khu vực, các thành phần, các ngành kinh tế; sự bất bình đẳng về thu nhập, mức sống giữa những người có cùng trình độ, cùng năng lực làm việc, nhưng làm việc ở những thành phần kinh tế khác nhau. Khi chúng ta thực hiện CBXH với các hình thức phân phối, sự phân hóa trong thu nhập ngày càng gia tăng giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân cư. Đi liền với sự phân hóa về thu nhập là sự phân hóa về cơ hội phát triển.

3.2.1.3. Những hiện tượng làm giàu bất chính dẫn đến bất công đang cản trở sự phát triển con người Việt Nam

Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng, trở nên phổ biến. Nó xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình phân phối và bóp méo kết quả phân phối ở nước ta. Tham nhũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, thất thoát, lãng phí tài sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Bên cạnh đó, tình trạng làm giàu bất chính thông qua các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, làm ăn phi pháp, trốn thuế... vẫn còn tồn tại khá phổ biến làm gia tăng bất công xã hội.

Trên phương diện PTCN, tham nhũng, làm giàu bất chính xét đến cùng

là sự đánh đổi bằng việc đã lấy đi lợi ích, lấy mất cơ hội phát triển của người

lương thiện. Hơn nữa hệ quả của nó còn làm giảm niềm tin của người dân

vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, là nguy cơ làm suy thoái về chính

trị, tư tưởng, một trong những tác nhân của sự xuống cấp về đạo đức, văn

hóa và suy thoái về lối sống, cản trở sự PTCN bền vững.

3.2.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội cản trở sự phát

triển năng lực con người Việt Nam

3.2.2.1. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội trong giáo dục, đào tạo làm hạn chế sự phát triển trí lực con người Việt Nam

Ở nước ta hiện nay, những bất bình đẳng về cơ hội giáo dục đang cản trở sự phát triển trí lực con người Việt Nam. Độ bao phủ của dịch vụ giáo dục giảm dần từ tiểu học đến đại học. Điều này dẫn đến tỷ trọng lực lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp. Sự hạn chế về giáo dục, đào tạo cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ hội tìm việc làm có thu nhập tốt. Sự chênh lệch về chất lượng giáo dục còn thể hiện ở sự chênh lệch lớn về lao động được đào tạo giữa các vùng, các địa phương, giữa nông thôn và thành thị. Khi người lao động được đào tạo, có kỹ năng, đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập thì thu nhập của họ được nâng cao, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và PTCN nói riêng.

Page 21: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

19

Bên cạnh đó, những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ cản trở việc thực hiện công bằng trong giáo dục, đào tạo. Đầu tư cho giáo dục, đào tạo còn dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm. Xu thế thương mại hóa giáo dục, đào tạo và bằng cấp đang tiếp tục làm suy giảm chất lượng giáo dục, đào tạo. Do những yếu kém, bất cập nên sự phát triển của giáo dục còn chưa tương xứng với sự PTCN, chưa thực sự tạo cơ hội và điều kiện cho sự phát triển trí lực của con người.

3.2.2.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội trong y tế làm hạn chế sự phát triển thể lực con người Việt Nam

Thực hiện CBXH trong y tế ở nước ta mặc dù đạt được những tiến bộ nhất định, góp phần nâng nâng cao thể lực con người Việt Nam. Tuy nhiên, tình trạng bất công bằng trong y tế vẫn lớn thể hiện ở việc: phân bổ nguồn lực và tài chính cho y tế còn nhiều bất hợp lý; bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế; tỷ lệ chi tiền túi hộ gia đình cho y tế vẫn cao so với thu nhập. Vấn đề công bằng trong y tế ở nước ta đang bị đánh giá khá thấp. Theo đánh giá của tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2009, Việt Nam được xếp thứ 183 trong tổng số 194 quốc gia về công bằng trong y tế. Tình trạng bất công bằng về y tế ở nước ta biểu hiện rõ nhất ở sự bất công bằng giữa các vùng miền, giữa các khu vực cư trú, giữa các nhóm tuổi, giữa nhóm giàu và nhóm nghèo ... về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe. Điều này đã dẫn đến sự khác biệt trong tình trạng sức khỏe người dân giữa các nhóm kinh tế, xã hội, vùng miền, dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo phát triển con người của thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, chỉ số tuổi thọ ở nước ta đang có xu hướng tăng chậm do nhiều yếu tố, trong đó có sự bất công bằng về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe. Đây là thách thức rất lớn đối với việc PTCN khi Việt Nam đang nỗ lực giảm bớt khoảng cách giữa các vùng và các nhóm thu nhập hướng tới mục tiêu PTCN bền vững.

