61
BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ MÔN HỌC VĂN HÓA VÀ ĐẠO ĐỨC QUẢN LÝ Đề tài: Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập A – PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tên đề tài Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập 2. Lý do chọn đề tài Quản lý là một lĩnh vực của hoạt động tổng hợp, không chỉ được nhìn nhận từ những góc độ của khoa học, mà cần phải được nhìn nhận cả từ góc độ văn hóa. Cuộc đấu tranh văn hóa bao giờ cũng gắn liền với các cuộc đấu tranh khác, trước hết là cuộc đấu tranh kinh tế và chính trị, nhưng tất cả đều thống nhất vào một mục tiêu: Vì con người, tất cả cho con người. Quan hệ kinh tế và văn hóa là quan hệ biện chứng, không thể nói cái nào quyết định cái nào. Kinh tế là một nền tảng của xã hội: Nền tảng kinh tế. Văn hóa là một nền tảng của xã 1

Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Trình bày về triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Vn từ khi mới hình thành đến hiện đại. Có dẫn chứng minh họa

Citation preview

Page 1: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ

MÔN HỌC VĂN HÓA VÀ ĐẠO ĐỨC QUẢN LÝ

Đề tài: Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội

nhập

A – PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tên đề tài

Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập

2. Lý do chọn đề tài

Quản lý là một lĩnh vực của hoạt động tổng hợp, không chỉ được nhìn nhận

từ những góc độ của khoa học, mà cần phải được nhìn nhận cả từ góc độ văn hóa.

Cuộc đấu tranh văn hóa bao giờ cũng gắn liền với các cuộc đấu tranh khác, trước

hết là cuộc đấu tranh kinh tế và chính trị, nhưng tất cả đều thống nhất vào một mục

tiêu: Vì con người, tất cả cho con người. Quan hệ kinh tế và văn hóa là quan hệ

biện chứng, không thể nói cái nào quyết định cái nào. Kinh tế là một nền tảng của

xã hội: Nền tảng kinh tế. Văn hóa là một nền tảng của xã hội: Nền tảng văn hóa.

Nói một cách khác, kinh tế và văn hóa là hai nội dung cốt lõi của sự sinh tồn và

phát triển của một dân tộc, một quốc gia.

Sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường là quy luật của kinh tế, tác động trực

tiếp và gián tiếp đến toàn bộ hoạt động của xã hội. Văn hóa không đứng ngoài tác

động đó. Nhưng văn hóa có đặc điểm và quy luật riêng của nó. Không thể loại trừ

hoạt động kinh tế trong văn hóa, cũng không thể loại trừ hoạt động văn hóa trong

kinh tế. Sự tác động qua lại và đồng thời là đúng quy luật khách quan.

1

Page 2: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Dù xét từ giác độ nào thì mục đích chính của kinh doanh là đem lại lợi

nhuận cho chủ thể kinh doanh nên bản chất của kinh doanh là để kiếm lời. Trong

kinh tế thị trường, kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát

triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Còn việc kinh doanh như

thế nào, kinh doanh đem lại lợi ích và giá trị cho ai thì đó chính là vấn đề văn hóa

kinh doanh.

Và trong các yếu tố cấu thành nên văn hóa kinh doanh, ta không thể không

nhắc đến triết lý kinh doanh. Một hệ thống các giá trị cốt lõi có vai trò như kim chỉ

nam định hướng các hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Nằm trong một hệ thống tạo

nên văn hóa kinh doanh, triết lý kinh doanh giữ vị trí đầu tiên và cũng là vị trí quan

trọng quyết định giá trị của tổ chức. Nó quy chiếu trong mình những giá trị mang

tính chiến lược trong hoạt động của doanh nghiệp mà qua quá trình thực hiện theo

hệ triết lý này, cả khách hàng – đối tác và những cá nhân trong tổ chức sẽ nhận

thức ra những “đặc sắc”, “độc đáo” và điều tạo nên sự khác biệt cho doanh nghiệp.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Như trên nhóm đã trình bày, càng ngày con người càng nhận thấy rằng văn

hóa tham gia vào mọi quá trình hoạt động của con người và sự tham gia đó ngày

càng được thể hiện rõ nét và tạo thành các lĩnh vực văn hóa đặc thù như văn hóa

chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa gia đình và…văn hóa kinh doanh. Kinh doanh

là một hoạt động cơ bản của con người, xuất hiện cùng với hàng hóa và thị trường.

Tuy nhiên, khi xã hội chúng ta phát triển đến một mức nào đó, những điều còn lại

sau đồng tiền, sau lợi nhuận, sau những cạnh tranh, bon chen…trên trường kinh tế

sẽ là những giá trị nhân bản thuộc về con người. Tất cả những giá trị ấy quy tụ

trong văn hóa kinh doanh. Tìm hiểu về vấn đề này, nhóm chúng tôi đã lựa chọn

Triết lý kinh doanh như một nhân tố quan trọng tạo nên văn hóa kinh doanh xưa và 2

Page 3: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

nay. Nhìn nhận một cách khách quan chúng ta có thể thấy triết lý kinh doanh chính

là nền tảng chi phối đến các hoạt động của doanh nghiệp... Ở Việt Nam, kể từ sau

những quyết định mở cửa nền kinh tế tiến hành từ Đại hội VI, hoạt động kinh

doanh trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết, tuy nhiên thực tế cho thấy – ta gặp phải

không ít khó khăn trong quá trình xác định mục tiêu, sứ mệnh của mình. Vì thế cần

học tập kinh nghiệm xây dựng triết lý kinh doanh và kinh nghiệm khai thác vai trò

triết lý kinh doanh trong quản lý doanh nghiệp để nhanh chóng rút ngắn khoảng

cách giữa các doanh nghiệp nước ta với các doanh nghiệp nước ngoài. Bài tiểu

luận này của Nhóm xin phép được trình bày về quá trình phát triển của Triết lý

kinh doanh, đồng thời chú trọng phân tích vai trò của triết lý kinh doanh trong giai

đoạn hiện tại nhằm làm nổi bật nên giá trị của yếu tố này trong mỗi tổ chức vào

mỗi thời kỳ.

4. Câu hỏi nghiên cứu

Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập như thế

nào ?

5. Giả thuyết nghiên cứu

Mỗi một khu vực kinh tế khác nhau thì có triết lý kinh doanh khác nhau.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần lời mở đầu đi kèm, đề tài gồm 3 chương

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về Triết lý kinh doanh

Chương 2: Triết lý kinh doanh Việt Nam thời kỳ hội nhập

Chương 3: Giải pháp phát huy triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt

Nam thời kỳ hội nhập

3

Page 4: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

B- PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT LÝ KINH

DOANH

1.1.Khái niệm chung về Triết lý:

Triết lý là phương châm, nguyên tắc mà cá nhân hay tổ chức luôn cố gắng

tuân thủ theo nó để đạt được mục tiêu hay nguyện vọng mà họ đang theo đuổi.

Trong cuộc sống có bao nhiêu lĩnh vực thì con người có thể đưa ra bằng đó triết lý

để thực hiện theo nó. Do vậy, ta thường bắt gặp các khái niệm rất phổ biến liên

quan đến triết lý như “triết lý sống”, “triết lý kinh doanh”,…

Khái niệm triết lý có quan hệ chặt chẽ với khái niệm “triết học”. Theo từ

điển Hán – Việt: “Triết” nghĩa là trí ( sự nhận thức, hiểu biết sâu rộng về thế giới :

trời, đất, người…và đạo lý). Ở phương Tây “triết học” ( philosophy) xuất phát từ

tiếng Hy Lạp thời cổ đại, chuyển sang tiếng Latinh là philosophia = philo (yêu)

+sophia (sự thông thái) “Triết học” có nghĩa là môn học về sự thông thái.

Bàn về khái niệm triết lý, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cho rằng, tuy ở

phương Tây không có sự phân biệt giữa “triết lý” và “triết học”, nhưng trong tiếng

Việt quan niệm đó lại được dùng để biểu đạt và phản ánh những đối tượng khác

nhau. Các tác giả sách “ Triết lý phát triển ở Việt Nam - mấy vấn đề cốt lõi” nêu

định nghĩa triết lý là: “ Kết quả của sự suy nghẫm, chiêm nghiệm và đúc kết thành

những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống

cũng như về hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con người trong xã hội. Chúng có

vai trò định hướng trực tiếp ngược trở lại đối với cuộc sống và những hoạt động

thực tiễn rất đa dạng ấy”.

4

Page 5: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

“Triết lý là những tư tưởng có tính triết học ( tức là sự phản ánh đã đạt đến

trình độ sâu sắc và khái quát cao ) được con người rút ra từ cuộc sống của mình và

chỉ dẫn, định hướng cho hành động của con người – Theo “Bài giảng văn hóa kinh

doanh” – Trường Đại học kinh tế quốc dân.

Theo PGS. PTS. Đỗ Thị Doan và PTS. Đỗ Minh Cường trong cuốn “Triết

lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp” cho rằng triết lý là những tư tưởng có

tính triết học được con người rút ra từ cuộc sống của họ; là thứ triết học về đạo lý,

triết học của hành động.

Như vậy so với “triết học”, “triết lý” được hiểu ở trình độ thấp hơn, có phạm

vi hẹp hơn, chỉ là cơ sở lý luận của một hệ thống quan điểm, một học thuyết và

theo nghĩa ở mức độ cao, nó chính là những quan niệm, tư tưởng sâu xa nhất của

con người về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng dù hiểu theo cách nào cũng

có thể thấy rằng, “triết lý” không phải là duy tâm siêu hình mà nó là kết quả của

những kinh nghiệm và lẽ sống của nhiều thế hệ trước đúc kết lại.

1.2.Triết lý kinh doanh:

1.2.1. Khái niệm kinh doanh

“Kinh doanh” hiểu theo nghĩa rộng và nói chung là một số hoặc toàn bộ

hoạt động của quá trình sản xuất, thương mại, dịch vụ…có mục đích là đạt được

lợi nhụân cho chủ thể.

Như vậy kinh doanh là một hình thái đặc thù của kinh tế. Nó không chỉ là

hoạt động buôn bán, lưu thông, mà còn bao gồm các hoạt động sản xuất và các loại

dịch vụ khác ( giải trí, thông tin, du lịch…). Chủ thể kinh doanh cũng là một khái

niệm hệ thống gồm nhiều cấp độ (một cá nhân, một tập thể, doanh nghiệp…) cho

5

Page 6: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

nên triết lý kinh doanh chính là các triết lý hình thành trong quá trình kinh doanh

của các chủ thể khác nhau.

1.2.2. Triết lý kinh doanh

Kinh doanh, như ta đã biết là tất cả những hành vi và hoạt động có mục đích

là đem lại lợi nhuận cho chủ thể. Như vậy, Triết lý kinh doanh là những tư tưởng

triết học phản ánh thực tiễn kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy

ngẫm, khái quát hóa của các chủ thể kinh doanh và chỉ dẫn cho hoạt động kinh

doanh - Theo PGS. PTS. Đỗ Thị Doan và PTS. Đỗ Minh Cường trong cuốn “Triết

lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp” định nghĩa. Nó là sản phẩm phản ánh có

mục đích phục vụ cho chủ thể kinh doanh nên sự khác nhau trong ngành, lĩnh vực

kinh doanh của doanh nghiệp sẽ quy định tính đặc thù của triết lý kinh doanh. Bởi

vì sẽ là sơ lược và giản đơn nếu nghiên cứu các triết lý kinh doanh chúng ta lại bỏ

qua những nét đặc thù của khách thể và môi trường kinh doanh của chủ thể.

Ở đây, nhóm chúng tôi lưu ý tới thực tế - trong các nền kinh tế thị trường,

các nhà kinh doanh thành công đều trở thành những nhà quản lý, chủ thể kinh

doanh thành đạt; cho nên triết lý kinh doanh chỉ có giá trị thực sự khi nó áp dụng

được cho doanh nghiệp và tạo nên bản sắc cũng như phong cách của doanh nghiệp.

1.2.3. Đặc điểm của triết lý  kinh doanh

      Triết lý kinh doanh chỉ nảy sinh trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh

giữa nhiều thành phần kinh tế và các chủ thê kinh doanh khác nhau. Triết lý kinh

doanh được hình thành dần từ kinh nghiệm kinh doanh, nghĩa là những người

thành lập doanh nghiệp sau một thời gian dài làm kinh doanh và quản lý đã từ kinh

nghiệm rút ra triết lý kinh doanh; hoặc là ngay thời kỳ đầu mới thành lập, những

người lánh đạo doanh nghiệp đã chủ động xây dựng triết lý làm định hướng phát 6

Page 7: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

triển tổ chức của mình và được tiến hành thông qua sự thảo luận và đóng góp của

hầu hết số thành viên.

      Triết lý kinh doanh có thể biểu diễn bởi nhiều loại hình văn bản hoặc nghệ

thuật khác nhau.

      Triết lý kinh doanh thường gồm ba bộ phận cơ bản có quan hệ mật thiết với

nhau: mục tiêu của doanh nghiệp; phương thức hành động; quan hệ của doanh

nghiệp với môi trường kinh tế xã hội, nghĩa vụ chung của doanh nghiệp và nguyên

tắc của thành viên trong doanh nghiệp.

       Triết lý kinh doanh chứa đựng những chuẩn mực, giá trị, hệ tư tưởng, lý

tưởng phấn đấu và nguyên tắc hành động của các thành viên, định huớng mọi

người theo một mục tiêu đã đặt ra.

Triết lý kinh doanh tuy rất bền vững nhưng vẫn có thể thay đổi cho phù hợp

với môi trường kinh doanh và đời sống. 

1.2.4. Mối quan hệ giữa triết lý kinh doanh, triết lý doanh nghiệp và triết lý quản

Kinh doanh là một lĩnh vực hoạt động và nghề nghiệp đầy khó khăn, phức

tạp. Triết lý kinh doanh rất phong phú và nhiều loại khác nhau. Có thể phân loại

triết lý kinh doanh dựa theo hai tiêu chí cơ bản: Chức năng – nghiệp vụ và quy mô

của chủ thể kinh doanh.

Dựa theo chức năng – nghiệp vụ tồn tại các loại hình triết lý như: Triết lý

(kinh doanh) về sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; triết lý về marketing,

quản lý chất lượng hàng hóa …

7

Page 8: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Dựa vào quy mô của các chủ thể kinh doanh – quy mô tổ chức người có thể

chia làm ba loại cơ bản: Triết lý áp dụng cho các cá nhân kinh doanh; triết lý cho

các tổ chức kinh doanh, chủ yếu là triết lý về quản lý của doanh nghiệp; triết lý vừa

có thể áp dụng cho các cá nhân lại vừa có thể áp dụng cho các tổ chức kinh doanh.

Triết lý kinh doanh của các cá nhân(loại 1) chính là các triết lý được rút ra từ

những kinh nghiệm, bài học thành công và thất bại trong quá trình kinh doanh. Còn

các triết lý loại 2, 3 thực chất là triết lý chung của tổ chức kinh doanh – triết lý

quản lý doanh nghiệp.

Trên thực tế trong các nền kinh tế thị trường thì các nhà kinh doanh; chủ thể

kinh doanh thành đạt, phát triển là các tổ chức kinh doanh – các doanh nghiệp cho

nên triết lý kinh doanh chỉ có giá trị phổ quát khi nó áp dụng được trong các doanh

nghiệp. Mặt khác, quản lý một doanh nghiệp bao giờ cũng phức tạp, khó khăn hơn

hoạt động của một cá thể tự kinh doanh.

Với những lý do trên có thể nhận thấy “ phần chủ yếu và thực chất của triết

lý kinh doanh là bộ phận triết lý chung của tổ chức kinh doanh – triết lý chung của

doanh nghiệp còn gọi tắt là triết lý doanh nghiệp”. Nói cách khác, triết lý doanh

nghiệp là triết lý kinh doanh của tất cả các thành viên của một doanh nghiệp cụ thể.

Triết lý doanh nghiệp là triết lý kinh doanh chung của tất cả các thành viên

của một doanh nghiệp cụ thể. Khi một chủ thể kinh doanh trở thành người lãnh đạo

doanh nghiệp, họ sẽ cố gắng vận dụng các tư tưởng triết học về kinh doanh và tổ

chức quản lý của họ, phát triển nó thành triết lý chung của doanh nghiệp đó. Nó là

lý tưởng, là phương châm hành động, là hệ giá trị và mục tiêu chung của doanh

nghiệp chỉ dẫn cho hoạt động nhằm làm cho doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong

kinh doanh. Thực tế cho thấy, sự phát triển của doanh nghiệp được định hướng chủ

yếu từ triết lý doanh nghiệp đúng đắn. 8

Page 9: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Triết lý doanh nghiệp là cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp: Xác định sứ

mệnh, các giá trị cốt lõi và phương thức hoạt động, quản lý của doanh nghiệp, nên

triết lý kinh doanh trở thành yếu tố quan trọng nhất của văn hóa doanh

nghiệp. Sứ mệnh và giá trị cốt lõi có ý nghĩa định hướng sự tồn tại và phát triển

của doanh nghiệp, hướng mọi thành viên trong doanh nghiệp tới một mục đích

chung. Trong khi các yếu tố khác của văn hóa doanh nghiệp có thể thay đổi, thì sứ

mệnh và giá trị cốt lõi doanh nghiệp thường không thay đổi. Vì vậy, triết lý doanh

nghiệp trở thành nền tảng của văn hóa doanh nghiệp. Các kế hoạch chiến lược

mang tính lâu dài phải được bắt nguồn từ sứ mệnh chung của doanh nghiệp. Vì

vậy, triết lý doanh nghiệp chính là công cụ để hướng dẫn cách thức kinh doanh phù

hợp với văn hóa doanh nghiệp.

Nó chính là cơ sở đào tạo, phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp: Mọi

thành viên trong doanh nghiệp gắn kết với nhau bởi một mục tiêu chung mà họ

cùng hướng tới. Triết lý doanh nghiệp chính là sợi dây kết nối các thành viên trong

doanh nghiệp với nhau, đồng thời là tiêu chuẩn chung để đánh giá mỗi thành viên.

Việc tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải dựa trên các giá trị

chung và sứ mệnh chung của doanh nghiệp.

Triết lý quản lý là định hướng cơ bản có tính sống còn, gắn liền với sứ mệnh

của tổ chức trong hoạt động của con người để đạt đến mục tiêu đã xác định. Triết

lý quản lý phản ánh thái độ, mong đợi mà tổ chức biểu thị đối với quan hệ nhóm có

liên quan, trở thành cơ sở rộng lớn cho việc giải quyết các vấn đề của tổ chức. Triết

lý quản lý là phần cốt lõi trong hệ giá trị , nó dẫn đến bộ tiêu chuân chung điều

chỉnh hành vi của con người trong quá trình quản lý. Từ triết lý quản lý các công

tác tổ chức, các chức năng của quản lý phải được triển khai một cách đồng bộ,

hướng theo triết lý đã xác định. Đây thường là triết lý do những người sáng lập ra

9

Page 10: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

doanh nghiệp đưa ra để đạt được mục tiêu của mình. Triết lý kinh doanh là một

dạng cụ thể của triết lý quản lý. Thông qua những hệ giá trị, tư tưởng cốt lõi,

phương châm hoạt động của mình việc hình thành triết lý kinh doanh cũng không

ngoài mục đích vận hành tổ chức một cách hiệu quả và đem đến những giá trị cho

con người.

Việc hình thành và phát triển triết lý kinh doanh là một trong những vấn đề

quan trọng trong quá trình vận hành doanh nghiệp. Ví dụ: Đối với những quốc gia

phát triển như Nhật Bản, triết lý kinh doanh có vai trò như sứ mệnh kinh doanh; là

hình ảnh của doanh nghiệp trong ngành và trong xã hội; là mục tiêu định hướng

cho một thời kỳ phát triển dài. Mặt khác, các doanh nghiệp Nhật Bản coi triết lý

kinh doanh như một yếu tố cấu thành thương hiệu khi mà họ sớm ý thức được

rằng, kinh doanh sẽ được xã hội hoá với mức độ ngày càng gia tăng.

Dù là bất cứ loại triết lý nào đã được đề cập ở trên, người lãnh đạo muốn tạo

nên nó rất cần phải có sự hiểu biết về các yếu tố hình thành, có tham vọng biến nó

thành sự thật, xuất phát từ chính hoàn cảnh thực tế để tạo nên những giá trị cần

thiết…

1.2.5. Vai trò của triết lý kinh doanh trong việc hình thành văn hóa và đạo

đức quản lý của doanh nghiệp

Triết lý kinh doanh là công cụ định hướng và cơ sở để quản lý chiến lược

của doanh nghiệp

Triết lý kinh doanh là một lực lượng hướng dẫn, tạo sức mạnh to lớn cho

thành công của doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh có vai trò:

10

Page 11: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Thiết lập một tiếng nói chung hoặc môi trường của doanh nghiệp. Đảm bảo

nhất trí về mục đích trong doanh nghiệp. Định rõ mục đích của doanh nghiệp và

chuyển dịch các mục đích này thành các mục tiêu cụ thể.

Nội dung của triết lý kinh doanh là điều kiện hết sức cần thiết thiết lập các

mục tiêu và soạn thảo các chiến lược một cách hiệu quả. Một kế hoạch mang tính

chiến lược bắt đầu với việc xác định một triết lý kinh doanh một cách rõ ràng. Triết

lý kinh doanh được xem là bước chuẩn bị đầu tiên trong quản lý của doanh nghiệp

mà cụ thể là quản lý chiến lược.

Triết lý kinh doanh là cơ sở hoặc tiêu chuẩn để phân phối nguồn lực của tổ

chức. Sứ mệnh hay mục đích của doanh nghiệp là một môi trường bên trong có ảnh

hưởng đến các bộ phận chuyên môn như sản xuất, kinh doanh, quản trị nhân sự.

Một bộ phận chuyên môn phải dựa vào mục đích hay sứ mệnh của công ty để viết

ra mục tiêu của bộ phận mình.

Đối với tầng lớp cán bộ quản trị, triết lý kinh doanh là một văn bản pháp lý

và cơ sở văn hoá để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng, có tính

chiến lược. Theo Peters & Waterman, nhờ có sự định hướng của triết lý kinh doanh

mà những nhà quản lý có được “chìa khoá vàng” mở cánh cửa thành công.

Triết lý kinh doanh là một công cụ để giáo dục, phát triển nguồn nhân lực và

tạo ra một phong cách làm việc đặc thù của doanh nghiệp

Triết lý kinh doanh cung cấp các giá trị, chuẩn mực hành vi nhằm tạo nên

một phong cách làm việc , sinh hoạt chung của doanh nghiệp, đậm đà văn hoá của

tổ chức đó.

11

Page 12: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Với việc vạch ra lý tuởng và mục tiêu kinh doanh thể hiện ở phần sứ mệnh,

triết lý kinh doanh giáo dục cho công nhân viên chức đầy đủ về lý tưởng, về công

việc trong một môi trường văn hoá tốt, nhân viên sẽ tự giác phấn đấu vươn lên.

Do triết ký kinh doanh đề ra một hệ giá trị đạo đức chuẩn làm căn cứ đánh

giá mọi hành vi của các cá nhân trong tổ chức nên nó có vai trò trong việc điều

chỉnh hành vi của nhân viên trong việc xác định bổn phận, nghĩa vụ của mỗi nhân

viên đối với tương lai của sự phát triển của tổ chức.

Như vậy, vai trò của triết lý kinh doanh với doanh nghiệp có thể so sánh với

bất kì nguồn lực nào khác trong tổ chức.Nhận xét về tầm quan trọng của triết lý

kinh doanh Uwayaki : “Bí mật của các doanh nghiệp trong cuốn “chưa hề thất

bại” viết : “Nguồn tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp, hiểu theo nghĩa

rộng, ngoài người, tiền của hay vật tư hàng hoá, còn bao gồm những nguồn tài sản

mắt thường không nhìn thấy được nhưng lại có tác dụng vô cùng to lớn. Bộ phận

quan trọng nhất của nguồn tài sản vô hình đó là triết lý kinh doanh và phong thái

kinh doanh là cốt lõi của phong thái doanh nghiệp”.

CHƯƠNG 2: TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP

THỜI KỲ HỘI NHẬP

2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội thời kỳ hội nhập

Cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế nền kinh tế

Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12 -1986) đã khẳng

định phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Những năm tiếp sau đó, tư tưởng này

được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách và văn bản pháp.luật. Cơ chế thị trường

12

Page 13: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

đang từng bước được hoàn thiện để tạo ra những cơ hội bình đẳng trong kinh

doanh cho tất cả mọi thành phần kinh tế, cho mọi người đều có thể có điều kiện

làm giàu cho bản thân và xã hội.

Nghị quyết của Đại hội lần VI là cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế và

được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách, văn bản pháp luật trong những năm tiếp

theo.

Tháng 11 – 1987, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 217/HĐBT

về việc mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước. Năm

1998, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn

vị kinh tế cơ bản ở nông thôn, có quyền tự chủ kinh doanh toàn diện. Tháng 1 –

1998, Quốc hội đã thông qua luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Những thay đổi về pháp luật và chính sách trên đã từng bước tạo ra nền kinh

tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta. Có thể xem tháng 3 – 1989 là

thời điểm Việt Nam thực sự đi vào quá trình chuyển biến sang kinh tế thị trường

bởi vì:

- Thứ nhất, tới thời gian đó, Chính phủ đã đổi mới thành công trong chính

sách tài chính – tiền tệ, kiểm soát được lạm phát.

- Thứ hai, Nhà nước đã có những giải pháp đa dạng hóa thành phần kinh

tế, xóa bỏ chế độ độc quyền kinh doanh của Nhà nước, khuyến khích cạnh tranh

lành mạnh.

- Thứ ba, thực hiện một bước tự do hóa thương mại, Chính phủ đã xóa bỏ

các trạm kiểm soát “ngăn sông cấm chợ” và nới lỏng xuất nhập khẩu.

13

Page 14: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Từ năm 1990 đến nay, xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường cả về

chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt có hai sự kiện lớn trong những năm 2000 đã thúc

đẩy hoạt động kinh doanh của Việt Nam thực sự phát triển nhảy vọt đó là sự ra đời

của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư sửa đổi; sự kiện Việt Nam gia nhập tổ

chức Thương mại thế giới (WTO).

Tình hình kinh tế, xã hội nước ta thời kỳ hội nhập

Kinh tế phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu

nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của

nhân dân có sự cải thiện rõ rệt.

Song, cũng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế

nên nhiều vấn đề xã hội mới nảy sinh và ngày càng phức tạp. Tình trạng phân hóa

giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng lớn, là những mầm mống

cho những bất ổn định xã hội. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến hàng

triệu lao động nông nghiệp bị mất đất, di chuyển từ nông thôn ra thành thị tìm

kiếm việc làm và phải chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đầy rủi ro. Nguy cơ thất

nghiệp, bệnh tật, ốm đau đang đe dọa một bộ phận lao động, nhất là lao động phổ

thông, trong hoàn cảnh khủng hoảng kinh tế đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu,

đói nghèo được thu hẹp nhưng tái nghèo vẫn là nguy cơ đối với hàng chục triệu

người. Hậu quả của tình trạng xã hội trên đã và đang cản trở sự phát triển kinh tế-

xã hội đất nước, ngăn trở mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân

chủ và văn minh.

Thời cơ và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập

Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, kể cả các nền

kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức ngày càng khắc nghiệt

14

Page 15: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

hơn khi nước ta là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cho Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp Việt

Nam nói riêng những cơ hội và thách thức mới.

Trước hết, Hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO đã tạo cho Việt Nam có

cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do tiếp cận thị trường quốc tế rộng

lớn, hàng hóa thâm nhập thị trường này cũng không gặp bất kỳ trở ngại nào. Việt

Nam được đối xử tối huệ quốc vô điều kiện, thuế thu nhập vào các nước thành viên

sẽ giảm đáng kể. Việt Nam sẽ tiếp nhận và tiếp cận được nguồn nhân lực, vật lực

lớn từ những nước phát triển là thành viên của WTO. Việt Nam sẽ bình đẳng với

các nước thành viên của WTO, Việt Nam sẽ nâng cao vị thế trong các mối quan hệ

kinh tế, trong việc biểu hiện những vấn đề liên quan đến WTO đặc biệt trong việc

giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh thương mại quốc tế. Ngoài ra, khi

nước ta hội nhập kinh tế quốc tế thì hàng hóa các nước sẽ xâm nhập thị trường

trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không ngừng nâng cao chất lượng sản

phẩm, giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh nhằm tồn tại và phát triển.

Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối mặt với những

thách thức lớn là cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, cạnh tranh không chỉ giữa các

doanh nghiệp trong nước mà còn với các doanh nghiệp nước ngoài để xuất khẩu

hàng hóa và dich vụ. Trong khi đó khả năng cạnh tranh cả các doanh nghiệp nước

ta chưa cao. Doanh nghiệp yếu về tiềm lực kinh tế cũng như thương hiệu không có

khả năng cạnh tranh sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Điều này gây sức ép không nhỏ

đối với nhiều doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh

nghiệp có tiềm lực tài chính và con người yếu kém. Hội nhập kinh tế quốc tế với

sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa

và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách

15

Page 16: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

thức ở đây là để ra những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm

soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền

kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những

khó khăn ngắn hạn

Trước tình hình đó những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã và đang ban

hành những chủ trương, chính sách nhằm giải quyết vấn đề xã hội nói chung và

vấn đề an sinh xã hội nói riêng. Các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội được Nhà nước ban hành, sửa đổi và bổ sung ngày

càng hoàn thiện và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế nước ta Bên cạnh đó, Việt

Nam cũng đã hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý.

Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ

pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại, các quy định về cạnh tranh để

đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng khi hội nhập. Các bộ, ngành

đã tập trung rà soát và góp ý sửa đổi các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực

điện ảnh, viễn thông, an toàn thực phẩm cho phù hợp với các cam kết quốc tế của

Việt Nam đồng thời kiến nghị ban hành hàng loạt Nghị định để thi hành những lĩnh

vực trên. Bộ tài chính đã ban hành danh mục sửa đổi thuế xuất khẩu, danh mục sửa

đổi biểu thuế nhập khẩu ưu đãi để thực hiện đúng cam kết về cắt giảm thuế theo

biểu cam kết đối với WTO cho bước cắt giảm của năm 2009..Ngoài những chính

sách trên thì Đảng và nhà nước còn ban hành rất nhiều chính sách về kinh tế- xã

hội, đang tiếp tục bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm thúc

đẩy sự phát triển bền vững của quốc gia trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện

nay.

16

Page 17: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Đánh giá chung về việc hình thành và phát triển triết lý kinh doanh của các

doanh nghiệpViệt nam thời kỳ hội nhập

Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã có cố gắng nhất định

trong việc xây dựng triết lý để định hướng cho hoạt động kinh doanh cũng là thể

hiện văn hóa kinh doanh và đạo đức kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp ở các

khu vực kinh tế khác nhau đã xây dựng nên những triết lý kinh doanh khác nhau và

mỗi triết lý kinh doanh ấy đã thể hiện bản sắc riêng của mỗi doanh nghiệp.

Ví dụ về triết lý kinh doanh của “Cà phê Trung Nguyên” và “Viettel”.

Triết lý kinh doanh của Vietel :

“ Vietel caring innovator” thông qua đó Vietel muốn nhấn mạnh triết lý của

mình cho toàn bộ các nhân viên của mình và những người quản lý coi trọng, đó là:

Tinh thần Caring – quan tâm, chăm sóc, hướng nội và Innovatorv – sáng tạo, hiện

đại, đột phá mang hơi thở kĩ thuật.

Triết lý kinh doanh của Café Trung Nguyên:

“Tạo dựng thương hiệu hàng đầu qua việc mang lại cho người thưởng thức

cà phê nguồn cảm hứng sáng tạo và niềm tự hào trong phong cách Trung Nguyên

đầm đà văn hóa Việt”.

Tuy nhiên, nhìn chung triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam

vần là hiện tượng mới mẻ, chưa có sự thống nhất trong nhìn nhận và đánh giá.

2.2. Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước:

Vị trí của các doanh nghiệp Nhà nước: Bộ phận doanh nghiệp Nhà nước từ

trước đến nay vẫn được xem là thành phần kinh tế chủ đạo của nền kinh tế nước ta.

17

Page 18: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp: Hiệu quả hoạt động của các

doanh nghiệp còn ở mức thấp so với các nguồn lực của nó. Số lượng các doanh

nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ, phấn tán nhưng với số doanh nghiệp nhiều nên

số tài sản trong khu vực kinh tế khá lớn.

Quá trình hình thành và phát triển của Triết lý kinh doanh: Đại đa số các

doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chưa có triết lý kinh doanh bến vững, được trình

bày rõ ràng với đầy đủ chức năng, giá trị của nó. Nhà nước chưa đặt vấn đề cần

xây dựng một triết lý kinh doanh chung cũng như các triết lý kinh doanh phù hợp

với đặc thù mỗi doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp vẫn chủ yếu nhấn mạnh vào các yếu tố lượng của kinh

doanh thể hiện trong các chỉ tiêu cụ thể như: doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách,

thuế… mà chưa chú ý tới các hệ giá trị của doanh nghiệp, điều này chứng tỏ chưa

có sự chú trọng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Trên thực tế, các điều kiện như thực tiễn kinh doanh và sự kế thừa về lý

tưởng, kinh nghiệm và triết lý ở các doanh nghiệp Nhà nước ở ta còn yếu ớt, thời

hạn, quyền hạn, chức năng của người lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước chưa rõ

ràng và ổn định. Như chúng ta đã biết, muốn có một bản triết lý kinh doanh giá trị,

thường người lãnh đạo doanh nghiệp cần có khoảng 10, 20 năm lăn lộn trong kinh

doanh và quản lý kinh doanh và giữa họ và người kế nhiệm phải có sự kế thừa về

lý tưởng, kinh nghiệm và triết lý. Cả hai điều kiện trên ở nước ta còn yếu.

Công tác cán bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu những quy chế

khoa học, còn nhiều định kiến phiến diện. Chúng ta thường ngại sử dụng và đề bạt

những cán bộ dám làm, dám nói. Tuyệt đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước hiện

18

Page 19: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

nay đều không có triết lý kinh doanh được trình bày rõ ràng với đầy đủ chức năng,

giá trị của nó.

Mặt khác, những triết lý chung, giáo điều đúng nhưng khó thực thi, “vô

thưởng, vô phạt” cũng được các nhà quản lý kinh doanh trong khu vực Nhà nước

tuyên truyền thay thế cho các giá trị của các triết lý kinh doanh đích thực. Có thể

kể ra một số triết lý kinh doanh như: “Vì nhân dân phục vụ”; “chúng ta phải biết hi

sinh cho lợi ích tập thể”; “kinh tế phải phục tùng chính trị”. Đây là những triết lý

rất chung chung, khó thực hiện, khó đo lường hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh.

Rõ ràng, vấn đề vai trò, tác dụng của các triết lý kinh doanh trong các doanh

nghiệp Nhà nước có liên quan mật thiết tới công tác quản lý và công tác cán bộ.

Tuy nhiên, trong tình hình đó đến nay đã có một số doanh nghiệp Nhà nước

đã đưa ra triết lý kinh doanh của mình trong quá trình phát triển công ty, ví dụ như

Xí nghiệp Thương mại Mặt đất Nội Bài (NIAGS) thuộc Tổng Công ty hàng không

Việt Nam (Vietnam Arlines).

Triết lý kinh doanh của Xí nghiệp Thương mại Mặt đất Nội Bài (NIAGS)

thuộc Tổng Công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines ):

Nhận thức rằng một danh tiếng bền vững về cách ứng xử văn hóa tự nó là

một tài sản vô giá của doanh nghiệp, toàn thể cán bộ, công nhân viên Xí nghiệp

thương mại Mặt đất Nội Bài luôn hướng tới xây dựng đơn vị mình thành một cộng

đồng những con người có văn hóa.

Thông qua công việc mỗi ngày, chúng ta phấn đấu không ngừng nâng cao

hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao lợi ích vật chất – điều kiện để xây dựng

cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho từng cá nhân, cho từng gia đình và cho toàn xí

nghiệp.

19

Page 20: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Chúng ta cam kết cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ chất

lượng ổn định và không ngừng được nâng cao bằng việc áp dụng hệ thống quản lý

chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 vì không có khách hàng chúng ta

không có lí do để tồn tại. Chúng ta làm cho khách hàng thấy họ đang được phục vụ

bởi đội ngũ những nhân viên lành nghề ,đáng tin cậy và hết mình. Đồng thời chúng

ta thấu hiểu rằng giá trị của sản phẩm, dịch vụ không chỉ giới hạn ở chính bản thân

chúng ta mà còn ở cách thức chúng ta cung cấp chúng cho khách hàng. Do vậy

việc tuân thủ nghiêm khắc các quy trình, hướng dẫn công việc chúng ta còn quan

tâm đến những chuẩn mực, hành vi, quy tắc ứng xử trong quá trình tạo ra sản

phẩm, dịch vụ trong quá trình chúng ta sống và làm việc bên nhau. Chính những

chuẩn mực này tạo nên bản sắc riêng của NIAGS chúng ta.

Chúng ta tạo ra và duy trì một môi trường để mỗi thành viên đều cảm thấy

được tin yêu và quý trọng như những tài sản quý giá nhất, tự hào khi đứng trong

đội ngũ NIAGS và sẵn sàng thể hiện đầy đủ những khả năng và phẩm chất cao quý

của mình; một môi trường mà sự đóng góp của bất kì thành viên nào vào thành

công của NIAGS đều được thưởng xứng đáng và ngược lại, những hành vi ứng xử

trái với văn hóa NIAGS, làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ, tổn hại lợi ích của

khách hàng đều phải bị lên án và không còn chỗ đứng ở NIAGS.

Chúng ta phấn đấu xây dựng một NIAGS mà hình ảnh của nó trong khách

hàng không chỉ là một sản phẩm, dịch vụ hoàn hảo mà còn là sự liên tưởng ngay

đến một cộng đồng, một tập thể những con người sôi nổi, đoàn kết gắn bó, tương

thân tương ái.

Có thể thấy triết lý kinh doanh của công ty đã nói lên ý nghĩa tồn tại của

công ty và cũng chính là nét văn hóa tổ chức của công ty đó. Luôn hướng tới khách

hàng, đáp ứng những nhu cầu của khách hàng ở mọi lúc, mọi nơi là sứ mệnh cũng

như mục đích tồn tại của công ty. Vấn đề con người được quan tâm từ bên trong

20

Page 21: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

nội bộ công ty đến khách hàng cho thấy giá trị nhân văn của NIAGS cũng là một

phần trong đạo đức quản lý của doanh nghiệp.

2.3. Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước

ngoài:

Phát huy vai trò của triết lý kinh doanh trong quản lý doanh nghiêp

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là khu vực kinh tế

phát huy vai trò của triết lý kinh doanh tốt nhất ở nước ta hiện nay. Hầu hết các

công ty nước ngoài thành đạt, đặc biệt là các công ty Mỹ và Nhật Bản đều mang

vào Việt Nam và sử dụng triết lý kinh doanh của họ như là một công cụ quản lý

chiến lược, như là hạt nhân của văn hóa doanh nghiệp và là phương tiện giáo dục

tất cả các thành viên trong công ty. Khác với các doanh nghiệp Nhà nước, nơi triết

lý kinh doanh nặng về tính hình thức hoặc chỉ có vai trò phụ trợ, phần lớn các

doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam đều coi triết lý kinh doanh như một yếu tố

trong sức mạnh quản lý của mình.

Ví dụ: Với các triết lý như “khách hàng là thượng đế”; “khách hàng luôn

luôn đúng”; “tinh thần tranh đua”; “sản phẩm chất lượng là niềm kiêu hãnh”… đã

góp phần làm cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển mạnh trên thị trường. Các

doanh nghiệp liên doanh với Nhật thì có riêng triết lý của mình. Đó là các triết lý

đề cao tinh thần cộng đồng và họ đã phát huy được hết nỗ lực, tận dụng được các

thế mạnh tại thị trường của Việt Nam. Ví dụ triết lý “tôn trọng cá nhân” tạo nên

môi trường bình đẳng của công ty Sony tại Việt Nam.

Triết lý kinh doanh của một số doanh nghiệp

Tập đoàn “Castrol Việt Nam” áp dụng triết lý “tạo ra một nhu cầu tiêu dùng

thực sự và đáp ứng các nhu cầu đó với mức cao nhât”. Bắt đầu vào kinh doanh ở

Việt Nam từ tháng 1 – 1992, do SaigonPetro góp vốn 40% và Castrol Limited

60%, những ngày mới thành lập công ty mới chỉ có 5 người trong đó có 3 người 21

Page 22: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

nước ngoài, đến tháng 4 - 1998 lên tới 165 người, chỉ còn một người nước ngoài và

nâng tổng số đầu tư lên 12 triệu USD, gấp 2 lần so với vốn đầu tư ban đầu.

Tập đoàn Canon với triết lý “Kyosei” Canon định nghĩa Kyosei là: “Tất cả

mọi người, không kể chủng tộc, tôn giáo hay nền văn hoá, sống hoà thuận và làm

việc cùng nhau cho tương lai”. Triết lý này đã xuyên suốt tại Canon trong mọi khía

cạnh trong kinh doanh, cống hiến cho xã hội cũng như môi trường.

Triết lý của Samsung: Tại Samsung, chúng tôi thực hiện một triết lý kinh

doanh đơn giản: cống hiến tài năng và công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm và

dịch vụ siêu việt, bằng cách đó đóng góp cho một xã hội toàn cầu tốt đẹp hơn.

Mỗi ngày, chúng tôi mang triết lý này áp dụng vào cuộc sống. Các nhà lãnh

đạo tích cực tìm kiếm những tài năng sáng giá nhất trên khắp thế giới, và cung cấp

cho họ những nguồn lực cần thiết để thực hiện hết khả năng của mình. Kết quả là

tất cả các sản phẩm của chúng tôi - từ các chip nhớ giúp cho doanh nghiệp lưu trữ

thông tin quan trọng đến những chiếc điện thoại di động kết nối mọi người trên

khắp các châu lục - khiến cuộc sống trở nên phong phú hơn. Và đó chính là điều

giúp tạo ra một xã hội toàn cầu tốt đẹp hơn.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần kể đến một doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư

nước ngoài khi đi vào hoạt động tại Việt Nam đã thể hiện rất tốt triết lý kinh doanh

đó là Unilever. Cụ thể triết lý kinh doanh của Tập đoàn Unilever như sau:

- Tôn chỉ của Tập đoàn Unilever: “Tôn chỉ của Tập đoàn Unilever chúng ta là

thỏa mãn các nhu cầu hàng ngày cảu con người ở mọi nơi, nắm bắt được nguyện

vọng đó một cách sáng tạo và hiệu quả thông qua các dịch vụ và nhãn hàng danh

tiếng nhằm nâng cao chất lượng của cuộc sống”.

Tầm nhìn của Unilever Việt Nam:

22

Page 23: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Gốc rễ sâu của chúng tôi trong văn hóa bản địa và các thị trường trên

toàn thế giới là sự kế thừa không thể sánh kịp của chúng tôi và nền tảng cho sự

phát triển trong tương lai của chúng tôi .

Chúng tôi sẽ mang kiến thức và kinh nghiệm quốc tế của mình để phục

vụ những người tiêu dùng trong nước – thực sự là một công ty đa quốc gia đa nội

địa ( a truly multilocal mutilnational).

Thành công dài hạn của chúng tôi cần phải có sự cam kết toàn bộ cho các

chuẩn mực đặc biệt về kết quả hoạt động và năng suất, về cùng nhau làm việc một

cách hiệu quả và về mong muốn nắm lấy những ý tưởng mới và liên tục học hỏi.

Chúng tôi tin rằng để thành công cần phải có các chuẩn mực cao hành vi

của doanh nghiệp đối với nhân viên, người tiêu dùng, xã hội và thế giới mà chúng

ta đang sống.

Đây là con đường mà Unilever để đi đến phát triển bền vững, sinh lợi cho

hoạt động kinh doanh của chúng tôi và tạo ra giá trị dài hạn cho các cổ đông và

nhân viên của mình.

Tuy nhiên, không phải bất kỳ một nhà kinh doanh nước ngoài nào cũng thực

hiện tại Việt Nam một triết lý kinh doanh và quản lý tích cực. Những người chỉ coi

Việt Nam như một thị trường mới lên, có thể tranh thủ kiếm chác và làm giàu thì

không thể có và trung thành với một triết lý kinh doanh tích cực. Những nhà kinh

doanh có ý định làm ăn lâu dài tại Việt Nam sẽ gặp một trở ngại chung là sự khác

biệt về văn hóa. Vì vậy, triết lý kinh doanh của họ, trong trường hợp tích cực cũng

khó có khả năng và điều kiện phát huy vai trò của nó ra khỏi phạm vi một doanh

nghiệp.

23

Page 24: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

2.4.Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH, các

công ty cổ phần:

Điều kiện hình thành và phát triển triết lý kinh doanh

Các doanh nghiệp tư nhân có điều kiện thuận lợi hơn các doanh nghiệp Nhà

nước trong việc phát huy tác dụng của triết lý kinh doanh. Cụ thể:

Ở khu vực nhà nước thường phải chịu sự chỉ đạo rất khắt khe từ cấp trên

nhưng hiệu quả làm việc lại không đáng kể. Trong khi đó, ở khu vực tư

nhân, do không phải chịu sự cai quản và sức ép của nhiều cấp trên, những

người lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân dễ dàng hơn so với đồng nghiệp của

họ. Hơn nữa, ở các doanh nghiệp tư nhân, do họ tự trang trải kinh phí và

nguồn vốn hoạt động nên quá trình hoạt động của họ được thực hiện gắt gao

và quy củ hơn rất nhiều so với tình trạng “của chùa”, “cha chung không ai

khóc” như các doanh nghiệp nhà nước. Vì nếu hoạt động có hiệu quả thì mới

có thể mang lại đc nguồn lợi nhuận cao phục vụ cho các hoạt động của

mình. Đó là lý do trước hết mà các doanh nghiệp chú trọng phát triển triết lý

kinh doanh trong hoạt động của mình hơn doanh nghiệp nhà nước.

Cũng xuất phát từ việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận. Các doanh nghiệp

tư nhân trong sự ảnh hưởng của quá trình kinh tế thị trường, họ ngày càng có

xu hướng đi theo tác phong công nghiệp hóa, làm theo năng lực hưởng theo

lao động, làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít. Nguồn nhân lực thì có

trách nhiệm hơn với công việc so với bộ phận doanh nghiệp nhà nước… Do

vậy, đây là những điều kiện không thể thiếu để triết lý kinh doanh hình

thành và đạt hiệu quả một cách cao nhất.

24

Page 25: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Trong các doanh nghiệp tư nhân, do không có sự chỉ đạo từ trên xuống như

các doanh nghiệp nhà nước, không có chuyện sẽ có một nơi tìm nguồn đầu

tư và mang đến cho bạn làm nên hầu như việc tìm kiếm đối tác hay công

việc đều phải tự xoay xở. Vì vậy, việc “lăn lộn” trong thương trường đã để

lại cho các doanh nghiệp tư nhân nhiều kinh nghiệm kinh doanh hơn. Từ đó

diễn ra quá trình các nhà lãnh đạo tổng kết các kinh nghiệm kinh doanh đúc

rút thành triết lý và truyền bá, giáo dục cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp

Triết lý kinh doanh của một số doanh nghiệp

“Chữ tín là vàng” là triết lý kinh doanh của doanh nghiệp vàng Bảo Tín.

Bảo Tín là một doanh nghiệp tư nhân được hình thành từ nhiều năm nay

nhưng chất lượng sản phẩm và sức ảnh hưởng vẫn còn rất lớn trong khi có

rất nhiều doanh nghiệp khác mọc lên. Trải qua nhiều năm hoạt động bản

thân doanh nghiệp cũng nhận thấy rằng nhận được sự tin tưởng của khách

hàng là một điều kiện vô cùng thuận lợi để giúp mình có thể đứng vững trên

thị trường và phát triển mạnh mẽ hơn. Đây chính là kinh nghiệm lâu năm

được chuyển hóa thành triết lý kinh doanh cho doanh nghiệp.

“Đẹp và hơn thế nữa” là triết lý kinh doanh của hãng thời trang Foci;

Sứ mệnh của FPT là “FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, giàu

mạnh bằng nỗ lực lao động sáng tạo trong khoa học kĩ thuật và công nghệ,

làm khách hàng hài lòng, góp phần hưng thịnh quốc gia. Mục tiêu của công

ty là nhằm đem lại cho mỗi nhân viên của mình điều kiện phát triển tốt nhất

về tài năng, một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần”.

Nhưng muốn có một bản triết lý kinh doanh tích cực, người lãnh đạo doanh

nghiệp phải có nhiệt tâm theo đuổi nghề nghiệp của mình và phải có đủ tài đức.

25

Page 26: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Song nhìn chung, triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân mới chỉ

dừng lại ở câu khẩu hiệu hoặc những câu quảng cáo chứ chưa mang đầy đủ các nội

dung của một bản triết lý kinh doanh. Nguyên nhân chính là do họ thiếu kiến thức,

chỉ có 11% các doanh nhân của tư nhân có kiến thức cơ bản về kinh doanh.

Mặt khác, với triêt lý “tiền là tiên, là phật” một số doanh nghiệp tư nhân bị

chi phối bới lối làm ăn “đánh quả”, “mì ăn liền”, gian lận, những khía cạnh đạo

đức trong kinh doanh chưa được coi trọng đúng mức. Những triết lý vị kỷ, tư lợi

đó không thể phát huy được tinh thần đoàn kết, cộng đồng cùng thúc đấy doanh

nghiệp tiến lên vì mục tiêu chung.

Nhìn chung, nước ta còn thiếu vắng những nhà kinh doanh thành đạt nhờ kết

hợp công nghệ kinh doanh với lý tưởng cao cả. Với thực trạng và trình độ phát

triển như hiện nay, chúng ta còn rất yếu kém so với trình độ và khả năng chung của

các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới. Có rất nhiều nguyên nhân trong

đó có thể kể đến một số nguyên nhân sau:

- Chúng ta chưa chú ý đúng mức đến lý tưởng của các cá nhân và tổ chức, chưa

có một phong cách kinh doanh nào cụ thể phát huy được các giá trị nhân văn của

con người Việt Nam trên mặt trận kinh tế.

- Vai trò của các triết lý kinh doanh bao hàm được các giá trị chân, thiện, mỹ

còn mờ nhạt trong các hoạt động kinh doanh của nước ta hiện nay.

Muốn giải quyết triệt để tình trạng này thì không thể chỉ xuất phát từ phương

diện pháp luật và kinh tế với các chính sách và công cụ của chúng. Cần phân tích

thêm từ phương diện văn hóa doanh nghiệp.

26

Page 27: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT HUY TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA CÁC

DOANH NGHIỆP VIỆT NAM THỜI KỲ HỘI NHẬP

3.1. Điều kiện để triết lý kinh doanh phát huy tác dụng

Như chúng ta đã biết, sự ra đời của triết lý doanh nghiệp, cần có sự hội đủ

những nhân tố khách quan và chủ quan, có những triết lý doanh nghiệp tích cực-

đối tượng nghiên cứu của chúng ta – có cả triết lý kinh doanh và triết lý doanh

nghiệp tiêu cực cần được phê phán, loại bỏ trong việc xây dựng văn hóa kinh

doanh.

Một văn bản triết lý doanh nghiệp tích cực khi đã được tạo lập rồi chỉ phát

huy được vai trò của nó khi bộ phận lãnh đạo, quản lý gương mẫu thực thi. Nếu

những người lãnh đạo không trung thành với nó, “ nói một đằng làm một nẻo”,

hoặc chỉ thực hiện nó khi gặp hoàn cảnh thuận lợi, thì triết lý doanh nghiệp đó chỉ

tồn tại về mặt hình thức, không có giá trị.

Sự gương mẫu thực hiện và trung thành với triết lý doanh nghiệp của giới

lãnh đạo- quản lý, đến lượt nó, lại trở thành điều kiện thiết yếu để lực lượng lao

động của doanh nghiệp noi gương, thực thi triết lý một cách tự giác và rộng khắp.

Và khi đã hội đủ cả hai điều kiện từ hai lực lượng cơ bản này của nguồn nhân lực

thì vai trò của triết lý doanh nghiệp mới thực sự được phát huy. Quá trình này sẽ

tiến triển nhanh hơn nếu các nhà lãnh đạo coi trọng nhiệm vụ truyền bá, giáo dục

triết lý doanh nghiệp cho toàn thể nguồn nhân lực. Thậm chí một số nội dung của

văn bản triết lý doanh nghiệp cần được truyền bá ra ngoài xã hội bằng những cách

thức và phương tiện phù hợp như sách, báo, quảng cáo…

Muốn phát huy được vai trò của triết lý doanh nghiệp thì người lãnh đạo

doanh nghiệp phải biết được cả mặt mạnh và mặt yếu của nó.

27

Page 28: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Mặc dù có một tiềm lực và khả năng lớn đối với công tác quản lý doanh

nghiệp, nhưng xét toàn diện, triết lý doanh nghiệp chỉ là một yếu tố cơ bản ( và

cũng là một bộ phận) của hệ thống ( nền ) văn hóa doanh nghiệp. Tác dụng định

hướng, điều tiết hành vi của văn bản triết lý này chỉ là trong phạm vi tổ chức của

doanh nghiệp và thuộc về lĩnh vực kinh doanh.

Không có một doanh nghiệp nào thành công trên thương trường chỉ nhờ

một bản triết lý tốt. Mối quan hệ giữa triết lý doanh nghiệp với các nguồn lực và

phương tiện phát triển khác của doanh nghiệp ( vốn, kỹ thuật, công nghệ, nhân lực,

sự quản lý…) không phải là sự thay thế mà là quan hệ tương tác, lồng ghép và linh

hoạt. Chẳng hạn, triết lý doanh nghiệp không thể thay cho việc lập các kế hoạch

kinh doanh, việc ban hành các chế độ và quy định quản lý, việc triển khai các chiến

lược tiếp thị của doanh nghiệp v.v…nhưng nó có thể làm cho các công tác trên

được thực hiện đúng đắn hơn, với tinh thần tự giác và phấn khởi hơn, có văn hóa

hơn.

Triết lý doanh nghiệp là yếu tố rất ổn định so với các nguồn lực khác của

doanh nghiệp. Nhưng khi môi trường kinh doanh có sự biến đổi sâu sắc thì triết lý

doanh nghiệp nói riêng, văn hóa doanh nghiệp nói chung, cũng cần được điều

chỉnh cho phù hợp.

3.2.Giải pháp phát huy triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong

thời kỳ đổi mới

3.2.1.Tăng cường nghiên cứu, giảng dạy và quảng bá triết lý kinh doanh

Điều kiện đầu tiên để sử dụng và phát huy được vai trò của triết lý kinh

doanh là phải có nhận thức đúng và đầy đủ về nó, bao gồm cả mặt mạnh và mặt

yếu, ưu điểm và khuyết điểm. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, triết

28

Page 29: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

lý kinh doanh mà hình thức quan trọng nhất là triết lý doanh nghiêp đã trở thành

một công cụ quản lý chiến lược rất quan trọng, là coi cốt lõi và nền tảng của văn

hóa doanh nghiệp. Nhưng ở nước ta hiện nay, triết lý doanh nghiệp vẫn còn là một

vấn đề tương đối mới mẻ. Bởi vậy vấn đề nghiên cứu, giảng dạy về triết lý kinh

doanh, triết lý doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trọng, không thể bỏ qua, đối với

nhiệm vụ nâng cao năng lực kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt

Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công việc nghiên cứu về triết lý kinh doanh cần tiến hành theo ba bước

chính:

Tìm hiểu về triết lý kinh doanh của nước ngoài, tập trung vào triết lý kinh

doanh của các công ty, tập đoàn xuất sắc của thế giới, từ đó rút ra những

kinh nghiệm, bài học thiết thực cho ta.

Ví dụ: Tập đoàn ô tô Trường Hải( Trường Hải Group) đã xây dựng

triết lý kinh doanh riêng của mình trên cơ sở học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu

triết lý kinh doanh của nước ngoài, tập trung chủ yếu vào triết lý kinh doanh

của các công ty, tập đoàn xuất sắc của thế giới, từ đó rút ra những bài học

kinh nghiệm thiết thực. Trong các triết lý kinh doanh nước ngoài, Trường

Hải đặc biệt quan tâm đến triết lý kinh doanh của Ford. Ford là một công ty

dẫn đầu quốc tế trong nghành ô tô và các dịch vụ sản phẩm có liên quan đến

ngành ô tô cũng như trong các ngành non trẻ như hàng không, viễn thông và

các dịch vụ tài chính. Triết lý của Ford là “không ngừng cải tiến sản phẩm

và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giúp chúng ta phát triển

trong kinh doanh và đem lại lợi nhuận hợp lý cho cổ đông, những người sở

hữu công ty chúng ta.”

29

Page 30: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Nghiên cứu về triết lý kinh doanh truyền thống của dân tộc ta trong lịch sử

Việt Nam, để tìm ra những nét bản sắc phong cách kinh doanh truyền thống

cần phát huy trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa các nền kinh tế hiện

nay.

Nghiên cứu về thực trạng của triết lý kinh doanh trong các doanh nghiệp

nước ta hiện nay để phê bình mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của nó,

giúp cho doanh nghiệp xây dựng và hoàn thiện triết lý phát triển của mình.

Công việc nghiên cứu triết lý kinh doanh có liên quan chặt chẽ, liên hệ biện

chứng với công việc giảng dạy và quảng bá về nó, trước hết là trong các trường,

khoa giảng dạy về quản trị kinh doanh, văn hóa kinh doanh… Người học về kinh

tế, quản trị kinh doanh cần thấu hiểu và sử dụng được triết lý kinh doanh như một

công cụ trong hoạt động và sự nghiệp của mình. Ở phạm vi rộng hơn, xã hội cần có

một cách hiểu tích cực và thống nhất về triết lý kinh doanh qua sự thành công, phát

triển của các doanh nghiệp kinh doanh có văn hóa.

Công việc quảng bá về triết lý kinh doanh không chỉ do các nhà nghiên cứu

và giảng dạy tiến hành mà cái chính là phải do các doanh nghiệp kiên trì thực hiện.

Cách thức quảng bá có thể tiến hành lồng ghép vào các chương trình quảng cáo sản

phẩm, xây dựng thương hiệu nhưng chủ yếu phải bằng chính hoạt động và hiệu

quả kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua sự đóng góp của họ cho xã hội.

3.2..2.Nhà nước tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tạo ra môi

trường kinh doanh thuận lợi, công bằng, minh bạch

Thể chế kinh tế thị trường ở đây bao gồm hệ thống pháp luật và hệ thống tổ

chức điều hành của nhà nước đối với các doanh nghiệp, doanh nhân. Thể chế kinh

tế thị trường sẽ tạo ra một môi trường được ví như là một sân chơi bằng phẳng, nhà

30

Page 31: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

nước có vai trò là người trọng tài khách quan, vô tư, khuyến khích các doanh nhân,

doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư và kinh doanh lâu dài, cạnh

tranh công bằng, người nào giỏi và tốt sẽ được phần thưởng xứng đáng, người kém

hoặc xấu sẽ bị thị trường trừng phạt như thua lỗ, phá sản hoặc bị pháp luật và công

luận kết tội.

Hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi Luật Doanh nghiệp

có hiệu lực ( năm 2000) đến nay, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa của nước ta đang được hoàn thiện từng bước, từng bước một. Thế nhưng tình

trạng các doanh nghiệp nhà nước được hưởng chính sách bảo hộ, ưu đãi cả Nhà

nước hoạt động kém hiệu quả vẫn diễn ra ở mức độ và phạm vi đáng lo ngại. Hiện

tượng tập trung quá nhiều quyền lực, nguồn lực của các gia vào các PMU với “các

doanh nghiệp sân sau” của nó mà PMU 18 là trường hợp điển hình, không chỉ tạo

ra một sân chơi gồ ghề, lồi lõm mà còn triệt tiêu động lực tích cực của nhiều doanh

nghiệp. Trong tình hình như vậy, lối làm ăn chụp giật, phi văn hóa sẽ thắng thế lối

kinh doanh có văn hóa, nếu xuất hiện các triết lý kinh doanh thì sẽ có tính chất tiêu

cực có thể “ trói chân, trói tay” những doanh nhân, doanh nghiệp tích cực và làm

giảm hiệu lực, thậm chí làm vô hiệu văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh tốt

đẹp mà họ theo đuổi.

Muốn văn hóa kinh doanh, mà cốt lõi của nó là triết lý kinh doanh, được sử

dụng, phát huy vai trò tích cực của nó thì nhà nước cần tiếp tục đổi mới thể chế,

nâng cao năng lực quản lý nền kinh tế thị trường ở nước ta theo các nguyên tắc

công bằng, công khai, minh bạch, đáp ứng các thách thức, yêu cầu mới của thời kỳ

xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng các thách thức

yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế. Mặt khác cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp nước ta cũng cần

31

Page 32: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

không ngừng mở rộng tầm nhìn, biết tranh thủ thời cơ, phát huy sức mạnh của văn

hóa dân tộc để chủ động đối mặt với các thách thức mới của thì trường trong nước

và quốc tế.

3.2.3.Khuyến khích các doanh nhân, doanh nghiệp chú trọng việc xây dựng triết lý

kinh doanh, triết lý doanh nghiệp và kiên trì vận dụng, phát huy nó vào trong hoạt

động kinh doanh

Triết lý kinh doanh như đã nói ở các mục trên, thể hiện lý tưởng, tầm nhìn

và phương thức hành động của các chủ thể kinh doanh có văn hóa. Xây dựng một

văn bản triết lý kinh doanh của doanh nghiệp phải mất nhiều năm hoạt động và suy

nghĩ. Việc áp dụng, phát huy nó vào thực tế hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của

doanh nghiệp đòi hỏi không chỉ người lãnh đạo mà cả đội ngũ các bộ, nhân viên

của doanh nghiệp phải có niềm tin sâu sắc và có tính kiên trì theo đuổi sự nghiệp

chung, tinh thần vượt lên khó khăn gian khổ… Trong điều kiện thể chế thị trường

chưa hoàn thiện, môi trường cạnh tranh chưa công bằng, việc theo đuổi một triết lý

kinh doanh có văn hóa có thể tạo ra tình trạng “ trói chân, trói tay” cho doanh

nghiệp, làm giảm sức cạnh tranh trong giai đoạn khởi nghiệp của nó so với các đối

thủ kinh doanh phi văn hóa. Song nhìn tổng thể và lâu dài, triết lý kinh doanh tốt sẽ

là cơ sở và động lực để doanh nhân, doanh nghiệp phát triển bền vững, tạo ra nhiều

sản phẩm và giá trị cho xã hội.

Nhóm chúng tôi rất chú trọng yếu tố của nhà lãnh đạo vì đây chính là những

người đứng đầu tổ chức – phong cách lãnh đạo của họ sẽ góp phần quan trọng hình

thành nên triết lý kinh doanh của doanh nghiệp. Và cũng chính họ sẽ quyết định

phương hướng, triết lý kinh doanh theo mục đích nào. Vì vậy, muốn kinh doanh

bền vững, phải đi từ những điều cơ bản nhất. Các doanh nghiệp kinh doanh thành

công và có thương hiệu lớn trên thị trường nội địa cũng như trên toàn thế giới đều

32

Page 33: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

đã xác định mục tiêu và xây dựng cho doanh nghiệp mình một triết lý kinh doanh

ngay từ đầu.

Theo sơ đồ Pareto, 20% người giỏi tạo ra 80% hiệu quả của doanh nghiệp.

Một câu hỏi đặt ra: người giỏi luôn được trải thảm, mời mọc, họ thừa khôn ngoan

để chọn cho bản thân mình một người quản lý, một người chủ để phục vụ, thì tại

sao họ không làm việc cho doanh nghiệp khác mà làm việc cho doanh nghiệp bạn?

Họ phấn đấu hết sức mình cho bạn? Đem lại cho bạn những giá trị lớn như vậy?

Câu trả lời là người quản lý phải có cái gì đó thu phục họ, có cái gì đó làm

cho họ muốn gắn bó và cống hiến, có cái gì đó họ cảm nhận giống như một phần

của chính họ. Như vậy, việc sử dụng người có tính tương tác hai chiều: sử dụng và

được sử dụng. Nên ngạn ngữ có câu: dùng người thì được người dùng. Dùng người

phải kết hợp giữ “vật” và “tâm”. Thiếu chữ Tâm, là thiếu đi một vế quan trọng của

việc dùng người, và đưa đến sự khập khiễng trong quản lý.

500 công ty đứng đầu thế giới đều nhấn mạnh khẩu hiệu “lấy con người làm

gốc – dùng điều kiện, đời sống của con người để phân tích và giải quyết mọi vấn

đề liên quan tới con người”. Trong văn hóa của những doanh nghiệp này, giá trị cốt

lõi “lấy con người làm gốc”, “phát triển toàn diện con người” đã trở thành một

trong những từ ngữ có tần số xuất hiện cao nhất – đó chính là triết lý kinh doanh

bền vững cho mọi tổ chức dù là khu vực kinh tế nào trong xã hội. Con người ở đây

chính là: cán bộ nhân viên, khách hàng, cộng đồng, xã hội.

Quay về Việt Nam, đến thăm Hoa Sen Corporation (Tôn Hoa Sen, VLXD

Hoa Sen, CKXD Hoa Sen…), hoạt động theo mô hình Công ty mẹ Công ty con.

Sau 06 năm hoạt động, Hoa Sen đã xây dựng hẳn cho mình 70 chi nhánh khắp cả

nước (mua tậm gốc, bán tận ngọn). Một hệ thống bán lẻ trực tiếp đến khách hàng

33

Page 34: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

có qui mô lớn nhất ở Việt Nam. Năm 2004, doanh thu Tổng công ty là 625 tỉ đồng,

lợi nhuận sau thuế 18,8 tỉ đồng; năm 2005, doanh thu đạt được hơn 1.071 tỉ đồng;

năm 2006, doanh thu đạt được hơn 1.700 tỉ đồng, lợi nhuận hơn 110 tỉ đồng; năm

2007, nhà máy thép cán nguội đi vào hoạt động cuối quí 1, doanh thu Hoa Sen sẽ

đạt 2.200 tỉ đồng, lợi nhuận ước tính từ 120 – 150 tỉ đồng. Số tiền Hoa Sen làm từ

thiện phải tính bằng con số tỉ đồng, ủng hộ, tài trợ cho đội trọng tài Việt Nam, đội

tuyển bóng đá Việt Nam vì màu cờ sắc áo Việt Nam… Dựa vào đâu mà Hoa Sen

Corporation có một kết quả kinh doanh tốt, phát triển nhanh và bền vững như vậy?

Ông Lê Phước Vũ – Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Hoa Sen Corporation

tâm sự: “Tiền bạc chỉ là phương tiện, đức mới là cứu cánh, vì vậy, tôi mong mang

đức đến cho đời”. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, chữ Tâm đã thể hiện rất

rõ trong cái tên công ty, trong logo và trong triết lý kinh doanh (Trung Thực –

Cộng Đồng – Phát Triển) của mình. Chữ Tâm đó không chỉ dừng lại ở cá nhân

ông, ở các cộng sự trực tiếp của ông mà ông còn chuyển tải nó đến từng cán bộ

nhân viên của Hoa Sen. Đây là công việc mà ông Vũ đã đầu tư rất nhiều công sức,

và chính nó đã phát huy tác dụng thật sự, đã - đang - sẽ đem lại cho Hoa Sen

Corporation một sự phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh Việt Nam hội

nhập toàn diện với kinh tế thế giới. Đến nhiều công ty có tên tuổi như SAMCO,

SAPUWA, May Việt Tiến…, chúng ta sẽ thấy chữ Tâm luôn được chú trọng và đề

cao.

Lấy con người làm gốc là thể hiện thước đo giá trị chuyển dịch từ “vật” sang

“người”, phản ánh sự tập trung của việc quan tâm tới số phận con người hiện thực

và quan tâm tới phương hướng giá trị cuộc đời, là hạt nhân của tinh thần thời đại.

Lấy con người làm gốc không chỉ là khẩu hiệu mà là nhân tính, cái tâm của doanh

34

Page 35: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

nghiệp. Đây là việc đầu tư dài hạn và khả năng sinh lợi cao. Nó được chứng minh

qua sự phát triển bền vững của 500 công ty hàng đầu thế giới.

Vậy, muốn phát huy sức mạnh của triết lý kinh doanh trong xã hội nước ta

hiện nay cần thực hiện một số biện pháp chính sau đây:

Chính phủ khuyến khích, tôn vinh các doanh nhân, doanh nghiệp kinh doanh

có văn hóa, có đóng góp xuất sắc vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội

của đất nước, hàng năm nên tổ chức trọng thể các buổi lễ tôn vinh tặng

thưởng thành tích này ở tầm quốc gia vào ngày Doanh nhân Việt Nam ( 23

tháng 10)

Ví dụ: Đảng và nhà nước luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho

các doanh nghiệp phát triển sản xuất và kinh doanh, khuyến khích, tôn vinh

các doanh nhân, doanh nghiệp có văn hóa, có đóng góp xuất sắc cho sự

nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Cụ thể, hàng năm chính phủ

đã tổ chức trọng thể các buổi lễ tôn vinh, các giải thưởng cho các doanh

nghiệp trong đó có hai giải thưởng tiêu biểu đó là: giải thưởng sao đỏ, giải

thưởng sao vàng đất Việt. Giải thưởng sao vàng đất Việt được đánh giá là

giải thưởng có quy mô và có chất lượng tốt nhất Việt Nam, là chứng chỉ

quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong mở rộng thị trường và hội

nhập quốc tế.

Công việc đánh giá, bình chọn chất lượng và năng lực kinh doanh của các

doanh nghiệp cần xem xét về triết lý kinh doanh và văn hóa kinh doanh của

nó như một tiêu chí không thể bỏ qua

Doanh nghiệp cần sử dụng triết lý kinh doanh như là một “ bệ đỡ tư tưởng”

cho văn hóa kinh doanh của nó, lồng ghép nội dung, tinh thần của triết lý

kinh doanh vào các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của doanh nghiệp, trong các

35

Page 36: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

chương trình, kế hoạch hành động khác của doanh nghiệp như chương trình

ISO 9000, chương trình phát triển nguồn nhân lực, phát triển sản phẩm

mới…

Giới khoa học cần kết hợp với giới truyền thông tăng cường việc giới thiệu,

quảng bá cho những triết lý kinh doanh có giá trị trong thực tiễn phát triển

kinh tế của nước ta giai đoạn hiện nay..

Như vậy, khía cạnh của người lãnh đạo, những năng lực mà người lãnh đạo cần

có là phải có khả năng lãnh đạo nhân viên; phải có kiến thức về chuyên ngành;

năng lực quản lý, kinh doanh và nắm bắt chính xác tình hình. Ngoài ra, Nhóm cũng

khẳng định, một người lãnh đạo thành công, là người lãnh đạo phải nắm bắt được

kiến thức của nhân loại với cái tâm trong sáng, có lòng tin mạnh mẽ để tìm kiếm

con đường mới, xét đoán nhìn nhận bản chất của vấn đề bằng tự thân. Cuối cùng là

có khí chất hướng tới sự phát triển thật sự, mở ra một cánh cửa mới cho lịch sử. 

36

Page 37: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

C – KẾT LUẬN

Văn hóa đã và đang trở thành một nhân tố có tác động tới mọi khía cạnh của

hoạt động kinh doanh: Từ tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh, các quan hệ trong

và ngoài doanh nghiệp cho đến phong thái, phong cách của người lãnh đạo và cách

ứng xử giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Với tư cách là một nguồn lực vô

hình, triết lý kinh doanh là một trong những nguyên nhân tạo nên thành công của

các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Thực tế đã khẳng định quản lý doanh nghiệp

được định hướng bởi một triết lý kinh doanh tích cực là một phương pháp, công cụ

để phát triển doanh nghiệp bền vững. Ngày nay, mọi định hướng phát triển cũng

như đường lối chiến lược của tổ chức đều phụ thuộc vào tài năng và phẩm chất của

người lãnh đạo. Đã qua rồi thời của những hoạt động kinh doanh hỗn loạn mà mọi

giá trị văn hóa bị phủ nhận, trong thời kỳ hội nhập – kinh doanh phải gắn liền với

những triết lý nhân bản vì con người mà phát triển, vì con người mà tiến bộ. Đó

cũng chính là kinh nghiệm được đúc kết qua thực tiễn lịch sử, làm nền tảng cho

các doanh nghiệp hiện nay phát triển bền vững và tạo nên những giá trị mang tính

bản sắc toàn cầu.

37

Page 38: Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp VN ngày nay

Danh mục tài liệu tham khảo:

1. PGS, PTS. Nguyễn Thị Doan – PTS. Đỗ Minh Cương, Triết lý kinh doanh

với quản lý doanh nghiệp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999;

2. Đỗ Minh Cương, Triết lý kinh doanh, Tạp chí Thông tin lý luận, Số 7– 1988;

3. Lê Minh Quốc và các chuyên gia của PACE, Bộ sách Đạo kinh doanh Việt

Nam và thế giới – Bạch Thái Bưởi, khẳng định doanh tài nước Việt, NXB

Trẻ, 2005.

4. Bài giảng “Văn hóa kinh doanh” – Trường Đại học kinh tế quốc dân

5. PGS.TS. Phạm Ngọc Thanh: “Những vấn đề lý luận chủ yếu của văn hoá

quản lý”, ĐH Quốc Gia Hà Nội,2008.

6. http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Heidegger-

Triet_ly_la_gi/

7. http://www.docstoc.com/docs/22163663/TRI%E1%BA%BET-L%C3%9D-

QU%C3%82N-S%E1%BB%B0-TRUY%E1%BB%80N-TH%E1%BB

%90NG-VI%E1%BB%86T-NAM

8. http://www.doanhnhan360.com/Desktop.aspx/Lanh-dao-360/Lanh-dao/

Triet_ly_doanh_nghiep/

38