Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
BÁO CÁO KHOA HỌC
HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2015
LẦN THỨ NHẤT
ĐỒNG THÁP, 31/10/2015
1
BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2015
LẦN THỨ NHẤT
BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO
Trƣởng ban
TS. Trần Quang Thái
Phó trƣởng ban
ThS. Lê Kim Oanh
Các ủy viên
ThS. Trƣơng Thị Mỹ Dung
ThS. Kiều Văn Tu
BAN BIÊN TẬP
Trƣởng ban
TS. Trần Quang Thái
Các ủy viên
ThS. Lê Kim Oanh
ThS. Trƣơng Thị Mỹ Dung
ThS. Kiều Văn Tu
ThS. Lê Văn Tùng
THƢ KÝ
ThS. Lê Văn Tùng
2
MỤC LỤC
1. Tìm hiểu tƣ tƣởng đạo đức của Khổng Tử .................................. SV. Nguyễn Việt Tiến, Lớp ĐHGDCT14B
GVHD: CN. Nguyễn Thái Hòa
1
2. Tìm hiểu tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo ............................. SV. Trần Dƣơng Linh - SV. Võ Văn Kha
Lớp ĐHGDCT14A
GVHD: ThS. Mai Thị Thanh
10
3. Tìm hiểu triết lý nhân sinh trong tác phẩm Đạo đức kinh
của Lão Tử .......................................................................................... SV. Phạm Thị Mỹ Duyên, Lớp ĐHGDCT13
GVHD: CN. Phùng Ngọc Tiến
20
4. Tìm hiểu tƣ tƣởng chính trị của Mặc gia ...................................... SV. Nguyễn Vĩnh Phong, Lớp ĐHGDCT13
GVHD: CN. Phùng Ngọc Tiến
26
5. Quan niệm của John Locke về tự do trong tác phẩm
Khảo luận thứ hai về chính quyền ................................................... SV. Nguyễn Thành An, Lớp ĐHGDCT13
GVHD: CN. Phùng Ngọc Tiến
37
6. Quan niệm của Hegel về quyền lực nhà nƣớc trong tác
phẩm Các nguyên lý của triết học pháp quyền .............................. SV. Nguyễn Thị Xuyên, Lớp ĐHGDCT11
GVHD: ThS. Đỗ Duy Tú
46
7. Tìm hiểu quan điểm của V.I.Lênin về nhiệm vụ của đoàn
thanh niên ............................................................................................ SV. Đoàn Duy Trúc Ngọc, Lớp ĐHGDCT13
GVHD: CN. Nguyễn Thái Hòa
58
8. Từ việc tìm hiểu vai trò của nhà nƣớc trong học thuyết
kinh tế của Keynes đến liên hệ thực tiễn quản lý kinh tế ở
nƣớc ta hiện nay ................................................................................. SV. Lƣu Thị Loán, Lớp ĐHGDCT12
GVHD: TS. Trần Quang Thái
66
9. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................. SV. Lê Thị Tố Quyên, Lớp ĐHGDCT13
GVHD: ThS. Trƣơng Thị Mỹ Dung
75
10. Tƣ duy phản biện của sinh viên ngành Giáo dục chính trị,
Trƣờng Đại học Đồng Tháp ............................................................
86
3
SV. Lê Ngọc Hân, Lớp ĐHGDCT12
GVHD: ThS. Lê Văn Tùng
11. Triết lý giáo dục của Karl Jaspers .................................................. SV. Nguyễn Thị Mỹ Hòa, Lớp ĐHGDCT11
GVHD: ThS. Lê Văn Tùng
96
12. Giáo dục giá trị đạo đức nhân văn cho học sinh trung học
phổ thông qua môn giáo dục công dân .......................................... SV. Nguyễn Thị Cẩm Tiên, Lớp ĐHGDCT14B
GVHD: ThS. Lê Kim Oanh
108
13. Thực trạng đạo đức của học sinh trung học phổ thông ............ SV. Nguyễn Chí Công, Lớp ĐHGDCT14A
GVHD: ThS. Lê Kim Oanh
120
14. Học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên Khoa GDCT và
Công tác xã hội, Trƣờng Đại học Đồng Tháp .............................. SV.Trần Thị Hoàng Lan, Lớp ĐHGDCT12
GVHD: TS. Trần Quang Thái
133
15. Vận dụng vai trò của quy luật lƣợng và chất vào quá
trình học tập của sinh viên ngành Giáo dục chính trị,
Trƣờng Đại học Đồng Tháp ............................................................ SV. Nguyễn Thị Thanh Hoa, Lớp ĐHGDCT14A
GVHD: ThS. Mai Thị Thanh
139
16. Vai trò của hoạt động tự học trong chƣơng trình học
TOEIC của sinh viên Trƣờng Đại học Đồng Tháp ................... SV. Huỳnh Thị Trúc Linh – SV.Trần Nguyễn Bảo Yến
SV.Trần Thị Kim Hà - SV.Nguyễn Thành An
Lớp ĐHGDCT13
GVHD: ThS. Trần Kim Ngọc
148
17. Định hƣớng chuẩn giá trị trong hôn nhân gia đình của
sinh viên Khoa Giáo dục chính trị và Công tác xã hội,
Trƣờng Đại học Đồng Tháp ............................................................ SV. Nguyễn Thị Phƣơng Dung - SV. Nguyễn Ngọc Thảo
Nhi
Lớp ĐHCTXH12
GVHD: ThS. Kiều Văn Tu
154
18. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức tự
tôn dân tộc cho thành niên huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp hiện nay ..................................................................................... SV. Dƣơng Thị Kiều Tiên, Lớp ĐHGDCT11
160
4
GVHD: ThS. Lê Văn Tùng
19. Giải pháp phát triển nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng
Ngự, tỉnh Đồng Tháp ........................................................................ SV. Nguyễn Ngọc Trai, Lớp ĐHGDCT11
GVHD: ThS. Đỗ Duy Tú
171
20. Tìm hiểu kỹ năng đọc sách của sinh viên ngành Công tác
xã hội, Trƣờng Đại học Đồng Tháp ...............................................
SV. Nguyễn Ngọc Nhƣ Ý - SV. Phạm Thanh Hải Thi
Lớp ĐHCTXH13 GVHD: ThS. Kiều Văn Tu
182
21. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với tôn giáo ở
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp .......................................... SV. Dƣơng Quý Nhân Hoàng, Lớp ĐHGDCT11
GVHD: ThS. Đỗ Duy Tú
192
22. Quá trình xây dựng nông thôn mới ở xã Hòa An, thành
phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp – Những vấn đề đặt ra ............ SV. Nguyễn Minh Kha, Lớp ĐHGDCT13
GVHD: ThS. Trần Kim Ngọc
201
23. Những khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất
Khoa Giáo dục chính trị và Công tác xã hội, Trƣờng Đại
học Đồng Tháp ................................................................................... SV.Võ Thị Thu Biên - SV.Nguyễn Thanh Phong
SV.Đinh Thị Ngọc Ngân - SV. Lê Hoài Nam
Lớp ĐHCTXH14
GVHD: ThS. Kiều Văn Tu
209
24. Một số khó khăn trong thực hành, thực tập Công tác xã
hội của sinh viên Trƣờng Đại học Đồng Tháp ............................. SV. Nguyễn Văn Tới, Lớp ĐHCTXH11
GVHD: ThS. Trần Kim Ngọc
220
25. Sinh kế của ngƣời nghèo ở phƣờng 3, thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp....................................................................... SV. Phan Hoàng Thanh - SV. Võ Thiện Khiếp
Lớp ĐHCTXH13
GVHD: CN. Đỗ Thị Thảo
227
26. Vai trò của Hội Phụ nữ trong hoạt động phát triển kinh
tế ở phƣờng 3, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp .............. SV. Nguyễn Thị Mỹ Duyên – SV. Lê Ngọc Yên
Lớp ĐHCTXH13
236
5
GVHD: CN. Nguyễn Thị Bích Hƣng
27. Tìm hiểu thực trạng ô nhiễm môi trƣờng nƣớc ở xã Định
Yên, Lấp Vò, Đồng Tháp và một số giải pháp khắc phục ......... SV. Nguyễn Hoàng Phúc, Lớp ĐHCTXH13
GVHD: CN. Nguyễn Thị Bích Hƣng
243
28. Thực trạng và giải pháp xử lý rác thải sinh hoạt của hộ
gia đình xã Tân Mỹ, huyện Lâp Vò, tỉnh Đồng Tháp ................
SV. Trần Văn Nhiều -SV.Châu Thị Diễm Hƣơng - SV.
Mai Thị Anh Lớp ĐHCTXH12
GVHD: ThS. Trần Kim Ngọc
251
29. Tìm hiểu Dự án Phù Sa ở thành phố Cao Lãnh, tỉnh
Đồng Tháp ........................................................................................... SV. Phan Thùy Vân - SV. Hồ Thị Ngọc An
Lớp ĐHCTXH13
GVHD: CN. Đỗ Thị Thảo
258
30. Các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên 270
31. Bài đăng Tạp chí khoa học của sinh viên 272
32. Bài đăng Hội nghị, Hội thảo khoa học của sinh viên 273
TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA GDCT-CTXH
HỘI NGHỊ
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NĂM 2015
Đồng Tháp, ngày 31 tháng 10 năm 2015
CHƢƠNG TRÌNH
TT Nội dung Thời
gian Ngƣời thực hiện Ghi chú
1 Diễn văn khai mạc 7h30 –
7h45
TS. Trần Quang Thái
Trƣởng Khoa GDCT -
CTXH
2 Vai trò của hoạt động tự học
trong chƣơng trình học Toeic
của sinh viên Trƣờng Đại học
Đồng Tháp
7h45 –
8h15
SV. Huỳnh Thị Trúc
Linh
SV.Trần Nguyễn Bảo
Yến
SV.Trần Thị Kim Hà
SV.Nguyễn Thành An
ĐHGDCT13
3 Giáo dục giá trị đạo đức
nhân văn cho học sinh
trung học phổ thông qua
môn giáo dục công dân
8h15 –
8h45
SV. Nguyễn Thị Cẩm
Tiên
ĐHGDCT14B
4 Những khó khăn tâm lý của
sinh viên năm thứ nhất Khoa
Giáo dục chính trị và công tác
xã hội, Trƣờng Đại học Đồng
Tháp
8h45 –
9h15
SV.Võ Thị Thu Biên
SV.Nguyễn Thanh
Phong
SV.Đinh Thị Ngọc
Ngân
SV. Lê Hoài Nam
ĐHCTXH14
5 NGHỈ GIẢI LAO 9h15 –
9h45
Tƣ duy phản biện của sinh
viên ngành Giáo dục chính trị,
Trƣờng Đại học Đồng Tháp
9h45 –
10h15
SV. Lê Ngọc Hân
ĐHGDCT12
6 Vai trò của Hội Phụ nữ trong
hoạt động phát triển kinh tế ở
phƣờng 3, thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
10h15 –
10h45
SV. Nguyễn Thị Mỹ
Duyên
SV. Lê Ngọc Yên
ĐHCTXH13
7 Học tập theo học chế tín chỉ
của sinh viên Khoa GDCT và
Công tác xã hội, Trƣờng Đại
học Đồng Tháp
10h45 –
11h15
SV. Trần Thị Hoàng
Lan
ĐHGDCT12
8 Tổng kết Hội nghị 11h15 –
11h30
TS. Trần Quang Thái
Trƣởng Khoa GDCT -
CTXH
1
TÌM HIỀU TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC KHỔNG TỬ
SV: Nguyễn Việt Tiến
Lớp: ĐHGDCT14B
GVHD: CN. Nguyễn Thái Hòa
Tóm tắt: Khổng Tử là người đầu tiên đề ra phương hướng trị nước
bằng đường lối đức trị, trong đó người tập trung ở 4 phạm trù cơ bản
“Nhân-Lễ-Trí-Nghĩa" trong xây dựng nhân cách cho con người. Ông
trình bày một cách cụ thể về đặc điểm và yêu cầu của từng phạm trù,
“Nhân” chính là sự yêu người coi người như mình, “Lễ” cần phải
biết khắc chế bản thân, phục tùng lễ nghi truyền thống, “Trí” là sự
hiểu biết của bản thân xuất phát từ bẩm sinh và nhờ vào học tập,
“Nghĩa” là trung thành và khi làm việc thì việc gì hợp nghĩa thì làm
không màng đến lợi ích cá nhân. Với những đặc điểm như thế nên tư
tưởng Khổng Tử được các thế hệ sau kế thừa, tuy nhiên nó vẫn bộc lộ
những hạn chế nhất định về tính cứng nhắc, rập khuôn, bảo thủ.
Từ khóa: Đạo đức, Khổng Tử, triết học.
1. Mở đầu Từ xƣa đến nay đạo đức đƣợc xem là nguồn gốc của con ngƣời và
nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng nhân cách con
ngƣời và tiến tới xã hội nhân đạo cộng sản. Đảng, Nhà nƣớc và Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng muốn xây dựng con ngƣời
cách mạng thì trƣớc tiên phải xây dựng đƣợc đạo đức cách mạng.
Ngƣời nói: “Sông có nguồn thì mới có nƣớc, không có nguồn thì sông
cạn, cây thì phải có gốc không có gốc thì cây héo. Ngƣời cách mạng
phải có đạo đức, không có đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo đƣợc nhân dân”, ngay từ những buổi đầu, đạo đức đã đƣợc xem là
nền tảng là cơ sở xây dựng một đất nƣớc, một xã hội an lành, hạnh
phúc tiến bộ. Với những ý nghĩa to lớn của đạo đức đã nêu ở trên là
động lực thôi thúc tôi tìm hiểu, phân tích về tƣ tƣởng đạo đức Khổng
Tử, một tƣ tƣởng đƣợc xem là cái nôi cho những tƣ tƣởng đạo đức sau
này, nó không chỉ ảnh hƣởng sâu sắc đến Trung quốc thời kì “Vƣơng
đạo suy vi- Bá đạo lấn át vƣơng đạo”, mà còn có sự tác động to lớn
đến tƣ tƣởng của nhiều quốc gia dân tộc, trong đó Việt Nam đƣợc xem
là quốc gia kế thừa nhiều giá trị đạo đức Khổng Tử vào xây dựng con
ngƣời và đất nƣớc, trong bài nghiên cứu này ngoài tìm hiểu tƣ tƣởng
đạo đức Khổng Tử thì tôi còn chỉ ra sự tác động của đạo đức Khổng
2
Tử tới Việt Nam. Đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài “Tìm hiểu tƣ
tƣởng đạo đức Khổng Tử”.
Mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu tƣ tƣởng Khổng Tử,
đồng thời chỉ ra sự tác động của nó tới Việt Nam, từ đó bổ sung
thêm nội dung và những kiến thức cần thiết để tiến tới xây dựng
con ngƣời tài đức vẹn toàn. Khách thể nghiên cứu là các tác phẩm
của Khổng Tử và một số tác phẩm về đạo đức khác... đối tƣợng
nghiên cứu là những tƣ tƣởng quan niệm của Khổng Tử về đạo đức,
phạm vi nghiên cứu chủ yếu là những tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử
và một số quan niệm đạo đức khác. Phƣơng pháp nghiên cứu:
nghiên cứu lý luận, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp phân tích,
phƣơng pháp so sánh.
2. Nội dung chính
2.1. Khái quát về Khổng Tử
Khổng Tử (551 – 479 TCN), tên thật là Khổng Khâu tự là
Trọng Ni, sinh tại làng Xƣơng Bình, nƣớc Lỗ ( nay thuộc huyện Khúc
Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong một gia đình quý tộc sa sút.
Thân sinh của ông là Thúc Lƣơng Ngột, quan võ thuộc ấp Trâu, đến
70 tuổi lấy Nhan Thị sinh ra ông. Ông mồ côi cha khi lên 3 tuổi, năm
19 tuổi, ông lấy vợ là Nhan Thị con của họ Thƣơng Quan nƣớc Tống,
năm 20 tuổi vợ ông sinh đặng một con trai tên Lý Tự.
Khổng Tử là một nhà tƣ tƣởng, nhà triết học, nhà giáo dục, nhà
chính trị nổi tiếng, tƣ tƣởng triết học của ông nhấn mạnh sự tu dƣỡng
đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức “Tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Sự chính xác của các mối quan hệ xã hội, đạo đức và
quy phạm làm ngƣời trong “Đạo trung Dung” và các đức tính “Nhân –
Lễ - Nghĩa – Trí – Tín”.
Ông còn là ngƣời nhân hậu, khiêm nhƣờng giản dị, chân thành,
giàu tình cảm, ôn hòa và nghiêm túc, uy nghi nhƣng không thô bạo,
cung kính mà an nhàn. Sống thanh đạm trọng nghĩa khinh tài Ông nói:
“Ăn cơm gạo thô, uống nƣớc lã, khi ngủ có cánh tay mà gối đầu, niềm
vui ở trong đó rồi. Còn nhƣ dùng phƣơng pháp không chính đáng để
đạt đƣợc giàu có và phú quý, ta coi nhƣ đám mây trôi qua vậy”. [9,
tr.242]
Nhìn vào sự nghiệp của Khổng Tử trên lĩnh vực học thuật và
đạo lý, ngoài việc sang dịch các cuốn Kinh Thi – Thƣ – Lễ - Dịch –
Nhạc và viết cuốn Biên Niên nƣớc Lỗ gọi là Kinh Xuân Thu, những
câu nói của ông giảng dạy cho môn đệ đƣợc các môn đệ ghi lại thành
3
cuốn “Luận Ngữ”. Qua hơn 40 năm “Dạy ngƣời không mỏi” Khổng
Tử thu nhận trên dƣới 3000 môn đệ. Trong đó, có 72 ngƣời đƣợc gọi
là “Hiền”, bao gồm cả những ngƣời đƣợc gọi là “Triết”, hậu thế gọi là
“Thất thập nhị hiền”.
2.2. Phạm trù “Nhân”
“Nhân” là phạm trù cốt lỗi trong tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử.
Theo ông “Nhân” là nội dung, “Lễ” là hình thức và chính danh là con
đƣờng đạt đến điều nhân. Nhân của Khổng Tử có điểm khác biệt đối
với các quan điểm về nhân của Phật giáo và Cơ Đốc giáo, nếu nhƣ
Phật giáo xem “Nhân” là từ bi bát ái, Cơ Đốc xem “Nhân” là cần phải
yêu kẻ thù nhƣ bạn, coi ngƣời nhƣ mình thì Khổng Tử gọi “Nhân” là
hiếu ô “Duy nhân giả năng hiếu nhân năng ố nhân” [3, tr.250] nghĩa là
chỉ duy nhất ngƣời có đƣợc nhân mới biết đƣợc yêu ngƣời ghét ngƣời,
ở Khổng Tử nhân tuy có nghĩa cũng là Ái tuy nhiên khác so với đạo sĩ
và tôn giáo ở tính thực hành trình tự tiến hóa.
Nhân đƣợc xem là phẩm chất đạo đức hoàn hảo của con
ngƣời, có đƣợc nhân con ngƣời sẽ có đƣợc sự hài hòa xã hội – bình
đẳng xã hội. Theo Khổng Tử để có đƣợc nhân trƣớc tiên con ngƣời
cần phải biết “Khắc kỷ phục lễ” nghĩa là cần phải biết khắc chế
những dục vọng, ham muốn của bản thân, hơn thế nếu con ngƣời còn
quy kỷ thì không những không tạo ra đƣợc nhân mà làm cho bản
thân trở nên băng hoại đi. “Phục lễ” nghĩa là cần phải biết phục tùng
trƣớc lễ nghi truyền thống, văn hóa... giữa nhân và lễ có mối quan hệ
mật thiết với nhau có đƣợc nhân phải biết thi hành lễ nhƣng đằng
khác biết thi hành lễ mà không có nhân thì lễ nhạt có ích gì. Ngoài ra
Khổng Tử cho rằng có nhân cũng cần phải biết “Hiếu” và “Hiếu”
đƣợc xem là gốc của nhân, ngƣời xem “Hiếu” là “vô vi – vô cải”.
“Vô vi” là phụng sự cha mẹ không trái với lễ “Phận làm con khi cha
mẹ còn sống phải phụng sự theo lễ, khi cha mẹ qua đời phải chôn cất
theo lễ, khi thờ cúng phải làm theo lễ” (sanh sự chi dĩ lễ, tử táng chi
dĩ lễ)[1, tr.37]. “Vô cải” là nối chí nối nghiệp cha “khi cha còn sống
phải xem cái chí của cha, khi cha mất rồi phải xem việc làm của cha
để 3 năm không đƣợc đổi hƣớng việc làm ấy....” (Phụ tại quan kỳ
chí, phụ một quan kỳ hạnh, tam niên vô cải ƣ phụ chi đạo) [1, tr.20].
Chữ “Nhân”, trong tƣ tƣởng của Khổng Tử là lòng thƣơng
ngƣời. Theo Ngƣời, thƣơng ngƣời đƣợc thể hiên ở “Trung và Thứ”.
“Trung” là sự tận tâm, hết mình vì ngƣời khác sẵn sàng từ bỏ lợi ích
cá nhân. “Thứ” là sự suy xét ở bản thân xem điều gì mình thật sự
4
muốn làm và tránh làm cho ngƣời khác những điều mình không ƣa
thích (kỷ sở bất dục, vật thi ƣ nhân), ngoài ra khi muốn lập thân cũng
phải giúp nguời khác lập thân, muốn thành đạt thì cũng phải biết giúp
đỡ ngƣời khác có đƣợc sự thành đạt nhƣ mình (Kỷ dục lập nhi lập
nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân). Hơn thế nhân không chỉ đƣợc thể hiên
bên trong mà còn cả ở bên ngoài qua trang phục, tƣớng mạo, cách nói
năng ứng xử của con ngƣời trong các mối quan hệ.
Tuy nhiên do những hạn chế của lập trƣờng giai cấp, học thuyết
“Nhân” của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng. Ông cho rằng chỉ
có ngƣời quân tử (giai cấp thống trị) mới có thể đƣợc đức Nhân còn kẻ
tiểu nhân (nhân dân lao động) không thể có đƣợc đức Nhân (quân tử
nhi bất Nhân giả hữu hĩ, vị hữu tiểu nhân thi Nhân giã dã).
2.3. Phạm trù “Lễ”
Nếu nhƣ nhân đƣợc xem là gốc của tƣ tƣờng đạo đức Khổng Tử,
nó là nội dung thì “Lễ” chính là hình thức biểu hiện cho nội dung đó.
“Lễ” lúc đầu đƣợc hiểu là cái để thờ cúng thần, bắt đầu bằng ăn
uống đồ xôi, mổ lợn, rót rƣợu vào chén mà bƣng lên... chỉ mang tính
tôn giáo. Đến khi nhà Chu lên ngôi thì “Lễ” đƣợc chia làm 5 loại gồm:
Cát Lễ, Hung Lễ, Quân Lễ, Tân Lễ và Gia Lễ. Đến sau này thì Khổng
Tử nhận định rõ đƣợc sự hữu ích của “Lễ” thì ngƣời đã đi sâu khai
thác triệt để Lễ ở gốc độ lý luận của nó.
Khổng Tử là ngƣời đề cao vai trò của “Lễ”, nếu nhƣ Ngƣời cho
nhân là gốc thì lễ sẽ là ngọn của việc xây dựng nhân cách cho con
ngƣời. Sở dĩ nhƣ vậy là do:
Thứ nhất, nhờ vào lễ mà ngƣời ta có thể xác định đƣợc vị trí
vai trò của bản thân trong các quan hệ, góp phần tạo ra sự văn minh
trong trật tự xã hội – gia đình. Nếu nhƣ không có Lễ thì không thờ
thần theo đúng các thứ bậc, không có lễ thì không phân biệt đƣợc trên
– dƣới, lớn - bé, vua tôi – cha con, trai – gái, anh – em trong xã hội.
Thứ hai, “Lễ” quy định rõ ràng về cách ăn, mặc, ứng xử, hành
động, hành vi trong cuộc sống của con ngƣời nên có tác động lớn đến
tâm tƣ tình cảm của con ngƣời. Khổng Tử đã lý giải vấn đế này từ cách
ăn mặc khi có tang, khi ra ở triều và ra trận nhƣ sau: “Ngƣời mặc áo sô
gai chống gậy, chí không để đến dự vui, không phải là tay không nghe
thấy, vì y phục khiến nhƣ thế, ngƣời mặc cái phủ, cái phất áo cồn mũ
miện, dáng điệu uy nghi không phải là có tính trang nghiêm, vì y phục
khiến nhƣ thế, ngƣời đội mũ, mặc áo giáp, cầm giáo dài, không nhút nhát
không phải là thân thể mạnh bạo, vì y phục khiến nhƣ thế”.[1, tr.10]
5
Thứ ba: “Lễ” giúp con ngƣời có thể kiềm chế bản thân, thực
hiện hoạt động của mình theo đúng chuẩn mực xã hội. Theo Khổng
Tử: “Tính con ngƣời vốn thừa thì sẽ xa xỉ, thiếu thì hà tiện, không
ngăn cấm thì dâm đãng, không có tiết độ thì sai lầm…” [1, tr.13]. Vì
thế có thể xem “Lễ” chính là phƣơng thức để ngăn chặn kịp thời sự tà
đạo từ khi nó chƣa hình thành, giúp cho con ngƣời hƣớng đến điều
thiện tránh xa cái ác, cái tội lỗi.
Vì thế nên “Lễ” có vai trò rất lớn trong việc xây dựng đức
“Nhân” cho con ngƣời. Bởi lẽ giữa “Nhân” và “Lễ” có mối quan hệ
mật thiết với nhau, có nhân phải thi hành lễ, nếu có lễ mà không có
nhân thì lễ nhạt có ích gì.
2.4. Phạm trù “Trí”
“Trí” là sự hiểu biết nói chung để phân biệt, đánh giá con ngƣời
và tình huống, qua đó xác định cho mình cách ứng xử cho đúng đƣờng
đúng đạo. Chính vì thế nên có thể xem “Trí” là cách đƣa con ngƣời
đạt đƣợc đức Nhân, nếu thiếu Trí khó có thể đạt đƣợc, nhƣng nếu đủ
trí để hiểu đạo thánh hiền nhƣng không có nhân để gìn giữ thì dù có
đạt đƣợc đạo ấy, rồi nó cũng mất đi (Tri cập nhi, nhân bất năng thủ
chi, tuy đắc chi, tất thất chi) [1, tr.578].
Nguồn gốc của Trí theo Khổng Tử một mặt tin vào mệnh trời,
ông cho rằng có trí bẩm sinh. Trí của con ngƣời có đƣợc từ trƣớc do
ơn trên ban cho hay do bẩm sinh trong mỗi ngƣời mà họ có trí, mặt
khác Khổng Tử cho rằng Trí cũng là kết quả của quá trình học tập.
Bởi lẻ theo ngƣời thông qua học tập con ngƣời sẽ có đƣợc những hiểu
biết về các chuẩn mực đạo lý, cung cách ứng xử trong các mối quan
hệ, có đƣợc năng lực cho hành động để có thể đạt đến đức Nhân, quan
niệm này về sau đƣợc Tuân Tử và Mạnh Tử kế thừa.
Khổng Tử không chỉ đề cập đến việc học đối với Trí mà còn ở
nhiều phƣơng diện khác của con ngƣời, Ông viết: “Ƣa làm điều nhân
mà không ƣa học thì mối hại che lấp là sự ngu muội, ƣa làm điều trí
mà không ƣa học thì mối hại che lấp là sự phóng đảng, ƣa làm điều tín
mà không ƣa học thì mối hại che lấp sự thiệt thòi. Ƣa làm điều dũng
mà không ƣa học thì mối hại che lấp là sự phản loạn. Ƣa cƣơng cƣờng
mà không ƣa học thì mối hại che lấp là sự cuồng bạo” [1, tr.63]. Có
Nhân, có Nghĩa mà không có Trí thì cũng chẳng khác nào một ngƣời
lính ra trận chỉ có áo giáp mà không có gƣơm, đao, chỉ bảo vệ đƣợc
mình mà không bảo vệ đƣợc ngƣời khác. Sống ở đời nếu chỉ sống cho
6
riêng ta thì đơn giản quá, mà muốn giúp đỡ đƣợc ngƣời khác tất mình
phải có tài, có hiểu biết.
2.5. Phạm trù “Nghĩa”
“Nghĩa” là phạm trù đƣợc sử dụng nhiều từ thời Khổng Tử về
sau, theo Khổng Tử “Nghĩa” là những thứ gì hợp đạo lý chuẩn mực xã
hội mà con ngƣời cần phải thực hiện, không bận tâm đến việc ấy có
đem lại lợi ích cho ngƣời thực hiện hay không. Khổng Tử nói: “Bậc
quân tử làm việc cho đời, không có việc gì ngƣời cố ý bỏ, hễ hợp
nghĩa thì làm” [1, tr.107] là ngƣời quân tử khi làm việc thì chủ yếu là
giúp đời chứ không có việc gì mà ngƣời vì mình mới làm và cũng
không tự ý bỏ mà theo đúng đạo nghĩa thì thực hiện. Không chỉ
Khổng Tử mà Mạnh Tử cũng sử dụng sự đối lập giữa nghĩa và lợi
trong lời dạy của mình, trong một lần ra mắt Lƣơng Huệ Vƣơng, Huệ
Vƣơng hỏi: “Mạnh Tiên từ nơi xa đến đây có cách gì đem lợi ích cho
đất nƣớc ta”, Mạnh Tử đáp: “Vua cần gì nghĩ đến điều lợi hãy nghĩ
đến việc nhân - nghĩa mà thôi, kế đến hàng đại phu nói có cách gì làm
lợi cho gia tộc ta…nếu từ trên tới dƣới đều mong có đƣợc điều lợi thì
kẻ này cƣớp đoạt kẻ kia mà không ai nghĩ đến nhân - nghĩa. Trái lại
không có ngƣời nào coi trọng nhân mà bỏ bê cha mẹ. Chƣa có kẻ nào
coi trọng nghĩa mà xem việc nƣớc thấp hơn lợi ích của bản thân mình”
[4, tr.1].
Nhƣ vậy “Nghĩa” là một yếu tố góp phần tạo nên nhân cho con
ngƣời, nhân và nghĩa là hai phạm trù có mối quan hệ mặt thiết và bổ
trợ cho nhau, có nhân thì phải có nghĩa và có nghĩa nhất định phải đạt
đƣợc nhân.
2.6. Ảnh hưởng đạo đức Khổng Tử tới Việt Nam
2.6.1. Tích cực
Những tƣ tƣởng đạo đức “Nhân-Lễ-Trí-Nghĩa” của Khổng Tử
có mối quan hệ mặt thiết tác động và phụ thuộc vào nhau nó góp phần
hình thành nên một con ngƣời toàn diện, hình thành nên phƣơng
hƣớng đều hành đất nƣớc. Mà ngay từ buổi đầu đã đƣợc các triều đại
phong kiến của ta vận dụng nhƣ Trần Hƣng Đạo, , Nguyễn Trãi,
Nguyễn Trƣờng Tộ….Tuy nhiên ở bài nghiên cứu này tôi tập trung
làm rõ sự vận dụng tƣ tƣởng đức trị của Hồ Chí Minh vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
Sự tác động của tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử đến Hồ Chí
Minh đã đƣợc khúc xạ qua nhãn quan macxit của Ngƣời, Ngƣời đã
vận dụng sáng tạo những tƣ tƣởng ấy, góp phần làm cho nền văn
7
hóa phƣơng Đông bƣớc lên một tầm cao mới. Với sự giác ngộ lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin đƣợc xem là căn cứ lý luận để Hồ Chí
Minh nhìn nhận và kế thừa từ Nho giáo. Cũng chính từ lập trƣờng
này mà Ngƣời đã đƣa ra mối liên hệ, tính quy định của kinh tế - xã
hội đối với học thuyết Khổng Tử, đánh giá vai trò và ý nghĩa của nó
đối với thời đại ngày nay. Ngƣời viết: “Cách đây 20 thế kỷ, chƣa có
chủ nghĩa tƣ bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chƣa bị áp
bức nhƣ chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc của Khổng Tử không bao
giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng. Đạo đức của Ông
là hoàn hảo, nhƣng nó không thể dung hợp đƣợc với các trào lƣu tƣ
tƣởng hiên đại, giống nhƣ cái nắp tròn làm thế nào có thể đậy kín
cái hộp vuông” [5, tr.453]. Nhƣ vậy Hồ Chí Minh đã kế thừa những
gì từ tƣ tƣởng Khổng giáo.
Nếu nhƣ đạo đức Khổng Tử đề cao “Nhân” tức là con ngƣời
trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp trong đó có hạnh phúc cho
mọi ngƣời. Cũng nhƣ quan niệm trên Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò
con ngƣời. Ngƣời viết: “Vô luận việc gì điều do ngƣời làm ra, và từ
nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” [6, tr.453]. Tuy nhiên điểm
khác với tƣ tƣởng Nho gia chính là việc họ đề cao vai trò ngƣời
quân tử, ngƣời cầm quyền, ngƣời giáo hóa dân chúng thì Hồ Chí
Minh lại khẳng định đề cao vai trò của quần chúng trong cách mạng.
Vì thế ở Hồ Chí Minh đều cốt yếu là ở chổ tổ chức quần chúng lại
giáo dục họ, đƣa họ ra tranh đấu để tự giải phóng và xây dựng đời
sống mới, đó là sự tƣơng đồng, nhƣng đồng thời là sự khác biệt sự
vƣợt qua Khổng giáo ở Hồ Chí Minh trong việc nhìn nhận vai trò của
con ngƣời, chủ thể lịch sử. Từ đó mà trong tác phẩm “Đƣờng kách
mệnh” ngƣời đã đƣa ra đạo đức của ngƣời cách mạng trên cơ sở tiếp
thu nhiều điều từ Khổng giáo. Ý chí và tâm huyết của ngƣời quân tử,
ngƣời đạt đạo, đạo đức, khí phách bật trƣợng phu, sự kiên định,
“Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay uy vũ
không thuất phục”… Ngƣời đã giải thích chữ Nhân của Khổng Tử
với cách mới nhƣ sau “Nhân là thật thà yêu thƣơng, hết lòng giúp đỡ
đồng chí và đồng bào, vì thế mà kiên quyết chống lại những ngƣời,
những việc có hại cho Đảng và nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu
cực khổ trƣớc mọi ngƣời, hƣởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà
không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền”.
Nho gia chủ trƣơng thân dân, trọng dân nhƣng trên thực tế
không đƣợc bình đẳng với bọn quí tộc “Hình bất thƣợng lễ phu, lễ bất
8
hạ thứ dân”, hình phạt chỉ dùng cho dân, còn quan lại, quý tộc thì
đƣợc xử theo lễ. Trái lại đối với Hồ Chí Minh ngƣời cán bộ Đảng viên
phải là ngƣời chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc, bởi lẻ Hồ Chí Minh
cho rằng cán bộ đƣợc xem nhƣ là gốc của cách mạng “Muốn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ mà ra”. Pháp luật ở Hồ Chí
Minh là sự dân chủ chứ không nhƣ Khổng giáo, đều đó đƣợc thể hiện
ngay từ phiên họp đầu tiên của chính phủ nƣớc Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (03-09-1945), ngƣời khẳng định: “Chúng ta phải có một
hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay
cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” [7, tr.133].
Cũng nhƣ Khổng giáo, Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng đạo
đức nhƣng là đạo đức cách mạng, chăm lo giáo dục đạo đức để xây
dựng con ngƣời mới, con ngƣời XHCN. Và Ngƣời đặt biệt nhấn mạnh
vai trò của nêu gƣơng và việc này trƣớc tiên đƣợc thực hiện ở cán bộ,
đảng viên, bởi “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”, ngƣời cán bộ
cần phải học tập tu dƣỡng rèn luyện đạo đức của bản thân, phải gƣơng
mẫu, cần, kiệm, liêm, chính để dân noi theo”.
Nhƣ vậy ta có thể thấy tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử có ảnh
hƣởng to lớn đến tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh trên con đƣờng xây
dựng đạo đức cách mạng, xây dựng con ngƣời XHCN.
2.6.2. Tiêu cực
Bên cạnh những điểm hợp lý đã đƣợc Hồ Chí Minh kế thừa và vận
dụng vào cách mạng Việt Nam thì nó cũng có những hạn chế nhất định:
Trƣớc hết Ngƣời phê phán bản tính thiên phú của con ngƣời,
điểm khởi đầu của tƣ tƣởng đức trị là duy tâm. Bởi lẻ theo Khổng Tử
cho rằng những đặc điểm đạo đức của con ngƣời có nguồn gốc bẩm
sinh do thiên mệnh quyết định.
Do quá coi trọng đức nên trong xử lý công việc và các mối
quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cƣơng, phép nƣớc. Tiếp thu
truyền thống trọng đức nhấn mạnh “thân thân” nên ngƣời có chức
quyền lôi kéo, dẫn gia đình thân thuộc vào làm kết bè kết phái. Ngoài
ra do hiểu sai về đức nhân – nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà
xảy ra sự ban ơn, hối lộ, cửa quyền, móc ngoặc... trong một số cán bộ
hiện nay.
Coi trọng lễ về cách giáo dục con ngƣời một cách cứng nhắc,
bảo thủ là cơ sở cho tƣ tƣởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, trọng nam
khinh nữ… từ coi trọng lễ, coi trọng quan hệ gia đình đến quan hệ
“chú cháu”, “anh em” nên trong quá trình thực hiện “Phê bình và tự
9
phê bình” không triệt để. Ngoài ra sự giáo dục và tu dƣỡng đạo đức
Khổng giáo mang tính cứng nhắc tạo nên những con ngƣời sống theo
khuôn mẫu, hành động thụ động làn cản trở quá trình xây dựng đạo
đức mới.
3. Kết luận
Khổng Tử, là nhà tƣ tƣởng Trung Quốc cổ đại có vai trò to lớn
trong lịch sử giáo dục thế giới. Ông đã để lại cho nhân loại những tƣ
tƣởng quý giá mà ở từng thời kỳ lịch sử khác nhau, khi vai trò nhân tố
con ngƣời đƣợc đề cao thì lại càng phát hiện ở đó chứa đựng những
yếu tố tích cực, tiến bộ trong giáo dục và đào tạo con ngƣời.
Dƣới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, chúng ta nghiên cứu tƣ tƣởng tƣ tƣởng triết
học về đạo đức Khổng Tử để thấy rõ những hạn chế và tích cực của nó
đối với giáo dục con ngƣời Việt Nam.
Con ngƣời mới mà chúng ta cần xây dựng đó là con ngƣời có
những phẩm chất tốt đẹp truyền thống, đồng thời có khả năng nắm bắt
và vân dụng những tri thức hiện đại. Do đó nếu ta vận dụng tốt những
tƣ tƣởng chính trị đạo đức Khổng Tử một cách linh hoạt thì sẽ có đƣợc
những lớp ngƣời vừa có nhân đức, vừa có dũng tài. Công việc này
phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, kiên trì, lâu dài, khi đó góp phần
vào việc làm nên những con ngƣời vừa đảm bảo tính truyền thống vừa
có phẩm chất năng lực làm chủ xã hội sẽ góp phần tích cực vào sự
nghiệp đổi mới của nƣớc nhà, làm cho dân giàu nƣớc mạnh, xã hội
công bằng, văn minh.
Tài liệu tham khảo
[1]. Chu Hy: Luận Ngữ, Nxb. Văn học,1992.
[2]. Doãn Chính: Đại Cương lịch sử Triết học phương Đông,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1994.
[3]. Lịch sử Triết học phương Đông, T.1, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
[4]. Mạnh Tử, chƣơng Lƣơng Huệ Vƣơng Thƣợng.
[5]. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, T.2.
[6]. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, T.5.
[7]. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, T.4.
[8]. Hà Thúc Minh, Lịch sử Triết học Trung Quốc, Nxb. Tp Hồ
Chí Minh, 1996.
[9]. Tứ Thư, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.
10
TÌM HIỂU TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG CỦA PHẬT GIÁO
SV: Trần Dƣơng Linh - Võ Văn Kha
Lớp: ĐHGDCT14A
GVHD: ThS. Mai Thị Thanh
Tóm tắt: Trên cơ sở vạch rõ nội hàm khái niệm khoan dung, bài viết
bước đầu phân tích những biểu hiện của tư tưởng khoan dung Phật
giáo được thể hiện thông qua các phẩm hạnh: “Vị tha”, “Từ bi”,
“Bác ái”, “Lòng trắc ẩn” và đặc biệt là sự khoan hòa giữa đạo Phật
với các tôn giáo khác. Đồng thời, làm rõ ý nghĩa của tư tưởng khoan
dung Phật giáo đối với mỗi cá nhân, gia đình và xã hội trong tiến
trình hội nhập và phát triển hiện nay.
Từ khóa: Khoan dung, Khoan dung phật giáo, Phật giáo.
1. Đặt vấn đề
Đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn xuất phát từ Ấn Độ.
Ngƣời có công sáng lập ra là thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm
624 TCN thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn Vƣơng
Đà Na (Sudhodana) trị vì nƣớc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ Trung
Ấn Độ và hoàng hậu Ma Da (Ma Da). Một trong những tƣ tƣởng chủ
đạo của Phật giáo là dạy con ngƣời hƣớng thiện, không làm điều xấu
và có trí tuệ xây dựng cuộc sống tốt đẹp, yên vui, hạnh phúc và ấm no.
Đƣa con ngƣời đến cõi niết bàn, cực lạc và thoát khỏi khổ đau. Cũng
giống nhƣ một số tôn giáo khác, Phật giáo không sử dụng thuật ngữ
khoan dung nhƣng thông qua giáo lý thì tƣ tƣởng khoan dung đƣợc
thể hiện một cách đầy đủ qua phẩm hạnh “Vị tha”, “Từ bi”, “Bác ái”
và “Lòng trắc ẩn”. Phật giáo với tƣ tƣởng khoan dung của mình đã
chung sống hòa hợp với các tôn giáo khác và trở thành một trong
những tôn giáo có số lƣợng các tín đồ đông đảo, chiếm đƣợc lòng tin
của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm khoan dung
Tƣ tƣởng khoan dung xuất hiện rất sớm trong lịch sử tƣ
tƣởng triết học. Dù rằng, trong giai đoạn đầu tiên đó, thuật ngữ
khoan dung chƣa đƣợc sử dụng thƣờng xuyên, nhƣng tinh thần của
nó có ảnh hƣởng lớn đến giai đoạn sau. Ở phƣơng Tây Thuật ngữ
“khoan dung” có nguồn gốc từ tiếng Latinh tolerare và tolerantia
với nghĩa là tha thứ, ủng hộ, dung nạp. Thuật ngữ này, gắn liền với
11
đời sống tôn giáo khi xuất hiện vào thế kỷ XVI trong những xung
đột tôn giáo giữa ngƣời Công giáo và Tin lành. Trong tiếng Anh có
chữ toleration (sự khoan dung, sự tha thứ), dùng gần nghĩa với
benevolance (khoan dung, thiện nguyện). Ở phƣơng Đông thuật ngữ
khoan dung xuất hiện lần đầu trong Kinh Thư. Trong đó, khoan
dung đƣợc quan niệm là một đức tính của ngƣời quân tử bên cạnh
tín, mẫn, huệ; “khoan” đƣợc hiểu là sự tha thứ, rộng lƣợng, khoan
hồng, “dung” là bao dung.
Mặc dù đƣợc đề cập và bàn luận từ lâu, song với tƣ cách là
một thuật ngữ khoa học, khoan dung mới chỉ đƣợc nhắc tới ở Việt
Nam từ những năm 90 của thế kỷ XX và đƣợc hiểu nhƣ một phạm trù
đạo đức, một chuẩn mực nhân văn của con ngƣời. Trong Hán Việt từ
điển giản yếu, học giả Đào Duy Anh cho rằng : Khoan dung là sự rộng
rãi dung đƣợc nhiều, độ lƣợng rộng, khoan dung là lòng rộng bao
dung. Còn Bửu Kế trong từ điển Hán Việt từ nguyên: Khoan dung là
che chở, đùm bọc, bao dung kẻ khác; Hoàng Phê trong từ điển tiếng
Việt: Khoan dung là rộng lƣợng tha thứ cho ngƣời có lỗi lầm; trong từ
điển bách khoa Việt Nam: Khoan dung là thái độ ứng xử rộng lƣợng
của ngƣời trên đối với kẻ dƣới quyền. Nhƣ vậy, khoan dung có rất
nhiều cách hiểu khác nhau. Cách hiểu phổ biến nhất là chỉ sự tha thứ
của ngƣời trên đối với kẻ dƣới, song nghĩa rộng nhất chúng ta có thể
hiểu: Khoan dung chỉ thái độ chấp nhận khác biệt có phê phán trong
mức độ đối thoại để cùng phát triển, không phân biệt cao thấp, sang
hèn, văn minh hay không văn minh. Nhƣ vậy, việc sử dụng thuật ngữ
khoan dung chƣa có sự thống nhất về nội hàm nên dẫn đến có nhiều
cách hiều khác nhau. Có khi khoan dung đƣợc hiểu là thái độ, cách
ứng xử có liên quan đến tôn giáo, thƣờng chỉ tình yêu thƣơng, bao
dung, độ lƣợng giữa con ngƣời với con ngƣời. Khác với Phật giáo thì
Nho giáo coi khoan dung là một phẩm tính của ngƣời quân tử và nội
hàm thiên về thái độ ứng xử của bề trên đối với kẻ dƣới, của ngƣời có
quyền đối với ngƣời không có quyền. Song thực tế khoan dung còn
đƣợc đề cập ở nhiều lĩnh vực khác. Ngày nay, khoan dung bao hàm ý
nghĩa là một sự đối thoại ngay cả với những ngƣời có tín ngƣỡng, có
niềm tin trái ngƣợc nhau.
Trƣớc những đổi thay của xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khi các
nƣớc ngày càng gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau, bên cạnh sự đụng độ về
kinh tế và về chính trị, sự đụng độ về văn hoá và văn minh đã và đang
xảy ra thì khoan dung là một thuật ngữ thƣờng xuyên đƣợc nhắc đến
12
trong quan hệ giữa các khu vực và các dân tộc. Để vạch rõ nội hàm của
khái niệm khoan dung, tìm ra một khuôn mẫu cho thế giới hiện đại của
thế kỷ XIX, UNESCO trong bản Tuyên ngôn những nguyên lý về
khoan dung đã xác định bốn khía cạnh chủ yếu của tƣ tƣởng khoan
dung có tác động tích cực đến việc xây dựng xã hội hoà bình. Theo đó,
“Khoan dung là một hình thức tự do, tự do về tƣ tƣởng, tự do về pháp
lý. Một con ngƣời khoan dung là ngƣời làm chủ về tƣ tƣởng và hành
động của mình. Khoan dung là một thái độ ứng xử tích cực, không
hàm ý mang ơn hay hạ mình chiếu cố đối với ngƣời khác. Khoan dung
là thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt. Đó là học cách nghe, cách
thông tin và cách hiểu ngƣời khác. Khoan dung là chấp nhận sự đa
dạng của các nền văn hóa, là sự cởi mở đối với những tƣ tƣởng triết lý
khác mình, là sự ham học hỏi, tìm hiểu những điều bổ ích để làm giàu
cho bản thân, không bác bỏ những gì mà mình chƣa biết. Khoan dung
là tôn trọng quyền và tự do của ngƣời khác. Khoan dung là sự thừa
nhận không có một nền văn hóa, một quốc gia hay một tôn giáo nào
độc tôn về tri thức và chân lý” [3, tr.29].
Nhƣ vậy, khoan dung là sự tôn trọng, chấp nhận và đề cao sự đa
dạng, là sự hòa hợp trong sự khác biệt. Trên tinh thần đó, Phật giáo với
tƣ tƣởng khoan dung đã bù đắp cho những mảnh đời đau khổ, bất hạnh
của con ngƣời. Các cơ sở thờ tự là nơi nƣơng tựa của những ngƣời già
neo đơn không ngƣời thân, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi,…Từ những việc
làm thiết thực mà Phật giáo ngày càng cần thiết đối với con ngƣời hiện
đại trƣớc những thách thức ngày càng nhiều và phức tạp.
2.2. Một số biểu hiện của tư tưởng khoan dung Phật giáo
Khoan dung là một trong những tƣ tƣởng cốt lõi của Phật giáo.
Nó đƣợc biểu hiện qua nhiều phƣơng diện nhƣ: yêu thƣơng con ngƣời,
tôn trọng phẩm hạnh ở mỗi ngƣời và khoan hòa với các tôn giáo khác.
Lòng yêu thƣơng con ngƣời đƣợc thể hiện thông qua giáo lý, giáo luật
của Phật giáo, trong đó biểu hiện rõ nhất ở tính “Vị tha”, “Từ bi”,
“Bác ái”, “Lòng trắc ẩn” và sự khoan hòa với các tôn giáo khác.
2.2.1. Vị tha
Vị tha đƣợc hiểu một cách đơn giản là vì ngƣời khác, biết yêu
thƣơng nhƣờng nhịn, san sẻ với ngƣời khác, vốn là hình thức ứng xử
“thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân” hay “lá lành đùm lá rách” trong
lối sống của ngƣời Việt, nhƣng cũng là yêu cầu cơ bản của giáo lí đạo
13
Phật. Một trong những con đƣờng tu tập hoàn thiện bản thân đó là
thực hiện lòng vị tha.
Thật vậy, vị tha là pháp hạnh vô cùng cần thiết mà hàng đệ tử
Phật cần rèn luyện để tạo dựng cuộc hòa hợp, an vui, giải thoát mình
và giải thoát mọi ngƣời. Nói cách khác, lòng vị tha đƣợc xây dựng
trên nền tảng từ bi và vô ngã, nghĩa là xuất phát từ tình yêu thƣơng
con ngƣời biết đặt mình vào hoàn cảnh của ngƣời khác để cảm nhận
và chia sẻ cảm thông trƣớc nỗi buồn hay những khó khăn của mọi
ngƣời, trƣớc hoàn cảnh đó, nếu chúng ta có thể giúp đƣợc họ vƣợt
qua khó khăn và có cuộc sống tốt đẹp hơn, thì hãy sẵn lòng mở rộng
vòng tay để giúp dù có hy sinh lợi ích của bản thân mình để đổi lại
hạnh phúc, niềm vui cho mọi ngƣời. Ngƣời có lòng vị tha họ luôn
suy nghĩ cho ngƣời khác, tha thứ những lỗi lầm của họ. Chính phẩm
chất tốt đẹp này là sợi dây gắn kết mọi ngƣời lại với nhau tạo nên
một đoàn thể. Vị tha không chỉ đơn giản thể hiện qua cách thức hay
hành vi ứng xử mà còn thể hiện trong lời nói. Chẳng hạn nhƣ những
lời chúc thân tình trong ngày đầu năm mới cũng thể hiện lòng vị tha,
ở đó ngƣời ta dành cho nhau những ƣớc muốn chân thành, có thể là
tiền tài, danh vọng, sức khỏe.
Tuy nhiên, để tha thứ cho một ngƣời nào đó có tâm hại mình là
một điều không dễ chút nào nhƣng với phật tính vị tha chúng ta sẽ làm
đƣợc tất cả. Nếu ngƣời nào không thể tha thứ cho ngƣời mắc lỗi mà cứ
nuôi dƣỡng sự hận thù thì tâm xấu này sẽ ảnh hƣởng đến bản thân
ngƣời đó. Nó khiến cho bản thân luôn căng thẳng, khó chịu, bất an và
tất nhiên nó sẽ ảnh hƣởng đến sức khỏe, công việc của bạn. Nhƣ vậy,
chúng ta nên suy nghĩ một cách đơn giản hơn, một cách mà chính tôi
thƣờng làm và tôi thƣờng nghĩ khi gặp vấn đề nhƣ thế là: trong cuộc
đời này, ngƣời nào cũng từng mắc sai lầm, không ai hoàn hảo. Họ nói
điều ác, hành động không tốt, chắc có lẽ vì họ không biết hay vô ý.
Nếu biết hậu quả nghiêm trọng chắc họ không dám làm. Nghĩ nhƣ vậy
bạn sẽ dễ bỏ qua những sai lầm của ngƣời khác hơn. Nhờ có phật tính
vị tha mà chúng ta có thể sống tốt hơn, có lối ứng xử văn hóa hơn,
giúp cuộc sống chúng ta có ý nghĩa hơn. Nếu không có vị tha sẽ
không có phật pháp và đạo Phật. Nếu không có vị tha con ngƣời khó
trở nên hoàn thiện chính mình và xã hội khó mà hòa hợp.
2.2.2. Từ bi
Từ là làm cho vui, Bi là cứu khổ diệt khổ. Nói một cách khái
quát Từ Bi là tạo ra niềm vui, niềm hạnh phúc đồng thời diệt trừ
14
những ác tính, khổ đau cho tất cả mọi loài chúng sinh, làm cho cuộc
sống khoan hòa hơn. Vì thế trong cuộc sống nếu một cá nhân nào gặp
khó khăn hay chuyện không may xảy ra thì mọi ngƣời ra tay giúp đỡ
để họ vƣợt qua khó khăn, thoát khỏi vòng khổ ải, không có thái độ thờ
ơ hay làm ngơ trƣớc sự đau khổ của ngƣời khác. Nếu không làm nhƣ
vậy sẽ đánh mất tinh thần cứu thế của đạo Phật. Có thể nói Bi là nhân
và Từ là quả của Bi. Bởi vậy, tƣ tƣởng “đồng thể đại bi” có ý nghĩa rất
nhân văn. Do đó, thấy ngƣời khác chết đuối nhƣ chính mình bị chết
đuối, thấy ngƣời khác đói nhƣ chính mình bị đói, thấy ngƣời khác khổ
nhƣ chính mình bị khổ. Vì thế chúng ta cần mở rộng tấm lòng với tất
cả mọi ngƣời, không phân biệt giàu nghèo, bé lớn, đẳng cấp và tôn
giáo, “Thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân” niềm hạnh phúc của ngƣời
khác cũng là niềm vui của mình. Làm đƣợc nhƣ thế, mọi ngƣời sẽ cảm
thấy lòng mình nhẹ nhàng, thanh thản, vui mừng, nhƣng làm xong một
việc tốt đó thì chúng ta nên quên nó đi không nên lƣu giữ trong tâm
thức bởi khi chúng ta lƣu giữ lại trong tâm thức thì chúng ta cảm thấy
mình đã hoàn hảo, đã tốt rồi và sẻ không làm tốt ở những việc sau.
Phật giáo chỉ rõ, tính sân giận, oán hờn của con ngƣời là một
nguyên nhân lớn gây ra khổ đau cho chính họ. Sự oán giận có thể
đánh mất hạnh phúc giữa những ngƣời thân nhƣ vợ chồng, anh em, họ
hàng, bạn bè… Sự chém giết, khủng bố và chiến tranh giữa các phe
phái, các nƣớc vì màu da, tôn giáo… tất cả đều do sân hận mà ra, nó
tồn tại trong tiềm thức ở trong mỗi con ngƣời, có dịp là nó bùng nổ.
Vì thế, từ thời xa xƣa đến bây giờ, giết chóc, chiến tranh luôn luôn
xảy ra không ở nơi này thì ở nơi khác, không sao dứt đƣợc cảnh khổ;
Phật giáo có phƣơng cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân
hận oán hờn, đó là phƣơng thuốc diệt khổ. Vì thế chúng ta cần “quán
Từ Bi”, tức là quan sát khắp vạn loài chúng sinh để tìm mọi cách đem
đến cho họ niềm vui, đồng thời giúp họ diệt trừ nghiệp chƣớng và dẫn
họ đến con đƣờng giác ngộ. Nếu ai còn chấp nhất mà không quên
đƣợc sự sân hận của mình thì không phải là tín đồ của Phật giáo.
2.2.3. Bác ái
Phật giáo quan niệm rằng, Bác ái là yêu thƣơng tất cả mọi
ngƣời, không phân biệt ngƣời thiện hay ngƣời ác. Trong tƣ tƣởng phật
giáo tình yêu thƣơng con ngƣời đƣợc chảy đều cho tất cả mọi ngƣời
không phân biệt và đối xử đối tƣợng này hay đối tƣợng khác. Nó đƣợc
thể hiện qua việc làm của Đức Phật nhƣ: nộp mình cho con hổ đói ăn
15
thịt vì nó sắp ăn thịt con của nó dù biết nó là một loài mãnh thú hung
hãn nó sẽ ăn thịt Ngài. Và một lần ngƣời nhìn thấy một số ngƣời trong
đạo Bà-la-môn đói thì Đức Phật đã nƣớng mình làm thức ăn, giúp họ
qua cơn đói khát. Điều này chứng tỏ rằng: khi chúng ta yêu thƣơng
mọi ngƣời tức có lòng bác ái thì đem lại hạnh phúc cho mọi ngƣời và
chính bản thân chúng ta, từ đó tránh đƣợc những hận thù, mâu thuẫn.
Lòng bác ái là sợi dây gắn kết mọi ngƣời lại gần nhau, yêu thƣơng
nhau hơn, tránh phân biệt giữa ngƣời này với ngƣời kia, giữa tôn giáo
này với tôn giáo khác gây chia rẽ bè phái, đấu tranh và sát hại lẫn
nhau. Nhờ có tinh thần bác ái mà Phật giáo chung sống một cách hòa
hợp đƣợc với các tôn giáo khác.
2.2.4. Lòng trắc ẩn
Lòng trắc ẩn là một phẩm chất đáng quý của con ngƣời, đƣợc
hình thành qua quá trình giáo dục và thể hiện nếp sống của cá nhân trong
phạm trù đạo đức. Theo đạo Phật quan niệm thì lòng trắc ẩn là sự cảm
thông sâu sắc đối với mọi ngƣời, sẵn sàng đặt mình vào vị trí của ngƣời
khác, là tạm thời quên mình để hiểu ngƣời khác và học cách yêu thƣơng
họ. Lòng trắc ẩn không chỉ thể hiện ở những việc làm lớn lao mà còn
đƣợc thể hiện qua những việc làm đơn giản hằng ngày nhƣ giúp đỡ một
ngƣời ăn xin, gọi xe cứu thƣơng cho ngƣời gặp nạn… Những việc làm
này tƣởng chừng rất nhỏ nhƣng lại có ý nghĩa rất lớn, vì thế chúng ta
không nên do dự trƣớc một việc làm tốt, có ý nghĩa. Khi gặp những
ngƣời có hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh, chúng ta tìm hiểu nguyên nhân,
hoàn cảnh của họ để giúp đỡ, nếu ngoài khả năng thì có thể kêu gọi sự
giúp đỡ của các tổ chức xã hội, của cộng đồng. Nhờ có lòng trắc ẩn
chúng ta sẽ phần nào hiểu hơn về những khó khăn, nỗi khổ đau và bất
hạnh cũng nhƣ những tuyệt vọng của ngƣời khác, từ đó có sự cảm thông,
chia sẻ để cùng nhau vƣơn tới cuộc sống an vui, hạnh phúc.
2.2.5. Sự khoan hòa giữa đạo Phật với các tôn giáo khác
Phật giáo là một tôn giáo lớn và có số lƣợng tín đồ đông, song
với tƣ tƣởng khoan dung của mình đạo Phật luôn tôn trọng các tôn giáo
khác, không xem tôn giáo mình là trên hết. Xem giáo lý, giáo luật và tƣ
tƣởng của các tôn giáo khác điều là hữu ích, đều đáng trân trọng.
Không có sự kỳ thị, phân biệt mà luôn dung hòa với các tôn giáo bản
địa. Khi du nhập vào việt nam thì tƣ tƣởng khoan dung của đạo Phật
còn đƣợc thể hiện qua tinh thần “Tam giáo đồng nguyên” với Nho giáo
và Đạo giáo. Sự khoan dung của Phật giáo còn đƣợc thể hiện ở nơi thờ
16
tự, trong chùa không chỉ thờ Phật A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni, Di Lặc,
các vị La Hán, Bồ Tát... mà ở đấy, ta còn thấy các vị thánh, thần, tiên,
mẫu... của tôn giáo và tín ngƣỡng bản địa, hoặc những danh nhân văn
hóa lịch sử; không chỉ trong nƣớc mà cả nƣớc ngoài. Hầu hết ngôi chùa
Phật giáo có ban hoặc điện Mẫu Tam phủ, Tứ phủ; không ít chùa thờ
các danh nhân văn hóa, lịch sử, ngƣời có công với cộng đồng, dân tộc,
hoặc những ngƣời có công xây cất, tôn tạo ngôi chùa... Gần đây, nhiều
ngôi chùa có bàn thờ Bác Hồ và có vị sƣ trụ trì ngôi chùa. Chùa thờ
Phật nhiều khi cũng thờ thêm các vị thánh nhân của đạo Lão mà dân tin
cậy, ngóng chờ, hy vọng, nhƣ Chùa Thày ở Sài Sơn. Chùa Châu Đài ở
Thƣợng Cát (Từ Liêm, Hà Nội) mà dân chúng nhiều đời thƣờng gọi là
“đền Tam giáo” từ lâu đã thờ trên cao nhất là Lạc Long Quân, Âu Cơ,
Đức Thích Ca, Quan Âm, Từ Lộ, Khổng Tử, Trần Hƣng Đạo, Thái
Thƣợng Lão quân cùng 12 vị Tiên Đồng Ngọc Nữ. Ở một số chùa khác,
chúng ta cũng thƣờng gặp các Đức Phật chung bệ thờ với đức Thánh
Tản Viên, bà Chúa Liễu Hạnh… Cổng chùa luôn là nơi mà ai có đau
khổ, có bức xúc đều đƣợc tiếp đón, không kể thành phần xuất thân,
không phân biệt nguồn gốc tôn giáo.
Nhƣ vậy, tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo không chỉ đƣợc
thể hiện ở lòng vị tha, từ bi, bác ái và lòng trắc ẩn mà còn đƣợc thể
hiện ở sự khoan hòa với các tôn giáo khác. Khoan dung của Phật giáo
chính là yêu thƣơng tất cả mọi ngƣời không phân biệt xuất thân, thành
phần xã hội, chấp nhận cùng tồn tại và phát triển bên cạnh các tôn
giáo khác. Việt Nam là một quốc gia có đa tôn giáo, tín ngƣỡng khác
nhau, nhƣng trong lịch sử chƣa từng xảy ra chiến tranh tôn giáo. Có
đƣợc điều đó là nhờ truyền thống khoan dung của ngƣời Việt và đặc
điểm đan xen, hòa đồng, khoan dung của tôn giáo, tín ngƣỡng ở Việt
Nam. Khoan dung sẽ tạo ra sự ổn định, hòa bình, một môi trƣờng sống
an toàn cho nhân loại. Đồng thời khoan dung giúp cho mỗi cá nhân,
gia đình và xã hội ngày càng có sự gắn kết, phát triển, hoàn thiện. Con
ngƣời sống tốt hơn, yêu thƣơng và chung tay xây dựng một thế giới
hòa bình, phồn vinh và hạnh phúc.
2.3. Ý nghĩa hiện thời của tư tưởng khoan dung Phật giáo
Tƣ tƣởng khoan dung Phật giáo đóng vai trò hết sức quan
trọng đối với sự phát triển của Phật giáo, nó là điều kiện để giao lƣu,
hòa nhập với các tôn giáo, tạo sự gắn kết giữa các tín đồ, phật tử
trong nƣớc cũng nhƣ trên thế giới. Khoan dung còn có ý nghĩa đặc
17
biệt quan trọng trong quá trình truyền bá Phật giáo, giáo dục con
ngƣời đi đến hoàn thiện nhân cách, phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Với
tình yêu thƣơng con ngƣời và lòng từ bi bác ái, Phật giáo ngày càng
đến gần hơn với quần chúng nhân dân, ăn sâu vào tƣ tƣởng của mỗi
cá nhân con ngƣời. Tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo góp phần cho
sự thành công của cá nhân, sự gắn bó của gia đình và sự phát triển,
đồng thuận của xã hội.
Thứ nhất, đối với cá nhân: Ngƣời có lòng khoan dung sẽ cảm
thấy hạnh phúc, có lối ứng xử thông minh, hòa nhập với xã hội tạo
thêm mối quan hệ giúp cho việc ngoại giao dễ dàng và khả năng thành
công trong công việc là rất cao. Ngƣời có lòng khoan dung luôn vui
vẻ, không hận thù và luôn nghĩ cho lợi ích của tập thể hơn lợi ích của
bản thân. Ngƣời có lòng khoan dung luôn đƣợc mọi ngƣời coi trọng
và khẳng định giá trị bản thân của họ. Khoan dung giúp cho thân thể
con ngƣời khỏe mạnh, dễ dàng làm nên việc lớn và đƣa con ngƣời trở
về với bản chất của chính mình và khoan dung làm cho con ngƣời ta
có nhiều niềm vui, hạn chế những hận thù, thân thiện với nhau hơn mà
bớt đi sự cô đơn và tẻ nhạt trong cuộc sống.
Thứ hai, đối với gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội, gia
đình ổn định và phát triển thì xã hội mới ổn định và phát triển. Khoan
dung giúp cho mọi ngƣời sống với nhau một cách hòa thuận, không
hơn thua, ganh ghét lẫn nhau. Không vì lợi ích nhỏ mà bỏ đi tình thân,
có nhƣ thế mới là một gia đình văn minh, hạnh phúc. Các thành viên
trong gia đinh biết chấp nhận sự khác biệt về tính cách, thói quen của
các thành viên khác, bỏ qua những lỗi lầm và cho họ cơ hội để sửa
chữa những sai lầm mà họ phạm phải. Tha thứ những lỗi lầm nhƣng
đồng thời phải góp ý, phân tích đúng sai, để các thành viên trong gia
đình hoàn thiện bản thân. Đứng trên lập trƣờng giáo dục thì hạn chế
cảnh chồng đánh vợ, cha đánh con và cả sự thù hằn lẫn nhau.Thay vào
đó bằng sự tha thứ, lòng khoan dung và cả những lời dạy bảo hết sức
ân cần của ngƣời chồng dành cho vợ, của các bậc phụ huynh dành cho
con cái, và ngƣợc lại con cái cũng phải biết kính trọng, biết nghe lời
và phải hiếu thảo, giúp đời sống gia đình trở nên tốt đẹp, gắn bó và
yêu thƣơng lẫn nhau, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ ” vì thế, khoan
dung là nền tảng của một gia đình hạnh phúc.
Thứ ba, đối với xã hội: Khoan dung là sợi dây gắn kết mọi
ngƣời lại với nhau từ đó thấu hiểu tâm tƣ, tình cảm và hoàn cảnh của
18
nhau để cùng sẽ chia, giúp đỡ và cùng tiến bộ. Ngày nay tƣ tƣởng
khoan dung của Phật giáo đƣợc mọi ngƣời vân dụng làm cơ sở đễ đối
xử với nhau. Điều đó đƣợc thể hiện thông qua các chƣơng trình nhƣ:
“trái tim nhân ai”, “Chắp cánh ƣớc mơ”, “Lục lạc vàng”, “Chuyến xe
nhân ái’’,…Điều đó chứng mình đƣợc con ngƣời luôn yêu thƣơng lẫn
nhau. Không những thế, khoan dung còn là cầu nối giúp cho việc giao
lƣu văn hóa thuận lợi giữa các quốc gia trong khu vực, họp tác giữa
các nƣớc trên thế giới dựa trên nguyên tắc: hợp tác, hòa bình, hữu
nghị giữa các quốc gia. Giải quyết các xung đột bằng biện pháp hòa
bình, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác cùng phát triển. Khoan
dung còn là điều kiện, là phƣơng tiện và cũng là nền tảng để các
doanh nghiệp, các quốc gia có thể chấp nhận sự khác biệt để gần nhau
hơn, hợp tác và phát triển bền vững. Một lần nữa, giá trị khoan dung
đang giúp đất nƣớc phát huy mọi nguồn lực để đƣa Việt Nam “sánh
vai cùng cƣờng quốc năm châu”, phát triển kinh tế, bảo vệ tổ quốc
trƣớc mọi xâm lƣợc. Nhƣ vậy, tƣ tƣởng khoan dung phật giáo có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Phật giáo, trong giáo dục
con ngƣời, trong gia đình và ngoài xã hội. Nơi đâu có lòng yêu thƣơng
con ngƣời, lòng nhân ái, lòng nhân đạo, lòng từ bi,…thì nơi đó có
khoan dung. Nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến con ngƣời và xã
hội. Thúc đẩy sự đi lên, đi đến cái tốt đẹp, cái hoàn thiện nhất.
3. Kết luận
Tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo là một tƣ tƣởng có ý nghĩa
sâu sắc đối với các tín đồ và các tầng lớp khác trong xã hội. Nhờ có
khoan dung mà con ngƣời sống tốt hơn, biết đoàn kết, yêu thƣơng mọi
ngƣời cho dù đó không phải là ngƣời thân của mình. Khoan dung
không chỉ giới hạn trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức và thể hiện
tôn trọng tự do tín ngƣỡng mà nó còn trở thành điều kiện thể hiện tôn
trọng sự sống, hƣớng đến sự bình đẳng, thoát khỏi những khổ đau, xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa tôn giáo với tôn giáo, giữa con ngƣời
với con ngƣời trong xã hội. Đặc biệt, trong xã hội toàn cầu hóa hiện
nay, khoan dung tôn giáo nói chung, khoan dung Phật giáo nói riêng
đƣợc xem nhƣ một nguyên tắc để cùng hội nhập trong thế giới đa tôn
giáo hiện nay. Đối với Việt Nam, khoan dung tôn giáo của Phật giáo
đƣợc tiếp biến, phát huy đặc sắc trong Phật giáo Việt Nam, qua đó đã
tạo nên những kì tích, đã dựa trên nguyên tắc lấy sự ổn định của cả
dân tộc, lấy hạnh phúc, lợi ích và thịnh vƣợng của cả dân tộc làm mục
tiêu phấn đấu chung. Tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo góp phần
19
làm mạnh hơn khối đại đoàn kết Phật giáo Việt Nam cũng nhƣ dân tộc
Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập với thế giới hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Thị Phƣơng Mai (2007), “Khoan dung thuật ngữ và sự
vận động của nó trong lịch sử triết học phƣơng tây”, Tạp chí Triết học,
số 8 (195), tr.41 – 46.
[2]. Nguyễn Thị Phƣơng Mai (2012), Tư tưởng khoan dung và ý nghĩa
hiện thời của nó, Luận án tiến sỹ triết học, Hà Nội.
[3]. Trần Đăng Sinh - Đào Đức Doãn ( 2011), Giáo trình Tôn giáo
học, Nxb. Đại Học sƣ phạm, Hà Nội.
[4]. Phạm Sơn Tùng - Nguyễn Hoàng Đăng (2012), Học cách khoan
dung, Nxb. Văn hóa-Thông tin.
[5]. Huỳnh Khái Vinh - Nguyễn Thanh Tuấn (2004), Bàn về khoan
dung trong văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.
[6]. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb.
Tôn giáo, Hà Nội.
20
TÌM HIỂU TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG TÁC PHẨM ĐẠO ĐỨC KINH CỦA LÃO TỬ
SV: Phạm Thị Mỹ Duyên
Lớp: ĐHGDCT13
GVHD: CN. Phùng Ngọc Tiến
Tóm tắt: Trong triết học phương Đông, “Đạo”có một vị trí rất
quan trọng đối với các trường phái triết học như Nho gia, Lão gia
và Phật giáo. Trong bài này, người viết đi tìm những triết lý nhân
sinh trong “Đạo Đức kinh”của Lão Tử đó là những triết lý về
nguồn gốc, bản chất của con người về đạo, quy luật về đời sống con
người trong thuyết vô vi, thuyết âm dương và những quy luật của tự
nhiên về đời sống xã hội. Từ đó chúng ta nhận thức được những
triết lý nhân sinh của Đạo gia có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời
sống xã hội hiện nay.
Từ khóa: Đạo đức, triết lý nhân sinh, vô vi.
1. Đặt vấn đề
Đạo Đức kinh là một tác phẩm kinh điển của triết học phƣơng
Đông cổ đại, nó không chỉ chứa đựng hệ thống tri thức sâu sắc về thế
giới quan mà còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về nhân sinh quan.
Mặc dù ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc thù thời Xuân Thu -
Chiến quốc, các triết lý nhân sinh quan tiếp tục có ý nghĩa trong việc
nhận thức, suy ngẫm và thực hành đối với đời sống xã hội hiện đại.
Tƣ tƣởng đạo đức đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn các quan
điểm về thế giới quan, nhân sinh quan. Nó là nội dung cốt lõi của triết
học phƣơng Đông. Thế nhƣng, mỗi triết gia đều có cách lý giải, suy tƣ
và diễn giải riêng của họ. “Đạo”là một khái niệm trừu tƣợng hay dùng
trong Nho gia và Lão gia và Phật giáo, song mỗi một hệ phái lại có
cách lọc và cách diễn giải với sắc thái khác nhau.
2. Nội dung
2.1. Đôi nét về tác giả và tác phẩm
Lão Tử là một hiện tƣợng khá lạ trong lịch sử triết học của nhân
loại. Ông là một triết gia lớn có ảnh hƣởng tới Đông Á cùng với Khổng
Tử thời nào cũng đƣợc mọi ngƣời tôn trọng. Lão Tử là ngƣời làng Khúc
Nhân, hƣơng Lệ, huyện Hồ, nƣớc Sở, họ Lí, tên Nhĩ, tự là Đam làm
quan sử giữ kho chứa sách nhà Chu. Lão Tử trau dồi đạo đức, học
thuyết của ông cốt ở chỗ giấu mình ẩn danh. Ông ở nƣớc Chu đã lâu,
thấy nhà Chu suy bèn bỏ đi, thế là ông viết gần một cuốn gồm hai thiên
thƣợng và hạ, nói về ý nghĩa của “Đạo”và “Đức”đƣợc trên ngàn chữ.
21
Viết xong không ai biết chết ra sao, ở đâu. Có ngƣời bảo: lão Lai Tử
cùng là ngƣời nƣớc Sở viết mƣời lăm thiên sách nói về công dụng của
Đạo gia cũng đồng thời với Khổng Tử. Về quê quán trong bộ sử kí lƣu
hành hiện nay Lão Tử gốc ở làng Khú Lí, hƣơng Lệ, huyện Hỗ nƣớc
Sở. Ông làm quan sử giữ kho chứa sách của nhà Chu tức nhƣ chức
giám đốc thƣ viện quốc gia ngày nay, Lão Tử sống ở thế kỉ thứ IV
(390-300 TCN) và Vũ Đồng đoán ông sinh vào khoảng 430-340 TCN.
Về tác phẩm Đạo Đức kinh, theo Tƣ Mã Thiên thì Lão Tử viết
tác phẩm này là do lời yêu cầu của Doãn Hỉ, nhƣ vậy tác phẩm xuất
hiện vào thời Xuân Thu. Nhƣng tới thế kỉ XVIII mới có ngƣời nghi
ngờ thuyết đó (Tất Nguyên hay Uông Trung) rồi gần đây Khang Hữu
Vi, Lƣơng Khải Siêu, Tiền Mục, Trƣơng Tây Đƣờng , Phùng Hữu
Lan… đều cho rằng Lão Tử xuất hiện trong thời Chiến Quốc; ngƣời
thì cho là sau Măc Tử trƣớc Trang Tử, ngƣời lại cho ông sinh trong
khoảng từ Trang Tử tới Tuân Tử. Cũng có ý kiến cho rằng Lão Tử
xuất hiện còn trễ hơn nữa, sau bộ Lã thị Xuân Thu và trƣớc bộ Hoài
Nam Tử, nghĩa là vào đầu thời Tiền Hán, nhƣng thuyết này không
vững [2, tr.28].
2.2 Về nội dung của triết lý nhân sinh trong tác phẩm Đạo Đức kinh
2.2.1. Quan điểm của Lão Tử về Đạo
Theo Lão Tử thì Đạo là bản nguyên của vũ trụ. Theo ông:
“Có một vật hỗn độn, sinh trƣớc Trời Đất, yên lặng trống không,
đứng một mình mà không thay đổi, đi khắp nơi mà không ngừng
nghỉ. Có thể làm mẹ thiên hạ. Ta không biết tên, nên đặt tên nó là
Đạo, gƣợng gọi tên nó là lớn”.[1,2, tr.56].Hữu vật hổn thành, tiên
thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề. Độc lập nhi bất cải. Chu hành nhi bất
đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo
cƣỡng vi chi danh viết Đại).
Lão Tử cho rằng Đạo là Chân lý tuyệt đối, là nguồn gốc của vũ
trụ và vạn vật, nên nghĩa lý chữ Đạo rất cao siêu, khó mà giải rõ đƣợc.
Vì thế, trong Chƣơng thứ nhất bàn về Đạo, Lão Tử đã nói rõ là: “Đạo
khả đạo, phi thƣờng đạo, Danh khả danh phi thƣờng danh” [3, tr.37].
Theo ông, bản tính của Đạo là hƣ không lặng lẽ, xem chẳng thấy, lắng
chẳng nghe, rờ không đụng, không lớn, không nhỏ, không trƣớc,
không sau, không thể dùng lời nói mà diễn tả đƣợc, hoặc đem ra mà so
sánh với bất cứ sự vật nào cụ thể đƣợc. Đạo là tinh thần là bản nguyên
của trời đất, vạn vật. Nên trời đất, vạn vật là bản thể của Đạo, vì thế
Đạo lƣu hành trong vũ trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào
22
cũng có phần linh diệu của Đạo bên trong để điều hòa, trƣởng dƣỡng
cho nó. Đạo không có hình trạng, rất khó diễn tả, nên con ngƣời chỉ
lấy tâm để cảm nhận và hình dung Đạo mà thôi.
Theo nghĩa này thì Đạo là một thực tại siêu việt, vƣợt trên hết
mọi thực tại, nhƣng cũng là thực tại thâu tóm, bao quát toàn thể vũ trụ
này; là thực tại vƣợt trên thế giới hình tƣợng, thuộc thế giới tuyệt đối,
vƣợt mọi khả năng của lý trí con ngƣời. Thực tại đó con ngƣời chỉ có
thể trực giác, chiêm nghiệm mà không hề tƣ duy hay khảo cứu đƣợc,
lại càng không thể dùng đến danh từ hay ngôn ngữ để diễn đạt nó ra
bên ngoài. Bởi nó vƣợt lên trên mọi loại kinh nghiệm hữu danh, hữu
hình mà con ngƣời có đƣợc.
Theo Lão Tử chƣơng 51: “Đạo sinh ra vạn vật, đức bồi
dƣỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở mỗi vật (…) ; vật chất
khiến cho mỗi vật thành hình ; hoàn cảnh khí hậu, thủy thổ hoàn
thành mỗi vật” [1, tr.65].
Đạo chỉ có công sinh ra vạn vật thôi ; công nuôi dƣỡng, che
chở mỗi vật cho tới lớn là về “Đức”.
Chữ Đức ở đây Lão Tử muốn dùng với nghĩa rất mới, không
phải chữ đức nhƣ Nho gia thƣờng dùng mà là đức nuôi lớn mỗi vật
,mỗi vật đều có “đức” mà đức của bất kỳ vật nào cũng là từ đạo mà ra.
Lão Tử là ngƣời đầu tiên trong lịch sử triết học luận về vũ trụ,
trong Chƣơng 25 của Đạo Đức kinh ông bảo: “có một vật gì đó hỗn
độn mà thành trƣớc trời đất có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên
hạ” [3, tr.56]; Chƣơng 53 ông nói rõ thêm: “vạn vật có nguồn gốc,
nguồn gốc đó là mẹ của vạn vật” [1, tr.57]. Nguồn gốc đó bản thân
Lão Tử cũng không định đoán đƣợc, có lẽ nó có trƣớc vạn vật? Chính
vì vậy mà ông đi đến bác bỏ thuyết trời sinh ra vạn vật, mà có một cái
gì khác sinh ra vũ trụ, có trƣớc thƣợng đế nên ông tạm đặt tên cho nó
là “Đạo”. “Đạo khả đạo, phi thƣờng đạo, Danh khả danh, phi thƣờng
danh; Vô danh thiên địa chi thủy, Hữu danh vạn vật chi mẫu” [3,
tr.37]. Đối với Lão Tử, Đạo là một chân lý thuần nhất “huyền bí trên
mọi huyền bí” nên không thể dùng bằng ý tƣởng để suy diễn, thậm chí
càng không dùng ngôn ngữ hữu hạn của con ngƣời mà đặt tên cho nó.
Nếu có đặt tên chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ, vì mỗi khi đặt tên Đạo ấy
ra thì đã làm cho Đạo ấy mất đi tính chân lý thực hữu.
Tƣ tƣởng về Đạo của Lão Tử chịu sự chi phối của thế giới quan
mà ông hấp thụ con ngƣời Trung Quốc cổ đại. Theo đó, “Đạo sinh
nhất, nhất sinh nhị, nhị sanh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm
23
nhi bão dƣơng, trùng khí dĩ vi hòa”. Đạo là “không”, “không” sinh ra
“có”, vậy “nhất” đó là “có” hay nói cách khác đạo là vô cực, vô cực
sinh thái cực (nhất). “Nhị” ở đây chính là âm và dƣơng, còn “tam”
chính là sự giao thoa giữa âm và dƣơng. Theo đạo âm dƣơng tạo ra
thanh khí và trọng khí, thanh khí làm trời, trọng khí làm đất còn sự
điều hòa âm - dƣơng sẽ sinh ra con ngƣời và vạn vật.
Quan điểm về vũ trụ của Lão Tử chính là cơ sở cơ sở cho nhân
sinh quan và chính trị quan của ông. Vì vậy, ở nhiều chƣơng khi ông
nói về nhân sinh cũng tức là nói về chính trị hay ngƣợc lại không thể
tách đƣợc đâu là chính trị đâu là nhân sinh, đâu là đạo của nhà cầm
quyền, đâu là đạo của dân, cả hai đều phải thuận tự nhiên đều là
những áp dụng của phần vũ trụ quan cả.
2.2.2. Học thuyết vô vi
Từ quan niệm về “Đạo”, Lão Tử chủ trƣơng chính trị “vô vi”.
“Vô vi” không phải là không nên làm gì cả, mà theo Lão Tử “vô vi” là
làm mà nhƣ không làm, và không làm những điều không nên làm.
Ông cũng viết rằng nƣớc tuy mềm mại uyển chuyển nhƣng có thể
chảy đến bất cứ nơi nào, và với một khối lƣợng lớn thì có thể làm lở
cả đất đá. Nhƣ vậy vô vi có thể ví von với cách hành xử của nƣớc.
Sống trong giai đoạn chiến tranh loạn lạc, nên Lão Tử rất ƣu tƣ về
vấn đề quốc trị. Với ông dân đói vì nhà cầm quyền lấy thuế nhiều, dân
khó trị vì ngƣời cầm quyền theo hữu vi. Vì vậy, “Trị thiên hạ thì nên vô
vi, còn nhƣ hữu vi thì không trị đƣợc thiên hạ” [3-4, tr.246]. Ngƣời lãnh
đạo quốc gia phải áp dụng sách lƣợc vô vi để trở về (phản phục) với đạo
hay cái gốc tự nhiên ban đầu thì mới có thể an bang tế thế.
“Phản phục” là quay trở về cái ban đầu. Theo Lão Tử nó là quy
luật tự nhiên của Đạo. Theo đó, “Đạo trời giống nhƣ buộc dây cung
vào cung chăng? Dây cung ở cao quá thì hạ nó xuống, ở thấp quá thì
đƣa nó lên; dài quá thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt
chỗ dƣ, bù chỗ thiếu” [4, tr.84]
2.2.3. Quan niệm của Lão Tử về đạo đức, nhân sinh
Khi bàn về vấn đề đạo đức, nhân sinh Lão Tử đã phê phán ngũ
đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) và đạo hiếu trung của Khổng Tử.
Theo Lão Tử thì loài ngƣời bẩm sinh có lòng yêu cha mẹ, yêu
con, yêu đồng loại, tôn trọng bề trên v.v… cũng nhƣ loài chim, loài nai
chẳng hạn, không loài nào không nuôi nấng, che chở cho con khi con
còn nhỏ, không quyến luyến với mẹ, không hợp đoàn, không theo con
đầu đoàn; đạo và đức khiến nhƣ vậy. Những tình cảm đó hồn nhiên,
24
trong sạch, không suy tính. Nhƣng khi loài ngƣời để mất tình cảm hồn
nhiên đó rồi, mới đặt ra nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, hiếu trung; bảo phải
hành động ra sao mới là nhân, nghĩa, hiếu, trung, là cố ý rồi, nhắm một
mục đích rồi, không thành thực nữa; nếu lại bắt buộc ngƣời ta làm nhƣ
mình, thì đâu còn là đạo đức nữa, mà là sa đoạ, dùng trí xảo, trọng sự
loè loẹt, đầu mối của hỗn loạn rồi. Ông khẳng định: “Đạo lớn bị bỏ rồi
mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình bất
hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nƣớc nhà rối loạn mới có tôi trung”. Vì
vậy, nên “dứt thánh, bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại
hiếu từ; dứt [trí] xảo, bỏ lợi, không có trộm giặc” và “bất thƣợng hiền,
sử dân bất tranh” [2, tr.93], mà nên giữ sự chất phác.
Trong quan niệm về thiên – ác, tốt – xấu Lão Tử cũng có
những quan điểm mang tính biện chứng. Theo ông, “Ai cũng cho cái
đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái xấu; ai cũng cho
điều thiện là thiện, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái ác”[3,
tr.96]. Nhƣ vậy, trong vũ trụ không có gì vốn tốt – xấu, thiện – ác; đạo
không phân biệt thiện ác, tốt xấu…
3. Triết lý nhân sinh trong Đạo Đức kinh đối với xã hội hiện nay Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hƣởng rất lâu đời và sâu sắc
của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Đặc biệt là triết lý nhân sinh Đạo
giáo đã đƣợc những nhà lãnh đạo, quản lý sử dụng nhƣ là tƣ tƣởng
chủ đạo trong kiến trúc thƣợng tầng trong suốt thời kỳ phong kiến và
cho đên hôm nay, nó vẫn còn tồn tại hiện hữu và tiêp tục tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội. Ngày nay, những triết lý nhân sinh của
Lão gia không chỉ thấy đƣợc sự vĩ đại của mà còn coi trọng giáo dục
đạo lý làm ngƣời, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu
nƣớc, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống, nếp sống có văn hóa,
lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vƣơn lên vì tuong lai của mỗi
ngƣời và tiền đồ của đất nƣớc, bồi dƣỡng nhận thức và năng lực phát
huy giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Lối sống đạo đức đang diễn ra khá phức tạp trong đời sống xã
hội hiện nay, vậy cần phải làm gì để khắc phục những hậu quả. Ở
nƣớc ta việc thu nhận Lão gia do nhu cầu của độc lập, quân chủ tập
trung chủ yếu đạo gia lúc bấy giờ có nhiều thành tích tức là Việt Nam.
Trên cơ sở chủ nghĩa yêu nƣớc nhƣng cái học của nó theo lối từ
chƣơng, khoa bảng và nó học nhiều khía cạnh. Theo Đạo gia con ngƣời
là quyết định nhất cái lớn nhất của chủ nghĩa mác, là vấn đề cứu vớt
con ngƣời bị tha hóa bởi xã hội tƣ bản. Để tu thân đề sƣớng đạo làm
25
ngƣời Đạo giáo cần phải hệ thống hóa tất cả các triết thuyết. Ở Việt
Nam, bên cạnh chủ nghĩa nhân ái truyền thống Việt Nam chủ nghĩa làm
quan trọng mà đại nghĩa là yêu nƣớc.Trong sự phát triển và hì thành
nhân cách cho thế hệ trẻ nói chung, sinh viên Việt Nam noi riêng đã
đƣợ tể hiện và khẳng định trong thật tiễn đổi mới đất nƣớc lấy việc phát
triển con ngƣời làm cơ sở phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Để bảo
vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của quốc gia cần phải vận dụng tinh
hoa Đạo gia, đặt biệt là đạo làm ngƣời, tu thân lấy tấm gƣơng Hồ Chí
Minh vận dụng khi ngƣời đề ra cần kiệm, liêm chính. Đƣa nền giáo dục
nƣớc nhà lên đỉnh cao mới. Mỗi việc đều xử lý theo Hiến pháp và pháp
luật có sự can thiệp của nhà nƣớc, còn nhiều vấn đề bất cập làm sao từ
nƣớc nhỏ phát triển thành nƣớc mà ngƣời ta gọi là “con rồng”. Thông
qua đó, trong đời sống xã hội hiện nay chúng ta cần xây dựng nề nếp
ứng xử thay vào đó bằng những biểu hiện :con ngƣời phải biết yêu
thƣơng lẫn nhau, đoàn kết là sức mạnh.
4. Kết luận
Nói tóm lại những triết lý nhân sinh trong cuốn Đạo Đức kinh
của Lão Tử đã nói rõ nguồn gốc bản chất, quy luật đời sống con ngƣời
và quy luật tự nhiên. Ông luôn tôn sung cái thuộc về “tự nhiên”, coi
quy luật tự nhiên là điều mà ai cũng phải tuân theo “vô vi” kể cả trong
đời sống xã hội hiện nay con ngƣời càng văn minh thì càng gian trá
dục vọng càng lớn, sự cạnh tranh để sinh tồn ngày càng khốc liệt.
Cũng chính vì vậy mà qua các giai đoạn đạo đức của con ngƣời ngày
càng đi xuống đánh mất phẩm chất tốt đẹp vốn có của nó. Tƣ tƣởng
đạo đức của Lão Tử với nội dung phong phú trong cuốn Đạo Đức
kinh, có thể đem lại cho ta nhiều đều bổ ích góp phần vào sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nƣớc ta.
Tài liệu tham khảo
[1]. Vũ Đình (1998), Đạo đức học phương đông cổ đại, Nxb. Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Duy Cần (2013), Tinh hoa Đạo học phương Đông, Nxb.
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[3]. Nguyễn Hiến Lê (1998), Lão Tử - Đạo Đức kinh, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
26
TÌM HIỂU TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MẶC GIA
SV: Nguyễn Vĩnh Phong
Lớp: ĐHGDCT13
GVHD: CN. Phùng Ngọc Tiến
Tóm tắt: Bài viết tìm hiểu khái quát về đặc điểm trong tư tưởng chính
trị của trường phái triết học Mặc gia thời kì Chiến Quốc ở Trung Quốc
cổ đại và những dấu ấn mà Mặc gia đã tác động đến các giai đoạn tiếp
theo trong lịch sử triết học Trung Hoa. Đồng thời, bài viết bước đầu chỉ
ra những mặt tích cực và hạn chế mà trường phái triết học này đã một
thời tỏa sáng cùng Nho gia với học thuyết “Kiêm ái” rất nổi tiếng và là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng của trường phái này.
Từ khóa: công lợi, kiêm ái, phi công, thượng hiền, tiết dụng.
1. Đặt vấn đề
Nhắc đến Mặc giáo là ta lại nghĩ đến ngƣời sáng lập ra trƣờng
phái này là Mặc Tử, một ngƣời suốt đời tận tụy buôn ba khắp các
nƣớc phục vụ lợi ích cho mọi ngƣời và mong muốn có một xã hội tốt
đẹp. Không vì tƣớc lộc, địa vị mà muốn giúp đời “dù mòn trán lỏng
gót mà có lợi cho thiên hạ thì cũng làm” [4, tr.49]. Ngoài những hành
động thực tế thì ông cũng đƣa ra tƣ tƣởng của mình, nhất là về chính
trị để khuyên bảo mọi ngƣời yêu thƣơng lẫn nhau. Những tƣ tƣởng
của Mặc Tử (đầu thời Chiến Quốc) cùng với Nho giáo của Khổng Tử
(thời Xuân Thu) đã ảnh hƣởng rất lớn đến xã hội Trung Hoa đƣơng
thời, tuy về sau bị phê phán nhƣng tƣ tƣởng của Mặc Tử lại có những
dấu ấn để đời cho đời sau.
2. Khái quát về Mặc Tử và hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Hoa cổ đại
2.1. Khái quát về Mặc Tử
Mặc Tử (khoảng 479 - 381 TCN), họ Mặc tên Địch là ngƣời
nƣớc Lỗ, xuất thân là hạng bình dân ở đầu thời Chiến Quốc. Có tài
liệu ghi lúc đầu Mặc Tử theo Nho gia, về sau thì lập trƣờng phái riêng.
Ông là ngƣời có tinh thần cứu đời đầy nhiệt huyết, có tài biện
luận thuyết phục, làm việc nhân nghĩa… nên đƣợc coi là “ngƣời tốt ở
gầm trời muốn tìm cũng không thể đƣợc vậy” [1, tr.263]. Ông có rất
nhiều học trò, môn đệ nhƣ Cầm Hoạt Ly, Cao Thạch Tử, Công
Thƣợng Quá, Canh Trụ Tử… và đời sau thì có Lý Tƣơng Cần, Ngũ
Hầu, Khổ Hoạch, Đặng Lăng Tử… Ông thƣờng bảo các môn đệ đi
qua các nƣớc làm quan, nếu thấy làm điều sai thì gọi về, ông có thể
bảo các môn đệ của mình vào tình cảnh nguy hiểm để hoàn thành
27
nhiệm vụ mà họ không từ một lời, từ đó cho thấy tổ chức của phái này
rất nghiêm minh nhƣ đoàn thể chính trị, các môn đệ tuyệt đối phục
tùng ông, và ông nhƣ là một đảng trƣởng phái này.
Về “Bộ Mặc Tử” của ông theo Nghệ Văn Chí trong bộ “Hán
thƣ” đời Hán gồm 71 thiên, đến Tống thì trong bộ “Trung Hƣng
Quán” có ghi là 61 thiên, đến nay còn 53 thiên (chia làm 15 quyển).
2.2. Hoàn cảnh lịch sử Trung Hoa thời cổ đại
Cả hai thời Xâu Thu- Chiến Quốc thì xã hội Trung Hoa chuyển
biến liên tục, do Mặc Tử sống ở đầu thời Chiến Quốc, xã hội loạn lạc
và chuyển biến liên tục có nhiều biến cố, chiến tranh xảy ra liên miên
hơn so với Xuân Thu, ở đời Mặc Tử, trên 80 năm có tới chín vụ nhƣ:
Sở diệt Trần, diệt Ngô, Thái, Kỉ; Việt diệt Cử, Đàm; Triệu, Hàn, Ngụy
diệt Trí Bá;… Do lúc bấy giờ là thời đại đồ sắt trƣớc là ở Ngô, Việt
tìm ra đƣợc sắt và nói cách khác là phát sinh ra thuật luyện sắt , ngƣời
ta dùng sắt để làm lƣỡi cày, lƣỡi liềm, chiếc đục, rìu và sau này là binh
khí… nhờ đó mà sức lao động giảm, năng suất tăng (vì lƣỡi cày sắt
bén và tốt hơn gỗ, đồng) đào kênh khai thông nƣớc nên cây cối phát
triển tƣơi tốt nhờ đó nông nghiệp và công nghiệp phát triển, kinh tế
phát triển mạnh hơn so với thời trƣớc (thời Ân dùng lƣỡi cày bằng gỗ,
thời Tây Chu dùng lƣỡi cày bằng đồng đỏ, và cả hai vật liệu này thì
không thể cày sâu vào đất đƣợc, chỉ là cào đƣợc lớp mặt phía trên và
làm cho cây cối trồng trọt không thể bén sâu rễ mà tốt đƣợc) thì nhu
cầu mở cõi tăng, địa chủ có quyền, quý tộc tăng lên, nông dân thì bị
bóc lột hơn. Vào thời này, phuông tiện giao thông đƣợc cải thiện, nhu
cầu trao đổi buôn bán ngày càng mạnh hình thành nên những trung
tâm thành thị, đƣờng xá đƣợc xây đắp thêm càng nhiều. Sự cản trở của
biên giới, hàng rào thuế quan làm cho lƣu thông hàng hóa chậm lại, từ
đó nhu cầu thống nhất Trung Hoa cổ đại ngày càng tăng dẫn đến chiến
tranh xâm lƣợc, xảy ra liên miên và để lại nhiều hậu quả nặng nề do
sử dụng đồ sắt vào chiến tranh bất kể quy luật nào, nào là chém giết tù
nhân bắt đƣợc, chôn sống lính của kẻ thù, thây chất đầy đồng, hiện
tƣợng ngƣời già, trai tráng đi lính và đàn bà trẻ em làm việc nông để
sản xuất giao cho nhà nƣớc hoa lợi phục vụ chiến tranh là điều diễn ra
không quá mới mẻ và bất ngời ở thời này… mà nhờ vậy Trung Hoa cổ
đại sớm đƣợc thống nhất bởi nhà Tần sau này.
3. Nội dung
Chính trị theo tƣ tƣởng của Trung Hoa cổ đại nói chung đó là
sự sắp đặt, lo liệu, quản lý để xã hội có trật tự và kỷ cƣơng. Trong đó,
28
theo Mặc gia thì chính trị là yêu thƣơng mọi ngƣời và cùng làm lợi
cho nhau, tất cả điều theo sự quản lý của thiên tử từ đó đất nƣớc thống
nhất và trở nên trị. Nhà nƣớc đƣợc xem nhƣ là một đại gia đình, trên
thuận dƣới hòa, thống nhất tƣ tƣởng và yêu thƣơng làm lợi cho nhau.
Đồng thời với những hình thức “chế tài” mà Mặc Tử sử dụng đó là
chế tài về tôn giáo, chế tài chính trị, ngoài ra còn hình thức chế tài về
mặt xã hội buộc mọi ngƣời phải tuân theo.
Trong suốt tƣ tƣởng chính trị của mình thì Mặc Tử luôn đề cặp
đến quan điểm “Kiêm ái” và “Công lợi”, đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
và tạo nên dấu ấn riêng trong tƣ tƣởng của ông trong xã hội đƣơng
thời, ông rất chú ý đến hiệu quả của công việc trong đó ông đề cặp đến
việc lựa chọn ngƣời hiền tài, nguyên nhân làm cho thiên hạ loạn- trị
và những cách thức sinh hoạt đời thƣờng cũng nhƣ là sinh hoạt chính
trị để đi đến xã hội tốt đẹp nhƣ ông luôn hƣớng tới.
3.1. Quan điểm của Mặc Tử về việc thành lập nhà nước thịnh trị
Việc thành lập nhà nƣớc đƣợc ông đề cặp không phải là nguồn
gốc của việc ra đời và hình thành nhà nƣớc đầu tiên mà là những điều
kiện cần có để thành lập một nhà nƣớc thống nhất thịnh trị cho toàn
thiên hạ.
Theo ông, nguyên nhân làm cho thiên hạ loạn đó là do con
ngƣời không tin vào trời- quỷ thần (trời theo Mặc Tử khác so với
Khổng Tử) nên làm điều hại ngƣời, “không làm điều trời muốn mà lại
làm điều trời không muốn, tức là mình dốc xuất trăm họ trong thiên hạ
làm điều gây ra tai họa” [4, tr.391], không yêu ngƣời và đặt lợi ích của
mình lên trên lợi ích của ngƣời và lợi ích chung. Từ đó ông phê phán
thuyết thiên mệnh tuyệt đối của Khổng Tử, trời- quỷ thần theo ông là
nhằm nhấn mạnh tƣ tƣởng chủ đạo của ông để phân biệt những cái tốt-
xấu, phải- trái… để làm khuôn phép trong hành vi của con ngƣời, và
răn đe ngƣời trên kẻ dƣới tuân theo.
Do tính chất cai trị cha truyền con nối, vì lợi ích của giai cấp
mình mà cho ngƣời huyết thống kế tục tiếp nối sự nghiệp, nếu đó là
ngƣời hiền tài theo Mặc Tử thì tốt nhƣng vẫn phải theo cơ chế “tuyển
cử”, còn nếu là ngƣời có vẻ bề ngoài phú quý, xa hoa, nhƣng lại nhu
nhƣợc không đƣợc lòng ngƣời, ngƣời sẽ không phục thì sẽ không cai
trị đƣợc ngƣời và muôn dân trong thiên hạ từ đó thiên hạ sẽ loạn “bề
trên cai trị hễ đƣợc kẻ dƣới đồng tình thì trị, không đƣợc kẻ dƣới đồng
tình thì loạn” [4, tr.171]. Từ đó ông đề cao tính chất thƣợng hiền, lựa
chọn và trọng dụng những ngƣời hiền tài, quân tử phải có nhân nghĩa,
29
hiểu đƣợc mệnh trời và có lòng kiêm ái (lợi ngƣời và yêu ngƣời), phải
hợp lòng dân để đƣợc đƣa lên làm thiên tử làm cho xã hội thái bình và
đó là việc căn bản của chính trị: “ngƣời sang và sáng suốt cai trị kẻ
ngu và hèn thì nƣớc trị; ngƣời ngu và hèn trị kẻ sang và sáng suốt thì
nƣớc loạn” [4, tr.426]. Quả là những điều kiện trên trong xã hội đó thì
giai cấp nông dân, nô lệ thì nhiều, ngƣời bề trên thì ít, mà bề trên hạng
dốt thì nhiều thì lấy đâu ra ngƣời hiền tài? nên việc lƣa chọn ngƣời
hiền tài không có cơ sở xã hội.
Khi con ngƣời ham lợi, hám danh không yêu ngƣời thì sẽ làm
mọi thủ đoạn để đạt đƣợc mong muốn của mình, nhất là bề trên lợi
dụng quyền để gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau, cuộc sống xa hoa
phú quý không tiết dụng trong khi nhân dân vẫn cực khổ chịu đói rét,
lao động cực nhọc, không lo việc nƣớc đối với ngƣời trên, lƣời lao
động đối với kẻ dƣới sẽ làm cho cuộc sống sa sút do con ngƣời chỉ
chú ý đến lễ nhạc mà không tiết dụng, tiết táng.
Từ các nguyên nhân làm cho thiên hạ loạn thì Mặc Tử đề ra
quan điểm cho thiên hạ trị và quản lý xã hội thống nhất theo tiêu chí
của ông, và đây là tƣ tƣởng chủ đạo mà đã đƣợc đề cặp ở phần trƣớc
đó là kiêm ái đi đôi với công lợi là cơ sở của thái bình thịnh trị.
Kiêm ái, theo Mặc Tử khác so với Khổng Tử ở chỗ đó là yêu
mọi ngƣời nhƣ yêu mình, không phân biệt thân sơ, giai cấp quốc gia
dân tộc, (Nho gia thì yêu mọi ngƣời trong gia đình trƣớc rồi mới yêu
ngƣời trong thiên hạ, họ quan trọng hơn ngƣời trong thiên hạ, “kỷ sở
bất dục, vật thi ƣ nhân”: điều mình không muốn thì đừng làm cho
ngƣời khác; Pháp gia thì chú trọng đến pháp luật phải nghiêm minh và
phải cho toàn dân hiểu rõ, mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật,
quan điểm về nhà nƣớc của pháp gia chú trọng đến sự tập trung quyền
lực, mọi ngƣời điều bình đẳng trƣớc pháp luật, thời biến pháp biến;
Đạo gia với thuyết “vô vi” chủ trƣơng trở về thời kì xa xôi trong lịch
sử xa hơn thời của Mặc Tử, về với xã hội bộ lạc nguyên thủy, là quốc
gia nhỏ nơi mà có ít ngƣời sinh sống, không tranh giành với nhau,
không ham muốn tƣ dục, mọi ngƣời sống hiền hành chất phác, thuận
với tự nhiên, có thuyền không dùng, có xe không đi, cá
Kiêm ái là nhân nghĩa, làm lợi cho ngƣời trong thiên hạ, yêu
ngƣời nhƣ yêu mình, yêu nƣớc ngƣời nhƣ nƣớc mình… từ đó không
30
gây ra chiến tranh xâm lƣợc lẫn nhau, xã hội trên thuận dƣới hòa
thuận đồng ý kiến. Nên theo Mặc Tử, “không kiêm ái thì thiên hạ
loạn, kiêm ái thì thiên hạ trị” [1, tr.269], vì theo ông “việc của ngƣời
nhân tức là tạo cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ” [4, tr.374], mà cái hại
lớn nhất là nƣớc lớn chiếm nƣớc nhỏ, kế tiếp là mạnh hiếp yếu. mà
công dụng của kiêm ái thì ai cũng đem tai tinh mắt sáng mà trông cho
nhau, đem tay chân khỏe mạnh mà làm lụng, giúp đỡ lẫn nhau, dạy
bảo nhau, nuôi nấng ngƣời già không có con, trẻ em không có cha mẹ
để phụng dƣỡng hay dạy dỗ. Biệt Mặc khẳng định yêu hết thảy mọi
ngƣời, không biết ngƣời đó ở đâu thì vẫn yêu đƣợc, cũng nhƣ cha mẹ
thất lạc con, không biết nơi đâu mà vẫn cứ thƣơng yêu chúng.
Chủ trƣơng kiêm ái nhƣng giết kẻ bạo loạn, vậy có phải là kiêm
ái không?, theo Mặc tử thì “giết kẻ trộm không phải là giết ngƣời, nên
giết kẻ trộm thì không làm hại lòng kiêm ái” [3, tập 1, tr.383] và vẫn
có thể giết kẻ địch nếu họ tấn công ta. Ngoài ra, Biệt Mặc còn sửa đổi
lại kiêm ái ở chỗ kiêm ái là không phân biệt đẳng cấp nhƣ Mặc Tử đã
đề cập nhƣng phải yêu thƣơng bất đầu từ ngƣời thân trong gia đình
trƣớc, sau đó mới là ngƣời trong thiên hạ, là vì lí do họ là ngƣời thân,
quen biết họ trƣớc nên yêu trƣớc là điều tất yếu và rất chú trọng về
tình cảm, xem tình cảm là động lực giúp con ngƣời gần nhau hơn và
trói buộc ngƣời ta.
Để có điều kiện cho thiên hạ thịnh trị, ông chủ trƣởng trừ bỏ cái
hại và chăm lo chú ý đến lợi ích thiết thực, những lợi ích căn bản của
con ngƣời nhƣ ăn, ở, nghỉ ngơi… từ đó hợp lòng dân và đủ tiện lợi để
không tranh giành nhau “cơ giả đắc thực, hàn giả đắc y, lão giả đắc
tức” [7, tập 1, tr.298] (đói có ăn, rét có mặc, mệt đƣợc nghỉ ngơi).
Nhƣng, cái lợi của ông đƣợc hiểu theo nghĩa là góp của cải của
dân vào việc đóng thuyền, làm xe… cho bề trên để họ đi lại, chở vật
thay cho dân việc gánh vác để họ và dân đỡ mỏi vai lƣng… nhƣ thế
mới có lợi cho cả đôi bên. Điều này mâu thuẫn với chủ trƣơng tiết
dụng của ông là chống sự xa xỉ vô ích, và chằng khác gì cƣớp và bóc
lột của dân. Kiêm ái là gây lợi cho mọi ngƣời và hợp ý trời.
Ngoài kiêm ái công lợi thì theo ông phải theo nguyên tắc
“thƣợng đồng và thƣợng hiền”, hai nguyên tắc này đan xen với nhau,
không thể thiếu và rách rời nhau. Thƣợng đồng là dƣới thuận ý trên và
cao nhất là trời, nhƣng trời làm sao cai quản đời sống của bình dân,
của con ngƣời? Nên trời phải “chỉ định” ngƣời hiền tài để làm thiên tử
thay cho trời để quản lý mọi mặt trong xã hội. Trời hay quỷ thần nói
31
chung thì yêu những điều mình yêu và ghét những điều mình ghét…
trong đó có dân, trời thƣơng yêu dân nhƣ con, nên phải lựa chọn
ngƣời hiền tài, đức độ phải hiểu mệnh trời làm kiêm ái lên làm thiên
tử và thiên tử này phải tránh những điều mà trời- quỷ thần ghét, làm
những điều trời- quỷ thần yêu, trong đó có dân và sẽ tạo đƣợc sự
thống nhất trên thuận dƣới đồng với nhau, thấu tình đạt lý. Trời chỉ
định Thiên tử, nhƣng việc chọn lựa là do ý chí của dân mà ra, cái gì có
lợi cho dân thì làm, không lợi không làm.
Khi chọn đƣợc ngƣời hiền tài làm Thiên tử thì chính sách cai
trị, quản lý xã hội ra sao? Theo Mặc Tử đó là, khi làm bất cứ việc gì
thì cũng phải hiểu rõ nguyên nhân, công dụng của sự việc để phân biệt
phải trái, thiện ác từ đó mới quản lý đƣợc thiên hạ. Ông đặc biệt chú
trọng đến hiệu quả của công việc và dựa vào “tam biểu”: bản,
nguyên, dụng (trong thiên phi mạng thƣợng) hay “tam pháp”: khảo,
nguyên, dụng (trong thiên phi mạng hạ), ở đây “bản” và “khảo” là
một. Cụ thể nhƣ sau: Bản (khảo) là phải noi gƣơng theo các bậc thánh
nhân xƣa nhƣ vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang… phải “ôn cố tri tân”
[7, tập 1, tr.232] lấy việc trƣớc xét việc sau, noi gƣơng mà làm theo.
Nguyên phải xem xét và quan sát thực hành nhƣ thế nào cho phù hợp
với kinh nghiệm của đa số dân chúng. Dụng là căn cứ vào kết quả ứng
dụng, nếu có lợi cho dân thì làm, và biểu này rất quan trọng.
Phải biết xử phạt – khen thƣởng phân minh, thiên tử không
đƣợc hùa với kẻ dƣới mà phải tán đồng, khi nghe tin thấy điều bất
nghĩa- sai trái hay điều có lợi cho dân thì phải hết sức quan sát và tìm
hiểu cho rõ mới xử phạt khen thƣởng cho hợp lý. Hay bề trên có lỗi,
sai sót thì kẻ dƣới sửa sai, kẻ dƣới có điều oan thì bề trên trừ khử cho
“ngƣời trên nếu có việc ẩn, bỏ sót các lợi, kẻ dƣới có thể biết mà làm
lợi cho; kẻ dƣới mà có oan chứa, hại tích, ngƣời trên có thể biết mà trừ
khử họ” [1, tr.272]. Dƣới phải phục tùng tuyệt đối bề trên, vì đây là
thiên tử đƣợc trời chọn lựa và hợp lòng dân nhằm tán đồng và tình ý
thông đạt nhau, làm lợi cho nhau, thế nhƣng những điều thiện ác, phải
trái bất nghĩa… điều do thực tế của đại chúng cần lao quyết định.
Khi sử dụng ngƣời hiền tài - chính sách thu hút tài năng làm
việc thì phải theo ba nguyên tắc: tƣớc cao, lộc hậu, quyết đoán ra lệnh.
Cũng theo ý trên, tùy theo khả năng của họ mà tuyển chọn tam công,
chƣ hầu, chính trƣởng, thể chế quản lý xã hội trên chế độ tuyển cử nên
lúc đó “trăm họ trong thiên hạ sẽ đồng lòng với thiên tử” [5, tr.535],
phép tắc quản lý trong thiên hạ là của công.
32
3.2. Quan điểm của Mặc Tử về chính sách sinh hoạt chính trị đời thường
Để thực hiện thuyết kiêm ái thì cũng cần phải thực hiện chính
sách xã hội khác nhƣ phi nhạc, tiết dụng, tiết táng, phi công… Đối với
Mặc Tử thì nhạc (bao gồm tất cả các mỹ thuật tạo khoái lạc cho con
ngƣời) chẳng đem lại đƣợc lợi ích gì, bởi lẽ “vô ích; tốn của tốn sức;
mất thì giờ làm ăn” [4, tr.226]. Nhạc tự nó chẳng tạo ra đƣợc cái ăn,
cái mặc; không làm cho chiến tranh ngƣng lại và chẳng làm khỏi bệnh
lại tốn của tốn sức (bắt dân tạo ra nhạc khí, đặt điệu múa, ngƣời múa,
mà ngƣời múa muốn múa hay múa đẹp thì phải ăn ngon mới có sức
khỏe, mặc đẹp để múa hay…). Chính vì thế mà ông chủ trƣơng “phi
nhạc”, phê phán nhạc rất mạnh mẽ, cả cuộc đời của ông không dạy và
không nhắc đến khi dạy cho đệ tử của mình về Lễ, Nhạc nhƣ thời
Khổng đã làm.
Về “tiết dụng”, Mặc Tử chủ trƣơng chống sự xa xỉ, vô ích đối
với các thành viên trong xã hội. Chính sách tiết dụng là một kế hoạch
kinh tế xã hội mà trƣớc đó kể cả Khổng Tử vẫn chƣa nói đến, mục
đích của kế hoạch này là làm cho dân đông và nƣớc giàu “ở trong
nƣớc phải chỉ huy sự sản xuất và phân công cho đúng với mức tiêu
thụ” [7, tập 1, tr.342]. Vì nhƣ vậy sẽ không lãng phí sức ngƣời, sức
của và tài sản của dân và mọi ngƣời “dùng tài sản không phí phạm,
sức của dân không mệt mỏi” [7, tập 1, tr.342]. Trong xã hội thì cái gì
thêm tổn phí mà không thêm lợi cho dân thì thánh vƣơng không làm
nhƣ: đóng xe, đồ da, đồ gốm, đồ rèn… hễ cung cấp đủ thì thôi; trong
ăn uống thì no bụng, mạnh khỏe là đƣợc chứ không cần ngon và thơm,
đi tìm món ngon vật lạ; trong cách ăn mặc thì đủ ấm vào đông, mát
vào mùa hè…
Việc tiết táng, đoản táng cũng thế, ông phê phán Nho gia để
tang lâu tới ba năm, suốt ngày chẳng làm đƣợc gì mà còn tổn hại sức
khỏe, mặt mày xanh xao mờ nhạt, chân tay bủn rủn, không thể tự sản
xuất lao động đƣợc mà còn phải ăn nhờ ngƣời khác… Nên chỉ cần “áo
ba bộ đủ để thịt nát, quan tài dày ba tấc đủ để xƣơng nát, huyệt đào
sâu không tới mạch nƣớc để hơi thối khỏi xông lên, thế thôi. Ngƣời
chết đã chôn rồi thì ngƣời sống không rầu rĩ để tang lâu” [4, tr.440-
441], và cũng chẳng nên để tang hậu hĩ chôn đồ vật, của cải, trâu bò,
và cả ngƣời theo ngƣời chết. Nếu trong thƣợng hiền thì Mặc Tử đƣa
dân lên ngang quý tộc, thì trong “tiết dụng”, “phi nhạc” Mặc Tử đƣa
quý tộc xuống ngang dân, quý tộc có thể tự sản xuất chứ không thể
bóc lột nhân dân.
33
Tuy chủ trƣơng tiết dụng, nhƣng Mặc Tử cũng bộc lộ những
hạn chế trong tƣ tƣởng của mình: ông khuyến khích mọi ngƣời lao
động siêng năng nhƣng ít cho nó hƣởng thụ, cứ khuyến khích sản xuất
ra của cải mà ông chẳng hề nói đến hay cho phép ngƣời tiêu dùng.
Trong chích sách sử dụng thƣợng hiền cũng thế, rằng phải tƣớc cao,
hậu lộc, nhƣng câu hỏi đặt ra ở đây là hậu lộc đó đƣợc khen thƣởng để
dùng vào việc gì khi ông luôn khuyến khích phi nhạc, tiết dụng?
Trong thiên “Phi công”, Mặc Tử kịch liệt phản đối chiến tranh,
và “chủ trƣơng trừ hại cho thiên hạ, giết kẻ bạo loạn” [7, tập 1, tr.301].
Với ông, chiến tranh chẳng có lợi cho cả đôi bên, “quốc gia khởi việc
binh đao, đoạt cái dùng của dân, làm hỏng cái lợi của dân, việc nhƣ
thế xảy ra rất nhiều”, “sinh hoạt ở thời chiến, chỗ ở không đƣợc yên,
ăn uống thất thƣờng khi no khi đói, trăm họ bị tật bệnh mà chết chẳng
thể đếm xuể, còn quân lính bị chết trên trận cũng chẳng đếm xuể
đƣợc” [4, tr.565]. Việc xuất binh cũng không phù hợp với thời tiết
mùa vụ: mùa đông thì lạnh, mùa hè thì nóng, mùa xuân thì dân cày
cấy, mùa thu thì thu hoạch, nếu vậy thì chẳng khác nào đƣa dân vào
chỗ chết? Với lại, phải huy động mọi lực lƣợng có thể để tham gia vào
cuộc chiến nhƣ: ngƣời, của cải, gia súc… mà khi về nƣớc thì tiêu điều
hết thảy.
Tuy lên án chiến tranh, nhƣng Mặc Tử lại đề cao chiến tranh
chính nghĩa hay chiến tranh tự vệ, xây dựng thành quách để để bảo vệ
đất nƣớc, mở rộng phạm vi vũ trang hòa bình, kêu gọi các nƣớc chƣ
hầu đoàn kết với nhau cùng lo và cùng giúp đỡ lẫn nhau khi bị đe dọa
xâm lƣợc hay xâm lƣợc về sức ngƣời, sức của… Nếu các nƣớc mạnh
hiếp yếu, cậy cƣờng quyền mà xâm lƣợc nƣớc nhỏ yếu thì đó là tàn ác
và bất nghĩa, nhƣ thế sẽ trái với ý trời và sẽ bị trừng phạt.
4. Đánh giá sơ bộ về tƣ tƣởng chính trị của Mặc gia
Những tƣ tƣởng chính trị của Mặc Tử về kiêm ái, phi nhạc, tiết
táng, phi công… ít đƣợc các học trò của ông bàn tới sau khi ông mất
mà tập trung nhiều vào các vấn đề về tri thức luận, về khoa học
thƣờng thức thông qua sách Mặc Kinh. Tuy không phát triển rực rỡ
nhƣ giai đoạn trƣớc và vấp phải những hạn chế nhất định, song nhìn
chung Mặc gia, trong suốt quá trình tồn tại của nó đã có những đóng
góp nhất định với quá trình vận động của hệ tƣ tƣởng phong kiến
Trung Hoa.
Vì xuất thân trong giai cấp bình dân nên Mặc Tử đã bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp mình và đề cao nhân dân, lao động. Khuyến
34
khích mọi ngƣời giúp đỡ lẫn nhau không phân biệt thân sơ, giai cấp,
chăm lo lợi ích cho con ngƣời, phê phán tính chất cha truyền con nối
(của Khổng Tử) đang diễn ra rất mạnh ngay thời ông đang sống và
mạnh dạn chủ trƣơng tuyển chọn ngƣời hiền tài thông qua cơ chế
tuyển cử để làm Thiên tử một cách triệt để. Đây là tƣ tƣởng tiến bộ
của ông về hình thức dân chủ thời bấy giờ. Tuy vẫn còn mang tính
chất duy tâm, nhƣng những tƣ tƣởng của ông đã phê phán thuyết định
mệnh gay gắt, khẳng định vận mệnh của con ngƣời tự quyết định ở
chữ “tự cƣờng”, họa phúc do con ngƣời tạo ra và quyết định lấy, bên
cạnh đó thì vẫn có yếu tố duy vật.
Với học thuyết của mình ông lên án chiến tranh, ca ngợi hòa
bình, muốn xây dựng lại xã hội Đại Vũ nhà Hạ mặc dù đó là xã hội
thời trƣớc ông. Với tƣ tƣởng của thời đại chất phác sơ khai nhƣng tƣ
tƣởng của ông vẫn để lại dấu ấn cho đến ngày nay nhƣ vấn đề dân chủ
là một điều hiếm gặp lúc bấy giờ, tƣ tƣởng đó đã tạo nền tảng cho
nhiều triết gia về sau định hƣớng tƣ tƣởng và chính sách đặc biệt là
phƣơng Đông, trong đó có Việt Nam.
Mặc Tử cũng thấy đƣợc vai trò của việc tập trung sản xuất kinh
tế tạo điều kiện tiền đề cho sự ổn định tình hình trong nƣớc, từ đó
nƣớc sẽ trị, khi nƣớc trị và thực hiện kiêm ái, liên kết các nƣớc lại với
nhau nhằm chống lại sự bành trƣớng đe dọa của các nƣớc khác, đặc
biệt là nƣớc lớn.
Bên cạnh những đóng góp nhất định trong tiến trình vận động
của hệ tƣởng Trung Hoa nói riêng và phƣơng Đông nói chung, nhƣng
học thuyết của Mặc Tử cũng không tránh khỏi những hạn chế của lịch
sử lúc bấy giờ.
Mặc tử dù không tin vào mệnh trời, nhƣng Mặc Tử lại rơi vào
lập trƣờng duy tâm khi tin ở trời, tin vào quỷ thần mà không có căn cứ
xác đáng, chỉ dựa vào thời xƣa thuật lại. Hơn nữa, trong học thuyết
của mình, ông yêu cầu ngƣời dân phải phục tùng vào Thiên tử một
cách tuyệt đối. Ông cũng chủ trƣơng sống khắc khổ và muốn khôi
phục lại xã hội nguyên thủy nhà Hạ là điều không thể vì ông chƣa thấy
đƣợc nhu cầu tất yếu về tiến bộ, về văn minh xã hội, chƣa thấy đƣợc
sự vận động tự thân của sự việc… nếu không sẽ đi trái ngƣợc lại.
Thuyết kiêm ái của ông phần giống với tƣ tƣởng của Khổng
Tử, nhƣng Mặc Tử thì không chú trọng tình cảm gia đình, kể cả tình
cảm thầy trò môn đệ vì lẽ đó mà ông bị Mạnh Tử bảo là không có tình
cha con là vậy, về sau đƣợc phái Biệt Mặc sửa lại gọi là thuyết “luân
35
liệt” yêu thƣơng mọi ngƣời nhƣ nhau không phân biệt nhƣng yêu
ngƣời trong gia đình trƣớc.
Những tƣ tƣởng chuẩn mực cả về đạo đức và chính trị bị pha
trộn của một bên là lực lƣợng siêu nhiên (trời, quỷ thần) và một bên là
con ngƣời. Đồng thời ông cũng không thấy đƣợc nhu cầu của con
ngƣời mà theo ông là do giới cầm quyền quyết định (nhƣ Văn Công
nƣớc Tấn yêu thích những ngƣời mặc áo xấu, nên toàn dân mặc áo
vải, giày thô…), rõ ràng ông đã thủ tiêu mọi tự do của con ngƣời trong
việc lựa chọn sở thích của họ, những nguyên tắc không phụ thuộc vào
ý muốn của ngƣời cầm quyền mà phụ thuộc vào đời sống hiện thực
của các hành động và của ngƣời dân. Thấy sản xuất của cải vật chất là
nền tảng quyết định đời sống xã hội nhƣng thuyết kiêm ái, tiết dụng
của ông dƣờng nhƣ đã bác bỏ, rằng con ngƣời cũng có nhu cầu, thích
hƣởng lợi và khi có điều kiện thì hƣởng thụ.
Ông quá đề cao thánh nhân, phải noi gƣơng theo thánh nhân,
nhƣng thánh nhân nào bắt con ngƣời, thần dân của mình chịu cực khổ
nhƣ thế đƣợc?, vì hoàn cảnh lịch sử va điều kiện kinh tế xã hội của các
thánh nhân lúc đó là lạc hậu, sơ khai hơn rất nhiều so với thời của Mặc
tử (thời kỳ đồ sắt) năng suất cao hơn, phát triển hơn thì con ngƣời cũng
phải thay đổi về sự tiêu dùng hơn. Có lẽ thánh nhân buộc dân chúng
thời đó tiết dụng giống Mặc bây giờ là do điều kiện còn eo hẹp, buộc
con ngƣời phải sản xuất lao động nhiều hơn, có mà không đƣợc ăn, để
lo cho đất nƣớc?, nếu kinh tế thời của thánh nhân nhƣ thời của Mặc thì
chắc họ cũng không tiết dụng quá mức giống nhƣ Mặc đã nêu.
5. Kết luận Nhìn chung, học thuyết của Mặc Tử có đôi nét trùng với Khổng
Tử, tuy vẫn còn hạn chế nhất định nhƣng vân có những điểm tích cực
và đƣợc thời đại ngày nay công nhận. Với học thuyết của mình thì
Mặc Tử là một trong những đóa hoa đẹp rực sáng trong rừng hoa của
thời đại “bách gia tranh minh” bởi vì những dấu ấn cả về hành động
và tƣ tƣởng của ông đƣợc mọi ngƣời đánh giá cao kể cả kẻ thù của
mình, một ngƣời luôn lao tâm lao lực yêu thƣơng mọi ngƣời và ƣớc
muốn xây dựng xã hội lý tƣởng tốt đẹp.
36
Tài liệu tham khảo
[1]. Doãn Chính (2003), “Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ
đại”, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội.
[2]. Vũ Đình (1998),”Đạo đức học phương Đông cổ đại”, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[3]. Phùng Hữu Lan (2006), “Lịch sử triết học Trung Quốc, Tập
1&2”, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[4]. Nguyễn Hiến Lê (1995), “Mặc học (Mặc Tử và Biệt Mặc)”, Nxb.
Văn hóa, Hà Nội.
[5]. Phạm Quýnh (2000), “Bách gia chư tử - Giản thuật”, Nxb. Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
[6]. Hồ Thích (2004), “Trung Quốc triết học sử đại cương, Tập 1 &
2”, Minh Đức dịch, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
[7]. Nguyễn Đăng Thục (1997),”Lịch sử triết học phương Đông - Tập
1”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
37
QUAN NIỆM CỦA JOHN LOCKE VỀ TỰ DO TRONG TÁC
PHẨM KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN
SV: Nguyễn Thành An
Lớp: ĐHGDCT13
GVHD: CN. Phùng Ngọc Tiến
Tóm tắt: John Locke (1632 -1704) là một trong những triết gia vĩ đại
nhất của châu Âu thế kỷ XVII. Những tư tưởng về tự do, dân chủ, về
sự phân quyền nhà nước của ông đã ảnh hưởng sâu rộng đến nền triết
học chính trị và chính trị học nhân loại đến tận ngày hôm nay. Trong
khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ trình bày tư tưởng tự do của ông
trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.
Từ khóa: chính quyền, John Locke, tự do.
1. Mở đầu
Sau thời gian dài cả châu Âu chìm sâu trong “đêm trƣờng
Trung cổ”, nhu cầu về thiết lập một trật tự xã hội mới mà ở đó con
ngƣời đƣợc giải phóng khỏi những giáo điều của nhà thờ và đƣợc tôn
trọng về quyền tự do đã trở thành nhu cầu bức thiết đối với xã hội
đƣơng thời. Sự xuất hiện của các nhà khai sáng với những đóng góp
trong lĩnh vực triết học, văn học, pháp luật, xã hội học..., đều hƣớng
tới xây dựng một xã hội “tự do, bình đẳng, bác ái”. Trong dòng chảy
đó của lịch sử, không thể không nhắc tới John Locke.
Theo Marx, “chủ nghĩa duy vật Pháp có hai phái: một phái bắt
nguồn từ Descartes, một phái bắt nguồn từ Locke, trong đó phái thứ
hai là một yếu tố của văn hóa Pháp và trực tiếp dẫn tới chủ nghĩa xã
hội” [2, tr.191]. Nhận định đó của Marx phần nào nói lên vị trí của
Locke trong tƣ tƣởng chính trị xã hội – cận đại.
Nói đến John Locke, ngƣời ta biết đến ông nhƣ là một ngƣời
đầu tiên xác lập học thuyết phân quyền đặt nền móng cho lý luận xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền hiện đại. Bên cạnh đó, tác phẩm “Khảo
luận thứ hai về chính quyền” của ông đƣợc xemnhƣ là một tiền đề lý
luận của phong trào Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, với những tƣ tƣởng
tiêu biểu về tự do, dân chủ, về khế ƣớc xã hội…
2. Nội dung
2.1. Quan điểm của John Locke về tự do trong tác phẩm Khảo luận
thứ hai về chính quyền
38
John Locke (1632 – 1704) là nhà triết học, nhà hoạt động
chính trị ngƣời Anh. Ông là nhà triết học theo trƣờng phái chủ
nghĩa kinh nghiệm Anh trong lĩnh vực nhận thức luận. Qua các tác
phẩm của mình, Locke luôn đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên
chế và có những đóng góp lớn đối với chủ nghĩa tự do cả về mặt cá
nhân lẫn thể chế.
John Locke sinh ở Wrington, một làng nhỏ ở Somerset, vào
ngày 29 tháng 8 năm 1632. Ông sinh trƣởng trong một gia đình Thanh
giáo, là con trai của một chủ đất nhỏ hành nghề luật sƣ tại nông thôn.
Năm 1646, ông vào học trƣờng Westminter tại London và học tiếp lên
trƣờng Christ Church của Đại học Oxford năm 1652. Ông nhận học vị
cử nhân vào tháng hai năm 1656, thạc sĩ văn chƣơng vào tháng sáu
năm 1658. Tại Christ Church, sau khi đƣợc chọn là giảng viên tiếng
Hy Lạp và giảng viên môn hùng biện, Locke quyết định tiếp tục theo
học ngành y.
Lựa chọn này đem lại cơ hội cho Locke kết bạn với bác sĩ
David Thomas. Từ quan hệ bạn bè và công việc này, Locke có dịp tiếp
xúc với Lord Ashley, một trong những ngƣời giàu có nhất nƣớc Anh
và có chân trong chính quyền nƣớc này. Những năm 1670 và 1680,
Locke trở thành thƣ ký ủy ban Thƣơng mại và Thuộc địa của Ashley
và nhanh chóng hòa nhập vào những tƣ tƣởng và kế hoạch cấp tiến
của con ngƣời này.
Năm 1674, sau khi Ashley rời khỏi chính quyền, Locke quay
lại Oxford hoàn tất chƣơng trình y khoa và sang Pháp. Khi Ashley
quay trở lại vũ đài chính trị thì ông cũng quay trở lại Anh năm 1679.
Sau đó do sợ bị nghi ngờ dính đến âm mƣu ám sát nhà vua do Đảng
Quê hƣơng của Ashley tiến hành, ông quyết định sang Hà Lan vào
năm 1683.
Loạt các tác phẩm lừng danh định hình nên vị thế của Locke
trong lịch sử tƣ duy nhân loại nhƣ: : “Lá thƣ về lòng khoan dung”,
“Luận về sự hiểu biết của con ngƣời”, “Khảo luận thứ hai về chính
quyền”, đƣợc công bố không lâu sau thời điểm thành công của Cách
mạng Vinh Quang 1688.
Năm 1696, Ủy ban Thƣơng mại đƣợc phục hồi và Locke tiếp
tục công việc tại đó nhƣ một ngƣời có vai trò quan trọng bậc nhất.
39
Năm 1700, Locke hồi hƣu và mất ngày 28 tháng Mƣời 1704 vì chứng
hen suyễn.
Đối với Khảo luận thứ hai về chính quyền, đây là tác phẩm
đƣợc J. Locke trình bày một cách đậm nét nhất quan điểm của ông về
tự do. Điều đó đƣợc thể hiện qua tƣ tƣởng về trạng thái tự nhiên và
khuynh hƣớng đối lập với nó, trạng thái nô lệ.
2.1.1. Về trạng thái tự nhiên
Theo John Locke, trạng thái tự nhiên là “trạng thái mà mọi
ngƣời tồn tại một cách tự nhiên trong đó, là một trạng thái tự do hoàn
hảo, để sắp xếp cho hành động, sắp đặt tài sản và cá nhân theo những
gì mà họ cho là thích hợp, trong khuôn khổ của luật tự nhiên mà
không cần hỏi xin phép hay lệ thuộc vào ý chí của bất kỳ ai” [1, tr.33].
Đó cũng là một trạng thái bình đẳng khi mà quyền lực và quyền
thực thi công lý không ai nhiều hơn ai. Cùng là một loài ngƣời thì dù
sinh ra trong hoàn cảnh, điều kiện nhƣ thế nào thì tất cả đều bình
đẳng. Cá biệt chỉ có trƣờng hợp: một vị chúa tể hay ở đây có thể hiểu
là Chúa, với sự thể hiện ý chí của Ngài là cho phép vị trí của ngƣời
này lớn hơn ngƣời khác. “Vị chúa tể… bằng sự tuyên bố rõ ràng ý chí
của Ngài – đặt ngƣời này lên trên ngƣời khác” [1, tr.33].
Nhƣng dù là mọi ngƣời đều tự do và bình đẳng nhƣ nhau. Điều
này cũng không đồng nghĩa với việc chúng ta muốn làm gì thì làm,
đây không phải là một trạng thái lộn xộn, tất cả đều phải tuân theo một
khuôn khổ chung về quy tắc ứng xử - luật tự nhiên. Luật tự nhiên cho
phép mọi ngƣời bình đẳng, tự do trong việc sắp đặt con ngƣời hay tài
sản của mình, đồng thời cũng ngăn cấm mọi ngƣời tự do hủy diệt bản
thân hay làm việc đó đối với một sinh vật bất kỳ thuộc tài sản của họ.
Điều đó là càng sai trái khi thực hiện đối với ngƣời khác. Vì theo
Locke, con ngƣời là tuyệt tác của một đấng Sáng tạo toàn năng và
thông thái vô hạn; tất cả đƣợc sai phái vào thế giới này do lệnh của
Ngài và làm việc cho Ngài.
Ở đây, chúng ta lại càng không thể có suy nghĩ tiêu cực rằng
chúng ta sinh ra đã là những sinh vật thấp kém, là một công cụ cho
ngƣời khác sử dụng.“Không thể giả định bất kỳ sự lệ thuộc nào giữa
những con ngƣời chúng ta, nghĩa là có thể trao quyền cho ta đi hủy
diệt ngƣời khác, hoặc nhƣ thể chúng ta đƣợc tạo ra để cho ngƣời khác
sử dụng, giống nhƣ những sinh vật ở hạng thấp kém hơn” [1, tr.36].
40
Theo Locke, từ đây xuất hiện một cặp quyền lợi để bảo đảm
cho những điều trong luật tự nhiên đƣợc thực hiện. Đó là quyền bảo
toàn chính mình và bảo toàn cho toàn thể loài ngƣời còn lại. Theo luật
tự nhiên thì chúng ta không thể lấy đi hoặc làm suy yếu sinh mệnh
ngƣời khác. Nhƣng nếu việc làm đó là để thực hiện công lý với kẻ
xâm phạm đến quyền tự do quy định trong luật, giết một ngƣời nhằm
ngăn chặn những ngƣời khác có hành vi giống nhƣ vậy, thì việc làm
đó là cần thiết. “ Mỗi ngƣời đều có quyền tiêu diệt một tên tội phạm
nhƣ vậy sau khi hắn đã sát hại em trai của mình” [1, tr.42]. “Nợ máu
phải trả bằng máu”. Bằng việc vi phạm luật tự nhiên, ngƣời vi phạm
đã tự tách mình ra khỏi đời sống, hành vi của anh ta đã ngầm tuyên bố
rằng “mình sống bằng quy tắc khác thay cho quy tắc của lý trí và bình
đẳng cộng đồng,vốn là tiêu chuẩn mà Thƣợng đế đã sắp đặt cho hành
động con ngƣời” [1, tr.38].
Mà theo đó, nếu nhƣ chúng ta phán xử đúng trong quá trình
trừng phạt ngƣời xâm phạm, tức hành xử trong quyền hạn của mình,
bằng sự bình tĩnh, lý trí, lƣơng tâm thì anh ta hoàn toàn vô tội. Dù việc
đó đã phần nào xâm phạm đến cái tự do, bình đẳng theo luật tự nhiên
của ngƣời xâm phạm.“Mỗi ngƣời đều có quyền trừng phạt ngƣời vi
phạm, và đều là ngƣời chấp pháp của luật tự nhiên” [1, tr.38].
“Ngƣời chấp pháp”: giống nhƣ những luật khác, luật tự nhiên
sẽ vô hiệu nếu nhƣ không một ai trong trạng thái tự nhiên có quyền
thực thi luật đó. Ở đây, trong trạng thái hoàn hảo này, việc thực thi
luật dành cho tất cả mọi ngƣời. Tức là chỉ cần phát hiện một hành vi
gây phƣơng hại, thì mọi ngƣời đều có quyền trừng phạt. Theo đó, đối
với ngƣời bị phƣơng hại, bên cạnh quyền trừng phạt chung thì anh ta
còn có quyền tìm kiếm sự bồi thƣờng thiệt hại từ ngƣời gây hại. Đồng
thời, bất kỳ cá nhân nào nhận thấy điều đó là đúng, đều có thể liên kết
với ngƣời bị phƣơng hại và trợ giúp họ trong việc giành lại từ kẻ vi
phạm những đến bù thõa đáng so với sự tổn hại mà anh ta đã chịu.
Quyền trừng phạt và quyền đòi bồi thƣờng thiệt lại là những
công cụ hữu ích để duy trì trạng thái tự nhiên một cách hoàn hảo. Từ
hai quyền này, có thể suy ra về việc cai trị. Ở một số nơi, quyền trừng
phạt có thể đƣợc miễn trừ nếu nhƣ nơi đó không đòi hỏi thực thi pháp
luật. Nhƣng quyền đòi bồi thƣờng thì không, không thể lợi dụng chức
quyền để miễn trừ luôn quyền đòi bồi thƣờng thiệt hại vì chỉ có chính
41
cá nhân ngƣời bị phƣơng hại mới có thể quyết đinh có miễn trừ quyền
đó không với trƣờng hợp của cá nhân mình.
Với cùng lý do là để duy trì trạng thái tự nhiên, quyền trừng
phạt có dành cho cả những vi phạm nhỏ hơn, mỗi ngƣời vi phạm đều
sẽ bị trừng phạt đến một mức độ mà đảm bảo sẽ khiến cho ngƣời vi
phạm ở vào vị thế mặc cả yếu ớt và khiến ngƣời khác kinh hãi mà
tránh những hành động giống nhƣ vậy.
Đối với trạng thái tự nhiên, thì mỗi ngƣời đều có quyền lực
hành pháp của tự nhiên, điều này, sẽ dễ khiến cho con ngƣời ta vin
vào đó mà có sự thiên vị, thiên vị cho bản thân, gia đình, bạn bè. Bên
cạnh đó, bản tính xấu , sự xúc động, thiếu kiềm chế, thù hằn sẽ đƣa họ
vƣợt quá xa khi thực hiện quyền trừng phạt đối với ngƣời khác. Kéo
theo đó, là sự hổn độn, rối loạn. Chính Locke cũng thừa nhận điều
này, và ông cũng dễ dàng chấp nhận một hình thức thay thế đúng đắn
là chính quyền dân sự có thể bổ khuyết cho những bất tiện của trạng
thái tự nhiên. Nhƣng vấn đế cũng vẫn chƣa đƣợc giải quyết khi chính
quyền dân sự, mà đứng đầu là những ông vua, quan tòa, họ cũng là
con ngƣời, cũng sẽ dễ dàng thiên vị, thiếu kiếm chế. Cần thiết ở đây
chính là một công cụ để kiềm chế tính thiên vị và bạo lực của con
ngƣời mà những nhà phản đối trạng thái tự nhiên không đƣa ra đƣợc.
Đánh giá chủ quan về chủ thuyết của John Locke, ta có thể thấy
một điều xuất hiện xuyên suốt trong chủ thuyết của ông, đó chính là hình
ảnh của Đấng tối cao hay Chúa. Chúa là ngƣời ban hành luật tự nhiên,
những công dân trong trạng thái tự nhiên cũng là sản phẩm của Ngƣời.
Điều này đến từ việc Locke là một ngƣời đứng về phía thần luận, là một
ngƣời có xu hƣớng duy lý hóa Christo giáo. Bên cạnh đó, nếu đối chiếu
lại với thực tiễn thế giới hiện nay, ta có thể thấy sự vƣợt thời đại trong tƣ
tƣởng mới mẻ về tự do của mình. Tự do nhƣng trong khuôn khổ, tự do
gắn liền với những quyền lợi cá nhân, đặc biệt là quyền sở hữu, hoàn
toàn không khác biệt nhiều so với thời đại ngày nay.
2.1.2. Về tình trạng nô lệ
“Quyền tự do tự nhiên của con ngƣời, là sự tự do trƣớc bất kỳ
quyền lực cao hơn nào nơi trần thế và không chịu sự chia phối của ý
chí hay thẩm quyền lập pháp, mà chỉ có luật tự nhiên làm quy tắc cho
họ” [1, tr.57]. Nhƣ đã nói ở trên, mỗi ngƣời đều có quyền đối với
mạng sống của bản thân mình, không thể chấp nhận suy nghĩ trở thành
42
một sinh vật thấp kèm, làm công cụ cho ngƣời khác. Nhƣng giờ đây,
họ phải đối mặt với một hiện thực đó chính là sự nô lệ.
Nô lệ: “với điều kiện hoàn hảo của mình vốn không khác gì
ngoài một trạng thái chiến tranh đƣợc tiếp giữa ngƣời đi chinh phạt
hợp pháp với ngƣời bị bắt” [1, tr.59]. Lúc này đây, chẳng còn một sự
tự do nào hết. Ngƣời nô lệ không có thể đƣợc cho thêm bất cứ quyền
gì hơn chính những thứ họ có. Họ đánh mất đi cuộc sống của mình,
phải đi giao phó sinh mạng của mình cho ngƣời khác. Ngƣời chủ nô lệ
có thể trì hoãn việc lấy đi sinh mạng của họ hoặc dùng họ để phục
dịch riêng cho mình. Thật sự đã hoàn toàn đi ngƣợc lại với luật tự
nhiên khi giờ đây đã không còn sự tự do, bình đẳng, ngƣời nô lệ phải
đặt mình ở một vị thế thấp hơn, trở thành một thứ công cụ.
Nhƣng những việc đó không gây thƣơng tích cho những ngƣời
nô lệ, nhƣng sẽ ảnh hƣởng nặng đến tinh thần. Đến một lúc nào đó, họ
sẽ tự tìm đến cách giải thoát cuối cùng cho mình là cái chết. Điều này,
lại đi ngƣợc lại với luật tự nhiên khi về bảo toàn bản thân. Theo
Locke, để chấm dứt tình trạng này cần một giao ƣớc. Khi giao ƣớc
đƣợc ký kết, trao quyền lực có giới hạn cho một bên và đặt sự thuần
phục vào phía kia, thì tình trạng nô lệ sẽ chấm dứt. Khi không ai có
thể, “bằng sự thõa thuận, chuyển sang cho ngƣời khác cái mà bản thân
anh ta không tự có, là một quyền đặt trên sinh mạng của chính mình.”
[1, tr.59]. Điều này nói ra thật sự rất không tƣởng, vì cách mà Locke
đề xuất chấm dứt tình trạng nô lệ thật ra cũng chỉ là chấm dứt tình
trạng nô lệ trên danh nghĩa mà thôi, chứ không giải quyết đƣợc thấu
đáo vấn đề. Về bản chất ngƣời nô lệ vẫn mất đi những quyền tƣ do của
mình theo luật tự nhiên.
2.2. Ảnh hưởng của John Locke tới quan điểm tự do trong phong
trào Khai sáng
Về cơ bản không phải đến J. Locke, các quan điểm về tự do
mới đƣợc trình bày. Lịch sử đã chứng minh, quan điểm về tự do hay
nói rộng hơn là các tƣ tƣởng về quyền con ngƣời đã xuất hiện từ rất
lâu rồi. Nhƣ bộ luật Hammurabi, là văn bản pháp luật thành văn đầu
tiên của nhân loại nói đến quyền con ngƣời năm 1789 TCN (mặc dù
quan điểm này không đƣợc tất cả các học giả ủng hộ) hay Bộ luật của
vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 – 529 TCN.
43
Đến giai đoạn Khai sáng, các quan điểm về tự do đƣợc đề cập
nhiều hơn, hệ thống hơn và khái quát hơn, một phần xuất phát từ đặc
điểm riêng biệt của trƣờng phái này: “Khai sáng là một kiểu thế giới
quan và triết học đặc biệt, đặc trƣng cho đời sống văn hóa châu Âu và
Mỹ ở thế kỷ XVIII. Đặc điểm nổi bật của nó là định hƣớng chống
phong kiến, chống lại một nền chuyên chế, mong muốn xây dựng
chƣơng trình cải tạo xã hội và hình thành lý tƣởng mới về con ngƣời”
[3, tr.195].Nhƣng bên cạnh đó, cũng chính là sự kế thừa những tiền đề
lý luận về tự do của Locke. Tự do và các quan điểm khác trở thành vũ
khí lý luận sắc bén trong cuộc đấu tranh đó.
Bàn về quan điểm tự do, chúng ta có thể nhắc đến Voltaire với
tuyên ngôn: tự do – bình đẳng – sở hữu. Nhƣng nổi bật thì vẫn phải
nói đến bộ đôi tác phẩm “Tinh thần pháp luật” và “Khế ƣớc xã hội”
của hai tác giả Montesquier và Jean-Jacques Rousseau.
Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquier trên cƣơng
vị là một luật sƣ ngoài việc đề cập đến những vấn đề pháp luật, ông
còn bàn về tự do. Theo ông, phần thiêng liêng nhất, quí giá nhất của tự
nhiên nơi con ngƣời, là tự do. Tự do cao cả thống nhất với lý trí, với
thiên tính và nhân tính.
Về lý trí, Montesquier cho rằng: một ngƣời công dân vô tội
không còn đƣợc đảm bảo an ninh nữa thì không còn đƣợc tự do.
Không đƣợc đảm bảo an ninh ở đây là chỉ việc ngƣời dân dễ dàng bị
khép tội mà không đƣợc sự suy xét rõ ràng của ngƣời phán xét. Theo
ông, không thể lấy lời nói để khép ngƣời ta vào trọng tội, luật bao giờ
cũng chỉ nên trừng phạt những hành động đã thể hiện ra. Khép ngƣời
ta tội tử hình, mà chỉ cần một nhân chứng chứng minh vô tội đã là trái
với tự do.
Với thiên tính, xuất phát từ quan điểm con ngƣời tự nhiên có
trƣớc con ngƣời xã hội. “Để hiểu đƣợc luật của thiên nhiên thì phải
xem xét một con ngƣời trƣớc khi hình thành xã hội” [4, tr.40].
Montesquier đề cập đến những luật của tự nhiên đã tạo ra sự tồn tại
của chúng ta. Luật thiên nhiên đƣa vào đầu óc chúng ta ý niệm về
đấng tạo hóa.
Ông cho rằng, trong trạng thái tự nhiên, mỗi ngƣời đều cảm
thấy thấy thấp kém và ai cũng nhƣ mình, nên họ không tìm cách tấn
công nhau và hòa bình là luật tự nhiên đầu tiên. “Trong trạng thái đó,
44
mỗi ngƣời đều thấy mình thấp kém và hầu nhƣ thấy ai cũng nhƣ mình.
Họ không tìm cách tấn công nhau, và hòa bình là luật tự nhiên đầu
tiên” [4, tr.41]. Sau đó, những cảm giác gắn liền với nhu cầu sống gắn
liền với cảm giác về sự yếu đuối của mình khiến nảy sinh quy luật con
ngƣời phải tự tìm cách để nuôi sống bản thân là luật thứ hai. Qua đây,
ông cũng đã gián tiếp đề cập những khía cạnh tự do nhƣ tự do chung
sống hòa bình, tự do sản xuất để nuôi sống bản thân.Về nhân tính, tự
do về nhu cầu sống lại gần nhau trên cơ sở luật thứ ba về tình yêu
chân chính và luật thứ tƣ sống thành xã hội. Ông cho rằng, “Sự thích
thú của hai con vật đƣợc sống với đồng loại,nhất là khi con đực và con
cái gần nhau thì sự thích thú càng tăng lên. Vì vậy luật thứ ba là lời
cầu khẩn tự nhiên mà luôn luôn nam nữ thƣờng nói bên nhau.” Và
“Con ngƣời còn cần có kiến thức. Đó là mối liên hệ giữa con ngƣời
mà con vật không có. Cho nên nguyện vọng đƣợc sống thành xã hội là
luật thứ tƣ” [4, tr.42].
Có thể thấy, tƣ tƣởng của Locke đã ảnh hƣởng rất nhiều đến
tƣ tƣởng về tự do của Montequier, khi ông cũng đề cập đến luật tự
nhiên, nhƣ là luật của Thƣợng đế sáng tạo ra. Con ngƣời trong
khuôn khổ của luật ấy cũng đƣợc tự do làm những thứ mà họ cho là
phù hợp: tự do làm việc cùng nhau, tự do chung sống, cố kết thành
xã hội.
Về Rousseau – nhân vật cấp tiến nhất trong số các nhà khai
sáng Pháp, trong tác phẩm “Khế ƣớc xã hội” của mình, ông đã mở
đầu: “Ngƣời ta sinh ra tự do, nhƣng rồi đâu đâu con ngƣời cũng sống
trong xiềng xích” [5, tr.52] Ông đã lý giải bằng giả định, con ngƣời
trong tự nhiên nhƣng gặp phải nhiều thử thách quá lớn, không thể
vƣợt qua. Sự tự do thực sự cần thiết nhƣng cũng có thể bị lạm dụng và
đƣa đến tình trạng mất an ninh. Một ngƣời sử dụng quyền tự do của
mình thái quá để lo cho quyền lợi cá nhân có thể gây nguy hại cho
quyền lợi của nhiều ngƣời khác. Tuy là sự tự do có thể bị lạm dụng
trong trạng thái tự nhiên nhƣng con ngƣời cũng không bị nhiều thiệt
hại nhƣ khi con ngƣời chấp nhận từ bỏ quyền tự do để đƣợc một cá
nhân hay một nhóm lãnh đạo độc tài bảo vệ an ninh.
Theo Rousseau, con ngƣời có thể giữ đƣợc quyền tự do và vẫn
đƣợc bảo an nếu con ngƣời biết tôn trọng pháp luật do chính họ lập ra.
Ông không đòi hỏi con ngƣời phải giao tất cả nhân quyền cho chính
phủ bởi vì chính phủ giữ nhiệm vụ thiết lập an ninh. Ông cũng không
45
tin là con ngƣời vẫn đƣợc tự do sau khi quyền lập pháp đã đƣợc giao
cho đại diện nhân dân vốn có nhiệm vụ bảo an. Trong triết lý khế ƣớc
xã hội của mình, ông còn đề cập đến những quyền tự do không chân
chính, đó là: quyền tự do sống theo ý muốn riêng và quyền làm chủ tất
cả những gì mà sức mạnh cá nhân cho phép không phải là quyền tự do
chân chính.
Rousseau bàn đến rất nhiều về tự do, nhƣng cũng không thoát
khỏi ảnh hƣởng từ tƣ tƣởng tự do của Locke. Điều đầu tiên chính là
thừa nhận ai cũng có quyền tự do. Ông còn đề cập đến trách nhiệm
của mỗi công dân trong việc sử dụng quyền tự do của mình. Điều này
cũng là sự tƣơng đồng khi theo luật tự nhiên mà Locke đề cập cũng có
nhắc tới điều này. Kế đến, chúng ta bắt gặp triết lý “khế ƣớc xã hội”
của Locke. Đây chính giải pháp hợp lý để hạn chế tính thiên vị, ích kỷ
của con ngƣời.
3. Kết luận
Mặc dù vẫn còn đó những những mâu thuẫn, bất cập trong học
thuyết của mình, cũng nhƣ không tránh khỏi những hạn chế về thời
đại, góc độ tiếp cận. Nhƣng cũng không thể phủ nhận đƣợc công lao
của Locke đối với nền triết học chính trị, chính trị học của thế giới về
tƣ tƣởng tự do của mình, khi mà mãi đến tận ngày nay quan điểm của
ông đã trở thành tiền đề lý luận, đấu tranh, phấn đấu của nhiều quốc
gia mà biểu hiện rõ nhất chính là ở hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn
độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân Quyền của
Đảng Cộng sản Pháp.
Tài liệu tham khảo
[1]. John Locke (Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu, 2007), Khảo luận
thứ hai về Chính quyền – Chính quyền dân sự, Nxb. Tri Thức, Hà Nội.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[3]. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, Tập 2, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4]. La Brède – Montesquier (Hoàng Thanh Đạm dịch, 2006), Bàn về
Tinh thần pháp luật, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.
[5]. Jean – Jacques Rousseau (Hoàng Thanh Đạm dịch, 2006), Bàn về
Khế ước xã hội, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.
46
QUAN NIỆM CỦA G. W. F. HEGEL VỀ QUYỀN LỰC NHÀ
NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT
HỌC PHÁP QUYỀN”
SV: Nguyễn Thị Xuyên
Lớp: ĐHGDCT11
GVHD: ThS. Đỗ Duy Tú
Tóm tắt: Bài viết làm rõ quan niệm của Hegel về quyền lực nhà nước
trong tác phẩm “Các nguyên lý của triết học pháp quyền”, đồng thời
bước đầu đánh giá ý nghĩa quan niệm của Hegel về quyền lực nhà
nước như là gợi mở đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền phù
hợp với nhu cầu thực tiễn của mỗi quốc gia hiện nay.
Từ khóa: Hegel, quyền lực nhà nước, triết học pháp quyền.
1. Đặt vấn đề
Hegel (1770 – 1831) - một trong những nhà triết học vĩ đại của
nhân loại, nội dung triết học của Hegel bao trùm nhiều lĩnh vực, đƣợc
thể hiện thông ba phần: lôgic học, triết học về tự nhiên, triết học về tinh
thần. Trong hệ thống triết học Hegel, triết học pháp quyền là một trong
những đóng góp quan trọng của ông đối với sự phát triển của lịch sử tƣ
duy nhân loại. Triết học pháp quyền của Hegel là đỉnh cao của tƣ tƣởng
pháp quyền phƣơng Tây cổ điển trƣớc thế kỉ XX, là nền tảng của tƣ
tƣởng pháp quyền hiện đại. Hegel tiếp nối những bậc tiền bối của ông
nhƣ Montesqueu, Rousseau, I. Kant đã bàn tới vấn đề nhà nƣớc pháp
quyền thích hợp với công cuộc xây dựng công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nƣớc ở Việt Nam hiện nay. Quan điểm triết học pháp quyền của
Hegel nói chung và quyền lực Nhà nƣớc nói riêng đƣợc thể hiện một
cách có hệ thống và rõ ràng trong tác phẩm Các nguyên lý của triết học
pháp quyền. Triết học pháp quyền của Hegel là sự kết tinh, phản ánh
việc thực hành quyền lực pháp luật trong tƣ tƣởng của ông lúc bấy giờ.
Vì vậy việc nghiên cứu quan niệm về quyền lực nhà nƣớc trong triết
học pháp quyền của Hegel, giúp cho chúng ta có nhận thức đúng đắn
hơn về giá trị tƣ tƣởng của Hegel.
2. Nội dung
2.1. Bối cảnh lịch sử và tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng
của Hegel về quyền lực nhà nước trong tác phẩm “ Các nguyên lý
của triết học pháp quyền”
2.1.1. Bối cảnh lịch sử Tây Âu và nước Phổ cuối thế kỷ XVIII – đầu thế
kỷ XIX
47
Có thể khẳng định rằng, sự ra đời của hệ thống triết học Hegel nói
chung, triết học pháp quyền nói riêng có tính quy luật. Thực tế là triết
học pháp quyền Hegel ra đời không phải trên mảnh đất hoang. Nói cách
khác, sự xuất hiện của nó là dựa trên một nền tảng, một bối cảnh lịch sử
cụ thể. Bối cảnh đó chính là hiện thực lịch sử, văn hóa, xã hội nƣớc
Đức và châu Âu cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.
Bối cảnh lịch sử Tây Âu cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX
Sự xuất hiện của giai cấp tƣ sản báo hiệu sự cáo chung của chế độ
phong kiến ở châu Âu đã đến bắt đầu từ thế kỷ XV. Ở Tây Âu, cụ thể là
ở Italia, ngay từ thế kỷ XV đã có sự xuất hiện các công trƣờng thủ
công, nền sản xuất công trƣờng thủ công đem lại năng suất lao động rất
cao. Việc cải tiến, sáng chế ra công cụ lao động mới nhƣ máy tự kéo
sợi, máy in cùng với những phát kiến địa lý, nhƣ việc tìm ra châu Mỹ
và các đƣờng biển đến những miền đất mới…, càng tạo điều kiện cho
nền sản xuất mới tƣ bản chủ nghĩa phát triển.
Sự ra đời của công cụ lao động mới cùng với sự phát triển của
khoa học kỷ thuật là nguồn gốc quan trọng và trực tiếp tạo ra sự khác
biệt của nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa với các xã hội trƣớc đó. Chính
sự xuất hiện của nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, sự xuất hiện của công
cụ lao động mới, đã tạo ra một lƣợng của cải vật chất gấp hàng trăm lần
lƣợng của cải mà phƣơng thức cũ đã tạo ra. Sự phát triển kinh tế tƣ bản
chủ nghĩa phá tan dần các quan hệ kinh tế phong kiến, làm nảy sinh một
giai cấp mới – giai cấp tƣ sản. Giai cấp tƣ sản đã nhanh chóng trở thành
một lực lƣợng xã hội tiến bộ đại diện cho một phƣơng thức sản xuất
mới – phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, chế độ phong kiến châu Âu với những đặc trƣng của
nó là sự chuyên chế, đặc quyền đã không còn phù hợp trƣớc đòi hỏi của
thời đại, của lịch sử lúc bấy giờ đặt ra. Do đó, việc xóa bỏ chế độ phong
kiến, đẳng cấp, xây dựng một chế độ xã hội mới dựa trên quan hệ sản
xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lƣợng sản xuất là một xu thế
lịch sử mà không gì có thể ngăn cản.
Bối cảnh lịch sử nước Phổ cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX
Trái ngƣợc với sự phát triển của Anh, Pháp, Italia, Hà Lan thì Nhà
nƣớc Phổ của thế kỷ XVIII đang còn chìm trong giấc ngủ mùa Đông và
thực chất vẫn chỉ là một nƣớc quân chủ chuyên chế phân quyền bản
thân nó mang trong mình tính lạc hậu và bảo thủ của một chế độ xã hội
cần phải thay thế bởi một chế độ mới. Nhà nƣớc Phổ lúc bấy giờ gồm
khoảng 300 nhà nƣớc tự chủ nhỏ, những nhà nƣớc này là lãnh địa
48
phong kiến cha truyền con nối. Đứng đầu lãnh địa là các ông Hoàng với
chế độ cai trị chuyên chế độc tài, trong mỗi lãnh địa đều có quân đội,
cảnh sát, tiền tệ, thuế quan riêng. Chính sự phân tán về chính trị và kinh
tế là rào cản, cản trở sự phát triển đất nƣớc theo con đƣờng tƣ bản chủ
nghĩa. Về kinh tế: Nƣớc Phổ là nƣớc chiến tranh xảy ra triền miên gây
ra những tàn phá nặng nề, không có giao thông nối liền với nhau, không
có một thị trƣờng chung, chịu nhiều hàng rào thuế quan. Về chính trị:
Tập đoàn phong kiến Phổ đứng đầu là vua Friedrich Wilhem II, vẫn bảo
thủ và tăng cƣờng quyền lực của mình, duy trì chế độ quân chủ chuyên
chế hà khắc, muốn dẫn nhân dân quay lại thời trung cổ, ngăn cản đất
nƣớc đi theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa.
2.1.2. Tiền đề lý luận cho sự hình thành tƣ tƣởng của Hegel về
quyền lực nhà nƣớc trong tác phẩm “Các nguyên lý của triết học
pháp quyền”
Thứ nhất, triết học chính trị Hy Lạp Cổ đại.
Thực tế, Hegel chịu ảnh hƣởng từ quan niệm hữu cơ của Platon và
Aristotele về nhà nƣớc, về mối quan hệ giữa chỉnh thể đạo đức và bộ
phận, giữa con ngƣời và nhà nƣớc. Về mặt phƣơng pháp luận, Hegel bị
tác động bởi Aristotele. Ngoài ra, tƣ tƣởng pháp trị của Aristotele cũng
có ảnh hƣởng đến triết học pháp luật của Hegel. Theo Aristotele, cần
phải luật pháp, chứ không phải con ngƣời có quyền tối thƣợng, vì con
ngƣời luôn luôn để tƣ lợi và tình cảm xen vào. Sự thực, Aristotele
không phải là ngƣời đƣa ra thuyết phân quyền theo tinh thần của lý luận
về nhà nƣớc pháp quyền, nhƣng ông đã đƣa ra tƣ tƣởng cho rằng trong
bất kỳ nhà nƣớc nào cũng phải có ba yếu tố: cơ quan làm luật trong coi
việc nƣớc, các cơ quan thực thi và tòa án.
Trên thực tế, Hegel lại thƣờng quy chiếu tới học thuyết chính trị
của Platon hơn là của Aristotele, vì ông tin, một cách không đúng, rằng
Platon đã mô tả Polis hiện thực của ngƣời Hy Lạp chứ không phải là
một lý tƣởng. Do vậy, theo Hegel, Nhà nƣớc hợp lý tính hiện đại phải
bao gồm tất cả những giá trị quan trọng đƣợc hiện thân ở các nhà nƣớc
trong quá khứ, và vì thế không “phiến diện” nhƣ trƣớc đây.
Thứ hai, triết học chính trị thời Cận đại
Không chỉ có Platon và Aristotele, triết học pháp quyền Hegel còn
tiếp thu các công trình triết học Cận đại. Về phƣơng diện lý luận, có thể
nói, trong các triết gia chính trị, Montesquieu (1689 – 1755) là ngƣời có
ảnh hƣởng mạnh nhất đến Hegel. Montesquieu đã có tƣ duy biện chứng
dù chƣa cao (nhờ các thành tựu của khoa sinh học đƣơng thời) trong việc
49
luận giải các vấn đề về nhà nƣớc và pháp luật. Bằng chứng là, Hegel
đánh giá cao Montesquieu khi đã đề ra đƣợc “một quan niệm lịch sử
đúng đắn, một quan điểm triết học đích thực khi cho rằng việc ban bố
pháp luật nói chung cũng nhƣ các quy định đặc thù của nó không đƣợc
phép xem xét một cách cô lập và trừu tƣợng, mà đúng hơn là một kiểu
phụ thuộc vào một toàn thể, trong sự kết nối với mọi quy định khác, tạo
nên tính cách của một quốc gia và một thời đại” [2, tr.119]. Hegel vừa
tiếp thu tƣ tƣởng triết học chính trị của Montesquieu, vừa phê phán kịch
liệt thuyết tam quyền phân lập của ông. Hegel cho rằng, trong Nhà nƣớc
đạo đức thì có sự phân quyền nhƣng không theo mô hình tam quyền
phân lập của Montesquieu, trái lại theo mô hình phân công trong sự
thống nhất hữu cơ của Nhà nƣớc. Hegel xem xét nhà nƣớc và các cơ
quan quyền lực của nó nhƣ một chỉnh thể, một cái toàn bộ.
Trong quan niệm của Rousseau, quyền lực Nhà nƣớc là phải thống
nhất, nhƣ là một chỉnh thể, một cái toàn thể. Nhƣng rõ ràng, Nhà nƣớc
trong tƣ tƣởng của Rousseau thể hiện ra là Nhà nƣớc pháp quyền, theo
nghĩa pháp luật có địa vị tối thƣợng. Ngay nhƣ vị nguyên thủ cũng phải
đứng dƣới luật vì ông ta chỉ là một thành viên của Nhà nƣớc mà thôi.
Sự thực, Montesquieu chính là ngƣời mở đầu cho phong trào giải
phóng tƣ tƣởng vĩ đại, tiếp tục phát triển và hoàn thiện lý luận về quyền
con ngƣời. Nhƣng xa hơn, không thể không kể tới T. Hobbes và J.
Locke. Thực tế Hobbes là nhà tƣ tƣởng đầu tiên “thoát ly” khỏi sự ảnh
hƣởng của nhà thờ Kitô giáo trong quan niệm về xã hội cũng nhƣ về nhà
nƣớc. Theo Hobbes thì nhà nƣớc, con ngƣời và quyền con ngƣời hoàn
toàn không phải là sản phẩm thuần túy của Chúa mà nó là kết quả của
chính hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Nhƣng phải đến Locke thì lý
luận về quyền con ngƣời mới thực sự trở thành một học thuyết mang tính
hệ thống với thuyết tam quyền phân lập. Các triết gia thời Cận đại nhƣ
Hobbes, Locke đều đặt ra vấn đề tự do cá nhân của công dân, với tƣ cách
là thành viên của Nhà nƣớc chính trị. Kế thừa một cách có phê phán lý
luận về các quyền tự do và bình đẳng của các bậc tiền bối.
Thứ ba, truyền thống tư tưởng pháp luật Đức
Thực tế lịch sử cho thấy, tƣ tƣởng pháp luật đóng vai trò không
nhỏ trong quá trình phát triển về mặt tinh thần của nƣớc Đức. Đến cuối
thế kỷ XVIII, nƣớc Đức đã hình thành một truyền thống lý luận trong
sự luận chứng cho pháp luật về mặt đạo đức, truyền thống bắt nguồn từ
Johannes Althusius, Samuel Pufendorf, Thomasis Christian và đƣợc
Gottfried Leibniz, Christian Wolff bổ sung, chỉnh lý. Truyền thống này
50
coi pháp luật là đối tƣợng đạo đức, có nguồn gốc không phải là bản tính
vật lý mà là bản tính lý tính của con ngƣời. Nói khác, nó đặt pháp luật
của Nhà nƣớc trên nền tảng của lý tính hay lý trí.
Johannes Althusiua (1563 – 1638) chính là nhà tƣ tƣởng khởi đầu
của truyền thống pháp luật Đức. Althusius đề cao vai trò của Hiến pháp
và pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cũng nhƣ sử
dụng quyền lực nhà nƣớc. Ông cho rằng, cần phải gia tăng vai trò của
ngƣời dân và các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong việc phản biện và
kiểm soát quyền lực của các cơ quan nhà nƣớc, dù quyền lực đó là do
chính nhân dân ủy nhiệm.
Tiếp nối Althusius, Samuel von Pufendorf (1632 – 1694) – là nhà
luật học và sử học – đã phát triển tƣ tƣởng pháp luật lên một nấc thang
cao hơn. Pufendorf quan niệm nhà nƣớc là một thực thể đạo đức, theo
nghĩa là nhà nƣớc điều hòa các xung đột xã hội, bảo vệ các thành viên
trƣớc mối đe dọa từ những ngƣời khác.
Sau Pufendorf là tƣ tƣởng pháp luật của Thomasius Christian
(1655 -1728). Thomasius đã ủng hộ và tiếp thu tƣ tƣởng của Pufendorf
về luật tự nhiên dựa trên lý trí con ngƣời. Ông muốn xây dựng một nhà
nƣớc lý tƣởng dựa trên luật của lý trí. Tƣ tƣởng triết học của Thomasius
trở thành cơ sở quan trọng cho những nghiên cứu sau này của Wolff và
Kant, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức và luật tự nhiên.
Christian Wolff (1679 - 1754), là nhà triết học duy lý quan trọng
nhất ở thế kỷ XVIII ở Đức. Wolff cho rằng, một xã hội phải phù hợp
với luật tự nhiên, và phù hợp với luật tự nhiên chắc chắn có nghĩa là sự
hoàn hảo/hạnh phúc. Theo Wolff, con ngƣời có lý tính không cần tới
một luật pháp nào khác ngoài luật tự nhiên, thông qua lý tính dùng làm
luật pháp cho mình.
Thứ tư, các nhà triết học duy tâm Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế
kỷ XIX
Trong những tiền đề tƣ tƣởng cho việc hình thành quan niệm
Hegel về quyền lực nhà nƣớc, có thể nói, Hegel đã kế thừa trực tiếp các
công trình triết học thực hành của Kant (1724 - 1804) và Johann
Gottlieb Fichte (1762 - 1814).
Trong Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Hegel kế thừa Kant
ở quan niệm về tự do, tự do ý chí và ý chí tự do, nhƣng ông phê phán
kịch liệt Kant trong sự phân chia con ngƣời thành hai tƣ cách: hiện tƣợng
và Vật tự thân. Trong triết học pháp quyền, Kant cho rằng, Nhà nƣớc
phải thể chế hóa các quyền tự nhiên của con ngƣời thông qua hệ thống
51
luật pháp. Nhà nƣớc là một thiết chế gắn kết và ràng buộc các cá nhân
bởi quy định của pháp luật.
Sau Kant thì Johann Gottlieb Fichte là ngƣời đã có ảnh hƣởng tới
Hegel. Trong triết học pháp quyền của mình, Fichte đã luận chứng về
mặt triết học cho nhà nƣớc pháp quyền. Nhà nƣớc phải đảm bảo cho
các công dân đƣợc tự do và nhiệm vụ của mỗi công dân là ủng hộ cho
mục đích đó của Nhà nƣớc. Hegel đã tiếp thu “chủ nghĩa yêu nƣớc” của
Fichte, đƣợc Hegel hiểu nhƣ tâm thế của công dân ý thức đƣợc rằng
cộng đồng là cơ sở và mục đích của mình.
2.2. Nội dung cơ bản trong quan niệm của Hegel về quyền lực nhà nước
2.2.1. Nguồn gốc của quyền lực nhà nước
Theo Hegel, quyền lực nhà nƣớc bắt nguồn từ quyền lực nhân
dân, là thuộc về nhân dân. Bởi, nhà nƣớc theo Hegel là nhà nƣớc của xã
hội dân sự chứ không phải xã hội dân sự là hình thức biểu hiện cụ thể
của nhà nƣớc lý tính. Nói cách khác, xã hội dân sự là cơ sở của nhà
nƣớc. Trong tác phẩm “Các nguyên lý của triết học pháp quyền” xã hội
dân sự chính là cơ sở hiện thực cho sự ra đời của Nhà nƣớc nói chung
và quyền lực của nhà nƣớc nói riêng, vì rằng:
Thứ nhất, trong tƣ tƣởng của Hegel, Nhà nƣớc chính trị ra đời
nhằm khắc phục các hạn chế của thiết chế gia đình và xã hội dân sự,
theo đó nó đƣợc cấu thành một cách nội tại từ xã hội dân sự nhƣ là giải
pháp cho những vấn đề của xã hội. Trong xã hội dân sự, thƣờng xuyên
xảy ra xung đột, mâu thuẫn giữa ngƣời nghèo và ngƣời giàu, giữa các
giai tầng, giữa các cá nhân và xã hội. Bởi vậy, nhà nƣớc ra đời với tƣ
cách là nhằm dung hòa các mâu thuẫn giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo,
giữa các giai tầng và định hƣớng cho xã hội phát triển, tiến bộ hơn.
Thứ hai, nhà nƣớc đƣợc coi là một thiết chế xã hội đảm bảo các
quyền cơ bản của con ngƣời (gồm quyền sống, quyền tự do, quyền bình
đẳng và quyền tƣ hữu). Nhà nƣớc này vừa mang bản chất giai cấp, vừa
mang bản chất phi giai cấp. Bởi trong tƣ tƣởng của Hegel, nhà nƣớc nói
chung và quyền lực của nhà nƣớc không chỉ là thiết chế chính trị của
một xã hội có giai cấp nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị,
duy trì trật tự xã hội theo hƣớng có lợi cho giai cấp thống trị mà Hegel
còn cho rằng nhà nƣớc không thuộc về giới tự nhiên mà là Tinh thần
khách quan, nói cách khác, nhà nƣớc trong quan niệm của Hegel không
phải chỉ bó hẹp theo nghĩa là nhà nƣớc giai cấp, Nhà nƣớc thống trị mà
rộng hơn nó còn là quốc gia dân tộc.
52
Thứ ba, Nhà nƣớc trong quan niệm của Hegel thể hiện ra là nấc
thang phát triển cao hơn, hoàn thiện hơn so với xã hội dân sự. Hegel là
ngƣời đầu tiên đã phân biệt một cách rõ ràng hai khái niệm xã hội dân
sự và Nhà nƣớc cùng mối quan hệ giữa chúng. Theo Hegel xã hội dân
sự và Nhà nƣớc tuy là độc lập với nhau nhƣng bản chất chúng có nguồn
gốc với nhau “Nhà nƣớc, là bản thân hệ thần kinh với sự tổ chức nội bộ
của nó, nhƣng nó chỉ sống thật trong chừng mực hai mômen kia – trong
trƣờng hợp này là gia đình và xã hội dân sự - đều đƣợc phát triển bên
trong nó”.
2.2.2. Vai trò của hiến pháp và pháp luật trong thực thi quyền lực của
nhà nước
Giữa luật pháp với vấn đề thực thi quyền lực nhà nƣớc có mối quan
hệ khăng khít liên hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Luật pháp là
cái phổ biến và khách quan bên trong nhà nƣớc có vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tạo hành lang pháp lý để
đảm bảo các quyền cơ bản của con ngƣời, đem lại cuộc sống tự do, ấm
no, hạnh phúc cho công dân. Đồng thời luật pháp cũng chính là cơ sở
đảm bảo quyền lực nhà nƣớc đƣợc thực thi, theo Hegel nhà nƣớc đứng
vững đƣợc và quyền lực nhà nƣớc đƣợc thực thi là bởi nhờ vào pháp luật
bảo hộ chứ không phải nhờ vào các lực lƣợng siêu nhiên nào.
Hegel hết sức coi trọng và đề cao vai trò của hiến pháp, ông coi đó
là linh hồn sống, thực thể hữu cơ của nhà nƣớc và của quyền lực nhà
nƣớc. Ông viết “Nhà nƣớc có một linh hồn tạo nên sức sống của nó, và
cái linh hồn kích hoạt này chính là tính chủ thể” [2, tr.718], chính hiến
pháp tạo nên hiện thực cho nhà nƣớc, tức tạo nên sự tồn tại tự mình và
cho mình của nhà nƣớc. Nhƣ vậy, hiến pháp hay pháp luật cần phải phù
hợp với trình độ phát triển của nhà nƣớc cũng nhƣ sự phát triển của “Tự-
ý thức của dân tộc” theo đó không thể áp đặt hoặc bê nguyên si một bộ
luật nào đó của một quốc gia này vào một quốc gia khác mà cần phải dựa
vào tình hình thực tế của mỗi quốc gia mà ta áp dụng cho phù hợp hay
sáng tạo phát triển để phù hợp với tình hình của đất nƣớc mình “một Bộ
luật không thể có giá trị cho mọi thời” [2, tr.596].
Tƣ tƣởng của Hegel về vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong
thực thi quyền lực của Nhà nƣớc đƣợc thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, hiến pháp và pháp luật là công cụ vĩ mô thực thi quyền
lực nhà nƣớc đồng thời cũng là phƣơng tiện hạn chế quyền lực của nhà
nƣớc, quyền lực nhà nƣớc thể hiện thông qua các văn bản quy phạm
53
pháp luật mà đứng đầu là hiến pháp. Hegel nhận thấy, nếu thiếu một bộ
luật sẽ gây ra sự hỗn loạn, trong việc quản trị và thực thi luật pháp.
Thứ hai, luật pháp luôn tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các mối
quan hệ của công dân, ở đây thể hiện quyền bình đẳng của công dân
trƣớc pháp luật không phải là hình thức trả thù hay xử lý theo cảm tính
mà là xử lý đúng theo quy định của pháp luật.
2.2.3. Sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
Theo Hegel sự phân chia quyền lực của các cơ quan nhà nƣớc thể
hiện:
+ Quyền lực của quốc vƣơng (quyền của tính cá biệt): Hegel quan
niệm, quyền lực quốc vƣơng là đỉnh cao và là chỗ bắt đầu của cái toàn
bộ, tức là của chính thể quân chủ lập hiến. Quốc vƣơng “là ngƣời có
trách nhiệm trực tiếp và duy nhất trong việc chỉ huy lực lƣợng vũ trang,
xử lý quan hệ với các Nhà nƣớc khác thông qua sứ thần v.v…, quyết
định về chiến tranh và hòa bình cũng nhƣ ký kết các hiệp ƣớc đủ mọi
loại” [2, tr.820]. Nhƣng những quyết định của ông chỉ là một hình thức,
và tất cả những gì cần đến ở một vị quốc vƣơng là đồng ý vì cơ quan tối
cao phải là nơi tính cách đặc thù của ngƣời đứng đầu không có sự quan
trọng nào.
+ Quyền hành pháp (quyền của tính đặc thù): quyền hành pháp bao
gồm cả quyền tư pháp và cảnh sát các quyền có quan hệ trực tiếp đến
các công việc đặc thù của xã hội dân sự, và khẳng định lợi ích phổ biến
bên trong những lợi ích [đặc thù] này nằm bên trong và bên ngoài lợi
ích phổ biến của nhà nƣớc.
+ Quyền lập pháp (quyền của tính phổ biến): Bản thân quyền lập
pháp là một bộ phận của hiến pháp và lấy hiến pháp làm tiền đề, nhƣng
bản thân hiến pháp là tự-mình và cho-mình, nằm bên ngoài lĩnh vực mà
quyền lập pháp có thể quy định một cách trực tiếp; nhƣng hiến pháp lại
tiếp tục phát triển thông qua sự tiếp tục phát triển của luật pháp và tính
chất tiến bộ dần dần của những sự vụ phổ biến của nhà nƣớc.
Hegel cho rằng việc đồng nhất hoặc tách biệt hoàn toàn các cơ
quan quyền lực của nhà nƣớc đều không phải là cách tốt nhất. Theo
Hegel trong nhà nƣớc pháp quyền không nhất thiết phải có sự phân
công quyền lực, nhƣng tƣ tƣởng này Hegel chƣa phân tích rõ và còn
nhiều hạn chế đƣợc thể hiện trong nhà nƣớc Phổ là quốc vƣơng là
ngƣời nắm giữ quyền lực tối cao, có sức mạnh tuyệt đối trong học
thuyết về quyền lực nhà nƣớc của Hegel bị giới hạn bởi quyền lực
quốc vƣơng.
54
2.3. Ý nghĩa hiện thời của quan niệm của Hegel về quyền lực Nhà
nước
Triết học là giá trị văn hóa tinh thần tinh túy nhất, là lịch sử đƣợc
tái hiện dƣới hình thức tƣ tƣởng, hệ thống các vấn đề triết học làm nên
diện mạo tinh thần của thời đại. Trong đó, hệ thống triết học của Hegel
là sự thấu hiểu, sự phản ánh một cách bao trùm và sâu sắc nhất cả thời
đại trong phạm vi tƣ tƣởng. Hệ thống triết học Hegel nói chung và hệ
thống triết học pháp quyền nói riêng mà tiêu biểu là cuộc cách mạng
Pháp là sự chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tƣ sản ở Đức. Triết
học pháp quyền Hegel là những gợi ý sâu sắc cho mô hình nhà nƣớc
pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, việc làm rõ quan điểm
triết học chính trị của Hegel có ý nghĩa cho phép không chỉ bảo vệ chủ
nghĩa Mác mà còn nghiên cứu sâu sắc hơn cội nguồn và bản chất của
Nhà nƣớc toàn trị, từ đó vạch ra con đƣờng khắc phục nó để xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền.
Thứ nhất, quan niệm của Hegel về nhà nƣớc nói chung, quyền lực
nhà nƣớc nói riêng là tƣ tƣởng về một Nhà nƣớc pháp quyền và trên hết
là một nhà nƣớc phúc lợi, một nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân
nhằm đảm bảo các quyền con ngƣời cũng nhƣ đem lại sự an lạc cho
mọi công dân. Hegel chỉ rõ “Nhu cầu ở, mặc, sự cần thiết không để
thực phẩm ở dạng thô nữa mà xử lý nó để ăn đƣợc cũng nhƣ phá vỡ
tính trực tiếp tự nhiên của chúng, làm cho đời sống của con ngƣời
không thuận tiện nhƣ đời sống của thú vật, - nhƣng điều ấy là cần phải
nhƣ thế, vì con ngƣời là một thực thể mang tính tinh thần” [2, tr.557].
Hegel quan niệm con ngƣời là một sinh thể sống và trong chừng mực
ấy con ngƣời có quyền sống, có nhu cầu bảo tồn sự sống của mình. Rõ
ràng quyền sống là quyền thiêng liêng nhất của mỗi con ngƣời, là một
trong những quyền cơ bản của con ngƣời. Do đó xã hội dân sự và nhà
nƣớc có chức năng phải đảm bảo quyền sinh tồn của mỗi công dân.
Hegel cho rằng nhà nƣớc có mục đích cao cả là đảm bảo quyền cơ bản
của ngƣời dân, nó hợp nhất lợi ích phổ biến với lợi ích đặc thù, mục
tiêu này đem lại an sinh phúc lợi, nếu nhƣ những mục đích của họ
không đƣợc thỏa mãn thì bản thân nhà nƣớc không đứng vững. Nhà
nƣớc không coi lợi ích của những cá nhân riêng biệt là mục đích tối cao
của sự tồn tại của nó, nói cách khác nhà nƣớc là một thể thống nhất của
lợi ích cá nhân riêng biệt và lợi ích chung của cộng đồng và nó không
phải phục tùng lợi ích của cá nhân.
55
Thứ hai, trong tƣ tƣởng của Hegel, một nhà nƣớc Tốt/Thiện còn
cần phải là một nhà nƣớc mạnh và cần phải có một hệ thống pháp luật
chặt chẽ, trong đó hiến pháp có quyền lực cao nhất nhằm để bảo vệ lợi
ích chung của nhân dân, của công dân và nó đƣợc cụ thể hóa bằng các
văn bản pháp luật. Một nhà nƣớc Tốt là một N nhà nƣớc đạo đức, tức là
nói tới đạo đức của đội ngũ quan lại, đội ngũ cán bộ, công chức, đặc
biệt là vai trò của ngƣời đứng đầu. Đạo đức trong quan niệm của Hegel
chẳng qua là quyền và lợi ích chung của nhân dân, của công dân.
Quyền đó phải đƣợc bảo đảm bởi một hệ thống pháp luật mà cao nhất
là Hiến pháp chính trị - là linh hồn, là lý tính của nhà nƣớc. Theo
Hegel, để đảm bảo quyền tự do của công dân cũng nhƣ sự an lạc cho họ
phải thông qua một hệ thống pháp luật rành mạch, ông cho rằng luật
pháp hay pháp luật đối với mọi công dân nhà nƣớc pháp quyền phải là
“luật pháp của họ, đƣợc họ biết và có giá trị hiệu lực đối với họ và
nhằm bảo vệ họ” [2, tr.598].
Thứ ba, trong quan niệm của Hegel về quyền lực nhà nƣớc là tƣ
tƣởng về thực hiện chức năng quản lý xã hội của nhà nƣớc bằng pháp
luật. Ở đây thể hiện sự hiện hữu của Hiến pháp và Bộ luật dân sự đƣợc
thông qua bởi ý chí chung của công dân, nhằm chống chuyên quyền,
độc quyền cũng nhƣ bảo đảm các quyền cơ bản của con ngƣời. Về thực
chất triết học pháp luật của Hegel nói chung và quan niệm về nhà nƣớc
nói riêng chính là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của giai cấp tƣ sản
Đức trong cuộc chiến tranh chống lại chế độ phong kiến lạc hậu, thiết
lập trật tự mới tiến bộ hơn.
Thứ tư, quyền lực nhà nƣớc theo Hegel đƣợc phân thành: quyền
lực quốc vƣơng, quyền hành pháp, quyền lập pháp. Ở đây thể hiện sự
phân công, phối hợp giữa ba cơ quan này là một điểm có tính nguyên
tắc chỉ đạo đối với việc thiết kế mô hình tổ chức Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và
phối hợp phƣơng thức để đạt đƣợc sự thống nhất của quyền lực nhà
nƣớc. Từ góc độ tổ chức quyền lực thống nhất đó, đƣợc cụ thể hóa
thành (quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tƣ pháp) là sự thể hiện
những phƣơng thức khác nhau để thực hiện quyền lực. Sự phân công
của các nhánh quyền lực đó chỉ thực sự xuất hiện nhƣ một nhu cầu và
khả năng hiện thực trong các nhà nƣớc dân chủ, nơi ở các mức độ khác
nhau, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nƣớc, và quyền lực nhà nƣớc
bắt nguồn từ nhân dân.
56
Thứ năm, Hegel là ngƣời đầu tiên đã nhìn ra những hạn chế tồn tại
trong mô hình tam quyền phân lập của Montesquieu. Ông cho rằng việc
kiểm soát quyền lực không chỉ đƣợc thực hiện từ phía nhà nƣớc mà còn
chịu sự kiểm soát từ phía xã hội dân sự, từ phía nhân dân, ngƣời chủ
của Nhà nƣớc. Hegel viết “Việc bảo vệ Nhà nƣớc và của những ngƣời
cai trị chống lại sự lạm dụng quyền lực từ phía các cơ quan công quyền
và các viên chức của chúng, một mặt, là trách nhiệm trực tiếp của hệ
thống cấp bậc trong bộ máy nhà nƣớc, nhƣng mặt khác, nằm trong thẩm
quyền chính đáng của những hội đoàn, những tổ chức địa phƣơng ngăn
chặn không cho sự tùy tiện chủ quan của các cơ quan đƣợc can thiệp
vào riêng của mình và bổ sung sự kiểm soát từ bên dƣới cho sự kiểm
soát từ bên trên vốn không thể theo dõi đến tận cùng những hành vi cá
nhân” [2, tr.771]. Hegel thấy hiệu quả tƣơng đối hạn chế của việc kiểm
soát quyền lực từ bên trên bởi “có nhiều trở lực mà chủ yếu do lợi ích
chung của các quan chức câu kết lại thành phe nhóm chống lại cấp trên
lẫn dân chúng” [2, tr.771]. Từ đó cho thấy sự tồn tại và xung đột của
các lợi ích nhóm gắn liền với các nhóm lợi ích khác nhau trong nhà
nƣớc pháp quyền.
3. Kết luận
Tóm lại, những giá trị nền tảng của tác phẩm Các nguyên lý của
triết học pháp quyền thể hiện trong chính quan niệm của Hegel về nhà
nƣớc và pháp luật. Triết học pháp quyền nói chung và quan niệm của
Hegel về nhà nƣớc nói riêng là sự tiếp nối và mở rộng những vấn đề
pháp quyền đƣợc đặt ra và trong tƣ tƣởng của Arixtotle, các triết gia
Khai sáng Pháp, Đức, Kant và Fichte. Bối cảnh kinh tế - chính trị xã hội
Tây Âu và nƣớc Đức cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX là nguồn gốc
sâu xa làm xuất hiện những trào lƣu tƣ tƣởng mới mà trong đó có Hegel
ông đã mở ra một thời đại mới của tƣ duy (Tự do, đời sống đạo đức,
Nhà nƣớc pháp quyền), trong bối cảnh đó đã đặt ra những vấn đề lý
luận về Nhà nƣớc và pháp luật nhu cầu về một Nhà nƣớc pháp quyền
cùng với Hiến pháp, về quyền cơ bản của con ngƣời trong nhà nƣớc về
sự phân chia quyền lực nhà nƣớc. Về thực chất, triết học pháp luật
Hegel nói chung và quan niệm về quyền lực nhà nƣớc nói riêng chính
là sự thể hiện nguyện vọng và ý chí của giai cấp tƣ sản Đức đang lớn
mạnh dần lên. Thực tiễn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam
đặt ra nhiều vấn đề khó khăn về mặt lý luận, do đó nhận thức lý luận,
tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà nƣớc pháp quyền nói
chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
57
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để giải quyết những vấn đề khó khăn về lý
luận, chúng ta cần tiếp thu những tƣ tƣởng triết học về nhà nƣớc. Trong
đó tƣ tƣởng triết học pháp quyền của Hegel về nhà nƣớc thông qua tác
phẩm Các nguyên lý của triết học pháp quyền.
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp (2002), Triết học pháp quyền
của Hegel, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2]. G. W. F. Hegel (2000), Các nguyên lý của triết học pháp quyền,
do Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
[3]. Nguyễn Chí Hiếu (2008), “Tƣ tƣởng về “nhà nƣớc mạnh” của
Hegel và thực tế hiện thực hóa nó ở Đức”, Tạp chí phát triển nguồn
nhân lực, (số 4).
[4]. C. Mác và Ph. Ăngghen (1997), Góp phần phê phán triết học pháp
quyền Hegel, Toàn tập, tập 1, Nxb, Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên, 2007), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
58
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ NHIỆM VỤ CỦA
ĐOÀN THANH NIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
SV: Đoàn Duy Trúc Ngọc
Lớp: ĐHGDCT13
GVHD: CN. Nguyễn Thái Hòa
Tóm tắt: Trong xã hội ngày nay thanh niên giữ một vị trí, vai trò hết
sức quan trọng. Họ chính là lực lượng nòng cốt góp phần xây dựng và
phát triển đất nước do vậy thanh niên cần nhận thức đúng đắn về vai
trò của bản thân theo lý luận và thực tiễn của chế độ xã hội chủ nghĩa,
về sự hình thành nhận thức mới cho thanh niên cũng như trách nhiệm
đối với đất nước. Từ những quan điểm của V.I.Lênin đã trình bày tại
Đại hội III toàn Nga của Đoàn thanh niên Cộng sản Nga chúng ta có
thể thấy sự quan tâm đặc biệt mà V.I.Lênin đã dành cho thanh niên.
Nhận thức rõ trách nhiệm đó thanh niên đã luôn không ngừng ra sức
phấn đấu, tu dưỡng, học tập và rèn luyện cũng như phát huy hết khả
năng của bản thân để phục vụ cho quê hương đất nước.
Từ khóa: V.I.Lênin, Thanh niên, vai trò của thanh niên.
1. Đặt vấn đề
Thanh niên là lực lƣợng đông đảo nhất ở nƣớc ta, họ bao gồm
những ngƣời trẻ nhiều tài năng và tràn đầy nhiệt huyết. Suốt từ thời kì
chiến tranh nhiều khó khăn, gian khổ, thanh niên đã cho ta thấy sức
mạnh của tuổi trẻ, của ngọn lửa niềm tin rực cháy tiếp thêm sức mạnh
hung đút tinh thần chiến đấu vƣợt qua mọi chông gai, thử thách mang
về thắng lợi nhƣ hôm nay. Ngày nay tiếp bƣớc truyền thống cha anh đi
trƣớc, thanh niên cũng đã cống hiến không ngừng giúp quê hƣơng
ngày càng phát triển. Để làm đƣợc điều đó, bản thân mỗi thanh niên
cần trang bị cho mình tri thức khoa học cần thiết, tình yêu quê hƣơng
đất nƣớc cùng bản lĩnh chính trị vững vàng. Thanh niên cần biết
nhiệm vụ của mình là gì, trách nhiệm ra sao để luôn làm đúng và làm
tốt. Một trong những ngƣời đã nêu rõ về vai trò và trách nhiệm của
thanh niên đó là V.I.Lênin. Dù đã hơn 90 năm trôi qua nhƣng những
tƣ tƣởng mà Lênin để lại vẫn còn nguyên giá trị và là kim chỉ nam để
thanh niên làm tròn trách nhiệm của mình. Học tập để hiểu, để biết, để
làm đúng theo di nguyện của Lênin, sẽ không bao giờ là vô ích đối với
thanh niên chúng ta ngày nay.
59
2. Nội dung
2.1. Những định hướng nhận thức lý luận về xã hội cộng sản chủ
nghĩa cho thanh niên trong di huấn của V.I.Lênin Thanh niên là một bộ phận rất quan trọng của xã hội, giữ vị trí
và vai trò hàng đầu trong dựng nƣớc và giữ nƣớc. C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin đều coi thanh niên là một lực lƣợng cách mạng hùng hậu,
có vai trò quan trọng trong cách mạng, xem xét vấn đề thanh niên luôn
gắn bó với giai cấp công nhân và Đảng tiên phong. C.Mác khẳng định:
"Do những quy luật phát triển khách quan của xã hội, thanh niên bao
giờ cũng giữ vai trò quan trọng trong việc kế thừa và phát triển những
thành tựu của người đi trước” [5, tr.23].
Trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa với những điều kiện
vô cùng khó khăn, tổ chức thanh niên cần phải làm những gì và làm
thế nào để hoàn thành vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình? Đó là
những câu hỏi lớn, có tính cốt lõi của tổ chức Đoàn thanh niên và các
đoàn viên, mà trên thực tế là không dễ trả lời. Tại đại hội III toàn Nga
của Đoàn thanh niên cộng sản Nga, V.I.Lênin đã chỉ ra một cách rõ
ràng và khoa học những nội dung cốt lõi đó. Ngƣời nói: “Theo một ý
nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa, chính là của thanh niên” [1, tr.354]. Cho nên khi đề cập
đến nhiệm vụ của thanh niên nói chung, của đoàn thanh niên cộng sản
nói riêng, có thể tóm gọn trong một từ đó là “học tập”. Trong khi chỉ
rõ cho toàn thể thanh niên biết cần phải học những gì và học nhƣ thế
nào, V.I.Lênin đã nêu ra nhiều định hƣớng nhận thức lý luận quan
trọng có thể khái quát thành các luận điểm có tính nguyên lý về lý
luận nhƣ sau:
Thứ nhất, V.I.Lênin đã khẳng định lại nguyên lý về tính tích
cực, vai trò cải tạo hiện thực của ý thức thông qua việc đề cao vai trò
của tri thức, nhất là tri thức cách mạng trong cải tạo và xây dựng xã
hội mới - xã hội Cộng sản chủ nghĩa nói riêng, trong hoạt động của
con ngƣời nói chung. Ngƣời viết: “Tôi phải nói rằng lời giải đáp đầu
tiên, - hình nhƣ vậy, - và cũng có vẻ tự nhiên nhất, là Đoàn thanh niên
và toàn thể thanh niên nói chung muốn đi theo chủ nghĩa cộng sản, thì
đều phải học chủ nghĩa cộng sản” [1, tr.357].
Thứ hai, V.I. Lênin đã làm rõ thêm quan niệm về nội dung của
xã hội Cộng sản chủ nghĩa, cách thức, bƣớc đi và nhiệm vụ ở thời kì
quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Trong đó, luôn đặt trọng tâm của công
tác giáo dục chủ nghĩa cộng sản vào lớp ngƣời trẻ. “Chỉ có cải tổ triệt
60
để việc dạy dỗ, việc tổ chức và giáo dục thanh niên, thì chúng ta mới
có thể, bằng những cố gắng của thế hệ trẻ đạt đƣợc kết quả là xây
dựng nên một xã hội không giống xã hội cũ, tức là xã hội cộng sản”
[1, tr.357].
Thứ ba, V.I.Lênin đã nêu ra quan niệm về bản chất chính trị
trong nhà trƣờng, trong công tác giáo dục. Ngƣời yêu cầu Đoàn TNCS
phải trở thành trƣờng học lớn về chủ nghĩa cộng sản. V.I.Lênin cũng
đã phân tích khái quát về mục tiêu, nội dung, phƣơng châm và phƣơng
pháp của nền giáo dục mới; đồng thời, nghiêm khắc chỉ ra những hạn
chế nguy hại cùng những biểu hiện sai lầm cần tránh của nhà trƣờng
cũ nhƣ học vẹt, không nắm chắc nội dung vần đề, học mang tính hình
thức hơn là vận dụng vào thực tiễn.
Thứ tƣ, V.I.Lênin đã phát triển và cụ thể hóa nội dung khoa
học của quy luật phủ định của phủ định, nhấn mạnh tầm quan trọng
của mặt kế thừa trong phát triển; qua đó, nêu lên quan niệm cách
mạng, khoa học về đạo đức và nền đạo đức mới của chủ nghĩa cộng
sản, về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của đạo đức trong xã hội nói
chung, xã hội cộng sản nói riêng. Nêu ra cách ứng xử khoa học trong
nhà trƣờng đó là phải biết kế thừa một cách hợp lý những mặt tích
cực, xóa bỏ những mặt hạn chế, tồn đọng yếu kém gây ảnh hƣởng xấu
đến nhận thức và tƣ duy của thế hệ trẻ.
Thứ năm, V.I.Lênin đã phát triển quan điểm xây dựng và
vận hành các tổ chức cách mạng trong điều kiện đã có chính
quyền mà thanh niên là một bộ phận quan trọng. Chính vì vậy
nhiệm vụ hàng đầu của Đoàn thanh niên Cộng sản là đoàn kết,
tập hợp, giáo dục và lãnh đạo thanh niên tham gia cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới. Ngƣời nhấn mạnh tính nêu gƣơng, đi
đầu trong các phong trào cách mạng của tổ chức Đoàn thanh
niên. Hoạt động của tổ chức Đoàn và mỗi đoàn viên cần phải đi
sâu đi sát vào từng ngõ ngách của đời sống, quan tâm, giúp đỡ tới
những ngƣời kém may mắn, tích cực tăng gia sản xuất cải thiện
đời sống. 2.2. Nhận thức của thanh niên ngày nay về vai trò, trách nhiệm của
mình theo di huấn của V.I.Lênin V.I.Lênin luôn dành sự quan tâm sâu sắc đến tổ chức đoàn
thanh niên bởi Ngƣời biết rằng để có thể thay đổi xã hội, thay đổi về
mặt tƣ duy nhận thức và hành động của con ngƣời tránh xa lề lối xã
hội cũ thì hơn ai hết thanh niên có thể làm đƣợc điều đó. Thanh niên
61
bao gồm những ngƣời trẻ mang trong mình nhiệt huyết và tình yêu to
lớn với chế độ chủ nghĩa cộng sản. Thế nhƣng nếu chỉ bằng tinh thần
thôi thì chƣa đủ, theo Lênin thanh niên để có thể trở thành những
ngƣời chủ tƣơng lai của chế độ chủ nghĩa cộng sản, để xứng với danh
xƣng thanh niên của chế độ mới cần phải trao dồi và học hỏi nhiều
hơn nữa, mà trƣớc tiên là phải học về “chủ nghĩa cộng sản”. Học chủ
nghĩa cộng sản là “hấp thụ toàn bộ kiến thức của nhân loại, kiến thức
đó phải đƣợc nghiền ngẫm lại trên quan điểm giáo dục hiện đại chứ
không phải là những điều thuộc lòng”. Mặt khác, học chủ nghĩa cộng
sản còn là học tập và rèn luyện đạo đức cộng sản, là ý chí phấn đấu,
hy sinh, cống hiến vì sự nghiệp chung của quần chúng nhân dân. Công
tác giáo dục và học tập của đội ngũ thanh niên không tách khỏi sự
nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân. Nhƣ vậy, nhiệm vụ chủ
yếu của Đoàn Thanh niên cộng sản là giáo dụ ý thức và trách nhiệm
cộng sản cho thanh niên lao động bằng cách gắn chặt lý luận với hoạt
động thực tiễn xây dựng và bảo vệ thành công chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện đƣợc những nhiệm vụ đó, Lênin yêu cầu: “phải tổ
chức và đoàn kết toàn thể thế hệ thanh niên, phải làm gƣơng mẫu về
giáo dục và kỷ luật trong cuộc đấu tranh này. Lúc đó các đồng chí mới
có thể bắt đầu và hoàn thành công cuộc xây dựng lâu đài của xã hội
cộng sản chủ nghĩa”. [1, tr.373]. Nhiệm vụ của thanh niên có thể coi là
nhiệm vụ quan trọng để thay đổi đất nƣớc. Thanh niên trƣớc hết cần
phải học, học từ cách thích nghi với môi trƣờng mới, với cuộc sống và
hơn cả là học vể “chủ nghĩa cộng sản”. Sẽ chẳng ai hiểu và tin tƣởng
khi nói về chủ nghĩa cộng sản mà thanh niên vẫn còn mập mờ chƣa
thấu rõ nó là gì, là hoạt động nhƣ thế nào, phục vụ cho nhân dân ra
sao. Bên cạnh đó thanh niên cần kết hợp học tập kiến thức xã hội
thuần túy mà ông cha ta đã tích lũy, đó là nền tảng kiến thức cốt lõi
quan trọng. Nói nhƣ thế không có nghĩa là chúng ta cứ bám chặt vào
sách vở, vào kiến thức có sẵn mà quên đi sự sáng tạo mang tính thực
tiễn. Mọi lý thuyết chỉ là lý thuyết suông, rời rạc và kém thuyết phục
nếu nhƣ xa rời thực tế. Nhà trƣờng không đƣợc đóng khung việc rèn
luyện, giáo dục và học tập trong nhà trƣờng, tách rời cuộc đấu tranh
sôi nổi của quần chúng nhân dân. Tức là đoàn thanh niên cần phải gắn
liền giữa học kiến thức và tu dƣỡng để trở thành những ngƣời cộng
sản. Đó chính là mục đích và yêu cầu của đoàn thanh niên.
Thanh niên còn phải biết tổ chức công tác của mình để gắn liền
việc rèn luyện, học tập, giáo dục và lao động. Lênin cho rằng “Đoàn
62
Thanh niên cộng sản phải là một đội xung kích, một đội mà ở trong
mọi việc đều biết giúp đỡ, đều có tinh thần chủ động và có sáng kiến
của mình”. [1, tr.375]. Riêng đối với bản thân thanh niên cần phải có
thái độ nghiêm túc đối với học tập. Không học theo lối sách vở, theo
kỷ luật hà khắc, học gạo, nhồi nhét kiến thức mà phải học theo lối nắm
vững kiến thức về những việc cơ bản, hiểu sâu mọi việc thực tế. Sau
khi học tập thanh niên cần đem kiến thức của mình để vận dụng vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Đó là tăng cƣờng phát triển
nông nghiệp, đầu tƣ kiến thiết lại nền kinh tế, đƣa chủ nghĩa cộng sản
tiến sang một trang mới.
Một nhiệm vụ quan trọng không kém mà tổ chức đoàn thanh
niên cần phải thực hiện tốt đó là tăng cƣờng trau dồi và bồi dƣỡng đạo
đức. Bên cạnh việc học tập kiến thức mỗi đoàn viên thanh niên cần
trang bị cho mình phẩm chất đạo đức tốt. Suy cho cùng mọi nhiệm vụ
cơ bản của thanh niên đều hƣớng tới mục đích phục vụ nhân dân,
hƣớng tới quyền lợi của mọi ngƣời trong xã hội. Đạo đức giúp thanh
niên hoàn thiện nhân cách, tăng cƣờng uy tín, lòng tin vào chế độ chủ
nghĩa cộng sản trong nhân dân. Thanh niên có tài mà đạo đức kém thì
chẳng khác nào chúng ta lại quay trở về vạch xuất phát ban đầu của
chế độ cũ, núp bóng sau khẩu hiệu hô vang vì nhân dân nhƣng thực
chất lại lo cho quyền lợi của bản thân mình. Khi uy tín trong lực lƣợng
thanh niên đƣợc nhìn nhận một cách nghiêm túc thì việc tập hợp và
kêu gọi mọi ngƣời chung sức tham gia xây dựng xã hội mới là hoàn
toàn khả thi. Việc tập hợp thanh niên cùng chung sức đồng lòng, dìu
dắt nhau đi theo con đƣờng tƣơi sáng là một nhiệm vụ thiết thực. Tổ
chức đoàn thanh niên phải làm đƣợc điều ấy, phải bằng những kĩ năng
chuyên môn và kiến thức xã hội vốn có của mình truyền cho thế hệ trẻ
- những ngƣời sẽ tiếp bƣớc xây dựng đất nƣớc sau này niềm tin, nhiệt
huyết, lòng tự hào chế độ mới và ngọn lửa tuổi trẻ sục sôi luôn bùng
cháy, có nhƣ vậy mới xây dựng đƣợc tổ chức thanh niên vững mạnh.
Ngoài công tác không ngừng nâng cao cảnh giác đấu tranh
bảo vệ chế độ xã hội mới, kết hợp với công tác tăng cƣờng giáo
dục tƣ tƣởng chính trị lực lƣợng đoàn viên thanh niên còn phải
tích cực tham gia tăng gia sản xuất mà theo V.I.Lênin là để
chóng lại chế độ tƣ hữu. Thanh niên là nòng cốt tham gia vào các
hoạt động xã hội, đây là môi trƣờng tốt nhất rèn luyện họ trở
thành những ngƣời kế thừa thành quả xã hội để lại, tăng tƣ duy
thực tiễn, nhận thức thế giới một cách xác đáng thông qua thực
63
tế. Bên cạnh đó các hoạt động xã hội còn là cơ sở tiền đề cho
công tác nhìn nhận, chọn lựa thanh niên tiêu biểu, tiếp tục bồi
dƣỡng nâng cao nhận thức để đủ sức gánh vác những trọng trách
quan trọng hơn. 2.3. Vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ở Việt
Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, thanh niên là lực lƣợng đông đảo nhất, họ
bao gồm những ngƣời trẻ nhiều tài năng và tràn đầy nhiệt huyết. Suốt
từ thời kì chiến tranh nhiều khó khăn, gian khổ thanh niên đã cho thấy
sức mạnh của tuổi trẻ, của ngọn lửa niềm tin rực cháy tiếp thêm niềm
tin hung đút tinh thần chiến đấu vƣợt qua mọi chông gai, thử thách
mang về thắng lợi nhƣ hôm nay. Ngày nay tiếp bƣớc truyền thống cha
anh đi trƣớc thanh niên cũng đã cống hiến không ngừng giúp quê
hƣơng ngày càng phát triển. Để làm đƣợc điều đó bản thân mỗi thanh
niên cần trang bị cho mình tri thức khoa học cần thiết, tình yêu quê
hƣơng đất nƣớc cùng bản lĩnh chính trị vững vàng. Thanh niên cần
biết nhiệm vụ của mình là gì, trách nhiệm ra sao để luôn làm đúng và
làm tốt. Một trong những ngƣời đã nêu lên rõ về vai trò và trách
nhiệm của thanh niên đó là V.I.Lênin. Dù đã hơn 90 năm trôi qua
nhƣng những tƣ tƣởng mà Lênin để lại vẫn còn nguyên giá trị và là
kim chỉ nam để thanh niên làm tròn trách nhiệm của mình. Học để
hiểu, để biết, để làm đúng theo di nguyện mà Lênin để lại sẽ không
bao giờ là vô ích đối với thanh niên chúng ta ngày nay.
Những tƣ tƣởng của V.I.Lênin về vai trò, nhiệm vụ của thanh
niên và Đoàn thanh niên cộng sản đã đƣợc Đảng cộng sản Việt Nam
nắm vững và vận dụng sáng tạo vào công tác vận động thanh niên
trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã coi công tác thanh
niên là một nhiệm vụ chiến lƣợc của Đảng và luôn tin tƣởng, kỳ vọng
ở thanh niên và tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đảng cộng sản Việt Nam đã hết sức coi trọng việc bồi dƣỡng,
đào tạo thanh niên, những ngƣời thừa kế trẻ tuổi cho sự nghiệp cách
mạng, bảo vệ và xây dựng đất nƣớc; phát triển lực lƣợng cách mạng
trong tầng lớp thanh niên; tin tƣởng, giao phó cho họ những trọng
trách và phải ủng hộ các hoạt động của họ; chú trọng bồi dƣỡng lý
tƣởng chính trị, đạo đức cách mạng cho thanh niên, hƣớng hoạt động
của họ vì những mục tiêu cao cả, tiến bộ, vì lợi ích cho cộng đồng,
cho dân tộc và toàn nhân loại; luôn coi trọng việc kế thừa các giá trị
64
văn hóa truyền thống đồng thời cũng phải biết sáng tạo, lựa chọn
những cái phù hợp để làm nên những giá trị mới, tích cực; thanh niên
biết gắn kết việc học tập ở nhà trƣờng với xã hội, học lý thuyết với
thực tiễn; mỗi cá nhân biết tự giáo dục, tự trƣởng thành thông qua các
phong trào; sự nghiệp của thanh niên thƣờng xuyên gắn liền với cuộc
sống của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ.
Thực tiễn đã cho thấy, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
đã có những đóng góp quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nƣớc
để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta hiện nay. Thanh niên ngày
càng xác định đƣợc vai trò, trách nhiệm của tuổi trẻ đối với Tổ quốc,
với cộng đồng xã hội, ra sức phấn đấu rèn luyện phẩm chất đạo đức,
tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Những nỗ lực đó đã vẽ nên một bức tranh đẹp về lớp thanh niên ngày
nay sống có lý tƣởng, giàu lòng nhân ái, khát vọng cao cả, có trách
nhiệm đối với quê hƣơng, đất nƣớc.
Xã hội ngày càng đi lên theo chiều hƣớng phát triển, đất nƣớc
không ngừng hội nhập và vận động cùng với quy luật của vòng xoáy
thị trƣờng điều đó đòi hỏi sự thay đổi trong cách nghĩ, cách làm, trong
cả tƣ duy và hành động của tất cả mọi ngƣời đặc biệt là thế hệ trẻ.
Bằng tinh thần yêu nƣớc, nhiệt huyết sục sôi thanh niên chúng ta ngày
nay đang từng ngày cống hiến hết mình cho quê hƣơng, mang lại sự
phồn vinh, phát triển bền vững không ngừng. Các công trình thanh
niên, chiến dịch tình nguyện vì những vùng nông thôn khó khăn, hỗ
trợ học sinh nghèo, giúp đỡ nhân dân vƣợt qua khó khăn. Nhìn cảnh
trẻ em nghèo vui cƣời hớn hở khi đƣợc cầm trên tay quyển tập còn
thơm mùi giấy mới, đƣợc thỏa sức vui đùa, đƣợc ca, đƣợc hát thỏa
niềm đam mê, những ngƣời trẻ nhƣ chúng tôi mới hiểu đƣợc rằng giá
trị của hạnh phúc, tình yêu và trách nhiệm là nhƣ thế nào.
3. Kết luận
Trong cuộc sống ngày nay thế hệ trẻ đang hằng ngày đem hết
sức lực và nhiệt huyết của mình để không chỉ hoàn thành tốt trách
nhiệm, vai trò của tổ chức đoàn thanh niên mà còn cho mọi ngƣời
thấy rằng thanh niên ngày nay không chỉ là những ngƣời có học thức
mà còn biết lao động, biết xây dựng đất nƣớc, biết giúp đỡ và biết vì
mọi ngƣời. Nhiệm vụ của tổ chức đoàn mà V.I.Lênin trình bày đã
đƣợc hiểu đúng, hiều đủ và sâu rộng. Bản thân cũng là ngƣời trẻ tôi
biết rằng trọng trách trên vai mình rất lớn. Đó không chỉ đơn thuần là
65
việc chỉ cần biết nhiệm vụ thanh niên cần làm gì, mà còn là cả một
quá trình phấn đấu rèn luyện không ngừng. Thanh niên phải cải tạo
và phát triển tri thức cho phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh cụ thể, nắm
vững tri thức cho bản thân để phục vụ nhu cầu thực tiễn xã hội.
Không ít các doanh nhân trẻ, thành đạt, nhiều tấm gƣơng thanh niên
tiêu biểu vƣơn lên trƣớc những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống là
câu trả lời mang nhiều ý nghĩa nhất mà những gì thanh niên đã hiểu,
đã làm.
Những lời dạy và cả những kỳ vọng của V.I.Lênin với tuổi trẻ
và tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã có tác động rất
mạnh mẽ tới tuổi trẻ nó nhƣ những ngọn đuốc sáng soi rọi, mở ra
những hƣớng hoạt động rất tích cực cho lớp lớp thanh niên, giúp họ tự
lực vƣơn lên, làm chủ tri thức mới, làm chủ bản thân, góp phần xây
dựng và bảo vệ đất nƣớc.
Tài liệu tham khảo
[1]. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ Mát-xcơ-va.
[2]. Bùi Trung Hƣng (2015), Giá trị lý luận của V.I.Lênin về Đoàn
Thanh niên Cộng sản Nga đối với tuổi trẻ Việt Nam hiện nay, Lâm
Đồng online.
[3]. Đậu Thị Hồng (2014), Lênin bàn về nhiệm vụ của Đoàn thanh
niên, Khoa Lý luận chính trị Trƣờng Đại học Hà Tĩnh.
[4]. Thái Bảo (Văn phòng Tỉnh ủy Đồng Nai), Tư tưởng của Lênin về
vai trò, nhiệm vụ của thanh niên và đoàn thanh niên cộng sản, Xây
dựng Đảng.
[5]. C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 36.
66
TỪ VIỆC TÌM HIỂU VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG
HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA KEYNES ĐẾN LIÊN HỆ THỰC
TIỄN QUẢN LÝ KINH TẾ NƢỚC TA HIỆN NAY
SV: Lƣu Thị Loán
Lớp: ĐHGDCT12
GVHD: TS. Trần Quang Thái
Tóm tắt: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế, do đó chịu
ảnh hưởng không nhỏ từ các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Vì
vậy, các nhà hoạch định chính sách cần tìm những giải pháp phù hợp
để vận dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế giai đoạn hiện nay. Bài viết
trình bày khái quát về học thuyết J.M.Keynes, từ thực tiễn quản lý
kinh tế nước ta theo góc nhìn lý thuyết Keynes, chúng tôi đề ra một số
giải pháp góp phần nâng cao vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, để
điều tiết nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển, đi đúng hướng.
Từ khóa: học thuyết, Keynes, kinh tế, nhà nƣớc, quản lý.
1. Đặt vấn đề
Bài viết tập trung khai thác về vai trò quản lý kinh tế của Nhà
nƣớc và việc vận dụng học thuyết kinh tế của Keynes vào Việt Nam
hiện nay. Nhƣ chúng ta biết hiện nay Đảng và Nhà nƣớc đã đƣa ra
hàng loạt chính sách tích cực để kích thích nền kinh tế phát triển. Bên
cạnh đó vẫn còn một số hạn chế nhất định. Nghiên cứu về vai trò của
Nhà nƣớc, sự hình thành và điều tiết nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay là điều rất cần thiết.
2. Nội dung
2.1. Vai trò của Nhà nước trong học thuyết kinh tế của Keynes
Học thuyết của J.M.Keynes về vai trò của Nhà nƣớc trong việc
quản lý và điều tiết nền kinh tế
John Maynard Keynes (1883-1946) là nhà kinh tế học ngƣời Anh, có
ảnh hƣởng lớn đối với kinh tế học phƣơng Tây hiện đại và chính sách kinh tế
của các Chính phủ. Ông là một trong những chuyên gia trong lĩnh vực tài
chính, tín dụng và lƣu thông tiền tệ, làm cố vấn cho chính phủ Anh về ngân
khố quốc gia. Năm 1942, ông đƣợc phong làm nam tƣớc Tilton. Năm 1999,
Tạp chí Times đã đƣa Ông vào trong danh sách 100 ngƣời quan trọng
và có ảnh hƣởng nhất thế kỷ 20 và bình luận rằng: “tƣ tƣởng cơ bản
của Ông là chính phủ phải tiêu tiền mà họ không có để cứu chủ nghĩa
tƣ bản”. Là tác giả của các tác phẩm nhƣ: “ Hậu quả kinh tế của hòa ƣớc”
năm 1919, “Thuyết cải cách tiền tệ” năm 1923, “Thuyết tiền tệ” năm 1930…
67
Các bài viết của ông là cơ sở cho các chính sách kinh tế nhằm điều tiết nền
kinh tế nhiều chính phủ, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế lúc
bấy giờ. J.M.Keynes đƣợc coi là cha đẻ của kinh tế học vĩ mô hiện đại.
Lý thuyết chung về việc làm của Keynes:
Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng việc làm luôn phụ thuộc
vào tiền lƣơng, đặt biệt khi tiền lƣơng thực tế thấp thì sẽ có rất nhiều
việc làm. Còn theo Keynes, khối lƣợng việc làm phụ thuộc vào “cầu
có hiệu quả”. Khi cầu có hiệu quả cao thì lƣợng công nhân đƣợc thu
hút vào sản xuất nhiều hơn trái lại, cầu có hiệu quả thấp thì khối lƣợng
việc làm thấp. Để giải quyết vấn đề cầu có hiệu quả Keynes đã nêu lên
các quy luật tâm lý cơ bản nhƣ khuynh hƣớng tiêu dùng, hiệu quả giới
hạn của tƣ bản, thị hiếu lƣu động.
Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn:
Trong khuynh hƣớng này Keynes chia thu hập thành hai phần:
phần cho tiêu dùng và phần cho tiết kiệm. Phần tiêu dùng là mối quan hệ
giữa thu nhập và phần chi tiêu cho tiêu dùng, còn phần tiết kiệm là mối
quan hệ giữa thu nhập và phần tiết kiệm. tiêu dùng và tiết kiệm phụ
thuộc vào các nhân tố: thu nhập; những nhân tố khách quan tác động đến
thu nhập: tiền công danh nghĩa, tiền thuế, lãi suất, thuế khóa…; những
nhân tố chủ quan, những khuynh hƣớng tâm lý.
Nhƣ vậy, mức tiêu dùng chịu ảnh hƣởng của nhiều nhân tố,
nhƣng xét về lâu dài và tổng thể thì nhân tố ảnh hƣởng trực tiếp và
mạnh mẽ đến mức tiêu dùng là thu nhập, mà thu nhập lại lệ thuộc vào
khối lƣợng việc làm và sản xuất. Keynes nói rằng “quy luật tâm lý
thông thƣờng của chúng ta khi thu nhập thực tế của cộng đồng tăng
hay giảm, thì tiêu dùng của cộng đồng thực tế sẽ tăng hay giảm nhƣng
không nhanh bằng”. Đây là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế và
thất nghiệp.
Đầu tư và số nhân đầu tư:
Để giải quyết vấn đề thất nghiệp Keynes đã nêu ra nguyên lý số
nhân và đầu tƣ. Số nhân đầu tƣ chỉ rõ sự gia tăng đầu tƣ sẽ kéo theo
gia tăng thu nhập. Theo Keynes, mỗi sự gia tăng của đầu tƣ đều kéo
theo cầu bổ sung về công nhân và tƣ liệu sản xuất, nghĩa là việc làm
gia tăng, thu nhập gia tăng. Thu nhập tăng sẽ là tiền đề cho tăng đầu tƣ
mới. Nhƣ vậy, số nhân đầu tƣ có tác động dây chuyền, nó khuếch đại
thu nhập tăng lên. Nó chỉ rõ sự gia tăng đầu tƣ sẽ kéo theo sự gia tăng
thu nhập lên bao nhiêu. Keynes sử dụng khái niệm số nhân để chứng
68
minh những hậu quả tích cực của một chính sách đầu tƣ của Nhà nƣớc
vào các công trình công cộng để giải quyết việc làm.
Lãi suất:
Lãi suất có tác động rất lớn đối với đầu tƣ có ảnh hƣởng và tác
động đến công ăn việc làm và việc làm của xã hội. Theo Keynes “lãi
suất là khoản thù lao cho việc mất khả năng chuyển hoán trong một
thời gian nhất định”. Trong đó có hai nhân tố có tác động đến lãi suất:
thứ nhất, khối lƣợng tiền tệ. Ông cho rằng nếu khối lƣợng tiền đƣa vào
lƣu thông nhiều, thì lãi suất giảm. Việc dùng lãi suất để điều tiết nền
kinh tế là một trong những chủ trƣơng của Keynes. Thứ hai, là do dự
ƣa thích giữ tiền mặt, Keynes cho rằng của cải dƣới dạng tiền là thuận
lợi nhất, nên con ngƣời luôn có khuynh hƣớng giữ tiền mặt. Lãi suất
cao thì chi phí cơ hội hội cho việc giữ tiền mặt cao nên ngƣời ta hạn
chế việc giữ tiền mặt. Nên lãi suất là nguyên nhân cho sự xa rời tiền
mặt. Sự ƣa thích tiền mặt chịu tác động nhiều yếu tố nhƣ: động lực
giao dịch, động lực dự phòng và động lực đầu cơ. Từ những nhân tố
trên Keynes đã khẳng định rằng cần phải giảm lãi suất để tăng đầu tƣ.
Bởi vì khi hạ lãi suất thì ngƣời dân sẽ không đƣa tiền vào lƣu thông từ
đó sẽ làm tăng lƣợng tiền mặt lên, tƣ lƣợng tiền mặt đó sẽ tăng cƣờng
vào đầu tƣ sẽ tạo ra công ăn việc làm tránh tình trạn thất nghiệp, thu
nhập ổn định. Qua đó sẽ kích thích nền kinh tế phát triển.
Hiệu quả giới hạn của tư bản:
Thực tế cho thấy rằng đầu tƣ luôn phụ thuộc vào hiệu quả giới
hạn của tƣ bản. Không phải tất cả số tiền tiết kiệm đều đƣợc chuyển
sang tổng lƣợng tiền đầu tƣ, mà thông thƣờng nhất là tiền đầu tƣ nhỏ
hơn lƣợng tiền tiết kiệm. Bởi vì nếu đầu tƣ mang lại cho ngƣời đầu tƣ
lợi nhuận lớn thì ngƣời ta đầu tƣ tích cực hơn, nếu lợi nhuận thấp thì
ngƣời ta hạn chế đầu tƣ, nếu không thu về lợi nhuận hoặc thua lỗ thì
ngƣời ta sẽ không đầu tƣ.
Keynes cho rằng theo đà tăng lên của vốn đầu tƣ, hiệu quả giới
hạn của tƣ bản sẽ giảm dần. Do hai nguyên nhân:
Thứ nhất là: khi đầu tƣ tăng lên thì hàng hóa cung cấp cho thị
trƣờng cũng tăng lên, nên giá cả hàng hóa giảm xuống, kéo theo sự suy
giảm của lợi nhuận.
Thứ hai là: cung hàng hóa tăng lên sẽ làm tăng chi phí tƣ bản thay
thế. Trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật và tích lũy tƣ bản tăng nhanh, thì hiệu
quả giới hạn của tƣ bản có thể dẫn đến số 0. Điều đó làm giảm tính tích
69
cực của Nhà kinh doanh hạn chế mở rộng đầu tƣ. Nên ảnh hƣởng hƣởng
đến tình trạng giải quyết việc làm.
Tại Đại hội VI Đảng ta đã xác định, xây dựng nền kinh tế thị
trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trƣờng đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc
đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trƣởng, ổn
định kinh tế vĩ mô. Nền kinh tế này trƣớc hết phải tuân thủ nghiêm ngặt
yêu cầu của những quy luật khách quan của kinh tế thị trƣờng. Nền kinh
tế thị trƣờng hiện đại là nấc thang cao trong lịch sử phát triển kinh tế thị
trƣờng, vì thế ngoài những đặc trƣng mang tính phổ quát của nền kinh tế
thị trƣờng tự do, nền kinh tế thị trƣờng hiện đại ngày nay còn mang một
số đặc trƣng mới.
Đó là: thứ nhất, nền kinh tế thị trƣờng hiện đại phải dựa trên
nền tảng sở hữu hỗn hợp của các chủ thể thị trƣờng. Thứ hai, nền kinh
tế thị trƣờng hiện đại phải dựa trên những thành tựu của khoa học,
công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức - một trong những nhân tố quyết
định trực tiếp đến sự giàu mạnh, văn minh của mọi quốc gia. Thứ
ba, nền kinh tế thị trƣờng hiện đại phải có cơ cấu, trong đó những lĩnh
vực sau phải hiện đại, đó là: công nghiệp - thị trƣờng, hệ thống kết cấu
hạ tầng, các ngành dịch vụ cao cấp (đặc biệt là dịch vụ tài chính và
ngân hàng).Thứ tƣ, nền kinh tế thị trƣờng hiện đại dựa trên nguồn
nhân lực chất lƣợng cao, làm chủ đƣợc khoa học và công nghệ với
trình độ quản lý hiện đại.Thứ năm, nền kinh tế thị trƣờng hiện đại
đƣợc vận hành bởi thể chế thị trƣờng, thể chế quản lý Nhà nƣớc và
chế độ quản trị công ty hiện đại.Thứ sáu, nền kinh tế thị trƣờng hiện
đại phải dựa trên hệ thống an sinh xã hội hiện đại và một hệ thống
phúc lợi vì mục tiêu phát triển con ngƣời.
2.2. Thực tiễn quản lý kinh tế nước ta hiện nay từ góc nhìn lý thuyết
Keynes
Nước ta đã vận dụng học thuyết của Keynes để nền kinh tế đi
đúng hướng, Nhà nước quản lý điều hành tốt
Qua 20 năm đổi mới, nƣớc ta đã dần dần chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa. Vai trò Nhà nƣớc cũng có những chuyển biến lớn trong
điều kiện kinh tế thị trƣờng Nhà nƣớc đã dần dần thực hiện quản lý kinh
tế quốc dân bằng pháp luật trên cơ sở đã xây dựng và từng bƣớc hoàn
chỉnh hệ thống luật. Nhờ đó, đã từng bƣớc đã hình thành đƣợc môi
70
trƣờng pháp lý tƣơng đối ổn định, tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh để cùng phát triển, góp phần tích cực phát triển kinh tế thị trƣờng.
Bằng các cơ chế, chính sách kinh tế, Nhà nƣớc đã thúc đẩy phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, giải phóng lực lƣợng sản xuất.
Nhà nƣớc điều tiết nền kinh tế thị trƣờng thông qua pháp luật, kế hoạch,
chính sách, các công cụ kinh tế và lực lƣợng vật chất mà Nhà nƣớc
nắm, kết hợp kế hoạch với thị trƣờng; có sự phân cấp nhiều hơn để phát
huy tính chủ động sáng tạo của địa phƣơng; thực hiện tƣơng đối tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nền kinh tế quốc dân.
Vai trò quản lý điều hành thể hiện ở những chức năng:
- Hình thành luật pháp, đảm bảo tính pháp lý và trật tự luật pháp,
giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật pháp.
- Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát,ổn định tiền tệ.
- Dự báo ngăn ngừa những đổ vỡ của thị trƣờng trong đó, có kiểm
tra trực tiếp đối với giá cả, tiền lƣơng, định mức tiêu dùng những
của cải nhất định…
- Kinh doanh của Nhà nƣớc, nghĩa là Nhà nƣớc sở hữu và quản lý các
công ty sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà các công ty tƣ nhân cũng có
khả năng sản xuất.
- Tác động vào sự phát triển kinh tế, vào sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hƣớng hiệu quả.
- Tác động vào việc hình thành các quy chế lợi cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, điều chỉnh cho các quy chế đó cho thích nghi
với những điều kiện thay đổi, tiến hành các cuộc cải cách khi
cần thiết.
Tình hình tăng trưởng kinh tế; vấn đề lạm phát và giải quyết
lạm phát
Kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã đạt đƣợc nhiều thành
tựu trong điều kiện tình hình kinh tế có nhiều biến động. Tăng trƣởng kinh
tế Việt Nam luôn giữ mức cao thứ hai trong khu vực, chỉ sau Trung Quốc,
năm 2007 tăng trƣởng kinh tế Việt Nam đạt 8,46%; năm 2008 là 6,31% và
năm 2009 là 5,32%. Xuất khẩu tăng cao là một nhân tố quan trọng tác
động đến tăng trƣởng kinh tế. Trong những năm qua, tốc độ tăng kim
nghạch xuất khẩu của Việt Nam cũng cao, tuy vào năm 2009, do ảnh
hƣởng của suy thoái kinh tế toàn cầu tốc độ xuất khẩu có giảm, nhƣng kim
nghạch xuất khẩu vẫn giữ mức cao năm 2006: 22,7%; năm 2007: 21,9%,
năm 2008: 29,1%. Đầu tƣ nƣớc ngoài vào việt nam cũng đanh dấu mức
71
tăng trƣởng nhảy vọt, với số vốn FDI đăng kí qua các giai đoạn luôn tăng,
đặc biệt giai đoạn 2006 - 2009 là giai đoạn thu hút vốn FDI mạnh nhất của
Việt Nam tổng số vốn FDI đạt 126,5 tỷ USD và tổng vốn FDI giải ngân
đạt 33,6 tỷ USD [1, tr.3].
Lạm phát đi cùng với tăng trƣởng là hiện tƣợng kinh tế có tính
quy luật, J.M. Keynes là một trong những nhà kinh tế học phát hiện ra
tính quy luật này và ông cho rằng cần phải tạo ra mức lạm phát “có
kiểm soát” để thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Các nhà điều hành kinh tế
Việt Nam hiện nay đang áp dụng quan điểm này. Chính phủ Việt Nam
đã chấp nhận mức lạm phát “vừa phải”, dƣới 2 con số, để thúc đẩy tăng
trƣởng kinh tế mức lạm phát năm 2004 là 9,5 %; năm 2005 là 8,4%,
năm 2006 khoảng 7%. Từ đây có thể thấy mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trƣởng kinh tế, không có một tỷ lệ tăng trƣởng cao mà lạm phát ở
mức thấp đƣợc, và ngƣợc lại. Theo quan điểm của các nhà kinh tế mức
lạm phát có thể chấp nhận đƣợc là 1-2%. Do đó, năm 2007 lạm phát
cao hơn mức tăng trƣởng hơn 4%, có thể chấp nhận đƣợc, nhƣng trong
năm 2008 lạm phát đã tăng quá cao tăng trƣởng kinh tế là 6,31% trong
đó mức lạm phát ở mức 19,89% [1, tr.4].
Để kiềm chế lạm phát chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân để có
giải pháp điều hành lại nền kinh tế nhằm đảm bảo tăng trƣởng kinh tế
bền vững nhƣ:
Chính sách tiền tệ cần thực hiện một cách linh hoạt và kịp thời
theo thực tế diễn biến của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nƣớc đƣa tiền
ra và rút tiền về một cách hợp lý sẽ góp phần kiềm chế lạm phát và
kích thích tăng trƣởng kinh tế. Ngân hàng Nhà nƣớc nên điều hành
chính sách tiền tệ một cách khôn khéo và linh hoạt, nên sử dụng một
cách tốt hơn và kịp thời các công cụ của chính sách tiền tệ nhƣ: lãi
chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buôc, nghiệp vụ thị trƣờng mở… để điều
hành nền kinh tế Việt Nam. Lạm phát năm 2009 ở mức 6,52%, nhƣng
tăng trƣởng ở mức 5,32% [1, tr. 6] đƣợc xem là mức tăng trƣởng
nhanh trong khu vực.
Về chi tiêu công: chính phủ cần chú ý giải ngân kịp thời cho dự
án đầu tƣ có nguồn từ ngân sách của chính phủ, nhằm hạn chế tình
trạng gây sức ép giá vào cuối năm.
Chính phủ cần tăng cƣờng năng lực của bộ máy dự báo để dự
báo chính xác sự biến động giá cả trên thị trƣờng thế giới để kịp thời
điều chỉnh giá trong nƣớc tránh tình trạng đối phó bị động nhƣ năm
2007, 2008.
72
Tăng cƣờng quản lý các doanh nghiệp Nhà nƣớc, nhất là các
tập đoàn kinh tế, kiên quyết sắp xếp lại các tập đoàn kinh tế Nhà nƣớc
có vấn đề trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhƣ trƣờng hợp tập
đoàn Vinashin vừa qua. Biến các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà
nƣớc thành các đơn vị kinh tế chủ lực, trong việc thực hiện nhiệm vụ
ổn định và tăng trƣởng kinh tế, tham gia kiềm chế lạm phát khi chính
phủ yêu cầu.
Chính phủ cần chú ý giải ngân kịp thời cho các dự án đầu tƣ có
nguồn vốn từ ngân sách của chính phủ, nhằm hạn chế tình trạng gây
sức ép tăng giá vào cuối năm.
Những hạn chế trong quản lý kinh tế nước ta hiện nay
Mặc dù vận dụng học thuyết kinh tế của Keynes đƣợc thể hiện
trong các chính sách của chính phủ Việt Nam đã mang lại những hiệu
quả rõ rệt. Tuy nhiên, những chính sách này đang gây ra một số hiệu
quả tiêu cực đòi hỏi các nhà hoạch định cần lƣu tâm: thâm hụt ngân
sách có nguy cơ tăng cao, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế,
nếu Việt Nam thực hiện kích cầu theo đúng kế hoạch đề ra, mức thâm
hụt ngân sách có thể lên đến 8 – 10%, gây mất cân đối nghiêm trọng
cho nền kinh tế.
Mục đích của học thuyết kinh tế của Keynes là chống khủng
hoảng và thất nghiệp nhƣng chƣa làm đƣợc (chỉ có tác dụng tạm thời),
biểu hiện: thất nghiệp vẫn duy trì ở mức cao; phƣơng pháp luận thiếu
khoa học. Trong những năm vận dụng vào thực tiễn cuối năm 2008
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động đến Việt Nam. Năm
2008, có 24,8% và năm 2009 có 38,2% số doanh nghiệp bị giảm
doanh thu [7]. Tình trạng thất nghiệp có xu hƣớng gia tăng đến tháng
9 năm 2009 đã có 43.348 lao động mất việc và hơn 100.000 ngƣời
thiếu việc làm [5]. Khủng hoảng kinh tế thế giới, cầu giảm FDI và đầu tƣ
ở các làng nghề, một số doanh nghiệp tƣ nhân giảm tác động tiêu cực đến
toàn cầu về lao động. Chính sách tăng giá để giải quyết nạn thất nghiệp
cũng không thành công trong thực tế thể hiện trong những cuộc khủng
hoảng kinh tế 1969 – 1975 ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa.
Keynes nhận thấy sự cần thiết can thiệp Nhà nƣớc vào nền kinh tế
và đƣa ra lý thuyết “chủ nghĩa tƣ bản đƣợc điều tiết”. Song khi đánh giá
cao vai trò của kinh tế Nhà nƣớc, ông lại bỏ qua vai trò điều tiết của cơ chế
thị trƣờng, quá coi nhẹ kinh tế thị trƣờng “dùng đại bác bắn vào cơ chế thị
trƣờng”. Chính sách giảm lãi suất để kích thích đầu tƣ của Keynes tỏ ra
không hiệu quả trong điều kiện tự do di chuyển ngoại tệ trên phạm vi toàn
73
cầu nhƣ hiện nay. Khi chính phủ giảm lãi suất sẽ có hiện tƣợng các nhà
đầu tƣ rút vốn trong nƣớc để chuyển sang những nƣớc có lãi suất cao hơn
dẫn đến đầu tƣ trong nƣớc sụt giảm.
Học thuyết của Keynes đƣợc vận dụng rộng rãi trong thời gian dài
ở các nƣớc tƣ bản và có những biến thể khác nhau. Nhƣng cũng chỉ là bài
thuốc chữa ngọn, chƣa chữa đƣợc gốc rễ căn bệnh của chủ nghĩa tƣ bản.
Vấn đề là giải quyết triệt để mâu thuẫn giữa lực lƣợng sản xuất đạt đến
trình độ xã hội hóa cao và quan hệ sản xuất vẫn mang tính tƣ nhân. Việc
dùng chính sách tài chính để kích thích nền kinh tế tăng trƣởng có những
hạn chế: trong thực tế khó tính toán chính xác liều lƣợng của việc tăng
giảm chi tiêu và thuế khóa. Độ trễ của chính sách tài chính là khá lớn.
Các giải pháp tối ưu:
Xây dựng bộ phận kinh tế Nhà nƣớc vững mạnh và hoạt động
có hiệu quả. Nhà nƣớc cần tích cực và chủ động tác động vào nền kinh
tế, qua đó để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế và
phát triển, đặt biệt trong bối cảnh hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế
tài chính thế giới đang tác động tiêu cực đến nƣớc ta thì vai trò đó
càng trở nên cấp thiết.
Nhà nƣớc thông qua công cụ lãi suất, có thể tác động để duy trì
sự phồn vinh, tạo công ăn việc làm vƣợt qua tình trạng khủng hoảng
kinh tế mà các nƣớc tƣ sản gặp phải trong những năm 30 của thế kỷ
XX. Nó đƣợc nhiều nhà lý luận kinh tế tƣ sản tiếp thu, truyền bá và
phát triển thành các trƣờng phái Keynes. Đảm bảo việc làm trong xã
hội và giảm thất nghiệp bởi vì hiện nay sức ép về việc làm ngày càng
gia tăng, nên giải quyết việc làm là một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan
trọng. Ổn định giá cả và tiền tệ chống nguy cơ lạm phát.
Chính Phủ cần lập kho dự trữ lƣơng thực để điều tiết biến động
giá lƣơng thực trong nƣớc và thế giới, đồng thời có chính sách hỗ trợ
sản xuất – chế biến – tiêu thụ lƣơng thực, thực phẩm trong nƣớc;
Chính phủ bớt quan tâm đến điều tiết thị trƣờng vàng trong nƣớc vì
đây không phải là thủ phạm chính gây ra lạm phát ở Việt Nam.
Nền kinh tế mới đang định hình, đòi hỏi tƣ duy thích ứng về
bàn tay quản lý của Nhà nƣớc khi thực hiện nguyên tắc thị trƣờng,
tránh các cực đoan, phiến diện trong nhận thức, tăng cƣờng sự phối
hợp đồng bộ các công cụ và cấp độ quản lý, giám sát chặt chẽ và chủ
động xử trí kịp thời các tác động mặt trái của kinh tế thị trƣờng. Việc
vận dụng “hai bàn tay” hữu hình và vô hình là yếu tố quan trọng thúc
đẩy kinh tế thị trƣờng phát triển.
74
3. Kết luận
Học thuyết kinh tế của Keynes có một ý nghĩa nhất định, ra đời
để đáp ứng yêu cầu thực tế của chủ nghĩa tƣ bản độc quyền, thoát ra
khỏi lý luận truyền thống lấy tự do thả nổi làm nội dung căn bản để
phân tích sự căn bằng. Xây dựng học thuyết kinh tế mới mà tƣ tƣởng
trung tâm là sự can thiệp của chính phủ vào kinh tế và tìm mọi biện
pháp nâng cầu để giải quyết việc làm, nhằm giúp chủ nghĩa tƣ bản
thoát khỏi cảnh cùng quẩn trƣớc khủng hoảng kinh tế. Từ đó tránh cho
nó khỏi sự sụp đổ hoàn toàn. Việt Nam một nƣớc nông nghiệp, phần
lớn dân cƣ sống ở nông thôn và gắn với kinh tế nông thôn, nên các
giải pháp kích cầu luôn tác động đến bộ phận dân cƣ này.
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Phƣớc Tài (2012), “Vai trò của Nhà nƣớc trong sự hình
thành và điều tiết kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học thể chế và vai trò của thể chế
trong phát triển kinh tế tại Việt Nam, Đại học Quốc gia TP.HCM,
Trƣờng Đại học Kinh tế - Luật, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM
[2]. Đinh Văn Thông (2009), “Học Thuyết Keynes và những vấn đề
kích cầu nhằm chống suy giảm kinh tế ở nƣớc ta hiện nay”, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh 25,
tr.185-192
[3]. Thống kê của Bộ Lao Động – TBXH về tình hình mất việc làm 9
tháng đầu năm 2009.
[4]. Nguyễn Văn Trình (chủ biên), Nguyễn Tiến Dũng – Nguyễn Tấn Phát
(2011), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Đại học Quốc gia
TP.HCM, Trƣờng Đại học Kinh tế - Luật, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM.
[5]. Nguyễn Văn Trình & Nguyễn Sơn Hoa (2010), Trƣờng ĐH Kinh
tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM, “Chính sách vĩ mô kiềm chế
lạm phát và kích thích tăng trƣởng kinh tế”, Phát triển và hội nhập, số
6 – tháng 8.
[6]. Trần Bình Trọng (2003), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế,
Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân, Nxb.Thống Kê, Hà Nội.
[7]. Viện khoa học Lao động và xã hội (2009), số liệu điều tra về đánh
giá “Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến doanh nghiệp và
việc làm, thu nhập của người lao động” trong số doanh nghiệp cắt
giảm qui mô lao động, số phải cắt giảm trên 20% qui mô lao động
chiếm 15.9% năm 2008 và 23.3% năm 2009.
75
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
SV: Lê Thị Tố Quyên
Lớp: ĐHGDCT13
GVHD: ThS. Trƣơng Thị Mỹ Dung
Tóm tắt: Trong bài viết này làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc, độc lập tự do là khát vọng lớn của dân tộc thuộc địa,
đồng thời là quyền thiêng bất khả xâm phạm, độc lập thật sự trong
hòa bình thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, độc lập gắn với cơm no, áo
ấm, hạnh phúc cho mọi người dân, như là nội dung cốt lõi của vấn đề
dân tộc thuộc địa và sự vận dụng quan điểm đó của Đảng ta trong bối
cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế hiện nay.
Từ khóa: dân tộc thuộc địa, độc lập dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Đặt vấn đề Việt Nam, quốc gia đa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên phong
phú, có vị trí địa lý chiến lƣợc quan trọng. Trong lịch sử, dân tộc Việt
Nam đã chiến đấu và chiến thắng bao thế lực ngoại xâm hùng mạnh.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam cũng đã anh dũng
chiến thắng, chiến tranh xâm lƣợc của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ.
Bởi ngƣời dân Việt vì yêu nƣớc nồng nàn mà mƣu trí dũng cảm, kiên
cƣờng bất khuất chống giặc ngoại xâm, vì nhân ái, nhân nghĩa mà
đoàn kết tƣơng trợ trong cuộc sống, vì yêu đời mà cần cù sáng tạo lao
động.. . Với đƣờng lối chiến lƣợc sách lƣợc đúng đắn, Đảng Cộng sản
Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm lấy và phát
huy những truyền thống quý báu của ngàn xƣa, dẫn dắt dân tộc ta đấu
tranh giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Nội dung
2.1. Quan niệm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là sự kết hợp Chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa quốc tế, đấu tranh cho
độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc
khác. Nhƣng ở nƣớc ta hiện nay trong thời kì công nghiệp hóa hiện
đại hóa, cần có những nội dung đáng chú ý hơn là dân tộc ta đã phát
huy lòng yêu nƣớc truyền thống và nâng thành lòng yêu nƣớc xã hội
chủ nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cƣờng, đã phát huy
đƣợc sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết
toàn dân. Hồ Chí Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con ngƣời Việt
76
Nam, đó là sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử,
sức mạnh của sự thông minh và dũng cảm, của lòng tin chân chính
không gì lay chuyển, sức mạnh ấy bền vững và đƣợc nhân lên nhiều
lần trong thời đại ngày nay.
Về quyền dân tộc, con ngƣời, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các
dân tộc trên thế giới đều bình đẳng độc lập tự do nhƣ là quyền thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Sinh ra trong cảnh
nƣớc mất nhà tan, tận mắt chứng kiến đƣợc sự áp bức của đế quốc lên
tự do độc lập của đất nƣớc, Hồ Chí Minh cho rằng đối với một ngƣời
dân mất nƣớc, cái quí nhất trên đời là độc lập cho tổ quốc, tự do cho
nhân dân. Nên ngƣời quyết định ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, trên đƣờng
Ngƣời đi khắp các quốc gia trên thế giới, đƣợc tiếp cận nhiều tƣ tƣởng
cứu nƣớc khác nhau, theo Hồ Chí Minh, Độc lập dân tộc phải là độc
lập thật sự và độc lập hoàn toàn, dân tộc đó phải có đầy đủ quyền về
chính trị, kinh tế, an ninh…và toàn vẹn lãnh thổ. Đó là tƣ tƣởng độc
lập dân tộc trong hoà bình chân chính của Ngƣời, nó là nguồn sức
mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn
của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Hồ Chí Minh không chỉ đấu
tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân
tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Từ đó Ngƣời đã xây dựng lý luận giải phóng dân tộc theo con
đƣờng cách mạng vô sản, từ ngƣời tìm đƣờng Nguyễn Ái Quốc đã trở
thành ngƣời dẫn đƣờng cho dân tộc ta đi đến những thắng lợi quang
vinh. Ngƣời cũng đã đề cập đến vấn đề độc lập dân tộc với những nội
dung quan trọng:
Thứ nhất, độc lập tự do nhƣ là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của tất cả các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, đối với một ngƣời dân mất nƣớc, cái quí
nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Chính vì vậy
trong quá trình tìm đƣờng cứu nƣớc, Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho
những ngƣời Việt Nam yêu nƣớc, gửi đến Hội nghị Hòa bình Vécxây
một bản Yêu sách gồm 8 điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân
dân Việt Nam. Bản Yêu sách đã không đƣợc các tên trùm đế quốc quan
tâm giải quyết, nhƣng đƣợc những sự thật ấy rèn luyện, Nguyễn Ái
Quốc rút ra bài học: “Muốn đƣợc giải phóng các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lƣợng bản thân mình.” [8, tr.30].
Mùa xuân 1930, Ngƣời đứng ra hợp nhất các tổ chức cộng sản
trong nƣớc, trong Chánh cƣơng vắn tắt do Hồ Chí Minh trực tiếp soạn
77
thảo, Ngƣời đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: “Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nƣớc Nam đƣợc
hoàn thiện độc lập” [3, tập 3, tr.1]
Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nƣớc, tháng 5-1941 chủ trì Hội
nghị Trung ƣơng 8 của Đảng, viết thƣ Kính báo đồng bào, chỉ rõ:
“Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”[ 3, tập
3,tr.198].. Ngƣời chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng
minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mƣời chính sách của Việt Minh,
trong đó mục tiêu đầu tiên là: “Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”.
Tháng 8-1945 Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí chiến đấu cho độc
lập, tự do của nhân dân ta. Cách mạng tháng Tám thành công, ngƣời
thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng
khẳng định trƣớc quốc dân đồng bào và trƣớc thế giới: “Nƣớc Việt
Nam có quyền hƣởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nƣớc
tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lƣợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy” [3, tập 4, tr.4].
Thứ hai, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn, gắn
với hòa bình thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nƣớc.
Trong các bức thƣ và điện gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ
các nƣớc vào thời gian đó, Ngƣời đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhƣng nhân dân chúng
tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng
liêng nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nƣớc” [3,
tập4, tr.469].
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc
lập và chủ quyền độc lập, Ngƣời ra lời kêu gọi vang dậy núi sông:
“Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nƣớc, nhất định không chịu làm nô lệ” [3, tập 4, tr480]. Khi đế quốc
Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh lại đƣa ra một chân lý bất hủ cho mọi thời đại: “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do” [3, tập 12, tr.108]. Đƣợc sự cổ vũ của
tinh thần đó, nhân dân hai miền Nam, Bắc đã kiên cƣờng chiến đấu hy
sinh, buộc Mỹ phải ký vào Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam. Điều 1, chƣơng 1 của Hiệp định viết: Hoa kỳ
và các nƣớc khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của nƣớc Việt Nam nhƣ Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về
Việt Nam đã công nhận.
78
Thứ ba, Độc lập dân tộc phải đem lại cơm no, áo ấm hạnh phúc
cho mọi ngƣời dân.
Theo Hồ Chí Minh, nếu nƣớc độc lập mà dân không đƣợc
hƣởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Vì vậy
chúng ta phải thực hiện ngay, Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có
mặc, Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tôi có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc là làm sao cho nƣớc ta đƣợc hoàn toàn độc lập, dân ta
hoàn toàn đƣợc tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
đƣợc học hành. Ngƣời đã hy sinh trọn đời mình cho” [3, Tập 4, tr.161-
162]. Mục tiêu lý tƣởng đó Unesco đã ghi nhận Hồ Chí Minh vừa là
anh hùng giải phóng dân tộc, vừa là nhà văn hóa kiệt xuất.
2.2. Sự vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
2.2.1. Con ngƣời vừa là mục tiêu vừa là động lực xây dựng của Xã
hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh con ngƣời đƣợc coi nhƣ là sức mạnh dân
tộc đồng thời là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nƣớc, đó còn đƣợc biểu
hiện qua các truyền thống quý báo của dân tộc ta nhƣ yêu nƣớc, tinh
thần đoàn kết, ý chí đấu tranh bất khuất cho độc lập tự do và ý thức tự
lực tự cƣờng của dân tộc ta. Đây chính là một trong những truyền
thống quý báu của dân tộc cần phát huy.
Thứ nhất: Phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần trách
nhiệm dân tộc tạo tiền đề cho xây dựng, bảo vệ, phát huy tiềm năng
đất nước.
Yêu nƣớc là hạt nhân cốt lõi của truyền thống dân tộc ta, nó
không chỉ đơn thuần là một tình cảm tự nhiên mà đƣợc hình thành và
phát triển trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc, từ thời Vua Hùng
dựng nƣớc và 1000 năm Bắc thuộc đến hai cuộc chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ. Với truyền thống này dân tộc ta đã anh dũng chiến
đấu chống giặc ngoại xâm để đất nƣớc thực sự đƣợc độc lập tự do, có
tên trên bản đồ thế giới. Với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nƣớc trở
thành sức mạnh, thành chủ nghĩa yêu nƣớc, một đạo lí, một lẽ sống
mà mọi ngƣời dân đặt lên hàng đầu. Hồ Chí Minh đã từng nói. “Dân
tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nƣớc. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xƣa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần
ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lƣớt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nƣớc
79
và lũ cƣớp nƣớc” [3, Tập 6, tr.171]. Lòng yêu nƣớc, tinh thần độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cƣờng đã kết liền nhân dân thành một khối vững
chắc không tách rời, không gì lay chuyển đƣợc. Tổng hợp các điều
trên, Hồ Chí Minh làm nổi bật sức mạnh của con ngƣời Việt Nam. Đó
là sức mạnh của thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và hiện
tại, sức mạnh của sự thông minh và lòng dũng cảm. Trong giai đoạn
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nƣớc thì lòng yêu nƣớc đƣợc Đảng
ta tiếp tục phát huy trên nền tảng của Hồ Chí Minh, nếu lòng yêu nƣớc
ở thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc là ra sức
chiến đấu thì ở thời bình nhƣ hiện nay nó là sự biểu hiện ở tinh thần
học hỏi, ra sức rèn đức luyện tài song song để góp phần phát triển đất
nƣớc, khẳng định dân tộc ta trên trƣờng quốc tế . Ngày nay, tình hình
thế giới và trong nƣớc đã có nhiều đổi thay, vấn đề đặt ra là phát huy
chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam mà đỉnh cao là chủ nghĩa yêu nƣớc Hồ
Chí Minh để hội nhập và phát triển đất nƣớc nhƣ:
Một là, Tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, đó là quyền làm chủ
của dân tộc, quyền tự quyết định con đƣờng phát triển kinh tế, chính
trị, xã hội của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự
do thành lập cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân
tộc chứ không phải vì mƣu đồ và lợi ích của một nhóm ngƣời nào đó.
Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên
lập trƣờng của giai cấp công nhân, ủng hộ các phong trào dân tộc tiến
bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những mƣu toan lợi dụng quyền
dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ các
nƣớc, đòi ly khai chia rẻ dân tộc.
Hai là, Khơi dậy ý thức dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ, thống nhất đất nƣớc giữa vùng đất, vùng biển, vùng trời.
Ngày nay bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là tăng cƣờng sức
mạnh quốc gia dân tộc. Trong đó, xây dựng thế trận lòng dân, đảm
bảo vững chắc chủ quyền lãnh thổ đặc biệt là biển, đảo thiêng liêng
của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển và bảo vệ đất nƣớc hiện nay và mai sau. Đối với nƣớc ta,
đang hội nhập quốc tế, luôn mong muốn có quan hệ hữu nghị, hợp tác
với tất cả các nƣớc, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị của nhau, cân
bằng lợi ích, các bên cùng có lợi, vì hòa bình, ổn định và phát triển
của Việt Nam, của khu vực và của toàn thế giới. Việt Nam sẵn sàng là
bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
80
Thứ hai: Quan tâm, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Mọi con dân đất Việt dù ở đâu đi đâu đều có chung nguồn cội,
đều là con Hồng cháu Lạc đƣợc sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu
Cơ. Vì vậy, tiếng gọi đồng bào hay dân tộc Âu Lạc là tiếng gọi thân
thiết và linh thiêng, đánh thức cội nguồn nòi giống dân tộc, hình thành
nên ý thức cộng đồng và tinh thần đoàn kết. Đoàn kết từ trong những
tình cảm nhỏ nhất từ tình yêu gia đình, làng xóm, quê hƣơng, đất nƣớc
và phát triển đến đoàn kết dân tộc. Đó chính là sức mạnh, là điểm tựa
tinh thần vững chắc của con ngƣời và cả dân tộc Việt Nam trong lịch
sử hàng ngàn năm dựng nƣớc, giữ nƣớc và phát triển đất nƣớc. Đại
hội XI nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đƣờng lối chiến lƣợc
của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.48]. Để tiếp nối truyền thống của ông
cha ta thì trong thời kì thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng, Nhà nƣớc cần quan tâm xây dựng và
phát huy tính đại đoàn kết toàn dân tộc. Trƣớc lúc đi xa, Ngƣời căn
dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của
dân ta. Các đồng chí từ Trung ƣơng đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng nhƣ giữ gìn con ngƣơi của mắt mình” [3,
tập 12, tr.510]. Để vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào việc xây
dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý
những vấn đề sau đây:
Một là, cần tập trung phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời
sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Nhà nƣớc cần hỗ trợ các chính
sách về đào tạo nghề, chuyển giao khoa học kỹ thuật, giải quyết việc
làm, hỗ trợ vốn…phù hợp với đặc điểm của vùng miền địa phƣơng.
Đối với vùng sản xuất nông nghiệp cần quan tâm khuyến khích ngƣời
dân ứng dụng khoa học kỹ thuật, khuyến khích đầu tƣ thành lập hợp
tác xã thu mua, chế biến nông sản, hạn chế tình trạng tƣ thƣơng ép giá.
Hai là, tăng cƣờng công tác tuyên truyền trong nhân dân, nhằm
nâng cao tƣ tƣởng giác ngộ chính trị, tinh thần yêu nƣớc và ý thức
cảnh giác trƣớc sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Xây dựng đội
ngũ cán bộ tuyên truyền đủ về số lƣợng và có chất lƣợng, có uy tín
cao.Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, phƣơng pháp vận động phù
hợp với điều kiện văn hóa các vùng miền.
Ba là, Khơi dậy phát huy, sức mạnh, tinh thần đại đoàn kết dân
tộc. Trong tình hình thế giới hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta phải chủ
81
trƣơng phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc – khơi dậy của chủ nghĩa
yêu nƣớc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên
trong mà tranh thủ và vận dụng sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của lực
lƣợng bên ngoài bởi Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công” [3, Tập 10, tr.350].
Trong thời kỳ hiện nay, đại đoàn kết toàn dân tộc là để Tổ quốc đƣợc
bảo vệ vững chắc, lòng dân an bình, xã hội phát triển về mọi mặt, cho
nên phải đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng, phát huy vai trò to lớn
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ ba: Phát huy những truyền thống cần cù, thông minh, sáng tạo.
Dân tộc Việt Nam đã hội đủ cả ba đức tính cần cù, thông minh,
sáng tạo với sắc thái riêng, độc đáo. Những đức tính này đƣợc hình
thành, phát triển trên cơ sở điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, kinh tế,
xã hội, văn hóa của dân tộc Việt Nam và không lặp lại ở bất kỳ dân
tộc nào trên thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế,
việc giữ gìn phát huy giá trị truyền thống của con ngƣời dân tộc Việt
Nam là điều cần thiết, dân tộc ta chấp nhận hòa nhập học hỏi giao lƣu
văn hóa chứ không bao giờ hòa tan. Bởi lẽ, đó là những giá trị tinh
thần cốt lõi, đặc sắc, mang tính trƣờng tồn trong lịch sử của dân tộc
mà dựa vào đó các thế hệ mai sau có thể phát huy trên tầm cao mới
của thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa, con ngƣời vừa là mục tiêu
vừa là động lực xây dựng xã hội chủ nghĩa.
2.2.1. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng
thể quan niệm chung về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhu cầu phát
triển đất nƣớc đang đặt ra, đòi lại phải nhận diện và hiểu biết về chủ
nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những chi tiết, đƣờng
nét cụ thể. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu cơ bản
của cách mạng, vừa là lợi ích căn bản của quốc gia và là quan điểm
nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Vì vậy, trong quá trình thực hiện,
chúng ta cần quán triệt sâu sắc quan điểm cơ bản nhƣ là:
Một là, Lấy phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt, xây dựng văn hóa, xã hội là nền tảng tinh thần của xã hội,
tăng cƣờng quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thƣờng xuyên.
Bên cạnh đó, việc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đòi hỏi chúng ta phải thƣờng xuyên nắm vững và thực hiện
có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
82
Hai là, coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã
hội với quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Đây là vấn đề rất quan
trọng, làm cơ sở để xác định nội dung và những bƣớc đi phù hợp.
Ba là, kiến tạo và giữ vững môi trƣờng hòa bình để xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nƣớc. Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng
định vấn đề định hƣớng đƣa đất nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội là duy
nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc và xu thế thời
đại đó là mục tiêu của đổi mới theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là
dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sức hấp
dẫn của chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất
nhân văn này. Qua đó cho thấy các động lực phát triển của chủ nghĩa
xã hội, trong đó động lực con ngƣời với nhu cầu và lợi ích của họ giữ
vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện động lực, có chính sách phát
huy và kết hợp các động lực phát triển sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội
sinh động, năng động và mang tính thực tiễn.
Trong thời đại toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế cần phát huy tinh
thần độc lập, tự chủ kết hợp tiếp thu sáng tạo những thành tựu mới
trên các lĩnh vực của thời đại với sự vận động của cách mạng Việt
Nam để đề ra đƣờng lối đúng, bảo đảm vừa kiên định nguyên tắc
chiến lƣợc, vừa linh hoạt, sáng tạo trong những giải pháp tổ chức.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
lƣờng, xu hƣớng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng. Điều
đó, tác động nhiều chiều đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của nhân dân ta.
2.2.2. Quan tâm chăm lo đời sống và thực hiện tốt các chính sách
cho các dân tộc trong nƣớc.
văn minh. Đảng và Nhà nƣớc ta cần tăng cƣờng triển khai nhiều chính
sách nhằm chăm lo đời sống nhân dân, phát huy các giá trị văn hóa
của dân tộc ta, đặt biệt ở miền núi nhƣ chính sách dạy và học chữ cho
những ngƣời dân tộc thiểu số và tạo điều kiện cho các Đài Phát thanh
- Truyền hình phát triển để ngƣời dân dễ dàng kịp thời nắm bắt thông
tin, tránh bị lợi dụng.
Bƣớc vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trƣờng
nhiều thành phần theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, chính sách dân
tộc của Đảng đã đƣợc thể hiện ở các Nghị quyết Đại hội Đảng. Nghị
83
quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Thực hiện tốt các chính
sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ giúp đỡ nhau cùng phát
triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển sản xuất
hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo,
mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc” [5, tr.46]. Các dân tộc có trình
độ phát triển kinh tế – xã hội cao thì phải có trách nhiệm giúp đỡ các
dân tộc có điều kiện phát triển khó khăn hơn.
Ngay cả Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng Khoá IX về công tác dân tộc đã khẳng định chính
sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay là: “Ƣu tiên đầu tƣ phát triển
kinh tế – xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trƣớc hết, tập trung vào
phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo. Khai thác
có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền
vững môi trƣờng sinh thái. Phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cƣờng
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cƣờng sự quan tâm hỗ trợ
của Trung ƣơng và sự giúp đỡ của các địa phƣơng trong cả nƣớc phát
triển hơn” [6, tr.35]. Xuất phát từ quan điểm trên cần thực hiện một số
nhiệm vụ trƣớc mắt nhƣ:
Xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc
thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong
những năm trƣớc mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, đồng bào các
dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.
Khuyến khích đồng bào các dân tộc khai thác tiềm năng, thế
mạnh của địa phƣơng làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ƣu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào
tạo cán bộ và đội ngũ trí thức dân tộc. Kế thừa và phát huy những giá
trị văn hoá truyền thống của các dân tộc góp phần xây dựng nền văn
hoá Việt Nam đa dạng, phong phú, giàu bản sắc dân tộc.
Tăng cƣờng đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc
và miền núi, nâng cao dần mức sống của đồng bào các dân tộc, ban
hành nhiều chủ trƣơng chính sách ƣu tiên đối với đồng bào dân tộc
trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Cùng với sự quan tâm sâu sắc, chăm lo đầy đủ, cụ thể của Đảng
và Nhà nƣớc, tinh thần nỗ lực, cố gắng của đồng bào các dân tộc, tình
hình kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc đã có bƣớc chuyển biến,
84
tiến bộ đáng kể, cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số ở vùng cao,
vùng sâu, vùng xa đƣợc cải thiện rõ rệt, quyền của các dân tộc thiểu số
đƣợc bảo đảm đầy đủ và toàn diện.
3. Kết luận
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, chúng ta cần phải luôn luôn quán triệt và vận dụng sáng
tạo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc để đất nƣớc ngày càng
đạt thêm những thành tựu to lớn hơn nữa. Đồng thời việc kế thừa, phát
triển tƣ tƣởng dân tộc của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đòi
hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện tất cả các vấn đề chính
trị, kinh tế, xã hội và quốc tế.
Tài liệu tham khảo
[1]. Phạm Ngọc Anh (2013), Giáo Trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội.
[2]. Vy Xuân Hoa (2008), “Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nƣớc
trong việc đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số Việt Nam (nhân kỷ
niệm 60 năm ngày Nhân quyền thế giới - ngày 10/12)”, Trang Tin
Điện tử Ủy Ban dân tộc.
[3]. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[5]. ĐCSVN (2001): “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[6]. ĐCSVN (2003): “Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ƣơng khóa IX”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.35.
[7]. Trần Văn Phòng (2011), “Phát huy vai trò to lớn của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ
mới”, Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam.
[8]. Trần Dân Tiên (1970), “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chí Minh”, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.30.
85
TƢ DUY PHẢN BIỆN CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
SV: Lê Ngọc Hân
Lớp: ĐHGDCT12
GVHD: ThS. Lê Văn Tùng
Tóm tắt: Từ việc nghiên cứu khái niệm tư duy phản biện và vai trò
của nó, tác giả phân tích những số liệu khảo sát, phỏng vấn sinh viên,
qua đó làm rõ những lợi ích của tư duy phản biện, sự cần thiết cần
phải trang bị tư duy phản biện, tìm hiểu về những khó khăn sinh viên
gặp phải trong quá trình rèn luyện và phát triển tư duy phản biện.
Tiếp đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tư duy
phản biện cho sinh viên ngành giáo dục chính trị, Trường Đại học
Đồng Tháp.
Từ khóa: Sinh viên ngành giáo dục chính trị, Trường Đại học Đồng
Tháp, Tư duy phản biện.
1. Đặt vấn đề
Ngày nay, xã hội ngày càng hiện đại nhiều vấn đề đƣợc nảy sinh
trong cuộc sống hằng ngày. Đòi hỏi mỗi ngƣời cần phải có lập trƣờng, tƣ
tƣởng kiên định không những trong đánh giá, nhìn nhận vấn đề một cách
khách quan mà còn kịp thời đƣa ra những giải pháp, giải quyết hiệu quả.
Tƣ duy phản biện đƣợc xem là một công cụ hữu hiệu để đáp ứng những
yêu cầu trên. Đối với các nƣớc phƣơng Tây tƣ duy phản biện đã trở nên
rất quen thuộc và ở nhiều trƣờng đại học nó đã trở thành môn học điều
kiện bắt buộc đối với sinh viên khi ra trƣờng. Ở nƣớc ta tƣ duy phản biện
trong thời gian vừa qua đang nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm và ngày
càng đƣợc đánh giá đúng với vai trò và vị trí của nó.
2. Tƣ duy phản biện và vai trò của nó
2.1. Khái niệm tư duy phản biện
Có nhiều khái niệm về tƣ duy phản biện đƣợc các học giả đƣa
ra từ những khía cạnh và góc độ khác nhau. Dƣới đây là một số định
nghĩa tiêu biểu:
“Tư duy phản biện là sự suy nghĩ sâu sắc, nhạy cảm, thực tế và
hữu ích để quyết định niềm tin hay hành động – Robert Ennis.
Tư duy phản biện là một mô hình tư duy – về một chủ đề, một
vấn đề, một nội dung bất kỳ – trong đó chủ thể tư duy cải tiến chất
lượng tư duy của mình bằng việc điều khiển một cách thành thạo các
86
cấu trúc nền tảng có sẵn của tư duy và áp đặt các tiêu chuẩn của hành
động trí tuệ lên quá trình tư duy của mình - Richard Paul [Dẫn theo, 3].
Tư duy phản biện là khả năng, hành động để thấu hiểu và đánh
giá được những dữ liệu thu thập được thông qua quan sát, giao tiếp,
truyền thông, và tranh luận - Mathew Lipman” .
Theo chúng tôi, tƣ duy phản biện là quá trình tƣ duy biện chứng.
Trong đó, bao gồm hai nhân tố quan trọng đó là phân tích và xử lý
thông tin một cách nhanh chóng, nhằm đƣa ra những luận cứ quan
trọng để làm sáng tỏ vấn đề đƣợc bàn luận và đƣa ra kết quả cuối cùng.
Nội dung cơ bản của tƣ duy phản biện gồm: xác định vấn đề,
nâng cao khả năng nhận thức, hình thành giải pháp.
Xác định vấn đề: là nội dung quan trọng nhất của tƣ duy phản
biện. Vì, khi xác định đúng những vấn đề nào là trọng tâm thì chúng ta
mới xác định đúng hƣớng cần phải giải quyết vấn đề đó nhƣ thế nào?
Nâng cao khả năng nhận thức: khi đã nhận thức đúng vấn đề
cần giải quyết. Từ đó, chúng ta sẽ đƣa ra những ý kiến, quan điểm của
bản thân về vấn đề đó là đúng hay sai và có những lập luận tại sao nó
đúng hoặc tại sao sai.
Hình thành giải pháp: đó chính là quá trình tổng hợp tất cả các
dữ liệu đã đƣợc đƣa ra trong quá trình phản biện, chắt lọc những thông
tin cần thiết, thiết lập nên những giải pháp để giải quyết vấn đề đó.
2.2. Vai trò của tư duy phản biện
Tƣ duy phản biện là rất cần thiết, đặc biệt là đối với việc đào ở tạo
bậc đại học và cao đẳng. Vì thế, hiện nay một số trƣờng đã đƣa tƣ duy
phản biện vào chƣơng trình đào tạo và nó trở thành môn học chính.
Tƣ duy phản biện đã mang lại những hiệu quả thiết thực nhất,
nó không những hƣớng cho ngƣời học biết cách phân tích và xử lý vấn
đề một cách khoa học mà còn giúp chủ thể đƣa ra nhiều giải pháp giải
quyết vấn đề một cách hiệu quả. Cụ thể là:
Một là, tư duy phản biện giúp sinh viên phát triển khả năng
sáng tạo
Với lối tƣ duy sáng tạo, giúp ngƣời học có thể phát triển thêm
nhiều ý tƣởng mới mẽ, độc đáo. Từ đó, khắc phục đƣợc lối suy nghĩ
theo kiểu khập khuông, máy móc chỉ có trong sách vỡ, giáo trình.
87
Sáng tạo là một trong những kỹ năng rất cần thiết sinh viên cần
trang bị. Bởi vì, nó không chỉ quan trọng trong học tập mà còn cả đối
với cuộc sống hằng ngày. Nó giúp giải quyết vấn đề đặt ra một cách
nhanh chóng bằng việc đƣa ra những giải pháp mới thực sự hiệu quả.
Sáng tạo là khả năng tạo ra những cái mới dựa trên việc kế thừa những
yếu tố tích cực của cái cũ, đồng thời khắc phục những tiêu cực. Ngoài
ra, sáng tạo và tìm tòi còn là một trong những nhân tố quan trọng
trong việc xây dựng động lực học tập cho sinh viên.
Hai là, rèn cho sinh viên khả năng phân tích và đánh giá.
Với tác dụng của tƣ duy phản biện một vấn đề có thể đƣợc bàn
luận với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Từ đó, đƣa ra những cách
giải quyết vấn đề khác nhau làm cho chủ đề bàn luận trở nên phong
phú và đa dạng hơn. Hơn thế, tƣ duy phản biện còn có một tác dụng
khác cũng không kém phần quan trọng đó chính là giúp lôi cuốn
ngƣời học, kích thích chủ thể sử dụng phƣơng pháp công não vào
những cuộc tranh luận nhằm đi đến kết quả cuối cùng đó chính là tìm
ra chân lý.
Để phân tích và đánh giá vấn đề một cách chính xác đòi hỏi
mỗi sinh viên phải là những chủ thể khách quan trong việc nhìn nhận
và đánh giá vấn đề phải dựa vào những luận cứ khoa học mà trong quá
trình biện luận mỗi chủ thể đƣa ra để bảo vệ quan điểm của mình. Và
khi đã thu nhận hết tất cả các thông tin thì mỗi ngƣời sẽ có những cách
nhìn nhận và đánh giá khác nhau về vấn đề đó.
Ba là, giúp mỗi sinh viên trở thành những chủ thể độc lập.
Với những chủ đề bàn luận tƣ duy phản biện giúp cho ngƣời
học trở thành những chủ thể độc lập trong việc nhìn nhận, đánh giá
vấn đề, mỗi ngƣời sẽ đƣợc tự do nêu lên quan điểm của bản thân về
vấn đề đó. Đồng thời, đƣa ra phƣơng pháp giải quyết vấn đề đó một
cách tối ƣu nhất.
Bốn là, giúp sinh viên biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
người khác khi tranh luận.
Tôn trọng và lắng nghe ý kiến của ngƣời khác trong lúc bàn
bàn luận không những là học thuật trong giao tiếp nhằm thể hiện thái
độ tôn trọng ngƣời khác mà còn giúp ngƣời nghe có thể đánh giá đúng
một cách khách quan về vấn đề đƣợc đó bằng cách lắng nghe toàn bộ
những ý kiến và quan điểm của ngƣời đó.
88
Một điều sinh viên cần nên chú ý đó chính là mục đích cuối
cùng của tƣ duy phản biện là đi tìm lẻ phải hay nói cách khác là đi tìm
chân lý cho nên trong quá trình thảo luận có thể không thể tránh khỏi
những xung đột, bất đồng về ý kiến, quan điểm. Cho nên, mỗi ngƣời
cần phải giữ đƣợc bình tĩnh biết lắng nghe ý kiến của ngƣời khác cho
dù đó là ý kiến đúng hoặc sai. Chúng ta, không nên cắt ngang làm cho
bài thuyết trình gián đoạn và nhƣ vậy là xem thƣờng ngƣời khác. Tốt
nhất là chúng ta nên đợi cho họ nói lên quan điểm của bản thân họ về
vấn đề đó đang nói chúng ta sẽ góp ý những phần nào đã đúng chƣa.
Năm là, tư duy phản biện giúp sinh viên biết chắt lọc những
thông tin cần thiết cho bản thân.
Trong những cuộc tranh luận có nhiều ý kiến đƣợc đƣa có
những ý kiến đúng và những ý kiến sai đan xen lẫn nhau trong cuộc
tranh luận, đòi hỏi mỗi ngƣời học cần phải biết chắc lọc những thông
tin nào đáng tin cậy để đƣa ra kết luận chính xác.
2.3. Kết quả khảo sát tư duy phản biện của sinh viên ngành giáo
dục chính trị, Trường Đại học Đồng Tháp
2.3.1. Vài nét về sinh viên ngành giáo dục chính trị, Trường Đại học
Đồng Tháp.
Khoa Giáo dục Chính trị và Công tác xã hội tiền thân là khoa
Giáo dục Chính trị đƣợc thành lập theo Quyết định số 08/2003/QĐ-
TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc thành lập Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Đồng Tháp trên cơ sở nâng cấp Trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm
Đồng Tháp.
Ngày 09 tháng 05 năm 2013, Hiệu trƣởng trƣờng Đại học Đồng
Tháp đã ra Quyết định số 273/QĐ-ĐHĐT về việc cơ cấu tổ chức bộ
máy của trƣờng Đại học Đồng Tháp, đổi tên khoa Giáo dục Chính trị
thành khoa Giáo dục Chính trị và Công tác xã hội.
Khoa Giáo dục Chính trị - Công tác xã hội bao gồm 2 chuyên
ngành chính đó là: ngành Giáo dục Chính trị và Công tác xã hội.
Về số lƣợng sinh viên của toàn khoa đang tính ở thời điểm hiện tại
có 410 sinh viên. Trong đó, ngành chính trị có 271 sinh viên với 7 lớp.
2.3.2. Thực trạng tư duy phản biện của sinh viên ngành giáo dục
chính trị, Trường Đại học Đồng Tháp
89
Để khảo sát thực trạng tƣ duy phản biện của sinh viên ngành
giáo dục chính trị, Trƣờng Đại học Đồng Tháp chúng tôi tiến hành
thăm dò ý kiến của 50 sinh viên đang học hệ chính quy các khóa đào
tạo từ 2012 đến 2014 tại Khoa GDCT-CTXH, Trƣờng Đại học Đồng
Tháp (bao gồm sinh viên năm thứ 2, 3 và 4). Bảng khảo sát gồm 16
câu hỏi, trong đó có 14 câu hỏi đóng và 02 câu hỏi mở. Bên cạnh việc
khảo sát bằng bảng hỏi, chúng tôi phỏng vấn trực tiếp 04 sinh viên.
Thứ nhất, để khảo sát mức độ hiểu biết của sinh viên về tƣ duy
phản biện, chúng tôi sử dụng các câu hỏi số 2 và 3.
Đối với câu hỏi 2, thế nào là tư duy phản biện ?
Kết quả nhƣ sau: 12% là quá trình phân tích và xử lý thông tin,
10% là quá trình tranh luận để giải quyết vấn đề, 52% là quá trình tƣ
duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo
cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định
lại tính chính xác của vấn đề, 26% tất cả các ý kiến trên
Biểu đồ 1. Nhận thức của sinh viên về tư duy phản biện
Qua đó, chúng ta thấy rằng có đến 52% sinh viên đã hiểu đúng
khái niệm về tƣ duy phản biện đó là quá trình tƣ duy biện chứng gồm
phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo cách nhìn khác cho vấn
đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của
90
vấn đề, còn lại 48% sinh viên vẫn còn chƣa hiểu rõ về khái niệm trên,
còn khá mơ hồ và lẫn lộn với quá trình tƣ duy suy luận.
Với câu hỏi 3, bạn có hiểu biết tư duy phản biện gồm những
nội dung gì ?
Kết quả cho thấy 10% xác định vấn đề, 8% nâng cao khả năng
nhận thức, 4% hình thành giải pháp, 78% tất cả các ý kiến trên.
Theo kết quả của bảng khảo sát cho thấy có 78% ngƣời học đã
nắm vững đƣợc những nội dung cốt lỗi của tƣ duy phản biện, còn lại
22% thì chƣa nắm vững đƣợc những nội dung của phƣơng pháp tƣ
duy phản biện. Cụ thể là: 10% xác định vấn đề, 8% nâng cao khả năng
nhận thức, 4% hình thành giải pháp.
Thứ hai, để khảo sát năng lực thực hành các thao tác tƣ duy
phản biện, chúng tôi sử dụng các câu hỏi số 4.
Đối với câu hỏi số 4, các bước thực hiện tư duy phản biện ?
Theo số liệu khảo sát 62% nhận dạng những ý kiến liên quan
đến vấn đề đƣa ra, phân tích, đánh giá, trình bày kết quả của quá trình
tƣ duy lô gic, 22% nhận dạng những ý kiến liên quan đến vấn đề đƣa
ra, đánh giá, phân tích, trình bày kết quả của quá trình tƣ duy lô gic,
10% phân tích, đánh giá, trình bày kết quả của quá trình tƣ duy lô gic,
6% tất cả đều sai.
Biểu đồ 2. Nhận thức của sinh viên về trình tự tư duy phản biện
91
Từ những số liệu của bảng khảo sát chúng ta thấy rằng, có 38%
vẫn chƣa hiểu đƣợc trình tự thực hiện tƣ duy phản biện là nhƣ thế
nào? Nhƣng phần lớn sinh viên chiếm 62% đã nắm vững đƣợc quy
trình thực hiện của tƣ duy phản biện và cách thức thực hiện chúng
nhằm phát huy tối ƣu hiệu quả trong quá trình phản biện.
Thứ ba, để khảo sát nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng
và lợi ích của tƣ duy phản biện, chúng tôi sử dụng các câu hỏi 16.
Đối với câu hỏi số 16, theo bạn tƣ duy phản biện có cần thiết
đối với cuộc sống và yêu cầu công việc trong tƣơng lai không ?
Kết quả nhƣ sau: Có 46% rất cần thiết, 52% cần thiết, 0%
không cần thiết, 2% không biết.
Biểu đồ 3. Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của tư duy
phản biện đối với cuộc sống và yêu cầu công việc
Từ đó, cho thấy rằng: sinh viên đánh giá rất cao về sự cần thiết
của tƣ duy phản biện không những trong cuộc sống mà còn cả đối với
nghề nghiệp tƣơng lai chiếm đến 98%, còn lại 2 % không biết.
Thứ tư, để nắm đƣợc những khó khăn sinh viên thƣờng gặp
trong việc rèn luyện tƣ phản biện, chúng tôi sử dụng câu hỏi số 12.
Đối với câu hỏi số 12, những khó khăn bạn thƣờng gặp trong
việc rèn luyện tƣ duy phản biện là ?
92
Kết quả là 24% ngại nói, sợ nói sai, 20% không tự tin nói
chuyện trƣớc đám đông, 36% thiếu vốn từ và kỹ năng diễn đạt, 20%
diễn đạt lủng củng, thiếu mạch lạc, 0% không biết.
Biểu đồ 4. Những khó khăn sinh viên thường gặp trong việc
rèn luyện tư duy phản biện.
Mặc dù, hiểu đƣợc tầm quan trọng của tƣ duy phản biện cho
nên trong quá trình học tập sinh viên đã tích cực rèn luyện. Song quá
trình rèn luyện tƣ duy phản sinh viên đã gặp không ít khó khăn. Sau
đây là những khó khăn mà sinh viên thƣờng gặp nhất đó là: 24%,ngại
nói, sợ nói sai chiếm, 20% không tự tin nói chuyện trƣớc đám đông,
36% thiếu vốn từ và kỹ năng diễn đạt, 20% diễn đạt lủng củng, thiếu
mạch lạc, 0% không biết.
Thứ năm, để biết đƣợc ý kiến của sinh viên về những việc cần
phải làm nhằm phát triển năng lực tƣ duy phản biện của mình, chúng
tôi sử dụng câu hỏi mở số 16.
Với câu hỏi 16, theo bạn, cần phải làm gì để phát triển năng lực tƣ
duy phản biện?
Có 24% cần đọc nhiều sách để tăng thêm vốn từ, 14% tập nói
chuyện diễn đạt chỗ đông ngƣời, 6% tăng cƣờng giao tiếp, 42% tích
cực phát biểu ý kiến xây dựng bài, 8% xem bài trƣớc khi đến lớp và đi
học đầy đủ, 4% tập nói chuyện trƣớc gƣơng, 2% phải tự tin và tin
tƣởng vào khả năng của mình.
93
Biểu đồ 5. giải pháp phát triển năng lực tư duy phản biện của
sinh viên
Để phát triển năng lực tƣ duy phản biện mỗi sinh viên đã đƣa ý
kiến, quan điểm của bản thân trong quá trình rèn luyện tƣ duy phản
biện. Cụ thể nhƣ sau: có 24% cần đọc nhiều sách để tăng thêm vốn
từ, 14% tập nói chuyện diễn đạt chỗ đông ngƣời, 6% tăng cƣờng giao
tiếp, 42% tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài, 8% xem bài trƣớc
khi đến lớp và đi học đầy đủ, 4% tập nói chuyện trƣớc gƣơng, 2%
phải tự tin và tin tƣởng vào khả năng của mình. Qua đó, có thể thấy
rằng phần lớn sinh viên đều cho rằng việc tích cực phát biểu ý kiến
xây dựng bài là quan trọng nhất chiếm đến 42% và một ý kiến khác
cũng không kém phần quan trọng đó chính là cần đọc nhiều sách để
tăng thêm vốn từ chiếm 24%.
Từ những số liệu của bảng khảo sát có thể cho thấy rằng phần
lớn sinh viên đã có những hiểu biết nhất định về tƣ duy phản biện nhƣ
về: khái niệm, những nội dung cơ bản, cũng nhƣ tiến trình thực hiện
tƣ duy phản biện,…Đồng thời, nhận thức đƣợc tầm quan trọng mà tƣ
duy phản biện mang lại. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận sinh viên
vẫn còn chƣa hiểu hết đƣợc thế nào là tƣ duy phản biện, các thao tác
thực hiện cũng nhƣ những lợi ích mà tƣ duy phản biện mang lại. Tuy
nhiên, trong quá trình rèn luyện tƣ duy phản biện ngay chính bản thân
sinh viên cũng gặp không ít khó khăn. Trƣớc những thực trạng trên,
94
chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau đây nhằm góp phần giúp sinh
viên phát triển năng lực tƣ duy phản biện một cách tối ƣu nhất.
2.4. Kiến nghị giải pháp phát triển năng lực tư duy phản biện cho
sinh viên ngành giáo dục chính trị, Trường Đại học Đồng Tháp
2.4.1. Về phía nhà trường. Đƣa tƣ duy phản biện trở thành môn học
chính. Với việc bổ sung tƣ duy phản biện vào chƣơng trình đào, trở
thành một trong những môn học tạo bắt buộc đối với tất cả các sinh
viên ngành giáo dục chính trị đang học theo quy chế tín chỉ sẽ góp
phần tạo điều kiện cho tất cả các sinh viên đƣợc học tập phƣơng pháp
tƣ duy phản biện và có thể vận dụng nó trong quá trình học tập.
2.4.1.Về phía giảng viên. Một là, tổ chức dạy học, trong quá trình
giảng dạy đòi hỏi giảng viên phải sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp
để tạo nên sự đa dạng về phƣơng pháp giảng dạy. Bên cạnh đó, còn
tạo cho ngƣời học sự hứng thú về môn học đó. Từ đó, xây dựng niềm
say mê, yêu thích đối với môn học, hình thành thái độ học tập tích
cực. Hai là, về hình thức kiểm tra, đánh giá, với hình thức kiểm tra,
đánh giá nhƣ trƣớc nay giảng viên thƣờng sử dụng đó là những câu
hỏi tự luận với những nội dung chính trong sách giáo trình vẫn chƣa
đánh giá đúng đƣợc trình độ hiểu, biết và vận dụng của ngƣời học.
Trên thực tế, thì những điểm số chƣa hẳn đã phản ánh đúng đƣợc thực
lực của ngƣời học. Vì nếu ngƣời học chỉ cần học thuộc lòng và chép
lại một cách máy móc nhƣ trong giáo trình, bài giảng hoặc lời giảng
của giảng viên sẽ đƣợc điểm cao. Ngƣợc lại những ngƣời nào không
thuộc y xì từng câu, từng chữ trong bài học thì sẽ bị điểm thấp. Mặc
dù, họ vẫn hiểu và biết vận dụng những nội dung đó vào thực tế. Vì
vậy, trong kiểm tra đánh giá giảng viên nên thay đổi để đánh giá đúng
thực lực của ngƣời học bằng những câu hỏi mở nhƣ đánh giá thƣờng
xuyên, đánh giá thông qua tiểu luận, bài tập nhóm, vở tự học, thảo
luận nhóm, kết quả đánh giá và tự đánh giá, khuyến khích ngƣời học
đánh giá kết quả học tập của nhau…Nhƣ vậy, vừa có thể đánh giá
đƣợc trình độ hiểu, biết của ngƣời học. Đồng thời, đánh giá đƣợc khả
năng vận dụng những tri thức mới của bài học để giải quyết những
vấn đề mà cuộc sống đã và đang đặt ra.
4.2. Về phía bản thân sinh viên. Một là, thường xuyên cập nhật thông
tin. Trong quá trình học tập đòi hỏi sinh viên không những phải nắm
vững kiến thức về chuyên môn. Mà còn phải trang bị, cập nhật những
thông tin cần thiết đối với cuộc sống hằng ngày nhƣ: pháp luật, chính
95
trị, xã hội,…để không ngừng bổ sung vào vốn hiểu biết của mình, làm
giàu tri thức cho bản thân; Hai là, rèn kỹ năng lập luận, trình bày ý
kiến trước đám đông.Sinh viên phải trở thành những ngƣời thật năng
động không chỉ trong học tập phải thƣờng xuyên phát biểu ý kiến,
tham gia xây dựng bài. Mà còn cả trong giao tiếp hằng ngày, trong
những cuộc họp,…phải rèn cho mình thói quen trong việc thƣờng
xuyên đƣa ra ý kiến, quan điểm của bản thân đánh giá vấn đề đó; Ba
là, nỗ lực của bản thân. Tự bản thân sinh viên phải tự nổ lực học tập
phấn đấu vƣơng lên, phải đặt ra cho mình những mục tiêu, dự định
tƣơng lai để có những hƣớng đi đúng đắn.
3. Kết luận
Việc trang bị tƣ duy phản biện cho sinh viên ngành Giáo dục
chính trị Trƣờng Đại học Đồng Tháp là rất cần thiết. Với những lợi ích
mà tƣ duy phản biện mang lại không những làm cho sinh viên trở thành
những ngƣời đầy nhiệt huyết, năng động, sáng tạo. Bên cạnh đó, giúp
sinh viên tự rèn luyện cho bản thân những kỹ năng cần thiết cho nghề
nghiệp tƣơng lai, đáp ứng đƣợc yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Kết quả
nghiên cứu này cần đƣợc mở rộng về phạm vi và nội dung nghiên cứu
tiến tới có thể đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm đào tạo tƣ
duy phản biện cho ngƣời học trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ một khi
đất nƣớc đang bƣớc vào thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo [1]. Bùi Thị Loan, “Dạy và rèn kỹ năng tƣ duy phản biện cho sinh
viên”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 7(17) – Tháng 11-12/2012.
[2]. Phạm Thị Ly, “Về khái niệm tƣ duy phản biện”, Tạp chí Văn hóa
Nghệ An, số 234 ngày 10 -12 -2012.
http://lypham.net/joomla/index.php?option=com_content&task=vi
ew&id=276&Itemid=2
[3]. Richard Paul và Linda Elder, The Guide Miniature đến khái niệm
tƣ duy phê phán và Công cụ, Quỹ Critical Thinking Press, 2008).
[4]. Đỗ Kiên Trung, “Về những vai trò của tƣ duy phản biện và những
yêu cầu cho việc giảng dạy ở Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội
nhập, số 5(15) – Tháng 7-8/2012.
[5]. Huỳnh Hữu Tuệ “Tƣ duy phản biện trong học tập đại học”, Bản
tin ĐHQG Hà Nội, số 232 tháng 6 năm 2010.
news.vnu.edu.vn/btdhqghn/Vietnamese.
96
TRIẾT HỌC GIÁO DỤC CỦA KARL JASPERS
SV. Nguyễn Thị Mỹ Hòa
Lớp: ĐHGDCT11
GVHD: ThS. Lê Văn Tùng
Tóm tắt: Từ góc độ triết học, bài viết phân tích những nội dung cơ bản
trong triết học giáo dục của Karl Jaspers, một trong những triết gia
tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ XX. Theo Karl Jaspers, mục
đích của giáo dục là đào tạo con người tự do, có năng lực tự quyết;
muốn vậy các chương trình giáo dục cần hướng đến việc truyền dạy sự
hiểu biết về đời sống, giới tự nhiên và bản thân; cần coi trọng vai trò
của đối thoại dân chủ, tính chất chủ thể của cả người dạy lẫn người
học trong quá trình dạy – học. Bên cạnh việc đưa ra những nhận xét về
giá trị và hạn chế của triết học giáo dục này, bài viết đã bước đầu đề
cập những giá trị tiếp cận cho giáo dục Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: chủ nghĩa hiện sinh, giáo dục, Karl Jaspers, triết lý
giáo dục. 1. Mở đầu
Hiện nay phát triển kinh tế tri thức đƣợc xác định là một trong
những điều kiện để xây dựng và phát triển một quốc gia, điều kiện để
một nền kinh tế tri thức đƣợc phát triển trƣớc tiên cần đổi mới về giáo
dục. Đổi mới, cải cách giáo dục là con đƣờng tất yếu để làm chủ khoa
học, tiến đến góp phần vào quá trình phát triển bền vững của mỗi quốc
gia. Giáo dục Việt Nam đang trong quá trình cải cách, đổi mới cơ bản
và toàn diện với mục tiêu đào tạo những thế hệ con ngƣời Việt Nam
phát triển toàn diện về năng lực và phẩm chất. Để quá trình cải cách
giáo dục ở Việt Nam thành công ngoài những yếu tố nội tại thì việc
tiếp cận các tƣ tƣởng triết học giáo dục của các nhà tƣ tƣởng, các nhà
cải cách giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng. Trong tƣ tƣởng giáo dục
của Karl Jaspers đã đề cập đến những vấn đề về cải cách giáo dục
trong đó ông chú trọng đến vai trò của ngƣời học, theo ông trong quá
trình giảng dạy cần phải đặt ngƣời học ở vị trí trung tâm, cần xây
dựng một môi trƣờng giáo dục thân thiện. Bên cạnh là những quan
điểm của ông về mục tiêu giáo dục, chƣơng trình, nội dung và phƣơng
pháp giáo dục nhằm tạo ra một nền giáo dục toàn diện. Những triết lý
giáo dục cốt lõi đƣợc Karl Jaspers thể hiện trong “Ý niệm đại học”
chứa đựng những giá trị tham khảo bổ ích cho công tác giáo dục ở
nƣớc ta hiện nay.
97
2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Karl Jaspers
Karl Jaspers (23/02/1883 – 26/02/1969) ông là nhà triết học,
nhà phân tâm học, bác sĩ tâm thần ngƣời Đức, ngƣời có ảnh hƣởng lớn
tới thần học, phân tâm học và triết học hiện đại. Năm 1901 Karl
Jaspers vào học luật tại trƣờng đại học Hiedelberg. Từ 1903 đến 1907
Karl Jaspers theo học y khoa tại Berlin. Năm 1908 ông tốt nghiệp đại
học y. Năm 1913 Karl Jaspers đã chuyển sự chú ý sang nghiên cứu
những vấn đề triết học, lúc bấy giờ ông chịu ảnh hƣởng rất nhiều từ
Husserl ngƣời sáng lập truyền bá hiện tƣợng học và Wihelm Diltheys
cha đẻ của chú giải học. Năm 1919 tác phẩm “Tâm lý học thế giới
quan” đƣợc xuất bản, cuốn sách này chứa đựng những nội dung đánh
dấu sự chuyển biến về mặt lập trƣờng từ tâm lý học sang triết học của
Karl Jaspers. Đến năm 1932 Karl Jaspers còn xuất bản bộ sách đồ sộ
có tên “Triết học”. Năm 1919 trong cuốn “Tâm lý học thế giới quan”
Karl Jaspers thể hiện sự ảnh hƣởng rất nhiều từ Kierkegaard ông tổ
của triết học hiện sinh trung thực. Năm 1938 ông tiếp tục phát hành
cuốn “Triết học hiện sinh” trong đây ông đã phát huy hơn nữa quan
điểm triết học hiện sinh của mình. Sang năm 1947 Karl Jaspers nhận
lời mời của trƣờng đại học Bassier (Thụy Sĩ) làm giáo sƣ, đến năm
1967 ông nhập quốc tịch Thụy Sĩ và cho xuất bản nhiều cuốn sách nổi
tiếng. Sau này Karl Jaspers chuyển định cƣ về Basel và mất tại đây.
3. Những nội cơ bản trong triết học giáo dục của Karl Jaspers
3.1. Mục đích giáo dục
Trong lịch sử với những yêu cầu khác nhau của xã hội mỗi tƣ
tƣởng giáo dục hình thành cho mình mục đích giáo dục khác nhau. Bất
cứ tƣ tƣởng giáo dục nào cũng mang tính nhân văn, hƣớng đến con
ngƣời, vì con ngƣời. Triết học giáo dục của Karl Jaspers cũng không
nằm ngoài tƣ tƣởng này, theo ông con ngƣời phải có tự do để quyết
định, lựa chọn và chịu trách nhiệm về số phận cuộc đời mình. Với ý
nghĩa này nội dung triết học giáo dục của Karl Jaspers luôn hƣớng
mục đích giáo dục đến đào tạo con ngƣời tự do, nhận thức đƣợc sự tồn
tại của mình “Con ngƣời để có thể trải nghiệm về tồn tại thì họ phải
dám đi tìm chân lý bằng bất cứ giá nào” [4, tr. VIII]. Để đạt đƣợc mục
tiêu trên giáo dục phải ủng hộ con ngƣời tự do cá nhân, chịu trách
nhiệm về sự lựa chọn của mình. Con ngƣời tự do cá nhân theo Karl
Jaspers cần đƣợc sự tác động của các hiện sinh và tha nhân với nhau,
nếu không tự do này chỉ là ảo huyền, hƣ vô trong cuộc sống.
98
Karl Jaspers nhận định chính nền giáo dục đƣơng thời đã áp đặt
các định chế giá trị cuộc sống của con ngƣời, không xem xét đến sự tồn
tại của họ với tƣ cách là một hiện sinh độc đáo vốn có, vì thế ông luôn
nhấn mạnh đến mục đích giáo dục phải đào tạo con ngƣời tự do, chân
thành, dám dấn thân và có trách nhiệm về cuộc đời mình “ý nghĩa cuộc
đời con ngƣời họ phải nhìn thẳng và thông hiểu đƣợc nguồn gốc và yếu
tính thực tại với tƣ cách một con ngƣời biết suy tƣ và hành động một
cách “tự do” không để mình nô lệ vào một cái gì” [4, tr.34]. Trong tính
tự do này con ngƣời mới có quyền gặp gỡ lại chính mình qua hiện hữu
và suy tƣ đích thực của mình, để thực hiện thành công mục đích của
giáo dục thì bản thân nền giáo dục phải từ bỏ mọi cách suy tƣ quen
thuộc, ƣớc lệ xã hội, mọi tham vọng nửa vời và phiến diện. Giáo dục
phải hình thành nên những con ngƣời “hãy là chính mình” trở về với tự
do, với trách nhiệm và sự quyết định của mình.
Để hình thành nên một con ngƣời, một nhà giáo dục chân chính
đòi hỏi họ phải có đƣợc sự tự do. Để tìm đƣợc bản chất đích thực của
con ngƣời, Karl Jaspres cho rằng giáo dục cần đào tạo con ngƣời tự
do, có trách nhiệm hiện thực hóa những hiểu biết cơ bản, trải nghiệm
những gì ta có thể biết và những gì ta sẽ trở thành thông qua tri thức.
Trong quá trình đào tạo con ngƣời đi đến tri thức đích thực, giáo dục
cần giúp con ngƣời chống lại tƣ duy thực chứng và tƣ duy vị lợi trong
quá trình thực hiện hóa tri thức, chính các kiến thức cơ bản này mới
làm cơ sở khoa học cho giáo dục tiến lên phía trƣớc một cách không
ngừng nghỉ, mở rộng tri thức thành cái toàn bộ. Giáo dục đƣa con
ngƣời tìm đến tri thức đích thực, hình thành cho con ngƣời tính chân
thành, đấu tranh chống lại mọi chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa hƣ vô,
tính tầm thƣờng và sự lỗn lộn giữa tri thức đích thực và việc học thuần
túy chỉ chú trọng đến kết quả. Theo Karl Jaspers nếu giáo dục không
hình thành cho ngƣời học đƣợc tính chân thành, sẽ đẩy họ vào sự bần
cùng, với lối sống lệch lạc, trốn tránh trách nhiệm và mãi mãi đánh
mất chính mình. Vì thế giáo dục phải đào tạo con ngƣời tìm ra tri thức
với niềm đam mê theo đuổi khoa học.
3.2. Chương trình giáo dục
Với mục đích đào tạo những cá nhân ngƣời tự do, dám quyết
định có trách nhiệm. Karl Jaspers đã hƣớng đến việc hình thành nên
một chƣơng trình giáo dục dựa trên nhu cầu hiện thực của ngƣời học.
Đối với Karl Jaspers một chƣơng trình giáo dục cố định, bất biến với
những môn học bắt buộc, nội dung đƣợc xây dựng chung cho tất cả
99
mọi ngƣời là không phù hợp vì nó không xét đến cảm giác, thái độ của
ngƣời học. Chƣơng trình giáo dục không phải là hệ thống tri thức
khách quan mang đi áp đặt cho ngƣời khác, mà làm sao cho chúng
giúp ngƣời học phát huy tiềm năng, đáp ứng nhu cầu hiện thực của
ngƣời học. Nếu chƣơng trình giáo dục mang quá nhiều tính cụ thể sẽ
làm ngƣời học lệ thuộc vào giáo trình và bị chi phối bởi tài liệu, làm
suy yếu năng lực tƣ duy độc lập và khả năng tự đánh giá. Muốn tồn
tại, phát triển con ngƣời cần thích nghi với sự vận động không ngừng
của xã hội thông qua khả năng tự học hỏi của con ngƣời. Do đó một
chƣơng trình học cứng nhắc sẽ kìm chế khả năng học hỏi và phát triển
của họ. Từ đây cho thấy giáo dục cần phải mở rộng quy mô chƣơng
trình đào tạo bằng nhiều hình thức, thông qua thực tiễn và đào tạo
đúng với bản chất thực sự khoa học của tri thức. Theo Karl Jaspers
chƣơng trình giáo dục cần có sự thống nhất giữa đào tạo chuyên
nghành, giáo dục con ngƣời toàn diện và nghiên cứu, giữa chúng
không thể tách biệt nếu một trong các yếu tố trên bị chia cắt thì bản
chất trí tuệ của giáo dục sẽ bị phá hủy.
Karl Jaspers quan niệm chƣơng trình giáo dục đặt ra phải dựa
trên năng lực của những ngƣời học khá, giỏi. Ngƣời học trung bình sẽ
tìm cách để vƣơn lên “ở đâu việc đào tạo đƣợc điều chỉnh theo nhịp
độ của những kẻ thông minh nhất giữa đám thiểu số hứa hẹn đã nêu
trên thì ở đó đa số sinh viên tầm thƣờng sẽ phải hết sức nổ lực”[4,
tr.72]. Một ngƣời học chân chính họ không bị bối rối trƣớc khối lƣợng
lớn của tri thức, các hƣớng dẫn nhƣ đề cƣơng môn học, sẽ làm mất đi
sự tự do sáng tạo của ngƣời học. Karl Jaspers cho rằng một nền đại
học sẽ không còn là nó nữa nếu những sinh viên có đủ năng lực, khả
năng lại bị dẫn dắt theo một giáo trình cố định, chịu sự kiểm soát định
kỳ bằng những kỳ thi, vì vậy ông cho rằng chỉ cần một kỳ thi duy nhất
là đủ, không cần chuỗi dài các kỳ thi “những kỳ thi và điểm số, thứ
hạng phải đƣợc đƣa ra càng hiếm hoi càng tốt. Nếu chúng càng nhiều
thì càng khó quản lí chúng một cách có trách nhiệm. Nếu chúng càng
ít đi, thì chúng có thể đƣợc quản lí một cách nghiêm túc và chu đáo”
[4, tr.144-145]. Các nhà giáo dục cần cải thiện việc thi cử làm cho
chúng mang một bầu không khí tri thức, tính sáng tạo, thể hiện khả
năng của ngƣời học, “các kỳ thi đƣợc tiến hành từ sự thẩm định về
cách trình bày và thành quả của ngƣời học trong các xê-mi-na và
những dạng thức làm việc nhóm” [4, tr.143]. Trong quá trình tổ chức
kỳ thi các nhà giáo dục không chỉ chú ý đến tri thức về thực kiện mà
100
còn phải chú ý cách tiến hành của thí sinh, loại phƣơng pháp mà ngƣời
học sử dụng, khả năng nhìn nhận, viết, nói về một chủ đề đƣợc nêu ra.
Đồng thời nội dung của kỳ thi, nhà giáo dục cần tôn trọng sự tự do lựa
chọn của thí sinh.
Với chƣơng trình giáo dục hƣớng đến việc đáp ứng nhu cầu
hiện thực của ngƣời học, do đó theo Karl Jaspers nội dung giáo dục
cần dạy cho ngƣời học hai loại kiến thức cơ bản. Thứ nhất: những
kiến thức về khoa học đời sống, về thế giới tự nhiên (dạy con ngƣời
hiểu biết sự vật). Thứ hai: những kiến thức về chính con ngƣời, với
hiện diện là nhân vị sống trong thế giới tự do chính ta quyết định lựa
chọn (dạy con ngƣời biết cuộc đời họ có ý nghĩa gì). Với loại kiến
thức thứ nhất, Karl Jaspers cho rằng con ngƣời chỉ biết chấp nhận và
gắn liền chúng với cuộc sống của mình, chứ không thể thay đổi chúng.
Với loại kiến thức thứ hai, Karl Jaspers xem chúng quan trọng hơn và
chúng mang tính cá nhân của con ngƣời. Tồn tại trong thế giới vô tận
và hiện hữu trong đời sống xã hội, con ngƣời phải đi tìm bản chất đích
thực của họ, sự ƣu tiên cho kiến thức khoa học về đời sống của con
ngƣời không có nghĩa là xem nhẹ kiến thức khoa học. Ở đây cần phải
giáo dục cho ngƣời học cả hai loại kiến thức này, hình thành cho
ngƣời học sự hiểu biết toàn diện, giúp họ đƣa ra lựa chọn và quyết
định chính xác, dựa trên sự hiểu biết đƣợc kiến tạo trƣớc đó, và do đó,
nhƣ ông viết: “giáo dục tác động có ý nghĩa nhất lên những ngƣời
chƣa quyết định về bản thân mình” [4, tr.127].
3.3. Phương pháp giáo dục
Để đạt đƣợc mục đích giáo dục, giúp con ngƣời cá nhân nhận
thức đƣợc ý nghĩa tồn tại, hình thành nên cách sống riêng của mình,
theo Karl Jaspers cần phải làm thay đổi phƣơng pháp dạy học truyền
thống. Với phƣơng pháp truyền thống ngƣời học mang kiến thức do sự
áp đặt của ngƣời thầy, ngƣời học không đƣợc phát huy khả năng sáng
tạo, mà ngƣợc lại phải tuân theo lối độc thoại, truyền thụ kiến thức
một chiều, làm ngƣời học đánh mất sự tồn tại, sự hiện hữu, sự tự do
của họ trong bài học, trong cuộc sống. Ngƣời học cảm thấy sự hiện
diện của mình trong lớp học là sự thừa thải, vô nghĩa, không có giá trị.
Do đó theo Karl Jaspers cần phải thay đổi phƣơng pháp dạy mới, giúp
ngƣời học nhập cuộc vào bài giảng của thầy, phát huy khả năng sáng
tạo của bản thân và tự do quyết định trong giới hạn lớn nhất. Từ
những kiến giải này, Jaspers đề cập các phƣơng pháp giáo dục sau.
101
Với phương pháp giáo dục Socrates, cả thầy và trò cùng đứng
trên một bình diện, họ đƣợc thảo luận, đối thoại cùng nhau. Phƣơng
pháp này không tạo sự ép buộc cho ngƣời học mà khuyến khích sự tự
nguyện, tính chủ động và tự giác của ngƣời học, ở đây không tồn tại
một hệ thống giáo dục cứng nhắc, bất biến “chỉ có sự chất vấn và sự
vô tri tối hậu đối diện với cái tuyệt đối” [4, tr.57]. Với phƣơng pháp
này trách nhiệm cá nhân đƣợc thể hiện và giáo dục đƣợc xem là sự
“hộ sinh” đỡ đẻ của ngƣời học. Ngƣời học đƣợc giúp đỡ để hình thành
những khả năng và sự sáng tạo của mình “ngƣời học đƣợc đánh thức
để nhận rõ những năng lực của chính mình, không bị thúc ép từ bên
ngoài” [4, tr.58]. Dạy học không phải là một quá trình truyền thụ cho
ngƣời học các tri thức có sẵn, mà phải dẫn dắt khơi gợi “ham muốn”
cho họ đi tìm tri thức, bồi dƣỡng tinh thần kiến tạo tri thức, tự quyết
định và lựa chọn tri thức riêng cho mình. Chính phƣơng giáo dục
Socrates đã thôi thúc sự hiểu biết của ngƣời học. Ở phƣơng pháp này
ngƣời thầy đẩy những môn sinh ra khỏi mình để họ quay lại với chính
bản thân họ, tìm về bản chất đích thực mà con ngƣời đang tìm kiếm,
ngƣời thầy sẽ ẩn giấu mình để ngƣời học tự do thể hiện khả năng của
họ. Đồng thời mối quan hệ giữa thầy và trò ở đây không phải là lệ
thuộc, phục tùng mà là mối quan hệ bình đẳng kiểu Socrastes “quan
hệ tranh đua vì chân lý”, hai bên coi trọng tiêu chuẩn chứ không coi
trọng quyền uy. Với lối đào tạo truyền thống đƣợc đồng hóa với các
dòng tu và học viện quân sự, tạo nên sự cứng nhắc trong quá trình đào
tạo “khiến cá nhân ngƣời học không thể có ý chí hiếu tri chân chính.
Nó chặn đứng sự phát triển độc lập của con ngƣời vốn không thừa
nhận một nguồn mạch hoặc kết nối nào khác hơn là bản thân thƣợng
đế”[4, tr.61]. Để loại bỏ tính cứng nhắc khuôn mẫu đó, giáo dục phải
mang hình thức của thảo luận và sự đối thoại cùng nhau, nghĩa là
mang tinh thần dân chủ sâu sắc. Buổi trao đổi thảo luận giữa thầy và
trò đƣợc diễn ra nghiêm túc và sinh động, “họ sẽ cùng nhau cố gắng
nêu vấn đề thật minh bạch và chuẩn xác sao cho những xung động
trong mỗi ngƣời đƣợc đánh thức để có những đóng góp cá nhân, vững
chãi về sau này”[4, tr.70]. Với phƣơng pháp giáo dục Socrates thầy và
trò gặp nhau trên cùng bình diện, tìm thấy lợi ích nhờ sự trao đổi cùng
nhau, giúp ngƣời học tìm tòi khắc sâu tri thức, góp phần phát triển trí
tuệ của ngƣời học. Phƣơng pháp Socrates theo Karl Jaspers nó khắc
phục đƣợc lối truyền thụ một chiều, tránh mối quan hệ máy móc giữa
thầy và trò, thông qua đối thoại ngƣời học luôn phải chú ý, phải lựa
102
chọn, quyết định trong mọi tình huống của giờ học, qua đây giúp
ngƣời học hiểu đƣợc trong thế giới này có rất nhiều khó khăn, cạm
bẫy ngoài đời sống, đòi hỏi họ phải biết lựa chọn, quyết định và có
trách nhiệm với sự lựa chọn, quyết định đó.
Với phương pháp thuyết giảng, theo Karl Jaspers phƣơng pháp
thuyết giảng làm ngƣời học dễ hiểu, dễ tiếp thu “trình ra những tƣ liệu
phải đƣợc học làm sao để ngƣời nghe có thể hình dung ra chúng đƣợc
thu thập nhƣ thế nào và vì những lý do gì” [4, tr.66]. Ngoài ra chúng
còn “đánh thức cái xung năng muốn hình dung cái toàn thể” của thế
giới tri thức mà ngƣời học muốn đạt đến. Mỗi một bài thuyết giảng
chúng có những đặc điểm, giá trị ý nghĩa khác nhau đối với ngƣời học,
có những bài thuyết giảng chúng lôi cuốn ngƣời nghe một cách trí tuệ,
có những bài chúng chuyển tải một sự nghiên cứu đích thực cho ngƣời
học. Qua thuyết giảng ngƣời học cảm nhận đƣợc sự tự do của mình vì
không có một luật lệ nào cho một bài thuyết giảng hay. Phƣơng pháp
thuyết giảng chúng truyền tải tính trách nhiệm, sự nghiêm túc chân
thành của thầy cho ngƣời học. Phƣơng pháp này giúp ngƣời học cảm
nhận không có gì là nhân tạo về tƣ duy và ngƣời học đƣợc hòa nhập
vào cuộc nghiên cứu, sự giảng dạy đích thực của ngƣời thầy “ngƣời
thầy cho chúng ta tham gia vào trong con ngƣời trí tuệ sâu thẳm nhất
của ông” [4, tr.68]. Qua đây ngƣời học đƣợc ngƣời thầy dẫn dắt tiếp
cận các vấn đề một cách nghiêm túc, trách nhiệm và từ bỏ mọi thứ giả
tạo nhằm đạt tới những giá trị chân thật trong đời sống xã hội.
Với phương pháp cá biệt hóa theo Karl Jaspers mỗi con ngƣời
đƣợc sinh ra ở hoàn cảnh khác nhau, đời sống tinh thần cũng không
giống nhau, họ cũng đứng ở một địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình
khác nhau.Vì thế Karl Jaspers cho rằng phƣơng pháp giáo dục họ cũng
không giống nhau đƣợc, mà cần có sự linh động, đa dạng để phù hợp
với mục đích của ngƣời học. Karl Jaspres phê phán giáo dục truyền
thống với lối dạy của trƣờng trung học, làm ngƣời học mất đi tính cá
nhân, không phát huy đƣợc tiềm năng sáng tạo.Với lối dạy truyền
thống một chiều, khuôn mẫu ngƣời học đƣợc cho vào những nhà máy
để chế biến, nhào nặn theo một mô thức giống nhau và sản xuất ra một
loạt sản phẩm phù hợp với ý tƣởng của ngƣời sản xuất chứ không theo
ý muốn của ngƣời học. Ở đây thầy là ngƣời đƣa ra mệnh lệnh, trò là
ngƣời tuân theo, giữa thầy và trò không có sự hòa nhập. Vì thế Karl
Jaspres đã kêu gọi ngƣời học thoát ra khỏi sự ràng buộc, những chuẩn
mực định sẵn, giáo điều để đến với phƣơng pháp giáo dục đích thực
103
và tính sáng tạo, tính cá nhân con ngƣời sẽ đƣợc tôn trọng, triết học
giáo dục của Karl Jaspers hƣớng đến sự tồn tại đích thực, hình thành
nên giá trị tự thân của con ngƣời. Điều này khẳng định lại một thuộc
tính nội tại của giáo dục, rằng giáo dục từ trong sâu thẳm đã bao hàm
trong nó việc chống lại các giáo điều, vô minh, tức nó là một quá trình
khai phóng.
3.4. Quan hệ thầy- trò Trong nội dung triết học giáo dục của mình Karl Jaspers luôn
xem trọng, phát huy tối đa vai trò, sự sáng tạo của ngƣời học. Để đạt
đƣợc mục tiêu này theo Karl Jaspers ngƣời thầy có vai trò quan trọng
trong quá trình giáo dục. Karl Jaspers quan niệm nếu một nền giáo dục
chỉ là để truyền thụ kiến thức thì ngƣời thầy chỉ cần có kiến thức
chuyên môn là đủ nhƣng ở đây giáo dục là quá trình thống nhất. Giáo
dục toàn diện từ tri thức, phẩm chất cho ngƣời học, khi đó đòi hỏi bản
thân ngƣời thầy phải chu toàn về nhân cách, trách nhiệm khi giáo dục
trò. Ngƣời thầy phải có trách nhiệm trƣớc trò và phải có lƣơng tâm
nghề nghiệp. Đồng thời ngƣời thầy phải chịu trách nhiệm về nội dung
chƣơng trình và phƣơng pháp dạy cho trò, họ phải biết học hỏi, suy
tính làm thế nào đổi mới tạo nên những tiết học sinh động, sáng tạo
đầy trách nhiệm đối với trò. Theo Karl Jaspers ngƣời thầy cần phải
khơi gợi sự độc lập suy nghĩ, rèn luyện óc sáng tạo cho trò, thể hiện
mục đích lựa chọn và quyết định của họ. Ngoài ra nhà giáo dục phải
hình thành khả năng tự học, trong đời sống hằng ngày cho trò, coi đó
là quá trình tự do lựa chọn, rèn luyện nhận thức sâu sắc về con đƣờng
học tập. Xuất phát từ quan điểm học ở đây không chỉ là học các tri
thức, chuẩn mực xã hội, mà trò phải nhận thức đƣợc ý nghĩa sự tồn tại
chính mình, đƣa ra lựa chọn, quyết định và chịu trách nhiệm xây dựng
cuộc sống cho riêng mình. Với tƣ cách là chủ thể giáo dục, trò phải
biết lựa chọn, quyết định bản thân cần học những gì, học nhƣ thế nào
và học bao nhiêu là đủ. Mục đích của trò là làm sự tồn tại của bản thân
trở nên phong phú hơn, giúp họ tìm thấy giá trị tồn tại của bản thân,
cùng với cách thức thực hiện hữu, quyết định con đƣờng đi và trách
nhiệm đối với sự lựa chọn đó. Trong quá trình giáo dục Karl Jaspers
xem cả thầy lẫn trò đều là những cá nhân có tính chủ thể của giáo dục,
giữa họ phải thật sự “dân chủ” tôn trọng hợp tác lẫn nhau phát huy tối
đa khả năng sáng tạo của ngƣời học. Đây đƣợc xem là sự “truyền
thông” giữa thầy và trò trong giáo dục. Trong mối quan hệ truyền
thông giữa thầy và trò không có một sự vật gì ngăn cản “ngƣời nói
104
luôn có một vị trí trong mối tƣơng quan trọn vẹn với ngƣời nói” [4,
tr.75]. Ở đây quá trình học đƣợc diễn ra tự nhiên, thoải mái, tự do
không hề có sự áp đặt hay gò bó nào. Chỉ có đứng trên bình diện dân
chủ, tự do thì thầy và trò mới thông hiểu, cảm nhận đƣợc chân lý thật
sự của tri thức. Nếu mối quan hệ giữa thầy và trò không đƣợc xây
dựng trên sự dân chủ, tự do thì vai trò chủ thể của ngƣời học sẽ mất đi.
Sự tồn tại của ngƣời học khi đó chỉ nhƣ sự tồn tại của sự vật trong thế
giới, không có bản chất, chủ thể và cá tính, từ đây quá trình giáo dục
sẽ rơi vào trạng thái truyền thụ một chiều, làm mất đi bản chất đích
thực của sự giáo dục.
4. Giá trị, hạn chế và giá trị tiếp cận đối với giáo dục Việt Nam
4.1. Giá trị và hạn chế
Triết học giáo dục của Karl Jaspers chứa đựng những giá trị
sâu sắc có tính chất tham khảo cho các nền giáo dục ở các quốc gia
hiện nay, những giá trị trong triết lý giáo dục của ông nổi bật ở
những điểm sau:
Thứ nhất, triết học giáo của Karl Jaspers có sự thống nhất và
kết hợp linh hoạt, chặt chẽ giữa mục đích, chương trình, nội dung và
phương pháp giáo dục. Karl Jaspers đã xây dựng mục đích giáo dục là
đào tạo nên con ngƣời tự do. Vì thế hình thức giáo dục phải tạo cho
ngƣời học sự linh hoạt, mang tính gợi mở, không đƣợc gò bó, cứng
nhắc theo khuôn mẫu nhƣng phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa mục
đích, chƣơng trình, nội dung và phƣơng pháp giáo dục.
Thứ hai, tư tưởng giáo dục của Karl Jaspers phát huy cao nhất
sự tự do, tính trách nhiệm và sự sáng tạo của người học. Karl Jaspers
quan niệm con ngƣời luôn tự do và không bị chi phối bởi bất cứ tha
nhân nào. Từ đây giáo dục phải hƣớng đến tính cá nhân làm cho mỗi
ngƣời nhận thức sự tồn tại của mình, có thái độ đúng đắn, có tinh thần
trách nhiệm. Do đó trong quá trình giáo dục cần chú trọng xây dựng
các tri thức có tính định hƣớng làm khơi gợi khả năng tự học và năng
lực tƣ duy sáng tạo của ngƣời học.
Thứ ba, tư tưởng giáo dục của Karl Jaspers hình thành nên
tính giáo dục toàn diện. Mục đích giáo dục theo quan điểm của Karl
Jaspers là đào tạo những con ngƣời tự do, dám chịu trách nhiệm trƣớc
những lựa chọn của mình. Muốn đạt đƣợc điều này giáo dục phải có
sự tích hợp, thống nhất tri thức lại với nhau từ các môn khoa học cho
đến các môn nhân văn. Đây chính là tiền đề để các nhà giáo dục hiện
đại xây dựng chƣơng trình, đƣờng lối giáo dục riêng cho mình.
105
Thứ tư, phương pháp giáo dục của Karl Jaspers là phương
pháp giáo dục mang tính tích cực. Bằng những phƣơng pháp giáo dục
tích cực trong tƣ tƣởng giáo dục Karl Jaspers nhƣ phƣơng pháp
Socrates (đối thoại), phƣơng pháp thuyết giảng và phƣơng pháp giáo
dục cá biệt hóa. Các phƣơng pháp này tạo nên sự tƣơng tác giữa ngƣời
dạy và ngƣời học, ở đây ngƣời học là trung tâm, là chủ thể trong các
hoạt động giáo dục.
Thứ năm, tư tưởng giáo dục của Karl Jaspers hướng đến tính
nhân văn sâu sắc. Với quan niệm giáo dục hƣớng đến sự tự do của
con ngƣời, vì con ngƣời, để con ngƣời đƣợc sống đúng với bản chất
của mình. Tƣ tƣởng giáo dục của Karl Jaspers giúp ngƣời học nhận
thấy ý nghĩa cuộc đời mình, hình thành cho ngƣời học tính lựa chọn,
quyết định và xây dụng cuộc sống đầy ý nghĩa.
Bên cạnh những mặt tích cực, tƣ tƣởng triết học giáo dục của
Karl Jaspers cũng có những hạn chế nhƣ sau.
Thứ nhất, tư tưởng giáo của Karl Jaspers tuyệt đối hóa tự do,
lợi ích cá nhân của người học, hạ thấp tự do, lợi ích của cộng đồng xã
hội. Với việc tuyệt đối hóa sự tự do của cá nhân ngƣời học trong tƣ
tƣởng giáo dục của Karl Jaspers đã vô tình làm mất đi sự tự do, lợi ích
của cộng đồng xã hội. Thực tế xã hội cho thấy, ngoài mục đích phục
vụ nhu cầu cá nhân của ngƣời học, sự phát triển của giáo dục còn để
phục vụ Nhà nƣớc và sự phát triển của xã hội. Đồng thời việc tuyệt
đối hóa tự do cá nhân Karl Jaspers vô tình đẩy ngƣời học vào tƣ tƣởng
xem nhẹ sự liên kết cộng đồng, xã hội, hình thành nên “cái tôi” cá
nhân trong mối quan hệ với ngƣời học và xã hội bên ngoài.
Thứ hai, phương pháp giáo dục của Karl Jaspers chỉ áp dụng
cho số ít người. Các phƣơng pháp trong tƣ tƣởng giáo dục của Karl
Jaspers nó hƣớng đến sự tự do của ngƣời học, nhƣng sự tự do này
chúng chỉ tiếp cận trong một vài đối tƣợng mà chúng định hƣớng và
luôn đòi hỏi ở năng lực chủ thể của mỗi ngƣời học khả năng nhận
thức vấn đề. Nhƣng không phải ngƣời học nào cũng có năng lực chủ
thể, vì thế các phƣơng pháp giáo dục của Karl Jaspers đề cập đến chỉ
có thể áp dụng cho số ít ngƣời.
4.2. Những giá trị tiếp cận cho giáo dục Việt Nam
Hiện nay nền giáo dục Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
cần phải giải quyết, để quá trình cải cách giáo dục thật sự thành công,
đó là những vần đề về nội dung, phƣơng pháp giáo dục, chất lƣợng
giáo dục và vấn đề thi cử và tổ chức thi cử. Về nội dung, giáo dục Việt
106
Nam mang nặng tính lý thuyết xem nhẹ thực hành trong khi đó để
phát huy đƣợc tính năng động sáng tạo của chủ thể thì yếu tố thực
hành, thực nghiệm trong quá trình giáo dục là rất quan trọng. Về
phƣơng pháp, tuy đã có những thay đổi nhƣng yếu tố truyền thống
trong phƣơng pháp giảng dạy ở giáo dục Việt Nam vẫn còn tồn tại
điều này là một sự cản trở đối với quá trình đổi mới giáo dục. Về chất
lƣợng, giáo dục Việt Nam vẫn còn thấp so với các nƣớc trong khu vực
và thế giới dù chi phi đầu tƣ cho giáo dục ở Việt Nam là rất lớn chiếm
gần 20% ngân sách nhà nƣớc mỗi năm. Về vấn để thi cử và tổ chức
thi cử ở Việt Nam vẫn còn nặng nề gây áp lực cho ngƣời học, làm hao
tốn chi phí. Vấn đề này cũng chính là khâu yếu kém nhất trong giáo
dục hiện nay tạo ra nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội nhƣ chạy điểm,
chạy bằng, bệnh thành tích trong giáo dục. Bên cạnh đó, giáo dục Việt
Nam vẫn chƣa cho thấy sự thống nhất chặt chẽ giữa mục tiêu, chƣơng
trình, nội dung và phƣơng pháp giáo dục. Trong tƣ tƣởng triết học
giáo dục Karl Jaspers ông đề cập đến những vấn đề về tính thống nhất
chặt chẽ giữa mục tiêu, chƣơng trình, nội dung và phƣơng pháp giáo
dục. Trong quan điểm của Karl Jaspers về giáo dục ông luôn xem nhẹ
việc thi cử, để cao vai trò tự học và khả năng phát huy tƣ duy sáng tạo
của ngƣời học, ông luôn đặt ngƣời học ở vị trí trung tâm của quá trình
giáo dục. Những giá trị trong triết học giáo dục của Karl Jasper có ý
kiến tiếp cận sâu sắc cho giáo dục Việt Nam, là cơ sở để các nhà giáo
dục Việt Nam hoạch định các giải pháp, phƣơng hƣớng giải quyết các
vấn đề bất cập của giáo dục Việt Nam hiện nay. Nhƣ vậy, triết học
giáo dục Karl Jarspers không chỉ có giá trị lý luận mà còn có giá trị
thực tiễn có tính tham khảo sâu sắc đối với nền giáo dục Việt Nam.
5. Kết luận
Tƣ tƣởng triết học giáo dục của Karl Jaspers hƣớng đến sự tự
do của con ngƣời, luôn xem con ngƣời là trung tâm của quá trình giáo
dục. Do đó trong triết học của ông luôn có sự thống nhất giữa mục
đích, chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp giáo dục. Những quan
điểm trong triết lý giáo dục của Karl Jaspers có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc, nó chứa đựng những giá trị mới cho sự tiếp cận, là cơ sở
cho những giải pháp cho quá trình cải cách giáo dục ở các quốc gia
hiện nay, trong đó có giáo dục Việt Nam.
107
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Thanh Bình (2008), Giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Chủ nghĩa hiện sinh: Lịch sử và sự
hiện diện ở Việt Nam, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
[3]. Nguyễn Tiến Dũng, Lê Văn Tùng (2011), “Tiếp cận quan điểm
lịch sử triết học của Karl Jaspers”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 8
(156), tr.6-11.
[4]. Karl Jaspers (2013), Ý niệm đại học, Bản dịch của Hà Vũ Trọng
và Mai Sơn, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
[5]. Karl Jasper (2004), Triết học nhập môn, Bản dịch của Lê Tôn
Nghiêm, Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây,
Hà Nội.
[6]. Karl Jaspers (1941), On My Philosophy,
https://www.marxists.org/reference/subject/philosophy/works/ge/jaspe
rs.htm
[7]. Karl Jaspers (1953), The Origin and Goal of History, translated by
Michael Bullock, Yale University Press.
[8]. Karl Jaspers (1958), The Future of Mankind, translated by
E.B.Ashton, University of Chicago Press.
[9]. Nhiều tác giả (2003), Một góc nhìn của tri thức (tập một), Tạp chí
Tia Sáng & Nxb. Trẻ, Hà Nội.
[10].Trần Quốc Toản chủ biên (2012), Phát triển giáo dục trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
108
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC NHÂN VĂN CHO
HỌC SINH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
QUA MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN SV: Nguyễn Thị Cẩm Tiên
Lớp: ĐHGDCT14B
GVHD: ThS. Lê Kim Oanh
Tóm tắt: Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất chứa đựng nhiều
giá trị văn hóa tốt đẹp. Mục đích của bài báo hướng đến là khai thác
những giá trị ấy và vận dụng nó vào trong quá trình giáo dục đạo đức
cho học sinh theo hướng tích cực, hiệu quả. Bài báo nêu ra những giá
trị văn hóa truyền thống của Vùng Đồng bằng sông Cửu Long và đưa
ra những giải pháp góp phần nâng cao nâng cao hứng thú học tập môn
Giáo dục Công dân cho học sinh ở các trường Phổ thông thuộc vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, giúp học sinh có kế hoạch tự hoàn thiện
đạo đức của bản thân theo hướng nhân văn, tiến bộ góp phần vào công
tác giáo dục thế hệ trẻ trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Từ khóa: Giá trị, đạo đức, Giáo dục giá trị đạo đức nhân văn, học
sinh, Đồng bằng sông Cửu Long.
1. Đặt vấn đề
Thế kỉ XXI với xu hƣớng chung của toàn cầu là những tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, các quốc gia trên thế giới
đều nằm trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa. Qua đó, tạo nên nhiều cơ
hội và điều kiện thuận lợi cho việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu ngày
càng cao về vật chất và tinh thần ở con ngƣời.Tuy nhiên, sau những
mặt tích cực đã nêu, thì chúng ta thấy rằng hạn chế của sự phát triển
ấy cũng rất nhiều. Mặt trái của xã hội mà chỉ chạy theo guồng xoáy
của đồng tiền thì làm cho con ngƣời dễ trở nên vô cảm, thói chủ nghĩa
cá nhân, vị kỉ. Học sinh với phần lớn thời gian là tiếp xúc nhiều với
trƣờng học, gia đình ít có những trải nghiệm cuộc sống, cộng thêm
tâm lý lứa tuổi mới lớn dễ tiếp nhận và khó phân biệt bài trừ cái xấu.
Phƣơng tiện vật chất đầy đủ đôi khi tác động ngƣợc chiều lại với mặt
tốt mà nó đem lại cho con ngƣời. Chẳng hạn, gần đây một bộ phận
giới trẻ vì phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện vật chất mà dần có tính ỷ
lại, lƣời nhác, chậm tiếp thu, bảo thủ. Công nghệ thông tin phát triển,
bên cạnh mặt tích cực cũng đem đến nhiều hậu quả nghiêm trọng cho
xã hội nhƣ: hiện tƣợng chạy theo mốt, nghiện game, nghiện facebook,
những phim ảnh mang tính chất đồi trụy, bạo lực...Khả năng giao tiếp
109
của ngƣời xƣa tốt bao nhiêu thì ngày nay năng lực giao tiếp, bày tỏ
tình cảm ở thế hệ trẻ đang có nguy cơ bị mai một. Bởi lẽ, các em dành
quá nhiều thời gian cho việc ăn ngủ cùng thế giới ảo trên mạng, dán
mắt vào chiếc điện thoại mọi lúc mọi nơi mà quên đi những giá trị
đích thực của cuộc sống đang diễn ra quanh mình. Không có gì ngạc
nhiên, vì nhiều năm qua, ngƣời dân ta ngày càng phát sốt với hàng
loạt các cuộc trộm cắp, giết ngƣời, học sinh đánh nhau trong khi lứa
tuổi phạm tội thì ngày càng trẻ hóa. Thực trạng này xuất phát từ đâu?
Có phải lỗi hoàn toàn ở các em không? Xã hội cần làm gì để khơi dậy
trong các em tìm về đúng bản chất đạo đức vốn có đó. Phải chăng là
những giá trị đạo đức nhân văn mà chính cha ông đã truyền lại, chúng
ta chỉ tạm lãng quên. Rồi chính giáo dục sẽ mang lại cho chúng ta cái
nôi bản nguyên ban đầu.Thật đúng thời điểm khi ta nhắc lại lời lúc
sinh thời của chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận xét về vai trò của giáo
dục: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn/ phần nhiều do giáo dục mà nên”
[7] Nghiên cứu cho thấy khoảng cách giữa nhận thức và hành động
đạo đức là rất lớn “Số liệu nghiên cứu khá nhiều nhưng có thể thấy
rằng có sự mâu thuẫn giữa nhận thức, thái độ và hành vi? Nhận thức
giá trị đạo đức và nhân văn rất quan trọng nhưng thái độ thì chưa
thật tích cực và hành vi còn rất bộc phát… Xin đơn cử như hơn 80%
cho rằng giá trị đạo đức là quan trọng nhưng những hành vi tích cực
hướng đến nó một cách thực sự qua các tình huống trải nghiệm chỉ là
40-45%. Sự chênh lệch giữa các mức độ chính là con số biết
nói…”[8]. Để khẳng định vai trò của việc giáo dục đạo đức cho học
sinh ở thế hệ thanh thiếu niên giảm dần. Và giúp học sinh có nhiều
hiểu biết và thật sự hứng thú sâu sắc với môn GDCD tôi mạnh dạn lựa
chọn Vùng đồng bằng Sông Cửu Long để tìm hiểu, khai thác những
giá trị văn hóa nơi đây lồng ghép vào chƣơng trình dạy và học môn
GDCD vì nó dễ dàng cho việc tiếp nhận của học sinh, khi giúp các em
quay về với chính những giá trị văn hóa, đạo đức của gia đình, của
quê hƣơng mình. Từ các lý do trên, tôi nhấn mạnh rằng việc giáo dục
giá trị đạo đức nhân văn cho học sinh THPT ở Vùng đồng bằng Sông
Cửu Long là việc làm rất cần thiết và cấp bách hiện nay.
2. Hệ thống giá trị đạo đức nhân văn Vùng đồng bằng Sông Cửu Long
Để đi vào vấn đề, trƣớc tiên chúng ta cần tìm hiểu giá trị đạo đức
nhân văn là gì? Theo từ điển Tiếng Việt cho rằng “giá trị là cái làm
cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa là đáng quý về một mặt nào đó”,
còn đạo đức là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội
110
thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và
đối với xã hội”. Theo nghĩa hẹp, “đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của
con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có” [9].
Nhân văn: cần hiểu theo ý nghĩa từng từ. Nhân là ngƣời, văn là vẻ
đẹp. Nhân văn có thể hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con ngƣời. Nhƣ
vậy, chúng ta hiểu giá trị đạo đức nhân văn là những phẩm chất, giá trị
tốt đẹp ở con ngƣời có ích lợi trong cuộc sống, là những giá trị tinh
thần nhƣ trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách, hƣớng đến khẳng định
đề cao vẻ đẹp của con ngƣời, mang tính văn minh tiến bộ, có ý nghĩa
quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân và toàn xã hội. “Giáo dục hệ
thống giá trị đạo đức nhân văn là một quá trình tổ chức hoạt động
giáo dục bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp nhằm giúp mọi
người hiểu biết hệ thống giá trị chuẩn mực đạo đức nhân văn theo yêu
cầu của sự phát triển xã hội và giúp mọi người tự giác, có nhu cầu
thực hiện những chuẩn mực đó. Hệ thống giá trị đó định hướng điều
chỉnh hành vi của con người”[1, tr.68]. Việc xác định hệ thống giá trị
đạo đức nhân văn, giáo dục đạo đức có một ý nghĩa rất quan trọng đối
với quá trình hoàn thiện nhân cách mỗi ngƣời.
Giá trị đạo đức nhân văn của cƣ dân vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long với những nét đặc trƣng của một nền văn hóa Nam Bộ và đời
sống tinh thần của cƣ dân vùng này. Theo tôi, những giá trị đạo đức
nhân văn phù hợp và cần thiết cho việc giáo dục học sinh là hệ thống
các giá trị đƣợc biểu hiện ở Vùng đồng bằng Sông Cửu Long nhƣ sau:
2.1. Phẩm chất thật thà chất phác, tâm lý cởi mở phóng khoáng,
sống chí tình
Từ rất lâu rồi, tính cách sống phóng khoáng, nhiệt tình của
ngƣời nông dân miệt sông nƣớc Cửu Long đã đƣợc cả nƣớc biết đến.
Đặc tính tâm lý ấy cũng phần nào bắt nguồn từ điều kiện địa lý, lịch
sử khai phá, dân cƣ của vùng có điểm khác biệt so với các miền khác
trên đất nƣớc. Nếu làng Việt Bắc Bộ có chất kết dính chặt chẽ với
lũy tre quanh làng thì cƣ trú của ngƣời dân nơi đây lại sống theo hai
bờ kênh rạch, nên nhìn nhận về mặt không gian vùng đồng bằng Cửu
Long ít có sự gò bó và có phần thoải mái hơn. Bên cạnh đó, miền đất
này lại có lịch sử khai phá muộn khoảng 300 năm, dân cƣ ngay từ
buổi đầu khai hoang, lập xóm đã có sự giao thoa, chung sống của
nhiều dân tộc: Việt, Khơme, Chăm, Hoa có nền văn hóa khác nhau
đến định cƣ, sản xuất. Bởi những yếu tố về tự nhiên, đại bộ phận dân
111
cƣ nơi đây không phân biệt dân tộc, văn hóa khác nhau đã cùng nhau
lập làng giữ xóm, hỗ trợ nhau trong chống thú dữ, dịch bệnh, thiên
tai,…Theo thời gian hình thành nên tâm lý chung của ngƣời nông
dân nơi đây một tính cách sống cởi mở, thích giao tiếp và thích giúp
đỡ nhau chân thành đối với họ tình nghĩa là tiêu chí hàng đầu để kết
giao và sống tốt với nhau “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”.
Sống quên tình quên nghĩa thì bị lên án một cách gay gắt: “Đứa nào
được Tấn quên Tần/ xuống sông sấu ních, lên rừng cọp tha” [5]. Họ
thật thà chất phác đến mức yêu ghét phân biệt rõ ràng, không lƣỡng
lự, dối gian trong đánh giá. Đây đúng là những phẩm chất vẫn còn
nguyên giá trị cho đến hôm nay.
2.2. Truyền thống ứng xử hiếu thảo với cha mẹ, tổ tiên, sống
khuôn phép lễ độ với xóm giềng
Ngƣời Việt Nam từ xƣa đã có truyền thống hiếu đạo, đây là một
nét đẹp đáng trân trọng của dân tộc.Hòa vào tinh thần đó, Cửu Long
cũng là vùng đất có một vẻ đẹp riêng về cách ứng xử hiếu thảo của
con đối với cha mẹ, với tổ tiên, ông bà những ngƣời có công khai
hoang mở đất. Đó là những hành động chăm sóc, thái độ yêu thƣơng,
kính trọng ông bà, cha mẹ chăm làm việc tốt để có nhiều tiếng thơm
cho cha mẹ vui lòng,…Hiếu thảo ở nơi đây đã đƣợc truyền vào lòng
ngƣời qua những lời ru từ lúc nằm nôi, khi lớn lên lại đƣợc xóm làng
dạy bảo, nhắc nhở về lòng thành kính ấy. Khi đã trƣởng thành lại một
lần nữa đƣợc khắc sâu khi đọc hoặc truyền cho nhau những câu ca
dao, hò, vè nhẹ nhàng nhƣng đầm thắm, da diết “Nửa đêm con thắp
đèn trời/ Cầu cho cha mẹ sống đời với con” hay “Ở cho cha mẹ vừa
lòng, mai sau già yếu để phòng cậy nương/Ở sao biết kính biết
nhường, cố sao cho được dịu dàng nết na.”[2].Hiếu thảo là một việc
làm cần đƣợc thực hiện suốt đời, phụng dƣỡng cha mẹ lúc sinh thời,
và thờ cúng cha mẹ, ông bà tổ tiên khi khuất núi. Đó là việc nhớ ngày
làm giỗ cho ông bà cha mẹ, nghi thức thờ cúng trang trọng, tƣơm tất,
bàn thờ phải đầy đủ hoa, đèn, trầm hƣơng, trái cây (cây nhà lá vƣờn
do con cháu trồng dâng cúng là tốt hơn hết) và tùy theo hoàn cảnh
kinh tế gia đình mà tổ chức giỗ với những món ăn quê hƣơng quen
thuộc, chú trọng những món cha mẹ thích dùng lúc còn tại thế. Khổng
Tử nói trăm nết hiếu đứng đầu là nói đúng cái cốt lõi làm ngƣời khi
sống ở trên đời phải biết ơn trƣớc là cha mẹ ông bà ngƣời có công
sanh thành dƣỡng dục dạy bảo ta. Có vậy mới khơi sâu bén rễ trong
lòng ngƣời cái đạo của lòng tri ơn “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Từ
112
đây, làm nên một nếp sống lễ nghĩa, khuôn phép, quý trọng bà con
xóm giềng thể hiện qua việc thân tình sang mời cô bác hàng xóm sang
chơi nhà khi có đám giỗ trƣớc mấy ngày, hỏi thăm sức khỏe công việc
làm ăn của nhau khi ngồi trên mâm cỗ…Một lần nữa nhấn mạnh đây
đúng là những giá trị đạo đức trƣờng tồn đã và đang kêu gọi giới trẻ
bảo tồn và phát huy.
2.3. Tình cảm yêu mến thiên nhiên và tinh thần gìn giữ văn hóa –
bản sắc dân tộc
Ngƣời miền Tây từ rất lâu rồi đã yêu và xem thiên nhiên nhƣ một
ngƣời bạn thân thiết của mình. Đi đến bất cứ đâu ở miền tây, chúng ta
cũng bắt gặp ngút ngàn màu của thiên nhiên, từ đồng lúa chín vàng
đến những vƣờn tƣợc sum xuê từ hàng trăm thứ cây ăn quả đến cả các
loại rau xanh um, bắt mắt. Mùa nào thức ấy, ngƣời miền Tây sống
chan hòa vào thiên nhiên, dƣới sông có cá trên bờ có rau quả ngọt.
Nếu nói trồng cây, câu cá là vì nhu cầu về mua bán và cần thực phẩm
hằng ngày thì không hẳn vậy. Ngƣời dân nơi đây quen với lao động
nơi có kênh, rạch và thân thuộc với thiên nhiên cây cối. Cho đến cách
ăn, thứ để ăn cũng dân dã, không cao sang cầu kỳ. Đôi khi năm ba
ngƣời ngồi với nhau trên manh chiếu trải ở một khu vƣờn hay gần
ruộng, cùng ăn món chuột đồng nhấm ít rƣợu, tung hứng ca vài câu
vọng cổ giữa một không gian mát mẻ, êm ả của thiên nhiên ruộng
đồng, sông nƣớc miền Tây. Bằng nhiều cách khác nhau dù đi câu cá,
hay cuốc đất trồng rau, trồng lúa hay cây ăn quả ngoài mục đích kinh
tế bao giờ nơi đây, ngƣời nông dân đất chín rồng vẫn luôn mong muốn
bảo tồn giữ gìn quang cảnh của quê hƣơng, hƣơng vị riêng của đất quê
nhà. Tình cảm yêu mến thiên nhiên nếu là biểu hiện cho cách ứng xử
của con ngƣời nơi đây với thiên nhiên, hoàn cảnh sống, thì tinh thần
gìn giữ văn hóa – bản sắc dân tộc là biểu hiện cho cách ứng xử của
con ngƣời với nhau và với cộng đồng xã hội. Giữ gìn văn hóa – bản
sắc dân tộc thể hiện qua cách tổ chức nề nếp sống, sinh hoạt của cƣ
dân nơi đây. Mặc dù, là vùng đất có nhiều dân tộc khác nhau cùng
sinh sống nhƣng không xảy ra mâu thuẫn mà ngƣợc lại ở họ còn có sự
đoàn kết, giao lƣu với nhau về mọi mặt nhƣ: Tôn giáo, tín ngƣỡng
ngƣời Kinh thì có tín ngƣỡng nông nghiệp (lễ xuống mùa, lễ gieo mạ,
lễ chạp miếu, lễ cầu mƣa...), ngƣời Chăm có tín ngƣỡng Niêt Tà, tín
ngƣỡng Arăk, tín ngƣỡng hồn lúa của ngƣời Khơme. Ngoài ra nơi đây
cũng là vùng có nhiều tôn giáo nhƣ: Phật giáo Đại thừa (ngƣời Kinh),
Tiểu thừa (ngƣời Khơme), đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo, đạo Hồi và các
113
tín ngƣỡng biến dạng của đạo Phật nhƣ: đạo dừa, đạo chuối, đạo
nằm…Nhìn chung tôn giáo Vùng đồng bằng Sông Cửu Long khá
phong phú và đa dạng, là một bộ phận tinh thần quan trọng cho ngƣời
dân nơi đây, các tôn giáo đều mang lý tƣởng cao đẹp mang những giá
trị nhân văn sâu sắc nhƣ khuyên ngƣời sống hiếu đạo, biết sống đoàn
kết, yêu thƣơng, không phân biệt giai cấp, dân tộc, yêu lao động, biết
tôn trọng bản thân mình và ngƣời khác… Xuất phát từ việc tín
ngƣỡng, tôn giáo là nguồn gốc sinh ra những lễ hội dân gian vùng đất
Tây Nam Bộ nhƣ hội đình, tuy nhiên hội đình ở nơi đây có những nét
mang đậm màu sắc phong tục nông thôn Nam Bộ, nhƣ hội làng ở làng
Long Phú huyện Phú Tân (An Giang), hội làng Bình Thủy ở ngoại ô
thành phố Cần Thơ (Hậu Giang). Hội làng hằng năm đƣợc tổ chức hai
lần: đại lễ Kỳ Yên (lễ Thƣợng Điền) tổ chức vào tháng 5 âm lịch và lễ
Chấp Miếu (Hạ Điền) tổ chức vào giữa tháng 12 âm lịch. Lễ làng
đƣợc thực hiện theo những nghi thức “Trong ngày lễ Thượng Điền,
trước đây có tục lệ làm bè thủy lục tức ghép hai ba chiếc ghe lại thành
một bè. Trên bè trang hoàng đèn lồng, kiệu đỏ, có múa lân biểu diễn
trên dòng sông. Trên bộ người ta tổ chức treo cờ đinh, bày trò vui và
ban đêm có nhiều lồng đèn biểu diễn trên các xe rồng tán phượng gọi
là Long xa phụng tán. Trong ngày lễ còn có tục thi làm bánh mứt để tế
thần do các bàn tay phụ nữ nổi tiếng trong làng cùng nhau thi tài
trước sự chứng kiến của mọi người” [10, tr384]. Bên cạnh những nét
đẹp của hội làng thì ngƣời dân miền Tây cũng tổ chức hội lễ Bà Chúa
Xứ ở Châu Đốc (An Giang), đây là tục lệ hàng năm đƣợc diễn ra vào
ngày 23 tháng 4 âm lịch, cũng là hội lễ chung của bà con vùng Đồng
bằng Sông Cửu Long vì trƣớc đó cả tuần khách thập phƣơng kéo đến
rất đông. Ngƣời dân đến nơi đây cầu nguyện, dâng đồ cúng cầu bình
an, may mắn, thuận lợi trong công việc. Hay những lễ hội khác nhƣ
hội lễ kỉ niệm Nguyễn Trung Trực ở An Giang, hội lễ rƣớc cá voi ở
Tiền Giang, Cà Mau, hội lễ ở làng Hòa Hảo, hội lễ vào năm mới (Chol
Chnam Thmay) và hội lễ chào mặt trăng (Ok Ang Bok) của ngƣời
Khơme. Tất cả đều thể hiện nét đẹp văn hóa, tinh thần của ngƣời dân
miền đất chín rồng vừa mang tính truyền thống vừa sống phóng
khoáng, yêu đời.
Nói đến Cửu Long cũng là nói đến kho tàng văn hóa dân gian độc
đáo, đa dạng. Lịch sử hình thành vùng Đồng bằng Sông Cửu Long chỉ
hơn 300 năm nhƣng nơi đây lại có nhiều loại hình văn hóa dân gian
của ngƣời Việt và của các dân tộc khác khá phong phú và đặc sắc.
114
Kho tàng văn hóa dân gian nơi đây bao gồm: thần thoại, truyền thuyết,
cổ tích, thơ ca, hò vè, ca dao dân ca, sân khấu cải lƣơng,…Điểm
chung của các loại hình văn hóa dân gian nơi đây đều là những
phƣơng tiện truyền tải tình cảm, thái độ của con ngƣởi trƣớc cuộc
sống, trƣớc những giá trị đạo đức luân lý ở đời, để bày tỏ quan điểm
nhƣ yêu, ghét, giận, thƣơng, oán trách. Những câu ca dao đƣợc ngƣời
mẹ, ngƣời chị truyền đạt trên cánh võng thật ngọt ngào, ý nghĩa “ Con
ơi con ngủ cho say/Đêm thì con gối cánh tay mẹ nằm/Ngày thì con gối
lên chăn/Có hơi ấm mẹ con càng ngủ ngon/Tiếng ru gởi gắm tình
thương/Mong bình yên đến cho con mẹ mừng ” - (Bompê Kon, Dân ca
Khơme) hay “ Ai ơi muốn hưởng lộc trời/Trước thờ cha mẹ sau là vợ
con”[2].Ngƣời nông dân đất miền Tây cũng rất khéo nói lên cuộc
sống đa dạng, phong phú của mình qua những điệu lý (lý con sáo, lý
ngựa ô, lý con cua, lý con lƣơn, lý đất giồng,…). Ngoài ra phải kể đến
những câu hát đƣa em ngủ ngọt ngào đầm thắm của các mẹ các chị
đầy cảm xúc, nhắn gửi qua những làn điệu nhẹ nhàng. “Ơ ầu ơ ớ sông
Cửu Long con rồng chín khúc/Tình con người lúc đục lúc trong/Ơ ầu
ơ ơ anh thương em ơ thương gái ơ ơ má hồng/Thương ơ người nề nếp
ơ ầu ơ ớ thương dòng nho gia” [5]. Một trong những nét đẹp của
nghệ thuật miền Tây Nam Bộ là đàn ca tài tử về sau đƣợc nâng lên
thành nghệ thuật cải lƣơng, loại hình nghệ thuật này rất đƣợc yêu
thích, mọi ngƣời đến với lời ca tiếng hát không những gửi tâm hồn
mình vào câu hát mà còn là cơ hội để mọi ngƣời tụ họp bên nhau để
chia sẻ niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống, là sợi dây nối kết tình bạn,
tình giáng giềng của tất cả cƣ dân cộng đồng các dân tộc (Việt,
Khơme, Hoa, Chăm) cùng chung sống ở vùng Tây Nam Bộ. Nói về lối
sống, cách suy nghĩ thì có thể nói ngƣời nông dân nơi đây có một tính
khí tự do, tác phong thẳng thắn nhƣng cũng vừa bộc trực, khẳng khái.
Ngƣời dân vùng này có một phong thái cứng cỏi, không bao giờ chịu
khuất phục bởi cƣờng quyền và sẵn sàng đứng lên đấu tranh với
những bất công của xă hội. Con ngƣời nơi đây có một tinh thần yêu
nƣớc, yêu quê hƣơng sâu sắc, thời chiến tranh chống Pháp, Mỹ đã thể
hiện rõ ý chí đánh giặc của mình qua những câu ca dao sau: “Trời
sanh cây cứng lá dài/gió lay mặc gió, chìu ai không chìu” hay “Bao
giờ hết cỏ Tháp Mười/Thì dân ta mới hết người đánh Tây” [3].Sau
cùng là nói đến ngôn ngữ, trang phục ngƣời dân vùng Cửu Long.
Cũng nhƣ các vùng miền khác trong cả nƣớc, ngôn ngữ nơi đây cũng
sử dụng chung tiếng Việt, nhƣng cách phát âm, nhả giọng, nhịp điệu
115
lời nói có nét đặc trƣng riêng rất Nam Bộ. Giọng nói ngƣời miền Tây
Nam Bộ không chuẩn nhƣ giọng nói ngƣời miền Bắc nhƣng nhẹ
nhàng, ngọt ngào và có phần thống nhất với cử chỉ, điệu bộ, phong
cách tự do phóng khoáng của những con ngƣời sống nơi ruộng đồng
sông nƣớc chằng chịt. Nói về trang phục truyền thống thì bộ đồ bà ba
chiếc nón lá, khăn rằn rất phổ biến trong cách ăn mặc thƣờng ngày của
bà con nơi đây từ những ngƣời già cho đến ngƣời trẻ. Với khí hậu hai
mùa mƣa nắng, và cuộc sống gắn bó với ruộng vƣờn, tay lấm chân
bùn nên màu áo bà ba cũng đƣợc nhuộm màu tối nhƣ nâu hoặc đen chỉ
có những ngày đi lễ, đi cúng chùa thì ngƣời ta mới mặc áo màu sáng
hơn nhƣ trắng, mạ non, xanh lơ,...chiếc áo bà ba từ lâu đã đi vào câu
hát, tuy mộc mạc quê mùa nhƣng cũng thật duyên dáng, kín đáo làm
tôn lên nét đẹp của con ngƣời miền Tây. “Ngày nay, xã hội phát triển,
đời sống con người được nâng lên. Từ nhu cầu mặc ấm đã được nâng
lên thành mặc đẹp. Người ta sắm cho mình những bộ cánh ưng ý nhất,
đắt tiền nhất trong khả năng mình có thể. Trong quá trình giao lưu với
văn hóa phương Tây đã xuất hiện nhiều loại trang phục mới… Dù
vậy, chiếc khăn rằn và chiếc áo bà ba không hề mất đi bởi đó là biểu
tượng đặc trưng riêng của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long
– nhất là phụ nữ. Và nó cũng là một biểu tượng của bản sắc văn hóa
cần lưu giữ” [6]
Tóm lại, Vùng đồng bằng Sông Cửu Long không những là một
vùng đất trù phú về thiên nhiên, cảnh vật. Mà còn là một vùng đất
giàu truyền thống văn hóa với nhiều gía trị đạo đức tốt đẹp nhƣ: lòng
hiếu thảo, biết ơn, giáo dục con ngƣời những phẩm chất thật thà, sống
tình nghĩa, khiêm tốn, thẳng thắng, bộc trực. Có ý thức yêu quý và bảo
vệ thiên nhiên, có ý thức tổ chức đoàn kết tƣơng trợ trong cộng đồng,
tập thể, bảo vệ văn hóa dân tộc…
3. Vận dụng hệ thống giá trị đạo đức nhân văn vùng đồng bằng
Sông Cửu Long vào giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh qua
môn GDCD
Theo tôi, để có thể vận dụng các giá trị đạo đức nhân văn Vùng
đồng bằng Sông Cửu Long qua môn GDCD một cách hiệu quả, cần
tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, giáo dục những giá trị đạo đức đối với bản thân học sinh
qua bài giảng của giáo viên về những đức tính: thật thà, chất phác, sống
có tình có nghĩa, khiêm tốn, thẳng thắng, bộc trực. Hai là, giáo dục học
116
sinh cách ứng xử với gia đình và mọi ngƣời xung quanh phải sống hiếu
thảo, biết ơn, trọng tình nghĩa, sống có trƣớc có sau. Đối với trƣờng lớp
thì kính trọng thầy cô, quý trọng bạn bè. Còn trong cách chung sống với
thiên nhiên thì yêu mến thiên nhiên, có ý thức bảo tồn thiên
nhiên.Trong quan hệ với cộng đồng học sinh cần phải sống đoàn kết,
tƣơng trợ giúp đỡ lẫn nhau, bên cạnh đó cần có ý thức bảo tồn và phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc, có tinh thần bảo vệ di sản văn hóa và
các loại hình văn hóa dân gian Vùng đồng bằng Sông Cửu Long.
Hai là, bên cạnh việc chỉ ra những phƣơng hƣớng giáo dục một
cách toàn diện, hiệu quả từ chủ quan đến khách quan cho học sinh.Thì
việc kết hợp phƣơng pháp lồng ghép giảng dạy hợp lý, liên hệ thực
tiễn của giáo viên có vai trò quyết định đến việc hình thành nhân cách
của học sinh với liên hệ thực tiễn địa phƣơng nơi học sinh đƣợc sinh
ra và lớn lên, dựa trên sự gợi mở của giáo viên sẽ giúp các em suy
nghĩ trình bày vấn đề về làng xóm quê hƣơng mình theo tựa đề của bài
học. Chẳng hạn, để dạy cho học sinh về Hiếu thảo và vai trò của
hiếu thảo trong cuộc sống , bên cạnh việc ngƣời giáo viên đƣa ra
định nghĩa về lòng hiếu thảo, và kể ra những mẩu chuyện hiếu thảo
trong cuộc sống hoặc trong sách vở để học sinh hiểu đƣợc vấn đề thì
việc vận dụng đƣa thêm vào bài giảng những biểu hiện của lòng hiếu
thảo của con ngƣởi vùng Đồng bằng Sông Cửu Long từ thời xƣa cho
đến hôm nay là chăm sóc phụng dƣỡng ông bà cha mẹ lúc sinh thời,
và thờ cúng ông bà tổ tiên bằng tấm lòng thành kính nhất. Học sinh sẽ
tƣởng nhớ về gia đình về ông bà của mình, nhớ về những kỉ niệm lúc
nhỏ sống bên ông bà cha mẹ đƣợc họ yêu thƣơng, chăm sóc mình nhƣ
thế nào. Từ đó bản thân học sinh sẽ nhận ra tình cảm của mình đối với
gia đình sâu nặng nhƣ thế nào, sau đó là tự nhận xét đánh giá mình
sống có hiếu thảo chƣa? Và sau bài học này mình cần phải làm gì?
Nếu dạy cho học sinh bài học: Đoàn kết tương trợ. Biểu hiện của
đoàn kết tương trợ trong cuộc sống, thì chính bản thân học sinh vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long có thể nhận thấy quê hƣơng mình là một
ví dụ cụ thể, vì nơi đây có sự chung sống của nhiều dân tộc khác nhau
nhƣ (Việt, Khơme, Hoa, Chăm) nhƣng dân cƣ các dân tộc vẫn chung
sống hòa hợp, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong sản xuất, sinh hoạt thƣờng
ngày. “Ở những địa phương người Khơme sống xen kẽ với người Việt,
từ xa xưa vốn có những tập tục kết bạn và tương trợ lẫn nhau. Khi gặp
thú dữ, như cọp, cá sấu lớn, dân Khơme thường tìm đến các làng
người Việt nhờ giúp đỡ để tiêu diệt chúng. Ngược lại, người Khơme
117
giúp đỡ người Việt cách trị rắn độc, kinh nghiệm làm thủy lợi, mở
đường nước… ”[10, tr369] Có thể nói, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau
trong cuộc sống là những hành động cao đẹp, từ lâu đã đƣợc chính
ngƣời dân quê hƣơng mình gìn giữ và phát huy, bởi thế nên học sinh –
thế hệ trẻ vùng Đồng bằng Sông Cửu Long cần phải phát huy hơn nữa
tinh thần đoàn kết, tƣơng trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống để làm
tốt đẹp thêm mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời khi chung sống trên
một cộng đồng, quê hƣơng.Và rút ra đƣợc những kinh nghiệm sống
quý báu cho bản thân mình qua nội dung bài học. Xuất phát từ thực
tiễn của quê hƣơng, học sinh cũng có thể tự mở rộng khái quát vấn đề
đoàn kết tƣơng trợ là một biểu hiện tập trung nhất của tinh thần đoàn
kết các dân tộc ở Việt Nam, vì đoàn kết tạo nên sức mạnh của dân tộc
của thời đại. Qua đó, học sinh rút ra ý nghĩa của đoàn kết vì đoàn kết
là động lực để con ngƣời cố gắng vƣơn lên trong cuộc sống, xây dựng
quê hƣơng đất nƣớc giàu đẹp. Giáo dục đạo đức và lối sống cho học
sinh qua môn học GDCD là một việc làm luôn đƣợc thực hiện xuyên
suốt, là mối quan tâm hàng đầu của xã hội ta hiện nay, lại vì đứng
trƣớc tình tình một bộ phận giới trẻ vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
đã quên đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hƣơng mình,
sống thờ ơ, lãnh đạm, sống theo khuynh hƣớng chủ nghĩa cá nhân,
chạy theo những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trƣờng, lai căn mất
gốc đua đòi theo những mốt quần áo không phù hợp với thuần phong
mỹ tục của quê nhà. Đứng trƣớc sự hụt hẫng nhiều giá trị đạo đức
nhân văn nơi ngƣời trẻ hôm nay, việc lồng ghép đƣa vào chƣơng trình
giảng dạy môn GDCD những bài học về Lòng bao dung hay Tình
nghĩa trong xã hội ngày nay hoặc Nét đẹp văn hóa con người qua
trang phục truyền thống đều có những tác động không nhỏ đến nhận
thức của giới trẻ, với những giải pháp là làm sao để giữ gìn và phát
huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của con ngƣời miền Tây trong thời
đại phát triển và hội nhập quốc tế của đất nƣớc, quê hƣơng ta ngày
nay. Cần học hỏi theo tinh thần ngƣời dân miền Tây luôn xem trọng
tình nghĩa trong quan hệ kết giao bạn bè, tình nghĩa đã làm cho bộ mặt
đời sống tinh thần của con ngƣời nơi đây thêm phần sâu sắc. Từ xƣa,
ngƣời dân nơi đây đã xem tình nghĩa nhƣ một nhu cầu thiết yếu trong
cuộc sống, đó là những tình cảm san sẻ, cảm thông nhau lúc thành
công, may mắn cũng nhƣ khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Tình nghĩa lại
còn giữ một vị trí đặc biệt trong mối quan hệ bạn bè, qua lại, giúp đỡ
nhau chí tình “Chòm xóm đến thăm tôi/Đó là điều may mắn/Lỗi lầm
118
tôi xin nhận/Nếu có chi thiếu sót/Tình bè bạn xin thứ tha/Đừng chấp
người sơ ý” [4]. Sống tình nghĩa không những là một lối sống cao
đẹp, mà còn giúp con ngƣời có thêm niềm tin, lạc quan yêu đời, cảm
thấy cuộc sống tƣơi đẹp hơn, ấm áp hơn. Một khi, học sinh biết áp
dụng và phát huy cách sống tình nghĩa của ông cha vào hoạt ðộng giao
tiếp ứng xử của mình với những ngƣời xung quanh nhƣ bè bạn, xóm
giềng sẽ làm tốt đẹp hơn mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong cuộc
sống. Bên cạnh đó, giáo dục nếp sống, cách ăn mặc cho học sinh cũng
là một việc làm quan trọng và cấp thiết luôn đƣợc xã hội quan tâm. Vì
thế, nên nội dung bài học môn GDCD nói về vấn đề giáo dục giá trị
đạo đức nhân văn cho học sinh qua trang phục truyền thống, không
nhất thiết là bắt buộc giới trẻ phải trở về với cách ăn mặc của quá khứ
vì mỗi thời đại mỗi khác, vì cái đẹp luôn vận động theo thời gian.
Xong, nhìn nhận về vẻ đẹp của áo bà ba, chiếc khăn rằn của cƣ dân
miền Tây là nhìn nhận về vẻ đẹp bình dị, kín đáo, duyên dáng của con
ngƣời qua sự tinh tế trong việc lựa chọn trang phục, sao cho phù hợp
với những điều kiện, hoàn cảnh sống. Thông qua đó để học sinh biết
trân trọng nét đẹp truyền thống văn hóa địa phƣơng mình, biết tự điều
chỉnh lựa chọn cho mình một phong cách sống, cách ăn mặc phù hợp
với thời đại mà không phản cái đẹp của văn hóa quê hƣơng. Lòng yêu
nƣớc, yêu quê hƣơng xóm làng cũng là một trong những yếu tố quan
trọng để hình thành nên đời sống tinh thần của ngƣời dân miền Tây
Nam Bộ. Nó phản ánh tâm lý của con ngƣời biết đấu tranh với những
bất công của xã hội, thể hiện tính khí khẳng khái, không chịu khuất
phục trƣớc cái xấu cái ác để xây dựng nên một giá trị đạo đức cao đẹp
đáng đƣợc ca ngợi, tôn vinh.
4. Kết luận
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long chứa đựng nhiều giá trị văn hóa
đạo đức tốt đẹp. Việc vận dụng những giá trị đạo đức nhân văn này
vào việc dạy và học môn GDCD sẽ mang lại một số hiệu quả nhất
định giúp học sinh có cách tiếp cận bài học một cách tích cực và hiệu
quả hơn. Phƣơng pháp này có sự kết hợp giữa nội dung và thực tiễn.
Những bài học đắt giá từ thực tiễn cuộc sống quê hƣơng mình sẽ kích
thích sự tƣ duy, sáng tạo tìm hiểu của học sinh. Bài học không phải xa
lạ mà trở nên quen thuộc, lịch sử truyền thống văn hóa của quê hƣơng
đƣợc nhắc nhớ qua bài giảng của thầy cô góp phần củng cố tình yêu,
lòng tự hào về quê hƣơng dân tộc ở học sinh. Từ đó việc truyền đạt
kiến thức của giáo viên sẽ dễ dàng hơn, học sinh hứng thú sâu sắc với
119
bài học, và nhớ bài lâu hơn. Giáo dục giá trị đạo đức nhân văn cho học
sinh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long qua môn học GDCD, chính là
phƣơng pháp giúp các em nhìn nhận về những giá trị truyền thống quê
hƣơng mình bởi các em là – thế hệ măng non của đất nƣớc nhận thức
đƣợc nhiệm vụ của mình chính là không ngừng tự hoàn thiện bản
thân, luôn sống phấn đấu để xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc giàu đẹp
văn minh, hiện đại.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD&ĐT, Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn,
NXBGD-1998
[2] Dân ca Bến Tre, Vè dạy con
[3] Dân ca Đồng Tháp
[4] Dân ca Khơme, Mê Trơay
[5] Dân ca Nam Bộ
[6] Đặng Duy Khôi, báo điện tử Cần Thơ
[7] Hồ Chí Minh, bài thơ “Nửa đêm”, trích Nhật ký trong tù.
[8] Huỳnh Văn Sơn, Hụt hẫng nhiều giá trị đạo đức nhân văn, báo
Lao Động cuối tuần, 2008)
[9] Minh Tân – Thanh Nghi – Xuân lãm, 1999
[10] Viện Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh, Văn hóa & cư dân đồng
bằng Sông Cửu Long, NXB Khoa học, Hà Nội, 1990
120
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG SV: Nguyễn Chí Công
Lớp: ĐHGDCT14A
GVHD: ThS. Lê Kim Oanh
Tóm tắt: Bài viết nêu lên vấn đề mang tính thời sự về thực trạng đạo
đức của học sinh Trung học phổ thông hiện nay. Thấy được những
hạn chế trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh ở cả gia đình,
nhà trường và xã hội, dẫn đến sự sa sút về ý thức đạo đức của một số
học sinh trường Trung học phổ thông như: nói tục, chửi thề, bạo
lực,…Từ thực trạng đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ thông, giúp
học sinh phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân phẩm đạo đức.
Từ khóa: đạo đức, giáo dục đạo đức, học sinh, trường trung học phổ
thông.
1. Mở đầu Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
hiện nay ở đất nƣớc ta, vấn đề giáo dục toàn diện cho con ngƣời càng
trở nên cấp thiết, đặc biệt là vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh.
Một con ngƣời toàn diện phải có cả đức và tài, trong đó đức là gốc.
Bác Hồ đã nói: "Có tài mà không có đức là ngƣời vô dụng, có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó". Và Khoản 1 Điều 27 Luật giáo
dục 2005 cũng đã khẳng định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động
và sáng tạo hình thành nhân cách con ngƣời Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tƣ cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động tham gia xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” [2, tr.8].
Trƣờng Trung học phổ thông là nơi hình thành nhân cách cho các
em chuẩn bị bƣớc vào đời, để các em tự làm chủ cuộc đời mình – một
ngƣời công dân tốt. Nhà trƣờng là nơi không những dạy chữ mà còn
dạy về nhân cách, lẽ sống cho học sinh để các em có thể làm chủ
tƣơng lai của đất nƣớc sau này. Bên cạnh việc giáo dục tri thức, giáo
dục đạo đức là một mặt quan trọng không thể thiếu, nhằm hình thành
những con ngƣời có đầy đủ các mặt: đức, trí, thể, mỹ, đáp ứng yêu cầu
của xã hội mới. Vì vậy công tác giáo dục trƣớc tiên là phải chăm lo
121
bồi dƣỡng đạo đức cho học sinh, coi đó là căn bản, cái gốc cho sự phát
triển nhân cách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Bây giờ phải học, học
để yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu khoa học và yêu đạo đức". Việc
giáo dục con ngƣời là cả một quá trình: "Vì lợi ích mƣời năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng ngƣời". Vì thế từ trƣớc cho đến nay việc
giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng, luôn là
vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài, và đòi hỏi phải có sự quan tâm rất
lớn từ nhiều phía.
Nƣớc ta đang bƣớc vào thời kì hội nhập kinh tế, bên cạnh những
mặt tích cực thì cũng làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta cần
quan tâm, bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, sự xâm nhập của các văn
hóa phẩm đồi trụy làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Hiện nay trong các nhà trƣờng nói chung và
Trƣờng Trung học phổ thông nói riêng, học sinh có dấu hiệu sa sút về
đạo đức, về nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan
hệ cộng đồng, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu.
Và nhà trƣờng vốn là nơi hình thành nhân cách cho học sinh, nhƣng
sự quan tâm của nhà trƣòng đến vấn đề đạo đức của học sinh còn hạn
chế, giáo viên làm công tác chủ nhiệm thƣờng quan tâm nhiều đến kết
quả học tập, còn vấn đề rèn luyện đạo đức chƣa đƣợc chú trọng đúng
mức, nên tổ chức các hoạt động còn mang tính hình thức, chƣa đi vào
chiều sâu. Các đoàn thể còn thiếu sự quan tâm phối hợp đầu tƣ cho
hoạt động giáo dục. Sự nhận thức, quan tâm của phụ huynh chƣa đầy
đủ, với suy nghĩ nhà trƣờng sẽ giáo dục con em mình… Thêm vào đó,
sự kết hợp giáo dục giữa nhà trƣờng, gia đình và xã hội chƣa đƣợc
nhịp nhàng, đồng bộ. Vì vậy, đạo đức của học sinh Trung học phổ
thông đang có nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Cho nên, giáo dục đạo
đức là một vấn đề cấp bách đặt ra cho toàn xã hội hiện nay, cần đƣợc
giải quyết nhanh chóng và kịp thời.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận về giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ
thông
Đạo đức là một nhân tố quan trọng của nhân cách và đƣợc xem là
khái niệm luân thƣờng đạo lý của con ngƣời, nó thuộc về vấn đề đánh
giá: tốt-xấu, đúng-sai, thiện-ác, hiền-dữ... Đạo đức gắn liền với văn
hóa, chủ nghĩa nhân văn triết học hay nói một cách dễ hiểu đạo đức là
khuynh hƣớng tốt trong tâm hồn con ngƣời mà khuynh hƣớng đó tạo
122
nên những lời nói, hành vi bên ngoài phù hợp với những quy tắc xử sự
của cộng đồng xã hội khiến cho mọi ngƣời xung quanh đƣợc an vui,
lợi ích. “Đạo đức là hệ thống những nguyên tắc chuẩn mực, quy tắc
do xã hội đề ra nhằm mục đích đánh giá và điều chỉnh hành vi, ứng xử
của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội” [1, tr.8] Có thể nói đạo đức là cái tốt, cái đúng ở
bên trong con ngƣời đƣợc chuẩn hóa thành lời và hành vi tốt đẹp bên
ngoài tức là con ngƣời có nhận thức đúng, tốt về sự vật hiện tƣợng.
Trung học phổ thông là bậc học cuối của hệ thống giáo dục phổ
thông. Học sinh bậc học này thƣờng từ 15 đến 18 tuổi, đang phát triển
mạnh mẽ về thể chất, năng lực trí tuệ, tâm sinh lý. Do đó, để mỗi học
sinh phát triển toàn diện ngoài việc trang bị kiến thức văn hóa rất cần
chú trọng đến công tác giáo dục tƣ tƣởng đạo đức cho học sinh ở lứa
tuổi này.
Giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ thông là quá trình
hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức của nhân cách học
sinh dƣới những tác động và ảnh hƣởng có mục đích đƣợc tổ chức có
kế hoạch, có sự chọn lựa về nội dung, phƣơng pháp và hình thức giáo
dục với vai trò chủ đạo của giáo viên. Đây là một quá trình giáo dục
lâu dài đƣợc hình thành từ thấp đến cao, từ những việc cụ thể trong
cuộc sống đời thƣờng từ đó phát triển rộng lên. Giáo dục nhân cách
hành vi đạo đức con ngƣời là một quá trình giáo dục cần phải đặc biệt
coi trọng bởi vì quá trình đó làm cho con ngƣời nhận biết đƣợc những
yếu tố sau: yêu nƣớc, yêu lao động, yêu Chủ nghĩa xã hội, làm chủ tập
thể, biết đoàn kết giúp đỡ nhau, biết tôn trọng mọi ngƣời. Và các em
phải đƣợc giáo dục những phẩm chất cần thiết nhƣ: nhận thức về đạo
đức, thái độ, tình cảm, hành vi, thói quen…
2.2. Thực trạng của việc giáo dục đạo đức trong học sinh THPT
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh đƣợc toàn thể đội ngũ giáo
viên quan tâm. Nhà trƣờng có những chủ trƣơng về giáo dục đạo đức
khá phong phú. Giáo viên chủ nhiệm thƣờng xuyên lên lớp, theo sát
quá trình học tập, hoạt động của các em, lắng nghe tâm tƣ, ý kiến của
các em, sau đó giảng giải cho học sinh hiểu rõ vấn đề, hòa giải những
mâu thuẫn, tranh cãi giữa các em trong các mối quan hệ. Trong buổi
sinh hoạt cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm ghi nhận những mặt tốt và
những mặt chƣa tốt của học sinh, khen thƣởng, khích lệ những thành
123
tích tốt tạo động lực cho các em phát huy, cũng đồng thời phê bình
những mặt chƣa tốt để các em rút kinh nghiệm sửa chữa.
Các giáo viên bộ môn, đặc biệt là giáo viên môn Giáo dục công
dân luôn theo sát quá trình lĩnh hội kiến thức của các em, tạo điều kiện
cho các em trao đổi, bồi dƣỡng ý thức đạo đức của mình trong quá
trình học tập, cho học sinh liên hệ thực tế và hoạt động xã hội để các
em dễ tiếp thu và dễ hòa nhập với cộng đồng. Để giáo dục có hiệu
quả, ngƣời giáo viên là nhân tố quan trọng và chính yếu nhất trong
quá trình hình thành phẩm cách đạo đức cho học sinh, bởi lẽ giáo viên
là một tấm gƣơng để các em noi theo, chẳng hạn nhƣ ở lời nói (thân
thiện, gần gũi, tôn trọng học sinh và ngƣời khác…), cử chỉ hành động
của giáo viên (điềm tĩnh, không cáu gắt, không gây áp lực lớn hoặc
bạo lực với học sinh…), tác phong (lịch sự, chỉnh tề, phù hợp với cốt
cách của ngƣời giáo viên…). Nhân cách đạo đức của các em chịu ảnh
hƣởng khá lớn bởi mẫu mực của thầy cô.
Giáo viên làm công tác Đoàn cũng thƣờng xuyên tổ chức các hoạt
động ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm, chủ đề trong năm nhằm tuyên
truyền giáo dục truyền thống đạo đức cho học sinh. Cho học sinh xem
những đoạn phim mang tính thời sự về vấn đề đạo đức của con ngƣời
trong xã hội đề học sinh nhận thức rõ việc phát huy phẩm chất đạo
đức bản thân. Thƣờng xuyên tổ chức các trò chơi cho các em tham gia
với mục đích phát huy tính đoàn kết trong tập thể học sinh. Nhìn
chung đa số đội ngũ giáo viên trong trƣờng Trung học phổ thông đều
có những biện pháp hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh. Nhƣng
bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên chƣa nhận thức sâu sắc và chƣa
nhiệt tình với công tác giáo dục, chƣa nêu đƣợc gƣơng tốt để các em
noi theo, một số giáo viên sử dụng những lời lẽ không hay xúc phạm
danh dự học sinh và bị dƣ luận lên án, chẳng hạn vụ việc “Lớp học
ngoài hành lang” 3 đã gây nhiều tai tiếng không tốt.
Phần lớn học sinh ý thức đƣợc hành vi, thái độ của bản thân, biết
cƣ xử có chừng mực, những hành động văn hóa giúp đỡ ngƣời già yếu
lớn tuổi, bạn bè gặp khó khăn dƣờng nhƣ đều có trong các em. Lời nói
của các em đúng chuẩn mực, phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp, đối
tƣợng giao tiếp, lễ phép với thầy cô, cha mẹ và ngƣời già lớn tuổi, thể
hiện đƣợc nét văn hóa của một ngƣời có học vấn, có đạo đức. Có đƣợc
điều này phần lớn là nhờ ở các thầy cô. Khả năng nhận thức của học
sinh phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng nhận thức của giáo viên. Vì vậy
124
muốn học sinh nhận thức tốt thì ngƣời giáo viên phải gƣơng mẫu trong
mọi công việc, giáo viên phải là tấm gƣơng sáng cho các em.
Gia đình cũng góp một phần không nhỏ trong quá trình nhận
thức của các em, một gia đình tốt, văn hóa, cha mẹ thuận thảo hạnh
phúc sẽ là một tấm gƣơng tốt để các em nhờ đó noi theo. Vì đây là
nơi mà các em sinh ra, là tổ ấm đã gắng bó ngay khi còn nhỏ nên
gia đình là yếu tố rất quan trọng trong quá trình hình thành phẩm
chất đạo đức của con em.
Cùng với đó là sự tác động của xã hội. Đời sống xã hội là một
cộng đồng ngƣời ở đó có nhiều thành phần tốt, xấu tồn tại song song
với nhau. Nếu nhận thức của các em không chín chắn thì các em dễ bị
xa ngã vào con đƣờng xấu, dần dần các em sẽ tha hóa về đạo đức. Trái
lại, nếu các em có cách nhìn đúng về cuộc sống, cùng với mối quan hệ
gia đình tốt thì ngay bản thân các em sẽ có sự đấu tranh loại trừ triệt
để cái xấu, cái có hại và phát huy cái tốt, cái có ích để dần hoàn thiện
và phát triển phẩm chất đạo đức của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh học sinh nhận thức đúng đắn chiếm phần
lớn thì vẫn còn tồn tại một số học sinh có suy nghĩ lệch lạc, trái với
chuẩn mực đạo đức xã hội (nói năng chƣa có văn hóa, không giữ lễ
nghĩa với thầy cô và ngƣời lớn tuổi, có quan hệ không tốt với bạn
bè, không chú trọng việc học, có thái độ chƣa phù hợp khi bị giáo
viên phê bình, hay nói chuyện và làm việc riêng trong giờ học…)
tạo nên hình ảnh không tốt về nhà trƣờng, gia đình và chính bản
thân các em, khiến các em dễ xa ngã vào những thói hƣ tật xấu
trong xã hội, dễ làm những việc xấu trái với phẩm chất đạo đức của
ngƣời có văn hóa. Nguyên nhân chủ yếu một phần do: Thứ nhất,
điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, cha mẹ không có điều kiện
quan tâm đến các em, gia đình có điều kiện thì bố mẹ lại nuông
chiều con nhƣng không quan tâm đến các em hay cha mẹ bất hòa
tạo gƣơng xấu cho các em; Thứ hai, cán bộ làm công tác giáo dục
chƣa đi sâu vào học sinh, chƣa nắm đƣợc những học sinh vi phạm
để răn đe, nêu gƣơng; Thứ ba, công tác quản lý, phối hợp giữa nhà
trƣờng và địa phƣơng chƣa chặc chẽ. Vì vậy công tác tổ chức của
nhà trƣờng, sự giáo dục của gia đình vẫn còn phải cố gắng thêm,
cần có sự hợp tác chặt chẽ mối quan hệ nhà trƣờng – gia đình – xã
hội để nâng cao nhận thức của học sinh, giúp con em phát triển toàn
diện về mọi mặt.
125
2.3. Giải pháp giáo dục đạo đức trong học sinh Trung học phổ thông
và khuyến nghị
Công tác giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và học sinh
Trung học phổ thông nói riêng trong thời kì hội nhập kinh tế của nƣớc ta
hiện nay là một đòi hỏi cấp thiết.
2.3.1. Giải pháp phối hợp giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức truyền thống và những
giá trị đạo đức mới: Truyền thống không phải là hoài cổ, phục cổ và
hiện đại không phải là “tây hóa”. Truyền thống là bản sắc dân tộc,
hiện đại là văn minh, tiến bộ. Đạo đức truyền thống là nền tảng để xây
dựng những giá trị đạo đức mới cho học sinh. Trong nền kinh tế thị
trƣờng nếu không giáo dục tốt đạo đức truyền thống thì học sinh dễ bị
rơi vào lối sống thực dụng, vật chất hóa, dễ coi thƣờng ngƣời khác.
Bởi vậy cần:
Một là, tổ chức các hoạt động để mỗi học sinh thể hiện đƣợc ý
thức đạo đức của mình và tiếp nhận những phẩm chất đạo đức truyền
thống. Khi tổ chức các hoạt động không nên quá nặng về phong trào
và tính tập thể chung chung, làm cho vai trò của mỗi cá nhân bị mờ
nhạt. Do vậy việc tổ chức hoạt động không đƣợc ồ ạt, mà nên lần lƣợt
với quy mô từ nhỏ đến lớn, cụ thể là hoạt động ở từng lớp để lựa chọn
những cá nhân thực sự xuất sắc tham gia ở quy mô cấp trƣờng. Cần
tránh việc trùng lập về địa điểm, thời gian giữa các lớp để mỗi đơn vị
có đủ điều kiện tổ chức thành công phong trào ở đơn vị mình. Đa dạng
hóa các nội dung, hình thức hoạt động, các tổ chức cấp trên phải tạo
điều kiện thuận lợi nhất, hƣớng dẫn việc thực hiện để phát huy tính
tích cực, chủ động của các tổ chức cấp dƣới.
Hai là, việc giáo dục đạo đức truyền thống thông qua các ngày lễ
trong năm cần chú ý xây dựng những phẩm chất đạo đức cho học sinh
thông qua chủ đề của từng ngày lễ phù hợp với lứa tuổi và trình độ
của học sinh. Tránh hoạt động mang tính hình thức. Nên tổ chức các
cuộc thảo luận, giao lƣu giữa học sinh với thầy cô hoặc những cuộc thi
tìm hiểu kiến thức. Trong đó, chỉ định hƣớng vấn đề chứ không nên
gò ép vào những nội dung đã chuẩn bị trƣớc, có nhƣ vậy mới kích
thích đƣợc sự hứng thú và niềm say mê cho học sinh để tham gia các
hoạt động một cách sôi nổi, có hiệu quả.
Ba là, với tốc độ phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực
của nền kinh tế - xã hội, đã tạo ra một nhịp sống mới sôi nổi hơn và
ta gọi là “nhịp sống công nghiệp”. Có thể khẳng định: chậm chạp là
126
đồng nghĩa với chấp nhận tụt hậu. Chính vì thế, trƣớc những biến đổi
mạnh mẽ của thời đại, chỉ những học sinh đã hình thành cho mình
một nền tảng đạo đức vững chắc mới có thể nhận ra đƣợc giá trị đích
thực của cuộc sống và tự thấy mình phải nỗ lực hơn nữa để bắt kịp
với những thay đổi nhanh chóng ấy. Và chỉ có trên cơ sở một nền
tảng đạo đức vững chắc mới giúp họ đủ điều kiện để tiếp nhận những
giá trị đạo đức mới đang đƣợc đặt ra hàng ngày, hàng giờ. Điều đó
có nghĩa là những học sinh nếu chƣa có sự chuẩn bị tốt họ sẽ dễ dàng
bị cuốn theo vẻ bề ngoài phù phiếm, sôi động mà chƣa nhận thức
đƣợc bản chất của vấn đề. Nếu không hoặc chƣa tiếp nhận đầy đủ
những giá trị đạo đức truyền thống sẽ dẫn tới nhằm lẫn trong việc
phân biệt các giá trị và cho rằng truyền thống là cái lỗi thời, cái lạc
hậu, là cái đã qua. Học sinh sống ở thời nào chịu sự chi phối của
hoàn cảnh thời kì đó. Thời hiện đại sẽ tạo ra con ngƣời của thời hiện
đại không liên quan gì đến quá khứ. Đó là nhận thức rất sai lầm, bởi
nó đoạn tuyệt với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Quan niệm đó đẩy họ rời xa lao động, sống chỉ biết hƣởng thụ, ngại
khó, ngại khổ, ngại rèn luyện, ngại tu dƣỡng. Vì thế việc kết hợp
chặc chẽ giữa giáo dục đạo đức truyền thống và giáo dục đạo đức
mới ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Xây dựng môi trường giáo dục: Để hình thành nên những nhân
cách tốt đòi hỏi phải có môi trƣờng giáo dục tốt. Đó phải là môi trƣờng
lành mạnh trong mối quan hệ gia đình – nhà trƣờng – xã hội. Việc xây
dựng môi trƣờng giáo dục đặt ra hai nhiệm vụ lớn: Thứ nhất là xây
dựng lực lƣợng trong nội bộ nhà trƣờng; Thứ hai là xây dựng tốt hệ
thống lực lƣợng giữa nhà trƣờng với các đơn vị hữu quan ngoài trƣờng.
Xây dựng lực lƣợng trong nội bộ nhà trƣờng, bao gồm: Hệ thống
quản lý; Tính gƣơng mẫu của đội ngũ nhà giáo và cán bộ, công nhân
viên trong trƣờng.
Trong các kênh tiếp nhận cá nhân thì kênh tiếp nhận trực tiếp qua
các giác quan là quan trọng nhất. Đội ngũ thầy cô giáo, các cán bộ
nhân viên là lực lƣợng quan trọng nhất trong việc xây dựng môi
trƣờng giáo dục. Đó phải là những tấm gƣơng sáng nhất, gần gũi nhất,
thiết thực nhất để học sinh noi theo.
Cả hai yếu tố trong việc xây dựng lực lƣợng giáo dục trong nội bộ
nhà trƣờng đòi hỏi phải đồng đều. Hệ thống quản lý có tính thống nhất
từ trên xuống, đội ngũ giáo viên và cán bộ, nhân viên trong trƣờng
phải rất gƣơng mẫu từ những việc làm nhỏ nhất. Hai yếu tố này là cơ
127
sở để giáo dục niềm tin đạo đức cũng nhƣ việc phát huy tính tự giáo
dục, tự điều chỉnh của cá nhân học sinh.
Xây dựng môi trƣờng giáo dục có vai trò to lớn trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ thông. Đó là việc kịp thời xử
lý những vi phạm của học sinh trong nhà trƣờng cũng nhƣ ngoài xã
hội để đảm bảo có một môi trƣờng lành mạnh cho học sinh học tập và
rèn luyện. Tùy vào mức độ vi phạm mà có thể hạ bậc hạnh kiểm của
học sinh trong từng học kì vi phạm. Đó là sự răn đe, giáo dục ý thức
đạo đức cho học sinh trƣờng để dần hình thành nên nhân cách của một
ngƣời giáo viên đáp ứng đƣợc nhu cầu của sự nghiệp giáo dục trong
giai đoạn mới. Để thực hiện một cách triệt để cần phải có sự phối hợp
chặc chẽ giữa các lực lƣợng nội bộ trong trƣờng và ngoài trƣờng. Bởi
vậy, thực chất của vấn đề xây dựng môi trƣờng giáo dục là thực hiện
tốt nguyên lý “Giáo dục nhà trƣờng kết hợp với giáo dục gia đình và
xã hội”.
Đổi mới công tác giáo dục đạo đức: Đất nƣớc đang trong thời kì
đổi mới với việc vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, có sự điều khiển của Nhà nƣớc. Tình hình
đó đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh. Đổi mới công tác giáo dục đạo đức trong giai đoạn hiện
nay bao gồm:
Đổi mới nội dung giáo dục đạo đức: Nếu nhƣ trƣớc đây do quan
niệm chúng ta chỉ nhằm xây dựng mẫu ngƣời lí tƣởng tất cả vì tập thể,
xã hội thì nay kinh tế thị trƣờng đòi hỏi giáo dục đạo đức nhằm hình
thành và khẳng định nhân cách cá nhân trên cơ sở nhận thức đúng đắn
và giải quyết hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Do vậy, nội dung giáo
dục không thể phiếm diện một chiều nhƣ trƣớc đây, mà phải giáo dục
toàn diện, cả những nguyên lí đạo đức chung của xã hội, kể những
phẩm chất đọa đức riêng của cá nhân; Kết hợp đồng thời giữa giáo
dục lí tƣởng chính trị với lí tƣởng đạo đức; Kết hợp giáo dục đạo đức
nghề nghiệp với giáo dục đạo đức cá nhân.
Đổi mới hình thức giáo dục đạo đức: Giáo dục, đặc biệt là giáo
dục đạo đức cho học sinh không thể dừng lại ở lý luận mà nhất thiết
phải tiến đến chỗ tổ chức thực hành bằng công việc, bằng cách ứng xử
để rèn luyện thành các hành vi thành những thói quen tốt, sửa chữa và
loại bỏ những thói quen xấu. Thực hành là con đƣờng duy nhất để hình
thành kỹ năng kỹ xảo. Với giáo dục đạo đức thì thực hành đạo đức là
một đòi hỏi tất yếu vì bản chất và nhân cách của con ngƣời đƣợc hình
128
thành qua lao động. Sự phong phú của mỗi cá nhân phụ thuộc vào sự
phong phú của những mối quan hệ và liên hệ của chủ thể.
Đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức: Nhấn mạnh rằng nghề
dạy học là nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo, thì điều đó
cũng đồng thời nói lên rằng, nhà giáo dục phải là một nhà phƣơng
pháp, là ngƣời không chỉ có trình độ lý luận sâu sắc, có vốn học vấn
rộng và sâu, có đạo đức trong sáng, mẫu mực mà còn phải là ngƣời rất
thành thục về phƣơng pháp, đặc biệt là những phƣơng pháp sƣ phạm.
Đổi mới phƣơng pháp giáo dục đạo đức sẽ giúp cho học sinh nắm
đƣợc nội dung mà nhà giáo dục cần truyền đạt, tránh đƣợc hiện tƣợng
nhàm chán, đơn điệu trong các phƣơng pháp dạy học cũ. Để làm đƣợc
điều đó các giáo viên làm công tác giáo dục cần phải nổ lực tìm tòi, kế
thừa những nội dung hợp lí trong phƣơng pháp cũ, áp dụng phƣơng
pháp dạy học tích cực, tăng cƣờng ứng dụng công nghệ thông tin
trong quá trình giảng dạy, xác định học sinh chính là trung tâm của
quá trình dạy học, phát huy tính tích cực, năng động của học sinh, biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, tự hoàn thiện bản thân.
2.3.2. Khuyến nghị
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một công việc khó khăn, phức
tạp đòi hỏi phải có nhiều thời gian và công sức. Muốn các em phát
triển về mọi mặt, hoàn thiện bản thân nhằm giúp các em hƣớng tới cái
chân – thiện –mỹ, tránh xa cái ác, cái xấu, là một ngƣời sau này hội đủ
cả “đức” lẫn “tài” thì ngay từ bây giờ gia đình, nhà trƣờng và xã hội
phải luôn hợp tác chặt chẽ với nhau. Để làm đƣợc điều đó cần:
2.3.2.1. Về phía xã hội
Muốn có một xã hội tốt thì trƣớc hết mỗi ngƣời phải tốt. Vì vậy
chính quyền các cấp các ngành ở địa phƣơng cần phải có biện pháp
thiết thực đối với các tệ nạn xã hội, phải xử lý thích hợp những trƣờng
hợp học sinh phạm tội ở địa phƣơng để làm gƣơng giáo dục cho
những em khác. Quan tâm chỉ đạo thƣờng xuyên cho các đoàn thể
cùng phối hợp với nhà trƣờng để giáo dục đạo đức cho con em. Có kế
hoạch thông tin tuyên truyền tổ chức các hoạt động tạo nhận thức tốt
cho các em hiểu biết về pháp luật.
2.3.2.2. Đối với Bộ, Sở giáo dục- đào tạo cùng các ban ngành
Tổ chức chỉ đạo, triển khai công tác tăng cƣờng chất lƣợng và
hiệu quả giáo dục đạo đức trong nhà trƣờng coi đây là một trong
những vấn đề bức xúc nhất hiện nay. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận
động "Học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh". Đồng
129
thời tập trung chỉ đạo thực hiện tốt cuộc vận động "Mỗi thầy cô là tấm
gƣơng đạo đức tự học và sáng tạo "có thầy cô tốt, giỏi mới có trò tốt,
giỏi đƣợc”.
2.3.2.3. Về phía nhà trƣờng
Nhà trƣờng cần phải xây dựng một phƣơng pháp riêng để tập
trung giáo dục đạo đức cho các em đƣợc chu đáo hơn, tốt hơn thông
qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp
nhƣ: ngoại khóa, tham quan, du lịch, cắm trại, văn nghệ, thể dục thể
thao, các cuộc thi trí tuệ…cũng có tác dụng giáo dục tƣ tƣởng chính
trị rất lớn cho học sinh. Thông qua đó, giáo dục cho học sinh tinh thần
học hỏi, đoàn kết, hƣớng về các giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Ngoài
ra, cấn có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trƣờng với cha mẹ học sinh
giáo dục học sinh cá biệt. Đảm bảo thông tin hai chiều giữa gia đình
và nhà trƣờng để có biện pháp xử lý kịp thời khi học sinh vi phạm.
Giáo viên chủ nhiệm có nhiệm vụ quản lý, nhiệt tình, có trách
nhiệm cao đối với giáo dục học sinh, luôn gần gũi nắm vững tâm lý
hoàn cảnh gia đình của từng học sinh lớp mình quản lý để từ đó có sự
chia sẻ, động viên các em một cách kịp thời. Hàng tuần vào tiết sinh
hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm kịp thời biểu dƣơng, khích lệ những học
sinh học tập, rèn luyện tốt; đồng thời phê bình, nhắc nhở những
trƣờng hợp chƣa tốt để các em khắc phục những thiếu sót. Đồng thời
tổ chức nhiều hoạt động ngoài giờ lên lớp, đặc biệt là các hoạt động:
văn nghệ, thể thao, lao động đa dạng khác nhằm bộc lộ các hành vi
đạo đức, để các em có dịp rèn luyện những phẩm chất, hành vi tốt,
ngăn ngừa những cái xấu qua hoạt động thực tiễn.
Giáo viên bộ môn phải tăng cƣờng đầu tƣ cho mỗi tiết dạy để đảm
bảo truyền đạt một cách khoa học, nhạy bén với việc khai thác nội
dung giáo dục đạo đức trong các bài giảng, trong quá trình dạy học,
đặc biệt là môn Giáo dục công dân.
Đoàn trƣờng cần tổ chức nhiều nội dung, hình thức để đoàn viên
thanh niên gắn bó với đời sống xã hội nhƣ bảo vệ môi trƣờng, di sản,
làm công tác từ thiện, đảm nhận những công trình do nhà trƣờng phát
động. Bên cạnh đó cần chú trọng xây dựng tập thể, cá nhân tiêu biểu
trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí trong học tập để tạo động
lực thúc đẩy phong trào thi đua dạy tốt học tốt.
Những cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong trƣờng là đối
tƣợng của sự tập trung chú ý ở học sinh nên mỗi lời nói, việc làm
mang giá trị đạo đức của họ sẽ có ý nghĩa giáo dục hết sức to lớn.
130
Giáo dục cho học sinh tự ý thức đƣợc trách nhiệm của bản thân trong
việc giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc bằng cách
nêu gƣơng mà gần gũi nhất, thiết thực nhất là lấy gƣơng “ngƣời tốt,
việc tốt” của chính học sinh để giáo dục lẫn nhau. Bên cạnh đó, phải
có những hình thức kỹ luật nghiêm khắc với các trƣờng hợp vi phạm
của học sinh. Việc xử lí một cách nghiêm khắc, có tình, có lí sẽ có tác
dụng răn đe cho học sinh toàn trƣờng biết về những “gƣơng xấu” để
phòng tránh. Đồng thời, xây dựng phong trào học sinh tự phê bình
những hiện tƣợng tiêu cực, những hành vi lệch chuẩn đang diễn ra
hàng ngày, hàng giờ trong đời sống. Đây cũng là hình thức làm
chuyển biến nhận thức và hành động của học sinh trong toàn trƣờng.
2.3.2.4. Về phía gia đình
Gia đình là thành phần có điều kiện giáo dục đạo đức cho con em
sớm nhất. Ai cũng muốn cho con cái mình trở thành những ngƣời có
tâm hồn trong sạch, trí tuệ phát triển, khỏe mạnh, trở thành những
ngƣời công dân tốt có ích cho xã hội và làm vẻ vang cho gia đình,
dòng họ. Chính vì vậy, ở mỗi gia đình cần rèn luyện cho con mình
những phẩm chất quan trọng nhƣ lòng nhân ái, tinh thần trách nhiệm
đối với công việc đƣợc giao và luôn có ý thức tu dƣỡng hoàn thiện đạo
đức. Những phẩm chất này sẽ thƣờng xuyên đƣợc cũng cố và phát
triển trong tƣơng lai, trong quá trình sống, học tập và lao động của
mỗi con ngƣời.
Đây là nơi thuận lợi nhất để giáo dục cho các em lòng thƣơng
ngƣời, cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ ngƣời khác, tinh thần trách nhiệm,
cử chỉ lời nói hợp văn hóa...Vì vậy, cha mẹ cần đặc biệt chú ý khai
thác những tình huống sẵn có trong sinh hoạt gia đình: chăm sóc cức
khỏe của ngƣời thân, tạo niềm vui cho ngƣời khác, bày tỏ sự quan tâm
đối với ngƣời khác, chia sẻ, động viên ngƣời thân, những lúc ốm đau,
thành công hay thất bại.
2.3.2.5. Về phía cá nhân học sinh
Học sinh cần đƣợc giáo dục để nhận thức đƣợc vai trò, tầm quan
trọng của chủ nghĩa yêu nƣớc và lòng tự hào dân tộc chính đáng, phải
biết kế thừa và phát huy tinh thần yêu nƣớc trong cộng đồng đói
nghèo, lạc hậu.
Học sinh phải ý thức tình cảm, thái độ kính thầy, yêu bạn, giúp đỡ
lẫn nhau trong học tập và trong cuộc sống, quý trọng của công, quan
tâm đến nỗi bất hạnh của ngƣời khác, vận dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống, trung thực trong mọi hoạt động. Phải biết ngăn chặn cái ác,
131
cái xấu có trong cuộc sống của họ. Phải loại trừ những thói không tốt
ra khỏi cuộc sống của mình nhƣ đua đòi, nói tục, chửi thề, bạo lực…
đang xâm hại nghiêm trọng tƣ cách đạo đức, phẩm giá của ngƣời học
sinh. Cùng với thái độ dứt khoát tránh xa những thói không tốt, học
sinh phải biết khuyến khích cái thiện, noi gƣơng ngƣời tốt việc tốt, có
tinh thần đoàn kết, tham gia các phong trào của trƣờng, lớp, địa
phƣơng mình sinh sống và học tập.
Ham học hỏi, cầu tiến bộ là một phẩm chất đạo đức truyền thống
của dân tộc đã đƣợc các thế hệ ngƣời Việt Nam hôm nay phát huy
trong điều kiện lịch sử mới. Ham học hỏi, cầu tiến bộ thể hiện khá rõ
trong việc tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến, đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nƣớc. Học hỏi, cầu tiến bộ để đổi mới cách nghĩ, cách làm, để
thoát nghèo và vƣơn lên làm giàu chính đáng. Đây đang là một
khuynh hƣớng trong xã hội ta và là một chuẩn mực đánh giá từng
con ngƣời, nhóm ngƣời. Ham học hỏi ở mỗi ngƣời là cơ sở phấn đấu
cho một xã hội học tập. Vì vậy, ở mỗi cá nhân cần phát huy cao độ
tinh thần học hỏi, cầu tiến bộ để trang bị đầy đủ kiến thức và phẩm
chất tốt đẹp..
Tóm lại, đổi mới giáo dục đạo đức một cách toàn diện là một yêu
cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay ở trƣờng Trung học phổ thông.
Cùng một nội dung giáo dục đạo đức nhƣng tùy vào đặc điểm của đối
tƣợng truyền đạt, tùy vào hoàn cảnh cụ thể mà sử dụng những hình
thức, phƣơng pháp giáo dục phù hợp đi đôi với cải tiến nội dung theo
hƣớng tích cực nhằm đạt đƣợc mục tiêu trong quá trình giáo dục.
3. Kết luận
Trƣớc thực trạng đạo đức hiện nay của học sinh Trung học phổ
thông có chiều hƣớng giảm sút trầm trọng, việc giáo dục đạo đức cho
học sinh là đòi hỏi cấp bách của xã hội để xây dựng những giá trị cơ
bản của con ngƣời Việt Nam trong thời kì mới. Dƣới sự lãnh đạo của
Đảng, đất nƣớc ta đang trong giai đoạn “đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục
tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, vững
bƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội”. Sự nghiệp cách mạng vẻ vang và cao
đẹp đó có đạt đƣợc hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện thế hệ trẻ hôm nay. Vì vậy trong
giáo dục Trung học phổ thông không thể không đề cập đến giáo dục
đạo đức cho học sinh. Đó là công việc “bồi dƣỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau” nhƣ Bác Hồ đã nhắc nhỡ, với Ngƣời, “Đức” là cái gốc
của con ngƣời, là cội nguồn để con ngƣời trở thành hữu ích cho xã
132
hội. Nhƣng cái gốc của “đức” ở mỗi con ngƣời lại rất khác nhau về
nội dung và biểu hiện tùy thuộc vào nhiệm vụ, vị trí xã hội mà ngƣời
đó đảm nhận cũng nhƣ sự rèn luyện, tu dƣỡng của bản thân.
Nhà trƣờng, gia đình, xã hội phải quan hệ chặt chẽ với nhau cùng
giáo dục nêu gƣơng cho các em để các em thực sự hoàn thiện bản
thân, có đủ cả “đức” lẫn “tài”, mà “đức” là gốc. Cũng nhƣ câu nói của
Chủ tịch Hồ Chí Minh Có tài mà không có đức là người vô dụng, có
đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Hơn nữa, đạo đức là một
phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con ngƣời. Một ngƣời công dân
tốt, chuẩn mực là một ngƣời có đạo đức, do đó vấn đề giáo dục đạo
đức là một vấn đề cấp bách cần đƣợc đẩy mạnh.
Tài liệu tham khảo
[1]. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình đạo đức học,
NXBCTQG, Hà Nội - 2000
[2]. Luật Giáo dục- tailieu.VN
[3]. Nhiều tác giả, Giáo trình Đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội – 2000.
[4]. Tạp chí khoa học, Giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ
thông,
http://www.vjol.info/index.php/sphcm/article/viewFile/11763/10724
[5]. Báo Bắc Giang, Giải pháp về giáo dục đạo đức cho học sinh
Trung học phổ thông, http://baobacgiang.com.vn/bg/van-de-hom-
nay/131033/giai-phap-ve-giao-duc-dao-duc-cho-hoc-sinh-thpt.html
133
HỌC TẬP THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ CỦA SINH VIÊN KHOA
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI, TRƢỜNG
ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
SV.Trần Thị Hoàng Lan
Lớp: ĐHGDCT12A
GVHD: TS. Trần Quang Thái
Tóm tắt: Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo tiên tiến nhất thế
giới với nhiều ưu điểm như: mềm dẻo, tính chủ động cao của người
học, hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học. Tuy
nhiên, phương thức này cũng có những hạn chế nhất định, chẳng hạn
như: kiến thức bị cắt vụn, chệch hướng động cơ học tập, thời gian học
tập của sinh viên bị gò bó. Với những ưu điểm chúng ta nên tiếp thu
và phát huy hơn nữa, còn đối với những hạn chế trên đòi hỏi cần phải
có những giải pháp khắc phục để làm tăng thêm tính ưu việt cho
phương thức đào tạo này.
Từ khóa: Học tập, tín chỉ, học chế tín chỉ, sinh viên, giáo dục chính trị,
công tác xã hội.
1. Đặt vấn đề
Có thể nói rằng, cách học của chúng ta khi học ở đại học sẽ
hoàn toàn khác với cách học ở phổ thông. Nếu ở phổ thông chúng ta
đƣợc thầy cô dạy theo cách thầy đọc – trò chép thì ở giảng đƣờng đại
học chúng ta sẽ không còn đƣợc ƣu tiên nhƣ thế nữa, bởi vì ở môi
trƣờng đại học phƣơng thức đào tạo không còn theo niên chế nhƣ ở
phổ thông nữa mà là đào tạo theo phƣơng thức học chế tín chỉ. Để
học một cách hiệu quả những chƣơng trình ở bậc đại học ta cần
thích nghi nhanh chóng với phƣơng thức đào tạo này. Học chế tín
chỉ lấy ngƣời học làm trung tâm, giảng viên chỉ đóng vai trò làm
ngƣời hƣớng dẫn. Vì vậy, để thích ứng một cách nhanh chóng
phƣơng thức này chúng ta cần nắm rõ những ƣu điểm cũng nhƣ
những hạn chế của nó để hoàn thành chƣơng trình giáo dục ở bậc
đại học một cách thuận lợi. Với tƣ cách là một sinh viên ngành
Giáo dục chính trị, khoa Giáo dục chính trị - Công tác xã hội,
Trƣờng Đại học Đồng Tháp, tôi muốn chia sẻ một số vấn đề về
ƣu điểm, nhƣợc điểm của phƣơng thức đào tạo theo hệ thống tín
chỉ và tìm ra những giải pháp khắc phục cho những hạn chế của
134
phƣơng thức này nhằm giúp sinh viên yên tâm hơn trong quá
trình học tập ở giảng đƣờng Đại học.
2. Học tập theo học chế tín chỉ: ƣu điểm và nhƣợc điểm
Ở Việt Nam, ngay từ năm 1993, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng
đã khuyến khích các trƣờng chuyển đổi sang học chế tín chỉ, tuy nhiên
số trƣờng áp dụng mô hình này chƣa nhiều, mặc dù đầu năm 2001, Bộ
đã yêu cầu các trƣờng đại học phải có lộ trình chuyển đổi sang mô hình
này và hoàn thiện cho đến năm 2010. Riêng Trƣờng Đại học Đồng
Tháp đƣợc thành lập ngày 10/01/2003 theo Quyết định số 08/2003/QĐ
– TTg của Thủ tƣớng Chính phủ và công văn số 5830/VPCP – KGVX
ngày 04/09/2008 về việc đổi tên Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Đồng Tháp
thành Trƣờng Đại Học Đồng Tháp. Và kể từ năm 2008 trƣờng đã
chuyển đổi sang mô hình đào tạo theo phƣơng thức hệ thống tín chỉ
nhằm mang lại những lợi ích thiết thực cho ngƣời học. Cho đến nay
trƣờng đã hoạt động thành công mô hình này và đạt đƣợc những thành
tích đáng kể. [1].
2.1. Ưu điểm
Thứ nhất, học tập theo học chế tín chỉ có tính linh hoạt và khả
năng thích ứng cao, mang lại hiệu quả rất tích cực trong học tập, quản lí
giáo dục, chi phí đào tạo giảm. Với mô hình học tập này, sinh viên
đƣợc tự do lựa chọn chƣơng trình và thời gian học phù hợp với điều
kiện bản thân, từ đó tăng tính chủ động cho sinh viên, tăng tính tự học,
tự tạo ra kiến thức. Bởi vì, học tập theo học chế tín chỉ lấy ngƣời học
làm trung tâm trong quá trình dạy và học, phát huy đƣợc tính chủ động,
sáng tạo của ngƣời học. Trong phƣơng thức này, tự học, tự nghiên cứu
của sinh viên đƣợc coi trọng, đƣợc tính vào nội dung và thời lƣợng của
chƣơng trình. Ngƣời học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến
thức của ngƣời dạy, và do đó, phát huy đƣợc tính chủ động, sáng tạo
của ngƣời học. Ngƣời học là ngƣời tiếp nhận kiến thức nhƣng đồng thời
cũng là ngƣời chủ động tạo kiến thức, hƣớng tới đáp ứng những nhu
cầu của thị trƣờng lao động ngoài xã hội. Trong phƣơng thức đào tạo
truyền thống, vai trò của ngƣời dạy đƣợc coi trọng - lấy ngƣời dạy làm
trung tâm. Ngƣợc lại, trong phƣơng thức đào tạo theo tín chỉ, vai trò
của ngƣời học đƣợc đặc biệt coi trọng - lấy ngƣời học làm trung tâm.
Việc lấy ngƣời học làm trung tâm là nội dung tất yếu và quan trọng
trong phƣơng thức đào tạo hệ thống tín chỉ [2].
135
Thứ hai, học tập theo học chế tín chỉ chuyển quyền lựa chọn,
quyết định mục tiêu giáo dục, kế hoạch học tập, môn học… từ nhà
trƣờng sang cho ngƣời học, tức là sinh viên đƣợc quyền lựa chọn
những môn học mà mình thích hoặc có thể học thêm những môn ngoài
chuyên ngành trên cơ sở nhà trƣờng công khai số lƣợng tín chỉ cần
tích luỹ, các môn học cần tích luỹ đƣợc công nhận và trao văn bằng tốt
nghiệp của trƣờng khi sinh viên đã tích lũy đủ số tín chỉ mà nhà
trƣờng quy định, do vậy sinh viên có thể hoàn thành những điều kiện
để đƣợc cấp bằng tùy theo khả năng và nguồn lực của bản thân. Các
môn học đã đƣợc sinh viên tích luỹ ở trƣờng, của văn bằng này có thể
đƣợc bảo lƣu, sử dụng tiếp cho văn bằng khác, ở trƣờng khác nếu
chƣơng trình theo quy định của văn bằng, nhà trƣờng chứa các môn
học, tín chỉ đã tích luỹ, các cơ sở đào tạo có hệ thống chƣơng trình đào
tạo thống nhất và công nhận lẫn nhau. Nhƣ vậy, học chế tín chỉ mang
lại hiệu quả học tập cao do giá thành học tập thấp, độ mềm dẻo, khả
năng linh hoạt của chƣơng trình đào tạo phù hợp với mục tiêu học tập
suốt đời của mỗi ngƣời trong xã hội hiện đại, hiệu quả về quản lý cao
do tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của ngƣời học và ngƣời dạy
trong hệ thống đào tạo không ngừng đƣợc củng cố và nâng cao. Ƣu
điểm này góp phần giảm tải chƣơng trình đào tạo trùng lặp trong các
chuyên ngành của trƣờng, tạo cơ hội lớn cho ngƣời học chuyển đổi
ngành nghề, học đƣợc nhiều văn bằng đại học để thích nghi tốt hơn
với cuộc sống hiện đại, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực
cho đất nƣớc… [3].
Thứ ba, học tập theo học chế tín chỉ thể hiện đầy đủ tính thích
ứng, tính mở của hệ thống giáo dục đại học trong thời đại công nghệ
thông tin phát triển và hội nhập quốc tế về giáo dục. Trong hệ thống
đào tạo đại học theo tín chỉ, ngoài các môn bắt buộc còn có nhiều môn
học cho sinh viên tự chọn và khi đã đƣa vào chƣơng trình các môn học
này đảm bảo có ngƣời dạy. Do đó, số môn học mà nhà trƣờng tổ chức
giảng dạy cho một chƣơng trình để cấp văn bằng bao giờ cũng có tổng
số tín chỉ lớn hơn số tín chỉ quy định mà một sinh viên phải tích luỹ để
hoàn thành chƣơng trình đó. Căn cứ vào hệ thống tín chỉ, với sự
hƣớng dẫn của giảng viên hay cố vấn học tập, sinh viên có thể xây
dựng đƣợc kế hoạch học tập phù hợp với riêng mình, xác định rõ kế
hoạch về: địa điểm, lịch trình, phƣơng pháp học cụ thể của từng môn
học. Những thế mạnh của học chế tín chỉ này tạo điều kiện thuận lợi
cho ngƣời học lựa chọn, bố trí kế hoạch học tập phù hợp với điều kiện
136
và khả năng của mình. Ngoài ra, hệ thống tín chỉ còn cho phép sinh
viên tích luỹ tín chỉ bằng nhiều hình thức khác nhau, tự chịu trách
nhiệm về kết quả học tập của mình cho từng môn học. Nhƣ vậy, học
tập theo học chế tín chỉ tối đa hoá cơ chế tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của ngƣời dạy, ngƣời học, góp phần thực hiện công bằng và
nâng cao phúc lợi xã hội, tối ƣu hoá đƣợc cơ hội học tập cho tất cả
mọi thành viên trong xã hội [3].
2.2. Nhược điểm
Bên cạnh những ƣu điểm trên thì phƣơng thức học tập theo học
chế tín chỉ cũng có những hạn chế nhất định gây khó khăn, cản trở cho
sinh viên khoa Giáo Dục Chính Trị - Công Tác Xã Hội nói riêng
và toàn thể sinh viên trƣờng Đại Học Đồng Tháp nói chung.
Trƣớc hết, học chế tín chỉ dựa trên nền tảng các modun đƣợc
lắp ghép linh hoạt với nhau nên nếu không xây dựng rà soát một
cách khoa học sẽ dẫn đến sự cắt vụn kiến thức. Một môn học
thƣờng kéo dài một học kỳ thậm chí diễn ra trong một, hai tuần
(giáo viên thỉnh giảng) và sinh viên thƣờng học 4 đến 5 môn học
trong một đợt, 8 đến 10 môn học/một học kỳ. Trong khi đó đặc
trƣng của học chế tín chỉ là lấy ngƣời học làm trung tâm với nhiều
công cụ hỗ trợ giảng dạy và kênh thông tin khai thác. Khi thời gian
học môn học ngắn, chỉ trong vòng một đến hai tuần thì cả ngƣời
dạy và ngƣời học đều phải chạy đua với thời gian ảnh hƣởng đến
sức khỏe của cả thầy lẫn trò. [3]
Vấn đề thứ hai là động cơ học tập của sinh viên. Nhƣ chúng ta
đã biết, hệ thống tín chỉ nếu không đƣợc tuyên truyền, phổ biến để
đảm bảo các đối tƣợng tham gia vào quá trình đào tạo đại học hiểu và
làm đúng với nội dung thực chất của nó thì sự thiếu hiểu biết và làm
sai hệ thống đào tạo này, nhất là đối với sinh viên sẽ làm méo mó
động cơ học tập của sinh viên. Biết rằng, chuyển đổi sang học chế tín
chỉ là tạo sự chủ động cho sinh viên. Tuy nhiên, trên thực tế một bộ
phận sinh viên chƣa thật sự chủ động trong công việc học tập của
mình. Chúng ta có thể thấy rằng nhiều sinh viên khi đƣợc tạo điều
kiện tổ chức học anh văn cụ thể là văn bằng TOEIC thì một bộ phận
gần nhƣ đã lãng quên môn học này. Và với một số sinh viên thì
TOEIC giống nhƣ một hình phạt tâm lý đối với họ. Họ nhìn nhận trình
độ học vấn quy định cho một văn bằng nhƣ là sự tích luỹ các tín chỉ
hơn là học tập vì mục tiêu cuối cùng của nó là trình độ chuyên môn
137
nghiệp vụ và năng lực tổ chức cuộc sống và việc làm của các cá nhân
hài hoà với các chuẩn mực chung của xã hội [3].
Vấn đề thứ ba là việc rút ngắn thời gian học tập cho sinh viên
giỏi hay sinh viên có nhu cầu học vƣợt là vô cùng khó khăn, nhất là
đối với sinh viên ngành sƣ phạm. Sinh viên không thể học xong
chƣơng trình sớm hơn bốn năm vì phần thực tập sƣ phạm chỉ tổ chức
ở học kỳ hai, sinh viên phải mất thêm thời gian cho việc hoàn thành
phần thực tập sƣ phạm. Do đó cơ hội tìm kiếm việc làm cho sinh viên
sẽ bị hạn chế. Đây là một thực tế cần đƣợc giải quyết [4].
3. Một vài giải pháp khắc phục
Qua việc nghiên cứu cho thấy, học tập theo học chế tín chỉ có
những ƣu điểm tuy nhiên cũng có những hạn chế nhất định. Để việc
học tập theo học chế tín chỉ đƣợc hoàn thiện hơn, chúng ta cần:
+ Cần xây dựng các môn học sao cho thời gian học cả học kỳ. Để tích
luỹ kiến thức sinh viên cần có thời gian dài hơn, kiến thức sẽ đƣợc hệ
thống hơn, việc bố trí lịch học, giảng dạy, cố vấn học tập, phải tuân
thủ tối đa nguyên tắc đào tạo theo học chế tín chỉ, tránh đào tạo tín chỉ
theo hình thức, thời gian ngắn, lựa chọn, đăng ký tín chỉ, cố vấn học
tập hình thức làm mất đi ƣu điểm của phƣơng thức đào tạo này.
+ Nhà trƣờng cần phối hợp với Ban tƣ vấn sinh viên phổ biến kiến
thức về hệ thống đào tạo theo học chế tín chỉ để từng đối tƣợng đều
hiểu và thực hiện đúng đắn. Ngoài ra sinh viên cũng có thể tự tìm hiểu
thông qua sổ tay sinh viên hoặc trang web trƣờng (dthu.edu.vn) cũng
có thể nắm bắt đƣợc và hiểu rõ ràng hơn.
+ Cuối cùng là vấn đề thúc đẩy động cơ học tập của sinh viên đặc biệt
là thúc đẩy động cơ học TOEIC. Chúng ta đều biết rằng khi chúng ta
đạt đƣợc văn bằng này thì mới đƣợc công nhận tốt nghiệp. Vì thế phải
tăng cƣờng việc rèn luyện kỹ năng tự học và tự nghiên cứu cho sinh
viên ngay từ đầu năm học, đặc biệt là đối với môn anh văn để tạo cho
sinh viên hứng thú với môn học này hơn.
4. Kết luận
Tóm lại, học tập theo học chế tín chỉ là bƣớc đi đúng đắn trong
thời đại toàn cầu hóa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời học và
nâng cao chất lƣợng đào tạo, qua đó đƣa đất nƣớc hội nhập sâu rộng
hơn vào thế giới. Ngoài những ƣu điểm cần đƣợc phát huy của học
138
chế tín chỉ thì chúng ta cần khắc phục những hạn chế để sinh viên có
một phƣơng thức đào tạo tốt hơn và tạo hiệu quả cao hơn trong quá
trình học tập.
Tài liệu tham khảo
[1]. Sổ tay sinh viên – Trƣờng Đại Học Đồng Tháp
[2].http://wikipedia.org.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phƣơng_pháp_đào_tạo_theo_hệ_thống_t
ín_chỉ
[3]. Nghiêm Thị Thà - Đào tạo đại học theo học chế tín chỉ - Những
vấn đề đặt ra. http://hvtc.edu.vn/tabid/103/id/13709/Default.aspx
[4]. Trần Thanh Ái – Đào tạo tín chỉ, nguyên lý, thực trạng, giải pháp.
http://khoahocviet.info/site/index.php/khgd/11-to-chuc-quan-li/15-
dao-tao-tin-chi-nguyen-ly-thuc-trang-giai-phap
[5]. http://vietbao.vn/Giao-duc/3-loi-the-cua-dao-tao-tin-
chi/30087987/202/
[6]. Lâm Quang Thiệp - Đại học Quốc gia Hà Nội - Về việc áp dụng
học chế tín chỉ trên thế giới và ở Viêt Nam - Kỉ yếu HT: “Xây dựng
chương trình đào tạo theo tín chỉ có sử dụng Internet” ngày
26/05/2006 do Viện Nghiên cứu Giáo dục tổ chức.
139
VẬN DỤNG VAI TRÕ CỦA QUY LUẬT LƢỢNG VÀ CHẤT
VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO
DỤC CHÍNH TRỊ TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
SV: Nguyễn Thị Thanh Hoa
Lớp: ĐHGDCT14A
GVHD: ThS. Mai Thị Thanh
Tóm tắt: Trong quá trình học tập, phương pháp học là rất quan
trọng. Vấn đề đặt ra cho mỗi sinh viên ngành giáo dục chính trị tại
trường Đại học Đồng Tháp ngày nay là phải xây dựng cho mình một
phương pháp học tập phù hợp với bản thân, với môi trường học tập.
Trong phạm vi bài biết này, từ sự phân tích quy luật lượng – chất vận
dụng vào trong quá trình học tập của sinh viên ngành giáo dục chính
trị. Chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, từ đó
đưa ra các giải pháp để học tập đạt kết quả tốt đáp ứng được những
yêu cầu của nhà trường và xã hội.
Từ khóa: Học tập, quy luật lượng – chất, sinh viên Khoa GDCT và
CTXH.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua chất lƣợng của sinh viên ngành giáo dục
chính trị trƣờng Đại học Đồng Tháp đƣợc nâng cao, một số bạn có
thành tích tốt trong quá trình học tập, ra trƣờng có việc làm ổn định và
đƣợc nhiều cơ sở tin cậy. Tuy nhiên, vẫn còn một số bạn sinh viên
trong ngành chƣa có đƣợc kết quả khả quan, nguyên nhân là do cách
tiếp cận việc học tập và tiếp thu kiến thức mới chƣa thật sự khoa học,
thái độ học tập chƣa tích cực, dẫn đến sự lệch lạc trong quá trình học
cũng nhƣ tiếp thu kiến thức mới. Từ những vấn đề trên có thể gây ra
nhiều ảnh hƣởng không tốt trong kết quả học tập và tƣơng lai về việc
làm sau này.Vì vậy, để sinh viên có kết quả học tập tốt, cần phải có
phƣơng pháp và thái độ học tập đúng đắn, xác định mục tiêu mà mình
muốn đạt đƣợc. Nghiên cứu quy luật lƣợng và chất, sau đó vận dụng
quy luật này vào trong quá trình học tập của bản thân sẽ cho chúng ta
biết chúng ta cần học cái gì và học nhƣ thế nào. Bên cạnh đó quy luật
lƣợng và chất có thể chỉ rõ những mặt hạn chế và tích cực để các bạn
sinh viên có phƣơng pháp học tập thích hợp nhằm giúp các bạn có
hƣớng đi đúng đắn ngay từ những buổi đầu của môi trƣờng đại học.
140
2. Nội dung
2.1. Quy luật lƣợng - chất
2.1.1. Khái niệm lượng và chất
Bất kì sự vật, hiện tƣợng nào cũng có sự thống nhất giữa mặt
chất và mặt lƣợng với nhau tạo nên sự vật đó. Sở dĩ chúng ta phân biệt
đƣợc sự vật này khác sự vật kia chính là chúng khác nhau về chất. Ví
dụ: Tính qui định về chất của hoạt động tƣ duy con ngƣời đƣợc thể
hiện thông qua sự thống nhất về hữu cơ của các thuộc tính nhƣ năng
lực phản ánh bộ não, hình thức và qui luật nhận thức. Nhƣ vậy, chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có
của sự vât, là sự tổng hợp những thuộc tính của sự vật, làm cho sự vật
là nó, phân biệt nó với sự vật khác.
Có thể hiểu rằng chất là sự tổng hợp hữu cơ của những thuộc
tính của sự vật, nhƣng không phải thuộc tính nào cũng nói lên chất của
sự vật, mà chỉ những thuộc tính cơ bản mới nói lên bản chất của sự
vật. Bởi vì, trong quá trình vận động và phát triển, những thuộc tính
không cơ bản sẽ thay đổi, sinh thêm hoặc mất đi, nhƣng chất nói
chung chƣa thay đổi, chỉ khi nào những thuộc tính cơ bản thay đổi thì
chất của sự vật thay đổi. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chất là cái vốn có của sự vật, không tách rời sự vật.Ph. Ăng-
ghen khẳng định “Những chất lƣợng không tồn tại, mà những sự vật
có chất lƣợng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lƣợng, mới tồn
tại” [1, tr.306]. Tất cả sự vật đều vận động và biến đổi. Tại sao có sự
vận động và biến đổi đó?Bởi vì sự vận động và biến đổi của sự vật
bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lƣợng.
Vậy lƣợng là gì? Lƣợng là một phạm trù triết học dùng để chỉ
tính qui định vốn có của sự vật, biểu thị qui mô (lớn hay nhỏ), trình độ
phát triển (cao hay thấp), tốc độ phát triển (nhanh hay chậm) của sự
vận động và phát triển của sự vật. VD: Sự thay đổi lƣợng tri thức của
các môn học, năm học, giai đoạn trong điều kiện khách quan cho phép
dẫn đến kết quả tốt nghiệp ra trƣờng của sinh viên.
Trong thực tế, lƣợng đƣợc xác định bằng những đơn vị đo
lƣờng cụ thể. Chẳng hạn nhƣ, vận tốc của ánh sáng là 300.000 km
trong một giây. Tuy nhiên, bên cạnh đó có những lƣợng khó xác
định bằng những con số cụ thể mà bằng phƣơng pháp khái quát hóa,
trừu tƣợng hóa nhƣ trình độ tƣ tƣởng của một tập thể nâng lên nhiều
hay ít. Một ví dụ về những con số của Ph. Ăng-ghen: “Con số là
một sự quy định về số lƣợng thuần túy nhất mà chúng ta đƣợc biết.
141
Nhƣng nó cũng đầy rẫy những sự khác nhau về lƣợng…16 không
chỉ là tính cộng của 16 đơn vị, mà nó còn là bình phƣơng của 4, tứ
thừa của 2” [1, tr.417]. Phê phán những quan điểm siêu hình coi
chất và lƣợng là những ranh giới tuyệt đối, sự phân biệt giữa chất
và lƣợng chỉ là tƣơng đối. Tùytheo mối quan hệ cụ thể mà xác định
đâu là chất, đâu là lƣợng. Cái là lƣợng trong mối quan hệ này lại là
chất trong mối quan hệ khác.
2.1.2 Nội dung quy luật lƣợng – chất
- Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Trong bất kì sự vật nào của hiện thực khách quan cũng bao
gồm sự thống nhất giữa chất và lƣợng ở một độ nhất định. Quá trình
thay đổi ấy đều có ảnh hƣởng đến trạng thái chất của sự vật và hiện
tƣợng chƣa biến đổi ngay. Từ đó, ta có giới hạn mà trong đó sự thay
đổi về lƣợng chƣa làm thay đổi về chất của sự vật đƣợc gọi là độ. Độ
là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất
giữa chất và lƣợng, là khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lƣợng
của sự vật chƣa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. Sự vận động
và biến đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ quá trình thay đổi về
lƣợng, khi lƣợng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn
đến sự thay đổi về chất. Nhƣ vậy, điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi
của lƣợng làm thay đổi chất của sự vật đƣợc gọi là điểm nút. Điểm nút
là phạm trù triết học dung để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về
lƣợng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Khi sự thay đổi về lƣợng
đạt đến giới hạn nhất định, phá vỡ sự thống nhất giữa chất và lƣợng
thì chất mới ra đời thay thế chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự
vật cũ. Đây chính là bƣớc nhảy trong quá trình vận động, phát triển
của sự vật, hiện tƣợng. Bƣớc nhảy là phạm trù triết học dung để chỉ sự
chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lƣợng của sự vật
trƣớc đó gây nên.
Bƣớc nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tƣợng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức
bƣớc nhảy khác nhau, đƣợc quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và
điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bƣớc nhảy: nhanh và chậm, cục bộ
và toàn bộ... Bƣớc nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn vận động,
phát triển của sự vật, đồng thời, là điểm khởi đầu cho một giai đoạn
mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của
sự vật, hiện tƣợng.
- Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng.
142
Quy luật lƣợng chất không chỉ nói lên tính một chiều về sự biến
đổi về lƣợng dẫn đến sự biến đổi về chất, mà còn có chiều ngƣợc lại.
Chất mới ra đời lại bao hàm một lƣợng mới phù hợp với nó. Chất mới
của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lƣợng của nó đạt tới
điểm nút, sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lƣợng đã thay đổi của sự vật.
Chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vận động và phát triển của sự vật. Chẳng hạn, khi sinh viên
vƣợt qua điểm nút là kì thi tốt nghiệp tức là đã thực hiện bƣớc nhảy từ
đó sinh viên sẽ nhận đƣợc bằng cử nhân. Trình độ văn hóa của sinh
viên cao hơn trƣớc sẽ tạo điều kiệngiúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Cũng giống nhƣ vậy, khi nƣớc từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi
thì vận tốc của các phân tử nƣớc cao hơn, thể tích của nƣớc ở trạng
thái hơi sẽ lớn hơn thể tích ở trạng thái lỏng cũng cùng một khối
lƣợng, tính chất hòa tan một số chất của nƣớc cũng sẽ khác đi.
2.2 Vai trò của quy luật lượng chất trong quá trình học tập của sinh
viên ngành giáo dục chính trị tại Đại học Đồng Tháp
Ngành giáo dục chính trị tuy không phải là một cái tên mới,
nhƣng cũng khá xa lạ với các bạn học sinh Trung học Phổ Thông.
Trong những năm gần đây số lƣợng sinh viên theo học ngành giáo
dục chính trị tại Đại học Đồng Tháp có xu hƣớng gia tăng, theo
thống kê năm 2012 có 22 sinh viên, năm 2013 có 57 sinh viên, năm
2014 có 64 sinh viên, năm 2015 có hơn 100 bạn sinh viên đăng kí
theo học, cao hơn những năm trƣớc. Vừa qua khóa 2011 có 22 sinh
viên, trong đó có 12 sinh viên đã tốt nghiệp ra trƣờng, còn lại 10
sinh viên do còn thiếu chứng chỉ ngoại ngữ, tin học.
Giáo dục chính trị là ngành sƣ phạm, giúp sinh viên đạt
đƣợc kiến thức chuyên môn về giáo dục công dân, đƣợc rèn luyện
các kỹ năng sƣ phạm, bồi dƣỡng phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Sau
bốn năm học, sinh viên phải đạt chuẩn về kiến thức, kỹ năng và
thái độ.
Về kiến thức: Có hiểu biết chuyên sâu về các nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và Đƣờng lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, các môn Lý luận chính trị. Hiểu
biết cơ bản về khoa học giáo dục và tâm lý giáo dục để có thể vận
dụng vào hoạt động dạy học. Ngoài ra phải có khả năng sử dụng tiếng
Anh và Tin học trong học tập và nghiên cứu.
143
Về kỹ năng: Thực hiện hoạt động giảng dạy từ giai đoạn
chuẩn bị đến giai đoạn triển khai và đánh giá kết quả, triển khai các
phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực hóa ngƣời học. lựa chọn
phƣơng pháp giảng dạy hiệu quả và xử lý tối ƣu các tình huống sƣ
phạm, triển khai thực hiện đƣợc các hoạt động nghiên cứu khoa học
giáo dục và các vấn đề xã hội, thực hiện đƣợc các trƣờng hợp khác
nhau của hoạt động giao tiếp sƣ phạm và ứng xử xã hội, có năng lực
tƣ duy khoa học, độc lập, sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp.
Về thái độ: Hình thành tình cảm và đạo đức với nghề, có ý thức
cầu tiến, tinh thần chủ động, có trách nhiệm trong hoạt động giáo dục.
Sau khi tích lũy đủ về kiến thức, kỹ năng thì sau khi ra trƣờng sinh
viên có thể giảng dạy môn Giáo dục công dân tại các trƣờng trung
học, các môn Lý luận chính trị tại các trƣờng trung cấp chuyên
nghiệp, trung cấp nghề, trƣờng chính trị, cao đẳng nghề, cao đẳng và
đại học. Chuyên viên, công chức tại các sở, phòng, ban, các đoàn thể
chính trị - xã hội. Phóng viên, biên tập viên tại các báo, đài, nhà xuất
bản. Sau khi ra trƣờng, có thể tiếp tục học tập nâng cao trình độ ở các
bậc đào tạo Thạc sỹ hoặc Tiến sỹ thuộc các chuyên ngành Lý luận
chính trị.
Tuy nhiên, ngành giáo dục chính trị vẫn đƣợc xem là một
ngành tƣơng đối khó và khô khan vì phải học nhiều môn lý luận
mà trƣớc đó nhiều bạn chƣa đƣợc biết đến, do đó dễ gây tâm lý
chán nản, hoang mang trong việc học tập, thêm vào đó nhiều sinh
viên chƣa có phƣơng pháp học tập hợp lý. Để có kết quả học tập
tốt, trong học tập cần phải nghiên cứu trên cả hai phƣơng diện chất
và lƣợng. Phải biết tích lũy dần về lƣợng tức là tích lũy đủ số tín
chỉ theo quy định của nhà trƣờng và phải có đƣợc các chứng chỉ
nhƣ ngoại ngữ, tin học, thể chất, quốc phòng. Nhờ đó có thể đạt
đƣợc thành tích học tập trên cơ sở các môn học tƣơng ứng.
Muốn làm thay đổi chất của sự vật thì cần phải làm thay đổi
lƣợng tƣơng ứng với chất phù hợp đến giới hạn điểm nút. Ngƣợc lại,
nếu không muốn cho chất của sự vật thay đổi thì cần phải giới hạn sự
thay đổi của lƣợng trong giới hạn của độ. Bên cạnh đó, chúng ta phải
biết từng bƣớc tích lũy dần dần về lƣợng để làm biến đổi về chất theo
quy luật. Với hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tƣ tƣởng
sâu sắc nhƣ “tích tiểu thành đại”, “góp gió thành bão”… phƣơng pháp
này giúp chúng cho chúng ta tránh đƣợc tƣ tƣởng chủ quan, duy ý chí,
144
nôn nóng. Sinh viên muốn đạt kết quả cao trong học tập thì cần phải
tích lũy dần dần các môn học qua từng học kì theo số lƣợng cụ thể,
đăng kí học với số lƣợng môn vừa sức bản thân. Trong quá trình học
phải nắm vững kiến thức của từng môn nhằm xây dựng nền tảng cho
các môn học sau. Tránh tình trạng đăng kí nhiều môn trong một học
kì, và học lệch giữa các môn học để dẫn đến học lan man và không có
kết quả cao.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách
quan. Song quy luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy
luật của xã hội đƣợc thực hiện thông qua ý thức con ngƣời. Do đó, khi
đã tích lũy đủ về lƣợng phải có quyết tâm để tiến hành bƣớc nhảy,
phải kịp thời chuyển sự thay đổi về lƣợng thành những thay đổi về
chất, chỉ có nhƣ vậy chúng ta mới khắc phục đƣợc tƣ tƣởng bảo thủ,
trì truệ. Sự chuyển tiếp từ học kì này tới học kì tiếp theo, sinh viên đã
tích lũy cho bản thân một lƣợng kiến thức vừa học, để đạt kết quả cao
trong học kì tới, các bạn cần phải phát huy những mặt tích cực nhƣ có
thái độ và ý thức học tập đúng đắn, đề ra kế hoạch và mục tiêu phù
hợp. khi tích lũy đủ về kiến thức, kỹ năng chúng ta phải sẵn sang
chuẩn đón nhận môi trƣờng làm việc mới, đón nhận những thử thách,
khó khăn để có thể trải nghiệm những gì đã đƣợc học, từ đó giúp
chúng ta trƣởng thành hơn trong công việc và trong nhận thức.
Trong hoạt động học tập của mình chúng ta còn phải biết vận
dụng linh hoạt các hình thức của bƣớc nhảy. Sự vận dụng linh hoạt đó
sẽ tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan
và những nhân tố chủ quan. Tùy theo từng trƣờng hợp, điều kiện hay
quan hệ cụ thể,chúng ta sẽ lựa chọn hình thức bƣớc nhảy phù hợp để
đạt tới chất lƣợng và hiệu quả học tập của mình. Từng bƣớc đề ra các
mục tiêu và lên kế hoạch thực hiện để hoàn thành mục tiêu đã đề ra.
Nếu có khả năng sinh viên cũng có thể thực hiện nhiều mục tiêu trong
cùng một thời điểm, chẳng hạn vừa học kiến thức chuyên ngành vừa
học để lấy chứng chỉ tin học và ngọa ngữ, ngƣợc lại nếu khả năng có
hạn thì chúng ta có thể thực hiện từng bƣớc. Sinh viên ngành giáo dục
chính trị trong học tập không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu kiến thức
một chiều, các bạn có thể trao đổi ý kiến với giảng viên những điều
chƣa hiểu rõ về môn học, phải linh hoạt trong việc kiếm tài liệu liên
quan đến những môn chuyên ngành, nhằm giúp sinh viên nâng cao
kiến thức và xử lý có hiệu quả các bài tập mà giảng viên đƣa ra để đạt
kết quả tốt nhất.
145
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi
phƣơng thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật. Tức là muốn
chủ thể có sự thay đổi về chất ta cần tác động vào những yếu tố xung
quanh và của cá nhân chủ thể. Có nhiều yếu tố tác động đến kết quả
học tập của sinh. Để thúc đẩy ý thức các nhân, tức bản chất bên trong
thì phải có sự tác động bởi các điều kiện nhƣ phòng học đƣợc trang bị
phƣơng tiện nhằm hỗ trợ cho việc tiếp thu kiến thức của sinh viên một
cách trực quan sinh động, thƣ viện có các tài liệu liên quan giúp sinh
viên bổ sung thêm kiến thức về chuyên ngành. Khi đƣợc đáp ứng về
nhu cầu học tập, các bạn sinh viên sẽ hình thành cho bản thân thói
quen học tập tốt nhƣ đề ra ra mục tiêu, lên kế hoạch cụ thể và thực
hiện một cách nghiêm túc cho đến khi đạt kết quả cao. Bên cạnh đó,
còn nhiều vấn đề đáng quan tâm là thái độ, ý thức, phƣơng pháp học
tập của một số sinh viên, sự quan tâm của thầy cô giáo và sự giúp đỡ
của gia đình, bạn bè….Hiện nay, đa số sinh viên ngành giáo dục chính
trị có ý thức học tập tốt, song còn một bộ phận chƣa có ý thức trong
việc học tập dẫn đến kết quả học tập không khả quan và đôi khi còn
xảy ra tình trạng bỏ học. Những vấn đề trên xuất phát từ những
nguyên nhân sau: Một số bạn vì hoàn cảnh gia đình nên bị ép theo học
ngành mà bản thân không đam mê và thích thú, những bạn khác vừa
mới bƣớc chân vào môi trƣờng đại học, xa gia đình nên ham chơi hơn
là học, thƣờng xuyên tụ tập ở những nơi nhƣ quán cà phê, quán nhậu,
karaoke,... Có bạn thì đam mê ngành nhƣng chƣa bắt kịp với môi
trƣờng học mới và chƣa có kế hoạch học tập hợp lý. Bên cạnh đó,
cùng với sự phát triển của công nghệ và mạng xã hội ngày càng phổ
biến, sinh viên giành nhiều thời gian cho việc giải trí, lúc nào các bạn
cũng chăm chú vào chiếc di động đa chức năng mọi lúc mọi nơi, ngay
cả trong giờ học,… vẫn còn nhiều nguyên nhân khác, nhƣng chỉ bấy
nhiêu đó cũng đã ảnh hƣởng đáng kể đến quá trình học tập lâu dài.
Đây là thực trạng của sinh viên ngành giáo dục chính trị nói riêng và
các ngành khác nói chung và để khắc phục tình trạng này thì chúng ta
cần phải có những giải pháp thích hợp.
2.3. Giải pháp để đạt được hiệu quả trong việc học tập
Bên cạnh những mặt đạt đƣợc trong việc học của sinh viên
ngành giáo dục chính trị tại trƣờng Đại học Đồng Tháp, chúng ta cần
phải quan tâm đến các mặt chƣa đạt đƣợc nhƣ là thái độ lơ là, nôn
nóng, chủ quan trong việc học…Nhằm khắc phục những hạn chế đó,
146
sinh viên cần có biện pháp điều chỉnh thái độ, ý thức, xây dựng kế
hoạch học tập một cách khoa học để đạt kết cao nhƣ:
- Ý thức và thái độ học tập: Sinh viên cần phải có trách
nhiệm với bản thân, xây dựng cho bản thân một kế hoạch học tập
đúng đắn và hợp lý, đƣa ra mục tiêu mà mình muốn đạt đƣợc phải
thực hiện nghiêm túc cho đến khi đạt kết quả và công việc sau
này. Một ngƣời sinh viên ngành giáo dục chính trị phải học tập,
rèn luyện tu dƣỡng phẩm chất đạo đức trong sạch, vững mạnh,
phải có lòng yêu nghề, yêu trẻ. Phấn đấu trong tƣơng lai trở thành
những ngƣời giáo viên tốt, những cán bộ công nhân viên chức góp
phần xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.
- Xây dựng kế hoạch học tập một cách khoa học, sinh viên có
một số phương pháp học tập cụ thể như sau: Một là, sắp xếp thời
gian học tập và nghỉ ngơi hợp lý,ngoài việc học trên lớp, các bạn
sinh viên cần phải có thời gian vui chơi, giải trí. Chẳng hạn nhƣ việc
đến lớp của các bạn từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, sau khi kết thúc
quá trình học một của ngày các bạn cần nghỉ ngơi khoảng 2 tiếng kể
cả việc ăn uống và giải trí nhẹ. Sau đó các bạn bắt đầu xem lại bài cũ
để củng cố lại kiến thức đã học, sau đó hoàn thành những yêu cầu mà
giảng viên đƣa ra, đọc trƣớc giáo trình cho môn học của ngày tiếp
theo. Các bạn không nên thức quá khuya để tránh ảnh hƣởng đến
việc học cho ngày hôm sau. Hai là, tăng cƣờng học tập theo
nhóm:Đối với những môn đòi hỏi khả năng tƣ duy cao, kiến thức
mở, phải biết tổ chức làm việc nhóm trong thời gian rảnh, các bạn
trao đổi kiến thức, chia sẻ bài học với nhau. Làm việc nhóm mỗi
ngƣời sẽ góp ý kiến nên vấn đề sẽ nhanh chóng đƣợc giải quyết tối
ƣu, hơn nữa học nhóm sẽ làm cho các bạn có thói quen làm việc
nhóm. Ba là, thay đổi phƣơng pháp học tập nếu kết quả chƣa khả
quan, việc học tập cũng cần có sự đổi mới để tiếp thu một cách có
hiệu quả, không nên bảo thủ một phƣơng pháp học tập nào đó dễ gây
ra tình trạng chậm phát triển trong nhận thức. Khi muốn nhớ đƣợc
kiến thức, việc học thuộc sẽ không mang lại kết quả cao, chúng ta có
thể ghi nhớ một cách khoa học nhƣ vẽ sơ đồ tƣ duy, sử dụng những
hình ảnh liên tƣởng để đạt đƣợc việc ghi nhớ lâu hơn. Bốn là, sinh
viên nên xây dựng cho bản thân thói quen đọc sách, đọc đúng nơi,
đúng lúc. Các bạn hãy thƣờng xuyên vào thƣ viện tìm kiếm những tài
liệu bổ trợ cho các môn học chuyên ngành, tìm hiểu những tạp chí,
147
bài báo khoa học để hiểu thêm nhiều vấn đề mới của xã hội. Kiến
thức chúng ta có đƣợc không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu bài giảng,
sự hƣớng dẫn của giảng viên, mà chúng ta cần biết chủ động tìm
kiếm những nguồn tri thức khác qua bạn bè, báo chí, mạng xã hội,
sách… để làm giàu nguồn kiến thức cho bản thân trong những năm
tháng học tập ở trƣờng Đại học Đồng Tháp.
Với những giải pháp trên sẽ giúp sinh viên từng bƣớc tích lũy đủ
về tri thức, kỹ năng để sau khi học xong các bạn có thể sử dụng kiến thức
đó vào trong quá trình công tác, học tập nâng cao trình độ góp phần xây
dựng quê hƣơng đất nƣớc ngày càng tƣơi đẹp.
3. Kết luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lƣợng thành những thay đổi về chất và ngƣợc lại ta rút ra một số vấn
đề trong học tập và rèn luyện của sinh viên và cụ thể là sinh viên
ngành giáo dục chính trị của trƣờng Đại học Đồng Tháp không ngừng
nỗ lực, phấn đấu vƣơn lên trong học tập. Sự vận động và phát triển
của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần về lƣợng đến
một giới hạn nhất định, chuyển hóa về chất và việc học tập rèn
luyệncủa sinh viên ngành giáo dục chính trị cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Để có đƣợc tấm bằng đại học chúng ta cần phải thực hiện
đầy đủ các học phần và hoàn thành tốt các kỳ thi.Muốn đƣợc nhƣ vây
chúng ta cần phải cố gắng trong học tập, phải tìm ra các phƣơng
hƣớng học tập đúng đắn nhằm rút ngắn thời gian và đạt đƣợc kết quả
cao nhất.
Tài liệu tham khảo
[1]. Ph. Ăng-ghen (1971), Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự thật, Hà
Nội.
[2]. Mai Văn Bính-Nguyễn Đăng Quang (2010), Triết học Mác -
Lênin tập bài giảng, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
[3]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo trình Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo trình Triết học Mác-Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
148
VAI TRÕ CỦA HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC TRONG
CHƢƠNG TRÌNH HỌC TOEIC CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG
ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
SV: Huỳnh Thị Trúc Linh - Trần Nguyễn Bảo Yến
Trần Thị Kim Hà - Nguyễn Thành An
Lớp: ĐHGDCT13
GVHD: ThS. Trần Kim Ngọc
Tóm tắt: Tự học là phương pháp học tối ưu và giữ vai trò quan trọng
trong hoạt động học Toeic của sinh viên. Trong bài viết này, chúng
tôi sẽ làm rõ vai trò của hoạt động tự học trong chương trình học
Toeic của sinh viên Trường Đại học Đồng Tháp.
Từ khóa: Toeic, tự học, tiếng Anh, phương pháp học tiếng Anh.
1. Mở đầu
Hòa vào xu thế toàn cầu hóa, giáo dục Việt Nam đã có những
thay đổi phù hợp với sự phát triển của thế giới. Giáo dục nƣớc ta đã
và đang thực hiện đề án ngoại ngữ quốc gia 2020 với mục tiêu chung
là: “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo
dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở
các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một
bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn
nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số
thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ
năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập,
làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến
ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [6]. Thực hiện đề án
các trƣờng nghề, các trƣờng Cao đẳng và Đại học đã và đang sử dụng
Toeic làm điều kiện ra trƣờng của các sinh viên. Trƣờng Đại học
Đồng Tháp cũng đã sử dụng Toeic làm chuẩn đầu ra cho sinh viên
học tập tại Trƣờng cùng với các chuẩn khác nhƣ: Tin học, Quốc
phòng – An ninh, Thể chất và chuẩn Công tác xã hội. Trong chƣơng
trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ, sinh viên là ngƣời quyết định kết
quả học tập thông qua hoạt động tự học của chính mình. Và đặc biệt
là với Toeic, do đây là bài kiểm tra trình độ tiếng Anh nên tự học giữ
vai trò vô cùng quan trọng trong việc học Toeic của sinh viên. Cho
nên bài viết này sẽ làm rõ vai trò của hoạt động tự học trong chƣơng
trình học Toeic của sinh viên Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
149
2. Nội dung
2.1. Tính tất yếu của hoạt động tự học trong chương trình học
Toeic của sinh viên Trường Đại học Đồng Tháp.
Năm 2008, Trƣờng Đại học Đồng Tháp triển khai hình thức
đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở tất cả các ngành đào tạo. Nhằm mục
đích giúp sinh viên tự giác, chủ động tiếp thu kiến thức mới một cách
có chọn lọc, giúp sinh viên vận dụng linh hoạt kiến thức vào việc giải
quyết các vấn đề thực tế, đồng thời rèn luyện cho sinh viên lối tƣ duy
khoa học. Trong hình thức dạy và học theo hệ thống tín chỉ thì hoạt
động tự học, tự nghiên cứu của sinh viên sẽ không ngừng đƣợc nâng
cao cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Do thời gian lên lớp của cả giảng
viên và sinh viên ngắn nên dƣới sự hƣớng dẫn của giảng viên, sinh
viên sẽ tự tìm tòi, tự học để nắm bắt kiến thức một cách đầy đủ nhất.
Việc tự học của sinh viên giữ vai trò rất quan trọng, mang tính quyết
định đến kết quả học tập và rèn luyện của cá nhân ở các môn chuyên
ngành và các môn điều kiện tốt nghiệp, trong đó có Toeic.
Toeic (Test of English for International Communication) là
bài kiểm tra đánh giá trình độ sử dụng tiếng Anh của cá nhân trong
giao tiếp hàng ngày và trong công việc. Hoạt động tự học Toeic của
sinh viên Trƣờng Đại học Đồng Tháp luôn đƣợc sự quan tâm của cả
thầy và trò. Bài thi Toeic gồm nhiều nội dung kiến thức và tập trung
ở kỹ năng nghe, đọc. Do tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai đối với ngƣời
khác với tiếng Việt Nam cho nên việc học Toeic là một thử thách đối
với sinh viên, đặc biệt là trong phần nghe. Kèm theo đó là điểm
chuẩn Toeic ngày một tăng. Hiện tƣợng “học lệch” ở trƣờng phổ
thông cũng đã khiến phần đông sinh viên mất kiến thức cơ bản về
môn tiếng Anh. Chính những yếu tố khách quan trên đã góp phần tạo
nên tính chất bắt buộc là phải tự học trong quá trình học Toeic của
sinh viên.
Bằng việc tự học, ngƣời học sẽ nhớ lâu hơn, chủ động hơn về
thời gian và địa điểm. Nếu tự học tốt ngƣời học tham gia kiểm tra và
thi một lần sẽ đậu, do đó sẽ tiết kiệm đƣợc thời gian và chi phí học
tập. Cho nên, để học tốt Toeic cần phải tự học một cách thƣờng
xuyên. Khẳng định vị trí và vai trò của việc tự học Toeic, nhà ngôn
ngữ D.A Winkins phát biểu: “Không có ngữ pháp thì có rất ít thông
tin được truyền đạt nhưng không có từ vựng thì chắc chắn không có
một thông tin nào được truyền đạt cả. Còn vốn ngữ pháp và vốn từ
vựng của mỗi người đến đâu là sự nổ lực của riêng mỗi người chứ
150
chẳng có ai có thể học thay, học thế cho ai được cả”[3, tr.132].
Chính vì vậy, tự học Toeic là điều tất yếu đối với sinh viên Trƣờng
Đại học Đồng Tháp.
2.2. Hoạt động tự học Toeic trong chương trình học Toeic giúp
sinh viên hình thành và phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
bằng tiếng Anh.
“Kỹ năng là khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một
hay nhiều hành động dựa trên kiến thức và kinh nghiệm trong quá
trình rèn luyện lâu dài nhằm tạo ra sự hiệu quả” [1, tr.168-169]. Kỹ
năng đóng vai trò quan trọng, ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả của
quá trình tự học tiếng Anh. Các kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết
bằng tiếng Anh là công cụ hữu hiệu nhất để ngƣời học chứng chỉ
Toeic có thể sử dụng tiếng Anh một cách hiệu quả trong môi trƣờng
làm việc hàng ngày, từ những tình huống giao tiếp đơn giản đến
những tình huống phức tạp. Do đó, tự học rất quan trọng và tầm
quan trọng cũng nhƣ vai trò của tự học thể hiện rõ ở 4 kỹ năng:
Thứ nhất, với kỹ năng đọc thì việc tự học sẽ hình thành và
phát triển vốn từ vựng của ngƣời học về các chủ đề quen thuộc. Cùng
với đó, ngƣời học có thể sử dụng đƣợc những cấu trúc ngữ pháp từ cơ
bản cho đến phức tạp trong những tình huống cụ thể. Và ngoài ra,
sinh viên còn có thể đọc và hiểu đƣợc nội dung chính của các văn
bản, tài liệu.
Thứ hai, tự học rèn luyện cho ngƣời học cách viết, cách hành
văn cũng nhƣ cách sử dụng từ ngữ, cấu trúc câu,... cho phù hợp với
từng chủ đề, từng mục đích qua những bài viết cụ thể.
Thứ ba, khi sinh viên thƣờng xuyên giao tiếp bằng tiếng Anh
thì kỹ năng nói của bản thân sẽ đƣợc hình thành và ngày càng phát
triển. Ngƣời học có thể phát âm chính xác từ vựng, diễn đạt mạch lạc,
đầy đủ nội dung và đúng cấu trúc câu về một đề tài nào đó.
Thứ tƣ, bằng việc thƣờng xuyên nghe ngƣời bản xứ nói
chuyện, sinh viên có thể nghe đƣợc những nội dung chính mà ngƣời
nói muốn đề cập đến. Hoặc sinh viên có thể nghe đƣợc những từ, cụm
từ, mẫu câu, cấu trúc câu cơ bản và phức tạp thƣờng dùng trong đời
sống thƣờng ngày.
Để có đƣợc những kỹ năng cơ bản của tiếng Anh, sinh viên
phải có thời gian rèn luyện, phải kiên trì, chăm chỉ trong suốt quá
trình tự học tiếng Anh. Thông qua các thiết bị, tài liệu, phƣơng tiện
151
hoặc các buổi học nhóm, ngƣời học có thể dần hình thành và nâng
cao các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng Anh, đặc biệt là vốn
từ vựng của bản thân ngày càng nhiều. Kiến thức và kỹ năng của sinh
viên sẽ đi từ dễ đến khó, từ cơ bản đến nâng cao. Điều này sinh viên
có thể đạt đƣợc khi mỗi cá nhân biết kết hợp các phƣơng pháp học
tập thích hợp và khoa học, học thƣờng xuyên, học đi đôi với hành.
2.3. Hoạt động tự học Toeic trong chương trình học Toeic nâng
cao kiến thức chuyên ngành và phát triển các kỹ năng xã hội của
sinh viên.
Vai trò của hoạt động tự học Toeic không chỉ giúp sinh viên
hình thành và phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng
Anh mà còn góp phần nâng cao kiến thức chuyên ngành và phát triển
các kỹ năng xã hội của sinh viên. Sinh viên là ngƣời biết rõ bản thân
khuyết kiến thức Toeic ở phần nào, kỹ năng nào, cho nên bằng hoạt
động tự học dƣới sự hƣớng dẫn của giảng viên sẽ giúp ngƣời học tìm
lại các kiến thức căn bản, làm nền tảng để tiếp thu kiến thức mới tốt
hơn. Thông qua việc giao tiếp với ngƣời nƣớc ngoài, xem các kênh
truyền hình quốc tế, làm các bài kiểm tra Toeic,... sinh viên có thể rèn
luyện, đánh giá đƣợc kiến thức của bản thân ở mức độ nào mà có kế
hoạch học tập phù hợp đồng thời nắm bắt các kiến thức xã hội và
chuyên ngành.
Bên cạnh đó, tự học Toeic còn rèn luyện và phát triển một số
kỹ năng xã hội cho bản thân mỗi sinh viên. Chẳng hạn, rèn luyện
ngƣời học có khả năng phản xạ nhanh và lối tƣ duy nhạy bén, chính
xác. Xuất phát từ hình thức thi Toeic chủ yếu là trắc nghiệm, với 200
câu trắc nghiệm trong 120 phút. Nhƣ vậy, mỗi câu hỏi chƣa đến 1
phút để trả lời, điều này đòi hỏi sinh viên phải có kiến thức nền thật
chắc chắn, có kỹ xảo làm bài. Sinh viên phải xâu chuỗi lại những từ,
cụm từ quan trọng, những cấu trúc câu chính trong quá trình nghe để
nhanh chóng đƣa ra đáp án đúng nhất, nhanh nhất. Trong quá trình
diễn ra hoạt động tự học, có thể bằng việc nghe các đoạn đối thoại
của ngƣời bản xứ thì kỹ năng lắng nghe, phán đoán của ngƣời học sẽ
ngày càng tiến bộ dần. Nhìn chung, với mỗi hình thức tự học tiếng
Anh khác nhau đều hình thành và rèn luyện cho từng cá nhân những
kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Kết hợp hài hòa các hình thức tự học và
có phƣơng pháp học phù hợp là chìa khóa giúp ngƣời học thành công.
Ngoài ra, kiến thức bài thi Toeic là rất nhiều nên nếu không
biết cách sắp xếp thời gian học tập khoa học sẽ dễ dẫn đến tình trạng
152
quá xem nhẹ môn này hay đặt nặng môn khác, kéo theo kết quả học
tập không tốt. Do đặc thù của Toeic bắt buộc sinh viên phải thƣờng
xuyên củng cố kiến thức cả về phần lý thuyết lẫn phần thực hành.
Chính vì vậy, sinh viên cần phải có cách quản lý thời gian học tập,
sinh hoạt và vui chơi hợp lí, nhằm đạt hiệu quả cao nhất có thể.
Hoạt động tự học Toeic góp phần giúp sinh viên tự tin, năng
động trong giao tiếp, học tập và làm việc. Vì sự tự học gắn liền với
rèn luyện, khi tự học các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết sẽ đƣợc nâng
cao và phát triển. Khi đó sinh viên sẽ quen thuộc với việc sử dụng
tiếng Anh, kiến thức và ngữ pháp trở nên vững chắc. Sự quen thuộc
giúp ngƣời học trở nên tự tin và năng động hơn trong quá trình học
tập, làm việc bằng tiếng Anh.
Vai trò của hoạt động tự học Toeic còn thể hiện ở việc mở
rộng cơ hội việc làm trong tƣơng lai cho ngƣời học. Tự học tốt Toeic,
sinh viên nhanh chóng đạt chuẩn ra trƣờng đúng thời hạn, có thể tìm
đƣợc việc làm thích hợp ngay sau khi vừa tốt nghiệp. Sinh viên sẽ
đƣợc ƣu tiên tuyển dụng vào làm trong các cơ quan, công ty, các tập
đoàn trong nƣớc và ngoài nƣớc ở vị trí tƣơng xứng. Đồng thời, sinh
viên còn có nhiều cơ hội và có nhiều sự lựa chọn công việc sau khi ra
Trƣờng. Ngoài ra, tự học tốt Toeic giúp ngƣời học giữ vững và phát
triển nghề nghiệp của chính họ. Nhƣ vậy, tự học Toeic là tiền đề, là
cơ sở để sinh viên có thể phát triển sự nghiệp của bản thân sau này.
3. Kết luận
Hoạt động tự học trong chƣơng trình học Toeic ở Trƣờng Đại
học Đồng Tháp luôn đƣợc đội ngũ giảng viên chuyên Anh ngữ và
sinh viên không chuyên Anh khẳng định. Từ việc nhận thức đƣợc vai
trò, cả ngƣời dạy và ngƣời học cần có những hành động thiết thực
nhằm phát huy tối đa vai trò của việc tự học trong quá trình học Toeic
để đạt đƣợc kết quả học tập tốt.
Tài liệu tham khảo
[1]. Lê Ngọc Hân và Đặng Trƣờng Sơn (2013), "Một số kỹ năng giúp
sinh viên tự học có hiệu quả trong quá trình học tập ở bậc Đại học
theo hệ thống tín chỉ”, Kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2013, trƣờng
Đại học Đồng Tháp.
[2]. Ngô Thị Mai Huỳnh (2013), Giải pháp phát triển kỹ năng nói
cho sinh viên năm thứ hai chuyên ngành tiếng Anh thông qua Skype,
153
Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2013, trƣờng Đại học
Đồng Tháp.
[3]. Nguyễn Duy Khánh và Phạm Thị Phƣơng (2013), Vấn đề tự học
Anh văn của sinh viên không chuyên Anh trường đại học Đồng Tháp:
thực trạng và một số khuyến nghị, Hội nghị sinh viên nghiên cứu
khoa học năm 2013, trƣờng Đại học Đồng Tháp.
[4]. Nguyễn Thị Kim Ngân, Đặng Trƣờng Sơn, Phạm Văn Thừa,
Nguyễn Thị Mỹ Hòa (2013), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
tự học của sinh viên ngành Đại học Giáo dục Chính trị trường Đại
học Đồng Tháp trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ, Hội nghị sinh
viên nghiên cứu khoa học năm 2013, trƣờng Đại học Đồng Tháp.
[5]. Trần Kim Ngọc (2013), Vấn đề tự học của sinh viên Đại học
Đồng Tháp trong đào tạo theo tín chỉ, Đề tài khoa học và công nghệ
cấp cơ sở, trường Đại học Đồng Tháp.
[6]. Quyết định Về việc phê duyệt Đề án "Dạy và học ngoại ngữ
trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020".
[7]. Nguyễn Duy Tân (2013), Những giải pháp nâng cao năng lực nói
tiếng Anh cho sinh viên chuyên ngữ năm II, trường đại học Đồng
Tháp, Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2013, trƣờng Đại
học Đồng Tháp.
154
ĐỊNH HƢỚNG CÁC CHUẨN GIÁ TRỊ TRONG HÔN NHÂN GIA
ĐÌNH CỦA SINH VIÊN KHOA GDCT & CTXH, TRƢỜNG
ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
SV: Nguyễn Thị Phƣơng Dung - Nguyễn Ngọc Thảo Nhi
Lớp: ĐHCTXH12
GVHD: ThS. Kiều Văn Tu
Tóm tắt: Xã hội không ngừng vận động và biến đổi, các giá trị hôn
nhân có sự thay đổi theo xu hướng tăng dần về giá trị vật chất hơn là
giá trị về tinh thần. Bên cạnh những biến đổi mang tính tích cực thì
cũng có một số giá trị mang chiều hướng tiêu cực đáng quan tâm như
những lệch lạc trong các giá trị về hôn nhân trong gia đình. Nguyên
nhân của vấn đề này là do sự biến đổi của xã hội, sự biến đổi này
khiến con người chú trọng về vật chất hơn là các giá trị truyền thống
trong gia đình. Khi các giá trị truyền thống bị chi phối sẽ làm thay đổi
chức năng của gia đình, ảnh hưởng đến các mối quan hệ, dễ gây đổ
vỡ trong hôn nhân và dẫn đến nhiều vấn đề xã hội. Định hướng về giá
trị trong gi
Trường Đại học Đồng Tháp, cho thấy sinh viên có các định hướng giá
trị khác nhau về sự đảm bảo hôn nhân bền vững và gia đình hạnh
phúc trong tương lai.
Từ khóa:
1. Đặt vấn đề
Trong nhiều năm qua, hệ giá trị trong gia đình Việt Nam có
nhiều thay đổi. Từ các gia đình ba bốn thế hệ cùng sinh sống tách ra
thành gia đình hạt nhân là chủ yếu. Cùng với nó sự thay đổi vị thế của
các thành viên và nhiều giá trị cốt lõi trong gia đình. Bên cạnh các giá
trị truyền thống của gia đình Việt Nam thì do có sự hội nhập của nhiều
nền văn hóa có thêm sự xuất hiện nhiều giá trị gia đình phƣơng Tây,
một phần nhỏ nữa là do xuất phát từ những thay đổi kinh tế - xã hội và
điều kiện sống ở Việt Nam. Hiện nay xã hội hóa các giá trị đối với
giới trẻ là sinh viên nói riêng và thanh niên nói chung có cái nhìn khác
và có phần bị lệch về các giá trị của hôn nhân. Theo một công trình
nghiên cứu xã hội học của tiến sỹ Nguyễn Minh Hòa (Trƣờng Đại học
155
Khoa học xã hội & Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh): tỷ lệ ly hôn/kết hôn ở
Việt Nam là 31,4%, tức là cứ ba cặp kết hôn lại có một cặp ly hôn. Để
hiểu hơn về suy nghĩ mong muốn của giới trẻ mà đặc biệt là sinh viên
về các giá trị hôn nhân trong gia đình chúng tôi quyết định thực hiện
một cuộc khảo sát với sinh viên về “
trong hôn nhân gia đình của sinh viên Khoa GDCT- CTXH, Trƣờng
Đại học Đồng Tháp”.Chúng tôi mong muốn cuộc khảo sát này sẽ tài
liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khoa học khác về vấn
đề này.
Phƣơng pháp nghiên cứu: tìm hiểu quan niệm của sinh viên về
các giá trị cần thiết để xây dựng gia đình hạnh phúc, nhóm nghiên cứu
sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng. Chúng tôi đã khảo sát
90 sinh viên Khoa Giáo dục chính trị và Công tác xã hội. Bảng câu hỏi
đƣợc thiết kế với 27 tiêu chí tƣơng ứng với 27 giá trị trong gia đình.
Nhóm tác giả dùng câu hỏi kết hợp đóng và mở để sinh viên có thể
nêu ý kiến bổ sung và đánh giá theo mức độ quan trọng của các giá trị
hôn nhân. Các giá trị này đƣợc sắp xếp tăng dần từ 1 đến 5 (1: ít quan
trọng nhất; 5: quan trọng nhất).
Bảng hỏi khảo sát
TT Các giá trị Thang điểm
từ 1-5
1 Đầy đủ tiện nghi sinh hoạt
2 Môi trƣờng ít ô nhiễm
3 Thu nhập cao của gia đình
4 Học thêm nâng cao chuyên môn
5 Thoả mãn nhu cầu cá nhân
6 Cùng nhau nghỉ ngơi giải trí
7 Đọc sách, báo, tạp trí
8 Khoẻ mạnh
9 Tôn trọng bình đẳng
10 Tham quan du lịch hàng năm
11 Hoà thuận
12 Yêu thƣơng tin tƣởng
13 Gia đình có 1-2 con
14 Gia đình phải có con trai
15 Quan tâm giúp đỡ lẫn nhau
16 Cha mẹ nuôi con tốt
156
17 Để phát triển tự do
18 Chăm sóc giáo dục con
19 Giữ gìn quy tắc sống của gia đình
20 Hiểu biết rộng
21 Học vấn cao
22 Phúc lợi xã hội, gia đình thƣờng xuyên làm
từ thiện
23 Chung thuỷ
24 Hoà hợp tình dục
25 Con có hiếu
26 Con thành đạt
Phƣơng pháp xử lý số liệu: nhóm tác giả tổng hợp các kết quả
khảo sát và tính điểm trung bình ở hình 1. Chúng tôi cho rằng 2.5 là
mức điểm trung bình. Nếu trên mức điểm này tức là các giá trị đƣợc
coi trọng và ngƣợc lại.
Hình 1. Điểm trung bình của các giá trị hôn nhân trong gia đình
2. Khái niệm về giá trị, hôn nhân, gia đình
- Giá trị là cái mà ngƣời ta dùng làm cơ sở để xét xem một vật có
lợi ích tới mức nào đối với con ngƣời, đó là những nguyên tắc, chuẩn
mực, tiêu chuẩn chỉ dẫn cho hành động của con ngƣời.
- Hôn nhân: Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về
mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn
nhân có thể là kết quả của tình yêu. Hôn nhân là một mối quan hệ
cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội. Về mặt xã hội, lễ
cƣới thƣờng là sự kiện đánh dấu sự chính thức của hôn nhân.Về mặt
luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn.
157
- Gia đình là một cộng đồng ngƣời sống chung và gắn bó với
nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dƣỡng và hoặc quan hệ giáo dục.
3. Định hƣớng các giá trị hôn nhân trong gia đình của sinh viên
Tại Điều 9 - Chƣơng II của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (sửa
đổi, bổ sung năm 2014) qui định điều kiện kết hôn trong đó tuổi đƣợc
phép kết hôn đối với nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên.
Hầu hết các bạn sinh viên cho rằng thời điểm tốt nhất để kết hôn là khi
hai ngƣời có nghề nghiệp ổn định (85%), số ít còn lại cho rằng họ sẽ
kết hôn khi có kinh tế ổn định (13%) hoặc ngay khi tốt nghiệp
(2%).Qua số liệu khảo sát cho thấy đa số sinh viên xem yếu tố khi có
nghề nghiệp vững chắc và ổn định là quan trọng để xây dựng tổ ấm
gia đình.
Hình 2 cho thấy trong 12 yếu tố tổng hợp đƣợc đánh giá cao (từ
dƣới lên trên), sinh viên rất quan tâm đến những yếu tố thiên về tình
cảm, tinh thần. Trong đó, yếu tố hòa thuận giữa các thành viên trong
gia đình là quan trọng nhất (trên 4 điểm) rồi đến yêu thƣơng tin tƣởng,
tôn trọng lẫn nhau, không có bạo lực gia đình, các thành viên trong gia
đình yêu thƣơng, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng bình đẳng đƣợc
nhận giá trị từ 3.7 đến dƣới 4 điểm. Bên cạnh đó, việc chung thủy, có
thu nhập cao trong gia đình và có nghề nghiệp ổn định là một trong
những giá trị quan trọng tạo nên hạnh phúc gia đình. Điều này càng
cho thấy việc chọn thời điểm kết hôn của sinh viên là phù hợp, đủ
trƣởng thành để có nghề nghiệp ổn định. Ngƣợc lại, các yếu tố khác
nhƣ các thành viên cùng nhau giải trí, sinh hoạt, tham quan du lịch
hàng năm và gia đình phải có con trai lại không có ý nghĩa nhiều để
xây dựng gia đình hạnh phúc theo quan niệm của sinh viên.
Hình 2: Các giá trị đảm bảo hạnh phúc trong hôn nhân gia đình
158
Khi so sánh quan điểm giữa hai giới về các giá trị đảm bảo
hạnh phúc hôn nhân trong gia đình thì có sự khác biệt cụ thể là: sinh
viên nữ đánh giá mức độ quan trọng của các yếu tố khảo sát luôn cao
hơn nam sinh viên, ngoại trừ hai yếu tố là thõa mãn nhu cầu cá nhân
và thu nhập cao trong gia đình thì ngƣợc lại, nữ sinh đánh giá thấp
hơn nam. Hòa thuận là yếu tố cả hai giới đánh giá là quan trọng nhất
(trên 4 điểm). Nam giới quan niệm gia đình hạnh phúc hƣớng đến
cuộc sống gia đình có thu nhập cao, họ quan tâm đến bầu không khí
gia đình vui vẻ, thành viên tin tƣởng, quan tâm, chia sẻ tình cảm lẫn
nhau họ quan tâm nhiều đến đời sống thiên về vật chất nhƣ có nghề
nghiệp ổn định và thu nhập kinh tế cao. Trong khi đó nữ giới đánh giá
cao yếu tố chăm lo giáo dục cho con cái, cha mẹ nuôi dạy con cái và
căn nhà đầy đủ tiện nghi sinh hoạt. Nữ sinh đánh giá cao 3 yếu tố : sở
hữu căn nhà đầy đủ tiện nghi, chăm lo giáo dục con cái và cha mẹ
nuôi dạy con tốt thì nam giới cho rằng đây là 3 yếu tố ít quan trọng
hơn (Hình 3).
Hình 3: So sánh quan điểm về các giá trị đảm bảo hạnh phúc
gia đình giữa nam và nữ
4. Kết luận
Trong tất cả các giá trị trong hôn nhân để đảm bảo hạnh phúc
gia đình thì hòa thuận là yếu tố quan trọng và là điều đƣợc mong đợi
nhất trong tất cả sinh viên cả hai giới. Hòa thuận là êm ấm, không xích
mích, mâu thuẫn giữa các thành viên. Hòa thuận là yếu tố cần và đủ để
phát triển cũng nhƣ gìn giữ hạnh phúc của một gia đình. Và cũng là
giá trị và cũng là chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ vợ chồng.
159
Ngày nay, xã hội càng tiến bộ ngƣời ta càng có nhiều cơ hội mở rộng
giao tiếp thì có nhiều ý kiến cho rằng việc giữ gìn hòa thuận giữa các
thành viên trong gia đình càng trở nên khó khăn hơn.
Trong xã hội ngày càng hiện đại và giao lƣu với các nƣớc
trên thế giới, với môi trƣờng năng động và hội nhập quốc tế sinh viên
có nhiều cơ hội tìm hiểu, lựa chọn đối tƣợng phù hợp cho bản thân.
Họ ngày càng chủ động và tự do hơn khi chọn lựa, quyết định các vấn
đề trong hôn nhân và gia đình. Từ đó, sinh viên hình thành nên những
quan niệm giá trị, chuẩn mực rõ ràng, để tránh những phát sinh mâu
thuẫn trong đời sống g
chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau nhƣ về kinh tế, văn hóa -
xã hội, chính trị, hệ tƣ tƣởng…Để những giá trị, chuẩn mực ấy
luôn đúng đắn và phù hợp với thời đại thì xã hội, gia đình và nhà
trƣờng cần cung cấp những kiến thức, tƣ vấn tâm lí các vấn đề có thể
xảy ra trong hôn nhân, nhữ
-
Tài liệu tham khảo
[1]. Hà Văn Tác (2006), Gia đình học, Đại học Mở - Bán công Thành
phố Hồ Chí Minh.
[2]. Luật Hôn nhân và gia đình, số 52/2014/QH13 của nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 19 tháng 06 năm 2014.
[3]. Nguyễn Thị Thuận, Trần Xuân Kỳ (2009), Giới và phát triển,
NXB Lao động Xã hội Hà Nội.
[4]. Đỗ Thị Ngọc Anh “Giá trị của hôn nhân và gia đình Công giáo ở
Việt Nam hiện nay”
[5]. Từ điển Wikipedia Bách khoa toàn thƣ mở.
160
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC Ý
THỨC TỰ TÔN DÂN TỘC CHO THANH NIÊN HUYỆN LẤP
VÕ, TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY
SV: Dƣơng Thị Kiều Tiên
Lớp: ĐHGDCT11
GVHD: ThS. Lê Văn Tùng
Tóm tắt: Bài viết này tổng quan về tình hình và thực trạng ý thức tự
tôn dân tộc của thanh niên huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp; Chỉ ra
phương hướng và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên trong huyện
trong tình hình hiện nay.
Từ khóa: giáo dục, huyện Lấp Vò, thanh niên, ý thức tự tôn dân tộc.
1. Đặt vấn đề
Điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay đã và đang đặt ra những vấn
đề bức xúc về mặt văn hóa, xã hội trong việc giữ gìn và phát huy văn
hóa dân tộc. Dƣới sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế đã tác động không những tích cực mà còn tiêu
cực đến đạo đức, lối sống, niềm tin,… của mọi tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là thanh niên. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng để đề xuất giải
pháp bồi dƣỡng, giáo dục và phát huy ý thức tự tôn dân tộc cho thanh
niên huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp nói riêng và thanh niên Việt Nam
nói chung nhằm ngăn ngừa những tác động tiêu cực đến việc bảo vệ
và giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc; góp phần vào sự phát
triển trƣờng tồn của dân tộc và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, nền độc lập,
tự chủ đất nƣớc là nhu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay.
2. Vài nét về tình hình thanh niên huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp
Cũng nhƣ các huyện thị trấn khác, Lấp Vò đang không ngừng
đổi mới để phát triển, vƣơn mình hơn nữa, kinh tế đã vƣợt qua thời kỳ
khó khăn, suy giảm và có tốc độ tăng trƣởng khá cao, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân đƣợc cải thiện rõ nét đã tác động mạnh
mẽ đến tƣ tƣởng, tình cảm của thanh niên một cách tích cực. “Thanh
niên Lấp Vò từ Đại hội Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
huyện Lấp Vò lần thứ IX đến nay đã có những chuyển biến tích cực từ
nhận thức đến hành động, không ngừng nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc, ra
sức học tập, lao động, xung kích tình nguyện trên các lĩnh vực, rèn
161
luyện đạo đức, nhân cách, lối sống... Đại bộ phận thanh niên có ý chí
vƣơn lên, lập thân, lập nghiệp, tin tƣởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng và luôn mong muốn đƣợc đứng vào hàng ngũ của Đảng để cống
hiến và trƣởng thành” [2].
“Toàn huyện hiện nay có 12.059 tổng số hội viên, và có 5.118
tổng số đoàn viên trong đó có 1.075 đoàn viên trí thức và 4.027 đoàn
viên nông thôn. Và trong năm 2014 vừa qua, huyện đã giới thiệu 202
đoàn viên ƣu tú cho Đảng xem xét và kết nạp, 123 đồng chí đƣợc
đứng vào hàng ngũ của Đảng” [3]. Từ đó cho thấy, thanh niên Lấp Vò
ngày càng tiến bộ và tự giác hơn về ý thức, đạo đức, lối sống, rèn
luyện tƣ tƣởng, tình cảm, và thái độ chính trị vững vàng, hòa nhập hơn
với xu thế của thời đại, biết cách ứng phó để vẫn giữ đƣợc chính mình.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa văn
hóa, từ mặt trái của cơ chế thị trƣờng đã có sự tác động tiêu cực; bên
cạnh đó các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách, mọi âm mƣu, thủ
đoạn, thực hiện chiến lƣợc “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” mà
trƣớc hết là tập trung vào lĩnh vực văn hóa nhằm mục đích làm lệch
lạc về tƣ tƣởng, đạo đức của nhân dân ta đã và đang tạo ra những khó
khăn, thách thức đối với thanh niên Việt Nam mà trong đó thanh niên
Lấp Vò cũng chịu sự tác động nói trên nhƣ: trình độ học vấn của thanh
niên nông thôn chƣa cao, việc tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ
thuật còn nhiều khó khăn, vẫn còn thanh niên chƣa có nghề nghiệp,
việc làm thiếu ổn định. Một bộ phận thanh niên sống theo lối sống
thực dụng, thiếu hoài bão, lý tƣởng, thích hƣởng thụ, lƣời lao động, sa
vào tệ nạn xã hội. Chính từ những vấn đề trên đây đã cho thấy công
tác giáo dục ý thức, tinh thần tự tôn dân tộc cho thanh niên huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng Tháp hiện nay đang là vấn đề cấp thiết.
3. Thực trạng ý thức tự tôn dân tộc của thanh niên huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp hiện nay
Theo kết quả khảo sát vào tháng 3 năm 2015 với 80 thanh
niên của 13 xã, thị trấn trong địa bàn huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp. Trên cơ sở phân tích các kết quả khảo sát đã cho thấy rõ thực
trạng giáo dục ý thức tự tôn dân tộc của thanh niên hiện nay:
Thứ nhất, khi tìm hiểu mức độ hiểu biết về vấn đề dân tộc, ý
thức tự tôn dân tộc của thanh niên cho thấy phần lớn thanh niên
chưa có nhận thức đầy đủ và hiểu biết sâu sắc về vấn đề tự tôn dân
tộc, ý thức về tự tôn dân tộc ở họ là có song vẫn chưa cao.
162
Trong quá trình khảo sát khi đƣợc hỏi Mức độ hiểu biết của
bạn về ý thức tự tôn dân tộc thì có 46,25% thanh niên nói rằng họ hiểu
biết sâu sắc về vấn đề tự tôn dân tộc; tuy nhiên có đến 41,25% cho
rằng họ hiểu biết ở mức độ vừa phải; 8,75% hiểu biết chƣa sâu sắc và
có 3,75% không hiểu biết gì về vấn đề ý thức tự tôn dân tộc. Điều này
cho thấy, đa phần thanh niên có tinh thần tự tôn dân tộc nhƣng vẫn
chƣa cao, một bộ phận không hiểu biết cũng nhƣ không quan tâm đến
ý thức tự tôn dân tộc của dân tộc mình; đây là điều đáng phê phán và
cần có công tác tuyên truyền, giáo dục, định hƣớng cho thanh niên của
huyện nhận thức và có mức độ hiểu biết sâu sắc hơn nữa về vấn đề tự
tôn dân tộc để có thể ứng phó với mọi biến đổi có thể xảy ra. Bên cạnh
đó đa số thanh niên Lấp Vò còn chƣa hiểu hết các giá trị truyền thống
của dân tộc, còn có cái nhìn chƣa bao quát, trọn vẹn về những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Khi đƣợc hỏi Theo bạn, cần làm gì để trở thành một thanh niên
có ý thức tự tôn dân tộc? thì số đông thanh niên bao gồm cả trí thức,
học sinh – sinh viên, và thanh niên nông thôn có nhận định nhƣ sau:
Cần chấp hành tốt các chủ trƣơng của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nƣớc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội; cần tăng cƣờng công tác tổ chức và nâng cao giá trị của các
hoạt động Đoàn, Hội; Thƣờng xuyên tham gia các phong trào Đoàn,
Hội, các hoạt động hƣớng về cội nguồn do địa phƣơng tổ chức; Tích
cực học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, không ngừng nâng cao
năng lực trí tuệ; Có lập trƣờng chính trị vững vàng, tinh thần tự lực, tự
cƣờng, sống có lý tƣởng và hoài bão;...
Từ những ý kiến trên đã cho ta cái nhìn cụ thể hơn về ý thức
của thanh niên huyện Lấp Vò đối với quê hƣơng, đất nƣớc và thể hiện
rõ tinh thần tự tôn dân tộc của mình qua các ý kiến đƣợc khảo sát. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận nhỏ thanh niên không nhận
thức đƣợc vai trò và trách nhiệm của mình đối với quê hƣơng, đất
nƣớc, hay bảo vệ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ hai, qua kết quả điều tra về động cơ và việc thực hành ý
thức tự tôn dân tộc của thanh niên cho thấy, đa phần thanh niên
Lấp Vò có tinh thần tham gia các hoạt động hướng đến việc bảo tồn
và phát huy ý thức tự tôn dân tộc do các đoàn thể ở địa phương tổ
chức; họ chú trọng đến việc phát huy ý thức tự tôn dân tộc, tự bồi
dưỡng, rèn luyện bản thân.
163
Khi đƣợc hỏi Mức độ tham gia các hoạt động hướng đến việc
phát huy ý thức tự tôn dân tộc do các đoàn thể ở địa phương tổ chức.
Một bộ phận tƣơng đối lớn 65% cho biết thƣờng xuyên tham gia các
hoạt động do các đoàn thể, địa phƣơng tổ chức; 26,25% thỉnh thoảng
tham gia; với 5% hiếm khi tham gia; 2,5% thanh niên cho biết họ
không tham gia và có 1,25% thanh niên nói rằng họ không biết. Từ kết
quả khảo sát cho thấy, đa phần thanh niên có ý thức trong việc tham
gia các hoạt động cũng nhƣ việc thực hành ý thức tự tôn dân tộc. Tuy
nhiên, cũng có một bộ phận không nhỏ không mấy thiết tha với đất
nƣớc, với dân tộc, họ thờ ơ, vô cảm trƣớc việc xây dựng và phát huy
lòng tự tôn dân tộc của bản thân.
Khi đƣợc hỏi Động cơ tham gia các hoạt động bảo vệ và phát
huy ý thức tự tôn dân tộc của bạn là gì thì có 83,75%, một số lƣợng
khá đông thanh niên cho biết việc họ tham gia là thể hiện trách nhiệm
và nghĩa vụ của mình đối với dân tộc. Với 7,5% thanh niên cho biết
tham gia để trở thành một thanh niên gƣơng mẫu. Bộ phận còn lại thì
không hứng thú khi tham gia: 5% cho biết họ tham gia cho có phong
trào và có 3,75 ết đƣợc động cơ là gì. Điều này
cho thấy, số đông thanh niên có ý thức và tinh thần tự giác rất cao; tuy
nhiên, bên cạnh đó có một bộ phận thanh niên không mấy nhiệt tình,
hứng thú mà chỉ tham gia cho có, hoặc không biết đến mục đích hay
động cơ tham gia của mình; chính điều này đã giảm đi ý thức của
thanh niên về lòng tự tôn dân tộc.
Đa số thanh niên có tinh thần đấu tranh phê phán các giá trị,
phản văn hóa, lối sống thực dụng, hưởng lạc, nhân cách thấp hèn, đạo
đức thoái hóa vốn xa lạ với giá trị văn hóa của dân tộc; số đông thanh
niên (chiếm 65% ) trả lời là rất cần thiết. Tuy nhiên, trong số một bộ
phận có nhận thức đúng đắn và tích cực thì vẫn còn một số thanh niên
của huyện tồn tại tƣ tƣởng không mấy tích cực và tiến bộ nhằm góp
phần xây dựng lối sống lành mạnh, mà ngƣợc lại là cổ vũ cho những
cái sai, cái xấu tiếp tục có điều kiện đƣợc “sinh sôi nảy nở”. Tƣ tƣởng
này sẽ tác động tiêu cực đến suy nghĩ của bộ phận thanh niên còn lại
có thể dẫn đến nguy cơ mai một nền văn hóa dân tộc và thay vào đó là
xu hƣớng ngoại nhập.
qua kết quả điều tra cho ta thấy đa phần thanh niên có
hiểu biết về ý thức tự tôn dân tộc, có tham gia tốt các phong trào
hƣớng đến việc bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
164
của dân tộc và đã đạt đƣợc những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, bên
cạnh những ƣu điểm nhất định còn có mặt hạn chế đó là: thanh niên
vẫn còn chƣa nhận thức đúng đắn, vô cảm trƣớc vận mệnh cũng nhƣ
sự sống còn của quê hƣơng, đất nƣớc và cả địa phƣơng nơi mình sinh
sống, cũng nhƣ bản thân không biết tự hào về truyền thống tốt đẹp vốn
có của dân tộc nói chung và của huyện Lấp Vò nói riêng.
Thứ ba, về thực trạng công tác giáo dục ý thức tự tôn dân tộc
cho thanh niên huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Với câu hỏi Theo bạn, những thành tựu của tổ chức Đoàn thanh
niên và Hội Liên hiệp thanh niên mang lại trong việc tổ chức các hoạt
động giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là gì? thì có 47,5%
trả lời có nhiều thành tựu; có 33,75% ý kiến cho rằng chỉ ở mức độ
vừa phải; 11,25% ý kiến cho rằng thành tựu chƣa nhiều và có đến
7,5% trả lời ý kiến khác. Qua đây cho thấy: một là, thanh niên còn
thiếu sự quan tâm đến công tác giáo dục và tham gia các hoạt động
Đoàn, Hội; hai là, công tác tổ chức các hoạt động của Đoàn, Hội
hƣớng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc và
phát huy ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên vẫn còn chƣa sâu rộng.
Cần có sự đầu tƣ hơn nữa để giúp thanh niên hiểu và trau dồi ý thức
tự tôn dân tộc cho mình, góp phần bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc ở từng địa phƣơng nói riêng và cả nƣớc nói chung.
Đa phần thanh niên nhận thức đƣợc rằng việc tổ chức các hoạt
động hướng đến việc phát huy ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên là
rất cần thiết chiếm 73,75%, chỉ có một bộ phận nhỏ vẫn chƣa nhận thấy
đƣợc tầm quan trọng (3,75% thanh niên trả lời là không cần thiết và có
đến 3,75% ý kiến trả lời là không quan tâm, bên cạnh số đông thanh
niên hiểu và nhận thức đƣợc ý nghĩa của công tác giáo dục nói trên).
Khi đƣợc hỏi về Mức độ cần thiết của việc tổ chức các phong
trào tôn vinh, phát huy và nhân rộng các giá trị văn hóa truyền thống,
lối sống đẹp, phát hiện những nhân tố mới, điển hình trong các thế hệ
thanh niên để tuyên truyền, giáo dục kịp thời cho mọi đối tượng thanh
niên thì có đến 76,25% trả lời là rất cần thiết; 22,5% cho rằng ở mức
độ cần thiết và chỉ có 1,25% ý kiến cho rằng không cần thiết. Từ đó
cho thấy, chỉ có một bộ phận nhỏ thanh niên là không quan tâm, chú
trọng đến việc tổ chức các phong trào mang tính giáo dục; bộ phận
này cũng không ảnh hƣởng nhiều so với tinh thần tự ý thức của đa số
thanh niên trong Huyện nói chung.
165
ực trạng về công tác giáo dục
của thanh niên huyện Lấp Vò là rất tốt và có hiệu quả. Về thuận lợi,
Ban thƣờng vụ Huyện Đoàn luôn tổ chức và phối hợp tốt với các ban
ngành đoàn thể (Đài truyền thanh, Phòng văn hóa thông tin, Trung
tâm văn hóa, Ban Tuyên giáo huyện ủy huyện Lấp Vò) và có sự kết
hợp chặt chẽ giữa nhà trƣờng-gia đình và xã hội trong công tác giáo
dục ý thức tự tôn dân tộc, về tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống, tạo việc làm
ổn định cho thanh niên, giúp thanh niên nâng cao ý thức và trách
nhiệm, có ý chí vƣơn lên và tinh thần học hỏi, sáng tạo trong lao động,
nhiệt tình tham gia các phong trào hƣớng về cội nguồn dân tộc. Tuy
nhiên, bên cạnh đó công tác giáo dục cũng gặp không ít khó khăn: một
số địa phƣơng tổ chức các hoạt động vẫn chƣa có sự lồng ghép tính
giáo dục về ý thức tự tôn dân tộc cho thanh, thiếu niên, không có sự
thay đổi hình thức nội dung giáo dục và đa dạng hóa các hoạt động
gây nên sự nhàm chán; với sự tác động của toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế và mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng làm cho một bộ phận
thanh niên có tƣ tƣởng, hành vi lệch lạc, sai trái, sống ích kỷ, thực
dụng,... có nhận thức không đúng và sa vào các tệ nạn xã hội và một
phần do sự nuông chiều từ gia đình dẫn đến phần lớn lớp thanh niên
này về mặt cảm hóa và giáo dục là vô cùng khó khăn. Chính vì vậy,
cần có sự chung tay phối hợp nhiều hơn nữa với các ban ngành đoàn
thể, các địa phƣơng để giáo dục thanh niên có nhận thức, lối sống
đúng đắn hơn, quay trở về với cái tốt, biết tránh xa cái xấu, cái thấp
hèn và tùy từng đối tƣợng cũng nhƣ tầng lớp thanh niên mà có những
công tác giáo dục riêng, góp phần bồi dƣỡng, phát huy ý thức tự tôn
dân tộc của thanh niên nhất là trong giai đoạn hiện nay.
4. Phƣơng hƣớng và một số nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng Tháp.
4.1. Phương hướng giáo dục ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp
Giáo dục ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp cần gắn liền với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế.
Cần tổ chức phát động trong toàn hệ thống Đoàn,
“Tôi yêu Tổ quốc tôi”.
166
dung về truyền thống văn hóa, cội nguồn của dân tộc. Bên cạnh đó, cần
phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên trong học
tập, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và
đời sống, xây dựng lớp thanh niên có kiến thức khoa học công nghệ,
năng động, thích nghi với nền kinh tế thị trƣờng, đáp ứng yêu cầu trong
tình hình mới, bồi dƣỡng tinh thần yêu nƣớc, ý thức cảnh giác, tinh
thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Chống lại âm mƣu “Diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch nhất là ở các địa bàn vùng sâu.
“Tập trung phối hợp triển khai có hiệu quả các hoạt động nhƣ:
Chƣơng trình "Tháng ba biên giới", “Tháng thanh niên”, chiến dịch
“Thanh niên tình nguyện hè”, “Ngày hội nhân ái vì sức khỏe cộng
đồng”, “Vòng tay tình nguyện”, “Ngày chủ nhật hồng”, “Ngày thứ
bảy tình nguyện”,...Trong các hoạt động luôn lồng ghép các nội dung
Hƣớng về biển đảo Việt Nam, về truyền thống lịch sử, văn hóa dân
tộ ấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh cho mọi đoàn viên thanh
niên cùng hiểu và nhận thức đƣợc tầm quan trọng của nó” [4]. Tổ chức
lễ Thắp nến tri ân cho các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang liệ
Huyện nhân kỷ niệm Ngày Thƣơng binh Liệt sĩ.
Tập trung đầu tƣ các thiết chế văn hóa phục vụ tốt cho các hoạt
động văn hóa thể thao; nâng cấp và mở rộng Thƣ viện huyện, Trung
tâm văn hóa huyện, Trung tâm học tập cộng đồng ở các xã. Thực hiện
tốt công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di sản, di tích văn hóa
gắn liền với các hoạt động du lịch và quảng bá hình ảnh của địa
phƣơng, của đất nƣớc, dân tộc. Đặc biệt là bảo tồn và phát huy các
làng nghề truyền thống nhƣ Làng chiếu Định An, Định Yên (đƣợc Bộ
Văn hóa thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
cấp quốc gia, các khu tƣởng niệm (Nhà tƣởng niệm Bác Tôn ở xã Mỹ
An Hƣng B) và gần đây là Công trình Văn hóa tâm linh Đặng tộc Nam
Phƣơng Linh từ (xã Long Hƣng A),... các hoạt động mang nét đẹp văn
hóa riêng của huyện Lấp Vò.
Giáo dục ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp cần gắn liền với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
của huyện.
Triển khai phong trào sáng tạo, nghiên cứu mô hình trồng trọt,
chăn nuôi trong thanh niên nông thôn. Tổ chức các hội thảo chuyển
giao khoa học kỹ thuật, giới thiệu về khoa học công nghệ mới cho
167
thanh niên. Tổ chức có hiệu quả hoạt động tƣ vấn, giới thiệu việc làm
cho thanh niên nông thôn, tạo điều kiện cho đoàn viên, thanh niên có cơ
hội đƣợc học nghề, đƣợc giới thiệu việc làm phù hợp, ổn định để từ đó
có thể ra sức phục vụ, xây dựng đất nƣớc giàu mạnh. Khi kinh tế, xã hội
của Huyện phát triển vững chắc, đời sống của ngƣời dân ở Huyện nói
chung ổn định hơn, góp phần tạo lối sống lành mạnh cho thanh niên,
từ đó ý thức của thanh niên cũng ngày càng đƣợc nâng cao tốt hơn.
Giáo dục ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp cần gắn liền với công tác đoàn, phong trào thanh
niên lập thân lập nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện
hiện nay.
Nâng cao chất lƣợng tổ chức và hoạt động của các cơ sở Đoàn,
Hội; chú trọng xây dựng các loại hình hoạt động, đa dạng hoá việc
đoàn kết tập hợp thanh niên bằng nhiều hình thức. Triển khai tốt
phong trào “5 xung kích phát triển kinh tế ảo vệ Tổ quốc”,
“4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”. Tổ chức các Hội
thảo chuyển giao khoa học kỹ thuật, giới thiệu về khoa học công nghệ
mới cho thanh niên. Thành lập các mô hình làm ăn hiệu quả trong thanh
niên nhƣ: Tổ chăn buôi bò tại xã Mỹ An Hƣng B, Tổ nuôi Ếch và trồng
Cam tại xã Tân Khánh Trung, Chăn nuôi Thỏ tại xã Tân Mỹ, Tổ cơ khí
tại thị trấn Lấp Vò, Tổ xây dựng Nhà tại xã Mỹ An Hƣng A,...” [1]. Bên
cạnh đó, cần phối hợp với TP Hoa Sa Đéc để cung cấp giỏ hoa, hạt
giống, tạo việc làm cho thanh thiếu niên thất nghiệp.
Huyện đoàn cần tích cực phối hợp với trung tâm dạy nghề và
giới thiệu việc làm của huyện nghiên cứu nhu cầu của thị trƣờng lao
động để mở những lớp dạy nghề cho thanh niên nông thôn, đảm bảo
thanh niên vừa có tay nghề tốt vừa có việc làm sau khi theo học và có
thu nhập ổn định. Thƣờng xuyên tìm hiểu tâm tƣ, nguyện vọng của
thanh niên, khuyến khích thanh niên tự đề xuất thành lập các tổ chức
câu lạc bộ, tổ, đội, nhóm theo sở thích và nhu cầu, nghề nghiệp của
thanh niên.
Tổ chức các “Sân Chơi thanh niên”, qua các kỳ Sân chơi
Thanh niên để giúp cho các cán bộ, đoàn viên thanh niên có dịp gặp
gỡ, giao lƣu, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, từ đó nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, phục vụ tốt cho công tác.
168
4.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giáo dục ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp.
Nhóm giải pháp về xây dựng môi trường xã hội
Tổ chức các cuộc thi tuyên truyền, tìm hiểu chủ nghĩa Mác -
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, 6 bài học lý luận chính trị, rèn luyện
phẩm chất đạo đức cho lực lƣợng đoàn viên và thanh niên thông qua
đợt sinh hoạt chính trị “Tự hào tiến bước dưới cờ Đảng” và qua các
hình thức thi tìm hiểu trên hệ thống phƣơng tiện truyền thông hiện đại,
thông qua các hội thi nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, đất
nƣớc nhƣ: Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2), ngày Giải
phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nƣớc (30/4), ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh (19/5), Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh
2/9,...” [2].
Xây dựng môi trƣờng văn hóa lành mạnh, nâng cao ý thức pháp
luật và trách nhiệm cộng đồng cho thanh niên, xây dựng các mối quan
hệ xã hội tốt đẹp, tích cực tuyên truyền, vận động lực lƣợng thanh
niên và nhân dân xây dựng nếp sống văn minh. Tiếp tục tổ chức các
hoạt động cảm hóa, giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến, thanh thiếu
niên có nguy cơ vi phạm pháp luật; tập trung tổ chức các hoạt động
tuyên truyền giáo dục về đạo đức, lối sống, pháp luật, tệ nạn xã hội,
hôn nhân gia đình,...thông qua Diễn đàn thanh thiếu niên, “Phiên tòa
giả định”. Tổ chức những sự kiện sinh hoạt truyền thống, hội nghị,
míttinh thông qua đó tuyên truyền đến thanh niên những truyền thống,
văn hóa, đạo đức quý báu của dân tộc.
Nhóm giải pháp về kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường
– giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Huyện đoàn phối hợp xây dựng kế hoạch liên tịch với Phòng
Giáo dục và đạo tạo huyện Lấp Vò, Ban thanh niên trƣờng học tỉnh
Đoàn Đồng Tháp về phƣơng hƣớng quản lý học sinh, đoàn viên, thanh
niên. Đảm bảo mối liên kết chặt chẽ và lâu dài giữa nhà trƣờng – gia
đình và xã hội. Thành lập các đoàn công tác với các đơn vị có liên
quan thƣờng xuyên đến thăm gia đình học sinh đặc biệt là những học
sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh chậm tiến có biểu hiện vi phạm
nội quy của nhà trƣờng, pháp luật của Nhà nƣớc để có những giải
169
pháp hỗ trợ kịp thời tạo điều kiện thật tốt cho các em học tập và rèn
luyện đạo đức cá nhân.
ăn nghệ,... Tổ chức các “Phiên tòa
giả định
Nhóm giải pháp về sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin
đại chúng.
Nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan thông tin đại
chúng. Tham mƣu cấp ủy đầu tƣ cơ sở vật chất kỹ thuật cho đài
truyền thanh, tăng kỳ phát hành của tạp chí Lấp Vò ngày nay và nâng
cao chất lƣợng trang Thông tin điện tử của huyện Lấp Vò.
Phối hợp với Đài truyền thanh của các xã, thị trấn thông tin tuyên
truyền các ngày lễ lớn của đất nƣớc, của dân tộc. Qua đó ôn lại truyền thống
lịch sử đấu tranh vẻ vang của dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nƣớc và niềm
tự hào dân tộc của thanh niên và ngƣời dân trong Huyện. Phối hợp Đài
Truyền thanh Huyện xây dựng chuyên mục phát thanh “Diễn đàn thanh
niên huyện Lấp Vò”, phát sóng vào ngày thứ 7, tuần thứ 4 hàng tháng nhằm
giới thiệu những mô hình mới, cách làm hay, những tấm gƣơng thanh thiếu
niên tiêu biểu trong học tập, lao động và sản xuất đến thanh thiếu nhi.” [ 3].
Đổi mới các hình thức tuyên truyền, giáo dục nhằm thu hút sự quan tâm của
mọi ngƣời nhƣ: xe loa lƣu động, tổ chức các hội thi theo chủ đề, diễn kịch,
ca, múa, nhạc, truyền thanh trực tiếp…
Nhóm giải pháp về tự giáo dục, bồi dưỡng của thanh niên
Đa dạng hóa, phát triển các hoạt động văn hóa, thể thao cho
thanh niên, thiếu nhi ở các cấp, ƣu tiên các hoạt động tham gia giữ
gìn, khôi phục và phát huy những di sản văn hóa, di tích lịch sử,
cách mạng, những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Tăng cƣờng các hoạt động truyền thông nâng
cao nhận thức cho thanh niên về tác hại của bia, rƣợu, thuốc lá, ma
túy và các chất kích thích khác,... Kịp thời hỗ trợ, tƣ vấn giúp đỡ
thanh niên sau cai nghiện, thanh niên sa vào tệ nạn xã hội, nạn nhân
của bạo lực gia đình.
170
Ngoài ra, mỗi đoàn viên, thanh niên cần tự trang bị cho mình
những kỹ năng, tri thức nhất định, nâng cao hiểu biết, chống lại mọi âm
mưu của các thế lực thù địch, quyết tâm bảo vệ và giữ gìn nền văn hóa
tốt đẹp, truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc; quyết tâm xây dựng
và phát triển nền văn hóa nước nhà tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
5. Kết luận
Hiện nay với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cùng
với quá trình xây dựng kinh tế thị trƣờng thì một bộ phận thanh niên
đã suy giảm về đạo đức và lối sống, xa lạ với nền văn hóa của nƣớc
nhà. Vì vậy, tùy theo tình hình và hoàn cảnh mà các cấp lãnh đạo, ban
ngành đoàn thể của Huyện phối hợp với các cơ quan tổ chức đề ra
những chủ trƣơng, chính sách nhằm giáo dục kịp thời cho thanh niên
và đoàn viên thật sâu rộng và hiệu quả. Đặc biệt, cần tổ chức nhiều
hoạt động thiết thực, bổ ích; các chƣơng trình hoạt động có lồng ghép
các nội dung về giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, các di
tích lịch sử, di sản văn hóa của địa phƣơng, quê hƣơng Lấp Vò, tỉnh
Đồng Tháp nói riêng và của dân tộc nói chung cho đoàn viên, thanh
niên cùng hiểu biết và nhận thức về các giá trị tốt đẹp ấy; từ đó khơi
gợi ý thức tự tôn dân tộc cho họ; bồi dƣỡng và phát huy hơn nữa tinh
thần tự tôn dân tộc, tự hào với những giá trị, truyền thống tốt đẹp của
dân tộc trong mỗi đoàn viên, thanh niên.
Tài liệu tham khảo
[1]. BCH Đoàn huyện Lấp Vò, Báo cáo kết quả triển khai thực hiện
đề án phát triển thanh niên huyện Lấp Vò giai đoạn 2011 – 2015.
[2]. BCH Đoàn huyện Lấp Vò, Báo cáo Hội nghị giữa nhiệm kỳ IX,
Tình hình thực hiện nghị quyết Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
huyện Lấp Vò lần thứ IX.
[3]. BCH Đoàn huyện Lấp Vò, Báo cáo kết quả công tác Đoàn và
phong trào thanh thiếu nhi năm 2014.
[4]. BCH Huyện Đoàn Lấp Vò, Phương hướng hoạt động công tác
Đoàn và phong trào thanh thiếu niên năm 2015-BCH Huyện Đoàn
Lấp Vò.
[5]. Lƣơng Thanh Tân, Lê Văn Tùng, ”Quan tâm bồi dƣỡng giáo dục
ý thức tự tôn dân tộc cho thanh niên hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện
tử, ngày 28/5/2014.
171
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƢỜI
Ở HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
SV: Nguyễn Ngọc Trai
Lớp: ĐHGDCT11
GVHD: Th.S. Đỗ Duy Tú
Tóm tắt: Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể
chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ, tri thức, vị thế xã hội…
tạo nên năng lực thực tiễn của con người trong phát triển kinh tế - xã
hội của các quốc gia, từng địa phương. Trong thời gian qua, huyện
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã phát huy tốt vai trò của nguồn lực con
người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đạt được những
thành tựu nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế việc phát huy vai trò nhân
tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hồng
Ngự vẫn chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, việc khuyến nghị một số giải
pháp phát triển nguồn lực con người ở huyện Hồng Ngự là rất cần
thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự phát triển của Hồng
Ngự trong thời gian tới.
Từ khóa: nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, huyện
Hồng Ngự.
1. Đặt vấn đề
Ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hóa, sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật, kinh tế tri thức đã tác động mạnh mẽ đến sự
phát triển của các quốc gia. Xã hội phát triển, hàm lƣợng chất
xám trong hàng hóa ngày càng cao, do đó vai trò của ngƣời lao
động có trí tuệ ngày càng quan trọng và mang ý nghĩa bƣớc ngoặt
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, vừa mở ra triển
vọng mới cho từng địa phƣơng, trong đó có tỉnh Đồng Tháp.
Nằm ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp đƣợc
hợp thành bởi 12 đơn vị hành chính: 2 thành phố, 1 thị xã và 9
huyện. Trong đó, Hồng Ngự là huyện biên giới của tỉnh Đồng
Tháp. Trong những năm gần đây, nhờ biết khai thác thế mạnh
kinh tế thủy sản nên đời sống của ngƣời dân đƣợc cải thiện, song
vẫn còn nhiều khó khăn so với các huyện khác trong tỉnh và cả
nƣớc. Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện còn chậm. Vì
vậy, để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của mình,
172
gần đây, Hồng Ngự đã chú trọng đầu tƣ, khai thác có hiệu quả
các nguồn lực trong phát triển kinh tế - xã hội, và bƣớc đầu đạt
đƣợc những thành tựu quan trọng, đáng khích lệ. Tuy nhiên,
nhiều tiềm năng to lớn, nhất là tiềm năng con ngƣời của huyện
Hồng Ngự vẫn chƣa đƣợc khai thác có hiệu quả và chƣa chuyển
hóa thành nội lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, chƣa đáp
ứng yêu cầu thực tiễn của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Đồng Tháp nói riêng và của đất nƣớc nói chung. Đây là một
trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển kinh tế - xã
hội của huyện.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm nguồn lực con ngƣời và phát triển nguồn lực
con ngƣời
2.1.1. Khái niệm nguồn lực con người
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận nhân
loại, đồng thời khái quát thành tựu của khoa học tự nhiên, triết học Mác
- Lênin đã xem xét con ngƣời trong sự thống nhất biện chứng giữa yếu
tố sinh vật và yếu tố xã hội, trong đó mặt xã hội là cơ bản nhất tạo nên
bản chất của con ngƣời. Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, “bản
chất con ngƣời không phải là một cái trừu tƣợng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngƣời là tổng hòa
những quan hệ xã hội”[6,11]. Điều đó chỉ ra rằng, không có con ngƣời
trừu tƣợng mà chỉ có những con ngƣời hiện thực, đang sống, đang hoạt
động trong một xã hội nhất định, trong điều kiện lịch sử nhất định.
Đồng thời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định,
trong quá trình phát triển của đời sống vật chất, của mỗi thời đại kinh
tế, các tƣ liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là các công cụ lao
động, cái làm tăng cho sự phát triển của sức lao động ở con ngƣời, của
nguồn lực con ngƣời, mà còn là một trong những yếu tố cấu thành nên
những quan hệ xã hội trong lao động sản xuất.
Trƣớc hết, “nguồn nhân lực” hay “nguồn lực con ngƣời” là những
khái niệm đƣợc hình thành trong quá trình xem xét, nghiên cứu con
ngƣời với tính cách là nguồn lực cơ bản của phƣơng thức sản xuất, yếu
tố chính trong sự thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm nguồn
lực con ngƣời có phạm vi bao quát. Đó là tổng thể các yếu tố thuộc về
173
thể chất và tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã
hội... tạo thành năng lực của con ngƣời và của cộng đồng ngƣời.
Á.
Hiện nay, có nhiều khái niệm sử dụng khá phổ biến dựa trên các quan
niệm về vai trò, vị trí con ngƣời trong sự phát triển nhanh, bền vững. Ở
nƣớc ta khái niệm này đƣợc sử dụng rộng rãi kể từ đầu thập niên 90 đến
nay. Theo đó, nguồn lực con ngƣời không chỉ là lực lƣợng lao động hay
nguồn lao động mà là tập hợp các yếu tố, dƣới dạng tổng quát, có thể
hiểu “nguồn lực con ngƣời là tổng thể những yếu tố về thể chất, tinh
thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ, tri thức, vị thế xã hội…tạo nên năng
lực của con ngƣời, của cộng đồng ngƣời có thể sử dụng, phát huy trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc và trong hoạt động xã
hội”[1,263]. Với cách hiểu nhƣ vậy, khái niệm nguồn lực con ngƣời có
nội dung rộng lớn, nó bao gồm những mặt cơ bản sau: Thứ nhất, lịch sử
của loài ngƣời trƣớc hết là lịch sử của lao động sản xuất; Thứ hai, khái
niệm “nguồn lực con ngƣời” phản ánh số lƣợng cơ cấu dân cƣ và cơ
cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu trong lao động, cơ cấu
độ tuổi trong lực lƣợng lao động, cơ cấu nguồn lao động dự trữ; Thứ
ba, khái niệm “nguồn lực con ngƣời” chủ yếu phản ánh chất lƣợng dân
số, đặc biệt là chất lƣợng của lực lƣợng lao động trong hiện tại và tƣơng
lai gần (dƣới dạng tiềm năng), thể hiện qua hàng loạt các yếu tố; Thứ
tư, khái niệm nguồn lực con ngƣời còn hàm chứa cả sự liên hệ, tác động
lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại trong nó, sự phản ánh qua lại giữa
nguồn lực con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội,
giữa nguồn lực con ngƣời với nguồn lực khác; Thứ năm, khái niệm
nguồn lực con ngƣời còn chỉ ra rằng con ngƣời đƣợc xem xét với tƣ
cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các
nguồn lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhƣ vậy, hầu hết các nhà khoa học khi nghiên cứu về vấn đề con
ngƣời, tuy ở nhiều góc độ khác nhau song đều thống nhất khái niệm
nguồn nhân lực phản ánh những vấn đề sau: Một là, số lƣợng nhân lực;
Hai là, chất lƣợng nguồn lực con ngƣời; Ba là, cơ cấu nhân lực.
2.1.2. Khái niệm phát triển nguồn lực con ngƣời
Khái niệm "phát triển nguồn nhân lực". Nếu dịch từ cụm từ tiếng
Anh thì phát triển nguồn nhân lực hay phát triển nguồn lực con ngƣời là
Human Resouce Development (HRD), còn phát triển con ngƣời nói
174
chung là Human Development Index (HDI) là những khái niệm đƣợc
hình thành và phát triển trên thế giới chủ yếu trong thập niên 70. Trong
“báo cáo phát triển con ngƣời 1990” của ngân hàng thế giới, vấn đề con
ngƣời đã đƣợc đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển và khái niệm
này dựa trên cơ sở tiếp cận về mối liên hệ chặt chẽ giữa con ngƣời và
phát triển. Theo tƣ tƣởng này thì phát triển con ngƣời là một quá trình
mở rộng sự lựa chọn của con ngƣời. Về nguyên lý, những lựa chọn này
có thể xác định và thay đổi theo thời gian, nhƣng ở mỗi mức độ phát
triển khác nhau, phát triển con ngƣời bao gồm các khía cạnh: thể chất,
trí tuệ và tinh thần.
Nhƣ vậy, phát triển nguồn lực con ngƣời với nội hàm trên thực
chất là đề cập đến vấn đề chất lƣợng nguồn lực con ngƣời và khía
cạnh xã hội của nguồn lực con ngƣời của mỗi quốc gia. Do đó phát
triển nguồn lực con ngƣời là phát triển con ngƣời cả về thể lực và trí
lực, cả về khả năng lao động và tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo
đức tình cảm và tâm hồn trong sáng tạo nên nguồn lực con ngƣời chất
lƣợng cao.
2.2. Thực trạng nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự - tỉnh
Đồng Tháp hiện nay
2.2.1. Về số lượng nguồn lực con người
Nguồn lực con ngƣời ở tỉnh Đồng Tháp nói chung và huyện Hồng
Ngự nói riêng trong thời gian qua đã tăng lên một cách đáng kể. Điều
đó trƣớc hết là do sự gia tăng dân số kể từ khi chúng ta thống nhất đất
nƣớc, từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới. Theo niên giám
thống kê 2000 – 2010 của Cục thống kê tỉnh Đồng Tháp, dân số của
huyện Hồng Ngự từ 212.750 ngƣời (năm 2000) lên 219.569 ngƣời
(năm 2005) và giảm còn 144.065 ngƣời (năm 2010) sự sụt giảm này là
do sự phân chia địa giới hành chính giữa thị xã Hồng ngự và huyện
Hồng Ngự. Nhƣng về cơ bản dân số của huyện tăng hơn trƣớc; trong đó
lao động trong các thành phần kinh tế là 67.160 ngƣời (năm 2010).
Năm 2013 dân số của huyện Hồng Ngự đạt 145.356 ngƣời, trong đó lao
động nữ chiếm 50,4%, nam chiếm 49,6%; dân số của huyện phần lớn là
lao động nông thôn.
Tốc độ tăng dân số và lực lƣợng lao động của huyện là tƣơng đối
cao và liên tục, đây là nguồn bổ sung tƣơng đối ổn định vào đội ngũ lao
động của huyện. Tốc độ gia tăng dân số trung bình trên thực tế qua các
175
năm từ 2000 – 2010 dao động trong khoảng 1.3% - 1.7%. Lực lƣợng
lao động tăng bình quân trên hơn 2% năm. Song, trên thực tế thì quy
mô nguồn lực lao động của huyện còn hơn mức gia tăng của lực lƣợng
lao động, bởi số ngƣời ngoài độ tuổi lao động hàng năm ít tăng và phần
lớn vẫn có nhu cầu việc làm là khoảng 15.000 ngƣời (năm 2010). Năm
2011 tốc độ gia tăng lực lƣợng lao động ở huyện Hồng Ngự vẫn ở mức
là 2% năm.
có gần 150.000 dân, đứng thứ 7 trên toàn tỉnh về dân số, mức tăng dân
số vào khoảng 700 ngƣời/năm. Dân số của huyện Hồng Ngự trẻ. Kết
quả tổng điều tra dân số và việc làm của huyện Hồng Ngự đến ngày
30/12/2010 cho thấy, dân số chƣa đến độ tuổi lao động là 12,7%, tỷ lệ
ngƣời trong độ tuổi lao động có khả năng lao động là 81,7% và ngoài
độ tuổi lao động là 4,4%. Số lao động đang làm việc trong các thành
phần kinh tế 67.160 ngƣời, gần bằng 50% số dân”.
Quy mô dân số đông, lực lƣợng lao động dồi dào, đó đƣợc coi
là thế mạnh của huyện Hồng Ngự, là yếu tố cơ bản để mở rộng và
phát triển sản xuất. Nhƣng với một địa phƣơng nghèo, chậm phát
triển nhƣ huyện Hồng Ngự thì nguồn lao động tăng nhanh lại gây
sức ép việc làm rất lớn cho huyện. Theo chúng tôi, thời gian tới
huyện Hồng Ngự đã, sẽ và đang còn phải tiếp tục đối mặt với tình
trạng thừa lao động, thiếu việc làm.
2.2.2. Về cơ cấu và chất lượng nguồn lực con người
Theo số liệu kết quả điều tra lao động việc làm năm 2010 đƣợc
công bố ngày 06/09/2011, dân số của huyện là 144.536 ngƣời trong đó
chủ yếu là dân nông thôn chiếm gần 100% dân số của huyện; số ngƣời
trong độ tuổi lao động là 56,7% (khoảng 80.000 ngƣời), trong đó
khoảng 67.000 đang hoạt động trong các ngành kinh tế chiếm 46,5%
dân số của huyện. Về cơ bản, huyện đã hoàn thành chƣơng trình xóa
mù chữ và phổ cập tiểu học và trung học cơ sở ở 11/11 xã. Phần lớn lao
động đều có trình độ từ tiểu học trở lên, tuy nhiên nó vẫn còn thấp so
với mặt bằng chung của tỉnh và cả nƣớc.
Lực lƣợng lao động đã qua đào tạo của huyện tập trung chủ yếu ở
các ngành: công nghiệp chế biến, thủy sản, xây dựng và giáo dục – đào
tạo (chiếm 20,4% đội ngũ lao động). Tính đến giữa năm 2011, trong
khoảng 67.000 lao động thì đa số có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp
và phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp; trình
176
độ từ sơ cấp hoặc chứng chỉ nghề trở lên chiếm khoảng 20.000 ngƣời,
trình độ lao động cao đẳng và đại học chỉ khoảng 3.000 ngƣời.
Cơ cấu trình độ đào tạo lao động tính theo tỷ lệ giữa lao động trình
độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật là
1:1, 48:1; Đây là một cơ cấu bất hợp lý và kéo dài dẫn tới tình trạng
thừa thầy, thiếu thợ, kỹ sƣ làm công việc của cán bộ trung cấp kỹ thuật.
Về cơ cấu đội ngũ lao động ở các cơ sở sản xuất của huyện, thì công
nhân và đội ngũ lao động giản đơn hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp chiếm 71%, đội ngũ công nhân đã qua đào tạo kỹ thuật, quản lý,
phát minh và đổi mới công nghệ chiếm 29%; trong đó khi so sánh với
các huyện khác và các nƣớc phát triển thì tỷ lệ ấy lại ngƣợc lại là 28%
và 72%. Có thể nói, cơ cấu trình độ lực lƣợng lao động của huyện, thì
tỷ lệ lao động qua đào tạo không chỉ quá thấp mà còn bất hợp lý. Huyện
không chỉ thiếu cán bộ trên đại học, đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp mà còn thiếu cả công nhân kỹ thuật lành nghề và thiếu
hụt nghiêm trọng hơn cả là chuyên gia đầu ngành. Mặc dù còn nhiều
bất cập trong việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, nhƣng trong
nhiều năm qua huyện cũng đã cố gắng trong việc cải thiện chất lƣợng
nguồn nhân lực ở địa phƣơng. Cụ thể, hiện nay trình độ văn hóa và
trình độ khoa học – kỹ thuật của dân số hoạt động kinh tế (những ngƣời
từ 15 tuổi trở lên đang làm việc và thất nghiệp, đang tìm việc làm)
không ngừng nâng lên.
Về trí lực của nguồn lực con ngƣời của huyện Hồng Ngự đƣợc
đánh giá là có tƣ chất thông minh, sáng tạo, có khả năng vận dụng và
thích ứng nhanh. Đây là ƣu thế nổi trội của nguồn nhân lực của địa
phƣơng. Bên cạnh đó, độ tuổi của lực lƣợng lao động ở huyện Hồng
Ngự cũng là vấn đề đáng quan tâm. Hiện nay, Hồng Ngự đƣợc coi là
địa phƣơng có lực lƣợng lao động trẻ, 45% số ngƣời trong độ tuổi lao
động là thanh niên ( từ 16 – 35 tuổi) và hàng năm có khoảng 2500
ngƣời bƣớc vào độ tuổi lao động.
Những năm gần đây, tầm vóc và thể lực của ngƣời dân huyện Hồng
Ngự từng bƣớc đƣợc cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỷ lệ suy dinh
dƣỡng và tuổi thọ, song vẫn còn kém hơn nhiều so với các địa phƣơng
khác. Tỷ lệ suy dinh dƣỡng của huyện còn khá cao. Theo số liệu thống
kê chƣa đầy đủ thì vẫn còn khoảng 60% trẻ nhỏ sinh ra ở huyện bị thiếu
máu, chủ yếu do chế độ ăn uống thiếu chất sắt. Hiện nay, trên toàn huyện
còn 12% dân cƣ chƣa đƣợc dùng nƣớc sạch trong sinh hoạt hằng ngày.
177
Tình trạng ô nhiễm nguồn nƣớc, đất, không khí, thực phẩm…dẫn đến
các căn bệnh truyền nhiễm diễn ra ở nhiều địa bàn của huyện.
Về sức khỏe sinh sản ở huyện hiện nay đang đứng trƣớc nhiều khó
khăn, thách thức mới, đòi hỏi phải thay đổi cơ bản và mạnh hơn nữa về
chất lƣợng dịch vụ và chăm sóc sức khỏe của các trạm y tế xã và đặc
biệt là phải có một trung tâm y tế bệnh viện đa khoa huyện. Tỷ lệ phụ
nữ trong độ tuổi sinh đẻ bị thiếu năng lƣợng thƣờng xuyên diễn ra
khoảng gần 40%, trong đó nam giới là khoảng 25%. Tỷ xuất mẹ chết do
các nguyên nhân sinh đẻ và thai nghén ở huyện vẫn còn ở mức 1,42%.
Trong thời gian qua, huyện Hồng Ngự đã đạt đƣợc những kết quả
đáng khích lệ, thu nhập bình quân đầu ngƣời của huyện đạt gần 20 triệu
đồng/năm, huyện đã đạt đƣợc những tiến bộ vƣợt bậc về xóa đói giảm
phần lớn bắt nguồn từ tốc độ tăng trƣởng kinh tế của huyện. Tuy nhiên,
bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng, thì thực trạng phát triển nguồn lực
con ngƣời của huyện còn rất nhiều hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp CNH – HĐH. Do vậy, vấn đề đặt ra
là để phát triển nguồn lực con ngƣời, chính quyền địa phƣơng phải giải
quyết hàng loạt các vấn đề cấp bách, phải đƣa ra các giải pháp quan
trọng, thiết thực. Nhƣ vậy, mới mong đạt đƣợc mục tiêu có nguồn lực
con ngƣời chất lƣợng cao đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển nhanh, bền
vững của địa phƣơng.
Nhƣ vậy, hiện tại nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự chƣa
đáp ứng đƣợc những yêu cầu mà quá trình CNH, HĐH đòi hỏi. Nhƣng
sẽ là siêu hình và không thể nào thực hiện đƣợc nếu cho rằng phải xây
dựng xong nguồn lực con ngƣời với mọi tiêu chí cần thiết rồi mới tiến
hành CNH, HĐH. Mặc dù trong những năm qua, Hồng Ngự còn nhiều
khó khăn nhƣng đội ngũ lao động của huyện ngày càng có trình độ cao
hơn, từng bƣớc đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn
nhân lực trong các ngành kinh tế, giáo dục và y tế…bƣớc đầu có thể
đảm đƣơng nhiệm vụ cải thiện và nâng cao chất lƣợng sống của nhân
dân. Từ sự phân tích trên, có thể rút ra một số nhận xét bƣớc đầu về
nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự hiện nay nhƣ sau: Một là, dân
số của huyện đông, tốc độ tăng dân số tƣơng đối lớn, tạo ra lực lƣơng
lao động trẻ và dồi dào, nhu cầu việc làm ngày càng tăng, giá lao động
lại rẻ. Đây lại là lợi thế rất quan trọng của nguồn lực con ngƣời địa
phƣơng; Hai là, có thể khẳng định, con ngƣời của huyện Hồng Ngự
178
luôn có truyền thống hiếu học, trọng học. Trình độ học vấn ngày càng
đƣợc nâng lên và có khả năng tiếp thu nhanh khoa học, công nghệ; Ba
là, ngƣời dân của huyện có truyền thống đoàn kết, tinh thần dân tộc
cao, có tinh thần hợp tác, cố kết cộng đồng chặt chẽ, đặt lợi ích dân tộc
lên trên và trung thành với lợi ích đó.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh của nguồn lực con
ngƣời của huyện nhƣ đã chỉ ra, thì còn những bất cập không nhỏ
trong thực trạng nguồn lực con ngƣời của huyện hiện nay: Thứ
nhất, chƣa có sự quy hoạch thống nhất, đồng bộ, thể hiện rõ tính tự
phát trong việc khai thác và phát triển nguồn lực con ngƣời ở
huyện; Thứ hai, cơ cấu lao động của huyện hiện nay chƣa hợp lý,
còn nhiều bất cập; Thứ ba, lao động của huyện chủ yếu chƣa qua
đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật. Đây là một điểm yếu của nguồn
nhân lực con ngƣời ở địa phƣơng hiện nay; Thứ tư, vấn đề lao động
– việc làm – thu nhập đang là một vấn đề bức xúc ở huyện hiện nay.
Thêm vào đó, việc khai thác và sử dụng số lao động đã qua đào tạo,
có trình độ lại bất hợp lý và kém hiệu quả và hiện tƣợng chảy máu
chất xám của huyện vẫn còn xảy ra. Bên cạnh đó, tình trạng xuống
cấp về tƣ tƣởng, đạo đức và lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ đã làm ảnh hƣởng tiêu cực đến chất lƣợng nguồn lực con
ngƣời. Những hạn chế trên bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, lao động chƣa đƣợc đào tạo bài bản, nhất là ở khu vực
nông nghiệp, nông thôn. Thêm vào đó sự bất hợp lý trong cơ cấu
lao động đƣợc đào tạo cũng nhƣ phân bố lao động giữa các ngành
v.v… Đây là nguyên nhân cơ bản làm yếu đi đáng kể chất lƣợng
nguồn lực con ngƣời ở huyện hiện nay; Thứ hai, ngƣời dân huyện
Hồng Ngự trong lao động có thói quen dựa vào kinh nghiệm hơn là
thực nghiệm khoa học, thích nghi hơn là cải tạo tự nhiên; Thứ ba,
do tập quán của sản xuất nông nghiệp theo lối kinh tế tiểu nông;
Thứ tƣ, do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng và mở
rộng giao lƣu quốc tế, ngƣời dân Hồng Ngự nhất là thế hệ trẻ đã
bộc lộ nhƣng xu hƣớng lệch lạc.
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển nguồn
lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp hiện nay
Thứ nhất, khuyến khích học tập, nâng cao trình độ, nhằm tạo ra
nguồn lực con người có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện. Trong thời gian tới, huyện
179
Hồng Ngự cần có những thay đổi trong chiến lƣợc phát triển kinh tế -
xã hội của mình theo hƣớng chú trọng nhiều hơn đến nâng cao trình độ
cho ngƣời lao động. Do đó, phải xem việc khuyến khích học tập, nâng
cao trình độ là yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa địa phƣơng.
Để nâng cao trình độ của ngƣời lao động, huyện cần chú trọng nâng cao
chất lƣợng giáo dục của địa phƣơng. Nhận thức đƣợc điều đó Huyện ủy
và Hội đồng nhân dân huyện cần đề ra nhiệm vụ quan trọng hiện nay là
xây dựng đƣợc một đội ngũ lao động giỏi, có trình độ cao, đồng thời
nâng cao dân trí, đào tạo một nguồn lao động trẻ có trình độ khoa học
kỹ thuật, mang phẩm chất của ngƣời lao động công nghiệp.
Thứ hai, xây dựng được đội ngũ cán bộ có trình độ cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện. Thực tiễn cho thấy một trong
những nguyên nhân dẫn đến kinh tế - xã hội của huyện Hồng Ngự trong
thời gian qua chƣa thực sự phát triển nhƣ mong muốn là do sự hạn chế,
yếu kém của đội ngũ cán bộ, nhất là các cán bộ đứng đầu, những ngƣời
kiến tạo cho toàn bộ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Điều này đòi hỏi thời gian tới, Huyện ủy và Hội đồng nhân dân huyện
cần tăng cƣờng hơn nữa công tác đào tạo, bồi dƣỡng về trình độ chuyên
môn lẫn nghiệp vụ cho cán bộ chủ chốt, chú trọng việc nâng cao năng
lực cán bộ đồng thời không ngừng bồi dƣỡng lý luận, nghiệp vụ tổ
chức, lãnh đạo, năng lực đề ra và xây dựng các phƣơng án, kế hoạch về
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, sử dụng, khai thác hợp lý nguồn lực con người hiện có
của huyện. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết đối với huyện Hồng Ngự,
một địa phƣơng có nền sản xuất nhỏ, lạc hậu. Lực lƣợng lao động
thƣờng trực ngày càng đông đảo, lại đang bƣớc vào thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, cần thiết phải tạo ra đƣợc nhiều việc làm cho
ngƣời lao động, phấn đấu tỷ lệ lao động có việc làm ngày càng tăng là
nhiệm vụ thiết yếu và trở thành một biện pháp quan trọng trong chiến
lƣợc phát triển kinh tế - xã hội ở của huyện Hồng Ngự hiện nay.
Thứ tư, cần có chính sách bố trí, đãi ngộ đối với người lao động
có trình độ cao của huyện. Đây là vấn đề phức tạp vì nó liên quan đến
cả hệ thống chính trị, xã hội. Mặt khác lợi ích có vai trò đặc biệt quan
trọng, là khâu nhạy cảm nhất trong toàn bộ chuỗi quy định nhân quả
gây nên chuỗi hoạt động và phát huy tốt đa nhất trí lực và thể lực của
nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự. Từ ý nghĩa của việc xác định
180
vai trò, tính chất và đặc điểm của lợi ích, thì việc giải quyết vấn đề lợi
ích, trong đó có chính sách tiền lƣơng phải đảm bảo nguyên tắc công
bằng xã hội. Bên cạnh đó, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng với những
ngƣời có cống hiến xuất sắc cho xã hội chứ không chỉ cho sản xuất,
nhất là với những ngƣời đã từng cống hiến một đời mình, kể cả xƣơng
máu, cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho quê hƣơng, cho
Tổ quốc. Làm đƣợc những điều trên đây chính là giải quyết đúng đắn
vấn đề lợi ích, góp phần quyết định thực hiện công bằng xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và do đó, tạo
động lực quan trọng kích thích tính tích cực của ngƣời lao động trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của huyện.
3. Kết luận
Huyện Hồng Ngự, hiện đang đối mặt với nhiều thách thức
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó thách thức về
khai thác, phát huy nguồn lực con ngƣời đang đƣợc các cơ quan
chức năng của địa phƣơng quan tâm, tìm giải pháp thực hiện. Đây
đƣợc xem là khâu đột phá cho sự phát triển của huyện trong hiện
tại và trong tƣơng lai. Việc quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực
thành công sẽ giúp huyện Hồng Ngự có cơ hội tìm đƣợc lợi thế về
nguồn nhân lực trẻ, dồi dào; rút ngắn khoảng cách phát triển của
huyện với các địa phƣơng khác trong cả nƣớc. Nhƣ vậy, nguồn
nhân lực nói chung và nguồn lực con ngƣời luôn đóng một vai trò
vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, địa
phƣơng. Chính vì vậy, huyện Hồng Ngự coi nhiệm vụ phát triển
nguồn lực con ngƣời là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Để đạt đƣợc mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, huyện Hồng Ngự cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm
phát triển và nâng cao chất lƣợng nguồn lực con ngƣời mà trƣớc
hết là khuyến khích học tập, nâng cao trình độ, nhằm tạo ra nguồn
lực con ngƣời có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện; xây
huyện; có chính sách thu hút, bố trí, đãi ngộ thỏa đáng đối với
ngƣời lao động có trình độ nhằm tạo động lực kích thích tính tích
cực của họ trong quá trình công nghiệp hóa, hiên đại hóa của
huyện. Với xu thế phát triển của đất nƣớc và sự quyết tâm thực
hiện các giải pháp nêu trên, huyện Hồng Ngự sẽ thoát khỏi một
181
huyện nghèo và phát triển kinh tế - xã hội xứng đáng với tiềm
năng sẵn có, đồng thời góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nƣớc
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình chủ nghĩa xã hội
khoa học, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo trình Triết học, Nxb,
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[3]. Phạm Minh Hạc (chủ biên, 1996), Vấn đề con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
[4]. Trần Văn Tùng - Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân
lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb, Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6]. C. Mác, Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb, Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[7]. http://hongngu.dongthap.gov.vn.
182
TÌM HIỂU KỸ NĂNG ĐỌC CỦA SINH VIÊN NGÀNH CTXH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
SV: Nguyễn Ngọc Nhƣ Ý - Phạm Thanh Hải Thi
Lớp: ĐHCTXH13
GVHD: ThS. Kiều Văn Tu
Tóm tắt: Một trong những phương pháp cung cấp kiến thức khoa
học-xã hội hiệu quả cho sinh viên là chủ động đọc sách báo, tài
liệu. Để lĩnh hội tốt lượng tri thức khoa học trong lượ ệu
phong phú, đa dạng, sinh viên cần thiết phải có kỹ năng đọc tốt.
Nhận thấy được tầm quan trong đó, nhóm tiến hành khảo sát trong
phạm vi 70 sinh viên thuộc chuyên ngành CTXH. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra phần lớn sinh viên đã sử dụng công nghệ thông tin vào
quá trình tìm kiếm tư liệu thế nhưng họ vẫn chưa được trang bị kỹ
năng đọc, hơn 50% sinh viên đã tự đánh giá kỹ năng đọc của mình
chỉ ở mức trung bình, kém. Nguyên nhân chính ảnh hưởng đến vấn
đề là sự phát triển của truyền thông và công nghệ. Yếu về kỹ năng
đọc gây ảnh hưởng trong quá trình tiếp thu kiến thức, hình thành
nhân cách cá nhân còn ảnh hưởng lớn đến xã hội. Để khắc phục,
giải pháp được sinh viên kiến nghị hàng đầu là lồng ghép dạy kỹ
năng đọc và kiến thức chuyên môn được đào tạo đồng thời thay đổi
phương pháp giảng dạy trên lớp.
Từ khóa: Kỹ năng, Kỹ năng đọc.
1. Mở đầu
Trong thời đại phát triển nhƣ ngày nay, việc trang bị cho bản thân
một vốn kiến thức phong phú về mọi lĩnh vực là điều hết sức cần thiết
với mỗi cá nhân, đặc biệt là với đại bộ phận sinh viên – thế hệ trẻ của
nhân loại. Việc trau dồi cho mình những kiến thức bổ ích ấy, sinh viên
không chỉ dành nhiều thời gian để đến lớp, trực tiếp nghe giảng và cùng
giảng viên trao đổi những vấn đề đƣợc đặt ra thì quan trọng hơn hết vẫn
là sự chủ động tìm tòi, học hỏi của mỗi ngƣời. Vậy sinh viên phải tìm tòi,
học hỏi ở đâu? Một hình thức đơn giản, ít tốn kém chi phí và gần gũi
đƣợc bao thế hệ áp dụng là đọc sách báo, tài liệu chuyên môn.
Khi công nghệ thông tin phát triển ồ ạt trên khắp các quốc gia,
ngoài việc thúc đẩy nƣớc nhà phát triển đa lĩnh vực, nó còn tạo điều kiện
thuận lợi cho sinh viên đƣợc tiếp cận với sách báo, tài liệu hơn thông qua
183
mạng internet. Mặc dù trong giai đoạn trƣớc hay là trong xã hội hiện đại
nhƣ ngày nay, để tiếp thu hiệu quả những vốn kiến thức hữu ích ấy cần
có kỹ năng đọc – một trong những kỹ năng hết sức quan trọng không chỉ
với sinh viên mà còn với mọi lứa tuổi khác. Hầu nhƣ đa phần chúng ta
đều chƣa có đƣợc khái niệm về kỹ năng đọc sách, báo, tài liệu bởi lý do
gia đình, nhà trƣờng và xã hội chƣa đề cao về vấn đề này.
Trong bài báo cáo khoa học này, chúng tôi mong muốn giúp cho
ngƣời đọc có khái niệm chung về kỹ năng đọc cũng nhƣ khái quát về
thực trạng kỹ năng đọc của sinh viên ngành Công tác xã hội tại trƣờng
Đại học Đồng Tháp. Bên cạnh đó, bài vi
những biện pháp khắc phục và nâng cao ý thức cho sinh viên ngành
Công tác xã hội nói riêng và tất cả những cá nhân quan tâm đến vấn đề.
2. Nội dung
2.1.Thực trạng
Để đánh giá thực trạng kỹ năng đọc của sinh viên ngành Công
tác xã hội trƣờng Đại học Đồng Tháp, nhóm chúng tôi đã thực hiện
cuộc khảo sát ngẫu nhiên với 70 sinh viên đang tham gia ở 3 khóa
học, bao gồm 3 khóa: 2012, 2013 và 2014. Trong đó, sinh viên năm
h
có 14 sinh viên (chiếm 20% trên tổng số 70 sinh viên).Việc khảo sát
đƣợc thực hiện thông qua hình thức bảng hỏi.
Sau khi tiến hành thu thập và xử lý thông tin chúng tôi đã có
đƣợc các kết quả dƣới đây:
Thứ nhất là, thói quen đọc sách,
báo, tài liệu khoa học của sinh viên
CTXH
Khi đƣợc hỏi về thói quen đọc
sách, báo, tài liệu khoa học có 70%
sinh viên đã có thói quen, 30% sinh
viên chỉ phụ thuộc vào những kiến thức
có sẵn do giảng viên cung cấp trên lớp.
Mặc dù đa phần sinh viên đã tự ý thức
đƣợc tầm quan trọng của việc trau dồi
184
kiến thức không ngừng cho bản thân nhƣng vẫn còn một phần lớn chƣa
nắm rõ đƣợc sự cần thiết của thói quen bổ ích này. Nếu con số 30%
giảm mạnh không chỉ cải thiện đƣợc kết quả học tập của sinh viên
CTXH mà còn nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng cho sinh viên
sau khi tốt nghiệp.
Trong quá trình học tập trên lớp, nhằm thay đổi phƣơng pháp học
tập mới để sinh viên có điều kiện vận dụng tất cả những kỹ năng, bên
cạnh những kiến thức mà giảng viên cung cấp thì giảng viên cũng yêu
cầu sinh viên thực hành những bài tập tự nghiên cứu và sau đó trình bày
trƣớc lớp. Phƣơng pháp này đòi hỏi sinh viên phải tự tìm thêm tài liệu
ngoài bài giảng sẵn có mà giảng viên đã cung cấp.
Thứ hai là, các loại tài liệu ƣu tiên khi tìm đọc, nghiên cứu của
sinh viên CTXH
Việc nghiên cứu tƣ liệu thông qua sách báo đã đƣợc 23% sinh
viên lựa chọn, chiếm đa phần nhất với 60% là Internet. Ngoài ra, một
số bạn còn tập trung nghiên cứu trên tivi, radio,... và các kênh thông
tin khác. Qua những con số đó, chúng ta thấy đƣợc rằng hầu hết sinh
viên ngày nay đã bắt đầu theo kịp sự phát triển của thế giới trên
phƣơng diện áp dụng sự hiện đại của công nghệ thông tin vào trong
việc học tập của mình. Nói nhƣ vậy không hẳn là toàn bộ mà vẫn còn
một số ít khác vẫn nhận thấy đƣợc những lợi í
trƣớc đó.
Bảng 3: Biểu đồ thể hiện những nguồn cung cấp sách báo, tư
liệu mà các bạn sinh viên CTXH trường Đại học Đồng Tháp lựa chọn.
185
Vẫn chiếm tối ƣu trong sự lựa chọn của sinh viên với con số
59%, Internet đang dần dần đóng vai trò quan trọng trong quá trình
học tập. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc đến thƣ viện hay mƣợn từ thầy
cô bạn bè vẫn đƣợc một số sinh viên thực hiện mặc dù với con số
không lớn. Nhìn chung, ta có thể thấy đƣợc rằng, sự phát triển dù
đạt đỉnh điểm đến đâu thì vẫn còn tồn tại số ít vẫn giữ đƣợc cách
học truyền thống, tuy không thuận tiện bằng nhƣng nó vẫn mang lại
những lợi ích riêng mà internet khó có thể có đƣợc.
Qua khảo sát, chúng tôi còn nhận thấy rằng, sinh viên hiện nay
quan tâm không chỉ với duy nhất lĩnh vực mà mình đang theo học mà
họ còn chú trọng nghiên cứu về những vấn đề khác nhƣ khoa học
(12,1%), kinh nghiệm sống (28,2%) và các vấn đề về văn hóa, văn
học, thƣờng thức đời sống,...Khi lƣợng kiến thức càng đa dạng hơn,
nguồn thông tin phong phú hơn, thì đòi hỏi sinh viên lại càng phải
trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết để có thể lựa chọn, tiếp thu
một cách tốt nhất.
186
Thứ ba là, cách thức đọc tài liệu của sinh viên
Bảng 4: Biểu đồ thể hiện các cách thức đọc sách báo, tài liệu
của các bạn sinh viên CTXH trường Đại học Đồng Tháp
Cách thức đọc một cuốn sách, một bài báo hay tài liệu là do thói
quen, nhận thức và sở thích của từng cá nhân. Tuy nhiên, làm sao để
đạt đƣợc hiệu quả trong quá trình nghiên cứu ấy lại là một vấn đề
đáng quan tâm hơn hết. Số liệu cho thấy trong 70 sinh viên tham gia
nghiên cứu thì 55% thực hiện cách đọc lƣớt qua sau đó đọc những
phần mà mình cần tìm hiểu, 18% quyết định chọn hình thức đọc từ
đầu đến cuối, 19% lại muốn đọc lƣớt qua và 8% thì chỉ đọc những
phần nào mình thích. Mặc dù đa phần sinh viên đã lựa chọn cách đọc
đúng đắn nhƣng vẫn còn một con số khá lớn vẫn ƣa chuộng những
cách thức theo sở thích, qua loa để tránh mất thời gian hơn. Vì chƣa
nhận thức đúng đắn về kỹ năng đọc, nghiên cứu tài liệu nên đa phần
lƣợng kiến thức mà họ tiếp nhận đƣợc chỉ từ khoảng 20-59% . Số liệu
này có đƣợc khi chúng tôi đặt câu hỏi cho các bạn sinh viên CTXH về
khả năng tiếp thu của bản thân khi đọc, nghiên cứu sách, báo, tài liệu.
Có khoảng 30% sinh viên tiếp thu đƣợc từ 60-79%; 45,7% sinh viên
tiếp thu đƣợc từ 40-59%; còn lại là từ 40% trở xuống. Từ kết quả đó,
chúng tôi đã cho chính các bạn sinh viên tự đánh giá kỹ năng đọc của
bản thân mình theo từng mức độ khác nhau.
187
Từ biểu đồ trên ta
cũng thấy đƣợc rằng,
chỉ có 3% trên tổng số
70 sinh viên cho rằng
sinh viên đã đƣợc trang
bị tốt kỹ năng đọc và
chiếm ƣu thế lớn hơn
vẫn là mức bình thƣờng
với 44%, 39% đánh giá
chƣa tốt và 14% cho
rằng sinh viên vẫn chƣa có kỹ năng đọc. Thông qua, tất cả những câu
hỏi đặt ra trong phần trao đổi bằng bảng hỏi, nhìn chung hiện nay, mặc
dù đã có phần lớn sinh viên ý thức đƣợc tầm quan trọng của kỹ năng
đọc trong việc trau dồi kiến thức cho bản thân nhƣng bên cạnh đó vẫn
còn không ít đối tƣợng chƣa hình dung đƣợc phải nghiên cứu sách, báo,
tài liệu với hình thức nhƣ thế nào cho phù hợp. Điều này dẫn đến việc
gây ra những ảnh hƣởng không chỉ đến bản thân các bạn mà còn với
những thành viên khác trong xã hội. Việc cấp bách lúc này là gia đình,
nhà trƣờng, xã hội cũng nhƣ cá nhân chúng ta phải thật sự quan tâm
nhiều hơn về hình thành kỹ năng cho toàn bộ sinh viên.
2.2. Nguyên nhân
Trƣớc khi đi đến hƣớng giải quyết vấn đề thì hơn hết chúng ta
cần tìm ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng báo động này.
Bảng 6: Biểu đồ phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng không
tốt đến kỹ năng đọc của sinh viên CTXH
188
Sau khi phân tích số liệu, dựa trên kết quả ta thấy đƣợc rằng,
nguyên nhân chính gây tác động lớn đến việc sinh viên không có đƣợc
kỹ năng đọc hay kỹ năng đọc yếu là do truyền thông, CNTT (30%) và
Game online, mạng xã hội (34%). Mặt khác, cũng còn rất nhiều yếu tố
nhƣ cách giáo dục của nhà trƣờng, của gia đình; Ảnh hƣởng từ bạn bè
và chất lƣợng của thƣ viện tại trƣờng cũng nhƣ tại địa phƣơng.
Kể từ khi công nghệ thông tin và truyền thông phát triển vƣợt
bậc, dƣờng nhƣ chúng ta bắt đầu phụ thuộc nhiều vào nó. Với một chủ
đề có sẵn, chúng ta có thể thoải mái tìm kiếm trên công cụ Google
thay vì nhƣ ngày xƣa phải đến trực tiếp thƣ viện, đọc sách, tƣ liệu và
tìm kiếm, ghi chép lại. Chỉ cần một vài động tác đơn giản, chúng ta sẽ
có ngay những chủ đề mong muốn mà không mất nhiều thời gian. Đôi
khi chính vì lẽ đó mà chúng ta không dành ra chút ít thời gian để
nghiên cứu, đọc hiểu mà chỉ tìm kiếm để đối phó.
Không thể chối bỏ sức hút của thị trƣờng game online và mạng
xã hội, phần lớn thời gian ngoài việc học tập trên lớp thì sinh viên
dành thời gian cho những thú vui này và loại bỏ những thói quen hữu
ích nhƣ việc tự nghiên cứu sách vở, tài liệu bên ngoài chƣơng trình để
nâng cao kiến thức, việc đọc nhiều sách, báo,... không chỉ giúp mở
mang thêm kiến thức mà còn giúp chúng ta trau dồi thêm về những
cách thức chọn lọc nội dung, kỹ năng đọc sao cho phù hợp,...
Giáo dục từ phía nhà trƣờng cũng đóng vai trò quan trọng không
kém. Với lối giáo dục truyền thống sinh viên chỉ tập trung vào những
kiến thức phổ thông làm giảm khả năng tự động não, suy luận, tìm tòi.
, “Một trong những điểm yếu hiện nay là phƣơng pháp dạy học vẫn
còn lạc hậu, nặng về truyền thụ một chiều, thầy đọc, trò ghi, ít phát
huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh – sinh viên. Phƣơng pháp
dạy và học theo lối truyền thống đó đã làm sinh viên ngày nay thiếu sự
tìm tòi sáng tạo” – đó là nhận định của Thứ trƣởng Bộ Giáo dục – Đào
tạo tại hội thảo: “Đổi mới phƣơng pháp dạy học đại học”. Từ đó, họ
không có cơ hội đƣợc tiếp xúc với sách, báo, tài liệu khác thậm chí là
không đƣợc trang bị những kỹ năng cần thiết trong đời sống. Một
trong những yếu tố không thể bỏ quên là thói quen sinh hoạt, giáo dục
của gia đình. Đây đƣợc coi là “cái nôi” cho việc hình thành ý thức và
nhân cách con ngƣời. Việc có sở thích nghiên cứu sách báo, tài liệu
cũng đƣợc sinh ra từ đây. Với những bậc cha mẹ có kiến thức sâu rộng
189
về vấn đề kỹ năng đọc sẽ tƣ vấn, hỗ trợ cho con cái trong quá trình
học tập nghiên cứu.
Chất lƣợng thƣ viện cũng đóng góp một phần không nhỏ tác
động đến thực trạng trên.
Ngoài ra, ảnh hƣởng từ bạn bè cũng là một tác nhân có tác động
mạnh mẽ đến kỹ năng đọc của sinh viên. Bƣớc vào môi trƣờng đại học
đồng nghĩa với việc đa số sinh viên phải sống xa nhà, xem trƣờng là
nhà, xem bạn bè là anh chị em thì việc ảnh hƣởng những suy nghĩ, sở
thích là không tránh khỏi. Dƣới sự tác động trực tiếp của thế giới xung
quanh sẽ làm hình thành, thay đổi nhận thức cũng nhƣ thói quen của
một cá nhân. Trong vòng quay của cuộc sống hiện đại, thế hệ trẻ đang
bị cuốn theo sức hút của tập thể và học tập những hành vi theo xã hội
mà không có chọn lọc.
2.3. Hậu quả
Xét về góc độ cá nhân:
Bảng 7: Biểu đồ phân tích hậu quả về mặt cá nhân do thiếu kỹ
năng đọc của sinh viên CTXH
Dựa trên những con số thực tế bên trên, hầu hết tất cả các bạn
đều ý thức đƣợc những ảnh hƣởng xấu mà việc yếu về kỹ năng đọc
dẫn đến. 25% cho rằng yếu kỹ năng đọc sẽ dẫn đến việc thiếu đi
những kiến thức cơ bản, nền tảng; 18% đồng ý là điều này sẽ gây nên
việc lĩnh hội sai nội dung và cùng mức đó là làm mất đi cảm giác
thích thú khi đọc sách,.. Ngoài ra, những ảnh hƣởng không thể bỏ qua
25%
18%
16%
14%
18%
9%
Thiếu kiến thức cơ bản
Lĩnh hội sai nội dung
Không tiếp thu đƣợc
nội dung Lệch lạc tƣ tƣởng
Không thích thú đọc
Nhân cách không đúng
đắn
190
là làm cho không thể tiếp thu đƣợc kiến thức, làm lệch lạc tƣ tƣởng và
hình thành nhân cách không đúng đắn. Với những con số không chênh
lệch nhiều nhƣ thế thì việc yếu về kỹ năng đọc sẽ có thể dẫn đến tất cả
những hậu quả vừa nêu bởi chúng có sự liên kết và tƣơng tác khá là
chặt chẽ.
Xét về mặt xã hội:
Việc yếu kỹ năng đọc sách không chỉ gây ảnh hƣởng đến cá
nhân ngƣời lĩnh hội kiến thức mà còn gây nên những ảnh hƣởng đến
mọi ngƣời xung quanh trong việc định hƣớng kiến thức (43,8%),
truyền đạt thông tin (33,9%) và định hƣớng nhân cách không đúng
đắn cho mọi ngƣời (22,3%). Những con số cũng đủ để giúp chúng ta
nhận biết đƣợc rằng tầm ảnh hƣởng của vấn đề không chỉ giới hạn ở
một cá thể mà còn ảnh hƣởng rất lớn đến tập thể, đến quá trình phát
triển của xã hội.
2.4. Biện pháp
Qua quá trình tìm hiểu về nguyên nhân dẫn đến vấn đề sinh viên
hiện nay đang yếu dần về kỹ năng đọc, chúng tôi đã đề ra những
phƣơng hƣơng giải quyết và chính các bạn sinh viên CTXH là ngƣời
đánh giá mức độ hiệu quả của từng phƣơng hƣớng ấy. Tất cả các biện
pháp đều đƣợc sinh viên đánh giá với mức độ hiệu quả rất cao mà chủ
yếu các bạn tập trung nhiều nhất vào việc lồng ghép việc dạy kỹ năng
vào trong chương trình học chính khóa cũng như thay đổi phương
thức giáo dục tại lớp để sinh viên có nhiều điều kiện tốt hơn trong
việc phát huy khả năng tự nghiên cứu. Cũng đƣợc đánh giá cao không
kém là tổ chức các buổi truyền thông về kỹ năng đọc sách cho sinh
viên trong những ngày cuối tuần để các bạn có thể trực tiếp giao lƣu,
trao đổi cụ thể hơn và chất lƣợng của thƣ viện cũng nên đƣợc chú
trọng nhiều hơn, có sự đa dạng hơn về thể loại để phục vụ cho sinh
viên tốt hơn nữa. Các câu lạc bộ chuyên về đọc sách, báo cũng nên
được thành lập, tuy tính hiệu quả không cao bằng những phƣơng
hƣớng đã đề ra nhƣng nó cũng có thể giải quyết phần nào vấn đề đang
diễn ra ở hầu hết bộ phận sinh viên hiện nay .
3. Kết luận
Kỹ năng đọc thật sự là một trong những kỹ năng cần thiết không
chỉ với sinh viên mà còn với những lứa tuổi khác từ trẻ nhỏ đến ngƣời
già. Nó không chỉ giúp ích cho quá trình học tập tại môi trƣờng cao
191
đẳng, đại học mà còn trong suốt quá trình làm việc sau này của mỗi cá
nhân. Tri thức là vô tận, để lĩnh hội tri thức hiệu quả, cần phải có sự
tích lũy dần dần theo thời gian, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức
tạp, diễn ra thƣờng xuyên và xuyên suốt cuộc đời. Phƣơng pháp lĩnh
hội tri thức nhƣ thế nào là điều đáng quan tâm hơn hết. Trong thời đại
công nghiệp, xã hội dần phát triển nhƣ ngày nay, đòi hỏi chúng ta phải
thật sự vững về kiến thức lẫn kỹ năng mới có thể tồn tại, mà trong đó
kỹ năng đọc chính là một bƣớc đệm đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của từng cá thể trong một cộng đồng. Muốn xã hội đi lên thì
cá thể phải đƣợc hoàn thiện.
Tài liệu tham khảo
[1]. Phùng Thị Ngân-Văn hóa đọc của sinh viên trƣờng Đại học Bách
Khoa Hà Nội. 2008
[2]. ThS Lê Thị Thúy Hiền – Thực trạng văn hóa đọc của sinh viên
chuyên ngành thƣ viện thông tin, trƣờng Đại học văn hóa Hà Nội.
[3].Trƣơng Đại Lƣợng. Bài giảng Công tác ngƣời đọc: Dùng cho sinh
viên ĐH Thông tin – Thƣ viên. – Đại học Văn hóa Hà Nội, 2008.
[4].Vũ Duy Hiệp - Một số giải pháp để phát triển văn hóa đọc cho sinh
viên các trƣờng đại học
[5]. Phạm Quang Tùng - Một số kỹ năng nhằm nâng cao kỹ năng đọc
sách của sinh viên trƣờng Đại học Nha Trang, 2011.
192
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
TÔN GIÁO Ở THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
HIỆN NAY
SV: Dƣơng Quý Nhân Hoàng
Lớp: ĐHGDCT11
GVHD: ThS. Đỗ Duy Tú
Tóm tắt: Từ lý luận chung về quản lý nhà nước đối với tôn giáo, trên
cơ sở phân tích thực trạng của công tác quản lý nhà nước đối với tôn
giáo ở thành phố Cao Lãnh thời gian qua. Bài viết bước đầu đề xuất
một số giải pháp như là một gợi mở cho thành phố Cao Lãnh, tỉnh
Đồng Tháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động
của tôn giáo hiện nay, qua đó, góp phần ổn định an ninh, chính trị,
đại đoàn kết toàn dân,..hướng tới xây dựng thành phố Cao Lãnh văn
minh, hiện đại trong tương lai.
Từ khóa:
tôn giáo ở Tp. Cao Lãnh.
1. Đặt vấn đề
Thành phố Cao Lãnh là đơn vị hành chính của tỉnh Đồng Tháp,
cùng với SaĐéc là 2 trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội quan trọng của
tỉnh. Dân số thành phố Cao Lãnh trên 163 nghìn ngƣời, trong đó đồng
bào có đạo khoảng 23.770 ngƣời (Phật giáo khoảng 8.200; Công giáo
khoảng 2.100; Tin lành khoảng 1.900; Phật Giáo Hòa Hảo khoảng
5.000; Cao Đài khoảng 6.200; Nam tông Minh sƣ đạo khoảng trên 30)
[1; tr.1]. Các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố ngày càng phát
triển, số lƣợng ngƣời theo các tôn giáo tăng
–
với tôn giáo ở thành phố Cao Lãnh đạt
đƣợc nhiều kết quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
nhƣ: công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong giải quyết những
thủ tục hành chính tôn giáo còn bất cập; ở một số xã, phƣờng chức năng
quản lý nhà nƣớc đối với tôn giáo còn thiếu đồng bộ và chƣa linh hoạt...
Trƣớc tình hình đó, việc nghiên cứu cũng nhƣ đề ra phƣơng hƣớng và
giải pháp nhằm từng bƣớc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với
193
tôn giáo trên địa bàn Thành phố Cao Lãnh là một việc làm có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm về quản lý nhà nƣớc, quản lý nhà nƣớc đối với tôn
giáo
Quản lý nhà nƣớc là một dạng quản lý xã hội mang tính nhà
nƣớc nhằm tổ chức và điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con ngƣời, đƣợc hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: là dạng quản lý xã hội của Nhà nƣớc, đƣợc sử
dụng quyền lực Nhà nƣớc (quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp) để
điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con ngƣời.
Nghĩa hẹp: Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà
nƣớc với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của cơ quan trong hệ thống hành pháp.
Quản lý nhà nƣớc về tôn giáo là một dạng điều chỉnh quá trình
hoạt động tôn giáo bằng quyền lực nhà nƣớc và cũng đƣợc hiểu theo
hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực Nhà nƣớc để tác
động, điều chỉnh, hƣớng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động
tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật.
Nghĩa hẹp: Là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều
chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật.
Nhƣ vậy quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ở cả hai nghĩa rộng và
hẹp, đều tập trung vào việc quản lý các hoạt động của các tổ chức tôn
giáo và đồng bào giáo dân. Mục tiêu tổng quát trong quản lý nhà nƣớc
đối với hoạt động của tôn giáo là góp phần tích cực vào xây dựng
những giá trị văn hóa và chuẩn mực xã hội tốt đẹp, tạo nên những
quan hệ lành mạnh giữa con ngƣời với con ngƣời. Trong đó, bảo đảm
nhu cầu tín ngƣỡng thuần túy của quần chúng nhân dân và mọi chủ
trƣơng chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nƣớc đƣợc thực hiện
nghiêm minh; đồng thời, phát huy nhân lực, phát triển văn hóa, khắc
phục các tệ nạn xã hội và đảm bảo ổn định chính trị - xã hội; Hình
thành lối sống mới, xây dựng giá trị mới phù hợp với bản sắc dân tộc
194
và yêu cầu của thời đại; Ngăn ngừa sự lạm dụng tín ngƣỡng, tôn giáo
đi ngƣợc lại với lợi ích dân tộc và phát triển xã hội nói chung.
Nội dung chung về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo thể hiện trên các lĩnh vực: Xây dựng chiến lƣợc, kế hoạch dài
hạn, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
Tuyên truyền, phổ biến thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo; Quy định tổ chức phối hợp giữa các cơ quan trong
công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo; Đào tạo, bồi
dƣỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo; Kiểm tra, thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động
tôn giáo.
Cụ thể, quản lý về tổ chức tôn giáo: Đăng ký, công nhận, thành
lập, chia tách, sát nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo; Thành lập, giải thể,
đào tạo, mở lớp bồi dƣỡng những ngƣời chuyên hoạt động tôn giáo;
Phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi
nhiệm chức sắc trong tôn giáo.
Về quản lý những hoạt động tôn giáo bao gồm: Đăng ký hoạt
động tôn giáo hàng năm của tổ chức tôn giáo cơ sở; Đăng ký ngƣời
vào tu; Tổ chức hội nghị, đại hội của các tổ chức tôn giáo; Quản lý đất
đai, cơ sở thờ tự và việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình
kiến trúc tôn giáo; Xét duyệt các hoạt động từ thiện, xã hội.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với tôn giáo trên địa bàn
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nƣớc đối
với tôn giáo, trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền các cấp
tỉnh Đồng Tháp nói chung và ở thành phố Cao Lãnh nói riêng phát
huy vai trò quản lý nhà nƣớc đối với tôn giáo, nhờ đó đạt đƣợc nhiều
thành tựu đáng khích lệ. Cụ thể :
Thứ nhất, công tác tham mưu, đề xuất và chỉ đạo thực hiện: Phòng
Nội vụ thành phố Cao Lãnh đã tham mƣu, đề xuất cho Ban Tôn giáo
tỉnh để từ đó làm cơ sở để đề xuất với Ủy ban Nhân dân tỉnh giải
quyết và chủ trƣơng giải quyết các hồ sơ của tổ chức, cá nhân tôn giáo
yêu cầu ở các lĩnh vực xây dựng, sửa chữa; đăng kí phong chức,
phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển nơi hoạt động của các chức
sắc, nhà tu hành; mở các lớp học tập, bồi dƣỡng giáo lý; tổ chức đại
hội, lễ hội, trọng hội và các lễ khác ngoài chƣơng trình đăng kí hằng
195
năm; tiếp nhận, khôi phục, hợp thức hóa đất đai, cơ sở thờ tự có
nguồn gốc tôn giáo...Kết quả tham mƣu, đề xuất đảm bảo đúng chí
Thứ hai, công tác bồi dưỡng, đào tạo, cán bộ làm công tác tôn
giáo: Thành phố Cao Lãnh rất quan tâm tới công tác đào tạo, tập
huấn, bồi dƣỡng cán bộ làm công tác tôn giáo ở các xã, phƣờng.
Trong những năm qua, thành phố đã mở nhiều lớp bồi dƣỡng nghiệp
vụ tôn giáo cho các cán bộ làm công tác tôn giáo. Năm 2014, Ủy ban
Nhân dân thành phố Cao Lãnh đã cử một số cán bộ tham gia 02 lớp
đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ tôn giáo do Ban tôn giáo tỉnh phối hợp với
Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với Trƣờng Chính trị tổ chức học
tập Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ về
biện pháp thi hành pháp lệnh tín ngƣỡng tôn giáo và các chuyên đề
Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài.
Thứ ba, công tác thông tin, tuyên truyền: Các cấp chính chính
quyền đã quan tâm chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động đồng bào
có đạo, thƣờng xuyên thông tin, giải thích về những âm mƣu thủ đoạn
thâm độc của các thế lực thù địch. Hằng năm, các cấp ủy, chính quyền
duy trì công tác gặp gỡ, tiếp xúc với đại diện chức sắc tôn giáo qua đó
kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động của các tôn giáo, tình hình đời
sống, tinh thần của quần chúng tín đồ tôn giáo, đồng thời động viên các
tôn giáo đồng hành cùng với Đảng, chính quyền chung tay xây dựng và
phát triển thành phố ngày càng “năng động, văn minh, an toàn”.
Thứ tư, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo trên địa bàn Thành phố: Phòng Nội vụ thành phố đã quản lý rất tốt
vấn đề xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự; giải quyết tốt các vụ việc khiếu
kiện, khiếu nại liên quan đến tôn giáo cũng nhƣ vấn đề phong chức,
phong phẩm, bổ nhiệm, suy cử. Bên cạnh đó, Uỷ ban Nhân dân thành
phố Cao Lãnh cũng đã tích cực, chủ động xem xét, giải quyết có hiệu
quả một số đề nghị trong hoạt động thƣờng niên của các tổ chức tôn
giáo đồng thời cử cán bộ chuyên trách về tôn giáo tham dự các hoạt
động thƣờng niên nhƣ lễ Phật đản, lễ Vu lan, lễ cúng rằm của Phật giáo;
lễ Giáng sinh, Phục sinh của Công giáo và Tin Lành; lễ Đức Chí tôn,
ngày khai đạo, Hội yến Diêu trì cung của Cao Đài; ngày khai đạo, ngày
Đản sinh của Đức Huỳnh Giáo chủ của Phật giáo Hòa Hảo.
196
Thành phố đã chủ động đấu tranh ngăn chặn và xử lý kịp thời
việc lợi dụng tôn giáo gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội. Phát hiện và giải quyết 12 nhóm tuyên truyền đạo trái phép ,
trong đó những vụ việc đáng chú ý nhất là: 03 nhóm Tin lành ly khai,
01 nhóm Tin lành trƣởng lão, 6 n
Thanh Hải Vô Thƣợng Sƣ. Về mê tín, dị đoan phát hiện mời làm việc,
xử lý 18 vụ, gồm 18 đối tƣợng có hành vi hành nghề trái phép trị bệnh
có tính chất mê tín dị đoan; một vụ, 02 đƣơng sự lạ đến Thƣ viện Đồng
Tháp tặng 300 quyển Kinh phật, xuất bản ở nƣớc ngoài về Việt Nam và
một vụ ở phƣờng 6 về hành vi tàng trữ, sao chép, phát tán trái phép 279
đĩa VCD và CD có nội dung cấm lƣu hành [5; tr.3-4]. Bên cạnh đó,
Phòng Nội vụ thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn
giáo tiến hành các hoạt động từ thiện xã hội nhƣ: tổ chức cấp phát quà
cho bà con nghèo, hỗ trợ các bếp ăn từ thiện, xây dựng và sửa chữa cầu,
cống. Vận động đồng bào các tôn giáo sống trong các khu dân cƣ thực
hiện nếp sống văn minh, bài trừ những hủ tục lạc hậu.
Thứ năm, công tác phối hợp với các ngành, đoàn thể quần
chúng: Ủy ban Nhân dân thành phố đã ban hành kế hoạch số 153/KH-
UBND về quản lý nhà nƣớc đối với tôn giáo giai đoạn 2013 - 2015;
Quyết định số 11/QĐ-UBND ngày 13/08/2013 của Ủy ban Nhân dân
thành phố về việc ban hành các quy chế phối hợp giải quyết những
vấn đề liên quan đến tôn giáo. Trong năm 2013, phòng Nội vụ, Công
an, Mặt trận Tổ quốc thành phố phối hợp điều tra, khảo sát, tham mƣu
cho Ủy ban Nhân dân thành phố giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn
đề tôn giáo phức tạp nhƣ truyền đạo trái phép, gây mất trật tự ở địa
phƣơng. Song song đó, Ban tôn giáo thành phố Cao Lãnh cũng đã
phối hợp tổ chức báo tình hình thời sự, chính sách tôn giáo, báo cáo
chuyên đề về tôn giáo ở hầu hết các xã, phƣờng trong thành phố.
Trong năm 2013 – 2014, Mặt trận Tổ quốc thành phố đã chủ động xây
dựng kế hoạch thống nhất hành động giữa Mặt trận Tổ quốc thành phố
Cao Lãnh với các tổ chức thành viên, cá nhân tiêu biểu các chức sắc
tôn giáo (có ký kết của đại diện chức sắc 5 tôn giáo trên địa bàn).
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, công tác quản lý nhà nƣớc
đối với tôn giáo trên địa bàn thành phố Cao Lãnh thời gian qua
cũng còn một số hạn chế, bất cập. Cụ thể:
197
Một là, Bộ máy và cán bộ làm công tác tôn giáo chưa vững về
chuyên môn, thiếu về số lượng: Số lƣợng cán bộ làm công tác tôn giáo
các cấp còn quá mỏng, không đủ sức đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ
thực tiễn đặt ra. Mỗi xã, phƣờng thƣờng chỉ bố trí một cán bộ kiêm
nhiệm làm công tác tôn giáo. Mặt khác, cán bộ làm công tác tôn giáo
ở cơ sở thƣờng xuyên thay đổi hoặc phải làm công việc kiêm nhiệm
nên chƣa am hiểu sâu về lĩnh vực tôn giáo, từ đó ảnh hƣởng đến chất
lƣợng hiệu quả công tác; vấn đề bảo mật thông tin chƣa đƣợc tin cậy
sau các kỳ họp, có những vấn đề còn chồng lấn trách nhiệm.
Hai là, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo vẫn tồn tại một số bất cập: Công tác nắm bắt tình hình, hoạt
động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo chƣa đƣợc tiến hành chủ động,
nhiều vụ việc đã xảy ra rồi mới can thiệp, giải quyết. Công tác thống
kê, nắm bắt số lƣợng tín đồ, chức sắc, chức việc, cơ sở vật chất và
hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn ở một số cơ sở chƣa thật kịp
thời, đầy đủ, nên khi phản ảnh số liệu giữa các cơ quan chƣa có sự
thống nhất và chính xác. Mặt khác, trên địa bàn thành phố vẫn còn
một số tổ chức chính quyền, các đoàn thể, và một bộ phận cán bộ,
đảng viên chƣa nhận thức đầy đủ và thống nhất về vấn đề tôn giáo và
công tác tôn giáo. Tình trạng lơ là, buông lỏng quản lý, mất cảnh giác
tạo sơ hở và bị lợi dụng... dẫn đến việc xử lý các vấn đề nảy sinh
trong các tôn giáo còn tồn tại. Nhiều lúng túng, bị động, thiếu tính
nhất quán trong quản lý, để vụ việc kéo dài làm cho vấn đề trở nên
phức tạp thêm.
Ba là, công tác thông tin, tuyên truyền chưa thực sự hiệu quả:
Nội dung tuyên truyền chƣa sát với đối tƣợng là các chức sắc, chức
việc và tín đồ các tôn giáo. Công tác phổ biến pháp luật cho tín đồ các
tôn giáo chƣa đạt đƣợc những kết quả nhất định; nhiều chủ trƣơng,
chính sách, pháp luật chƣa thật sự đi vào cuộc sống; một số quy định
của pháp luật chƣa trở thành thói quen ứng xử trong nhân dân; một số
tệ nạn xã hội và hủ tục (đặc biệt là nạn mê tín di đoan, đồng bóng) chƣa
đƣợc đẩy lùi. Mặt khác, việc phổ biến, tuyên truyền còn mang nặng về
hình thức, biện pháp tuyên truyền phổ biến đƣợc chuyển tải chƣa có
những hình thức sáng tạo, sinh động, cuốn hút khán giả, thính giả, nhất
là đồng bào giáo dân.
198
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nhà nƣớc đối với tôn giáo trên địa bàn thành phố Cao Lãnh
hiện nay
Thứ nhất, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước đối với công tác quản lý các hoạt động tôn giáo: Thành ủy
cần chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể các
cấp trên địa bàn thành phố Cao Lãnh tăng cƣờng hơn nữa công tác
tuyên truyền, phố biến các chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nƣớc về tôn giáo từ trong nội bộ đảng đến quần chúng nhân
dân. Mặt khác, các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể các
cấp tiếp tục tăng cƣờng củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở,
nắm chắc tình hình hoạt động của các chức sắc, tín đồ tôn giáo; giải
quyết kịp thời, đúng đắn những vần đề mới phát sinh ngay từ cơ sở,
không để xảy ra các vụ việc khiếu kiện liên quan đến tôn giáo và thực
hiện công tác báo cáo, phản ảnh kịp thời, đầy đủ tình hình công tác tôn
giáo với các cấp trên theo quy định.
Thứ hai, kiện toàn và nâng cao năng lực tổ chức của bộ máy
quản lý nhà nước đối với tôn giáo, có chiến lược xây dựng đội ngũ
cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo trên địa bàn thành phố: Đối
với cán bộ chuyên trách đang làm công tác tôn giáo, cần có sự rà soát
và bố trí cho phù hợp với mỗi công việc cụ thể. Trong việc tuyển
chọn, điều động cán bộ làm công tác tôn giáo cần phải xuất phát từ
tính chất, yêu cầu của công tác này. Cần tránh tình trạng phân công
gò ép, hoặc xếp những cán bộ đã bị kỷ luật, mất uy
của Tỉnh và Trung ƣơng
nhƣ: trƣờng Chính trị Tỉnh, Ban Tôn giáo Chính phủ, Viện Nghiên
cứu Tôn giáo và Tín ngƣỡng…mở các lớp bồi dƣỡng ngắn hạn và dài
hạn nhằm nâng cao trình độ và năng lực quản lý của các cán bộ làm
công tác tôn giáo.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, tuyên
truyền, vận động tín đồ, chức sắc các tôn giáo: Phòng Nội vụ cần tiếp
tục đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục chính sách
pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc nhất là đƣờng lối chính sách đối với
tôn giáo đến với đông đảo quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo
199
trên địa bàn Thành phố. Thƣờng xuyên đổi mới nội dung, đa dạng hóa
các hình thức vận động, tuyên truyền; các hoạt động tuyên truyền phải
hƣớng vào các nhu cầu đời sống thiết thực của quần chúng. Tiếp tục
thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cƣ”; tổ chức cho nhân dân học tập chủ trƣơng, chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc về tôn giáo, xây dựng quy ƣớc, hƣơng
ƣớc và cam kết thực hiện, nhất là các xã có số hộ theo tôn giáo cam
kết thực hiện. Ngoài ra cần tăng cƣờng vai trò của các đoàn thể nhƣ
Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên… trong việc vận
động, giáo dục đồng bào theo tôn giáo thông qua các chƣơng trình
hoạt động mới mẻ, thiết thực, có ý nghĩa đối với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện các phương pháp quản lý nhà
nước đối với tôn giáo: Khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải thống nhất
một nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể làm công tác tuyên truyền, vận động. Phƣơng pháp
phải mềm mỏng, tế nhị, tránh thô bạo, nôn nóng, phải tách đƣợc các
đối tƣợng cầm đầu, quá khích ra khỏi quần chúng. Phải kết hợp hài
hòa các yếu tố chuyên môn, nghệ thuật, phƣơng pháp để không gây ra
ức chế, phản cảm, xóa thành kiến và quan trọng hơn là tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ của tín đồ chức sắc. Tuyệt đối không đƣợc tỏ ra có
sự phân biệt đối xử giữa các tôn giáo, không gợi lại những điều không
hay của một ai đó hay của một bộ phận ngƣời nào đó trong lịch sử, mà
phải tìm ra những mặt tích cực của mỗi con ngƣời, mỗi tập thể mà
động viên, tuyên truyền, biểu dƣơng kịp thời.
3. Kết luận
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, có liên quan đến nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội. Vì vậy, nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của
tôn giáo và công tác quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động tôn giáo
trong tình hình hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những năm
gần đây, các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội ở thành phố Cao Lãnh
có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân ngày đƣợc cải thiện và nâng cao, số lƣợng ngƣời dân tham gia
vào các tổ chức tôn giáo ngày càng tăng. Nhìn chung hoạt động của
tôn giáo ở Cao Lãnh đều tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đƣờng lối,
chính sách của Đảng, đồng hành cùng với sự phát triển của thành phố,
dân tộc. Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng hoạt động tôn giáo vi phạm
200
chính sách, pháp luật, hiện tƣợng mê tín di đoan vẫn còn diễn ra dễ bị
các thế lực thù địch lợi dụng, gây chia rẽ khối đại đoàn kết tôn giáo,
đoàn kết dân tộc. Do đó, trong thời gian tới, thành phố Cao Lãnh cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp, với sự tham gia của cả hệ thống
chính trị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với tôn giáo,
từng bƣớc phát huy các giá trị tích cực cũng nhƣ hạn chế ảnh hƣởng
tiêu cực của tôn giáo.
Tài liệu tham khảo
[1]. Ban Tôn giáo – Sở nội vụ Đồng Tháp (2014), Báo cáo tình hình tôn
giáo và kết quả công tác tôn giáo năm 2014, chƣơng trình công tác năm
2015.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết 25 của Ban chấp
hành trung ương 7, khóa IX, về công tác tôn giáo, Nxb, Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[3]. Đỗ Quang Hƣng (2008), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt
Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị.
[4]. Nguyễn Đức Lữ (2009), Tôn giáo – quan điểm và chính sách của
Đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị hành chính.
[5]. Thành ủy Cao Lãnh (2013), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo.
201
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở XÃ HÒA AN,
THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP - NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA
SV: Nguyễn Minh Kha
Lớp: ĐHGDC13
GVHD: ThS. Trần Kim Ngọc
Tóm tắt: Bài viết trình bày khái quát về quá trình xây dựng nông thôn
mới ở xã Hòa An trên các lĩnh vực: Công tác vận động tuyên truyền,
tình hình về sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển sản xuất, tình hình về
sản xuất nông nghiệp,… thông qua đó tác giả nêu lên những thành tựu
đã đạt được cùng với những khó khăn cần được khắc phục trong thời
gian tới.
Từ khóa: Nông thôn mới, xã Hòa An.
1. Mở đầu
Nông thôn mới là một cuộc cách mạng, cuộc vận động lớn để
cộng đồng dân cƣ ở nông thôn đồng lòng xây dựng nông thôn, xã, gia
đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện
(nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hóa, môi trƣờng
và an ninh nông thôn đƣợc bảo đảm, thu nhập, đời sống vật chất, tinh
thần của ngƣời dân đƣợc nâng cao; xây dựng nông thôn mới là sự
nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị.
Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề kinh
tế - chính trị tổng hợp.
“Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010 – 2020 đã đƣợc Thủ tƣớng chính phủ phê duyệt tại
Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010; Thông tƣ số 41/2013/TT-
BNNPTNT ngày 04/10/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn hƣớng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới.
Chƣơng trình này đƣợc trển khai trên địa bàn nông thôn trên toàn quốc
từ năm 2010 đến 2020. Qua đó, 11 xã đƣợc Ban Bí thƣ Trung ƣơng
chọn thí điểm mô hình nông thôn mới của Trung ƣơng gồm: (1) xã
Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; (2) xã Tân Thịnh,
huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; (3) xã Hải Đƣờng, huyện Hải
Hậu, tỉnh Nam Định; (4) xã Gia Phố, huyện Hƣơng Khê, tỉnh Hà Tĩnh;
(5) xã Tam Phƣớc, huyện Phù Ninh, tỉnh Quảng Nam; (6) xã Tân Hội,
huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; (7) xã Tân Lập, huyện Đồng Phú,
202
tỉnh Bình Phƣớc; (8) xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà
Vinh; (9) xã Định Hoà, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; (10) xã
Hƣơng Thuỵ, huyện Chƣơng Mỹ, Thành phố Hà Nội và (11) xã Tân
Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra mỗi tỉnh
chọn một số xã làm điểm nhân rộng ra nhiều xã khác” [5].
“Đối với tỉnh Đồng Tháp việc xây dựng mô hình xã nông thôn
mới rất có hệ thống và có những thành tích đáng phấn khởi. Những
nét nổi bật mà ai cũng thừa nhận ở Đồng Tháp là việc mở đƣờng giao
thông nông thôn, cơ giới hóa nông nghiệp, đi đầu trong việc áp dụng
tiến bộ kỹ thuật mới trong nông nghiệp đạt năng suất và sản lƣợng cao
nhất vùng” [6].
Ngày 13/5/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp ban hành
Quyết định số 425/QĐ-UBND-HC Ban hành Bộ tiêu chí về nông thôn
mới tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020; Quyết định số 308/QĐ-
BCĐXDNTM ngày 17/4/2014 của Ban Chỉ đạo Chƣơng trình mục
tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Đồng Tháp về việc ban
hành hƣớng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí về nông thôn mới tỉnh Đồng
Tháp đến năm 2020.
“Theo đó, xã Hòa An, thành phố Cao Lãnh, đƣợc tỉnh chọn là
một trong 30 xã điểm xây dựng nông thôn mới của tỉnh Đồng
Tháp”[4]. Qua 4 năm thực hiện chƣơng trình xây dựng nông thôn mới,
xã Hòa An thuộc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đã đạt đƣợc
nhiều thành tựu to lớn nhƣng cũng gặp phải không ít những khó khăn.
Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho đọc giả cái nhìn tổng quan về quá
trình xây dựng nông thôn mới ở xã Hòa An trong thời gian qua và
những khó khăn cần đƣợc khắc phục trong những năm tiếp theo sau
khi đã đạt chuẩn nông thôn mới vào cuối năm 2014.
2. Nội dung chính
2.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng nông
thôn mới ở xã Hòa An
2.1.1. Công tác vận động tuyên truyền
“Từ khi triển khai thực hiện Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia
về xây dựng nông thôn mới công tác tuyên truyền, vân động ở Xã đã
đi vào chiều sâu và có trọng tâm, các nội dung cần triển khai vận động
đều đƣợc xây dựng kế hoạch cụ thể, có phân công cho thành viên thực
hiện và đã tổ chức triển khai 417 cuộc tuyên truyền, có 12.957 lƣợt
203
ngƣời tham dự với nội dung mục tiêu, yêu cầu và tầm quan trọng của
Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Thông qua
các cuộc tuyên truyền, nhân dân đã thông hiểu và tham gia thực hiện
nhƣ: sửa chửa nâng cấp nhà ở; phát triển sản xuất, tham gia học nghề,
giải quyết việc làm để nâng cao thu nhập; giảm nghèo; tham gia bảo
hiểm y tế tự nguyện; tham gia sử dụng nƣớc sạch, thu gom, xử lý rác
thải bảo vệ môi trƣờng; tạo điều kiện cho con em đƣợc học tập, học
nghề để có việc làm ổn định; tích cực thực hiện cuộc vận động xây
dựng đời sống văn hóa khu dân cƣ, xây dựng gia đình văn hóa gắn với
việc chấp hành pháp luật” [1].
Năm 2013, “Ban Chỉ đạo xã Hòa An đã tập trung tổ chức 28
cuộc họp tuyên truyền nội dung liên quan đến thực hiện 05 tiêu chí
đăng ký trong năm (tiêu chí số 05, 13, 16, 17, 19) và các nội dung khác,
có trên 3.600 hộ dân đến dự, qua công tác tuyên truyền hầu hết ngƣời
dân đều nhận thức đƣợc nội dung và có nhiều đóng góp thiết thực cũng
nhƣ tham gia đóng góp tiền, công lao động, tự giải phóng mặt bằng, vật
kiến trúc. Triển khai thực hiện 06 tuyến đƣờng kiểu mẫu (làm hàng rào
cây xanh, cột cờ, cổng chào, sửa chữa lề đƣờng,...). Đến nay có 4/6
tuyến đƣờng nhân dân thực hiện tốt. Thực hiện Dự án CHOBA (dự án
cải thiện vệ sinh cộng đồng) do Hội Liên hiệp Phụ nữ Tỉnh điều hành
đến nay đã vận động đƣợc trên 70 hộ dân cải tạo xây dựng lại nhà tiêu
hợp vệ sinh. Vận động hiến đất, vật kiến trúc và hoa mùa để thi công
các tuyến đƣờng: chùa Kim Quang, rạch Ông Đá, Xếp Lá bờ Bắc, tổ 4-
6 Hòa Long, Tổ 1-7- 8 Hòa Long và đƣờng Tổ 10 Hòa Lợi, kết quả
100% hộ dân đồng ý (tổng giá trị hiến hơn sáu tỷ đồng).Vận động nhân
dân cùng Nhà nƣớc thực hiện 03 công trình thắp sáng đƣờng quê dài
khoảng 05 km với tổng kinh phí 395 triệu, nhân dân đóng góp 50%
kinh phí vật tƣ xây dựng và tham gia góp công lao động. Vận động
doanh nghiệp hỗ trợ khoảng 50 triệu đồng để lắp đặt các panô tuyên
truyền 19 tiêu chí nông thôn mới và xây dựng cổng chào trên tuyến
đƣờng Hòa Tây” [2].
Qua kết quả tuyên truyền, vận động đã nâng cao ý thức của
nhân dân, phát huy đƣợc vai trò chủ thể của nhân dân, tao đƣợc sự
đồng thuận cao; kết quả vận động nhân dân đã có nhiều đóng góp,
tham gia tích cực phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc nên tình
hình an ninh chính trị đƣợc giữ vững, trật tự xã hội đƣợc ổn định, bộ
mặt nông thôn ngày càng đƣợc đổi mới.
204
2.1.2. Tình hình sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển sản xuất nông
nghiệp và phát triển thương mại – dịch vụ
Năm 2013, Xã áp dụng thí điểm mô hình hùn vốn xoay vòng
cất nhà cho thanh niên Hội Nông dân, kết quả đã tổ chức cất 10 căn
nhà cho hội viên có hoàn cảnh khó khăn với tổng kinh phí 500 triệu
đồng.Năm 2014, Xã thực hiện xóa nhà tre lá, tạm bợ, kết quả đã xóa
18/32 căn nhà; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 2,97%; tăng thu nhập
bình quân đầu ngƣời đạt 22 triệu đồng/ngƣời/năm.
Năm 2011, “Xã đã giải ngân số tiền một tỷ đồng cho hộ nghèo,
cận nghèo vay phát triển sản xuất. Đặc biệt trong năm 2013, Xã tiếp
nhận nguồn vốn 2,5 tỷ đồng do Chủ tịch nƣớc vận động hỗ trợ cho hộ
nghèo và cận nghèo của Xã mƣợn vốn nuôi bò. Xã Đã tổ chức cấp
phát 128 con bò giống cho 64 hộ dân, với số tiền giải ngân 1,694 tỷ
đồng. Trong tháng 12/2013, tiếp tục giao đợt bò cuối cùng cho các hộ
dân, số lƣợng 26 con. Xã do chƣa chọn đƣợc hộ dân có đủ điều kiện
để nuôi bò, nguồn tiền tài trợ mua bò còn lại 463 triệu, Ủy ban nhân
dân tỉnh đã chấp thuận cho Ban Chỉ đạo xã Hòa An chuyển vào Ngân
hàng Chính sách xã hội Tỉnh quản lý để hỗ trợ cho các hộ có thu nhập
thấp của xã Hòa An vay vốn sản xuất, kinh doanh” [2].
Về tình hình về sản xuất nông nghiệp, Xã xác định sản xuất
nông nghiệp là thế mạnh nên quy hoạch sản xuất theo hƣớng nông
nghiệp đô thị, từ đó Xã tập trung củng cố lại các tổ hợp tác sản xuất,
khuyến khích nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, các mô hình mới đƣợc hình thành
nhƣ: trồng rau theo hƣớng an toàn, trồng xoài theo quy trình
VIETGAP, nuôi gia súc, gia cầm tập trung theo mô hình trang trại bảo
vệ môi trƣờng, vận động nông dân đã chuyển đổi gần 100 ha đất trồng
lúa sang trồng cây ăn trái và trồng màu. Bên cạnh đó, Xã cũng khuyến
khích nhân rộng các mô hình xản xuất thủ công và nghề truyền thống
nhƣ: đóng xuồng, đan lục bình, may mặc, ghế nhựa… góp phần giải
quyết việc làm hàng năm cho hơn 300 lao động.Từ đó “thu nhập của
ngƣời dân từng bƣớc nâng lên, đến cuối năm 2013, qua điều tra mức
thu nhập bình quân đã tăng lên 27 triệu đồng/ngƣời/năm” [3].
Tình hình phát triển thƣơng mại – dịch vụ của Xã từng bƣớc đi
lên, đã phát triển thêm 105 cơ sở kinh doanh trên các lĩnh vực, thu
ngân sách hàng năm điều tăng đặc biệt là các nguồn thu tại chỗ của xã
hàng năm từ 10 – 15%.
205
Hàng năm tỷ lệ hộ cận nghèo, hộ nghèo, ngƣ nghiệp mua bảo
hiểm y tế đều đạt chỉ tiêu, riêng năm 2014 hộ dân trên toàn xã mua
bảo hiểm y tế đạt 71,16%, thành viên hộ cận nghèo đã mua bảo hiểm
đạt 100%.
Có thể thấy rằng để đạt đƣợc những kết quả đáng tự hào đó là
sự có gắn của cả một hệ thống, sự đồng lòng của chính quyền địa
phƣơng và nhân dân, với những nổ lực và kết quả đạt đƣợc nhƣ trên
vào ngày 15 tháng 12 năm 2014 Hội đồng xét công nhận xã đạt chuẩn
nông thôn mới tỉnh Đồng Tháp tổ chức họp xét công nhận xã đạt
chuẩn nông thôn mới năm 2014.
Tuy nhiên, do điều kiện địa hình của Xã phức tạp, nhiều kênh
gạch nên khó khăn trong việc tập trung sản xuất quy mô lớn. Bên cạnh
đó, tập quán của nông dân quen làm ăn nhỏ lẻ nên khó cho việc định
hƣớng cho nông dân mô hình sản xuất tập trung có hiệu quả cao. Mặt
khác nông dân quen sản xuất nông nghiệp theo kiểu truyền thống,
chƣa mạnh dạn chuyển đổi mô hình canh tác và áp dụng khoa học kỹ
thuật tiên tiến.Việc thực hiện lồng ghép từ các dự án đầu tƣ nông
nghiệp với các địa phƣơng theo định hƣớng tái cơ cấu ngành nông
nghiệp nhằm nâng cao đời sống dân cƣ nông thôn vẫn chƣa đem lai
hiệu quả cao, do đầu tƣ dàn trải, mang tính chấp vá đối với kết cấu hạ
tầng ở khu vực nông thôn, nhất là các công trình giao thông nông
thôn. Sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, nền địa chất yếu, doanh nghiệp
lớn không nhiều, vốn ngân sách hạn hẹp, cho nên địa phƣơng còn một
số khó khăn, hạn chế nhất định cần phải tháo gỡ
2.2 Những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở xã
Hòa An
2.2.1. Tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới khó giữ
vững trong thời gian tới
Bảo vệ môi trƣờng là 1 trong 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí Quốc
gia về nông thôn mới với mục tiêu chung là: bảo vệ môi trƣờng, sinh
thái, cải thiện, nâng cao chất lƣợng môi trƣờng khu vực nông thôn.
Trong lĩnh vực môi trƣờng nông thôn có các nội dung nhƣ: tỷ lệ ngƣời
dân nông thôn đƣợc sử dụng nƣớc sinh hoạt hợp vệ sinh; tỷ lệ ngƣời
dân đƣợc sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh; số hộ dân nông thôn chăn nuôi
có chuồng trại hợp vệ sinh; thu gom, xử lý nƣớc thải, rác thải bảo đảm
theo quy định.
206
Trong những năm qua, Chƣơng trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới cùng nhiều chƣơng trình, dự án khác đã góp phần
tích cực cải thiện môi trƣờng nông thôn, nâng cao chất lƣợng cuộc
sống cho ngƣời dân trên địa bàn Xã. Tuy nhiên, đây là một trong
những tiêu chí khó thực hiện và giữ vững khi xây dựng nông thôn mới.
Lƣợng rác thải sản xuất và sinh hoạt tại khu vực thải ra hằng ngày
không hề nhỏ. Trong thành phần rác thải có nhiều vật khó phân huỷ
nhƣ túi ni non, đặc biệt là các bao bì và vỏ chai lọ thuốc bảo vệ thực
vật... Do địa hình phức tạp, dân cƣ sống không tập trung nên việc thu
gom, xử lý rác thải tại khu vực gặp nhiều trở ngại. Hầu hết các gia đình
tự xử lý rác thải của nhà mình bằng các biện pháp đơn giản nhƣ đốt,
chôn, thậm chí để vào một góc vƣờn rồi đốt. Không ít nơi ngƣời dân
tuỳ tiện xả rác thải sản xuất và sinh hoạt bừa bãi; làm chuồng trại gia
súc gần nơi ăn ở... gây ô nhiễm môi trƣờng, ảnh hƣởng xấu đến sức
khoẻ cộng đồng và bộ mặt nông thôn.
Hiện nay tỷ lệ hộ sử dụng nƣớc sạch hợp vệ sinh đạt 100%,
nhƣng chỉ có 40% số hộ dân sử dụng nƣớc sạch đáp ứng theo quy
chuẩn quốc gia trong khi tiêu chuẩn phải có đến 50%. Một số hộ dân
chƣa có ý thức trong chăn nuôi, để nƣớc thải rò rỉ ra kênh rạch, làm ảnh
hƣởng đến môi trƣờng. Chất thải sinh hoạt tại chợ Xã tuy đƣợc tổng vệ
sinh, khai thông cống rãnh, ngƣời dân khu vực chợ có đăng ký cho đội
thu gom rác để đúng nơi quy định, nhƣng việc thu gom rác thải sinh
hoạt mới chỉ đƣợc tập kết tại bãi rác của địa phƣơng chứ chƣa đƣợc xử
lý, một số hộ dân thiếu ý thức đổ rác thải bừa bãi xuống kênh rạch, ảnh
hƣởng đến môi trƣờng nƣớc, sức khỏe của ngƣời dân.
Ngay cả việc thu gom, xử lý rác thải tại trung tâm Xã cũng còn
nhiều bất cập, nhƣ: nguồn kinh phí eo hẹp, thiếu nhân lực, chƣa có
phƣơng tiện chuyên dụng để thu gom rác thải, không có quỹ đất để
xây dựng bãi chứa rác hợp vệ sinh. Số lƣợng hộ dân có nhà cặp sông,
rạch còn nhiều, ảnh hƣởng vẻ mỹ quan và vệ sinh môi trƣờng.
2.2.2. Tiêu chí xây dựng cơ sở vật chất văn hóa
Sau 4 năm triển khai xây dựng nông thôn mới, bộ mặt Xã đã có
nhiều khởi sắc. Cơ sở vật chất đƣợc chú trọng đầu tƣ, trong đó nhà
văn hóa, sân thể thao đƣợc xây mới khang trang. Nếp sống văn hóa
hiện hữu, làng quê rộn ràng lời ca tiếng hát, đời sống tinh thần của
nhân dân chuyển biến rõ rệt. Đến hết tháng 12/2014, Xã đƣợc công
207
nhận Xã đạt chuẩn nông thôn mới. Góp phần vào thành tích chung đó
có sự nỗ lực lớn của ngành văn hóa, thể thao và du lịch..
Thế nhƣng, dù đã đạt đƣợc những thành tích đáng ghi nhận ,
nhƣng hầu hết các công trình vẫn còn nhiều hạn chế cả về diện tích
cũng nhƣ chất lƣợng; đáng chú ý là về trang thiết bị nhà văn hóa của
Xã còn thiếu khá nhiều, các công trình phụ trợ hầu nhƣ chƣa có.
văn hóa chƣa đƣợc khai thác triệt để, ít ngƣời vào sinh hoạ
ớ
ịnh có 02 nguyên nhân dẫn đến điều
-
ộ
chuyên
Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển. Nếu
chúng ta chỉ chú ý xây dựng bộ mặt nông thôn nhƣ: đƣờng sá, nhà cửa,
cơ sở vật chất… ngày càng khang trang hơn mà không coi trọng việc
xây dựng con ngƣời, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của Nhân dân
thì khó có một nông thôn mớ
ởi vậy, tập
trung nguồn lực, có kế hoạch dài để thực hiện tốt các tiêu chí văn hoá
trong xây dựng nông thôn mới là việc làm cấp bách, cần sự vào cuộc
của các cấp uỷ Ðảng, chính quyền và toàn thể Nhân dân.
3. Kết luận
Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế là một quá
208
trình lâu dài, giải quyết đồng bộ và toàn diện với nhiều nội dung liên
quan đến phát triển nền nông nghiệp hiện đại.
Đối với Đồng Tháp nói chung và xã Hòa An nói riêng, nông
thôn là địa bàn quan trọng không chỉ bảo đảm cho sự phát triển bền
vững của ngƣời dân tại địa phƣơng, mà còn ảnh hƣởng đến sự phát
triển chung của cả nƣớc. Vì vậy, xây dựng xã Hòa An trở thành xã
nông thôn mới phát triển theo hƣớng bền vững là yêu cầu cấp thiết
hiện nay. Nhƣng để đáp ứng đƣợc yêu cầu này, chính quyền địa
phƣơng cần có những quan tâm thích đáng, nhanh chóng khắc phục
những vấn đề còn tồn tại nhƣ vấn đề môi trƣờng tiêu chí xây dựng cơ
sở vật chất văn hóa khó đƣợc giữ vững. Công cuộc xây dựng nông
thôn mới tuy khó khăn, song kết quả đạt đƣợc từ những năm qua
không phải nhỏ, nhất là khi Xã đƣợc công nhận nông thôn mới, trong
thời gian qua xã đạt đƣợc những thành tựu nỗi bật nhƣ công tác vận
động tuyên truyền về nông thôn mới ngày càng đƣợc thực hiện một
cách có trọng tâm; tình hình sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển sản
xuất nông nghiệp và phát triển thƣơng mại – dịch vụ đƣợc quan tâm
đầu tƣ, bƣớc đầu của xã sẽ là bài học kinh nghiệm quý báu trong tiến
trình xây dựng nông thôn mới cho các xã còn lại của Tỉnh.
Tài liệu tham khảo
[1]. Ban Chỉ đạo Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn
mới tỉnh Đồng Tháp, báo cáo thực hiện kế hoạch 12 tháng năm 2011
và báo cáo kết quả 04 năm thực hiện nông thôn mới, tháng 12 năm
2014.
[2]. Ban Chỉ đạo Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn
mới tỉnh Đồng Tháp, Báo cáo kết quả thực hiện Chƣơng trình MTQG
xây dựng nông thôn mới của xã Hòa An, xã điểm do Chủ tịch nƣớc
bảo trợ năm 2013 và kế hoạch năm 2014.
[3]. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, báo cáo kết quả thực hiện
kế hoạch 12 tháng năm 2013 ngành nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Đồng Tháp.
[4]. Trang Thông tin điện tử Nông thôn mới tỉnh Đồng Tháp.
[5].http://nongthonmoi.gov.vn/vn/tintuc/Lists/vanhoaxahoi/View_Detai
l.aspx?ItemID=
[6]. http://www.tuyengiao.vn/Home/MagazineContent?ID=1424
209
NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ
NHẤT KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC XÃ
HỘI, TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
SV: Võ Thị Thu Biên - Nguyễn Thanh Phong
Đinh Thị Ngọc Ngân - Lê Hoài Nam
Lớp: ĐHCTXH14
GVHD: ThS. Kiều Văn Tu
Tóm tắt: Qua bài nghiên cứu tìm hiểu về khó khăn tâm lý của sinh
viên năm nhất hầu như các sinh viên mới lên còn bỡ ngỡ với môi
trường đại học nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp thu các kiến
thức cũng như hình thức học tập ở môi trường này. Bài báo cáo cũng
đã nêu lên một số cái khó khăn mà sinh viên năm nhất gặp phải, và
đưa ra một số biện pháp giúp đỡ các bạn sinh viên năm nhất có được
tâm lý tốt hơn khi bước vào nền giáo dục mới.
Từ khóa: Khó khăn, khó khăn tâm lý, sinh viên năm thứ nhất.
1. Mở đầu
Sinh viên năm thứ nhất ở Khoa GDCT&CTXH, đa số họ là
những ngƣời vừa rời khỏi ghế trƣờng phổ thông, nên rất bỡ ngỡ, lạ
lẫm với môi trƣờng học tập mới với nội dung, cách thức và phƣơng
pháp dạy học ở đại học. Các bạn điều mới đổ đƣợc đại học, tâm lý hài
lòng thỏa mãn trên chiến thắng vẫn chƣa dứt khỏi đƣợc, đặc biệt áp
lực lớp 12 quá lớn khiến nhiều bạn phải hi sinh cho niềm vui sở thích
để quyết tâm đạt đƣợc mục tiêu, để bù đắp lại quãng đƣờng đó nhiều
tân sinh viên tự cho phép năm nhất của mình là thời gian xã stress
nhƣng rồi lại rơi vào tâm trạng chán nản, bế tắc. Mặt khác, sinh viên
đƣợc tập trung từ nhiều môi trƣờng, hoàn cảnh sống khác nhau dẫn
đến việc sinh viên đã gặp không ít khó khăn tâm lý trong hoạt động
học tập. Vì vậy, vấn đề đặt ra là tìm các biện pháp tác động phù hợp,
tháo gỡ khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập, đẩy nhanh quá trình
thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất là việc
làm cần thiết.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Nhóm tác giả đã sử dụng phƣơng pháp
nghiên cứu định lƣợng và tổng hợp các tài liệu thứ cấp. Bảng khảo sát
đƣợc thiết kế với những câu hỏi đóng với 3 mức độ : có khó khăn,
không có khó khăn và rất khó khăn. Số lƣợng khảo sát là 58 sinh viên
210
năm nhất (khóa 2014) Khoa GDCT và CTXH. Cách xử lý số liệu chủ
yếu là dùng thống kê mô tả thông qua bảng số liệu.
Các yếu tố về mẫu khảo sát đƣợc thể hiện trong bảng 1.
Bảng 1: Thông tin về mẫu khảo sát
Ngành
GDCT
Ngành
CTXH Nam Nữ
Sinh
năm
1996
Sinh năm
trƣớc
1996
Tổng số
sinh viên
đƣợc khảo
sát
Số
lƣợng 27 21 21 37 43 15 58
2. Nội dung chính
2.1. Khái quát khó khăn về tâm lý
Theo từ điển tiếng Việt căn bản thì: khó khăn có nghĩa là sự trở
ngại hoặc sự thiếu thốn [36, tr.357].
Theo từ điển láy Việt thì khó khăn nghĩa là có nhiều trở ngại
làm mất nhiều công sức. [11; 201]
Trong từ điển Anh - Việt thì từ "Hardship" hoặc từ "difficulty"
đều đƣợc dùng chỉ sự khó khăn, sự gây go, sự khắc nhiệt đòi hỏi nhiều
nỗ lực để khắc phục. [37, tr.485]
Nhƣ vậy, qua các từ điển nói trên khi bàn về khó khăn, cho phép
chúng ta hiểu khó khăn là những sự gay go, sự khắc nhiệt, sự thiếu
thốn... gây ra những trở ngại đòi hỏi nhiều nỗ lực để vƣợt qua.
KKTL là toàn bộ những nét tâm lý của cá nhân, nẩy sinh ở chủ
thể trong quá trình hoạt động không phù hợp (gây cản trở) với những
yêu cầu đặc trƣng của một hoạt động nhất định, làm ảnh hƣởng xấu tới
tiến trình và kết quả của hoạt động đó.
2.2. Những khó khăn về tâm lý của sinh viên năm nhất
2.2.1. Những KKTL trong kỹ năng chuẩn bị bài trước khi lên lớp
Qua khảo sát 58 sinh viên thì có 54 sinh viên trả lời câu hỏi về
những khó khăn khi chuẩn bị bài trƣớc khi lên lớp.
211
+ Có khó khăn: Thì số sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi làm việc
độc lập với sách, tài liệu là 44 sinh viên. Số sinh viên trả lời thấp nhất
ở câu hỏi chuẩn bị bài trƣớc khi lên lớp là 24 sinh viên. Số sinh viên
trả lời mức độ trung bình ở câu hỏi chuẩn bị và tiến hành xemina và
kiểm tra, đánh giá là 30 sinh viên
+ Không có khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi chuẩn bị bài
trƣớc khi lên lớp là 33 sinh viên. Sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi
làm việc độc lập với sách, tài liệu là 14 sinh viên. Sinh viên trả lời
mức độ trung bình ở câu hỏi ghi chép, tiếp thu bài giảng là 19 sinh
viên.
+ Rất khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi chuẩn bị và tiến
hành xemina là 11 sinh viên. Sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi ghi
chép, tiếp thu bài giảng và làm việc đọc với sách và tài liệu không có
sinh viên nào trả lời câu hỏi này. Sinh viên trả lời mức độ trung bình ở
câu hỏi kiểm tra, đánh giá là 6 sinh viên (chi tiết đƣợc thể hiện trong
bảng 2).
Bảng 2: KKTL trong kỹ năng chuẩn bị bài trƣớc khi lên lớp
CÓ KK KHÔNG RẤT KK
Ghi chép, tiếp thu bài giảng 39 19 0
Ôn tập, hệ thống hoá tri thức. 37 15 4
Chuẩn bị bài trƣớc khi lên lớp. 24 33 1
Tự sắp xếp thời gian học tập. 25 27 4
Làm việc độc lập với sách, tài liệu. 44 14 0
Chuẩn bị và tiến hành xemina. 30 17 11
Kiểm tra, đánh giá. 30 22 6
2.2.2 KKTL trong kỹ năng ghi chép và tiếp thu bài giảng của sinh viên
Bảng 3: KKTL trong kỹ năng ghi chép và tiếp thu bài giảng của sinh
viên
212
CÓ
KK KHÔNG
RẤT
KK
+ Vừa nghe giảng, vừa tự ghi theo ý hiểu
của mình. 22 36 0
+ Ghi những ý quan trọng 21 37 0
+ Đánh dấu vào những phần thầy nhấn
mạnh để lƣu ý khi học 19 38 0
+ Viết tắt và sử dụng ký hiệu riêng. 15 40 2
+ Tự hệ thống hoá các đề mục một cách
rõ ràng. 43 14 1
Dựa vào bảng 3 ta thấy:
+ Có khó khăn: Số sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi tự hệ thống hóa
các đề mục một cách rõ ràng là 43 sinh viên. Số sinh viên trả lời thấp
nhất ở câu hỏi viết tắt và sử dụng ký hiệu riêng là 15 sinh viên. Số
sinh viên trả lời mức độ trung bình ở câu hỏi ghi những ý quan trọng
là 21 sinh viên
+ Không có khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi viết tắt và
sử dụng ký hiệu riêng là 40 sinh viên. Sinh viên trả lời thấp nhất ở
câu hỏi tự hệ thống hóa các đề mục mốt cách rõ ràng là 14 sinh viên.
Sinh viên trả lời mức độ trung bình ở câu hỏi vừa nghe giảng vừa tự
ghi theo ý mình là 36 sinh viên.
+ Rất khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi viết tắt và sử dụng
ký hiệu riêng là 2 sinh viên. Sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi vừa
nghe giảng vừa tự ghi theo ý của mình không có sinh viên nào trả lời
câu hỏi này. Số sinh viện trả lời mức độ trung bình ở câu hỏi tự hệ
thống hóa một cách rõ ràng là 1 sinh viên.
213
2.2.3. KKTL trong việc tự học, sắp xếp thời gian học tập, làm việc với
sách và tài liệu của sinh viên của sinh viên.
Bảng 4: KKTL trong việc tự học và sắp xếp thời gian học tập của sinh
viên.
CÓ KK KHÔNG RẤT
KK
+ Phân phối thời gian cân đối giữa
học tập và các hoạt động khác. 41 14 3
+ Xây dựng kế hoạch cụ thể và nỗ
lực thực hiện kế hoạch đó 31 22 5
+ Tiết kiệm thời gian, hạn chế thời
gian chết 38 19 1
+ Có khó khăn: Số sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi Phân
phối thời gian cân đối giữa học tập và các hoạt động khác là 41 sinh
viên. Số sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi xây dựng kế hoạch cụ thể
và nỗ lực thực hiện kế hoạch đó là 31 sinh viên. Số sinh viên trả lời
mức độ trung bình ở câu hỏi tiết kiệm thời gian, hạn chế thời gian
chết là 38 sinh viên.
+ Không có khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi xây
dựng kế hoạch cụ thể và nỗ lực thực hiện kế hoạch đó là 22 sinh viên.
Sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi phân phối thời gian cân đối giữa
học tập và các hoạt động khác là 14 sinh viên. Sinh viên trả lời mức
độ trung bình ở câu hỏi tiết kiệm thời gian, hạn chế thời gian chết là
19 sinh viên.
+ Rất khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi xây dựng kế
hoạch cụ thể và nỗ lực thực hiện kế hoạch đó là 5 sinh viên. Sinh viên
trả lời thấp nhất ở câu hỏi tiết kiệm thời gian, hạn chế thời gian chết là 1
sinh viên. Số sinh viên trả lời mức độ trung bình ở câu hỏi phân phối
thời gian cân đối giữa học tập và các hoạt động khác là 3 sinh viên.
214
Bảng 5: KKTL khi làm việc với sách và tài liệu của sinh viên.
CÓ KK KHÔNG RẤT
KK
+ Đọc sơ qua một lƣợt rồi mới đọc
kỹ toàn bộ. 25 29 4
+ Đọc sách kết hợp với ghi chép
những điều cần thiết. 23 34 1
+ Đọc và tóm tắt những thông tin
quan trọng cần cho chuyên ngành. 36 18 2
+ Biết tổng hợp chọn lọc kiến thức
từ nhiều sách khác nhau. 41 12 4
Có 41 sinh viên trả lời ở câu hỏi biết tổng hợp chọn lọc kiến thức từ
nhiều sách khác nhau là có khó khăn
Có 34 sinh viên trả lời đọc sách kết hợp với ghi chép những điều cần
thiết là không có khó khăn.
2.2.4. KKTL trong kỹ năng chuẩn bị và tiến hành xemina, kỹ năng tiến
hành kiểm tra, đánh giá của sinh viên
Bảng 6: KKTL trong kỹ năng chuẩn bị và tiến hành xemina của sinh viên
CÓ KK KHÔNG RẤT
KK
+ Chuẩn bị đề cƣơng xemina với cấu
trúc hợp lý. 45 6 7
+ Biết sắp xếp cấu trúc và trình bày
một vấn đề một cách khoa học theo
quan điểm của mình.
34 21 3
+ Diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, lập luận
chặt chẽ, tác phong tự tin trƣớc tập
thể.
39 15 4
215
+ Hƣớng cuộc thảo luận đi theo đúng
chủ đề chính. 35 23 0
+ Biết phân tích, phê phán các quan
điểm thiếu khoa học trƣớc tập thể. 32 23 2
Với câu hỏi chuẩn bị đề cƣơng xemina với cấu trúc hợp lý là 45 sinh
viên trả lời là có khó khăn.
Có 23 Sinh viên không có khó khăn ở nội dung hỏi biết phân tích, phê
phán các quan điểm thiếu khoa học trƣớc tập thể.
Bảng 7: Những khó khăn về kỹ năng tiến hành kiểm tra, đánh giá
của sinh viên.
CÓ KK KHÔNG RẤT
KK
+ Chuẩn bị tâm thế sẵn sàng trƣớc
giờ kiểm tra 27 29 2
+ Bình tĩnh đọc và phân tích đề trƣớc
khi làm bài. 27 28 3
+ Lập dàn ý, phân bổ thời gian hợp lý
cho từng câu hỏi. 33 22 3
+ Dành một lƣợng thời gian nhất định
để xem lại bài trƣớc khi nộp. 22 34 2
+ Tự đánh giá và rút kinh nghiệm cho
bản thân sau mỗi giờ kiểm tra. 22 32 4
+ Có khó khăn: Số sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi lập dàn ý,
phân bổ thời gian hợp lý cho từng câu hỏi là 33 sinh viên. Số sinh
viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi tự đánh giá và rút kinh nghiệm cho
bản thân sau mỗi giờ kiểm tra là 22 sinh viên. Số sinh viên trả lời
mức độ trung bình ở câu hỏi chuẩn bị tâm thế sẵn sàng trƣớc giờ
kiểm tra là 27 sinh viên.
216
+ Không có khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi dành một
lƣợng thời gian nhất định để xem lại bài trƣớc khi nộp là 34 sinh viên.
Sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi lập dàn ý, phân bổ thời gian hợp
lý cho từng câu hỏi là 22 sinh viên. Sinh viên trả lời mức độ trung
bình ở câu hỏi bình tĩnh đọc và phân tích đề trƣớc khi làm bài là 28
sinh viên.
+ Rất khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi Tự đánh giá và
rút kinh nghiệm cho bản thân sau mỗi giờ kiểm tra là 4 sinh viên.
Sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi chuẩn bị tâm thế sẵn sàng trƣớc
giờ kiểm tra là 2 sinh viên. Số sinh viên trả lời mức độ trung bình ở
câu hỏi lập dàn ý, phân bổ thời gian hợp lý cho từng câu hỏi là 3
sinh viên
2.2.5. Nguyên nhân của những khó khăn
Kết quả khảo sát cho thấy có 2 nguyên nhân chính là nguyên nhân
chủ quan và nguyên nhân khách quan dẫn đến khó khăn tâm lý của
sinh viên, đƣợc thể hiện chi tiết trong bảng 8.
NGUYÊN NHÂN ĐÖNG SAI KHÔNG
BIẾT
Nhóm nguyên nhân khách quan:
- Do phƣơng pháp giảng dạy của thầy,
cô chƣa phù hợp. 9 30 19
- Do ít đƣợc hƣớng dẫn về phƣơng
pháp học tập. 24 24 10
- Do ảnh hƣởng của cách dạy cũ ở phổ
thông. 40 15 3
- Do thiếu sách, giáo trình, tài liệu
tham khảo. 30 23 4
- Lƣợng tri thức phải tiếp thu ở trƣờng
ĐH,là quá lớn. 40 11 7
- Do tính chất học tập ở trƣờng ĐH. 17 25 12
217
Nhóm nguyên nhân chủ quan:
- Do lực học của bản thân. 44 12 1
- Do SV chƣa quen với môi trƣờng
học tập mới và phƣơng pháp dạy học
mới.
49 19 0
- Do rụt rè, nhút nhát không chịu học
hỏi. 39 15 4
- Do SV chƣa có ý thức học tập. 41 17 0
- Do động cơ chọn nghề của SV. 36 20 1
- Do bản thân chƣa có phƣơng pháp
học tập hợp lý. 52 4 1
- Do thiếu kinh nghiệm sống, hoạt
động học tập một cách độc lập. 42 8 4
- Do sinh viên sắp xếp thời gian không
khoa học 49 7 2
- Có nhiều việc khác phải làm 33 23 2
- Dựa vào bảng trên ta thu đƣợc kết quả từ nhóm nguyên nhân khách
quan:
Qua khảo sát thì có 53 sinh viên trả lời câu hỏi trên.
+ Đúng : Có 40 sinh viên trả lởi do ảnh hƣởng của cách dạy cũ
ở phổ thông.
+ Sai: Có 30 Sinh viên trả lời do phƣơng pháp giảng dạy của
thầy, cô chƣa phù hợp.
+ Không biết: Có 19 ý kiến trả lời do phƣơng pháp giảng dạy
của thầy, cô chƣa phù hợp.
- Dựa vào bảng trên ta thu đƣợc kết quả từ nhóm nguyên nhân chủ
quan:
218
Qua khảo sát thì có 51 sinh viên trả lời câu hỏi trên.
+ Đúng : Có 52 sinh viên trả lởi do bản thân chƣa có phƣơng
pháp học tập hợp lý. Số sinh viên trả lời do động cơ chọn nghề của SV
là 36 sinh viên
+ Sai: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi có nhiều việc khác
phải làm là 23 sinh viên.
+ Không biết: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi do thiếu kinh
nghiệm sống, hoạt động học tập một cách độc lập là 4 sinh viên. Sinh
viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi do sinh viên sắp xếp thời gian không
khoa học là 2 sinh viên. Số sinh viên trả lời mức độ trung bình ở câu
hỏi do SV chƣa có ý thức học tập không có sinh viên nào trả lời câu
hỏi này.
3. Kết luận và khuyến nghị
Chất lƣợng đào tạo nói chung và kết quả học tập nói riêng của
sinh viên năm nhất không chỉ phụ thuộc vào việc tổ chức giảng dạy
của nhà trƣờng, mà còn liên quan tới việc phát hiện, khắc phục
những KKTL nảy sinh trong quá trình học tập của sinh viên.
Việc khảo sát những khó khăn gặp phải của sinh viên năm thứ
nhất cũng là giải pháp giúp sinh viên nhận ra những khó khăn gặp
phải trong quá trình học tập và có các giải pháp để khắc phục những
hạn chế gây ra bởi những khó khăn tâm lý.
Trong phạm vi của cuộc khảo sát, chúng tôi chỉ nêu ra những
con số, chúng tôi chƣa bình luận về ý nghĩa của những con số này vì
đây cũng là những khó khăn của chúng tôi gặp phải trong quá trình
học tập. Khảo sát này có thể làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp
theo của nhóm tác giả.
Nhóm tác giả đƣa ra một vài khuyến nghị đối với sinh viên nhƣ sau:
- Cần ý thức đƣợc tầm quan trọng của hoạt động học tập, từ đó tích
cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động học tập nhằm hoàn thành tốt
nhiệm vụ học tập.
- Luôn luôn có tinh thần học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với bạn
bè, các anh chị khoá trƣớc, thầy cô để tìm ra phƣơng pháp học tập hợp
lý cho bản thân.
219
- Tham gia đầy đủ các hoạt động đoàn thể do nhà trƣờng,
khoa… tổ chức. Tích cực rèn luyện các kỹ năng của hoạt động và các
phẩm chất nhân cách nhằm hoàn thiện nhân cách của bản thân.
- Sẵn sàng đón nhận thử thách, khó khăn và tích cực nỗ lực tìm
cách khắc phục những khó khăn đó.
Tài liệu tham khảo
[1]. Tô thị Anh và Nguyễn thị Bích Hồng - Tâm lý lứa tuổi –
NXBGD, 1994.
[2]. Nguyễn Anh Tuyết – Tâm lý học trẻ em – NXBGD, 1998.
[3]. Vũ thị Nho – Tâm lý học phát triển – NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 1999.
[4]. Dƣơng Thị Diệu Hoa, Sách điện tử, Tâm lý học phát triển,
nguồn Tailieu.vn
[5]. Website: www.thamvantamly.net
220
MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG THỰC HÀNH THỰC TẬP
CÔNG TÁC XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
SV: Nguyễn Văn Tới
Lớp: ĐHCTXH11
GVHD: ThS. Trần Kim Ngọc
Tóm tắt: Công tác xã hội (CTXH) là một ngành khoa học ứng dụng,
do vậy đào tạo CTXH là đào tạo tay nghề chứ không phải đào tạo
khoa học hàn lâm. Vì vậy vấn đề thực hành thực tập luôn được các cơ
sở đào tạo quan tâm và xem là nội dung then chốt trong chương trình
đào tạo. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiệu quả
thực hành thực tập của sinh viên hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Bài
viết trình bài khái quát một số khó khăn và khuyến nghị góp phần
nâng cao chất lượng thực hành thực tập của sinh viên công tác xã hội
Trường Đại học Đồng Tháp.
Từ khóa: Công tác xã hội, Thực hành thực tập.
1. Mở đầu
Thực hành thực tập CTXH là cơ hội để sinh viên rèn luyện kỹ
năng nghề nghiệp, tích lũy kinh nghiệm làm việc thực tế. Tuy nhiên
thời gian qua hiệu quả thực hành thực tập CTXH của một số sinh viên
vẫn còn nhiều hạn chế làm ảnh hƣởng đến kỹ năng chuyên môn cũng
nhƣ cơ hội nghề nghiệp của các em sau khi ra trƣờng. Qua nghiên cứu
thực tế thời gian qua, tác giả nhận thấy trong thực hành thực tập CTXH
ở Trƣờng Đại học Đồng Tháp còn gặp một số khó khăn nhƣ: cơ sở thực
hành chƣa đảm bảo yêu cầu, thiếu sự liên kết giữa nhà trƣờng và cơ sở
thực hành thực tập, trình độ chuyên môn của kiểm huấn viên cơ sở còn
hạn chế, thiếu sự tƣơng tác giữa giảng viên và sinh viên và đôi khi
thuộc về chính bản thân sinh viên. Từ những khó khăn này, tác giả
mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực
hành thực tập CTXH của sinh ngành CTXH, Trƣờng Đại học Đồng
Tháp trong thời gian tới.
2. Nội dung chính
2.1. Một số khó khăn trong thực hành thực tập Công tác xã hội
CTXH là một ngành học có nhiều cơ hội tiếp xúc và làm việc
thực tế, trong chƣơng trình đào tạo của ngành có đến 2 môn học
thực tế, 2 môn học thực hành và 1 môn học thực tập. Với lƣợng
221
môn học thực tế nhiều sẽ là điều kiện thuận lợi giúp sinh viên đƣợc
tập dƣợc và phát triển kỹ năng nghề của mình. Trong những năm
gần đây, việc thực hành thực tập CTXH diễn ra ở các xã/ phƣờng,
trung tâm xã hội, trƣờng học và tập trung vào các đối tƣợng nhƣ: trẻ
em mô côi, lang thang, cơ nhỡ; trẻ em vi phạm pháp luật; ngƣời cao
tuổi; cộng đồng nghèo…CTXH là một trong những ngành học có
đối tƣợng làm việc rất đa đạng từ cá nhân, nhóm cho đến cộng
đồng. Đối tƣợng của CTXH là những con ngƣời có “vấn đề”, gặp
khó khăn hay trục trặc trong việc thực hiện các chức năng xã hội
của mình. Làm việc với những đối tƣợng có “vấn đề” không dễ
dàng, đòi hỏi sinh viên phải đảm bảo nhiều yếu tố từ kiến thức
chuyên môn cho đến môi trƣờng thực hành thực tập phù hợp. Mặc
dù đƣợc sự quan tâm, hỗ trợ của thầy cô nhƣng việc thực hành thực
tập trên thực tế vẫn còn tồn tại những khó khăn, hạn chế nhất định.
Thứ nhất là về cơ sở thực hành thực tập
Hiện tại trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp và các tỉnh lân cận số
lƣợng các cơ sở chuyên nghiệp đảm bảo tốt yêu cầu chuyên môn cho
sinh viên có thể thực hành thực tập còn ít, chƣa thể đáp ứng đủ nhu
cầu thực hành thực tập của một lƣợng lớn sinh viên. Mặt khác, một số
cơ sở thực hành thực tập chƣa đảm bảo cho sinh viên có môi trƣờng
thực tập hiệu quả bởi đa phần cơ sở vật chất của các cơ sở thực hành
thực tập chƣa đảm bảo, phần lớn chƣa có phòng để thực hiện các kỹ
thuật nhƣ tham vấn cá nhân, tham vấn nhóm, sinh hoạt nhóm, truyền
thông…Chủ yếu sinh viên phải tận dụng những địa điểm sẵn có để
thực hành nhƣ phòng họp, hội trƣờng, hành lang, ghế đá… trong khi
đó, lý thuyết đã đƣợc học thì cuộc tham vấn hay các buổi sinh hoạt,
họp dân muốn đạt hiệu quả thì phải diễn ra trong không gian phù hợp
(không quá rộng, phải bảo đảm sự yên tĩnh và kín đáo) còn khi thực
hành thì lại làm việc với không gian hoàn toàn ngƣợc lại. Điều này
làm cho việc thực hành thực tập các kỹ năng đã đƣợc học không thể
diễn ra theo ý muốn, sinh viên và thân chủ của mình thƣờng bị chi
phối bởi môi trƣờng xung quanh nên ảnh hƣởng đến hiệu quả của mỗi
phiên làm việc.
Thứ hai là về mạng lƣới liên kết giữa nhà trƣờng và cơ sở
thực hành thực tập
Sự hợp tác giữa nhà trƣờng với các cơ sở cung cấp dịch vụ trợ
giúp chƣa chặt chẽ nên sự chia sẻ thông tin, tài liệu, kinh nghiệm còn
hạn chế. Mặt khác một số cơ sở tiếp nhận sinh viên dựa nhiều vào mối
222
quan hệ giữa cơ sở và sinh viên hay giữa cơ sở với các giáo viên mà
chƣa có mạng lƣới chính thức giữa nhà trƣờng và các cơ sở thực hành
thực tập đƣợc thể hiện qua hợp đồng kiểm huấn. Do chƣa có văn bản
pháp lý qui định cụ thể trách nhiệm của mỗi bên trong việc đảm bảo các
tiêu chí đánh giá chất lƣợng của thực hành thực tập nên nhiều cơ sở ít
quan tâm đến chất lƣợng kiểm huấn, đôi khi phó mặc cho sinh viên tự
thực hiện nhiệm vụ của mình. Điều này làm cho sinh viên trở nên đơn
độc và không nhận đƣợc nhiều sự tƣ vấn hỗ trợ từ kiểm huấn viên.
Thứ ba là về kiểm huấn viên tại cơ sở thực hành thực tập
Kiểm huấn viên tại cơ sở thực hành thực tập vừa thiếu về số
lƣợng và yếu cả về chất lƣợng, phần lớn không qua đào tạo về CTXH
nhƣng lại là ngƣời chịu trách nhiệm hƣớng dẫn về mặt chuyên môn
cho sinh viên. Điều này gây khó khăn cho cả kiểm huấn viên và sinh
viên. Chính vì vậy, kiểm huấn viên tại cơ sở thực hành thực tập
thƣờng để sinh viên tự chủ mọi công việc, trong khi đó các em rất cần
sự hỗ trợ, tƣ vấn về chuyên môn. Điều này làm ảnh hƣởng rất lớn đến
hiệu quả thực hành thực tập cũng nhƣ là việc tích lũy kinh nghiệm,
hình thành kỹ năng nghề nghiệp sau mỗi đợt thực hành thực tập.
Thứ tƣ là về giảng viên hƣớng dẫn
Cùng với kiểm huấn viên ở cơ sở, giảng viên hƣớng dẫn cũng
là ngƣời đồng hành cùng sinh viên trong quá trình thực hành thực tập
nhƣng trên thực tế do nhiều nguyên nhân khách quan mà sự tƣơng tác
trực tiếp giữa sinh viên và giảng viên chƣa đƣợc thƣờng xuyên và liên
tục. Giảng viên phải thực hiện nhiều nhiệm vụ, từ việc giảng dạy,
nghiên cứu cho đến hƣớng dẫn hàng chục sinh viên thực hành thực
tập, trong khi đó một số bạn sinh viên vẫn có tâm lý ngại hỏi, ngại nhờ
sự hƣớng dẫn của thầy cô nên khi gặp những khó khăn trong việc thực
hành thực tập các bạn rất khó tìm đƣợc hƣớng giải quyết hay cách làm
tối ƣu cho trƣờng hợp mà mình đảm nhận.
Thứ năm là về bản thân sinh viên
Sinh viên là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến thành công
hay thất bại của việc thực hành thực tập trong CTXH. Mặc dù đa phần
các bạn sinh viên đều nhận thức đƣợc học CTXH để hỗ trợ cho những
nhóm ngƣời yếu thế, những ngƣời gặp phải những vấn đề xã hội, điều
này ngoài cái tâm, lòng yêu nghề của ngƣời sinh viên thì phải cần trình
độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều
bạn sinh viên xem nhẹ việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp. Có thể nói
223
thực hành thực tập là cơ hội, là điều kiện vô cùng thuận lợi để sinh viên
làm việc với các thân chủ có “vấn đề” thật sự, nhƣng trên thực tế vẫn
còn nhiều bạn chƣa có sự quan tâm đúng mức cho việc thực hành thực
tập của bản thân mình. Đa phần các bạn chỉ xem thực hành thực tập là
nhiệm vụ mà mình phải làm chứ chƣa đặt tâm huyết vào công việc, vẫn
còn một số sinh viên có thái độ dửng dƣng, thờ ơ, xem nhẹ, chƣa có sự
quan tâm, chuẩn bị chu đáo cho việc thực hành thực tập. Ý thức của
môt số bạn còn chƣa cao, các bạn còn thực hành thực tập để đối phó, vì
điểm số và mang nặng tính hình thức, thiếu đi sự đầu tƣ, vẫn còn tâm lý
trông chờ, ỷ lại vào một số cá nhân trong nhóm.
Một khó khăn khác mà hầu hết các bạn sinh viên đều gặp phải
đó chính là những khoản chi phí dành cho thực hành trong CTXH.
Trong suốt quá trình thực hành sinh viên phải chi trả mọi chi phí từ
phƣơng tiện đi lại để khảo sát cộng đồng, vãng gia, tổ chức sinh
hoạt…cho đến tiền thù lao cho kiểm huấn viên tại cơ sở thực hành,
chƣa kể nguồn lực để giúp đỡ cho thân chủ. Trong khi đó nhiều sinh
viên có điều kiện kinh tế khó khăn nên những khoản chi phí này tạo
thêm áp lực kinh tế cho các bạn, điều này cũng ít nhiều ảnh hƣởng đến
việc thực hành của các bạn tại cơ sở.
2.2. Một số khuyến nghị nhằm khắc phục khó khăn trong thực
hành thực tập Công tác xã hội 2.2.1. Đối với sinh viên
Thực hành thực tập là việc vận dụng lý thuyết đã đƣợc học vào
thực tiễn qua đó hình thành kỹ năng chuyên môn cho bản thân, do vậy
sinh viên cần nắm rõ lý thuyết đã đƣợc học để có thể áp dụng tốt vào
thực tế, phát triển tốt kỹ năng chuyên môn của bản thân. Các bạn sinh
viên nên chủ động tìm hiểu, củng cố lại các kiến thức đã học, đặc biệt
là kiến thức về các tiến trình phát triển cộng đồng, CTXH cá nhân,
CTXH nhóm và các kỹ thuật tham vấn cá nhân và nhóm.
Sinh viên cần nâng cao nhận thức, ý thức của bản thân về ý
nghĩa của thực hành thực tập, xem đó là cơ hội để rèn luyện, phát huy
chứ không chỉ đơn thuần là nghĩa vụ phải làm để đối phó. Bởi lẽ sau
khi ra trƣờng sinh viên phải làm việc với các đối tƣợng xã hội thực sự,
họ có những đặc điểm tâm lý phức tạp, nếu chúng ta không tận dụng tốt
những cơ hội thực hành thực tập để làm việc với các đối tƣợng xã hội
thì sau khi ra trƣờng chúng ta sẽ gặp lúng túng khi phải làm việc với
các đối tƣợng này.
224
Sinh viên cần có sự chuẩn bị chu đáo trƣớc khi đi thực hành
thực tập nhƣ: Chọn nhóm có sự phù hợp giữa các thành viên để phối
hợp với nhau một cách tốt nhất, kế hoạch thực hành thực tập thật cụ
thể và chi tiết, nêu rõ mục đích, nội dung công việc, tiến độ thực hiện,
yêu cầu cần đƣợc hỗ trợ…Do vậy các bạn phải thuyết minh một cách
rõ ràng những công việc mà các bạn cần làm và các bạn mong muốn cơ
sở hỗ trợ gì cho chúng ta…
Giao tiếp ứng xử tốt với kiểm huấn viên và giáo viên hƣớng
dẫn. Khi gặp những vấn đề cần sự trợ giúp thì sinh viên cần chủ động
liên hệ với giáo viên hƣớng dẫn, đồng thời phải làm báo cáo định kỳ
tiến độ thực hành thực tập cho giáo viên hƣớng dẫn. Sinh viên cần
nghiêm túc chấp hành qui định thực hành thực tập của giảng viên cũng
nhƣ là nội qui của nhóm để nhóm có môi trƣờng làm việc khoa học,
ổn định, nghiêm túc nhằm hƣớng đến hiệu quả công việc của cả nhóm.
2.2.2. Đối với giảng viên hướng dẫn
Giảng viên hƣớng dẫn là ngƣời rất quan trọng đối với sinh
viên, hỗ trợ sinh viên trong suốt quá trình thực hành thực tập. Để quá
trình thực hành thực tập thành công giảng viên hƣớng dẫn nên hỗ trợ
sinh viên tìm địa điểm phù hợp, định hƣớng cho sinh viên chọn những
cơ sở chuyên nghiệp, có kiểm huấn viên am hiểu về CTXH, giảng
viên nên thiết lập mối quan hệ với kiểm huấn viên tại cơ sở để phối
hợp tốt việc giám sát, quản lý cũng nhƣ là hỗ trợ tốt việc thực hành
thực tập của sinh viên. Giảng viên cũng nên giới hạn những địa điểm
thực hành thực tập, định hƣớng sinh viên chỉ nên chọn những cơ sở
thực hành thực tập có vị trí địa lí thuận lợi để giảng viên có thể dễ
dàng hỗ trợ khi cần thiết.
Đồng thời, giảng viên hƣớng dẫn nên dành nhiều thời gian hơn
để giám sát, hƣớng dẫn và hỗ trợ sinh viên khi cần thiết, tần suất gặp
mặt nhóm sinh viên định kỳ nên tăng lên ít nhất là một tuần một lần.
Ngoài ra giảng viên hƣớng dẫn nên tiếp xúc trực tiếp đối với các đối
tƣợng mà sinh viên thực hành thực tập thông qua việc tham dự những
buổi sinh hoạt nhóm, sinh hoạt chuyên đề…hay những buổi trò
chuyện với đối tƣợng đề đánh giá đƣợc tiến độ thực hành thực tập của
sinh viên, xác định lại những thông tin mà sinh viên đã báo cáo, kịp
thời nhận ra những thiếu xót và định hƣớng cho sinh viên điều chỉnh
phù hợp, nhằm giúp sinh viên nâng cao ý thức, làm việc nghiêm túc
trong quá trình thực hành thực tập CTXH, tránh trƣờng hợp thực hành
225
thực tập một cách hình thức và báo cáo không đúng sự thật kết quả
thực hành thực tập của mình.
2.2.3. Đối với Bộ môn Công tác xã hội
Bộ môn CTXH nên hợp tác nhiều hơn với những cơ quan, tổ
chức hay các công ty doanh nghiệp có lĩnh vực hoạt động liên quan
đến CTXH để sinh viên có cơ hội trở thành những tình nguyện viên,
những cộng tác viên, một mặt hỗ trợ tốt cho các tổ chức giúp đỡ cho
các đối tƣợng xã hội, mặt khác giúp sinh viên có cơ hội làm việc thực
tế năng cao kỹ năng nghề nghiệp. Cần ƣu tiên giới thiệu sinh viên đến
những cơ sở thực hành thực tập có cán bộ am hiểu về CTXH để giúp
quá trình kiểm huấn đƣợc hiệu quả.
Bộ môn CTXH nên tăng cƣờng các hoạt động liên kết với các
tổ chức đào tạo CTXH khác tiến hành tập huấn cho các kiểm huấn
viên của các cơ sở có sinh viên thực hành thực tập nhằm giúp kiểm
huấn viên tại cơ sở nắm vững các cơ sở để kiểm huấn, chức năng, tiến
trình kiểm huấn…để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm huấn của mình
nhằm giúp sinh viên có đƣợc kết quả tốt nhất đối với các môn học
thực hành thực tập.
Bộ môn cũng nên kiến nghị với nhà trƣờng có cơ chế phân
công giảng viên đảm nhận việc hƣớng dẫn thực hành thực tập của sinh
viên một cách hợp lý hơn, tránh trƣờng hợp một giảng viên phải đảm
nhận nhiều trách nhiệm cùng lúc, Cùng với đó nên có chính sách hỗ
trợ thêm cho giảng viên hƣớng dẫn thực hành thực tập và kiểm huấn
viên tại cơ sở cho tƣơng xứng với nhiệm vụ để động viên giảng viên
và kiểm huấn viên an tâm làm tốt nhiệm vụ của mình.
Bên cạnh đó Bộ môn nên xây dựng hợp đồng kiểm huấn với cơ
sở thực hành thực tập. Trong hợp đồng cần nêu rõ các nội dung nhƣ:
Mục tiêu của kiểm huấn, hình thức kiểm huấn, phƣơng pháp đánh giá,
quyền lợi và trách nhiệm của kiểm huấn viên, sinh viên và Bộ môn
CTXH nhằm cụ thể hóa quyền và trách nhiệm của của các bên. Kiến
nghị nhà trƣờng có chế độ thù lao phù hợp cho giảng viên và kiểm
huấn viên tại cơ sở thực hành thực tập.
3. Kết luận Từ việc phân tích, chỉ ra những khó khăn trong thực hành thực
tập của sinh viên ngành CTXH thuộc Khoa GDCT –CTXH, Trƣờng
Đại học Đồng Tháp có thể nhận thấy việc thực hành thực tập của sinh
viên còn gặp một số khó khăn nhất định gây ảnh hƣởng đến việc hình
thành và phát triển kỹ năng chuyên môn của sinh viên. Do vậy, để
226
quá trình thực hành thực tập đƣợc hiệu quả thì đòi hỏi phải có sự
tƣơng tác tích cực giữa giảng viên, sinh viên và cơ sở thực hành thực
tập, mỗi yếu tố đều phải đảm bảo vai trò và nhiệm vụ của mình nhằm
hƣớng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả thực hành thực tập góp phần
vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực CTXH chất lƣợng phục vụ cho
hệ thống an sinh xã hội của đất nƣớc.
Tài liệu tham khảo
[1]. Kathryn Geldard, David Geldard (2000), Công tác tham
vấn trẻ em, Đại học Mở - Bán công thành phố Hồ Chí Minh.
[2]. Grace Mathew (1999), Nhập môn Công tác xã hội cá
nhân, Đại học Mở - Bán công thành phố Hồ Chí Minh.
[3]. Nguyễn Thị Thái Lan (2008), Giáo trình Công tác xã hội
nhóm, Trƣờng Đại học Lao động – Xã hội.
[4]. Bùi Thị Xuân Mai (2008), Giáo trình Tham vấn, Nhà
xuất bản Lao động – Xã hội.
[5]. Nguyễn Thị Oanh (2000), Phát triển cộng đồng, Đại học
Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh.
[6]. http://www.socialwork.vn/category/fundalmentals/ctxh-
ca-nhan/
227
SINH KẾ CỦA NGƢỜI NGHÈO
Ở PHƢỜNG 3, THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
SV: Phan Hoàng Thanh – Võ Thiện Khiếp
Lớp: ĐHCTXH13
GVHD: CN. Đỗ Thị Thảo
Tóm tắt: Bài báo sinh kế của người nghèo ở phường 3, TP.Cao Lãnh,
Tỉnh Đồng Tháp là
b
.
Từ khóa: phƣờng 3, ngƣời nghèo, sinh kế.
1. Mở đầu
Việt Nam là quốc gia đang phát triển với hầu hết dân số sinh sống
ở nông thôn, việc phát triển kinh tế hộ nông dân là giải pháp quan
trọng để có thể xóa đói giảm nghèo, đảm bảo sinh kế bền vững ở nƣớc
ta. Trong quá trình đổi mới chuyển sang cơ chế thị trƣờng ở nƣớc ta,
sinh kế bền vững đang là mối quan tâm đặt lên hàng đầu trong phát
triển kinh tế hộ nông dân. Bởi nó là điều kiện cần thiết cho quá trình
phát triển, nâng cao đời sống của con ngƣời Việc lựa chọn phƣơng
thức mƣu sinh đối với các hộ nông dân khu vực đồng bằng đã khó, đối
với hộ nông dân ở khu vực Miền Tây càng khó khăn hơn. Do đó, vấn
đề đảm bảo nguồn sinh kế lâu dài cho hộ nông dân Miền Tây luôn
đƣợc Đảng và Nhà nƣớc hết sức quan tâm. Đây là việc làm gắn liền
với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của các
vùng dân tộc thiểu số trên đất nƣớc ta. Chỉ có trên cơ sở đó mới khắc
phục đƣợc tính tự cấp, tự túc, thúc đẩy trao đổi hàng hóa và phân công
228
lao động xã hội, hình thành, mở rộng và hoàn thiện các loại thị trƣờng,
nâng cao mức sống cũng nhƣ chất lƣợng sống của ngƣời dân cả nƣớc.
Đồng Tháp là một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, ở đầu nguồn
sông Tiền, phía Bắc giáp Long An, phía Tây Bắc giáp tỉnh Preyveng –
Campuchia, phía Nam giáp An Giang và Cần Thơ. Tổng diện tích tự
nhiên 3.238 km2 (có 2/3 diện tích tự nhiên thuộc khu vực Đồng Tháp
Mƣời), với 9 huyện, 01 thị xã và 2 thành phố (Cao Lãnh và Sa Đéc),
trung tâm tỉnh lỵ đặt tại thành phố Cao Lãnh.
Phƣờng 3 nằm ven nội ô thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp
đƣợc chia thành 05 khóm ( Mỹ Phƣớc, Mỹ Long, Mỹ Hƣng, Mỹ
Thiện, Mỹ Đức) với tổng số 2.766 hộ gồm 11.945 nhân khẩu. Trong
đó hộ nghèo chiến 323 hộ gồm 1.237, hộ cận nghèo chiếm 228 hộ
gồm 918 nhân khẩu, hộ khá giàu chiếm 1.107,5 hộ gồm 4.186 hộ còn
lại là các hộ có mức sống trung bình. tuy phƣờng 3 ở vị trí thành phố
Cao Lãnh nhƣng đa số ngƣời dân làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ,
do đó mức thu nhập còn nhiều hạn chế. Có thể thấy rõ việc phân tầng
xã hội và phân hóa giàu nghèo. Khóm Mỹ Long là một trong ba khóm
còn khó khăn nhất trong Phƣờng, chủ yếu là nghề nông đời sống nhân
gặp khó khăn về kinh tế, kết cấu hạ tầng phát triển chƣa đồng bộ, một
số trƣờng cấp hai và cấp ba chƣa đƣợc xây dựng. là một tỉnh khu vực
Đồng Bằng Sông Cửu Long, Trong những năm đổi mới vừa qua, sự
cải thiện điều kiện kinh tế - xã hội đã thúc đẩy kinh tế hộ nông dân ở
Phƣờng 3 có những bƣớc tiến mới. Tuy nhiên, các hộ nông dân ở
Phƣờng 3 hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn cản trở trong quá trình
phát triển nhƣ tập quán sản xuất lạc hậu, thiếu vốn, giao thông đi lại
khó khăn, hạn chế về trình độ học vấn, nhận thức, năng lực sản xuất
nên luôn luôn luẩn quẩn trong vòng nghèo đói. Do vậy vấn đề đặt ra
hiện nay để cải thiện và nâng cao chất lƣợng cuộc sống và giảm nghèo
bền vững cho các hộ nông dân của phƣờng 3 là phải nâng cao năng
lực cho hộ nông dân trong tiếp cận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
sinh kế. Trƣớc yêu cầu đó, việc nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ có
cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề lựa chọn các hoạt động sinh kế của
hộ nông dân cũng nhƣ tìm hiểu các nhân tố hỗ trợ và cản trở hộ nông
dân tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để đƣa ra các giải pháp phù hợp
với thực tiễn của địa phƣơng, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hình
thức kinh tế hộ nông dân phát triển nhanh và giảm nghèo đƣợc bền
vững là yêu cầu cấp thiết. Để tìm hiều thực trạng xóa đói giảm nghèo
của ngƣời dân Phƣờng 3 Thành Phố Cao Lãnh nhằm tìm ra các giải
229
pháp nâng cao chất lƣợng cuộc sống ngƣời dân tốt hơn nên Tôi đã
chọn đề tài: “SINH KẾ CỦA NGƢỜI NGHÈO Ở PHƢỜNG 3,
THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP”.
2. Nội dung chính
1. Thu thập số liệu:
1) Thu thập tài liệu thứ cấp: Bao gồm các tài liệu về khung sinh kế
bền vững, các văn kiện báo cáo đánh giá của các tổ chức, các nhà
khoa học về sinh kế và vấn đề sử dụng nguồn vốn sinh kế của hộ nông
dân.
2) Phƣơng pháp chuyên gia: Nghiên cứu sẽ sử dụng phƣơng pháp
phỏng vấn trực tiếp các cán bộ phƣờng hoặc ngƣời dân tại phƣờng 3
Thành phố Cao Lãnh.
3) Phỏng vấn cấu trúc: Hệ thống câu hỏi phỏng vấn đƣợc soạn thảo và
điều tra thử để kiểm tra mức độ thu thập thông tin và kiểm tra tính
chính xác của thông tin thu thập. Các câu hỏi in sẵn tập trung vào việc
thu thập các tƣ liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu nhƣ thực trạng, nhu
cầu nâng cao năng lực tiếp cận nguồn vốn sinh kế của ngƣời dân và
những đề nghị của ngƣời dân về cơ chế, chính sách giúp họ trong việc
tiếp cận và sử dụng nguồn lực sinh kế để phát triển kinh tế.
4) Phỏng vấn sâu cán bộ và ngƣời dân: Thông qua việc thu thập những
ngƣời nắm tin chính, nhƣ cán bộ tại địa phƣơng, ngƣời có vai trò trong
phƣờng 3 nhằm mục đích thu thập các thông tin chuyên sâu về thực
trạng kinh tế của địa phƣơng, thực trạng sử dụng các nguồn vốn sinh
kế trong những năm qua, khả năng tiếp cận các nguồn vốn sinh kế của
ngƣời dân. Yếu tố thúc đẩy và cản trở ngƣời dân tiếp cận nguồn lực.
Đây là những thông tin định tính quan trọng phục vụ cho nghiên cứu.
2. Phân tích số liệu
1) Phƣơng pháp thống kê mô tả: Phƣơng pháp này đƣợc vận dụng để
mô tả bức tranh tổng quát về tình hình cơ bản các địa bàn nghiên cứu,
thực trạng kinh tế của các hộ nông dân, thực trạng các nguồn lực sinh
kế cho phát triển kinh tế hộ tại các địa phƣơng. Bằng phƣơng pháp
này chúng ta có thể mô tả đƣợc những nhân tố thuận lợi và cản trở sự
tiếp cận các nguồn vốn sinh kế đối với các hộ nông dân.
2) Phƣơng pháp phân tích so sánh: Từ việc phân tổ thống kê các nhóm
hộ theo các tiêu chí phân tổ, chúng ta sẽ so sánh các nhóm hộ nông
230
dân với nhau về điều kiện và khả năng tiếp cận nguồn vốn sinh kế.
Trên cơ sở đó phân tích đƣợc mức độ ảnh hƣởng, nguyên nhân của
hạn chế giữa các vùng, các nhóm hộ. So sánh giữa các vùng tiếp cận
dễ dàng hay khó khăn đối với từng nguồn lực và khả năng của ngƣời
dân trong việc tiếp cận.
3) Phƣơng pháp phân tích định tính: Dựa vào nguồn số liệu PRA,
phỏng vấn sâu, để phân tích định tính những khó khăn trở ngại, các
nhân tố hỗ trợ ngƣời dân tiếp cận và sử dụng các nguồn vốn sinh kế
trong phát triển kinh tế của hộ.
4) Phƣơng pháp SWOT- Phân tích những khó khăn, tồn tại, cơ hội và
thách thức.
5) Kết hợp phân tích định tính và định lƣợng các số liệu, thông tin
phản hồi; các đề xuất sẽ đƣợc đƣa ra cho các nội dung chính thức của
đề tài.
* Cơ sở lí luận:
Để thúc đẩy các chính sách,
Hình 1: Phân tích khung sinh kế của nông dân nghèo.
Nguồn: DFID (2003)
Thứ nhất, thực tế cho thấy tăng trƣởng kinh tế là cần thiết cho
việc giảm nghèo nhƣng không có một liên hệ trực tiếp giữa hai tác
231
nhân này từ khi nó hoàn toàn phụ thuộc và khả năng của ngƣời nghèo
tự tìm kiếm các cơ hội để phát triển kinh tế. Vì vậy, điều quan trọng là
tìm ra chính xác cái gì đã ngăn cản hoặc thách thức ngƣời nghèo cải
thiện sinh kế của họ trong điều kiện cụ thể để thiết kế các họat động
xóa đói giảm nghèo.
Thứ hai, về nhận biết của những ngƣời nghèo, không chỉ là
vấn đề thu nhập thấp mà còn bao gồm cả các yếu tố nhƣ chăm sóc y
tế kém, giáo dục kém, thiếu các dịch vụ xã hội, v.v…, nhƣ là tình
trạng dễ bị tổn thƣơng và cảm giác của sự bất lực. Hơn nữa, đói
nghèo hiện nay đƣợc xem là có sự liên kết giữa các yếu tố gây ra
nghèo đói và cải thiện một yếu tố có thể có tác động tích cực đối
với yếu tố khác. Cải thiện giáo dục có thể mang lại tác động tích
cực cho việc chăm sóc y tế, mà nó có thể tăng khả năng sản xuất.
Giảm tình trạng dễ bị tổn thƣơng cho ngƣời nghèo bằng cách nêu rõ
các rủi ro cho họ có thể gia tăng xu hƣớng để rơi vào các hoạt động
rủi ro chƣa đƣợc kiểm chứng trƣớc đó nhƣng mà có hiệu quả kinh
tế hơn, và cứ tiếp tục nhƣ thế v.v….
Cuối cùng, chúng ta nhận ra rằng chính ngƣời nghèo thƣờng hiểu
về họ và nhu cầu của họ tốt nhất và vì vậy phải lôi kéo họ tham gia trong
việc thiết kế các chính sách và dự án để cải thiện số phận của họ.
Có ba điểm cơ bản hầu hết các phƣơng pháp thƣờng có. Thứ
nhất là phƣơng pháp chú trọng vào sinh kế của ngƣời nghèo, mà trong
đó giảm nghèo phải là mấu chốt. Thứ hai là loại bỏ cách tiếp cận theo
bộ phận đầu vào (nông nghiệp, nƣớc sạch, hay y tế) và thay vào đó là
bắt đầu bằng việc phân tích các sinh kế hiện tại để xác định các tác
động phù hợp. Điểm cuối cùng là chú trọng sự tham gia của ngƣời
nghèo trong việc xác định các họat động phù hợp để triển khai tại
phƣờng 3, TP. Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp.
Bên cạnh đó, sự tác động cải thiện nâng cao sinh kế của hộ dân
bằng các họat động nông nghiệp cho thấy rằng nông nghiệp chính là
họat động sinh kế chính của ngƣời dân phƣờng 3.
* Liên hệ thực tiễn:
Tuy phƣờng 3 ở vị trí thành phố Cao Lãnh nhƣng đa số ngƣời dân làm
nông nghiệp và buôn bán nhỏ, do đó mức thu nhập còn nhiều hạn chế.
Số hộ nghèo toàn phƣờng là 412 hộ, cận nghèo 183 hộ.
232
Trong đó hộ nghèo chiếm 142 hộ gồm 2.734, hộ cận nghèo chiếm 183
hộ gồm 713 nhân khẩu, hộ khá giàu chiếm 1.107,5 hộ gồm 4.186 hộ
còn lại là các hộ có mức sống trung bình. Tuy phƣờng 3 ở vị trí thành
phố Cao Lãnh nhƣng đa số ngƣời dân làm nông nghiệp và buôn bán
nhỏ, do đó mức thu nhập còn nhiều hạn chế.
Số hộ nghèo toàn phƣờng là 412 hộ, cận nghèo 183 hộ.
* Về mặt kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của đề tài phần nào giúp các nhà hoạch định chính
sách của phƣờng có căn cứ và cơ sở khoa học trong việc xây dựng,
quản lý trong lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn và nông dân (một lĩnh vực có nhiều tiềm năng và
lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế của Thành phố) có thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quản
lý trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp tháo đƣợc các "nút thắt" trong các chiến lƣợc
sinh kế của hộ nông dân từ đó góp phần tăng thu nhập cho ngƣời sản
xuất, giảm nghèo bền vững và đồng nghĩa với tăng thu cho ngân sách
của tỉnh, góp phần thúc đẩy kinh tế của tỉnh tăng trƣởng và phát triển.
* Về mặt xã hội
Góp phần giải quyết vấn đề lao động có việc làm trong nông
nghiệp, nông thôn của Thành phố. Ngƣời dân có thu nhập tăng,
cải thiện đời sống, giảm tệ nạn xã hội, an toàn trật tự xã hội, bảo
vệ an ninh quốc phòng, xây dựng nông thôn mới.
3. Kết luận và khuyến nghị
hay tránh bị rơi vào đói n
gia đình sử dụng để biến các nguồn lực đó thành sinh kế. Khu
233
.
Nghiên cứu này nhằm khám phá các mối quan hệ qua lại giữa các
tài sản sinh kế và tình trạng nghèo của hộ gia đình của Phƣờng.
Nghiên cứu áp dụng tiếp cận sinh kế gắn kết với khái niệm nghèo đa
chiều và giả định rằng các chỉ báo của các tài sản sinh kế của hộ gia
đình có thể chỉ thị đƣợc nghèo đa chiều. Các phƣơng pháp thống kê đa
biến nhƣ Principle Component Analysis, Multiple Correspondence
Analysis và Cluster Analysis đƣợc áp dụng trên bộ dữ liệu Điều tra
mức sống hộ gia đình Việt Nam 2008 của Tổng cục thống kê Việt
Nam. Kết quả phân tích cho phép rút ra các kết luận sau đây. Có thể
xác định tình trạng nghèo đa chiều của hộ gia đình nông thôn dựa trên
một số chỉ báo kinh tế - xã hội chỉ thị cho các tài sản sinh kế của hộ.
Tình trạng nghèo đa chiều có ít nhất mƣời chiều đo đại diện cho bốn
nhóm tài sản sinh kế là vốn con ngƣời, vốn tự nhiên, vốn vật chất, và
vốn tài chính của hộ gia đình. Trong đó, vốn con ngƣời đƣợc đại diện
bởi ba chiều độc lập là nguồn nhân lực cho nông nghiệp, tình trạng
sức khỏe và khả năng đa dạng hóa việc làm. Vốn vật chất có năm
chiều đo đại diện là tình trạng nhà ở, tiện nghi cƣ trú, tài sản sản xuất,
tài sản tiêu dùng thông thƣờng và tài sản tiêu dùng sang trọng. Diện
tích đất nông nghiệp đại diện cho vốn tự nhiên và thu nhập phụ đại
diện cho vốn tài chính. Nói cách khác, khái niệm nghèo đa chiều của
hộ gia đình nông thôn Việt Nam có thể đƣợc diễn giải với mƣời khía
cạnh kinh tế - xã hội khác nhau. Có thể sử dụng 23 chỉ báo trích ra từ
bộ dữ liệu VHLSS 2008 đại diện cho mƣời chiều đo để mô tả tình
trạng nghèo đa chiều của hộ gia đình nông thôn. Các chỉ báo bao gồm
tổng số lao động của hộ, số lao động phi nông nghiệp, số ngày khám
chữa bệnh trung bình trong năm, tổng diện tích đất nông nghiệp, giá
trị nhà ở, giá trị tiền gửi nhận đƣợc trong năm, chi tiêu bình quân đầu
ngƣời, kiểu nhà vệ sinh và sở hữu xe máy là những chỉ báo phù hợp
nhất về mặt thống kê để đo lƣờng nghèo đa chiều của hộ. Các chỉ báo
này có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với tình trạng nghèo về tiền. Vì
vậy chúng có thể cung cấp sự hiểu biết sâu sắc hơn về tình hình kinh
tế - xã hội của hộ gia đình nông thôn theo tiếp cận nghèo đa chiều.
Việc áp dụng đo lƣờng nghèo đa chiều có tác động mạnh mẽ đến các
đặc trƣng của hộ gia đình nông thôn so với cách phân loại nghèo đơn
chiều dựa trên chi tiêu. Phân cụm nghèo đa chiều có hiệu quả thống kê
tốt hơn khi làm tăng tính đồng nhất của các quan sát trong cùng một
234
cụm. Tuy nhiên, ta không thể dễ dàng xác định tính chất nghèo hay
giàu của từng hộ hay từng khóm hộ cụ thể do phải xem xét dƣới nhiều
góc độ khác nhau về nguồn lực của hộ. Vì các điều kiện kinh tế - xã
hội thay đổi rất nhiều theo vùng miền, điều kiện sinh thái nông nghiệp
của vùng miền, tập quán sản xuất, và sự chuyên môn hóa các hoạt
động kinh tế của hộ gia đình nông thôn nên nghèo đa chiều cần phải
đƣợc đo lƣờng theo các đặc trƣng cụ thể này để bảo đảm tính chính
xác trong đo lƣờng.
Nghiên cứu này cũng có một số hạn chế. Thứ nhất là các chỉ báo
của vốn xã hội chƣa đƣợc đƣa vào tính toán phân tích. Ngoài ra, tình
trạng nghèo đơn chiều đƣợc đo lƣờng bằng chi tiêu bình quân đầu
ngƣời trong khi thu nhập bình quân đầu ngƣời có thể là phù hợp hơn.
Cuối cùng, kết quả phân tích nghèo đa chiều chỉ mới đƣợc áp dụng
cho toàn bộ nông thôn Việt Nam chứ chƣa đƣợc phân tích riêng biệt
cho từng vùng kinh tế xã hội cụ thể. Hệ quả là tính chất khác biệt về
vùng miền có thể tác động đến kết quả phân tích. Điều này có nghĩa là
nên phân tích nghèo đa chiều cho từng khóm riêng biệt dựa trên các
chỉ báo đặc trƣng cho từng nơi. Các hạn chế trên cần đƣợc khắc phục
ở những nghiên cứu tiếp theo.
Khuyến nghị:
Chính vì vậy, cơ quan có thẩm quyền khi ban hành văn bản,
chính sách về giảm nghèo cần nhận thức đúng yêu cầu, mục tiêu, cách
tiếp cận, mô hình... giảm nghèo trong giại đoạn mới; đổi mới tƣ duy
và phƣơng pháp tiếp cận xây dựng các chính sách giảm nghèo và hệ
thống chính sách giảm nghèo; chú trọng thiết kế các chính sách nâng
cao năng lực nội sinh, kèm theo các biện pháp tuyên truyền, phổ biến
để ngƣời nghèo tiếp cận đƣợc với chính sách; xây dựng, ban hành
chính sách giảm nghèo cần tuân theo các yêu cầu về xây dựng, ban
hành văn bản pháp luật.
Kết quả nghiên cứu của đề tài mong muốn tìm hiểu và đánh giá
đƣợc nguồn gốc nghèo đói của ngƣời dân phƣơng 3, thành phố Cao
Lãnh tỉnh Đồng Tháp, thông qua đó giúp các nhà hoạch định chính
sách của phƣờng có căn cứ và cơ sở khoa học trong việc xây dựng,
quản lý trong lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn và nông dân (một lĩnh vực có nhiều tiềm năng và
lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế của Thành phố) có thêm cơ sở lý
235
luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quản
lý trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp tháo đƣợc các "nút thắt" trong các
chiến lƣợc sinh kế của hộ nông dân từ đó góp phần tăng thu nhập cho
ngƣời sản xuất, giảm nghèo bền vững và đồng nghĩa với tăng thu cho
ngân sách của tỉnh, góp phần thúc đẩy kinh tế của tỉnh tăng trƣởng và
phát triển.
Góp phần giải quyết vấn đề lao động có việc làm trong nông
nghiệp, nông thôn của Thành phố. Ngƣời dân có thu nhập tăng, cải
thiện đời sống, giảm tệ nạn xã hội, an toàn trật tự xã hội, bảo vệ an
ninh quốc phòng, xây dựng nông thôn mới.
Tài liệu tham khảo
[1]. Khung phân tích sinh kế bền vững IFAD
(http://corenarm.org.vn/?pid=92&id=571)
[2]. Ảnh hƣởng của chƣơng trình 135 đến sinh kế của đồng bào
dân tộc ít ngƣời huyện hƣớng hóa, tỉnh Quảng Trị.
http://hueuni.edu.vn/portal/data/doc/tapchi/38.pdf
[3]. Nguyễn Văn Sửu,Khung sinh kế bền vững: Một cách phân
tích toàn diện về phát triển và giảm nghèo
http://nhanhoc.edu.vn/thu-vien/thu-muc-tap-chi/328-khung-sinh-
ke-ben-vung-mot-cach-tiep-can-toan-dien-ve-phat-trien-va-giam-
ngheo.html
[4]. Báo cáo của kinh tế-xã hội 6 tháng đầu năm của Ủy ban
nhân dân phƣơng 3, thành phố Cao Lãnh.
236
VAI TRÒ CỦA HỘI PHỤ NỮ TRONG HOẠT ĐỘNG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ Ở PHƢỜNG 3, THÀNH PHỐ CAO LÃNH,
TỈNH ĐỒNG THÁP
SV: Nguyễn Thị Mỹ Duyên - Lê Ngọc Yến
Lớp: ĐHCTXH13
GVHD: CN. Nguyễn Thị Bích Hƣng
Tóm tắt: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị, xã hội
của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển
của phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước. Ngoài
ra Hội còn đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực
hiện bình đẳng giới, chăm lo đời sống của phụ nữ. Kết quả của việc
nghiên cứu “Vai trò của Hội phụ nữ trong hoạt động phát triển kinh tế ở
phường 3, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng tháp”. Đã cho thấy được các
hội viên Hội phụ nữ điều tham gia vào các hoạt động phát triển kinh tế
của hội phụ nữ (chiếm 100%). Thực trạng vai trò của Hội trong các hoạt
động phát triển kinh tế. Và hiệu quả của các hoạt động phát triển kinh tế
của Hội phụ nữ được mọi người đánh giá cao. Qua đó cũng xin đưa ra
một số giải pháp để nâng cao vai trò của Hội phụ nữ trong hoạt động
phát triển kinh tế trên địa bàn thực hiện nghiên cứu.
Từ khóa: Hội phụ nữ, vai trò của Hội phụ nữ, các hoạt động phát
triển kinh tế.
1. Mở đầu
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm trên 50% dân số cả nƣớc, họ tham
gia vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh
quốc phòng và càng ngày càng thể hiện vị trí và vai trò của mình trong
xã hội. Trong suốt chặng đƣờng đấu tranh dựng nƣớc, giữ nuớc và xây
dựng đất nƣớc, lịch sử Việt Nam đã ghi nhận những cống hiến to lớn
của phụ nữ. Trong công cuộc đổi mới phát triển đất nƣớc, họ luôn giữ
gìn, phát huy và nêu cao tinh thần yêu nƣớc, đoàn kết, năng động,
sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn để vƣơn lên trong học tập, lao
động, phấn đấu đạt những thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực. Đảng
và Nhà nƣớc ta ngày càng quan tâm, phát huy vai trò của phụ nữ trong
xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia vào tất cả các lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam,
237
đƣợc thành lập với mục đích hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của
phụ nữ. Bằng nhiều phong trào thi đua thiết thực, nhiều mô hình sáng
tạo, thời gian qua Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã đẩy mạnh các
hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng gia đình ngày càng no ấm, tiến bộ, hạnh phúc; góp
phần có hiệu quả vào nhiệm vụ phát triển KT – XH.
Phƣờng 3 là phƣờng trực thuộc thành phố Cao Lãnh, là trung
tâm kinh tế trọng điểm của thành phố cùng với Phƣờng 1và Phƣờng 2,
Phƣờng 3 có diện tích: 344,38ha (1);
dân số có: 10.683 nhân khẩu(2);
trong đó nữ giới có 5.650 nữ chiếm hơn 50% dân số của phƣờng. Tuy
là phƣờng nằm ngay trung tâm thành phố và ngay chợ Cao Lãnh
nhƣng đời sống kinh tế của ngƣời dân chƣa đƣợc phát triển so với 2
phƣờng còn lại, tỉ lệ hộ nghèo còn rất cao. Cụ thể hộ nghèo chiến 323
hộ, gồm 1.237 nhân khẩu (3)
; hộ cận nghèo chiếm 228 hộ, gồm 918
nhân khẩu(4)
, số hộ nghèo và cận nghèo chiếm 20,17% số nhân khẩu
của phƣờng. Từ những vấn đề trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu
“Vai trò của hội phụ nữ trong hoạt động phát triển kinh tế ở phƣờng 3,
thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp” để khảo sát thực trạng và đƣa ra
một số giải pháp để nâng cao vai trò của Hội phụ nữ trong hoạt động
phát triển kinh tế ở phƣờng 3, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
2. Nội dung chính
2.1. Thực trạng vai trò của Hội phụ nữ trong hoạt động phát triển
kinh tế
Biểu đồ 1: Mức độ tham gia các nguồn lực hỗ trợ hoạt động
phát triển kinh tế của hội viên ở Phường 3, Th.Cao Lãnh.
238
Dựa vào biểu đồ 1 ta thấy mức độ tham gia xây dựng gói tiết
kiệm chiếm (51,2%), hoạt động cho phụ nữ vay vốn phát triển kinh tế
chiếm (35,7%), hoạt động dạy nghề chiếm (6,0%), xây dựng mô hình
“3 trong 1” chiếm (4,8% ) và cuối cùng là hoạt động hội viên tham
giagiới thiệu việc làm chiếm (2,4%).
Hội phụ nữ có vai trò rất quan trong các hoạt động phát triển
kinh tế trên địa bàn. Hội phụ nữ đã xây dựng các hoạt động nhằm cải
thiện đời sống kinh tế của các hội viên các hoạt động nhƣ: Xây dựng
gói tiết kiệm, vay vốn,dạy nghề, giới thiệu việc làm, xây dựng mô
hình 3 trong 1. Hội viên Hội phụ nữ hầu hết điều tham gia các hoạt
động phát triển kinh tế của Hội phụ nữ. Nhƣng trong đó hoạt động
tham gia gói tiết kiệm đƣợc mọi ngƣời tham gia nhiều nhất, hoạt động
có mức độ hội viên tham gia ít nhất là hoạt động tham gia giới thiệu
việc làm.
Bảng 1: Sự nhận biết của mọi người xung quanh về các hoạt
động phát triển kinh tế của hội phụ nữ ở phường 3
Các hoạt động
Tần xuất (%)
Vay vốn 24 22.4%
Dạy nghề 19 17.8%
Giới thiệu việc làm 16 15.0%
Tham gia gói tiết kiệm 25 23.4%
Tham gia mô hình 3 trong 1 23 21.5%
107 100.0%
Từ bảng 1 ta thấy có (100%) mọi ngƣời biết đến hoạt động tham
gia gói tiết kiệm của Hội phụ nữ. Có (92,0%) mọi ngƣời biết đến hoạt
động vay vốn, hoạt động tham gia mô hình 3 trong 1 có (96,0%) mọi
ngƣời biết đến, hoạt động dạy nghề có (76,0%) mọi ngƣời biết đến và
hoạt động giới thiệu việc làm có( 64,0%) mọi ngƣời biết.
Thông qua đó ta thấy các hoạt động phát triển kinh tế của Hội
phụ nữ đƣợc mọi ngƣời quan tâm biết đến. Hầu hết tất cả mọi ngƣời
239
điều biết đến hoạt động vay vốn nhƣng hoạt động giới thệu việc làm
thì mọi ngƣời ít biết đến.
2.2. Hiệu quả từ vai trò của Hội phụ nữ trong hoạt động phát triển
kinh tế
Biểu đồ 2: Biểu đồ đánh giá mức độ hiệu quả của các hoạt
động phát triển kinh tế của Hội phụ nữ.
Qua biểu đồ 2 ta thấy hội viên Hội phụ nữ đánh giá mức độ
hiệu quả của các hoạt động phát triển kinh tế của hội phụ nữ nhƣ sau:
mức độ không hiệu quả chiếm (2,8%), mức độ rất hiệu quả (chiếm
34,0%), hiệu quả (chiếm 39,2%) và không biết chiếm (24,0%).
Bên cạnh những đánh giá của hội viên về mức độ hiệu quả các
hoạt động phát triển kinh tế của Hội phụ nữ thì mọi ngƣời xung quanh
cũng đƣa ra đánh giá: có (4,0%) cho rằng hoạt động của Hội phụ nữ
không hiệu quả, có (81,6%) đánh giá rằng các hoạt động phát triển
kinh tế của Hội phụ nữ có hiệu quả, có (14,4%) mọi ngƣời đánh giá
rằng các hoạt động phát triển kinh tế của Hội phụ nữ hoạt động rất
hiệu quả.
Hội phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong hoạt động phát triển
kinh tế, các hoạt động phát triển kinh tế của Hội phụ nữ mang lại hiệu
quả rất cao. Nhờ thực hiện tốt vai trò của mình mà Hội phụ nữ đã giúp
hội viên của mình vƣơn lên cải thiện đƣợc đời sống kinh tế của gia
đình. Thông qua biểu đồ 2 ta thấy các hội viên và mọi ngƣời điều đánh
giá cao hiệu quả của các hoạt động phát triên kinh tế của Hội phụ nữ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số ít ý kiến cho rằng Hội phụ nữ
hoạt động không hiểu quả.
240
2.1. Những giải pháp nâng cao vai trò của Hội phụ nữ trong các
hoạt động phát triển kinh tế
Hội phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng, đây là tổ chức đại diện
cho tiếng nói 50% tổng số lực lƣợng lao động ở Việt Nam và Phƣờng
3 thành phố Cao Lãnh nói riêng. Để có thể nâng cao vai trò Hội phụ
nữ trong các hoạt động kinh tế trên địa bàn Phƣờng 3, thành phố Cao
Lãnh, chúng tôi xin đƣa ra các nhóm số giải pháp:
Về phía chính quyền
Tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy, hỗ trợ của chính quyền và
các ngành, đoàn thể có nguồn lực tổ chức thực hiện các hoạt động.
Tăng cƣờng công tác tuyên truyền về vai trò của Hội phụ nữ
Phƣờng 3 các hoạt động phát triển kinh tế của Hội trên các phƣơng
tiện truyền thông, nhóm họp trên địa bàn Phƣờng 3.
Về vai trò của Hội phụ nữ
Xây dựng nhiều chƣơng trình hoạt động giúp hội viên có thể
tham gia nâng cao nhận thức, xây dựng các mô hình giúp hội viên
phát triển kinh tế.
Tuyên truyền khuyến khích hội viên tham gia vào các hoạt
động phát triển kinh tế của Hội phụ nữ, thƣờng xuyên khảo sát tìm
hiểu nhu cầu, năng lực của hội viên nhất là các hoạt động dạy nghề
giới thiệu việc làm.
Thƣờng xuyên đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động theo
hƣớng chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho phụ nữ, đa dạng
hóa các mô hình thu hút hội viên.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt có bản lĩnh
chính trị, có trình độ năng lực, có phẩm chất đạo đức, tâm huyết với công
tác Hội và sự bình đẳng giới.
Đội ngũ cán bộ phải nắm vững chủ trƣơng, chính sách của
Đảng, của Hội, pháp luật của Nhà nƣớc và vận dụng một cách sáng
tạo vào từng điều kiện cụ thể của địa phƣơng. Triển khai thực hiện
phong trào thi đua gắn liền với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội của địa phƣơng và xây dựng Hội vững mạnh.
Tổ chức nhiều phong trào thi đua tăng gia sản xuất phát triển
kinh tế gia đình của hội viên trên địa bàn, và nhân rộng mô hình này
sang các địa phƣơng lân cận
241
Về nhận thức về phía hội viên
Hội viên hội phụ nữ cần có ý thức tốt hơn trong việc tham gia
vào các hoạt động phát triển kinh tế của Hội phụ nữ ở phƣờng 3
Sự giúp đỡ của gia đình hội viên trong việc làm kinh tế
Cần tuyên truyền nâng cao nhận thức của các thành viên trong
gia đình về vấn đề bình đẳng giới để hội viên Hội có thể tham gia vào
các hoạt động phát triển kinh tế.
3. Kết luận
Hội phụ nữ Phƣờng 3, thành phố Cao Lãnh có vai trò rất quan
trọng trong các hoạt động phát triển kinh tế của hội viên trên địa bàn.
Nhờ Hội phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình mà các hội viên có thể
phát triển đời sống kinh tế gia đình, xây dựng mô hình giúp đỡ nhau
thoát nghèo nhƣ mô hình 3 trong 1.
Để nâng cao vai trò của Hội phụ nữ trong hoạt động phát triển
kinh tế không chỉ chú trọng đến công tác tuyên truyền, xây dựng các
hoạt động, lập các phong trào thi đua, mà Hội phụ nữ còn phải nâng
cao trình độ học vấn, trình độ quản lí chuyên môn về các lĩnh vực kinh
tế. Thƣờng xuyên cập nhập thông tin những chủ trƣơng chính sách
mới của nhà nƣớc để kịp thời xây dựng các chƣơng trình hoạt động
phù hợp với thực tiễn xã hội.
Tài liệu tham khảo
(1), (2),(3), (4)Số liệu lấy từ UBND Phường 3, thành phố Cao Lãnh, tỉnh
Đồng Tháp
[1]. “Khảo sát vai trò của phụ nữ nông thôn trong việc phát triển
kinh tế hộ trên địa bàn huyện Phụng Hiệp- tỉnh Hậu Giang”, Tạp chí
khoa học đại học Cần Thơ, phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và
Pháp luật, số 30(2014).
[2]. Nguyễn Thị Thuận và CN. Trần Xuân Kỳ( 2009), Giáo trình
Giới và phát triển, Nxb Lao động – Xã hội.
[3]. Trần Kim Ngọc (2013), Bài giảng phƣơng pháp nghiên cứu
khoa học (giảng dạy cho sinh viên nghiên cứu khoa học ngành công
tác xã hội).
[4]. Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Tháp (https://dongthap.gov.vn.)
[5]. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. (http://www.hoilhpn.org.vn.)
242
PHỤ LỤC
Bài nghiên cứu “Vai trò của Hội phụ nữ trong hoạt động phát
triển kinh tế ở phường 3, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp”
nghiên cứu đã sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu: phân tích tƣ liệu sẵn
có, nghiên cứu định lƣợng. Trong đó nghiên cứu định lƣợng đƣợc xem
phƣơng pháp đƣợc sử dụng chính trong quá trình nghiên cứu. Quá
trình thu thập thông tin đƣợc thực hiện bằng các bảng hỏi thiết kế sẵn
phát cho 75 đối tƣợng ở phƣờng 3 thành phố Cao Lãnh. Trong mẫu
khảo sát định lƣợng đƣợc thực hiện ở 50 đối tƣợng là hội viên hội phụ
nữ chiếm 5% trong tổng số hội viên hội phụ nữ của Phƣờng 3, 25 đối
tƣợng còn lại là 50% là cán bộ công viên chức và 50% là ngƣời dân
trên địa bàn Phƣờng 3.
243
TÌM HIỂU THỰC TRẠNG Ô NHIỄM
MÔI TRƢỜNG NƢỚC Ở XÃ ĐỊNH YÊN – LẤP VÕ – ĐỒNG
THÁP VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
SV: Nguyễn Hoàng Phúc
Lớp: ĐHCTXH 13A
GVHD: CN. Nguyễn Thị Bích Hƣng
Tóm tắt: Qua khảo sát về thực trạng ô nhiễm môi trường nước đối
với 40 hộ gia đình đang sinh sống tại xã Định Yên, cho thấy được
rằng thực trạng môi trường nước đang bi ô nhiễm nghiêm trọng và có
xu hướng ngày càng gia tăng. Theo kết quả thì đa số người dân điều
cho rằng nguyên nhân là do ý thức về vấn đề bảo vệ môi trường của
người dân còn hạn chế, lạm dụng thuốc trừ sâu, thiếu đội ngũ xử lí
rác thải. Thực trạng trên ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, học tập, sản
xuất và hoạt động vui chơi giải trí cửa người dân tại địa phương.
Từ khóa: ô nhiễm môi trường nước, bảo vệ môi trường.
1. Mở đầu
Chúng ta không thể sống nếu không có nƣớc vì nó có rất nhiều vai
trò quan trong nhƣ: là tài nguyên vật liệu quan trọng nhất của loài
ngƣời và sinh vật trên trái đất. Con ngƣời mỗi ngày cần 250 lít nƣớc
cho sinh hoạt, 1.500 lít nƣớc cho hoạt động công nghiệp và 2.000 lít
cho hoạt động nông nghiệp. Nƣớc chiếm 99% trọng lƣợng sinh vật
sống trong môi trƣờng nƣớc và 44% trọng lƣợng cơ thể con ngƣời.
Ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống trên, nƣớc còn là chất
mang năng lƣợng (hải triều, thuỷ năng), chất mang vật liệu và tác
nhân điều hoà khí hậu, thực hiện các chu trình tuần hoàn vật chất
trong tự nhiên. Có thể nói sự sống của con ngƣời và mọi sinh vật trên
trái đất phụ thuộc vào nƣớc. Không những vậy, nƣớc còn cung cấp
cho nhiều mục đích khác nhau nhƣ: cho công nghiệp, nông nghiệp,
giao thông vận tải, thủy điện,…Đồng Tháp nói chung và xã Định Yên
nói riêng cũng là một trong những khu vực có lƣu vực nƣớc lớn đƣợc
bồi đắp phù xa hằng năm với nguồn nƣớc sinh hoạt dồi dào. Tuy
nhiên, vào những năm gần đây do sự biến đổi thời tiết thất thƣờng
cộng với việc việc xử lí rác thải của ngƣời dân nơi đây còn hạn chế đã
làm nguồn nƣớc sông nơi đây đang xuất hiện nhiều loại rác thải. Theo
định nghĩa của Lê Văn Khoa thì “ sự ô nhiễm nƣớc là sự có mặt của
một hay nhiều chất lạ trong môi trƣờng nƣớc, dù chất đó có hại hay
244
không. Khi vƣợt quá ngƣỡng chịu đựng của cơ thể sinh vật thì chất đó
sẽ trở nên độc hại ”. Còn theo Hiến Chƣơng Châu Âu về nƣớc đã
định nghĩa: “ sự ô nhiễm là một biến đổi nói chung do con ngƣời đối
với chất lƣợng nƣớc, làm ô nhiễm nƣớc và gây nguy hiểm cho con
ngƣời, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi giải trí, đối
với động vật nuôi và các loài hoang dại ” [1]. Căn cứ vào hai định
nghĩa trên thì nguồn nƣớc sông tại xã Định Yên cũng xuất hiện nhiều
thứ rác thải từ các hoạt động sinh hoạt, sản xuất của ngƣời dân địa
phƣơng. Ảnh hƣởng không nhỏ đến sức khỏe, quá trình học tập, sản
xuất và vui chơi giải trí của ngƣời dân nơi đây.
2. Nội dung chính
2.1. Đối tượng, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
Đối tƣợng: Thực trạng ô nhiễm môi trƣờng nƣớc ở xã Định
Yên và một số giải pháp khắc phục.
Địa điểm: 4 Ấp của xã Định Yên (An Lợi A, An Lợi B, An
Phong, An Khƣơng.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp phân tích tƣ liệu sẵn
có: tập hợp và xử lý số lƣợng lớn tƣ liệu và sách vở viết về các hoạt
động môi trƣờng nƣớc, kinh tế, xã hội ở các vùng địa phƣơng vào các
thời điểm trƣớc đây cũng nhƣ trong nền kinh tế xã hội hiện nay: về
các vấn đề ô nhiễm môi trƣờng, việc làm thu nhập, giáo dục, y tế , văn
hóa,…Nhằm có cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu, cũng nhƣ
những luận cứ, luận điểm phục vụ cho các đề tài nghiên cứu của mình.
Cuộc điều tra đƣợc tiến hành theo hình thức phỏng vấn trực tiếp dựa
vào bản câu hỏi đƣợc soạn sẵn, với dung lƣợng mẫu là 40 hộ gia đình
chia đều cho 4 Ấp đang sinh sống tại xã Định Yên – Lấp Vò – Đồng
Tháp. Phƣơng pháp quan sát đƣợc sử dụng nhằm thu thập thông tin xã
hội về đối tƣợng nghiên cứu thông qua tri giác trực tiếp và ghi chép
trung thực những nhân tố có liên quan đến đối tƣợng và mục đích
nghiên cứu.
2.2. Kết quả nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng môi trường nước thải sinh hoạt
Theo kết quả điều tra cho thấy rằng nguồn nƣớc máy đƣợc sử
dụng rộng rãi ở các Ấp chiếm tỉ lệ 97,5%. Điều này cho thấy rằng
nhu cầu nƣớc sạch cho sinh hoạt đang ngày càng gia tăng và ngƣời
245
dân xã Định Yên đang sử dụng nguồn nƣớc máy nhƣ là nguồn nƣớc
chính cho mục đích sinh hoạt. Một số hộ dân gần các nguồn nƣớc
sông nên tỷ lệ sử dụng nƣớc sông vẫn còn cao với tỉ lệ 87,5%.
Biểu đồ 2.1.Tỉ lệ phần trăm sử dụng nguồn nước máy và nước sông
của người dân tại xã
Nguồn: Theo số liệu khảo sát tháng 08/2015
Qua điều tra cho thấy, ý kiến của ngƣời dân về chất lƣợng nƣớc
sinh hoạt nhƣ sau: đối với nguồn nƣớc máy thì tỉ lệ đánh giá tốt là
chiếm 22,5%, bình thƣờng là chiếm 77,5%: đối với nguồn nƣớc sông
thì tỉ lệ đánh giá không tốt hay ô nhiễm là chiếm 92,5%, không ý kiến
là chiếm 7,5%; còn đối với nƣớc giếng thì tỉ lệ đánh giá tốt là chiếm
2,5%, bình thƣờng là chiếm 15%, không tốt là chiếm 2,5%, không ý
kiến chiếm 80%.
Với ba nguồn nƣớc trên chỉ có nƣớc máy có thể qua xử lý, riêng đối
với nƣớc sông và nƣớc giếng đƣợc ngƣời dân sử dụng trực tiếp hoặc
sử dụng phèn nhôm kéo tụ và đun sôi trƣớc khi uống. Điều này cho
thấy chất lƣợng nƣớc sinh hoạt vẫn chƣa đƣợc kiểm soát và quan tâm
đúng mức.
246
Biểu đồ 2.2.Tỉ lệ phần trăm đánh giá chất lượng 3 loại nguồn nước
của người dân tại xã
Nguồn: Theo số liệu khảo sát tháng 08/2015
Từ những số liệu có đƣợc nhƣ trên ta thấy mức độ ảnh hƣởng
của vấn đề ô nhiễm môi trƣờng nƣớc thải sinh hoạt đến đời sống của
những hộ dân tại địa phƣơng là rất nghiêm trọng và có xu hƣớng ngày
càng gia tăng hơn nữa.Theo nhận xét đánh giá của ngƣời dân thì
nguyên nhân dẫn đến thực trạng ô nhiễm nguồn nƣớc thải sinh hoạt là
do nhận thức về môi trƣờng của ngƣời dân địa phƣơng và đội ngũ xử
lý rác thải còn hạn chế.
2.2.2. Thực trạng môi trường nước thải công nghiệp
Theo kết quả điều tra về thực trạng môi trƣờng nƣớc thải công
nghiệp cho ta thấy rằng đa số hoạt động sản xuất của những làng nghề,
nhà máy, luôn xử lý chất thải bằng cách đƣa ra những con kênh gạch
ảnh hƣởng rất nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống của ngƣời dân nhƣ
sau: đối với học tập thì tỉ lệ đánh giá mức độ ảnh hƣởng nghiêm trọng
là chiếm 97,5%, bình thƣờng là chiếm 2,5%; về sức khỏe thì tỉ lệ đánh
giá mức độ ảnh hƣởng nghiêm trọng là chiếm 97,5%, bình thƣờng là
chiếm 2,5% ; về sản xuất thì tỉ lệ đánh giá mức độ ảnh hƣởng nghiêm
trọng là chiếm 75%, bình thƣờng là chiếm 25% và đối với vui chơi
giải trí thì tỉ lệ đánh giá mức độ ảnh hƣởng nghiêm trọng là chiếm
50%, bình thƣờng là chiếm 50%.
247
Biểu đồ 2.2.3. Tỉ lệ phần trăm đánh giá ảnh hưởng nguồn nước thải
công nghiệp đối với học tập, sức khỏe, sản xuất và vui chơi giải trí
của người dân
Nguồn: Theo số liệu khảo sát tháng 08/2015
2.2.3. Một số giải pháp khắc phục
Kết quả khảo sát đã cho thấy, đa số ngƣời dân trong mẫu khảo
sát đêu nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trƣờng
nƣớc nhƣng vẫn còn một tỉ lệ nhỏ ngƣời dân chƣa nhận thức đƣợc tầm
quan trọng của việc bảo vệ môi trƣờng nƣớc. Đồng thời, kết quả khảo
sát cũng cho thấy thức trạng ngƣời dân ít dành thời gian tham gia vào
các buổi tuyên truyền hay hoạt động bảo vệ môi trƣờng do chính
quyền địa phƣơng xã tổ chức và nếu có tham gia thì thời gian ấy cũng
không nhiều so với thời gian thực hiện các hoạt động khác của ngƣời
dân. Đa phần ngƣời dân điều cho nhận xết rằng việc “ ô nhiễm môi
trƣờng nƣớc ở xã Định Yên hiện nay ” điều do các nguyên nhân nhƣ:
bỏ rác không đúng nơi quy định, lạm dụng thuốc trừ sâu trong việc
sản xuất nông nghiệp, thiếu hệ thông chứa rác và đội ngũ xử lí rác, các
phế phẩm trong việc sản xuất “ chiếu ”,…
Từ thực trạng và những nguyên nhân trên cho thấy cần phải có
những giải pháp cụ thể để nâng cao nhận thức cho ngƣời dân về vai
trò quan trọng của môi trƣờng nƣớc nhƣ sau:
248
Giữ sạch nguồn nƣớc: Nâng cao ý thức cộng đồng để giữ sạch
nguồn nƣớc bằng cách “ không vứt rác bừa bãi, không phóng uế bậy,
không thải trực tiếp vào nguồn nƣớc sạch, sử dụng thuốc trừ sâu đúng
hƣớng dẫn. Cần hạn chế tối đa việc sử dụng các hóa chất gây ô nhiễm
môi trƣờng, đặc biệt là môi trƣờng nƣớc.
Tiết kiệm nƣớc sạch: Giảm lãng phí khi sử dụng nƣớc vào các
sinh hoạt nhƣ nƣớc dội vào nhà vệ sinh, tắt vòi nƣớc khi đánh răng;
kiểm tra, bảo trì cải tạo lại đƣờng ống, bể chứa nƣớc để chống thất
thoát nƣớc; dùng lại nguồn nƣớc bể bơi, nƣớc mƣa vào những việc
thích hợp nhƣ cọ rửa sân, tƣới cây…
Cần có phƣơng tiện chứa rác có nắp đậy kín, đủ sức chứa nhất
là rác hữu cơ ở gia đình, khu tập thể cũng nhƣ nơi công cộng, đồng
thời có biện pháp xử lý hợp vệ sinh không gây ô nhiễm nguồn nƣớc.
Cần có hệ thống xử lý nƣớc thải do sinh hoạt (cống ngầm kín) rồi đổ
ra hệ thống cống chung, đồng ruộng hoặc sông rạch sau khi đã đƣợc
xử lý chung hoặc riêng. Nƣớc thải công nghiệp, y tế phải xử lý theo
qui định môi trƣờng trƣớc khi thải ra cộng đồng.
Từ những giải pháp trên giúp cho ngƣời dân thay đổi hành vi,
để ngƣời dân có thể dành nhiều thời gian hơn cho việc bảo vệ môi
trƣờng nƣớc. Qua phân tích kết quả nghiên cứu, chúng tôi cũng đã tìm
ra một số yếu tố tác động đến thực trạng ô nhiễm môi trƣờng nƣớc ở
xã Định Yên nhƣ: bỏ rác thải bừa bãi, lạm dụng thuốc trừ sâu trong
nông nghiệp, thuốc nhuộm, nhận thức của ngƣời dân về môi trƣờng
chƣa tốt, đội ngũ xử lý rác thải còn hạn chế.
Theo Nghị định số 179/2013/NĐ-CP quy định về các hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trƣờng, hình thức xử phạt,
mức phạt, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả.
Theo điều 14 nếu vi phạm các quy định về xả nƣớc thải có chứa các
thông số môi trƣờng nguy hại vào môi trƣờng
“1. Hành vi xả nƣớc thải vƣợt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải dƣới 02
lần bị xử phạt nhƣ sau:
a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng trong trƣờng hợp
thải lƣợng nƣớc thải nhỏ hơn 05 m3/ngày (24 giờ);
249
b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng trong trƣờng hợp
thải lƣợng nƣớc thải từ 05 m3/ngày (24 giờ) đến dƣới 10 m3/ngày (24
giờ);
c) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng trong trƣờng
hợp thải lƣợng nƣớc thải từ 10 m3/ngày (24 giờ) đến dƣới 20 m3/ngày
(24 giờ);
d) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng trong trƣờng
hợp thải lƣợng nƣớc thải từ 20 m3/ngày (24 giờ) đến dƣới 40 m3/ngày
(24 giờ);
đ) Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 110.000.000 đồng trong trƣờng
hợp thải lƣợng nƣớc thải từ 40 m3/ngày (24 giờ) đến dƣới 60 m3/ngày
(24 giờ);
e) Phạt tiền từ 110.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng trong trƣờng
hợp thải lƣợng nƣớc thải từ 60 m3/ngày (24 giờ) đến dƣới 80 m3/ngày
(24 giờ);
g) Phạt tiền từ 120.000.000 đồng đến 130.000.000 đồng trong trƣờng
hợp thải lƣợng nƣớc thải từ 80 m3/ngày (24 giờ) đến dƣới 100
m3/ngày (24 giờ);…”
Nhƣ vậy, tùy thuộc vào mức độ vi phạm cụ thể sẽ tƣơng ứng
với mức phạt tiền khác nhau. Đối với hành xả chất thải trực tiếp ra
môi trƣờng gây ô nhiêm môi trƣờng xung quanh của nhà hàng xóm,
bạn có thể làm đơn trình báo đến Ủy ban nhân dân xã để đƣợc xem xét
xử lý và áp dụng các biện pháp khác phục.
3. Kết luận
Cuộc nghiên cứu về “ Thực trạng ô nhiễm môi trƣờng nƣớc ở xã
Định Yên và một số giải pháp khắc phục ”. Trong đó nghiên cứu định
lƣợng và nghiên cứu định tính đƣợc xem là hai phƣơng pháp đƣợc sử
dụng chính trong quá trình nghiên cứu. Quá trình thu thập thông tin
đƣợc tiến hành bằng các bảng hỏi thiết kế sẵn đƣợc phỏng vấn trức
tiếp với 40 hộ gia đình tại xã Định Yên, cùng với 5 cuộc phỏng vấn
sâu (04 cuộc phỏng vấn đối với hộ gia đình, 01 cuộc phỏng vấn đối
với cán bộ địa phƣơng xã.
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy khá tổng quát về “ Thực trạng ô
nhiễm môi trƣờng nƣớc ở xã Định Yên và một số giải pháp khắc
phục” nhƣ nhận thức của ngƣời dân về vai trò của việc bảo vệ môi
250
trƣờng nƣớc. Cuộc nghiên cứu cũng đã tìm ra một số yếu tố dẫn đến
tình trạng ô nhiễm môi trƣờng nƣớc ở xã, từ đó đƣa ra những giải
pháp cụ thể từ phía chính quyền địa phƣơng, ngƣời dân, và sinh viên
nhằm nâng cao nhận thức cho ngƣời dân về vai trò và tầm quan trọng
của môi trƣờng nƣớc đối với sự sống. Từ nhận thức giúp ngƣời dân
thay đổi hành vi, để ngƣời dân có thể dành nhiều thời gian tham gia
vào các buổi tuyên truyền hay các hoạt động bảo vệ môi trƣờng do
chính quyền địa phƣơng tổ chức thực hiện.
Tài liệu tham khảo
[1]. Lê Văn Khoa, Ô nhiễm môi trường đất, NXB, Gíáo dục
Việt Nam.
[2]. Bài báo Đồng Tháp Nhiều doanh nghiệp gây ô nhiễm và
khai thác tài nguyên nƣớc trái phép.
[3]. Bài nghiên cứu khoa học về “Ý thức bảo vệ môi trường của
sinh viên tại đại học Cần Thơ ”
[4]. Sách sinh thái học môi trƣờng của Trần Văn Nhân NXB
Bách Khoa Hà Nội.
[5]. Bài nghiên cứu khoa học về “Tìm hiểu về ô nhiễm môi
trường và giáo dục môi trường, thiết kế một số giáo án sinh học 11
nâng cao có tích hợp giáo dục môi trường của Ninh Thị Diệu Hồng
ngành sư phạm sinh năm 2009 ”
[6]. Quyết định về việc phê duyệt dự án: “đánh giá hiện trạng
và đề xuất các giải pháp bảo vệ môi trường tại các khu cụm và làng
nghề sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đến năm
2020 ”
[7]. Bài báo nói về “Báo động tình trạng ô nhiễm môi trường ở
nông thôn”
[8]. Tập chí môi trƣờng: “Hệ lụy từ nguồn nước bị ô nhiễm”
[9]. Bài báo “Hội thảo Góp ý Dự thảo Thông tư ề đánh giá sức
chịu tải, hạn ngạch xả nước thải vào lưu vực sông; Khắc phục ô
nhiễm và cải thiện môi trường các khu vực môi trường bị ô nhiễm ”
[10]. Nghị định số 179/2013/NĐ-CP Nghị định số
179/2013/NĐ-CP Hà Nội, ngày 14tháng 11 năm 2013
[11]. Tập chí môi trƣờng “Ô nhiễm môi trường không khí tiếp
tục là vấn đề nhức nhối”
251
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ RÁC THẢI SINH
HOẠT CỦA HỘ GIA ĐÌNH XÃ TÂN MỸ, HUYỆN LẤP VÒ,
TỈNH ĐỒNG THÁP
SV: Trần Văn Nhiều - Châu Thị Diễm Hƣơng - Mai Thị Anh
Lớp: ĐHCTXH12
GVHD: ThS. Trần Kim Ngọc
Tóm tắt: Với cách thức xử lý rác thải sinh hoạt phổ biến – đốt rác của
người dân ở địa phương xã Tân Mỹ, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp đã
làm ảnh hưởng đến môi trường sống và sức khỏe của người dân. Kết quả
nguyên cứu cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến cách thức xử lý rác
bằng cách đốt, trong đó có nguyên nhân lớn nhất là do thói quen đã đi
sâu vào trong nhận thức và ứng xử của người dân trên địc bàn.Thông
qua kết quả khảo sát đề tài kiến nghị một mô hình thu gom, xử lý rác thải
sinh hoạt phù hợp với đặc điểm dân cư trong khu vực huyện Lấp Vò.
Từ khóa: Rác thải sinh hoạt, xử lý rác thải
1. Mở đầu
quan tâm của toàn xã hội. Bởi vì ô nhiễm môi trƣờng ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến môi trƣờng tự nhiên và sức khỏe của con ngƣời. Các
nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trƣờng. Phần lớn là do các loại rác
thải đƣợc sản sinh ra trong nhiều lĩnh vực từ sản xuất đến tiêu dùng
trong gia đình, ở cả nông thôn thành thị trong quá trình sinh sống của
con ngƣời không đƣợc xử lý đúng cách gây ra. Do rác thải sinh hoạt
của ngƣời dân xử lý rác thải ở vùng nông thôn khi trình độ nhận thức
của ngƣời dân còn hạn chế và hệ thống thu gom và xử lý chƣa đầy đủ.
Rác thải ở khu vực nông thôn là một trong những nguyên nhân gây ra
ô nhiễm môi trƣờng nghiêm trọng. Theo báo cáo ( Theo nguồn Viện
khoa học và Công nghệ môi trƣờng, Đại học Bách Khoa Hà Nội năm
2000). Với dân số 60,703 triệu ngƣời sống ở khu vực nông thôn (năm
2010), lƣợng phát sinh chất thải của ngƣời dân ở các vùng nông thôn
khoảng 0,3 kg/ngƣời/ngày, ta có thể ƣớc tính lƣợng rác thải sinh hoạt
phát sinh khoảng 18,21 tấn/ngày, tƣơng đƣơng với 6,6 triệu
tấn/năm.đồng thoi72theo thống kê tại các đô thị lớn, trung bình một
ngƣời thải ra 1/kg/rác/ngày thì tại nông thôn, lƣợng rác thải ra của 1
ngƣời dân cũng vào khoảng 0,6 – 0,7kg/rác/ngày. Nhƣ vậy với khoảng
252
60,703 triệu ngƣời đang sống tại các vùng nông thôn, mỗi ngày sẽ có
khoảng 30.000 – 35.000 tấn rác cần xử lí.
Việc xử lí rác thải sinh hoạt một cách hợp lí đã và đang đặt ra
những vấn đề khó khăn đối với hầu hết các vùng nông thôn và thị trấn.
Xã Tân Mỹ, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp là một xã vùng sâu, vùng
xa. Do điều kiện kinh tế, nên các biện pháp quản lí chƣa đƣợc quan
tâm đúng mức, nguồn kinh phí đầu tƣ cho các công tác thu gom và xử
lí chƣa nhiều, đặc biệt là nhận thức của ngƣời dân về việc thu gom và
xử lý rác thải chƣa cao.
Xuất phát từ thực tiễn trên, nhằm tìm hiểu thực trạng thu
gom và xử lí rác thải của ngƣời dân địa phƣơng, cuộc khảo sát
đƣợc tiến hành vào tháng 10/2014 tại xã Tân Mỹ, huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp. Mẫu khảo sát gồm 30 hộ dân (đại diện mỗi hộ 1
ngƣời gồm 50% nữ chủ hộ, 50% nam chủ hộ) trên địa bàn xã Tân
Mỹ với kỹ thuật thu thập thông tin định lƣợng dựa vào bản câu
hỏi đƣợc thiết kế sẵn kết hợp với phỏng vấn sâu 10 hộ dân. Bài
viết xin giới thiệu một số kết quả từ cuộc khảo sát trên.
2. Nội dung chính
2.1. Tình hình thu gom và xử lý rác thải của người dân ở xã Tân
Mỹ, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp Kết quả khảo sát cung cấp thông tin về cách thức xử lý rác thải
của ngƣời dân xã Tân Mỹ lựa chọn: theo hình thức đốt, chôn, vứt
xuống sông...
Bảng 1. Cách thức xử lý rác thải của hộ gia đình ở xã Tân Mỹ
Theo hình thức đốt chiếm tỷ lệ cao nhất (53,33%), để vào
thùng rác chiếm tỷ lệ tƣơng đối thấp (20%). Ngoài ra còn có hình thức
xử lý rác thải khác là chôn và vứt xuống sông chiếm tỷ lệ bằng nhau
Đồng ý,
Đốt,
53.33%
Đồng ý,
Chôn, 10%
Đồng ý,
Vứt xuống
sông, 10%
Đồng ý,
Để vào
thùng rác,
20%
253
(10%) Từ đó có thể thấy rằng cách xử lý rác thải của ngƣời dân chƣa
đúng cách làm ảnh hƣởng đến môi trƣờng.
Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự lựa chọn cách thức xử lý rác thải
ở trên có thể thấy qua kết quả khảo sát nhƣ sau:
Bảng 2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến cách thức xử lý rác thải của hộ gia
đình ở Tân Mỹ
Nguồn: Số liệu khảo sát vào tháng 10/2014
Nguyên nhân chính dẫn đến việc xử lí rác sinh hoạt không
đúng cách của các hộ dân ở xã Tân Mỹ thói quen (76,67%). Vì vậy
cần tăng cƣờng hơn nữa các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận
thức của ngƣời dân về việc xử lý rác thải đúng cách để thay đổi thói
quen xử lý rác thải chƣa đúng cách.
Nguyên nhân lớn thứ hai là ý thức ngƣời dân chiếm tỷ lệ
20% - Không chủ động mang rác đến thùng rác, cho rằng thu gom
và xử lí rác là việc của ngƣời khác không phải của cá nhân và gia
đình họ, không chịu thực hiện xử lí rác theo khuyến nghị...
Ý thức của mỗi ngƣời chiếm tỷ lệ (20%). Ngoài việc thay đổi
thói quen vứt rác bừa bãi không đúng nơi quy định của ngƣời dân nơi
đây thì việc nâng cao nhận thức bảo vệ môi trƣờng cho ngƣời dân
cũng không kém phần quan trọng.
Nguyên nhân khác là số tiền phải đóng hàng tháng cho việc thu
gom rác thải là tốn kém một khoảng chi phí của gia đình.
2.2. Tác động của việc thu gom và xử lý rác thải không đúng cách
của người dân xã Tân Mỹ đến môi trường
Trong bảng hỏi mà nhóm đã khảo có hỏi là “mỗi ngày gia đình
Ông/ bà đã cho ra môi trường khoảng bao nhiêu kg rác/ngày?” có
57% hộ cho rằng mỗi ngày họ thải ra môi trƣờng khoảng 2 kg đến 3
kg rác. Chiếm hơn một nữa trong tổng số hộ đƣợc hỏi. Còn lại 43% hộ
cho rằng mỗi ngày họ thải ra môi trƣờng dƣới 2kg rác. Khối lƣợng rác
Series 1,
Thói quen,
76.67%
Series 1,
Tiết kiệm
đƣợc
khoảng
tiền, 3.33%
Series 1, Ý
thức của
mõi ngƣời,
20%
254
thải trung bình mỗi ngày ở đây là rất lớn trong khi đó những nơi có tổ
thu gom và xử lý rác tốt để vào thùng rác chiếm tỷ lệ tƣơng đối thấp
chiếm 20% (nguồn: Số liệu khảo sát vào tháng 10/2014)
Lƣợng rác chƣa đƣợc xử lý đúng cách đƣợc thải ra môi trƣờng
gây ra ô nhiễm môi trƣờng ảnh hƣởng rất lớn đến con ngƣời và môi
trƣờng xung quanh. Vậy nên cần có những giải pháp thiết thực để
ngăn chặn tình trạng ô nhiễm này và muốn làm đƣợc điều đó thì cần
phải có sự quan tâm hơn nữa của các cấp chính quyền địa phƣơng
cũng nhƣ là của ngƣời dân.
Với lƣợng rác thải của hộ gia đình ở xã Tân Mỹ thải ra môi
trƣờng ngày một lớn trong khi các biện pháp xử lí rác chƣa đạt hiệu quả
cao, đã gây ra những ảnh hƣởng nghiêm trọng ở nhiều mặt nhƣ sức khỏe,
giống nòi, hiệu ứng nhà kính, ảnh hƣởng đến môi trƣờng đất, nƣớc,
không khí…và khi xuống địa phƣơng phát bảng hỏi thì nhóm đã thu
đƣợc kết quả có 60% ngƣời dân cho rằng ảnh hƣởng nhiều nhất đến sức
khỏe và chỉ có 6,67% ngƣời dân cho rằng rác ảnh hƣởng đến môi trƣờng
đất, 16,67% cho rằng ảnh hƣởng đến môi trƣờng nƣớc.
Ngƣời dân có biết ô nhiễm môi trƣờng ảnh hƣởng đến sức
khỏe.....nhƣng cách thức thực hiện chƣa đƣợc hiểu đúng, làm đúng,
ngƣời dân chƣa nhận ra vai trò và trách nhiệm của cá nhân và gia đình
họ trong việc thực hiện phòng chống ô nhiễm môi trƣờng. Điều này có
thể nhìn thấy ở số liệu xử lý rác thải bằng cách đốt (chiếm 53,3%). Họ
cho rằng việc tự tiêu hủy bằng hình thức đốt là cách xử lý vừa nhanh
gọn vừa đỡ tốn thời gian, ít tốn kém và nó đã là thói quen của ngƣời
dân từ trƣớc đến nay. Bằng cách xử lý này họ cho rằng tiện lợi nhất
nên mọi ngƣời dân đều áp dụng cho việc xử lý rác thải nơi đây.
Bảng 3. Nhận thức của hộ dân xã Tân Mỹ về tác hại của ô nhiễm
môi trƣờng
Nguồn: Số liệu khảo sát vào tháng 10/2014
Sức khỏe Giống nòi Hiệu ứng
nhà kính
Môi
trƣờng
nƣớc
Đồng ý 60% 3.30% 10% 16.70%
255
Nhìn chung, việc xử lý rác không đúng cách sẽ gây ra rất nhiều
bệnh ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời và môi trƣờng xung quanh.
Điều này đã đƣợc ngƣời dân cho ý kiến thông qua trả lời bảng hỏi. Ta
cũng thấy đƣợc rằng ngƣời dân nhận thức đƣợc một phần tác hại của ô
nhiễm môi trƣờng do một số nguyên nhân từ xử lý rác không đúng
cách. Vì vậy khả năng khắc phục tình trạng trên bằng các biện pháp cụ
thể, phù hợp có khả năng thành công khá lớn xuất phát từ nhận thức
đúng đắn đó của ngƣời dân.
2.3. Đề xuất mô hình thu gom, xử lí rác sinh hoạt tại nguồn của hộ
dân xã Tân Mỹ
Xuất phát từ thực trạng tại địa phƣơng là tình trang ô nhiễm
môi trƣờng vẫn còn đang diễn ra hàng ngày bởi khá nhiều lý do, trong
đó lý do quan trọng nhất là từ ngƣời dân và cơ quan ban ngành và tình
hình đặc điểm riêng biệt của địa phƣơng nơi này mà nhóm chúng tôi
có đề ra một mô hình xử lý rác thải tại nguồn nhƣ sau:
Hình 1: Mô hình thu gom, xử lý rác sinh hoạt tại nguồn
của hộ dân
256
Nhìn vào mô hình ta thấy rõ đƣợc những công việc của từng bộ
phận, từ ngƣời dân đến với các ban ngành, chức trách. Nhƣng mô hình
này cần có đƣợc nhóm nồng cốt đƣợc thành lập tại địa phƣơng và phải
phân công công việc rõ ràng. Trên hết vẫn phải dựa trên nguyên tắc tự
nguyện của ngƣời dân. Để có đƣợc tinh thần tự giác của ngƣời dân thì
địa phƣơng cần chuyển khai “Mô hình Tổ thu gom rác thải”. Tổ thu
gom rác đƣợc thành lập sẽ giúp cho ngƣời dân nhận thức đƣợc lợi ích
của việc thu gom, xử lí rác đúng cách.
Và mô hình này sẽ rất khả thi khi đƣợc áp dụng tại xã Tân Mỹ
và nếu hiệu quả cao thì chúng ta có thể nhân rộng mô hình này đến
với các địa phƣơng khác bởi vì khi hỏi ngƣời dân với nhận định là
“bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn dân” thì có 66,7% đồng
ý, 30% rất đồng ý và có 3,3% hơi đồng ý. Điều này cho thấy ngƣời
dân có ý thức để bảo vệ môi trƣờng nhƣng vì điều kiện và nhiều lý do
khác nên họ chƣa có thể thực hiện. Và chúng tôi tiếp tục hỏi ngƣời
dân nơi đây với nhận định “rác bỏ đâu cũng được” thì có 80% không
đồng ý về nhận định rác bỏ đâu cũng đƣợc. Điều đó cho thấy ngƣời
dân có dân nhận thức về việc bảo vệ môi trƣờng. Với cuộc phỏng vấn
sâu thì có một số hộ dân cho rằng: “Tôi cũng muốn bảo vệ môi trường
lắm, nhưng rác thì đâu có đem đi đâu để xử lý được đâu mà cũng
không thể để trong nhà lâu được. Vì vậy, phải vứt xuống sông hay đốt
thôi, phải chi có người thu gom hay xử lý thì tôi cũng tham gia thôi”.
Có thể thấy rằng việc ngƣời dân muốn thu gom và xử lý rác đúng cách
nhƣng điều kiện thu gom và xử lý là thiếu hụt.
Hoạt động mô hình có sự tham gia của cộng đồng trong công
tác quản lý rác sinh hoạt nói riêng và bảo vệ môi trƣờng nói chung.
Thêm vào đó là những ngƣời dân khi tham gia vào việc thu gom nhƣ
thế họ sẽ có thêm nguồn thu nhập. Hơn thế nữa là ngƣời dân sẽ nhận
thức đầy đủ hơn về việc bảo vệ môi trƣờng từ đó họ sẽ tuyên truyền
cho mọi ngƣời xung quanh cứ nhƣ thế thì mọi ngƣời sẽ hiểu rõ hơn về
mô hình này.
Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả và duy trì đƣợc hoạt động,
chính quyền địa phƣơng (UBND xã, thị trấn) phải quản lý tốt tổ thu
gom (về kinh phí và tổ chức hoạt động).
257
3. Kết luận
Từ những phân tích trên cho thấy việc đáp ứng một mô hình
thu gom và xử lý rác sinh hoạt cụ thể, phù hợp với địa phƣơng xã Tân
Mỹ là hết sức cần thiết. Chính quyền địa phƣơng, cơ quan ban ngành
đóng vai trò quan trong việc triển khai thành lập mô hình thu gom và
xử lý rác và phải nâng cao nhận thức của chính ngƣời dân để có ý thức
bảo vệ môi trƣờng. Nhằm giảm thiểu tác hại đến sức khỏe con ngƣời
và môi trƣờng thì cần có những hành động đồng bộ từ nhiều phía nói
trên nhƣng quan trọng hết phải xuất phát từ ngƣời dân. Có thay đổi
nhận thức mới có thể thay đổi hành vi của ngƣời dân. Điều này cần
đƣợc sự tác động lâu dài và bền bỉ của chính quyền địa phƣơng, để
đáp ứng đƣợc những điều kiện cần thiết cho việc thu gom và xử lý rác
thải tƣơng thích với tình hình và điều kiện của địa phƣơng.
Tài liệu tham khảo
[1]. Báo cáo môi trƣờng Quốc gia (2012), Bộ tài nguyên môi
trƣờng.
[2]. Lê Văn Khoa (2000), “Khoa học môi trƣờng”, Hà Nội: Nxb.
Giáo Dục.
[3]. Lê Hoàng An và Nghiêm Thị Hoàng An (2013), “Chất thải
rắn nông thôn-vấn đề còn bỏ ngõ”, Tổng cục Môi trƣờng.
[4]. Trần Thị Thu Hiền (2010), “Hiện trạng và giải pháp về tài
nguyên và môi trƣờng theo định hƣớng xây dựng nông thôn mới”,
Phòng Tài nguyên- Môi trƣờng, thị trấn Tân Châu.
258
TÌM HIỂU VỀ DỰ ÁN PHÙ SA
Ở THÀNH PHỐ CAO LÃNH, ĐỒNG THÁP
SV: Phan Thùy Vân – Hồ Thị Ngọc An
Lớp: ĐHCTXH13
GVHD: CN. Đỗ Thị Thảo
Tóm tắt: Qua hoạt động đánh giá Dự án Phù Sa, cho thấy được Dự
án với mục tiêu giúp đỡ trẻ em và thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó
khăn, được hòa nhập cuộc sống, cải thiện điều kiện sống của bản thân
và gia đình, nhưng bên cạnh đó Dự án vẫn chưa đáp ứng được hầu
hết nhu cầu, nguyện vọng của trẻ em và thanh thiếu trên địa bàn. Dự
án cũng gặp không ít khó khăn về tài chính từ khi chuyển giao cho
Công ty Công nghệ Truyền thông Tương lai, do không còn nhận được
sự tài trợ của nước ngoài. Qua đó cũng nhằm đề ra những giải pháp
nhằm giúp Dự án hoạt động tốt và giúp đỡ cũng như đáp ứng được
nhu cầu của trẻ em và thanh thiếu niên, góp phần tạo đất nước có
nhiều nguồn nhân lực trẻ phát triển đất nước.
Từ khóa: hiệu quả, hoạt động, Dự án, Dự án Phù Sa.
1. Mở đầu
Trong xã hội hiện đại, hội nhập kinh tế quốc tế, giao lƣu với
các nƣớc trên thế giới ngày càng rộng mở, tạo điều kiện động lực cho
đất nƣớc ngày càng phát triển về nhiều mặt nhƣ: kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật, du lịch,… giúp cho con ngƣời có cuộc sống ấm no
và hạnh phúc, nhƣng đời sống con ngƣời dù giàu có đến đâu cũng
không tránh khỏi những bệnh tật, mâu thuẫn, chia ly, tai nạn,… do đó
dù đất nƣớc có phát triển đến đâu, xã hội cũng luôn tồn tại những
ngƣời nghèo, ngƣời già yếu, khuyết tật, ngƣời nghiện ma túy, trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Với tƣ cách là một công dân, họ phải
đƣợc đảm bảo mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình,
không phân biệt địa vị xã hội, chủng tộc tôn giáo, cùng với sự phát
triển của xã hội, đặc biệt sau cuộc cách mạng công nghiệp, an sinh xã
hội đã dần dần xuất hiện và phát triển. An sinh xã hội ra đời đã giúp
cho những ngƣời bất hạnh, những ngƣời kém may mắn có thêm những
điều kiện cần thiết để khắc phục những bất công, những rủi ro có cơ
hội để phát triển, hòa nhập cộng đồng, và một trong những đối tƣợng
an sinh xã hội luôn đặt biệt quan tâm đó chính là trẻ em, thanh thiếu
niên nói chung và trẻ em, thanh thiếu niên có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn nói riêng
259
Trẻ em và thanh thiếu niên là lứa tuổi đang phát triển và cần có
đƣợc điều kiện tối ƣu để phát triển, và cũng là một thế hệ tƣơng lai trẻ,
là mầm xanh của đất nƣớc, rất cần thiết để đƣợc phát triển cả vật chất
lẫn tinh thần. Trong thƣ gửi học sinh nhân ngày khai trƣờng đầu tiên
của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết
: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của
các em” [Thƣ gửi các em học sinh nhân ngày khai trƣờng đầu tiên của
nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945].. Qua đó cũng thấy
đƣợc tầm rất quan trọng của trẻ em và thanh thiếu niên đối với sự
nghiệp phát triển của đất nƣớc. Nhƣng trong xã hội hiện nay bên cạnh
những trẻ em và thanh thiếu niên có đầy đủ điều kiện học tập, vui chơi
giải trí thoải mái vẫn còn lắm những trẻ em và thanh thiếu niên không
nơi nƣơng tựa, mồ côi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em lao động
sớm và trẻ khuyết tật,… Theo thống kê của Bộ Lao động thƣơng binh
và xã hội, đến cuối tháng 6 năm 2009 ở Việt Nam có đến 3 triệu trẻ
em gặp hoàn cảnh khó khăn, ngoài ra còn theo số liệu mới nhất của tổ
chức Lao động Quốc Tế (ILO) có ít nhất 218 triệu lao động trẻ em
trong độ tuổi từ 5 đến 17 tuổi và hầu hết tập trung ở các thành phố lớn.
Cả nƣớc nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng theo số liệu thống kê
năm 2013 có 2960 trẻ em mồ côi, 2413 trẻ em bị khuyết tật, 104 trẻ
em lang thang, trẻ em vi phạm pháp luật 61 em, 37 trẻ em bị xâm hại
tình dục, 2219 trẻ em bị bỏ rơi, 49 trẻ em nhiễm chất độc hóa học, 64
trẻ em lao động trong điều kiện nặng nhọc, nguy hiểm,… [Bảng tổng
hợp rà soát trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt năm 2013, báo cáo
toàn tỉnh Đồng Tháp 2013].
Do đó trẻ em cũng nhƣ thanh thiếu niên cần lắm những bàn tay
dìu dắt, thƣơng yêu, đùm bọc và chở che các em phát triển một cách
toàn diện, giúp đỡ các em vƣợt qua những khó khăn, nghịch cảnh của
cuộc đời, giúp các em có ý chí nghị lực vƣơn lên trong cuộc sống trở
thành ngƣời có ích cho bản thân, gia đình, xã hội. Giúp đỡ các em
không chỉ cho chính bản thân của mỗi trẻ em mà còn vì tƣơng lai, vì
sự phát triển hội nhập quốc tế của đất nƣớc. Nhận thấy đƣợc sự cấp
thiết đó, tỉnh Đồng Tháp nói chung và Thành phố Cao Lãnh nói riêng
đã có nhiều chƣơng trình, mô hình an sinh xã hội nhằm giúp cho trẻ
em và thanh thiếu niên có đầy đủ điều kiện phát triển về mọi mặt,
đƣợc vui chơi giải trí, đƣợc học tập và đƣợc hƣởng tất cả mọi quyền
260
lợi nhằm phát triển toàn diện bản thân, một trong những mô hình an
sinh xã hội giúp đỡ trẻ em ở thành phố Cao Lãnh là mô hình hoạt
động của Dự án Phù Sa do công ty Cổ phần Công nghệ Truyền thông
Tƣơng lai điều hành từ năm 2014 do UBND Thành phố Cao Lãnh
chuyển giao, nhằm giúp đỡ trẻ em, thanh/thiếu niên có hoàn cảnh khó
khăn, thiếu điều kiện học tập, có nguy cơ lâm vào hoàn cảnh lang
thang cơ nhỡ có điều kiện để hội nhập xã hội đƣợc hỗ trợ học nghề,
học chữ, có việc làm từ nguồn hỗ trợ của Liên minh Châu Âu và ngân
hàng HSBC – thành phố Hồ Chí Minh.
Qua nhiều năm thực hiện mô hình Dự án Phù Sa đã giúp đỡ rất
nhiều đối tƣợng, giúp các em hòa nhập tốt với cộng đồng, tuy nhiên
bên cạnh đó mô hình vẫn chƣa đem lại hiệu quả tối đa cho hầu hết các
trẻ em, vẫn còn nhiều trẻ em khó khăn, vì thế nhóm chúng tôi xin
nghiên cứu vấn đề “ Đánh giá hiệu quả hoạt động Dự án Phù Sa ở
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” qua đó nhằm đánh giá đƣợc
hiệu quả của việc thực hiện mô hình của Dự án và nhận thấy đƣợc tầm
quan trọng của việc đảm bảo an sinh xã hội cho trẻ em và thanh thiếu
niên, đồng thời đề ra biện pháp giúp cho việc thực hiện Dự án Phù Sa
ngày càng nhân rộng và giúp đỡ đáp ứng đƣợc hầu hết tất cả trẻ em ở
thành phố Cao Lãnh.
2. Nội dung chính
2.1. Thực trạng hoạt động mô hình của Dự án Phù Sa
Trong đời sống xã hội càng hiện đại, luôn luôn kéo theo những
bất công, bất bình đẳng, làm cho đời sống con ngƣời trở nên khó khăn
hơn, ngƣời giàu càng giàu hơn, ngƣợc lại ngƣời nghèo lại nghèo hơn.
Đặt biệt là lứa tuổi trẻ em và thanh thiếu niên cần phải đƣợc bảo vệ và
chăm sóc đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần nhƣng không phải ai cũng
có đƣợc những may mắn đó, còn lắm những mảnh đời bất hạnh cần sự
sẻ chia, chung tay của mọi ngƣời.
Nhận thấy đƣợc sự bức thiết đó, với mục tiêu giúp đỡ những
đối tƣợng yếu thế là trẻ em, thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn,
lang thang cơ nhỡ, đƣợc hòa nhập với cuộc sống, UBND thành phố
Cao Lãnh phối hợp cùng các tổ chức phi chính phủ đa quốc gia thành
lập Dự án Phù Sa vào tháng 10 năm 2005. Đơn vị chủ quản của dự án
trong giai đoạn này là UBND thành phố Cao Lãnh. Dự án đƣợc chia
làm 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu, dự án triển khai trực tiếp các hoạt
động công tác xã hội từ nguồn tài chính của các tổ chức Terre des
261
hommes Lausanne (Thụy Sỹ) và Liên Minh Châu Âu EU hỗ trợ. Qua
đó, dự án cũng đã thu đƣợc một số kết quả đáng ghi nhận:
Giai đoạn 1 và 2 (2005 – 2010): Dự án Phù Sa thực hiện sứ
mệnh với mô hình“Tƣ vấn và hỗ trợ dịch vụ cho trẻ em và thanh thiếu
niên có hoàn cảnh khó khăn, có nguy cơ lang thang” tại 15 phƣờng, xã
thành phố Cao Lãnh, trên cơ sở thoả thuận hợp tác giữa UBND thành
phố Cao Lãnh, Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em thành phố và tổ chức
Terre des homes Lausanne Thuỵ Sĩ bƣớc đầu đi vào việc tìm hiểu, tiếp
xúc và có hƣớng hỗ trợ các đối tƣợng, thông qua hoạt động tiếp cận và
tiếp nhận các trẻ, cùng với vãng gia gia đình của các trẻ, đồng thời cũng
tiến hành phát đƣợc 2000 tờ bƣớm trên 7 địa bàn Thành phố Cao Lãnh.
Để có thể đáp ứng tốt cũng nhƣ đầy đủ các nguyện vọng của trẻ, giúp
trẻ hòa nhập tốt cuộc sống, Dự án đã tiến hành hỗ trợ giáo dục, qua theo
dõi và đƣợc hỗ trợ nhận thấy đƣợc trong số các em đƣợc tiếp cận có
một số em có dấu hiệu học sa sút, không theo kịp bài giảng, các em tỏ
ra chán học, chơi game vì thế nguy cơ các em nghĩ học là rất cao, để
hạn chế phần nào số em bỏ học do học yếu, dự án kết hợp với sinh viên
tình nguyện tổ chức dạy kèm hàng đêm cho các em các môn cơ bản nhƣ
Toán, Anh văn và Ngữ văn, Lớp dạy kèm đƣợc mở đƣợc 2 tháng và
mỗi đêm có 5 đến 8 em đến học, ngoài ra còn mở lớp linh hoạt từ lớp 1
đến lớp 5, hoạt động tƣ vấn hỗ trợ học nghề đƣợc dự án chú trọng trong
suốt giai đoạn vừa qua, từ số em đƣợc đƣa học nghề giai đoạn 1 là 17
em , trong giai đoạn 2 dự án tiếp tục hỗ trợ cho 59 em đƣợc học nghề
tại các cơ sở trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, các em đƣợc dạy nghề
chủ yếu có thời gian học ngắn từ 1 đến 2 năm nhƣ: hớt tóc, làm tóc,
móng tay ; sửa xe gắn máy, sửa điện thoại di động, điện lạnh, điện tử,
may…cho các trẻ em và thanh thiếu niên, bên cạnh đó cũng giúp các
em tìm đƣợc việc làm sau khi kết thúc khóa học, nhƣng do khả năng
của các em còn rất hạn chế nên việc theo đuổi công việc lâu dài cũng
rất khó khăn, hỗ trợ và tƣ vấn giúp cho các em chia sẻ nguyện vọng của
mình trong cuộc sống, qua đó giúp các em có ý chí nghị lực vƣơn lên
trong cuộc sống, vận động các trƣờng miễn giảm học phí cho trẻ, ngoài
ra còn mở những lớp những kỹ năng sống cho các em khá phong phú,
ngoài các chủ đề giúp các em có kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ mình và
rèn luyện bản thân, dự án còn tìm tòi các kiến thức mới và mang tính
thời sự cập nhật cho các em nhƣ môi trƣờng, giải quyết mâu thuẩn tuổi
học trò…. Song song với việc truyền thông, tập huấn kỹ năng sống cho
các em, dự án đều tổ chức định kỳ kiểm tra kiến thức thông qua các hội
262
thi đƣợc tổ chức hàng năm, tiếp theo đó còn tổ chức vui chơi giải trí
cho trẻ nhằm trang bị những kiến thức cần thiết trong cuộc sống, ngoài
các hoạt động thƣờng niên, dự án còn đƣợc các tổ chức và cơ quan
chuyên trách địa phƣơng tạo điều kiện để dự án tổ chức cho các em
tham gia các hoạt động tập trung và có quy mô lớn. Ngoài ra Dự án còn
giúp các em làm giấy tờ tùy thân, hỗ trợ các em trong trƣờng hợp
chuyển, nhập hộ khẩu, làm giấy chứng minh thƣ và khai sinh cho các
em, tạo điều kiện thuận lợi cho các em đƣợc nhập học, có việc làm.
Trong giai đoạn này, tổ chức tài trợ chính cho dự án là Terre des
hommes Lausanne (Thụy Sỹ), cũng đã đạt đƣợc những kết quả tiếp cận
và hỗ trợ cho 315 trẻ.
Giai đoạn 3 (2011 – 2013): với sự tài trợ của Liên Minh Châu
Âu, Dự án Phù Sa cùng với 2 tiểu dự án là Bình Minh –TP. Cần Thơ
và Tƣơng Lai – TP.HCM thực hiện sứ mệnh với mô hình “Cùng nhau
làm việc để bảo vệ và thúc đẩy các Quyền của trẻ em và thanh thiếu
niên có nguy cơ”, với tổng vốn trên 2 tỷ đồng. Dự án đã thu hút sự
đƣợc tham gia của chính quyền và các nhà hoạch định chính sách
tham gia diễn đàn về quyền trẻ em thông qua các buổi hội thảo chuyên
đề, trao quyền cho trẻ em và thanh thiếu niên nói lên quyền của mình
thông qua các sự kiện đặc biệt. Dự án đã tiếp cận đƣợc 14 xã, phƣờng
trên địa bàn, dự án cũng đã tổ chức cho các giáo dục viên và tình
nguyện viên đi tiếp cận vào ban đêm ở các khu vui chơi mà trẻ em và
thanh thiếu niên lang thang thƣờng tụ tập nhƣ: Công viên Văn Miếu,
công viên Thiếu Nhi, Chợ Cao Lãnh… Trong giai đoạn này, Dự án đã
liên hệ với các trƣờng, lập danh sách các trẻ có hoàn cảnh khó khăn để
có hƣớng hỗ trợ thích hợp, cùng với đó cũng thực hiện ở lĩnh vực Y
tế, giúp các em khám và chữa bệnh. Giai đoạn này cũng giúp các trẻ
đƣợc hỗ trợ học nghề, tổng số trẻ đƣợc theo dõi học nghề là 24 em,
trong đó 6 tháng đầu năm 2011 đã đƣa đƣợc 9 em đi học nghề với các
ngành nghề nhƣ: Sửa xe gắn máy, hớt tóc, uốn tóc, may.... Hiện nay
nhu cầu học nghề ở trẻ còn rất nhiều, dự án đang tiếp tục tƣ vấn nghề
cho các em và tiếp tục đƣa trẻ đi học nghề. Dự án đã tiếp cận vãng gia,
lắng nghe chia sẻ, nguyện vọng, nhu cầu về nghề nghiệp của trẻ, qua
đó đã hỗ trợ giúp các em với các công việc nhƣ: Nhân viên phục vụ,
nhân viên bán hàng, thợ sửa xe, thợ may với mức thu nhập từ
1.200.000 đồng đến 2.300.000 đồng/ tháng, nhƣng số trẻ đi làm còn
chƣa cao vì trong quá trình đi tiếp cận trẻ tại các xã, phƣờng thì hầu
hết trẻ ít có nhu cầu đi làm hoặc có nhu cầu đi làm nhƣng đòi hỏi công
263
việc không phù hợp với khả năng của các em, Dự án còn tiến hành
khảo sát nhu cầu trẻ về kỹ năng sống nhằm chọn lọc ra các chủ đề kỹ
năng sống để chia sẻ truyền thông cho trẻ nhƣ ý muốn của trẻ, tổ chức
chia sẻ kinh nghiệm cho 11 trẻ về kỹ năng sống để từ đó các em có thể
vận dụng các kỹ năng đƣợc học vào cuộc sống. Tổ chức các hoạt động
vui chơi giải trí, hội trại, giúp trẻ có đƣợc sân chơi lành mạnh và tự tin
hơn trong cuộc sống. Ngoài ra Dự án đã góp phần nâng cao sự hiểu
biết và thúc đẩy việc thực hiện quyền trẻ em, thông qua hoạt động làm
giấy tờ tùy thân cho các em. Hình thức hoạt động trong giai đoạn này
là xây dựng một mạng lƣới có năng lực với các thành phần khác nhau,
bao gồm các Ban, ngành, phƣờng, xã, trƣờng học, tổ chức xã hội khác,
các cơ sở đào tạo nghề, việc làm, gia đình và trẻ em. Mạng lƣới này sẽ
cùng chung tay thực hiện và bảo vệ các quyền lợi của trẻ em và thanh
thiếu niên có nguy cơ lang thang, cơ nhỡ, dễ sa vào tệ nạn xã hội, thất
nghiệp… trên địa bàn thành phố Cao Lãnh.
Dự án Phù Sa với sự định hƣớng hoạt động, điều hành và quản
lý trực tiếp của Công ty CP Công nghệ Truyền thông Tƣơng Lai
(T.Info), sẽ thực hiện sứ mệnh hỗ trợ các em trong độ tuổi từ 14 đến
22 tuổi có hoàn cảnh khó khăn, lang thang cơ nhỡ hay các trƣờng hợp
đặc biệt (mồ côi cha mẹ, không ngƣời đỡ đầu, khuyết tật) để có thể hội
nhập xã hội. Về hiện tại, dự án Phù Sa đã tiếp nhận đƣợc khoảng 400
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, lang thang cơ nhỡ, trong giai đoạn năm
2014 dự án dự kiến sẽ đƣợc mở rộng trên địa bàn các huyện, thị của
tỉnh Đồng Tháp, đặc biệt là huyện Cao Lãnh. Dự án không chỉ giải
quyết các vấn đề về việc làm cho trẻ em, thanh thiếu niên có nguy cơ
lang thang, cơ nhỡ, thất nghiệp, dễ sa vào tệ nạn xã hội… mà hơn hết
dự án còn góp phần giảm thiểu các tệ nạn xã hội, định hƣớng tƣơng lai
cho các em và quan trọng hơn hết là xây dựng những con ngƣời có ích
cho xã hội, cho nƣớc nhà, thông qua dạy các em học nghề làm tranh
gạo rang và nghề may. Những em nào khó khăn mới vào công ty sẽ
đƣợc giúp đỡ hỗ trợ 1.500.000đ kinh phí, sau mỗi tháng sẽ đƣợc hỗ
trợ 300.000đ kinh phí, ngoài ra sau một thời gian học thành thạo tay
nghề công ty sẽ trả tiền lƣơng cho các em, cùng với đó sẽ giới thiệu
việc làm cho các em sau khi ra trƣờng, và giữ các em lại làm việc cho
công ty với những em nào có tay nghề, ngoài ra trong quá trình học
nghề, nếu có nhu cầu tìm việc làm thì các em đƣợc Công ty nhận vào
làm tại quầy Tcoffee của Công ty.
264
2.2. Kết quả thực hiện mô hình của Dự án Phù Sa
Từ khi triển khai thực hiện mô hình của Dự án Phù Sa không
chỉ giúp ích đƣợc rất nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, lang thang
cơ nhỡ, giúp các em có điều kiện hòa nhập với cộng đồng và có ý chí
nghị lực vƣơn lên trong cuộc sống, qua đó góp phần giảm tình trạng tệ
nạn xã hội, cụ thể đã đạt đƣợc những kết quả thành công qua từng giai
đoạn cụ thể
Giai đoạn 1 và 2: với mô hình “Tƣ vấn và hỗ trợ dịch vụ cho
trẻ em và thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn, có nguy cơ lang
thang” ở giai đoạn 1 thông qua các hoạt động vãng gia 175 hộ gia đình
và phát trên 2000 tờ bƣớm trên địa bàn Thành phố Cao Lãnh, Dự án
đã tiếp cận 315 trẻ em và tiếp nhận trên 253 trẻ và thanh thiếu niên có
hoàn cảnh khó khăn, có nguy cơ lang thang, ngoài ra còn tƣ vấn và hỗ
trợ cho các em đƣợc học tập và học nghề. Dự án có 42 trẻ đạt ba
chuẩn để hội nhập với các chuẩn: giáo dục, kỹ năng sống, giấy tờ tùy
thân, thu nhập, trong đó có 36 trẻ đạt ba chuẩn: giáo dục, kỹ năng
sống, giấy tờ tuỳ thân, 6 trẻ đạt ba chuẩn: giấy tờ tuỳ thân, thu nhập,
kỹ năng sống, 6 trẻ đạt bốn chuẩn: giáo dục, giấy tờ tuỳ thân, kỹ năng
sống, thu nhập, 1 trẻ đạt năm chuẩn. Trong giai đoạn này, Dự án đã hỗ
trợ cho các trẻ em và thanh thiếu niên đƣợc hỗ trợ học nghề và học
chữ, các em sẽ đƣợc học nghề chủ yếu là hớt tóc, may, sửa xe gắn
máy, trang trí nội thất, điện cơ, điện tử, lái xe, uốn tóc. Ngoài ra có 97
em đƣợc hỗ trợ học chữ, 61 em học hết trung học phổ thông, 36 trẻ em
học lớp Linh Hoạt, Dự án đã vận động sự hỗ trợ của Phòng Giáo dục
và các ngành có liên quan tổ chức khai giảng tổng kết lớp cho trẻ học
lớp phổ cập, tổng số trẻ đƣợc hỗ trợ học lớp phổ cập là 24 trẻ, vận
động các trƣờng miễn giảm học phí cho các em có hoàn cảnh khó
khăn với tổng số tiền là: 1,582,000đồng. Về học nghề, Dự án còn hỗ
trợ cho 20 em học nghề, đến nay, đã giúp 21 em học nghề, trong đó có
2 em có việc làm và thu nhập ổn định, sau khi kết thúc khóa học nghề
các em sẽ đƣợc giới thiệu việc làm, năm 2006 chƣa đƣợc em nào đi
làm, chỉ liên hệ đƣợc 11 cơ sở tuyển dụng, kế hoạch năm 2007 đƣa ra
20 cơ sở, kết quả trong năm đã liên hệ đƣợc 36 cơ sở tuyển dụng. Bao
gồm nhiều việc làm nhƣ: bán hàng, nhân viên phục vụ, nhân viên
photocopy, phụ bếp…Số trẻ đƣợc hỗ trợ việc làm, kế hoạch năm 2007
đƣa ra 10 trẻ, kết quả thực hiện trong năm đạt 14 trẻ, vƣợt chỉ tiêu 4
trẻ. Trong đó có 12 trẻ có mức thu nhập hàng tháng trên 500.000
đồng, 1 trẻ có thu nhập dƣới 500.000 đồng/tháng. Vận động các chủ
265
cơ sở miễn giảm học phí cho các em học nghề với tổng số tiền là:
12,900,000đồng. Ngoài ra, Dự án còn trang bị cho các em những kỹ
năng kiến thức cơ bản, giúp các em tự bảo vệ khi tham gia lao động,
giao tiếp xã hội, Dự án đã truyền thông 8 chuyên đề về HIV/AIDS, ma
túy, điểm mạnh điểm yếu, quản lý chi tiêu, xây dựng mối quan hệ, vệ
sinh thân thể- răng miệng, an toàn giao thông, những vấn đề của tuổi
dậy thì… Số trẻ tham gia tập huấn kỹ năng sống là 195 em. Trong
tháng 11 hàng năm, Dự án tổ chức hội thi kỹ năng sống cho 20 trẻ dự
thi với các hình thức nhƣ: hái hoa dân chủ, đóng kịch, văn nghệ… đã
thu hút nhiều trẻ và phụ huynh tham dự. Ngoài ra, trẻ của Dự án còn
tham gia Hội trại văn hóa thể thao, Hội thi vẽ tranh dành cho trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt do tỉnh tổ chức… Các em đã đạt đƣợc thứ hạng cao
trong các hội thi. Vận động các khu vui chơi giải trí miễn giảm tiền vé
cho các em trong các lần vui chơi với tổng số tiền là: 5,993,000đồng.
Để giúp trẻ em có đầy đủ giấy tờ tùy thân theo quyền trẻ em, thời gian
qua Dự án đã hỗ trợ, giúp đỡ 24 em đƣợc làm giấy chứng minh nhân
dân (CMND), 3 em làm giấy khai sinh, 4 em nhập hộ khẩu. Ngoài các
hoạt động trên, Dự án còn tổ chức 10 lần vui chơi giải trí thƣờng kỳ
cho 162 trẻ tham gia và 2 lần dã ngoại xa (Mũi Né và Giáo Giồng) cho
70 trẻ tham gia. Trong giai đoạn 2, Dự án đã tiếp cận đƣợc 660 em,
thực tế số trẻ có hoàn cảnh khó khăn rất lớn nhƣng vì kinh phí có hạn
nên 296 em trong số này đƣợc tiếp nhận hỗ trợ, về giáo dục dự án đã
hỗ trợ cho 331 em, trong đó có 270 em học trƣờng phổ thông và 61
em học lớp linh hoạt, đã hỗ trợ các em đến trƣờng tại 24 trƣờng phổ
thông, công tác vận động các nguồn lực hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt cũng đƣợc dự án chú trọng, đã quyên góp sách cũ 1.627
quyển, hơn 1.500 quyển tập trắng, 2.309.500đ từ các mạnh thƣờng
quân và cơ sở tƣ nhân, vận động Ngân hàng HSBC Việt Nam hỗ trợ
22.667.000đ và 11 xe đạp cũ trị giá 11.500.000 đồng. Phòng Lao
Động Thƣơng binh và Xã hội thành phố hỗ trợ 24.180.000đ hỗ trợ khó
khăn, dụng cụ học tập và phí học nghề từ chƣơng trình 19 của Chính
Phủ. Dự án cũng tiếp tục hỗ trợ cho 59 em đƣợc học nghề tại các cơ
sở trên địa bàn thành phố Cao Lãnh và tạo việc làm cho các em sau
khi kết thúc khóa học nghề, bên cạnh đó dự án đã hỗ trợ thành công
các trƣờng hợp chuyển, nhập hộ khẩu, làm giấy chứng minh thƣ và
khai sinh cho các em, tạo điều kiện thuận lợi cho các em đƣợc nhập
học, có việc làm, ngoài ra thông qua việc tạo sân chơi cho các em vui
266
chơi, giải trí đã giúp các em đƣợc nâng cao nhận thức của bản thân,
hòa nhập cộng đồng.
Giai đoạn 3: với mô hình “Cùng nhau làm việc để bảo vệ và
thúc đẩy các Quyền của trẻ em và thanh thiếu niên có nguy cơ”, đã
tiếp cận và hỗ trợ đƣợc 876 trẻ từ 06 tuổi đến 20 tuổi trong 2,000 trẻ
mục tiêu. Tổ chức đƣa 20 em đi Thành phố Hồ Chí Minh nhận học
bổng trị giá 1.000.000đồng/ em với tổng giá trị là 20.000.000đồng, tổ
chức phát quà cho 200 em tại các điểm trƣờng tiểu học: Tịnh Thới,
Hoàng Hoa Thám, Mỹ Trà, Hoà An, Hoà Thuận, mỗi phần quà trị giá
là 60.000 đồng (Vận động từ các nhân viên của Ngân hàng HSBC)
tổng giá trị là: 21.444.000 đồng. Về lĩnh vực y tế cho đến thời điểm
này vẫn chƣa tổ chức đƣa trẻ đi khám, chữa bệnh đƣợc vì hiện nay trẻ
chƣa có nhu cầu này. Tổng số tiền vận động các mạnh thƣờng quân hỗ
trợ cho bộ phận giáo dục là 41.444.000đồng, tổng số trẻ đƣợc theo dõi
học nghề là 24 em, trong đó 6 tháng đầu năm 2011 đã đƣa đƣợc 9 em
đi học nghề với các ngành nghề nhƣ: Sửa xe gắn máy, hớt tóc, uốn
tóc, may.... Việc số trẻ đi học nghề trong 6 tháng đầu năm còn ít là do
việc cấp kinh phí của EU trể, bên cạnh đó dự án phải mất đến 3 tháng
đầu năm để hoàn thành thủ tục với nhà tài trợ mới. Dự án cũng liên hệ
đƣợc 9 cơ sở dạy nghề có nhu cầu nhận trẻ vào để đào tạo nghề. Tính
đến nay đã có 4 em ra nghề và đi làm và 2 em nghỉ học nghề. Qua hai
năm thực hiện hoạt động, dự án Phù Sa đã hỗ trợ cho 107 em học
nghề, trong đó 50 em đã học nghề thành công và có việc làm ổn định,
xin việc làm cho 114 em, trong đó 83 em có mức thu nhập từ 800.000
đồng – 3.400.000 đồng/ tháng, làm giấy chứng minh nhân dân cho 119
em cùng với sự huy động nhiều suất học bổng và các phần quà hỗ trợ
học tập, học nghề cho trẻ em và thanh thiếu niên trên địa bàn thành
phố Cao Lãnh. Bên cạnh đó thông qua những chủ đề truyền thông đã
góp phần nâng cao kỹ năng nói không với cái xấu cho trẻ và khả năng
tự bảo vệ mình cho trẻ trƣớc những tệ nạn của xã hội, các hoạt động
kỹ năng sống giúp các em áp dụng những kiến thức đã đƣợc học vào
trong cuộc sống, Ngoài ra còn tổ chức vui chơi giải trí cho các em
hiện đang học tại các trƣờng chính quy với tổng số trẻ tham gia là 60
em, đã thực hiện đƣa 4 trẻ tham dự trại hè “Ƣớc mơ Hồng” tại Bạc
Liêu vào ngày 02-04/06/2011 do tỉnh Đồng Tháp tổ chức và 4 em
tham dự Hội trại Văn hóa – Thể thao đƣợc tổ chức vào ngày 21-
23/06/2011 do tỉnh tổ chức. - Trong 6 tháng đầu năm dự án đã vận
động đƣợc 41.444.000 đồng từ các nhân viên của Ngân hàng HSBC
267
và các mạnh thƣờng quân tại Thành phố Hồ Chí Minh. Và đang tiếp
tục vận động các mạnh thƣờng quân tại Thành phố Hồ Chí Minh 40
xuất học bổng, trị giá mỗi xuất là 500.000 đồng. Ngoài ra dự án đã
viết đề xuất gửi Tổ chức Làng Toàn Cầu tại Thành phố Hồ Chí Minh
để xin tài trợ dự án học nghề cho 40 thanh thiếu niên, với kinh phí
200.000.000 đồng. Cùng với đó là nhận đƣợc sự quan tâm của nhiều
chính quyền, ngƣời dân, nhiều đóng góp giúp cho việc thực hiện mô
hình ngày càng phát triển không chỉ trên địa bàn thành phố Cao Lãnh
mà còn ở các huyện của Đồng Tháp thông qua hoạt động tổ chức buổi
“Giới thiệu dự án” vào ngày 26/05/2011 cho lãnh đạo các ban ngành,
đoàn thể thành phố, UBND các xã, phƣờng, trẻ và phụ huynh trẻ với
tổng số ngƣời tham dự là 72 ngƣời, ký kết Bản thỏa thuận với 2
phƣờng, 2 xã: Phƣờng 2, Phƣờng 11, Xã Hoà An, Xã Tân Thuận
Đông, ngoài ra còn góp phần tạo điều kiện nâng cao năng lực cho
nhân viên nhằm trang bị cho họ những kiến thức và kèn luyện kỹ
năng, để từ đó các giáo dục viên thực hiện công việc tốt hơn.
Giai đoạn hiện tại: vào năm 2014 UBND thành phố Cao Lãnh
chính thức chuyển mô hình hoạt động Dự án Phù Sa cho Công ty Cổ
phần Công nghệ Truyền thông Tƣơng Lai đến nay thực hiện tiếp tục
và phát triển các mô hình của giai đoạn trƣớc, ngoài ra còn giảm tình
trạng tệ nạn xã hội ở các đại phƣơng, và nhân rộng các mô hình ra các
huyện khác của Đồng Tháp. Hiện tại, bên cạnh tiếp tục hỗ trợ đối
tƣợng của Dự án Phù Sa giai đoạn trƣớc, Công ty Cổ phần Công nghệ
Truyền thông Tƣơng Lai đã phối hợp với các ngành liên quan tìm
kiếm đối tƣợng tiếp theo cho dự án, qua đó đã tiếp nhận đƣợc các hồ
sơ là đối tƣợng ngụ 17 xã, phƣờng trên địa bàn TP.Cao Lãnh và huyện
Cao Lãnh. Qua quá trình tiếp cận và giúp đỡ hiện tại có 4 trƣờng hợp
đƣợc Dự án Phù Sa hỗ trợ học các nghề may tại Công ty, và học nghề
làm tranh gạo rang,… Đƣợc ngƣời hƣớng dẫn trực tiếp dạy các em
cho biết, công ty tiếp nhận các em sẽ hỗ trợ chi phí 1.500.000đ cho
các em có hoàn cảnh khó khăn, và mỗi tháng sẽ hỗ trợ các em khoảng
300.000đ/tháng, ngoài ra còn trả lƣơng cho các em nếu các em làm
tốt. Các em khi tham gia Dự án sẽ đƣợc hỗ trợ học nghề chủ yếu là
nghề may, và tranh gạo rang, em nào có năng khiếu sẽ đào tạo giúp
các em học nghề tốt hơn, bên cạnh đó các em còn đƣợc học thêm vi
tính vào tối thứ ba đến tối thứ năm, các em còn đƣợc học những lớp
kỹ năng sống, tổ chức vui chơi, giải trí, họp lớp cho các em. Nhƣng
bên cạnh đó thời gian tổ chức vui chơi, giải trí của các em cũng dần
268
dần ít đi, do các anh (chị) trong Dự án bận rất nhiều. Dự án có những
thuận lợi khi nhận đƣợc sự quan tâm của chính quyền địa phƣơng các
cấp, quản lý đƣợc tiến độ học tập và làm việc trực tiếp của các em, có
những phù hợp với nhu cầu của xã hội hiện nay, giúp các em rất nhiều
trong việc hội nhập cộng đồng, nhƣng bên cạnh đó Dự án gặp không ít
khó khăn về kinh phí hoạt động, do không còn nhận đƣợc sự tài trợ
của công ty nƣớc ngoài, vì thế kinh phí chủ yếu là do nội lực từ phía
công ty, do đó không hỗ trợ đƣợc hầu hết các em.
2.3. Giải pháp giúp mô hình hoạt động của Dự án Phù Sa ngày
càng phát triển
2.3.1. Về phía Chính quyền địa phương
Có những chích sách hỗ trợ giúp cho mô hình của Dự án Phù
Sa hoạt động tốt và phát triển, giúp đỡ và phối hợp nhiều hơn nữa
trong việc tìm kiếm những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, lang thang
cơ nhỡ, có mức chính sách hỗ trợ xã hội giúp cho các đối tƣợng có
điều kiện phát triển về mọi mặt, quan tâm thăm hỏi các em giúp các
em hòa nhập tốt với cuộc sống ngoài ra còn kêu gọi sự hợp tác, hỗ trợ,
đầu tƣ của các doanh nghiệp, cùng các nhà hảo tâm quan tâm về vấn
đề này.
2.3.2. Về phía người chịu trách nhiệm quản lý hoạt động của Dự án
Phù Sa
Ngƣời chịu trách nhiệm quản lý nên quan tâm, thăm hỏi các em
thƣờng xuyên để các em không thấy mặc cảm khi tham gia Dự án,
ngoài ra nên tổ chức vui chơi, dã ngoại cho các em ở bên ngoài, ngoài
dạy vi tính nên cho các em đƣợc học ngoại ngữ, có những chính sách
hỗ trợ cần thiết cho các em về chi phí ăn uống buổi sáng và buổi trƣa,
vì khẩu phần ăn của các em đều phải lấy tiền mình ra trả.
2.3.3. Về phía phụ huynh
Phụ huynh nên quan tâm, động viên các em, để các em có thêm
nghị lực sống, niền tin vào sự đổi đời của cuộc sống, ngoài ra còn phải
tạo những điều kiện tốt nhất, để các em có tâm lý thoải mái, học tập
thật tốt.
3. Kết luận
Qua quá trình đánh giá hiệu quả hoạt động của Dự án, Dự án
Phù Sa đã giúp đỡ đƣợc rất nhiều trẻ em và thanh thiếu niên có hoàn
cảnh khó khăn, lang thang cơ nhỡ, giúp các em có ý chí, nghị lực,
vƣơn lên hội nhập trong cuộc sống, tuy nhiên bên cạnh đó Dự án cũng
269
gặp rất nhiều khó khăn về nhân lực và vật lực, cần lắm những sự sẻ
chia, chung tay của mọi ngƣời để giúp Dự án ngày càng phát triển.
Tài liệu tham khảo
[1]. Báo cáo hoạt động Dự án Phù Sa giai đoạn 1 (2005-2007)
[2]. Báo cáo Tổng kết hoạt động Dự án Phù Sa giai đoạn 2008-
2010
[3]. Báo cáo hoạt động Dự án Phù Sa 6 tháng đầu năm 2011.
270
CÁC ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
1. Nguyễn Thị Kim Ngân (Chủ nhiệm), Đặng Trƣờng Sơn,
Nguyễn Thị Mỹ Hòa, Phạm Văn Thừa, Giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động tự học cho sinh viên ngành Giáo dục chính trị Trường Đại
học Đồng Tháp, Đề tài Khoa học công nghệ Cấp cơ sở, Mã số
CS.2013.03.04, Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. Lê Văn Tùng, Cấp
quản lý Trƣờng Đại học Đồng Tháp, thời gian thực hiện 2013-2014,
nghiệm thu năm 2014, xếp loại Khá.
2. Lƣu Thị Loán (Chủ nhiệm), Châu Văn Tí, Phật giáo Nam
Tông với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho người Khmer ở huyện
Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng hiện nay, Đề tài Khoa học công nghệ Cấp
cơ sở, Mã số CS.2014.02.20, Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. Mai
Thị Thanh, Cấp quản lý Trƣờng Đại học Đồng Tháp, thời gian thực
hiện 2014-2015, nghiệm thu năm 2015, xếp loại Khá.
3. Nguyễn Ngọc Tú (Chủ nhiệm), Xây dựng đức tính “cần,
kiệm” theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên ngành GDCT và
CTXH ở Trường Đại học Đồng Tháp, Đề tài Khoa học công nghệ
Cấp cơ sở, Mã số CS.2014.02.21, Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS.
Nguyễn Công Lập, Cấp quản lý Trƣờng Đại học Đồng Tháp, thời gian
thực hiện 2014-2015, nghiệm thu năm 2015, xếp loại Đạt.
4. Nguyễn Văn Tới (Chủ nhiệm), Phân công lao động theo giới
trong gia đình tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, Đề tài Khoa
học công nghệ Cấp cơ sở, Mã số CS.2014.02.23, Ngƣời hƣớng dẫn khoa
học ThS. Kiều Văn Tu, Cấp quản lý Trƣờng Đại học Đồng Tháp, thời
gian thực hiện 2014-2015, nghiệm thu năm 2015, xếp loại Tốt.
5. Phan Thị Hồng Nhung (Chủ nhiệm), Lê Nguyễn Tƣờng Vi,
Lao động trẻ em tại thành phố Cao Lãnh – Thực trạng và giải pháp,
Đề tài Khoa học công nghệ Cấp cơ sở, Mã số CS.2014.02.22, Ngƣời
hƣớng dẫn khoa học ThS. Kiều Văn Tu, Cấp quản lý Trƣờng Đại học
Đồng Tháp, thời gian thực hiện 2014-2015, nghiệm thu năm 2015,
xếp loại Khá.
6. Lê Vũ Cảnh (Chủ nhiệm), Dƣơng Trọng Nghĩa, Huỳnh Thị
Kiều, Giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trường Đại học
Đồng Tháp, Đề tài Khoa học công nghệ Cấp cơ sở, Mã số
CS.2015.02.14, Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. Đỗ Duy Tú, Cấp
271
quản lý Trƣờng Đại học Đồng Tháp, thời gian thực hiện 2015-2016,
Đang triển khai.
7. Huỳnh Thị Trúc Linh (Chủ nhiệm), Trần Thị Kim Hà, Trần
Nguyễn Bảo Yến, Nguyễn Thành An, Giải pháp nâng cao năng lực
tự học TOEIC cho sinh viên khoa Giáo dục chính trị - Công tác xã
hội, trường đại học Đồng Tháp, Đề tài Khoa học công nghệ Cấp cơ
sở, Mã số CS.2015.02.15, Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. Trần Kim
Ngọc, Cấp quản lý Trƣờng Đại học Đồng Tháp, thời gian thực hiện
2015-2016, Đang triển khai.
8. Nguyễn Minh Kha (Chủ nhiệm), Nguyễn Tiến Công, Lê Thị
Anh Thƣ, Nâng cao nhận thức của nông dân xã Hòa An, thành
phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp về “Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”, Đề tài
Khoa học công nghệ Cấp cơ sở, Mã số CS.2015.02.13, Ngƣời hƣớng
dẫn khoa học ThS. Trần Kim Ngọc, Cấp quản lý Trƣờng Đại học
Đồng Tháp, thời gian thực hiện 2015-2016, Đang triển khai.
272
BÀI BÁO ĐĂNG TẠP CHÍ KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
1. Nguyễn Thị Kim Ngân, Lê Văn Tùng (2012), “Truyền thống
khoan dung Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa”, Tạp chí
Khoa học, Trƣờng Đại học Trà Vinh, số tháng 5.
2. Nguyễn Thị Kim Ngân, Lê Văn Tùng (2013), “Triết lý nhân
sinh của cƣ dân Nam Bộ qua khảo cứu của Sơn Nam”, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, số 353, tháng 11.
3. Nguyễn Thị Kim Ngân (2013), “Văn hóa gia đình với việc xây
dựng gia đình văn hóa hiện nay”, Tạp chí Tri thức Khoa học, Sở Khoa
học và Công nghệ TP Cần Thơ, số tháng 11.
4. Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyễn Thị Mỹ Hòa (2014), “Hoạt
động tự học của sinh viên ngành Giáo dục chính trị Trƣờng Đại học
Đồng Tháp”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, Trung ƣơng Hội Khuyến
học Việt Nam, số tháng 5.
5. Nguyễn Thị Mỹ Hòa, Đặng Trƣờng Sơn (2014), “Triết lý nhân
sinh trong Đờn ca tài tử Nam Bộ”, Tạp chí Tri thức Khoa học, Sở
Khoa học và Công nghệ Thành phố Cần Thơ, số 4 (50).
6. Đặng Trƣờng Sơn, Lê Văn Tùng (2015), “Triết lý giáo dục của
Tsunesaburo Makiguchi”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, Trung ƣơng
Hội Khuyến học Việt Nam, số tháng 6.
7. Lê Vũ Cảnh, Đỗ Duy Tú (2015), “Nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức sinh thái cho sinh viên trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Tri
thức xanh, Viện Khoa học Môi trƣờng và Xã hội, số 8.
273
BÀI BÁO ĐĂNG KỶ YẾU HỘI NGHỊ, HỘI THẢO KHOA HỌC
1. Lê Ngọc Hân (ĐHGDCT12), Lê Minh Kỷ (ĐHGDCT13)
(2015), “Giải pháp nâng cao hứng thú học tập các môn lý luận chính
trị ở các trƣờng đại học, cao đẳng”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc
gia, Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.
2. Lê Thị Tố Quyên (ĐHGDCT13), Lê Thanh Dũng (2015),
“Vai trò của công nghệ thông tin và truyền thông trong học tập các
môn lý luận chính trị”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Trƣờng Đại học
Sƣ phạm Huế.
3. Nguyễn Vĩnh Phong (ĐHGDCT13), Lại Thị Lý (2015),
“Vận dụng phƣơng pháp thảo luận nhóm vào dạy học các môn lý luận
chính trị”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Huế.
4. Lê Ngọc Hân (ĐHGDCT12), Lê Văn Tùng (2015), “Bồi
dƣỡng phƣơng pháp và kỹ năng tự học các môn lý luận chính trị cho
sinh viên cao đẳng, đại học hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Huế.
5. Nguyễn Thị Kim Ngân (ĐHGDCT10), Lê Văn Tùng (2014),
“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tự học các môn lý luận chính
trị ở bậc đại học”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Trƣờng Đại học Tiền
Giang
6. Đặng Thị Xuân Hồng, Nguyễn Hoàng Khƣơng
(ĐHGDCT10), “Quy luật phủ định với việc bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa trên địa bàn tỉnh An Giang”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên
NCKH năm 2014, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
7. Lê Vũ Cảnh, Huỳnh Thị Kiều (ĐHGDCT13), “Những giá trị
đạo đức công dân toàn cầu và ý nghĩa của nó”, Kỷ yếu Hội nghị sinh
viên NCKH năm 2014, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
8. Lƣu Thị Loán (ĐHGDCT12), “Quan niệm về con ngƣời của
Phật giáo Nam Tông trong việc hình thành đạo đức, lối sống đồng bào
Khmer ở Sóc Trăng hiện nay”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm
2014, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
9. Nguyễn Thị Kim Ngân (ĐHGDCT10), Lê Văn Tùng (2014),
“Đƣờng kách mệnh” với việc bồi dƣỡng lý tƣởng cách mạng cho sinh
274
viên hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Trƣờng Cao đẳng Sƣ
phạm Kiên Giang.
10. Lê Ngọc Hân (ĐHGDCT12), Lê Văn Tùng (2014), “Ngăn
chặn bạo lực học đƣờng – nhìn từ góc độ giáo viên chủ nhiệm”, Kỷ
yếu Hội thảo Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Tp Hồ Chí Minh.
11. Lƣu Thị Loán, Lê Ngọc Hân (ĐHGDCT12), “Giải pháp
góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của sinh viên”,
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học các trường
ĐHSP toàn quốc lần thứ VII, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Đà
Nẵng.
12. Nguyễn Ngọc Trai, Nguyễn Thị Xuyên (ĐHGDCT11),
“Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về hạnh phúc và ý nghĩa hiện
thời của nó”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm 2014, Trƣờng Đại
học Đồng Tháp.
13. Nguyễn Ngọc Tú (ĐHGDCT11), “Xây dựng đức tính “Cần,
kiệm” theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cho sinh viên ngành Giáo dục chính
trị, Trƣờng Đại học Đồng Tháp”, “Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
năm 2014”.
14. Nguyễn Thị Mỹ Hòa (ĐHGDCT11), “Tƣ tƣởng giáo dục của
chủ nghĩa hiện sinh”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm 2014,
Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
15. Đặng Thị Hiền, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (ĐHCTXH11),
“Một số kỹ năng làm việc nhóm trong học tập của sinh viên Khoa
Giáo dục chính trị và Công tác xã hội, Trƣờng Đại học Đồng Tháp:
Thực trạng và khuyến nghị”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm
2014, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
16. Lê Nguyễn Tƣờng Vi (ĐHCTXH11), “Lao động trẻ em tại
thành phố Cao Lãnh – Thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu Hội nghị sinh
viên NCKH năm 2014, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
17. Nguyễn Văn Tới (ĐHCTXH11), “Phân công lao động theo giới
trong gia đình: Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn”, Kỷ yếu Hội nghị
sinh viên NCKH năm 2014, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
18. Đặng Trƣờng Sơn (ĐHGDCT11), Lê Ngọc Hân
(ĐHGDCT12), Lê Văn Tùng (2013), “Một số kỹ năng giúp sinh viên
275
tự học có hiệu quả trong quá trình học tập ở bậc đại học theo hệ thống
tín chỉ”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
19. Nguyễn Thị Kim Ngân, Phạm Văn Thừa (ĐHGDCT10), Lê
Văn Tùng (2013), “Hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên trong đào
tạo theo hệ thống tín chỉ”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Trƣờng Đại học
Đồng Nai.
20. Cao Thị Thu, Trần Thị Xan (ĐHGDCT09A), “Xây dựng tập
thể đoàn kết cho sinh viên Khoa Giáo dục chính trị, Trƣờng Đại học
Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên
NCKH năm 2013, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
21. Nguyễn Thị Kim Ngân, Phạm Văn Thừa (ĐHGDCT10),
Đặng Trƣờng Sơn, Nguyễn Thị Mỹ Hòa (ĐHGDCT11), “Hoạt động
tự học của sinh viên ngành đại học Giáo dục chính trị, Trƣờng Đại học
Đồng Tháp”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm 2013, Trƣờng Đại
học Đồng Tháp.
22. Phan Thị Cẩm Giang, La Tìa Xía (ĐHGDCT09A), “Giáo dục
thẩm mỹ cho học sinh trung học phổ thông hiện nay”, Kỷ yếu Hội nghị
sinh viên NCKH năm 2013, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
23. Đinh Thị Ánh Dƣơng, Nguyễn Khắc Thống (ĐHCTXH10),
“Phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài thông qua môi giới ở đồng
bằng sông Cửu Long – Dƣới góc nhìn của ngƣời dân”, Kỷ yếu Hội
nghị sinh viên NCKH năm 2013, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
24. Nguyễn Thị Ngọc Quí, Trần Thị Ngọc (ĐHCTXH09B),
“Thực trạng làng nghề truyền thống Chiếu Định Yên huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm 2013, Trƣờng
Đại học Đồng Tháp.
25. Nguyễn Thị Thùy Trang (ĐHCTXH10), “Vai trò của nhân
viên xã hội đối với học sinh Trƣờng Trung học Cơ sở Nguyễn Trãi,
thành phố Long Xuyên”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm 2013,
Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
26. Phan Thị Hồng Nhung (ĐHCTXH11), “Chân dung trẻ em lao
động sớm tại thành phố Cao Lãnh”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
năm 2013, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
276
27. Trần Duy Quang (ĐHCTXH11), “Phân công lao động trong
gia đình và ngoài xã hội - Tiếp cận theo quan điểm giới”, Kỷ yếu Hội
nghị sinh viên NCKH năm 2013, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
28. Lê Nguyễn Tƣờng Vi (ĐHCTXH11), “Thực trạng giáo dục
trẻ em khuyết tật tại Trƣờng Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Tháp”, Kỷ
yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm 2013, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
29. Nguyễn Duy Khánh, Phạm Thị Phƣơng (ĐHCTXH09),
“Vấn đề tự học Anh văn của sinh viên không chuyên Anh, Trƣờng
Đại học Đồng Tháp: Thực trạng và một số khuyến nghị”, Kỷ yếu
Hội nghị sinh viên NCKH năm 2013, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
30. Hà Thị Mộng Mơ (ĐHGDCT08), “Vài nét về lối sống, tƣ duy
của ngƣời Việt hiện nay”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm
2013, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
31. Nguyễn Thị Kim Ngân (ĐHGDCT10), “Văn hóa và mục tiêu
phát triển con ngƣời toàn diện”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm
2012, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
32. Nguyễn Thị Yến Vân (ĐHGDCT08A), “Văn hóa ứng xử của
học sinh Trƣờng THPT Cao Lãnh 2 – Thực trạng và giải pháp”, Kỷ
yếu Hội nghị sinh viên NCKH năm 2012, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
33. Đặng Trƣờng Sơn, Nguyễn Thị Mỹ Hòa (ĐHGDCT11), Lê
Văn Tùng (2012), “Phƣơng pháp cách mạng trong Đƣờng kách mệnh”
và ý nghĩa hiện thời của nó”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Trƣờng Đại
học Tiền Giang.
34. Lê Thị Bích Kiều (ĐHGDCT09A), “Nhận thức luận của
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
năm 2011, Trƣờng Đại học Đồng Tháp.
277
TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
BÁO CÁO KHOA HỌC
HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2015
LẦN THỨ NHẤT
Trƣởng khoa
TS. TRẦN QUANG THÁI
Phó trƣởng khoa
ThS. LÊ KIM OANH
Trƣởng bộ môn Lý Luận xã hội
TS. TRẦN QUANG THÁI
Trƣởng bộ môn Chính trị học
ThS. TRƢƠNG THỊ MỸ DUNG
Trƣởng bộ môn Công tác xã hội
ThS. KIỀU VĂN TU
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Nhà A4, Trƣờng Đại học Đồng Tháp, 783 Phạm Hữu Lầu, Phƣờng 6
Thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Website: dthu.edu.vn Facebook: facebook.com/gd.chinhtrictxh
Điện thoại: 067 3 882 338 Email: [email protected]