Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
Một số chuyên gia và doanh nghiệp đã đề
xuất, nên tăng lãi suất huy động USD để tạo
động lực kéo nguồn ngoại tệ nhàn rỗi trong
dân trở lại hệ thống ngân hàng, tránh tình
trạng đem ngoại tệ gửi ở nước ngoài. Tuy
nhiên, Ngân hàng nhà nước khẳng định,
chưa có ý định trả lãi cho người gửi USD, vì
chính sách lãi suất USD 0% đã có nhiều tác
động tốt, tạo nền tảng ổn định cho tiền đồng
Việt Nam. Nhiều người đã chuyển từ USD
sang VND để gửi tiết kiệm.
Tin nổi bật
Kiều hối về TP.HCM đạt 2,45 tỷ USD trong
6 tháng đầu năm
Cẩn trọng khi tỷ giá tiếp tục tăng
Lãi suất huy động ưu ái kỳ hạn dài
Tổng dư nợ quốc gia 2017 bằng 49% GDP
6 tháng, tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm
của các dự án FDI tăng 5,7%
Liệu kinh tế VN có khủng hoảng năm 2019?
Nợ công của Mỹ trên đà tăng cao kỷ lục
trong gần 70 năm qua
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 27/06)
VN - Index 968,91 1,44%
HNX - Index 109,66 1,13%
D.JONES CK Mỹ 24.117,59 0,68%
STOXX CK C.Âu 3.397,13 0,84%
CSI 300 CK TQ 3.459,26 2,03%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 28/06)
SJC Ng.đ/L 36.840 0,03%
Quốc tế USD/Oz 1.252,80 1,01%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.655 0,07%
EUR/USD 1.1563 0,75%
Dầu
WTI USD/th 72,52 2,63%
6
Thứ Năm, ngày 28/06/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Kiều hối về TP.HCM đạt 2,45 tỷ
USD trong 6 tháng đầu năm
Ông Nguyễn Hoàng Minh, PGĐ NHNN TP.HCM cho biết, kiều hối về
TP.HCM trong 6th/2018 ước đạt 2,45 tỷ USD, >19% so với cùng kỳ.
Số kiều hối chảy về TP.HCM chủ yếu chảy vào SXKD thay vì để đầu tư
BĐS, CK, cho dù các kênh đầu tư này đã dần ấm lên. Theo thống kê
của NHNN CN TP.HCM, 72% kiều hối được người dân sử dụng vào
SXKD, 22% được đổ vào BĐS và 6% còn lại là tiêu dùng cá nhân.
Lượng tiền chuyển về chủ yếu vẫn đến từ thị trường Mỹ (#>60%) và
châu Âu (>19%). Liên quan đến chính sách LS đối với USD, trước động
thái tăng LS đồng USD của Fed, nhiều ý kiến cho rằng, cần thiết nâng
LS huy động tiền gửi bằng USD tại các NHTM VN. Một số chuyên gia
và DN đã đề xuất, nên tăng LS huy động USD để tạo động lực kéo
nguồn ngoại tệ nhàn rỗi trong dân trở lại hệ thống NH, tránh tình trạng
đem ngoại tệ gửi ở nước ngoài. Tuy nhiên, NHNN khẳng định, chưa có
ý định trả lãi cho người gửi USD, vì chính sách LS USD 0% đã có nhiều
tác động tốt, tạo nền tảng ổn định cho tiền VND. Nhiều người đã
chuyển từ USD sang VND để gửi tiết kiệm.
Cẩn trọng khi tỷ giá tiếp tục tăng
Suốt 1 tuần qua, thị trường ngoại tệ đang chứng kiến sự biến động
mạnh của đồng USD theo chiều hướng liên tục “phi mã” và có những
thời điểm, giá USD đã “cán mốc” 23.000đ/USD. Nguyên nhân đẩy giá
USD tăng cao, được cho là do quyết định tăng LS đồng USD lần thứ hai
trong 2018 vào giữa tháng 6 của FED và cơ quan này dự kiến sẽ còn
tăng thêm 2 lần nữa trong năm nay. Điều này có tác động lớn, khiến
đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác, trong đó có VND.