3.2.2.3. Công bằng về cơ hội trong tiếp cận thông tin, văn hóa còn nhiều bất cập làm hạn chế sự phát triển tâm lực của con người Việt Nam

Hiện nay, việc tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành viên trong xã hội được tiếp cận, hưởng thụ các giá trị văn hóa vẫn chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn. Sự phân hóa trong thu nhập giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân cư đã kéo theo sự phân hóa trong đời sống văn hóa. Các nhóm xã hội có thu nhập, trình độ học vấn khác nhau có nhu cầu hưởng thụ văn hóa, lối sống, định hướng giá khác nhau, hình thành các nhóm văn hóa trung lưu, văn hóa người giàu, văn hóa người nghèo. Sự phân hóa về văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến PTCN, khiến cơ hội và điều kiện để nâng cao năng lực của con người rất khác nhau. Đời sống văn hóa nghèo nàn, cơ hội tiếp cận thông tin hạn chế kéo theo sự nghèo nàn về tâm hồn, trí tuệ. Do không có điều kiện tiếp cận thông tin, tri thức nên những

Page 22: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

20

nhóm này thường khó vươn lên làm giàu. Đây cũng là nhóm dễ bị các phần tử xấu, các phần tử phản động lôi kéo, kích động gây mất ổn định xã hội.

3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế Thứ nhất, những khó khăn, phức tạp của việc thực hiện công bằng xã

hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, sự thiếu đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội,

cùng với những hạn chế trong việc triển khai, tổ chức thực hiện chính sách

đã gây khó khăn cho việc thực hiện công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển

con người.

Thứ ba, hạn chế về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước

đã làm giảm vai trò của việc thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển

con người.

Thứ tư, hạn chế trong nhận thức về công bằng xã hội đã và đang làm

giảm vai trò của việc thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người.

Chương 4 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON

NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÔNG BẰNG XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Ở nước ta hiện nay, thể chế kinh tế thị trường vẫn là một trong những điểm nghẽn cản trở sự phát triển, làm gia tăng tình trạng phân hóa giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và hàng loạt các tiêu cực xã hội nảy sinh như: tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng… gây ra tình trạng mất CBXH, cản trở sự PTCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cần phải thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục xóa bỏ triệt để hơn nữa cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về tiếp cận các nguồn lực phát triển và thành quả phát triển.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chế độ sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trên cơ sở tạo điều kiện và cơ hội phát triển cho mỗi cá nhân

Thứ ba, phát triển đồng bộ các loại thị trường, hình thành đầy đủ các yếu tố của kinh tế thị trường trên cơ sở tạo điều kiện và cơ hội cho mỗi cá nhân phát triển

Page 23: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

21

4.2. HOÀN THIỆN VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN TỐT CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI CHO PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế đảm bảo thực hiện công bằng xã hội cho phát triển con người

Các chính sách kinh tế của chúng ta được xây dựng sao cho phải vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo CBXH. Trên cơ sở đặc điểm, vị trí của từng vùng, miền, cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội một cách hợp lý, hiệu quả. Cần tăng cường các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích tư nhân và các thành phần kinh tế khác tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng. Tiếp tục cải cách chính sách thuế nhằm điều tiết thu nhập hợp lý. Thực hiện ưu đãi hơn nữa về thuế với đầu tư, phát triển, với những vùng khó khăn. Cần tiếp tục điều chỉnh, đổi mới chính sách phân phối thu nhập trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, chú trọng phân phối theo đóng góp về vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống chính xã hội đảm bảo thực hiện công bằng xã hội cho phát triển con người

Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần hoàn thiện các chính sách xã hội. Cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch tổng thể về tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển bền vững; ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hóa trong hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động; tăng quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm và sử dụng có hiệu quả quỹ đó. Chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Chính sách giáo dục, đào tạo cần được xây dựng và hoàn thiện theo hướng: tạo điều kiện cho mọi người, mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, học suốt đời; tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ đào tạo cho mọi tầng lớp dân cư. Tiếp tục hoàn thiện chính sách y tế, chính sách văn hóa.

Thứ ba, tổ chức triển khai và thực hiện chính sách Các cấp, các ngành cần tăng cường những biện pháp phổ biến chính

sách trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thường xuyên tổ chức tập huấn cho cán bộ cấp dưới và cán bộ cấp cơ sở để thực hiện đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mỗi bộ, mỗi ngành cần xây dựng chương trình hành động, chương trình mang tính dài hạn và có các chương trình kế hoạch ngắn hạn đi kèm. Đề cao trách nhiệm thực hiện của các tổ chức, các nhân có trách nhiệm, có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh nhằm tạo động lực cho toàn xã hội thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Tăng cường các cơ chế nhằm huy động nguồn lực và sức mạnh của các tổ chức ngoài nhà nước, doanh nghiệp và người dân để cùng thực hiện các mục

Page 24: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

22

tiêu chung: Xây dựng một xã hội công bằng, con người được phát triển toàn diện. Có cơ chế theo dõi, giám sát việc thực hiện chính sách, tiếp thu ý kiến phản hồi từ người dân và thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm. Cùng với đó là trách nhiệm và việc làm của các doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng lao động, các cơ quan chuyên trách.

4.3. NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Thứ nhất, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện công bằng xã hội cho phát triển con người

Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội trong việc thực hiện CBXH đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, tạo khung lý luận cơ bản để tiếp tục thực hiện tốt công bằng xã hội trong điều kiện và tình hình mới. Để có cơ sở phát triển lý luận về công bằng, thì ngoài tổng kết thực tiễn, còn phải nghiên cứu bài học thực hiện CBXH của những nước có điều kiện phát triển tương tự với Việt Nam. Đồng thời, còn phải nghiên cứu những quan điểm về thực hiện công bằng trên thế giới đang được ứng dụng vào đời sống xã hội hiện nay. Trên cơ sở những chủ trương, quan điểm, đường lối về thực hiện CBXH, Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa thành các thể chế, pháp luật, các chính sách về CBXH và tổ chức thực hiện các chính sách đó trong hiện thực. Đảng phải nghiêm túc phê và tự phê, đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả việc phòng chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên.

Thứ hai, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển con người

Để nâng hơn nữa vai trò của Nhà nước trong thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi cần: hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện CBXH, PTCN; tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức, bộ máy và phương thức hoạt động của Nhà nước làm cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện CBXH, PTCN; phát huy vai trò của Nhà nước đối với việc mở rộng và phát huy dân chủ làm cơ sở đảm bảo thực hiện mục tiêu CBXH.

Thứ ba, phát huy vai trò của các tổ chức kinh tế - xã hội trong thực hiện công bằng xã hội, phát triển con người.

Để đảm bảo thực hiện CBXH thì Đảng và Nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng, đó chính là sự lãnh đạo, định hướng, quản lý và điều tiết. Tuy nhiên, thực hiện CBXH còn phụ thuộc vào sự hợp tác phối kết hợp nhịp nhàng của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, cá nhân và sự đồng thuận của toàn xã hội. Các tổ chức thông qua các hình thức như: tài trợ, đóng góp kinh phí để hỗ trợ cho các gia đình chính sách gặp khó khăn, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người già cả neo đơn không nơi nương tựa, trẻ mồ côi cơ nhỡ, người lầm đường lạc lối... giúp họ có điều kiện hòa nhập cộng đồng và có điều kiện phát triển kinh tế. Hỗ trợ các vùng đặc biệt khó khăn, thiên

Page 25: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

23

tai lũ lụt… Đây là những việc làm tình nghĩa hết sức cao đẹp, vừa mang tính truyền thống dân tộc, vừa góp phần tích cực vào việc xóa bỏ bất công, thực hiện CBXH mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Đảng và Nhà nước cần phối hợp với các tổ chức này nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước thực hiện CBXH.

4.4. NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI CHO PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Để nâng cao nhận thức của người dân về CBXH cần phải thông qua nhiều biện pháp. Trước hết, cần hoàn chỉnh quan niệm về CBXH để không nhầm lẫn với bình đẳng xã hội, bình quân, cào bằng. Chúng ta cần phải có kế hoạch, nội dung, chương trình, thông qua giáo dục chính quy bằng cách lồng ghép trong các giáo trình về kinh tế, luật, chính trị, đạo đức, văn hóa... Cùng với đó, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở về vai trò của CBXH. Ngoài ra, cần phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc góp phần giáo dục ý thức của người dân về thực hiện CBXH.

KẾT LUẬN

Lịch sử nhân loại là lịch sử PTCN. Trong quá trình đó, ước mơ có một cuộc sống tự do, công bằng, dồi dào về vật chất, phong phú về tinh thần, không ngừng được nâng cao về tri thức của mỗi người luôn được ấp ủ và theo đuổi qua mọi thế hệ, thời đại. Tuy nhiên, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, khi theo đuổi mục đích đó, trọng tâm và mục tiêu phát triển lại không hoàn toàn như nhau. Phải mãi đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, vấn đề giải phóng con người khỏi xã hội có áp bức, bất công, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện mới được đặt ra như một yêu cầu tất yếu của hiện thực. Thực hiện CBXH đã trở thành mục tiêu hướng tới của mọi xã hội muốn phát triển ổn định và bền vững.

Đối với nước ta, CBXH là khát vọng của toàn dân, là yêu cầu cấp bách trong chiến lược xây dựng và PTCN Việt Nam hiện nay. Thông qua thực hiện CBXH, mà cụ thể là thực hiện công bằng trong phân phối, sẽ làm cho mọi thành viên tham gia vào các quan hệ lợi ích thấy mình được tôn trọng, được đền bù hợp lý, từ đó kích thích họ tự cống hiến hơn nữa để góp phần tích cực vào sự phát triển bản thân cũng như phát triển xã hội. Thực hiện CBXH trong y tế, giáo dục, văn hóa tạo cơ hội cho mọi người dân tiếp cận bình đẳng với các điều kiện phát triển, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người, tạo điều kiện để mọi người đều có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình. Thông qua việc đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, thực hiện CBXH tạo môi trường để con người thoải mái cống hiến, tự do sáng tạo và phát triển.

Page 26: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

24

Thực tiễn 30 năm đổi mới đã ghi nhận vai trò to lớn của thực hiện

CBXH với việc PTCN ở nước ta thông qua những thành tựu mà chúng ta thu

được trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng

trưởng khá cao, môi trường chính trị ổn định, giáo dục, y tế, văn hóa thông

tin phát triển... đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận tầng lớp nhân

dân được cải thiện, góp phần PTCN Việt Nam cả về thể lực, trí lực và tâm

lực. Bên cạnh những thành tự đã đạt được, chúng ta còn đang đương đầu với

hàng loạt khó khăn, thách thức trong quá trình phát huy vai trò của thực hiện

CBXH đối với việc PTCN: phối TLSX vẫn còn nhiều bất hợp lý, gây bức

xúc cho các chủ thể kinh tế; nguyên tắc đảm bảo công bằng trong phân phối

thu nhập vẫn chưa được thực hiện đầy đủ, chưa phát huy được tính tích cực

của người lao động; những biểu hiện làm giàu bất chính có xu hướng tăng

gây bất ổn về chính trị - xã hội; bất công trong giáo dục, y tế, văn hóa đang

làm hạn chế sự PTCN trên tát cả các mặt: thể lực, trí lực và tâm lực.

Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra, thực hiện CBXH là vấn đề lớn, phức tạp,

đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, toàn diện. Để phát huy hơn nữa vai

trò của thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay cần triển khai

thực hiện hàng loại các giải pháp. Trước hết, cần tiếp tục thể hoàn thiện chế

kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN mọi chủ thể kinh tế được tự do lựa chọn quy mô, lĩnh vực sản

xuất, kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình; mọi chủ thể kinh tế đều có

cơ hội nắm bắt lựa chọn thông tin, nguồn lực phát triển và phương thức hoạt

động sản xuất, kinh doanh một cách thuận lợi nhất. Ở nước hiện nay, các

chính sách kinh tế và chính sách xã hội bên cạnh sự thống nhất cũng nảy sinh

không ít mâu thuẫn cản trở quá trình thực hiện CBXH, tác động tiêu cực đến

sự PTCN. Do đó, tăng cường đổi mới và hoàn thiện hệ thống các chính sách

kinh tế, chính sách xã hội là một trong những yêu cầu nhằm thực hiện

CBXH, PTCN. Một giải pháp không kém phần quan trọng là nâng cao vai trò

của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước và các tổ chức kinh tế - xã hội trong

việc thực hiện CBXH, PTCN. Cuối cùng là nâng cao nhận thức của người

dân về thực hiện CBXH. Khi mọi người đều có hiểu biết đúng đắn về CBXH

họ sẽ tự giác phấn đấu để đạt được CBXH bằng chính sức lực và tài năng của

mình. Những giải pháp này có tính định hướng trong việc tạo dựng một xã

hội công bằng, bình đẳng, ở đó con người được phát huy quyền làm chủ,

luôn sáng tạo, luôn cống hiến cao nhất năng lực của mình vì sự phát triển của

bản thân cũng như sự phát triển của xã hội.

Page 27: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/TT _ Thuy _Tieng Viet.pdfdụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Bùi Thị Phương Thùy (2011), “Văn kiện Đại hội XI với vấn đề phát triển con người”,

Tạp chí phát triển nhân lực, (5). 2. Bùi Thị Phương Thùy (2012), “Những yếu tố cơ bản ánh hưởng đến việc thực hiện

mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay”, trong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa với bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, Lê Quốc Lý, Nguyễn

Thị Nga và Phạm Anh Hùng (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Bùi Thị Phương Thùy (2012), “Chiến lược phát triển con người trong Văn kiện Đại

hội XI”, trong Một số vấn đề triết học trong các Văn kiện của Đảng, Nguyễn Hùng Hậu, Trần Văn Phòng (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Bùi Thị Phương Thùy (Chủ nhiệm) (2012), Giáo dục, đào tạo với việc phát triển con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

5. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ đổi

mới”, Tạp chí Mặt trận, (115). 6. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh

toàn cầu hóa và kinh tế tri thức”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (198). 7. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân và

phát triển con người Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận, (116). 8. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Giáo dục, đào tạo với việc phát triển con người Việt

Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí phát triển nhân lực, (3). 9. Bùi Thị Phương Thùy, Lô Quốc Toản (2013), “Vấn đề bản chất con người trong tác

phẩm “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người” của Trần Đức Thảo”, Tạp chí Triết học, (8).

10. Bùi Thị Phương Thùy (2014), “Công bằng xã hội cho người phụ nữ trong đời sống và tư tưởng Việt Nam truyền thống”, Thông tin Những vấn đề triết học và đời sống, (3).

11. Trần Văn Phòng, Bùi Thị Phương Thùy (2014), “Vấn đề bản chất con người trong quan niệm của Trần Đức Thảo”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.

12. Bùi Thị Phương Thùy (2015), “Bàn về khái niệm phát triển con người”, Tạp chí Triết

học, (10). 13. Bùi Thị Phương Thùy (2015), “Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng

xã hội”, Thông tin Những vấn đề triết học và đời sống, (4). 14. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở nước ta -

thành tựu và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, (2). 15. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe

ở Việt Nam hiện nay - Thành tựu và hạn chế”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (5). 16. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất

ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (7).