Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NORKEO KOMMADAM
THùC HIÖN PH¸P LUËT
VÒ §ÇU T¦ N¦íC NGOµI ë N¦íC CéNG HßA
D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NORKEO KOMMADAM
THùC HIÖN PH¸P LUËT
VÒ §ÇU T¦ N¦íC NGOµI ë N¦íC CéNG HßA
D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ : 62 38 01 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Đức Thảo
HÀ NỘI - 2016
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
NORKEO KOMMADAM
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 6
1.1. Tình hình nghiên cứu ở Lào 6
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 15
1.3. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu 24
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 26
2.1. Khái niệm và nội dung điều chỉnh pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào 26
2.2. Khái niệm, hình thức, vai trò thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài 35
2.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào 43
Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 55
3.1. Sự hình thành phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào 55
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào 66
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY 96
4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở
Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào hiện nay. 96
4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay 108
KẾT LUẬN 134
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 137
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
PHỤ LỤC
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do các nước Đông Nam Á
ASEAN : Tổ chức các nước Đông Nam Á
CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
CTN : Chủ tịch nước
DN : Doanh nghiệp
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
QH : Quốc hội
TTG : Thủ tướng
USD : Đồng đô la Mỹ
VPTTCP : Văn phòng Thủ tướng Chính phủ
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tổng kết dự án đầu tư trong nước và nước ngoài đã cho .............. 82
Bảng 3.2: Cân đối nguồn vốn theo phương án phát triển cơ bản................... 86
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu
đang diễn ra mạnh mẽ. Điều này đã làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở
thành một chỉnh thể thống nhất, đòi hỏi các quốc gia mở cửa nền kinh tế, tham
gia một cách tích cực vào các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Để phù hợp với xu
hướng đó, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) đã và đang
có những hoạt động tích cực tham gia vào quá trình thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài là một trong những chính sách hàng đầu của Đảng NDCM Lào và
Nhà nước Lào. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không những để giải
quyết tình trạng khan hiếm vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội mà còn để
tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Trong những năm qua, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp cho đất nước nhiều thành tựu
kinh tế - xã hội quan trọng, thực hiện các mục tiêu Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
Trong bèi c¶nh kinh tÕ thÕ giíi ngµy nay, héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ lµ con ®êng
lùa chän tÊt yÕu ®Ó ®¶m b¶o cho sù ph¸t triÓn bÒn v÷ng l©u dµi cho mét quèc
gia. Sau h¬n 30 n¨m thùc hiÖn chÝnh s¸ch ®æi míi, nÒn kinh tÕ cña níc
CHDCND Lµo ®· chuyÓn ®æi sang nÒn kinh tÕ thÞ trêng vµ ®· tõng bíc ph¸t
triÓn. Mét sè ngµnh cã c¸c mÆt hµng cã chç ®øng v÷ng ch¾c trªn thÞ trêng
trong níc vµ níc ngoµi nh: ®iÖn, vµng, ®ång, cµ phª, dÖt may, bia, s¶n phÈm
gç, dÞch vô viÔn th«ng, ng©n hµng vµ hµng thñ c«ng mü nghÖ... C¸c doanh
nghiÖp (DN) Lµo ®· tõng bíc ph¸t triÓn, trëng thµnh vµ b¾t ®Çu kh¼ng ®Þnh vÞ
thÕ cña m×nh trªn thÞ trêng thÕ giíi vµ khu vùc ë mét sè lÜnh vùc. Tuy nhiªn,
trong ®iÒu kiÖn tham gia céng ®ång kinh tÕ ASEAN kÓ tõ n¨m 2015 vµ tiÕn
tr×nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ ngµy cµng s©u réng, c¹nh tranh ph¸t triÓn ngµy
cµng trë nªn gay g¾t. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhà nước
Lào trước hết phải tạo ra cơ sở pháp lý đa dang và phủ hợp với điều kiện mới.
2
Riêng trong lĩnh vực đầu tư từ năm 1987 đến nay. Thể chế hóa đường lối
chính sách của Đảng NDCM Lào, Chính phủ Lào đã ban hành các chính sách
khuyến khích đầu tư trong đó quy định các cá nhân, tổ chức không chỉ là nhà
đầu tư trong nước mà còn là các nhà đầu tư ĐTNN có quyền đầu tư tại
CHDCND Lào trên nguyên tắc các bên cùng có lợi, hoạt động trên cơ sở của
pháp luật CHDCND Lào, nhà đầu tư sẽ được bảo vệ bởi pháp luật của
CHDCND Lào. Sau đó, Luật ĐTNN đầu tiên của CHDCND Lào được ban
hành ngày 19/4/1988, đã được thay thế bằng Luật Khuyến khích và quản lý
ĐTNN được Quốc hội thông qua ngày 14/3/1994, có hiệu lực tháng 6/1994
(sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài của CHDCND Lào) Luật này chỉ
điều chỉnh hoạt động ĐTNN. Năm 2009 Quốc hội Lào đó thông qua Luật
khuyến khích đầu tư mới. Luật khuyến khích đầu tư quy định nguyên tắc thủ
tục và biện pháp về khuyến khích, quản lý đầu tư trong và ngoài nước để hoạt
động đầu tư được thuận lợi, nhanh chóng, chính xác, nhận được sự bảo hộ của
Nhà nước, đảm bảo quyền và lợi ích của nhà đầu tư, Nhà nước và nhân dân
nhằm tăng cường chất lượng và vai trò đầu tư, góp phần quan trọng trong
việc gìn giữ bảo vệ và phát triển vững chắc đất nước; ngày 8 tháng 7 năm
2009 đã được sửa đổi bổ sung thêm, năm 2011 tại kỳ họp của Quốc hội
CHDCND Cách mạng Lào lần thứ VIII đã sửa đổi cuối cùng gọi chung là
pháp luật khuyến khích đầu tư của nước CHDCND Lào. Những văn bản
pháp luật trên đây bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng thu hút được
sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài vào Lào trong những năm qua.
Hàng năm lượng vốn đầu tư nước ngoài thường năm sau cao hơn năm
trước. Tuy vậy, thực tiễn đầu tư nước ngoài trong những năm qua cho thấy
mặc dù Luật đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư những kết quả thu hút nguồn vốn của nước ngoài vào Lào còn rất hạn
chế. Điều đó do nhiều nguyên nhân trong đó đáng chú ý là việc thực hiện
3
pháp luật này còn nhiều hạn chế bất cập. Đó là các chủ thể thực hiện pháp
luật đầu tư cũng chưa hiểu hết các pháp luật đầu tư nước ngoài của Lào;
công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đầu tư nước ngoài thiếu
tính thường xuyên liên tục... Từ đó, dẫn đến có một số chủ thể tuân thủ,
chấp hành không nghiêm, một số chủ thể khác sử dụng pháp luật trong thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình chưa có hiệu quả, các cá nhân, cơ
quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật đôi lúc còn mang tính chủ quan...
tác động không nhỏ đến thu hút của nhà đầu tư nước ngoài vào Lào trong
thời gian qua... nhằm khắc phục những bất cập nêu trên đòi hỏi cần có sự
nghiên cứu toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận mà thực tiễn vấn đề
thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài vào CHDCND Lào.
Xuất phát từ những lý do trên NCS chọn đề tài: "Thực hiện pháp
luật về đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào" để nghiên
cứu và viết luận án Tiến sĩ Luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về
ĐTNN ở nước CHDCND Lào, Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp
bảo đảm thực hiện pháp luật về ĐTNN ở nước CHDCND Lào hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích trên luận án có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về ĐTNN ở
nước CHDCND Lào.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về ĐTNN và thực hiện
pháp luật đầu tư ở nước CHDCND Lào, trên cơ sở đó chỉ ra được những ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này.
- Luận chứng cơ sở khoa học đề xuất các giải pháp bảo đảm thực
hiện pháp luật về ĐTNN ở nước CHDCND Lào hiện nay.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật
ĐTNN ở nước CHDCND Lào, dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu thực hiện pháp luật về ĐTNN ở nước
CHDCND Lào, có tham khảo giá trị một số nước trên thế giới, tập trung là
Việt Nam.
- Thời gian chủ yếu từ khi nhà nước CHDCND Lào ban hành luật
ĐTNN năm 1986 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu để phân tích và lý giải các nội dung liên quan đến đề
tài luận án. Cụ thể các phương pháp này bao gồm:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được dùng chủ yếu để phân tích cơ
sở lý luận về thực hiện pháp luật về ĐTNN ở CHDCND Lào ở chương 2 luận
án. Đồng thời ở mức độ nhất định phương pháp này cũng được sử dụng để
phân tích quá trình hình thành phát triển pháp luật đầu tư và thực trạng thực
hiện pháp luật đầu tư ở nước CHDCND Lào ở chương 3 luận án; và phân tích
luận chứng khoa học của các giải pháp ở chương 4 luận án.
- Phương pháp lịch sử cụ thể được sử dụng chủ yếu ở chương 3 luận án
để phân tích đánh giá quá trình hình thành và phát triển pháp luật ĐTNN.
Đồng thời ở mức độ nhất định phương pháp này được sử dụng để phân tích
một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật ĐTNN ở CHDCND Lào.
- Phương pháp so sánh - thống kê được dùng chủ yếu ở chương 3 - đánh
giá thực trạng thực hiện pháp luật ĐTNN từ năm 1986 đến năm 2015, từ đó chỉ
5
ra được ưu điểm và hạn chế của thực trạng. Phương pháp này cũng được sử
dụng để nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện pháp luật đầu tư của một số nước
trên thế giới, từ đó chỉ ra được những giá trị tham khảo cho CHDCND Lào.
5. Đóng góp khoa học mới của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện
hệ thống thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài như nước CHDCND Lào như
vậy có một số đóng góp khoa học mới sau:
- Phân tích và đưa ra được khái niệm và chỉ ra được vai trò, điều kiện
đảm bảo thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài của nước CHDCND Lào.
- Luận án chỉ ra được thành tựu và hạn chế thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài ở CHDCND Lào.
- Luận án đề xuất hệ thống các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
đầu tư nước ngoài ở CHDCND Lào hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về phương diện lý luận luận án, góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận
và thực tiễn của thực hiện pháp luật về ĐTNN ở CHDCND Lào, luận giải căn
cứ khoa học, căn cứ đề xuất về quan điểm và giải pháp thực hiện pháp luật
ĐTNN của nước CHDCND Lào hiện nay.
- Về phương diện thực tiến luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong việc nghiên cứu hệ thống pháp luật thực hiện vê ĐTNN cũng như là
pháp luật đầu tư của Lào hiện nay, trong công tác xây dựng pháp luật về đầu tư,
trong quản lý hoạt động ĐTNN hay trong công tác giảng dạy các môn khoa học
pháp lý như Luật kinh tế, Lý luận Nhà nước và pháp luật, Luật so sánh, Luật
thương mại...
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở LÀO
Vấn đề pháp luật đầu tư nói chung và thực hiện pháp luật đầu tư trong
nước và ngoài nước nói riêng đã được các cơ quan và các nhà khoa học
CHDCND Lào quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có một số công trình nghiên
cứu đã được công bố liên quan đến đề tài luận án. Các công trình đó được thể
hiện qua các nhóm vấn đề sau:
1.1.1. Nhóm công trình liên quan đến đầu tư và pháp luật đầu tư
Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
Sengphet Bulom:“Pháp luật về hình thức đầu tư Việt Nam trong sự so
sánh với pháp luật đầu tư CHDCND Lào” [91] . Đưa ra được khái niệm pháp
luật và pháp luật đầu tư, đồng thời so sánh pháp luật về các hình thức đầu tư
của Việt Nam và pháp luật CHDCND Lào. Luận văn nghiên cứu đưa ra được
khái niệm pháp luật về hình thức đầu tư. Qua sự so sánh pháp luật về hình
thức đầu tư của Việt Nam với pháp luật của CHDCND Lào, luận văn rút ra
được một số bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về đầu tư của CHDCND Lào.
Phonepaseuth Mahanousith:“Hoàn thiện pháp luật về khuyến khích đầu
tư nhằm hình thành và phát triển các khu công nghiệp ở nước CHDCND Lào”
[87]. Luận văn đã nghiên cứu và khái quát được quan điểm của Đảng NDCM
Lào và chính sách, pháp luật của Nhà nước Lào về vai trò của các khu công
nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Lào thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đồng thời nêu lên được nội dung điều chỉnh; quá trình
hình thành và phát triển của pháp luật về khuyến khích đầu tư.
Phutsady Phănnhaxít:“Pháp luật về khuyến khích đầu tư ở nước CHDCND
Lào - thực trạng và phương hướng hoàn thiện [90]. Luận văn nghiên cứu về
7
pháp luật khuyến khích đầu tư nước trong nước và pháp luật khuyến khích đầu
tư nước ngoài là một mốc quan trọng đánh dấu quá trình mở cửa nền kinh tế đa
dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế Luật khuyến khích đầu tư trong
nước của CHDCHD Lào được đánh giá là đạo luật thông thoáng, cởi mở, đảm
bảo an toàn về đầu tư và quyền tự do kinh doanh cho các nhà đầu tư trong nước,
đồng thời bảo đảm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, tuân thủ pháp luật
CHDCND Lào, bình đẳng và cùng có lợi. Hơn nữa trước xu thế toàn cầu hóa
hiện nay thì việc đổi mới pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước của
CHDCND Lào là một công việc xuất phát từ nhu cầu khách quan trong nước và
nhu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Bun thôm Phôm ma vông sy:“Đầu tư Nhà nước vào sự phát triển cơ
sở hạ tầng kiến trúc ở tỉnh Sa La Văn” [59]. Luận văn nghiên cứu về so sánh
pháp luật của hai nước nói chung, pháp luật khuyến khích đầu tư nói riêng là
cần thiết. Một mặt điều đó ghi nhận và khẳng định những thành công, mặt
khác nhận thức và khắc phục những hạn chế, bất cập trong pháp luật của
nhau, bởi không có một hệ thống pháp luật pháp luật nào là hoàn chỉnh, vấn
đề là cần biết điều chỉnh nó phù hợp với thực tế. Việc tìm hiểu các quy định
pháp luật về khuyến khích đầu tư của nhau. Không có một hệ thống pháp
luật nào là hoàn chỉnh, vấn đề là cần hoàn thiện nó một cách thường xuyên.
Việc tìm hiểu các quy định pháp luật về khuyến khích đầu tư của Việt Nam
và Lào không chỉ là học những cái hay mà còn rút ra được kinh nghiệm của
nước bạn, để từ đó áp dụng cho việc xây dựng chính sách và pháp luật
khuyến khích đầu tư tại Lào.
BunTy ĐêtĐaVôngSỏn:“Cải thiện đầu tư của Nhà nước trong khu
vực nông nghiệp” [60]. Luận văn đã nghiên cứu xem xét, phân tích sự thực
trước sau như một về đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp trên
cơ sở phân tích tách bạch chi tiết cụ thể và có hệ thống đầy đủ về lý luận và
8
thực tiễn, đặc biệt là đầu tư của Nhà nước trong giai đoạn vượt qua mà đã
có cụ thể tương đối về vấn đề này. Luận văn này, mặc dù vẫn còn thiếu các
nội dung, chưa đầy đủ, nhưng mà nó có thể trở thành một số tài liệu để
giúp đỡ các ngành có liên quan đến để nghiên cứu học thuyết về củng cố
đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp đáp ứng được một số điều
trong nhiều năm sau, Vì vậy, người nghiên cứu tin tưởng mà luận văn này
đã góp vào một phần về chuyên ngành nông nghiệp của kinh tế quốc gia.
Bởi vì, hiện nay Đảng và Nhà nước đã coi trọng ngành nông nghiệp làm cơ
sở nền tảng kinh tế quốc gia cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Syvanh Leemaitêng:“Các quy định pháp luật về đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam và Lào - Nhìn từ góc độ so sánh” [95]. Luận văn nghiên cứu về các
nước đầu tư tích cực tìm kiếm thị trường mới, hấp dẫn để đầu tư thu lợi
nhuận, còn nước nhận đầu tư cũng tạo mọi điều kiện để thu hút, khuyến khích
đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh đó, giống như Việt Nam, Lào cũng đang
tích cực tham gia vào nền kinh tế thế giới với những nỗ lực trong tất cả các
mặt. Trong đó thu hút, khuyến khích đầu tư nước ngoài là giải pháp quan
trọng giúp Lào có những bước “chuyển mình” nhanh hơn vào nền kinh tế
toàn cầu. Tình hình thực tiễn tại Lào cho thấy, Lào rất cần công nghệ tiên tiến
và nguồn vốn đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển để thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ hai
nước có sự tương đồng về nhiều mặt như chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa...
Hoàn thiện pháp luật về đầu tư và các quy định pháp luật của Lào là phải đặt
trong sự so sánh và kinh nghiệm thực tiễn từ Việt Nam.
Khăm manh Sisath:“Pháp luật đầu tư của Lào trong tương quan so
sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam - Bài học kinh nghiệm hoàn thiện pháp
luật đầu tư của CHDCND Lào” [77]. Luận văn đã nghiên cứu trên cải cách
9
tư pháp của Việt Nam và Lào, một trong những vấn đề quan trọng là việc
xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật của mỗi nước. Việc có sự
tương đồng về nhiều mặt giữa Việt Nam và Lào, tạo điều kiện cho
CHDCND Lào có cái nhìn toàn diện, cũng như những bài học kinh nghiệm
quý báu trong việc hoạch định các chính sách về kinh tế - xã hội, mà việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là nền tảng cho sự phát triển.
Pháp luật đầu tư của Lào đang tạo ra những rào cản vô hình trong việc tạo
môi trường pháp lý lành mạnh và tích cực trong đầu tư kinh doanh. Việc ban
hành một luật đầu tư chung không những thống nhất về đối tượng điều chỉnh
và phạm vi áp dụng mà còn tạo ra sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia đầu
tư. Đây là một xu thế chung về sự thống nhất pháp luật trên cùng một lĩnh
vực của hầu hết các nước trong khu vực, và quan trọng hơn đó là việc đón
đầu những thời cơ trong tương lai của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sengkhamyong Bounnaphone:“Các quy định về khuyến khích đầu tư -
so sánh giữa pháp luật của Việt Nam và của CHDCDN Lào” [91]. Luận văn
nghiên cứu về pháp luật khuyến khích đầu tư của Lào so sánh với các nước
láng giềng nào có mối quan hệ truyền thống lâu đời và có tinh thần hợp tác hữu
nghị khăng khít anh em như Việt Nam - Lào. Hai quốc gia cùng nằm trên bán
đảo Đông Dương, cùng trải qua biết bao thăng trầm lịch sử. Do đó, cần xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật khuyến khích đầu tư vào các ngành, lĩnh
vực, địa bàn quan trọng, mở rộng các biện pháp khuyến khích và mức độ
khuyến khích để nền kinh tế Lào phát triển cả về quy mô lẫn hiệu quả.
Sổm Sắc Sengsắcđa:“Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Chăm pa Sắc
nước CHDCND Lào” [93]. Luận văn nghiên cứu về ĐTNN ở Tỉnh Chăm Pa
Sắc trong nội dung phát triển giai đoạn tiếp theo của Tỉnh Chăm Pa Sắc, với
những mục tiêu kinh tế - xã hội chiến lược cần đạt, vai trò của ĐTNN vẫn
được khẳng định, do đó có một nhiệm vụ nặng nề đặt ra cho các nhà quản lý
10
là: Phải định hướng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại tỉnh Chăm
Pa Sắc thế nào để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút vốn FDI ngày càng gay gắt và ở thời điểm
các nhà ĐTNN tiềm năng đang đánh giá, lựa chọn cơ hội đầu tư tại mỗi tỉnh
thì Chăm Pa Sắc cần phải tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư đáp ứng yêu
cầu của nhà ĐTNN.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến đầu tư nước ngoài
và thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
Luận án tiến sĩ:
KhămLa LoVanXay:“Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai
ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào” [80]. Luận án nghiên cứu về Đất
đai có vai trò vô cùng quan trọng trên mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội của
đời sống con người. Nó là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn, là thành phần quan trọng
của môi trường sống, là địa bàn các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và là thành quả cách mạng của cả dân
tộc. Do đó, QLNN bằng pháp luật đối với đất đai là vấn đề quan trọng luôn
được Đảng và Nhà nước CHDCND Lào quan tâm. Kể lại tư khi thành lập
Đảng NDCM Lào và đã đề ra vấn đề quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối
với đất đai...
Phonesay Vilaysach:“Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào” [88]. Luận án đã nói về đầu tư trực tiếp nước ngoài là
một nguồn vốn quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước.
Nguồn vốn FDI càng quan trọng hơn đối với các quốc gia đang phát triển trong
đó có Lào. Việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI nhằm phục vụ cho mục tiêu
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế hiện nay được các nước trên thế giới
rất quan tâm đặc biệt là các nước trong khu vực. Để thực hiện thành công sự
11
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước Lào đã và
đang quan tâm đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, trong đó có vấn đề thu hút vốn
FDI. Trên thực tế qua các giai đoạn vừa qua FDI vào Lào đã góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế của Lào, giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao
động. Tuy nhiên, việc thu hút FDI vào Lào còn bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn
và thách thức vì vậy cần được khắc phục và hoàn thiện trong thời gian tới.
Luận văn thạc sĩ:
Thặt sa na lon Sỉ su nôn:“Quy tắc khuyến khích và quản lý đầu tư
nước ngoài ở CHDCND Lào trường hợp nghiên cứu việc đầu tư trong công
trình thông thường” [96]. Mục đích của luận văn này là nghiên cứu đến quy
tắc khuyến khích và quản lý đầu tư của nước ngoài ở CHDCND Lào, nghiên
cứu trong trường hợp công trình đầu tư thông thường đã ảnh hưởng về đầu
tư của nước ngoài ở CHDCND Lào, thì đã được nghiên cứu so sánh với hiệp
ước để khuyến khích và quản lý đầu tư của nhóm nước ASEAN ban hành
năm 1987 cùng với quy chế khuyến khích và quản lý đầu tư của nước ngoài
ở nước CHDCND Lào trong thực hiện. Nghiên cứu đã quan tâm đến mục
đích quan trọng dành 4 điểm như: Một là, mục đích quy chế đầu tư của nước
ngoài thông thường mà gồm có pháp luật trong nước của Nhà nước nhận lấy
đầu tư và pháp luật quốc tế đã liên quan đến đầu tư của nước ngoài, đây là
nguồn gốc của việc nghiên cứu này và xem xét quy chế khuyến khích đầu tư
và quản lý ĐTNN ở nước CHDCND Lào. Hai là, nghiên cứu về nhận thức
thông thường về pháp luật khuyến khích (bản năm 2009) của CHDCND Lào
đã nói về lịch sử ra đời chủ đích, tiêu chuẩn gốc của pháp luật khuyến khích
đầu tư cùng với việc nghiên cứu của đầu tư thông thường và cơ quan phụ
trách về khuyến khích đầu tư. Ba là, quy tắc khuyến khích đầu tư của Nhà
nước CHDCND Lào, cùng với nguyên tắc khuyến khích đầu tư đã liên quan
đến thuế như là cho quyền và lợi ích về thuế cho nhà đầu tư nước ngoài, cho
12
phép vào đến nguồn vốn và miễn trừ thuế không thu thuế lặp lại; ngoài đó
nhà nước đã khuyến khích đầu tư không liên quan với thuế như: Khuyến
khích đầu tư theo chính sách đối ngoại, theo pháp luật, các văn kiện thông
tin và sự sử dụng đất đai ở CHDCND Lào. Bốn là, Nước CHDCND Lào đã
vào thành viên của ASEAN, cho nên là việc nghiên cứu về nguyên tắc
khuyến khích và quản lý ĐTNN của CHDCND Lào, người nghiên cứu đã so
sánh nghị quyết cơ bản quyền để khuyến khích đầu tư năm 1987 của nhóm
nước ASEAN tương đương với luật mà có tính cách tương tự và khác nhau,
nguyên tắc thực hành và nguyên tắc quản lý đầu tư với quy tắc khuyến khích
và quản lý đầu tư của nước ngoài, ở nước CHDCND Lào.
Khăn Keo Đa Ly But:“Giải quyết tranh chấp vấn đề xảy ra vì đầu tư
nước ngoài nghiên cứu để so sánh hệ thống trong và ngoài tòa án” [82].
Luận văn này đã nghiên cứu về giải quyết tranh chấp vấn đề xảy ra bởi vì
đầu tư của nước ngoài, so sánh hệ thống trong và ngoài tòa án, đặc biệt là
nghiên cứu cải cách phương pháp giải quyết vấn đề ĐTNN, trong đó đã
nghiên cứu nhận thức về luật khuyến khích về ĐTNN và những nguyên tắc
giải quyết tranh chấp đã xảy ra vì đầu tư theo pháp luật giải quyết tranh chấp
về kinh tế và pháp luật dân sự. Mục đích nghiên cứu là để tìm hiểu lý luận về
giải quyết tranh chấp xảy ra vì đầu tư của nước ngoài đặc biệt là cơ quan có
quyền giải quyết tranh chấp, hình thức giải quyết tranh chấp và cơ quan tổ
chức của việc giải quyết tranh chấp của mọi cơ quan. Kèm theo đó là hiểu biết
đến việc giải quyết tranh chấp của tòa án bởi có ủy viên ban tòa án mới có
quyền xét xử giải quyết, kiểu như ngoài tòa là thế nào.
Alounny Manipakone:“Các biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Thủ đô Vientian nước CHDCND Lào” [23]. Luận văn đã viết về
việc áp dụng các biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thủ đô
Viêng Chăn, nước CHDCND Lào, có vai trò rất quan trong trong phát triển
13
kinh tế - xã hội, là cơ sở quan trọng để xác lập những nguyên tắc pháp lý
cơ bản đảm bảo sự vận hành của hoạt động ĐTNN, xác lập môi trường an
toàn cho các quan hệ ĐTNN được điều chỉnh trong khuôn khổ pháp luật
Lào. Đặc biệt, các biện pháp thu hút FDI không chỉ đòi hỏi sự vận dụng nội
tại của nền kinh tế đất nước nói chung và mục tiêu thu hút đầu tư nói riêng.
Việc hoàn thiện pháp luật thu hút FDI phải được đặt ra như một quá trình
thường xuyên, liên tục và phải được xây dựng trên cơ sở sự nỗ lực của nhà
luật pháp. Hiện nay, nhà nước đã và đang nghiên cứu, xây dựng hệ thống
pháp luật trong nước có tính đồng bộ và hoàn thiện để có thể áp dụng có
hiệu quả, nhất là pháp luật về các biện pháp thu hút.
Ekmongkhon Saiyavong:“Nhất thế hóa pháp luật đầu tư của Việt Nam
trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của CHDCND Lào trong tiến trình gia
nhập WTO” [73]. Luận văn đã nghiên cứu xuất phát từ vai trò thu hút nguồn
lực từ đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đã trở thành chiến lược quan
trọng của Lào trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước. Hiện nay vấn đề
khuyến khích và đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào
đang trở thành một bộ phần chủ yếu trong quan hệ kinh tế quốc dân, là nguồn
lực quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường, chủ động hội nhập quốc tế và đặc biệt trong tiến
trình gia nhập WTO với những cơ hội và thách thức thì hệ thống các văn bản
pháp luật về đầu tư của nước CHDCND Lào đang đứng trước những đòi hỏi
bức xúc cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm xác lập quyền
bình đẳng thật sự cho các chủ thể kinh doanh cả trong và ngoài nước. Vì vậy,
việc nhất thể hóa pháp luật đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài là một
trong những yêu cầu hết sức cấp bách.
KhămSải Nănthavông:“Thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
căn cứ vào sự phát triển nền kinh tế ở Lào” [81]. Luận văn này đã nghiên cứu
14
về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển và mở rộng kinh tế theo
phương hướng sản xuất hàng hóa và tạo điều kiện cho cộng cuộc công nghiệp
hóa và hiện đại hóa, ngoài đó CHDCND Lào sẽ khai thác nguồn vốn trong
nước cho tốt mà cần thiết thu hút đầu tư của nước ngoài, đặc biệt là đầu tư
trực tiếp của nước ngoài vào sự phát triển kinh tế của nước Lào.
BunSổng VaSayGì:“Quản lý đầu tư trực tiếp trong nước và nước
ngoài gắn vào khu vực nông nghiệp ở tỉnh Luông năm Tha” [58]. Luận
văn đã nghiên cứu về quản lý đầu tư trực tiếp trong nước và nước ngoài
vào khu vực nông nghiệp bởi bắt đầu từ đặc điểm thực tế của nước Lào
cũng như tỉnh Luông Năm Tha, vẫn còn là tỉnh nghèo, cơ sở kinh tế vẫn
yếu kém. Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp vẫn còn hạn chế, sản xuất
nông nghiệp kiểu như nguyên thủy, phân phát, chất lượng kém, kỹ năng
chưa phát triển... cho nên để phát triển tỉnh Luông Năm Tha thoát khỏi sự
kém phát triển thì phải quan tâm đến đầu tư trực tiếp trong nước và nước
ngoài trong khu vực nông nghiệp là việc quan trọng nhất trong sư đoàn
sản xuất kinh doanh về nông nghiệp của tỉnh, thì là một ngành kinh tế của
cơ sở, cơ cấu kinh tế đất nước.
Souliya Pouangpadith:“Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào” [94]. Luận văn này đã nghiên cứu về
vấn đề khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào
đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế quốc dân, quan trọng
cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước nói chung và ở Lào nói
riêng. Vấn đề khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được
làm rõ và chưa được cụ thể hóa một cách tập trung trong luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Lào. Làm gì và thế nào để hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Lào, làm rõ vấn đề khuyến khích và bảo hộ đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Lào là trăn trở của tác giả bản luận văn này. Để góp
15
phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển vững chắc và nhanh hơn, thực hiện thắng
lợi mục tiêu chiến lược phát kinh tế - xã hội cùng với việc huy động tối đa các
nguồn vốn trong nước, việc thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài trở thành
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Tạp chí và báo:
Văn Xay Sen Nhot: "Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
quy trình phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía Bắc Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào" [102].
Bài viết đã nêu lên kết quả bước đầu và một số hạn chế về đầu tư trực
tiếp nước ngoài của các tỉnh miền núi phía Bắc Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào. Đồng thời chỉ ra được một số giải pháp để khắc phục được những hạn chế
của đầu tư trực tiếp nước ngoài của các tỉnh này.
Văn Xay Sen Nhot: "Để thu hút FDI nhiều hơn tại các tỉnh miền núi
phía Bắc Lào" [101].
Trong bài viết tác giả đã đánh giá thực trạng thu hút FDI trên cơ sở đó
chỉ ra được một số hạn chế của thực trạng này ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Lào. Đồng thời đã chỉ ra một số giải pháp để thu hút đầu tư FDI hiện nay ở Lào
nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc Lào nói riêng.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến đầu tư và pháp
luật đầu tư
Luận án tiến sĩ:
Phan Thị Hương Thủy:“Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp Kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” [19]
Luận án đã nghiên cứu về thực tiễn của sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng từ năm 1986 cho đến nay đã chứng tỏ rằng Luật ĐTNN
tại Việt Nam, do Nhà nước Việt Nam ban hành năm 1986 và qua 4 lần sửa đổi
16
bổ sung, đóng một vai trò quan trọng trong phát triển nền kinh tế của đất nước.
Mười lăm năm đã trôi qua, thời gian tuy chưa nhiều, nhưng tương đối đủ để
người dân nhận thức về vai trò của luật ĐTNN tại Việt Nam đối với việc thu hút
vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, nhằm hỗ trợ đắc lực hơn nữa sự
nghiệp đổi mới đất nước. Từ trước đến nay, các nhà khoa học trong nước và
nước ngoài, còn chưa quan tâm đến vấn đề này. Chính vì vậy, tác giả luận án đã
đặt ra nhiệm vụ chủ yếu cho người viết là nghiên cứu và đề xuất một số ý kiến
về vấn đề xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của doanh
nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam.
Nguyễn Khắc Định:“Hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong xu hướng nhất thể chế hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam” [3].
Luật án nghiên cứu pháp luật về FDI ở Việt Nam vừa là một bộ phận pháp
luật ra đời sau, vừa tồn tại với tính chất là một hệ thống pháp luật của Nhà
nước. Về nội dung, giữa pháp luật đầu tư nước ngoài và pháp luật đầu tư
trong nước vừa có sự tương đồng, vừa có sự khác biệt. Sự khác biệt này bắt
nguồn từ chủ quyền về mặt kinh tế của Nhà nước, từ tính đặc thù của nền kinh
tế và các thành phần kinh tế ở nước Việt Nam trong giai đoạn thời gian đó,
cần được xác định rõ để có biện pháp xử lý thích hợp khi nghiên cứu việc
thống nhất về mặt nội dung và phạm vi. Hoàn thiện pháp luật là mục tiêu lý
tưởng nhằm đạt được một hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn yêu cầu
của quan hệ xã hội, phúc đáp được những đòi hỏi của xã hội. Nhất thể hóa
pháp luật về đầu tư là thống nhất sự điều chỉnh của pháp luật đối với các hoạt
động đầu tư, không phải là sự thống nhất về mặt hình thức pháp lý của các
văn bản pháp luật. Vì vậy, đó là sự thống nhất trong đa dạng, là xây dựng một
mặt bằng pháp lý chung, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm quyền tự do kinh doanh
và cơ hội bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể đầu tư khác nhau
trong nền kinh tế, không có sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu
tư nước ngoài.
17
Hồ Hoàng Đức:“Quản lý nhà nước trên lĩnh vực đầu tư xây dựng
trong cơ chế kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa” [4]. Luận
án đã nghiên cứu về đầu tư xây dựng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong
việc tạo lập nền tảng kinh tế - xã hội phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế đất
nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đầu tư xây dựng
có mối quan hệ hữu cơ với tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Tăng
cường đầu tư và đầu tư một cách có hiệu quả sẽ duy trì và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế đất nước, ngược lại một quốc gia đạt mức tăng trưởng kinh tế
cao sẽ có khả năng tích lũy được nhiều hơn các nguồn lực cần thiết cho đầu
tư. So với các ngành sản xuất, dịch vụ khác thì đầu tư xây dựng và ảnh hưởng
không nhỏ đến kết quả thực hiện hoạt động này, vì thế đòi hỏi công tác quản
lý nhà nước về đầu tư xây dựng phản ánh được các đặc thù đó.
Luận văn thạc sĩ:
Trịnh Thị Thu Hương:“Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội” [11]. Luận văn
này nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cơ sở phân tích lý luận
và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố
Hà Nội. Các giải pháp gồm có: Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng;
Hai là tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách; Ba là, tăng
cường công tác quản lý, điều hành và phối hợp giũa các cơ quan QLNN ở
TW và địa phương; Bốn là, nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất đội
ngũ cán bộ, công chức; Năm là, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài; Sáu là, tăng cường công tác vận động, xúc tiến đầu
tư; Bảy là, tiếp tục cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài; Tám là, tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm mình đối với
các hành vi vi phạm pháp luật. Trong đó, cải cách thủ tục hành chính được
coi là giải pháp đột phá.
18
Tống Thị Hạnh:“Quản lý nhà nước bằng pháp luật về đầu tư xây
dựng ở thành phố Hà Nội” [7]. Luận văn đã nghiên cứu về sự phát triển
của kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật quản lý kinh tế - xã hội ngày càng
được xây dựng đồng bộ. Trong đó, các quy định pháp luật về quản lý đầu
tư xây dựng quan tâm xây dựng và ngày càng hoàn thiện, đã và đang phát
huy hiệu quả tích cực trong quản lý hoạt động của Nhà nước. Việc tổ chức
thực hiện pháp luật pháp luật cũng ngày càng hiệu quả; hoạt động đầu tư
xây dựng, nhất là xây dựng đô thị, trong đó có Thủ đô Hà Nội theo đó mà
ngày càng vào nền nếp, góp phần tạo dựng diện mạo hiện đại, bảo đảm
cảnh quan kiến trúc, các yêu cầu về cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật đô thị
đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Phạm Thị Kim Cúc:“Thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực đầu tư ở tỉnh Vĩnh Phúc” [2]. Luận văn nghiên cứu về phân cấp quản
lý được coi là một giải pháp quan trọng trong quá trình hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Ở Vĩnh
Phúc, chính quyền tỉnh đã thực hiện đẩy mạnh phân cấp quản lý trên các lĩnh
vực, chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn cho chính quyền cấp huyện và cấp
xã, đồng thời xác định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp chính
quyền địa phương. Phân cấp thẩm quyền cho chính quyền cấp huyện và cấp
xã đã góp phần tháo gỡ những bất hợp lý trong khối lượng thẩm quyền của
tỉnh, để tỉnh tập trung xử lý các công việc đúng tầm và tương xứng với vị thế
của mình. Vì vậy, việc bảo đảm thực hiện pháp luật trong giai đoạn hiện nay
đang đặt ra nhiều đề cần được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn quá
trình thực hiện.
Nguyễn Huy Thường:“Hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay” [18]. Luận văn
nghiên cứu về trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đất nước Việt Nam, xây
19
dựng cơ bản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của kinh tế quốc
dân, trực tiếp xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để làm tiền đề cho sự tồn tại
và phát triển kinh tế đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,
hình thành và ngày càng hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật của hạ tầng xã
hội nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và và duy trì mọi mặt đời sống xã
hội. Luận văn được thông qua và áp dụng trong thực tiễn phần nào đáp ứng
chủ trương của Quốc hội và Chính phủ trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư,
hạn chế và xóa bỏ tình trạng tham ô, lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong hoạt
động đầu tư xây dựng cơ bản.
