40
Tư tưởng HCM là 1 hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CMVN, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến CMXHCN;là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ng. Toàn diện: thể hiện ở nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, Chính trị, xã hội. Đó là những quan điểm toàn diện và sâu sắc về các vấn đề ở Vn: + Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; + Về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; +Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; +Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; +Về quốc phòng toàn dân, xây dựng quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; +Về phát triển kinh tế và văn hóa, ko ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; +Về đạo đức CM, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Về chăm lo bồi dưỡng thế hệ CM cho đời sau;

Tu tuong

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tu tuong

Tư tưởng HCM là 1 hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản

của CMVN, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến CMXHCN;là kết quả của sự

vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta.

Đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp, giải phóng con ng.

    Toàn diện: thể hiện  ở nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, Chính trị, xã hội.

    Đó là những quan điểm toàn diện và sâu sắc về các vấn đề ở Vn:

     + Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;

     + Về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

thời đại;

     +Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;

     +Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân;

     +Về quốc phòng toàn dân, xây dựng quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ

trang nhân dân;

     +Về phát triển kinh tế và văn hóa, ko ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân;

      +Về đạo đức CM, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Về chăm lo bồi dưỡng thế

hệ CM cho đời sau;

      +Về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ Đảng viên vừa là ng lãnh đạo,

vừa là ng đầy tớ trung thành của nhân dân….

 Tư tưởng HCM soi đg cho  cuộc đấu tranh của nhân dân và giành thắng lợi, là tài sản

to lớn của Đảng và dân tộc ta., là sự kết tinh những  giá trị truyền thống  của văn hóa

dân tộc với trí tuệ thời đại.

 Văn hóa dân tộc: đó là tinh thần yêu nước , nhân nghĩa cần cù sáng tạo, đoàn

kết…..trong đó tinh thần yêu nước  có ảnh hưởng lớn nhất đến sự hình thành tư tưởng

HCM.

Page 2: Tu tuong

  Trí tuệ thời đại:  là sự kết hợp giữa văn hóa phương Đông ( Nho giáo: Nhân, phật

giáo: dậy hướng thiện, tư tưởng tam dân của tôn trung Sơn) và văn hóa phương

Tây( phong cách làm việc, văn minh khai sáng :độc lập tự do nhân ái)

Định nghĩa của Đảng CSVN đã chỉ rõ:

v     Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là hệ thống các quan

điểm lý luận, phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt nam; chủ

nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho

hành động của Đảng và dân tộc Việt nam

v     Nguồn gốc: là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-

Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt

đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại

Ý nghĩa của việc nghiên cứu và học tập

Mục đích nghiên cứu học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm áp dụng vào con đường xây dựng đất

nước Việt Nam vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.[25] Đối với

thế hệ trẻ nói chung, với học sinh, sinh viên trong các trường cao đẳng và đại học nói riêng, Đảng

và Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh cần đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách

mạng, đặc biệt là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao lý luận, phương pháp tư duy biện

chứng, góp phần đào tạo sinh viên thành những chiến sĩ đi tiên phong trong công cuộc bảo vệ và

xây dựng đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn và to đẹp hơn như Di chúc của Hồ Chí Minh để lại:

"Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó

khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành

những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách

mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".

Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh

Hoàn cảnh ra đời

Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối

ngoại bảo thủ, không mở ra cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới.

Không phát huy được những thế mạnh của truyền thống dân tộc và đất nước, không chống lại được

âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858 và đến

năm 1883, triều đình Huế ký kết Hiệp ước Harmand với đế quốc Pháp, thừa nhận quyền bảo hộ của

họ trên khắp An Nam.[8] Từ sau Hiệp ước Patenôtre năm 1884, Việt Nam trở thành một nước thuộc

địa nửa phong kiến.

Page 3: Tu tuong

Trong suốt quá trình thực dân Pháp cai trị, từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đã có nhiều cuộc

khởi nghĩa nổi dậy chống thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần

vương” do các văn thân, sĩ phu lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang này

mang đậm tinh thần yêu nước và dũng khí trước quân thù, nhưng đều dưới sự dẫn dắt của các tư

tưởng phong kiến và tư sản, là các trào lưu tư tưởng đã lỗi thời, lạc hậu trong sự phát triển của thế

giới đương đại và không đáp ứng được yêu cầu của xã hội Việt Nam, nên không tránh khỏi thất bại.

Cách mạng Việt Nam lâm vào cuộc khủng khoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.[9]

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có sự

phân hóa giai cấp-xã hội sâu sắc. Tạo tiền đề bên trong cho phong trào đấu tranh giải phóng đân

tộc đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam tồn tại nhiều mâu thuẫn. Có thể kể ra các mâu thuẫn chính sau:[10][11]

Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp.

Mâu thuẫn giữa người dân lao động và triều đình phong kiến.

Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp tư sản.

Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước nhưng

đều thất bại (chủ trương cầu viện, dùng vũ trang khôi phục độc lập của Phan Bội Châu; chủ trương

“ỷ Pháp cầu tiến bộ” bằng cách chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh, trên cơ sở đó mà dần dần

tính chuyện giải phóng của Phan Châu Trinh; khởi nghĩa nặng cốt cách phong kiến của Hoàng Hoa

Thám; khởi nghĩa theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản của Nguyễn Thái Học).

Sự thất bại của phong trào chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vừa chứng tỏ sự lỗi

thời của hệ tư tưởng phong kiến, sự yếu ớt và bất lực của hệ tư tưởng tư sản, vừa từng bước

chuẩn bị tiền đề cho một phương hướng mới của sự nghiệp giải phóng dân tộc.[12][13] Theo Tạp chí

Cộng sản, những điều này cho thấy, phong trào cứu nước của nhân dân Việt Nam muốn đi đến

thắng lợi, phải đi theo con đường mới, đó là con đường cách mạng vô sản.[14]

Thế giới

Thế giới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cũng đang có những biến chuyển to lớn:

Chủ nghĩa Tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, xác lập

quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa Đế quốc với bản chất của mình đã trở

thành kẻ thù chung của tất cả các dân tộc thuộc địa.[15]

Thực tế lịch sử: trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân, tại các nước

nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, sự bóc lột phong kiến trước kia vẫn được

duy trì và bao trùm lên nó là sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước

kia, đã xuất hiện thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có công nhân và tư sản. [16]

Chiến tranh Thế giới I  bùng nổ.[15]

Page 4: Tu tuong

Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ

XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với đỉnh cao là Cách mạng Tháng

Mười Nga thắng lợi (1917). Cuộc cách mạng vĩ đại này đã làm “Thức tỉnh các dân tộc châu Á”,

Cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga thành công đã nêu một tấm gương sáng về sự giải phóng

các dân tộc bị áp bức, mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải

phóng dân tộc.[13]

Quốc tế III được thành lập (1919). Phong trào công nhân trong các nước Tư bản Chủ nghĩa và

phong trào giải phóng của các nước thuộc địa càng có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc

đấu tranh chống kẻ thù chung của họ là Chủ nghĩa Đế quốc.[15][17]

Nguồn gốc

Tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ[4]:

1. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam:

Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước;

Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái;

Truyền thống lạc quan, yêu đời;

Cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo.

2. Tinh hoa văn hóa nhân loại:

Tư tưởng văn hóa phương Đông: Nho giáo, Phật giáo;

Tư tưởng và văn hóa phương Tây: thắng lợi của cuộc Đại cách mạng

Pháp 1789, Tuyên ngôn độc lập 1776 của Hoa Kỳ, tư tưởng dân chủ phương Tây,...;

3. Chủ nghĩa Mác-Lênin  (nhân tố quyết định nhất): cơ sở thế giới quan và phương pháp luận

của Tư tưởng Hồ Chí Minh;

4. Nhân tố chủ quan: phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.

Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập,

phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Hồ Chí Minh.[16] Có thể chia quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh thành 5 thời kỳ sau:[18]

1. Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi (trước năm 1911): thời kỳ này Hồ Chí

Minh đã hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần

truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.[18]

2. Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911-1920): thời kỳ này Hồ Chí

Minh tìm hiểu cuộc sống của những người lao động; đã khảo sát, tìm hiểu cuộc cách mạng

Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga,

học tập và đã tìm đến với chủ nghĩa Lênin, tham dự Đại hội Tua, đứng về phía Quốc tế

cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh đã có sự

Page 5: Tu tuong

chuyển biến vượt bậc về tư tưởng; từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ

nghĩa Mác-Lênin, từ một chiến sĩ chống thực dân phát triển thành một chiến sĩ cộng sản

Việt Nam. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh:

"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách

mạng vô sản".[18][19]

3. Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 - 1930): thời kỳ này Hồ

Chí Minh đã có hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi, phong phú ở Pháp (1921-1923),

ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung Quốc (1924-1927), ở Thái Lan (1928-1929)... Trong thời

gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản. Hồ Chí Minh

đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân

tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị

thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tác phẩm và bài viết của Hồ Chí Minh thời kỳ này

đã thể hiện những quan điểm lớn và độc đáo, sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam,

có thể kể tên các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách

mệnh (1927) và những bài viết khác.[18]

4. Thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền

dân tộc cơ bản (1930-1945): trên cơ sở tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam đã

hình thành về cơ bản, trong mấy năm đầu của những năm 1930, Hồ Chí Minh đã kiên trì

giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua khuynh hướng "tả" đang chi phối Quốc

tế Cộng sản, chi phối Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển

thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do, dẫn đến

thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa đã ra đời.[18]

5. Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc (1945-1969): đây là thời

kỳ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt

Nam vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ

nhân dân (1945 - 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thời kỳ này nổi bật là

các nội dung như: Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc; tiến hành đồng thời hai

chiến lược cách mạng khác nhau, đó là cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách

mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm một mục tiêu chung trước mắt là giải phóng miền

Nam, thống nhất Tổ quốc. Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa

vào sức mình là chính. Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của

dân, do dân, vì dân. Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền v.v.

Định nghĩa Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh được định nghĩa:

“ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề

cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ ”

Page 6: Tu tuong

nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hoá nhân loại...[20]

Định nghĩa trên là một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng Hồ

Chí Minh, làm định hướng cho các nhà nghiên cứu tiếp tục đi sâu tìm hiểu về tư tưởng của Hồ Chí

Minh, đặc biệt là xác định nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là nền tảng tư tưởng

và kim chỉ nam hành động cho toàn Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân tộc Việt Nam.[21] Tư tưởng

Hồ Chí Minh là bộ phận trung tâm của chuyên ngành "Hồ Chí Minh học" thuộc ngành Khoa học

chính trị Việt Nam. Hồ Chí Minh đã xây dựng được hệ thống lý luận toàn diện về cách mạng Việt

Nam phù hợp với thực tiễn của đất nước và dòng chảy thời đại. Hệ thống đó bao gồm một số nội

dung cơ bản sau[21]:

Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;

Sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;

Quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân;

Quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;

Phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;

Đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;

Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người

đày tớ trung thành của nhân dân.

v     Nội dung: là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con

người. Nội dung đó bao gồm hệ thống các quan điểm cơ bản về chính trị (đường lối

cách mạng đối nội, đối ngoại, xây dựng các lực lượng cách mạng, xây dựng nhà

nước), các quan điểm về kinh tế, văn hóa, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa…

v     Ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh: tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý

luận và định hướng cho Đảng ta xây dựng đường lối đúng đắn, tổ chức lực lượng cách

mạng và dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác

  Phương thức tiếp cận hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh: Với tư cách là một hệ

thống lý luận, hiện nay tồn tại hai phương thức tiếp cận chủ yếu

Một là: Như một hệ thống tri thức tổng hợp: bao gồm tư tưởng triết học, tư tưởng kinh

tế, tư tưởng chính trị, tư tưởng văn hóa, tư tưởng nhân văn…..

Page 7: Tu tuong

Hai là: Là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt Nam: tư tưởng về cách mạng

giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về Đảng

Cộng sản Việt Nam; Về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về dân chủ, nhà

nước của dân, do dân và vì dân; về văn hóa, đạo đức ..v..v.. hạt nhân cốt lõi là độc lập

dân tộc và CNXH, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện ở các điểm chính sau:

Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc. Hồ Chí Minh viết trong

Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: "Tất cả các dân tộc

trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung

sướng và quyền tự do"[34]. Mục đích của việc dành độc lập dân tộc là đem lại hạnh phúc, tự do

cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng "Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt

nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì

độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì"[35].

Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất nước. Hồ Chí Minh đã

từng nhận xét: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.

Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn

sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ

bán nước và lũ cướp nước"[36]

Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu

nước với chủ nghĩa quốc tế: "Các dân tộc ở đó (ở phương Đông) không bao giờ có thể ngẩng

đầu lên được nếu không gắn bó với giai cấp vô sản thế giới... Ngày mà hàng trăm triệu người

châu Á bị nô dịch và áp bức sẽ thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một nhóm bọn thực

dân tham tàn và chính họ sẽ hình thành được một lực lượng đồ sộ vừa có thể thủ tiêu một trong

những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản vàchủ nghĩa đế quốc, vừa giúp đỡ những người

anh em phương tây trong sự nghiệp giải phóng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc thể hiện ở các điểm

chính sau:

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Con

đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những nội dung chủ yếu

sau:

Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi tới xã hội cộng sản".

Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng

Cộng sản.

Page 8: Tu tuong

Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công

nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.

Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho

nên phải đoàn kết quốc tế.[38]

Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hồ Chí Minh

khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có đảng cách mệnh. Người

phân tích: cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho

dân hiểu, phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh

phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh.[39]

Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá rất

cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Ông coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng

tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.

Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành

thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Các nhà nghiên cứu trong nước đánh giá, đây

là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của

Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được thắng lợi của phong trào

cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn

toàn đúng đắn.[40]

Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực. Trong

đó có hai vấn đề:

Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Tư tưởng bạo lực

cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng

Hồ Chí Minh. Ông chủ trương, yêu nước, thương dân, yêu thương con người, yêu chuộng

hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng

một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên

quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và

bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do.[41]

Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc. Trước những

kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài.

Hồ Chí Minh nói, muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh

sinh. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh

bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự

chủ. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan

điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và

chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động,

Page 9: Tu tuong

tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi

Câu 1. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh mối qua hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. (5 điểm)

* Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện:

- Khẳn định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam;

- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng;

- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù;

- Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân;

- Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

* Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

- Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến hoặc tư bản, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

* Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp

Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc.

Page 10: Tu tuong

* Giữ vững độc lập dân tộc cho dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc khác

Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới

Về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, đã

vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới nhằm bổ sung vào lý luận Mác

- Lênin[42]. Tuy nhiên do hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội kém phát triển, lạc hậu của Việt Nam

trong thời kỳ nửa thuộc địa nửa phong kiến và sau khi giành độc lập. Nên trong nhiều bài viết, bài

phát biểu, diễn giải của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hết sức đơn giản cho phù hợp với trình độ

dân trí, nhận thức của đại đa số quần chúng và cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó.

Trước hết, Hồ Chí Minh luận giải sự ra đời và bản chất của chủ nghĩa xã hội từ phương diện kinh tế,

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hồ Chí Minh cho rằng, sự hình thành, phát triển và chín

muồi của chủ nghĩa xã hội là một tất yếu mà nguyên nhân sâu xa chính là do sự phát triển của lực

lượng sản xuất xã hội. Trên cơ sở một nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ

thống, các giá trị đặc thù mang tính nhân bản thấm sâu vào mỗi quan hệ và lĩnh vực xã hội. Sự

thống nhất giữa tính khoa học và tính giá trị thể hiện rất rõ trong nhận thức của Hồ Chí Minh về chủ

nghĩa xã hội.[42]

Các nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đánh giá nét sáng tạo của Hồ Chí Minh trước hết là ở

chỗ, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội, luận giải nó từ khát vọng giải phóng dân tộc và nhu cầu

giải phóng con người một cách triệt để.[42]

Tuyên truyền cho cuộc vận động "Học theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"

Hồ Chí Minh luận giải tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kế thừa và phát triển

các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, của phương Đông. Từ việc phân tích một

cách khoa học truyền thống tư tưởng - văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, các nước

Page 11: Tu tuong

phương Đông, sự tàn bạo của chế độ thuộc địa tại các nước đó, Hồ Chí Minh đi đến một nhận thức

mới lạ: Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không những thích ứng được ở châu Á, phương

Đông mà còn thích ứng dễ hơn ở châu Âu.[42]

Hồ Chí Minh đã nhận thức tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội như là kết quả tác động

tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và hiện tại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức,

văn hóa. Ông không tuyệt đối hóa một mặt nào và đánh giá đúng vị trí của chúng. Như vậy, Hồ Chí

Minh đã làm phong phú cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, có những cống hiến xuất sắc vào việc

phát triển lý luận Mác - Lênin.[42]

Hầu hết các cách tiếp cận, định nghĩa của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt, trình bày

một cách dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và mang tính phổ thông, đại chúng. Xét dưới góc độ khái quát

nguyên lý thì Hồ Chí Minh về cơ bản không khác với các nhà kinh điển Mác - Lênin. Điểm đặc sắc ở

Hồ Chí Minh là phát triển các nguyên lý lý luận phức tạp, khoa học bằng ngôn ngữ của cuộc sống

hàng ngày. Một số định nghĩa cơ bản mà Hồ Chí Minh đã đề cập về chủ nghĩa xã hội:[43]

- Định nghĩa tổng quát, xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã hội hoàn

chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con đường giải phóng nhân loại cần lao, áp

bức.

- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó (kinh tế, chính trị, văn hóa...).

- Định nghĩa bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chỉ rõ phương hướng, phương tiện

để đạt được mục tiêu đó.

- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định động lực xây dựng nó: "Chủ nghĩa xã hội là nhằm

nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy".[43]

Từ những định nghĩa của Hồ Chí Minh đã phản ánh đầy đủ những đặc trưng cốt lõi của chủ

nghĩa xã hôi. Khái quát những đặc trưng này, chúng ta thấy nội dung của nó bao hàm hết thảy

mọi mặt đời sống xã hội, làm hiện diện ra một chế độ xã hội ưu việt. Đó là:[43]

Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn liền với sự

phát triển tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và văn hóa, dân giàu, nước mạnh.

Thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo

lao động.

Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và nhân dân lao

động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân

mà nòng cốt là liên minh công - nông - lao động trí óc, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Chủ nghĩa xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn

áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc,

giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện,

có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.

Chủ nghĩa xã hội là của quần chúng nhân dân và do quần chúng nhân dân tự xây dựng lấy.

[43]

Page 12: Tu tuong

Như vậy ta có thể thấy khái niệm chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang nhiều ý

nghĩa khác nhau, chủ yếu tập trung vào các nội dung sau:

Chủ nghĩa xã hội như là một phong trào lịch sử mang tính chính trị xã hội.

Chủ nghĩa xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, ở đây, Hồ Chí Minh hiểu chủ nghĩa

xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa Mác-Lênin.

Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội đối lập với chế độ tư bản mà

hình thức xấu xa, tàn bạo nhất của nó là chủ nghĩa thực dân, cả chủ nghĩa thực dân

cũ và chủ nghĩa thực dân mới.[44]

“ Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" [45] ”

“ Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân"[45] ”

“ Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy

được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập

quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày

càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội" [45] ”Về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của

hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa

Mác - Lênin, thì có hai con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là con

đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Con

đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển

còn thấp hoặc các nước tiền tư bản.[46]

Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của

chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã

khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng

dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội[46]. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể -

quá độ từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây

chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của Lênin về hai giai đoạn cách mạng- cách mạng dân tộc

dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.[47] Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa

và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.[46]

Ta có thể rút gọn lại nội dung về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Hồ Chí

Minh được thể hiện qua các điểm chính sau:

Page 13: Tu tuong

Phải thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc trước, sau đó mới từng bước xây dựng chủ nghĩa

xã hội.[46]

Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đi lên bằng con đường gián tiếp.[46]

Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam có đặc điểm lớn

nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn

phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt

lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của

đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của Việt Nam. [46] Chính

vì thế thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và

lâu dài.[48][49] Trong cuộc đấu tranh này, toàn xã hội phải nỗ lực dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam, đồng thời phải học tập kinh nghiệm xây dựng Chủ nghĩa xã hội và tận dụng mọi sự giúp

đỡ của những nước xã hội chủ nghĩa tiên tiến như Liên Xô và các nước Đông Âu[50].

Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến

nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại. Do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ

lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:[46][51]

Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về

kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.[46][51]

Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây

dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.[46][51]

Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Hồ Chí Minh lý giải trên các điểm sau:[46]

Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi

hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.

Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có

kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta, nên

phải vừa làm, vừa học và có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó

khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.

Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản động

trong và ngoài nước tìm cách chống phá.[46]

Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá

độ.

Page 14: Tu tuong

Chính trị: giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc

thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo;

củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó. [52]

Kinh tế: nhấn mạnh việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội

chủ nghĩa. Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu

nối giữa các ngành sản xuất xã hội. Phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng

vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Năm 1953, trong tác

phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh chỉ ra 6 thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do),

để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra chính

sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt: Một là, công tư đều lợi; Hai là,

chủ thợ đều lợi; Ba là, công nông giúp nhau; Bốn là Lưu thông trong ngoài. Kinh tế quốc doanh

là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức

phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của

công, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân

của nông dân và thủ công nghệ, nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục

tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân,[53]đến năm

1959 ông chủ trương vẫn cho phép những nhà tư sản công thương sở hữu tư liệu sản xuất, tiến

dần đến việc xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa bằng cách khuyến khích

những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc tự

nguyện, khuyến khích và giúp đỡ những nhà tư sản công thương cải tạo theo chủ nghĩa xã hội

bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác[54]. Như vậy ta có thể thấy

Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam[55].

“ Trong nước ta hiện nay, có những hình thức sở hữu chính về tư

liệu sản xuất như sau:

- Sở hữu của Nhà nước, tức là sở hữu của toàn dân.

- Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở hữu tập thể của nhân

dân lao động.

- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.

- Một số ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của các nhà tư

bản. ”—Hồ Chí Minh, Báo cáo về dự thảo sửa đổi Hiến pháp của ông tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa khóa 1 ngày 18 tháng 12 năm 1959 tại Hà Nội.[54]

“ Mục đích của chế độ ta là xoá bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho

nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên

chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. ”

Page 15: Tu tuong

—Hồ Chí Minh. Tài liệu đã dẫn[54]

“ Chúng ta phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ

nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. ”—Hồ Chí Minh. Tài liệu đã dẫn[54]

Đối với những người lao động cá thể và các nhà tư bản, cũng tại báo cáo nói trên, Hồ Chí

Minh viết:

“ - Đối với những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ

quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách

làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện.

- Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu

sản xuất và của cải khác của họ mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho

quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước

khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp

doanh và những hình thức cải tạo khác.

Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi quốc tế là quy luật phát triển của xã hội loài người. + Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Người khẳng định, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là một tất yếu kinh tế, nguyên nhân sâu xa là sự phát triển của sức sản xuất xã hội (LLSX). + Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là do nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để (theo 3 trình độ từ thấp đến cao: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng từng cá nhân để hình thành những nhân cách phát triển toàn diện). + Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là một tất yếu đạo đức xã hội (Người lý giải theo quy luật đấu tranh giữa thiện - ác, tốt - xấu và quy luật chung là cái thiện, cái tốt nhất định sẽ chiến thắng cái ác, cái xấu). Trong Thường thức chính trị Người viết: “CNCS ra đời thì lúc đó mọi người đều sống có đạo đức”. + Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là một tất yếu của văn minh nhân loại. CNXH ra đời là do tác động của tất cả các nhân tố: kinh tế, chính trị, đạo đức, xã hội, văn hoá. Do vậy, sự ra đời của nó (CNXH, CNCS) là không cưỡng lại được. Người nói: Không có một lực lượng nào ngăn trở được mặt trời mọc. Không có một lực lượng nào ngăn trở được xã hội loài người tiến lên. Không có một lực lượng nào ngăn trở CNXH, CNCS phát triển. - Theo Hồ Chí Minh, sự ra đời của CNXH ở Việt Nam cũng là một sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển lịch sử. Bởi vì: + Sau khi nước ta giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản thì đi lên xây dựng CNXH là một bước phát triển hợp quy luật. + Chỉ có xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa thì nước nhà mới thật sự độc lập, nhân dân lao động mới thực sự được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. 

Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về CNXH a. Các nhà kinh điển tiếp cận CNXH 

Page 16: Tu tuong

- Các nhà kinh điển của CN M-LN đã làm sáng tỏ bản chất của CNXH từ những kiến giải KTXH, CTrị, Triết học ở Tây Âu. Từ đó các ông đã thấy rõ vai trò và sứ mệnh của giai cấp VS là đào mồ chôn CNTB và CNTB tất yếu sẽ bị thay thế bằng 1 chế độ XH cao hơn, tiến bộ hơn, chế độ CSCN. Vì thế học thuyết về CNXH của các ông được coi là vũ khí lí luận để g/c VS thực hiện sứ mệnh của mình và trên cơ sở đó nhân dân tiến bộ thế giới hướng tới 1 XH vì con người. - Khi CNTB chuyển từ tự do cạnh tranh sang CNĐQ, Lê Nin đã bổ sung, phát triển và hiện thực hóa học thuyết XHCN KH ở Liên Xô. CNXH KH với tư cách là 1 chế độ XH sau khi được hoàn thiện sẽ là bước phát triển cao hơn và 1 bước PTriển về chất so với CNTB b. HCM tiếp cận học thuyết CNXH KH - HCM cũng tiếp cận CNXH từ những phân tích kinh tế, Ctrị, xã hội, triết học của CN M-L. Cụ thể là từ học thuyết về sứ mệnh lịch sử của g/c công nhân. Tuy nhiên từ 1 người yêu nước đến với CN M-L, HCM còn tiếp cận CNXH KH từ lập trường yêu nước và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc đặc biệt là về phương diện đạo đức. - Toàn bộ những quan điểm của HCM về CNXH là sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố kinh tế XH, Ctrị với các nhân tố nhân văn, đạo đức văn hóa tạo ra những nét riêng trong sự kế thừa làm cho nó phù hợp với điều kiện lịch sử và khát vọng dân tộc VN. Từ bản chất ưu việt của CNXH, HCM khẳng định tính tất yếu của sự lựa chọn khi đi lên CNXH ở nước ta hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thời đại và sự phát triển của lịch sử nhân loại. 2. Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của Chủ nghĩa xã hội: - Theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa xã hội có 5 đặc trưng bản chất. + Về kinh tế: CNXH là chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn với sự phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hóa, dân giàu, nước mạnh. + Nền tảng kinh tế là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. + Về chế độ chính trị: Có chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, dựa trên nền tảng liên minh công-nông-trí thức, do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. + Về xã hội: Có hệ thống các quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn bóc lột, áp bức, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển giữa xã hội và tự nhiên. + Về lực lượng: Chủ nghĩa xã hội là của quần chúng nhân dân và do quần chúng nhân dân tự xây dựng lấy. Các đặc trưng này phản ánh bản chất dân chủ, nhân đạo của Chủ nghĩa xã hội, vượt hẳn các chế độ xã hội trước đó. 3. Ý nghĩa quan niệm của Hồ Chí Minh Quan niệm của Hồ Chí Minh định hướng tư tưởng lý luận cho Đảng ta, nhân dân ta hoàn thiện, cụ thể hóa mô hình Chủ nghĩa xã hội được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Mô hình đó bao gồm 6 đặc trưng cơ bản. Nêu 6 đặc trưng này: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội: - Do nhân dân lao động làm chủ; - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Về đại đoàn kết dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ những cơ sở quan trọng sau

đây:

Page 17: Tu tuong

Thứ nhất là truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.

Đây là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Thứ hai là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người

sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng phải trở

thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Đó là

những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá

chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư

tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn

trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Thứ ba là tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng

Việt Nam và thế giới.

Trước Cách mạng tháng 8, khác với những lãnh tụ Đảng Cộng sản khác ở Việt Nam luôn coi liên

minh công nông là lực lượng nòng cốt, chủ chốt của cách mạng vô sản, coi nhẹ tiềm năng cách

mạng của các giai cấp tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam. Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến

việc tập hợp sự ủng hộ của những giai cấp tầng lớp xã hội không phải là lực lượng chủ chốt của

cách mạng vô sản như tư sản, địa chủ, tiểu thương, trí thức... Thời kỳ này chính những đồng chí

của Hồ Chí Minh đã phê phán đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ" của

Hồ Chí Minh, không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam Quốc tế[57][58].

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố thành lập, giai đoạn 1945 - 1946, tình thế

đất nước ở vào hoàn cảnh vô cùng hiểm nghèo, được ví như ngàn cân treo sợi tóc. Chính trong

hoàn cảnh này, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc của ông, giúp đất nước

vượt qua cơn hiểm nghèo, giữ vững được nền độc lập non trẻ. Hồ Chí Minh đã gạt bỏ các bất đồng

chính trị giữa các phe phái sang một bên, tập hợp các đảng phái chính trị để thành lập Chính phủ

với mục tiêu phụng sự quốc gia, dân tộc. Trong đó mục tiêu độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc bao gồm:

Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách mạng.

Đại đoàn kết là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.

Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.

Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức thể hiện

khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong tác phẩm “Nên Học Sử Ta”, Hồ Chí Minh đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào nhân

dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta

không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết

chắc chắn thêm lên mãi…”[59]

Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Hồ Chí Minh là một trong những người Việt Nam đầu tiên tham gia phong trào cộng sản quốc tế tại

thời điểm Việt Nam chưa có bất cứ tổ chức chính trị nào theo Chủ nghĩa Cộng sản. Ông là thành

Page 18: Tu tuong

viên của tổ chức Quốc tế Cộng sản III, là người đã thống nhất các tổ chức đảng cộng sản riêng rẽ ở

Việt Nam thành một chính đảng duy nhất theo chỉ thị của Quốc tế III. Chính Hồ Chí Minh là người

kết nối phong trào cách mạng vô sản Việt Nam và phong trào cách mạng vô sản quốc tế. Thông qua

Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng vô sản ở Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ to lớn từ các nước

xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Rất nhiều lãnh đạo

phong trào cách mạng Việt Nam quan trọng đã được Hồ Chí Minh tổ chức sang Liên Xô hoặc Trung

Quốc đào tạo về chính trị và quân sự.

Qua khảo sát thực tế, từ kinh nghiệm bản thân, Hồ Chí Minh đã nhận thức được rằng: chủ nghĩa đế

quốc là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động ở cả chính quốc

và thuộc địa. Muốn đánh thắng chúng, phải thực hiện khối liên minh chiến đấu giữa lao động ở các

thuộc địa với nhau và giữa lao động ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc; nếu tách riêng mỗi lực

lượng thì không thể nào thắng lợi được. Điểm vượt lên của Hồ Chí Minh so với các lãnh tụ yêu nước

và chí sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX chính là ở đó, nó nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về sức

mạnh thời đại.[60]

Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự liên kết giữa phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách

mạng tại các nước khác cũng là phương châm cơ bản của phong trào cộng sản quốc tế thể hiện

qua khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại". Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

đại là một cách diễn đạt sự liên kết đó. Nội dung của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

thời đại bao gồm:

Đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới.

Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội

chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của

mình.

Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng là bạn với tất cả mọi nước dân chủ.

Theo Hồ Chí Minh, "phải làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu

biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh

này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản"

NỘI DUNG CHÍNH

Về cơ sở hình thành, thì thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết

dân tộc bắt nguồn từ các giá trị truyền thống dân tộc: truyền thống yêu nước,

nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, sự hình thành

được dựa trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của

những phong trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới. Và thứ

Page 19: Tu tuong

ba, là bắt nguồn từ quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò của quần

chúng nhân dân.

… Chính từ những cơ sở trên, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm cơ

bản của mình về đại đoàn kết dân tộc.

1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định

thành công của cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực

lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội

mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi

lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết

dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược, nó là một tư

2

tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là

chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức

mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù.

Tiếp đó, đại đoàn kết dân tộc còn là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy

nhiên trong từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều

chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác

nhau.

Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chất đoàn kết như: “Đoàn

kết là sức mạnh của chúng ta”; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”;

“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”…và đặc biệt là câu nói

Page 20: Tu tuong

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”.

Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm

coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân. Đồng thời, Người lưu ý

rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp,

nhiều dân tộc, tonn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân trong Mặt trận dân tộc

thống nhất. Muốn vậy, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính

sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung

của Tổ quốc và những quyền lưoij cơ bản của nhân dân lao động, làm “mẫu số

chung” cho sự đoàn kết.

2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy

rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc

là mục tiêu của cách mạng. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt

trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy

nhất đối với cách mạng Việt Nam. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của đảng Lao

động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước

toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng lao động Vịêt Nam có thể gồm trong 8 chứ

là: đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn

luyện miền múi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: “Trước cách mạng

Page 21: Tu tuong

Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng

3

bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. hai là làm cách mạng hay

kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyến truyền

huấn luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu

tranh thống nhất nước nhà”.

Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề

đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách

mạng. Người cho rằng: Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, mục

đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng

đầu của cả dân tộc. Như vậy đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của

bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự

nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức

tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần

chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh

vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh

phúc cho con người.

3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm “Dân” có nội hàm rất rộng,

vừa được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con

Page 22: Tu tuong

người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người

con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người

tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ; gái, trai; giàu,

nghèo; quý, tiện”. Như vậy, Dân được hiểu là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc.

Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào

một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để

đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây

dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ

nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Ta ở đây vừa là Đảng, vừa là mọi người dân của

Tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại

đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân

trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam.

4

Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống

yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc; phải có tấm lòng khoan dung, độ

lượng với con người; Người Việt Nam có câu “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai

đánh người chạy lại”, Hồ Chí Minh cho rằng ngay đối với những người lầm

đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn

đoàn kết với họ, mà hoàn toàn không định kiến, khoét sâu cách biệt….Người tha

Page 23: Tu tuong

thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào,

tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật

thà cộng tác vì dân vì nước. Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: Cần

xoá bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng

tiến bộ để phục vụ nhân dân.

Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết dân tộc một cách

rộng rãi như trên là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người, “ai

cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước

ấy có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng

yêu nước lại bộc lộ. Vì vậy mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn

kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do và

hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho đến mãi mãi mai sau.

Dân tộc, toàn dân là khối rất đông bao gồm nhiều chục triệu con người.

Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ

đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái

nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa

số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp

nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của

Page 24: Tu tuong

nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp

nhân dân khác”. “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông,

cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Về

sau Người có nêu thêm: lấy liên minh công nông – lao động trí óc làm nền tảng

cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối

đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể

làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.

4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức

là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng

Đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan điểm, tư tưởng, ở những

lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu

hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất,

thành lực lượng vật chất có tổ chức.

Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh

vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chúng, được tổ chức thành một

khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Thất bại của

các phóng trào yêu nước đã cho thấy, nếu không có tổ chức lãnh đạo, quần chúng

nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người chỉ là một số đông không có sức

mạnh… Và tổ chức thể hiện sức mạnh khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận

dân tộc thống nhất. Mặt trận có thể có tên khác nhau: Hội phản đế đồng minh,

Mặt trận Dân chủ, Mặt trận nhân dân phản đế… nhưng tựu trung lại chỉ là một tổ

chức chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo,

đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì

mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân…Và

Page 25: Tu tuong

nguyên tắc của mặt trận đó là:

Thứ nhất, đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu

nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chí Minh cho

rằng, nước đoàn kết mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng

chẳng có nghĩa lý gì. Sự đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn

bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu.

Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc phải xậy dựng trên nền tảng liên minh công –

nông – lao động trí óc. Phải trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở rộng

Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn

dân, kết thành một khối vững chắc.

6

Thứ ba, hoạt động của mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc

thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ

sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc

độc lập và thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vậy,

phải làm cho mọi người đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và trước hết.

Thứ tư, khối đoàn kết trong mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự,

chân thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đó là sự đoàn kết chặt chẽ với các

tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ, các tôn giáo…trong

Mặt trận, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc.

Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực

lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững

chắc. Muốn lãnh đạo được, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm

của dân tộc và thời đại, phải thực sự đoàn kết nhất trí. Đảng Cộng sản Việt Nam

phải là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì

vậy quyền lãnh đạo mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà là được

Page 26: Tu tuong

nhân dân thừa nhận, như Hồ Chí Minh viết: Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận

thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành

nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng

ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh

đạo của Đảng. thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không phải chỉ là sản phẩm

của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- lênin với phong trào công nhân, mà còn cả với

phong trào yêu nước Việt Nam. Và phong trào yêu nước chính là một trong

những biểu hiện cho sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam ta.

5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế

(chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gằn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng

của giai cấp công nhân)

Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách

mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, nó chỉ có thể giành

7

thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Người nêu rõ:

“Phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì

liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản khắp mọi nơi”. Vậy nên sau này, tư

tưởng của Người về đoàn kết trong phong trào cách mạng thế giới ngày càng rõ

và đầy đủ hơn, như là phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của

giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước tư bản; là

nước Nga Xôviết, là Liên Xô và sau này là tất cả các nước xã hội chủ nghĩa

khác; là phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của

xã hội, của nhân dân thế giới… và đặc biệt là Người coi trọng xây dựng khối

đoàn kết Việt- Miên- Lào, ba nước cùng cảnh ngộ thuộc địa trên bán đảo Đông

Dương trong cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân. Trong kháng chiến chống

chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình

Page 27: Tu tuong

thành ba tầng Mặt trận ở Việt Nam là: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận

đoàn kết Việt- Miên- Lào; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt

Nam chống đế quốc xâm lược. Như vậy, đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố

hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.

CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUAN ĐIỂM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của

dân tộc Việt Nam.

Theo giáo sư Vũ Khiêu, truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam bao

gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh

thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người. Giáo sư Trần Văn Giàu

cho rằng, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu

nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Còn trong các

văn kiện của Đảng và Nhà nước, các giá trị đạo đức thường được đề cập đến và

được coi là những giá trị nổi bật. Chẳng hạn, Nghị quyết của Bộ Chính trị về một

số định hướng lớn trong công tác tư tưởng đã khẳng định: "Những giá trị văn hoá

2

truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức

cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần

cù...".

Như vậy, từ quan điểm của các nhà khoa học cũng như của Đảng ta, có thể khẳng

định, dân tộc Việt Nam có một di sản giá trị đạo đức vô cùng phong phú, trong

đó, các giá trị điển hình là: tinh thần yêu nước, lòng thương người sâu sắc, tinh

thần đoàn kết, tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm.

Trong các giá trị đó, nổi bật nhất là tinh thần yêu nước. Tinh thần yêu nước là

"nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung của nó là lòng

Page 28: Tu tuong

trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí

bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc". Thực ra, trên thế giới, mỗi quốc gia, dân tộc

đều có tình yêu đất nước, nhưng bản sắc, sự hình thành cũng như biểu hiện của

nó lại có sự khác nhau. ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng, chủ nghĩa yêu

nước là giá trị đạo đức cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức

cao nhất, đứng đầu trong thang bậc giá trị truyền thống, và là hằng số trong mỗi

người Việt Nam, "là tiêu điểm của mọi tiêu điểm". Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ

quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, luôn chăm lo xây dựng và bảo vệ đất

nước, có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc, luôn tự hào về dân tộc.

2. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong

trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới.

Về mặt thực tiễn, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình

thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng ở trong

và ngoài nước, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đã

đem lại bài học bổ ích về việc tập hợp lực lượng yêu nước tiến bộ từ đó tiến hành

cách mạng.

Từ việc tổng kết các phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam, Hồ Chí

Minh rút ra kết luận: vận mệnh của đất nước đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh

đạo mới, có khả năng đề ra đường lối đấu tranh đúng đắn và phương pháp cách

3

mạng phù hợp; cần huy động, tập hợp lực lượng của các giai cấp, các tầng lớp

nhân dân vào cuộc đấu tranh chống thực dân phong kiến; cần củng cố khối đại

đoàn kết dân tộc bền vững và xây dựng khối đoàn kết quốc tế để tạo thành sức

mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.

Nghiên cứu, tổng kết các phong trào cách mạng thế giới, Người rút ra kết

luận: Cách mạng tư sản Pháp, cách mạng tư sản Mĩ là những cuộc cách mạng

“chưa đến nơi”; cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh

Page 29: Tu tuong

to lớn tuy nhiên họ lại chưa biết tổ chức, chưa có sự lãnh đạo và chưa lien kết

chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra cần có một tổ chức để lãnh đạo và

tổ chức để đưa cách mạng dược thực hiện. Cách mạng vô sản Nga là cuộc cách

mạng triệt để nhất để từ đây Người đưa ra quan điểm: lấy liên minh công – nông

làm gốc xây dựng được khối đại đoàn kết, cần có một đảng lãnh đạo và phải

đoàn kết được toàn dân.

3. Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Cơ sở lí luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí

Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác

– Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; nhân dân là người sang tạo ra

lịch sử; giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc; liên

minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng; đoàn kết dân tộc

phải gắn liền với đoàn kết quốc tế theo tinh thần “Vô sản tất cả các nước và các

dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”,...

Từ việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã có cơ sở khoa học để

đánh giá chính xác các yếu tố tích cực cũng như hạn chế trong các di sản truyền

thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước ở trong nước và

trên thế giới cùng, những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc cách mạng các nước,

từ đó hình thành và hoàn thiện tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.

II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng.

4

Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: là một hệ thống những luận

điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục. Tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến

bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong

sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một

cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong

Page 30: Tu tuong

sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai đoạn, giải phóng con người.

Vấn đề chiến lược này đã được Hồ Chí Minh đúc rút, tổng kết thành những

chân lí: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là

thắng lợi”, “Đoàn kết…,là then chốt của thành công”, “Đoàn kết là điểm mẹ,điểm

mẹ này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt…”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại

đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”,… Từ đây Người đã khẳng

định một trong những nguyên nhân dân đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam là

đoàn kết dân tộc.

Và Người khuyên dân ta rằng:

“Dân ta xin nhớ chữ đồng:

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”

Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.

2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách

mạng.

Hồ Chí Minh cho rằng “ đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm

vụ hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”.

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng

Việt Nam. Trong “Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam” ngày

3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục

đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT

TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Nhiệm vụ cụ thể được Hồ Chí Minh xác

định đối với các cán bộ của Đảng là tuyên truyền, huấn luyện làm sao cho nhân

dân hiểu được và làm được. ví dụ: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa