48
Trường Đại Học Xây Dựng Khoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NĂM 2007 Tên đề tài: Nghiên cứu sự biến đổi hình thái các không gian bên ngoài ngôi nhà ở tại phường Bùì Thị Xuân - Hai Bà Trưng - Hà Nội Họ tên, học hàm, học vị, chức vụ của người chủ trì: Doãn Thế Trung - Kiến trúc sư - Thạc sĩ - Giảng viên chính. Họ tên, học hàm, học vị, chức vụ của những người phối hợp chính:

TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Trường Đại Học Xây DựngKhoa Kiến Trúc và Quy HoạchBộ môn Kiến Trúc Dân Dụng

BÁO CÁO ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NĂM 2007

Tên đề tài:Nghiên cứu sự biến đổi hình thái các không gian bên ngoài ngôi nhà ở

tại phường Bùì Thị Xuân - Hai Bà Trưng - Hà Nội

Họ tên, học hàm, học vị, chức vụ của người chủ trì:Doãn Thế Trung - Kiến trúc sư - Thạc sĩ - Giảng viên chính.

Họ tên, học hàm, học vị, chức vụ của những người phối hợp chính:Phạm Đình Việt - Kiến trúc sư - Phó giáo sư - Tiến sỹ - Giảng viên chính.

Đơn vị phối hợp:Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng

Ngày đăng ký:10/12/2006

Ngày kết thúc:10/12/2007

Page 2: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Trường Đại Học Xây DựngKhoa Kiến Trúc và Quy HoạchBộ môn Kiến Trúc Dân Dụng

BÁO CÁO ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

NĂM 2007

Tên đề tài: Nghiên cứu sự biến đổi hình thái các không gian bên ngoài ngôi nhà ở tại phường Bùì Thị Xuân - Hai Bà Trưng - Hà Nội

Họ tên, học hàm, học vị, chức vụ của người chủ trì: Doãn Thế Trung - Kiến trúc sư - Thạc sĩ - Giảng viên chính.

Họ tên, học hàm, học vị, chức vụ của những người phối hợp chính: Phạm Đình Việt - Kiến trúc sư - Phó giáo sư - Tiến sỹ - Giảng viên chính.

Đơn vị phối hợp: Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng

Ngày đăng ký: 10/12/2006

Ngày kết thúc: 10/12/2007

TÓM TẮT

Nghiên cứu này quan tâm đến những biến đổi không gian bên ngoài các lô đất ở trong khu

phố Bùi Thị Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam. Những biến đổi về mặt văn hoá, xã hội,

hình thái học và cấu trúc được tập trung nghiên cứu, tìm hiểu. Do vậy, nghiên cứu này cho

phép hiểu rõ hơn nguyên nhân biến đổi lối sống của người Việt Nam và những ảnh hưởng

của chúng tới việc biến đổi không gian bên ngoài.

Nghiên cứu này bao gồm 3 phần chính. Phần thứ nhất giới thiệu khu phố Bùi Thị Xuân

trong bối cảnh lịch sử của Hà Nội. Chương này chỉ ra tầm quan trọng của không gian bên

ngoài lô đất đối với lối sống của người Việt Nam. Phần thứ 2 quan tâm tới các mặt văn

hoá, xã hội ảnh hưởng đến việc xây dựng các lô đất, các yếu tố ảnh hưởng tới việc biến đổi

môi trường xây dựng, cũng như các phương pháp phân tích. Phần thứ 3 phân tích, mô tả và

giải thích các biến đổi không gian bên ngoài những lô đất trong khu phố Bùi Thị Xuân,

trong mối liên hệ với cấu trúc và đặc trưng các yếu tố thuộc quy mô rộng (Các lô đất) và

hẹp (các công trình lấn chiếm). Nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của lối sống tới những biến

đổi này và minh hoạ những đặc trưng của việc tái quy hoạch không gian bên ngoài được cư

dân sử dụng, so với các cách làm truyền thống của họ.

Page 3: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ khoảng chục năm trở lại đây, thành phố Hà Nội phát triển với tốc độ rất nhanh do

những biến đổi gần đây trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội của Việt Nam. Những biến đổi

này cũng được thể hiện thông qua nơi sinh sống và môi trường xây dựng đô thị. Nhiều biến

đổi hình thái, thể hiện trong các khu phố trung tâm của thủ đô Hà Nội, phần lớn được thực

hiện bởi các cư dân ở đó một cách tự phát, không có quy hoạch và kiểm tra cần thiết để

đảm bảo sự phát triển mang tính bền vững của thủ đô. Ngoài ra, dường như những biến đổi

này phần nhiều do sự giàu lên của các cá nhân, cho phép các gia đình thoả mãn "khát vọng

về nơi ở" vốn chưa xuất hiện trước đây ít lâu. Tuy những biến đổi này chỉ để cải thiện chất

lượng và tiện nghi môi trường sống ở quy mô gia đình, nhưng chúng cũng đe doạ đến chất

lượng môi trường sống ở quy mô khu phố và thành phố ít nhiều về mặt dài hạn. Các khu

phố trung tâm của Hà Nội đã quá chật chội và đông đúc, ảnh hưởng đến sự đa dạng của

môi trường sống và các hình thức cư trú truyền thống.

Theo cách nhìn đó, nghiên cứu này quan tâm tới khu Bùi Thị Xuân, một trong những khu

phố trung tâm của thành phố Hà Nội, và những biến đổi về không gian và hình thái các lô

đất và chính xác hơn là không gian bên ngoài ngôi nhà nằm trong các lô đất đó (sân và lối

đi). Nghiên cứu này cũng phân tích và tìm hiểu những thay đổi này về mặt hình thái và cấu

trúc cũng như về mặt văn hoá, xã hội. Trọng tâm của nghiên cứu là những biến đổi không

gian bên ngoài các lô đất về những lí do sau đây :

- Khu phố Bùi Thị Xuân được người Pháp quy hoạch từ những những năm đầu thế

kỉ XX. Khu vực này bao gồm những lô đất đô thị điển hình cho quá trình đô thị

hoá và phát triển của thành phố vào giai đoạn nêu trên và nhiều lô đất trong số đó

ngày nay vẫn còn mang những dấu ấn của các biến đổi chính trị, văn hoá và xã hội

của Việt Nam;

- Không gian bên ngoài trong các lô đất là những không gian quan trọng đối với

văn hoá Việt Nam bởi chúng là nơi diễn ra các hoạt động truyền thống quan trọng

vẫn còn tồn tại trong cuộc sống hôm nay;

- Không gian bên ngoài là quy mô nhỏ nhất tác động, thay đổi, và cũng có thể là

kiểm soát, lên các lô đất;

- Những biến đổi trong lối sống, giống như đã từng diễn ra trong những thập niên

vừa qua, cũng như những biến đổi hình thái kèm theo những biến đổi lối sống, có

thể cảm nhận được ở nhiều cấp độ trong không gian bên ngoài các lô đất.

Page 4: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Do đó, nghiên cứu này nhằm trả lời 4 vấn đề quan trọng sau đây :

- Đâu là những loại lô đất gốc ban đầu trong khu phố Bùi Thị Xuân và các cấu trúc

không gian đặc trưng của chúng ?

- Đâu là những mối quan hệ giữa cấu trúc các loại lô đất gốc ban đầu và những biến

đổi của không gian bên ngoài ?

- Những biến đổi trong lối sống của người Việt Nam ảnh hưởng như thế nào đến sự

biến đổi của các lô đất và không gian bên ngoài của chúng ?

- Đâu là những nét đặc trưng của việc tái quy hoạch không gian bên ngoài được

người dân sử dụng so với các cách làm truyền thống của họ (đứt quãng, liên tục,

điều chỉnh cho thích hợp)?