Phạm Mỹ Hương:“Những vấn đề pháp lý về đầu tư theo hợp đồng
hợp tác kinh doanh ở Việt Nam” [10]. Luận văn đã nghiên cứu về nền tảng
cơ sở pháp lý, đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày càng thể hiện
vai trò pháp luật đầu tư của Việt Nam, nhất là Luật đầu tư năm 2005 đối
với nền kinh tế. Thực tiễn hoạt động đầu tư này trong nhiều năm qua đã có
những thành công bước đầu. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua việc đầu tư
theo hợp đồng hợp tác kinh doanh còn gặp những khó khăn nhất định, điều
này đặt ra những vướng mắc về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là về mặt
pháp lý. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý về đầu tư
theo hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam là rất cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.
Nguyễn Duy Nam: “Pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư - những vấn
đề lý luận và thực tiễn” [15]. Luận văn nghiên cứu sự nghiệp mở cửa, đổi mới
toàn diện của Nhà nước Việt Nam nền trong kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thuận lợi, góp phần vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước hiện nay chỉ quản lý nền kinh tế
quốc dân ở tầm vĩ mô, như xây dựng quy hoạch, kế hoạch và đề ra những chủ
trương, chính sách lớn, xây dựng hệ thống pháp luật quản lý kinh tế nói
20
chung, quản lý đầu tư nói riêng, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp, các nhà đầu từ phát huy mạnh mẽ các tiềm năng, khả năng, kinh
nghiệm của các doanh nghiệp lạc loài. Cho nên, là các quy định pháp lý trong
lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư cũng như thực tiễn thi hành các quy định
này vẫn còn một số nhược điểm, hạn chế, bất cập nhất định. Những điều đó
đã gây ra những ảnh hưởng bật lợi đến quá trình thu hút các nguồn vốn đầu tư
trong nước và ĐTNN.
Đỗ Thị Phương:“Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn” [16]. Luận văn đã
nghiên cứu về thương mại thế giới WTO, bắt đầu từ Việt Nam đã gia nhập
vào thành viên của WTO. Từ đó tới nay, cơ hội để tham gia vào thị trường thế
giới của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn. Điều đó đồng nghĩa với việc
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thúc đẩy hoạt đồng đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài nhiều hơn. Để có thể tạo tâm lý yên tâm cho doanh nghiệp cơ chế pháp
lý đảm bảo cho doanh nghiệp ĐTNN có hiệu quả thì điều quan trọng nhất là
Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật đẩy đủ, thông thường, phù hợp với
thông lệ quốc tế. Đồng thời đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về ĐTNN để hoạt động này có cơ sở pháp lý
thuận lợi tiếp tục phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Trần Bảo Yến:“Pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong
các tổ chức kinh tế - những vấn đề lý luận và thực tiễn” [22]. Luận văn đã
nghiên cứu các doanh nghiệp có vốn nhà nước hiện nay đang nắm giữ những
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, đóng góp tỷ lệ không nhỏ vào ngân sách
quốc gia, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nhà nước, ngoài việc hướng tới mục tiêu lợi nhuận cần thể hiện vai
trò trong việc phục vụ lợi ích công cộng, điều kiện nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy
21
tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế phát triển theo định
hướng đã đề ra. Vụ việc này đang được dư luận xã hội quan tâm rộng rãi, nếu
nó không được giải quyết một cách kịp thời, thỏa đáng sẽ có ảnh hưởng xấu
tới vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước và gây bức xúc trong nhân
dân. Hiện nay đã có những quan điểm thể hiện thái độ không đồng tình với
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp
luật đầu tư
Luận án tiến sĩ:
Trần Tiến Hải:“Thực hiện pháp luật về đầu giá quyền sử dụng đất ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay” [6]. Luận án đã nghiên cứu về
ĐGQSDĐ ở các tỉnh BTB Việt Nam hiện nay, luận án đã trình bày một số vấn
đề lý luận như khái niệm, hình THPL về ĐGQSDĐ, nêu lên được vai trò THPL
về ĐGQSDĐ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đối với việc phát triển thị
trường bất động sản. Các giải pháp nêu lên có mối quan hệ thống nhất với
nhau, để thực hiện có hiệu quả việc THPL về ĐGQSDĐ ở các tỉnh BTB cần
phải thực hiện đồng bộ tất cả các giải pháp trên, từ đó tạo điều kiện để các chủ
thể tham gia ĐGQSDĐ, tạo ra nguồn thu ngân sách cho Nhà nước, là nguồn
lực nhằm phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh Bắc Trung Bộ trong thời gian tới.
Nguyễn Văn Linh:“Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính
của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” [12]. Luận án nghiên cứu
vấn đề TTHC là cách thức tổ chức các công việc nhà nước, cũng là cách thức
giải quyết các công việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, phản ánh bản chất dân chủ, tính phục vụ, khoa học và hiện đại của nền
hành chính nhà nước...
Luận văn thạc sĩ:
Vũ Viết Thiệu:“Thực hiện pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí trong quản lý nhà nước lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản” [17]. Luận văn
22
nghiên cứu về giữ gìn, bảo vệ truyền thống tiết kiệm, làm cho các thế hệ
người Việt Nam sống tiết kiệm, làm việc tiết kiệm trở thành nhiệm vụ
thường xuyên, hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trên
lĩnh vực xây dựng sự phí tiết kiệm, sự lãng phí, gây thất thoát ghê gớm đã
diễn ra từ nhiều năm qua. Cơ chế thực hiện pháp luật tiết kiệm, chống lãng
phí phải là một cơ chế tổng hợp, có phạm vi rộng, bao gồm những yếu tố
pháp lý và cả yếu tố truyền thống, ý thức pháp luật, lối sống của người dân
và cán bộ, công chức.
Nguyễn Văn Trường: “Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài trên địa
bàn thủ đô Hà Nội” [20]. Luận văn nghiên cứu về vấn đề theo Pháp lệnh Thủ đô
Hà Nội, là trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về
văn hóa, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; cũng là một trong
những khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên, vị
thế đó của Thủ đô Hà Nội có trở thành hiện thức hay không phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có vấn đề pháp luật và thực hiện pháp luật. Thực tiễn thực hiện
pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng
đang tồn tại nhiều vướng mắc, phần vì các các quy định của pháp luật về ĐTNN
còn nhiều hạn chế, phần vì cơ chế thực hiện pháp luật ĐTNN chưa bảo đảm,
hiệu quả không cao.
Đào Thị Mai:“Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta hiện
nay thực tiễn của thành phố Hải Phòng” [14]. Luận văn đã nghiên cứu về
thực hiện pháp luật ở Việt Nam là kết quả thực tế tích cực đạt được của tuân
thủ pháp luật, thực hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng luật so với
mục đích, yêu cầu việc ban hành văn bản pháp luật trong những phạm vi và
điều kiện nhất định mức chi phí thấp nhất. Hiệu quả thực hiện pháp luật là
vấn đề phức tạp, còn đang trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu. Trong khuôn
khổ luận văn này, tác giả đã tập trung nghiên cứu, giải quyết những vấn đề
23
mang tính chung khái quát. Do vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật ở nước Việt Nam.
Trần Thị Xuân:“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật
ở thành phố Hà Nội hiện nay” [21]. Luận văn nghiên cứu về thực hiện pháp luật
ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội riêng được đặt ra như một vấn đề
có tính thời sự, đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhất là những
nhà lãnh đạo, quản lý, người làm công tác pháp luật ở nước Việt Nam. Trước
yêu cầu không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả
nước nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng, nhằm xây dựng thành công Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ dân, do dân, vì dân, thì nghiên
cứu làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật; đánh giá
đúng thực trạng thực hiện pháp luật ở thành phố Hà Nội và đề xuất những biện
pháp pháp lý đúng đắn để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở thành phố Hà
Nội là việc làm cấp bách có ý nghĩa thiết thực.
Lệ Thùy Dương: “Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án đầu
tư kinh doanh bất động sản ở Việt Nam hiện nay” [5]. Luận văn nghiên cứu về
thị trường bất động sản chuyển nhượng dự án đầu tư kinh doanh, hiện nay thì
xu hướng ngày càng diễn ra phổ biến mạnh mẽ ở nước Việt Nam. Điều đó
được thể hiện ở số lượng dự án chuyển nhượng ngày càng nhiều với quy mô
ngày càng lớn cả về vốn và diện tích sử dụng đất; hoạt động chuyển nhượng
diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước và không chỉ có dự án có vốn đầu tư
trong nước mà cả dự án có vốn ĐTNN cũng đang được chuyển nhượng rất
nhiều trên thực tế. Từ những nghiên cứu về lý luận, thực trạng và những giải
pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng các dự án đầu tư kinh doanh bất
động sản, có thể thấy hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư kinh doanh bất
động sản là một đòi hỏi khách quan trên thực tế nhưng cả quy định pháp luật và
cơ chế quản lý của nhà nước về lĩnh vực nay vẫn còn nhiều bất cập. Đó là định
hướng chính mà luận văn theo đuổi.
24
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Về lý luận
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật ĐTNN ở
CHDCND Lào, cụ thể như sau:
+ Phân tích về pháp luật ĐTNN làm rõ khái niệm, đặc điểm và thực
hiện pháp luật ĐTNN ở CHDCND Lào.
+ Luận chứng cơ sở lý luận về các hình thức thực hiện pháp luật ĐTNN
ở CHDCND Lào và các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật ĐTNN ở
CHDCND Lào.
1.3.2. Về thực tiễn
- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của pháp luật ĐTNN
của CHDCND Lào, từ đó chỉ ra được ưu điểm, hạn chế của pháp luật này
qua từng giai đoạn.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện pháp luật
ĐTNN của CHDCND Lào từ năm 1986 đến nay.
- Luận chứng khoa học của các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực
hiện pháp luật ĐTNN đến năm 2020 của CHDCND Lào.
25
Kết luận Chương 1
Nghiên cứu thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào trong chương 1 luận án đã phân tích tổng quan các
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào và Việt Nam về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
nghiên cứu. Điều đó được phản ánh qua các cộng tác liên quan đến đầu tư
nước ngoài về pháp luật đầu tư để thực hiện các công trình liên quan đến thực
hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài. Những công trình
này bao gồm các luận án, luận văn thạc sĩ, các bài báo khoa học được đăng tải
trên các tạp chí uy tín. Những công trình này ở mức độ khác nhau đã đề cập
đến một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài luận án như khái niệm pháp
luật đầu tư nước ngoài, khái niệm và hình thức thực hiện pháp luật chung.
Đồng thời cũng đã chỉ ra được một số quy định pháp luật đầu tư nước
ngoài và những bất cập của pháp luật đầu tư nước ngoài ở CHDCND Lào
hiện nay. Cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tương đối đủ,
toàn diện về thực hiện pháp luật đầu tư ở nước CHDCND Lào. Nhất là làm rõ
khái niệm, đặc điểm, vai trò pháp luật đầu tư nước ngoài và thực hiện pháp
luật đầu tư nước ngoài; cũng như những hình thức thực hiện pháp luật này
dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật. Trên cơ sở lý luận và
đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật đầu tư ở CHDNCD Lào, luận án cũng
cần chỉ ra được những kết quả, bất cập và nguyên nhân của thực trạng này. Từ
đó tìm kiếm, đề xuất giải pháp khắc phục. Đó chính là những vấn đề cần tiếp
tục đặt ra để nghiên cứu của luận án. Góp phần luận chứng cơ sở khoa học
cho thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở CHDCND Lào hiện nay có hiệu
quả cao.
26
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI Ở LÀO
2.1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài
Nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố cho thấy đầu tư là
khái niệm được xem xét dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau. Chẳng hạn
dưới góc độ kinh tế đầu tư được hiểu là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất
kinh doanh của một chủ thể đầu tư. Đầu tư cũng có thể hiểu là toàn bộ chi phí
được bỏ ra trước khi thu lợi nhuận ròng. Hoặc đầu tư còn được hiểu là quá trình
lâu dài bao gồm nhiều khâu, nhiều bước. Còn dưới góc độ kinh doanh, đầu tư
là việc di chuyển vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích đem lại một
khoản tiền lớn hơn. Dưới góc độ luật học thì đầu tư được hiểu là việc nhà đầu
tư bỏ vốn bằng các các loại tài sản hữu hình và vô hình để hình thành tài sản
tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của pháp luật. Từ Điều 3, khoản 1
Luật khuyến khích đầu tư của Lào năm 2009 thì đầu tư được hiểu là nhà đầu tư
sử dụng vốn hữu hình và vô hình vào kinh doanh, sản xuất tại CHDCND Lào.
Từ các quan niệm khác nhau nêu trên cho thấy để đưa ra khái niệm đầu tư thì
bao giờ cũng có chủ thể xác định, đối tượng, mục đích và cách thực hiện nhất
định. Theo đó thì đầu tư có thể hiểu là nhà đầu tư bỏ vốn (chi phí ban đầu) vào
một đối tượng nào đó được sử dụng một cách có mục đích nhằm thỏa mãn nhu
cầu của nhà đầu tư [57, tr.1-4].
Đầu tư được phân thành hai loại cơ bản là đầu tư trong nước và ĐTNN.
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và
các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
27
Đầu tư nước ngoài là việc nhà ĐTNN đưa vào Lào vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
Đầu tư nước ngoài cũng có 2 loại đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài và
đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Một là, đầu tư gián tiếp nước ngoài là loại hình thức đầu tư mà chủ
ĐTNN không trực tiếp tham gia quản lý việc sử dụng vốn, họ hưởng lợi ích
theo một tỷ lệ của số vốn đầu tư thông qua cá nhân hoặc tổ chức ở nước nhận
đầu tư. Đây là loại đầu tư mà người bỏ vốn và người quản lý sử dụng vốn là
những chủ thể khác nhau. Đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới một
số hình thức như: mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu, chứng
khoán... các hoạt động tín dụng thương mại quốc tế, hỗ trợ phát triển chính thức.
Theo quy định luật khuyến khích đầu tư của Lào năm 2009 thì đầu tư gián
tiếp được hiểu là nhà đầu tư mua cổ phần công ty, mua cổ phần từ thị trường
chính khoán, kể cả việc đầu tư vào quỹ bảo đảm tài chính, trái phiếu và giấy tờ
có giá trị khoán mà nhà đầu tư không tham gia trực tiếp trong việc quản lý doanh
nghiệp liên quan. Giấy tờ có giá trị có thể mua bán, trao đổi hoặc đảm bảo như
sổ đỏ, cổ phiếu, trái phiếu [55, tr.22-25].
Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài là quá trình nhà ĐTNN đưa vốn
bằng tiền hoặc tài sản sang quốc gia khác để đầu tư, nhằm đưa lại lợi ích cho
các bên tham gia. Đầu tư trực tiếp (FDI) nước ngoài chỉ là một trong những
kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài của một quốc gia. Trên thế giới, có nhiều
diễn giải khái niệm về ĐTNN, tùy theo góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetany Fund - IMF) đưa ra
năm 1977: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là vốn đầu tư được thực hiện ở các
doanh nghiệp hoạt động ở đất nước khác nhằm thu về những lợi ích lâu dài
cho nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả
trong việc quản lý doanh nghiệp đó [108, tr.51]. Khái niệm này nhấn mạnh
28
vào hai yếu tố là tính lâu dài của hoạt động đầu tư và động cơ đầu tư là giành
quyền kiểm soát trực tiếp hoạt động quản lý doanh nghiệp, điều hành sử dụng
vốn đầu tư mà họ bỏ ra tại các cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước khác.
Theo ngân hàng Thế giới (WB): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc
công dân của một nước thành lập hoặc mua lại một phần đáng kể sở hữu
và quản lý ít nhất là 10% vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ở một nước
khác ” [106, tr.11].
Các nhà ĐTNN có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp và hoạt động đầu
tư có thể do người nước ngoài sở hữu hoàn toàn hoặc liên doanh giữa nhà đầu
tư nước ngoài và các đối tác đầu tư địa phương.
Các nhà kinh tế Trung Quốc quan niệm, ĐTNN là việc người sở hữu
tư bản tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước
khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của
nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể ấy hoặc tăng thêm
quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế mà nó có ảnh hưởng ấy, thì đó là
đầu tư trực tiếp. Quyền kiểm soát mà nhà lý luận Trung Quốc đề cập tới đó
là tỷ lệ chiếm hữu cổ phần, khi cổ phần đạt tới tỷ lệ nào đó thì có quyền
kiểm soát doanh nghiệp và quyền này là vấn đề cốt lõi của đầu tư trực tiếp.
Như vậy, cách hiểu về đầu tư nước ngoài của nhà kinh tế Trung Quốc nhấn
mạnh đến khía cạnh sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp của chủ đầu tư đối với
các hoạt động bằng vốn đầu tư của mình [105, tr.15].
Theo Luật Đầu tư Việt Nam năm 2005:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình
và vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên
quan. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp là
29
hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán thông qua
các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực
tiếp tham gia vào quản lý hoạt động đầu tư [8, tr.18].
Nhà nước Việt Nam không cấp phép ĐTNN vào các lĩnh vực và địa
bàn gây thiệt hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thuần phong
mỹ tục và môi trường sinh thái (Điều luật này cũng giống như của Lào
trong (Điều: 71-73) [1, tr.45-63].
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về ĐTNN nhưng chúng đều
thống nhất ở các điểm như: ĐTNN là hình thức đầu tư quốc tế, cho phép
các nhà đầu tư tham gia điều hành hoạt động đầu tư ở nước tiếp nhận đầu
tư tùy theo mức góp vốn của nhà đầu tư. Nói tóm lại, từ những khái niệm
trên, có thể hiểu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là biểu hiện bằng tiền
hoặc bất kỳ tài sản do tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài mang vào
nước khác (nước tiếp nhận) để thực hiện kinh doanh theo luật pháp của
nước tiếp nhận nhằm thu được lợi ích. Các nhà đầu tư có quyền điều hành
doanh nghiệp tùy theo tỷ lệ góp vốn của mình. Từ những khái niệm trên,
có thể hiểu đầu tư nước ngoài như sau: “Đầu tư nước ngoài là loại hình
kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài
sản nào đó để thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận
đầu tư, nhờ đó họ có quyền sở hữu và tham gia quản lý, điều hành đối
tượng mà họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ những
hoạt động đầu tư đó ”.
2.1.2. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài
Về phương diện lý luận pháp luật được hiểu là tổng hợp các quy tắc xử
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí
của Nhà nước, của giai cấp chính trị, đồng thời là yếu tố điều chỉnh các quan
30
hệ xã hội nhằm tạo ra xã hội ổn định và phát triển. Trong lĩnh vực ĐTNN để
điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này các quốc gia trên thế
giới sử dụng dạng nhiều công cụ phương tiện khác nhau, trong đó pháp luật là
công cụ, phương tiện quan trọng để nhà nước điều chỉnh, quản lý ĐTNN có
hiệu quả cao nhất.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy dưới góc độ của khoa học
luật học hiện nay cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về pháp luật ĐTNN.
- Có quan niệm cho rằng pháp luật ĐTNN là một bộ phận, hay một chế
định của tư pháp quốc tế, bởi các quan hệ đầu tư mà nó điều chỉnh có yếu tố
nước ngoài, chủ thể đầu tư là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
- Quan niệm khác lại cho pháp luật ĐTNN không thuộc một ngành luật
nào, mà là ở vùng giao thoa của nhiều ngành luật, song gần gũi với ngành luật
kinh tế.
- Bên cạnh đó quan niệm coi pháp luật đầu tư chỉ là một bộ phận của
pháp luật thương mại, bởi quan niệm có tính phổ biến trên thế giới, trong đó
có quan niệm của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong các hiệp định
của tổ chức này, đầu tư chỉ được coi là một trong các hành vi thương mại.
Chẳng hạn, Luận án tiếp cận khái niệm pháp luật ĐTNN dưới góc độ lý
luận chung về nhà nước và pháp luật nên có thể hiểu pháp luật ĐTNN là tổng
hợp những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lính
vực đầu tư nước ngoài nhằm bảo đảm các hoạt động ĐTNN được thực hiện
có hiệu lực, hiệu quả góp phần phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
2.1.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào
Xuất phát từ quan niệm pháp luật ĐTNN nêu trên và pháp luật ĐTNN
hiện hành của Lào cho thấy pháp luật này tập trung điều chỉnh một số nhóm
quan hệ sau:
31
Một là, nhóm các quy định về quan điểm và chính sách ĐTNN. Nhóm
này đã khẳng định chính sách, phạm vi (lĩnh vực) ĐTNN của Lào trên nguyên
tắc đôi bên cùng có lợi và bảo hộ của pháp luật Lào đối với đầu tư nước
ngoài. Cụ thể là:
- Chính phủ nước CHDCND Lào khuyến khích các cá nhân và doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vốn vào nước CHDCND Lào (sau đây gọi là CHDCND
Lào) trên cơ sở hai bên cùng có lợi và tuân thủ luật pháp và quy định của
CHDCND Lào. Các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài nói trên sau đây gọi là
“các nhà đầu tư nước ngoài ” [55, tr.40-55].
- Các nhà ĐTNN có thể đầu tư và hoạt động kinh doanh trong mọi lĩnh
vực hoạt động kinh tế hợp pháp như nông nghiệp, lâm nghiệp, cơ khí, năng
lượng, khai khoáng, thủ công nghiệp, thông tin, vận tải, xây dựng, du lịch.
thương mại, dịch vụ và các ngành khác. Các nhà ĐTNN có thể không được
đầu tư hoặc có hoạt động kinh doanh mà làm phương hại đến nền an ninh
quốc gia, môi trường tự nhiên, sức khỏe cộng đồng hay nền văn hóa quốc gia,
hoặc vi phạm pháp luật và quy định của CHDCND Lào.
- Tài sản và đầu tư tại CHDCND Lào của các nhà ĐTNN sẽ hoàn toàn
được pháp luật của CHDCND Lào bảo hộ. Những tài sản và đầu tư như vậy
sẽ không bị trưng thu, tịch biên hoặc bị quốc hữu hóa ngoại trừ vì mục đích
công cộng và sau khi đã thanh toán xong bồi thường một cách nhanh chóng,
hợp lý và có hiệu quả.
Hai là, nhóm các quy định về hình thức ĐTNN.
Theo quy định của pháp luật Lào các nhà ĐTNN có thể đầu tư vào
nước CHDCND Lào trong bất kỳ hình thức nào của hai hình thức sau:
- Liên doanh với một hoặc nhiều bên các nhà đầu tư trong nước của Lào
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cụ thể là:
32
+ Liên doanh và một (dự án) ĐTNN được thành lập và đăng ký theo luật
pháp và quy định của CHDCND Lào và đồng sở hữu bởi một hoặc nhiều nhà
ĐTNN và bởi một hoặc nhiều nhà đầu tư Lào.Việc tổ chức quản lý và hoạt động
của công ty liên doanh và mối quan hệ giữa các bên tham gia sẽ chiếu theo hợp
đồng giữa các bên tham gia và Điều lệ của Công ty liên doanh, phù hợp với luật
pháp và quy định của CHDCND Lào.
+ Các nhà ĐTNN đầu tư vào liên doanh phải đóng góp một tỷ vốn tối
thiểu là 30% của tổng vốn đầu tư của liên doanh. Việc góp vốn liên doanh của
một bên hoặc nhiều bên nước ngoài sẽ phải được chuyển đổi sang tiền Kip
Lào, phù hợp với luật pháp và quy định của Lào, ở mức tỷ giá do Ngân hàng
Lào công bố tại thời điểm góp vốn.
+ Một doanh nghiệp 100% vốn do nước ngoài sở hữu là một dự án
ĐTNN được đăng ký theo luật pháp và quy định của CHDCND Lào bởi
một hoặc nhiều nhà ĐTNN mà không có sự tham gia của các doanh nghiệp
Lào. Doanh nghiệp ĐTNN đó được thành lập tại CHDCND Lào có thể
hoặc là một công ty mới hoặc là mở chi nhánh hay văn phòng đại diện của
công ty nước ngoài.
Ba là, Nhóm các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư.
- Nhóm các quyền của nhà đầu tư bao gồm các quyền.
+ Quyền làm chủ trong đầu tư bao gồm:
Đầu tư trong tất các cách ngành, lĩnh vực và khu vực đầu tư mà không
bị cấm theo quy định pháp luật của Lào; Đầu tư theo loại, hình thức và cách
thức kinh doanh theo quy định của pháp luật; Xin tô nhượng dự án từ Chính
phủ hoặc chính quyền địa phương theo từng trường hợp nhằm phát triển dự
án; Xin tô nhượng đất từ Chính phủ Lào để thành lập đặc khu kinh tế và khu
kinh tế đặc thù; Thành lập Văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Lào; Xin
chuyển đổi mục đích hoặc dự án đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư không
33
hiệu quả có sự thay đổi về chính sách hoặc quy định pháp luật của Nhà
nước; làm chủ sở hữu đối với tài sản của mình; được bảo hộ quyền và lợi ích
chính đáng thu được từ việc đầu tư; được tạo điều kiện thuận lợi từ Nhà
nước trong các lĩnh vực khác liên quan đến đầu tư; Được hưởng lợi từ việc
thuê hoặc tô nhượng như: quyền sử dụng, thế chấp với người khác hoặc với
ngân hàng, hoặc góp vốn, cho thuê, mua bán quyền sử dụng đất và tiếp tục gia
hạn hợp đồng thuê đất theo quy định của pháp luật; đối với người thuê hoặc tô
nhượng đất có quyền sử dụng đất theo thời hạn hợp đồng thuê hoặc tô nhượng,
là chủ sở hữu đối với những công trình, cơ sở vật chất xây dựng trên mảnh đất
đó, có quyền chuyển nhượng cho người trong hoặc ngoài nước; mở tài khoản
bằng tiền kíp hoặc ngoại tệ tại ngân hàng tại Lào; Có quyền khiếu nại với các
cơ quan liên quan trong trường hợp thấy lợi ích đầu tư của mình bị ảnh hưởng;
Được hưởng các quyền và lợi ích khác theo quy định của pháp luật.
+ Quyền quản lý điều hành dự án đầu tư bao gồm:
Lập kế hoạch đầu tư; tìm kiếm và sử dụng vật liệu, phương tiện, máy
móc, vật tư, vật liệu và công nghệ trong việc đầu tư; tiếp cận thị trường
trong nước và thị trường nước ngoài; quản lý lao động an toàn và thuận
tiện trong hoạt động sản xuất; tiến hành họp, thảo luận về việc đầu tư của
mình; trao - chuyển giao, rút vốn hoặc thêm vốn kinh doanh và ủy quyền
cho nhà đầu tư khác tiến hành kinh doanh thay thế tạm thời; đề nghị lên cơ
quan có liên quan nhằm xem xét việc dừng, hủy bỏ hoặc chuyển doanh
nghiệp của mình sang hình thức kinh doanh khác; thực hiện các quyền khác
theo quy định của pháp luật.
+ Quyền tuyển dụng lao động bao gồm:
Ký hợp đồng tuyển dụng chuyên gia, các nhà chuyên môn vào làm việc
cho doanh nghiệp mình. Trong trường hợp dự án đầu tư cần sử dụng lao động
chân tay và trí óc quá chỉ tiêu cho phép của Luật lao động, nhà đầu tư có quyền
đề nghị lên Chính phủ xem xét từng trường hợp cụ thể; bố trí, điều động người
34
lao động vào các vị trí khác nhau theo nhu cầu của doanh nghiệp; thực hiện các
chế độ, chính sách đối với người lao động; thực hiện các quyền khác theo quy
định tại Luật lao động và các quy định pháp luật khác.
+ Quyền cư trú đối với nhà đầu tư nước ngoài bao gồm:
Nhà đầu tư nước ngoài cùng với các thành viên trong gia đình có quyền
cư trú tại Lào theo thời hạn đầu tư. Chuyên gia, chuyên viên nước ngoài có
quyền cư trú tại Lào theo hợp đồng lao động.
Nhà đầu tư nước ngoài cùng các thành viên trong gia đình, các chuyên gia,
chuyên viên nước ngoài được tạo điều kiện thuận lợi xuất nhập cảnh CHDCND
Lào, kể cả việc xin visa xuất nhập cảnh nhiều lần, mỗi lần không quá 5 năm.
+ Quyền của nhà đầu tư nước ngoài trong việc chuyển vốn, tài sản và
thu nhập ra nước ngoài bao gồm:
Nhà đầu tư nước ngoài có quyền chuyển vốn, tài sản và thu nhập của
mình, đặc biệt là thu nhập từ việc đầu tư, tiền và các tài sản khác thuộc quyền
sở hữu cá nhân hoặc của doanh nghiệp ra nước ngoài thông qua các ngân
hàng đặt tại Lào và tổ chức nhà nước liên quan, sau khi đã thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ thuế và các lệ phí đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật Lào.
- Nhóm nghĩa vụ của nhà đầu tư bao gồm các nghĩa vụ.
+ Nhà đầu tư có nghĩa vụ sau:
Áp dụng chế độ kế toán theo quy định pháp luật của Lào, trong trường
hợp cần thiết có thể sử dụng hệ thống kế toán khác được quốc tế công nhận
nhưng phải được sự đồng ý của ngành tài chính Lào; nộp thuế hải quan, thuế
nội địa, lệ phí và phí dịch vụ khác một cách đầy đủ, đúng hạn; chấp hành quy
định về bảo hiểm và bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong doanh
nghiệp của mình theo quy định của pháp luật, khuyến khích sử dụng lao động
Lào, chú trọng phát triển tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn và chuyển
giao công nghệ cho lao động Lào; tạo điều kiện thuận lợi về tổ chức và hoạt
35
động của các tổ chức quần chúng trong doanh nghiệp của mình, đặc biệt là tổ
chức công đoàn. Phối hợp với chính quyền địa phương trong hoạt động kinh
doanh, đền bù mất mát do quá trình tiến hành kinh doanh gây ra, góp phần
giải quyết khó khăn cho người dân vùng dự án; thực hiện các nghĩa vụ khác
theo quy định của pháp luật Lào.
+ Nghĩa vụ giữ gìn bảo vệ môi trường
Nhà đầu tư có nghĩa vụ giữ gìn và bảo vệ môi trường, đảm bảo hoạt động
kinh doanh sản xuất không gây ảnh hưởng lớn đến môi trường, người dân, đảm
bảo an toàn xã hội, không làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động. Trong
trường hợp xảy ra vấn đề về môi trường, nhà đầu tư có nghĩa vụ thực hiện những
biện pháp cần thiết để khắc phục một cách kịp thời theo quy định pháp luật.
Bốn là, nhóm của quy định và tổ chức quản lý đầu tư nước ngoài
Nhóm này bao gồm các quy phạm pháp luật quy định thẩm quyền của
Ủy ban ĐTNN chính của CHDCND Lào thành lập.
Ủy ban này có trách nhiệm xúc tiến, bảo hộ và quản lý ĐTNN trong
lãnh thổ CHDCND Lào.
2.2. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI
2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật đầu tư
Về phương diện lý luận thực hiện pháp luật là nội dung trọng tâm
của lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Như đã biết pháp luật là do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác
lập trình tự xã hội và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh riêng có của
Nhà nước. Nhưng cho dù pháp luật này cũng cần có sức mạnh cưỡng chế,
thậm chí bằng cả những chế tài hà khắc cũng không thể tự mình đi vào
cuộc sống. Pháp luật được ban hành nếu chỉ động lại trên các văn bản thì
chỉ là pháp luật ở trạng thái tĩnh, vấn đề quan trọng là pháp luật phải trở
thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan
36
nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở thành phương thức quản lý xã
hội, cho tổ chức đời sống cộng động. Như thế, thực hiện pháp luật là một
hình tượng mang tính lịch sử, thể hiện ra là một quá trình hết sức phức tạp
nhằm hiện thực hóa các giá trị của pháp luật. Và cũng vì thế, trước đây
cũng như hiện nay trong khoa học pháp lý khái niệm thực hiện pháp luật
vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm, nhận thức và cách thức giải thích khác
nhau, đáng chú ý là các quan niệm sau:
- Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, thực hiện pháp luật được quan niệm là “hiện tượng,
quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật” [50, tr.45-80].
- Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh quan niệm “Thực hiện pháp luật là một quá
trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành
hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các
chủ thể pháp luật” [51, tr.50-112].
- Các quan niệm trên đều tương đối đồng nhất về nội dung, đó là:
khẳng định thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm làm cho các
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Sự khác nhau
trong các quan niệm là không cơ bản, chỉ ở chỗ coi thực hiện pháp luật là một
quá trình hay là một hiện tượng xã hội, song đều hướng đến mục đích chung
là hành vi hợp pháp của đối tượng thực hiện pháp luật.
Còn theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin thì thực hiện pháp luật là sự tiếp tục ý chí của Nhà nước được thể
hiện trong pháp luật, là bộ phận quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa;
rằng nội dung chính yếu của pháp chế, quyết định hình thành, phát triển
của pháp chế là tuân thủ vô điều kiện mọi quy định của luật lệ hiện hành.
37
V.I.Lênin khi bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và thực hiện pháp luật đã
chỉ rõ, muốn có được trật tự xã hội và thắng được các biểu hiện tiêu cực thì
cốt yếu là phải tuân thủ pháp luật tốt.
Cái gì ngăn cản cuộc đấu tranh chống hiện tượng ấy? pháp luật của
ta ư? Việc tuyên truyền của ta ư. Trái lại! pháp luật thì ta đã thảo ra
nhiều và thừa thãi nữa là khác! Vậy tại sao cuộc đấu tranh ấy không
có kết quả? Vì cuộc đấu tranh ấy không chỉ độc có dựa vào tuyên
truyền mà được; chỉ khi nào được bản thân quần chúng nhân dân
giúp đỡ thì cuộc đấu tranh ấy mới có thể hoàn thành được”. Nhiều
quan niệm khác cho rằng: “Thực hiện pháp luật là toàn bộ quá trình
được diễn ra theo một cơ chế chặt chẽ, trong đó các cá nhân, tổ
chức thực hiện các hành vi phù hợp với ý chí của nhà nước được
thể hiện trong pháp luật về từng lĩnh vực cụ thể mà cá nhân, tổ chức
đó chịu tác động điều chỉnh [20, tr.11-12].
Từ những quan niệm nêu trên luận án đồng tình với khái niệm thực
hiện pháp luật được hiểu là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho các
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật. Theo đó, có thể hiểu thực
hiện pháp luật ĐTNN là toàn bộ quá trình hoạt động có mục đích của các chủ
thể liên quan đến đầu tư nước ngoài làm cho các quy định của pháp luật
ĐTNN được hiện thực hóa trong thực tiễn cuộc sống.
2.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
Về phương diện lý luận thực hiện pháp luật gồm các hình thức: tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật (chấp hành), sử dụng pháp luật và áp dụng
pháp luật. Theo đó thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cũng gồm bốn hình
thức nêu trên cụ thể như:
Một là, tuân thủ pháp luật đầu tư nước ngoài là hình thức thực hiện pháp
luật thụ động, trong đó các chủ thể đầu tư kiềm chế không tiến hành những hoạt
38
động mà pháp luật đầu tư nước ngoài ngăn cấm. Xét về tính chất, các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành được phân chia thành nhiều loại khác nhau, trong
đó có quy phạm mệnh lệnh buộc chủ thể phải thực hiện hoặc không mô tả cụ thể
hành vi, nhưng quy định rõ các chế tài sẽ được áp dụng khi chủ thể vi phạm.
Trong thực tế lập pháp, các quy phạm mệnh lệnh được Nhà nước sử dụng phổ
biến trong lĩnh vực hình sự, hành chính trong pháp luật về các lĩnh vực chuyên
ngành. Theo Luật mới nhất gọi là Luật khuyến khích đầu tư ở nước CHDCND
Lào, Quốc hội số: 02 /QH, ngày 08/7/2009. Chương I Điều khoản chung, Điều 7:
“Nhà nước hợp tác với nước ngoài, khu vực và quốc tế nhằm khuyến khích đầu tư
thông qua trao đổi kinh nghiệm, thông tin, kỹ thuật và kinh nghiệm trong việc
khuyến khích và quản lý đầu tư, thị trường, thương mại, nguồn vốn, hội nhập khu
vực và quốc tế”. Ví dụ: Chương II Hình thức đầu tư (Luật 2009) Điều 10: “Đầu tư
góp cổ phần giữa nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đầu tư góp cổ phần giữa nhà
đầu tư trong và ngoài nước là nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài
cùng tiến hành kinh doanh, cùng sở hữu và tạo lập pháp nhân mới theo luật pháp
nước CHDCND Lào”.
Việc tổ chức và hoạt động, quản lý, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư góp
vốn chung được quy định tại thỏa thuận góp vốn và điều lệ pháp nhân mới. Nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư dưới hình thức trên cần góp vốn tối thiểu không dưới
mười phần trăm (10%) tổng số vốn đầu tư [36, tr.6].
Hai là, thi hành hay chấp hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp
luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của của mình
bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật quy định nghĩa vụ của
chủ thể phải thực hiện tích cực được quy định ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau.
Ví dụ:
Pháp luật quy định cá nhân, tổ chức kinh doanh đó thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế. Khi tổ chức, cá nhân kinh doanh đó thực hiện nghĩa vụ
39
nộp thuế cũng tức là họ đã thực hiện pháp luật dưới hình thức chấp
hành pháp luật. Nhà đầu tư nước ngoài ngoài việc nộp thuế thu
nhập hàng năm đúng đắn và đầy đủ, còn phải trích một phần lợi
nhuận để lập quỹ dự phòng hoặc các quỹ khác để đảm bảo cho hoạt
động phát triển sản xuất kinh doanh của mình có chất lượng ngày
một tốt hơn theo chính sách và quy định trong điều lệ của doanh
nghiệp mà mình làm chủ đầu tư [36, tr. 24-25].
Ba là, sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể, tức là thực hiện những hành vi mà
pháp luật cho phép. Những quy phạm pháp luật quy định các quyền và tự do
dân chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này.
Hình thức sử dụng pháp luật có đặc điểm là chủ thể pháp luật có thể
thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí
của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật đầu tư
nước ngoài quy định công dân có quyền khiếu nại, tố cáo như: Các tranh
chấp giữa các chủ thể đầu tư trọng tài tài kinh tế phi chính phủ bên cạnh
hệ thống tòa án để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh góp phần đỡ
“gánh nặng” trong xét xử của Tòa án. Nếu một công dân tố cáo với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về một hành vi vi phạm pháp luật của một
người nào đó, tức là công dân đó đã sử dụng pháp luật (quyền được tố cáo
của mình). Hoặc công dân đó biết một hành vi vi phạm pháp luật của một
người nào đó nhưng không tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
tức là công dân đó không sử dụng pháp luật, và cũng không vì thế mà phát
sinh trách nhiệm pháp lý. Đó là một thực tế.
Bốn là, áp dụng pháp luật là thực hiện pháp luật trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các
chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật; hoặc tự mình căn cứ vào các
40
quy định của pháp luật để ban hành các quyết định làm phát sinh, thay đổi,
đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường hợp
này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can
thiệp của nhà nước.
Trong một số trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, một số
tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng cũng có thể thực hiện hoạt
động áp dụng pháp luật theo sự ủy quyền của cơ quan nhà nước có thẩm có
thẩm quyền. Điều 6: “Luật này áp dụng với cá nhân hoặc pháp nhân liên quan
đến mọi loại hình đầu tư để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm tạo giá trị gia
tăng, trừ kinh tế gia đình và người buôn bán nhỏ” [36, tr. 5].
2.2.3. Vai trò thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần thu hút nguồn vốn
đầu tư của nước ngoài nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy hoạt động
sản xuất kinh doanh của các chủ thể đầu tư lành mạnh, phát triển kinh tế - xã
hội luôn luôn và tạo nguồn thu lợi hợp lý của các nhà đầu tư nước ngoài.
Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần tăng cường pháp chế
XHCN ở Lào nói chung và trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng.
Một là, thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần đưa chủ
trương, chính sách về đầu tư nước ngoài của Đảng và Nhà nước Lào vào
đời sống thực tế.
Ở Lào “Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng
thể hiện ý chí của nhân dân”, là công cụ hữu hiệu để quản lý nhà nước và
xã hội. Như vậy, Hiến pháp, pháp luật nếu được thực hiện thì đường lối,
chủ trương của Đảng, ý chí, nguyện vọng của nhân dân mới được thực
hiện, Đảng mới xác lập được vị trí lãnh đạo nhà nước và xã hội, nhân dân
mới thực hiện được quyền làm chủ của mình. Tuy nhiên, có một hệ thống
41
pháp luật hoàn chỉnh cũng chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ, bởi “Pháp luật
ở trạng thái đó vẫn là trạng thái “tĩnh”, có thể tác động đến trật tự xã hội,
thúc đẩy quá trình phát triển của các quan hệ xã hội nhưng ở mức độ hạn
chế, và chủ yếu mới chỉ thông qua ý thức pháp pháp luật của công dân ở
một bộ pháp không đáng kể”. Pháp luật chỉ có thể phát huy đầy đủ vai trò
của nó khi được thực hiện tốt trong thực tế cuộc sống [70, tr.120].
Trong những năm qua, Nhà nước CHDCND Lào đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trên nhiều lĩnh
vực. Về cơ bản, các văn bản pháp luật đã phát huy tác dụng, đạt được mục
đích khi ban hành, song bên cạnh đó còn nhiều văn bản đã không phát huy
hiệu lực thi hành, không mang lại hiệu quả mong muốn. Hạn chế trên do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do chưa tổ chức tốt việc
thực hiện pháp luật, do “giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện
pháp luật có một khoảng cách lớn, thức là pháp luật ban hành với khối
lượng lớn mà ít đi vào cuộc sống, thì sẽ dẫn tình trạng pháp luật bị coi
thường, không có hiệu quả” [49, tr.22-80].
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền CHDCND Lào, pháp
luật được xác định có vai trò tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội,
nói chung và nói riêng đòi hỏi Nhà nước phải tổ chức thực hiện tốt các hoạt
động về pháp luật, từ việc xây dựng pháp luật, tuyên truyền, thực hiện pháp
luật và kiểm tra, xử lý những hành vi vi phạm nhằm bảo vệ pháp luật. Để
pháp luật phát huy hiệu lực, đạt hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội,
thì ngoài việc xây dựng hệ thống pháp luật với đầy đủ các thuộc tính hiện đại
còn phải nâng cao trình độ pháp lý của cán bộ và nhân dân, phải xác lập được
cơ chế thực hiện pháp luật hiệu quả. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
CHDCND Lào của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một chủ trương lớn
và xuyên suốt của Đảng, là điều kiện quan trọng bảo đảm sự thành công của
42
sự nghiệp đổi mới. Đặc điểm quan trọng của Nhà nước pháp quyền là tôn
trọng tính tốt cao của hiến pháp, pháp luật, là sự thực hiện nghiêm chỉnh pháp
luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân. Đây cũng là nguyên tắc
hiến định, được quy định tại Điều 1 của Hiến pháp hiện hành:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân mọi công dân
phải nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và
pháp luật.... [48, tr.1-8].
Hai là, thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần bảo vệ và
tăng cường pháp chế trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Lào.
Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật luôn được thể hiện trong mối
quan hệ với pháp chế xã hội chủ nghĩa, và do đó, với việc thực hiện và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Kết quả của việc tổ chức hiện pháp luật là
một trong những tiêu chuẩn để xác định tính chất của nền pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Bởi vì, nội dung quan trọng của pháp chế, của dân chủ là sự tôn
trọng và triệt để thực hiện pháp luật của các chủ thể trong đời sống xã hội.
Nếu không có sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách tự giác, nghiêm
minh, triệt để, chính xác của các chủ thể pháp luật thì sẽ không có pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Ba là thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể đầu tư.
Điều đó được thực hiện trong các nội dung cụ thể như sau:
- Nhà nước khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong và
ngoài nước thông qua việc lập chính sách nhằm tạo môi trường, điều kiện
thuận lợi, nhất là quy định phương hướng đường lối, đáp ứng thông tin cần
thiết, xây dựng chính sách hải quan, thuế, lao động, quyền sử dụng đất, dịch
43
vụ đầu tư một cửa bao gồm việc công nhận, bảo hộ quyền sở hữu, quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Nhà nước khuyến khích đầu tư vào mọi ngành nghề, lĩnh vực và mọi
khu vực trừ các khu và hoạt động liên quan tới an ninh và ổn định quốc gia,
tác động mạnh mẽ tới môi trường hiện nay và lâu dài, tới sức khỏe người dân
hoặc văn hóa tốt đẹp của đất nước .
- Nhà nước hợp tác với nước ngoài, khu vực và quốc tế nhằm khuyến
khích đầu tư thông qua trao đổi kinh nghiệm, thông tin, kỹ thuật và kinh
nghiệm trong việc khuyến khích và quản lý đầu tư, thị trường, thương mại,
nguồn vốn, hội nhập khu vực và quốc tế.
- Nhà đầu tư nước ngoài cùng với các thành viên trong gia đình có
quyền cư trú tại Lào theo thời hạn đầu tư. Chuyên gia, chuyên viên nước
ngoài có quyền cư trú tại Lào theo hợp đồng lao động.
Nhà đầu tư nước ngoài cùng các thành viên trong gia đình, các chuyên
gia, chuyên viên nước ngoài được tạo điều kiện thuận lợi xuất nhập cảnh
CHDCND Lào, kể cả việc xin visa xuất nhập cảnh nhiều lần, mỗi lần không
quá 5 năm.
- Nhà đầu tư nước ngoài có quyền chuyển vốn, tài sản và thu nhập của
mình, đặc biệt là thu nhập từ việc đầu tư, tiền và các tài sản khác thuộc quyền
sở hữu cá nhân hoặc của doanh nghiệp ra nước ngoài thông qua các ngân
hàng đặt tại Lào và tổ chức nhà nước liên quan, sau khi đã thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ thuế và các lệ phí đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật Lào.
2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở LÀO
2.3.1. Bảo đảm về chính trị
Nước CHDCND Lào là một nước có một Đảng lãnh đạo, Đảng NDCM
Lào là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Những chủ
44
trương, đường lối của Đảng đã nhanh chóng được cụ thể hóa thành các quy
định của pháp luật. Chính nhờ những phương tiện pháp luật mà các chính
sách của Đảng đã được áp dụng trong thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội.
Đường lối, chủ trương của Đảng là linh hồn của pháp luật. Trong lĩnh vực
kinh tế, Đảng lãnh đạo bằng việc xác định rõ đường lối chính sách mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để học hỏi, tiếp thu
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, nhằm tạo lập một hệ thống pháp luật đầu tư
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của cả nước. Riêng trong vực đầu tư nước
ngoài Đảng đề ra chủ trương chủ yếu sau:
- Đề ra đường lối, chủ trương trong việc tạo môi trường đầu tư lành mạnh,
an toàn, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường xây dựng các chính sách hợp lý, thiết thực nhằm triển khai
và thực hiện có hiệu quả thực hiện pháp luật về ĐTNN.
- Ban hành các chủ trương, chính sách nhanh chóng, kịp thời trong việc
tăng cường cơ chế thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật về ĐTNN.
Vì vậy, việc bảo đảm về chính trị đối với thực hiện Luật ĐTNN của
CHDCND Lào hiện nay cần quán triệt sâu sắc tinh thần cơ bản trong các nội dung
tư tưởng mà Đảng đã đề ra.
Thứ nhất, ổn định kinh tế chính trị là cơ sở để tăng cường ĐTNN. Khi
nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư dài hạn, ổn định chính trị và kinh tế là
vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là với các nước mới chuyển đổi cơ chế
nền kinh tế như Lào... Ổn định chính trị, kinh tế tăng trưởng bền vững với tốc
độ cao khiến cho nước nhận đầu tư có môi trường đầu tư hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài hơn.
Thứ hai, thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu
tư nước ngoài là chủ trương để xây dựng mặt bằng pháp lý cho doanh nghiệp
45
trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng như để phù hợp với thông lệ
quốc tế, chiến lược tạo lập một “sân chơi” bình đẳng cho cả nhà đầu tư trong
nước và nhà ĐTNN.
Thứ ba, chú trọng cải tạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ
tầng vững chắc. Đây là điều hết sức quan trọng để các nhà đầu tư quyết định
đầu tư vốn của mình vào một quốc gia khác. Cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ làm
giảm hiệu quả đầu tư của dự án.
Tóm lại, trong quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng lãnh đạo của
các cấp ủy Đảng trong tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài đặt ra
yêu cầu là: Phải nghiên cứu, nhận thức đúng hệ thống các quan điểm của
Đảng về mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế để việc thực hiện pháp luật về
ĐTNN ở CHDCND Lào đi đúng hướng và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện
phát triển chung của Lào. Trong đó, luôn luôn phải đảm bảo yêu cầu là tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng.
2.3.2. Bảo đảm về pháp lý
Thực hiện pháp luật ĐTNN có hiệu quả hay không phụ thuộc vào những
điều kiện pháp lý cụ thể, đó là: Sự hoàn thiện của hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật, trong đó có văn bản quy phạm pháp luật ĐTNN; hiệu quả tổ
chức thực hiện pháp luật ĐTNN và bảo vệ pháp luật của Nhà nước; sự hoàn
thiện của quy trình thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật của các chủ thể trong
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội nhất định.
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật và tính đồng bộ trong cơ chế
thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật của Nhà nước có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Mặt khác, ý thức pháp luật pháp luật của các chủ thể lại có
tác động tích cực lên quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy
phạm pháp luật, lại trong điều kiện ý thức pháp luật của các chủ thể không
cao, thì chắc chắn việc áp dụng pháp luật, thực hiện pháp luật sẽ khó mà
đạt hiệu quả tốt. Nếu ý thức pháp luật thấp, thì khó có thể xây dựng một hệ
46
thống các văn bản pháp luật kém hiệu quả. Do vậy, trong thực hiện pháp
luật ĐTNN, liên hệ với những vấn đề lý luận chung trên có thể thấy các
bảo đảm pháp lý cụ thể sau:
Một là, bảo đảm về sự hoàn thiện của hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật về ĐTNN.
Sự hoàn thiện của các văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào chất
lượng hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước. Đề thực hiện có hiệu quả
pháp luật ĐTNN đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan phải
đạt được những tiêu chuẩn, những yêu cầu nhất định, kể cả yêu cầu về kỹ
thuật văn bản. Các văn bản pháp luật đó không được mâu thuẫn, chồng chéo,
bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống. Tuy nhiên, trong
thực tế, nhất là trong lĩnh vực ĐTNN, do những nguyên nhân khách quan,
không phải lúc nào Nhà nước cũng ban hành được hành được những văn bản
quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu trên. Vì vậy, khi xây dựng pháp luật
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu toàn diện, sâu sắc mọi
mặt đời sống xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể. Trong giai đoạn này, khi đất
nước đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế thì việc xác định đúng tính chất, đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế
- xã hội để xây dựng các văn bản quy bản quy phạm pháp luật đầu tư nước
ngoài là rất quan trọng. Văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với đường lối,
chủ trương của Đảng, ý chí và nguyện vọng của nhân dân, có sự hài hòa với
luật pháp quốc tế là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài. Ngoài ra, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật phải chú trọng đồng thời cả những yêu cầu về hình thức, tránh sự
trùng lập và chồng chéo, các quy định chặt chẽ, chính xác, dễ hiểu, và do đó
việc thực hiện mới dễ dàng nhất quán.
47
Hai là, bảo đảm hiệu quả các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật và
là tổ chức thực hiện vốn. Có pháp luật tốt nhưng việc tổ chức các hoạt động
thực hiện không tốt, hành vi vi phạm pháp luật không được xử lý hoặc xử lý
không nghiêm thì việc thực hiện pháp luật khó mà bảo đảm. Đối với việc thực
hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cũng như vậy.
Để đảm bảo hiệu quả các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật nói
chung, thực hiện pháp luật ĐTNN nói riêng trong điều kiện hiện nay phải
đẩy mạnh cải cách hành chính, trực tiếp là cải cách thủ tục hành chính,
đổi mới, tổ chức lại cơ quan nhà nước tổ chức quản lý nhà nước về đầu tư
nước ngoài.
Để bảo vệ pháp luật ĐTNN tốt cần đẩy mạnh các hoạt động phòng
ngừa vi phạm pháp luật, thực hiện cải cách tư pháp, trong đó nâng cao chất
lượng hoạt động phòng chống tội phạm của các cơ quan tư pháp, nâng cao
đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tư pháp, tăng cường hợp
tác quốc tế trên lĩnh vực tư pháp.
Ba là, bảo đảm sự hoàn thiện của quy trình thực hiện pháp luật. Cũng
như xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật dù dưới hình thức nào cũng
phải theo một quy trình nhất định; quy trình tốt, hoàn thiện thì thực hiện
pháp luật sẽ tốt, có hiệu quả. Trong các quy trình thực hiện pháp luật, quy
trình áp dụng pháp luật là một trật tự các bước, các giai đoạn kế tiếp nhau;
mỗi bước ấn định những công việc nhất định mà chủ thể áp dụng pháp luật
phải thực hiện. Vì thế, chất lượng, tính hoàn thiện của quy trình là cái
quyết định chất lượng thực hiện pháp luật. Mặt khác, cũng cần chú ý, khác
với quy trình xây dựng pháp luật có tính ổn định, quy trình áp dụng pháp
luật có tính linh hoạt, không cứng nhắc, việc áp dụng phải phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh, tính chất, đặc điểm của từng vụ việc, từng lĩnh vực pháp
luật được áp dụng. Thực hiện tốt điều này là điều kiện hết sức quan trọng
trong thực hiện pháp luật ĐTNN.
48
Bên cạnh có một quy trình phù hợp, linh hoạt trong áp dụng pháp luật,
việc thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài đòi hỏi đội ngũ công chức phải
tinh thông nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc, có phương
pháp công tác khoa học, tác phong sâu sát, cụ thể.
2.3.3. Bảo đảm kinh tế đối với thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
2.3.3.1. Bảo đảm về vốn và tài sản của nhà đầu tư
Việc bảo đảm về vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư là biện pháp
bảo đảm đầu tư quan trọng nhất, bởi vì điều đầu tiên mà các nhà đầu tư quan
tâm khi đầu tư là vốn có được bảo đảm không, bảo đảm như thế nào. Ngược
lại, Nhà nước đang rất cần huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước cho
phát triển kinh tế.
Nguồn vốn này lại chỉ phải trả lãi nếu đem lại lợi nhuận và việc trả lãi
này còn bị khống chế bởi hệ thống thuế và các chính sách kiểm soát của Nhà
nước có chủ quyền. Do đó, Nhà nước luôn luôn phải bảo đảm vốn đầu tư.
Sự bảo đảm vốn cho nhà đầu tư của Nhà nước CHDCND Lào được quy
định trong Điều 5 và Điều 6 Luật đầu tư năm 2004. Cụ thể, khoản 2 Điều 9
quy định: “Nhà nước công nhân và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư,
thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự
tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư ”. Còn (Điều 4) luật đầu
tư năm 2004, khoản 1 quy định: “Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà
đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính ”
Khoản 2 Điều này quy định: “Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà
đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại
thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng theo quy định của pháp luật.
Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu
và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư”.
49
Theo quy định của pháp luật Lào, chủ đầu tư có toàn quyền quyết định
việc sử dụng vốn bằng tiền, thiết bị, máy móc, dụng cụ, bộ phận rời được đưa
vào đầu tư, dưới mọi hình thức mà pháp luật cho phép, theo các hình thức đầu
tư trực tiếp.
Ngoài ra, với các vốn đầu tư dưới hình thức bằng sáng chế, bí quyết kỹ
thuật, dịch vụ kỹ thuật, căn cứ vào pháp luật về quyền bảo hộ sở hữu công
nghiệp, các vốn này được Nhà nước CHDCND Lào bảo hộ, phù hợp với các
Điều ước quốc tế mà Lào tham gia, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Đồng thời,
theo pháp luật của Lào hiện hành, người đầu tư nước ngoài ở Lào sẽ có quyền
thừa kế nhà cửa, kho tàng, nhà xưởng và các vật thuộc sở hữu của người để lại di
sản. Nếu người đầu tư được thừa kế hết thời hạn đầu tư mà không muốn được
gia hạn giấy phép đầu tư thì sẽ không được phép duy trì hệ sở hữu trên. Người
đó sẽ phải xử lý số bất động sản đó bằng cách cho phía Nhà nước CHDCND
Lào hoặc bằng bất kỳ cách nào phù hợp với quy định của pháp luật của Lào và
chuyển tiền hoặc động sản mang ra nước ngoài theo đúng quy định.
Tóm lại, việc bảo đảm vốn đầu tư là một việc quan trọng và là một yếu
tố tích cực trong môi trường đầu tư. Số phận của tài sản của nhà đầu tư phải
được đảm bảo bằng một loạt những quy định của pháp luật để tạo nên một cơ
sở pháp lý ổn định cho vấn đề này. Bên cạnh đó, Nhà nước còn phải thực hiện
nhiều hoạt động khác để bảo đảm cho nhà đầu tư thực sự yên tâm trong việc
bỏ vốn vào đầu tư. Nhà nước cần xây dựng chính sách đảm bảo quyền kinh
doanh đi đôi với bảo đảm vốn, tạo ra môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội thuận lợi cho việc phát triển vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Nói
chung, đây là vấn đề khá phức tạp, nhưng rất cần được nghiên cứu kịp thời để
có thể tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho việc giải quyết nó.
2.3.3.2. Bảo đảm chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài của nhà đầu tư
Yếu tố cơ bản tác động đến hoạt động đầu tư là thu nhập do kết quả đầu
tư đem lại, là lợi nhận chủ đầu tư được hưởng. Đây là chính mục đích nhà
50
đầu tư nào cũng mong đạt được. Nhà nước CHDCND Lào luôn luôn tôn
trọng và bảo đảm cho các nhà đầu tư có thể chuyển lợi nhuận và các tài sản
hợp pháp của mình ra nước ngoài một cách thuận tiện và nhanh chóng. Nhà
nước Lào khuyến khích các nhà đầu tư dùng lợi nhuận để tái sản xuất đầu tư
vào Lào, đồng thời nhà nước Lào cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư chuyển lợi nhuận và hoạt động trả tiền cho quá trình cung cấp kỹ
thuật tận gốc, lãi của các khoản cho vay từ các nguồn vay từ các tổ chức
kinh tế quốc tế và các tài sản khác thuộc phạm vi phần vốn hợp pháp của
mình. Xuất phát từ mục đích tất yếu của các nhà đầu tư, kinh doanh để thu
lợi nhuận nhà nước Lào không những cam kết bảo đảm quyền sở hữu hợp
pháp đối với phần lợi nhuận mà các nhà đầu tư tạo ra trong quá trình thực
hiện dự án đầu tư ở tại CHDCND Lào mà còn cam kết bảo đảm quyền được
chuyển lợi nhuận đó ra nước ngoài.
Nhà nước CHDCND Lào cũng không cấm các nhà ĐTNN, người
nước ngoài làm việc tại Lào cho các dự án đầu tư thực hiện việc chuyển
vốn và tài sản hợp pháp ra nước ngoài (Điều 12 Luật đầu tư năm 2004),
những khoản hợp pháp được chuyển ra nước ngoài bao gồm: Lợi nhuận thu
được tự hoạt động kinh doanh; Những khoản tiền trả cho việc cũng cấp kỹ
thuật dịch vụ sở hữu trí tuệ; tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài; vốn
đầu tư các khoản thanh lý đầu tư; các khoản tiền và tài sản hợp pháp thuộc
sở hữu của nhà đầu tư; thu nhập hợp pháp của người lao động nước ngoài
làm việc cho các dự án đầu tư.
Trước đây, theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài năm (1988 và
Luật ĐTNN năm 1994) và sắc lệnh của Chủ tịch nước CHDCND Lào ngày
5/3/2003 thì việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các nhà đầu tư vẫn
được tiến hành, tuy nhiên, khi thực chuyển lợi nhuận các nhà đầu tư phải
nộp một khoản thuế gọi là thuế gọi là thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
51
Tuy nhiên, việc qui định về thuế vận chuyển lợi nhuận ra nước ngoài có
những bất cập mà một trong những bất cập đó đánh thuế trùng lập trên một
đối tượng chịu thuế. Trên thực tế phần lợi nhuận của các nhà đầu tư đã phải
gánh chịu nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu sau đó lại là đối tượng
chịu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thì không hợp lý. Vì vậy, pháp
luật hiện hành của CHDCND Lào về thuế cũng như về đầu tư đã thống nhất
bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài nhằm đảm bảo quyền lợi chính
đáng cho các nhà đầu tư.
2.3.3.3. Bảo đảm đối đãi công bằng giữa các nhà đầu tư tại Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
Pháp luật CHDCND Lào bảo đảm đối đãi với nhà đầu tư thực sự công
bằng, điều này được thể hiện như là: đối xử công bằng và bảo đảm điều kiện sản
xuất kinh doanh cho nhà đầu tư. Đối xử công bằng có thể hiểu là sự đối xử
không phân biệt nhà đầu tư là ai, ở nước nào. Nói một cách cụ thể là phải đảm
bảo sự bình đẳng giữa Lào với các nhà ĐTNN, hoặc giữa các nhà đầu tư nước
ngoài với các nhà đầu tư trong nước, giữa cá nhân nhà đầu tư với công dân nước
nhận đầu tư. Vì đây là nguyên tắc pháp lý quốc tế nên hầu như các nước đều
tuân thủ. Nhà nước CHDCND Lào quy định sự bình đẳng, công bằng, không
phân biệt đối xử với nhà đầu tư. Việc này đã được minh chứng một cách rõ ràng
nhất bằng sự hợp nhất của Luật ĐTNN và luật khuyến khích đầu tư trong nước
thành Luật đầu tư hiện nay. Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được công nhận
là pháp nhân Lào, do đó sẽ được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ như
mọi pháp nhân của Lào thông thường. Các chính sách đối với các nhà đầu tư ở
Lào bây giờ đã được áp dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư.
Đảm bảo đối xử thỏa đáng với các nhà đầu tư được hiểu là: khi một tổ
chức, cá nhân đưa vốn vào đầu tư tại CHDCND Lào, Nhà nước phải tạo cho
họ những điều kiện thuận lợi nhất tương ứng với giá trị tài sản họ bỏ ra đầu
52
tư. Để đảm bảo vấn đề này, Nhà nước dựa chủ yếu vào những biện pháp đòn
bẩy kinh tế, mà hiệu quả nhất là thuế. Bằng những quy định của pháp luật,
chúng ta đã đưa ra các biểu thuế, thuế suất cho các tổ chức, cá nhân có hoạt
động đầu tư tại Lào. Nói chung, các sắc thuế của Lào hiện nay đầu tư bảo đảm
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
2.3.4. Các điều kiện đảm bảo khác
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ trình độ, năng lực
về chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến đầu tư nước ngoài, đồng thời có
kỹ năng tổ chức tốt quá trình thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện
pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng.
Đây là yếu tố đảm bảo quan trọng để được pháp luật đầu tư nước
ngoài vào cuộc sống một cách kịp thời và có hiệu quả cao. Thực tiễn
những năm đổi mới ở Lào vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức
hiểu biết về đầu tư nước ngoài; pháp luật về đầu tư nước ngoài vẫn còn
nhiều hạn chế. Điều đó, đã ảnh hưởng không nhỏ việc thu hút vốn FDI
vào Lào trong những năm qua. Vì vậy, việc xây dựng đào tạo đội ngũ cán
bộ công chức, công nhân làm việc ở các doanh nghiệp có vốn FDI có trình
độ hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng
là vấn đề cấp thiết hiện nay. Đây là một trong những đảm bảo rất quan
trọng cho việc thực hiện tốt pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào hiện nay.
Hai là, bảo đảm về ý thức tự giác chấp hành pháp luật các chủ thể.
Hành vi xử sự của các chủ thể pháp luật là yếu tố quyết định tính hiệu quả
trong điều chỉnh pháp luật, trong việc thực hiện pháp luật. Hành vi đó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có ý thức pháp luật, thể hiện ở những trí thức
pháp luật mà con người có được, ở ý chí, thái độ, tình cảm của họ đối với
pháp luật. Với quan niệm đó, ý thức pháp luật là bộ phần của cơ chế tự điều
53
chỉnh hành vi của con người. Người có ý thức pháp luật, ý thực pháp luật cao
luôn tự điều chỉnh hành vi của mình một cách hợp lý, hợp pháp. Vì thế, trong
quá trình thực hiện pháp luật, quy phạm pháp luật chỉ được thực hiện đúng
đắn chính xác, kịp thời khi chủ thể hiểu được chính xác nội dung, ý nghĩa của
quy phạm pháp luật, khi mà chủ thể có ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật phát triển từ thấp đến cao, là cơ sở tạo nên văn hóa
pháp lý của các chủ thể pháp luật. Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế -
xã hội thì việc nâng cao ý thực pháp luật sẽ là điều kiện quan trọng để tổ
chức thực hiện pháp luật có hiệu quả, trong đó có việc thực hiện pháp luật
về ĐTNN. Tuy nhiên, khi nghiên cứu ý thức pháp luật với tư cách là yếu tố
bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cần chú ý các đặc thù của
các quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài, trong đó chủ thể một bên là người
nước ngoài, đối tượng của các quan hệ đó là tài sản thuộc sở hữu của người
nước ngoài. Thực tế, ý thức pháp luật của các chủ thể này chịu sự chi phối
mạnh mẽ của văn hóa pháp lý nước ngoài, nhất là văn hóa pháp lý phương
tây, rất khó tương đồng với những yêu cầu về ý thức pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Hơn nữa, ý thức pháp luật đó bị chi phối mạnh mẽ bởi mục tiêu lợi
nhuận, cho nên không phải những chủ thể đầu tư nước ngoài có ý thức
pháp luật cao là không vi phạm pháp luật. Đây là vấn đề phức tạp trong bảo
đảm thực hiện pháp luật về ĐTNN.
54
Kết luận Chương 2
Để đảm bảo thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở CHĐCN Lào,
chương 2 luận án luận giải cơ sở lý luận của Đề tài nghiên cứu. Điều đó được
phản ánh qua các nội dung chủ yếu sau: Trên cơ sở lý luận chung về pháp luật
luận án đã phân tích và đưa ra được các khái niệm liên quan tới đề tài nghiên
cứu. Đó là các khái niệm về đầu tư, đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư nước
ngoài; khái niệm về thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật về đầu tư nước
ngoài ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đồng thời trên cơ sở lý luận về thực
hiện pháp luật luận án đã phân tích và đưa ra được khái niệm thực hiện pháp
luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Từ đó, luận án
cũng đã chỉ ra và phân tích được các đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp
luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đảng chú ý là luận
án đã chỉ ra và phân tích được các nhóm quan hệ xã hội trong luật đầu tư
nước ngoài ở Lào và phân tích được bốn hình thức thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài ở Lào gồm: Tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật
đầu tư nước ngoài của các chủ thể đầu tư nước ngoài ở Lào. Bên cạnh đó,
luận án cũng đã phân tích được các bảo đảm về chính trị, pháp lý, và bảo đảm
về kinh tế đối với thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở CHDCND Lào
hiện nay. Trên đây là những nội dung lý luận cơ bản của chương 2 luận án.
Đó là những luận cứ lý luận để nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất của
giải quyết nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào ở các chương tiếp theo của luận án.
55
Chương 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1. SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1.1. Pháp luật đầu tư nước ngoài trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986)
Sau ngày giải phóng đất nước Lào năm 1975, Đảng và Nhà nước
Lào đề ra chủ trương khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh.
Trong đó, trước hết là tập trung phát triển nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu
lương thực thực phẩm bảo đảm đời sống cho nhân dân. Vì vậy, vấn đề đầu
tư nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức nên thời gian này chưa có
văn bản pháp luật nào điều chỉnh các quan hệ liên quan đến đầu tư nước
ngoài ở Lào.
Đến năm 1978 Ủy ban kế hoạch nhà nước Lào đã đề ra kế hoạch
phục hồi phát triển kinh tế xã hội 3 năm (1978 - 1981). Trong kế hoạch này
đã xác định: Đất nước Lào xây dựng nền kinh tế XHCN trong đó có sự kết
hợp các thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước quan tâm đến lĩnh vực
phát triển du lịch và mở cửa hợp tác với nước ngoài. Để thực hiện kế hoạch
này, Nhà nước Lào đã quan tâm đến xây dựng hệ thống pháp luật và tổ
chức quản lý đất nước bằng pháp luật. Tuy nhiên thời gian này hệ thống
pháp luật chưa đầy đủ, các văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao không ít.
Về đầu tư nước ngoài chưa có luật riêng chỉ vận dụng một số quy định của
Chính phủ có liên quan đến đầu tư nước ngoài.
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1986, thực hiện chủ trương phát triển
kinh tế và tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống đường giao
thông kết nối từ Bắc đến Nam trên phạm vị cả nước và các nước láng giềng,
56
trong đó tổ chức phát triển và khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển kinh
tế đối ngoại của Đảng NDCM Lào là nội dung quan trọng, Nhà nước Lào đã
quan tâm đến việc xây dựng thể chế, thiết chế để thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài vào Lào. Thời kỳ này đã thiết lập Ủy ban đầu tư trong nước và nước
ngoài trực thuộc Bộ Văn phòng, Chính phủ, có chức năng và nhiệm vụ trao
đổi với các nước láng giềng. Tuy nhiên thời gian này cũng chưa có một văn
bản pháp luật chuyên biệt nào đề cập đến đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Những quan hệ đầu tư này nếu phát sinh chỉ áp dụng một số nghị định
của Chính phủ có liên quan đến đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, trong giai đoạn từ sau ngày giải phóng năm 1975 đến năm
1986, Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào tập trung mọi nguồn lực để khôi
phục và phát triển kinh tế, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm (1981 - 1986) theo con đường XHCN. Trong thời kỳ này, vấn đề đầu
tư nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức. Các quan hệ đầu tư nếu có
chỉ áp dụng ở những văn bản riêng lẻ có quy định đề cập đến vấn đề này.
Nói cách khác pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào thời kỳ này rất ít và tản
mạn. Chưa có những văn bản pháp luật chuyên biệt về đầu tư nói chung và
đầu tư nước ngoài nói riêng. Vì lẽ đó, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Lào thời kỳ này rất hạn chế.
3.1.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào thời kỳ đổi mới (từ năm
1986 đến nay)
Từ năm 1986 đến nay, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng NDCM Lào đề ra Đại hội
Đảng lần thứ IV. Trong đó nội dung cơ bản là đổi mới cơ cấu kinh tế nhằm
chuyển nền kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp thành nền kinh tế hàng hóa; đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chủ
57
trương này tiếp tục được khẳng định qua các kỳ Đại hội lần thứ V và lần
thứ VI như sau: "Cơ cấu kinh tế ở CHDCND Lào là cơ cấu kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại lâu dài, các
thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và hoạt động dưới sự
quản lý của nhà nước theo cơ chế thị trường, mối quan hệ hợp tác kinh
doanh vừa cạnh tranh lành mạnh". Trên cơ sở chủ trương này, Đảng
NDCM Lào và nhà nước CHDCND Lào đã tiến hành xây dựng đồng bộ các
biện pháp kinh tế trong đó có khuyến khích đầu tư nước ngoài ngày 25-7-
1988 Quốc hội nước CHDCND Lào đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài.
Điều 1 của Luật này quy định: “Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào hoan nghênh việc đầu tư nước ngoài ở Lào trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền của Lào và hai bên cùng có lợi”.
Theo luật đầu tư năm 1988, nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào
Lào dưới ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh; hợp doanh giữa nhà đầu
tư nước ngoài và đầu tư trong nước, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hình thức đầu tư “Hợp đồng hợp tác kinh doanh” là hình thức hai bên
cùng góp vốn, vật tư, trang bị kỹ thuật trên cơ sở hợp đồng sản xuất hàng hóa
tại Lào. Lợi ích sẽ được chia cho hai bên theo tỉ lệ nhất định do hai bên thỏa
thuận trước. Lợi ích chia cho hai bên nước ngoài không nước tiêu thụ tại Lào.
Đây thực chất là một dạng của hình thức đầu tư “Hợp tác kinh doanh trên có
đồng hợp tác kinh doanh" theo pháp luật Lào hiện nay.
Hình thức hợp doanh giữa nhà ĐTNN và đầu tư trong nước thực chất là
hình thức doanh nghiệp liên doanh giữa bên Lào và bên nước ngoài, doanh
nghiệp này do hai bên được thành lập và đăng ký theo pháp luật của
CHDCND Lào, cùng sở hữu vốn kinh doanh giữa nhà ĐTNN và nhà đầu tư
Lào. Việc điều hành, tổ chức hoạt động của liên doanh và mối quan hệ giữa
các bên đã điều chỉnh bởi hợp đồng được đăng ký giữa hai bên và điều lệ về
58
liên doanh phù hợp với pháp luật của CHDCND Lào Điều 8, Luật Đầu tư năm
1988, quy định:
Nhà đầu tư trong liên doanh phải góp vốn tối thiểu là 30% tổng đầu
tư của liên doanh, vốn góp của một bên nước ngoài hoặc các bên
nước ngoài trong doanh nghiệp sẽ được chuyển đổi sang tiền Lào
theo tỷ giá hối đoái của ngân hàng của Lào và phù hợp với pháp
luật Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào [44, tr.11-15].
Hình thức doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài là hình thức nước ngoài
của một hoặc nhiều ĐTNN được thành lập và đăng ký theo pháp luật của
CHDCND Lào, mà không có sự tham gia của nhà đầu tư trong nước, có thể là
một công ty mới hoặc một chi nhánh hoặc một văn phòng đại diện của một
công ty nước ngoài (Điều 8 Luật 1988 sửa đổi 1994 ).
Một số chế định khác thể hiện sự khuyến khích và bảo hộ của nhà nước
Lào đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và các chế định về quyền
và nghĩa vụ của bên nước ngoài, xử lý tranh chấp. Cụ thể là:
- Nhà ĐTNN được bảo đảm quyền kinh doanh trong thời hạn từ 10 đến
15 năm, trường hợp đặc biệt, thời hạn có thể kéo dài hơn.
- Được Nhà nước Lào bảo hộ vốn đầu tư. Nếu do yêu cầu của nền kinh
tế quốc dân phải quốc hữu hóa xí nghiệp thì được nhà nước Lào mua lại theo
giá cả hợp lý, do hai bên thỏa thuận.
- Nhà đầu tư được chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài, được
khuyến khích đầu tư trở lại.
- Nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng các ưu đãi về thuế (miễn
hoặc giảm thuế một hay nhiều lần, thời gian dài hay ngắn, các loại thuế phải
nộp) tùy theo lĩnh vực đầu tư.
- Nhà đầu tư nước ngoài sử dụng công nhân lao động Lào.
Như vậy, vấn đề khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã được bước đầu
được quy định trong hệ thống luật pháp Lào, cụ thể là trong Luật năm
59
1988. Tất nhiên những quy định này còn sơ sài, thiếu những điều kiện cụ
thể và cơ chế đảm bảo thực hiện những quy định đó. Sau khi công bố Luật
ĐTNN năm 1988, Nhà nước Lào đã ban hành Luật kinh doanh, Luật đất
đai, Luật ngân hàng, Luật phá sản, Luật doanh nghiệp quy định việc thành
lập công ty, hình thức, loại hình và việc góp vốn của các nhà đầu tư, hoạt
động kinh doanh. Các luật này cùng với các văn bản dưới luật khác đã tạo
hành lang pháp lý cần thiết nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn đầu tư nước ngoài cũng nguồn vốn của các nhà đầu tư trong nước. Hệ
thống văn bản pháp luật tùng bước được ban hành một cách thống nhất
trong đó quan trọng nhất là Hiến pháp Lào năm 1991(sửa đổi năm 2003).
Đến năm 1994 Luật ĐTNN năm 1988, đã được thay thế bởi Luật
khuyến khích và quản lý ĐTNN, đây là đạo luật của đường lối đổi mới đất
nước. Trong Luật này, việc khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã được làm rõ hơn, thể hiện quan điểm mới của Đảng và Nhà nước
Lào về vấn đề này. Lần đầu tiên, Nhà nước Lào đã tạo những điều kiện
thuận lợi tốt nhất có thể có cho nhà ĐTNN những biện pháp khuyến khích
và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài được mở rộng hơn, bảo đảm cho nhà
đầu tư nước ngoài được hưởng những quyền và lợi ích chính đáng, phù hợp
với thông lệ quốc tế. So với luật đầu tư nước ngoài của một số nước trong
khu vực và trên thế giới, Luật khuyến khích và quản lý ĐTNN của Lào năm
1994 được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là tương đối "cởi mở". Tuy
nhiên, vấn đề không chỉ là những quy định trên giấy tờ, mà điều cơ bản là
các cơ chế để thực hiện các qui định của Luật trong thực tế. Điều này vào
thời điểm năm 1994, CHDCND Lào lại chưa làm được. Tuy nhiên, cũng có
thể nhận thấy được là so với Luật năm 1988, Luật khuyến khích và quản lý
đầu tư 1994 là một sự thay đổi cơ bản về chất ở khía cạnh khuyến khích và
bảo hộ đầu tư nước ngoài.
60
Điều 1 Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài năm 1994 quy
định “Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào khuyến khích tổ chức, cá
nhân và pháp nhân nước ngoài đầu tư tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trên
nguyên tắc các bên cùng lời, tuân theo pháp luật Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, tư nhân và pháp nhân trên gọi là nhà đầu tư nước ngoài” [46, tr.1].
Căn cứ vào tình hình thực tiễn của đất nước trong đường lối đổi mới và
nhu cầu về vấn đề thoát nhanh ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế vào những
năm cuối thập kỷ 80, Nhà nước Lào thật sự mong muốn “hoan nghênh và
khuyến khích” các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư trực
tiếp các biện pháp bảo đảm đầu tư và chính sách bảo hộ đầu tư nước ngoài
của nhà nước Lào là điểm khác biệt cơ bản với Luật ĐTNN năm 1988, thể
hiện chính sách khuyến khích đầu tư. Lào cũng thành lập riêng một Ủy ban
khuyến khích và quản lý ĐTNN để quản lý hoạt động đầu tư và đây là cơ
quan có trách nhiệm tạo những thủ tục thuận lợi nhất cho nhà đầu tư nước
ngoài. Luật ĐTNN ban hành năm 1994 đã dành nhiều ưu đãi hơn cho các nhà
đầu tư nước ngoài. Ngoài những ưu đãi về thuế còn có những ưu đãi khác về
giá thuê đất thời hạn đầu tư lĩnh vực đầu tư…
Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1995 quy định đối tượng áp
dụng như sau: Đầu tư trong nước làm việc sử dụng nguồn vốn, tài sản, khoa
học công nghệ và tiềm năng khác vào việc sản xuất kinh doanh trong nước
bởi các chủ thể chủ yếu là người Lào, người nước ngoài đã sinh sống lâu dài
tại CHDCND Lào, kể cả người Lào đang sinh sống tại nước ngoài (Điều 2).
Việc khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài tại CHDCND Lào là
nhằm mở rộng các ngành kinh doanh thu hút vốn và ngoại tệ, khuyến khích
xuất khẩu và tìm kiếm thị trường nước ngoài, tiếp thu trình độ tiên tiến trên
thế giới, phát triển và nâng cao trình độ cho người lao động trong nước, tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho người dân lao động, từ đó góp phần cải thiện và
61
nâng cao đời sống xã hội. Vì mục tiêu, nội dung cơ bản của pháp luật đầu tư
của Lào bao gồm: Các nguyên tắc cơ bản về hoạt động đầu tư; các loại hình,
lĩnh vực và ngành nghề đầu tư; các biện pháp khuyến khích, bảo hộ và quản
lý việc đầu tư trong nước và nước ngoài; quyền và nghĩa vụ các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài [55, tr. 2-25].
Các nhà ĐTNN được đầu tư vào CHDCND Lào dưới hai hình thức sau đây:
Một là, hình thức doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà ĐTNN với nhà
đầu tư trong nước. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập
và đăng ký theo pháp luật của Lào, có hoạt động kinh doanh và cùng chung sở
hữu giữa nhà ĐTNN và nhà đầu tư trong nước.Việc tổ chức, quản lý, hoạt
động và quan hệ giữa hai bên hợp tác đầu tư đượcquy định bởi hợp đồng liên
doanh và điều lệ của doanh nghiệp phù hợp với pháp luật của Lào. Nhà
ĐTNN đầu tư vào doanh nghiệp liên doanh phải góp vốn ít nhất không được
dưới 30% của tổng số vốn đăng ký. Phần vốn góp bằng tiền nước ngoài phải
tính ra tiền Kíp (tiền Lào) theo tỷ giá hối đoái của ngân hàng Nhà nước Lào
áp dụng vào thời điểm góp vốn.
Hai là, hình thức đầu tư đơn phương của nước ngoài. Doanh nghiệp
đầu tư đơn phương của nước ngoài là doanh nghiệp được thành lập và đăng
ký theo pháp luật của CHDCND Lào mà một hoặc nhiều nhà đầu tư nước
ngoài bỏ vốn, không có sự góp vốn của nhà đầu tư trong nước. Doanh nghiệp
đó có thể được thành lập mới hoặc được thành lập trên cơ sở chi nhánh hoặc
là đại diện của công ty nước ngoài tại Lào. Chi nhánh hoặc đại diện của công
ty nước ngoài phải có điều lệ riêng của mình phù hợp với pháp luật của Lào
và được Ủy ban quản lý ĐTNN của Lào chấp nhận. Việc thành lập và đăng ký
doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài phải được thực hiện theo pháp luật
về doanh nghiệp của Lào.
Trước hết, cần khẳng định rằng doanh nghiệp có vốn ĐTNN được đối
xử bình đẳng so với các tổ chức kinh doanh khác của Lào có toàn quyền quyết
62
định chương trình và kế hoạch kinh doanh của mình phù hợp với giấy phép
đầu tư đã được cấp và thực hiện đúng các nghĩa vụ mà pháp luật Lào quy
định. Chính phủ nước CHDCND Lào bảo hộ việc đầu tư và sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài trên cơ sở pháp luật của Lào: nhà ĐTNN có quyền thuê đất
ở Lào, có quyền chuyển nhượng các tài sản lưu động và tài sản cố định mà
mình đã xây dựng hoặc cải tạo trên mảnh đất thuê đó. Nhà ĐTNN được tự do
hoạt động kinh doanh dưới pháp luật của Lào. Nhà nước sẽ không can thiệp
vào việc quản lý kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài. Trong việc tuyển
dụng lao động, trước hết các nhà ĐTNN phải ưu tiên cho công dân Lào; nếu
thấy cần thiết về chuyên môn, nhà đầu tư nước ngoài có thể nhận thêm người
nước ngoài vào làm việc sau khi nhận được sự đồng ý của cơ quan hữu quan
của Chính phủ nước CHDCND Lào. Nhà ĐTNN có nghĩa vụ đào tạo và nâng
cao trình độ chuyên môn cho những người lao động Lào theo hình thức đào
tạo tại chỗ hoặc đào tạo nước ngoài.
Chính phủ CHDCND Lào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc các nhà
đầu tư nước ngoài, người lao động nước ngoài kể cả các thành viên gia đình
của họ trong việc xuất nhập cảnh và nghỉ ngơi ở Lào vì mục đích kinh doanh
hoặc vì công việc gia đình, nhưng họ phải tôn trọng và tuân theo pháp luật
của Lào trong suốt thời gian ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư nước ngoài phải
mở tài khoản bằng tiền Kip và tiền nước ngoài tại Ngân hàng của Lào hoặc
ngân hàng nước ngoài đặt tại Lào. Trong việc quản lý kinh doanh, nhà đầu tư
nước ngoài phải áp dụng chế độ kế toán của Lào và chịu sự kiểm soát thường
xuyên theo chế độ quản lý, kế toán của Chính phủ Lào.
Các nhà đầu tư nước ngoài được phép chuyển lợi nhuận và vốn thu
được từ hoạt động đầu tư của mình về nước hoặc sang nước thứ ba thông qua
ngân hàng đặt tại Lào, theo tỷ giá hối đoái mà Ngân hàng Nhà nước Lào quy
định trong từng giai đoạn. Đối với người nước ngoài làm việc trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Lào sau khi đã nộp thuế thu nhập các loại
63
thuế và lệ phí khác cũng được phép chuyển lợi nhuận của mình về nước mình
hoặc sang nước thứ ba. Các nhà ĐTNN phải nộp thuế thu nhập cho Chính phủ
Lào mỗi năm 20% lợi nhuận thu được, còn các loại thuế và lệ phí khác thì
thực hiện theo pháp luật của Lào: Đối với hoạt động kinh doanh về tài nguyên
thiên nhiên và năng lượng của Lào thì thực hiện theo hợp đồng đã thỏa thuận
giữa Chính phủ Lào với nhà đầu tư nước ngoài (Điều 16). Các thiết bị, máy
móc và phương tiện sản xuất khác chuyên dùng trong công trình hoặc trong
sản xuất kinh doanh mà các ĐTNN nhập khẩu vào Lào phải nộp thuế nhập
khẩu cho Chính phủ Lào 1% giá trị của thiết bị, máy móc đó. Riêng nguyên
liệu và bán thành phẩm nhập vào để chế biến hoặc tái sản xuất thành sản
phẩm hoàn chỉnh để xuất khẩu thì sẽ được miễn thuế xuất khẩu. Còn nguyên
liệu và bán thành phẩm nhập vào để chế biến hoặc tái sản xuất thành sản
phẩm hoàn chỉnh để thay thế hàng nhập khẩu sẽ được giảm thuế nhập khẩu
theo chính sách của Chính phủ Lào. Trong trường hợp đặc biệt được sự đồng
ý của Chính phủ Lào, các nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng các
quyền và lợi ích từ việc đầu tư có tác động tốt hoặc đầu tư với quy mô lớn và
có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào dưới hình
thức được giảm miễn thuế thu nhập hoặc thuế nhập khẩu các thiết bị, máy
móc và các phương tiện sản xuất khác như đã nêu ở trên [52, tr.16-27].
Nhà ĐTNN ngoài việc nộp thuế thu nhập hàng năm đúng đắn và đầy
đủ, còn phải trích một phần lợi nhuận để lập quỹ dự phòng hoặc các quỹ khác
để đảm bảo cho hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh của mình có chất
lượng ngày một tốt hơn theo chính sách và quy định trong điều lệ của doanh
nghiệp mà mình làm chủ đầu tư. Các hoạt động đầu tư của nước ngoài tại Lào
phải được thực hiện với việc chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp
luật Lào, với các biện pháp bảo vệ môi trường thiên nhiên, sức khỏe an toàn
lao động và trật tự công cộng ở xung quanh cơ sở sản xuất của mình. Các nhà
64
đầu tư phải tham gia bảo hiểm và phúc lợi xã hội cho người lao động theo
chính sách và pháp luật của Lào .
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các nhà ĐTNN với nhau hoặc
giữa nhà đầu tư nước ngoài với bên Lào thì các bên phải tìm cách giải quyết
theo hợp đồng của mình thông qua thương lượng và hòa giải. Nếu hòa giải
không thành thì các bên tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận với nhau đề nghị lên
tổ chức trọng tài kinh tế của Lào hoặc sử dụng hình thức giải quyết khác của
Lào, của nước ngoài hoặc của quốc tế.
Vì Đảng và Nhà nước Lào thực hiện chính sách mở rộng quan hệ hợp
tác với nước ngoài, và vì có luật đầu tư nước ngoài đáp ứng, nhiều dự án
ĐTNN đã được cấp giấy phép, từ 1988 đến năm 2007, CHDCND Lào đã thu
hút được 1,796 dự án với tổng số vốn FDI đạt khoảng 9,2 tỷ USA.\
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP của Lào chưa đều, giai đoạn (năm
1986 - 1990) có tốc độ tăng trưởng thấp nhất (4,5%) là do tác động của nhiều
yếu tố cả bên trong và bên ngoài tác động vào nền kinh tế của Lào. Trong nước,
năm 1986 Chính phủ Lào thực hiện chương trình cải cách toàn diện được gọi là
cơ chế kinh tế mới nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế định hướng thị trường, đến năm 1988 Nhà nước Lào đã ban hành luật
ĐTNN mới nhằm thu hút vốn từ bên ngoài vào. Giai đoạn (1996 - 2000) tốc độ
tăng trưởng của Lào là 5,9% là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra ở
trong khu vực làm ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế của Lào. Cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Lào, đặc biệt
ảnh hưởng tới ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và tới lạm phát, tỷ giá hối đoái,
thâm hụt tài chính và thương mại ở mức cao. Những tác động tiêu cực của cuộc
khủng hoảng lên hệ thống tài chính quốc gia đến nay vẫn chưa được đánh giá
đầy đủ. Thời gian (năm 2001 - 2005) tốc độ tăng trưởng GDP là 6,2% năm
(2006 - 2007) tốc độ tăng trưởng GDP tăng lên trung bình là 6,4% và (2013 -
2014) GDP không thể đạt được như kế hoạch 8,3% đã quy định. Cho nên có thể
65
nói rằng, về luật khuyến khích và bảo đảm đầu tư trực tiếp trong nước - nước
ngoài đây là quy định nội qui, qui tắc đối với việc xúc tiến, bảo vệ quản lý
ĐTNN ở Lào nhằm mục tiêu phát triển quan hệ, hợp tác về mọi mặt kinh tế đối
ngoại, sử dụng vốn trí tuệ để phát triển lực lượng để sản xuất có hiệu quả, phục
vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần vào việc giải quyết mọi vấn đề
cải thiện đời sống của nhân dân, phát triển đất nước giàu mạnh.
Tiếp đến Đại hội của Đảng NDCM Lào lần thứ IX, ngày 17 tháng 3
năm 2011 đã xác định là:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, với tăng cường quốc phòng - an ninh [70, tr.13-24].
Đại hội còn đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội toàn quốc 5 năm
qua lần thứ VI 2006 - 2010 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu
toàn quốc 5 năm sau lần thứ VII 2011 - 2015 cho Đại hội Đảng toàn quốc lần
IX trong đó mục tiêu chủ yếu là: Đưa nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước Lào cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực
khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh
được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản; vị thế của nước Cộng hòa dân chủ nhân Lào trên trường
hợp quốc tế được nâng cao [40, tr.68-72].
66
Thể chế hóa những chủ trương trên của Đảng, Nhà nước Lào chú ý
đến lĩnh vực đầu tư tạo cơ hội cho tất cả các chủ thể đầu tư trong nước và
nước ngoài bình đẳng với nhau... nên Quốc hội khóa VIII của CHDCND
Lào đã ban hành Luật đầu tư của nước CHDCND Lào. Đây là điều chỉnh
chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, có thể đánh giá chung quá trình phát triển pháp luật đầu tư nói
chung và đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nói riêng là
quá trình phát triển từ chưa thống nhất, đồng bộ đến thống nhất đồng bộ hơn;
từ tản mạn đến hệ thống và được hoàn thiện từ thấp đến cao. Kỹ thuật lập
pháp và pháp điển hóa ngày càng cao hơn. Điều đó, bước đầu đã tạo được
khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh, quản lý đầu tư nói chung và đầu tư nước
ngoài ở CHDCND Lào nói riêng ngày càng tốt và hiệu quả hơn
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.2.1. Những ưu điểm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
3.2.1.1. Chấp hành pháp luật đầu tư nước ngoài
Để chấp hành thực hiện tốt pháp luật ĐTNN tại CHDCND Lào, Chính
phủ Lào đã thành lập cơ quan Nhà nước về chấp hành luật đầu tư nước ngoài
tại Lào đạt được kết quả cao, đây gọi là Ủy ban quản lý đầu tư nước ngoài.
Hiện nay Ủy ban này trực thuộc Ủy ban kế hoạch và hợp tác. Ủy ban quản lý
đầu tư nước ngoài là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý việc thực hiện
pháp luật về ĐTNN tại Lào. Mọi sự đầu tư của nước ngoài sẽ được ngoài sẽ
được sự hỗ trợ, cấp phép và quản lý tập trung “qua một cửa” là Ủy ban quản
lý đầu tư nước ngoài. Ủy ban này đóng vai trò Trung tâm có sự tham gia của
Bộ, Ngành và địa phương có liên quan. Việc đầu tư của nước ngoài tại Lào sẽ
được coi là hoàn thành khi đã nhận được Giấy phép đầu tư của Ủy ban quản
67
lý đầu tư đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu xin phép
đầu tư phải gửi cho Ủy ban quản lý ĐTNN hồ sơ gồm:
- Đơn xin cấp giấy phép đầu tư.
- Giải trình kinh tế - kỹ thuật, điều lệ doanh nghiệp.
- Hợp đồng liên doanh.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh và các tài liệu cần thiết khác.
Ví dụ: Điều 34 khoản 4 Nghị định 031/CP:
Qui định việc nhập khẩu nguyên liệu, sản phẩm nửa thành phẩm và
thành phần để lắp ráp hoặc sản xuất thành sản phẩm rồi xuất khẩu
sẽ được miễn thuế, thuế áp dụng và doanh số thuế nhập khẩu và
xuất khẩu. Nhà đầu tư nước ngoài có mục đích đầu tư ở Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào phải làm thủ tục theo (Điều 19) luật khuyến
khích đầu tư nước ngoài kèm theo thủ tục khác quy định của Ủy
ban quản lý đầu tư nước ngoài đề ra, rồi nộp cho Ủy ban quản lý
đầu tư nước ngoài theo hướng một cửa [57, tr.5-19].
Đối với các dự án nằm trong mục tiêu khuyến khích của Chính phủ thì
Ủy ban quản lý ĐTNN có thể ra văn bản chấp nhận về mặt nguyên tắc trước.
Ủy ban quản lý đầu tư nước ngoài phải xem xét hồ sơ và thông báo quy
định bằng văn bản cho nhà đầu tư biết trong thời gian chậm nhất không quá
60 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Các ngành, các cơ
quan hữu quan khác của Nhà nước được đề nghị cho ý kiến hoặc cho phép về
mặt chuyên môn liên quan đến vấn đề ĐTNN. Các bộ, ngành này phải có ý
kiến bằng văn bản chậm nhất không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ
(Điều 26). Nhà đầu tư nước ngoài đã nhận được giấy phép đầu tư phải đăng
ký doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày và triển khai thực hiện dự án của
mình theo các bước đã quy định trong bản giải trình kinh tế - kỹ thuật và
trong giấy phép đầu tư đã được cấp phù hợp với luật pháp của Lào.
68
Ủy ban quản lý ĐTNN có trách nhiệm phối hợp với các bộ, ngành
và địa phương trong việc giám sát và kiểm tra việc tổ chức thực hiện các
dự án đầu tư nước ngoài cho đúng với giấy phép đầu tư, giải trình kinh tế
- kỹ thuật và pháp luật của Nhà nước. Các bộ Ngành và địa phương có
trách nhiệm quản lý các công trình ĐTNN nằm trong khu vực thuộc phạm
vi quản lý của mình. Trong trường hợp đồng, không thực hiện theo đúng
các quy định trong giấy phép đầu tư hoặc vi phạm pháp luật Lào thì đầu
tư nước ngoài vi phạm sẽ bị nhắc nhở và phải khắc phục kịp thời. Nếu nhà
ĐTNN không khắc phục các vi phạm bị nhắc nhở hoặc có sự vi phạm
nghiêm trọng thì dự án ĐTNN đó có thể sẽ bị hoãn hoặc bị rút giấy phép
đầu tư. Nhà đầu tư vi phạm có thể sẽ phải chịu trách nhiệm theo pháp luật
của CHDCND Lào (Điều 29).
3.2.1.2. Thực thi pháp luật đầu tư nước ngoài
Nhà nước đã chú ý đặc biệt giữa hai bên đầu tư cấp Trung ương và địa
phương để thành lập bộ máy giúp việc của Ủy ban tổ chực thực hiện pháp luật
về ĐTNN tại CHDCND Lào, đây là một cách để thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài có hiệu quả, cụ thể như sau: Điều 85: Cơ quan quản lý đầu tư.
Chính phủ là nơi quản lý chung và thống nhất trên toàn quốc, giao
ngành Kế hoạch và Đầu tư, ngành Công thương phối hợp với các ngành hữu
quan liên quan và chính quyền địa phương là chủ quản theo vai trò, chức năng
nhiệm vụ của mỗi nơi.
Cơ quan quản lý đầu tư gồm có:
1- Ngành Kế hoạch và Đầu tư;
2- Ngành Công Thương;
3- Đặc khu kinh tế và khu kinh tế chuyên ngành;
Ví dụ: Điều 84: Phân cấp quản lý đầu tư giữa địa phương và trung
ương. Địa phương là người cấp phép và quản lý đầu tư chủ yếu. Trung ương
cấp phép và quản lý các dự án có tính chất chiến lược, nhất là các dự án liên
69
quan đến nhiều ban, ngành hoặc nhiều địa phương, dự án sử dụng công nghệ
cao, dự án liên quan đến lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, viễn thông, hàng
không, chủ quyền quốc gia, năng lượng, khoáng sản, dầu thô, khí đốt
(gas)..v..v.. .theo quy định của Chính phủ và dưới sự phối hợp giữa tổ chức
cấp phép với các ngành hữu quan liên quan và chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương có nhiệm vụ tham gia theo chức năng vai trò
của mình trong việc quản lý dự án đầu tư đặt tại địa phương mình do Trung
ương cấp phép.
Việc phân cấp quản lý đã được quy định rõ trong luật của các ngành, do
đó thực hiện theo như các luật đã định [36, tr.36-43]. (Luật 2009)
(1) Cấp Trung ương:
Cục tổ chức việc thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài, văn
phòng thường trực Ủy ban thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cấp
trung ương. Vai trò của Ủy ban thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài sẽ
được quy định riêng.
Văn phòng Ủy ban kế hoạch và Đầu tư là Ban Thư ký Ủy ban thực hiện
pháp luật đầu tư nước ngoài cấp trung ương do Chánh văn phòng làm trưởng
ban Thư ký.
(2) Cấp địa phương:
Sở kế hoạch và Đầu tư của tỉnh, Thủ đô là Văn phòng thường trực của
Ủy ban thực hiện pháp luật về ĐTNN.
Văn phòng tỉnh, Thủ đô là Ban Thư ký Ủy ban thực hiện pháp luật
ĐTNN cấp địa phương.
- Vai trò, nhiệm vụ của Ban Thư ký Ủy ban tổ chức thực hiện pháp
luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài do Chánh văn phòng làm Trưởng ban
Thư ký gồm: Phối hợp với Sở kế hoạch và đầu tư thường trực địa phương
để chuẩn bị thời gian tổ chức cuộc họp thường kỳ và bất thường của Ủy
ban thực hiện pháp luật về ĐTNN cấp của mình, cùng các hồ sơ giấy tờ cần
70
thiết khác đề nghị lên Chủ tịch Ủy ban thực hiện pháp luật đầu tư nước
ngoài tự mở phiên họp.
Tham dự cuộc họp Ủy ban thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài và dự
thảo biên bản về nghị quyết cuộc họp Ủy ban thực hiện luật đầu tư nước ngoài
đề nghị xin chữ ký của Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch Ủy ban thực hiện luật đầu
tư nước ngoài theo quy định. Gửi biên bản cuộc họp Ủy ban thực hiện pháp
luật ĐTNN cho các thành phần liên quan biết và tổ chức thực hiện.
Theo dõi và thúc đẩy Cục thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài và Sở
kế hoạch và đầu tư địa phương trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của
cuộc họp Ủy ban thực hiện pháp luật ĐTNN và báo cáo lên Đoàn Chủ tịch Ủy
ban thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài thường trực [97, tr.82-92].
Thực hiện nhiệm vụ theo sự giao phó của Ủy ban thực hiện pháp luật
về đầu tư nước ngoài.
Vai trò trách nhiệm cụ thể của Ban thư Ủy ban thực hiện pháp luật đầu
tư nước ngoài các cấp giao cho Ủy ban thực hiện luật đầu tư nước ngoài các
cấp quy định riêng nếu thấy cần thiết.
Đối với tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào hiện
nay vẫn còn hạn chế và chưa được chú ý đúng mức. Điều đó do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là ở Lào hiện nay còn
thiếu những người chuyên gia, người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
liên quan đến tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài. Vì vậy để đạt
hiệu quả cao trong tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cần phải
đào tạo đội ngũ chuyên gia, người có nghiệp vụ chuyên môn tốt về lĩnh vực
này trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức thành phần
kinh tế khác nhau.
3.2.1.3. Sử dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
Sử dụng pháp luật ĐTNN ngoài là một hình thức thực hiện pháp luật về
đầu tư trong đó chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện
71
những hành vi mà pháp luật cho phép). Theo nội dung chính của pháp luật về
đầu tư là đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào về hợp
tác quốc tế đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Cho nên, thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài là một cách thức duy nhất của Đảng và nhà nước để khuyến khích
và đẩy mạnh cho việc ĐTNN tại CHDCND Lào được cụ thể hóa. Mục tiêu
của pháp luật đầu tư nước ngoài là tranh thủ vốn và kỹ thuật hiện đại, kinh
nghiệm và phương pháp quản lý thực tiễn, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý
chuyên gia và đội ngũ công nhân chuyên nghiệp cao; nhanh chóng tạo chỗ
đứng ngày càng vững chắc trong sự phân công lao động quốc tế tạo được thế
mạnh trên thị trường quốc tế. Hệ quả của những mục tiêu đó là việc khai thác
có hiệu quả nguồn tài nguyên đất nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người
lao động, đẩy mạnh xuất khẩu và các dịch vụ thu ngoại tệ, tăng tích lũy cho
sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì vậy, để khuyến khích các tổ chức
và cá nhân của các nhà đầu tư vốn và kỹ thuật vào Lào, pháp luật ĐTNN Lào
đã xác định được một khung pháp lý khá hoàn chỉnh và hấp dẫn trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền của Lào, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp
với luật lệ kinh tế trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và
phù hợp với phong tục, tập quán và thông lệ quốc tế. Điều 7: Hợp tác quốc
tế. Nhà nước hợp tác với nước ngoài, khu vực và quốc tế nhằm khuyến khích
đầu tư thông qua trao đổi kinh nghiệm, thông tin, kỹ thuật và kinh nghiệm
trong việc khuyến khích và quản lý đầu tư, thị trường, thương mại, nguồn
vốn, hội nhập khu vực và quốc tế [36, tr. 5].
Sử dụng pháp luật ĐTNN, trước hết cần khẳng định rằng doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng so với các tổ chức kinh
doanh khác của Lào, có toàn quyền quyết định chương trình và kế hoạch kinh
doanh của mình phù hợp với giấy phép đầu tư đã được cấp và thực hiện đúng
các nghĩa vụ mà pháp luật Lào quy định. Chính phủ nước CHDCND Lào bảo
hộ việc đầu tư và sở hữu của nhà ĐTNN trên cỏ sở pháp luật của Lào. Nhà
72
đầu tư nước ngoài có quyền thuê đất ở Lào, có quyền chuyển nhượng các tài
sản lưu động và tài sản cố định mà đã xây dựng hoặc cải tạo trên mảnh đất
thuê đó. Nhà ĐTNN được tự do hoạt động kinh doanh dưới pháp luật của
Lào. Nhà nước sẽ can thiệp vào việc quản lý kinh doanh của nhà ĐTNN.
Trong việc tuyển dụng lao động, trước hết các nhà đầu tư nước ngoài phải ưu
tiên cho công dân Lào; nếu thấy cần thiết về chuyên môn, nhà đầu tư nước
ngoài có thể nhận thêm người nước ngoài vào làm việc sau khi nhận được sự
đồng ý của cơ quan hữu quan của Chính phủ nước CHDCND Lào. Nhà đầu tư
nước ngoài có đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn cho những người lao
động Lào theo hình thức đào tạo tại chỗ hoặc đào tạo nước ngoài.
Chính phủ CHDCND Lào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc các nhà
đầu tư nước ngoài, người lao động nước ngoài kể cả các thành viên gia đình
của họ trong việc xuất nhập cảnh và nghỉ ngơi ở Lào vì mục đích kinh doanh
hoặc vì công việc gia đình, nhưng họ phải tôn trọng và tuân theo pháp luật
của Lào trong xuất thời gian ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư nước ngoài phải
mở tải khoản bằng tiền Kíp và tiền nước ngoài tại Ngân hàng của Lào hoặc
ngân hàng nước ngoài đặt tại Lào. Trong việc quản lý kinh doanh, nhà đầu tư
nước ngoài phải áp dụng chế độ kế toán của Lào và chịu sự kiểm soát thường
xuyên theo chế độ quản lý, kế toán của Chính phủ Lào.
Các nhà đầu tư nước ngoài được phép chuyển lợi nhuận và vốn thu
được từ hoạt động đầu tư của mình về nước hoặc sang nước thứ ba thông
qua Ngân hàng đặt tại Lào, theo tỷ giá hối đoái ngân hàng Nhà nước Lào
quy định trong từng giai đoạn. Đối với người nước ngoài làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Lào, sau khi đã nộp thuế thu
nhập, các loại thuế và lệ phí khác cũng được phép chuyển lợi nhuận của
mình về nước mình hoặc sang nước thứ ba. Các nhà đầu tư nước ngoài phải
phải nộp thuế thu nhập cho Chính phủ Lào mỗi năm 20% lợi nhuận thu
73
được, còn các loại thuế và lệ phí khác thì thực hiện theo pháp luật của Lào.
Đối với hoạt động kinh doanh về tài nguyên thiên nhiên và năng lượng của
Lào thì thực hiện theo hợp đồng đã thỏa thuận giữa Chính phủ Lào với nhà
đầu tư nước ngoài (Điều 16). Các thiết bị, máy móc và phương tiện sản xuất
khác chuyên dùng trong công trình hoặc trong sản xuất kinh doanh mà các
nhà ĐTNN nhập khẩu vào Lào phải nộp thuế nhập khẩu cho Chính phủ Lào
1% giá trị của thiết bị, máy móc đó. Riêng nguyên liệu và bán thành phẩm
nhập vào để chế biến hoặc tái sản xuất thành sản phẩm hoàn chỉnh để xuất
khẩu thì sẽ được miễn thuế xuất khẩu. Còn nguyên liệu và bán thành phẩm
nhập vào để chế biến hoặc tái sản xuất thành sản phẩm hoàn chỉnh để thay
thế hàng nhập khẩu sẽ được giảm thuế nhập khẩu theo chính sách của Chính
phủ Lào. Trong trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của Chính phủ Lào, các
nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng các quyền và lợi ích từ việc đầu tư
có tác động tốt hoặc đầu tư với quy mô lớn và ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Lào dưới hình thức được giảm miễn thuế thu
nhập hoặc thuế nhập khẩu các thiết bị, máy móc và các phương tiện sản xuất
khác như đã nêu ở trên.
Nhà ĐTNN ngoài việc nộp thuế thu nhập hàng năm đúng đắn và đầy
đủ, còn phải trích một phần lợi nhuận để lập quỹ dự phòng hoặc các quỹ khác
để đảm bảo cho hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh của mình có chất
lượng ngày một tốt hơn theo chính sách và quy định trong điều lệ của doanh
nghiệp mà mình làm chủ đầu tư. Các hoạt động đầu tư của nước ngoài tại Lào
phải được thực hiện với việc chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp
luật của Lào, với các biện pháp bảo vệ môi trường thiên nhiên, sức khỏe an
toàn cho người lao động và trật tự công cộng ở xung quanh cơ sở sản xuất
kinh doanh của mình. Các nhà đầu tư phải tham gia bảo hiểm và phúc lợi xã
hội cho người lao động theo chính sách và pháp luật của Lào.
74
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài với
nhau hoặc giữa nhà đầu tư nước ngoài với bên Lào thì các bên phải tìm cách
giải quyết theo hợp đồng của mình thông qua thương lượng và hòa giải. Nếu
hòa giải không thành thì các bên tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận với nhau đề
nghị lên tổ chức trọng tài kinh tế của Lào hoặc sử dụng hình thức giải quyết
khác của Lào, của nước ngoài hoặc của quốc tế [74, tr.80-110].
3.2.1.4. Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
Sau khi pháp luật về ĐTNN tại CHDCND Lào, đã được phát triển
và hoàn thành tốt bao nhiêu, thì là phải đem lại trên bản chất của nó như:
Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài luôn gắn liền với việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước với hoạt động
quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì lẽ đó, áp
dụng pháp luật ĐTNN là hình thức pháp luật quan trọng được khoa học
pháp lý xã hội chủ nghĩa chú trọng nghiên cứu, trong đó có những vấn đề
đáng chú ý sau: Điều 6. Phạm vi áp dụng. Luật này áp dụng với cá nhân hoặc
pháp nhân liên quan đến mọi loại hình đầu tư để tiến hành sản xuất kinh doanh
nhằm tạo giá trị gia tăng, trừ kinh tế gia đình và người buôn bán nhỏ [36, tr.5].
Ví dụ: Điều 58. Khuyến khích bằng quyền sử dụng đất. Nhà đầu tư
nước ngoài đến đầu tư với số vốn đăng ký từ 500.000 đô la Mỹ trở lên có
quyền mua quyền sử dụng đất của nhà nước đã trong quy hoạch theo quy định
của thời gian đầu tư dự án để xây dựng nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh, nhưng
cần được sự đồng ý của tổ chức quản lý đất đai địa phương theo quy định
pháp luật.Chính phủ là cơ quan ban hành các quy định và cơ chế phân cấp
quản lý đối với việc ưu đãi quyền sử dụng đất của nhà đầu tư nước ngoài đến
đầu tư tại Lào [36, tr.26].
- Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, vào cuộc sống với hiệu
quả cao nhất chỉ khi những quy phạm của nó phản ánh chính xác ý nguyện
của nhân dân, phù hợp quy luật xã hội và được thực chính xác, triệt để.
75
Nhưng, nếu chỉ thông qua các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật
và sử dụng pháp luật thì sẽ rất nhiều quy phạm pháp luật không được thực
hiện. Lý do có thể là các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả
năng tự thực hiện nên thiếu sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Mặt khác, pháp luật là cơ sở tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, điều
chỉnh quan hệ giữa cơ quan nhà nước với nhau. Toàn bộ việc tổ chức và hoạt
động ấy đều liên quan và đòi hỏi việc thực hiện pháp luật, chủ yếu là dưới
hình thức áp dụng pháp luật. Có thể khái quát việc áp dụng pháp luật ĐTNN
trong các trường hợp sau:
Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, hoặc áp dụng các
chế tài đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Một công dân
thực hiện một hành vi phạm tội thì không phải ngay sau đó trách nhiệm hình
sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành phạt tương ứng. Vì
vậy, cần có hoạt của Tòa án và các quan bảo vệ pháp luật có liên quan nhằm
điều tra, truy tố, đối chiếu với pháp luật để xét xử, ra bản án, trong đó xác
định rõ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và buộc họ phải chấp
hành nghiêm bản án.
Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tụ giải quyết được.
Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật phát sinh, những quyền và nghĩa vụ
của các bên không được thực hiện vì có sự tranh chấp. Ví dụ, tranh chấp giữa
những bên tham gia hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự.
Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham
gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó,
hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự
kiện thực tế. Ví dụ, việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp... Tóm lại, áp
dụng pháp luật ĐTNN là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà
76
nước mà biểu hiện cụ thể là một hình thức thực pháp luật, hoặc là cách thức
nhà nước tổ chức các chủ thể thực hiện pháp luật.
- Trước hết, áp dụng pháp luật là động lực mang tính tổ chức, thể hiện
quyền lực nhà nước. Việc áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước hay
nhà chức trách trong phạm vi thẩm quyền. Mỗi cơ quan nhà nước nhà chức trách
trong phạm vi thẩm quyền được giao thực hiện một số những hoạt động áp dụng
pháp luật nhận định. Trong quá trình áp dụng pháp luật mọi khía cạnh, mọi tình
tiết của vụ việc cần giải quyết đều phải được xét cẩn trọng để áp dụng pháp luật
chính xác. Như vậy, pháp luật là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng pháp luật thực hiện chức năng của mình. Có một số trường hợp cá
biệt, một số tổ chức không phải cơ quan nhà nước nhưng được nhà nước trao cho
một số nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước cũng có thể tiến hành áp dụng
pháp luật. Việc áp dụng pháp luật với đặc điểm trên được xem là sự tiếp tục thể
hiện ý chí, quyền lực của của nhà nước.
Áp dụng pháp luật ĐTNN được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn
phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí
của chủ thể bị áp dụng pháp luật.
Áp dụng pháp luật ĐTNN có tính chất bắt buộc (trong trường hợp
cưỡng chế) đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan.
- Văn bản áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là văn bản chứa đựng
các quyết định áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan hay nhà trách có thẩm
quyền áp dụng pháp luật ban hành. Văn bản áp dụng pháp luật mang tính bắt
buộc phải thực hiện đối với nhưng tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong
những trường hợp cần thiết, văn bản áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước.
Áp dụng luật pháp luật ĐTNN được thực hiện theo một quy trình,
thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Do tính chất quan trọng và phức
tạp của hoạt động áp dụng pháp luật, chủ thể bị áp dụng pháp luật có thể
77
được hưởng những lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu
quả rất nghiêm trọng nên pháp luật xác định xác định rõ ràng quy trình,
thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình áp dụng pháp luật.
Ví dụ, việc giải quyết một vụ án hình sự phải phải tiến hành theo
những quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hình sự; việc xử phạt hành
chính được điều chỉnh bởi những quy phạm thủ tục xử phạt hành chính.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá
trình áp dụng pháp luật ĐTTNN phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định
đó, để tránh những sự tùy tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật
không đúng, không chính xác. Điều 97: Xử phạt. Cá nhân, tập thể vi phạm
pháp luật về khuyến khích đầu tư sẽ bị xử phạt với các biện pháp: giáo dục bồi
dưỡng, kỷ luật, xử phạt, bồi thường dân sự hoặc truy tố theo từng trường hợp nặng
hoặc nhẹ, theo quy định của pháp luật [36, tr. 44].
Áp dụng pháp luật ĐTNN là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối
với các quan hệ xã hội xác định. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật
đầu tư nước ngoài là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, trên
cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động áp
dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa một
cách cụ thể và chính xác.
Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo,
khi áp dụng pháp luật này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên
cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ bản chất pháp lý của nó để từ đó lựa chọn
đúng, chính xác quy phạm, ra văn bản áp văn bản áp dụng pháp và tổ chức thi
hành kịp thời. Trong trường hợp pháp luật chưa quy hoạch quy định chưa rõ thì
cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền phải hết sức thận trọng trong việc ra
quyết định. Đây cũng là điều đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp
luật cao, có trí thức tổng hợp, có kinh nghiệm và trách nhiệm trong quản lý.
78
Như vậy, áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là hoạt động mang tính
tổ chức, tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoạt các tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền thực hiện nhằm đưa các
quy phạm pháp luật vào cuộc sống và lợi ích cho người dân toàn diện.
3.2.2. Hạn chế của thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
Một là, việc tuân thủ pháp luật đầu tư của một số chủ thể liên quan đầu
tư nước ngoài còn hạn chế.
- Công tác quản lý và xúc tiến các dự án ĐTNN tại Lào còn yếu kém:
Trong thời gian qua, sự trao đổi thông tin, phối hợp giữa các Bộ ngành từ
trung ương đến địa phương nhằm hướng dẫn cung cấp thông tin, thỏa thuận
cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa tốt,
đặc biệt là trong công tác quản lý sau cấp phép. Công tác xúc tiến đầu tư nước
ngoài tại Lào mặc dù đã có nhiều chuyển biến tốt như tiến hành các chương
trình kêu gọi xúc tiến ĐTNN, song chưa được tổ chức thường xuyên và khâu
tổ chức thực hiện chưa thực sự đem lại hiệu quả, do thiếu kinh nghiệm cũng
như kinh phí trong việc thiết lập các chương trình xúc tiến. Ngoài ra, những
thông tin đưa ra để nhà đầu tư tham khảo về tình hình hoạt động của các dự
án đầu tư còn thiếu đầy đủ. Số liệu có thể do rất nhiều các cơ quan tổng hợp
cho nên có sự khác biệt. Nhà đầu tư cần số liệu đúng và các thông tin chi tiết
hơn về các lĩnh vực ngành nghề trước khi họ quyết định đầu tư.
- Năng lực của một số nhà ĐTNN còn hạn chế: Do năng lực kinh
doanh của một số nhà ĐTNN bị hạn chế, nhiều dự án FDI đã triển khai bị lỗ
kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến thực hiện pháp luật FDI ở Lào. Một số
nhà đầu tư nước ngoài những năm đầu vào Lào xin cấp giấy phép đầu tư với
mục đích làm dịch vụ bán giấy phép để kiếm lời. Các nhà đầu tư nước ngoài
với mục đích trên, tìm đối tác Lào để ký kết hợp đồng, sau khi được giấy
79
phép đầu tư thì họ chào bán lại cho các hãng khác có nhu cầu. Quá trình
chuẩn bị dự án chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức, nhà ĐTNN chưa
chú ý tuân thủ theo những quy định của Nhà nước Lào, nên chất lượng của
một số dự án kém hiệu quả. Một số nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng kẽ hở
của cơ chế, chính sách và luật pháp Lào để làm ăn bất chính, lợi dụng sự yếu
kém về chuyên môn, nghiệp vụ của người Lào trong các liên doanh mà bên
nước ngoài chiếm ưu thế. Phần lớn việc mua thiết bị, dàn xếp các hợp
đồng, điều kiện vay vốn, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm... đều do bên nước
ngoài đảm nhiệm, nên một số dự án, hình thức là liên doanh nhưng thực
chất phía Lào chỉ làm gia công cho phía nước ngoài, không nắm được hiệu
quả thực sự của dự án. Họ đã dùng nhiều thủ đoạn để vô hiệu hóa cán bộ
Lào, đưa liên doanh vào tình trạng thua lỗ thời gian ban đầu, nhằm mục
đích được miễn hoặc giảm thuế.
Hai là, việc áp dùng pháp luật đầu tư chưa được nhất quán. Việc thu hút
và hợp tác ĐTTNN cùng với việc khuyến khích đầu tư trong nước là vấn đề mà
Đảng và Chính phủ Lào đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, tình hình hoạt động đầu
tư thường xuyên thay đổi. Những thay đổi đó không thể không ảnh hưởng trực
tiếp đến việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này. Hệ
thống chính sách, luật pháp về đầu tư của Lào đang trong quá trình hoàn thiện
nên còn thiếu tính đồng bộ và ổn định, nhiều qui định chưa rõ ràng, thậm chí có
những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo. Một số vấn đề cấp bách tuy đã được
nghiên cứu đề xuất từ lâu nhưng vẫn chậm được luật hóa. Một số trường hợp,
tuy đã luật hóa rồi nhưng sau một thời gian dài vẫn chưa có văn bài hướng dẫn
thi hành. Một số quy định còn thiếu cụ thể, dẫn tới những cách hiểu khác nhau,
có những chỗ dẫn chiếu chung chung như: "phải phù hợp với pháp luật Lào"
nhưng thực tế khó có thể tìm thấy các quy định để xác định tính phù hợp đấy
nằm trong những văn bản nào [35, tr.9].
80
Sự thiếu cụ thể của các quy định dẫn đến việc áp dụng pháp luật đầu
tư chưa nhất quán, làm cho các nhà đầu tư cả trong và nước ngoài thiếu an
tâm đầu tư. Mặt khác, thực trạng này làm các cơ quan nhà nước thiếu sự
thống nhất trong thẩm định và cấp phép dự án đầu tư, trong quản lý nhà
nước đối với các dự án đã cấp phép, gây lãng phí công sức và thời gian
nhưng chưa mang lại kết quả mong muốn. Vì vậy, nâng cao tính cụ thể của
pháp luật đầu tư Lào thực sự là yêu cầu bức xúc hiện nay. Pháp luật chỉ có
tác dụng thực sự khi nó không dừng lại ở các quy định chung chung, có
tính nguyên tắc mà phải quy định các mối quan hệ cụ thể giữa những chủ
thể cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể: Đối với CHDCND Lào, Luật
khuyến khích đầu tư trong nước năm 2004 đang có hiệu lực chỉ có 8
chương và 26 điều. Tương tự, Luật khuyến khích và đầu tư trực tiếp nước
ngoài năm 2004 cũng chỉ gồm 8 chương và 32 điều: Nếu so sánh với những
yêu cầu điều chỉnh quan hệ đầu tư thì vẫn còn thiếu. Chỉ riêng tính về số
lượng, có thể thấy ngay rằng các luật này khó có thể tiên liệu được hết các
vấn đề phức tạp phát sinh từ quan hệ đầu tư, điều này càng trở nên rất đặc
biệt bất cập khi hiện nay Lào đang tăng cường chính sách thu hút đầu tư
trong và nước ngoài đầu tư tại Lào. Thực trạng hiện tại của pháp luật đầu
tư chưa cho phép điều chỉnh những vấn đề mới, phức tạp đang nảy sinh và
cần được giải quyết kịp thời và hiệu quả [12, tr. 39].
Hạn chế lớn khác của hệ thống pháp luật đầu tư của nước Lào là sự
thiếu thống nhất của pháp luật trong việc điều chỉnh hoạt động đầu tư. Cụ
thể là chế độ pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư tại Lào được cấu tạo
thành hai bộ phận tương ứng với hai thể loại đầu tư trong nước và ĐTNN.
Giữa hai bộ phận pháp luật đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài có sự
khác biệt tương đối lớn về phạm vi lĩnh vực, thời hạn, thủ tục đầu tư, quyền
và nghĩa vụ của nhà đầu tư…Đặc biệt là có sự chênh lệch khá lớn trong
81
chính sách, biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư. Ví dụ: những ưu đãi về
thuế dành cho các nhà ĐTNN là quá lớn so với nhà đầu tư trong nước. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng mức thuế suất, thuế
thu nhập đầu tư nước ngoài là 25%. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong
nước phải chịu mức thuế này là 32%. Ngược lại, pháp luật cũng có quy
định về sự hỗ trợ đầu tư, tạo điều kiện đầu tư ưu đãi cho doanh nghiệp
trong nước hơn nhiều so với doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Ví dụ, Nhà nước
hỗ trợ về tín dụng, về giá và phí dịch vụ rẻ... cho các nhà đầu tư trong
nước, nhất là cho doanh nghiệp nhà nước trọng điểm của CHDCND Lào.
Nhìn chung, sự thiếu thống nhất trong pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu
tư tại CHDCND Lào tạo nên tình trạng giữa các nhà đầu tư luôn có tâm lý
suy bì, nảy sinh tư tưởng lo lắng về sự phân biệt, đối xử của Nhà nước. Các
nhà nước đầu tư trong nước nhìn vào các ưu đãi về thuế dành cho nhà đầu
tư nước ngoài mà kêu ca, ngược lại các nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận
các biện pháp hỗ trợ mà Nhà nước dành cho doanh nghiệp trong nước như
một sự phân biệt đối xử. Chính các nguyên nhân trên đã gây ảnh hưởng
không nhỏ tới tình hình đầu tư và thu hút đầu tư ở Lào thời gian qua.
Các quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư là vấn đề mà các
nhà đấu tư luôn đặc biệt chú ý. Những quy định về lĩnh vực này chủ yếu quy
định dưới luật, rất phức tạp và khó thực thi. Tốc độ xử lý hành chính nói chung
của các cơ quan có trách nhiệm còn rất chậm và phiền hà. Điều này làm chậm
thời gian hình thành và triển khai dự án, cũng đồng nghĩa việc làm mất cơ hội
kinh doanh của nhà đầu tư. Thời gian thẩm định cấp giấy phép đầu tư đối với
một số dự án không đúng quy định. Thủ tục cấp đất, giao đất, đền bù giải tỏa
đang là một vấn đề bức sức, gây ách tắc đối với việc triển khai thực hiện dự án.
Một công trình nghiên cứu gần đây đã đưa ra nhận xét “Hiện nay, Lào vẫn là
một trong nước kém nhất ở Châu Á về tốc độ xử lý hành chính” [105, tr.9-11].
82
Bảng 3.1: Tổng kết dự án đầu tư trong nước và nước ngoài đã cho
phép ở Lào năm 2015
Đơn vị tính: USD
CỔ PHẦN TRONG NƯỚC
TT NGÀNH SỐ DỰ ÁN Vốn cá
nhân Vốn nhà
nước
CỔ PHẦN NƯỚC NGOÀI
TỔNG QUAN VỐN
(US$)
1 Kinh doanh trong nước
49 676,046,929 2,000,000 50.156,707 728,203,637
2 Doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài 52 3,614,884 1,395,400,713 1,399,015,597
3 Kinh doanh
cổ phần 29 115,415,262 361,495,000 2,346,248,786 2,823,159,048
TỔNG HỢP 130 795,077,075 363,495,000 3,791,806,207 4,950,378,282
Nguồn: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia lần thứ VII (2011-2015) [37]
Trong bối cảnh các qui định của Luật chưa rõ ràng, việc phổ biến và
hướng dẫn thực hiện chưa được coi trọng dẫn tới việc các qui định pháp luật
được áp dụng tùy tiện ở một số địa phương, bộ ngành. Công tác quy hoạch đầu
tư kể cả quy hoạch ngành và vùng lãnh thổ còn chậm, chất lượng chưa cao. Hoạt
động xúc tiến ĐTNN còn nhiều mặt hạn chế do khâu quy hoạch và lập danh mục
dự án kêu gọi đầu tư chưa được rõ ràng. Lào cũng như các nước kém phát triển
chưa có cơ quan xúc tiến đầu tư tại nước ngoài như các nước khác trong khu
vực. Nhìn chung hoạt động xúc tiến đầu tư manh mối, vừa không đủ thông tin cụ
thể vừa thiếu định hướng chung, thậm chí có tình trạng cạnh không lành mạnh
thông qua việc đưa ra một số ưu đãi trái pháp luật.
Ba là, Công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư trong và nước ngoài
cũng còn nhiều mặt yếu kém. Trong một thời gian dài việc quản lý nhà nước
quá tập trung vào khâu cấp phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy
phép, không kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi dự
83
án, thậm chí bỏ trống một số khâu quan trọng của công tác quản lý như: Kiểm
toán, kế toán, đấu thầu, giám định, nghiệm thu… gây thiệt hại đến lợi ích của
đối tác Lào và lợi ích của Nhà nước [37, tr.10-51].
3.2.3. Nguyên nhân của những yếu kém về thực hiện pháp luật về
đầu tư ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
- Nguyên nhân khách quan
Một là, những năm qua, Nhà nước CHDCND Lào đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư như: Luật ĐTNN, Luật khuyến
khích đầu tư trong nước, luật doanh nghiệp, luật thương mại và nhiều luật cụ thể
khác, tạo lập một khuôn khổ pháp lý quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ liên
quan đến hoạt động đầu tư, góp phần tạo môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi,
hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, các
luật liên quan đến đầu tư được ban hành riêng lẻ, còn có những vấn đề thiếu nhất
quán về nội dung, phạm vi điều chỉnh; còn có sự phân biệt đối xử giữa các nhà
đầu tư và các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đã hạn chế
việc huy động và phát huy các nguồn lực. Hơn nữa, CHDCND Lào đã ký kết và
đang triển khai thực hiện nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan
đến hoạt động đầu tư, đòi hỏi phải mở cửa thị trường theo lộ trình đã cam kết,
xóa bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan hoặc các trợ cấp không phù hợp với
các cam kết quốc tế. Việc đàm phán để gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới
cũng đặt ra yêu cầu phải cải thiện môi trường đầu tư.
Vì vậy, trước những đòi hỏi khách quan của việc thực hiện pháp luật
đầu tư nước ngoài cho hiện đại và phù hợp để phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập kinh tế quốc tế cần có nhưng quy định pháp lý, tạo môi trường
bình đẳng, thuận lợi về đầu tư, khuyến khích các nhà đầu tư thuộc mọi
thành phần kinh tế yên tâm, tin tưởng, hăng hái huy động và sử dụng mọi
nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế.
84
Hơn thế nữa, việc xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới
năm 2008 đặc biệt ở Mỹ và EU làm ảnh hưởng thực hiện ĐTNN không nhỏ
cho hoạt động pháp luật đầu tư thế giới nói chung và hoạt động thực hiện
pháp luật ĐTNN đầu tư trong khu vực nói riêng. Ngoài ra, sự tác động ảnh
hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật ĐTNN, các cuộc khủng hoảng còn
làm giảm giá cả hàng hóa, sức tiêu thụ thị trường khu vực và thế giới chủ yếu
tiêu thụ hàng hóa ở Mỹ giảm xuống đáng kể, tình trạng này khiến các công ty
phải giảm công suất, thu hẹp sản xuất dẫn đến việc tuyển dụng lao động giảm
xuống gây nên thất nghiệp... Về việc thực hiện pháp luật ĐTNN, bao giờ có
cũng liên quan với bộ máy tiền tệ của nhà nước hoặc thế giới.
Ngân hàng thế giới (WB) dự kiến kinh tế thế giới năm nay tăng
trưởng chậm 2,9%, còn năm 2010 kinh tế thế giới dự kiến sẽ tăng trưởng 2%
và năm 2011 dự kiến là 3,2%. WB cũng dự kiến năm nay GDP của các nước
đang phát triển sẽ tăng trưởng 1,2%, nhưng nếu không tính đến Trung Quốc
và Ấn Độ thì sự tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển là với dấu
âm (-1,6%). Đây là khủng hoảng tài chính tiền tệ nặng trong vòng 70 năm.
Còn kinh tế của các nước đang phát triển năm 2010 sẽ tăng trưởng 4,4%
nhưng nếu không tính đến Trung Quốc và Ấn Độ thì GDP của các nước này
sẽ tăng trưởng 2,5%. Tuy nhiên, Ngân hàng thế giới vẫn còn lo lắng về
lượng vốn của tư nhân vào các nước đang phát triển năm nay giảm xuống
chỉ còn một nửa (363 tỷ USD) so với năm 2008 là 707 tỷ USD và năm 2007
đạt kỷ lục là 1,200 tỷ USD [35, tr.11-40].
Hai là, sự cạnh tranh trong thu hút FDI đối với việc thực thiện
pháp luật ĐTNN, giữa các nước trong khu vực. Sự phát triển của nền kinh
tế thế giới và tiến trình toàn cầu hóa đã làm cho nguồn vốn FDI thế giới
ngày càng gia tăng và mở rộng, đồng thời cũng làm cho nhu cầu thực hiện
pháp luật ĐTNN ở tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển và
85
nền kinh tế chuyển đổi ngày càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa
các quốc gia và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này. Với các nước có
điều kiện thuận lợi và sức hấp dẫn cao sẽ thu hút được nhiều FDI. Các
nước trong khu vực như. Trung Quốc, Singapore, Việt Nam, Thái Lan...
thực hiện chính sách mở cửa thu hút FDI trước Lào, nay đã có nhiều thay
đổi nhanh chóng và thuận lợi hơn Lào về cải thiện môi trường và chính
sách thực hiện pháp luật ĐTNN. Nói cách khác, sau khủng hoảng tài
chính, hầu như các nước trong khu vực đều thi hành một loạt các chính
sách nâng cấp, cải tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn làm
cho cuộc cạnh tranh thu hút FDI ngày càng trở nên gay gắt hơn trong nội
bộ khu vực. Sự chậm trễ triển khai những đối sách thích ứng với những
tình hình trên đã khiến thu hẹp dòng FDI vào Lào.
Hiện nay, nhu cầu cần thiết vốn phát triển kinh tế của Lào, trong kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, để đảm bảo tốc độ tăng
trưởng GDP 7.5%, ước tính vốn đầu tư để phát triển theo kế hoạch 5 năm là
73,900 tỷ kíp, bằng 32% của tổng GDP, tăng lên 19.3%/năm (hệ số ICOR =
4,2). Trong đó từ vốn ngân sách nhà nước khoảng 23.1 tỷ kíp, chiếm 31.5%
của vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 10% GDP; nguồn vốn tư nhân trong nước và
nguồn vốn nước ngoài là 50,800 tỷ kíp, chiếm 68,75% hoặc 22% của tổng
GDP. Ở thời kỳ 2011-2020, nước Lào đã bước vào giai đoạn ổn định và phát
triển, nguồn đầu tư trong nước đã khá ổn định, chất lượng nguồn nhân lực
trong nước đã được nâng cao một bước, cơ cấu nguồn vốn giữa trong nước và
ngoài nước được cải thiện, đã có thể chủ động bố trí phát triển toàn diện giữa
các ngành, vùng, nhà nước có điều kiện chú ý hơn cho đầu tư phát triển vùng
sâu, vùng xa. Sự tham gia đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân trong nước cũng
phong phú hơn [35, tr.38], [65, tr. 77].
86
Bảng 3.2: Cân đối nguồn vốn theo phương án phát triển cơ bản
2006-2010 2011-2020 STT
Phương án
cơ bản Tỷ kíp % vốn %GDP Tỷ kíp % vốn %GDP
1 Cân đối nguồn vốn 69,490 100.0 31.6 391,000 100.0 32.5
1.1 Vốn nhà nước 29,020 41.8 13.0 139,022 35.6 12.0
Vốn ngân sách 4,728 6.8 2.1 34,756 8.9 3.0
Vốn ODA 24,292 35.0 10.9 104,267 26.7 9.0
1.2 Vốn dân cư 6,790 9.8 3.0 57,926 14.8 5.0
1.3 Vốn FDI 33,680 48.5 15.6 194,052 49.6 16.75
Nguồn: Chính phủ nước CHDCND Lào [39]
Sự đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào sự phát
triển kinh tế, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sự sản xuất sản phẩm, tạo ra công
ăn việc làm và phát triển nông thôn và thức đẩy kinh tế tư nhân được phát
triển. Hơn thế nữa, hiện nay đang xuất hiện hướng chuyển dịch vốn FDI từ
một số nước ASEAN sang Trung Quốc trong những năm gần đây, bởi Trung
Quốc đã có nhiều biện pháp tích cực thực hiện pháp luật ĐTNN và đã trở
thành nước đứng đầu thế giới về thu hút FDI trong năm 2002. Tính đến cuối
năm 2002, Trung Quốc đã tiếp nhận các nhà đầu tư hơn 180 nước và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Trung Quốc. Quan trọng hơn, Trung Quốc đã thu hút
được 400 trong tổng số 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới bỏ vốn
đầu tư vào những ngành sản xuất quan trọng như sản xuất ô tô, chế tạo máy,
điện tử, viễn thông... Bên cạnh một nước, Trung Quốc có nhiều ưu thế nổi bật
cả về thị trường với hơn 1,2 tỷ dân có thu nhập đang tăng lên nhanh chóng, có
công nghệ tương đối hiện đại và nhiều ngành công nghiệp phụ trợ với nguồn
nhân lực dồi dào và có kỹ năng cao [40, tr.102-150].
- Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do nhận thức về vai trò, vị trí của thực hiện pháp luật
ĐTNN trong nền kinh tế chưa thực sự thống nhất cao và do chưa quán triệt
87
đầy đủ quan điểm, chủ trương thực hiện pháp luật ĐTNN của Đảng ở các
cấp các ngành đến người dân. Bởi vậy, việc thống nhất quan điểm trong
việc tổ chức và hoạch định chính sách thực hiện pháp luật ĐTNN vào Lào
trong những năm tới đang là vấn đề cấp bách. Đảng và Nhà nước luôn có
quan điểm rõ ràng về vai trò của ĐTNN, coi vốn nước ngoài là quan trọng,
có vai trò bổ sung cho vốn trong nước. Tuy nhiên do việc quán triệt quan
điểm trên cho các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương chưa thật
đầy đủ, nên đã dẫn đến tình trạng thiếu sự nhất quán trong việc triển khai
thực hiện hoạt động thu hút nguồn vốn FDI. Do các nguyên nhân nêu trên
nên thủ tục hành chính của các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền
phục vụ cho các nhà đầu tư vẫn còn nhiều phiền hà, chưa tạo lập được môi
trường đầu tư thật sự hấp dẫn, chưa xây dựng được hệ thống pháp luật và
chính sách nhất quán.
Nhận thức về vai trò của pháp luật ĐTNN, đa số cho rằng nó đem lại
lợi ích nhiều mặt cho phát triển kinh tế - xã hội của Lào, nhưng vẫn còn có
ý kiến cho rằng pháp luật ĐTNN là hình thức bóc lột của tư bản nước
ngoài. Như vậy, việc nhìn nhận về vai trò của pháp luật ĐTNN đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế của Lào còn chưa thống nhất. Cho đến nay một
số quan điểm, nhận thức liên quan đến thực hiện ĐTNN như: Quan điểm về
hiệu quả FDI, tỷ lệ góp vốn giữa các bên đầu tư, lựa chọn đối tác nước
ngoài, việc miễn thuế thu nhập từ 2 đến 5 năm cho doanh nghiệp có vốn
FDI, về thuế nhập khẩu. Do không thống nhất được quan điểm trên, nên đã
dẫn đến tình trạng trì trệ ở nhiều khâu giải quyết của các cơ quan chức
năng liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Biểu hiện rõ nhất là ở các
khâu đền bù giải phóng mặt bằng, việc hợp tác giữa các bộ, ngành và các
cơ quan chức năng để soạn thảo ra hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ,
thống nhất dành cho hoạt động thực hiện đầu tư nước ngoài.
88
Thứ hai, hệ thống luật pháp, chính sách về thực hiện pháp luật ĐTNN
ở Lào nói chung đang trong quá trình hoàn thiện nên còn thiếu tính đồng bộ
và ổn định, thiếu chính xác, thậm chí còn chồng chéo, đặc biệt là thiếu tính
thể chế nên chưa tạo điều kiện cho hoạt động thực hiện các dự án FDI một
cách dễ dàng. Thực tế cho thấy, có tình trạng dự án FDI được cấp giấy phép
đầu tư khoảng một hoặc hai năm, nhưng các nhà ĐTNN không sang nhận,
hoặc họ nhận nhưng không thực hiện dự án do những thay đổi trong chính
sách như giá thuê đất cao quá và thủ tục liên quan khác. Rõ ràng, đây là
những bất cập trong chính sách, luật pháp của Lào, mà các nhà ĐTNN
không thể tiên đoán được. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước,
văn bản hướng dẫn của các Bộ ngành liên quan ban hành chậm so với quy
định, một số chưa phù hợp với thông lệ quốc tế đã gây khó khăn cho việc
thực hiện pháp luật ĐTNN.
Ngoài ra, do việc thực thi pháp luật ĐTNN và chính sách về FDI chưa
nghiêm túc, xuất hiện tình trạng nhiều cơ quan chức năng của địa phương không
những không tuân theo các quy định của nhà nước, mà cố tình làm phức tạp thêm
quy trình thực hiện, gây không ít khó khăn cho các nhà ĐTNN.
Hệ thống luật pháp, chính sách trong quá trình hoàn thiện, nên thiếu
đồng bộ, chưa ổn định, rõ ràng, minh bạch, nhất quán và khó dự đoán trước.
Các văn bản hướng dẫn cụ thể cho việc thi hành luật và các quy định đã đề ra
ban hành còn chậm, thiếu quy định cụ thể:
- Việc thực thi pháp luật, chính sách thực hiện pháp luật về FDI còn
chưa nghiêm túc. Sự yếu kém của hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư
nước ngoài của Lào không chỉ ở chỗ thiếu luật mà chủ yếu lại là ở chỗ có
khoảng cách khá lớn giữa các văn bản pháp luật với việc thực thi pháp luật
đó, và cơ bản nhất là do trình độ hiểu biết về pháp luật của các cán bộ cũng
như người dân. Một mặt, do các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư
89
nước ngoài quá nhiều, được soạn thảo bởi nhiều cơ quan và ban hành ở các
thời điểm khác nhau, trong khi việc hệ thống hóa các văn bản pháp luật làm
chưa tốt, việc tuyên truyền, giải thích các văn bản không kịp thời nên các cán
bộ các cấp không nắm được đầy đủ và có tính hệ thống về pháp luật liên quan
đến thực hiện pháp luật ĐTNN, dẫn đến vận dụng, xử lý không đúng. Nhiều
trường hợp, do quy định thiếu tính cụ thể nên mỗi nơi hiểu và vận dụng một
cách, thậm chí có trường hợp cố tình vận dụng sai để trục lợi cá nhân.
- Chính sách đất đai vẫn còn hạn chế: Thủ tục thuê đất, cấp đất, đền bù
và giải phóng mặt bằng còn phức tạp, việc giao đất nhất là các dự án có đền
bù và giải tỏa kéo dài gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Thủ tục
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm, phức tạp. Có một số dự án đã
được cấp phép nhưng không cấp đất để triển khai. Việc đền bù, giải phóng
mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều dự án sau khi được cấp giấy phép
đầu tư hoặc đang xây dựng cơ bản khó khăn trong khâu giao đất và thực hiện
đền bù giải phóng mặt bằng gây mất thời gian và chi phí đền bù tăng không
dự tính trước được.
Một số dự án liên quan đến nuôi trồng cây ăn quả, trồng rừng... cần
diện tích đất lớn thường gặp khó khăn trong khâu giao đất của địa phương do
diện tích không đủ như cam kết, thủ tục đền bù giải tỏa phức tạp.
Do thiếu quy hoạch chi tiết về đất đai để đáp ứng cho việc thực hiện pháp
luật FDI, một số địa phương tùy tiện xử lý vấn đề đất đai áp dụng đối với các nhà
ĐTNN. Chính sách và chế độ đền bù tài sản trên đất chưa được nghiên cứu, xác
định và ban hành, còn thiếu các chính sách và biện pháp hữu hiệu đối với công tác
di dân và tái định cư giải phóng mặt bằng đối với các dự án FDI.
Do quan điểm và nhận thức của cán bộ, quân đội, công an, nhân
dân và một số nhà kinh doanh không nắm được về việc sử dụng đất đai.
Việc thực hiện các luật liên quan đến sự quản lý, giữ gìn, phát triển và sử
90
dụng đất chưa mạnh, tạo điều kiện cho một số người lợi dụng bất chính.
Vấn đề lấn chiếm đất bừa bãi không có giấy phép đặc biệt là người dân
lấn chiếm đất Nhà nước để làm chủ. Việc thực hiện chính sách không tập
trung, thiếu hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan. Việc cấp phép
cấp đất chưa thống nhất, chưa có hệ thống hóa. Thu tiền thuê đất, lệ phí,
giá dịch vụ còn chồng chéo làm cho nhân dân mất lòng tin đối với cán bộ
chức năng [33, tr.3-41].
Hiện nay Lào đang tập trung phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng
ĐTNN. Theo thống kê tổng hợp đến nay có 398 doanh nghiệp nước ngoài
và 728 doanh nghiệp trong nước thuê đất. Mặc dù thời gian vừa qua
Chính phủ cho các nhà đầu tư thuê đất khá nhiều và đưa vào hoạt động
nhưng cơ quan quản lý đất đai quốc gia thấy rằng, nếu không nghiên cứu
triệt để việc cho thuê và phát triển đất sẽ có thể tạo thành con dao hai lưỡi
đồng nghĩa là sẽ gây ra những tích cực về kinh tế và tiêu cực về môi
trường đất nước [41, 42, tr.6-30;].
- Chính sách về tài chính:
Chính sách thuế: Mức thuế không cụ thể, thủ tục hoàn thuế phức tạp,
hệ thống chính sách thuế còn phức tạp, việc đưa ra các mức thuế không cụ thể
dẫn đến tình trạng tùy tiện áp dụng, hiện tượng thu thuế chồng chéo, trùng lặp
vẫn tồn tại. Nhìn chung, chính sách thuế của Lào vẫn chưa thực sự phù hợp
với nền kinh tế thị trường đa dạng, đa thành phần và chưa hòa nhập với hệ
thống thuế quốc tế. Thủ tục hoàn thuế phức tạp và không kịp thời làm giảm
tác dụng khuyến khích của các loại công cụ tài chính. Trong khi việc hoàn
thuế diễn ra chậm chạp, thì việc nộp thuế lại buộc các doanh nghiệp phải tuân
thủ chặt chẽ về thời gian quy định nộp thuế. Sự thiếu bình đẳng giữa các cán
bộ chức năng và các nhà đầu tư tạo ra hiện tượng cửa quyền ở cán bộ quản lý
và là kẽ hở gây ra sự sách nhiễu.
91
Chính sách tín dụng: Thủ tục vay vốn còn phiền hà, quy định về thế
chấp phức tạp và làm cho các nhà ĐTNN ít có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn
trong nước. Chế độ cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong những các yếu tố
quyết định sự thành công của xuất khẩu ở Lào, nhưng vấn đề này vẫn còn gặp
nhiều trở ngại, đặc biệt là việc cung cấp vốn lưu động cho các nhà ĐTNN
trong lĩnh vực xuất khẩu. Những trở ngại này liên quan đến thủ tục vay vốn
phiền hà, những quy chế phức tạp về thế chấp. Những bất cập trong việc cung
cấp tín dụng đã tác động xấu tới việc thực hiện pháp luật ĐTNN, vì các nhà
đầu tư nước ngoài ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn trong nước để thực
hiện hoạt động kinh doanh. Cho đến nay, Lào chưa có quy định về cơ chế
doanh nghiệp có vốn FDI được thế chấp quyền sử dụng đất cho các tổ chức
tín dụng ở Lào cũng như ở nước ngoài để vay vốn. Trong khi nguồn vốn cho
vay của tổ chức tín dụng hoạt động ở Lào còn nhiều hạn chế về cả thủ tục và
số lượng cho vay, thì việc đi vay từ tổ chức tín dụng nước ngoài là hết sức cần
thiết đối với các doanh nghiệp này.
- Chính sách lao động: Lào chưa xây dựng hoàn thiện các quy định về
lao động đặc biệt là quy định về lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài. Việc cung ứng lao động cho các doanh nghiệp có vốn FDI của các
trung tâm, công ty cung ứng lao động còn bộc lộ những hạn chế và tiêu cực.
Luật lao động thực hiện không nghiêm, việc xử lý các vi phạm liên quan đến
lao động chưa hợp lý. Điều này bộc lộ rõ nhất trên thực tế như trường hợp
tranh chấp lao động liên quan đến vấn đề tiền lương, tiền thưởng, điều kiện
làm việc chưa được xử lý thích hợp.
Tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn quản lý và kỹ thuật là
người Lào gặp rất nhiều khó khăn. Vì thực tế hiện nay, mặc dù Lào có
nhiều đội ngũ nhân công rẻ và trẻ, nhưng lực lượng nhân công đã qua đào
tạo tương đối thấp. Nói chung, lực lượng nhân công không có trình độ
chuyên môn thì dư thừa trong khi đó lại thiếu lao động có chuyên môn kỹ
92
thuật. Tuy nhiên, số lao động của Lào làm việc trong các doanh nghiệp có
vốn FDI phần lớn là lao động trẻ, có khả năng thích ứng nhanh với yêu cầu
công nghệ sản xuất tiên tiến, nhưng hạn chế về kinh nghiệm, tay nghề và
hiểu biết về các quy định của luật pháp lao động, chưa nắm vững các chính
sách, quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tiến hành ký hợp đồng lao động,
nên thường bị chủ doanh nghiệp áp đặt các điều khoản bất lợi về tiền
lương, tiền thưởng, điều kiện làm việc. Mặc dù các doanh nghiệp có vốn
FDI đã góp phần giải quyết được công ăn việc làm cho một số lao động
nhất định, song do chính sách lao động còn có nhiều bất cập, nên mục tiêu
nâng cao tay nghề cho công nhân và trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ
thông qua pháp luật ĐTNN còn hạn chế.
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng lao động đã cải thiện hơn song còn nhiều
vấn đề chưa được giải quyết, nhất là chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về việc thợ kỹ thuật có tay nghề cao. Mặc dù
Lào đã và đang có cố gắng mở thêm nhiều cơ sở dạy nghề và cải thiện chất
lượng đào tạo, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất
lượng lao động. Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, cũng như
giáo viên dạy nghề ở các trung tâm đào tạo, chưa được quan tâm đúng mực,
chưa có chính sách khuyến khích về vật chất và tạo điều kiện để họ tiếp cận với
khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới.
Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng của Lào nói chung, đặc biệt là cơ sở
hạ tầng cần cho hoạt động phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng là cơ sở hạ
tầng cần cho việc thực hiện pháp luật ĐTNN như sân bay quốc tế, các đường
cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến trung tâm phục vụ vận tải, hệ thống
liên lạc, viễn thông, cung cấp điện, nước... chưa đáp ứng được yêu cầu của
các nhà đầu tư nước ngoài.
Đường sá trong các địa phương thực sự là vấn đề. Hầu hết các cầu nhỏ
và cũ, do vậy, ảnh hưởng đến việc quyết định đầu tư của các nhà đầu tư vào
93
các khu vực này. Trong nội thành của thành phố, đường sá tốt hơn nhưng vẫn
thiếu vận tải công cộng. Sự thiếu đồng bộ và thiếu tính liên kết trong đầu tư
đường giao thông liên tỉnh vẫn còn là vấn đề.
Trong những năm qua Chính phủ Lào đã tập trung đầu tư cho hệ
thống đường quan trọng, hạ tầng giao thông nông thôn, đặc biệt ở các vùng
núi, vùng biên giới và đồng thời tiếp tục xây dựng đường quốc lộ, đường
sắt, sân bay, đặc biệt là cải tạo sân bay quốc tế Vạt Tay (Viêng Chăn), nâng
cấp sân bay Luông Prabang và sân bay Pắc Xê (Chăm Pa sắc) thành sân
bay quốc tế. Bên cạnh đó, đã khảo sát và thiết kế tuyến đường sắt 14 km từ
cầu Hữu Nghị Lào - Thái Lan đến bản Khăm Xa ạt và bây giờ các tuyến tàu
phục vụ hành khách đã đưa vào dịch vụ, đã khảo sát và xây dựng phương
án tiền khả thi tuyến đường sắt từ Thà Khẹk (Khăm Muôn Lào) đến đèo
Mụ Giạ (Việt Nam) [69, tr.19-56].
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước đối với pháp luật ĐTNN còn chưa
hiệu quả. Lào đã có nhiều bộ luật liên quan đến FDI, có nhiều nghị định và
văn bản pháp luật khác đã nêu rõ những định hướng cơ bản thực hiện pháp
luật ĐTNN theo ngành, lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư; nhưng trên
thực tế, các định hướng cơ bản này chưa được cụ thể hóa thành chính sách
thực hiện pháp luật ĐTNN một cách toàn diện.
Trong công tác quy hoạch, cũng còn một số bất cập ảnh hưởng đến việc
thực hiện pháp luật ĐTNN. Một số quy hoạch ngành đã được phê duyệt để
phát triển nhưng chưa có kế hoạch thực hiện triển khai cụ thể. Hơn nữa, một
số ngành, lĩnh vực chưa có quy hoạch gây khó khăn cho việc xác định chủ
trương thực hiện pháp luật ĐTNN.
Việc thực thi pháp luật đầu tư nước ngoài, chính sách chưa nghiêm.
Hiện tượng sách nhiễu, tiêu cực chưa bị chặn đứng. Tình trạng thanh tra, kiểm
tra còn chồng chéo, phiền hà làm xấu thêm môi trường đầu tư.
94
Việc phân cấp cấp giấy phép đầu tư cho các địa phương là chủ trương
đúng. Nhưng ở một số địa phương, năng lực thẩm định dự án còn hạn chế.
Việc phân cấp chưa đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm giảm
thiểu việc cấp giấy phép không phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển
ngành và địa phương. Chính phủ đã giao chức năng quản lý nhà nước cho
các tỉnh, địa phương đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có vốn FDI, nhưng nhiều địa phương không nắm chắc được hoạt
động của các doanh nghiệp, đặc biệt là các hoạt động kinh tế, tài chính... Do
đó, các hiện tượng phát sinh được phát hiện chậm, xử lý không kịp thời,
thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan.
95
Kết luận Chương 3
Trên cơ sở những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
ở CHDCND Lào ở chương 2, chương 3 luận án tập trung nghiên cứu quá
trình hình thành phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa DCND
Lào. Có thể nhận thấy rằng quá trình phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài ở
Lào là quá trình thể chế hóa chủ trương của Đảng NDCM Lào về đường lối
đổi mới toàn diện đất nước Lào nói chung và đường lối hợp tác kinh tế quốc
tế nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Lào nói riêng. Hệ thống
pháp luật đầu tư nước ngoài được phát triển từ những quy định tản mạn, thiếu
luật chuyên biệt điều chỉnh đầu tư ở Lào nói chung và đầu tư nước ngoài nói
riêng đến hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài ngày càng đồng bộ và hoàn
thiện và có luật riêng đến điều chỉnh quan hệ này. Hệ thống này đã tạo được
khung pháp lý điều chỉnh và quản lý hiệu quả đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào hiện nay. Tuy nhiên việc hình thành được khung pháp
lý mới chỉ là tiền đề quan trọng cho việc thực hiện pháp luật trong cuộc sống.
Chương 3 luận án cũng đã phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện pháp
luật đầu tư ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thông qua nội dung và 4 hình
thức thực hiện đó là: Tuân thủ chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật đầu
tư nước ngoài ở CHDCND Lào từ đó đã chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế
và nguyên nhân chủ quan, khách quan trong thực hiện pháp luật đầu tư nước
ngoài ở Lào hiện nay. Những kết quả của chương này luận án là cơ sở thực
tiễn quan trọng cho việc đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực
hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở CHDCND Lào ở chương tiếp theo
(chương 4) của luận án.
96
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1.1. Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào gắn liền với
chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài của Lào trong thời kỳ đổi mới
Trong Báo cáo về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 -
2025 và tầm nhìn đến năm 2030, tại Đại hội lần thứ X Đảng NDCM Lào, đồng
chí ThôngSỉnh Thămmavông Thủ tướng, Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng
đã chỉ ra:
Giai đoạn 15 năm qua (2001 - 2015) CHDCND Lào đã tiến lên từng
bước về mặt phát triển kinh tế - xã hội, kinh tế Quốc gia (GDP) phát
triển liên tục nhanh chóng tổng thể 7,4%/năm. GDP đầu người tăng
thêm từ tính lại năm 2000 - 2001 có 319 USD; mà đến năm 2013 -
2014 được 1.671 USD và năm 2014 - 2015 sẽ được 1.970 USD/năm.
Trong năm 2011 ngân hàng thế giới đã nâng Lào theo nhóm xếp thứ
tự của nước khoản thu nhập thấp, nâng cấp lên nhóm nước có khoản
thu nhập trung bình. Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển đổi theo hướng
công nghiệp hóa và hiện đại hóa, so với ngành nông nghiệp là hạ
xuống từ 46,2% năm 1999 - 2000 là trở thành 23,7% năm 2014 -
2015, ngành công nghiệp hóa tăng lên từ 17,9% năm 1999 - 2000 là
trở thành 29,1% năm 2014 - 2015 và chuyên ngành phục vụ tăng thêm
từ 35,9% năm 1999 - 2000 là trở nên 47,2% trong năm 2014 - 2015.
Nước CHDCND Lào là có bước đột phá là chuẩn bị sẵn sàng mang
đất nước thoát khỏi từ sự lạc hậu kém phát triển (LDCs), dựa theo
97
đánh giá kết quả của Quốc tế năm 2015 cho thấy tổng quan thu
nhập của Quốc gia (GNI) có thể thực hiện được 1.232 USD/đầu
người, là bằng 99% đúng tiêu chuẩn 1.242 USD, là chỉ tiêu sinh
hoạt của con người (HAI) được 60,8 bằng 92% của tiêu chuẩn thì
cần phải (tiêu chuẩn cao hơn 66), tiêu chuẩn sự yếu kém của kinh
tế (EVI) phải ở mức độ 36.2 bằng 88% của tiêu chuẩn (tiêu chẩn
thấp nhất 32) [72, tr.16].
Các văn bản pháp luật của Lào hiện nay, về đầu tư nước ngoài đã có
những quy định bảo đảm ĐTNN. Theo Hiến pháp năm 2003 (sửa đổi và bổ sung
hiến pháp năm 1991), Chính phủ Lào bảo đảm thực hiện ổn định, lâu dài chính
sách ĐTNN tại Lào, đồng thời sửa đổi, bổ sung chính sách đầu tư nước ngoài
theo nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Trong Điều 3, Luật
ĐTNN của nước CHDCND Lào, tài sản đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài đã
được đảm bảo bằng pháp luật CHDCND Lào [48, tr. 10].
Đầu tư nước ngoài có ý nghĩa là sự chuyển vốn gồm có: Tài sản, kỹ thuật
và kinh nghiệm vào nước CHDCND Lào bởi nhà đầu tư nước ngoài nhằm mục
đích kinh doanh. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài
đến đầu tư ởnước CHDCND Lào. Nhà đầu tư trong nước là người hợp vốn hoặc
người hợp tác kinh doanh với nhà ĐTNN bởi cá nhân hoặc pháp nhân công dân
Lào sống tại CHDCND Lào bao gồm cá nhân hoặc các tổ chức của công dân
Lào, người kiều bào và người không có quốc tịch Lào.
Tài sản là bằng tiền tệ, các đồ vật tài sản về trí tuệ. Doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài là doanh nghiệp liên doanh và hợp tác kinh doanh theo hợp đồng đã
ký với nhau tại CHDCND Lào (Điều 2). Đầu tư nước ngoài là yếu tố góp phần
tạo ra năng lực thực hiện hóa các nguồn tiềm năng trong và ngoài nước, thông
qua hình thức sản xuất kinh doanh đặc thù: chuyển vốn, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý sang một nước khác ngoài đất nước của chủ đầu tư.
98
- Bảo đảm đầu tư có thể được hiểu là bảo toàn những lợi ích thiết thực,
chính đáng của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, hoặc là nói một cách cụ thể,
đó là bảo toàn vốn và các tài sản khác được các nhà đầu tư đưa vào sản xuất
kinh doanh, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho vốn và tài sản đó mang lại
lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Chúng ta điều biết, các nhà đầu tư chỉ yên tâm và mạnh dạn bỏ vốn, tài
sản ra sản xuất, kinh doanh khi họ chắc chắn rằng vốn họ bỏ ra sẽ có lãi và cả
vốn lẫn lãi của họ đều được bảo đảm an toàn. Do vậy, bảo đảm đầu tư là một
trong những phương cách có tính chiến lược để khuyến khích đầu tư và thu
hút vốn đầu tư. Trong số các biện pháp bảo đảm đầu tư thì biện pháp chắc
chắn và có hiệu quả nhất là bảo đảm bằng pháp luật. Vì thế, các nhà nước
muốn khuyến khích, thúc đẩy đầu tư đều cố gắng xây dựng, ban hành và bảo
đảm thực hiện các quy định pháp luật về bảo đảm đầu tư [36, tr.88-96].
- Bảo đảm đầu tư là những cam kết của nước tiếp nhận đầu tư nhằm
đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn đối với tài sản,
vốn, các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành
các hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận. Đặc trưng của hoạt động đầu tư kinh
doanh là khả năng xảy ra rủi ro rất lớn, chính vì vậy, khi tiến hành đầu tư, các
nhà đầu tư thường chú trọng tới việc lựa chọn các biện pháp để giảm thiểu rủi
ro trong kinh doanh. Rủi ro có thể được giảm bớt bằng cách chính bản thân
các nhà đầu tư thiết kế và thực hiện những biện pháp bảo đảm riêng của mình
(ví dụ như tiến hành mua bảo hiểm đối với một số bộ phận của dự án đầu tư).
Ngoài ra, những khả năng rủi ro đó cũng có thể được cam kết giảm bớt
hoặc ngăn chặn không cho xảy ra bởi chính Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Hai cách
thức giảm thiếu rủi ro trên đây có những điểm phân biệt rõ nét, cụ thể: Nếu các
nhà đầu tư phải chi trả một khoản tài chính không nhỏ để có được sự an toàn
nhất định trong kinh doanh trong cách thức tự bảo đảm đầu tư thì đối với việc sử
99
dụng những biện pháp bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư cam kết thực
hiện thì các nhà đầu tư không phải chi trả bất cứ một khoản tiền nào.
Khi các nhà đầu tư tự tiến hành bảo đảm đầu tư cho mình có nghĩa là
các nhà đầu tư đã cá biệt hóa dự án đầu tư của mình với một khả năng giảm
thiểu rủi ro có thể không tìm thấy ở các dự án đầu tư khác, mặc dù các dự án
đầu tư khác này có thể cùng địa bàn, cùng lĩnh vực đầu tư. Tuy nhiên, với các
biện pháp bảo đảm đầu tư do nhà nước tiếp nhận đầu tư quy định thì những
cam kết đó được áp dụng đối với tất cả các dự án đầu tư, không phân biệt về
quy mô vốn, nguồn gốc vốn cũng như lĩnh vực và địa bàn đầu tư.
Việc các nhà đầu tư mua bảo hiểm hoặc dùng một số biện pháp đảm
bảo tự thân khác cho dự án đầu tư của mình thì kết quả cũng chỉ có thể giảm
hiểu những rủi ro mà nguyên nhân là do những khuyết tật của nền kinh tế thị
trường hoặc do trình độ quản lí kinh doanh yếu kém của nhà đầu tư. Nếu sử
dụng các biện pháp bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư ban hành thì các
nhà đầu tư còn tránh được cả những rủi ro về mặt lập pháp hoặc sự thay đổi
bất thường về mặt chính sách đối với các hoạt động kinh doanh của nước tiếp
nhận đầu tư.
- Sự bảo đảm ĐTNN là như: Tài sản và mọi sự đầu tư của nhà ĐTNN
ở nước CHDND Lào sẽ được bảo đảm bởi pháp luật của Lào, Các tài sản
đầu tư này không bị thu hồi, tịch thu gồm cả quốc hữu hóa, ngoại trừ có sự
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia. Nhà nước trung
mua, trung dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà ĐTNN sẽ được thanh toán
hoặc bồi thường theo pháp luật, trừ trường hợp vì lợi ích công cộng và
được bồi thường nhanh chóng, hợp lí hữu hiệu. Nhà nước đã khẳng định:
Nhà nước ta khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn
công nghiệp khóa học tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, bảo đảm
quyền sở hữu hợp pháp vốn, tài sản và các quyền lợi khác của nhà đầu
100
tư nước ngoài, bảo đảm vốn và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư nước
ngoài không bị tịch thu hoặc quốc hữu [55, tr.11-29; Điều 15].
Đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào hiện nay Nhà nước rất coi trọng
các khu vực kinh tế có vốn ĐTNN, bằng cách cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào hầu hết các ngành và lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh
tế quốc dân (trừ quốc phòng và một số ngành thuộc lĩnh vực ảnh hưởng đến
an toàn và an ninh quốc gia). Pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Lào ngày
càng tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình sản xuất - kinh doanh
của nhà đầu tư.
Đặc biệt là các quy định về cải cách thủ tục hành chính, các đường lối
chính sách của Đảng trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài. Cụ thể là
tranh thủ được vốn và kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm và phương pháp quản lý
tiên tiến, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và đội ngũ công nhân kỹ thuật
cao, nhanh chóng tạo chỗ đứng vững chắc trong sự phân công lao động quốc
tế tạo được thế mạnh trên thị trường quốc tế. Vì vậy, để khuyến khích các tổ
chức và cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Lào. Luật đầu tư định
ra một khung pháp lý khá hoàn chỉnh và hấp dẫn, trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền của Lào, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với luật chơi
kinh tế trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và phù hợp với
phong tục tập quán và thông lệ quốc tế.
- Bảo đảm pháp luật về ĐTNN là tính thống nhất giữa các văn bản pháp
luật khác có liên quan như luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật thuế…, trong đó
Luật doanh nghiệp quy định việc thành lập công ty, hình thức, loại hình kể cả
việc góp vốn của người đầu tư. Pháp luật bảo đảm đầu tư có thể được hiểu theo
hai nghĩa như: theo nghĩa rộng, pháp luật bảo đảm đầu tư bao gồm các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để:
(1) Bảo toàn vốn đầu tư và các tài sản khác của nhà đầu tư.
101
(2) Tạo một môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư.
(3) Thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư đối với các lợi nhuận
sinh ra tư hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, bảo đảm công bằng và thỏa đáng
giữa bên đầu tư và bên nhận đầu tư, bảo đảm giải quyết kịp thời, thỏa đáng và
đúng pháp luật các tranh chấp phát sinh trong quá trình đầu tư.
Theo nghĩa hẹp thì đó là sư bảo đảm bằng pháp luật vốn các tài sản
khác được các nhà đầu tư đưa vào sản xuất, đưa vào kinh doanh. Vốn là vấn
đề được quan tâm hơn cả nên yêu cầu bảo đảm vốn được đặt lên hàng đầu.
Không thể bỏ vốn ra và yên tâm sản xuất kinh doanh nếu thiếu các biện pháp
về bảo toàn vốn đầu tư và các tài sản khác của nhà đầu tư. Nhà nước Lào đã
thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư về vốn và tài sản của họ,
bất kể vốn đầu tư của họ dưới hình thức nào.
Trong lĩnh vực bảo toàn vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư thì pháp
luật bảo đảm đầu tư phải bảo đảm cho vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư sẽ
được đảm bảo không bị trưng dụng, trưng thu hoặc bị tịch thu bằng các biện pháp
hành chính; xí nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hóa.
Pháp luật bảo đảm đầu tư phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho
nhà đầu tư, bao gồm môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý mà quan
trọng nhất là môi trường pháp lý. Pháp luật bảo đảm đầu tư đặc biệt quan
trọng khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài vì trước khi quyết định đầu tư vào
một nước, nhà đầu tư thường xem xét đến mức độ ổn định của tình hình
chính trị, tiềm năng phát triển của nền kinh tế và môi trường đầu tư của
nước đó. Và họ chỉ thực sự yên tâm đầu tư khi tin tưởng rằng hoạt động
đầu tư của họ bảo đảm sẽ sinh lợi.
Theo tư duy mới, đầu tư nói chung, nhất là đầu tư trực tiếp của nước
ngoài là một loại hình thị trường, bên cạnh các thị trường hàng hóa, lao
động… Trên thị trường này, mọi hoạt động diễn ra theo cơ chế cạnh tranh,
102
theo quy luật cung cầu, theo so sánh lực lượng giữa đầu tư công nghệ và
tiềm năng kinh tế. Sự điều tiết của nhà nước được thể hiện trong các quy
định của pháp luật về đầu tư, tạo ra một “hành lang pháp lý”, trong đó nhà
đầu tư có toàn quyền đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vấn
đề lời hay lỗ, tồn tại hay phá sản, mở rộng hay thu hẹp phạm vi kinh doanh
trong phạm vi giấy phép kinh doanh của mình, trước hết và chủ yếu thuộc
về quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư. Do đó, nếu môi trường pháp
lý không tốt cho hoạt động đầu tư nước ngoài thì lợi ích đầu tư khó được
bảo đảm.
Khi xem xét pháp luật này cần phân biệt giữa bảo đảm đầu tư với
khuyến khích đầu tư. Cả hai biện pháp này đều nhằm tới một mục đích
thu hút vốn đầu tư, nhưng bảo đảm đầu tư được các nhà đầu tư xem xét
đầu tiên. Bảo đảm đầu tư là những quy định tối thiểu được pháp luật dành
cho nhà đầu tư mà căn cứ vào đó, họ lựa chọn hình thức kinh doanh….
Khi đó, nhà nước mới áp dụng biện pháp khuyến khích đầu tư chủ yếu là
thuế. Như vậy, bảo đảm đầu tư được áp dụng cho mọi nhà đầu tư, nó như
một nền tảng, cơ sở mà dựa trên nó, khuyến khích đầu tư được áp dụng
chỉ cho một số nhà đầu tư trong một số lĩnh vực được nhà nước đặc biệt
quan tâm, chú trọng.
Tóm lại, về bảo đảm pháp luật đầu tư phải bao hàm tất cả những nội
dung trên. Pháp luật bảo đảm đầu tư được thể hiện trong các văn bản quy
phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật như: Hiến pháp, Luật Đầu tư, luật liên
quan đến lĩnh vực đầu tư cũng như các văn bản pháp quy khác, trong các điều
ước quốc tế về bảo đảm ĐTNN do các bên hữu quan ký kết… Nhờ sự phát
triển của khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng pháp luật cũng như nhờ sự
tham khảo kinh nghiệm của các nước khác và kinh nghiệm áp dụng luật đầu
tư trong thực tế mà các quy định của pháp luật về đầu tư ở nước CHDCND
Lào ngày càng phát triển theo chiều sâu, ngày càng được chính xác hóa, chọn
103
lọc và đúc rút được kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới và ngày càng
phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
4.1.2. Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào phải gắn liền với bảo đảm lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư
Hệ thống luật pháp của Lào đối với việc thực hiện pháp luật về
ĐTNN là sự cụ thể hóa chính sách của Nhà nước về hoạt động ĐTNN. Nó
tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý các hoạt động này. Chủ trương
của Nhà nước khuyến khích mở rộng hoạt động ĐTNN nhằm góp phần
phát huy mọi tiềm năng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, cụ thể là ổn định và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước.
Để thể chế hóa các chủ trương đó và xuất phát từ chính sách đổi mới
nền kinh tế, mở cửa và hội nhập với nước ngoài, ngày 19/04/1988 Quốc hội
quốc gia ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, cho phép các tổ chức, công ty và
các cá nhân nước ngoài được đầu tư vào Lào. Đây là cơ sở pháp lý, là đạo luật
đầu tiên có hiệu lực quy định một cách có hệ thống, toàn diện, nhất quán các
chính sách khuyến khích ĐTNN của Lào. Nội dung chính của Luật Đầu tư
nước ngoài là về quyền lợi và nghĩa vụ của nhà ĐTNN trong các lĩnh vực
được đầu tư. Kể từ khi được ban hành, Luật Đầu tư nước ngoài được coi là
đạo luật hấp dẫn, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi
cho ĐTNN ở Lào, bởi vì Luật cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu
tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân (trừ một số lĩnh vực không được
phép như an ninh, quốc phòng hoặc gây tổn hại đến môi trường). Luật bao
gồm các biện pháp bảo hộ đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư như
các ưu đãi về thuế lợi nhuận, thuế xuất nhập khẩu, sự góp vốn của các bên
tham gia liên doanh không bị giới hạn... Luật ĐTNN đã tạo điều kiện thuận
104
lợi cho các nhà đầu tư trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc độc lập, chủ quyền, bình
đẳng và cùng có lợi [52, tr.34].
Ngoài Luật ĐTNN, hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài của Lào
còn có các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa thi hành Luật Đầu tư nước ngoài và
các văn bản có liên quan khác như các quy định về thuế, chế độ tuyển dụng
lao động, quản lý ngoại hối...
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, hệ thống văn bản pháp luật đã bộc
lộ những yếu kém không phù hợp với tình hình mới. Đồng thời, để cụ thể hóa
những chủ trương chính sách mới, Nhà nước đã không ngừng hoàn thiện hệ
thống pháp luật về ĐTNN nhằm làm cho môi trường đầu tư ở Lào ngày càng
trở nên hấp dẫn, thông thoáng, tạo điều kiện cho hoạt động ĐTNN ở Lào đạt
hiệu quả hơn.
Để tạo ra môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng hơn, có sức cạnh
tranh cao hơn, phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội và bối cảnh kinh tế
thế giới, phù hợp điều kiện trong nước theo từng thời kỳ, kể từ khi ra đời năm
1988 đến nay Luật ĐTNN đã được sửa đổi, bổ sung 2 lần vào các năm 1994
và 2004. Sau mỗi lần sửa đổi, Luật ĐTNN có những tiến bộ nhất định. Chẳng
hạn, luật ĐTNN sửa đổi bổ sung năm 2004 đã quy định rõ hơn khi phân cấp
chức năng và thẩm quyền của Chính phủ, các Bộ và Ủy ban đầu tư tỉnh về
lượng vốn khi cấp giấy phép. Mỗi lần sửa đổi và bổ sung, có văn bản hướng
dẫn luật đầu tư mới như văn bản số 64/PM của Luật ĐTNN năm 1994; văn
bản hướng dẫn số 301/PM của luật ĐTNN năm 2004 và văn bản hướng dẫn
đầu tư vào Lào bằng tiếng Anh năm 2007 [35, tr.66].
Nhìn nhận một cách tổng quát, hệ thống pháp luật về ĐTNN của Lào
tuy còn nhiều thiếu sót và nhược điểm, nhưng vẫn được coi là tương đối
thông thoáng và hấp dẫn đối với nhà ĐTNN. Tư tưởng chủ đạo của Luật
ĐTNN luôn nhất quán: tạo nên khuôn khổ pháp lý thuận lợi và hấp dẫn cho
nhà ĐTNN, bảo vệ lợi ích của đất nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bởi
105
vậy, vấn đề cốt lõi của Luật ĐTNN luôn là xử lý thỏa đáng mối quan hệ lợi
ích hai bên: bên nước ngoài và bên Lào. Lợi ích chính đáng của bên nước
ngoài là bảo vệ sự an toàn của vốn, là lợi nhuận tương đối cao và được quyền
xét xử công khai khi có tranh chấp giữa các bên tham gia hợp tác đầu tư. Lợi
ích của Lào bao gồm cả lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, lợi ích xã hội cũng
như yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái. Những lợi ích này phải được nhìn
nhận một cách toàn diện và lâu dài. Bên cạnh đó, Nhà nước còn không ngừng
cải tiến hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài cho hoàn thiện, phù hợp và
hấp dẫn hơn.
4.1.3. Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài phải bảo đảm ổn định
chính trị, phát triển cơ sở hạ tầng và thủ tục hành chính
Một, là sự ổn định về chính trị, thể chế chính trị, sự nhất quán trong
chủ trương, đường lối chính sách cơ bản của nhà nước luôn là yếu tố tạo môi
trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn các nhà đầu tư. Đặc trưng nổi bật về sự tác
động của những yếu tố chính trị đối với hoạt động đầu tư thể hiện ở những
mục đích mà thể chế chính trị nhằm tới. Thể chế chính trị giữ vai trò định
hướng, chi phối toàn bộ hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư
thông qua vai trò của nhà nước cầm quyền. Với vai trò là tạo lập, thúc đẩy,
điều chỉnh và duy trì tốc độ phát triển kinh tế, nhà nước tạo lập một môi
trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, quy định những khuôn khổ pháp luật, duy
trì trật tự kỷ cương trong xã hội và các hoạt động kinh tế duy trì sự ổn định
kinh tế vĩ mô, quyết định tiền đồ kinh tế của một đất nước. Sự ổn định về
chính trị sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, một nhà nước mạnh, thực
thi hữu hiệu các chính sách phát triển kinh tế, xã hội đáp ứng được yêu cầu
chính đáng của nhân dân sẽ đem lại lòng tin và tính hấp dẫn cho các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Trong một xã hội ổn định về chính trị, các nhà đầu tư
được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu tài sản, các nhà đầu tư sẽ sẵn
106
sàng bỏ vốn đầu tư lớn và dài hạn, mức độ yên tâm của các nhà đầu tư được
củng cố thông qua sự đánh giá về mức độ rủi ro chính trị.
Nếu nước tiếp nhận đầu tư có bất kỳ sự xung đột nào ở trong nước hay
ở trong khu vực, nội chiến hay sự hoài nghi... đều thiếu thiện cảm đối với các
nhà đầu tư nước ngoài, bởi vì đây là những nhân tố tác động tiêu cực đến tâm
lý và hành động thực tế của chủ đầu tư cũng như làm chậm lại các cải cách
chính sách cần thiết đối với việc thu hút FDI của nước nhận đầu tư.
Tóm lại, chính trị, kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận đầu tư càng ổn
định thì càng có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hai, là Để tăng cường hoạt động đầu tư, ngoài môi trường pháp lý
thông thoáng, minh bạch đòi hỏi các nước phải có kết cấu hạ tầng, tương
xứng với sự chuyển đổi nền kinh tế. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng của
một quốc gia luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể
nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đầu tư đã
cam kết. Hệ thống hạ tầng phát triển bao gồm hệ thống giao thông vận tải,
hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước... Để hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài, việc nâng cấp cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng
thúc đẩy tiến trình đầu tư.
Việc phát triển và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng là điều kiện để tăng
sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho những nước
tiếp nhận đầu tư có thể khai thác lợi ích nhiều hơn, đầy đủ hơn từ các dịch vụ
vận tải, thông tin, điện, nước từ các dự án đầu tư đã được triển khai. Thêm
vào đó, việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để
tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, mà đó còn là cơ hội cho nước nhận
đầu tư thu hút được thêm vốn để phát triển hạ tầng với vốn bản thân FDI.
Đối với các nước không tiếp giáp với biển trong đó có Lào, việc thu hút
FDI vào phát triển hệ thống giao thông vận tải để tạo điều kiện cho việc mở
107
cửa với thị trường thế giới. Thêm vào đó, phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên
tiến nhằm nâng cao sản xuất hàng hóa có hiệu quả để giảm được chi phí vận
tải. Tuy việc phải trả một khoản chi phí thủ tục hành chính liên quan cũng là
một trở ngại, nhưng nếu xây dựng tốt hạ tầng giao thông vận tải các nước này
cũng có thể giảm bớt được một phần khó khăn trong vấn đề mở cửa và hội
nhập thị trường thế giới [55, tr.55].
Từ lúc mở cửa đến nay, Lào đã phát triển một số tuyến đường tới
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các tuyến đường đi ra các nước láng giềng
như Việt Nam, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc... Cải tạo và nâng cấp
các tuyến đường từ trung ương đến các tỉnh, địa phương. Đặc biệt trong
giai đoạn 2001 - 2005, đã xây dựng 39 cầu trên đường quốc lộ với tổng
chiều dài 2,611m và xây dựng được 3 chiếc cầu lớn vượt qua sông Mê
Kông (cầu Hữu nghị Viêng Chăn - tỉnh Nong Khai Thái Lan), tỉnh Pác Sê -
Phôn Thong và cầu Xa Van Na Khêt - tỉnh Mục Đa Hán Thái Lan). Năm
1999, Lào có tổng chiều dài đường là 22.200 km, so với năm 1985 tăng
126% tỷ lệ trung bình của đường là 9,8km/100km2. Đến năm 2005, Lào có
tổng chiều dài đường là 31.210 km so với năm 2000 tăng 34%, tỷ lệ trung
bình của đường là 19,7 km/100km2 [65, tr.121].
Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho nhà ĐTNN tiện
nghi và sự thoải mái, giúp họ giảm được chi phí về giao thông vận tải, giúp họ
duy trì được các mối quan hệ dễ dàng làm ăn với các đối tác trong nước và
trên toàn cầu được thuận lợi.
Ba, là Thủ tục hành chính rất được nhà đầu tư nước ngoài chú ý khi lựa
chọn quốc gia để đầu tư. Thủ tục nhanh gọn sẽ làm họ hài lòng, thủ tục phức tạp,
rườm rà, chậm chạp sẽ gây cho họ khó khăn tốn kém, đôi khi làm mất cơ hội đầu
tư của họ sẽ làm các nhà đầu tư nước ngoài nản lòng. Bộ máy hành chính hiệu
quả quyết định sự thành công trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI.
108
Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt. Các thủ tục hành chính
và những quy định pháp lý phải đơn giản, công khai và nhất quán. Muốn làm
được như vậy, phải thực hiện bởi những con người có trình độ chuyên môn
cao, được giáo dục, có ý thức tôn trọng pháp luật sẽ là những yếu tố quan
trọng khi quyết định đầu tư cũng như sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả.
Vì mục tiêu của FDI là nhằm thu lợi nhuận cao, do vậy, nếu các dự án
FDI đã được triển khai đạt tỷ suất lợi nhuận cao sẽ khuyến khích và củng cố
niềm tin cho các nhà ĐTNN tiếp tục đầu tư. Ngược lại, nếu các dự án đang
triển khai kinh doanh không hiệu quả, thường xuyên thua lỗ sẽ làm nản lòng
các nhà đầu tư, vì họ cho rằng có thể môi trường đầu tư không tốt.
Tóm lại, FDI sẽ tìm đến quốc gia có nền kinh tế - xã hội ổn định; hệ
thống pháp luật đầu tư đầy đủ, cởi mở, tin cậy và mang tính chuẩn mực quốc
tế cao; thủ tục hành chính không rườm rà, chính sách đầu tư linh hoạt và đủ
sức hấp dẫn, cơ sở hạ tầng tốt, lao động có trình độ và rẻ...
4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp chung
Một là, hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào hiện nay. Để
cải thiện môi trường pháp luật về ĐTNN ở Lào, đòi hỏi phải tạo điều kiện
thông thoáng về pháp lý cho hoạt động đầu tư theo cả nghĩa ban hành và luật
hóa những quy chế mới, cả dỡ bỏ, sửa đổi những quy chế đã tỏ ra kém hiệu
lực hoặc không phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, để tạo được môi
trường pháp lý bình đẳng cho hoạt động đầu tư nước ngoài và đầu tư trong
nước, cần tiến tới thống nhất trong một bộ luật đầu tư duy nhất chung cho cả
đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật phải đáp ứng được thể chế hóa
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế
109
phải được hoạt động trên một khuôn khổ chung, bình đẳng. Cần tạo môi
trường pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài ở Lào theo xu hướng đồng
bộ hóa về luật, cho phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế. Cần
coi trọng cả việc ban hành quy chế mới và dỡ bỏ những quy chế không phù
hợp với thông lệ quốc tế, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, giữa
các nghị định và thông tư, quyết định của các cấp.
Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực thu hút FDI trước hết phải
thể hiện ở luật pháp về đầu tư. Đối với một quốc gia, Luật đầu tư nước ngoài
là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là điều tiết mà tất cả các nhà đầu
tư đều quan tâm. Một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, vận hành hữu hiệu
là một trong những yếu tố quyết định, tạo môi trường kinh doanh toàn diện,
định hướng và hỗ trợ cho các nhà ĐTNN phải thể hiện nội dung cơ bản của
các nguyên tắc chủ yếu; tôn trọng độc lập, chủ quyền bình đẳng, cùng có lợi
và theo thông lệ quốc tế [36, tr.21-35].
Nguyên tắc của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cần phải đảm bảo
quyền lợi bình đẳng, không phân biệt đối xử cho các doanh nghiệp có vốn
FDI và các doanh nghiệp trong nước. Trong quá trình xây dựng chính sách,
phải lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư
trong nước, đồng thời căn cứ vào thực tiễn, các bài học kinh nghiệm thành
công của các nước đi trước mà đưa ra chính sách. Phải tổ chức tổng kết theo
định kỳ về tình hình thu hút FDI vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN để một mặt rút kinh nghiệm trong công tác quản lý, mặt khác phát
hiện những bất hợp lý của cơ chế chính sách và hoàn thiện nó.
Mở rộng hình thức FDI: trong khi những điều kiện về cơ sở hạ tầng, về
pháp lý của CHDCND Lào đang ngày càng được hoàn thiện tốt hơn và những
chính sách ưu đãi đầu tư liên tục được ban hành nhưng việc thu hút đầu tư
nước ngoài vào Lào trong thời gian gần đây cũng cần được xem xét một cách
110
nghiêm túc từ khía cạnh hình thức đầu tư. Các hình thức FDI mà Luật ĐTNN
ở Lào quy định đến nay còn chưa thực sự cụ thể phù hợp và hấp dẫn các nhà
ĐTNN. Trong thời gian tới cần bổ sung thêm một số hình thức FDI khác vào
Luật Đầu tư nước ngoài.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài
và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.Văn bản quy phạm pháp luật
là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định, trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội, được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng mọi
biện pháp, kể cả bằng cưỡng chế nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện một hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật về đầu tư nước ngoài đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, minh bạch
và khả thi sao cho pháp luật đó thực sự là công cụ chủ yếu để quản lý xã hội,
góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của Lào, do nhân dân, vì nhân dân
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả ĐTNN ở CHDCND Lào.
Trong những năm qua, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung
ương cũng như các cấp chính quyền của Lào đã soạn thảo, ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật về ĐTNN đê giải quyết những vướng mắc
trong việc quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, bảo đảm thực hiện pháp
luật của các chủ thể đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về
đầu tư nước ngoài vẫn còn chưa đồng bộ, nhất quán. Văn bản pháp luật về
đầu tư nước ngoài mới chủ yếu chỉ quy định những vấn đề liên quan đến
giai đoạn thẩm định và cấp phép đầu tư, chưa chú trọng quy định việc theo
dõi, quản lý việc thực hiện các dự án. Luật Đầu tư năm 2004, có hiệu lực
111
thi hành từ 22/11/2004 nhưng còn thiếu nhiều văn bản hướng dẫn thi hành.
Các quy định chồng chéo, mâu thuẫn tại Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
cũng khiến cho các doanh nghiệp, các địa phương lúng túng trong quá trình
thực thi, cụ thể là:
Hiện nay, Luật Đầu tư vừa điều chỉnh việc cấp Giấy chứng nhận đầu
tư nhằm xác nhận những ưu đãi mà dự án được hưởng, vừa điều chỉnh cả
việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sự không tách bạch này tạo
ra những vướng mắc cho doanh nghiệp, vì Giấy chứng nhận đầu tư đồng
thời có giá trị là Giấy chứng nhận kinh doanh thì điều đó dẫn đến xung đột
thẩm quyền với cơ quan nhà nước quản lý việc đăng ký kinh doanh, trong
đó có việc thay đổi đăng ký kinh doanh. Với quy định như vậy, Luật Đầu
tư đã lấn sân Luật Doanh nghiệp, điều chỉnh cả việc thành lập doanh
nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cho rằng, cơ quan quản lý đăng ký kinh
doanh của doanh nghiệp phải là cơ quan duy nhất có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Các cơ quan khác chỉ có chức năng kiểm
soát điều kiện hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực phụ trách. Ngoài
ra, việc ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất về đăng ký kinh
doanh với tất cả các ngành nghề là hết sức cần thiết để tránh tình trạng
chồng chéo trong quá trình thực thi luật [71, tr.34].
Khoản 1, 2 ( Điều 7-17; 5-11) của Nghị định 301/2005/TT, về các dự án
thuộc diện thẩm tra đã không quy định rõ trường hợp nào dự án phải lấy ý kiến
thẩm tra của các sở, ngành liên quan, từ đây, dễ dẫn tới tình trạng tuỳ tiện khi
thẩm hiện. Nghị định cũng không quy định trường hợp nếu sau thời gian quy
định các cơ quan được hỏi không trả lời thì cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu
tư được phép hiểu là cơ quan được hỏi đồng ý việc cấp giấy chứng nhận đầu tư,
và do đó có thể cấp giấy chứng nhận đầu tư. Điều này vì chưa được làm rõ đã
gây nhiều lúng túng cho các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư.
112
Việc thực hiện Luật Đầu tư đòi hỏi phải có đầy đủ các văn bản quy
định cụ thể hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn thiếu các văn
bản quy định các điều kiện cụ thể làm căn cứ để thẩm tra, cấp giấy chứng
nhận đầu tư đối với các lĩnh vực đầu tư có điều kiện cũng như điều kiện của
các dự án đầu tư. Văn bản quy định cụ thể về vấn đề này tại Nghị định 02/QH
của Chính phủ đã hết hiệu lực theo quy định của Nghị định 301/2005/TT ngày
12-10-2005. Đặc biệt, cần sớm có văn bản quy định cụ thể chức năng, quyền
hạn cấp và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư (bao hàm nội dung đăng ký
kinh doanh) đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nằm trong các khu công
nghiệp, bởi theo pháp luật về đăng ký kinh doanh thì Ban Quản lý khu công
nghiệp không thuộc hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh [55, tr.13-41].
Thực trạng trên đòi hỏi các cơ quan nhà nước ở Trung ương, trọng tâm
là Chính phủ, các Bộ, nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan chính
quyền của Lào cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Đầu tư; nghiên cứu phát hiện, khắc phục các xung đột pháp lý giữa Luật
Đầu tư với các luật khác, nhất là với Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Ngân
hàng... nhằm xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện, tạo điều kiện
thuận lợi để các chủ thể thực hiện. Về phương diện tổ chức, việc hoàn thiện
đó cần chú trọng các vấn đề cơ bản sau:
- Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm các văn bản
quy phạm pháp luật ban hành phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước và của địa phương, tránh tình trạng luật xa rời cuộc sống.
Rà soát thường xuyên các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư nước
ngoài và các văn bản pháp luật khác có liên quan để kịp thời dỡ bỏ các văn
bản pháp luật không phù hợp, đồng thời chú trọng xây dựng bổ sung các văn
bản pháp luật mới .
Chú ý đến tính thống nhất, đồng bộ của văn bản pháp luật đầu tư nước
ngoài và các văn bản pháp luật khác có liên quan như: Luật Đất đai, Luật
113
Ngân hàng với các điều ước quốc tế mà Lào ký kết, tham gia.
Bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong việc xây dựng và
thực hiện văn bản quy pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Ủy ban kế hoạch đầu tư, Hội đồng Ủy ban kế hoạch đầu tư và các cơ
quan có thẩm quyền khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải
đảm bảo triển khai thống nhất từ Trung ương tới địa phương và doanh
nghiệp, tránh tình trạng luật ban hành nhưng cơ sở, ban ngành và các quận,
huyện lùng tùng không biết hướng triển khai làm ảnh hưởng tới hiệu lực thi
hành của luật [97, tr.50].
Trước khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư nước
ngoài, các cơ quan có thẩm quyền phải nghiên cứu, khảo sát đầy đủ nhu cầu
điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Người đứng đầu
cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài
phải chịu trách nhiệm về các văn bản pháp luật có nội dung trái với tư duy đổi
mới, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Khi phát hiện sai sót cần kịp thời điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung. Các cơ quan có thầm quyền soạn thảo văn bản pháp
luật về đầu tư nước ngoài cần mở rộng đối thoại với các doanh nghiệp, các cơ
quan khác và các địa phương, phải thực sự cầu thị, tiếp thu các ý kiến đóng
góp, những giải pháp mới, sáng tạo của doanh nghiệp và địa phương để hoàn
thiện hệ thống pháp luật, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực
hiện pháp luật [48, tr.1-8].
- Trong hoạt động xây dựng pháp luật về đầu tư nước ngoài và các văn
bản có liên quan, cần thu hút các chuyên gia giỏi vào các giai đoạn soạn thảo,
thẩm định. Trong nhiều trường hợp cần lấy ý kiến của doanh nghiệp, nhân
dân một cách rộng rãi, có hiệu quả trước khi ban hành.
- Trong hoạt động ban hành các văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài,
của Lào cần áp dụng các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
114
luật của Hội đồng Ủy viên Quốc hội và Ủy ban kế hoạch đầu tư năm 2004.
Theo đó phải đưa công tác xây dựng văn bản pháp luật của Lào nề nếp, thống
nhất, chủ động lập kế hoạch, chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp
luật về đầu tư nước ngoài hàng năm và dài hạn. Các văn bản quy phạm pháp
luật cần được soạn thảo và thẩm định theo đúng quy trình của Luật, tránh tình
trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật đầu tư
nước ngoài do chính quyền thủ đô ban hành với các văn bản của các cơ quan
trung ương ban hành, hoặc giữa các cơ quan trong bộ máy chính quyền Nhà
nước. Trước hết căn cứ vào các quy định của pháp luật đầu tư, của Lào cần
sớm nghiên cứu hoàn thiện các văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài do các
cấp chính quyền ban hành, theo hướng:
Một là, các quy định nhằm tăng sức hấp dẫn các nhà đầu tư, như miễn,
giảm thuế, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, tư vấn miễn phí... cho các dự án đầu tư
theo hướng phát triển lâu dài vì lợi ích bền vững. Chủ động xây dựng quy
trình tiếp nhận, giải quyết các thủ tục hành chính để thực hiện tốt hơn các quy
định pháp luật đầu tư nước ngoài.
Hai là, theo quy định tại Điều 80 Nghị định 301/2005/TT thì Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền thực hiện quy hoạch chi tiết xây dựng khu
công nghiệp, khu chế xuất. Chính vì vậy, nước CHDCND Lào cần đề xuất
quy hoạch chi tiết xây dựng công nghệ cao - kinh tế mở tại Lào, đồng thời xây
dựng cơ chế, chính sách cho việc quản lý và hoạt động của mô hình này.
Ba là, ban hành quy chế pháp lý về đầu tư giữa Ban quản lý khu công nghiệp, khu
chế xuất với Sở Kế hoạch và Đầu tư của Lào. Chính phủ Lào cần công khai công
bố các điều kiện và thủ tục đăng ký, thời hạn, phí và lệ phí cho các dự án đầu tư, và
cần đơn giản thủ tục, chỉ cần đăng ký không cần phải xin giấy phép.
- Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế. Sau Hội nghị
thường kỳ lần thứ 7 của Quốc hội khóa V đã nghiên cứu xem xét sâu rộng về
115
mặt nội dung của Luật về giải quyết tranh chấp kinh tế. Trong cuộc hợp ngày
19/5/2005, Quốc hội đã bàn và thảo luật luận luật về giải quyết tranh chấp
kinh tế đã sửa đổi, bổ sung một số điều còn thiếu sót cho chặt chẽ và có tính
hệ thống hơn và dựa trên tính chất và đặc điểm về kinh tế - xã hội của đất
nước là chủ yếu (đến ngày 20/5/2005, Quốc hội khóa V đã thông qua Luật về
giải quyết tranh chấp kinh tế số 25/QH). Do vậy để phát huy vai trò của việc
này trên toàn quốc, Đảng và Nhà nước đã thành lập và củng cố cơ quan giải
quyết tranh chấp kinh tế (ngày 21/4/1995 bởi Nghị định số 106/CP ngày
15/7/1994). Từ đó đến năm 2004 đã mở rộng cơ quan giải quyết tranh chấp
kinh tế từ Trung ương tới địa phương trên phạm vi toàn quốc [48, tr.2-15].
Ngoài ra tháng 12 năm 1998, CHDCND Lào đã trở thành thành viên
của Điều ước quốc tế về giải quyết tranh chấp về kinh tế - thương mại. Đã
được thành lập tại Thủ đô (New york) của nước Mỹ tháng 3 năm 1958. Cùng
với đó đã tổ chức cuộc hội thảo về việc hòa giải kinh tế của nước ngoài cho
cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực này trong đó đã đưa cán bộ của văn
phòng giải quyết tranh chấp về kinh tế được đi thực tập với các nhà chuyên
gia nước Úc, Singapure, Malaysia, Austaria, Trung Quốc và Thái Lan để trao
đổi kinh nghiệm [107, tr.14-50].
Trên tinh thần của việc thực hiện vai trò và nội dung của các quy định
Luật của cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế như sau:
1. Mục đích của luật này là quy định các nguyên tắc, quy chế và tiêu
chuẩn về việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng người hòa giải hoặc bằng
trọng tài giải quyết, nhằm làm cho các tranh chấp về kinh tế được giải quyết
một cách công bằng, nhanh chóng để thúc đẩy việc sản xuất và hoạt động
kinh doanh ngày càng phát triển, góp phần cho việc phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước cho phồn vinh, văn minh và công bằng (Điều 1).
2. Tranh chấp kinh tế là những sai lầm đã xảy ra trong quá trình sản
116
xuất và hoạt động kinh doanh giữa các đơn vị với nhau, đơn vị với cá nhân, cá
nhân với cá nhân cả trong nước và nước ngoài (Điều 2).
3. Việc giải quyết tranh chấp kinh tế, sẽ được giải quyết bằng con
đường mềm dẻo và nhân nhượng cho nhau giữa các bên, bằng cách hòa
giải, bằng quyết định của trọng tài kinh tế. Sự tiến hành quá trình giải
quyết tranh chấp kinh tế là dựa vào các quy định của Luật này, các quy
định khác có liên quan pháp luật của CHDCND Lào và quy chế về giải
quyết tranh chấp kinh tế mà các bên đã thống nhất lựa chọn trên tinh thần
phù hợp với hợp đồng và điều ước quốc tế mà Lào đã tham gia và thành
viên (Điều 3).
4. Điều kiện của việc giải quyết tranh chấp kinh tế:
Tranh chấp đó phải tranh chấp về kinh tế.
Có sự đồng ý của các bên tranh chấp.
Không phải là tranh chấp kinh tế mà Tòa án nhân dân đang thẩm tra
hoặc đã có quyết định của tòa.
Đúng với tình hình thực tế, không vi phạm các quy định về giải quyết
tranh chấp kinh tế, quy định của luật về an ninh, trật tự của xã hội (Điều 4).
Tính độc lập trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế là trong quá trình
giải quyết tranh chấp, người hòa giải hoặc trọng tài kinh tế phải thực hiện
nhiệm vụ của mình một cách độc lập dựa trên quy định của pháp luật, tránh
khỏi sự can thiệp của các cá nhân hoặc các tổ chức khác (Điều 5).
Tính tự do của các bên tranh chấp, trong quá trình giải quyết tranh chấp
các bên đều có quyền bình đẳng, các bên có quyền tư mình tham gia trong
hoạt động giải quyết bằng bản thân mình hoặc qua người đại diện được các
bên cử đến (Điều 6).
5. Việc đảm bảo bí mật: Trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế,
người hòa giải hoặc trọng tài kinh tế, các bên tranh chấp và những người có liên
117
quan phải đảm bảo bí mật về các thông tin và tài liệu khác đã sử dụng trong quá
trình hòa giải hoặc giải quyết, cấm tuyên truyền cho người khác (Điều 7).
6. Việc tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế là có vị trí và vai trò như:
Sự việc giải quyết tranh chấp kinh tế là một bộ phần thuộc cơ quan tư
pháp, có vai trò quản lý và tạo thuận lợi trong việc giải quyết tranh chấp kinh
tế cho đúng đắn, nhanh chóng và công bằng (Điều 10, 11).
Bộ máy tổ chức của việc giải quyết tranh chấp kinh tế gồm 2 cấp:
Trung ương và địa phương.
Ở Trung ương có cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế có vị trí ngang
bằng với vụ và thuộc Bộ Tư pháp, gọi là Trung tâm giải quyết tranh chấp kinh tế.
Ở địa phương nơi cần thiết có văn phòng giải quyết tranh chấp kinh
tế gọi là văn phòng giải quyết tranh chấp kinh tế có người đứng đầu có đại
diện ngang bằng với Phó trưởng phòng của Tỉnh và thuộc phòng Tư pháp
của Tỉnh.
Hai là, tiếp tục củng cố và ổn định chính trị - xã hội. Sự ổn định
chính trị - xã hội là yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất, liên quan đến việc
tạo điều kiện cho các DN nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu không có sự ổn
định chính trị - xã hội thì dù có tài nguyên phong phú, chính sách ưu đãi và
các điều kiện thuận lợi khác cũng không thể làm cho các DN được yên ổn
trong sản xuất kinh doanh [99, tr.12-25].
Vì vậy, giữ vững được ổn định chính trị là giải pháp quan trọng hàng
đầu trong các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN của Lào.
Để tạo lập môi trường chính trị - xã hội ổn định, cần phải nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng NDCM Lào trong sự nghiệp đổi mới, coi đây là nhân tố có
ý nghĩa quyết định. Đồng thời phải tiếp tục mở rộng dân chủ, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, mở rộng và nâng cao hiệu lực của Nhà nước trên các
lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội.
118
Chất lượng hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị là một
trong những hoạt động thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nâng
cao năng lực cạnh tranh của các DN nói riêng. Chính phủ có vai trò rất quan
trọng trong hoạt động với tư cách là người chủ thể vạch ra các chiến lược và
chính sách, điều phối các hoạt động kinh tế, xây dựng kế hoạch và định
hướng chiến lược nhằm tạo điều kiện cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh
cho các DN Lào được từng bước hội nhập kinh tế quốc tế [97, tr.58].
Ba là, Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài và quản lý
Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Xúc tiến đầu tư được thực hiện nhằm
khuyến khích đầu tư vào Lào từ các nhà ĐTNN, khuyến khích các nhà đầu tư
đang hoạt động tại Lào tăng vốn đầu tư mở rộng kinh doanh. Có thể nói xúc
tiến đầu tư tác động trực tiếp tới FDI, là công cụ để chuyển những yếu tố
thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống
các khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài. Đồng
thời cần phải xúc tiến đầu tư vì có quá nhiều cơ hội đầu tư mới trên thế giới,
sự lựa chọn của các nhà đầu tư là phải trên lượng thông tin kịp thời và chính
xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lời và rủi ro. Cạnh tranh thu hút FDI cũng
là cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến, vận động đầu tư.
Cùng với duy trì ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, cần tăng cường vận
động xúc tiến đầu tư nhằm mục tiêu tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn FDI theo phương pháp như sau:
Tăng cường quảng bá hình ảnh nước Lào trên các trang Web, các
phương tiện thông tin đại chúng thông qua việc giới thiệu về đất nước, con
người Lào, các dự án đầu tư thành công ở Lào, các cơ hội đầu tư đang đón
đợi và các chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư của Nhà nước Lào.
Thường xuyên giới thiệu các thông tin cập nhật về hoạt động FDI tại Lào
tới các nhà đầu tư tiềm năng.
119
Tập trung xây dựng và ban hành sớm một chương trình xúc tiến đầu tư
cấp quốc gia và địa phương trước mắt và dài hạn để làm cơ sở cho việc xây dựng
các chương trình vận động, xúc tiến đầu tư của các Bộ, ngành, địa phương.
Tiếp xúc trực tiếp ở cấp Chính phủ với các tập đoàn xuyên quốc gia có
tiềm lực tài chính, công nghệ để vận động đầu tư vào một số dự án trọng điểm
được lựa chọn. Đồng thời, Chính phủ cần có các cam kết mạnh mẽ về việc tạo
thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện dự án nhanh chóng và hiệu quả.
Tăng cường hợp tác song phương và đa phương về xúc tiến đầu tư với
các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp nước ngoài, tạo mối quan hệ thường
xuyên với các cơ quan Đại sứ quán, các tổ chức, hiệp hội, các văn phòng đại
diện của các tổ chức nước ngoài nhằm tranh thủ sự hỗ trợ cho việc thực hiện
các chương trình vận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể.
Tổ chức mạnh mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số nước, khu vực trọng
yếu. Theo kinh nghiệm của Thái Lan và Việt Nam, Lào phải có cơ quan xúc tiến
đầu tư ở các nước ngoài có tiềm năng. Các cơ quan Lào tại nước ngoài phải phân
công chức năng rõ ràng như: tên cơ quan, người trực tiếp làm việc, phối hợp hiện
tại, đề xuất phối hợp, giới thiệu cung cấp thông tin về cơ hội đầu tư tại Lào.
Cải thiện nguồn nhân lực cho công tác xúc tiến đầu tư, quá trình xúc
tiến đầu tư muốn thành công cần có được những nhân viên nắm bắt tốt những
nhiệm vụ liên quan và có đầy đủ nhiệt tình, kinh nghiệm cũng như những kỹ
năng cần thiết. Như vậy, chính sách nguồn nhân lực của cơ quan xúc tiến đầu
tư cần có những nhân viên có khả năng phù hợp, được đào tạo đầy đủ và có
kinh nghiệm về đầu tư để xử lý công việc rõ ràng, nhanh chóng đúng theo luật
pháp và chính sách của Lào cũng như quốc tế.
Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI ở Lào
trong thời gian tới, cần xúc tiến những giải pháp cơ bản sau đây:
- Phân cấp quản lý nhà nước đối với FDI cho cấp Bộ, cấp tỉnh, thành
phố. Sau khi tạo dựng được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông
120
thoáng, hấp dẫn, những vấn đề then chốt có tính quyết định là việc chỉ đạo
điều hành tập trung và thống nhất của Chính phủ về quản lý quy hoạch, cơ
cấu, chính sách và cơ chế. Trong đó, chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước
đối với hoạt động FDI cho các Bộ, ngành và địa phương, đồng thời tăng
cường sự hướng dẫn và kiểm tra. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường
hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương
phân cấp quản lý nhà nước về FDI. Trong thời gian tới, Chính phủ Lào cần
giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các tỉnh, địa phương trong quản lý FDI,
đồng thời cần có sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ
từ Trung ương đến địa phương, giữa các Bộ, ngành và các cơ quan trong quản
lý hoạt động FDI; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan
trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc
trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Thường xuyên rà soát phân loại các dự án FDI đã được cấp giấy phép
đầu tư. Việc thường xuyên rà soát hoạt động đầu tư nước ngoài là một trong
những giải pháp để xử lý và giải quyết các vấn đề phát sinh. Đối với các dự
án đã triển khai thực hiện hoặc đã đi vào sản xuất, các Bộ, ngành liên quan và
Ủy ban đầu tư cấp tỉnh cần có những biện pháp để tạo thuận lợi và tháo gỡ
khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với các dự án
chưa triển khai nhưng nếu xét thấy vẫn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy
việc triển khai trong một khoảng thời gian nhất định và giúp giải quyết các
vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động dự án đầu tư.
Đối với các dự án chưa triển khai và xét thấy không có triển vọng thực hiện,
cơ quan có trách nhiệm cần kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư [97, tr.136].
- Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực FDI. Các Bộ, ngành địa
phương quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hóa và
giảm bớt các thủ tục không cần thiết; kiên quyết xử lý nghiêm khắc các
trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ
121
công quyền. Các cấp các ngành liên quan cần rà soát lại chức trách của mình,
giảm thiếu thủ tục hành chính, phát huy tính năng động trong công tác, để giải
quyết nhanh chóng trong việc cấp giấy phép và các vướng mắc khác của
doanh nghiệp có vốn FDI. Hiệu quả của cơ quan quản lý FDI không phải chỉ
thể hiện ở việc cải tiến thủ tục, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy phép mà quan
trọng hơn là phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án, kịp thời
giải quyết các vướng mắc, điều chỉnh những lệch lạc, đảm bảo kế hoạch đầu
tư được thực hiện đúng tiến độ.
Muốn đổi mới cơ chế chính sách đạt hiệu quả cao, Chính phủ Lào cần
ban hành những quy định cụ thể về trách nhiệm kinh tế, và trách nhiệm hình
sự đối với các cá nhân và tổ chức có liên quan đến hoạt động FDI. Việc trang
bị cho cán bộ quản lý những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về chuyên
ngành kinh tế đối ngoại và các văn bản pháp luật cũng cần được quan tâm hơn
nữa. Muốn có được những cán bộ có năng lực quản lý tốt như vậy, công tác
đào tạo phải chú trọng vào các nội dung: chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ,
tin học, những chính sách và văn bản được đưa ra từng giai đoạn. Muốn làm
được như trên, việc lựa chọn cán bộ để bố trí công tác vào lĩnh vực thu hút và
quản lý FDI, cần dựa vào các tiêu chuẩn: có trình độ chuyên môn vững, năng
động trong công tác, chức trách [100, tr.12-30].
Bốn là, phát triển hạ tầng cơ sở thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư. Môi trường kinh doanh là một yếu tố rất quan trọng trong
sản xuất kinh doanh, môi trường kinh doanh thông thoáng mới làm cho DN có
đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để đáp ứng được sự đòi hỏi
càng ngày càng tăng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường quốc
tế. Với tư cách là người nhạc trưởng, Nhà nước phải làm một số mặt sau:
Một là, tiếp tục sửa đổi các thủ tục và quy chế đã tỏ ra kém hiệu lực
hoặc không phù hợp với thông lệ quốc tế, giảm bớt thời gian trong một số thủ
tục hành chính như thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục xuất nhập khẩu,
122
thủ tục cho tín dụng, thủ tục giải thể kinh doanh v.v... Vì giảm bớt thời gian
trong các thủ tục sẽ giảm bớt được chi phí trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DN và sẽ tạo lợi thế cho năng lực cạnh tranh.
Hai là, sửa đổi một số luật theo hướng đồng bộ hóa luật pháp và phù
hợp với thông lệ quốc tế, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, giữa
các nghị định và thông tư, quyết định của các cấp. Tiếp tục sửa đổi và bổ sung
một số luật như luật DN, Luật đất đai, Luật bảo vệ môi trường v.v...
Ba là, xây dựng thêm một số luật như luật luật cạnh tranh, luật phá sản
và một số luật khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DN trong sản xuất
kinh doanh và có thế mạnh hơn trong cạnh tranh trên thị trường trong nước và
thị trường quốc tế.
- Phát triển hạ tầng cơ sở thông thoáng để tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả
Hạ tầng cơ sở là yếu tố rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh và
phát triển kinh tế, đối với Lào vấn đề phát triển hạ tầng cơ sở càng được quan
tâm nhiều hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho các DN có đủ khả năng cạnh
tranh trong quan hệ và hợp tác kinh tế quốc tế.
Việc phát triển hạ tầng cơ sở nên phát triển theo một số hướng sau:
Một là, phát triển hạ tầng cơ sở phải đáp ứng được tiêu chuẩn vận tải,
bảo đảm được chất lượng giao thông để cho hoạt động sản xuất kinh doanh
được thông thoáng, rút ngắn được thời gian vận tải hàng hóa và dịch vụ của
các DN, nâng cao được thế mạnh trong cạnh tranh.
Hai là, phát triển hạ tầng cơ sở phải gắn liền với sự phát triển DN, nhất
là các đơn vị sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty, vì sự hoạt
động của các tập đoàn và tổng công ty có sự quan hệ rộng lớn với các DN vừa
và nhỏ khác để có đủ nguyên vật liệu đáp ứng cho sự hoạt động kinh doanh. Vì
vậy, việc Nhà nước phát triển hạ tầng cơ sở cho các DN lớn không chỉ giúp cho
các DN lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả mà còn giúp các DN vừa và nhỏ
123
phát triển và vươn lên cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế.
Ba là, phát triển hạ tầng cơ sở phải gắn liền với hợp tác kinh tế quốc
tế, nhất là các đường giao thông nối liền với các nước láng giềng để tạo
điều kiện cho sự hợp tác kinh tế quốc tế được mở rộng mạnh mẽ hơn trong
những năm sắp tới.
4.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể
Một là, hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào.
- Đối với Chính phủ
Đối với những nước có xuất phát điểm thấp như CHDCND Lào, trong
quá trình hội nhập ĐTNN có vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết
vấn đề thiếu vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý. Vì vậy, việc mở rộng thu hút
FDI đã trở thành mục tiêu cơ bản, lâu dài và là hoạt động không thể thiếu
được đối với CHDCND Lào.
Để có thể thu hút được nhiều vốn FDI vào Lào Chính phủ cần thực thi
các chính sách hướng vào những điểm sau:
Chính phủ chỉ đạo việc cải cách quy chế và những thủ tục trong việc
cấp phép đầu tư cho minh bạch, rõ ràng và nhanh gọn để bớt sự phiền hà cho
nhà đầu tư và cũng là để chống hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực này. Quy
định rõ quyền hạn của các cấp - các ngành trong việc quyết định cho phép
lĩnh vực và ngành nghề đầu tư [100, tr.2-5].
Tiến hành kiểm tra, thanh tra, giám sát các bộ, ngành, các cấp trong
việc tổ chức thực hiện luật, chính sách thu hút đầu tư và chỉ đạo các ngành
chức năng thanh tra giám sát đối với dự án đầu tư đã duyệt để đôn đốc việc
tổ chức thực hiện uốn nắn kịp thời những hiện tượng tiêu cực nhằm đạt
được hiệu quả kinh tế - xã hội. Chính phủ cần phải quyết tâm trong việc
giải quyết phong trào tham nhũng như nâng cao hiệu quả hoạt động chống
124
tham nhũng, xây dựng ý chí kiên định chính trị rõ ràng trong chống tham
nhũng, giảm thiểu cơ hội tham nhũng và xây dựng các khung hình phạt
quyết liệt đối với những kẻ vi phạm.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến ĐTNN. Sửa đổi, bổ sung
và ban hành đồng bộ các luật có liên quan đến hoạt động đầu tư như Luật
ĐTNN, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật doanh nghiệp, Luật
Bảo hiểm… Để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư [56, tr.15-20].
Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặt trọng tâm quản
lý nhà nước vào việc tạo dựng môi trường chính sách đầu tư kinh doanh thuận
lợi nhất. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho việc hình thành đồng bộ các loại
thị trường, khuyến khích cạnh tranh, tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế. Sớm xác định rạch ròi những lĩnh vực cần phải quản lý và những lĩnh
vực cần khuyến khích tự do và kinh doanh. Tiếp tục thực hiện các chính sách
cải cách thủ tục hành chính, thực hiện triệt để chính sách một cửa trong khâu
thẩm định và cấp giấy phép đầu tư.
Tiếp tục đổi mới phương thức vận động, xúc tiến đầu tư - nên có văn
phòng xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Đồng thời, nên sớm đưa Quỹ xúc tiến đầu
tư vào hoạt động để hỗ trợ cho công tác quảng bá, cung cấp thông tin và trợ
giúp hoạt động thu hút đầu tư của các địa phương trong nước và ở nước ngoài.
Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách
chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, Ngành, địa phương.
Tăng cường đầu tư trang thiết bị phù hợp cho các trường dạy nghề,
công nhân kỹ thuật, phục vụ cho các đơn vị có vốn FDI kể cả nghề quản lý
cho cán bộ tham gia quản lý ở các liên doanh có vốn FDI.
- Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chủ động phối hợp với các bộ, ngành, các cấp địa phương tham khảo
và thống nhất về danh mục vùng, ngành kinh tế cần đầu tư phát triển về ngành
125
ở các vùng trình Chính phủ để công bố cho các nhà đầu tư biết.
Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ liên quan trong việc nghiên cứu
soạn thảo các chính sách ưu đãi khuyến khích cho các ngành, các vùng kinh tế
cần đầu tư phát triển để đệ trình Chính phủ ban hành.
Phối hợp với Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán Lào ở các nước quảng cáo tuyên
truyền môi trường đầu tư của Lào cho các nhà đầu tư, nhà kinh doanh các nước
hiểu biết để vào đầu tư ở Lào. Phát triển hệ thống số liệu thống kê về hoạt động
ĐTNN ở Lào, hệ thống thông tin liên lạc với nước ngoài. Bố trí cán bộ làm công
tác xúc tiến đầu tư ở một số nước tiềm năng và địa bàn trọng điểm. Tăng cường
cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, Ngành, địa phương.
Cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện các văn bản pháp quy và hướng
dẫn thi hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư nhanh
chóng nhận được giấy phép đầu tư và thực hiện dự án đầu tư.
- Đối với các Bộ, Ngành có liên quan
Các Bộ, ngành có liên quan chủ động và có trách nhiệm cung cấp thông
tin số liệu về ngành kinh tế hoặc vùng kinh tế mà mình có tiềm năng, có lợi
thế sẽ có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhưng thiếu vốn cho Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Chính phủ để quảng bá thu hút vốn đầu tư vào Lào.
Chủ động và có trách nhiệm quản lý, theo dõi, giám sát việc thực hiện
dự án đầu tư trong lĩnh vực ngành nghề thuộc thẩm quyền mình quản lý, đồng
thời phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hiệu quả kinh tế - xã hội.
Phối hợp với nhau trong việc quản lý, giám sát theo chức năng của mỗi
ngành, mỗi cấp, đảm bảo sự thống nhất về mặt quản lý nhà nước và đạt hiệu quả
kinh tế - xã hội theo mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã định.
Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan đến FDI theo hướng tiếp tục
đơn giản hóa, mở rộng các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư, rà
soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép, các quy định liên quan đến hoạt
động FDI trên cơ sở bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết.
126
Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
đầu tư nước ngoài ở Lào. Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được tăng
cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ và nhân
dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thông qua đó mà kiểm tra,
giám sát việc thi hành pháp luật. Cho nên, để tăng cường công tác tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật đầu tư nước ngoài của Lào có hiệu quả và
gắn liền với các cơ quan cấp tỉnh Để thực hiện pháp luật ĐTNN ở nước
CHDCND Lào hiện nay, thì yêu cầu dạt ra phải làm thế nào cho mọi người kề cả
các công tác cơ quan trong khu vực đầu tư điều hiểu rõ những quy định của pháp
luật và các quy định của luật ĐTNN nói riêng. Công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật là hoạt động góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực hiệu quả
của đối với thực hiện pháp luật ĐTNN trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nói
chung, trong thực hiện pháp luật ĐTNN nói riêng.
Như vậy, phải tăng cường công tác giải thích, tuyên truyền, phổ biến và
giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật ĐTNN nói riêng cho cán bộ, công
chức và nhân dân để đảm bảo tính thống nhất trong nhận thức và thực hiện pháp
luật về ĐTNN. Để làm cho cán bộ, công chức và nhân dân hiểu biết và có ý thức
tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo đúng Hiến pháp và pháp luật đảm bảo
cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và công bằng.
Để nhận thức đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật ĐTNN đòi hỏi phải
giải thích một số quy định cơ bản trong các văn bản pháp luật ĐTNN và phải
giải thích trước khi tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó chứ không chỉ
giải thích khi nảy sinh vướng mắc, tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Ví dụ: Theo
pháp luật khuyến khích đầu tư của nước CHDCND Lào năm 2009, đã nói rõ về
việc phân cấp quản lý đầu tư giữa địa phương và trung ương để tăng cường cho
127
việc thực hiện pháp luật ĐTNN thành đạt được hiệu quả hơn như sau: Điều 83.
Nguyên tắc phân cấp quản lý.
- Phân trách nhiệm cho địa phương nhiều hơn nữa, tăng cường trách
nhiệm của Trung ương trong quản lý vĩ mô, thúc đẩy và giám sát kiểm tra
việc tổ chức thực hiện của địa phương;
- Tổ chức nào, cấp nào cấp phép đầu tư thì tổ chức đấy, cấp đấy quản
lý, phối hợp với các ngành liên quan và chính quyền địa phương theo dõi
giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư và thường xuyên báo cáo cấp trên;
- Đầu tư trong ngành nào thì ngành đó là chủ quản lý về chuyên môn và
phối hợp với các ngành hữu quan liên quan theo quy định của pháp luật.
Điều 86: Trong quản lý đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Công thương
có quyền và nhiệm vụ như sau:
- Nghiên cứu và xây dựng kế hoạch chiến lược, chính sách và quy định pháp
luật đối với việc khuyến khích đầu tư và tập hợp dự án hoặc công trình cần kêu gọi
đầu tư nhằm đề nghị Chính phủ xem xét.
- Quảng bá kế hoạch chiến lược, chính sách, quy định của pháp luật liên
quan khuyến khích đầu tư và đáp ứng thông tin về dự án hoặc công trình cần đầu tư
nhằm thu hút đầu tư.
- Hướng dẫn và phối hợp với các ngành liên quan và địa phương liên quan
trong việc tổ chức thực hiện quy định pháp luật liên quan đến khuyến khích đầu tư;
- Thúc đẩy, khuyến khích và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong các dự án
tô nhượng trên toàn quốc;
- Tạo điều kiện thuận lợi trong thực hiện dịch vụ đầu tư một cửa;
- Nghiên cứu xem xét cấp phép, quyết định dừng, hủy bỏ việc đầu tư
hoặc rút giấy phép tô nhượng đất hoặc hủy hợp đồng tô nhượng, với sự đồng
ý của Chính phủ;
- Xây dựng, củng cố, nâng cao trình độ cán bộ về đầu tư;
- Hợp tác với nước ngoài về công tác đầu tư;
128
- Tổng kết và thường xuyên báo cáo tình hình đầu tư trong các dự án tô
nhượng với Chính phủ;
- Thực hiện các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định pháp luật.
Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức liên quan đến
thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào. Đội ngũ cán bộ quản lý trong
hoạt động thực hiện pháp luật về ĐTNN cần phải được chuẩn hóa. Vì chính
đội ngũ cán bộ này sẽ trực tiếp xử lý, tiếp xúc với Nhà nước và các nhà đầu
tư, đây là hình ảnh sống động về môi trường đầu tư. Như vậy, phải chú trọng
đến công tác đào tạo, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, mức giáo dục,
năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước các
cấp. Bên cạnh đó, những người này phải thực thi sứ mệnh của mình và trách
nhiệm đúng theo pháp luật.
Tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp
có vốn FDI theo các chương trình phù hợp nhu cầu và triển vọng sử dụng
thực tế. Khuyến khích và có quy định cụ thể đối với các dự án FDI về đào tạo
tay nghề, nhất là huấn luyện kỹ thuật, có chính sách yêu cầu các dự án và
công ty có kế hoạch đào tạo công nhân và người quản lý, nhất là trong đầu tư
trung và dài hạn. Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện một cách đồng
bộ và các chính sách có tính chất liên ngành, nhằm cung cấp cho các doanh
nghiệp có vốn FDI, cụ thể là:
- Tiếp tục bổi dưỡng giáo dục pháp luật về ĐTNN cho các cán bộ công
chức, để đáp ứng nhu cầu phát triển thực hiện pháp luật ĐTNN cho các công
nhân và người có nhiệm vụ chức trách nhiệm trong cơ quan công tác liên
quan đến ĐTNN, đào tạo từng bước tiến kịp trình độ của các nước trong khu
vực cũng như tiêu chuẩn hội nhập quốc tế. Ngoài ra, tăng đầu tư phát triển y
tế và công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người lao động.
- Đảm bảo quy mô pháp luật về đầu tư nước ngoài và tốc độ hợp lý về
đào tạo bậc đại học, sau đại học, cao đẳng trở lên theo tất cả các hình thức đào
129
tạo. Chấn chỉnh và định hướng lại quy mô đào tạo theo cơ cấu ngành nghề
gắn với nhu cầu thực tế và tương lai của phát triển đất nước nói chung và đáp
ứng được nhu cầu thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng.
- Tăng cường đầu tư trang thiết bị thích hợp cho các trường dạy nghề,
công nhân kỹ thuật để phục vụ cho các doanh nghiệp có vốn FDI kể cả nghề
quản lý cho cán bộ tham gia quản lý ở các doanh nghiệp có vốn FDI.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện luật pháp
luật đầu tư nước ngoài ở Lào. Để bảo đảm thực hiện pháp luật về ĐTNN
thì ngoài công tác giáo dục pháp luật, xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên
trách làm công tác tuyên truyền pháp luật, cải tiến các phương pháp xây
dựng, ban hành văn bản pháp luật còn phải xây dựng được một cơ chế kiểm
tra, giám sát thực hiện có hiệu quả.
Công tác kiểm tra, giám sát là hoạt động không thể thiếu của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để kiêm nghiệm, đánh giá những quy định,
những biện pháp hoạt động của các cấp, các ngành, các cơ quan, tìm ra những
thiếu sót, hạn chế của các bộ phận, từ đó từng bước hoàn thiện bộ máy nhà
nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải tiến các phương pháp hoạt động
nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động quản lý của Nhà nước.
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước sẽ phát
hiện ra những thiếu sót, bất cập về tổ chức, hoạt động và những vướng mắc
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Kiểm
tra, giám sát sẽ phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời những biểu hiện vi
phạm pháp luật đầu tư nước ngoài, tránh được hiện tượng lộng quyền, lạm
quyền của cán bộ, công chức khi áp dụng pháp luật. Đặc biệt, trong giai đoạn
hiện nay, hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài của
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương là rất cần thiết nhằm bảo đảm để
thực hiện pháp luật trong thực tiễn.
130
Để đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong thực hiện
pháp luật đầu tư nước ngoài, bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài của
Lào, các cấp ủy đảng và chính quyền cần thực hiện tốt các mặt giải pháp sau:
Tiến hành thường xuyên hoạt động kiểm tra của các tổ chức đảng, hoạt
động giám sát của Mặt trận đối với việc thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
của các cơ quan, công chức chính quyền của bộ ngành đã liên quan cần phải
thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.
Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra chuyên ngành của cơ quan
quản lý nhà nước đối với việc thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài.
Tăng cường hoạt động giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương, coi là biện pháp cơ bản nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp luật
đầu tư nước ngoài nói riêng và thực hiện pháp luật ở CHDCND Lào nói chung.
- Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát phải gắn liền với việc đánh giá
mức độ vi phạm pháp luật, từ đó áp dụng các chế tài về trách nhiệm đối với
các cá nhân, tổ chức vi phạm.
Cần đổi mới tổ chức và hoạt động, cơ chế phối hợp giữa thanh tra các
cấp và thanh tra chuyên ngành, bảo đảm hiệu lực thực tế của các kết luận, đề
xuất của thanh tra đối với các quyết định quản lý và hành vi hành chính trái
pháp luật đầu tư. Mở rộng các biện pháp thanh tra, tăng cường công tác thanh
tra hành chính đối với hoạt động của cán bộ, công chức.
Các bộ ngành cần tập trung công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các
vấn đề bức xúc trong hoạt động đầu tư nước ngoài, như đất đai, môi trường,
thuế... đồng thời tăng cường rà soát các văn bản pháp luật để phát hiện sai
phạm, chồng chéo từ đó kịp thời sửa đổi, bổ sung.
Công tác kiểm tra, giám sát phải bảo đảm tính khoa học, tính khách
quan, công khai, hiệu quả, tránh gây phiền hà cho các chủ thể. Nhà nước cần
củng cố tổ chức cơ quan làm công tác kiểm tra, giám sát, đồng thời xây dựng,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác này.
131
Năm là, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh những hành vi, vi
phạm pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào. Ngoài việc giải pháp về đầu tư
ĐTNN, cần phải quan tâm đến việc giải pháp về vấn đề khác có liên quan
đến đầu tư FDI cửa CHDCND Lào như: vấn đề sự cạnh tranh cửa các công
ty doanh nghiệp sau khi tiếp tục công trình nào đó.
Muốn bảo đảm việc đầu tư ổn định, thì phải có một nền kinh tế mạnh mẽ
cho nên là phải có khu vực DN phát triển và có sức cạnh tranh cao. Vì vậy, trên
phạm vi cả nước, cần nhanh chóng thực hiện các giải pháp cần thiết để hỗ trợ
năng lực cạnh tranh của các DN, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Một số giải
pháp chính nhằm hỗ trợ năng lực cạnh tranh của các DN Lào bao gồm:
Một trong những nguyên nhân hạn chế việc bảo đảm thực hiện pháp
luật nói chung và thực hiện pháp luật ĐTNN nói riêng ở nước CHDCND Lào
là do việc xử lý các vi phạm pháp luật còn chưa kịp thời và nghiêm khắc.
Trong Điều 68, pháp lệnh của Luật khuyến khích ĐTNN của CHDCND Lào
năm 2009, đã nói rõ trong Điều 97: Xử phạt cho người vi phạm,“Cá nhân, tập
thể vi phạm pháp luật về khuyến khích đầu tư sẽ bị xử phạt với các biện pháp:
giáo dục bồi dưỡng, kỷ luật, xử phạt, bồi thường dân sự hoặc truy tố theo từng
trường hợp nặng hoặc nhẹ, theo quy định của pháp luật” [36, tr.34-45].
Như vậy, trong việc thực hiện pháp luật về ĐTNN ở CHDCND Lào,
khi các chủ thể, kể cả các nhà ĐTNN cũng như cán bộ, công chức làm nhiệm
vụ quản lý có hành vi vi phạm pháp luật thì đều phải xử lý nghiêm minh,
đúng pháp luật. Trong quy định của pháp luật ĐTNN, nguyên tắc “có thể làm
tất cả những gì pháp luật không cấm” có ý nghĩa quan trọng trong việc phát
huy dân chủ, bảo đảm sự tự do của các nhà ĐTNN. Nhưng nguyên tắc đó
cũng chứa đựng ranh giới pháp lý giữa tự do và trách nhiệm. Đối với các nhà
ĐTNN thì ranh giới của hành vi hợp pháp là các quyền hợp pháp và lợi ích
chính đáng của họ. Chính vì vậy. pháp luật đầu tư nước ngoài có những quy
132
định yêu cầu các chủ thể trong khi thực hiện các quyền của mình không được
vi phạm quyền hợp pháp của chủ thể khác.
Đối với các cơ quan và cán bộ công chức làm chức năng quản lý nhà
nước về đầu tư nước ngoài, những người nắm trong tay quyền lực nhà nước,
thì khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định không
được lợi dụng hay sử dụng quá quyền hạn đó. Mọi vi phạm pháp luật của cán
bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ở CHDCND Lào phải được xử lý nghiêm
minh theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bất cứ ai, dù ở
cương vị nào cũng phải sống và làm việc theo Pháp lệnh và pháp luật.
Kết luận Chương 4
Trong chương này, tác giả đã giải thích một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật ĐTNN của CHDCND Lào khi nào cũng
phải gắn liền với sự biến đổi và nằm trong khuôn khổ của sự nghiệp đầu tư để
phát triển đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của ĐTNN đối với sự
phát triển nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước Lào đã sớm đề ra giải pháp
và có các quan điểm đúng đắn, khẳng định vị trí quan trọng của thực hiện
pháp luật đầu tư nước ngoài đối với quá tình phát triển kinh tế - xã hội của
Lào trong thời gian qua và hiện nay.
Thứ hai, trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay mở ra nhiều
triển vọng nhưng cũng không ít thách thức, khó khăn đòi hỏi Lào phải rất cố
gắng, nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư để có thể tăng cường thu
hút được nhiều FDI thời gian tới, Lào cần thiết phải cải thiện mạnh mẽ môi
trường đầu tư, trên cơ sở cải cách một cách đồng bộ các điều kiện pháp luật
để thừa nhận nước ngoài Lào đã thiết lập.
Thứ ba, thấy được tầm quan trọng của thực hiện pháp luật đầu tư đối
với việc giải quyết vấn đề khó khăn về vốn và tác động tích cực của nó đối
133
với việc tăng trưởng phát triển kinh tế của Lào, để giải quyết tăng cường thực
hiện pháp luật đầu tư ở Lào trong thời gian tới có thể thực hiện có hiệu quả
cao cần phải thực thi một hệ thống các giải pháp như: tiếp tục hoàn thiện hệ
thống luật pháp và chính sách thực hiện pháp luật và sử dụng vốn FDI nhằm
hoàn thiện môi trường đầu tư hấp dẫn; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước;
xây dựng quy hoạch thu hút FDI; cải tạo và nâng cao cơ sở hạ tầng; phát triển
giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực; đa dạng hóa hình thức đầu tư; mở rộng
lĩnh vực thu hút FDI; lựa chọn đối tác nước ngoài thích hợp; đổi mới và đẩy
mạnh công tác vận động xúc tiến đầu tư; cải cách thủ tục hành chính và các
giải pháp hỗ trợ khác; tích cực tìm biện pháp làm giảm chi phí kinh doanh cho
các doanh nghiệp. Những giải pháp nêu trên phải có tính toàn diện, đồng bộ.
Thứ tư, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc nhà
nước hỗ trợ để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là mục tiêu
kinh tế rất quan trọng, vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩ lâu
dài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở khái quát hóa những
vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và sự hỗ trợ nâng cao năng
lực các DN của Lào trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án đã hệ
thống một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
các DN Lào trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, giải pháp vấn đề khác đã xảy ra trên thực tế đã liên quan đến
việc thực hiện pháp luật ĐTNN, đối với sự cạnh tranh trong môi trường đầu
tư của các nhà ĐTNN sau khi xây dựng và khởi động công ty cổ phần doanh
nghiệp và kinh doanh ở CHDCND Lào hiện nay.
134
KẾT LUẬN
Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào là sự nghiệp
lớn nhất của Đảng và Nhà nước, để tạo điều kiện cho đất nước phát triển thoát
khỏi sự lạc hậu. Cho nên, để nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật
ĐTNN ở nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay cần tiến hành những
biện pháp chủ yếu sau:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Lào trong giai đoạn
hiện nay, hiện đại và phù hợp với các môi trường đầu tư đa dạng;
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục
pháp luật; nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý cho cán bộ, nhân dân;
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; xử
lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật;
- Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài;
- Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Để phát triển kinh tế xã hội Đảng và Nhà nước Lào đã và đang quan
tâm đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, trong đó có vấn đề thực hiện pháp luật về
đầu tư để thu hút vốn FDI. Trên thực tế qua các giai đoạn vừa qua FDI vào
Lào đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của Lào, giải quyết được nhiều
công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, việc thu hút FDI vào Lào
còn bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn và thách thức vì vậy cần được khắc phục
và hoàn thiện trong thời gian tới. Qua nghiên cứu tìm hiểu về việc thực hiện
pháp luật ĐTNN của Lào tác giả đã chọn đề tài.
Từ những lý do trên đây, thì tôi đã chọn đề tại này để nghiên cứu và
mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc sử dụng pháp luật về đầu tư
có hiệu lực và được hiệu quả trên thực tế hiện nay và tương lai, vì vậy
135
“Thực hiện pháp Luật về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào” làm luận án tiến sĩ, hiện đang và đòi hỏi để đáp ứng về mặt
lý luận và thực tiễn của nước CHDCND Lào.
Từ các nội dung nghiên cứu và trình bày, luận án đã hoàn thành những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Khái quát hóa cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật và thực tiễn về
FDI; phân tích vai trò đóng góp của FDI cho sự phát triển kinh tế của một
quốc gia. Theo đó, luận án đã phân tích ảnh hưởng của một số nhân tố quan
trọng đến quá trình thực hiện pháp luật ĐTNN.
2. Lựa chọn và đúc kết những kinh nghiệm về thực hiện FDI của một
số nước ASEAN, luận án đã rút ra các bài học kinh nghiệm thu hút FDI thành
công ở các nước đó. Thành công trong việc thu hút của một số nước ASEAN
chính là do hệ thống cơ sở hạ tầng có thể đáp ứng được, hệ thống cơ chế luật
pháp, chính sách thích hợp có thể tạo được môi trường đầu tư lành mạnh và
hấp dẫn cho hoạt động thu hút FDI.
3. Phân tích thực trạng hoạt động thực hiện pháp luật FDI ở Lào trong
những năm qua và rút ra những kết quả và hạn chế:
- Về kết quả, khu vực thực hiện pháp luật ĐTNN đã trở thành một bộ
phận quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước. ĐTNN đã có những đóng
góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, đưa nước Lào ra khỏi khủng hoảng
kinh tế, đồng thời từng bước nâng cao vị thế của Lào trên trường quốc tế. Sau
hơn 20 năm mở cửa, dòng vốn FDI thu hút đã tác động tích cực đến nhiều mặt
đời sống kinh tế - xã hội của Lào, bổ sung cho nguồn vốn cho đầu tư phát triển
và góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước.
- Những hạn chế, hiệu quả thực hiện pháp luật vẫn còn nhiều cái thứ thì cần
phải quan tâm đến như là nguyên nhân của những hạn chế trên đây bắt nguồn
từ nhiều yếu tố bên ngoài và bên trong làm cho môi trường đầu tư ở Lào chưa
có sức hấp dẫn các nhà ĐTNN, đó là:
136
Nhận thức về vai trò, vị trí của pháp luật ĐTNN, trong nền kinh tế
chưa thực sự thống nhất cao và chưa quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ
trương thực hiện pháp luật ĐTNN của Đảng và Nhà nước ở các cấp, các
ngành, các địa phương.
Hệ thống luật pháp, chính sách về FDI của Lào tuy có nhiều tiến bộ và
cải thiện đáng kể nhưng nhìn chung vẫn chưa hoàn chỉnh theo mong muốn
của các nhà đầu tư nước ngoài; thủ tục hành chính còn phiền hà, thiếu sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng.
Việc thu hút vốn FDI còn thiếu chủ động và thiếu quy hoạch cụ thể nên
định hướng thu hút FDI chưa thực sự rõ ràng, chưa xác định rõ mục tiêu gọi
vốn trọng tâm tương xứng đối với tiềm năng của mình; công tác xúc tiến đầu
tư còn yếu và hình như không có.
4. Từ kết quả nghiên cứu, ở chương 4, luận án đã đưa ra một số nhóm
giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện pháp luật đầu tư của Lào có thể
đáp ứng được hợp lý với việc thu hút vốn FDI vào Lào trong thời gian tới đó
là: tiếp tục củng cố và đảm bảo môi trường chính trị, xã hội ổn định; tiếp tục
hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách thu hút FDI, xây dựng quy hoạch
thu hút FDI; tăng cường công tác vận động và xúc tiến đầu tư; nâng cao chất
lượng quản lý nhà nước; chuẩn bị tốt cơ sở hạ tầng; nâng cao hiệu quả hoạt
động của các dự án FDI đã triển khai.
Trong việc nghiên cứu đề tài, mặc dù tác giả của luận án đã hết sức cố
gắng, song do nhiều lý do và nhiều nhân tố liên quan đến việc nghiên cứu khá
rộng nên không tránh khỏi được những khiếm khuyết. Mong rằng trong tương
lai các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học sẽ tiếp tục quan tâm nghiên cứu, góp
ý, bổ sung để đề tài này được hoàn thiện hơn để đáp ứng và vận dụng được
các yêu cầu thực tiễn của việc thực hiện pháp luật đầu tư của CHDCND Lào
cho việc thu hút vốn FDI vào Lào có hiệu quả và ngày càng cao hơn.
137
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. NorKeo KOMMADAM (2015), “Một số vấn đề trong các quy định pháp luật
đầu tư của Lào”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 17, (601), tr.49 - 51.
2. Norkeo KOMMAMDAM (2015), “Một số kết quả đạt được trong thực
hiện luật khuyến khích đầu tư của Lào”, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 7, tr. 109-112.
138
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1. Bộ Tư pháp (2015), Luật đầu tư, NXB Tư pháp, Hà Nội.
2. Phạm Thị Kim Cúc (2009), Thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực đầu tư ở tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn Thạc sĩ Lý luận
lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Nguyễn Khắc Định (2003), Hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong xu hướng nhất thể chế hóa pháp luật về đầu tư ở Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
4. Hồ Hoàng Đức (2005), Quản lý nhà nước trên lĩnh vực đầu tư xây dựng
trong cơ chế kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa,
Luận án Tiến sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
5. Lệ Thùy Dương (2011), Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án
đầu tư kinh doanh bất động sản ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc
sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
6. Trần Tiến Hải (2015), Thực hiện pháp luật về đầu giá quyền sử dụng đất
ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Lý
luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
7. Tống Thị Hạnh (2009), Quản lý nhà nước bằng pháp luật về đầu tư xây
dựng ở thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Lý luận lịch sử nhà
nước và pháp luật, Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
8. Nguyễn Duy Hùng (2003), Luật đầu tư song ngữ Việt - Anh, NXB Giao
thông vận tải, Hà Nội.
139
9. Nguyễn Duy Hùng (2009), Luật khuyến khích đầu tư trong nước Việt
Nam, năm 1999 - 2005 (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn thi hành
(văn bản hiện hành, mới nhất), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Phạm Mỹ Hương (2013), Những vấn đề pháp lý về đầu tư theo hợp đồng
hợp tác kinh doanh ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế,
Trường Đại học Luật, Hà Nội.
11. Trịnh Thị Thu Hương (2009), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn Thạc sĩ Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Linh (2015), Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành
chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, Luận án
Tiến sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13. Võ Hải Long (2010), Vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Lý luận và lịch
sử nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
14. Đào Thị Mai (2005), Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay thực tiễn của thành phố Hải Phòng, Luận văn Thạc sĩ Lý
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
15. Nguyễn Duy Nam (2013), Pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư - những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Trường
Đại học Luật, Hà Nội.
16. Đỗ Thị Phương (2013), Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
140
17. Vũ Viết Thiệu (2007), Thực hiện pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí trong quản lý nhà nước lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản,
Luận văn Thạc sĩ Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện
chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
18. Nguyễn Huy Thường (2007), Hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Phan Thị Hương Thủy (2002), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết
tranh chấp Kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật,
Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Trường (2007), Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài trên
địa bàn thủ đô Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Lý luận lịch sử nhà nước
và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Trần Thị Xuân (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
pháp luật ở thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Lý luận
và lịch sử nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
22. Trần Bảo Yến (2013), Pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước
trong các tổ chức kinh tế - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
B. TÀI LIỆU TIẾNG LÀO (Dịch sang tiếng Việt)
23. Alounny Manipakone (2011), Các biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Thủ đô Vientian nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
24. Ban Phát triển doanh nghiệp quốc gia (2012), Bài báo cáo tổng kết công
tác phát triển doanh nghiệp cả nước năm 2012, Viêng Chăn.
141
25. Báo Nhân dân (2016), Lời phát biểu về kế hoạch 30 năm phát triển kinh
tế - xã hội ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
26. Báo Phát triển ngành (2009), Quản lý trong khu vực kinh tế và tài chính,
NXB Vụ quảng cáo huấn luyện pháp luật, Bộ Tư pháp, Viêng Chăn.
27. Bộ Công thương (2009), Chiến lược phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
đến năm 2010, Viêng Chăn.
28. Bộ Công thương (2010), Chiến lược xuất khẩu quốc gia, Viêng Chăn.
29. Bộ Công thương, Cục xuất nhập khẩu (2008), Tổng kết xuất khẩu 2007 -
2008, Viêng Chăn.
30. Bộ Công thương, Cục xuất nhập khẩu (2009), Tổng kết xuất khẩu 2008 -
2009, Viêng Chăn.
31. Bộ Công thương, Cục xuất nhập khẩu (2010), Kế hoạch xuất khẩu 2010 -
2015, Viêng Chăn.
32. Bộ Công thương, Cục xuất nhập khẩu (2010), Tổng kết xuất khẩu năm
2009 - 2010, Viêng Chăn.
33. Bộ Công Thương, Phòng Khuyến khích và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,
(2010), Báo cáo tình hình của doanh nghiệp vừa và nhỏ, Viêng Chăn.
34. Bộ Công thương, Vụ kế hoạch và hợp tác (2012), Bài phân tích sự hội
nhập về thương mại năm 2012, Viêng Chăn.
35. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia lần thứ VI (2006 - 2010), Viêng Chăn.
36. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Pháp luật khuyến khích đầu tư của Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào, bản số 02/QH, ngày 8 tháng 7 năm
2009, giấy đề nghị của bản số 2733/KHDDT4, ngày 23 tháng 11
năm 2010.
37. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia lần thứ VII (2011 - 2015), Viêng Chăn.
142
38. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Báo Kinh tế - Xã hội, Viêng Chăn.
39. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Thống kê năm 2012, Viêng Chăn.
40. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Kế hoạch về phát triển quản lý Nhà nước
bằng pháp luật của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào từ nay đến
năm 2020, NXB Bộ tư pháp Lào.
41. Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm (2014), Thống kê năm 2013, Viêng Chăn.
42. Bộ Lao động và phúc lợi xã hội (2012), Tổng kết việc tổ chức thực hiện
công tác Lao động và Phúc lợi xã hội năm 2010-2011 và kế hoạch
năm 2011-2012, Viêng Chăn.
43. Bộ năng lượng và Khoáng sản (2010), Kế hoạch phát triển năng lượng và
khoáng sản lần thứ VII (2011 - 2015), Viêng Chăn.
44. Bộ Tư pháp (1988), Luật về Đầu tư nước ngoài tại Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, NXB Viêng Chăn.
45. Bộ Tư pháp (1991), Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, NXB
Viêng Chăn.
46. Bộ Tư pháp (1994), Luật về quản lý và khuyến khích đầu tư nước ngoài tại
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, ngày 21/4/1994 số 23/QH (sửa đổi
luật năm 1988).
47. Bộ Tư pháp (1995), Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, ban hành ngày
26/10/1995, Lào.
48. Bộ Tư pháp (2003), Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm
2003 (sửa đổi 1991), NXB Viêng Chăn.
49. Bộ Tư pháp (2004), Giáo trình Luật đầu tư nước ngoài của Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào.
50. Bộ Tư pháp (2005), Giáo trình Luật đầu tư khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
51. Bộ Tư pháp (2005), Giáo trình Luật đầu tư Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia.
143
52. Bộ Tư pháp (2005), Luật thuế Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, NXB
Viêng Chăn.
53. Bộ Tư pháp (2008), Sách tổng hợp pháp luật và các văn bản pháp lý của Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào, NXB Vụ quảng cáo huấn luyện pháp
luật,Viêng Chăn.
54. Bộ Tư pháp (2009), Luật đầu tư của Lào, NXB Viêng Chăn.
55. Bộ Tư pháp (2010), Luật về khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài
bản sửa đổi bổ sung năm 2004 - 2009 (sửa đổi luật năm 1994), NXB
Viêng Chăn.
56. Bộ Tư pháp (2011), Pháp luật về các lĩnh vực kinh tế của Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào năm 1990 -2004, NXB Viêng Chăn.
57. Bộ Tư pháp (2011), Sắc lệnh luật khuyến khích đầu tư, dựa theo pháp
luật đối với khuyến khích đầu tư bản số 02/QH, ngày 8 tháng 7 năm
2009, Viêng Chăn.
58. Bun Sổng Va Say Gì (2011), Quản lý đầu tư trực tiếp trong nước và nước
ngoài gắn vào khu vực nông nghiệp ở tỉnh Luông năm Tha, Luận
văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế, Học viện chính trị và hành chính Quốc
gia Thà ngòn, Lào.
59. Bunthôm Phômmavông Sy (2012), Đầu tư Nhà nước vào sự phát triển
cơ sở hạ tầng kiến trúc ở tỉnh Sa la Văn, Luận văn Thạc sĩ Nhà
nước và pháp luật, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia
Thà Ngòn, Lào.
60. BunTy ĐêtĐaVôngSỏn (2011), Cải thiện đầu tư của Nhà nước trong
khu vực nông nghiệp, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị, Học
viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Thà ngòn Lào.
61. Chaopaly PhanOuthon (2010), Hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Chăm Pa sắc nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học
viện Chính trị Hồ Chí Minh, Hà Nội.
144
62. Cục Chính sách ngoại thương, Bộ Công thương (2010), Hội nhập kinh tế
vùng và quốc tế, Viêng Chăn.
63. Cục Công nghiệp, Bộ Công thương (2010), Công tác quản lý và phát triển
công nghiệp chế biến, Viêng Chăn.
64. Cục Hợp tác quốc tế, Cơ quan Du lịch quốc gia (2010), Số liệu du lịch cho
phép đầu tư cho các năm từ 2000 - 2010, Viêng Chăn.
65. Cục Khuyến khích và phát triển đầu tư, Bộ Kế hoạch - Đầu tư (2010), Số
liệu đầu tư theo ngành từ 2000 - 2010, Viêng Chăn.
66. Cục Phát triển sản phẩm thương mại, Bộ Công thương (2010), Kế hoạch
phát triển thủ công Lào, Viêng Chăn.
67. Cục Xuất - Nhập khẩu, Bộ Công thương (2010), Đánh giá sự tổ chức
thực hiện quan hệ thương mại Lào - Việt Nam năm 2010 và năm
2015, Viêng Chăn.
68. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Nghị quyết của Đảng lần thứ
VII, NXB Quốc gia, Viêng Chăn.
69. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Nghị quyết của Đảng lần thứ
VIII, NXB Quốc gia, Viêng Chăn.
70. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Nghị quyết của Đảng lần thứ IX,
NXB quốc gia, Viêng Chăn.
71. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2013), Nghị quyết của Bộ chính trị
số 05/BCT Về củng cố và phát triển doanh nghiệp trong giai
đoạn mới, Viêng Chăn.
72. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Chương trình báo cáo chính trị
của ban điều hành Trung ương Đảng thời kỳ thứ IX đối với Đại hội
lần thứ X của Đảng nhân dân cách mạng Lào nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào.
145
73. Ekmongkhon Saiyavong (2008), Nhất thế hóa pháp luật đầu tư của Việt
Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào trong tiến trình gia nhập WTO, Luận văn Thạc sĩ
Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
74. Hội đồng Công thương Quốc gia Lào (2009), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào trong tiến trình hội nhập WTO, cơ hội và thách thức trong phát
triển xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp giá cao, Viêng Chăn.
75. Hội đồng Công thương Quốc gia Lào (2010), Đánh giá sự tin tưởng về
kinh doanh của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Viêng Chăn.
76. Khămkhỏng Phômmapannha (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ
chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào, Luận án Tiến sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
77. Khămmanh Sisath (2013), Pháp luật đầu tư của Lào trong tương quan
so sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam - Bài học kinh nghiệm hoàn
thiện pháp luật đầu tư của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận
văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
78. Khăm Phui Pan Ma Lai Thong (2011), Những vấn đề chung về tình hình kinh
tế của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và phương hướng phát triển
trong tương lai, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, tập I, Viêng Chăn.
79. Khăm Sải Năn Tha Vông (2009), Thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
căn cứ vào sự phát triển nền kinh tế ở Lào, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế
chính trị, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Thà Ngòn Lào.
80. KhămLa LovanXay (2013), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất
đai ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án Tiến sĩ Lý
luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
146
81. KhămSải Nănthavông (2009), Thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài căn cứ vào sự phát triển nền kinh tế ở Lào, Luận văn Thạc sĩ
Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Thà
Ngòn, Lào.
82. Khănkeo Đalybut (2010), Giải quyết tranh chấp vấn đề xảy ra vì đầu tư
nước ngoài nghiên cứu để so sánh hệ thống trong và ngoài tòa án,
Luận văn Thạc sĩ Pháp lý luật học, Trường Đại học Luật Lào.
83. Ngân hàng Thế giới (2009), Báo cáo phát triển của thế giới, Viêng Chăn.
84. Ngân hàng Trung ương Lào (2005), Báo cáo kinh tế trung ương, Viêng Chăn.
85. Ngân hàng Trung ương Lào (2007), Báo cáo kinh tế trung ương, Viêng Chăn.
86. Ngân hàng Trung ương Lào năm (2006), Báo cáo kinh tế trung ương,
Viêng Chăn.
87. Phonepaseuth Mahanousith (2011), Hoàn thiện pháp luật về khuyến khích
đầu tư nhằm hình thành và phát triển các khu công nghiệp ở nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế,
Trường Đại học luật, Hà Nội.
88. Phonesay Vilaysack (2010), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án Tiến sĩ Kinh tế phát triển
kinh tế đầu tư, Trường đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
89. Phôxay Xayxasỏn (2011), Cải cách bộ máy hành chính nhà nước cấp
huyện ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Luận án Tiến sĩ Lý
luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
90. Phutsady Phănnhaxít (2008), Pháp luật về khuyến khích đầu tư ở nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào - thực trạng và phương hướng hoàn thiện,
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học luật, Hà Nội.
147
91. Sengkhamyong Bounnaphone (2013), Các quy định về khuyến khích đầu tư
- so sánh giữa pháp luật của Việt Nam và của Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật,
Hà Nội.
92. Sengphet Bulom (2011), Pháp luật về hình thức đầu tư Việt Nam trong sự
so sánh với pháp luật đầu tư Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận
văn thạc sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
93. Sổmsắc Sengsắcđa (2010), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Chăm pa
Sắc nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn Thạc sĩ Kinh
tế chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Hồ Chí Minh, Hà Nội.
94. Souliya Pouangpadith (2008), Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận
văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
95. Syvanh Leemaitêng (2013), Các quy định pháp luật về đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam và Lào - Nhìn từ góc độ so sánh, Luận văn Thạc sĩ Luật
kinh tế, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
96. Thặt sa na lon Sỉ su nôn (2011), Quy tắc khuyến khích và quản lý đầu tư
nước ngoài ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trường hợp nghiên
cứu việc đầu tư trong công trình thông thường, Luận văn Thạc sĩ
Pháp lý và nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật, Lào.
97. Uỷ ban Kế hoạch và Đầu tư (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Quốc gia lần thứ VI (2006-2010), Viêng Chăn.
98. Uỷ ban Kế hoạch và Đầu tư (2007), Báo cáo khảo sát doanh nghiệp năm
2005, Viêng Chăn.
99. Uỷ ban Phát triển Doanh nghiệp Quốc gia (2008), Báo cáo tình hình hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp trong thời gian qua và phương
hướng chiến lược đề phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới,
Viêng Chăn.
148
100. Văn phòng Chính phủ (2009), Chiến lược phát triển doanh nghiệp Vừa
và Nhỏ đến năm 2010, NXB Quốc gia, Viêng Chăn.
101. Văn Xay Sen Nhot (2014), "Để thu hút FDI nhiều hơn tại các tỉnh miền
núi phía Bắc Lào", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (03), tr. 38-40.
102. Văn Xay Sen Nhot (2014), "Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
quy trình phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía Bắc Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào", Tạp chí Thông tin đối ngoại, (02), tr. 70-74.
103. Viện Khoa học xã hội Quốc gia (2011), Tổng kết 25 đổi mới ở Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào (1986-2010), NXB Quốc gia, Viêng Chăn.
104. Vụ Kế hoạch và Phát triển đất đai (2005), Luật đất đai Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, NXB Quốc gia, Viêng Chăn.
C. TIẾNG ANH
105. Asia Competitiveness Institute (2011), ASEAN Competitiveness Report
2010, Singapore.
106. World Economic Forum (2013), The Global Competitiveness Report
2013-2014, Geneva.
107. Ministry of Commerce and Tourism, Lao PDR (1998), What and How to
do business in the Lao PDR, Vientiane.
108. Deparment for Promotion and Management of Domestic and Foreign
Investment - DDFI Lao PDR (2005), Lao PDR - The Promising
Investment Destination, Vientiane.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Tình trạng kinh tế của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tóm lại năm 2014
Sự phát triển của kinh tế 2009/10 2010/11 2011/12 2012/13 2013/14 2014/15
Tổng kết số lượng tăng lên (%) 7.9 8,1 8,3 8,0 7,8 8,2
Nông nghiệp (%) 3,0 2,9 2,8 3,1
Công nghiệp hóa (%) 17,7 15,2 14,4 7,4
Dịch vụ (%) 5,2 7,1 8,1 9,7
Các thuế lệ khác (%) 12,3 9,6 8,6 19,6
Thu nhập do với người (Đô la) 1.026 1.213 1.355 1.534
Cơ cấu của kinh tế 2009/10 2010/11 2011/12 2012/13
Nông nghiệp (%) 28,9 27,8 26,6 25,2
Công nghiệp hóa (%) 26,9 28,3 29,5 28,0
Dịch vụ (%) 37,2 36,8 36,7 38,9
Các thuế lệ khác (%) 7.0 7.1 7.1 7.9
Sự góp phần về sự phát triển 2009/10 2010/11 2011/12 2012/13
(trong 100%)
Nông nghiệp (%) 11,9 10,9 9,6 10,7
Công nghiệp hóa (%) 52,3 47,7 47,0 26,7
Dịnh vụ (%) 25,3 33,1 36,1 45,1
Các thuế lệ khác (%) 10.5 8.3 7.3 17.6
Giá trị 2010 2011 2012 2013 2013/14 14/2015
Bình quân tỉ lệ lạm (%) 6,07 7,49 4,26 6,36 6,6 4,5
Bình quân tỉ giá hối đoài tiền kíp
và tiền Đô la 8.264 8.030 8.014 7.837
Bình quân tỉ giá hối đoài tiền kíp
và Bạt (Thai lan) 261 264 259 256
Thương mại 2010 2011 2012 2013
Xuất ngoại (Hàng triệu Đô la) 1.746 1.879 2.269 2.318
Nhập khẩu (Hàng triệu Đô la) 2.060 2.404 2.467 2.524
Tài chính nhà nước 2009/10 2010/11 2011/12 2012/13
Thu nhập tiền viện trợ (Tỷ kíp) 12.100 13.890 16.552 20.818
Chi phí (Tỷ kíp) 13.336 15.087 17.592 24.618
Thiếu tương đương
(% bằng GDP) 2,28 1,93 1,48 4,73
Nguồn: [108 ]
Phụ lục 2
Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Lào
trong giai đoạn 1988 - 2008
Năm Số dự án
(dự án)
Vốn đầu tư
(USD)
Tốc độ tăng
vốn đầu tư
Quy mô b/q
dự án (USD)
1988 -1990 21 36,342,434 1,730,592
1988 6 2,676,000 446,000
1989 9 29,784,000 11.13 3,309,333
1990 6 3,882,434 0.13 647,072
1991 -1995 218 1,578,760,257 7,242,020
1991 21 27,696,570 7.13 1,318,884
1992 39 69,006,252 2.49 1,769,391
1993 66 76,935,264 1.11 1,165,686
1994 67 1,312,239,245 17.06 19,585,660
1995 25 92,882,926 0.07 3,715,317
1996 - 2000 244 1,523,024,449 6,241,903 1996 40 335,004,111 3.61 8,375,103
1997 54 747,974,579 2.23 13,851,381
1998 48 109,373,367 0.15 2,278,612
1999 62 294,377,442 2.69 4,748,023
2000 40 36,294,950 0.12 907,374
2001 - 2005 504 2,577,637,387 5,114,360
2001 60 395,040,972 10.88 6,584,016
2002 100 1,422,772,209 3.60 14,227,722
2003 108 140,964,949 0.10 1,305,231
2004 120 494,725,720 3.51 4,122,714
2005 116 124,133,537 0.25 1,070,117
2006 - 2008 570 6,700,175,047 11,754,693
2006 168 2,510,772,742 20.23 14,945,076
2007 176 802,914,585 0.32 4,562,015
2008 188 3,125,379,223 3.89 16,624,358
Tổng 1,557 12,415,939,574
Nguồn: [40]
Phụ lục 3
B¶ng 1: Tû lÖ cho vay so víi GDP cña c¸c níc trong vïng
Đơn vị tính: (%)
TT Tên các nước Tỷ lệ vay so với GDP
(%)
1
2
3
4
5
Campuchia
Lào
Malayxia
Thái Lan
Việt Nam
7,8
7,3
112,8
78,1
58,9
Nguồn: [41 ]
Bảng 2: Số vốn và dự án FDI theo ngành và lĩnh vực ở Lào
STT Ngành Số dự
án Vốn đầu tư
(USD) Quy mô b/q
dự án (USD)
I Nông nghiệp 254 1,130,152,506 4,449,419.31
II Công nghiệp 645 9,150,096,826 14,186,197
Công nghiệp - thủ công 297 925,933,341 3,117,621
Công nghiệp gỗ 59 225,511,784 3,822,234
Mỏ-khoáng sản 137 2,405,358,841 17,557,364
Năng lượng - thuỷ điện 28 5,231,141,585 186,826,485
Xây dựng 56 301,463,860 5,383,283
May mặc 68 60,687,415 892,462
III Dịch vụ 658 2,135,690,242 3,245,730
Thương mại 157 112,022,820 713,521
Khách sản- hàng ăn 123 459,014,051 3,731,822
Ngân hàng 20 209,000,000 10,450,000
Tư vấn 75 17,513,210 233,509
Dịch vụ 266 953,484,534 3,584,528
Viễn thông 17 384,655,627 22,626,802
Tổng 1,557 12,415,939,574
Nguồn: [41]
Phụ lục 4 Biểu đồ 1: Tỷ lệ dự án theo cơ cấu ngành
Nguồn: [41]
Biểu đồ 2: Tỷ lệ vốn đầu tư theo cơ cấu ngành (%)
Nguồn: [41]
Biểu đồ 3: Quy mô bình quân một dự án các giai đoạn ở Lào
Đơn vị tính: Triệu USD
Nguồn: [41]
Phụ lục 5
Bảng 1: FDI vào Lào phân theo các vùng giai đoạn 1988 - 2008
Năm 1988 - 2008
Tên các vùng Vốn đầu tư
(triệu USD)
Tỷ trọng
vốn (%)
Số dự án
(dự án)
Tỷ trọng
dự án (%)
Miền Bắc 3,611 29 229 15
Miền Trung 4,879 39 1,219 78
Miền Nam 3,906 32 109 7
Tổng 12,415 100 1,557 100
Nguồn: [35]
B¶ng 2: So s¸nh ®é më cöa kinh tÕ giai ®o¹n n¨m 2006 - 2010
Đơn vị tính: %
Nước Tỷ lệ độ mở cửa kinh tế / GDP
Lào 83,2
Việt Nam 159,1
Campuchia 105,6
Thái Lan 151,1
Philippine 85,1
Hông Kông 406,5
Malayxia 205,9
Singapore 443,2
Myanmar 52,8
Nguồn: [35]
Phụ lục 6
GDP b×nh qu©n ®Çu ngêi n¨m 2000 - 2010
Đơn vị tính: USD
Nguồn: [35]
Thứ tự xếp hạng 178 nước trên thế giới về các thủ tục
cấp phép giấy phép đầu tư
Tên nước Thứ tự xếp hàng Số thủ tục Thời gian (ngày)
St. Vincent and
The Grenadines
1
11
74
New Zealand 2 7 65
Singapore 5 11 102
Thái Lan 12 11 156
Việt Nam 63 13 194
Lào 111 24 172
Campuchia 144 23 709
Trung Quốc 175 37 336
Nga 177 54 704
Eritrea 178 - -
Nguồn: [35]
USD
Phụ lục 7
Biểu đồ 1: Tăng cường GDP của đầu tư năm 2009
Đơn vị tính: %
Nguồn: [35]
Biểu đồ 2: Tỷ lệ lạm phát ở Lào (1996 - 2008)
Đơn vị tính: %
Nguồn: [35]
Biểu đồ 3: Tỷ giá hối đoái đồng tiền kíp (1985 - 2008)
Đơn vị: Kíp Lào/Đô la
Nguồn: [35 ]
7.55.5
4.5
6.45.9
6.2
8.1 8 7.97.1
0
12
3456789
1981-
1985
1986-
1990
1991-
1995
1996-
2000
2001-
2005
2005 2006 2007 2008 2009
(%)
15.6
19.5
90.1
128.4
23.1 7.8 10.6 15.5 10.57.2 6.8 4.5 7.1
0
50
100
150
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
(%)
45696
923
7,848
10,414
9,684 9,222
8,761
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
1985 1990 1995 2000 2005 2006 2007 2008
Tû gi ̧hèi ®o¸i ®ång tiÒn kÝp/USD
Phụ lục 8 Biểu đồ 1: GDP trung bình đầu người giai đoạn 2000 - 2008
Đơn vị tính: USD
322 332357
432 506534
669
810946
0
200
400
600
800
1000(U
SD
)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Nguồn: [ 35]
Biểu đồ 2: Tỷ lệ chyến lượng giữa vốn đăng ký 2000 - 2008
1,994
826
36395
1,422
140
494
124
2,510
802
3,125
75 93 155 299 449 628 7704060
100108 120 116
168176 188
0
1000
2000
3000
4000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Số
vốn
(tr
iệu
US
D)
0
50
100
150
200
Số
dư á
n
Vốn đăng ký Vốn thực hiện Số dư án
Nguồn: [35 ]
Biểu đồ 3: Tỷ lệ vốn đăng ký các hình thức FDI chủ yếu thời kỳ 2000-2008
Nguồn: [35 ]
Phụ lục 9
Biểu đồ 1: Số dự án theo các hình thức FDI chủ yếu thời kỳ 2000 - 2008
Đơn vị tính: %
Nguồn: [35]
Biểu đồ 2: Tỷ lệ dự án các hình thức FDI chủ yếu thời kỳ 2000 - 2008
Đơn vị tính: %
Nguồn: [35]
BiÓu ®å 3: GDP trung b×nh ®Çu ngêi (kÕ ho¹ch vµ thùc hiÖn)
Đơn vị tính: USD
N¨m KÕ ho¹ch
($/ngêi/n¨m)
Thùc hiÖn
($/ngêi/n¨m)
So s¸nh kÕ ho¹ch
Vµ thùc hiÖn (%)
2006 556 573 3,1
2007 619 687 11,0
2008 682 818 19,9
2009 752 906 20,5
2010 823 1.069 29,8
Nguồn: [35]
Phụ lục 10 Tû lÖ lao ®éng theo ngµnh
Đơn vị tính: %
N¨m T/T Néi dung
2005 2010
Yªu cÇu
2006-2010
1 N«ng l©m nghiÖp 78,5% 75,1% 73,9%
2 C«ng nghiÖp 4,8% 5,5% 9,3%
3 DÞch vô 16,7% 19,5% 16,9%
Nguồn: [42].
Phụ lục 11
TỔNG QUAN XẾP THỨ TỰ DỰ ÁN ĐẦU TƯ Ở LÀO
TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI NĂM 2015
T/T NƯỚC SỐ DỰ ÁN TỔNG QUAN
DỰ ÁN (US$)
1 Trung Quốc 35 1,360,132,667
2 Lào* 78 1,154,957,191
3 Thái Lan 13 601,660,050
4 Anh 4 547,795,000
5 Ma lai xia 6 544,920,000
6 Hà Lan 1 390,600,000
7 Việt Nam 19 185,164,405
8 Nhật Bản 5 60,670,950
9 Hồng Kông 4 30,000,000
10 Đài Loan 1 18,324,000
11 Singapo 1 15,000,000
12 Ca na đa 2 14,747,928
13 Hàn Quốc 5 6,872,691
14 In đô nê xia 1 5,500,000
15 Lào 1 3,784,016
16 Liên bang Nga 2 3,000,000
17 Ấn độ 4 2,499,999
18 Mỹ 2 1,094,500
19 Pháp 1 40,000
Gồm Nước 185 4,946,763,398
Nguồn: [37]