Upload
dangtu
View
214
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH THỦY LỢI (HTCTTL) VÙNG BÁN ĐẢO CÀ MAU Bán đảo Cà Mau (BĐCM) có diện tích tự nhiên 1,6
triệu ha chiếm 43% diện tích của Đồng bằng sông Cửu
Long bao gồm thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và một phần tỉnh Kiên
Giang. Với 7 tiểu vùng sinh thái và 51 khu thủy lợi
BĐCM có tiềm năng to lớn về sản xuất nông nghiệp và
nuôi trồng thủy sản, có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của cả nước.
Hình 1: Bản đồ vị trí Bán đảo Cà Mau
(Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, 2009)
Hệ thống công trình thủy lợi (HTCTTL) ở BĐCM đã
được đầu tư xây dựng khá tốt, phát huy hiệu quả dẫn
ngọt, tiêu chua xả phèn, ngăn mặn, thoát lũ, cải tạo đất,
góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược
an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên, các HTCTTL
này chủ yếu là kênh rạch chằng chịt, phần lớn là kênh
chìm bằng đất. Hệ thống kênh trục chính lớn và liên
quan đến nhiều tỉnh, huyện trong vùng, ít có công trình
điều tiết nước trên kênh. Việc lấy nước và tiêu thoát
nước chủ yếu là dựa vào dòng chảy tự nhiên của thủy
triều, do vậy nhận thức về vấn đề sử dụng nước tiết
kiệm và quản lý, khai thác các HTCTTL chưa được
coi trọng. Bên cạnh đó, đa số các HTCTTL ở vùng này
đều phục vụ cho mục tiêu sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu mặc dù đây là vùng trọng điểm phát triển NTTS
của cả nước nhưng vẫn chưa có một HTCTTL riêng
phục vụ cho mục đích này (Đặng Kim Sơn, 2010). Các
vấn đề nảy sinh, cho đến nay vẫn còn chưa giải quyết
được, nhất là việc cấp nước chủ động cho các tiểu
vùng theo nhu cầu của từng đối tượng sản xuất. Khó
khăn không chỉ do đối tượng sản xuất đa dạng, mà còn
do hệ thống thủy lợi còn nhiều bất cập, dưới mức yêu
cầu (Tăng Đức Thắng, 2011). Việc xây dựng các công
trình đê bao và hệ thống cống của các tiểu dự án đã
làm giảm diện tích khai thác cá, ảnh hưởng đến sự di
cư của các loài cá tự nhiên và giảm khả năng khai thác
cá trong vùng kiểm soát lũ đã tác động trực tiếp đến
sinh kế của cộng đồng khai thác thủy sản ở địa
phương.
TÓM TẮT CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH THỦY LỢI VÀ SINH KẾ
CỘNG ĐỒNG KHAI THÁC THỦY SẢN VÙNG BÁN ĐẢO CÀ MAU
CÁCH TIẾP CẬN TRONG QUẢN LÝ HTCTTL VÀ TÀI NGUYÊN THỦY SẢN VÙNG BĐCM
Quy hoạch quản lý HTCTTL BĐCM dựa trên quy
hoạch phát triển của toàn ĐBSCL, của phát triển đơn
ngành và đa ngành, phát triển của từng địa phương và
mối tổng hoà chung. Dựa trên nền tảng phát triển đa
mục tiêu, phát triển toàn diện trên cơ sở phát huy thế
mạnh về nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, diêm
nghiệp ở từng vùng cụ thể, đồng thời chú trọng bảo vệ
môi trường sinh thái để phát triển bền vững. Quy
hoạch phát triển thủy lợi ở BĐCM nhưng phải xem xét
đến phát triển tài nguyên nước các vùng lân cận kể cả
ở thượng lưu. Kết hợp hài hòa giữa các giải pháp công
trình và phi công trình, đặc biệt chú ý các giải pháp phi
công trình. Các phương án quy hoạch phát triển thủy
lợi tuy đã được xem xét kỹ nhưng phải luôn là những
phương án “mở”, mềm dẻo để trong tương lai vẫn có
thể điều chỉnh, thay đổi khi cần thiết.
Quản lý tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài
nguyên thủy sản nói riêng trên cơ sở cộng đồng là một
phương pháp tiếp cận thích hợp trong khi tăng cường
hợp tác là một đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn sản xuất
nông lâm ngư của toàn vùng. Nguồn lợi thủy sản và tài
nguyên nước đã được coi là dạng tài nguyên thiên
nhiên cần được sử dụng và quản lý một cách khôn
khéo trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, xóa đói giảm nghèo và phát triển nông thôn.