Page 5: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

PHẦN THỨ NHẤT

KHU PHỐ BÙI THỊ XUÂN TRONG BỐI CẢNH CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Sự cần thiết nghiên cứu về những biến đổi không gian bên ngoài các lô đất ở

1.1. Giới thiệu1

Vào đầu thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, các nhà quy hoạch đô thị đã gắn sự phát

triển của Hà Nội về phía Tây và phía Nam khu phố buôn bán (khu 36 phố phường). Việc

phát triển thành phố về phía Bắc và phía Đông bị hạn chế bởi dòng sông Hồng. Khu phía

Nam được phát triển từ hồ Hoàn Kiếm chạy dọc theo phố Huế. Trong thời kỳ đầu đô thị

hoá dưới sự đô hộ của Pháp, tức vào cuối thế kỉ XIX, một "khu phố Pháp" đã được xây

dựng. Khu này phía Bắc tiếp giáp với hồ Hoàn Kiếm, phía Nam tiếp giáp với phố

Gambetta (ngày nay là phố Trần Hưng Đạo). Xa hơn nữa về phía Nam, vào thời kỳ đó còn

có các ngôi làng nhỏ nằm xen kẽ giữa các ao hồ và ruộng lúa. Vào đầu thế kỷ XX, người

Pháp tiến hành đợt đô thị hoá lần 2. Họ đã quy hoạch và phát triển khu vực nằm về phía

Nam "khu phố Pháp" để tạo ra một khu phố mới dành cho các viên chức người Việt. Đó là

khu phố Bùi Thị Xuân, đối tượng của công trình nghiên cứu này. Khu này nằm gọn trong

một vùng hình tam giác, phía Bắc giáp phố Nguyễn Du, phía Nam giáp phố Đoàn Trần

Nghiệp, phía Tây giáp phố Huế và phía Đông giáp đường Bà Triệu2 (Hình 1)

1 Phần này phần lớn trình bày kết quả nghiên cứu được thực hiện với sự cộng tác của Danielle Labbé, trong khuôn khổ bài viết "Loại hình hình thái học và cấu trúc không gian xây dựng" (mùa đông 2001), có tên: "Cấu trúc đô thị của khu phố Bùi Thị Xuân" (Bài viết chưa được công bố, Đại học Laval, Trường đại học kiến trúc). Ngoài ra, nó cũng là một phần của cuốn sách sau: Blais, Doan, Labbé và cộng sự (2002) "Những biến đổi hình thái học của khu phố Bùi Thị Xuân ở Hà Nội: thả neo để định hướng cho sự phát triển tương lai của mình", và trong đoạn từ trang 124-139 của cuốn "Hà Nội: Những thách thức hiện tại của một thành phố 1.000 năm", của đồng tác giả François Charbonneau và Đỗ Hậu, do nhà xuất bản Trames ấn hành tại Montreal.

2 Khu phố này bao gồm các phố Mai Hắc Đế, Triệu Việt Vương và Bùi Thị Xuân nằm trên trục Bắc - Nam, và Trần Nhân Tông, Tuệ Tĩnh, Tô Hiến Thành và Đoàn Trần Nghiệp nằm trên trục Đông - Tây.

Page 6: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Hình 1: Ranh giới phường Bùi Thị Xuân (Hình vẽ bởi tác giả, 2001)

Phần này vẽ chân dung của khu phố Bùi Thị Xuân trong mối liên hệ với lịch sử thành phố

Hà Nội. Sự phát triển của khu phố Bùi Thị Xuân được đề cập dưới nhiều góc độ: sự hình

thành và xác lập các đơn vị hình thái, các loại nhà ở nguyên thuỷ, những biến đổi về bối

cảnh kinh tế, xã hội của Việt Nam dẫn đến sự biến đổi của khu phố trong những năm vừa

qua và các hình thức của những biến đổi này được thể hiện trên quy mô toàn khu phố và

quy mô của từng lô đất. Đề tài của nghiên cứu này, tức nghiên cứu về những biến đổi của

không gian bên ngoài (sân và lối đi) của các lô đất trong khu phố Bùi Thị Xuân, sẽ được

giới thiệu sau, tương tự như sự cần thiết của nghiên cứu trong bối cảnh văn hoá, kinh tế, xã

hội hiện nay của Việt Nam. Phần này sẽ kết thúc bằng việc xác định mục đích, các vấn đề

và giả thuyết nghiên cứu.

Page 7: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

1.2. Qúa trình phát triển của khu phố Bùi Thị Xuân

Khu phố Bùi Thị Xuân là một ví dụ điển hình của sự chồng lấn mô hình phát triển của

thành phố thuộc địa (một loạt các phố nằm thẳng đứng trên một lô đất đắp nền) trên lãnh

thổ Việt Nam (mô hình đường - đê với các khu làng nằm ở phần lõi)3. Vào giai đoạn đầu

lúc mới được hình thành vào đầu thế kỷ XX, khu phố Bùi Thị Xuân được biết đến nhiều

hơn dưới tên khu phố công chức và nhà buôn người Việt. Khu phố này xuất hiện vào giai

đoạn cuối của đợt đô thị hoá lần 2 của thành phố Hà Nội4. Vào lúc đó, mục đích của khu

này thuần tuý chỉ là một nơi cư trú5.

Hệ thống đường trong khu phố Bùi Thị Xuân phát triển từ phía Bắc xuống phía Nam (từ

trung tâm thành phố xuống vùng ngoại vi phía Nam). Nhưng do các tuyến phố Huế (tuyến

phố chạy suốt thành phố) và Bà Triệu (nối 3 làng nằm trên khu phố) đã tồn tại từ trước, hệ

thống này cũng phát triển bắt đầu từ hai tuyến phố quan trọng này về phía trung tâm của

khu phố. Trước đó, khi khu phố này được mở rộng dần dần, các vùng trồng lúa và hệ thống

đường trong khu phố, cũng như gần như tất cả lô đất và phần bao bọc xung quanh các ngôi

làng trong khu phố đã biến mất.

Khu phố Bùi Thị Xuân bắt nguồn từ việc chia lô tiến hành từ năm 1900 đến 19306 bởi

chính quyền thuộc địa. Các lô đất trong khu phố bao gồm các loại rất dài và chật giống như

trong khu phố buôn bán (khu 36 phố phường), cũng như các loại ngắn hơn nhưng rộng

hơn, giống như ở trong khu phố thuộc địa nằm kế bên về phía Bắc. Các kiểu nhà trong khu

phố gồm nhà ống truyền thống giống như ở khu phố cổ và các biệt thự. Việc quy hoạch

khu phố được tiếp tục từ 1940 đến 1954 thông qua việc phân lô 4 hòn đảo nằm ở phía

Nam. Việc xây dựng muộn hơn tại các hòn đảo trên được đánh dấu bằng một loại lô đất có

hình dáng khác và bằng một kiểu nhà khác.

3 Địa giới của khu phố Bùi Thị Xuân, tương ứng với sự phân chia hành chính của thành phố Hà Nội, bao gồm các phố Bà Triệu ở phía Tây, phố Huế ở phía Đông, Nguyễn Du ở phía Bắc và Đoàn Trần Nghiệp ở phía Nam. Mạng lưới đường phố của khu phố Bùi Thị Xuân gộp cả hai ngôi làng nằm dọc phố Huế. những ngôi làng này bao gồm những kiểu nhà nông thôn truyền thống đã được thay đổi. Từ một ngôi làng truyền thống chỉ trước năm 1900, Bùi Thị Xuân đã nhanh chóng trở thành khu phố trung tâm của Hà Nội sau năm 1985.4 Theo Logan (2000), lần đô thị hoá thuộc địa lần đầu là một "thời kỳ lịch sử" của sự phát triển quân sự. Lần thứ 2 là thời kỳ di dân tới các thuộc địa, được đánh dấu bởi việc quy hoạch và việc xây dựng khu phố thuộc địa dùng làm nơi cư trú cho các quan chức thực dân Pháp. 5 Trong số 887 mảnh đất trong khu phố, chỉ có khoảng 10 mảnh có xây dựng các toà nhà công sở.6 Mặc dù bản quy hoạch chính quyền thực dân Pháp đưa ra có hình dáng đều đặn, quá trình phân lô của khu phố đã không diễn ra theo "kiểu phương Tây". Nguyên nhân là mảnh đất xây dựng nằm trên một vùng ngập nước, do đó, theo tư duy lô-gích của người Việt Nam, cần phải tôn cao mảnh đất xây dựng bắt đầu từ các mảnh đất ven đường và ven các con đê tự nhiên hay nhân tạo đã được đắp cao, sau đó mới tiến hành nối các mảnh đất thấp hơn.

Page 8: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

1.3. Sự biến đổi của khu phố Bùi Thị Xuân trong bối cảnh kinh tế, xã hội mới

Do vậy, dưới thời thuộc Pháp đến năm 19427, các đơn vị hình thái trong khu phố Bùi Thị

Xuân đã có sự phát triển đồng đều. Sau đó, một số sự kiện chính trị, xã hội đã làm đảo lộn

khu phố cũng như nhiều khu phố khác của Hà Nội. Hai giai đoạn biến đổi chính, tương

ứng với các biến đổi quan trọng trong cấu trúc kinh tế, xã hội của Việt Nam, đã để lại một

ảnh hưởng lớn. Những biến đổi này được phản ánh trong hình dáng đô thị của khu phố Bùi

Thị Xuân mà ngày này chúng ta vẫn còn có thể nhận thấy. Đó là chính sách phân nhỏ các

lô đất hiện có cho nhiều gia đình từ giữa những năm 1960, và chính sách mở cửa kinh tế,

hay còn gọi là Đổi mới, vào năm 1986.

