27
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN VŨ CÔNG HOÀI THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2017

THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN VŨ CÔNG HOÀI

THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1975 - 1985

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 62 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2017

Page 2: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

Công trình được hoàn thành tại:

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Tôn Thảo Miên

Phản biện 1: PGS. TS. Đỗ Lai Thúy

Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Bá Thành

Phản biện 3:PGS. TS. Trần Văn Toàn

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp

Học viện họp tại Học viện Khoa học xã hội

vào hồi 8 giờ 30 phút, ngày tháng năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:

- Thư viện Học viện Khoa học xã hội

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

Page 3: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Thi pháp học là một trong những đường hướng nghiên

cứu văn học có từ lâu, nhưng nó thực sự được các nhà nghiên cứu

quan tâm vào những năm đầu của thế kỷ XX. Người ta căn cứ vào

ngôn ngữ để cắt nghĩa thế giới tinh thần của nhà văn. Từ đó, trích

đoạn để phân tích, so sánh, chỉ ra cách cảm nhận về tư tưởng thẩm mĩ

trên ba phương diện: không gian, thời gian nghệ thuật và phương

thức biểu hiện. Bởi nghệ thuật là một thế giới chủ quan của người

nghệ sĩ. Nó kết tinh cách nhìn, cách nghĩ của nhà văn về thế giới. Vì

vậy, đối tượng nghiên cứu của văn học là chỉ ra ý thức của chủ thể

nghệ thuật, các phạm trù của thế giới khách quan và chủ quan như

một phương cách nhìn ra thế giới. Cách tiếp cận thi pháp học cho

phép người ta khám phá ra các chiều kích khác nhau như: hình tượng

tác giả, phong cách nghệ thuật trong chỉnh thể nghệ thuật của tác

phẩm.

Ở Việt Nam thi pháp học du nhập vào một số trường đại học

ở miền Nam trước năm 1975. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này mới

chỉ được giới thiệu, tiếp nhận theo hướng thi pháp xã hội học. Vào

những năm 80, thi pháp học bắt đầu có sự du nhập, đổi mới mạnh mẽ

với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu trúc luận, phân

tâm học, phong cách học, thi pháp học lịch sử, tự sự học… Điều này

thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu của Hoàng Trinh, Phan

Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Nguyễn Phan Cảnh, Đỗ

Đức Hiểu, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Đỗ Lai Thuý, Nguyễn

Page 4: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

2

Xuân Kính, Vương Trí Nhàn… Đây được coi như là hiện tượng mới

của nghiên cứu văn học.

1.2. Sau 1975, tình hình đất nước đã có nhiều biến đổi, đời

sống xã hội chuyển từ chiến tranh sang hoà bình. Cuộc sống mới hiện

ra với tất cả những bộn bề, phức tạp của nó. Đây là thời kỳ giao thoa

giữa cái cũ và cái mới, cái cũ vẫn chưa mất đi, cái mới manh nha

hình thành. Những khó khăn sau giải phóng và khủng hoảng kinh tế

xã hội cuối thập niên 70, cho thấy tính chất phức tạp và sự chi phối

của nền kinh tế bao cấp đưa đến sự phân cực giữa trắng - đen, thiện -

ác, tốt - xấu…; cơ chế quan liêu bao cấp hiện ra ngày càng rõ. Tất cả

những điều trên đã tác động không nhỏ đến đời sống văn học, tạo ra

những đề tài nóng bỏng cho nhà văn khai vỡ, phát triển theo quy luật

mới, quy luật đời thường. Nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận định

khái quát về bức tranh xã hội Việt Nam những năm sau chiến tranh

đang diễn ra “một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách,

giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng

bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người” [30, 364].

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã mở đường cho nền kinh tế

bao cấp chuyển sang cá thể, cơ chế thị trường; cởi trói cho tư duy con

người, đưa lại một bầu không khí dân chủ, cách nhìn thông thoáng,

uyển chuyển về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Nhờ đổi

mới, văn học có điều kiện chuyển mình với tinh thần nhìn thẳng sự

thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Không khí cởi mở, dân

chủ của đời sống và học thuật đã tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng

tạo, khiến cho quan niệm của họ về hàng loạt vấn đề dần thay đổi. Từ

Page 5: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

3

quan niệm về hiện thực, con người cá nhân đến quan niệm về cách

viết, về sự cần thiết của việc đổi mới thi pháp thể loại. Quá trình đổi

mới văn học ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi động và đa dạng trên các

thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, ký,… Ngoài ra, phải nói

đến lý luận, phê bình đã đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt khi đi sâu

cắt nghĩa tiểu thuyết và truyện ngắn theo hướng thi pháp học.

1.3. Truyện ngắn từng đóng vai trò xung kích, tiên phong

trong quá trình hiện đại hoá văn học nước nhà ngay từ những năm

đầu của thế kỷ XX. Thể tài này tiếp t c năng động, cơ động, có khả

năng cập nhật hiện thực đời sống hàng ngày - một hiện thực luôn vận

động, biến chuyển không ngừng. Năm 2008, báo Văn nghệ đã xuất

bản tuyển tập 60 năm truyện ngắn báo Văn nghệ (gồm 5 tập với 5

giai đoạn: 1945 - 1954, 1954 -1965, 1965 - 1975, 1975 - 1986, 1986 -

2007). Bộ tuyển tập này đã đem đến cho người đọc một cái nhìn bao

quát về các chặng đường trong 60 năm phát triển của truyện ngắn

Việt Nam. Qua đó, có thể hình dung được bước đi, những đổi mới

của thể loại, dấu ấn của lịch sử, thời đại và tư duy nghệ thuật của nhà

văn qua từng giai đoạn lịch sử c thể.

Trong ba mươi năm chiến tranh, truyện ngắn đã hoàn thành

xuất sắc vai trò, sứ mệnh của mình là ph c v kháng chiến với đề tài

chiến tranh, không gian chiến trường và hình tượng là người lính.