Đồng quản lý nguồn lợi thủy sản là sự chia sẻ trách
nhiệm và quyền hạn một cách có hệ thống giữa các cấp
chính quyền quản lý và những người dân địa phương
sử dụng nguồn lợi để các bên cùng nhau quản lý, sử
dụng nguồn lợi trong một sinh cảnh đảm bảo hiệu quả
và mang tính bền vững. Đồng quản lý nguồn lợi thủy
sản có thể dùng làm một cơ chế để vừa quản lý nghề
cá vừa phát triển kinh tế cho cộng đồng thông qua việc
khuyến khích ngư dân và cộng đồng địa phương tham
gia tích cực vào giải quyết các khó khăn và đưa ra
những kiến nghị, điều chỉnh hợp lý và kịp thời.
KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC TRONG QUẢN LÝ HTCTTL VÀ TÀI NGUYÊN THỦY SẢN Ở BĐCM
Toàn bộ HTCTTL vùng BĐCM đều được quy
hoạch và thiết kế để phục vụ phát triển nông nghiệp
(sản xuất lúa), do vậy khi chuyển đổi cơ cấu sản xuất
sang nuôi trồng thủy sản thì năng lực cấp, thoát nước,
dẫn mặn, tiêu úng, rửa phèn của các kênh mương,
cống đã bộc lộ nhiều hạn chế do kích thước, khẩu độ
cống chưa thích hợp, nhiều cống chỉ được thiết kế một
chiều (tiêu nước) nên không phù hợp khi dẫn nước
mặn phục vụ NTTS (tiêu và thoát nước).
Các HTCTTL liên tỉnh chưa khép kín, thiếu
đồng bộ, chưa có qui trình và cơ chế vận hành rõ ràng,
hoạt động điều tiết nước còn mang tính địa phương,
thiếu sự phối hợp liên tỉnh nên xảy ra xung đột cục bộ
lợi ích giữa các địa phương trong việc sử dụng nước để
phục vụ sản xuất.
HTCTTL còn hạn chế giao thông thủy đặc biệt
tại các vùng được kiểm soát lũ cả năm và các công
trình kiểm soát mặn. Thay đổi tập quán sinh sống,
canh tác của người dân tại một số khu vực.
Các tổ chức hợp tác khai thác sử dụng nước ở
một số địa phương còn mang tính tự phát, chưa phát
huy được vai trò của cộng đồng tham gia công tác
quản lý khai thác hiệu quả các công trình thủy lợi.
Nhận thức của cộng đồng còn thấp về giá trị
của tài nguyên nước và lợi ích trực tiếp của HTCTTL
nên trong thực tế người dân không chi trả hoặc rất khó
thuyết phục chi trả thủy lợi phí cho việc quản lý vận
hành hệ thống công trình thủy lợi
HTCTTL đã làm thay đổi, phức tạp thêm chế
độ dòng chảy và lũ, vì vậy có thể gây nên các diễn
biến xấu về bồi lắng, xói lở cục bộ ở một số khu vực.
Làm giảm tác dụng của lũ trong việc bồi đắp phù sa và
vệ sinh đồng ruộng ở những vùng kiểm soát lũ cả năm.
HTCTTL đã làm tăng khả năng ô nhiễm nguồn
nước từ các loại chất thải, dư lượng thuốc và hóa chất
nông nghiệp, tăng độ chua phèn ảnh hưởng đến môi
trường đất, nước ở các vùng được kiểm soát lũ cả năm,
ảnh hưởng đến đời sống của các loài thủy sinh, làm
suy giảm đa dạng sinh học một số loài động vật quý
hiếm ở địa phương.
HTCTTL và hệ thống đê bao chống lũ, ngăn
mặn đã chia cắt hệ sinh thái và hình thành những rào
chắn ngăn cản sự di cư của các loài cá, tôm gây ra hậu
quả suy giảm nguồn lợi thủy sản (đặc biệt là các loài
cá trắng). Khi đó, cộng đồng (đặc biệt là hộ nghèo
chuyên sống bằng nghề khai thác cá) có xu hướng sẽ
kéo dài thời gian khai thác để bù đắp sản lượng, hoặc
mua thêm nhiều ngư cụ, hoặc sẵn sàng sử dụng các
hình thức khai thác hủy diệt (xung điện, hóa chất, ngư
cụ có kích thước mắc lưới nhỏ) để bù đắp sản lượng.
Điều đó đã gây áp lực rất lớn lên nguồn lợi thủy sản tự
nhiên.
HTCTTL đã làm mất một diện tích khá lớn đất
đai canh tác cũng như một số diện tích cây trồng hàng
năm, lâu năm của người dân, một số lớn các hộ gia
đình phải di dời chỗ ở. Chi phí đền bù giải toả lớn.
Một bộ phận khác giảm hoặc mất nguồn sinh kế, tạo
nên sự bất bình đẳng trong việc hưởng lợi từ dự án.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HTCTTL VÀ TÀI NGUYÊN THỦY SẢN ĐỂ ỔN
ĐỊNH SINH KẾ CỘNG ĐỒNG
1. Quản lý khai thác HTCTTL
Kiện toàn, củng cố tổ chức, hoạt động của các
đơn vị quản lý khai thác HTCTTL ở các địa phương và
đẩy mạnh phân cấp quản lý theo hướng tinh gọn, hiệu
quả như: i). Doanh nghiệp nhà nước quản lý khai thác
các công trình thủy lợi (CTTL) có quy mô lớn, kỹ
thuật phức tạp; ii). Cổ phần hóa quản lý khai thác các
CTTL quy mô vừa; iii) Giao cho các tổ chức hợp tác
dùng nước ở địa phương (xã hoặc liên xã) quản lý khai
thác các CTTL nhỏ, kỹ thuật ít phức tạp.
Tất cả các tỉnh cần thành lập công ty khai thác
CTTL theo quy định của nghị định số 180/2004/NĐ-
CP ngày 28/10/2004 của Chính phủ. Hội đồng quản lý
HTCTTL liên tỉnh cần nhanh chóng hoàn thiện quy
trình vận hành, quy chế hoạt động để phát huy hiệu
quả của toàn hệ thống.
Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các HTCTTL liên
tỉnh, đặc việt là HTCTTL phân ranh mặn, ngọt để phục
vụ sản xuất nông nghiệp và thủy sản theo hướng đa
dạng cây trồng và vật nuôi, đảm bảo ổn định sinh kế
của cộng đồng.
Cần tăng cường sự tham gia của cộng đồng
trong xây dựng kế hoạch khai thác, phương án bảo vệ
công trình và giám sát các hoạt động của các tổ chức,
cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên nước.
2. Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản
Quy định c ụ t h ể loại nghề, loại ngư cụ và
mùa vụ khai thác thủy sản trên sông rạch và nội
đồng một cách toàn diện. Khuyến khích c ộng
đồng ch ọn các nghề khai thác có t í nh chọn lọc
(lưới rê, câu, chài rê, chài quăng có kích thước mắt
lưới phù hợp với kích cỡ cá khai thác, hạn chế sử
dụng ngư cụ khai thác không chọn lọc (đăng mé, đáy,
cào, lưới rùng, lưới kéo nội đồng, kéo côn) và những
ngư cụ khai thác bị động (chà, vó, nò, lờ, lợp, dớn).
Tăng cường có hiệu quả biện pháp kiểm tra, phát hiện
và xử lý vi phạm việc khai thác bằng các ngư cụ có
tính hủy diệt (dùng chất độc, chất nổ, xiệc điện).
Các cơ quan chức năng cần hướng dẫn, s ắp
xếp việc làm và chuyển đổi nghề cho những nghề
cấm hoặc hạn chế khai thác nhằm giúp ngư dân ổn
định cuộc sống sau khi chuyển đổi nghề.
Tái tạo nguồn lợi thủy sản tự nhiên bằng cách
định kỳ hàng năm thả bổ sung các đối tượng thủy sản
bản địa vào các thủy vực tự nhiên như: cá mè vinh,
cá chép, cá ét mọi, cá hô, cá tra, cá chạch lấu, tôm
càng xanh, tôm sú, tôm thẻ…
Thiết lập các khu vực bảo tồn các loài thủy sản
bản địa, các loài nguy cấp hoặc có nguy cơ nguy cấp ở
mỗi vùng sinh thái.
3. Tăng cường nuôi trồng thủy sản để giảm áp lực
khai thác
Ở hệ sinh thái nước ngọt, cần đầu tư phát triển
các mô hình nuôi thủy sản qui mô nhỏ phù hợp năng
lực của nông hộ nhằm để bổ sung nguồn thực phẩm
thủy sản cho nông hộ; cải thiện thu nhập; tạo việc làm
cho cộng đồng. Các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế
cao có thể được chọn để nuôi trồng tăng năng suất như
cá bống tượng, cá chạch lấu, cá chạch bùn, cá trê vàng,
cá lóc, cá thát lát, ếch, lươn, cá chình, cá rô phi, tôm
càng xanh,….
Ở hệ sinh thái nước lợ, nên phát triển các mô
hình nuôi luân canh 1 vụ lúa, 1 vụ tôm (tôm sú, tôm
thẻ chân trắng), mô hình xen canh cua, tôm vào mùa
khô; mô hình trồng năn bộp kết hợp nuôi cá tự nhiên
trên đất ruộng vào mùa mưa; mô hình nuôi rắn ri voi;
sử dụng nước ao nuôi cá rô phi, cá kèo, cá măng, sò
huyết để nuôi tôm bán thâm canh; ngoài ra một số mô
hình nuôi baba, cá sấu, ếch thái lan và cá lóc trên bể
lót bạt cũng có thể được chọn để phát triển kinh tế hộ.
Cần phân vùng sản xuất rõ ràng, thiết lập các
dự án đầu tư đê bao khép kín cho các vùng trồng lúa
ổn định, vùng luân canh tôm-lúa và vùng chuyên nuôi
trồng thủy sản quanh năm. Phối hợp vận hành hợp lý
các HTCTTL, chủ động điều tiết nước phục vụ các mô
hình sản xuất đạt hiệu quả, từng bước tiến tới xây dựng
thương hiệu sản phẩm sinh thái, ổn định và bền vững.
Đối với hộ nông dân, ngư dân, cần tham gia
nhiều hơn nữa các lớp tập huấn kỹ thuật, các cuộc hội
thảo đầu bờ và tích cực ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật,
các mô hình sản xuất có hiệu quả vào điều kiện gia
đình góp phần tăng thu nhập. Từng bước liên kết sản
xuất để giảm giá thành sản phẩm và sản lượng hàng
hóa tập trung, để thuận lợi trong việc thu hoạch và bao
tiêu sản phẩm.
4. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong
quản lý, sử dụng tài nguyên nước và thủy sản
Chìa khóa của việc cải thiện đầu ra cho
nghề cá chính là thúc đẩy đối thoại và tư vấn hiệu
quả giữa các ngành liên quan đến quản lý nước, từ
đó hiểu được tầm quan trọng của nghề cá, chú ý đến
tính sinh học của một số loài cá quan trọng để cải
thiện công tác quản lý cũng như giảm thiểu tác động
tiêu cực đến nguồn lợi thủy sản do các hoạt động của
con người gây ra.
Cần có sự phối hợp, liên kết, tham gia quản lý
hay đồng quản lý tài nguyên nước và tài nguyên thủy
sản giữa cộng đồng, chính quyền, các tổ chức phi
chính phủ, viện, trường và các bên có liên
quan…nhằm đảm bảo tính dân chủ trong việc chia sẻ
quyền hạn, trách nhiệm và ra quyết định đối với việc
quản lý tài nguyên ở địa phương.
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý
thức bảo vệ và phát triển NLTS trong cộng đồng nhằm
quản lý, bảo vệ, khai thác và phát triển NLTS một
cách hiệu quả. Chú trọng công tác đào tạo nâng
cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho cộng
đồng, xây dựng các chương trình, dự án hỗ trợ
cộng đồng đặc biệt là nhóm người nghèo dễ bị
tỗn thương có điều kiện để chuyển đổi nghề ổn
định khi nguồn lợi thủy sản tự nhiên suy giảm.
5. Ổn định sinh kế cộng đồng khai thác thủy sản
Đa dạng hóa nghề nghiệp và nguồn thu nhập là
chiến lược sinh kế phổ biến ở các tiểu vùng dự án thủy
lợi. Đó là cách thức chống đỡ rủi ro cao trong hoạt
động sản xuất và gia tăng thu nhập của nông hộ bằng
cách làm nghề phụ: buôn bán, dịch vụ, phụ hồ, chạy
honda ôm, làm thuê mướn nông nghiệp, khai thác thủy
sản, nuôi trồng thủy sản hoặc các công ty, nhà máy chế
biến thủy sản, các khu công nghiệp tập trung trong và
ngoài địa phương.
Trình độ học vấn của hộ KTTS trong vùng
được khảo sát là khá thấp. Điều này sẽ ảnh hưởng đến
việc đào tạo và tập huấn những kỹ thuật và công nghệ
mới phục vụ sản xuất hay chuyển đổi nghề mới thay
thế cho nghề đã mất do tác động của HTCTTL làm
nguồn lợi thủy sản suy giảm. Đây là một đặc điểm cần
được lưu ý khi thiết kế các chương trình đào tạo hay
tập huấn cho các đối tượng bị ảnh hưởng, sao cho phù
hợp với trình độ của nông hộ.
Phụ nữ ở vùng BĐCM nói chung có tỷ lệ tham
gia lao động thấp hơn các vùng khác trong cả nước.
Phát triển HTCTTL và giao thông nông thôn sẽ tạo ra
cơ hội để tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp, mở rộng
nghề thủy sản, tạo thêm nhiều cơ hội phát triển các
ngành nghề phi nông nghiệp, tăng nhu cầu lao động ở
địa phương, phù hợp với năng lực của phụ nữ, góp
phần cải thiện thu nhập của nông hộ.
CÁC KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH
Cần thay đổi cách tiếp cận trong việc quy
hoạch chuyển đổi sản xuất nông nghiệp ở vùng
BĐCM. Nguồn nước lợ mặn không nên bị xem là hạn
chế mà nên được đánh giá như là một tài nguyên, vấn
đề là khai thác tài nguyên này như thế nào cho đúng
với tiềm năng sẵn có của nó. Quan điểm ngọt hoá
không còn độc tôn bất di bất dịch trong công tác thủy
lợi, mà phải nên cân nhắc, phân định rõ ràng ranh giới
mặn, ngọt từ đó phân vùng sản xuất thích hợp ở từng
địa phương để phát triển kinh tế xã hội.
Cần điều chỉnh, bổ sung kịp thời để sớm hoàn
chỉnh HTCTTL ở BĐCM, xây dựng quy chế quản lý
vận hành hệ thống để đáp ứng các yêu cầu của sản
xuất, góp phần đưa BĐCM trở thành một vùng kinh tế
ổn định, thịnh vượng, môi trường sinh thái đa dạng,
bền vững.
Cần thay đổi chính sách thu thủy lợi phí bằng
chính sách giá sử dụng tài nguyên nước được xác định
cụ thể và hợp lý đối với từng ngành, từng đối tượng sử
dụng và theo quy mô từng loại công trình thủy lợi.
Cần sớm ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn mới
để thiết kế hệ thống thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng
thủy sản đặc biệt ở các vùng sinh thái nước lợ, mặn
thuộc BĐCM.
Cần có chính sách hỗ trợ tài chính phát triển
cộng đồng và xây dựng các mô hình đồng quản lý tài
nguyên nước, tài nguyên thủy sản theo hướng tiếp cận
sinh thái, phát triển bền vững. Khuyến khích các hoạt
động sản xuất giống nhân tạo các loài thủy sản bản địa
phục vụ công tác tái tạo nguồn lợi tự nhiên đang ngày
càng suy giảm.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA CHO CÁC NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Các nội dung nghiên cứu này được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của Khoa Thủy Sản, trường Đại Học
Cần Thơ (CTU) do tiến sĩ Mai Viết Văn làm chủ nhiệm đề tài với sự hỗ trợ tài chính của Trung tâm Bảo
tồn và Phát triển Tài nguyên Nước, Hà Nội (WARECOD) theo các điều khoản của Thỏa thuận Hợp tác
Nghiên cứu số 02/01/ WARECOD ngày 30/01/2015. Các quan điểm trình bày trong nghiên cứu này là của
nhóm tác giả CTU, không phản ánh quan điểm của WARECOD.
BẢN QUYỀN:
Tiến sĩ Mai Viết Văn,
Chức vụ: Giảng viên, Mã số cán bộ: 2082
Đơn vị: Khoa Thủy Sản-Trường Đại học Cần Thơ
Địa chỉ: Khu 2, Đường 3/2, Phường Xuân Khánh, Quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ
Tel: 07103 834307; Email: [email protected]
Tranh chấp mặn -ngọt để trồng lúa và nuôi tôm
CTTL gây ô nhiễm cục bộ, tăng độ chua phèn
ảnh hưởng đến môi trường sinh thái
Cống ngăn mặn gây sa bồi cản trở dòng chảy của sông
Khai thác hủy diệt gây suy giảm NLTS