Giá USD liên tục tăng cao là tín hiệu không mấy khả quan, nhất là vào
nửa cuối năm, nhu cầu sử dụng USD tăng cao. Điều này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động SXKD, nhất là việc XNK hàng hóa, bởi giá USD
tăng sẽ gây ảnh hưởng đến giá xăng dầu, chi phí logistics; giá NK
nguyên liệu đầu vào cũng tăng theo trong khi phần lớn DN đang phải
NK mặt hàng này. Ngoài ra, các DN vay vốn bằng ngoại tệ càng chịu
ảnh hưởng khi phải tăng chi phí KD… Tuy nhiên, dù tỷ giá biến động
mạnh, nhưng nếu so sánh với các đồng tiền khác trong KV, thì tỷ giá
USD/VNĐ được đánh giá là khá ổn định. Để giữ được sự ổn định này,
Tài chính – Ngân hàng
3
nguyên nhân được cho là thanh khoản USD dồi dào, dự trữ ngoại hối
đã lên tới hơn 63 tỷ USD. Bên cạnh đó, có nhiều chính sách, căn cứ hỗ
trợ để VND chỉ mất từ 1,5-2% trong năm nay để giúp ổn định KTVM, ổn
định LS, lạm phát đạt được mục tiêu đề ra là 4%. Ngoài ra, năm nay
một loạt các DNNN được cổ phần hóa sẽ giúp thu về khoản tiền hàng
chục tỷ USD, ngoài ra, còn có dòng vốn đầu tư nước ngoài trên thị
trường CK, BĐS... Trên những căn cứ này, một số chuyên gia KT vẫn
cho rằng năm 2018, tỷ giá sẽ chỉ 1,5-2% như dự báo. Tất nhiên, cũng
không loại trừ những biến động quá sốc như LS đồng USD tăng mạnh
hơn so với dự báo, như thay vì 4 lần FED sẽ 5, 6 lần, hay mỗi lần
thay vì 0,25 điểm %, FED sẽ 0,5 điểm %, 0,75 điểm% thì tỷ giá có
thể vượt mức 2%. Cũng có nhiều quan ngại về việc tỷ giá liên tục tăng,
trong một báo cáo mới đây của Công ty CK TP.HCM (HSC) đề cập đến
tác động của việc nâng LS từ FED đến thị trường CK VN, HSC cho rằng
tỷ giá USD/VND tăng ít hơn 2% sẽ chưa cần phải lo ngại. Chỉ khi tỷ giá
>2% trong 1 năm nhất định, dòng vốn nước ngoài chảy vào thị trường
sẽ bắt đầu bị ảnh hưởng. HSC cũng cho rằng cần theo dõi sát, vì FED
có khả năng sẽ nâng LS nhiều lần hơn (dự kiến 4 lần trong năm nay thay vì
3 lần như trước đây). Mặc dù vậy, HSC giữ nguyên dự báo tiền đồng
2% so với USD trong 2018.
Lãi suất huy động ưu ái kỳ hạn
dài
Hiện tại, LS huy động của các NH đang giảm nhẹ tại các kỳ hạn ngắn,
trong khi tăng mạnh tại các kỳ hạn dài. Lý giải cụ thể hơn cho việc
thanh khoản hệ thống đang dư dả, GĐ KDTT 1 NH phân tích, từ đầu
năm đến nay, NHNN đã mua 11 tỷ USD, nghĩa là bơm ra thị trường
khoảng 250.000 tỷ đồng, cộng 110.000 tỷ đồng từ bán cổ phần của
Sabeco, tổng cộng trên hệ thống có khoảng 360.000 tỷ đồng. Trên thị
trường LNH vẫn thừa tiền, nhưng đây là cho khoản vay ngắn hạn và
đảm bảo thanh toán, còn việc cho vay khách hàng, nguồn tiền phải đến
từ huy động trên thị trường dân cư. “Trong những năm qua, năm nào
TTTD cũng cao. Các NH tập trung đẩy mạnh TTTD sẽ buộc phải nâng
LS huy động, nhất là với các kỳ hạn dài 6 tháng, 12 tháng trở lên. Bên
cạnh đó còn là câu chuyện “sức khỏe” của từng NH khác nhau dẫn đến
phương thức huy động vốn khác nhau. Chưa kể, dù thanh khoản của hệ
thống dồi dào, nhưng không phải thanh khoản của NH nào cũng tốt.