Với khối lượng đồ sộ, truyện ngắn giai đoạn này đã cổ vũ tinh thần

nhiều thế hệ vượt qua khó khăn của kháng chiến, lay động lòng

người vươn lên trong niềm tin chiến thắng, thức tỉnh con người về

mặt trái của nó. Năm 1975, đất nước bước sang thời bình, nhưng văn

Page 6: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

4

học nói chung và truyện ngắn nói riêng vẫn còn lao theo quán tính

của một nền văn học minh hoạ. Điều đó đã làm cho truyện ngắn xa

rời cuộc sống, lạnh nhạt với tâm tư, tình cảm của con người. Tuy

nhiên, đến cuối những năm 1970, truyện ngắn đã có sự chuyển động

âm thầm, tích cực và cần thiết, tạo tiền đề cho quá trình đổi mới

truyện ngắn đương đại. Tuy không phải là duy nhất, nhưng truyện

ngắn lại tập trung nhiều các yếu tố đổi mới của nền văn học Việt

Nam đang trăn trở chuyển mình. Có thể coi truyện ngắn giai đoạn

1975 -1985 là bước tiền trạm cho cái mới, là giai đoạn xây nền

móng, vỡ giọng để phát triển rực rỡ từ sau năm 1985.

1.4. Trong các sáng tác qua từng giai đoạn, thi pháp truyện

ngắn có chiều hướng rạn nứt dần, mà nhiều người gọi là hậu hiện đại.

Là hướng nghiên cứu thiên về cắt nghĩa cái lý của hình thức, hình

thức mang tính quan niệm, tức là hình thức mang tính nội dung, thi

pháp học là cơ sở quan trọng trong việc xác lập và phân chia các giai

đoạn, thời kỳ và khuynh hướng văn học. Cho nên, để có giai đoạn

phát triển rực rỡ từ năm 1986, văn học phải có thời gian manh nha

hình thành, chuẩn bị hay gọi là thể nghiệm, đó là giai đoạn 1975 –

1985. Chúng tôi lấy thi pháp để soi rọi, so sánh giữa các giai đoạn

phát triển của văn học, đặc biệt là giai đoạn trước và sau đổi mới.

Rõ ràng, văn học luôn cần những tổng kết qua từng giai

đoạn, từ đó đánh giá về nội dung, nghệ thuật và thi pháp, khuyến

khích tìm tòi và thể nghiệm mới trong sáng tác và nghiên cứu. Đề tài

Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 sẽ góp phần

giải mã những nét độc đáo đối với truyện ngắn giai đoạn này dưới

góc nhìn thi pháp học. Trên cơ sở đó, so sánh với các thể loại văn học

Page 7: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

5

khác, hoặc giữa các giai đoạn, tạo điều kiện cho truyện ngắn tiếp t c

có những đóng góp và tác động trong thực tiễn sáng tạo.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nêu lên những nét phác thảo thi pháp học trong nghiên cứu

truyện ngắn nói chung và truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 nói

riêng. Từ đó tìm hiểu truyện ngắn thời kì này trên quan niệm nghệ

thuật về con người, thời gian, không gian và phương thức thể hiện.

Qua đó khẳng định vị trí, vai trò và đóng góp của truyện ngắn thời kì

này trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam thế kỉ XX.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đưa ra một cái nhìn chung về truyện ngắn giai đoạn 1975 -

1985 từ góc nhìn thi pháp học. Khảo sát, phân tích và xác định thi

pháp của truyện ngắn thời kì này trên phương diện quan niệm nghệ

thuật về con người, thời gian, không gian nghệ thuật và tìm hiểu một

số phương thức thể hiện. Sau đo rút ra một số kết luận về thi pháp

truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Luận án tập trung khảo sát những truyện ngắn và tuyển tập

truyện ngắn đoạt giải do Hội Nhà văn, Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn

nghệ Quân đội và truyện ngắn các Nhà xuất bản ấn hành từ năm 1975

đến 1985. Ngoài ra, luận án khảo sát một số truyện ngắn khác để đối

chiếu so sánh và mở rộng vấn đề.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Đặc điểm thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 gồm:

Quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian và không gian; thi

Page 8: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

6

pháp tạo dựng cốt truyện, tình huống, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ

và trần thuật.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Ngoài những phương pháp luận chung của nghiên cứu khoa

học xã hội, luận án đi sâu khảo sát, phân tích, xác định truyện ngắn

1975 - 1985 trên một số phương diện thi pháp học, những trăn trở và

chuyển mình của truyện ngắn sau chiến tranh 1975. Từ cơ sở đó rút

ra một số kết luận về diện mạo, thi pháp và sự vận động của truyện

ngắn 1975 - 1985 trong hành trình truyện ngắn Việt Nam đương đại .

Luận án vận d ng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau,

trong đó có các phương pháp chính: tiếp cận lý thuyết thi pháp học ở

Việt Nam và thế giới, dùng thi pháp học để đánh giá văn học nói

chung, truyện ngắn nói riêng. Sau đó dùng phương pháp loại hình; so

sánh; hệ thống và một số thao tác nghiên cứu như: phân loại, phân

tích, diễn giải, tổng hợp…

5. Đóng góp về khoa học của luận án

Luận án là công trình đầu tiên đi sâu tìm hiểu, xác định diện

mạo và thi pháp của truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 với cái nhìn

tập trung và hệ thống. Kết quả này có thể làm tài liệu tham khảo cho

việc tìm hiểu, nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 nói

riêng, truyện ngắn Việt Nam nói chung.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án đi sâu tìm hiểu một số lý thuyết về thi pháp học, xác

định vai trò của truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 trong quá trình

hiện đại hoá nền văn học từ năm 1986 nói chung.

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương như sau:

Page 9: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

7

Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985,

bước chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người

Chương 3: Thời gian và không gian, giọng điệu và ngôn ngữ

trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985

Chương 4: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985

trên một số bình diện thi pháp thể hiện

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về thi pháp và thi pháp

truyện ngắn

1.1.1. Nghiên cứu lý thuyết về thi pháp

Thi pháp học là một hướng nghiên cứu văn học có từ lâu,

nhưng thật sự được nhiều nhà nghiên cứu chú ý vào thế kỉ XX. Ở

Việt Nam cho đến những năm 80 thi pháp học bắt đầu được giới

thiệu, tiếp nhận rộng rãi. Các công trình của Phan Ngọc, Nguyễn

Phan Cảnh, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Xuân Kính, Đỗ Lai

Thuý… xuất hiện, được coi như là hiện tượng mới của nghiên cứu

văn học. Thi pháp học tuy thoạt đầu có ngỡ ngàng, nhưng đã gây

được ảnh hưởng trong xã hội, nhất là trong các trường đại học và tạo

thành một khuynh hướng nổi bật trong nghiên cứu phê bình văn học

từ những năm 80. Thi pháp học mang lại nhiều thuật ngữ và khái

niệm mới trong nghiên cứu như: quan niệm nghệ thuật về con người,

thời gian, không gian và nhiều khái niệm hình thức văn học đã đi vào

phê bình một cách phổ biến, có tác d ng làm mới bộ công c phê

bình văn học. Nhưng quan trọng hơn đó là thi pháp học đã đem lại

cách tiếp cận mới, phương pháp mới nghiêng về tính nội tại, song

không tách rời hiện thực, lịch sử xã hội.

Page 10: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

8

1.1.2. Nghiên cứu về thể loại truyện ngắn

Truyện ngắn, một thể loại văn tự sự, nó thường là các câu

chuyện kể bằng văn xuôi, có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm

nghĩa. Thông thường nó có độ dài từ vài dòng đến vài ch c trang và

chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định. Do đó,

truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật, thời gian và không

gian. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảng khắc của cuộc sống,

chẳng hạn như Chí phèo của Nam Cao thời gian chỉ dăm ngày, Phiên

chợ Giát của Nguyễn Minh Châu chỉ xảy ra trong vài tiếng.

Để có một cái nhìn thống nhất, qua khảo sát một số khái

niệm, truyện ngắn là một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ và thường được viết

bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con

người và xã hội, có sự giới hạn về dung lượng và thích hợp với người

tiếp nhận là đọc nó liền một mạch không nghỉ. Từ đó, để nhận định

truyện ngắn cần dựa vào hai tiêu chí chính là dung lượng và thi pháp.

Các yếu tố như cốt truyện, tình huống, kết cấu, lối trần thuật, giọng

điệu... cũng được coi là cơ bản khi tìm hiểu thể loại này.

1.2. Những nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn Việt Nam

giai đoạn 1975 - 1985

1.2.1. Nghiên cứu chung về đặc điểm thi pháp truyện ngắn

Theo M.Bakhtin trong Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiépxki

do Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch: trước

Đốtxtôiépxki và khác với nhà văn này, tiểu thuyết chủ yếu phát triển

trong quan niệm độc thoại. Đó là loại tự sự trong đó chỉ có tác giả là

người duy nhất có ý thức, biết suy nghĩ và đánh giá mọi sự việc, là vị

chúa tể nắm hết mọi bí mật của cuộc đời. Còn nhân vật thì chỉ là đối

tượng câm lặng cho sự phẩm bình, nhận xét ấy. Ngoài ra, phải kể đến

Bùi Việt Thắng với Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn

Page 11: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

9

thể loại của Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhà nghiên cứu Nguyễn

Văn Long với “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn

học Việt Nam từ sau 1975”, Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn

đề nghiên cứu và giảng dạy. Vũ Tuấn Anh với Văn học Việt Nam

hiện đại - Nhận thức và thẩm định và Phạm Mạnh Hùng với Văn học

Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX…

Từ 1975 - 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi

thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp

này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và

cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai

đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với

đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích

cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời

kỳ đổi mới.

1.2.2. Nghiên cứu về tác giả và tác phẩm truyện ngắn

Những tác giả được nghiên cứu nhiều nhất giai đoạn này là:

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma

Văn Kháng, Dương Thu Hương. Trong điều kiện cực kỳ khó khăn

của đất nước sau chiến tranh mà “sáng tác của họ đã đốt lên nhiệt

tình tìm kiếm chân lý, báo trước khả năng tự đổi mới của nền văn học

Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ bất chấp trở lực cản

ngăn”. Ngoài ra, còn phải kể đến như: Thái Bá Lợi, Xuân Thiều,

Trung Trung Đỉnh, Nhật Tuấn, Bùi Hiển, Lê Minh Khuê, Khuất

Quang Thuỵ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long,... Các bài viết, ý

kiến đánh giá về các tác giả này, đặc biệt chú ý là của các nhà phê

bình, nhà nghiên cứu, các nhà văn như: Tôn Phương Lan, Phong Lê,

Vân Thanh, Huỳnh Như Phương, Trần Đình Sử, Tô Hoài, Hoàng

Như Mai, Hà Minh Đức, Trần Đăng Xuyền, Lê Thành Nghị, Trần

Page 12: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

10

Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Vương Trí Nhàn,

Thiếu Mai, Bích Thu,...

Ở giai đoạn đầu, có nhiều ý kiến đánh giá trái chiều về

trường hợp của Nguyễn Minh Châu. Mặc dù hầu hết các ý kiến đều

thừa nhận những đóng góp của ông trên hành trình đổi mới, song

trong số đó vẫn còn ý kiến tỏ ra nghi ngại. Bùi Hiển băn khoăn trong

Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu

(Văn nghệ 1985, số 27 và 28) là: đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm,

tính cách về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng

có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn. Hà Xuân

Trường thì cho rằng Nguyễn Minh Châu chỉ thành công một nửa.

Trường hợp của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê trong

những truyện ngắn viết về những khía cạnh xấu của con người, tác

giả Bích Thu cho rằng đã làm “xô lệch đi vẻ tự nhiên bình thường

của con người, dẫu đó là những mẫu hình tiêu cực trong đời sống

chúng ta”. Nhưng cũng có ý kiến ủng hộ cách viết này dù rằng “ngòi

bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách

miêu tả thậm chí là có phần ác quá”.

Tóm lại, các ý kiến đã chỉ ra được một số đóng góp ở

phương diện thi pháp như phong cách, giọng điệu, ngôn ngữ, kết cấu

và thủ pháp nghệ thuật của truyện ngắn 1975 - 1985. Các nghiên cứu

này đã có nhiều tìm tòi, khám phá đưa ra được những ý kiến quý báu,

đáng trân trọng. Trên cơ sở đó, chúng tôi có điều kiện để thừa hưởng

và đi sâu hơn, phát hiện thêm những điều mới mẻ về truyện ngắn nói

chung và truyện ngắn 1975 - 1985 nói riêng.

Chương 2

TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985,

BƯỚC CHUYỂN ĐỔI QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI

Page 13: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

11

2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn học nghệ thuật sau năm 1975

2.1.1. Bối cảnh phức tạp của đất nước sau chiến tranh

Chiến thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thu về một mối,

Bắc – Nam sum họp một nhà, khát khao cháy bỏng của cả dân tộc Việt

Nam đã trở thành hiện thực, toàn dân hào hứng tiến lên xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Tuy nhiên, từ khi đất nước chuyển sang thời bình, cũng

là lúc phải đối mặt với những khó khăn, phức tạp không kém, vấn đề

quan liêu bao cấp, trì trệ lạc hậu trong quản lý kinh tế, xã hội… Tình

hình thất nghiệp tăng cao, nhu cầu tối thiểu, chính đáng về vật chất lẫn

tinh thần của người dân chưa được đảm bảo. Vấn đề bình đẳng giai cấp

bị vi phạm, hiện tượng lộng quyền, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội

ngày càng thêm nhức nhối. Thực trạng đó đã làm lay động dữ dội suy

nghĩ, niềm tin của các tầng lớp nhân dân.

2.1.2. Tình hình phát triển văn xuôi

Trong ngổn ngang hiện thực, nổi lên những vấn đề được

nhiều cây bút quan tâm như: đạo đức xã hội, tiêu cực trong quản lí

sản xuất, nhận thức lại một số vấn đề trong quá khứ... Với Hai người

trở lại trung đoàn, Thái Bá Lợi là người mở đầu cho cuộc đấu tranh

phức tạp chống lại sự xói mòn trong đạo đức con người. Những bông

bần li, của Dương Thu Hương lại đặt ra vấn đề đạo đức và số phận

con người trong một xã hội tiêu dùng. Ở cây bút đầy nữ tính này,

ranh giới buồn - vui, được - mất, khát vọng hạnh phúc của con người

trong cuộc sống là khôn cùng. Bên cạnh đó, một số truyện của

Nguyễn Minh Châu, Vũ Tú Nam thường diễn ra hành trình tự ý thức,

tự phán xét lương tâm của cá nhân xoay quanh tr c thời gian hai

chiều quá khứ và hiện tại. Vì thế, ta không ngạc nhiên khi các nhà

văn với các tác phẩm ngược thời gian viết về đời sống riêng tư của

từng cá nhân như Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Người đàn bà trên

Page 14: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

12

chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Thời gian của người,

Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé tý của Nguyễn Khải, Thời xa

vắng của Lê Lựu. Trong các tác phẩm, tác giả đã tập trung thể hiện

thế giới riêng tư, vấn đề tự nhận thức về bản thân mình và bi kịch của

cá nhân con người. Đó là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Mùa

lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng,…

2.1.3. Quá trình phát triển của truyện ngắn giai đoạn 1975

– 1985

Từ cuối những năm 70, truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả

về số lượng và chất lượng. Góp phần cho những thành công đó, phải

kể đến đội ngũ tác giả dày dặn kinh nghiệm, được coi là đã trưởng

thành trong chiến tranh như: Nguyễn Kiên, Nguyễn Minh Châu, Ma

Văn Kháng, Nguyễn Khải, Tô Hoài, Đỗ Chu… Các cây bút này đã

có dấu ấn đậm nét trong văn học kháng chiến, nhưng sau 1975 họ đã

có sự đổi mới trong sáng tác. Sau đó là sự xuất hiện của một loạt cây

bút mới khởi nghiệp trong chiến tranh như: Thái Bá Lợi, Chu Lai,

Xuân Đức, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Trí Huân, Trung Trung

Đỉnh, Nguyễn Thị Như Trang… Thế hệ nhà văn này đã đem vào

trong văn xuôi sự từng trải, kinh nghiệm của mình đã tích luỹ trong

những năm chiến đấu.

Những cuộc thi viết truyện ngắn cho Báo Văn nghệ

(1978 - 1979, 1983 - 1984) và Tạp chí Văn nghệ quân đội (1982,

1983, 1984) tổ chức, xuất hiện một loạt cây bút mới: Lê Minh

Khuê, Dương Thu Hương, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Trần

Văn Tuấn, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Minh Thư, Trần Thuỳ Mai,

Dạ Ngân, Nguyễn Quang Lập… Truyện ngắn của họ tươi trẻ, dồi

dào chất sống và có nhiều tìm tòi mới về nghệ thuật , viết nhiều

Page 15: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

13

về lớp trẻ trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đã gây

được sự chú ý của bạn đọc.

2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

2.2.1. Con người và sự thay đổi trong quan niệm

Nếu văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, con người được

nhìn nhận chủ yếu dưới góc độ sử thi, thì sau 1975, con người thường

gắn với các quan hệ đời thường. Khi chiến tranh kết thúc, bao khó

khăn, thử thách mới đặt ra trong đời sống con người. Sự phức tạp, bề

bộn của cuộc sống thời hậu chiến đang diễn ra theo nhiều chiều,

nhiều hướng; từ thực tế đó đòi hỏi nhà văn phải có những tiếng nói

thể hiện nhu cầu phong phú, đa dạng, phức tạp trong đời sống tinh

thần của con người. Sự tìm hiểu khám phá con người từ nhiều chiều,

nhiều hướng đến thế giới nội tâm là xu thế nổi bật của văn xuôi sau

1975. Trong đó truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và

phản ánh hiện thực con người một cách nhanh nhạy, sắc bén. Có thể

nói con người trong truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được các nhà

văn cảm nhận và thể hiện cũng theo tinh thần ấy. Con người ở đây

hiện ra dưới nhiều dạng thái khác nhau.

2.2.2. Con người lý tưởng xã hội

Sau năm 1975, các nhà văn vẫn tiếp t c viết về đề tài chiến

tranh hoặc phản ánh các cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây

Nam. Trong hoàn cảnh khốc liệt đó các nhà văn trình bày những diễn

biến và số phận không giản đơn của từng con người. Âm hưởng

chung ở những truyện ngắn này dù vẫn thiên về ca ngợi cái cao cả,

cái anh hùng của con người nhưng đằng sau đó là hình ảnh của cả

dân tộc trong cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường. Đó là truyện

ngắn Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng kể về hai vợ chồng người

phóng viên phương Tây được một anh lính lái xe người Việt Nam

Page 16: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

14

đưa qua biên giới Campuchia. Trong tập truyện Ngày đẹp trời, nhà

văn đã khắc hoạ nhiều vẻ đẹp khác nhau của con người trong cuộc

sống. Đó là vẻ đẹp của chú bé Kiểm (Kiểm - chú bé - con người),

mặc dù bị thiếu thốn, bất hạnh nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu thương

người khác. Đó là giọt nước mắt muộn màng nhưng rất đáng trân

trọng của ông Luyến (Mất điện).

2.2.3. Con người tự nhiên đời thường

Quan niệm về con người cá nhân đã được điều chỉnh hợp lý

và có chiều sâu, chưa bao giờ số phận, bi kịch cá nhân được đặt ra

một cách bức xúc và mạnh mẽ như thế. Mọi sự lý tưởng hóa con

người đều làm cho nó trở nên giả dối, không thật. Nhân vật của

truyện ngắn sau 1975 rõ ràng ít tính lí tưởng, không hoàn hảo, sạch

sẽ, không được bao bọc trong bầu không khí vô trùng như trước đó

thường thấy. Trong văn học vẫn có nhân vật đẹp nhưng là cái đẹp

trong bụi bặm của cuộc đời thường nhật. Thí d trong Người đàn bà

trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu để cho nhân vật Qùy

trả giá và tỉnh ngộ: “Em sẽ không đòi hỏi ở anh một con người tuyệt

đối hoàn mĩ... Anh hãy sống tự nhiên”. Với Bức tranh con người

không trùng khít với chính mình, mà luôn phức tạp, nhiều chiều và

con người đối diện với chính mình, là tòa án lương tâm.

2.2.4. Con người với đời sống tâm linh

Tâm linh trong con người thường là niềm tin vào một thế

giới, một cõi nào đó mà họ cũng như khoa học chưa lí giải được. Đó

chỉ là những niềm tin, tín ngưỡng, làm cho đời sống con người thêm

phong phú hơn. Một số truyện ngắn sau 1975 đi sâu khám phá đời

sống bên trong con người, xoáy sâu vào tiềm thức để hiểu thêm

những ẩn khuất trong chính tâm hồn họ. Thế nên, đời sống tâm linh

của con người được quan tâm một cách toàn diện hơn trong các sáng

Page 17: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

15

tác của Nguyễn Minh Châu. Hình ảnh người nữ y sỹ Quỳ trong

truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành là một ví d .

Trong một lần đi kiểm tra hành trang của các sĩ tử trong hang đá, tình

cờ chị gặp nhật ký của các anh chiến sĩ trẻ, trang nào cũng ghi tên

mình, Quỳ đã xúc động áp những dòng nhật ký vào ngực mình và gọi

tên những từ thiêng liêng như Tổ quốc, Đất Nước. Trong một số

truyện ngắn khác phương diện đời sống tâm linh con người được

khám phá có chiều sâu mà giai đoạn trước đó chưa đạt tới. Nó góp

phần làm phong phú trong quan niệm nghệ thuật về con người và tạo

ra những biến đổi quan trọng trong phương thức biểu hiện nhân vật.

Chương 3

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN, GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ

TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985

3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật

3.1.1. Thời gian nghệ thuật

Thời gian là đối tượng, là chủ thể, là công c miêu tả, là sự ý

thức và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các

hình thức đa dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học. Thời gian

nghệ thuật là một phạm trù đặc trưng của văn học, là hình thức của

hình tượng nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là một trong những phạm

trù quan trọng của thi pháp học, qua nó thể hiện thực chất sáng tạo

nghệ thuật của người nghệ sĩ. Trong văn học, yếu tố nào cũng có thời

gian của nó và đều có thể biểu hiện thời gian, đặc biệt chú ý đến hai

lớp thời gian cơ bản là thời gian trần thuật và thời gian được trần

thuật. Truyện ngắn hậu chiến thể hiện một cách sinh động và phong

phú các dạng thời gian khác nhau, các bình diện thời gian quá khứ,

hiện tại và tương lai đan quyện với nhau xuyên suốt các tác phẩm tạo

Page 18: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

16

nên một bức tranh thời gian nghệ thuật đặc sắc. Sống với thời gian hai

chiều của Vũ Tú Nam như một bản kiểm điểm chân thành của nhân

vật trước dòng chảy của thời cuộc. Nhà văn đặt nhân vật ở thời điểm

hiện tại, ngoái nhìn lại quá khứ sau khi đã từng kinh qua hai cuộc

kháng chiến. Ngoài ra, còn có các kiểu thời gian như: thời gian quanh

co, gấp khúc, thời gian tâm lý và thời gian ảo.

3.1.2. Không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai

của thế giới nghệ thuật, nó trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời

sống, mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật. Sự miêu tả, trần thuật bên

trong tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn.

Căn cứ vào điểm nhìn mà xác định được vị trí của chủ thể trong

không gian, thể hiện ở hướng nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm của

khách thể được nhìn. Không gian được trần thuật, được kể, được tả

trong truyện, nó bao gồm: không gian bối cảnh, không gian sự kiện

và không gian tâm lí. Trong đó, không gian tâm lí dần chiếm ưu thế

trong truyện ngắn giai đoạn này như: Cơn giông, Khách ở quê ra,

Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, Trại bảy chú lùn của Bảo Ninh,

Năm tháng đi qua của Nguyễn Thị Như Trang…

3.2. Giọng điệu và ngôn ngữ

3.2.1. Giọng điệu

Giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của phong cách nhà văn

trong tác phẩm. Nó phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và

thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách

nhà văn và tác d ng truyền cảm cho người đọc. Điều này được thể

hiện qua nhiều truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng,

Vũ Tú Nam, Xuân Thiều, Dương Thu Hương… Mỗi nhà văn đều bộc

lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Họ

Page 19: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

17

đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, những nét tính

cách, phẩm chất qua sự chiêm nghiệm, suy nghĩ trong chính bản thân

mình. Giọng trang trọng, triết luận xuất hiện trong truyện ngắn Mai

của nhà văn Thanh Quế. Giọng tố cáo, giễu nhại mỉa mai, châm biếm

khi nhà văn bất bình trước thực tại cuộc sống như bức tranh (Nguyễn

Minh Châu). Giọng điệu bất an, hoài nghi khi nhà văn sống trong

một xã hội đầy phức tạp, lòng người thay đổi khôn lường, giọng điệu

biến động, gấp gáp trong tác phẩm của mình là không tránh khỏi.

Chân dung một người hàng xóm của Dương Thu Hương là một ví d .

3.2.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là công c , là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy

văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Với tư cách là công

c , là cái vỏ của tư duy, sự biến đổi của ngôn ngữ văn học liên quan

chặt chẽ đến sự biến đổi của tư duy văn học. Vì vậy, nhà văn bao giờ

cũng là tấm gương lớn về sự hiểu biết ngôn ngữ, sự sâu sắc trong

việc sử d ng ngôn từ. Tài năng, phong cách và cá tính sáng tạo của

nhà văn được thể hiện thông qua quá trình sử d ng ngôn ngữ trong

tác phẩm văn học. Một số đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn giai đoạn

1975 – 1985 là thưa dần lớp từ chính trị xã hội, tăng dần lớp từ thông

t c, suồng sã của cuộc sống đời thường. Trong Con chim biết chọn

hạt của Nhật Tuấn, nhân vật Hoa được ca ngợi là một mẫu người

năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất và quyết đoán trong ứng

xử, nhưng trong một tình huống bị liệt vào phần dôi ra về nhân sự,

cô phản ứng bằng lời lẽ rất đời thường, nhưng rất phù hợp với tâm

trạng. Bên cạnh đó, ngôn ngữ mang đậm cá tính nhân vật, phong

cách nhà văn cũng được thể hiện từ cuối những năm 70, khi cả nước

đã bước ra khỏi chiến tranh để trở về với cuộc sống bình thường.

Page 20: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

18

Trong đó, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại là một phương diện thể hiện

cá tính nhân vật và phong cách nhà văn rõ nhất.

Chương 4

TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 – 1985

TRÊN MỘT SỐ BÌNH DIỆN THI PHÁP THỂ HIỆN

4.1. Thi pháp xây dựng cốt truyện và tình huống

4.1.1. Thi pháp xây dựng cốt truyện

Cốt truyện là hệ thống sự kiện c thể, được tổ chức theo yêu

cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan

trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học. Tuy vậy, cốt

truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác phẩm mà chỉ tồn

tại trong các sáng tác thuộc loại tự sự, kí và kịch. Truyện ngắn đặc

biệt đòi hỏi nhà văn phải xây dựng cốt truyện, từ đó thiết kế những

sự kiện, biến cố, hành động thành một hệ thống liên t c làm cơ sở

cho việc triển khai tính cách nhân vật. Trong việc xây dựng cốt

truyện, các khâu đó là chi tiết, đoạn kết, câu chuyện, sườn truyện và

tình tiết cũng khá quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc tạo

dựng cốt truyện cho một truyện ngắn hay.

Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985, có lẽ đây là giai

đoạn mà truyện ngắn Việt Nam có dạng thức cốt truyện phong phú

và biến chuyển phức tạp. Quán tính của văn học học sử thi vẫn còn,

nhưng luồng gió đổi mới đã bắt đầu lay động, tạo ra không gian văn

học đa chiều sôi nổi chưa từng có. Qua quan sát, người viết nhận

thấy một số dạng thức cốt truyện tiêu biểu của truyện ngắn giai đoạn

này đó là: cốt truyện luận đề, cốt truyện kịch tính, cốt truyện tâm lý.

4.1.2. Thi pháp xây dựng tình huống

Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một

sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và

Page 21: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

19

ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Trong một

truyện ngắn, việc tạo ra tình huống như thế nào cho độc đáo là một

yếu tố rất quan trọng góp phần khẳng định tài năng và phong cách

riêng của một nhà văn. Truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 chủ yếu

xoay quanh các dạng tình huống như: tình huống kịch, tình huống

tâm trạng. Tình huống kịch là những dạng bao hàm các xung đột đời

sống mang tính kịch cao, trong đó sự va chạm giữa các nhân vật trở

nên gay gắt và bị dồn nén trong một không gian, thời gian và hành

động như: Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh châu),

Chuyến xe đêm (Ma Văn Kháng), Ngày không bình thường (Phạm

Hoa), Người đi xa để lại (Đào Vũ), Câu chuyện tình màu trắng (Tô

Nhuận Vĩ)… Tình huống tâm trạng trong những truyện như: Bến

quê, Mẹ con chị Hằng, Sắm vai…của Nguyễn Minh Châu.

4.2. Thi pháp xây dựng kết cấu và trần thuật

4.2.1. Thi pháp xây dựng kết cấu

Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác

phẩm. Khác với bố c c thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng

rãi, phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối

bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương

đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội

dung c thể của tác phẩm. Ngoài bố c c, kết cấu còn bao gồm: tổ

chức hệ thống tính cách; tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật;

nghệ thuật tổ chức những liên kết c thể của các thành phần của cốt

truyện; nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện... sao

cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.

Trong đó, kết cấu thời gian tuyến tính là dạng truyền thống,

mạch truyện phát triển theo trình tự thời gian: quá khứ - hiện tại -

tương lai. Đây là một trong những hình thức kết cấu quen thuộc mà

Page 22: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

20

truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 nối tiếp các giai đoạn trước.

Những cốt truyện chặt chẽ, có đầu cuối rõ ràng với một hệ thống sự

kiện, độ căng tình huống thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Tương

tự, Kết cấu truyện lồng trong truyện cũng thường thấy trong truyện

ngắn các giai đoạn trước. Truyện gồm hai hay nhiều cốt truyện, các

tuyến nhân vật song song hoặc lồng ghép vào nhau hay gọi là lắp

ghép liên văn bản.

4.2.2. Thi pháp trần thuật

Trần thuật là thành phần lời của tác giả hay của người kể

chuyện trong tác phẩm tự sự. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ

rõ ý thức sử d ng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. Tính chất đa thanh, đa

dạng điểm nhìn và hiện đại trong lời người trần thuật được thể hiện rõ.

Điểm nhìn trần thuật vừa như một phương thức tổ chức văn bản, vừa là

một cơ chế phát ngôn tinh thần thời đại của nhà văn. Sự đa dạng, phong

phú, biến hoá của trần thuật đã đem lại cho truyện ngắn hậu chiến (1975

– 1985) những tiến trình mới, sinh động và thực sự hấp dẫn. Trần thuật

từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thật nhập vai là để chỉ cách

trần thuật linh hoạt khi vai trò phát ngôn được trao cho nhiều người,

nhiều đối tượng trong tác phẩm. Trước một vấn đề, một sự việc nào đó,

vì được soi rọi bằng nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ nên sẽ hiện ra bằng

diện mạo, hình thù khác nhau dẫn đến nhiều luồng dư luận, nhận xét

khác nhau, thậm chí ngược nhau, do các điểm nhìn khác nhau về tuổi

tác, nghề nghiệp, giới tính, học vấn, đôi khi là thói quen, sở thích v.v…

Nhà văn có xu hướng đổi mới trần thuật sớm nhất cho văn xuôi hậu

chiến là Nguyễn Minh Châu với truyện ngắn Bức tranh, tiếp theo là

hàng loạt các truyện ngắn khác của ông như: Chiếc thuyền ngoài xa,

Cơn giông, Sống mãi với cây xanh v.v… đều có cái nhìn đa chiều, trong

xu hướng đối thoại này.

Page 23: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

21

KẾT LUẬN

1. Chiến tranh kết thúc, văn học Việt Nam cũng nằm trong bối

cảnh chuyển đổi nhiều mặt của xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu chung của

con người và thời đại. Truyện ngắn là thể loại có sự vận động, biến đổi

tương đối nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác. Đó là sự vận động

mang tính tất yếu của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Những

thay đổi trong xã hội, với nhiều phức tạp trong cuộc sống thường nhật và

sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thúc

đẩy nhanh quá trình đổi mới của thể loại. Với khát vọng dân chủ hóa văn

học, nhà văn học tập, giao lưu với văn học thế giới, dẫn đến những biến

đổi quan trọng, sâu sắc trong quan điểm nghệ thuật về con người, góp

phần cách tân trên bình diện thi pháp. Truyện ngắn từng bước bứt phá

những quy phạm thể loại, hạn hẹp trong phạm vi hiện thực, đáp ứng kịp

thời và phản ánh sinh động những vấn đề của xã hội thời hậu chiến. Đây

là chặng khởi động của hành trình đổi mới, các sáng tác chưa hẳn đã đạt

đến chiều sâu của nhận thức cũng như sự kết tinh về nghệ thuật, nhưng là

bước tiền trạm trên những vùng đất mới, có tác động mạnh mẽ đến tư duy

sáng tạo của nhà văn và tâm lí tiếp nhận của bạn đọc.

2. Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện

tượng được gọi là bản lề cho bước phát triển của văn học đương đại sau

1985. Từ góc nhìn thi pháp, luận án nhận thấy truyện ngắn thời kỳ này

thật sự đổi mới bắt đầu từ những sáng tác của Nguyễn Minh Châu,

Dương Thu Hương, Nguyễn Mạnh Tuấn, Thái Bá Lợi, Vũ Tú Nam,

Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng…, họ đã tạo tiền đề, điểm nhấn cho giai

đoạn từ năm 1986. Đặt nền móng vững chắc cho văn học đổi mới cũng

cần kể thêm những cây bút truyện ngắn tiêu biểu như: Lê Minh Khuê,

Page 24: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

22

Phạm Thị Minh Thư, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh,

Hồ Anh Thái,… góp phần bổ khuyết cho bức tranh văn học Việt Nam

thế kỉ XX. Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ này ra đời trong bối cảnh đất

nước sau chiến tranh, vì thế ít nhiều bị trượt theo quán tính của nền văn

học minh hoạ. Tuy vậy, vẫn có những đổi mới đáng kể về thi pháp, tạo

đà cho truyện ngắn Việt Nam đương đại (sau 1985) có những cách tân

quan trọng, góp phần tích cực đưa nền văn học nước nhà tiến lên một

bước, làm nên một dòng chảy liền mạch cho truyện ngắn Việt Nam.

3. Sự cách tân trong truyện ngắn giai đoạn này bắt đầu từ cái nhìn

nghệ thuật độc đáo của người nghệ sĩ, đó là quan niệm nghệ thuật về

con người và thế giới đến phương thức biểu hiện. Từ quan niệm nghệ

thuật về con người mang tính nước đôi, không gian cộng đồng đến đời

tư, thời gian nhiều chiều, cho thấy cái cũ chưa hoàn toàn mất đi, cái

mới cũng chưa thật sự hình thành. Tuy nhiên, qua hình tượng nhân vật,

ta nhận thấy tính chất sống động, phồn tạp của con người và cuộc sống

trong truyện ngắn thời kỳ hậu chiến. Đó là Hai người trở lại trung

đoàn của Thái Bá Lợi, Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, Những

bông bần li của Dương Thu Hương… Rõ ràng đây là dấu hiệu của sự

đổi mới mang tính thể nghiệm, được xem như những bước dò tìm cần

thiết để chuẩn bị cho quá trình đổi mới sẽ diễn ra mạnh mẽ ở giai đoạn

sau. Mặc dù vậy, những sáng tác của các nhà văn lớn đã góp thêm

tiếng nói thức tỉnh lương tri, là sự trăn trở, là động cơ thúc đẩy cho sự

phát triển xé rào, đưa đến một nhân sinh quan chân thực, một thế giới

quan sinh động hơn. Cốt truyện ngày càng xa dần lối kể lể dài dòng

với những biến cố dữ dội mà ngắn gọn, cô đúc hơn trong phương thức

Page 25: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

23

biểu hiện. Vai trò của cốt truyện chặt chẽ gay cấn có xu hướng nhường

chỗ cho những cốt truyện tâm lí. Vì thế, truyện ngắn có sức khái quát

cao hơn, đi vào chiều sâu thế giới bên trong tâm hồn con người. Điều

đó cho thấy nhà văn nhận thức về con người đã dần đạt đến một tư duy

mới, biểu hiện con người gần với bản chất người hơn. Điểm nhìn

người trần thuật và điểm nhìn của các nhân vật thường đan cài vào

nhau làm nổi bật những chân dung, tính cách, số phận nhân vật trong

chiều sâu triết lí.

4. Một thành tựu nữa của truyện ngắn giai đoạn này là thi

pháp thể hiện. Về kết cấu, trong quá trình phát triển đa số không theo

trình tự truyền thống mà có nhiều đảo lộn trật tự hoặc được lược bỏ,

tổ chức theo dòng phát triển tâm lý của nhân vật hoặc thay đổi ngôi

vị người trần thuật. Kiểu kết cấu linh hoạt này, giúp nhà văn đi sâu

khám phá sự vi tế của nội tâm nhân vật, tạo nên những bức tranh tâm

lý sinh động, lôi cuốn, đem đến cho độc giả với những logic phát

triển bất ngờ. Tuy nhiên, vẫn còn một vài truyện không tránh khỏi lối

phản ánh đơn giản trong việc xây dựng kết cấu và tình huống, làm

cho câu chuyện trở nên tẻ nhạt. Giọng điệu truyện ngắn giai đoạn này

đã bớt đi quyền uy, lên gân, mà có giọng của ý thức công dân, của trí

thức mang khát vọng đối thoại trước những vấn đề nóng bỏng của đất

nước và con người. Ngôn ngữ có chuyển biến nhưng có phần d dặt,

mãi cho đến những năm 80 mới có bước đột phá. Ngôn ngữ trong

một số truyện ít nhiều bị tỉnh lượt các thành phần, mật độ tính thời

sự, thông t c và suồng sã có phần gia tăng. Qua đó, thể hiện cái bức

bối, hoang mang của con người và xã hội hậu chiến, bởi trong họ có

Page 26: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

24

nhiều khát vọng, hoài bão, nhưng cũng không ít nỗi băn khoăn và

hoài nghi. Đó là điều không thể tránh khỏi trong một xã hội sau chiến

tranh, với những định kiến sai lầm, những rạn nứt về niềm tin, về cơ

chế vận hành của xã hội đang kìm hãm sự phát triển. Chính những

yếu tố trên đã trở thành nguồn cảm hứng, đề tài cho những suy tư,

kích thích nhà văn khai vỡ, nhìn thẳng sự thật từ năm 1986.

5. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 có thể xem

như là những mũi khoan thử nghiệm, một hướng tìm tòi, khát vọng

đổi mới về thể loại trước hoàn cảnh. Nó nằm trong quỹ đạo vận

động, phát triển không ngừng của văn học Việt Nam. Trong bối cảnh

xã hội hậu chiến, nhu cầu giao lưu, tiếp xúc với văn học thế giới,

càng thôi thúc nhà văn cầm bút đánh giá đúng sự thật, mở đường cho

văn học Việt Nam phát triển. Lúc này, nhà văn không còn là người

độc tôn cho những chân lí phán truyền tư tưởng mà đại diện cho một

tư cách, sứ mệnh của người cầm bút. Nhìn lại truyện ngắn 1975 –

1985, luận án nhận thấy có nhiều cây bút tiên phong góp phần khám

phá, mở đường, tạo tâm thế cần thiết cho chặng đường đổi mới văn

học. Bên cạnh những cây bút thể nghiệm thành công, thì vẫn có

không ít những sáng tác theo thói quen bị t t hậu trong sự phát triển

không ngừng của văn học. Nhưng dù sao cũng ghi nhận những nỗ lực

của họ, vì chính những việc làm này đã góp phần chuẩn bị để tạo ra

một v mùa bội thu cho văn học Việt Nam từ sau 1985. Trong một

chừng mực nào đó, văn học giai đoạn 1975 – 1985 đã nỗ lực tự cởi

trói chính mình và góp phần thay đổi quan điểm, tư duy, định hướng

phát triển đất nước trước thềm Đại hội Đảng lần VI (1986).

Page 27: THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN …gass.edu.vn/Uploads/pdfdoan/2017_7/TT_DoanVuCongHoai.pdf · với các khuynh hướng ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Đoàn Vũ Công Hoài (2016), “Đổi mới thi pháp Cốt truyện

truyện ngắn Việt Nam sau 1975”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học

Thành tựu Văn học Việt Nam 30 năm đổi mới (1986 – 2016),

Khoa Ngữ Văn, Trường ĐH Khoa học Huế, tr. 457 - 467.

2. Đoàn Vũ Công Hoài (2016), “Trần Thuật, quá trình đổi mới

trong truyện ngắn Việt Nam (1975 – 1985)”, Tạp chí Lý luận

Phê bình Văn học, nghệ thuật, (48), tr.47 - 52.

3. Đoàn Vũ Công Hoài (2016), “Quan niệm nghệ thuật về con

người trong truyện ngắn thời hậu chiến (1975 – 1985)”, Tạp chí

Nhân lực Khoa học Xã hội, (9), tr.72 - 82.

4. Đoàn Vũ Công Hoài (2016), “Nguyễn Minh Châu – Người mở

đường tinh anh”, Tạp chí Khoa học ĐH Tiền Giang, (4), tr.139 -

145.