1.4. Sự cần thiết nghiên cứu những biến đổi không gian bên ngoài lô đất trong khu

phố Bùi Thị Xuân

Những mục trên minh hoạ tầm ảnh hưởng và tác động của hai chiến lược quan trọng nhằm

làm biến đổi các lô đất hiện hữu (xây dựng lại hoàn toàn các lô đất hoặc biến đổi từng phần

bằng cách xây dựng các khu nhà tách biệt hoặc nhà phụ nối với khu nhà chính trên các

khoảng không bên ngoài thường gắn kết với các lô đất ở của người Việt Nam. Các chiến

lược này cũng liên quan chặt chẽ với những biến đổi trong lối sống hiện nay của người

Việt Nam (xem Phần thứ 2).

Quả vậy, những khoảng không gian bên ngoài hoàn toàn thuộc về tổ chức không gian

chung của lô đất đô thị. Ngôi nhà và những khoảng không gian bên ngoài phải được xem

xét đồng thời bởi các biến đổi đối với một yếu tố này sẽ có tác động lên yếu tố kia. Do bản

nghiên cứu này đề cập đến việc biến đổi không gian bên ngoài những lô đất tại khu phố

Bùi Thị Xuân, cho nên điều quan trọng là phải hiểu ý nghĩa và cách sử dụng của các không

gian bên ngoài trong tổ chức không gian trên một lô đất ở nông thôn và ở thành thị mà điển

hình là ở khu phố cổ của Hà Nội (khu 36 phố phường).

1.5. Mục đích, vấn đề và giả thiết của nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm hiểu cách mà những người dân trên phố Bùi Thị Xuân sử dụng, biến

đổi và tổ chức lại không gian cư trú của mình, cũng như là các yếu tố văn hoá, xã hội, kinh

tế và bên ngoài ảnh hưởng đến các hình thức cư trú hiện nay. Bằng cách chỉ quan tâm đến

các yếu tố ảnh hưởng đến việc biến đổi không gian bên ngoài các lô đất, nghiên cứu này 7 Tuy nhiên, cũng cần phải nhớ rằng người Pháp đã bị thất bại tại Việt nam năm 1954. Kể từ đó, chính phủ Việt Nam lấy lại quyền kiểm soát đất nước.

Page 9: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

cũng nhằm giải thích các nguyên nhân của những biến đổi này để định hướng chúng một

cách thích hợp và lâu dài trong tương lai. Chúng ta hãy nhớ rằng không gian bên ngoài các

lô đất ở nông thôn và thành thị là những nơi có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền văn hoá

của người Việt Nam và lối sống của họ. Còn tại khu phố Bùi Thị Xuân, các khoảng không

gian bên ngoài này hiện đã có rất nhiều biến đổi.

1.5.1 Mục đích nghiên cứu

- Hiểu cấu trúc của các lô đất hiện nay tại khu phố Bùi Thị Xuân, nhằm xác định

cấu trúc và các yếu tố riêng thuộc về các lô đất nguyên thuỷ và xếp loại chúng

theo từng dạng và hệ thống lô-gích;

- Nghiên cứu các biến đổi cấu trúc của những lô đất nguyên thuỷ;

- Hiểu mối liên hệ giữa các loại lô đất nguyên thuỷ và những biến đổi theo thời

gian;

- Hiểu mối liên hệ giữa các ngôi nhà và các khoảng không gian bên ngoài trên các

lô đất;

- Hiểu nguyên nhân biến đổi không gian bên ngoài của các lô đất;

- Hiểu nguyên nhân biến đổi lối sống của người Việt Nam và những ảnh hưởng của

chúng đối với việc biến đổi không gian bên ngoài;

- Hiểu những mối liên hệ giữa việc biến đổi không gian bên ngoài và sự gia tăng

mật độ dân cư của khu phố Bùi Thị Xuân.

1.5.2. Những vấn đề nghiên cứu

- Đâu là những loại lô đất nguyên thuỷ tại khu phố Bùi Thị Xuân ?

- Mối liên hệ giữa cấu trúc của các loại lô đất nguyên thuỷ và những biến đổi không

gian bên ngoài ?

- Những biến đổi trong lối sống của người Việt Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối

với các dạng biến đổi của những lô đất ở và không gian bên ngoài của chúng?

- Các nét đặc trưng của việc tái quy hoạch không gian bên ngoài được người dân sử

dụng so với các cách làm truyền thống của họ (đứt quãng, liên tục, điều chỉnh cho

phù hợp)?

Page 10: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

1.5.3. Các giả thuyết nghiên cứu

- Các dạng lô đất nguyên thuỷ ảnh hưởng đến các hình thức biến đổi lô đất ở và

không gian bên ngoài của chúng.

- Những biến đổi trong lối sống là nguyên nhân chính dẫn đến việc biến đổi các lô

đất, các khu nhà và không gian bên ngoài của chúng.

Hình 2: Các giả thuyết nghiên cứu (Hình vẽ bởi tác giả, 2002)

Tác độngKIỂU DẠNG CỦA LÔ ĐẤT NGUYÊN THỦY

CÁC VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI LỐI SỐNG

Lý do

CÁC HÌNH THỨC BIẾN ĐỔI CỦA LÔ ĐẤT và

HÌNH THỨC BIẾN ĐỔI CÁC KHÔNG GIAN BÊN NGOÀI

Page 11: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

PHẦN THỨ 2

QUY MÔ KHÁI NIỆM, LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Giới thiệu

Chương này đề cập đến quy mô khái niệm và lý thuyết của nghiên cứu, cũng như phương

pháp tiến hành. Quy mô khái niệm và lý thuyết đề cập đến hai chủ đề chính sau: 1)Các mặt

văn hoá, xã hội ảnh hưởng tới việc thiết kế, xây dựng và sửa chữa nơi ở và 2) các yếu tố

ảnh hướng đến việc biến đổi môi trường xây dựng.

Một mặt, về mặt văn hoá - xã hội, trong một nền văn hoá, việc xây dựng nhà có liên quan

chặt chẽ đến lối sống và những giá trị của nền văn hoá đó, còn hơn cả các đặc trưng của

môi trường bên ngoài. Hơn nữa, trường hợp đặc biệt của nền văn hoá Việt Nam còn cho

phép minh hoạ cách thức mà các liên hệ này được thực hiện, bằng sự biến đổi hiện nay

trong lối sống (các lối sống đang chuyển đổi). Hiện nay, các quan niệm truyền thống và

hiện đại vẫn song song tồn tại và chúng làm biến đổi lối sống nông thôn truyền thống cũng

như lối sống đô thị. Các đặc trưng ảnh hưởng đến việc quy hoạch và sử dụng không gian

bên trong ở Việt Nam được chúng tôi giới thiệu để nhằm làm rõ sự ảnh hưởng của lối sống

phương tây đối với nền văn hoá Việt Nam. Do lối sống biến đổi và do xuất hiện các nhu

cầu mới của các gia đình, bối cảnh văn hoá xã hội mới này đòi hỏi những loại dịch vụ mới

và việc chỉnh trang không gian cư trú.

Mặt khác, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc biến đổi môi trường xây dựng nhằm

giải thích sự ảnh hưởng của sự tăng dân số mới đây và ở thời điểm hiện nay trong các khu

phố trung tâm của Hà Nội, trong đó có khu phố Bùi Thị Xuân, trên 3 cấp độ (hay quy mô)

của môi trường xây dựng : phưòng (và thành phố), lô đất và các không gian bên ngoài của

lô đất. Các quan niệm về hình dáng và kiểm soát hình dáng và địa điểm, giống như đã

được Habraken (1998) đưa ra, cũng như việc phân tích do Hillier (1984) đưa ra, sẽ làm cơ

sở cho giải thích này.

Cuối cùng, phần này kết thúc bằng phương pháp nghiên cứu ưu tiên. Phương pháp này

muốn cải biên các phương pháp loại hình-hình thái và cấu trúc, trong đó các giai đoạn

chính sẽ được bàn bạc nhằm xác định đúng các đặc trưng của phương pháp được lựa chọn

về việc biến đổi không gian bên ngoài các lô đất trong khu phố Bùi Thị Xuân ở Hà Nội.

Page 12: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

2.2. Ứng dụng các phương pháp để nghiên cứu

Các phương pháp phân tích quá trình biến đổi hình dáng đô thị và nhà ở có nhiều các mô tả

khác nhau dưới những quan điểm khác nhau. Trong trường hợp này nhiều cách nhìn nhận

khác nhau cùng được ứng dụng với các mẫu nghiên cứu. Chính vì vậy, mục tiêu chính là

nhận dạng các phương thức biến đổi diễn ra ở các không gian bên ngoài ngôi nhà trong các

lô đất của khu vực Bùi Thị Xuân , đồng thời với sự liên quan giữ những biến đổi đó với

các kiểu dạng lô đất , dưới tác động của lối sống và các vấn đề khác

Các phương pháp trước đây đã dược sử dụng, với các mức độ khác nhau, được tổng hợp

thành một phương pháp mang tính khoa học trong nghiên cứu này. Nội dung phương pháp

này được trình bay chi tiết trong phần 3, đưa ra các kết quả quan trọng của nghiên cứu. Sự

tác động của cấu trúc hình thái trong nghiên cứu đã cho kết quả rất khả quan trong việc

nhận dạng các biến đổi của các mẫu lô đất điển hình cơ bản (nguyên thuỷ) của phường Bùi

Thị Xuân. Phương pháp này bổ xung vào các kết quả đã nghiên cứu của Vernez-Moudon

(1986) và Habraken (1998) với cùng những câu hỏi tương tự. Tác dụng của phương pháp

phân tích syntaxique chỉ ra chính vào các giải thích về mối quan hệ gần gũi và mật thiết

giữa các không gian nguyên thuỷ và các biến đổi: cách này cũng chỉ ra cách nhận dạng các

lô đất nguyên thủ. Các phân tích cấu trúc hình thái và syntaxique chính là phương pháp

ứng dụng và có thể chính xác hơn là phương pháp nghiên cứu kép cho phép xác định chính

xác hơn các mối quan hệ giữa các chức năng xử dụng, có thể đánh giá các tác động thay

đổi trong lối sống của người Việt nam với các biến đổi lý tính của các lô đất hiện nay.

Với chủ đề này, các nghiên cứu của Habraken cho hiểu được môi trường xây dựng một

cách đặc biệt thích đáng. Trật tự hình thái biểu hiện dưới các cấp độ khác nhau của cấu trúc

trong tổng thể, trật tự của không gian cho phép nhận ra các giới hạn tự nhiên của lãnh thổ,

các nhận biết về hình thức giải thích các chức nang sử dụng về hkiểu và tính hệ thống được

biểu hiện ra ngoài. Một câu hỏi về sự biểu hiện này là vấn đề lớn về mặt văn hoá của con

người khi xử dụng các không gian. Các vấn đề trên đã được trình bày dưới các hình thức

khác nhau nhưng hoàn chỉnh, giữa các yếu tố khác trong bói cảnh văn hoá xã hội tổng thể

(Rapoport 1969 và 1977; Levy 1997) và bản chất tinh thần của môi trường ở của người

Việt trong bối cảnh thay đổi hay trong sự biến đổi của lối sống (Trần Hoài Anh 1999;

Trinh và Nguyễn 2001; Boothroyd và Phạm 2000).

2.3. Mẫu lô đất được nghiên cứu

Page 13: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Mẫu cơ bản được lựa chọn cho nghiên cứu này tương ứng với mẫu đã được lấy vào mùa hè

năm 2000 bởi nhóm nghiên cứu của "Dự án đối tác đại học về hợp tác và phát triển" mang

tên "Sự gia tăng mật độ dân cư tại các khu phố của Hà Nội: hình thành các nhân tố thông

qua cách tiếp cận tham dự và thích hợp". Nhằm đảm bảo tính đại diện tốt nhất, mẫu này đã

thực hiện qua hai giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất nhằm thực hiện việc chụp ảnh lấy mẫu bề mặt bên ngoài các toà nhà

trên toàn bộ 887 mảnh đất trong khu phố Bùi Thị Xuân. Bước tiếp theo là tạo ra một mẫu

tiêu biểu nhất có thể được cho các giai đoạn phong cách đã đánh dấu sự phát triển của khu

phố. Có 2 lý do chính dẫn đến việc lựa chọn này. Trước hết, điều quan trọng đối với nhóm

nghiên cứu là xem xét tính chất lịch sử và di sản của khu phố, và do đó, xem xét việc phát

huy giá trị các lô đất nguyên thuỷ của nó. Thứ 2, đặt giả thuyết rằng phong cách gốc ban

đầu của một lô đất có thể ảnh hưởng đến cách thức biến đổi của nó theo thời gian. Mẫu thứ

nhất đã được lấy bằng cách giữ lại có tính toán một số lượng nhà nào đó, theo các nét

phong cách quan trọng đã được xác định và tỷ lệ với tổng số lượng của từng loại phong

cách trong dân gian.

Hình 3 Bối cảnh xã hội và sự biến đổi nhà ở trong khu vực phường Bùi Thi Xuân (Hình vẽ bởi tác giả, 2002)

Mẫu gốc ban đầu bao gồm 57 mảnh đất8, 27 ngôi nhà được xây dựng từ thời kỳ thuộc địa

(Hình 5), 3 ngôi nhà hiện đại (Hình 6), 11 ngôi nhà mang phong cách truyền thống Việt

Nam (Hình 7), 2 ngôi nhà mang phong cách "miền núi châu Âu" (Hình 8), 8 ngôi nhà

mang phong cách đương đại (Hình 9) và 6 ngôi nhà đã bị biến thái quá nhiều khiến không

thể nhận ra phong cách đích thực của chúng. Những mảnh đất này đã được vẽ mẫu và

chụp ảnh toàn bộ, và các chủ nhà đã trao đổi với nhóm nghiên cứu.

8 Đây là những mảnh đất có thể đã cung cấp đầy đủ tư liệu về giai đoạn 4 tháng trước khi diễn ra điều tra. Tuy nhiên, có 2 mảnh đất bị loại ra khỏi mẫu ban đầu : mảnh thứ nhất quá phức tạp và thông tin không đầy đủ, mảnh thứ 2 vì đã được chuyển đổi thành văn phòng làm việc và từ đó chưa bao giờ có người cư trú.

Trước 1900

Khu vực cận trung tâm

Hiện nay

Khu vực trung tâm

Khu vực ngoại ô của thành phố

1954Cuối thời kỳ Pháp đô hộ

1985 Chính sách kinh tế mở cửa

1902 Đô thị hoá lần thứ nhất

Khu nhà ở chia lô hỗn hợp

Khu nhà ở thuần tuý nhưng có sự gia tăng dân số vào các lô đất

Khu nhà ở và thương mại dần biến đổi bởi sự tăng mật độ xây dựng

Nhà ở nông thôn truyền thống

Làng xóm cũ

Page 14: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Hình 4: Các dạng nhà ở trong lịch sử phát triển của khu vực Bùi Thị Xuân (Hình vẽ bởi tác giả, 2002)

1918 1925 1936 19541902

Tái xây dựn lại các ngôi nhà cũ

Xây dựng các mẫu nhà kiểu thực dânhiện đại.

Hoả hoạn lớn Hoả hoạn lần thứ 2

Đô thị hoá lần thứ nhất

Đô thị hoá lần thứ 2

Hoả hoạn lớn

Kiểu nhà truyền thống lợp ngói hoạc tranh

Các ngôi nhà kiểu «thực dân - truyền thống»

Nhà kiểu truyền thống 1 tầng xây bằng gạch

Các ngôi nhà kiểu “thực dân - hiện đại”

Nhà ở nông thôntruyền thống

Chia nhỏ các lô đất để bán và xây dựng các nhà lô kiểu truyền thống 1 tầng

Nâng tầng các nhà lô1 tầng kiểu truyền thốngXây dựng các mẫu nhà kiểu thực dân

1918-1925 1925-1936 1936-1954 Sau năm 1954Avant 1902

Page 15: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Hình 5: Các ngôi nhà mang phong cách thuộc địa (1900-1940)

Hình 6: Các ngôi nhà «hiện đại», mang phong cách art-déco (1930-1954)

Hình 7: Các ngôi nhà mang phong cách truyền thống Việt Nam (1930-1975)

Page 16: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Hình 8: Các ngôi nhà mang phong cách "miền núi châu Âu"

Hình 9: Các ngôi nhà mang phong cách đương đại (từ 1985 đến nay).

Giai đoạn thứ 2 nhằm tạo ra một mẫu riêng cho nghiên cứu này. Giai đoạn này dựa vào các

ghi chép của 57 mảnh đất được lựa chọn trong giai đoạn trước, tuy nhiên cũng chú trọng

đến việc tổ chức không gian của các mảnh đất. Do đó, chỉ giữ lại những mảnh đất tiêu

biểu cho các mẫu nguyên thuỷ của khu phố mà cấu trúc không gian vẫn có thể nhận ra

được mặc dù có những biến đổi kể từ khi bắt đầu quá trình đô thị hoá đến thời điểm hiện

tại9. Mẫu cuối cùng bao gồm 43 lô đất có những đặc trưng sau đây : mặt tiền nhìn ra phố,

mang phong cách thuộc địa hoặc Việt Nam, và là nơi sinh sống của một hoặc nhiều gia

đình.

9 Các mảnh đất có thông tin hình ảnh không đầy đủ và do đó không cho phép phân tích mọi mặt cũng đã bị loại ra khỏi mẫu cuối cùng. Các mảnh đất nằm ở góc các đường phố bị loại ra khỏi mẫu vì chúng không điển hình, cũng tương tự như các mảnh đất có một phần đã bị sửa chữa đến mức không còn tiêu biểu cho khu phố, và các ngôi nhà đương đại (xây dựng sau năm 1985), bởi vị chúng đã làm thay đổi hoàn toàn các mảnh đất nguyên thuỷ. Các mảnh đất đó dĩ nhiên không còn bất kỳ dấu vết chuyển đổi nào khiến cho nghiên cứu này quan tâm.

Page 17: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Hình 10: một ví dụ mẫu các lô đất của phường Bùi Thị Xuân lựa chọn cho nghiên cứu

2.4. Phạm vi phân tích các lô đất nguyên thuỷ tại khu phố Bùi Thị Xuân

Phạm vi phân tích của nghiên cứu này được xác định dựa theo lý thuyết của Habraken và

có liên hệ với các phương pháp phân tích loại hình-hình thái và cấu trúc, theo 3 cấp độ

khác nhau có nguồn gốc trực tiếp từ đối tượng của nghiên cứu này. Các cấp độ này cũng có

mối liên hệ chặt chẽ với cấu trúc của các lô đất trong khu phố Bùi Thị Xuân (Bảng 1). Đó

là:

Cấp độ 1: lô đất,

Cấp độ 2: không gian bên ngoài lô đất,

Cấp độ 3: các yếu tố lấn chiếm (trong không gian bên ngoài).

Cấp độ 1 là cấp độ cao nhất trong cấu trúc thứ bậc của đám đất xây nhà : theo nhận xét của

Habraken, nó có tính "nổi trội" so với các cấp độ thấp hơn như cấp độ 2 (không gian bên

ngoài) và cấp độ 3 (các yếu tố lấn chiếm). Cấp độ 2 là cấp độ trung gian của một cấu trúc

thứ bậc: nó hấp thu những ảnh hưởng đến từ cấp độ cao hơn (cấp độ 1 - lô đất) và nổi trội

so với cấp độ 3. Cuối cùng, cấp độ 3, cấp độ của các yếu tố lấn chiếm không gian bên

ngoài, là cấp độ thấp nhất, trong khi đó ở bên trong chính cấp độ này, các yếu tố có ảnh

hưởng qua lại lẫn nhau.

Page 18: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Bảng 1: Phạm vi phân tích các lô đất nguyên thuỷ tại khu phố Bùi Thị Xuân

Cấp độ 1: Lô đất Cấp độ 2: không gian bên ngoài lô đất

Cấp độ 3: các yếu tố lấn chiếm

Mô tả 1. Các dạng lô đất 1. Sân (trước, giữa; sau)2. Lối đi (trước, sau)

1. Nhà vệ sinh2. Bếp3. Cầu thang4. Nhà tắm5. Chỗ đi tiểu6. Bể nước

Các mối liên hệ

1. Giữa dạng lô đất và mặt cắt của chúng

2. Giữa dạng lô đất và cấu trúc sân/lối đi

1. Giữa sân và các yếu tố xây dựng trên đó (Nhà vệ sinh; Bếp; Nhà tắm; Chỗ đi tiểu; Bể nước)

2. Giữa lối đi và các yếu tố xây dựng trên đó (Cầu thang)

1. Giữa các yếu tố xây dựng trên đó

Các biến đổi 1. Của từng dạng lô đất 1. Trong sân2. Trên các lối đi

2. Các yếu tố xây dựng trên đó3. Tính tầng bậc của các yếu

tố xây dựng trên đó

Từng loại cấp độ sẽ được nghiên cứu dưới 3 mặt sau đây: mô tả, các mối liên hệ và các

biến đổi. Việc mô tả nhằm xác định cấp độ phân tích: các lô đất nguyên thuỷ, không gian

bên ngoài hay các yếu tố lấn chiếm. Các định nghĩa này bắt nguồn từ các "mối liên hệ"

giữa các yếu tố của mỗi cấp độ và các mối liên hệ giữa những yếu tố thuộc cấp độ khác

nhau. Do đó, mỗi kiểu mảnh đất sẽ được xác định bằng các yếu tố của nó (sân và lối đi),

cũng như bởi cấu trúc sân-lối đi của nó. Những mối liên hệ (giữa các yếu tố bên trong của

cùng một cấp độ và giữa các yếu tố của các cấp độ khác nhau) giải thích ảnh hưởng của

các kiểu lô đất lên một không gian bên ngoài riêng biệt (sân và lối đi) và những biến đổi

của nó. Cuối cùng, các biến đổi là hệ quả của hai mặt: mô tả và mối liên hệ. Đó là chủ đề

của nghiên cứu này, tuy nhiên với một sự chú ý đặc biệt đối với những biến đổi trong thứ

bậc của các yếu tố lấn chiếm. Bởi vì, theo như gọi ý của Hillier (1984: 151): "các mối liên

hệ chiều sâu nhất thiết phải bao hàm khái niệm không đối xứng bởi các không gian có thể

chỉ sâu hơn các không gian khác nếu phải đi qua các không gian trung gian để đến được

đó".

Do vậy, vấn đề thứ bậc (hay chiều sâu) của các không gian có liên quan trực tiếp tới những

biến đổi về hình dạng bên ngoài của không gian bên ngoài và các mảnh đất. Và, như

chúng ta đã biết ở các mục trước, những biến đổi về hình dạng bên ngoài của một lô đất có

thể giải thích về mặt văn hoá, xã hội : điều đó có nghĩa là những biến đổi bên ngoài này

cũng có thể được giải thích bởi biến đổi trong lối sống.

Page 19: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

PHẦN THỨ 3

NHỮNG BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN BÊN NGOÀI ĐỐI VỚI CÁC MẢNH ĐẤT TRONG

KHU PHỐ BÙI THỊ XUÂN

Các kết quả nghiên cứu

3.1. Giới thiệu

Phần này mô tả và tìm cách diễn giải các biến đổi không gian bên ngoài tại các lô đất tại

khu phố Bùi Thị Xuân từ giai đoạn nguyên thuỷ đến thời điểm hiện tại. Do không có các

hình dáng chính xác của các khu đất lúc khởi thuỷ, chúng tôi đã tìm cách suy luận hình

dáng nguyên thuỷ của chúng từ hình dáng hiện tại, bằng cách tiến hành phân tích cấu trúc.

Sau đó, chúng tôi lập một hệ thống loại hình các lô đất này giống như ở giai đoạn sơ khai,

trong đó đặc biệt lưu ý đến hệ thống không gian bên ngoài. Việc cố gắng tái tạo lại lô đất

nguyên thuỷ và phân tích loại hình học của nó là chủ đề của phần này.

Từ việc tái tạo lại này, phần 2 của chương xem xét các biến đổi không gian bên ngoài.

Việc này được tiến hành dựa trên 3 cấp độ khác nhau mô tả tính chất liên tục của tổ chức

không gian: 1) Lô đất nguyên thuỷ theo từng kiểu, từng thể loại, hình dáng của chúng và

mối liên hệ của chúng với các yếu tố của các cấp độ dưới ; 2) cấu trúc tổng thể của không

gian bên ngoài, theo các kiểu sân và lối đi khác nhau và mối liên hệ của chúng với các yếu

tố của các cấp độ cao hơn và thấp hơn; 3) các yếu tố lấn chiếm không gian bên ngoài, theo

đặc trưng của chúng, cách chúng biến đổi không gian bên ngoài và mối liên hệ giữa chúng

với các yếu tố của cấp độ cao hơn.

Phần thứ 3 nghiêng về diễn giải những mối liên hệ giữa những biến đổi khác nhau quan sát

được trong các không gian bên ngoài, cấu trúc thứ bậc của chúng và lối sống của các gia

đình Việt Nam. Hiểu rõ hơn qúa trình biến đổi dưới góc độ này, có thể xác định và làm

sáng tỏ các lý do ủng hộ chúng.