Một điểm rất bình thường nhưng thực tế là bất thường, đó là LS trên thị
trường 1 và thị trường 2 ở VN vẫn gần như không có mối liên hệ”.
4
Lãi suất vay qua đêm liên ngân
hàng xuống dưới 1%, vẫn tăng
mạnh ở kỳ hạn dài
Theo số liệu thống kê của NHNN, LS LNH ở các kỳ hạn ngắn đã giảm
mạnh trong tuần từ 18/6 đến 22/6. LS kỳ hạn qua đêm và một tuần đều
xuống dưới ngưỡng 1%. LS qua đêm ở mức 1% hồi đầu tuần, "rơi" liên
tục suốt tuần trước và 0,31% xuống còn 0,69% ngày cuối tuần. Tương
tự ở kỳ hạn 1 tuần và 2 tuần, LS LNH cũng liên tục lần lượt 0,39% và
0,3% xuống còn 0,8% và 1,05%. LS LNH chỉ đảo chiều nhích nhẹ ở
kỳ hạn qua đêm và 1 tuần đầu tuần này. Trái với xu hướng khá rõ rệt
của LS LNH kỳ hạn ngắn, LS kỳ hạn 1-6 tháng đã tăng vọt vào ngày
19/06. Dù hạ nhiệt sau đó nhưng LS các kỳ hạn dài đều tăng so với
tuần trước. LS trên thị trường 2 giữa các NH giữ xu hướng giảm từ đầu
tháng 6. Theo thống kê của BVSC, NHNN đã bơm ròng 36.740 tỷ đồng
qua kênh tín phiếu trong tuần đầu tiên của tháng 6 nhưng hút ròng
19.000 tỷ đồng trong tuần từ 11-15/06. Diễn biến LS đang cho thấy nhu
cầu vay vốn ngắn hạn giữa các NH không lớn. Nhưng ngược lại, vốn
vay ở kỳ hạn dài hơn, nhất là kỳ hạn 3 tháng đang được ưa thích hơn,
đẩy LS tăng khá nhanh.
5
Tổng dư nợ quốc gia năm 2017
bằng 49% GDP
Theo thông tin Chính phủ, năm 2017, tổng dư nợ nước ngoài của quốc
gia là 2.451 triệu tỷ đồng, #49% GDP. Đây là con số vẫn nằm trong giới
hạn cho phép là <50% GDP. Tuy nhiên, chỉ số nợ nước ngoài của quốc
gia có xu hướng tăng so với 2016 và tiệm cận ngưỡng nợ nước ngoài
của quốc gia đã được Quốc hội phê duyệt. Nguyên nhân chủ yếu là do
quy mô vay nợ nước ngoài của các DN theo hình thức tự vay, tự trả
tăng nhanh. Theo đó, tốc độ tăng dư nợ của các khoản vay trung và dài
hạn là 22,56%, của các khoản vay ngắn hạn là 73% so với năm trước
đó. Vay ngắn hạn nước ngoài đã cán mốc 21,9 tỷ USD trong 2017,
trong số này có 4,8 tỷ USD của Vietnam Beverage để thanh toán cho
Bộ Công Thương trong thương vụ mua cổ phần của Sabeco. Tuy nhiên,
theo Quyết định của Thủ tướng phê duyệt chương trình quản lý nợ trung
hạn 2016-2018 thì hạn mức tăng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm
tối đa 10%/năm. Hiện mức tăng ngắn hạn năm 2017 đã là 73% nên ảnh
hưởng đến dư nợ vay ngắn hạn nước ngoài, ảnh hưởng đến chỉ tiêu an
toàn nợ nước ngoài quốc gia và làm giảm dư địa vay nước ngoài quốc
gia trong các năm tiếp theo. Do đó, để đảm bảo an toàn nợ nước ngoài
quốc gia (không vượt ngưỡng 50% do Quốc hội phê duyệt), Thủ tướng phê
duyệt hạn mức vay thương mại nước ngoài của các DN, TCTD theo
hình thức tự vay tự trả năm 2018 không vượt quá 5 tỷ USD. Dư nợ vay
nước ngoài ngắn hạn cuối năm 2018 của DN, TCTD không vượt quá số
dư nợ vào thời điểm hết 2017 là 5 tỷ USD.
6 tháng, tổng vốn đăng ký mới và
tăng thêm của các dự án FDI
tăng 5,7%
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT, tính đến 20/06/2018, cả
nước có 1.366 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với
tổng vốn đăng ký cấp mới 11,8 tỷ USD, #99,7% so với cùng kỳ 2017; có
507 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng
thêm 4,43 tỷ USD, #86,2% so với cùng kỳ. Cả nước có 2.749 lượt góp
vốn, mua cổ phần của NĐTNN với tổng giá trị vốn góp gần 4,1 tỷ USD,
82,4% so với cùng kỳ 2017. Tính chung trong 6th/2018, tổng vốn đăng
ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN là 20,33 tỷ
USD, 5,7% so với cùng kỳ 2017. Ước tính các dự án đầu tư trực tiếp
Kinh tế Việt Nam
6
nước ngoài đã giải ngân được 8,37 tỷ USD, 8,4% so với cùng kỳ
2017. Trong 6th/2018, XK của KV đầu tư nước ngoài, kể cả dầu thô đạt
80,86 tỷ USD, 14,8% so với cùng kỳ 2017 và chiếm gần 71% kim
ngạch XK. XK không kể dầu thô đạt 79,84 tỷ USD, 15,8% so với cùng
kỳ 2017 và chiếm 70,1% kim ngạch XK. Theo lĩnh vực đầu tư, NĐTNN
đã đầu tư vào 17 ngành lĩnh vực; trong đó, công nghiệp chế biến, chế
tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của NĐTNN với tổng số
vốn đạt 7,91 tỷ USD, chiếm 38,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực
hoạt động KD BĐS đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 5,54 tỷ USD,
#27,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn,
bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,5 tỷ USD, #7,4% tổng vốn đầu tư
đăng ký. Theo đối tác đầu tư, có 87 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án
đầu tư tại VN, trong đó Nhật Bản đứng vị trí thứ nhất với tổng vốn đầu
tư 6,47 tỷ USD, #31,8% tổng vốn đầu tư. Hàn Quốc đứng thứ hai với
tổng vốn đầu tư đăng ký 5,06 tỷ USD, #24,9% tổng vốn đầu tư vào VN.
Singapore đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,39 tỷ USD,
chiếm 11,8% tổng vốn đầu tư. Theo địa bàn đầu tư, NĐTNN đã đầu tư
vào 55 tỉnh thành phố, trong đó Hà Nội thu hút nhiều vốn đầu tư nước
ngoài nhất với tổng số vốn đăng ký 5,87 tỷ USD, #28,9% tổng vốn đầu
tư. TP.HCM đứng thứ hai với tổng vốn đăng ký 3,68 tỷ USD, #18,1%
tổng vốn đầu tư. Bà Rịa-Vũng Tàu đứng thứ ba với tổng số vốn đăng ký
1,93 tỷ USD #9,5% tổng vốn đầu tư.
Liệu kinh tế Việt Nam có khủng
hoảng năm 2019?
Sau những cuộc khủng hoảng xảy ra tại VN những năm 1979, 1989,
1999 và 2009, Chính phủ và giới quan sát đang lo ngại chu kỳ khủng
hoảng cứ 10 năm một lần sẽ xuất hiện trở lại ở VN năm sau. Những căn
cứ cho lo ngại có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng mới ở VN được chỉ
ra gồm: độ mở rất lớn của nền KT (tổng kim ngạch XNK bằng 193% GDP
năm 2017); nền tảng và nguồn lực tăng trưởng trong nước có vấn đề.
Những mâu thuẫn của nền KT nằm ở sự chia tách giữa các KV như FDI
và trong nước, KT phụ thuộc nhiều vào FDI, hay dù hội nhập sâu rộng
nhưng việc tận dụng, khai thác còn kém; sự chuyển dịch của dòng tiền
từ thị trường SX vào thị trường tài sản (đất đai, CK) dẫn đến bong bóng
tài sản, và khi thị trường quá nóng, bong bóng đổ vỡ có thể kéo theo sự
khủng hoảng của nền KT. Tuy nhiên, các căn cứ trên đều khá chung
chung và, quan trọng hơn, không chỉ ra được tại sao khủng hoảng có
khả năng sẽ nổ ra vào năm 2019 chứ không phải là 1 năm trước hoặc
7
sau đó. Cụ thể, nếu nói về độ mở lớn của nền KT để lo ngại khả năng
đổ vỡ thì cần lưu ý rằng trên TG có không ít quốc gia hoặc nền KT mà
tổng kim ngạch XNK/GDP còn lớn hơn cả VN như Hong Kong (373 %
GDP năm 2016), Luxembourg (407%), Malta (268%), Singapore
(318%), Slovak (186%), Các Tiểu vương quốc Ả rập (205%), so với
mức 185% năm 2016 của VN, theo World Bank. Như vậy, nếu chỉ căn
cứ vào độ mở của nền KT tính theo kim ngạch XNK so với GDP thì
chưa thể nói lên được tính mong manh, dễ vỡ của nền KT. Bởi chỉ tiêu
này còn phản ánh một thực tế là nền KT sở tại có thể là một điểm trung
chuyển hàng hóa, và VN cũng không phải là một ngoại lệ khi đã có hiện
tượng hàng hóa nước ngoài đội lốt hàng VN xuất đi các nước khác. Hơn
nữa, cũng không có chuẩn mực nào hay một trường hợp thực tế nào để
tin rằng nếu độ mở này tiếp tục tăng và đạt, ví dụ, 200% GDP năm sau
thì nền KT VN sẽ gặp nguy khốn. Về lý do nền tảng và nguồn lực tăng
trưởng trong nước có vấn đề và sự chia tách nền KT thành 2 khu vực
(FDI và trong nước), đây có thể là một thực tế. Nhưng, tương tự như lập
luận ở trên, đâu là điểm ngưỡng để dẫn đến tình trạng "quá mù ra mưa"
nếu những bất cập này tiếp tục tồn tại và phát triển làm bùng phát
thành một cuộc khủng hoảng năm sau mà không phải là những năm
sau đó? Về nguyên nhân bong bóng tài sản dẫn đến khủng hoảng KT,
đây cũng là một thực tế đã được chứng thực ở nhiều nơi trên TG. Có
điều, nếu nói rằng VN đang chứng kiến bong bóng bất động sản và CK
thì e rằng là hơi sớm, cần phải có nhiều dữ liệu và phân tích thấu đáo
hơn để làm hậu thuẫn cho kết luận này. Nhìn chung, giá BĐS có gia
tăng mạnh nhưng không phải trên diện rộng, mà chỉ ở một số phân
khúc, một số địa phương, vùng. Còn với thị trường CK, sau những
thăng hoa mấy tháng trước (nhưng không phải tăng trưởng kiểu tên lửa,
ngày nào cũng tăng và tăng kịch biên độ), chỉ số CK đã quay trở lại giai
đoạn lình xình, điều chỉnh mạnh trong mấy tuần gần đây. Trong khi đó,
nguồn "dinh dưỡng" quan trọng nhất cho cả 2 thị trường này bùng nổ là
tín dụng ngân hàng thì đã bị siết lại từ 2, 3 năm nay, với TTTD chung
cũng chậm lại đáng kể so với mấy năm trước… Tóm lại, phân tích ở
trên cho thấy tuy nền KT VN vẫn chứa đựng nhiều bất ổn nhưng chưa
có bằng chứng xác đáng nào để lo ngại xảy ra một cuộc khủng hoảng
KT trong năm 2019 ở quy mô và cấp độ như đã từng được chứng kiến
trong 3 thập kỷ trước.
8
Nợ công của Mỹ trên đà tăng cao
kỷ lục trong gần 70 năm qua
Theo Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO), nợ công của chính phủ
liên bang sẽ ở mức 78% GDP trong năm tài chính này, mức cao nhất
trong gần 70 năm, trước khi lên tới 152% vào 2028. Nợ công dự kiến
tăng do nguồn thu của liên bang sẽ duy trì trong 2 năm tới và tăng lên
vào 2026 trong bối cảnh mức thuế TNCN được dự báo tăng trở lại.
Trong khi đó, mức chi tiêu ngân sách liên bang được dự báo tăng từ
19% GDP hiện nay lên 23% trong 30 năm tới, trong đó các khoản chi
trả cho an ninh XH, chăm sóc sức khỏe và tiền lãi nợ công sẽ tăng.
CBO dự báo tiền lãi nợ công sẽ tăng từ 1,6% lên 3,1% GDP trong 2018
và sẽ tăng gấp đôi trong 10 năm tới. Đến năm 2048, tiền lãi nợ công
khả năng sẽ tăng lên mức cao kỷ lục 6,3% khi khoản tiền này vượt quá
tất cả mức chi tiêu linh hoạt và tương đương mức chi tiêu cho an ninh
XH. CBO cũng dự báo FED sẽ tiếp tục tăng LS trong bối cảnh GDP và
lạm phát tăng, trong khi tỷ lệ thất nghiệp giảm. Nguy cơ nợ công tăng
cao gây rủi ro lớn cho Mỹ và đặt ra những thách thức đáng kể đối với
những nhà hoạch định chính sách. Chẳng hạn, nợ công có thể khiến
Mỹ gặp khó khăn hơn khi đối phó với một cuộc khủng hoảng tài chính
thông qua giảm thuế hoặc tăng chi tiêu ngân sách.
Nữ hoàng Anh thông qua luật
Brexit, mở đường cho Anh rời EU
Nữ hoàng Elizabeth II đã phê chuẩn Dự luật Brexit, trong đó bãi bỏ Đạo
luật cộng đồng châu Âu 1972 từng giúp Anh gia nhập EU. Với việc dự
luật này được thông qua thành luật, sẽ không còn rào cản pháp lý nào
trong quá trình nước Anh rút khỏi EU. Theo luật Brexit, Anh sẽ rời EU
lúc 23h ngày 29/3/2019, đúng 2 năm sau khi kích hoạt Điều 50 Hiệp
ước Lisbon, kết thúc thời gian đàm phán các điều khoản để nước này
chấm dứt tư cách thành viên EU. "Chúng ta đã đưa Brexit vào con
đường không thể quay lại, cơ hội để Anh ở lại EU là con số không", Bộ
trưởng Thương mại quốc tế Anh phát biểu.
Kinh tế Quốc tế
9
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/kieu-hoi-ve-tphcm-dat-245-ty-usd-trong-6-thang-dau-nam-
233696.html
http://ndh.vn/lai-suat-vay-qua-dem-lien-ngan-hang-xuong-duoi-1-van-tang-manh-o-ky-han-dai-
201806250520912p149c166.news
http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/lai-suat-huy-dong-uu-ai-ky-han-dai-233633.html
http://cafef.vn/can-trong-khi-ty-gia-tiep-tuc-tang-20180627094353952.chn
Tin KT vĩ mô http://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/tong-du-no-quoc-gia-nam-2017-bang-49-gdp-3324653/
http://ndh.vn/6-thang-tong-von-dang-ky-moi-va-tang-them-cua-cac-du-an-fdi-tang-5-7--
2018062705216275p4c145.news
http://cafef.vn/lieu-kinh-te-viet-nam-co-khung-hoang-nam-2019-20180627141235684.chn
Tin KT Quốc tế http://ndh.vn/no-cong-cua-my-tren-da-tang-cao-ky-luc-trong-gan-70-nam-qua-
20180627052621182p145c151.news
http://ndh.vn/nu-hoang-anh-thong-qua-luat-brexit-mo-duong-cho-anh-roi-eu-
201806270845911p145c151.news
10
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Sản xuất KD SXKD
Đăng ký KD ĐKKD Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng SP quốc nội GDP
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trung Quốc TQ
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng cá nhân KHCN Trái phiếu DN TPDN
KT vĩ mô KTVM Thị trường chứng khoán TTCK
Kho bạc Nhà nước KBNN VN VN
Khu vực KV Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xã hội XH
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Xuất khẩu XK
Ngân hàng TG World Bank Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Hiệp hội Thép VN VSA
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
Liên minh châu Âu EU Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO