71
Ebook dành tng nhng ai yêu mến nhc sTrnh Công Sơn Trnh Công Sơn Tên tht Trnh Công Sơn Ngày sinh 28 tháng 2 năm 1939 ti Đắk Lk Ngày mt 1 tháng 4 năm 2001 ti Thành phHChí Minh Nghnghip Nhc sĩ Thloi Tình khúc 1954-1975 Tác phm ni tiếng Dim xưa, Bin nh, Tui đá bun Ca sĩ trình bày thành công Khánh Ly, Hng Nhung, LThu, Tun Ngc Trnh Công Sơn (1939–2001) là mt nhc sĩ ni tiếng ca Vit Nam. Trong cuc đời ca ông, ông đã sáng tác trên 600 tác phm, phn ln là tình ca. Nhiu ca khúc ca ông có thông đip phn chiến trong thi kChiến tranh Vit Nam và do đó đã chu scm đoán, hn chế ca chính quyn Vit Nam Cng hòa, và ngay cca chính quyn Cng hòa Xã hi Chnghĩa Vit Nam sau này. Tiu sCuc đời ca Trnh Công Sơn tri qua nhiu giai đon lch svà chế độ cũng như giai đon sáng tác. Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 ti cao nguyên Lc Giao, tnh Đắk Lk. Ông ln lên ti Huế, tt nghip Đại hc Sư phm (khoa Triết hc) ti Qui Nhơn. Sau đó ông trn lính, vào Bo Lc tnh Lâm Đồng và làm nghdy hc. Ông bt đầu viết nhc vào năm 1958. Tác phm đầu tiên (hin còn lưu truyn và được công nhn) ca ông, Ướt mi, được xut bn vào năm 1959. Tđó tên tui ca ông được nhiu người biết đến. Trong nhng năm sau đó, nhc ca ông được phbiến và được nhiu ca sĩ trình din, đặc bit là Khánh Ly. Vì li ltrong nhiu bài hát ca ông có tính cht phn chiến, nhà cm quyn min Nam đã cm lưu hành nhiu tác phm ca ông. Ngay cVit Cng, vn đối lp, cũng không tán thành vic ông gi Chiến tranh Vit Nam là "ni chiến" trong bài Gia tài ca m[1], vì quan đim ca hcho rng đây là cuc chiến tranh chng xâm lược và thng nht đất nước. Tuy nhiên, nhiu

Trinh Cong Son

Embed Size (px)

DESCRIPTION

summary of his life

Citation preview

Ebook dành tặng những ai yêu mến nhạc sỹ Trịnh Công Sơn Trịnh Công Sơn

Tên thật Trịnh Công Sơn Ngày sinh 28 tháng 2 năm 1939 tại Đắk Lắk Ngày mất 1 tháng 4 năm 2001 tại Thành phố Hồ Chí Minh Nghề nghiệp Nhạc sĩ Thể loại Tình khúc 1954-1975 Tác phẩm nổi tiếng Diễm xưa, Biển nhớ, Tuổi đá buồn Ca sĩ trình bày thành công Khánh Ly, Hồng Nhung, Lệ Thu, Tuấn Ngọc Trịnh Công Sơn (1939–2001) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam. Trong cuộc đời của ông, ông đã sáng tác trên 600 tác phẩm, phần lớn là tình ca. Nhiều ca khúc của ông có thông điệp phản chiến trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam và do đó đã chịu sự cấm đoán, hạn chế của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, và ngay cả của chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau này.

Tiểu sử

Cuộc đời của Trịnh Công Sơn trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và chế độ cũng như giai đoạn sáng tác. Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 tại cao nguyên Lạc Giao, tỉnh Đắk Lắk. Ông lớn lên tại Huế, tốt nghiệp Đại học Sư phạm (khoa Triết học) tại Qui Nhơn. Sau đó ông trốn lính, vào Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng và làm nghề dạy học.

Ông bắt đầu viết nhạc vào năm 1958. Tác phẩm đầu tiên (hiện còn lưu truyền và được công nhận) của ông, Ướt mi, được xuất bản vào năm 1959. Từ đó tên tuổi của ông được nhiều người biết đến. Trong những năm sau đó, nhạc của ông được phổ biến và được nhiều ca sĩ trình diễn, đặc biệt là Khánh Ly. Vì lời lẽ trong nhiều bài hát của ông có tính chất phản chiến, nhà cầm quyền miền Nam đã cấm lưu hành nhiều tác phẩm của ông. Ngay cả Việt Cộng, vốn đối lập, cũng không tán thành việc ông gọi Chiến tranh Việt Nam là "nội chiến" trong bài Gia tài của mẹ[1], vì quan điểm của họ cho rằng đây là cuộc chiến tranh chống xâm lược và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, nhiều

bài hát của ông lại rất thịnh hành trong công chúng, thậm chí cho đến tận ngày nay.

Trịnh Công Sơn và Phạm Duy

Một số bài hát của Trịnh Công Sơn đã đến với công chúng Nhật Bản năm 1970 như Diễm Xưa (do Khánh Ly biểu diễn bằng cả tiếng Nhật và tiếng Việt), Ca Dao Mẹ.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân đội Cộng sản Việt Nam đã phát thanh bài Nối vòng tay lớn của ông sau khi họ chiếm đài truyền thanh Sài Gòn. Ông không theo gia đình rời khỏi Việt Nam và bị gửi đến vùng kinh tế mới bốn năm. Một thời gian dài sau 1975, nhạc của ông bị cấm đoán hay ngấm ngầm tẩy chay cả ở tại Việt Nam và hải ngoại.

Vào những năm ngay sau 1975, ông làm việc tại Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí Sóng nhạc, và có viết một số bài có nội dung ca ngợi chế độ mới như Thành phố Muà Xuân, Em ở nông trường em ra biên giới, Huyền thoại Mẹ... Thời gian sau, khi nhà nước nới lỏng quản lý văn nghệ, ông lại đóng góp nhiều bản tình ca có giá trị.

Sau một thời gian bị bệnh gan và thận, ông mất vào ngày 1 tháng 4 năm 2001 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh tiểu đường. Cho đến tận khi mất, dù nhiều tin đồn ông có liên hệ tình cảm với nhiều phụ nữ, ông vẫn chưa lần nào kết hôn với ai. Từ đó, hàng năm, ngày cá tháng tư được mặc định làm ngày giỗ của Trịnh. Nhiều nơi (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, California, Toulouse...) xuất hiện nhiều buổi biểu diễn nhạc Trịnh, cả trên sân khấu lẫn các quán cà phê sinh viên.

Ca sĩ hát nhạc Trịnh

Một số ca sĩ hát nhạc Trịnh Công Sơn thành công được khán giả biết đến là Khánh Ly, Lệ Thu, Trịnh Vĩnh Trinh (em ruột của Trịnh Công Sơn), Hồng Nhung, Cẩm Vân, Tuấn Ngọc, Thái Hiền,... Các ca sĩ Việt Nam khác cũng ít nhiều thử nghiệm với các ca khúc của Trịnh Công Sơn như Lan Ngọc, Quang Dũng, Thanh Lam, Trần Thu Hà.

1. ▲ Bài này hiện nay vẫn bị cấm lưu hành tại Việt Nam.

Nhận xét

Nhận xét của nhạc sĩ Văn Cao: "Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra". Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ là ở chính chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả ngoài biên giới nữa ..."

Sáng tác

Sau đây là một số sáng tác tiêu biểu của Trịnh Công Sơn:

• Ướt mi (sáng tác đầu tay - 1958) • Bài ca dành cho những xác người

(về sự kiện Tết Mậu Thân) • Biển nhớ • Bốn mùa thay lá • Ca dao mẹ • Cát bụi • Chiếc lá thu phai • Cho một người vừa nằm xuống • Còn tuổi nào cho em • Cuối cùng cho một tình yêu • Dấu chân địa đàng (Tiếng hát Dạ

Lan) • Diễm xưa • Du mục • Đại bác ru đêm • Đóa hoa vô thường • Em còn nhớ hay em đã quên • Gia tài của mẹ • Hạ trắng • Hát trên những xác người (về sự

kiện Tết Mậu Thân) • Huế, Sài Gòn, Hà Nội • Khói trời mênh mông • Lại gần với nhau • Lời buồn thánh • Lời thiên thu gọi • Một cõi đi về

• Nắng thủy tinh • Ngày dài trên quê hương • Ngụ ngôn mùa đông • Ngủ đi con • Người con gái Việt Nam da

vàng • Người già em bé • Nhớ mùa thu Hà Nội • Như cánh vạc bay • Như một lời chia tay • Nối vòng tay lớn • Nước mắt cho quê hương • Phôi pha • Quỳnh hương • Ru tình • Thành phố mùa xuân • Tình nhớ • Tình xa • Tôi ơi đừng tuyệt vọng • Tôi ru em ngủ • Tôi sẽ đi thăm • Tự tình khúc • Vẫn có em bên đời (bài hát

trong phim Pho tượng) • Vết lăn trầm • Xa dấu mặt trời • Xin trả nợ người • Yêu dấu tan theo

Hội quán Hội Ngộ - Làng du lịch Bình Quới

Làng Du Lịch Bình Quới 1, thuộc Tổng Công Ty Du Lịch Sài Gòn,cách trung tâm thành phố 08 km nằm ven sông Sài

gòn,một địa điểm lý tưởng để nghỉ ngơi, thư giản, giải trí và ăn uống vào mỗi dịp cuối tuần của người dân thành phố. Với khoảng không gian xanh tươi, tĩnh lặng của những thảm cỏ non mượt mà, cùng bóng mát của những hàng dừa nước nghiêng mình bên dòng kênh Sở Nhật bao đời… đã tạo nên một nét riêng cho Bình Quới. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một lần đến thăm đã bị quyến rũ bởi cái duyên của Bình Quới và ông đã chọn nơi này để xây dựng Hội Quán Hội Ngộ hiện nay.

"Hội Quán Hội Ngộ" do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chọn đặt tên khi còn sinh thời và chính thức trở thành "Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn" kể từ sau ngày mất của nhạc sĩ. Ngôi nhà mang tên Hội Ngộ, tọa lạc trong khuôn viên Làng Du Lịch Bình Qưới 1 ( Số 1147, đường Bình Qưới, Phường 28,

Quận Bình Thạnh. Đây là nơi lưu giữ những kỷ niệm của bạn bè và người hâm mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn , và là điểm sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật của công chúng.

Vào năm 1999, theo nhã ý của bạn hữu, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đồng ý chọn phần đất rợp bóng cây, cạnh dòng kênh Sở Nhật, trong một không gian tĩnh lặng ven sông Sài Gòn để làm nơi gặp gỡ của những người yêu âm nhạc, hội họa, văn thơ.... Và Hội Quán Hội Ngộ đã được các bạn hữu phối

hợp cùng Saigon Tourist xây dựng, dành cho nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn. Khởi công từ tháng 9 năm 2000, khu nhà khách của Hội Quán đã hoàn thành vào tháng 1 năm 2001. Hội Quán do Kiến trúc sư Nguyễn Văn Tất thiết kế như một món quà riêng tặng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Kể từ ngày đi vào hoạt động đến nay, Hội quán hội ngộ thường xuyên tổ chức những đêm nhạc tưởng niệm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và đã nhận được sự hưởng ứng, cổ vũ nhiệt tình của công chúng. Khoảng trên hai mươi chương trình "Đêm nhạc Trịnh Công Sơn" đã diễn ra nơi đây, và hòan tòan là những đêm nhạc miễn phí, không bán vé, dành cho công chúng và hội viên

Hội quán Hội Ngộ. Ban tổ chức cũng nhận được sự nhiệt tình, tham gia tình nguyện của các nhạc sĩ, ca sĩ chuyên nghiệp và và không chuyên dành cho hội quán.

Bên cạnh những đêm nhạc Trịnh Công Sơn thu hút từ hàng ngàn người cho đến năm, sáu ngàn người

như "Nối vòng tay lớn", "Vết lăn trầm", "Cho trái đất đừng cô đơn", "Diễm xưa", "Hãy yêu nhau đi", "Tiêng hát Lan Ngọc với những tình khúc vượt thời gian", "Ca khúc Da vàng", "Tuổi đời mênh mông", "Người về bỗng nhớ"... Hội quán còn tổ chức những đêm nhạc của các nhạc sĩ khác: "Mãi mãi là tình yêu" giới thiệu các ca khúc của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, giới thiệu về nhạc sĩ Bảo Phúc, nhạc sĩ Trần Mạnh Tuấn ... Đặc biệt còn có sự tham gia biểu diễn nhạc cụ dân tộc của Nghệ sĩ Nhân dân Đỗ Lộc.

"Hội Quán Hội Ngộ" là một tổ chức văn hóa của những người yêu văn hóa - nghệ thuật, hội quán hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Giám Đốc Làng Du Lịch Bình Qưới, tuân theo pháp luật và những quy định quản lý của ngành Văn hóa thông tin. Hội quán là nơi hội viên hưởng thụ và phát triển khả năng văn hóa, nghệ thuật với hội viên và công

chúng.

Hội Quán chính thức thành lập ngày 17/ 8 năm 2000, và đi vào hoạt động cho đến nay, đã tập hợp được lực lượng hội viên khá đông đảo (gần 400 hội viên) bao gồm những người yêu mến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tình nguyện tham gia, chấp hành theo điều lệ hội, thực hiện nhiệm vụ chính của Hội là xây dựng Hội quán vững mạnh về chất lượng, đúng nghĩa là một tổ chức tập hợp những người có tấm lòng với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thể hiện sự tri ân người nhạc sĩ tài hoa đã để lại cho đời những tác phẩm âm nhạc bất hủ.

Đời Và Nhạc Trịnh Công Sơn

Của tác giả Đăng Tiến Trịnh Công Sơn chánh quán Huế, làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh Hương nay sát nhập vào Bao Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng của Huế ngày xưa. Anh sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, tại Lạc Giao, tỉnh Đắc Lắc, lớn lên trong một gia đình buôn bán giữa trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai năm gái, mà anh là con trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả. Trịnh Công Sơn theo học chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2. Năm ấy, 1955, cùng lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh thoảng mang đàn vĩ cầm vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công Sơn chơi guitare đã hay. Trường giải thể, dời vào Đà Nẵng, Trịnh Công Sơn có lúc theo học trường Thiên Hựu, Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học tại trường Jean Jacques Rousseau. Sau đó vào học trường Sư Phạm Quy Nhơn, rồi đi dạy học vài năm tại Lâm Đồng. Anh tự học nhạc một mình, và đã kể lại : Thưở ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar như một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát. Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong... Đó là những năm 56 - 57, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ... Dạo ấy ba tôi đã mất ...1 Những câu hỏi người tò mò có thể đặt ra : một người chỉ học trường Pháp, giáo trình Việt ngữ rất hạn chế và lỏng lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến như thế ? Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất sắc. Bạn bè nhận được thư riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay. Tự học đàn hát, rồi sáng tác một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng tác nào, như những người đi trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại Nam Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một mình. Câu hỏi tò mò thứ hai : tự học nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng tác và tranh đấu, làm sao anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần lớn được yêu chuộng ? Nói rằng Trịnh Công Sơn là thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên một đất nước như Việt Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như Việt Nam - nhất là sau cuộc đổi đời 1975 - thật không đơn giản. Mục đích của bài này là giải thích sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, giải mã hiện tượng Trịnh Công Sơn và tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những trầm luân của đất nước, chủ yếu là khúc quanh 1975. Chúng tôi cũng muốn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về sau một số tư liệu rải rác đây đó, e mai đây khó kiếm, khi những than khóc và tung hô đã lắng xuống Về hoàn cảnh sáng tác ban đầu, Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Đất Việt, năm 1985 : " Đến năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè

nghe chơi. Sau đó thấy có hứng thú sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm 1959, tôi viết bài Ướt Mi và được bạn bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu thêm về nhạc, trao đổi thêm về nhạc lý với bạn bè. Sau đó, tôi

phổ nhạc cho khoảng một chục bài thơ tình yêu (như Nhìn Những Mùa Thu Đi chẳng hạn). Năm 63, tôi có một số sáng tác khá thành công như Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó, tôi đi vào con đường sáng tác Và từ đó, Trịnh Công Sơn nổi tiếng. * Khi đặt câu hỏi : sao một thanh niên, rất trẻ, chỉ học "trường Tây" mà sử dụng tiếng Việt tài hoa đến vậy, tôi không có thành kiến - vì bản thân mình cũng chỉ học "trường Tây"- mà để tìm hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn ngữ. Trịnh Công Sơn, có lẽ - đây là giả thuyết dè dặt - không học nhiều văn chương Việt Nam được giảng dạy ở nhà trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo trường quy, không suy nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới cho lời ca. Lời ca ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào tâm tưởng người nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình Sầu : Tình xa như trời / Tình gần như khói mây / Tình trầm như bóng cây / Tình reo vui trong nắng / Tình buồn làm cơn say ... Cuộc tình lên cao vút / Như chim mỏi cánh rồi / Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay / Mạch lạc nội tại (cohérence organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa : "tình xa như trời" thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như "khói mây" ? "Tình lên cao vút", sao lại "như chim mỏi cánh rồi" ? "Tình reo vui trong nắng", thì phải đối ngẫu với "tình buồn cơn mưa bay" mới chỉnh, sao lại say sưa vào đây ?

Thật ra, mạch lạc nội tại được cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ : những từ lặp lại : tình, chim, như, những vần luyến láy : mây, cây, say, bay, những từ đối lập : xa/gần, vui/buồn. Hình ảnh nối tiếp nhau, không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm giai nâng đỡ, bay bổng, bay thẳng vào tâm tưởng người nghe. Chúng ta thử so sánh, để tìm hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ của Đoàn Chuẩn-Từ Linh : Gửi gió cho mây ngàn

bay Gửi bướm muôn màu về hoa Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư Về đây với thu trần gian ... Hai ca khúc na ná, vì đều là ẩn dụ xâu chuỗi (métaphore filée), nhưng câu sau của Đoàn Chuẩn và Từ Linh được cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố : gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng, trăng+thu. Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được liên kết thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào đó là những câu thất ngôn đường luật rất chỉnh chu : Lá vàng từng cánh / rơi từng cánh Rơi xuống âm thầm / trên đất xưa Bài Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay rất hay, nhưng hay một cách khác, được yêu chuộng ở một giới thính giả khác. Phạm Duy, thời trẻ, đã có những sáng tạo tân kỳ : Buồm về dội nắng đôi vai Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi (Tiếng Đàn Tôi), 1947 Sau đó, anh trở về với ngôn ngữ duy lý : Bao giờ em giở lại vườn dâu (hỡi em) Là một câu thơ tuyệt vời : vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng một nền văn minh đã khuất bóng. Nhưng Phạm Duy lại bồi thêm câu sau : Để anh bắc gỗ xây nhịp cầu (anh) bước sang... (Quê Nghèo, 1948) Thì cái ý đã thu hẹp cái tứ. Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang. (Tôi đã có dịp trình lên anh Phạm Duy ý này, anh cười vui : thế à ?) Tác phẩm Lê Thương uyên bác cả nhạc lẫn lời, đã đựơc người đời yêu thích. Trịnh Công Sơn sẽ không viết được những câu văn vẻ như Lê Thương : Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng, Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng ... (Hòn Vọng Phu) nhưng đã viết : Đàn bò vào thành phố Reo buồn tiếng hạt chuông (...) Đàn bò tìm dòng sông Nhưng dòng nước cạn khô Đàn bò bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn ... (Du Mục) Những hình ảnh ngoài trí tưởng tượng của Lê Thương - ông vua đặt lời ca - theo sự đánh giá của Phạm Duy. Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước. * Trịnh Công Sơn tự học nhạc, chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt đầu sáng tác, được khích lệ, mới "trao đổi nhạc lý với bạn bè", anh không nói rõ là những ai. Câu hỏi thứ hai người tò mò đặt ra là : học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật lấy đâu ra mà sáng tác nhiều, nhanh và hay như thế ? Nhiều người cho là tác phẩm anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng được. Văn Cao nhận xét : "Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển, theo cấu trúc bác học phương tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra" 3. Lối nhạc hồn nhiên, dung dị này lại đáp ứng lại với nhu cầu thời đại, theo Phạm Duy : "Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại" 4. Một thính giả bình thường, yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời : "Xét cho cùng, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta" (Vũ Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận xét không đúng nhưng tiêu biểu. Dù cho rằng nhạc thuật đơn điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học tập, có phần thiên phú. Hoa hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất đai, phân tro, mưa nắng, người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng mới có giá trị cái đẹp hoa hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường. Ta thử nhớ lại thời đại phát sinh tài năng Trịnh Công Sơn. Năm anh 15 tuổi, 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước,

cả hai miền Nam Bắc đều hoá thân trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa mới. Ở miền Nam, văn hoá phương Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi mười lăm. Sách báo, đĩa nhạc Pháp du nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại Paris nhờ trợ cấp hối đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của loại sách bỏ túi và đĩa hát rảnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm theo những phương tiện truyền thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa Pháp, nhưng văn chương Pháp chỉ du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở cuối thế kỷ XIX : uyên bác như Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954, văn hoá Pháp - và phương Tây - du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc Françoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddeger. Nhà văn Bửu Ý, bạn Trịnh Công Sơn - học trước Sơn hai lớp tại Lycée Français Huế - hát Lá Rụng (Les Feuilles Mortes) một lần với Juliette Gréco ; Đời Hồng Tươi (La Vie en Rose) một lần với Edith Piaff, Barbara một lần với Yves Montand ; trong khi Thanh Tâm Tuyền dịch Barbaracủa Jacques Prévert,đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ Nguyễn Xuân Hoàng cũng ngân nga Barbara. Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với Sơn, đi cyclo che nắng bằng sách của Sartre. Người ta thắc mắc về những tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi Đá Buồn, trong khi Thanh Tâm Tuyền viết Đêm Màu Hồng, về sau trở thành phòng trà lừng danh, lại viết thêm Lệ Đá Xanh, được danh hoạ Đinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ thành tranh trừu tượng, v...v... . Song hành với sách báo, các cơ quan văn hoá tây phương mở cửa hoạt động : Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp, Trung Tâm văn hoá Đức ... dĩ nhiên là với những động cơ chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ nhấn mạnh ở ảnh hưởng văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền Nam. Những Chiều Chủ Nhật Buồn nằm trong căn gác đìu hiu.. ô hay mình vẫn cô liêu, rồi đến Ngày chủ nhật buồn còn ai, còn ai : ... Tuổi buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ... Không thể không nhắc đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seress Rejso, nghe nói đã có người tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh hành một thời. Trong bài viết "Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng" anh đã tiết lộ " tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình ". Ví dụ như : Vết lăn trầm hằn lên phiến đá mà anh gọi là di thạch : roche errante, người hát không hiểu gì, nhưng vẫn thích hát ! Nhưng nói là Rolling Stones cũng không sai. Ca khúc Trịnh Công Sơn gợi suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một thiểu số và ảo tưởng trí thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu, ở mục Tìm Bạn Bốn Phương trên các báo, tự giới thiệu là "yêu màu tím" và "nhạc họ Trịnh", hay "nhạc TCS" viết tắt. Thời kỳ này, Nguyễn văn Trung đã viết bài Ảo Ảnh Thanh Thuý. Nói về ảo ảnh Trịnh Công Sơn, ông ấy cũng có thể viết một bài hay. Nhạc Trịnh Công Sơn đơn giản : một nhược điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét về Trịnh Công Sơn " Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này ". Lại là một yêu cầu khác của thời đại : những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây đàn ghi-ta. Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một nhóm, hay trước quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh niên : Nó khác với nhạc phòng trà,

có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả đi nghe (và nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc. Thời Trịnh Công Sơn cũng là thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur compositeur interprète) chẳng bao năm mà trở thành huyền thoại : Jacques Brel, Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung phản chiến, mà còn vì phong cách trình diễn. Nhạc Trịnh Công Sơn không phải là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc lý Việt Nam thời đó, như Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần chúng. Trịnh Công Sơn có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài, cũng không quá đáng. * Phân chất những lớp phù sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có nói đến những ảnh hưởng ngoại lai : " Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D. Ellington... Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình ". 5 Và cũng trên số báo Đất Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng : " Những năm 64-66, sáng tác có chất Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca ". "Chất dân ca" ở đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát ; "Dân ca" ở đây không phải là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam. Sau này, thỉnh thoảng người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong " Thuở Bống là Người ", hay điệu ru dân tộc, như " Lời Mẹ ru Con " thì cũng chỉ là đôi biệt lệ, không tiêu biểu. Gần đây, sách báo thường trích dẫn câu Trịnh Công Sơn : " Tôi chỉ là tên hát rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo ". Lại phải hiểu chữ " hát rong " theo nghĩa hiện đại : không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những baladins itinérants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận, Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là "người du ca chính hiệu" : " Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ. Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây. Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế ". Trong Cõi Tạm, ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái. Văn Cao cũng là một người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân

mật, anh thường nói "Sơn là một troubadour (kẻ hát rong) có tài". Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa "kẻ ngợi ca" : " bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền " 6. Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời Buồn Thánh. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng 8/2000. Năm 1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau. Khi Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là có ý trang trọng. Các vị ấy tài cao, ý sâu mà lòng thì rộng rãi ; cho nên lời cũng khoáng đạt. * Hôm qua trăng sáng lờ mờ Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh Người con gái Việt Nam da vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che dấu khát vọng tình yêu, chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ. Đời sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues, nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard ... Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi : cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng phụ nữ : người phụ nữ Pháp đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1944 mới có quyền đầu phiếu. Người phụ nữ Việt Nam cũng vậy thôi : sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của Ý Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo, trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt. Đan áo là hình ảnh ẩn nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ, chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ đan áo. Mà chỉ ... ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao .... Mai kia, có ra đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ. Người đàn bà trong Trịnh Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu, thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến ... làm gì ? Người phụ nữ nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả, không phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là không phải ... đi lấy chồng : hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài suốt nửa thế kỷ : Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước mắt... Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ ... Và, ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã Ba Đồng Lộc ... Sau 1975, khi " Em ở Nông trường, em ra Biên giới " thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm. Trong xã hội Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng, và tôn trọng đúng mức. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải

phóng và tôn trọng. Tôn trọng người đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn nhiên đã hiểu ra và nói vào điều đó. * Nhạc phản chiến, đòi hỏi hoà bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có nhiều người viết về đề tài này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tại Californie, anh Đỗ Ngọc Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến cách đây 40 năm và 20 năm. Tôi không đủ thì giờ viết về đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay chỉ vội nói ngay mấy ý kiến chủ quan : 1.- Dù đánh giá ra sao đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trong cả hai mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này. Không có Miền Nam, cũng có thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn khác, đại khái như một Phạm Tuyên hay Phan Huỳnh Điểu. 2.- Chính quyền Cộng Sản, sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong nhạc phẩm Trịnh Công Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25 năm chiến thắng, thành công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính sách văn hoá của chính quyền cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công đầu là Thành Uỷ TPHCM. Dùng chữ "chính sách", là để nhìn toàn cảnh, chứ đối với một cá nhân, chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất thành văn. Dù sao, họ cũng chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân Chính Sách Kinh Tế (NEP) những năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu dung những nhà văn, nhà thơ "bạn đường" (Popoutchiki) như Alexis Tolstoi hay Zamiatine. Trong chiến tranh chống Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau 1954, họ không thu phục được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh Công Sơn, như vậy đã là thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về mặt bản chất. Về mặt bản chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái gì khác họ, không phải do họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia và bây giờ không có "tiêu chuẩn" đáp lại quy luật của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước kia "hai mươi năm nội chiến từng ngày" là sai đường lối, bây giờ hỏi "Em còn nhớ hay Em đã quên"vẫn sai lập trường. Chấp nhận - dù trong giới hạn - những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố công bôi xoá, chính quyền TPHCM, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần chúng, đã gián tiếp thừa nhận mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và nhất là trong việc đào tạo một nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính quyền Trung Ương Hà Nội "wait and see" để cho TPHCM "phát huy sáng kiến" ; nếu rách việc thì ra tay chận đứng một "quyết đinh địa phương", nếu vô hại thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở, hoà hợp. 3.- Về phía Trịnh Công Sơn, anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở lại Việt Nam sau 1975, hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi TPHCM là hợp lý, sau khi đã sáng tác Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm... Đó là sự chọn lựa tự do của anh. Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà Trần, mà không phò tá các phong trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô Thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ mới, không hay lắm và ít được hát, ít người biết : âu cũng là điều may mắn cho anh, vì anh đã có một số câu chữ không hay và không cần thiết. Anh là người được hưởng nhiều bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã vào sinh

ra tử trong cả hai cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta Thế. Thật ra, đời không cho ai cái gì mà chỉ đổi chác ; anh đã phải trả giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả thì nhiều người khác phải trả. Ý thức điều đó có lần anh viết : " Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì phải có trách nhiệm với mọi người ". Nói thì ngon lành như thế. Thực tế không đơn giản : người ta cho anh bó hoa, chai rượu. Ai cho anh trách nhiệm ? Anh hát " mỗi ngày tôi chọn một niềm vui ", khi bạn anh, Thái Bá Vân, phó viện trưởng Viện Mỹ Thuật Hà Nội than : "một năm không được một ngày vui". Muốn mua vui, phải vào Sài Gòn ... chơi với Sơn. Nhưng chẳng qua là niềm vui của phận "chim lồng cá chậu" ; Hiểu như thế, bạn bè không đòi hỏi gì nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như anh. Người ta đánh giá một tác giả qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua những tác phẩm mà "lẽ ra" anh ta phải thực thực hiện. Nhân danh cái "lẽ ra" ấy, người làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu là oan khiên, oan khốc và oan khuất. Không những vì chút tình riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương đối, luật chơi, chúng ta nên gạt sang một bên nhiều cái "lẽ ra" đối với Trịnh Công Sơn, mà chỉ xét những cái anh đã làm ra. 4.- Qua bốn mươi năm truân chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào nền văn học nghệ thuật, vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự nghiệp anh đã thành hình và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi người đã biết. Bài này tạm thời chưa nói đến. Ngoài quần chúng cũ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm hao xưa cũ, thì thính giả khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người miền Bắc trước 1975, đón nhận ra sao ? Trong xã hội Việt Nam ngày nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời sống. Nhìn qua một số đĩa hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên chung thường mượn tiêu đề của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng Nhung), Xin Mặt Trời hãy ngủ yên (Mỹ Linh), những tiêu đề nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác, Dương Thụ, Phú Quang, Trần Tiến, Bảo Chấn... đều tài cao, nhưng được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ không đặt ra những câu hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu ? Vì thực tế : sóng thì ... về đâu ? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi như thế, là có cơ nguy bị nhốt vào nhà thương điên. Chủ nghĩa hiện thực xã hội rất nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi diễn ca (prose versifiée), với điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi phẩm của "công thần" Nguyễn Đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến "hàng thần" Trịnh Công Sơn ? Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại được "lời gọi của khoảng trống" (l"appel du vide) và ca khúc là một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre léger), chính quyền dung dưỡng vì có khả năng chận đứng bất cứ lúc nào - như đã làm với nhạc Văn Cao ngày xưa : thậm chí bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang làm với Phạm Duy ngày nay. Trong các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành ? Chính quyền dung dưỡng ca khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng như một thế phẩm (ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần cho bệnh nhân mất ngủ. Trong

khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày nào hay ngày ấy. Họ đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn : Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi Đừng xô tôi ngã dưới chân người Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau Ta xô biển lại sóng về đâu Sóng bạc đầu và núi chìm sâu Ta về đâu đó Về chốn nào mây phủ chiêm bao Xã hội chủ nghĩa có thể tạo ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương. Thiên tài không phải là người không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt chước được mình. 5.- Chứng từ cho giá trị một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại7. Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe : " Mặt trận Đường Chín-Nam Lào (1971)... trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng ... Nghe, nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm - đài Sài Gòn, tình cờ 'gặp' Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm Xưa... Mưa vẫn mưa rơi ... làm sao em biết bia đá không đau ... Quỷ thật ! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên 'ghim' lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay... Quái thật ! ... Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy... ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái Đẹp... Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... Và cũng hơi ma quái thế nào ... "8 Người ác ý có thể ngờ vực : Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội, không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ, hiện ở Berlin : " Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rất tốt. Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn. Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình. Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó " Quý hoá hơn nữa, anh Thọ đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn : " Mặt đất bao la ... anh em ta về ... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng ... Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn... Nối Vòng Tay Lớn Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi doá. Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh "

Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao ? Văn học nghệ thuật Việt Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó ? Sau này, Thọ sang sinh sống tại Đức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc Trịnh Công Sơn : " Ngay cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát "Tôi ơi đừng tuyệt vọng"... và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó "9 Ở một chân trời khác, nhiều người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn, trưa ngày 30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát, thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính quyền mới, âu cũng là một cách cứu vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một huyền thoại Trịnh Công Sơn. Một lần nữa, ông Nguyễn Văn Trung, sau Ảo Ảnh Thanh Thúy nếu viết Trịnh Công Sơn Thực Chất và Huyền Thoại cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay. Nếu có ai đó nói rằng : Trịnh Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn hoá của một chế độ chính trị đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch lý, vớ vẩn. Vớ vẩn như một số lời ca trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự thực ? Sự thực trong bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử. Chế Lan Viên, năm 1984, đã viết : " Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân sự, chính trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn hoá "10. Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn. * " Không xa đời và cũng không xa mộ người..." Trịnh Công Sơn đã xa đời lúc 12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001. Đám tang ngày 4 tháng tư, nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy Tân. Hàng vạn người đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì khác, một tâm tình hay u hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn. André Malraux có nói đâu đây rằng " trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho tượng là vô tội ". Trịnh Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một chế độ chính trị mà các pho tượng cũng không phải là vô tội. Những đoá hoa đặt trên mộ Toa, Sơn ơi, không phải là đoá hoa nào cũng vô tội. Bây giờ moa mới khóc Toa đây. Tại nhà moa, ngồi ở chỗ Toa ưa ngồi vẽ, nhìn dòng sông nhỏ, mà Toa đã gọi là sông An Cựu. Sơn ơi, đời này, và sang đời khác nữa, làm gì có đến hai dòng sông An Cựu ; an cựu, Sơn ơi. ĐĂNG TIẾN

Triết học nhẹ nhàng của Trịnh Công Sơn

Dưới đây là một bài viết về âm nhạc Trịnh Công Sơn qua cái nhìn tinh tế, thấu hiểu của John C. Schafer - một người Mỹ mà qua con đường nghiên cứu và tiếp xúc văn hóa đã trở về với văn hóa Việt.

Đạo Phật với Trịnh Công Sơn là hơi thở là triết học làm cho con người yêu đời hơn chứ không phải là lãng quên sự sống.

Đạo Phật đến với Ông qua nếp sống gia đình, và rồi đi vào âm nhạc của ông ngày càng sâu sắc hơn qua sự trải nghiệm thăng trầm giữa cuộc đời này.

Trịnh Công Sơn có viết: "Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được". Bài này sẽ trình bày rằng thứ "triết học nhẹ nhàng" này chính là triết học Phật giáo.

Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả. Theo Kinh Kim Cương, Tất cả các pháp hữu vi là “như sương mai, như ánh chớp”. Đây là một ý niệm mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đi, nhắc lại trong nhiều lời ca của mình. Giống như con chim ở đậu cành tre và một con cá . . . trong khe nước nguồn, không ai trong chúng ta là những người định cư vĩnh viễn, tất cả đều là những người ở trọ trần gian này. Trong khi tạm cư ở chốn trần gian này chúng ta tìm chỗ ẩn náu trong tình yêu, nhưng rồi tình yêu cũng mất đi.

Tình yêu như tất cả mọi sự khác đều vô thường như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài Đóa hoa vô thường và nhiều bài ca khác. Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn là những lời tuyên bố siêu hình rằng những đổ vỡ tình yêu không phải là những chông gai nho nhỏ trên con đường đời đẹp đẽ vô song. Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn, như Hoàng Phủ Ngọc Tường nói, là những “bài kinh cầu bên vực thẳm”. Các bài ca này là những lời nhắc nhở cho chúng ta về lẽ vô thường.

Một đề tài Phật giáo khác trong nhạc Trịnh Công Sơn là thuyết luân hồi. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi / Để một mai tôi về làm cát bụi, ông hát trong Cát bụi. Hay Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô, trong Rừng xưa đã khép. Trong các ca khúc của mình Trịnh Công Sơn có vẻ đồng ý với đạo Phật rằng “Hiện tại là hình bóng của quá khứ và tương lai là hình bóng của hiện tại”.

Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu kinh...

Trịnh Công Sơn cũng tỏ ra chấp nhận thuyết luân hồi của nhà Phật trong những câu mà Trịnh Công Sơn đã làm nhòa nhạt biên giới giữa đi và về, như trong bài Phôi pha: Có những ai xa đời quay về lại / Về lại nơi cuối trời. Nếu chết là để đi đến tái sinh thì khi ta ra đi nghĩa là ta trở lại. Nhìn sống và chết cũng như nhìn nước chảy trên sông và tự hỏi nước đang ra đi hay nước đang trở về. Đó là ý của Trịnh Công Sơn trong Gần như niềm tuyệt vọng: Những ngàn xưa trôi đến bây giờ / Sông ra đi hay mới bước về.

Theo đạo Phật không có cái ta trường cửu nhưng mà có một chút gì trong cái ta đã mất được tiếp nối trong cái ta tái sinh. Quá trình này thường được so sánh như khi ta thắp một cây nến từ một cây nến khác, có cái ra đi và cũng có cái trở lại, một cõi đi về như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài ca cùng nhan đề.

Một ảnh hưởng khác của Phật giáo trong ca khúc của Trịnh Công Sơn là sự mập mờ và siêu lý luận của các câu văn. Nhạc, lẽ dĩ nhiên là tiếng nói của con tim không phải là của lý trí nhưng sự xác định này cũng chưa đủ dể giải thích tại sao Trịnh Công Sơn có vẻ như không muốn làm cho lời ca rõ ràng. Tôi nghĩ rằng đây là ảnh hưởng của Phật giáo, rằng người ta không thể chỉ ngồi mà lý luận để đi đến một sự bình an cho tâm hồn, rằng ý niệm giác ngộ vượt qua biên giới của ngôn ngữ và lý luận.

Cái mập mờ danh tiếng của Trịnh Công Sơn là do sự phá bỏ biên giới giữa các điều mà chúng ta thường xem là khác biệt, một phương pháp mà Cao Huy Thuần gọi là “đối hợp”. Trịnh Công Sơn hay dùng lối văn đối nghịch, một nghệ thuật ngôn ngữ hay dùng để nhấn mạnh sự khác nhau của hai điều, nhưng ngược lại, Trịnh Công Sơn hay đem đối nghịch làm trùng hợp như trong các câu này: Tình không xa nhưng không thật gần; Không xa đời và cũng không xa một người; Một phố hồng một phố hư không.

Trịnh Công Sơn giống như một nhà thiền sư phủ nhận rằng tuyết thì trắng, quạ thì đen, với mục đích nói lên rằng muốn giác ngộ thì phải tránh xa cái đối lập giữa “có” và “không” để thành một tổng thể hài hòa. Lời ca của Trịnh Công Sơn giống như các công án trong Phật giáo, chẳng hạn như công án nổi tiếng nói về lắng nghe tiếng vỗ của một bàn tay, và cũng giống như công án, bài hát của Trịnh Công Sơn không thể giải thích được bằng đầu óc.

Khi nói về triết lý trong nhạc Trịnh Công Sơn chúng ta cũng cần nói tới ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh nữa. Các bạn thân của Trịnh Công Sơn xác nhận rằng, ông cũng như một số đông các nhà trí thức miền Nam vào cuối thập niên năm mươi và đầu thập niên sáu mươi, rất bị lôi cuốn bởi chủ nghĩa hiện sinh.

Thái Kim Lan bảo rằng: ở Huế hồi đó nhiều người nói về lo âu (angst), hư vô (nothingness), nôn mửa (nausea) và nỗi hoài công phi lý của Sisyphus. Nguyễn Văn Trung hồi đó mới từ Bỉ về, theo Bửu Ý là “nòng cốt” của các cuộc tranh luận về triết lý tại Huế. Nguyễn Văn Trung viết nhiều bài về hiện sinh và đăng trong tạp chí Đại Học, do ông làm chủ nhiệm.

Các bạn của Trịnh Công Sơn bảo rằng ông rất ham đọc sách của Camus về huyền thoại Sisyphus. Các bạn này cũng bảo Trịnh Công Sơn rất thích các phim trong đó có tài tử James Dean đóng vai của một người lưu lạc cô đơn. Chúng ta thấy hình ảnh chàng cô đơn này trong nhiều bài của Trịnh Công Sơn trong đó có bài Dã tràng ca. Trong bài này Trịnh Công Sơn muốn so sánh mình với Sisyphus, qua một hình ảnh đã được Việt Nam hóa là con dã tràng suốt ngày “xe cát biển đông” trong Nghe thân lưu đày.

Trong cuốn Huyền thoại Sisyphus, Camus nói: trong cái thế giới phi lý này, chúng ta thường hay bị quyến rũ bởi hai cách trốn thoát: một là tự vấn thân xác, hai là tự vẩn triết lý, tức là nuôi dưỡng niềm hy vọng rằng mình sau này khi chết đi sẽ được lên chốn thiên đàng vĩnh cửu. Theo Camus, chúng ta phải từ chối hai con đường giải thoát này và phải chọn một con đường khác: con đường chống đối thế giới phi lý này giống như nhân vật Sisyphus trong huyền thoại vậy.

Ông Nguyễn Văn Trung đã giải thích thuyết của Camus theo một cách khác. Ông viết về tự vẫn triết học như thế này: “Hy vọng một đời khác, hoài niệm một quê nhà sau tù đầy là một cách phủ nhận tình trạng phi lý khác, mà không chấm dứt được phi lý. Camus gọi những giải pháp thoát ly đó là một tự vẫn triết lý (Suicide philosophique)”. Nguyễn Văn Trung cho rằng, theo Camus, chúng ta phải chấp nhận rằng “Tù đày chính là quê nhà”.

Rất có thể Trịnh Công Sơn đã bị ảnh hưởng của Camus qua cách giải thích của Nguyễn Văn Trung. Giáo sư Trung đã Việt Nam hóa lý thuyết về lưu đày và thiên đàng vĩnh cửu của Camus. Lời giải thích của Nguyễn Văn Trung đã làm lẫn lộn hoài vọng về một cõi thiên đàng trong kiếp sau với hoài vọng về quê nhà.

Trịnh Công Sơn quả thật đã bị lôi kéo từ hai dòng lực tù đày và quê nhà. Nhiều đêm muốn đi về con phố xa / Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà, ông đã hát trong Lời thiên thu gọi. Nhưng vì đã được uốn nắn trong một nền văn hóa mà trong đó tình yêu quê nhà đóng một vai trò rất mạnh, Trịnh Công Sơn đã không do dự chọn quê nhà. Ông đã hát Chân đi xa trái tim bên nhà, trong Có nghe đời nghiêng và Tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá / Góc phố nào cũng thấy quê nhà trong Tình yêu tìm thấy.

Do đó ta thấy Trịnh Công Sơn không chấp nhận sự nổi loạn chống lại thế giới phi lý như Camus đã cổ võ. Trịnh Công Sơn không thể nào chọn lưu đày làm nơi quê nhà. Tù đày theo Trịnh Công Sơn không phải là sự nổi loạn hiện sinh mà là sự nhìn nhận của một người con Phật trước nỗi khổ và tính cách tạm bợ của cuộc đời: Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây Trịnh Công Sơn hỏi trong Phúc âm buồn. Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này.

Hiện sinh khuyến khích cá nhân đứng lên một mình để chống lại xã hội và văn hóa. Phật giáo, ngược lại, dạy thuyết vô ngã, dạy rằng không có gì khác biệt giữa ta và tha nhân, rằng mọi sự mọi việc trên đời đều hỗ tương ảnh hưởng vào nhau. Tôi tin rằng Trịnh Công Sơn có ý nói đến thuyết vô ngã

trong các bài ca của ông. Ông có nói đến “phụ người” như trong bài Ru em nhưng cái buồn của ông thật ra cũng là cái buồn của nhân thế. Yêu em yêu thêm tình phụ / Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ (Ru em). “Từ bi” có nghĩa là tâm từ (maitri) và tâm bi (karuna), hai đức hạnh mà theo Phật giáo mình nên tu dưỡng.

Lúc mới bắt đầu sự nghiệp, Trịnh Công Sơn cũng như nhiều thanh niên trí thức khác tại miền Nam, thích bàn luận về thuyết hiện sinh. Triết lý nói chung và thuyết hiện sinh nói riêng hồi đó là một đề tài rất phổ thông trong giới trẻ. Các bài hát đầu của Trịnh Công Sơn đã đáp ứng được nguyên vọng này của giới trí thức miền Nam. Phật giáo và hiện sinh quả thật có gần nhau ở một vài điểm. Cả hai đều tin rằng con người phải đối diện với cái chết và với ý niệm hư vô trước khi có thể thực sự sống một đời sống đích thực.

Trịnh Công Sơn lúc mới vào nghề nổi tiếng vì đã “chịu chơi” với thuyết hiện sinh nhưng theo tôi Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhạc của mình dựa trên các đề tài của Phật giáo. Nếu hồi đó ít ai để ý tới cái tính cách Phật giáo trong các bài của ông, có thể là vì Phật giáo và hiện sinh gặp nhau ở một vài điểm và người ta chỉ để ý đến khía cạnh hiện sinh mà thôi. Tuy nhiên lý do chính vì sao Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục thành công trong một thời rất dài là vì những ưu tư có tính cách rất Phật Trịnh Công Sơn đã gởi gắm trong lời ca của mình.

Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu kinh. Nhạc Trịnh Công Sơn khó hiểu nhưng lời ca của ông có khả năng xoa dịu những tâm hồn bị dao động.

Theo John C. Schafer - Tạp chí Văn hóa Phật giáo

Người tình cuối cùng của Trịnh Công Sơn là ai?

(VietNamNet) - Hôm nay, 28/2, kỷ niệm ngày sinh của nhạc sĩ đa tài và tài hoa Trịnh Công Sơn, VietNamNet đã nhận được rất nhiều bài viết bày tỏ tình cảm trân trọng, niềm say mê về số phận đặc biệt cũng như sức sống mãnh liệt của những nhạc phẩm tuyệt diệu mang tên Trịnh Công Sơn. Hoạ sĩ Trịnh Cung, người bạn tri giao của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã dành riêng bài viết mang tựa đề: Một chút Trịnh Công Sơn và tôi dành tặng độc giả VietNamNet.

Trịnh Công Sơn và bạn hữu

Điều đầu tiên tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tôi không phải là bạn thân nhất của Trịnh Công Sơn như nhiều người đã nghĩ hoặc cho là tôi đã tự nhận như thế sau khi Sơn không còn trên cõi đời này. Nhưng chắc chắn một điều: Tôi đã coi anh ấy là bạn thân nhất của tôi so về thời gian cũng như những chia sẻ trong đời sống tinh thần và trong đời thường. Sơn có rất nhiều bạn thân và chỉ có Sơn mới biết ai là bạn thân nhất của mình.

Cho đến ngày Trịnh Công Sơn không còn phải "tôi nằm mơ thấy tôi qua đời" mà đã qua đời thật sự (2001), tôi đã có hơn 40 năm làm bạn với Sơn kể từ chuyến đi định mệnh đến Huế năm 1957. Tôi đã bị một trận đòn dữ dội từ ba tôi vài giờ trước khi tôi được ông dẫn tôi lên tàu hỏa, tiễn tôi đi từ ga Nha Trang. Trận đòn ấy thật đúng và tôi rất yêu ba tôi vì tôi hiểu niềm mơ ước là tôi phải có một cuộc đời nghèo khó như người, chỉ có con đường học hành (khoa bảng) mới đổi đời. "Những chồng sách nặng khô như đá, Ruộng gió đồng trăng anh ấy đi" - hai câu thơ của Xuân Diệu đúng với tâm trạng tôi và tôi đã lên đường. Với Huế, tôi đã trở thành họa sĩ và kết bạn với một thiên tài âm nhạc. Cả hai điều này không có trong suy nghĩ của tôi trước ngày bỏ trường trung học Võ Tánh (Nha Trang).

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Huế là thánh địa của thi ca Việt Nam, tôi đi Huế chỉ vì thế. "Sao anh không về chơi thôn Vỹ/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền" (Hàn Mặc Tử) hoặc "Em lùa gió biếc vào trong tóc/ Thổi đến phòng anh cả núi non" (Huy Cận) và "Đàn buồn đàn chậm ôi đàn chậm/ Mỗi giọt rơi là một giọt ngâu" (Xuân Diệu). Tôi bị thi ca của họ mê hoặc, không có gì ngăn cản một gã học trò lãng mạn như tôi xách túi giang hồ. May thay tôi đã thành đạt và có một người bạn tri âm: Trịnh Công Sơn, một hiện tượng huyền ảo nhất trong lịch sử âm nhạc Việt Nam hiện nay và không dưới vai thập niên nữa.

Đánh dấu lớn nhất và dài lâu nhất cho tình bạn giữa tôi và Sơn chính là bài thơ Cuối cùng cho một tình yêu tôi viết vào năm 1958 ở Huế và Sơn đã phổ nhạc vào khoảng giữa năm 1959, trước ca khúc Diễm xưa và chỉ sau các ca khúc Ướt mi, Thương một người và Nhìn những mùa thu đi. Nhiều người đã hỏi tôi viết ca khúc này cho ai? Anh bạn, nhà nghiên cứu Huế học Nguyễn Đắc Xuân đã xác định bài thơ ấy viết cho Nh. Hg, một nữ sinh trường Đồng Khánh (Huế) nhưng thật ra không phải như vậy.

Hoạ sĩ Trịnh Công Sơn

Tôi có nhắc đến cô ấy vì vẻ đẹp rất Huế của Nh. Hg. Nhưng bài thơ ấy là một hư cấu để nói về những năm tháng đầu tiên của một sinh viên tỉnh lẻ từ say

đắm đến thất vọng trên con đường tình của Huế. Ca khúc này, Sơn đã làm cho bài thơ tầm thường ấy trở nên bất tử trong nhiều thế hệ người Việt. Điều này tôi không chờ đợi khi chơi với Sơn. Có nhiều năm, gia đình Trịnh Công Sơn in sách nhạc và các nhà xuất bản băng đĩa đã không in tên tôi là tác giả của lời nhạc, vì thế có rất nhiều giới trẻ ngày nay và có lẽ cả mai sau không biết điều này. "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi" (Trịnh Công Sơn). Tôi đang sống với khái niệm: Để Gió Cuốn Đi.

Trịnh Công Sơn và em gái

Trong đời thường, Sơn là một người lớn lên từ chiếc nôi ấm cúng của gia đình và chiếc nôi văn hóa và thiên nhiên kỳ ảo của Huế nên Sơn sớm có một phong cách thanh lịch. Sơn rất thích ăn mặc đẹp và rất "bon gout". Tôi học được ở Sơn rất nhiều về điều này. Sơn mang kính, tôi cũng mua kính mang mặc dù cả hai chúng tôi lúc 18 - 20 chưa ai bị cận thị hoặc viễn thị. Chỉ vì đẹp mà thôi. Sơn đã để lại một ấn tượng đặc thù Trịnh Công Sơn là chiếc kính trắng lớn gọng đồi mồi. Đã thay đổi nhiều lần và nhiều danh hiệu lớn nhưng vẫn cùng một phong cách. Chúng tôi thật sự có vấn đề ở mắt khi bước vào tuổi 40, chiếc kính đã là người mang lại cho chúng tôi đời sống nhìn, ngắm. Theo tôi, Sơn là người đàn ông ở Việt Nam trong ba thập niên qua có nhiều bộ sưu tập về giày, áo quần, đồng hồ, mắt kính, bút viết, tranh và rượu thuộc loại sang trọng nhất. Có một lần vào giữa năm 90, tôi đến chơi với Sơn vào buổi chiều. Tôi ngồi đợi ở phòng uống rượu, Sơn và V.A từ trên phòng ngủ bước xuống. Tôi chợt thấy V.A đẹp quá trong màu chiều tà của ánh trời rơi trên màu tóc đen huyền của một nhan sắc từng được phong là á hậu VN, tôi buột miệng nói với Sơn: Giá mà có một chiếc khăn lụa của Nina de Ricci quàng lên tóc và cổ của V.A thì tuyệt quá. Sơn mỉm cười và đi trở lại căn phòng riêng mang xuống một chiếc khăn màu hổ phách có sọc đen choàng lên tóc và cổ của nàng. Đó không ngờ là hình ảnh cuối cùng của một cuộc tình mà Sơn thật sự muốn cưới V.A làm vợ. Chiếc khăn quàng ấy là một tấm lòng và đã để gió cuốn đi.

"Bông hồng vàng" của Trịnh Công Sơn10:14' 28/03/2007 (GMT+7)

(VietNamNet) - Lại sắp 06 năm kỷ niệm ngày mất của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, xin một lần nữa nhớ về cái khoảng trống đã bị bỏ lại. Cái khoảng trống vốn đã được xây nên bằng âm nhạc, thơ ca, hội họa một cách thật trong trẻo, bao dung....

"Tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc cuả mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru của mẹ". (TRỊNH CÔNG SƠN).

Đêm nhạc Trịnh Công Sơn "...nhẹ nhàng như mây..."

Một đêm nhạc miễn phí do Hội quán Hội ngộ, Làng Du lịch Bình Qưới tổ chức nhân kỷ niệm 06 năm ngày mất của NS Trịnh Công Sơn vào lúc 19 giờ ngày 04/04/2007 tại Khu du lịch Bình Qưới 1, TP.HCM với sự tham gia của các nghệ sĩ: Lan Ngọc, Bảo Phúc, Trần Mạnh Tuấn, Hồng Nhung, Mỹ Hạnh, Đức Huy, Nhón AC&M, nhóm Mặt trời đỏ...

2000 vé mời (vé 02 người} sẽ được phát tại Hội quán Hội ngộ, Khu Du lịch Bình Qưới 1 vào 8 giờ sáng ngày 02.04.

"Thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được" đó chính là triết lý sống thiền, một triết lý đã ra đời và gắn liền với những mối liên hệ đầy "căn duyên" giữa Trịnh Công Sơn và Phật giáo. Đó là một triết lý về cách sống, về mối quan hệ giữa con người với bản thân và tạo vật, một thứ triết học gần như vô hình, ẩn hiện lung linh, bàng bạc như những hạt bụi vàng lấp lánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn...

Hãy sống thật bao dung...

Với Trịnh Công Sơn, "đức tính của con người khiến tôi cúi đầu kính phục có lẽ là lòng vị tha", vì "giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn". Và có lẽ, do trong ông luôn có điều răn của Phật: "Lễ vật lớn nhất của đời người là sự bao dung" nên ông đã chọn cho mình thái độ thứ tha cho tất cả những gì đã mang lại cho ông những nỗi bất hạnh, đớn đau, thậm chí cả niềm tuyệt vọng trong cuộc sống: "Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau"...và "Mỗi đêm, tôi nhìn trời đất để học về lòng bao dung. Nhìn đường đi của kiến để học về sự nhẫn nhục. Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối. Đời người cũng để sống và hãy thả trôi những tỵ hiềm"...

... với tấm lòng thanh thản

Nhưng hình như để có thể sống bao dung, con người cần phải giữ cho lòng mình luôn thanh thản. Đó là trạng thái khi con người biết vứt bỏ khỏi lòng mình mọi nỗi ưu tư, phiền muộn, ham muốn, tỵ hiềm. Đó là sự thanh thản của con người trước những đua tranh, được mất; là sự thanh thản khi con người nhận ra sự phù du, mỏng manh của cuộc đời; khi con người biết mỉm cười trước "cõi tạm" và biết nói "Thôi về đi, đường trần đâu có gì...". Vì xét cho cùng, ở cuối mỗi cuộc đua tranh vẫn sẽ là cảm giác: "Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già, một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua...".

Đó cũng chính là sự thanh thản khi con người nhận ra bản chất "sắc không không sắc" của cuộc đời, và cũng chính ở trạng thái "ngộ" ra chân lý đó, con người sẽ có đủ sức mạnh để với một chữ "vô" sẽ vượt qua tất cả, như thông điệp ẩn tàng trong một bài kệ dành cho những kiếm khách thượng thừa trên đất Phù Tang: "Tâm vô ưu, thần bất động, khí uy dũng, kiếm vô chiêu". Nói khác đi, trong "triết học" của Trịnh Công Sơn, sự bao dung và lòng thanh thản chính là hai điều "bất biến" giúp con người đối mặt và vượt qua "vạn biến" ở đời...

Hãy sống hết mình trong hiện tại, tin ở tương lai...

Trịnh Công Sơn kêu gọi mọi người "phải biết sống hết mình trong mỗi sát na của thực tại. Từ mỗi cái ăn, cái uống, cái đi đứng nằm ngồi. Không làm công việc này, mà nghĩ đến công việc khác. Với tôi, đó cũng là thiền, là một cách

"Tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc cuả mình..."

sống đích thực. Tôi vẫn tiếp tục thực tập cách sống như thế hàng ngày". Vì sao vậy? Vì khi đó, con người mới có thể làm được cho mình và cho đời nhiều điều nhất, và cũng chỉ bằng cách đó, con người mới có thể "làm tròn đầy sự có mặt của mình" trên thế giới này – như cách nói của Trịnh Công Sơn.

Không những phải sống hết mình trong hiện tại, con người còn cần phải nuôi dưỡng trong mình một niềm lạc quan vô tận, một niềm tin vô hạn ở tương lai và ngay cả trong những thời điểm tuyệt vọng nhất, con người vẫn phải biết "tin vào chính mình, tin vào cuộc đời vốn không thể khác..." Cùng với âm nhạc của mình. Trịnh Công Sơn luôn hiện diện trong cuộc sống với lời nhắn nhủ: "Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng" và "Hãy cứ vui như mọi ngày/ Bên trời còn nắng/ Lá trời còn xanh/ Phố còn người đông...", thậm chí khi đối diện với cái chết: "Dù thật lệ rơi, lòng không buồn mấy, giật mình tỉnh ra, ồ nắng lên rồi"...

... hòa hợp cùng đất trời

"Với ca khúc, tôi là người tình của thiên nhiên", Trịnh Công Sơn đã từng nói về mình như vậy. Thông qua những ca khúc của mình, ông đã bày tỏ với mọi người về một cách sống hài hòa cùng với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời. Đó là trạng thái khi con người và thiên nhiên là một. Đó cũng chính là trạng thái khởi thuỷ của con người và thế giới khi "Thiên - Địa - Nhân" hợp nhất, một trạng thái giúp con người tồn tại và trở về "bản lai diện mục" của mình...

Trong âm nhạc, Trịnh Công Sơn yêu từng ngọn cỏ, nghe được "lời tự tình" của gió", "tiếng trở mình" của đất và cả "tiếng khóc cười của những bào thai"... Cũng vì vậy, đôi khi ông thấy mình là lá cỏ, thành cơn gió, thành con thác đổ trong đêm...Và phải chăng, từ thuở bé, do thấm nhuần lời dạy của pho kinh cổ Upanishd: "Khi một lá cỏ bị cắt đứt, cả vũ trụ rung rinh", nên đến khi trưởng thành, ông đã nói: "Ngay cả giải quyết số phận một ngọn cỏ cũng phải suy nghĩ, ngắt đi một bông hoa bên vệ đường cũng phải suy tư huống chi là số phận con người quá lớn và chúng ta không có quyền quyết định số phận con người". Con người với cỏ hoa là một, không ai lớn hơn ai, không ai có thể thay thế cho ai và chỉ nên cùng nhau tồn tại trong thống nhất. Hình như Trịnh Công Sơn đã muốn nói với chúng ta về một cách sống hòa hợp với đất trời để trở thành một người tình của thiên nhiên như vậy.

Chân dung Trịnh Công Sơn qua nét cọ của danh họa Bùi Xuân Phái

Hãy là một người tình cao thượng...

"Ta không thể níu kéo một cái gì đã mất. Tình yêu khi muốn ra đi thì không có tiếng kèn nào đủ nhiệm màu để lôi về lại được. Tình yêu là tình yêu. Trong nó đã sẵn có mầm mống và sự hủy diệt"...Những bài hát của Trịnh Công Sơn luôn nhắn nhủ con người hãy là một người tình cao thượng. Cao thượng khi đang yêu và cao thượng khi đã chia lìa... Có lẽ, Trịnh Công Sơn là người tình "kiêu bạc" nhất và phải chăng vì thế mà ông đã trở thành người tình "đáng yêu" nhất trong âm nhạc Việt Nam? Không bi lụy, trách hờn, không van xin, kêu khóc... khi tình phụ, Trịnh Công Sơn vẫn "ru em dù đã chia xa", vẫn nở nụ cười buồn "áo xưa dù nhàu, cũng xin bạc đầu, gọi mãi tên nhau..."

Trịnh Công Sơn cũng có lẽ là người tình duy nhất dám "xin vỗ tay cho đều, khi tình trôi đã trôi xa...", dám "treo tình trên chiếc đinh không" để "phơi tình cho chóng khô mau", dám nhắn gửi người tình: "này em xin cứ phụ tôi. Đời sống quanh đây có vạn lời mời". Và mặc dù đã chia xa, vẫn mong em "môi son đừng biếng lười, cho ta còn mãi mãi chút mùi phấn hương bay..." Một người tình "tuyệt vời" như vậy, liệu mấy ai đủ can đảm nói tiếng giã từ?...

... Và yêu quê hương này bằng cả trái tim

“Buổi chiều Orléans, bỗng nhiên tôi thương nhớ quê nhà quá. Có những cái đầu không bình tĩnh lắm sẽ trách móc tôi vì sao ở một nơi sung sướng như vầy mà vẫn nhớ quê. Than ôi, quê nhà chính là tôi rồi, tôi biết làm sao được..."

Tôi thường tự hỏi, ngoài Trịnh Công Sơn ra, liệu còn ai có thể nói về tình cảm với quê nhà thấm thía vậy không? Từ trong nguồn cội, Trịnh Công Sơn đã yêu quê hương này bằng cả trái tim. Vì tình yêu đó, trong những năm tháng chiến tranh, ông đã rơi những "giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong" và luôn mong đợi một ngày "chờ khô nước mắt, chờ đá reo ca, chờ áo cơm nuôi cho những trẻ con không nhà, chờ ngày Việt Nam thống nhất cho những tình thương vô bờ...". Cũng vì yêu đất nước này nên khi hòa bình lập lại, ông đã chọn cho mình một con đường "đến với anh em, đường đến với bạn bè" bởi "tôi chợt hiểu rằng vì sao tôi sống, vì đất nước này cần một trái tim..." Cũng vì yêu đất nước này, ông đã chọn trọn đời ở lại với quê hương, "như đứa con ngoan không tuyệt tình nổi với rẫy sắn, nương khoai, nơi có bà

Nụ cười hiền lành thường trực trên gương mặt ông...

mẹ suốt đời mắt không sáng nổi một ngày trẩy hội... "Cũng vì tình yêu đó nên mặc dù đã sáu năm kể từ ngày vĩnh biệt chúng ta, Trịnh Công Sơn vẫn như đang có mặt trong ngày giỗ của mình, với ánh mắt nheo cười qua đôi kính cận, nụ cười hiền hòa và giọng Huế nhu mì: "này em trong mỗi con tim, nhớ mang quê hương của mình..."

Như đoạn kết trong câu chuyện cảm động về người thợ kim hoàn đã âm thầm chắt chiu, gom góp những hạt bụi vàng làm thành món quà tặng người yêu dấu, những "hạt bụi vàng" mang thông điệp "sống thiền" trong lời ca và bài viết của Trịnh Công Sơn qua thời gian đã kết tinh thành một bông hồng vàng lộng lẫy như món quà cuối cùng ông dâng tặng cho đời... Tôi xin gọi đó là Bông hồng vàng của tình yêu và sự tỉnh thức, "Bông Hồng Vàng của Trịnh Công Sơn..."

Có cần "Make up" cho nhạc Trịnh? Nhạc của Trịnh Công Sơn có cần và có nên phá cách? Nhiều ca sĩ đã trả lời câu hỏi này qua những phần thể hiện nhạc Trịnh của mình...

Nhạc Trịnh Công Sơn luôn được gắn với hai từ "giản dị", vậy mà bất ngờ thay lại được các ca sĩ "làm mới" nhiều nhất trong số các nhạc sĩ Việt Nam. Các đêm nhạc Trịnh Công Sơn tổ chức sau ngày 1/4/2001 đã "bị" cách điệu rất nhiều.

Đêm "Ru tình" tổ chức dịp 8/3 vừa qua ở Hà Nội, những người thực hiện cũng đã phát biểu sẽ đảm bảo sự hài hoà giữa cái mới mẻ và sự đơn giản cho chương trình nhưng cuối cùng, sân khấu thì tuềnh toàng quá (không phải sự giản dị), còn các bản phối thì "lạ tai", chênh vênh" với bài hát quá!

Chương trình "Đêm thần thoại" cách đây 2 năm do êkíp Phạm Hoàng Nam, Quốc Bảo, Võ Thiện Thanh đã bị gọi là "phá nhạc Trịnh". Cách tiếp cận của đêm nhạc khá "hiện đại": có thanh xướng kịch, dàn nhạc giao hưởng, dàn hợp xướng trong trang phục nghi lễ nhà thờ, những thiếu nữ hóa thân thành bướm trong các vũ khúc ballet, cây đàn hạc (đàn harp) mang dáng dấp Âu châu... kết hợp với các màn trình diễn âm thanh và ánh sáng. Ca sĩ tham gia "đa thanh, đa giọng", là đại diện của dòng nhạc trữ tình, nhạc nhẹ, bán cổ điển và cả R&B.

Bàn đến hát nhạc Trịnh gần như ca sĩ nào cũng đã "ru đời đi nhé" với đủ loại tông khác nhau. Hàng loạt ca sĩ của dòng nhạc thời trang, thị trường đã thử sức, làm mới nhạc Trịnh; nhưng đến nay đa phần sản phẩm âm nhạc đó đã rơi tõm vào khoảng không im lặng.

Đó đây lại nổi lên xì xào cô ca sĩ A, chàng ca sĩ B kia hát nhạc Trịnh được lắm, nhưng rồi các show nhạc Trịnh lớn nhỏ lại vẫn là Hồng Nhung, Mỹ Linh, Trần Thu Hà, Quang Dũng ở trong nước, và tất nhiên ở hải ngoại vẫn luôn là Khánh Ly. Còn nói đến sự "công phá" với nhạc Trịnh không thể không nhắc đến Thanh Lam. Chị đã ra "album "Này em có nhớ" khiến người yêu nhạc Trịnh nghe một lần thì "không thể quên được".

Ở đây, sự "phá cách" và "phá phách" đã không cách nhau là mấy. Album với cách thể hiện nhạc Trịnh khá lạ tai đó của chị rốt cuộc đã không giúp chị "qua" được Khánh Ly như chị mong muốn mà càng về sau, những show nhạc Trịnh về sau thật ít có Thanh Lam trình diễn.

Từng thực hiện nhiều album nhạc Trịnh và đã có live show "Như cánh vạc bay" khá mộc, Hồng Nhung bày tỏ thắng thắn: "Tôi không thuộc tuýp thích sự phá cách, nên tôi không dồn tất cả cá tính của mình vào bài hát. Tôi tôn

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

trọng sự cảm nhận của mỗi người, nhưng cái đáng bàn hơn ở đây là sự phá cách đó được khán giả chấp nhận đến đâu".

Nhà thơ Đỗ Trung Quân nhìn nhận: "Đã gọi là làm mới thì âm nhạc, ca khúc của Trịnh Công Sơn cần được nhiều người hát, cần được nhiều cách thể hiện, cần nghe thêm những âm thanh mới - nghĩa là vẫn cần tìm một vẻ đẹp khác, sự lấp lánh khác với cái lấp lánh đã có. Và đấy là vấn đề: nếu không tìm được vẻ đẹp mới, sự lấp lánh mới cho ca khúc của Trịnh, chúng ta chỉ đang làm khác mà thôi".

Khánh Ly nhớ Trịnh Công Sơn: Dường như vắng ai... Có nhiều nốt, tôi hát sai nhưng Anh không sửa, không nói gì, nên tôi cứ cho là mình đúng. Tới chừng nhạc in ra thì có người bảo tôi hát sai nhạc của Anh. Thì đúng là tôi hát sai, nhưng có thể lúc đó, dẫu biết tôi sai, nhưng Anh vẫn cảm thấy lọt tai, cũng được, hoặc Anh thấy tôi say mê với cái sai của mình, Anh không nỡ nói.

Chắc chắn ngoài trời phải lạnh lắm bởi nhìn qua cửa sổ, tôi chỉ thấy một màu tuyết trắng xóa che phủ kín những mái nhà. Long lanh. Long lanh dưới ánh đèn đường vàng vọt. Chưa khuya lắm đâu. Chiều vừa tắt nắng không lâu nhưng ngay cả tiếng xe cũng thỉnh thoảng mới nghe. Tiếng chân bước đều trên hè phố dường như không có. Tuyết trắng từng sợi như tơ đổ xuống muôn loài từ trời cao ngay giữa tháng Ba.

Trong căn lầu hai của anh chị Thích Tâm, tôi không thể đếm được là bao nhiêu người thậm chí lại chẳng biết ai là ai. Anh đi quanh từng người cười nói dịu dàng nhỏ nhẹ, thăm hỏi đôi câu, tay vẫn không rời ly rượu. Hạnh phúc ngời trên khuôn mặt hơi gầy. Anh luôn luôn tỏ lộ niềm vui sướng hân hoan với những người bạn Anh thương và thương Anh. Một nỗi mừng vui thật thà rất trẻ con. Nhìn Anh đi quanh phòng nói chuyện với từng người, tôi chợt nhớ đến câu thơ - sorry không nhớ tên tác giả nhất là lại là một câu thơ làm cho người đẹp - Em đi như vẽ trên đường nắng / Em nói như như đàn trong miệng ai.

Anh bao giờ cũng nhỏ nhẹ dịu dàng, chậm rãi từ tốn - từ những ngày quen biết đầu tiên, tôi đã thấy như thế - đó là bản chất của Anh - cái này không thể học được mà cũng không ai dạy ai được. Ông Giời cho thì được. Anh nói nhỏ, không nhỏ lắm nhưng đủ để người cần nghe, nghe rõ. Anh đi không bao giờ đi nhanh nhưng cũng chưa làm ai phải chờ. Anh ăn chậm rãi, nhai nhỏ nhẹ, không ai nghe tiếng. Anh nhai, không nghe tiếng đũa chấm bát, kể cả khi ăn xong cũng không ai nghe tiếng bát ăn để xuống đĩa. Mỗi ngày Anh chỉ ăn chừng nửa chén cơm nhỏ cho cả hai bữa. Mọi người tiếp tục ăn, anh nhấc ly rượu uống một ngụm nhỏ, tay phải đặt xuống, tay trái cầm miếng napkin đưa lên chậm nhẹ lên miệng. Bát đũa của Anh khác mọi người, loại gốm Bát Tràng màu xanh trứng sáo trên lạt dưới đậm màu hơn.

Căn lầu rất dài và rộng, chỉ có một cây dương cầm và hai cái sopha nhỏ. Bàn ăn được nối dài thêm, dài nữa mà vẫn không đủ chỗ cho mọi người. Chị Tâm luôn tươi cười quay trái, quay phải giữa đám nồi cháo bốc khói. Anh Thích luôn ngó chừng bàn ăn xem có thiếu gì. Chị Thúy, Ngân, Diệu, Trinh và tôi thuộc loại thợ vịn sẵng sàng chờ sai bảo bưng đồ ăn hoặc lấy thêm cái này, cái khác. Xong xuôi tất cả, chị Tâm hoặc chị Thúy lên tiếng...Mời Anh Sơn thời cơm...Anh Thích tiếp theo.

Thôi mời cả nhà ăn kẻo đói. Anh đến ngồi vào ghế đầu bàn và chỉ chiếc bên trái cạnh Anh...Mai ngồi đây. Mọi người cùng ngồi. Anh ăn miếng đầu tiên vài

hột cơm hoặc một cọng rau rồi để chén cơm xuống, lấy khăn giấy chậm miệng, nhấc ly lên...một tẹo. Anh không ăn liền sau đó, có khi anh nhắc tới một người bạn vừa gọi điện thăm Anh, có khi Anh nhắc người này, người kia ăn...rồi sau đó Anh mới lại cầm bát cơm, cũng chỉ dùng đũa để đưa mấy hạt cơm vào miệng, thêm một miếng cá kho đặc biệt kiểu Huế. Miếng cá cũng chỉ bằng cái đầu đũa. Cơm vài hột, thức ăn như làm cảnh trước mặt anh, do đó, rất ít ai thấy anh nhai. Sau miếng thứ hai anh lại đặt bát xuống, lặp lại từng ấy cử động của lần thứ nhất. Cái chén vốn nhỏ, cơm chừng một muỗng canh. Anh ăn xong chén cơm của Anh bằng người khác an 4 chén.

Có khi đang ăn, nghe ai đó nói một điều gì vui, Anh đưa khăn lên che miệng cười sảng khoái. Ăn ít, nói ít nhưng anh nghe nhiều. Ngồi ăn cạnh Anh, tôi cứng người như ông phỗng đá, nhưng không bỏ qua một cử chỉ nào của Anh. Thấy ly rượu Anh hơi đậm, tôi rất tự nhiên sớt bớt qua ly của tôi. Anh biết hết đó nhưng lâu lâu lại làm bộ...răng mà rượu của Moi lạt rứa...ấy là tại tôi thêm soda cho lạt bớt thôi. Anh lại rót thêm rượu tôi lại rình Anh để sớt bớt rượu, thêm soda, và như vậy Anh uống bao nhiêu tôi uống bấy nhiêu. Thường thì khi Anh ăn xong, mọi người cũng xong, nhưng Anh ăn quá ít mà chúng tôi anh nào cũng mạnh nói mạnh ăn. Có một hôm tôi nghe Anh nói với một người nào đó, tôi đã quên tên...Răng mà ăn nhiều rứa...tội nghiệp người đó, thật ra mới có chén thứ 2. Thành ra cứ khuya, chờ lúc không có Anh tôi mò xuống bếp kiếm đồ ăn, có hôm gặp anh Thích, chị Tâm, hai ông bà cười nhưng tôi không xấu hổ, vì tôi biết, nói gì thì nói nhà Anh rất thương tôi.

Được Anh tập hát cho ngay từ lúc bắt đầu, nhưng lúc nào tôi cũng sợ. Tôi sợ vì tôi dốt, tôi sợ bị Anh biết mình dốt. Được cái, Chúa Mẹ thương bài nào của Anh dù khó mấy, dù bao nhêu thăng, bao nhiêu giảm, tôi cũng không ngán - bởi dốt nhìn bài hát cũng như xẩm sờ voi - chỉ 5-10 phút coi như học trò đã làm bài xong. Có nhiều nốt, tôi hát sai nhưng Anh không sửa, không nói gì, nên tôi cứ cho là mình đúng. Tới chừng nhạc in ra thì có người bảo tôi hát sai nhạc của Anh. Thì đúng là tôi hát sai, nhưng có thể lúc đó, dẫu biết tôi sai, nhưng Anh vẫn cảm thấy lọt tai, cũng được, hoặc Anh thấy tôi say mê với cái sai của mình, Anh không nỡ nói. Với tôi, tác giả không la rầy thì tôi cứ hát dù sau này học nhạc, biết là mình sai nhưng nhạc của Anh đã trở thành máu thịt của tôi rồi. Anh đã chấp nhận. Khán thính giả đã chấp nhận. Một cái dốt có thể tha thứ được.

Nhớ năm 1972, 1973 Anh dạy tôi 2 bài "Chưa mất niềm tin" và "Một cõi đi về". Tôi vừa thâu thanh bài "Chưa mất niềm tin" thì anh lại tìm ra bài "Phôi Pha". Tình khúc này phê quá mà anh nỡ bỏ quên nó trong đống bản thảo 20 năm. Đang phôi pha thì bỗng một hôm lạc ra biển và chỉ đi lố có một tẹo mà thành thiên thu. Năm 1976 tôi làm cuốn cassesset thứ 3 có bài "Một cõi đi về" nhưng do chưa tập kỹ, không có bài, chỉ hát theo trí nhớ nên sai nhiều lắm. Anh có nghe nhưng không la rầy, chỉ nói tôi hát lại và trước khi thâu, tôi còn gọi điện thoại về cho Anh để được Anh cắt nghĩa rõ hơn về bài hát.

Khi tôi về Anh đứng lại ở lề đường trông theo...Anh không ưa cảnh tiễn đưa...Tôi hiểu như khi anh nói với Đoan... lúc trước Moi không biết gì về

Đoan chỉ nghe người ta nói, Moi rất thương Mai, Mai khổ nhiều rồi Moi không muốn Mai phải khổ thêm. Bây giờ thì Moi yên tâm vì biết chắc chỉ có Đoan mới làm được nhiều việc tốt cho Mai.

Ai đó đã nói rằng hận thù là món ăn nguội, càng để lâu càng ngon, cho phép tôi được đổi lại....sự yêu thương lòng trân trọng thương tiếc là món ăn càng để nguội càng quý...Có đêm trời mưa, tôi nói với Ti...Tối nay cho Măng ngủ một mình và tôi khóc trong tiếng mưa rơi giữa đêm khuya lạnh lẽo. Anh à, bây giờ cũng là ngày cuối tháng Ba, Em nhớ tiếc những ngày có Anh nhưng....lòng tôi có khi chợt như vắng ai. Nhiều khi muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà...Anh có chờ đợi ai không hay mọi người chỉ nghĩ rằng Anh đang chờ đợi mà thật ra Anh đang ngồi thảnh thơi, dõi mắt trông theo những hạt bụi nhỏ bé đang bay theo cơn gió cuốn với ước mơ hạt bụi nhỏ bé kia không vương vào mắt ai ....

Trịnh Công Sơn - dù chỉ là một thoáng, với tôi...

Gần một năm sau ngày nhạc sỹ Trịnh Công Sơn (TCS) mất, tôi lục trong chồng sách nhạc của gia đình để tìm lại một bài hát về xuân của nhạc sỹ Văn Cao, bài “Mùa Xuân đầu tiên”. Tôi chuẩn bị tổ chức tốp ca cho ngày tết Việt kiều tại Bruxelles. Và tôi bất chợt đọc lại bút tích của người nhạc sỹ tài danh, ngay trang thứ hai của Tuyển tập nhạc Văn Cao “Thiên Thai” do nhà xuất bản Trẻ tại TP Hồ Chí Minh xuất bản năm 1988:

Bút tích của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Vâng, tôi cũng quen biết Trịnh Công Sơn, dù chỉ một thoáng…

Chúng tôi về Việt Nam ăn Tết năm 1989 sau một thời gian khá dài không lui tới. Chuyến đi cuối trước đó đã xa cách đến gần một thập niên: từ mùa hè năm 1979.

Hồi ấy, việc đầu tiên chúng tôi làm tại Việt Nam là đi mua tranh về trang trí cho ngôi nhà mới tại Bỉ. Tôi không nhớ vì sao lại run rủi lần mò đến xem phòng triển lãm tranh tại gia của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn với sự tham gia của các họa sỹ Đinh Cường và Tôn Thất Văn. Và chúng tôi suýt mua được một bức của Tôn Thất Văn, suýt thôi vì chưa ngã giá nên cuối cùng không mua được… Biết tôi là Việt kiều tại Bỉ có hoạt động phản

chiến tại Bỉ trong thập kỷ 65 - 75, có chút “máu văn nghệ”, Trịnh Công Sơn cho hay là đang chuẩn bị đi Pháp và nếu tôi còn ở lại Việt Nam thì ra Tết sẽ đến nhà thăm tôi…

Mồng 6 Tết năm ấy, tại nhà người anh vợ tôi (cư xá Lữ Gia, quận 11, TP.HCM) chúng tôi tiếp cả một đoàn văn nghệ sỹ nổi tiếng: nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhạc sỹ Trần Long Ần, họa sỹ Tôn Thất Văn, Michiko và Trịnh Công Sơn!

Sau một hồi chén tạc chén thù, hàn huyên sôi nổi, tôi rất đỗi vui là chính Trịnh Công Sơn, một cách đôn hậu hồn nhiên đề nghị đem guitar ra hát. Ở nhà không có guitar, TCS cho gọi người nhà mình đem đến… Và chúng tôi có được cái diễm phúc bất ngờ là ngày Tết được nghe tại chính nguời nhạc sỹ mình hằng ngưỡng mộ hát một loạt những bài anh mới sáng tác. Rồi Michiko cũng hát, Trần Long Ẩn cũng hát...

Thật là một niềm hạnh phúc hiếm có cho chúng tôi, một nhạc sỹ tiếng tăm lẫy lừng tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, một danh tài đã có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ, đã thật giản dị và hồn nhiên, cùng bạn bè ngồi hát cả buổi chỉ cho vợ chồng chúng tôi, nhà văn Nguyễn Quang Sáng và một người lái xe nghe!

Vâng, chúng tôi may mắn có được một thoáng Trịnh Công Sơn, gần như chỉ dành cho chúng tôi.

* * *

Đó không phải là lần đầu tiên tôi gặp Trịnh Công Sơn mà trước đó, tôi đã có lần gặp. Trong một lần Ban Việt kiều thành phố tổ chức một buổi họp mặt, tại Hội Trí thức yêu nước - 43 Nguyễn Thông TP.HCM, sau tham luận của các lãnh đạo trung ương và thành phố, sau khoảnh khắc ngắn ngủi đối thoại trao đổi qua lại, cái đinh buổi họp mặt là phần văn nghệ. Nhạc sỹ Phạm Trọng Cầu vừa là nhạc trưởng vừa là MC… Hôm ấy nhạc sỹ Trịnh Công Sơn tự đệm guitar

Ảnh trên: Trịnh Công Sơn đang ngồi đệm ghi ta cho Michiko hát. Bên trái là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, phía sau là Huỳnh Mai - vợ tác giả bài viết.

Ảnh dưới: Từ trái sang: tác giả bài viết, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, người lái xe, nhạc sỹ Trần Long Ẩn, hoạ sỹ Tôn Thất Văn - Trịnh Công Sơn đang hát bên cạnh là Michiko (quay lưng).

và hát bài “Em còn nhớ hay em đã quên” và “Chiều trên quê hương tôi”.

Hai bài hát trên của Trịnh Công Sơn vào thời điểm ấy đã gây cho tôi một xúc động mạnh. Trịnh Công Sơn đúng là một nghệ sỹ lớn… Sáng tác của ông một lần nữa đã gắn liền với những thăng trầm của dân tộc, trái tim nhạy cảm tuyệt vời của ông đã diễn tả một cách vô cùng tinh tế nỗi đau của mình mà cũng là của thế nhân, của đồng loại trên một tinh thần nhân bản trong sáng, hướng thiện nếu không nói là tích cực… Thật tài tình và sâu sắc khi ông chỉ nói giản dị: “Em ra đi nơi này vẫn thế...” mà tôi đã hiểu ngay đây là thông điệp về sự vĩnh cửu của quốc gia, dân tộc… Mọi việc sẽ đi qua, nhưng chỉ đất nước Việt Nam sẽ mãi mãi trường tồn…

* * *

Năm 1960 ngày tôi xuất dương du học, Trịnh Công Sơn chưa nổi tiếng. Các bài hát “Ướt mi” hay “Diễm xưa” chưa được phổ biến rộng rãi. Tại Sài Gòn thời ấy nhạc Phạm Duy, Lam Phương, Dương Thiệu Tước, Phạm Đình Chương, Văn Phụng… đang thịnh hành trên các phương tiện truyền thông đại chúng…

Sau Tết Mậu thân (1968), không khí Việt kiều tại Bỉ, đặc biệt thành phố Liège thay đổi hẳn. Trước đó, số sinh viên du học như chúng tôi chỉ đếm trên đầu ngón tay, nay tăng vọt đến gần năm trăm người! Phần lớn sinh viên Việt Nam là con nhà khá giả tại Sài gòn đi du học tự túc… Các sinh viên đến từ Việt Nam không ai không mang theo những băng cassettes - với kỹ thuật ghi âm đang được thịnh hành trong những năm 70… Và chính qua những băng ghi âm này, qua các bạn sinh viên trẻ, mà tôi khám phá ra hiện tượng Trịnh Công Sơn - Khánh Ly.

“Ca khúc da vàng” đã đến với tôi như một tiếng thét của lương tâm con người trước cuộc chiến xâm lược phi nhân, trước chết chóc, trước đau thương khôn cùng của dân Việt, trước sức tàn phá dữ dội khủng khiếp của tàu bè bom đạn của một siêu cường.

Qua những âm điệu nhẹ nhàng và sâu lắng, tác giả đã gởi đến cho người nghe một thông điệp kinh hoàng của thời sự:

"Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng trên nóc nhà thành phố trên những đường quanh co Xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa trong giáo đường thành phố trên thềm nhà hoang vu… Xác nào là em tôi Dưới hố hầm này Trên những vùng lúa cháy Bên những vồng ngô khoai…" (Hát trên những xác người) "Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng Hành vạn tiếng bom trút xuống ruộng đồng Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn Hàng vạn chuyến xe, claymore lựu đạn Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành Từng vùng thịt xương có mẹ có em…" (Đại bác ru đêm)

“Kinh Việt Nam” đã đến với tôi như những lời kêu gọi hồn thiêng sông núi dân tộc Việt, như những ước vọng khẩn thiết về một ngày thanh bình thống nhất, về một nước Việt Nam bình thường như những nước khác, chan hòa tình tự dân tộc giống nòi...

Tôi ý thức được ngay là một cái gì mới đã xảy ra tại Việt Nam.

Một phong trào "Hát cho đồng bào tôi nghe" đã được dấy lên tại Liège và lạ thay, cùng với những ca khúc khác của phong trào sinh viên học sinh đô thị Miền Nam, nhạc Trịnh Công Sơn đã thành một phương tiện đấu tranh của chúng tôi, những người mà lập trường chính trị đã dứt khoát đã biết và hát nhiều bài hát đến từ miền Bắc hay vùng giải phóng, hừng hực khí thế kháng chiến yêu nước, nhưng còn thiếu một cầu nối để đến với những thành phần còn xa chiến tuyến…

"Tôi ước mơ một ngày nào đó trên hành tinh này tiếng hát sẽ được trả về với vẻ đẹp thuần khiết của nó. Đó là tiếng hát bay qua các lục địa, các đại dương, mang trong lòng nó tình yêu và tình nhân ái…"

Nhìn lại cục diện sau gần 40 năm, tôi vẫn nghĩ nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn là một trong những nhân tố văn hóa rất tích cực cho công cuộc vãn hồi hòa bình và thống nhất đất nước. Và tôi rất tâm đắc với ý kiến cho rằng chính những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn mới là cơ sở nói lên tầm vóc của tài danh Trịnh Công Sơn… Và cũng chính qua những ca khúc này Trịnh Công Sơn mới được những nhà báo quốc tế biết đến và gọi anh là "một Dylan của Việt Nam".

Âm nhạc Việt Nam qua Trịnh Công Sơn, một thời đã ngang tầm thế giới!

Và tôi tự hỏi tại sao trong thời mở cửa giao lưu hội nhập hôm nay những bài hát đậm đà tinh thân dân tộc như thế, lại vẫn "chưa được phép" hát lại?

Ở Việt Nam tôi vẫn thường nghe câu hỏi là tại sao ta chưa có những tác phẩm văn học nghệ thuật ngang tầm thế giới, xứng đáng với các cuộc kháng chiến đấu tranh giành độc lập, tự chủ thoát khỏi ách nô lệ của ngoại bang, những chiến công hiển hách đã được biết bao dân tộc yêu chuộng hòa bình và công lý kính phục và ngưỡng mộ. Nhưng có chắc gì, ta tỉnh táo đế chấp nhận và nhất là tôn vinh đúng mức những tác phẩm văn học nghệ thuật chất chứa những giá trị nhân bản cao đẹp và phổ quát của con người, những tác phẩm độc lập không bị chi phối bởi tình thế chính trị nhất thời?

Sinh thời TCS ý thức rất rõ về tính phổ quát của nhạc mình:

“Tôi ước mơ một ngày nào đó trên hành tinh này tiếng hát sẽ được trả về với vẻ đẹp thuần khiết của nó. Đó là tiếng hát bay qua các lục địa, các đại dương, mang trong lòng nó tình yêu và tình nhân ái…” (Phác thảo chân dung tôi, tháng 04.1987).

Nhạc phản chiến của TCS là hiện thực của ước mơ này vậy.

Dĩ nhiên nhạc phản chiến chỉ là một trong ba chiều không gian âm nhạc đồ sộ của thiên tài TCS: tình yêu, thân phận và chiến tranh… và đã có nhiều bài viết về hai không gian còn lại: tình yêu và thân phận…

Trịnh Công Sơn qua nét vẽ của họa sỹ Nguyễn Đức Cường

Tôi chỉ thêm một chút ý kiến riêng thôi… TCS là một trong những nhạc sỹ viết nhạc tình hay nhất thế kỷ, tôi xin nhấn mạnh «một trong những»… Bởi đối với tình yêu, cái nhất là tùy ở mỗi cá nhân, ở mỗi hoàn cảnh… Nhạc tình Trịnh Công Sơn có cái gì nhẹ nhàng siêu thoát. Những cuộc tình của TCS là những day dứt, những tiếc nuối, những cuộc tình ngoài tầm tay với, không bao giờ được tận hưởng và hạnh phúc là một cái gì mong manh bàng bạc, xa vời. Những người đẹp qua âm nhạc Trịnh diễm lệ trang trọng đến độ trừu tượng, siêu thực…Nhạc tình của các tác giả nổi

tiếng khác như Phạm Duy, Đoàn Chuẩn, Vũ thành An, Ngô Thụy Miên, Đức Huy… theo tôi đời thường, lãng mạn hơn…

Ai cũng đồng ý chất Huế là thường trực trong nhạc TCS… Nhưng tôi lại thấy chất “blues” cũng tìm tàng trong một số bài: Hạ trắng, Tình nhớ, Biển nhớ… Phải chăng TCS có phần nào bị ảnh hưỏng nhạc Mỹ da đen…

Ngày TCS mất tôi đang ở TP.HCM… Và có lẽ cũng như rất nhiều người Việt Nam ở mọi ngả đường đất nước hay ở chân trời góc biển trên thế giới, tôi có cảm giác là một người thân của mình vừa từ giã cõi đời... Tôi định đến nhà ông để thắp một nén hương tiễn đưa vì lòng ngưỡng mộ. Nhưng hôm ấy từ đường Điện Biên Phủ, đi xe gắn máy, không có cách chi đến được ngã tư Phạm Ngọc Thạch… Một rừng người mênh mông như đại ngàn vô tận đã cùng chia sẻ ý này và cuồn cuộn chảy về con đường ấy… Tôi bỏ xe bên vệ đường mon men tìm đến số 47C thì đã quá muộn. Chiếc xe chở quan tài đã chuyển bánh, tiếng kèn saxophone tiễn đưa của Trần Mạnh Tuấn đã vang lên và tôi đành hòa mình vào đoàn người chảy xiết theo hướng Gò Dưa…

* * *

Sinh thời tôi chưa bao giờ nghe nói TCS là nghệ sỹ nhân dân. Nhưng chính quần chúng nhân dân không phân biệt thành phần, lớp người, lứa tuổi, không phân biệt Bắc-Trung-Nam, không phân biệt trong nước hay hải ngoại, đã chọn thiên tài Trịnh Công Sơn là nghệ sỹ số một của mình…

Và theo tôi lời khen tặng ưu ái nhất mà tôi được đọc về TCS chính là của Khánh Ly:

"Bởi vì ở ông TCS, điều vĩ đại nhất, vĩ đại hơn cả những tác phẩm của ông là nhân cách, nhân phẩm của ông..."

“Bởi vì ở ông TCS, điều vĩ đại nhất, vĩ đại hơn cả những tác phẩm của ông là nhân cách, nhân phẩm của ông. Ông là người duy nhất đã sống trong đời này có một tấm lòng không có thù hận”. (Khánh Ly, “Những lời tử tế ông Sơn dạy tôi”, Trường Kỳ phỏng vấn, Hoàng Trúc Ly sưu tầm.

Vâng, tôi cũng biết Trịnh Công Sơn, dù chỉ một thoáng và hôm nay qua tôi xin ghi lại đây, lòng ngưỡng mộ khôn cùng của tôi…

Trở về, để "nhẹ nhàng như mây"…

TTO - Con đường khu Thanh Đa tối qua, 4-4, dường như là con đường trở về với Trịnh, đông đến bất thường. Gần 10.000 khán giả đã vội đến để ngồi lại và lắng nghe những tình khúc "nhẹ nhàng như mây" của ông...

Một chương trình nhẹ nhàng, giản dị từ thiết kế sân khấu đến những chuyện trò, những ca khúc…Nhẹ nhàng từ bức họa poster chương trình. Một cô gái nghiêng theo chiều gió, đóa hoa vàng lặng lẽ kề bên. Đỗ Trung Quân kể rằng anh đã vẽ nó trong một quán café Hà Nội, vẽ trong vội vã với hai gam màu xanh và vàng - chính là màu vôi vữa mà anh xin được từ một ngôi nhà đang xây gần đó.

Và giản dị bởi lẽ đêm nhạc tưởng niệm 6 năm ngày mất cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tưởng như không diễn ra vì nhiều lẽ. Thế nhưng, như nhà thơ Đỗ Trung Quân chia sẻ, có lẽ không thể “phụ rẫy” những ngóng trông, những chờ đợi của đông đảo những người yêu nhạc Trịnh, anh em bạn bè đã “gom nhau” lại trong vội vàng để tổ chức đêm nhạc.

Mở đầu đêm nhạc, Hồng Nhung xuất hiện bất ngờ giữa khán giả, giản dị với áo dài trắng, và tiếng hát dường như sâu hơn trầm hơn trong Tuổi đá buồn, Diễm xưa.

Nhạc sĩ Bảo Phúc vừa day dứt vừa thanh thản cùng một sớm lên đường, mẹ ra sau vườn, hỏi thăm trái bí, trên giàn còn xanh...(Bà Mẹ Ô Lý). Thủy Tiên đầy xúc cảm với Muôn trùng biển ơi. Còn Đức Tuấn chinh phục khán giả với giọng hát sang và "phiêu linh” trong Hành hương trên đồi cao…

Sau nhiều năm vắng bóng trên sân khấu ca nhạc, sự trở về bất ngờ của Tam ca Áo Trắng - với Minh Tú, Minh Thư trong ca khúc Quỳnh hương - gây thú vị cho khán giả, chỉ tiếc giọng hát đã không còn trong trẻo như xưa.

Đức Tuấn “phiêu” trong Hành hương trên đồi cao - Ảnh: T.T.D.

Hồng Nhung sâu hơn, trầm hơn với Tuổi đá buồn, Diễm xưa - Ảnh: Thu Huệ

Ca sĩ Thủy Tiên với Muôn trùng biển ơi - Ảnh: T.T.D.

Nhạc sĩ Bảo Phúc xúc cảm với bài Bà mẹ Ô Lý - Ảnh: T.T.D.

Minh Tú - Minh Thư trở lại với bài Quỳnh Hương -Ảnh: T.T.D.

Nhóm nhạc Mặt Trời Đỏ biểu diễn Nhật Nguyệt - Ảnh: T.T.D.

Tiếng kèn saxophone "Còn tuổi nào cho em" của Trần Mạnh Tuấn -Ảnh: T.T.D.

Đức Huy vừa chơi đàn vừa hát Gọi tên bốn mùa - Ảnh: T.T.D.

Bên cạnh những tiết mục khá ấn tượng của nhóm AC&M (Ru em, Ru em từng ngón xuân nồng) và nhóm MTV (Tình sầu), Mặt trời đỏ cũng khá thu hút khi lần đầu tiên xuất hiện trên sân khấu của hội quán Hội Ngộ. Ca khúc Nhật nguyệt qua phần trình diễn kèm nhiều nhạc cụ của Mặt trời đỏ trở nên mới mẻ hơn, nhưng cũng đôi phần...huyên náo hơn so với cái hồn của bài hát.

6 năm gắn bó với các chương trình tưởng niệm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại hội quán Hội Ngộ, giọng ca sĩ Lan Ngọc vẫn ngọt ngào với Như cánh vạc bay,

Ngủ đi con...Trong khi đó, trái ngược với sự nền nã vốn có khi hát nhạc Trịnh, ca sĩ trẻ Song Giang lại xuất hiện trong trang phục không phù hợp làm ca khúc Nhớ mùa thu Hà Nội cũng thành ra...nặng nề.

Đêm nhạc khép lại với Như một lời chia tay - Ảnh: T.T.D.

Đọng lại trong lòng những người yêu nhạc Trịnh trong đêm "Nhẹ nhàng như mây" còn là một câu chuyện nhỏ của nhà thơ Đỗ Trung Quân. Trong chuyến ra Hà Nội trước khi quay về với đêm nhạc này, anh đã được một đôi bạn trẻ đưa đến một quán café nhạc Trịnh mang tên Cuối ngõ. Một quán cafe bình thường, nhưng điều đặc biệt - như lời kể còn thoáng xúc động của nhà thơ Đỗ Trung Quân - là chủ quán là một tay giang hồ khét tiếng đã hoàn lương. Một sự trở về từ nhạc Trịnh. Một lòng biết ơn từ nhạc Trịnh. Và có lẽ vì vậy mà giờ đây anh lặng lẽ thắp hương trước di ảnh Trịnh Công Sơn mỗi ngày, trong cái quán nhỏ ấy của mình.

Gần 10.000 khán giả đã ngồi nghe trong thinh lặng, khi bài hát cuối cùng Như một lời chia tay vang lên. Những hẹn hò từ nay khép lại... nhưng những hẹn hò với Trịnh, với tình yêu của Trịnh và những yêu thương ở cuộc đời này thì không khép lại bao giờ…

Ca sĩ Hồng Nhung trả lời phỏng vấn - Ảnh: Trần Chánh Nghĩa

Nhóm AC&M - Ảnh: Trần Chánh Nghĩa

Rất đông khán giả phải đứng ngoài khi chương trình đã bắt đầu vì không có vé vào - Ảnh: T.T.D.

Người nước ngoài và khán giả đang chăm chú thưởng thức nhạc - Ảnh: Trần Chánh Nghĩa

Nhung nhớ khôn nguôi...

TTO - Thỉnh thoảng theo dõi những bài hát thiếu nhi trên ti vi, tôi tìm được cho mình những phút thư giãn nhẹ nhàng cho tâm hồn. Hôm nay, nghe lại bài Em là bông hồng nhỏ, lòng tôi bỗng bồi hồi. Tôi tin rằng ai đã từng một lần tắm hồn mình trong nhạc của Trịnh Công Sơn, thì dù có hôm nào “thức dậy không còn thấy loài người", vẫn không khỏi nhung nhớ khôn nguôi người nhạc sĩ thiên tài nàỵ

Tuy chỉ “gõ đầu trẻ“ vỏn vẹn hai năm nhưng tình cảm anh dành cho thiếu nhi rất thân thương, cảm động. Anh viết khá nhiều cho các em, từ tuổi nhi đồng cho đến cả tuổi mới lớn. Bài Mẹ đi vắng viết cho các cháu mầm non có âm điệu vui tươi, dí dỏm:

Mẹ đi vắng, mẹ đi vắng

Con sang chơi nhà bạn ( í a)

Con cầm cây đàn con hát

Hát cho mẹ về với con…

Các cháu nhi đồng rất thích hình ảnh chiếc khăn quàng đỏ của mình được ca ngợi trong bài Khăn quàng thắp sáng bình minh:

Từng chiếc khăn em quàng thắm đỏ bình minh

Từng cánh tay măng non đang xây ngày mai hồng

Đoàn thiếu nhi em là hy vọng ngày mai…

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng không bỏ quên lứa tuổi ô mai vừa bước vào ngưỡng cửa trường trung học. Anh dành cho các em những giai điệu thật trong sáng, mộng mơ:

Mây và tóc em bay trong chiều gió lộng

Trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me

Em và lá tung tăng như lòai chim đến

Và đã hót giữa những phố nhà…

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Nhưng một bài hát được đông đảo các em ưa thích vẫn là bài Em là bông hồng nhỏ mà nếu tôi không lầm thì đây là bài hát đã được thiếu nhi cả nước bình chọn là 1 trong 50 bài hát hay nhất cuả thế kỷ 20.

Hôm nay, đúng vào dịp kỷ niệm 6 năm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi thấy lòng mình se lại. Những hồi ức về người nhạc sĩ thiên tài kéo tôi về với những ngày tháng đong đầy kỷ niệm xa xưa. Làm sao quên được những ngày bỏ học ở giảng đường Văn khoa Sài Gòn kéo nhau ra tụ tập dưới gốc cây chỉ để được nghe chính giọng hát của Trịnh Công Sơn - người tạo nên hiện tượng đặc biệt trong nền âm nhạc Việt Nam suốt mấy năm đầu của thập niên 1970 khắp cả miền Nam, thầm kín ở miền Bắc và tỏa lan cả ở nước ngoài. Làm sao quên được những buổi tối không hẹn mà quán Văn chỉ có ghế gỗ, mái lá, nền xi măng mà vẫn chen chúc khách ngồi thưởng thức nhạc Trịnh Công Sơn. Có lẽ những bài tình ca của anh đã có ma lực quyến rũ rất mãnh liệt. Sau ngày giải phóng, chính Trịnh Công Sơn từng tâm sự: ”Mỗi bài hát cuả tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống”.

Những năm tháng đó, Trịnh Công Sơn trở thành người được mến mộ vượt lên trên cả lớp nhạc sĩ thành danh trong thời tiền chiến. Anh được phong tặng danh hiệu “Kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận”. Không chỉ yêu nhạc Trịnh Công Sơn, nhiều người còn yêu thơ, yêu tranh, yêu văn, yêu tiếng hát của anh nữa.

Tận đáy lòng, tôi tâm phục nhạc Trịnh Công Sơn có sức xoáy sâu vào lòng người, vào con tim của nhiều thế hệ. Sự thành công cuả Trịnh Công Sơn có lẽ là vì người nghe đã tìm được “cái tôi “ của mình trong bài hát của anh. Nghe nhạc của anh buồn mà vẫn thích vì có mấy ai dám phủ nhận rằng cuộc đời này buồn nhiều hơn vui? Thế nhưng nhạc Trịnh Công Sơn lại không dẫn người ta vào con đường bi luỵ. Khi “cuộc đời gần như niềm tuyệt vọng “ thì chính anh cũng lại lại cất tiếng: "Tôi ơi, đừng tuyệt vọng”.

...Nói sao cho hết tình cảm của bao người dành cho một con người đã nên tạo nên được một hiện tượng hiếm có trong âm nhạc Việt Nam ở thế kỷ 20: hiện tượng nhạc Trịnh Công Sơn. Chỉ biết, mỗi 1-4 về, lại nhung nhớ khôn nguôi...

Cà phê hẻm Trịnh

TTO - Chẳng biết tự bao giờ, tôi có thói quen ngồi quán cà phê ấy vào sáng Chủ nhật. Gọi là "quán" nhưng thật ra chẳng có quán, chỉ có bàn ghế bày một đoạn hẻm. Không có nhạc. Không bày trí. Thức uống cũng chẳng đặc biệt hơn những quán khác. Vậy mà uống cà phê ở đó rất tuyệt.

Thứ nhất có lẽ vì thoải mái. Tôi có thể kéo đến bao nhiêu bạn tùy thích. Bàn không đủ chỗ thì ra vỉa hè, mỗi đứa một ghế nhựa nhỏ xíu, thêm một ghế để đặt ly nước là đủ. Tha hồ rôm rả. Tiếng cười giòn giã thoả sức bay lên vòm cây mát rượi. Hay lúc đi một mình thì cũng chẳng thấy cô đơn. Một tờ báo, một cà phê sữa nhâm nhi. Nhìn sang bên cũng bao người như mình, chìm đắm trong cõi riêng dù cách đó mấy mét xe cộ qua lại nườm nượp.

Thứ hai là vì khung cảnh. Con hẻm mát cực kì. Chỗ ngồi yêu thích của tôi là vỉa hè bên phải, dưới gốc cây trang cổ thụ. Cây bông trang này cũng thực lạ kì. Thường tôi chỉ thấy những cây bông trang cao cỡ 1m, hoa màu đỏ. Cây này hoa trắng và cao phải đến 5m, thân to như cây xoài lão. Nhìn lên tán lá xanh, thấy từng chùm hoa li ti trắng xoá, chợt thấy lòng thanh thản lạ.

Cũng không thể không nhắc đến điều làm nên "thương hiệu" cho con hẻm này: nhà Trịnh Công Sơn ở đó. Dẫu tôi không biết căn nào là nhà ông nhưng đến đây là đến rất gần với Trịnh rồi. Thỉnh thoảng tôi lại thấy Trịnh Vĩnh Trâm, Trịnh Vĩnh Trinh đi ra đi vào, hay thấp thoáng sau cửa kính xe hơi, sang trọng và dịu dàng. Và còn bao người đến thăm Trịnh nữa, trông họ nhẹ nhõm ung dung làm sao, giọng Huế ríu rít ngọt lịm.

Chẳng hiểu sao sáng chủ nhật ở đây, mọi thứ đều nhẹ nhàng như thế. Lá vàng chao nghiêng rất nhẹ. Tiếng xe cộ cũng bớt ồn ào. Mọi người đều giản dị, nên thấy gần gũi với mình hơn.

Cà phê hẻm Trịnh trở thành điểm hẹn của chúng tôi lúc nào không hay. Bây giờ, chẳng cần hẹn hò trước, cứ ra quán vào sáng chủ nhật là sẽ gặp người quen. Rồi thói quen "mang dép lê ngồi quán cà phê nhà bác Trịnh" như một người bạn của tôi bộc bạch trên blog cũng trở thành sở thích của tôi hồi nào chẳng biết. Mời bạn đến thử một lần. Hẻm 47 Phạm Ngọc Thạch

Những dòng sông nhỏ

TTO - Những dòng sông nhỏ là một bài viết trong tập sách Như những dòng sông - cuốn hồi ức mới nhất về cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn do Hoàng Tá Thích - em rể của Trịnh Công Sơn chấp bút. Nhân ngày giỗ lần 6 của người nhạc sĩ tài hoa này (1-4-2001 - 1-4-2007), TTO xin trích giới thiệu đến bạn đọc.

Người con gái đầu tiên bước vào đời Trịnh Công Sơn là một cô gái đẹp của thành phố Huế thời bấy giờ. Chỉ là một cuộc tình lãng mạn thời niên thiếu, khi anh mới 18 và cô gái xinh tươi như một vùng cỏ non liên thiên bích ấy vừa tròn 17. Thuở đó, tình yêu của lứa tuổi này được viết bằng chữ A lớn (Amour), mà một cái nắm tay đủ làm cho nhau ngây ngất, một nụ hôn vụng về tưởng suốt đời không thể nào quên. Hơn nữa, trong cái thành phố nhỏ bé đầy những thành kiến bảo thủ ấy, anh chỉ có thể để lòng mơ mộng đến một cuộc tình nhẹ nhàng đầy tính lãng mạn.

Cho đến một hôm nghe tin người mình yêu sắp từ giã con đường Huyền Trân Công Chúa, anh bỗng thấy lòng vấn vương một nỗi buồn man mác. Con đường đó anh vẫn thường đi qua. Ngôi nhà của nàng nằm cao cao bên bờ sông Bến Ngự, đối với anh quen thuộc biết bao. Những buổi chiều tà, cùng ngồi với nhau trong phòng đọc sách, anh có thể nhìn thấy, một chút nắng vàng vẩn vơ đọng trước hiên nhà phía trước.

Cuộc tình trôi qua như thoáng mây bay, chẳng có một gắn bó hứa hẹn nào, nhưng lại sống mãi trong tác phẩm nổi tiếng Nhìn những mùa thu đi (1960): “Anh nghe buồn mình “trên ấy”, chuyện chúng mình ngày xưa, anh ghi bằng nhiều thu vắng, đến thu này thì mộng nhạt phai”. Anh thường gọi cái buồn man mác đó là la melancolie, nỗi buồn nhẹ nhàng như đang ngồi trong một khu vườn nhìn buổi chiều tà tắt nắng.

Ướt mi được viết từ những giọt lệ trên khóe mắt ca sĩ Thanh Thúy lúc được chính anh yêu cầu cô hát bản Giọt mưa thu ở phòng trà Vân Cảnh (Sài Gòn) năm 1958. “Buồn dâng lên đôi môi, buồn đau hoen ướt mi ai rồi”. Hồi đó Thanh Thúy còn rất trẻ, chưa đủ tuổi để ký hợp đồng khi đi vào nghề ca hát mà đã sớm mất mẹ. Anh cũng chưa quen biết nhiều cô ca sĩ này, nhưng nhìn những giọt nước long lanh trên đôi mắt to tròn ấy, anh đã xúc động không cùng. Sau khi trở về Huế, anh ghi lại cảm xúc của mình và bài hát được gửi vào Sài Gòn cho Thanh Thúy. Ca khúc Ướt mi, có thể gọi là tác phẩm đầu tay của anh trong những năm 1959-1960, qua tiếng hát liêu trai của Thanh Thúy

Trịnh Công Sơn thời trẻ

Bìa sách Như những dòng sông

tại khắp các phòng trà, vũ trường Sài Gòn, đã làm cho cái tên Trịnh Công Sơn trở thành một dấu hỏi, vì thật ra ít ai biết tác giả là người như thế nào.

Một bài nhạc khác cũng được anh viết cho Thanh Thúy, như là một kỷ niệm của người nhạc sĩ một hôm bất chợt thấy thương cho người ca sĩ lặng lẽ trở về ngõ tối sau một đêm tràn ngập ánh đèn màu: “Thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi môi... Thương ai về xóm vắng, đêm nay thiếu ánh trăng (Thương một người -1959 –

Đầu năm 1962, gia đình dời nhà từ đường Phan Bội Châu qua Nguyễn Trường Tộ. Đối diện nhà là khuôn viên của tòa Tổng giám mục Huế. Đứng trên ban-công, có thể nhìn thấy một đoạn đường phía bên kia cầu Phú Cam. Con đường đó, ngày ngày người con gái mang tên Diễm trong chiếc áo lụa trắng của trường Đồng Khánh, vẫn thường đi ngang, băng qua cầu, rẽ tay mặt về nhà. Hình ảnh người con gái thùy mị mang nét kín cổng cao tường rất cổ điển đó đã làm cho anh không ngày nào không nhìn xuống đường chờ đợi: Lụa áo em qua phủ mặt đường; Gót nhỏ xanh xao tựa khói sương .

Diễm mang đến cho anh một mối tình nhẹ nhàng và lãng mạn như hai chữ Diễm xưa. Có hôm thức dậy muộn, nhìn thấy bên cửa sổ có cài một nhành dạ lý hương, anh biết người đẹp đã đi qua nhà mình. Và mỗi lần thức dậy anh đều mong nhìn thấy cành hoa cài trên cửa: “Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi, làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau”.

Diễm xưa ra đời, nhanh chóng nổi tiếng khắp miền Nam, đến độ mọi người đều cho đó là một mối tình lớn của Trịnh Công Sơn. Nhưng không phải thế, vì chưa đầy một năm sau thì đôi mắt nai ngây tròn của người em mới thực sự làm anh ngây ngất.

Cuối năm 1962, lúc anh bắt đầu cuộc sống xa nhà ở Quy Nhơn rồi Bảo Lộc, thì những cánh thư tình đã bắt đầu qua lại với Dao Ánh. Từ đôi mắt trong như nắng thủy tinh của nàng, rất nhiều ca khúc viết tiếp theo đều dành cho người con gái này. “Còn tuổi nào cho em” đây? “Thuở đó, tình đẹp như cơn “Mưa hồng” ươm nắng. Anh thổ lộ “em đã cho tôi quên đi muộn phiền”. Đến độ anh đã tưởng rằng “áo xưa dù nhầu, cũng xin bạc đầu, gọi mãi tên nhau”.

Nhưng trước sau Trịnh Công Sơn vẫn là một nghệ sĩ lãng du, chưa có ý định dừng chân ở bến đỗ nào. Còn cô gái khuê các Dao Ánh lại không thể sống mãi với mối tình lãng mạn chẳng một lời một hứa hẹn. Và cuối cùng cuộc tình đã kết thúc sau nhiều năm gắn bó: Em đi bóng đổ đường dài; Để tôi ở lại miệt mài nỗi đau.

Đầu năm 1970, trong những ngày tháng lang thang trên vùng đồi núi Đà Lạt, anh gặp một cô gái xinh đẹp đã liều lĩnh leo rào nội trú Trường Yersin để hẹn hò với anh - P.T.L môi đỏ má hồng, mắt long lanh như nước hồ Đà Lạt, đã đem đến cho anh nguồn vui mới. Trên những con đường của thành phố ngàn thông mơ mộng, anh cùng người đẹp lang thang khi xuống phố khi leo đồi.

Nhưng rồi cuộc tình lại cũng như thoáng mây bay, chưa kéo dài bao lâu đã phải chia tay vội vàng.

Khoảng cuối năm 1970, anh đang ở Huế bỗng nhận được điện tín nhắn vào Sài Gòn gấp. Vài hôm nữa đã là ngày giỗ thân phụ nhưng anh vẫn vội vã lên máy bay để chỉ kịp đến phi trường tiễn đưa người tình rời quê hương đến một phương trời xa xôi biền biệt: Em đi pháo đỏ nhuộm đường; Tôi ngồi với nỗi tiếc thương bạc lòng.

Biết không bao giờ có thể gặp lại, làm sao giây phút tiễn đưa chẳng khỏi chạnh lòng: “Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng... ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh (Như cánh vạc bay - 1970)”.

Năm 1981, anh gặp Hoàng Lan. Cô gái lúc nào cũng sống động vui tươi này gợi lên hình ảnh một đôi hài ba lê duyên dáng gõ trên phím dương cầm thánh thót. Tóc mây buông xõa, môi cười họa mi, đóa hoa vàng đã nhập vào hồn làm anh ngây ngất. Nhân ngày sinh của người đẹp, anh mang đến tặng nàng 21 cánh hoa hồng màu vàng: “Yêu em một đóa hoa vàng, yêu em một phút hoàng lan tình cờ”.

Bài hát anh viết cho Hoàng Lan năm 1981 mang tên Một thuở hoa vàng, sau được đổi thành Hoa vàng mấy độ lúc xuất bản: “Em đến bên đời, hoa vàng một đóa, một thoáng hương bay, bên trời phố lạ, nào có ai hay, ta gặp tình cờ”.

Hồi đó, Trịnh Công Sơn vừa đến ngưỡng 40. Nếu quả thật anh đã mệt mỏi đôi chân muốn tìm một nơi ngơi nghỉ, biết đâu người con gái này có thể là người bạn đời của anh. Nhưng rồi cuộc tình cũng trôi qua. Không do phụ rẫy, không bởi nhạt phai, mà chỉ vì anh muôn thuở là chàng lãng tử.

Khoảng năm 1990, V.A đến với anh bằng những nồng nàn của người con gái tuổi đôi mươi có nhan sắc tuyệt vời và thân hình chuẩn mực của một á hậu. V.A thường xuyên đến thăm anh ở nhà Duy Tân. Tiếc thay, cuộc tình chỉ kéo dài chưa đầy năm. Có lần, anh nhờ một người bạn trẻ đưa V.A về. Đến khi biết ra thì quá muộn màng, chàng trai ấy đã mang nàng tiên ra đi không trở lại. Chẳng biết, anh có đau khổ vì mất người yêu hay không, chỉ biết V.A có lần nhắn tin cho anh Sơn khi cô nằm trên giường bệnh, nhưng anh đã không đến thăm.

Cuộc tình này chấm dứt để lại cho chúng ta ca khúc. Con mắt còn lại (1990): “Còn hai con mắt khóc người một con, còn hai con mắt một con khóc người, con mắt còn lại nhìn một thành hai, nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ”. Không hiểu anh nghĩ gì khi viết nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ, chỉ biết rằng mỗi lần nhắc đến tên V.A hình như anh có chút chi băn khoăn trong lòng.

Năm 1992, sau khi đi Canada về anh thường lui tới với Hồng Nhung. Cô ca sĩ nhạc pop người Hà Nội với thân hình bé như hạt tiêu dường như làm cho anh

trẻ lại. Hồng Nhung chỉ bằng nửa tuổi của anh Sơn, nhưng ngay từ đầu cô vẫn hồn nhiên xưng hô với anh một cách thân mật như người bằng vai phải lứa. Mặc dù đôi khi anh trách yêu cô là “hỗn”, nhưng lại tỏ vẻ rất thú vị.

Khi bắt đầu chuyển sang hát nhạc Việt, Hồng Nhung trình bày ca khúc Hạ trắng với thể điệu rock. Một số khán giả yêu nhạc Trịnh Công Sơn đã bày tỏ sự không bằng lòng vì cho rằng không phù hợp phong cách nhạc Trịnh. Nhưng anh Sơn lại cười hiền hòa: “Chẳng sao, bởi vì Hồng Nhung hát bình thường sẽ không thể nào tranh được với Khánh Ly”. Dù biết là anh chỉ nói đùa, nhưng điều đó chứng tỏ anh rất thương cô gái bé bỏng này. Và có lẽ Hồng Nhung là người ca sĩ duy nhất được Trịnh Công Sơn viết riêng cho đến ba bài hát (Thuở Bống là người, Bống không là bống, Bống bồng ơi).

Tuy rất được yêu, nhưng cũng có lúc Bống làm anh buồn. Hay có lúc Bống đã muốn nhảy lên bờ, bỏ mặc anh đợi chờ dưới suối. Như anh đã viết: “Có một con đường em không đi tới, vui buồn hội ngộ trong kiếp người”. Phải chăng đó là một lời trách móc người bạn bé nhỏ đã không chia sẻ những vui buồn trong cuộc đời với anh?

Cuối năm 1992, một người tình cũ từ Hoa Kỳ trở về thăm anh: “Người ngỡ đã đi xa, nhưng người bỗng lại về” (Tình nhớ). Dao Ánh vẫn trong tà áo lụa ngày nào, vẫn đôi mắt của nắng thủy tinh, vẫn là đóa hướng dương vô thường, đã làm anh như sống lại với những kỷ niệm xa xưa. Không khác gì ngày xưa, vẫn chọn một chỗ hẹn hò dưới phố. Buổi chiều, anh nhờ các em gái chọn giúp một chiếc sơ mi để mặc đi đến chỗ hẹn. Năm ấy là mùa pháo Tết cuối cùng ở Việt Nam, anh bồi hồi nhìn người yêu trở lại: “Hai mươi năm xin trả nợ người, trả nợ một đời em đã phụ tôi, bao nhiêu năm em nợ bạc đầu, trả nợ một đời không hết tình đâu.” (Xin trả nợ người - 1993).

Rồi lại bồi hồi nhìn người yêu ra đi về nơi ngút ngàn xa cách. Những cánh thư đi về nối lại chuyện tình hai mươi năm về trước. Lại tiếp tục những cuộc hẹn hò, kéo dài cho đến ngày anh nằm bệnh. Trong số các khuôn mặt người tình, có lẽ Dao Ánh là người anh yêu thương sâu đậm nhất. Phần đông những người cũ khi gặp lại đều đã thuộc về người khác, anh luôn giữ mối tương kính bạn bè. Riêng Dao Ánh đã làm cho tình cảm trong anh sống lại, hai mươi năm vơi cạn lại đầy...

Khánh Ly không có một cuộc tình với Trịnh Công Sơn, nhưng định mệnh như đã gắn liền cái tên cô với tên anh. Cô ca sĩ này đã chân đất giã từ thành phố Đà Lạt để theo Trịnh Công Sơn hát cho sinh viên lúc chỉ hơn 20 tuổi. Nhiều người đã cho rằng trời sinh ra Khánh Ly để hát nhạc Trịnh Công Sơn. Cô yêu thương anh như một người bạn, một người anh, một người thầy, và cả một người tình. Đôi khi trước mặt những người khác, anh đã la rầy Khánh Ly như một cô học trò nhỏ. Khánh Ly cũng chỉ cười buồn.

Suốt mười năm bên cạnh anh, Khánh Ly đã trở thành một cái gì không thể tách rời với cái tên Trịnh Công Sơn. Khánh Ly thường nói: “Tuy không một ca khúc nào của Trịnh Công Sơn viết riêng cho tôi, nhưng tôi vẫn có cảm tưởng

hầu hết tất cả những ca khúc của Trịnh Công Sơn đều được viết cho Khánh Ly”. Có lẽ vì vậy mà có thể nói cô là một trong những người hiểu rõ nhất từng ca từ cũng như những tâm ý trong một số lớn ca khúc của anh. Sau năm 1975, Khánh Ly rời Việt Nam lang thang khắp thế giới với nghiệp cầm ca, nhưng không lúc nào cô rời bỏ cái tên Trịnh Công Sơn bên cạnh cuộc đời mình. Khánh Ly từng nói rằng, cô đã chết nửa cuộc đời theo Trịnh Công Sơn sau ngày anh nằm xuống.

Đối với Trịnh Công Sơn, anh chỉ thấy Khánh Ly là một gắn bó định mệnh. Hơn mười lăm năm sau mới hội ngộ nhau ở Canada, đối diện với anh Sơn vẫn là Khánh Ly nhỏ bé ngày xưa, luôn luôn yêu thương và kính trọng người anh, người thầy của mình...

Một điều chắc chắn là bất cứ người con gái nào tới với anh, đem đến cho anh dù chỉ một chút tình, anh vẫn nâng niu đón nhận. Ngay cả khi anh đã qua độ tuổi bồng bột mà, như anh thường nói, đôi khi ngồi bên một người đẹp chưa chắc anh đã thú vị bằng ngồi ngắm ánh nắng buổi chiều tà hay cơn mưa phùn buổi sáng, thì vẫn có rất nhiều phụ nữ vì yêu tài mà tìm đến anh.

Anh biết ơn tất cả, bởi bản chất anh là luôn trân trọng hết thảy mọi phụ nữ mình từng quen biết trong đời.

Nhà lưu niệm cho Trịnh Công Sơn: bao giờ?

TT - Một sự kiện nghệ thuật có thể nói rất “chấn động” trong dịp Festival Huế này là việc chính quyền và nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế đã dành hẳn một tòa nhà có kiến trúc đẹp (ảnh) với khuôn viên rộng gần 1.500m2 nằm ngay con đường đẹp nhất Huế (đường Lê Lợi)... để làm trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng

Những người yêu nghệ thuật hội họa của Lê Bá Đảng giờ đây thỏa thích “no mắt” khi bước vào trung tâm nghệ thuật này dù ông chỉ đưa về trưng bày ở đây 108 tác phẩm, một phần nhỏ trong gia tài nghệ thuật vô cùng đồ sộ ở nước ngoài của ông...

Hơn 10 năm trước, tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã dành một biệt thự cổ rất đẹp trên đường Phan Bội Châu để làm nhà trưng bày các tác phẩm nghệ thuật của Điềm Phùng Thị, và ngôi nhà ấy nay đã trở thành một địa chỉ nghệ thuật ở Huế...

Có thể nói hai sự việc trên thể hiện sự trân trọng của đất cố đô với những thiên tài nghệ thuật, những người đã vinh danh nước Việt.

Và có một nhân vật văn hóa khác của Huế mà tên tuổi của ông khi nhắc đến sẽ vang lên như những yêu thương đồng vọng giữa đất trời xứ Huế.

Festival Huế đầu tiên, năm 2000, Trịnh Công Sơn về dự, nhiều anh em bằng hữu đã tính đến chuyện xây cho anh một ngôi nhà để sau này trở thành nhà lưu niệm hay bảo tàng.

Hồi đó tỉnh cũng định cấp một khuôn viên chừng 500m2 cho anh. Nhưng rồi chưa đầy một năm sau thì Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu. Câu chuyện về một ngôi nhà cho âm nhạc cùng những di cảo, di vật của anh trú ngụ đã ít thấy nhắc đến…

Một ngôi nhà lưu niệm cho Trịnh Công Sơn trên đất Huế rõ ràng là điều mà nhiều người Huế và không chỉ Huế, đều mong đợi. Nhiều bạn bè của anh bảo: không cần một tòa dinh thự bề thế, chỉ cần tỉnh cấp một miếng đất như ân tình quê hương dành cho anh.

Rồi ngôi nhà ấy sẽ mọc lên, nên hình hài bằng chính tấm lòng của những người đã đồng hành cùng âm nhạc của anh. Và gia đình anh, bạn bè anh... đủ hằng tâm hằng sản để xây cho anh một ngôi nhà như thế.

Trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng tọa lạc ở vị trí trung tâm TP Huế. Một Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn tương tự, bao giờ?

Rồi mơ ước festival lần sau, Huế lại thêm một địa chỉ nghệ thuật, có thêm một nơi chốn đi về cho người yêu Huế, yêu Trịnh mang tên Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn.

Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam Mở đầu tập Ca khúc da vàng viết năm 1967, Trịnh Công Sơn bày tỏ nỗi đau thống thiết: “Tất cả đã bể, đã vỡ toang. Tiếng thét đã chìm xuống biển thành tiếng nói trầm tư, thành lời kêu uất về thân thế Việt Nam. Tiếng nói vang lên từ những hố bom đào lên cùng khắp. Ơi những bạn bè thân yêu đã chết từ đỉnh cao hay vực thẳm. Con người đã hóa thân làm vết thương. Cái chết hóa thân làm biểu tượng vô nghĩa. Đã biến hình đổi dạng từ những cơn hiểm họa cay nghiệt nhất của nhân loại. Lìa cha mẹ, anh em, bằng hữu yêu dấu vô cùng. Hãy kết hỏa châu làm đèn đãi ngộ quỷ dữ. Đốt đuốc cho người điên ấm phố mùa đông. Cả một hành trình hùng vĩ của giống nòi từ miền Triết Giang đổ về bây giờ như thế đó. Hỡi người yêu da vàng của tôi hãy duỗi tay thật dài về phía hố thẳm vốc lấy những hạt đất mềm mỏng đó mà hôn. Tôi sẽ làm người tiều phu đi nhặt từng cánh tay, bàn chân, từng đốt xương, sọ người vung vãi khắp nơi về làm củi đốt sáng cho đêm tìm lại dấu vết của một hành tinh Việt Nam da vàng bặt tăm. Ám khí dày đặc, làm sao thấy rõ mặt nhau. Hãy thử bắt đầu bằng tiếng hát như ca dao của tổ tiên ta ngày xưa đó”. ("Da vàng ca khúc" Trịnh Công Sơn) [1]

Trong ca khúc “Gia tài của Mẹ”, Trịnh Công Sơn đã chỉ cho chúng ta thấy đây là một cuộc chiến tranh “nội chiến”. Chính quan điểm này đã làm cho chính quyền cộng sản e ngại ông. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu của thời hậu chiến, có người ở chiến khu đã tuyên bố khi về Sài Gòn sẽ “xử tử” Trịnh Công Sơn [2] . Cho đến ngày nay, quan điểm về tên gọi cuộc chiến vẫn là điều tranh cãi. Với tôi, tôi đồng cảm cùng suy nghĩ của Trịnh Công Sơn, bởi vì đứng trên góc nhìn dân tộc, cái chết nào cũng đau xót như nhau. Vì tất cả đều chung giòng máu Lạc Hồng. Đó chính là bi kịch của người dân Việt. Với trái tim nhạy cảm và nhân ái vô cùng, Trịnh Công Sơn đã nhận ra điều vô lý ấy. Trong bài nói chuyện “Trịnh Công Sơn vì hòa bình và tình yêu” do “Hội Văn hóa Trịnh Công Sơn” tổ chức tại Paris đêm 3-5-2003, giáo sư Cao Huy Thuần đặt câu hỏi: “Có cái gì nổi bật trong nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn?” và khẳng định: “Chẳng có gì ngoài chữ tình” [3] . Đúng, nhạc chiến tranh của ông bắt nguồn từ tình yêu thương, nó là những bài tự tình dân tộc, ông nói hộ cho dân tộc thân phận khổ ải của kiếp người trong chiến tranh, là tiếng kêu thương tuyệt vọng của người dân trong cảnh thịt xương tan nát.

Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng Khắp đất nước tràn đầy xác người: Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh này Bên xác người già yếu, có xác còn thơ ngây Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này Trong những vùng lửa cháy, bên những vồng ngô khoai ("Hát trên những xác người" - 1968) Là một trí thức, ông ý thức được thân phận nhược tiểu của đất nước mình trong bối cảnh tranh giành ảnh hưởng của các thế lực quốc tế. Cảm nhận được nỗi đau mất mát ấy, cho nên dù đang ở trong cái thế chống đối nhau, tự trong thâm tâm của người dân Việt, họ vẫn thấy yêu nhau, gần nhau: Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam Ngày gió lớn, tôi đi môi gọi thầm, Gọi tên anh, tên Việt Nam, Gần nhau trong tiếng nói da vàng. ("Tình ca của người mất trí" - 1967) Có lúc ông nói thẳng ra: Hai mươi năm là xác người Việt nằm Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam? Xưa ta không thù hận Vì đâu tay ta vấy máu? ("Tuổi trẻ Việt Nam" - 1969) Cái bi thảm nhất là ở chỗ: tay của người Việt ít nhiều đều vấy máu anh em mình, người yêu của mình. Tự trong thâm tâm, họ là anh em, cha con, là người yêu của nhau, nhưng trên thực tế, họ chém giết nhau, nhìn nhau xa lạ. Nhưng khi người yêu đó: Bỏ xác trôi sông, chết ngoài ruộng đồng / Chết rừng mịt mùng, chết lạnh lùng / Mình cháy như than, chết cong queo / Chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu / Chết nghẹn ngào, mình không manh áo (Tình ca của người mất trí - 1967). Trong cuộc chiến tranh này, không ai ca khúc khải hoàn, không ai nằm chết trong vinh quang. Những người yêu đó đã: Chết thật tình cờ, chết chẳng hẹn hò Chết không hận thù, nằm chết như mơ Trịnh Công Sơn cho rằng, đây là cái chết do một trận địa chấn, một cơn hồng thủy. Một cái chết không nằm trong dự tính của họ. Họ bị một thứ gông cùm xiềng xích vô hình xô đẩy họ vào mâu thuẫn, hận thù. Nhưng tận trong sâu xa nơi tâm hồn họ, họ không thấy sự mâu thuẫn, hận thù mà chỉ thấy một màu da thơm mùa lúa chín, thấy yêu nhau, thấy gần nhau trong tiếng nói Việt Nam. Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu

người đã chết bất đắc kỳ tử, chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát xuất từ đâu tới, chớ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam, mà ngày nay có những quan điểm cho rằng đó là cuộc chiến tranh “uỷ nhiệm” của các nước lớn. Nói như Bửu Ý “… chiến tranh diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong lòng người, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh… Giữa một nền trời như vậy, thân phận con người là một vấn nạn, ta nên nói ngay: đây là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý…” [4] . Những bài ca nổi tiếng trong giai đoạn này như “Tình ca của người mất trí”, “Ca dao mẹ”, “Gia tài của mẹ”, “Đi tìm quê hương” là những bài hát có ca từ rất buồn thảm, giai điệu blues dìu dặt, thở than, kể lể như tiếng khóc của một người đàn bà trong góc phòng tối, rồi bỗng nhiên nức nở, gào thét thảm thiết. Ông nói hộ những gì trong tâm hồn họ bị nổ ra vì quá đau khổ, u uất, vì không thể đè nén lại được nữa. Những ước mơ từ lâu họ không được quyền nói tới, phải được chôn sâu vào trong lòng, nay bỗng bùng lên trong tiếng hát của người mất trí [5] . Không chỉ riêng Trịnh Công Sơn, hầu như người dân miền Nam nào cũng sống trong bi kịch ấy. Để minh chứng cho một thời đại đầy biến động này, chúng ta hãy đọc bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn khi viết về bộ đội miền Bắc với một giọng thơ ngất ngưởng: Kẻ thù ta ơi, những đứa xăm mình Ăn muối đá và điên say chiến đấu Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo Xem chiến cuộc như tai trời ách nước Ta bắn trúng ngươi, vì ngươi bạc phước Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí Lũ chúng ta sống một đời vô vị Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”... (“Chiến tranh Việt Nam và tôi” - Nguyễn Bắc Sơn) [6] “Những đứa xăm mình”, những con người ấy cũng một dòng máu như ta thôi. Trong lúc người lính Cộng hòa đã nhận ra cuộc chiến này “cũng chỉ một trò chơi” thì... phần đông “Kẻ thù ta ơi” đều “điên say chiến đấu”, đều tin chắc vào chính nghĩa của cuộc chém giết, đều hô hào cổ võ tàn sát một cách trịnh trọng. “Kẻ thù ta ơi” là một thế hệ tươi sáng, họ là những học sinh, sinh viên đầy nhiệt huyết, được đào tạo từ nhỏ về lòng yêu nước, yêu nước ở đây đồng nghĩa với ý thức của chủ nghĩa cộng sản về nhiệm vụ và sứ mệnh. Yêu nước ở đây đã gắn liền với một thể chế. Đây lại là một bi kịch khác. “Nhiệm vụ của ta là phải đấu tranh cho lẽ phải. Mà đã đấu tranh thì phải bỏ sức lực, phải suy nghĩ và phải hy sinh những quyền lợi cá nhân, có khi là cả cuộc đời mình, cho lẽ phải chiến thắng” (Nhật ký Đặng Thùy Trâm) [7] .

Trong khi đó, ở chiến tuyến khác, trong bài “Nghinh địch hành” Hà Thúc Sinh viết: Giao thừa đâu mà vội Hãy khoan đã chú mày Cứ đóng xa vài dặm mà ăn uống cho say Ta cũng người như chú cũng nhỏ bé trong đời có núi sông trong bụng mà bất lực hôm nay ... Vì nói thật cùng chú Trăm năm có là bao Binh đao sao biết được Sinh tử ở nơi nào.” (“Nghinh địch hành” - Hà Thúc Sinh) Một người lính Cộng hòa nói với một bộ đội miền Bắc, như nói với anh em và quả thật họ là anh em cùng giống “da vàng mũi tẹt” mà ra. Ta đối với chú mà nói được lời như thế vì lòng ta đã tới độ nguội lạnh, không còn gì khuấy động nổi một cơn điên say nữa. Đao to búa lớn: vô ích. Danh từ cao đẹp: vô ích. Lý tưởng thiêng liêng: vô ích [8] .

Cũng như bao người trí thức miền Nam khác, Trịnh Công Sơn đau đớn nhận ra điều ấy, những thảm cảnh mất mát mà ông thấy trong trái tim của ông. Cũng như dân tộc, chiến tranh của ông mang tính trừu tượng, trừu tượng trong cái nghĩa nồi da xáo thịt, ông không cần phân tích cái nồi đó thế nào, ai mang đến, ai đốt củi lửa. “Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (…). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói” [9] . Nhận định của Bửu Chỉ thật sâu sắc, tuy nhiên theo tôi, Trịnh Công Sơn không phải không có thái độ chính trị. Thái độ chọn lựa của ông đã thật rõ ràng. Ông dứt khoát không tham gia bên nào, vì đứng bên nào, ông cũng

thấy trái tim mình nhói đau. Như một trò chơi, bạn bè thân của ông chia đều ở hai phía: Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương ("Xin mặt trời ngủ yên" - 1964) Người miền Nam thấy mình trong ca khúc “Cho một người nằm xuống”, Trịnh Công Sơn thương tiếc Lưu Kim Cương, một Đại tá Không quân Việt Nam Cộng Hòa tử nạn, là một người bạn hào hiệp của ông: Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn Đất ôm anh đưa về cội nguồn… Những xót xa đành nói cùng hư không. ("Cho một người nằm xuống" - 1968) Người miền Bắc lại bắt gặp mình khi ông chia sẻ nỗi đau: Tôi mất trong chiến tranh này Bao nhiêu bao nhiêu nụ cười Em từ Hà Nội có bao giờ được yên vui… (“Tôi đã mất” - 1970) Rồi trưa ngày 30 tháng tư năm 1975, chiến tranh chấm dứt, người ta nghe tiếng ông hát “Nối vòng tay lớn” trên Đài phát thanh Sài Gòn. Người miền Nam sửng sốt và thấy bị tổn thương như bị phản bội khi mà trái tim họ vốn đã tan nát khi Sài Gòn thất thủ. Giải thích hành động này ra sao? Văn Cao mấy chục năm trời im hơi lặng tiếng, bỗng vỡ òa niềm vui với ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” ở cùng thời điểm này. Phải chăng những nghệ sĩ lớn đều như vậy, như đứa trẻ chỉ biết ca lên niềm hân hoan của dân tộc trong ngày vui chung của đất nước, sau bao năm ngăn cách. Vẫn là niềm vui vượt trên mọi quan điểm chính trị. Và tôi tin rằng, đối với Trịnh Công Sơn, ông cũng sẽ làm điều đó nếu chiến thắng trong cuộc chiến 1975 trước đây thuộc về những người lính Cộng hòa. Ở Việt Nam, cái logic tư duy của người Việt thường thấy là: không bên này là bên kia. Điều này cũng dễ hiểu vì thực tiễn lịch sử Việt Nam trong suốt nhiều thập kỷ đã đặt con người vào cách tư duy trên. Thái độ không thật sự bên nào của Trịnh Công Sơn, đã khiến ông rơi vào cái nhìn nghi ngờ từ cả hai phía. Bên Cộng hòa có người đã cho ông là “hèn nhát”: “Trịnh Công Sơn, ông chỉ là một cây sậy, hơn thế nữa, là một cây sậy yếu hèn (cho dù có là “cây sậy biết suy nghĩ” tới đâu). Trong lớp vỏ của một cây sậy, của một thể chất yếu đuối,

là một bản chất yếu đuối… Là cây sậy, ông khó mà đứng thẳng trước những trận gió ào ạt, những trận cuồng phong. Ông phải cúi rạp xuống. Là cây sậy, ông cũng tham sống sợ chết, cũng thích ăn ngon mặc đẹp, cũng run sợ trước bạo lực, cũng lo âu trước những nỗi bất an, những mối đe dọa rình rập…” [10] . Người ta nói “ông phải cúi rạp xuống… cũng run sợ trước bạo lực…”. Thế nhưng, khi nghiên cứu cuộc đời và nội dung các sáng tác của ông (các bài viết và trên 300 ca khúc), tôi không hề bắt gặp điều đó. Thậm chí, Trịnh Công Sơn rất ý thức khi không sáng tác một ca khúc nào có ca từ ca ngợi lãnh đạo, lãnh tụ hay ca ngợi thể chế mình đang sống, dù trong thời chiến tranh hay sau thời hậu chiến. Đó là lòng tự trọng của người trí thức mà không phải ai ai cũng có được. Bên cộng sản thì “gạt ông qua bên lề” vì thiếu vắng lập trường chính trị. Trịnh Công Sơn chênh vênh giữa hai “lằn đạn”… mặc kệ những phán xét, ông sống theo suy nghĩ của riêng mình. Tôi nghĩ rằng, thái độ kiên định lập trường sống và hoạt động nghệ thuật của riêng mình chính là bản lĩnh hiếm có của một nghệ sĩ lớn. Là một nghệ sĩ, ông dùng lời ca để hát lên thân phận con người trong chiến tranh, kêu gọi hòa bình và tình yêu thương. Hành động dấn thân với tư cách là người nghệ sĩ đấu tranh cho hòa bình, theo tôi là một chọn lựa dũng cảm, đầy tính nhân văn của một trí thức. Và hành động ở lại Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư, thở cùng nhịp thở với đất nước, đau cùng nỗi đau của dân tộc là logic của một nhân cách lớn. Chính điều ấy đã làm ông trở thành một công dân “ngoại hạng”. Và một nghịch lý đã xảy ra: Người dân bên nào cũng đều thích hát nhạc của ông, nhưng trớ trêu thay, chính quyền bên nào cũng đều ra sức cấm đoán. Tại sao các chính quyền phải run sợ trước những lời ca phản chiến?

Vì quả thật, những gì Trịnh Công Sơn nói lên qua ca khúc của ông đều là nỗi lòng và mơ ước chung của mọi người dân nước Việt. Đó chính là tiếng nói của lương tâm con người. Năm trăm năm trước, Nguyễn Trãi cũng đã từng nói lên nỗi phẫn nộ và đau xót trước cảnh tàn hại do giặc Minh xâm lược gây ra: “…Dân chúng lưu ly, những nỗi lìa tan không kể xiết, binh sĩ đánh chác, luôn năm chết chóc đáng thương thay!”. (“Biểu Cầu Phong” - bài 21). Và trong

“Bình Ngô đại cáo”, ông cũng nói lên thân phận con người bị giày xéo trong chiến tranh: Nướng con đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ… Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc… Nặng nề những nỗi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Lịch sử Việt Nam như chúng ta biết, là một đất nước luôn luôn bị chiến tranh giày xéo, nội chiến phân ly. Vì vậy, những người dân trong đất nước này từ bao đời phải luôn sống trong cảnh lầm than. Hết giặc nọ đến giặc kia trùng trùng bủa vây. Nhà đại thi hào Nguyễn Du cuối thế kỷ thứ 18 đầu thế kỷ 19, cũng nói lên nỗi thống khổ của người dân trong cảnh loạn lạc: Lần phố xin miếng ăn / Cách ấy đâu được mãi / Chết lăn rãnh đến nơi / Thịt da béo cầy sói (“Sở kiến hành”). Trịnh Công Sơn, giữa thế kỷ 20 cũng nói lên bao cảnh thương tâm diễn ra hằng ngày trên một đất nước tang tóc chiến tranh. Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình, Hầm trú tan hoang, ôi da thịt vàng… Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng. Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn ("Đại bác ru đêm" - 1967) Trong nỗi bi phẫn vì chiến tranh, Trịnh Công Sơn lên tiếng kêu gọi tranh đấu, đồng thời nói lên những khát khao hòa bình với những bài hát tiêu biểu như “Huế - Sài Gòn - Hà Nội”, “Nối vòng tay lớ”n, “Cánh đồng hòa bình”, “Ta phải thấy mặt trời”. Ca từ hùng hồn, mang tính đấu tranh thúc giục và đầy niềm tin về tương lai: Việt nam ơi / Còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau / Triệu chân em / Triệu chân anh / Hỡi ba miền vùng lên cách mạng (“Huế - Sài Gòn - Hà Nội” - 1969) Hầu hết những ca từ mạnh mẽ hô hào đó, không phải là những hô hào chém giết, mà là hô hào chiến đấu cho hòa bình. Trịnh Công Sơn vẽ ra hình ảnh một đất nước sau chiến tranh rất huy hoàng: Ta cùng lên đường Đi xây lại Việt Nam Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng cao Vác những cây rừng to Về nơi đây ta xây dựng nhà Dựng làng mới cho dân ta về Dựng nhà mới cho miền quê (“Dựng lại người dựng lại nhà” - 1968)

Ẩn đằng sau những ca từ cho một viễn cảnh thanh bình đó, vẫn là những dòng nước mắt, là nỗi ưu tư nhân thế, là tâm trạng đớn đau cùng cực của thân phận nhỏ bé của kiếp người. Vẫn là hạt bụi, vẫn là nỗi khắc khoải siêu hình trước cuộc nhân sinh. Chiến tranh, quê hương thân phận con người cuộn xoáy vào với nhau tạo thành một bi kịch. Rốt cuộc, thực chất cuộc đời ông là một kẻ suy ngẫm về kiếp người, một tên hát rong suốt đời lang thang, buồn bã. Chiến tranh cũng là bi kịch nhân sinh, như mọi bi kịch khác. Bởi vậy, có những lúc ông hô hào, reo ca đấu tranh cho hòa bình, thân phận ông cũng thế. Vẫn là một thân tượng buồn! Vẫn là: Trên đời người trổ nhánh hoang vu Trên ngày đi mọc cành lá mù Những tim đời đập lời hoang phế … Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa. (“Cỏ xót xa đưa” - 1969) Có lẽ từ bài đầu tiên đặt bút viết, Trịnh Công Sơn đã nghiệm ra được chân lý riêng của mình: cái khả năng to lớn sau cùng của ca khúc là mang đến cảm thông giữa mọi người bằng tiếng hát. Đó là sứ mệnh truyền đạt những âu lo, chờ đợi của con người khi đối diện với chính mình trước cuộc sống, cũng như thông điệp tình yêu và nhân ái đến với những tâm hồn yêu chuộng hòa bình và những con tim đang bị ngộ độc bởi ngòi thuốc nổ. Cuối cùng gì, thân phận ông cũng như một ngọn cỏ bên đường. Và chính ngọn cỏ bé nhỏ đó đã tạo thành một Trịnh Công Sơn khác, mang ông đi vào vĩnh cửu. Khái quát tư tưởng của Trịnh Công Sơn, cụ Đào Duy Anh đã hạ một câu chí tình: “Cái anh Trịnh Công Sơn này lạ thật, anh ta muốn ôm hết những mâu thuẫn và khát vọng của đất nước vào mình” [11] . Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, thân phận da vàng của một nước nhược tiểu được Trịnh Công Sơn đẩy đến tận cùng: Người nô lệ da vàng ngủ quên Ngủ quên trong căn nhà nhỏ Đèn thắp thì mờ… (“Đi tìm quê hương” - 1967) Với cái nhìn tỉnh táo, Trịnh Công Sơn đã nhận ra thân phận nô lệ da vàng của người Việt trong chiến tranh. Ông luôn nhắc nhở chúng ta về một dòng giống Lạc Hồng trong bối cảnh tranh giành quyền lợi của các nước lớn. Bởi vì, người Việt sống nhưng không có chủ quyền trong tay, sinh mạng hoàn toàn phụ thuộc vào ngoại bang cả ở hai phía, giá trị làm người bị phủ nhận, thì khác gì một nô lệ. Trinh Công Sơn hỏi: Vậy thì tại sao lại có cảnh nội chiến? Đây là lời tố cáo: Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu

Một trăm năm nô lệ giặc Tây Hai mươi năm nội chiến từng ngày Gia tài của mẹ, một bọn lai căng, Gia tài của mẹ, một lũ bội tình… (“Gia tài của mẹ” - 1965) Sự xuất hiện của hai chữ lai căng trong ca từ mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Lai căng tức là từ bỏ con người văn hóa dân tộc của mình để biến thành một người khác. Lai căng là phụ thuộc ngoại bang từ bên này hay bên kia, bằng cách này hay cách khác. Bọn lai căng đó trở thành một lũ bội tình dân tộc, vì luôn luôn đứng sát với ngoại bang để bóc lột, mưu cầu quyền lợi, hãm hại đồng bào mình. Lời mẹ dặn con chớ quên màu da vàng, dặn con giữ gìn màu da vàng chính là một cách phản kháng tâm thức nô lệ, một hình thức chống lại những khuynh hướng lai căng đang đe dọa: Dạy cho con tiếng nói thật thà Mẹ mong con chớ quên màu da Con chớ quên màu da nước Việt xưa Mẹ trông con mau bước về nhà Mẹ mong con lũ con đường xa Ôi lũ con cùng cha quên hận thù (“Gia tài của mẹ” - 1965) Dân tộc của ông là trăm trứng nở ra trăm con trong huyền thoại lịch sử, cùng giống Con Rồng Cháu Tiên. Dân tộc của ông là thế: là tất cả mọi người, không phân biệt Nam-Bắc, không phân biệt giai cấp. Vì sao? Vì có người mẹ nào phân biệt con? Dân tộc, bởi vậy, mang hình ảnh bà Mẹ. Bà Mẹ đó luôn ăn năn - ăn năn cả đến việc đã sinh ra con, bởi vì sinh ra con để làm gì khi chúng sống một kiếp người đọa đày, thù hận? Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân

Chiến tranh là tủi nhục của bà Mẹ, vì xương thịt nào cũng từ bà mà ra, xương thịt nào cũng là Việt Nam. Cùng là đứa con của Mẹ mà thôi.

Tại sao từ một cuộc kháng chiến chống Pháp ban đầu, vì lý tưởng chung của dân tộc – đánh đuổi ngoại xâm - lại đưa đất nước vào con đường chia cắt, đẩy thành một cuộc chiến tranh ý thức hệ cốt nhục tương tàn. Liệu có thứ triết thuyết hay chủ nghĩa cao cả nào có thể biện minh cho những quyết định lịch sử - đẩy anh em cùng giống Lạc Hồng lao vào cơn binh đao điên loạn này chăng? Vì lý tưởng hay vì cuồng vọng lợi quyền? Lịch sử mai sau rồi sẽ phán xét.

* Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn là thế? Có người tán thành, có người còn nghi ngại. Âu cũng là lẽ thường tình vì cách nghĩ của con người có bao giờ là như nhau. Nó luôn vận động và nhận chân lại những giá trị, lý giải lại những gì đã qua. Cuộc đời này mãi mãi là như vậy. Nhưng cho dù là gì đi nữa, theo tôi, chắc không ai không thừa nhận Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn bắt nguồn từ lòng yêu thương con người. Mà cái gốc tình yêu thương của ông chịu ảnh hưởng sâu đậm triết lý “Tứ hải giai huynh đệ”, là nhân loại một nhà, vượt qua những hệ tư tưởng nhỏ bé, những hệ lụy đời thường. Ông đã đứng lên trên tất cả mọi thiên kiến chính trị để nói lên nỗi đau của người dân da vàng, của người dân nước Việt. Và phải chăng, vì viết theo “mệnh lệnh của con tim”, chứ không theo một thứ mệnh lệnh nào khác, mà người đời đã vinh danh ông là kẻ du ca bất khuất của Việt Nam. Ông ca tụng tình yêu thương, ông chống bạo lực và chống chiến tranh. Phải chăng đó là những chủ đề không chỉ có tính thời sự cấp thiết mà còn luôn luôn là vấn đề lớn của nhân loại của muôn đời. Cho đến ngày nay, sau 31 năm kết thúc chiến tranh, nhìn lại những chặng đường thăng trầm của đất nước, có lẽ đã đến lúc chúng ta dũng cảm nhìn nhận lại cuộc chiến đã qua và thân phận các ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn. Và chúng ta hãy tự hỏi: thân phận da vàng người Việt ngày nay đã thực sự thoát đời nô lệ ngoại bang chưa? Hay vẫn còn đó nỗi niềm: Ôi gian nan đời nước nhỏ Sao đau thương nhiều lắm thế (“Quê hương đau nặng” - 1971) Chiến tranh hạt nhân, chiến tranh tôn giáo, chiến tranh giữa những hệ tư tưởng... nội chiến... ngay lúc này, chúng ta có thể nghe thấy tiếng bom nổ trong thành phố Baghdad, khủng bố ở Indonesia, India, ... cuộc chiến vẫn luôn chực chờ ở đâu đó và những ca từ kêu gọi hòa bình, yêu thương con người của Trịnh Công Sơn vẫn luôn mãi còn giá trị. [1]Trịnh Công Sơn, "Da vàng ca khúc", nguồn http://www.suutap.com [2]Báo Người Việt - Hoa Kỳ, trong bài "Tiểu sử Trịnh Công Sơn", viết: "Trước đây tại Sài Gòn, Lê Hiếu Đằng, hiện nay là Tổng Thư ký Mặt trận Tổ quốc Sài Gòn, từng tuyên bố là khi nắm được chính quyền sẽ xử tử Trịnh Công Sơn về tội đã gọi chiến tranh Việt Nam là ‘nội chiến’ (trong câu hát ‘hai mươi năm nội

chiến từng ngày’), thay vì phải gọi là ‘Chiến tranh chống Mỹ cứu nước’. Vì vậy, sau 30/4, Trịnh Công Sơn phải về Huế ngay khi Lê Hiếu Đằng vào Sài Gòn... Năm 1979 Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đứng ra che chở ông, đánh tiếng gọi ông về lại Sài Gòn." [3]Cao Huy Thuần, "Nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn", http://www.tcs-home.org [4]Bửu Ý, "Kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận", in trong tập Trịnh Công Sơn, rơi lệ ru người, NXB Phụ Nữ, 2003. [5]Lê Trương, "Phong trào da vàng ca", http://www.suutap.com [6]Võ Phiến, Tổng quan Văn học Miền Nam, nguồn http://www.tienve.org [7]Đặng Thùy Trâm, Nhật ký, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005 [8]Võ Phiến, Tổng quan Văn học Miền Nam, nguồn http://www.tienve.org [9]Bửu Chỉ, "Về những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn", báo Diễn Đàn Forum, tr. 29, tháng 9/2001, Paris. [10]Lê Hữu, "Ảo giác Trịnh Công Sơn", Báo Văn học số Tân Niên tháng 02-03/2004, Cali, Hoa Kỳ. [11]Nguyễn Đắc Xuân, Có một thời như thế, NXB Văn học, 2003

Trịnh Công Sơn giữa chúng ta

Trịnh Công Sơn (Canada, 1992), ảnh do Bửu Ý cung cấp

Trịnh Công Sơn thuở sinh thời luôn cần đến hơi người. Anh cần thấy và nghe tiếng nói cười, luôn cả nơi xao náo, tranh luận, rồi sau đó mới rút lui về góc riêng. Đặt chân đến một nơi nào đó, dù quen hay lạ, anh vẫn cảm thấy cái nhu cầu "xuống phố".

Phố, hiển nhiên là một ngã tư của con người và thông tin, một nơi lý tưởng để hóng, để ngóng.

Rất nhiều người từng chia sẻ sở thích này với anh như Vũ Bằng, Thạch Lam và biết bao nhiêu văn nhân thi sĩ khác.

Phía trời Tây cũng có những nhà thơ như André Breton từng ngao du từ bắc xuống nam, qua từng thành phố, để mắt tới từng ngọn gió đổi chiều, từng ánh đèn trong ngôi nhà khuất, để rồi cuối cùng bắt gặp một bóng hồng vô cùng mộng mị là Nadja đã làm xoay chiều cả cuộc đời mình. Hay như là thi sĩ Jacques Prévert dạo chơi bát phố hằng ngày như người đi xem lễ để săn từng chữ, câu từng lời, nơi người qua đường hay nơi kẻ bán báo. André Breton, người trưởng tràng của phong trào siêu thực, không ngần ngại thổ lộ: "Đường phố với những lo toan cùng các ánh mắt đúng là môi trường của tôi. Không có nơi nào bằng nơi này khiến tôi hóng lấy cái thoảng qua của những gì xảy ra bất chợt" (Tự bạch tự trào, 1942). Phong trào siêu thực này, nối tiếp phong trào lãng mạn, đã từng vượt đại dương tràn sang nước ta và châm ngòi cho nhóm Xuân Thu nhã tập, hoặc một số thi sĩ độc lập như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Ngô Kha... Nhà văn hiện đại J.K.Rowling, người mẹ tinh thần của Harry Potter chắc hẳn sẵn sàng đồng tình với Trịnh Công Sơn khi bà từng tâm sự: "Trước kia tôi có thói quen viết trong tiệm cà phê. Tôi thích có nhiều người xung quanh tôi".

Bao giờ mới có nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn ở Huế?

Câu hỏi trên đây được đặt ra từ lâu, tối thiểu là trước năm 2001, năm Trịnh Công Sơn vĩnh biệt chúng ta, và từ đó đến nay không ngớt đặt đi đặt lại mãi, vì không ai cảm thấy yên tâm khi một ngôi nhà lưu niệm như thế này từ lâu đã thành hình ở Thủ Đức, ở thành phố Torino (Ý), hoặc tượng Trịnh Công Sơn được đặt ở một vài nơi công cộng khác (Sài Gòn, Đà Lạt...), trong khi tại quê hương của Trịnh Công Sơn là Huế một ngôi nhà như vậy hãy còn trừu tượng, có thể đã chớm thành hình, nhưng chỉ trong ý định hoặc may mắn hơn, trong thiện chí mà thôi.

Thiện chí có thừa, chỉ thiếu hành động.

Có lẽ mọi người, từ những người có quyền hành phê duyệt cho tới người ái mộ và công dân bình thường, ai nấy đều đồng ý rằng một ngôi nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn trên đất Huế là điều hợp lẽ. Hợp lẽ về mọi phương diện mà không ai hoài công phủ nhận hay bài bác.

Trịnh Công Sơn là người con của Huế, lớn lên tại đất này, sống trọn vẹn tuổi thanh niên của mình ở đây và nhờ phong thể văn hóa Huế viết nên những tác phẩm để đời cho hôm nay và mai sau. Đến nỗi, về cuối đời, anh ra đi sống nơi khác, người ta vẫn tìm thấy trong ca khúc của anh những câu chữ, ý tình được hun đúc dày năm từ mảnh đất quê hương.

Những năm cuối thế kỷ, trở về Huế gặp bạn bè và chính quyền địa phương, anh đã có lần mở lòng mình về chuyện ngôi nhà nhưng lần này lại gọi tên đó là "Nhà nguyện tình yêu" mà anh cho rằng Huế đúng là nơi được dành phần tạo dựng. Và mẫu nhà này, đúng như tên gọi, sẽ không là nhà của riêng ai, của Trịnh Công Sơn cũng không nốt, đó là nhà của mọi người, của tuổi trẻ, của tình yêu.

Ngôi nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn, vạn nhất thành sự thực, sẽ là nơi lui tới thường xuyên, hằng ngày, suốt năm, không riêng của thanh niên, bởi không chỉ thanh niên mới biết yêu thích nhạc của Trịnh Công Sơn, mà là mọi người, từ già xuống trẻ, từ trong đến ngoài nước, không những đến nơi này chỉ vì nhạc, còn vì những tư liệu kỷ vật khác, để đọc, để ngắm, để nhớ và nhất là để nuôi dưỡng tâm hồn...

Bản thân tôi cầu mong sao ý kiến thô thiển của mình không đến nỗi rát tai và lạc điệu.

B.Y

Bản thân tôi, thú thật, sẵn sàng nhập ngũ vào đạo quân này. Bởi, còn gì nhàn nhã, thú vị, ấm áp cho bằng viết văn, viết báo bên hè phố, trước mặt là tách cà phê, giữa tiếng lanh canh nói cười, như thể mình lọt vào một an bài vĩ đại và phải chi, thêm vào đó, lòng giắt sẵn hình bóng người yêu thì quả là hạnh phúc! Mà cái khoản người yêu, một kẻ như Trịnh Công Sơn không hề thiếu. Chính nhờ những con người như thế này mà quán tiệm luôn có khách. Cứ ngồi đó thôi, một mình cũng tốt, vì dễ viết, trong khi con mắt không ngớt phóng ra bên ngoài lục lạo hình ảnh quen biết trong đoàn người qua lại. Nhưng một mình mà chẳng khác con "chim mồi", trước sau gì cũng có kẻ sà vào, và cứ thế, không hẹn mà nên, chiếc bàn cà phê thành nơi quây quần tụ hội. Trường hợp người thân quen chưa xuất hiện, ta được dịp phóng bút. Và, đừng quên, giữa hai câu viết, giở ký ức ra điểm danh người yêu đang khuất nẻo. Cái vòng tròn màu hồng ấy cứ vần xoay.

Trịnh Công Sơn và thi sĩ Hoài Khanh (Đà Lạt 1973)

Nhiều tác giả nghiên cứu phần nhạc trong ca khúc Trịnh Công Sơn, đặc biệt là Trần Hữu Thục, có ghi nhận rằng nhạc sĩ này thích sử dụng cung mi và cung la. Và ở hai cung sở trường này, anh chuyển từ bậc thứ sang bậc trưởng và ngược lại. Đặc điểm này khiến tôi liên tưởng đến đời sống của anh, nhất là những năm "khó sống" nhiều biến động chính trị ở miền Nam. Thuở ấy, anh sống những tháng ngày thật thăng trầm, khi thì thênh thang tự do, khi thì sống núp lánh, nay được phép hát bài này mai bị cấm hát bài kia, vừa "hát cho đồng bào tôi nghe" vừa uống rượu trên lầu cao, có hôm tụ họp với sinh viên có hôm trình diện quân cảnh. Một đời sống đầy rẫy bóng tối giữa ban ngày mà lại lóe sáng trong đêm khuya.

Trong một cuộc phỏng vấn năm 1981, ông Georger Simeron, một nhà văn Pháp gốc Bỉ nổi tiếng với nhiều truyện trinh thám mang tính chất phân tích tâm lý, bị nhà báo Berrard Pirot chất vấn như thế này: "Ông hô hào cho hạng "dân dã" còn ông thì chưa hề là một kẻ dân dã. Ngay khi ông nổi tiếng, ở Paris, ông lui tới những lễ trình diễn ra mắt, ông được trọng đãi...". Nhà văn

đáp: "Tôi quả có sống như thế suốt hai năm, vì tôi muốn biết. Tôi muốn hiểu con người. Tôi săn đuổi con người suốt đời. Muốn hiểu người, thì đọc báo hoặc nhìn từ xa là không đủ: phải vào cuộc. Tôi đã vào cuộc trong giới thượng lưu Paris suốt hai năm. Tôi mặc dạ phục hằng ngày và dự trình diễn ra mắt, dự yến tiệc...".

Kinh nghiệm thu thập được đối với nghệ sĩ hiển nhiên là đa tạp, mắc mỏ, lắm khi nghệ sĩ phải khoác lên mình những lớp áo của hoàn cảnh. Nhưng chung quy lớp áo vẫn chỉ là lớp áo.

Nhà văn Gaston Kelman, một tác giả Pháp gốc Cameroun, có viết một cuốn truyện nhan đề là Tôi là người da đen không thích ăn sắn. Một nhan đề truyện độc đáo về nhiều phương diện. Trước hết là nó dài, nhưng hẳn tác giả cảm thấy cần phải dài trên mặt bìa như vậy mới thật sự trọn nghĩa, mới tự giới thiệu mình một cách tránh gây ngộ nhận. Cái đề truyện lòng thòng ấy - nó giống như cả một... cương lĩnh, khắc ghi vào tâm khảm một chương trình sống, được dán lên bản thân vừa đập mạnh vào mắt mọi người. Tôi là da đen nhưng không phải hễ da đen là ăn sắn. Và tôi sực nghĩ tới Trịnh Công Sơn. Nhạc sĩ của chúng ta có thể nhại tác giả da đen để tuyên bố: tôi là người da vàng mà thích uống rượu ngon, tôi sống trong thời chiến nhưng làm nhạc phản chiến, tôi không có tiền vẫn khoái mặc đẹp...

Cách thế sống không phải chỉ có một, cũng không nhất thiết trước sau là một, có khi nó vừa vặn với người này mà bó rọ với người kia và lại thùng thình với người nọ, nó biến chuyển theo từng người, theo từng "tạng" người, nói theo cách nôm na.

Trịnh Công Sơn, Đinh Cường vẽ 2001

Trịnh Công Sơn không khỏi có khi ngẫm mình như người phu quét đường, được trao cho một việc làm mà người khác không buồn để ý, một việc làm như tuồng lạc lõng, không ăn nhập với toàn cảnh, như trong ca khúc Đại bác ru đêm:

Đại bác ru đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe...

Người phu vẫn miệt mài cắm cúi làm công việc "dọn sạch để đón chờ ngày mới":

...Người phu quét lá bên đường

quét cả nắng hồng quét hạ buồn tênh...

...Người phu thôi quét bên đường

quét chỗ em nằm quét cả mùa xuân...

(Trịnh Công Sơn, Góp lá mùa xuân)

Trong số Báo Thanh Niên chủ nhật 25/4/2004, tác giả Lê Trọng Nhi đã cảm nhận điều này và liên tưởng đến "người phu quét đường Martin Luther King", giải Nobel Hòa bình năm 1964, khi người mục sư Mỹ da đen này giảng giải cho sinh viên đại học Mỹ năm 1967 như sau:

"Nếu một người đã được gọi để làm một người phu quét đường, hãy quét những con đường như đại nhạc sư Beethoven đã soạn nhạc, hãy quét những con đường như đại văn hào Shakespeare đã làm thơ. Người phu quét đường phải quét những con đường một cách tốt đẹp nhất để tất cả khán thính giả trên thiên đàng và nơi trần gian sẽ ngẫm nghĩ và nói: Đây là đời sống của một người phu quét đường vĩ đại - ông ta đã làm công việc của mình thật tốt đẹp".

Một trang web về nhạc sỹ Trịnh Công Sơn http://www.trinh-cong-son.com/tcs.html TRỊNH CÔNG SƠN (1939 - 2001)

Trịnh Công Sơn music on this page is a personal collection. It spans his entire career from the early songs: Uot Mi, Thuong Mot Nguoi; to most of his best known love songs : Diem Xua, Bien Nho; those unforgettable "Yellow Skin Songs" (Ca Khuc Da Vang) such as Dai Bac Ru Dem, Du Muc to the later songs (after 1975) such as Song Ve Dau, Ru Tinh. The music on this page is in Real Audio format. You need Real Player to listen to the music. : : HOME PAGE : : THƠ VĂN : : TRANH TRỊNH CÔNG SƠN : :

Nhạc - từ A tới L

Bài ca cho những xác người - Khánh Ly Biển nhớ - Khánh Ly Bống bồng ơi - Hồng Nhung Buồn từng phút giây - Khánh Ly Cát bụi - Khánh Ly Chiếc lá thu phai - Khánh Ly Chiều một mình qua phố - Khánh Ly Cho một người vừa nằm xuống -

Khánh Ly Chờ nhìn quê hương sáng chói - Khánh

Ly Có một giòng sông đã qua đời - Vĩnh

Trinh Có một ngày như thế - Trịnh Công Sơn Có những con đường - Hồng Nhung Cỏ xót xa đưa - Khánh Ly Con mắt còn lại - Trịnh Công Sơn Còn ai với ai - Cẩm Vân Còn tuổi nào cho em - Cẩm Vân

Tiếng hát Khánh Ly và nhạc Trịnh thì ai cũng biết và phần lớn những bài trong trang này là do Khánh Ly hát . Bây giờ mời các bạn nghe nhạc Trịnh Công Sơn qua những giọng ca khác: Cẩm Vân Hồng Nhung Quang Dũng Lô Thủy Vĩnh Trinh Vũ Khanh (cần có Flash Player trong

Nhạc - từ M tới Y

Một cõi đi về - Vĩnh Trinh Muôn trùng biển ơi - Vĩnh Trinh Mưa hồng - Khánh Ly Ngày dài trên quê hương - Khánh

Ly Nghe tiếng muôn trùng - Khánh Ly Ngủ đi con - Khánh Ly Ngụ ngôn mùa đông - Khánh Ly Người con gái Việt Nam da vàng -

Khánh Ly Người đi hành hương - Khánh Ly Người về bỗng nhớ - Cẩm Vân Nguyệt ca - Khánh Ly Nhìn những mùa thu đi - Khánh Ly Nhớ mùa thu Hà Nội - Vĩnh Trinh Như cánh vạc bay - Khánh Ly Như một lời chia tay - Trịnh Công

Sơn Những con mắt trần gian - Khánh

Cuối cùng cho một tình yêu - Khánh Ly Cúi xuống thật gần - Khánh Ly Diễm xưa - Khánh Ly Du mục - Khánh Ly Dựng lại người dựng lại nhà - Khánh Ly Đại bác ru đêm - Khánh Ly Để gió cuốn đi - Khánh Ly Đêm bây giờ đêm mai - Khánh Ly Đi tìm quê hương - Khánh Ly Đời gọi em biết bao lần - Khánh Ly Đôi mắt nào mở ra - Khánh Ly Đường xa vạn dặm - Hồng Nhung Em còn nhớ hay em đã quên - Khánh

Ly Em đi trong chiều - Khánh Ly Góp lá cho mùa xuân - Khánh Ly Hạ trắng - Khánh Ly Hai mươi mùa nắng lạ - Vĩnh Trinh Hát cho tôi - Khánh Ly Hãy sống giùm tôi - Khánh Ly Hoa vàng mấy độ - Vĩnh Trinh Huế, Sài Gòn, Hà Nội - Khánh Ly Khói trời mênh mông - Khánh Ly Lại gần với nhau - Khánh Ly Lời buồn thánh - Lệ Thu Lời ở phố về - Khánh Ly Lời thiên thu gọi - Khánh Ly

máy) Hát Cho Quê Hương Việt Nam Nhạc Trịnh bằng tiếng Nhật Liên Khúc (Playlist) Băng đĩa nhạc Trịnh Công Sơn Bản nhạc có ký âm Giải âm nhạc hòa bình thế giới

Ly Nước mắt cho quê hương - Khánh

Ly Ru đời đã mất - Khánh Ly Ru em từng ngón xuân nồng -

Khánh Ly Ru ta ngậm ngùi - Khánh Ly Ru tình - Vĩnh Trinh Rừng xưa đã khép - Khánh Ly Sao mắt mẹ chưa vui - Khánh Ly Sẽ còn ai - Khánh Ly Sóng về đâu - Cẩm Vân Ta thấy gì đêm nay - Khánh Ly Thuở bống là người - Hồng Nhung Tiếng hát dạ lan - Khánh Ly Tình ca người mất trí - Khánh Ly Tình nhớ - Khánh Ly Tình xa - Khánh Ly Tôi ơi đừng tuyệt vọng - Trịnh

Công Sơn Tôi ru em ngủ - Khánh Ly Tuổi đá buồn - Khánh Ly Ướt mi - Lệ Thu Vẫn có em bên đời - Khánh Ly Vết lăn trầm - Khánh Ly Vườn xưa - Vĩnh Trinh Xa dấu mặt trời - Khánh Ly Xin mặt trời ngủ yên - Khánh Ly Xin trả nợ người - Trịnh Công Sơn