3.2. Tìm các lô đất nguyên thuỷ: tiến tới việc nghiên cứu các đặc trưng.

Do không có thông tin về hình dáng của từng lô đất khởi thuỷ, chúng tôi đã sử dựng một

phương pháp cho phép dựng lại một cách tốt nhất hình dáng của các lô đất với các thông

tin thu thập được về các giai đoạn phát triển của khu phố và về tình trạng của 43 lô đất

được nghiên cứu, ví dụ như các ghi chép được thực hiện vào năm 2000. Phương pháp này

Page 20: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

phải tính đến số lượng nhỏ lô đất trong mẫu nghiên cứu, giai đoạn xây dựng và các biến

đổi của chúng theo thời gian.

Hình 11: Sơ đồ phân tích syntaxique một lô đất khu Bùi Thị Xuân (Hình vẽ của các giả, 2002)

Nỗ lực tái tạo lại lô đất nguyên thuỷ được thực hiện qua ba bước. Trước hết, ghi chép về

từng lô đất trong mẫu nghiên cứu được phân tích về mặt cấu trúc theo phương pháp của

Hillier. Việc phân tích này, kết hợp với việc xem xét tỉ mỉ toàn bộ thông tin có được, đã

cho phép xây dựng hình ảnh thể hiện có thể chấp nhận được của các lô đất vào thời điểm

chúng được xây dựng. Tiếp đó, việc phân tích loại hình-hình thái học đã cho phép lập lại

một hệ thống loại hình các lô đất nguyên thuỷ giống như đã được tái tạo lại trước đó. Hệ

thống loại hình này được xây dựng dựa trên cấu trúc không gian bên ngoài (sân và lối đi).

Cuối cùng, phương pháp tiếp cận của Habraken đã cho phép lập một mẫu chủng loại tổ

chức không gian của tất cả các lô đất, và đặc biệt là của hệ thống không gian bên ngoài10.

10 Đối tượng của bài viết này là sự biến đổi không gian bên ngoài các mảnh đất ở, nỗ lực tái tạo lại các ngôi nhà nguyên thuỷ và tiểu luận về hệ thống các kiểu được tập trung vào chủ đề này. Tuy nhiên, cần nhớ rằng phương pháp đưa ra có thể đóng góp rất tốt vào việc phân tích các mặt khác của mảnh đất, nhất là việc tổ chức các không gian bên trong.

Page 21: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Hình 12: hình vẽ lô đất hiễn nay đã biến đổi và lô đất nguyên thủy tái tạo lại (hình vẽ của tác giả, 2002)

3.3. Không gian bên ngoài

Phần mục này quan tâm đến việc tổ chức cấu trúc không gian bên ngoài (sân và lối đi),

cũng như các biến đổi có thể đặc trưng cho các dạng khác nhau của nó. Mục này giới thiệu

một mẫu chủng loại mới đặc trưng cho các không gian bên ngoài. Theo cách tiếp cận của

Habraken, mẫu chủng loại này giờ đây nhấn mạnh tới các mặt "riêng" hay "chung" của các

không gian bên ngoài (thuật ngữ này theo Habraken có nghĩa là "chung" hoặc "dùng

chung"). Chính trên bình diện biến đổi cấu trúc, mối liên hệ và bản chất của không gian

bên ngoài mà các dạng biến đổi sẽ được thảo luận.

Page 22: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Hình 13: Các không gian «công cộng» sử dụng chung cho nhiều gia đình trong cùng lô đất (hình vẽ của tác giả, 2002).

3.4. Xác định "kiểu" biến đổi không gian bên ngoài trong mối liên hệ với lối sống của

người Việt Nam.

Mẫu nghiên cứu gồm 43 lô đất được tái tạo lại thuộc 10 dạng lô đất nguyên thuỷ nhằm lập

một hệ thống loại hình gốc ban đầu có thể chấp nhận được. Những lô đất này cũng được

phân chia ra thành 11 dạng căn cứ vào thực trạng của chúng hiện nay sau khi biến đổi. Có

6 dạng chung cho 2 loại đất và 4 trong số chúng có số lượng lô đất lớn nhất trong 2 loại

đất: đó là các dạng: En+Pa+Co+Ba, En+Co+Pa+Co+Ba, En+Pa+Co+Pa+Co và

En+Pa+Co+Pa. Do đó, 4 dạng lô đất này có thể được xem như là các dạng quan trọng hay

"điển hình" của mẫu nghiên cứu, và cũng có thể là điển hình cho khu phố Bùi Thị Xuân.

Theo chúng tôi, có vẻ hợp lý nếu dành thời gian nhiều hơn để nghiên cứu các dạng này.

Page 23: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Kiểu điển hình En+Pa+Co+Ba (n=14)

Kiểu điển hình En+Co+Pa+Co+Ba (n=7)

Kiểu điển hình En+Pa+Co+Pa+Co (n=7)

Kiểu điển hình En+Pa+Co+Pa (n=5) Hình 14: Các kiểu cấu trúc lô đất điển hình của phường Bùi Thị Xuân (Hình vẽ của tác giả, 2002)

Chúng tôi ý thức được rằng số lượng lô đất hạn chế trong mẫu nghiên cứu không cho phép

phổ cập cách diễn giải và những nhận xét gợi ý trên đây. Tuy nhiên, toàn bộ kết quả nghiên

cứu trước đó cho phép xác định một số mẫu (hay hình dáng) biến đổi không gian bên ngoài

vốn có quan hệ hết sức đặc biệt với lối sống (truyền thống, đang biến đổi hoặc đang

chuyển tiếp) của người Việt Nam và, do đó, làm sáng tỏ các hoạt động và sự kiểm soát của

các tác nhân này đối với các lãnh thổ mà họ lấn chiếm, biến đổi và chiếm hữu. Mục cuối

cùng này giới thiệu 4 dạng đất điển hình theo cách thức biến đổi của sân và lối đi, thông

qua việc xem xét rõ hơn các mô hình tổ chức không gian bắt nguồn từ việc này, cũng như

Page 24: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

xem xét mối liên hệ của chúng với các hình thức cư trú truyền thống và với nền văn hoá

Việt Nam.

Hình 15: Các dạng cấu trúc (sân -lối đi) của các lô đất nguyên thuỷ (n=43) (Hình vẽ của tác giả, 2002)

Page 25: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

KẾT LUẬN

Nghiên cứu này đã đưa ra một phương pháp phân tích mới. Phương pháp này được xây

dựng thông qua việc cải biên các phương pháp loại hình-hình thái học, phân tích cấu trúc

(của Hillier) và phân tích cấu trúc (của Habraken). Phương pháp mới này cho phép xây

dựng hệ thống loại hình có thể chấp nhận được đối với các lô đất nguyên thuỷ tại khu phố

Bùi Thị Xuân, giống như được tái tạo lại từ các lô đất hiện hữu của mẫu nghiên cứu. Nó

cũng cho phép phân tích những biến đổi không gian bên ngoài của các lô đất này theo một

quan điểm xã hội có liên quan đến lối sống của người dân sinh sống trên các lô đất này.

Việc tái tạo lại các lô đất nguyên thuỷ đã cho phép đưa ra giả thuyết nghiên cứu thứ nhất,

đó là mẫu đất nguyên thuỷ ảnh hưởng đến việc biến đổi của lô đất và các không gian bên

ngoài của nó. Điều đó cũng tương tự như sơ đồ-tổng hợp đã minh hoạ, đối với 4 loại mẫu

lô đất nguyên thuỷ quan trọng và theo 3 cấp độ của lô đất (theo phân tích cấu trúc của

Habraken), các mô hình biến đổi không gian bên ngoài thông dụng nhất. Chúng ta cũng

thấy rằng những biến đổi không gian bên ngoài (sân và lối đi trên các lô đất ở tại khu phố

Bùi Thị Xuân dẫn đến sự gia tăng tình trạng lấn chiếm đất đai. Do nhiều yếu tố lấn chiếm

khác nhau do các hộ gia đình thực hiện, sân và lối đi đã bị giảm diện tích và được tái tổ

chức lại. Hậu quả là các biến đổi này làm biến đổi hình dạng bên ngoài các lô đất ở. Tuy

nhiên, chúng ít làm biến đổi cấu trúc sân-lối đi của các lô đất ở. Nếu có điều đó xảy ra,

thường là để tìm lại một cấu trúc sân-lối đi nguyên thuỷ khác.

Giả thuyết nghiên cứu thứ 2 nhằm chỉ ra rằng những biến đổi trong lối sống của người Việt

Nam là nguyên nhân chính dẫn đến sự biến đổi các lô đất ở và đặc biệt là không gian bên

ngoài của chúng. Do đó, vấn đề lối sống được tiếp cận theo hai yếu tố chính: các mặt xã

hội và văn hoá. Các lý thuyết của Rapoport và của Habraken đặc biệt hữu ích để định

hướng khía cạnh này của nghiên cứu.

Không nghi ngờ gì nữa, việc nhiều gia đình sống trên cùng một lô đất nguyên thuỷ là sự

thay đổi xã hội quan trọng có ảnh hưởng đến việc biến đổi bên ngoài các lô đất ở, nhất là

không gian bên ngoài. Mặc dù nghiên cứu đã chỉ ra rằng không có mối liên hệ trực tiếp nào

giữa số lượng gia đình cùng sinh sống trên một lô đất với việc tăng cường xây dựng bằng

cách biến đổi không gian bên ngoài (quan hệ này có thể được chuyển nhượng bằng thu

nhập của các gia đình), mật độ cư trú trên một lô đất bị ảnh hưởng bởi số lượng các gia

Page 26: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

đình11. Việc tăng cường xây dựng thường bắt nguồn từ đó, do những yếu tố lấn chiếm lên

không gian bên ngoài các lô đất ở. Điều này rất quan trọng để kiểm soát tốt hơn mật độ cư

trú và mật độ xây dựng trong khu phố, nhằm giữ gìn không gian bên ngoài.

Ngoài ra, nhiều biến đổi quan sát được bắt nguồn từ các biến đổi trong lối sống gia đình

Việt Nam, cũng như trong khát vọng cư trú của họ, đúng như giả thuyết gốc ban đầu của

chúng tôi. Trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay của Việt Nam, vốn đang mang lại nhiều

tự do hơn cho dân chúng, người Việt Nam mong muốn cải thiện tiện nghi và hiện đại hoá

các căn buồng trong lô đất của mình. Những biến đổi như vậy ảnh hưởng trở lại lối sống,

nhất là vai trò và vị trí của những căn phòng trong căn nhà. Do vậy, chúng tôi thấy rằng

chiều sâu (hay vị trí cấp bậc) của các yếu tố lấn chiếm mới (đặc biệt là bếp, phòng tắm và

nhà vệ sinh) thường rất hay được thay đổi. Ngày nay, phần lớn chúng được đặt ở một vị trí

phía ngoài hơn trong cấu trúc của lô đất ở so với vị trí nguyên thuỷ của chúng trên lô đất

đô thị truyền thống. Vị trí của chúng trong cấu trúc sân-lối đi của các lô đất nguyên thuỷ do

đó đã được thay đổi.

Mặt khác, cũng còn tồn tại các lối sống truyền thống trong bối cảnh mới hiện nay. Các lối

sống này được thể hiện đặc biệt ở các không gian bên ngoài. Các biến đổi do các hộ gia

đình tiến hành bằng cách xây thêm nhiều yếu tố lấn chiếm khác nhau cho thấy mức độ

kiểm soát của họ đối với lô đất. Về hình dạng bên ngoài, nếu các biến đổi tự phát này thoạt

nhiên có vẻ như lộn xộn và thiếu tổ chức, việc nghiên cứu kĩ bản nghiên cứu này sẽ chỉ ra

điều ngược lại là chỉ có một cấu trúc rõ ràng (ổn định và chung) bên sau các biến đổi này.

Trước hết, có việc tổ chức văn hoá các lô đất ở truyền thống (nông thôn và thành thị). Hình

2.3 đã chỉ ra rằng những mối liên hệ không gian gắn kết các khu nhà chính và nhà phụ và

các không gian bên ngoài được tái tạo lại, ở quy mô của những khu vực khác nhau trên các

lô đất được chuyển đổi, và vì từng gia đình cư trú trên lô đất đó. Tiếp đó, có xu hướng tư

hữu hoá rõ nét đối với các không gian phục vụ của các gia đình. Sự chiếm giữ các không

gian bên ngoài "công cộng" hay "chung" vì mục đích riêng phù hợp với lối sống diễn ra

trước thời kỳ đa sở hữu các lô đất vốn trước kia thuộc về một gia đình.

11 Mật độ dân số của phường Bùi Thị Xuân khá đa dạng. Quả vậy, có nhiều gia đình không huyết thống chung sống trên cùng một mảnh đất. Tuy nhiên, không phải tất cả các gia đình đều có diện tích sử dụng giống nhau.

Page 27: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Hình 16: Tác động biến đổi cách tổ chức các lô đất ở truyền thống (nông thôn và thành thị): những mối liên hệ không gian gắn kết các khu nhà chính và nhà phụ và các không gian bên ngoài được tái tạo lại (Hình vẽ của tác giả, 2001)

Cuối cùng, chúng ta có thể đề xuất rằng các biến đổi không gian bên ngoài trên các mảnh

đất ở trong khu phố Bùi Thị Xuân có 2 hệ quả tiềm tàng, một tiêu cực và một tích cực. Hệ

quả tiêu cực là, về mặt ít nhiều dài hạn, có thể mất tất cả không gian mở của lô đất thông

qua việc xây dựng thêm các yếu tố lấn chiếm mới. Hệ quả tích cực là: việc tái tổ chức

không gian bên ngoài các lô đất, được chính các gia đình tiến hành tự phát nhằm làm cho

chúng thích hợp hơn với lối sống mới hay sở nguyện, có vẻ như cho tới thời điểm này

được tiến hành bằng cách lồng ghép nội dung văn hoá và truyền thống, ngay cả khi hình

thức bên ngòai của chúng khác nhau. Điều này là sự minh hoạ cho tính hiện đại trong

truyền thống với vỏ bọc mới.

Nghiên cứu của chúng tôi mở ra các con đường phát triển tri thức về nơi cư trú đô thị Việt

Nam. Nó chứng minh sự dồi dào bằng cách kết hợp nhiều lý thuyết và các phương pháp

nghiên cứu khác nhau để 1) tái dựng lại lịch sử, 2) hiểu tiềm năng biến đổi và 3) giải thích

sự biến đổi của nó trong tác động qua lại với những biến đổi xã hội và văn hoá. Cách thức

tiến hành mà chúng tôi đã phát triển và áp dụng vào trong nghiên cứu không gian bên

Page 28: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

ngoài có thể được sử dụng để nghiên cứu nhà ở và chắc chắn có thể sử dụng để nghiên cứu

hình dáng và loại hình cư trú khác nhau của các khu phố đó. Cũng sẽ rất có ích nếu cải

biên nó để nghiên cứu các quy mô không gian rộng lớn hơn nhất là quy mô một khu phố.

Loại hình nghiên cứu này cần được phát triển hơn nữa, không chỉ bởi đóng góp của nó

giúp hiểu biết thêm về thành phố mà còn làm sáng tỏ thực tiễn kiến trúc và đô thị. Từ đó,

bằng cách cung cấp tính chất bên ngoài của một địa điểm và mô tả những biến đổi do dân

cư mang lại, loại hình nghiên cứu này cũng cung cấp các chỉ dẫn để có những can thiệp

phù hợp về mặt văn hoá. Cuối cùng, nghiên cứu này cũng cho phép đánh giá các hệ quả

tiêu cực của một số xu hướng mà cộng đồng và các cơ quan chính phủ có thể tác động.

Một ứng dụng mang tính tổng quát của nghiên cứu mang lại có thể giúp cho việc quản lý

đô thị mang tính bền vững lâu dài, gắn kết được những giá trị lịch sử song hành với những

phát triển mang tính đương đại, tránh được những tác động thô bạo vào bối cảnh hiện trạng

mà vẫn không kìm hãm sự phát triển của đô thị. Yếu tố này mang tính quyết định làm cho

đô thị vẫn mang một bản sắc riêng nhưng vẫn phát triển bền vững và mang tính kế thừa

liên tục./.

Page 29: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Action thématique programmée sur l'observation du changement social et culturel. (1986). L'Esprit des lieux : localités et changement social en France. Paris, Éditions du Centre national de la recherche scientifique.

Altman, I. et M. M. Chemers (1980). Culture and environment. Monterey, Calif, Brooks/Cole Pub. Co.

Blanton, R. E. (1994). Houses and households: a comparative study. New York, Plenum Press.

Boothroyd, P., X. N. Pham, et al. (2000). Socioeconomic renovation in Viet Nam: the origin, evolution, and impact of doi moi. Ottawa, Singapore, International Development Research Centre; Institute of Southeast Asian Studies.

Caniggia, G., G. L. Maffei, et al. (2000). Composition architecturale et typologie du bâti. Québec, École d'architecture Université Laval.

Casault, A. (2001). “Endangered street life: Building fontages and street activities in Hanoi, in Public places in Asia Pacific cities: current issues and strategies. P. Miao. Boston, MA, Kluwer Academic Publishers: XII.

Casault, A., et al. (2000). Conception de prototypes d'habitation pour le quartier Bui Thi Xuan de Hanoi au Vietnam : atelier interculturel. Québec. Université Laval, École d'architecture, Faculté d'aménagement d'architecture et des arts visuels.

Castex, J., J.-L. Cohen, et al. (1995). Histoire urbaine, anthropologie de l'espace. Paris, CNRS.

Charbonneau, F. et D. Hau (2002). Hanoi Enjeux modernes d'une ville millénaire. Montréal, Éditions Trames, Faculté d'aménagement, Université de Montréal.

Clément, P., S. Clément, et al. (1995). Cités d'Asie. Marseille, Parenthèses.

Clément, P., N. Lancret, et al. (2001). Hanoi, Le cycle des métamorphoses: Formes architecturales et urbaines. Paris, Editions Recherche\Ipraus.

Davis, H. (1999). The culture of building. New York, Oxford University Press.

Decoster, F., D. Klouche, et al. (1994). Hanoi, Fragments de mutation. Portrait de ville. Paris, Institut Français d'Architecture.

Decoster, F., D. Klouche, et al. (1997). Hanoi. Paris, Institut français d'architecture.

Després, Carole et P. Larochelle (1996). “Modernity and tradition in the making of terrace flats in Québec city”, Environment by design Vol 1(No 2): 141-161.

Evertsz, H. (2000). Popular Housing in Hanoi. Hanoi, Cultural publishing house.

Page 30: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Freitag, M. (1992). Architecture et société : essais. Montréal, Ed. Saint-Martin.

Fouchier, V. (1997) Les densités urbaines et le développement durable. Le cas de l’île de France et des villes nouvelles. Paris: Édition du SGVN (Secrétariat général du groupe central des villes nouvelles)

Gubry, P. et Centre français sur la population et le développement (2000). Population et développement au Viêt-nam. Paris, Karthala : CEPED.

Habraken, N. J. et J. Teicher (1998). The structure of the ordinary: form and control in the built environment. Cambridge, Mass., MIT Press.

Harnois, N. (1997). La dynamique sociale dans un squat au Viêt Nam, quartier Chuong Duong, Hà Nôi : appartenance et formes associatives. Université Laval, memoire de maitrise. Departement d’anthropologie.

Hillier, B. et J. Hanson (1984). The social logic of space. Cambridge, Cambridge University Press.

Kolb, D. (1990). Postmodern sophistications: philosophy, architecture, and tradition. Chicago; London, University of Chicago Press.

Lap, N. T. (2001). Identité culturelle : La relativité de la diversité. La 3e Conférence ministérielle sur la Culture constituera, Cotonou, Bénin, 14 et 15 juin 2001.

Lawrence, R. J. (1987). Housing, dwellings and homes: design theory, research and practice. Chichester [West Sussex] ; New York, Wiley.

Levy, A. (1997). “The typo-morphological approach of G. Caniggia and his school of thought”, Urban Morphology Vol 1. (http://odin.let.rug.nl/isuf/urbm/vpts0197.html)

Logan, W. S. (2000). Hanoi: Biography of a city. Sydney, UNSW Press.

Miao, P. (2001). Endangered street life: Building frontages and street activities in Hanoi. Boston, MA, Kluwer Academic Publishers.

Moudon, A. V. (1986). Built for change: neighbourhood architecture in San Francisco. Cambridge, Mass., MIT Press.

Numéro spécial (1995). Densités et espacements, Les annales de la recherche urbaine no 67 (printemps). Paris, Centre national de la recherche Scientifique.

Papin, P. (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

Parenteau, R, 1997). Habitat et environnement urbain au Viêt-Nam: Hanoi et Hô Chi Minh-Ville. Paris, Éditions Karthala.

Pellegrino, P. (2000). Le sens de l'espace: la dynamique urbaine. Paris, Anthropos : Diffusion Economica.

Page 31: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Pham, V. T. et R. Parenteau (1991). “Housing and Urban Development Policies in Vietnam”, Habitat international Vol. 15, no 4: 153-169.

Pham, X. M. (2001). Housing problem in Hanoi: Status quo and future requirements. Hanoi, Cultural publishing house.

Phan, H. L. (1993). Le village traditionnel au Vietnam. Hanoi, The Gioi - Éditions en langues étrangères.

Rapoport, A. (1969). House form and culture. Englewood Cliffs, N.J. Toronto, Prentice-Hall; Prentice-Hall of Canada.

Rapoport, A. (1976). The mutual interaction of people and their built environment: a cross--cultural perspective. The Hague Chicago, Mouton Publishers; distributed in the U.S.A. and Canada by Aldine.

Rapoport, A. (1977). Human aspects of urban form: towards a man-environment approach to urban form and design. Oxford; Toronto, Pergamon Press.

Rapoport, A. (1982). The meaning of the built environment: a non verbal communication approach. Beverly Hills, Sage Publications.

Rapoport, A. (1999). The writings of Amos Rapoport, 1964-2000. Milwaukee, WI, Center for Architecture and Urban Planning Research University of Wisconsin-Milwaukee cc1999.

Renaud, J.-F. et N. Cantin (2002). Densité, forme architecturale, forme urbaine et bien-être. (Manuscrit non publié). Université Laval, École d'architecture.

Schenk, H. (2000). « Hanoi », in Métropoles en mouvement: une comparaison internationale. F. Dureau et Institut de recherche pour le développement (France). Paris, Anthropos ; Institut de recherche pour le développement : 497-504.

Schenk, H. (2000). « Choix résidentiels et accès au logement à Hanoi », Métropoles en mouvement: une comparaison internationale. F. Dureau et Institut de recherche pour le développement (France). Paris, Anthropos : 183-190.

Thiem, N. D. (1997). Quelques idées sur le développement de l'habitat à Hanoi à la novelle étape. Hanoi.

Tinker, I. et G. Summerfield (1999). Women's rights to house and land: China, Laos, Vietnam. Boulder, Colo. ; London, Lynne Rienner Publishers.

Tran, H. A. (1999). Another Modernism? Form, Content and Meaning of the new Housing Architecture of Hanoi. Lund, Department of Architecture and Development Studies, School of architecture, Lund Institute of Technology, Lund University.

Tran, V. A. (1996). Hanoi Atlas: Tourist Guide, Guide touristique. Hanoi, The Gioi.

Page 32: TÓM TẮT - BMKTCNbmktcn.com/UserFiles/File/Nghien cuu/Subiendoikhonggian.doc · Web viewKhoa Kiến Trúc và Quy Hoạch Bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng BÁO CÁO ĐỀ TÀI

Trinh, D. L. (2001). “Socio-economic aspects of the booming of private housing construction in Hanoi in the 1990s”, in Housing and Land in Hanoi. H. Schenk et D. L. Trinh. Hanoi, Cultural publishing house: 13-30.

Trinh, D. L. et Q. V. Nguyen (1998). Tac dong kinh te - xa hoi cua doi moi trong linh vuc nha o do thi (Impacts socioéconomiques du "doi moi" sur le domaine résidentiel et urbain.). Hanoi, Nha xuat ban Khoa hoc Xa hoi.

Trinh, D. L., H. Schenk, et al. (2000). Shelter and Living in Hanoi. Hanoi, Cultural Publishing House.

Trung, D. T., M.-F. Biron et al. (2001). Recueil des façades des 57 lots relevés lors de l'enquête de l'été 2000 (Manuscrit non publié). Université Laval, École d'architecture.

Trung, D. T. et D. Labbé (2001). Le tissu urbain du quartier Bui Thi Xuan (Manuscrit non publié). Université Laval, École d'architecture.

Trung, D. T. et A.-M. Ouellette (2002a). Répartition des familles sur la parcelle des 57 lots relevés lors de l'enquête de l'été 2000. Tome I (Manuscrit non publié). Université Laval, École d'architecture.

Trung, D. T. et A.-M. Ouellette (2002b). Répartition des familles sur la parcelle des 57 lots relevés lors de l'enquête de l'été 2000. Tome II (Manuscrit non publié). Université Laval, École d'architecture.

Viaro, A. (1992). «Le Compartiment Chinois est-il Chinois?», Les Cahiers de la Recherche Architecturale Nos 27/28 : 139 - 150.