Upload
doandat
View
230
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
1
Lời giới thiệu
Việc hỗ trợ các Nhóm cùng sở thích thực hiện các tiểu dự án sinh kế, đặt ra
yêu cầu cho các cán bộ sinh kế và hướng dẫn viên cộng đồng (CF) của dự án,
không chỉ có nhưng kỹ năng thúc đẩy tốt, mà còn cần có những kỹ kiến thức, kỹ
năng sâu, rộng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nói chung, và sản xuất nông
nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, do có nhiều cán bộ sinh kế và CF của dự án có chuyên
nghành đào tạo khác biệt so với yêu cầu kiến thức của dự án, nên khi tham gia dự
án, hỗ trợ cộng đồng, những cán bộ này đã phải tự tham khảo nhiều kiến thức, tự
học thêm nhiêu kỹ năng làm việc mới mà đôi khi việc tìm tài liệu thao khảo còn
gặp nhiều khó khăn.
Nhằm góp phần nhỏ bé hỗ trợ các cán bộ sinh kế và CF của dự án có thêm
tài liệu để tự nâng cao năng lực bản thân, nhóm sinh kế CPO đã sưu tầm và biên
soạn một số quy trình kỹ thuật nuôi, trồng các vật nuôi, cây trồng phổ biến nhất
trong vùng dự án để chia sẻ đến bạn đọc.
Xin lưu ý rằng những quy trình kỹ thuật này được sưu tầm ở nhiều nguồn
khác nhau. Chúng không thể đại diện cho một địa phương trong vùng dự án được.
Vì thế, không nên dùng những tài liệu này để áp dụng ngay vào thực tế sản xuất tại
địa phương. Khi cần áp dụng cho một tiểu dự án nào đó, cán bộ sinh kế và CF vẫn
cần đến liên hệ với các Phòng Nông nghiệp và PTNT, Trạm khuyến nông huyện để
lấy các quy trình tương ứng để áp dụng, vì các quy trình này đã được thiết kế chính
xác hơn với các điều kiện vụ thể của địa phương.
Hà nội, ngày 5 tháng 10 năm 2012
Nhóm sinh kế CPO
2
MỤC LỤC
PHẦN 1 - KỸ THUẬT TRỒNG LÚA .......................................................................................................... 3
PHẦN 2 - KỸ THUẬT TRỒNG NGÔ LAI TRÊN ĐẤT DỐC ..................................................................17
PHẦN 3 - KỸ THUẬT TRỒNG LẠC .........................................................................................................30
PHẦN 4 - KỸ THUẬT TRỒNG KHOAI LANG ........................................................................................36
PHẦN 5 - KỸ THUẬT TRỒNG MỘT SỐ GIỐNG ĐẬU TƯƠNG Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
......................................................................................................................................................................43
PHẦN 6 - KỸ THUẬT TRỒNG ATISO .....................................................................................................48
PHẦN 7 - KỸ THUẬT TRỒNG VÀ THU HOẠCH CÂY THANH HAO HOA VÀNG ..........................54
PHẦN 8 - KỸ THUẬT TRỒNG GỪNG .....................................................................................................58
PHẦN 9 - KỸ THUẬT TRỒNG NẤM .......................................................................................................62
PHẦN 10 – KỸ THUẬT GIEO ƯƠM VÀ CHĂM SÓC CÂY THUỐC TẮM ..........................................69
PHẦN 11 - KỸ THUẬT TRỒNG KHOAI TÂY ĐỨC ...............................................................................73
PHẦN 12 - KỸ THUẬT TRỒNG KHOAI SỌ (MÔN) ...............................................................................77
PHẦN 13 - KỸ THUẬT TRỒNG CỎ .........................................................................................................79
PHẦN 14 - KỸ THUẬT TRỒNG CÀ PHÊ.................................................................................................83
3
PHẦN 1 - KỸ THUẬT TRỒNG LÚA
Nguồn: Tài liệu của viện khoa học nông nghiệp Việt Nam (web: vaas.org.vn)
1. Chuẩn bị hạt giống, ủ, làm đất, gieo và chăm sóc mạ
a. Chuẩn bị hạt giống
Nhà nông có câu ”Tốt giống tốt má, tốt mạ
tốt lúa”. Yếu tố đầu tiên đảm bảo cho cây lúa khoẻ
cần phải có hạt giống tốt. Gieo trồng hạt giống tốt
là điều kiện cần thiết để cây lúa khoẻ. có khả năng
chống chịu sâu bệnh và vượt qua được biến động
bất lợi của điều kiện môi trường từ đó mới có thể
cho năng suất, chất lượng cao.
Để có hạt giống tốt đối với những hộ nông
dân tự làm giống phải tuân thủ quy trình sản xuất
và bảo quản giống do Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn quy định.
Nếu không tự sản xuất được thì phải mua hạt
giống tại những cơ sở cung cấp giống tin cậy. Hạt
giống khỏe phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Hạt giống phải khô, sạch, chắc mẩy, thuần,
đúng giống, đồng nhất về kích cỡ, không bị
lẫn những hạt giống khác, không bị lẫn hạt cỏ và tạp chất, không có hạt lem,
lép và không bị dị dạng.
- Hạt giống không bị côn trùng phá hoại (sâu mọt), không mang mầm bệnh
nguy hiểm.
- Tỉ lệ nảy mầm cao, đạt 85% trở lên.
Số lượng hạt giống / đơn vị diện tích: Tuỳ theo mùa vụ và trọng lượng 1000
hạt của giống để tính lượng hạt giống cần cấy ( Trọng lượng 1000 hạt lớn, lượng
hạt giống cần nhiều hơn hạt giống có trọng lượng 1000 hạt thấp). Thông thường
lượng hạt giống cần thiết:
- Vụ xuân: 2- 2,5 kg hạt giống/ sào Bắc bộ
- Vụ mùa: 1,5- 2 kg hạt giống/ sào Bắc bộ
Lưu ý: Đối với lúa lai chỉ cần 1 kg hạt giống/ sào Bắc bộ
4
b. Ngâm ủ hạt giống
Thực hiện tốt các khâu kỹ thuật ngâm ủ hạt giống sẽ có tỷ lệ nảy mầm cao,
loại bỏ được một số loại bệnh hại và kí sinh trên hạt.
Phơi lại hạt giống: Hạt giống cần phơi lại 6- 8 giờ trong nắng nhẹ (không
phơi trực tiếp trên sân gạch hay sân xi măng). Phơi lại có tác dụng làm cho hạt hút
nước nhanh, xúc tiến hoạt động của hệ thống
men, tăng khả năng nảy mầm.
Thử tỷ lệ nảy mầm
Chọn hạt tốt, loại bỏ hạt lép lửng bằng
nhiều cách : Bằng quạt gió, sàng sảy hoặc trong
quá trình ngâm nước cần vớt hết những hạt nổi
và giữ lại hạt chìm (hạt tốt).
Xử lí hạt giống : Có thể sử dụng một
trong các phương pháp sau:
+ Xử lí bằng nước nóng 540C ( pha tỷ lệ 3 sôi 2
lạnh): Ngâm hạt vào nước lạnh 24 giờ, sau đó
đưa vào nước nóng 45- 470C trong 5 phút và cu
ối cùng là nước nóng 54- 550C trong 10 phút.
Phương pháp này đơn giản nhất, có tác dụng trừ
nấm bệnh và tuyệt trùng trên hạt, tạo cho hạt hút
nước nhanh
+ Xử lí bằng nước vôi: Hòa tan 1kg vôi sống
vào 100 lít nước, ngâm 1-2 ngày ở vụ mùa, 3-4
ngày ở vụ xuân, đãi sạch rồi ủ thúc mầm.
+ Xử lí bằng hoá chất Formalin: Dung dịch 2% phun vào hạt giống ( 5 lít dung dịch
cho 50 kg hạt giống), ủ kín 3 giờ, đãi sạch rồi thúc mầm.
(Xem thêm ở trang phòng trừ bệnh trên hạt)
Đối với hạt giống mới thu hoạch muốn gieo ngay cần áp dụng phương pháp
xử lý phá ngủ để tăng độ nảy mầm. Dùng axít nitric 0,2% (lượng dùng 100 ml dung
dịch cho 1,2- 1,4 tạ hạt giống) để xử lý phá ngủ hoặc dùng supe lân để thay thế.
5
Ngâm ủ hạt giống
Ngâm hạt: Để hạt nảy mầm cần phải ngâm hạt hút đủ độ ẩm cần thiết. Thời
gian ngâm tùy thuộc nhiệt độ, 1-2 ngày ở vụ mùa, 2-3 ngày ở vụ đông xuân. Trong
quá trình ngâm, hạt hô hấp yếm khí, thiếu ô xy làm nước chua, cần phải thay nước
mỗi ngày một lần.
Ủ thúc mầm: Sau khi hạt đã hút đủ nước, đem ủ, để hạt nảy mầm. Trong quá
trình ủ, nên định kỳ vảy nước và trộn đảo hạt để hạt nẩy mầm đều.
Khi hạt đã nhú mầm, nên xen kẽ “ngày ngâm đêm ủ” để phát triển cân đối
mầm và rễ. Vụ mùa, hè thu chỉ cần ủ nứt nanh, vụ đông xuân cần có mầm dài hơn.
c. Các phương thức làm mạ:
Tùy điều kiện đất đai và thời tiết, có thể làm mạ bằng nhiều phương pháp
khác nhau:
- Mạ dược: Là hình thức phổ biến nhất. Ruộng mạ được giữ nước, làm đất kỹ,
trang phẳng rồi lên luống, gieo hạt đã nảy mầm, giữ ẩm thời kỳ đầu sau đó
mới tưới nước cho đến lúc cấy.
- Mạ sân (mạ nền): Những năm rét nhiều ở vụ xuân, mạ dược thường chết gây
thiêu mạ, phảI khắc phục bằng làm mạ sân (Thường là vụ xuân muộn).
Xuất phát từ kinh nghiệm làm mạ Dapog của Philippin. Làm đất khô trước
khi gieo, lót giấy PE hoặc lá chuối, rải một lớp đất bột mỏng rồi gieo hạt, tưới ẩm.
Mạ Dapog gieo dày (2-2,5 Kg/m2), tuổi mạ 10-15 ngày.
Có thể cải tiến phương pháp này bằng cách trước khi gieo mầm, rảI một lớp
bùn mỏng lên sân hay lên nền đất cứng ở bờ mương, ven đường. Nếu đất xấu có thể
trộn thêm phân chuồng mục đã ủ với lân. Gieo hạt đã xử lí, ngâm ủ. Mật độ gieo từ
1,0-1,5 kg/m2 . Tưới giữ ẩm, che nilon tránh gió lạnh. Khi mạ 2,5-3 lá là nhổ cấy
được. Khi lấy mạ bứng cả mảng. Khi cấy tách thành các khóm nhỏ. Mạ sân bén rễ
nhanh, không thua kém mạ dược.
- Mạ khô (mạ đồi, mạ nương): Làm đất khô, gieo sâu 2-3 cm (hoặc chọc lỗ bỏ
hạt) dùng cào, bừa răng lấp hạt. . . ở đồng bằng, làm đất nhỏ lên luống, gieo
hạt, lấp một lớp đất bột mỏng và tưới ẩm. Loại mạ này, sau cấy bén rễ nhanh,
mọc khỏe.
6
- Mạ nổi (mạ bè): Phổ biến ở vùng đất trũng không làm được mạ dược (mạ
nước). Lấy rơm cỏ kết thành bè rộng 1-1,2 m, nổi lên 3-5 cm, dùng đất sét,
bùn loãng rải lên rồi gieo mầm.
* Làm đất gieo mạ
*Mạ dược:
Chuẩn bị ruộng mạ : Chọn chân ruộng cao, chủ động tưới tiêu, đất cát pha
hoặc thịt nhẹ và tiện chăm sóc.
*Làm đất:
Đất cày ngả sớm, bừa 4-6 lần, nhuyễn và sạch cỏ. Nếu đất chua có thể bón
vôi 15-20 kg/ sào Bắc Bộ. Bón lót 3- 4 tạ phân chuồng, 7-10 kg supe lân, 2 kg urê
và 3kg kali/ sào.
Lên luống rộng 1,2 - 1,4 m, có rãnh
thoát nước, mặt luống phẳng ở vụ đông
xuân, mặt luống hơi vồng ở vụ mùa để dễ
thoát nước.
Gieo mạ: Hạt giống sau khi xử lí,
ngâm ủ nảy mầm đều là đem gieo
Mật độ và kỹ thuật gieo: Vụ đông
xuân gieo 40-45 kg/ sào Bắc bộ, vụ mùa ít
hơn (tùy theo giống, thời vụ và khối lượng
hạt). Gieo hơi chìm hạt, nhất là vụ đông
xuân để chống rét, sau gieo có thể phủ một
lớp tro mộc ( 8-10 kg/sào).
Mạ sân, mạ trên nền đất cứng:
Là giải pháp tình thế trước đây để
khắc phục hiện tượng thiếu mạ trong vụ
đông xuân, do thời tiết rét đậm kéo dài, mạ
dược bị chết nhiều. Song hiện nay biện pháp
này đã trở thành tiến bộ kỹ thuật được áp
dụng rộng rãi. Làm mạ sân hay mạ trên nền
đất cứng không phức tạp chỉ cần chọn được
7
nền đất cứng (bờ mương, ven đường, sân, vườn..), làm cho mặt đất phẳng, rải một
lớp bùn hoặc đất bột mỏng lên sân hay nền đất cứng ( Nếu đất xấu nên trộn thêm
với phân chuồng hoai mục đã được ủ với lân để đảm bảo dinh dưỡng cho mạ) , gieo
hạt đã xử lí, ngâm ủ, nảy mầm đều.
Lượng gieo: 1,0 -1,5 kg hạt giống/m2. Tưới nước giữ ẩm.
c. Chăm sóc và quản lý ruộng mạ
Chăm sóc mạ dược:
Nước: Ở thời kỳ mạ non (từ gieo đến 3lá), mặt luống cần được giữ ẩm để rễ
phát triển thuận lợi. Khi mạ có 4 lá đến nhổ cấy tùy theo thời tiết và sinh trưởng
của mạ để quyết định chế độ tưới nước. Khi cần chỉ tưới nước vào rãnh để luống
mạ đủ ẩm. Trước khi nhổ có thể tưới trước 5-7 ngày cho đất mềm, dễ nhổ, tránh
đứt rễ.
Phân bón: Bón thúc vào thời kỳ mạ 3-4 lá, Lượng bón từ 0,5- 1,0 kg Urê/
sào Bắc bộ tùy theo giống và độ phì đất. Trước khi nhổ cấy 3-5 ngày, có thể bón
tiễn chân giúp cây mạ ra rễ mới. Mạ tốt, mạ già không nên bón thúc nhiều.
Phòng chống rét: Dùng các giống chịu rét. Gieo đúng thời vụ, gieo vào lúc
trời ấm, gieo mật độ dày, tăng phân chuồng và lân, không bón đạm vào lúc trời rét,
điều tiết nước và che phủ Nilon cho mạ trong những đợt rét.
Phòng chống mạ già, mạ ống: Mạ đông xuân rất mẫn cảm với nhiệt độ.
Cần đề phòng mạ ống khi thời tiết ấm, nhiệt độ bình quân trên 200c kéo dài và tích
ôn đạt 5000c . Điều kiện đất tốt, nước nhiều, gieo dày cũng dẫn tới mạ ống.
Biện pháp chống mạ già và ống: Rút nước để ruộng mạ khô, không bón
đạm, bố trí thời vụ thích hợp và tránh tình trạng “mạ chờ ruộng”.
Phòng chống sâu bệnh cho mạ: Tiến hành phòng trừ khi sâu bệnh phát sinh
rộ.
Tiêu chuẩn mạ tốt: Mạ cứng cây, khỏe, tỉ lệ bẹ / lá cao, đanh dảnh, màu sắc lá xanh
vàng, tỉ lệ C/N thích hợp, mạ không bị ống, có sức ra rễ mạnh và không có sâu
bệnh.
Đúng tuổi: Tuổi mạ cấy tùy thuộc vào giống, thời vụ và phương pháp làm
mạ. Để tính tuổi mạ có thể dùng ngày tuổi hoặc số lá. Thí dụ, ở vụ mùa tính tuổi
8
mạ theo ngày tuổi, còn ở vụ đông xuân theo số lá (mạ dược 5-6 lá, mạ sân hoặc mạ
trên nền đất cứng 2-3 lá).
Chăm sóc mạ sân: Đối với mạ sân, sau khi gieo hạt cần đặt biệt điều tiết
nước và giữ ẩm cho mạ. Số lần tưới nước phụ thuộc vào nhiệt độ và cường độ ánh
sáng trong ngày. Ở vụ mùa số lần tước nước đòi hỏi nhiều hơn ở vụ xuân, đặc biệt
vào những ngày nắng nhiều và nhiệt độ cao. Khi đó, cứ 20- 30 phút cần tưới nước
một lần để giữ ẩm. Khi mạ có 2,5 - 3 lá là đủ tuổi để nhổ cấy.
2. Kỹ thuật làm đất cấy
Đất trồng lúa có hai dạng cơ bản :
Đất chuyên canh lúa: Thường có chân
vàn hoặc chân trũng khó thoát nước. Loại đất
này thường làm dầm, khi có điều kiện thì chỉ
rút nước phơi ải sau khi đã thu hoạch xong vụ
lúa mùa.
Đất luân canh lúa-màu: Là đất chân cao,
cấy vụ mùa và làm màu vụ đông xuân. đất này
không phơi ải mà chỉ làm dầm.
Kỹ thuật làm đất
Đất lúa cần phải cày sớm, ruộng làm dầm
phải giữ nước. Ruộng làm ải cần được phơi kỹ,
giữa đợt cày đảo ải. Làm ải có tác dụng cho đất
thoáng, tiêu diệt được một số loại dịch hại trong
đất. Nếu phơi ải gặp mưa lớn không có khả
năng phơi lại thì phải giữ nước, chuyển sang
làm dầm.
Làm đất lúa phải cày sâu, bừa kỹ cho đất
nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng thuận lợi cho khi
cấy đồng đều và điều tiết nước.
Cày sâu tạo điều kiện cho bộ rễ lúa phát
triển tốt, tăng nguồn dự trữ dinh dưỡng, có lợi cho các hoạt động của vi sinh vật
vùng rễ phân giải các chất hữu cơ khó phân huỷ, tăng cường dinh dưỡng cho lúa.
9
Yêu cầu đất lúa trước khi cấy phải sạch gốc rạ, cỏ dại. đất lúa cấy mạ sân
càng phải được làm kỹ hơn, mặt ruộng phẳng hơn và để mức nước nông để lúa cấy
xong phát triển thuận lợi.
Bón lót: Trong quá trình làm đất sẽ kết hợp với bón lót. Bón lót phân
chuồng, phân xanh, vôi và các loại phân vô cơ như lân, kali, đạm…Bón lót sâu và
hợp lí :
Bón lót phân xanh và vôi (nếu có) vào lúc cày ngả, phân chuồng và phân lân
bón vào lúc cày lại, đạm và kali bón trước khi bừa cấy.
Vụ chiêm xuân nhiệt độ đầu vụ thấp cần quan tâm bón lót nhiều hơn vụ mùa.
Kỹ thuật cấy
Mật độ và khoảng cách cấy: Mật độ có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
hình thành số bông. Xác định mật độ cấy hợp lý cần dựa và
Thời vụ cấy: vụ có nhiệt độ thấp cấy dầy hơn vụ có nhiệt độ cao.
Vụ xuân cấy mật độ: 45-55 khóm/m2, 2-3 dảnh /khóm
Vụ mùa cấy mật độ: 40- 45 khóm/m2, 2-3 dảnh / khóm
Khoảng cách:
Vụ xuân: 20 cm X 11cm hoặc 18 cm X 11 cm
Vụ mùa: 20 cm X 11 cm.
Giống: loại hình nhiều bông cấy dày hơn loại hình to bông.
Giống nhiều bông cấy 200 -250 dảnh cơ bản /m2
Giống to bông: cấy 180 -200 dảnh cơ bản /m2
Đất và dinh dưỡng: Đất xấu, ít phân cấy dầy hơn nơi đất tốt và nhiều phân.
Tuổi mạ, chất lượng mạ: Mạ già chất lượng kém cấy dày hơn mạ non, mạ tốt.
Trình độ thâm canh: Nơi có trình độ thâm canh thấp cần cấy dầy hơn nơi có trình
độ thâm canh cao.
Kỹ thuật cấy: Cấy thẳng hàng, cấy nông 3-4 cm( cấy sâu 5-6cm lúa sẽ phát
sinh 2 tầng rễ), ở vụ chiêm xuân cấy sâu hơn vụ mùa.
10
Để cấy nông, cần làm đất kỹ, giữ nước nông, cấy ngửa tay. Cấy thẳng hàng dễ kiểm
tra, bảo đảm mật độ và tạo điều kiện thuận lợi cho khâu chăm sóc sau này.
3. Kỹ thuật chăm sóc lúa
a. Làm cỏ
Khi cây lúa bén rễ hồi xanh thì bắt đầu làm cỏ kết hợp với sục bùn và bón
thúc. Sau đó tuỳ vào giống lúa ngắn hay dài ngày có thể tiếp tục làm cỏ sục bùn từ
1-2 lần nữa và kết thúc trước khi lúa bước vào thời kỳ làm đòng. Làm cỏ sục bùn
có tác dụng diệt cỏ dại, vùi phân tránh mất đạm, bổ sung ô xy cho rễ, làm đứt rễ già
và kích thích ra rễ mới. Làm cỏ bằng tay, cào răng đẩy tay
b. Trừ rong rêu: Những ruộng lúa có nhiều rong rêu thì nên trừ bằng cách
tháo cạn nước 5-6 ngày kết hợp bón vôi bột (5-10 kg/ha), hoặc phun
CuSO4 5-10% vào ngày nắng từ 1-2 lần, mỗi lần cách nhau 2-3 ngày,
hoặc dùng MCPA dung dịch 0,4% phun 500 lít/ ha.
c. Bón thúc:
Bón thúc đẻ nhánh: Khi lúa bén rễ hồi xanh kết hợp với làm cỏ đợt I, bón 50
-60 % lượng đạm
Bón đón đòng: Trước trỗ 30 -35 ngày. Bón đón đòng có tác dụng xúc tiến
phân hóa rễ và hoa nhằm đạt số hạt / bông cao.
Bón nuôi đòng: Tiến hành vào thời gian trước trỗ 12-15 ngày. bón nuôi đòng
có tác dụng tăng tỉ lệ hạt chắc và khối lượng hạt.
Để tăng hiệu quả của phân bón thúc nên bón sâu theo cách kết hợp với làm
cỏ sục bùn, giữ nước vừa phải, không bón khi thời tiết xấu . . .có thể dùng phân
viên tổng hợp bón tập trung vào gốc sẽ năng cao hiệu quả của phân.
d. Tưới nước
Tuỳ điều kiện cụ thể mà có thể đảm bảo chế độ nước phổ biến như sau: duy
trì mức nước < 5 cm vào thời kỳ sau cấy đến thời kỳ đẻ nhánh hữu hiệu, > 20cm
vào thời kỳ cuối đẻ nhánh để hạn chế đẻ nhánh vô hiệu. Nếu lúa tốt, sinh trưởng
mạnh thì nên rút nước phơi ruộng, hạn chế dinh dưỡng cũng có tác dụng làm giảm
đẻ nhánh vô hiệu. Duy trì 5-10 cm nước vào thời kỳ làm đòng đến chín sữa. Sau
thời kỳ chín sữa có thể rút nước, lúa tiếp tục vào chắc, thuận lợi cho khâu thu
hoạch.
Trường hợp lúa xấu hoặc trên đất chua , mặn, phèn, phải duy trì mực nước 5-6 cm
để hạn chế phèn, mặn.
11
e. Phòng trừ sâu bệnh:
Phải thường xuyên kiểm tra đồng
ruộng, phát hiện và phòng trừ sâu bệnh
kịp thời. Cây lúa có nhiều loại bệnh như:
sâu đục thân bướm hai chấm, sâu đục
thân năm vách đầu nâu , sâu đục thân năm
vạch đầu đen, sâu cuốn lá nhỏ, sâu cuốn
lá lớn, sâu năn hại lúa, sâu phao, sâu gai,
châu chấu hại lúa, rầy nâu, rầy lưng trắng,
bọ xít, bọ trĩ, bệnh do vi khuẩn: bệnh
bạch lá, bệnh do vi-rút: bệnh vàng lụi,
bệnh virut lúa cỏ, bệnh lùn xoắn lá; bệnh
do nấm: bệnh đạo ôn, bệnh khô vằn,
bệnh hoa cúc, bệnh truyền qua hạt giống,
bệnh lúa von, bệnh thối bẹ, bệnh đốm
nâu, bệnh đốm vòng, bệnh cháy lá, chuột
đồng hại lúa. Sau đây là một số biện
phát phát hiện bệnh và cách phòng trừ
bệnh hại lúa.
Sâu cuốn lá nhỏ
Gây hại từ khi lúa đẻ nhánh tới
khi lúa ngậm sữa. Quan trọng nhất là giai đoạn lúa đẻ nhánh làm đòng. Những năm
có khí hậu mát mẻ, ẩm độ cao, mưa nắng
xen kẽ thường phát sinh nặng.
* Phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ
- Vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ cỏ
dại là nơi trú ngụ qua đông.
- Cấy dày vừa phải. Chăm sóc bón
phân hợp lý.
- Bẫy đèn diệt bướm. Thường
xuyên kiểm tra đồng ruộng. Khi sâu non
có mật độ 9-12 con/m2 (giai đoạn lúa đẻ
nhánh), 6-9 con/m2 (lúa làm đòng) cần
12
phun thuốc.
- Dùng các loại thuốc Padan 95SP, Regent 800WP, Sumithion 50EC, Karate
2.5EC... phun khi sâu còn tuổi 1-2, sâu đã lớn cần phá bao lá trước khi phun mới có
hiệu quả.
Sâu cuốn lá lớn
Thường gây hại lúc lúa đứng cái; vùng truntg du và miền núi bị hại nặng hơn
đồng bằng. Những năm mưa nhiều, thời tiết mát mẻ, sâu phát sinh nặng.
* Phòng trừ
Gieo cấy mật độ vừa phải; chăm sóc bón phân hợp lý. Ruộng bị hại nặng có
thể dùng rào tre kéo phá vỡ tổ rồi phun thuốc Regent 800WG, Padan 95SP hoặc
Karate 25EC để diệt sâu non. Sau khi phun thuốc chăm sóc tốt để lúa nhanh hồi
phục.
Châu chấu hại lúa
- Châu chấu non hại lúa ngay sau khi
nở. Trưởng thành thích ánh sáng đèn, ánh
sáng lửa; ban ngày hoạt động mạnh từ 7- 10
giờ sáng và từ 3- 5 giờ chiều.
- Châu chấu phá hại quanh năm,
thường gây hại nặng trên lúa chiêm xuân
cuối vụ, mạ mùa và lúa mùa sớm.
* Phòng trừ
- Vệ sinh đồng ruộng. làm sạch cỏ bờ hạn chế nơi trú ngụ của châu chấu.
- Thời kỳ mạ và lúa con gái dùng vợt để bắt châu chấu.
- Những vùng trung du và miền núi về đêm nên đốt các đống lửa để diệt châu
chấu.
13
- Khi châu chấu phát sinh rộ, mật độ
cao phun các loại thuốc như Sherpa 25EC,
Fastac 5EC... tốt nhất phun vào giai đoạn
châu chấu non mới nở.
Bọ xít: gồm các loại bọ xít dài, bọ xít
xanh, bọ xít đen
Bọ xít thường gây hại nặng ở tất cả các
giai đoạn sinh trưởng của cây lúa, quan trọng
nhất là thời kỳ trỗ, bông lúa bị hại lửng lép
hoặc bạc trắng, giảm năng suất.
Ruộng lúa gần bìa rừng, gần ruộng
rau màu và có nhiều cỏ dại thường
bị hại nặng.
* Phòng trừ
- Vệ sinh đồng ruộng, diệt
trừ cỏ dại và ký chủ phụ.
- Phát hiện sớm thu gom ổ
trứng để diệt, vợt bắt con trưởng
thành.
- Dùng bả lá xoan tẩm nước giải một ngày, bó vào cọc cắm nhử bọ xít dài
đến để tiêu diệt.
- Dùng các loại thuốc Ofatox
400EC, Fastac 5EC, Dimenat 40EC
hoặc Actara 25WG. phun khi bọ xít
phát sinh rộ.
Bệnh đạo ôn
Bệnh hại trên lá, đốt thân, cổ
bông, gié và hạt. Thời tiết âm u, ẩm
ướt, có sương, cấy giống nhiễm,
bón đạm nhiều thuận lợi cho bệnh
phát triển.
14
* Phòng trừ
Dùng các giống lúa kháng bệnh IR 1820, IR 17494, C70, C71, ITA 212,
không dùng hạt giống ở ruộng bị bệnh. Bón phân cân đối. Khi phát hiện có bệnh
không được bón đạm, giữ nước xăm xắp, cắt tỉa bỏ lá bệnh đem đốt. Phun thuốc
New Hinosan 30EC, Kitazin 50EC, Kasai 21,2% trừ đạo ôn lá, thuốc Fujione
40EC, Beam 75WP trừ đạo ôn lá, cổ
bông.
Bệnh khô vằn
Bệnh phát triển thuận lợi trong
điều kiện thời tiết nóng ẩm nên ở miền
Bắc vụ chiêm xuân bệnh xuất hiện từ
tháng 3; 4, vụ mùa bệnh xuất hiện
ngay từ khi lúa bắt đầu đẻ nhánh nên
thường hại nặng hơn vụ chiêm xuân.
Ruộng lúa cấy dày, rậm rạp, bón đạm
lai rai về cuối vụ bệnh nặng.
* Phòng Trừ
- Cấy dày vừa phải, bón phân
cân đối.
- Phân chuồng phải được ủ
kỹ.
- Khi lúa bị bệnh có thể dọn
sạch tàn dư bệnh trên ruộng kết hợp
phun thuốc trừ bệnh.
- Sử dụng các lọai thuốc trừ bệnh
như Validacin 3SL, 5L, 5SP;
Vacocin 3SL; Anlicin 5WP, 5SL....
Chú ý: Nếu bệnh xuất hiện
muộn vào thời kỳ lúa trỗ chín có thể leo lên lá đòng thì cần phun, không leo lên lá đòng là an toàn.
Bệnh đốm nâu
15
Cây mầm nhiễm bệnh dễ
dàng quan sát thấy những vết nâu
tròn, bầu dục trên lá mầm, làm biến
dạng lá mầm. Bệnh còn làm cho rễ
mầm biến màu và thối đen. Đa số
cây mầm bị nhiễm bệnh nặng
thường bị chết hoăc phát triển
không bình thường.
Vết bệnh trên lá ban đầu là
những chấm nhỏ màu nâu nhạt, sau
đó phát triển thành các vết bệnh
màu nâu tròn, bầu dục trên lá, kích
thước vết bệnh dài 1-4 mm ở
những giống nhiễm vừa, 5-14 mm
ở những giống nhiễm nặng. Ruộng
bị bệnh nặng thường có màu đỏ rực
như màu lửa.
Bệnh gây hại trên hạt làm
cho hạt lúa có các vết màu nâu hay bị biến màu đen. Nấm bệnh tồn tại trên hạt, là
nguồn bệnh cho vụ sau.
16
4. Thu hoạch bào quản
Thu hoạch lúa
Thu hoạch thủ công: Liềm các loại
là công cụ chủ yếu và được sử dụng phổ
biến tại các hộ gia đình, trang trại nhỏ.
Thu hoạch cơ giới: Sử dụng các
máy gặt cải tiến loại vừa và nhỏ để thu
hoạch lúa.
Đập, tuốt lúa: Đập lúa bằng tay, trục
lúa bằng trục đá có trâu bò kéo, tuốt lúa
bằng máy đạp chân, bằng máy tuốt thủ
công nhỏ hoặc bằng máy tuốt lúa.
Nơi đập tuốt lúa phải được lót bạt,
hoặc tực tiếp ở sân phơi, nhưng phải sạch
rác, sạn và không được lẫn với giống
khác.
Phơi sấy, cất trữ bảo quản
Phơi sấy: yêu cầu phơi khô để hạt
có hàm lượng nước đạt < 13%, cũng như
không cho mầm bệnh phát triển và hoạt
động. Có thể sử dụng 2 phương pháp phơi
sấy chủ yếu sau:
Phơi bằng ánh sáng mặt trời: hạt lúa nói chung có thể được phơi bằng ánh
sáng tự nhiên, độ dầy 3-7 cm, thường xuyên đảo hạt để hạt khô đều, tránh cường độ
ánh sáng mạnh.
Phương pháp làm khô bằng hệ thống quạt không khí nóng: Hạt lúa có thể
làm khô băng hệ thống sấy có thổi không khí nóng với nhiệt độ 40 - 450c, thời gian
sấy tùy thuộc vào ẩm độ hạt khi thu hoạch, nhiệt lượng cung cấp, cũng như khối
lượng hạt cần xử lý.
Cất trữ bảo quản: Sau khi lúa đã phơI khô, quạt sạch trấu, hạt lép, đóng vào
bao để bảo quản trong kho chuyên dụng. Kho bảo quản phảI được khử trùng, dọn
17
sạch trước khi cất trữ. Ở các hộ gia đình nên cho thóc vào bồ, thùng phi hoặc thùng
tôn đặt ở nơI khô ráo, thoáng mát. Thường xuyên kiểm tra ẩm mốc, mọt và chuột.
Nếu bị dịch hại và ẩm mốc cần phảI xử lí ngay.
PHẦN 2 - KỸ THUẬT TRỒNG NGÔ LAI TRÊN
ĐẤT DỐC
(Nguồn: Tài liệu của viện khoa học nông nghiệp Việt Nam(web: vaas.org.vn/kythuattrongngotrendatdoc)
1. Giới thiệu chung về cây ngô lai
Các giống ngô lai có dạng cây đồng đều, khả năng cho năng suất cao, song
đòi hỏi thâm canh cao. Hạt của ngô lai không để giống được cho vụ sau mà phải
mua mỗi khi gieo trồng và giá khá cao. Một số giống ngô lai đang được trồng phổ
biến: LVN10, LVN4, DK888, DK999, C-919, Pacific và một số giống Bioseed...,
tuỳ theo thời gian sinh trưởng, các giống ngô lai được chia thành các nhóm sau:
- Nhóm giống dài ngày: LVN10, DK888, DK999...
- Nhóm giống trung ngày: LVN19, LVN12, LVN4...
- Nhóm giống ngắn ngày: P11, P60, LVN 20, LVN17, C-919...
Đời sống của cây ngô được chia ra nhiều giai đoạn sinh trưởng phát triển,
mỗi giai đoạn đều có những yêu cầu ngoại cảnh và kỹ thuật chăm sóc khác nhau.
- Giai đoạn từ gieo đến mọc: Giai đoạn này thường kéo dài từ 5-7 ngày nên
yêu cầu làm đất phải thoáng khí, tơi xốp, đủ ẩm và nhiệt độ thích hợp.
- Giai đoạn từ mọc đến 3-4 lá: Giai đoạn này chất dinh dưỡng dự trữ trong
hạt đã hết nên cây phải hút chất dinh dưỡng từ đất để nuôi thân lá. Vì thế, cần phải
bón lót đầy đủ và xới xáo kịp thời.
- Giai đoạn cây ngô từ 7-9 lá: Đây là giai đoạn quyết định năng suất ngô (số
bắp trên cây, số hàng hạt trên bắp ngô và kích thước của bắp ngô).
18
- Giai đoạn xoáy nõn (trước khi trổ cờ khoảng 10 ngày) trổ cờ-phun râu:
Giai đoạn này quyết định số hạt chắc trên bắp ngô, cây ngô rất mẫn cảm với điều
kiện thời tiết bất thuận như hạn, nóng, rét. Vì vậy, phải tính toán thời vụ gieo trồng
thích hợp.
- Giai đoạn từ trổ cờ đến thu hoạch: Thời kỳ này kéo dài từ 45-50 ngày tuỳ
theo giống, cần chú ý sau khi trổ 10 ngày nếu gặp hạn thì hạt ngô vẫn bị lép nhiều.
2. Đất trồng và thời vụ
a. Đất trồng ngô
Ngô vùng này chủ yếu được trồng trên nhóm: Đất phù sa, đất đen nhiệt đới
và đất đỏ vàng.
+ Đất phù sa sông suối với diện tích 78 nghìn ha, phân bố chủ yếu ở Điện
Biên, Hòa Bình và Sơn La. Đất rất thích hợp cho sản xuất lúa và ngô…Chúng ta, sẽ
phát triển diện tích ngô trên đất này bằng cách tăng cường sản xuất vụ ngô với các
cơ cấu: Lúa xuân-lúa mùa-ngô đông, ngô xuân-lúa mùa-ngô đông hoặc ngô xuân-
ngô hè thu; có thể chuyển diện tích đất ruộng thiếu nước vụ xuân sang trồng vụ ngô
Xuân. Chú trọng bón cân đối các nguyên tố N, P, K cần chú ý nguyên tố K.
+ Đất đen nhiệt đới: khoảng 8,6 nghìn ha, tập trung ở tỉnh Sơn La. Đất
thường được phân bố ở những địa hình khá bằng phẳng. Đất có chất lượng khá tốt,
thích hợp cho việc phát triển cây ngô trên loại đất này.
+ Nhóm đất đỏ vàng với diện tích lớn nhất 1.323 nghìn ha, với các loại đất:
Đất nâu đỏ trên đá macma bazơ và trung tính, đất đỏ nâu trên đá vôi, đất đỏ vàng
trên đá sét và biến chất, đất vàng đỏ trên đá macma axit, đất vàng nhạt trên đá cát
và đất nâu vàng trên phù sa cổ.
- Đất nâu đỏ trên đá macma bazơ và trung tính, có diện tích khoảng 198
nghìn ha, phân bố tập trung ở các tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Điện Biên. Đất có có
19
chất lượng khá tốt: hàm lượng mùn, đạm, lân tổng số khá cao, thành phần cấp hạt
nặng (sét), Song, lượng nước hút ẩm của đất khá cao, độ ẩm cây héo đối với ngô
lớn. Độ ẩm hữu hiệu khá cao, mùa khô nhiều trường hợp độ ẩm của tầng mặt xuống
dưới độ ẩm cây héo. Đất rất thích hợp cho cây ngô, tuy nhiên cần chú trọng: chống
xói mòn; che phủ, giữ ẩm đất vào mùa khô; làm đất tối thiểu để bảo vệ kết cấu đất
và bón phân cân đối N, P, K; cần chú ý P và K trong tỷ lệ cân đối.
- Đất đỏ nâu trên đá vôi có diện tích khoảng 153 nghìn ha, phân bố chủ yếu ở
các tỉnh Sơn La và Điện Biên, đất có các chất dinh dưỡng khá, thành phần cấp hạt
từ trung bình đến nặng, đất xốp, song tốc độ thấm nước mạnh. Trong điều kiện khô
hạn ở tầng mặt thường thiếu ẩm nghiêm trọng. Đất thích hợp với nhiều loại cây
trồng (cây công nghiệp và cây lương thực) đặc biệt là ngô. Khi sử dụng loại đất này
cần chú ý các biện pháp giữ ẩm và chống xói mòn.
- Đất đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất có diện tích khoảng 1,167 nghìn ha,
phân bố chủ yếu ở các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu: đất có độ dầy trung bình,
kém tơi xốp hơn đất đỏ bazan, đất chua pH 4-4,5, thường có thành phần cơ giới
nặng, lân tổng số và dễ tiêu đều nghèo. Đất khá phù hợp với cây ngô, cần chú ý đến
bón phân cân đối đặc biệt là lân, nâng cao hàm lượng hữu cơ bằng các biện pháp
như: che tủ gốc bằng tàn dư thực vật, vùi phụ phẩm nông nghiệp (thân lá ngô vụ
trước vùi cho vụ sau) và chống xói mòn rửa trôi.
- Đất vàng đỏ trên trên đá macma axit có diện tích khoảng 219 nghìn ha,
phân bố chủ yếu ở các tỉnh như Sơn La và Lai Châu. Do địa hình dốc và nằm trên
đá mẹ axit nên tầng đất mỏng. Đất có chất lượng kém, dễ bị thoái hóa. Phát triển
diện tích cây lương thực ở những nơi địa hình phù hợp (có độ dốc < 250, nếu đất có
độ dốc >200 cần tạo các tiểu bậc thang trước khi trồng ngô, che phủ bằng vật liệu
hữu cơ), chú trọng các biện pháp chống xói mòn, bón phân cân đối và giữ ẩm cho
đất; Diện tích còn lại nên phát triển lâm nghiệp.
20
- Đất vàng nhạt trên đá cát có diện tích khoảng 732 nghìn ha, phân bố chủ
yếu ở các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu và Hòa Bình. Đất có tầng mỏng. Đây
là loại đất rất xấu lại phân bố trên địa hình dốc và rất khô hạn, thường bị xói mòn
mạnh. Nên phát triển cây lâm nghiệp trên loại đất này. Ở các địa phương quỹ đất
hạn chế có thể trồng ngô trên loại đất ở những nơi địa hình thích hợp (có độ dốc <
250, nếu đất có độ dốc >200 cần tạo các tiểu bậc thang trước khi trồng ngô và che
phủ bằng vật liệu hữu cơ), cần chú ý đến thâm canh cây ngô, sử dụng các biện pháp
canh tác phù hợp, làm sao vừa tăng hàm lượng hữu cơ cho đất, chống xói mòn, giữ
ẩm.
Vùng Tây Bắc có tốc độ tăng rất nhanh diện tích sản xuất ngô, trong vòng 5
năm qua (2003-2008) diện tích ngô toàn vùng tăng khoảng 68 nghìn ha (52%).
Người dân đã tiến hành trồng ngô trên một số diện tích của nhóm đất mùn vàng đỏ
trên núi. Đất có diện tích khoảng 1.154 nghìn ha, phân bố ở tất cả các địa phương
trong vùng, tập trung chủ yếu ở Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Loại đất này nằm
ở vùng núi trung bình từ độ cao 700-900 m đến 2000 m so với mực nước biển. Khí
hậu lạnh và ẩm hơn vùng đồi núi thấp.
Do ở địa hình cao, dốc nên đất thường bị xói mòn mạnh. Đất có phản ứng
chua vừa đến chua ít; hàm lượng mùn cao; lân và kali tổng số và dễ tiêu từ nghèo
đến trung bình. Đất mùn vàng đỏ trên núi thích hợp cho việc sử dụng theo phương
thức nông lâm kết hợp; có thể phát triển cây dược liệu và cây ăn quả ôn đới. Đối
với cây ngô, nên hạn chế mở rộng diện tích trên nhóm đất này. Ở những diện tích
đã và đang sẽ trồng ngô cần chú trọng các biện pháp kỹ thuật: Chống xói mòn, bón
phân cân đối đặc biệt chú ý đến nguyên tố P, K…
b. Thời vụ gieo trồng ngô
21
Mùa mưa vùng này bắt đầu từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 và thời vụ trồng
ngô vụ hè thu cũng từ cuối tháng 4 đầu tháng 5 và thu hoạch tháng 8, nếu gieo sớm
hơn khi đất còn khô thì ngô không mọc được, nếu gieo muộn hơn vào tháng 6 thì
đất ướt dính, rất khó làm đất. Những nơi đất đủ ẩm có thể tranh thủ gieo sớm vào
tháng 3 làm vụ Xuân-Hè đến đầu tháng 4 để cuối tháng 7 đầu tháng 8 thu hoạch rồi
trồng tiếp ngô Thu Đông.
Phương thức trồng xen cây họ đậu vào ngô khá phổ biến ở trong vùng, vừa
thu được sản phẩm vừa có tác dụng che phủ chống xói mòn và cỏ dại, giữ ẩm và
tăng cường chất hữu cơ cho tầng canh tác.
Lượng hạt giống và mật độ gieo trồng
- Lượng hạt giống cần khoảng 14-18 kg/ha tùy thuộc vào loại giống
- Mật độ: Nhóm giống dài ngày: Mật độ 5-5,5 vạn cây/ha; nhóm giống trung
ngày: 5,5-6 vạn cây/ha; nhóm giống ngắn ngày: 6-7 vạn cây/ha.
3. Làm đất, gieo hạt
Trên đất dốc có lẫn nhiều sỏi đá có thể dùng cuốc để rẫy cỏ rồi sau đó cuốc
đất để trồng ngô. Trên đất ruộng bậc thang hay sườn đồi có độ dốc vừa phải hay
thung lũng, bà con có thể dùng cày để làm đất, cày sâu 15-20 cm, làm 2 lần đất nhỏ
tơi xốp, nhặt sạch cỏ.
Sau khi làm xong đất, có thể dùng cày hoặc cuốc để rạch hàng với độ sâu 7-
10cm, khoảng cách giữa các hàng là 70cm; cây cách cây đối với các giống dài ngày
là 30cm và đối với các giống ngắn ngày là 25cm. Với đất dốc hoặc có nhiều sỏi đá
thì có thể cuốc hốc để trồng ngô, khoảng cách giữa các hốc khoảng 70cm, cuốc đến
đâu thì gieo ngay đến đó. Có thể bón phân trực tiếp vào hốc, rãnh, lấp đất rồi mới
tra hạt và lấp đất bề mặt dày 3-5cm.
4. Bón phân
22
+ Lượng bón: Phân chuồng 8-10 tấn/ha; đạm urê 250kg/ha; supe lân
350kg/ha; clorua kali 120kg/ha.
+ Cách bón:
- Bón lót: Toàn bộ phân chuồng và phân lân (có thể bón khi làm đất hoặc lúc
gieo trồng).
- Bón thúc đợt 1 (khi cây ngô 3-4 lá): Bón 70-80kg u rê/ha (2,5-3kg/sào) và
30-40 kg kali/ha (1-1,5kg/sào), kết hợp với việc xới đất và làm sạch cỏ dại cho ngô.
- Bón thúc đợt 2: (Khi cây ngô 7-9 lá): Bón 100-120kg urê (3,7-4,5 kg/sào)
và 50-60kg kali/ha (1,8-2,2kg/sào). Hai loại phân trên được trộn với nhau và bón
cách gốc 10-12cm. Đợt bón này kết hợp với xới xáo và vun cao để giúp bộ rễ ngô
phát triển.
- Bón thúc lần 3: Đợt bón này khi cây ngô ở giai đoạn xoáy nõn, có tác dụng
nuôi hạt, bón hết lượng phân urê và kali còn lại.
* Chú ý: Nên bón phân cách hốc ngô 5 - 6 cm, bón đến đâu lấp đất đến đó để
tránh phân bay hơi. Không nên bón vãi phân vì như vậy phân sẽ rơi vào nõn ngô
gây héo lá và búp non, cũng không nên bón phân vào ngày trời mưa vì phân sẽ bị
rửa trôi.
5. Chăm sóc
Tỉa, giặm cây: Khi cây được 3-4 lá, cần tỉa bớt những cây nhỏ yếu hoặc cây
bị bệnh, chỉ nên để lại 1 cây/hốc. ở những chỗ mất cây, có thể tiến hành giặm (lấy
những cây đã được gieo dự phòng) để đảm bảo mật độ.
Xới xáo, làm cỏ: Nếu có điều kiện nên xới xáo và kết hợp làm cỏ 3 lần vào
các đợt bón thúc. Cần chú ý vun gốc, làm cỏ cho ngô khi cây ở giai đoạn trỗ.
6. Phòng trừ sâu bệnh
a. Sâu bệnh
Phát hiện kịp thời thì việc phòng trừ mới có hiệu quả nên áp dụng biện pháp
phòng trừ tổng hợp bằng cách vệ sinh đồng ruộng, đốt cháy các tàn dư thực vật của
23
vụ trước để diệt các trứng sâu trước khi gieo. Ở mỗi thời kỳ khác nhau có các loại
sâu khác nhau, trong đó có một số loài sâu hại gây ảnh hưởng đến quá trình phát
triển của cây ngô như: Sâu đục thân, sâu ăn trái và sâu ăn tạp. Dùng Padan 4H hay
Basudin 10H, Bam 5H hoặc các loại thuốc hột khác để phòng ngừa sâu đục thân và
sâu đục trái, bằng cách bỏ một nhúm nhỏ thuốc (khoảng 3-4 hột) vào họng cây ngô
20 và 40 ngày sau khi gieo.
b. Bệnh hại
Ngô có nhiều loại bệnh hại như: bệnh khô vằn, bệnh đốm lá nhỏ, bệnh đốm lá
lớn, bệnh về dinh dưỡng … trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Sau
đây là đặc điểm về một số loại bệnh thường gặp trong quá trình sinh trưởng phát
triển của cây ngô.
Bệnh khô vằn
*Triệu chứng bệnh
Bệnh gây hại ở khắp các vùng
trồng ngô. Nấm bệnh có thể gây hại
cho ngô từ khi mới nảy mầm đến
khi thu hoạch. Mầm bị nhiễm bệnh,
trên rễ mầm và thân mầm thường
có những vết bệnh màu nâu. Ngô bị
nhiễm bệnh trong giai đoạn mầm
thường còi cọc và vàng. Song biểu
hiện rõ và nặng của bệnh là ở giai
đoạn cây ngô trỗ cờ đến làm hạt.
Trên lá, lá bao bị bệnh, ban đầu thường xuất hiện những đốm nhỏ dạng dội
nước sôi, vết bệnh lớn dần không có hình dạng nhất định, xung quanh có viền xanh
sẫm hay mầu nâu. Các vết bệnh có thể liên kết với nhau thành đám lớn dạng vằn da
24
hổ. Vết bệnh trên phiến lá và lá bao cũng giống như vết bệnh trên bẹ lá. Khi trời ẩm
ướt trên mặt vết bệnh phủ lớp sợi nấm màu trắng và nhữnh hạch nấm xốp khi còn
non có màu trắng, khi già chuyển màu nâu. Hạch nấm là nguồn lây nhiễm của nấm
bệnh. Bệnh làm giảm năng suất và cây bị bệnh nặng hạt ngô sẽ bị lép.
*Nguyên nhân bệnh
Bệnh do nấm Rhizoctonia solani Kuhn gây ra. Hạch nấm tồn tại trong đất và
tàn dư cây bệnh và hạt giống là nguồn lan truyền bệnh trên đồng ruộng.
*Biện pháp phòng trừ
Không chọn những bắp bị bệnh để làm giống. Lựa chọn các giống có khả năng
kháng bệnh để trồng. Vệ sinh đồng ruộng, thu dọn sạch tàn dư cây bệnh. Cày ải
hoặc ngâm dầm để diệt hạch nấm. Xử lý hạt giống bằng Rovrral (2g/ 10kg hạt).
Khi ngô đã lớn làm sạch cỏ, bóc sạch bẹ và lá bị bệnh đem tiêu hủy để hạn chế
bệnh và ruộng ngô thông thoáng. Dùng chế phẩm nấm đối kháng Trichoderma ủ
với phân chuồng bón cho ngô, lượng dùng 80 – 100 kg/ha (4 kg/ sào Bắc bộ). Phun
trừ bệnh bằng thuốc Validamicin 3 SC, pha nồng độ 0,2-0,25%.
Bệnh đốm lá nhỏ
*Triệu chứng bệnh
Bệnh phổ biến ở khắp các vùng
trồng ngô và trên tất cả các giống ngô
địa phương, ngô lai. Bệnh gây hại từ
khi cây có 2 – 3 lá cho đến hết thời kỳ
sinh trưởng của cây. Vết bệnh lúc đầu
25
là những chấm nhỏ, sau có dạng hình thoi. Xung quanh vết bệnh có thể có những
đường viền dạng ngậm nước, sau chuyển thành màu vàng. Giữa vết bệnh có màu
trắng xám. Kích thước của vết bệnh thay đổi theo giống, có thể từ 2 – 6 x 3 -22
mm. Nhiều vết bệnh liên kết với nhau thành đám lớn làm tổn thương lá và giảm
quang hợp ảnh hưởng đến năng suất ngô.
* Nguyên nhân bệnh
Bệnh đốm lá nhỏ do nấm Helminthosporium maydis Nisikado gây ra. Bệnh
thường gây hại nhiều ở những ruộng ngô xấu tức là những ruộng không có sự đầu
tư thâm canh làm cho cây còi cọc, xấu sinh trưởng kém, còi cọc, không phát triển
được. Tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng là nguồn lây nhiễm cho vụ sau.
*Biện pháp phòng trừ
Sử dụng giống ngô có khả năng chống chịu bệnh, dùng hạt giống sạch bệnh.
Xử lý hạt giống bằng Rovrral (2g/ 10kg hạt). Những vùng thường bị bệnh nặng nên
luân canh với các cây không phải là ký chủ của bệnh. Chăm sóc tốt làm cho cây
khỏe tăng cường khả năng chống bệnh. Vệ sinh đồng ruộng, thu dọn sạch tàn dư
cây bệnhđem tiêu hủy và tạo độ thông thoáng cho ruộng ngô. Phun các loại thuốc
Tilt 250ND và Anvil 5SC nồng độ 0,1% để phòng trừ bệnh trên đồng ruộng.
26
Bệnh đốm lá lớn
*Triệu chứng bệnh
Bệnh xuất hiện ở khắp
các vùng trồng ngô. Triệu
chứng bệnh có thể nhận thấy
trên các bộ phận như bẹ lá,
lá bao và rõ nhất ở trên lá.
Bệnh thường xuất hiện lá
già sát gốc trước, sau đó lan
dần lên những lá trên. Ban
đầu vết bệnh là vệt nhỏ,
dạng ngậm nước, sau lớn
dần có hình thoi, trung tâm vết bệnh có màu nâu sáng, xung quanh màu nâu tối. Vết
bệnh lớn, kích thước từ 0,3 – 3 x 0,5 cm, đôi khi tới 20 cm. Trong điều kiện ẩm ướt
trên bề mặt vết bệnh xuất hiện lớp mốc màu đen. Vết bệnh phát triển rất nhanh tạo
thành những đám lớn. Lá ngô bị bệnh nặng, nhiều vết liên kết với nhau làm cho cả
phiến lá khô táp. Lá mất màu, héo khô và giòn, làm giảm quang hợp của cây ảnh
hưởng tới năng suất.
*Nguyên nhân bệnh
Bệnh đốm lá lớn do nấm Helminthosporium turcicum Pass gây ra. Nấm bệnh
xâm nhập vào lá qua lỗ khí khổng chủ yếu ở các bộ phận còn non trên cây. Những
ruộng ngô xấu, ít được chăm sóc hoặc những ruộng thường xuyên bị thiếu
nước...làm cho cây ngô sinh trưởng kém, còi cọc, không phát triển được là điều
kiện thuận lợi để bệnh phát sinh phát triển. Các giống ngô địa phương bị bệnh nặng
hơn các giống ngô lai. Tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng là nguồn lây nhiễm cho vụ
sau.
27
*Biện pháp phòng trừ
Sử dụng giống ngô có khả năng chống chịu bệnh, dùng hạt giống sạch bệnh.
Xử lý hạt giống bằng thuốc Rovrral (2g/ 10kg hạt). Luân canh trồng ngô với lúa và
cây họ đậu. Chăm sóc tốt làm cho cây khỏe tăng cường khả năng chống bệnh. Vệ
sinh đồng ruộng, thu dọn sach tàn dư cây bệnh đưa ra khỏi ruộng tiêu huỷ. Thường
xuyên ngắt tỉa lá già, lá bệnh, tạo độ thông thoáng cho ruộng ngô. Phun các loại
thuốc Tilt 250ND và Anvil 5SC nồng độ 0,1% để trừ bệnh.
Một số bệnh liên quan đến dinh dưỡng
28
29
7. Thu hoạch, bảo quản ngô
Xác định thời điểm thu hoạch ngô bằng việc quan sát hạt ngô ở đầu trái và
cuối trái.Khi lá bao trái đã khô, hạt cứng, lãy thử hạt,nếu ở chân các hạt này có lớp
màu đen là ngô đủ chín sẵn sàng để thu hoạch. Nên chặt đọt phơi trái ngoài đồng 5-
7 ngày trước khi thu hoạch. Sau đó lột vỏ phơi trái vài
nắng (ẩm độ còn khoảng 20-24%) để khi thu hoạch tách hạt giảm tỉ lệ nứt bể. Nếu
để tồn trữ nên phơi hạt còn độ ẩm 14-15%. Thân lá cây ngô sau khi thu hoạch nên
cày vùi tại ruộng nhằm giúp cải tạo đất và cung cấp dinh dưỡng cho vụ sau.
30
PHẦN 3 - KỸ THUẬT TRỒNG LẠC
1. Thời vụ trồng
Các tỉnh miền bắc:
- Vụ xuân: 03/01 – 30/02
- Vụ thu đông: 15/08 – 10/09
Duyên hải miền trung:
- Vụ xuân: 01/12 – 30/01
- Vụ thu đông: 15/07 – 15/08
2. Làm đất
Cày sâu 25 -30 cm, bừa kỹ và nhặt sạch cỏ dại trước khi lên luống rạch hàng.
3. Lượng giống cần cho 1 sào bắc bộ
Trước khi gieo nên thử lại sức nảy mầm. Nếu hạt có tỷ lệ nảy mầm đạt trên
85% thì lượng giống cần 7,2- 8,0 kg (giống vụ Xuân) và 6,4 – 7,2 kg (giống vụ Thu
hoặc thu đông).
4. Kích thước luống và mật độ gieo:
Luống rộng 75 - 80 cm (cả rãnh), sau khi lên luống hoàn chỉnh đảm bảo luống
cao 20 - 25 cm và mặt luống rộng 45 - 50 cm, gieo 2 hàng dọc theo chiều dài luống.
Khoảng cách hốc cách hốc 10 cm gieo 1hạt/hốc, hoặc khoảng cách hốc cách hốc 18
- 20 cm gieo 2 hạt/hốc
Luống rộng 1,3m (cả rãnh), sau khi lên luống hoàn chỉnh đảm bảo mặt luống
rộng 1,0m được gieo thành 4 hàng dọc theo chiều dài luống. Khoảng cách hàng
cách hàng 25 cm và hốc cách hốc 10 cm gieo 1 hạt/hốc, hoặc khoảng cách hốc cách
hốc 18 - 20 cm gieo 2 hạt/hốc.
Chú ý: Khi gieo hạt, đất phải đủ ẩm, hạt được phủ sâu 3 - 5 cm.
5. Bón phân cho lạc
31
- Lượng phân bón
+ Liều lượng phân bón tính cho 1 ha lạc là: 8-10 tấn phân chuồng + 20-
30kgN + 60-90kgP205 + 30-60K20.
+ Khi dùng phân đơn thì bón với lượng: 2,5 - 3,0 kg urê + 20 – 25 kg supe
lân + 3 - 4 kg kali clorua/sào.
+ Đối với cây lạc tốt nhất là dùng dùng phân hỗn hợp NPK loại 3:9:6 bón
với lượng : 35- 50kg/sào .
Tuỳ theo độ pH của từng loại đất để bón từ 20-30 kg vôi bột/sào.
- Cách bón
Đối với lạc có che phủ nilon: Bón lót toàn bộ lượng phân bón. Riêng vôi bột
để lại 50% bón khi ra hoa rộ.
Đối với lạc không che phủ nilon:
+ Vôi bột: Bón lót 50% khi cày bừa lần cuối, 50% còn lại bón lúc lạc ra hoa
rộ
+ Phân chuồng: Bón lót 100% sau khi cày bừa làm đất, sạch cỏ dại (trước khi
rạch hàng).
+ Phân NPK: Bón lót 70% sau khi cày rạch hàng và được lấp kín đất rồi mới
gieo. Bón thúc 30% lượng phân còn lại khi cây có 3-5 lá.
9. Tỉa dặm, xới xáo, làm cỏ
- Khi lạc có 2 lá thật nên tỉa dặm để đảm bảo mật độ.
- Khi lạc có 3-5 lá thật: Nhổ cỏ, xới xáo đất, kết hợp bón thúc.
- Khi lạc có 9 lá thật, lạc bắt đầu ra hoa thì cuốc cỏ xới sâu 5-6cm gần gốc.
32
- Khi lạc ra hoa rộ, bón 50% vôi còn lại và kết hợp vun gốc cho lạc.
7. Tưới nước
Trong thời kỳ lạc ra hoa nếu trời không mưa thì những nơi có điều kiện
tưới nước có thể tiến hành tưới theo 2 cách sau:
+ Tưới phun đều ruộng lạc, ướt thấm đất.
+ Tháo nước đầy các rãnh, ngập hết mặt luống thì tháo nước ra.
8. Phòng trừ sâu bệnh
a. Sâu hại
Sâu xám:
- Triệu chứng gây hại: Là đối tượng gây hại chính ở thời kỳ cây con, sâu
thường cắn trụi lá đến cắn đứt ngang cây lạc lúc vừa mới mọc làm đứt khoảng,
giảm mật độ lạc trên ruộng.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Bắt bằng thủ công.
+ Dùng các loại thuốc hoá học như Match 50ND, Sherpa 25 EC …theo liều
khuyến cáo.
Sâu khoang:
- Triệu chứng gây hại: Phát sinh gây hại trong suốt qúa trình sinh trưởng của
lạc, ở thời kỳ đầu vụ mật độ sâu cao, cắn khuyết đến trụi lá làm ảnh hưởng đến sinh
trưởng của lạc, sâu hại nặng ở giai đoạn lạc ra hoa bói trở đi, cắn trụi lá.
- Biện pháp phòng trừ:
33
+ Luân canh cây trồng và vệ sinh đồng ruộng.
+ Dùng bả chua ngọt để diệt trừ.
+ Bắt diệt bằng thủ công khi mật độ thấp.
+ Khi mật độ cao dùng thuốc Ofatox 40EC, Fastac theo liều khuyến cáo.
Rệp hại lạc:
- Triệu chứng gây hại: Rệp tập trung thành đám bám vào phần lá non, đọt
non của lạc chích hút dịch cây làm lạc sinh trưởng kém, quăn queo, ra hoa đâm tia
kém. Rệp phát sinh nhiều trong điều kiện thời tiết có mưa phùn, ruộng lạc ẩm ướt,
rậm rạp.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Vệ sinh đồng ruộng và bón phân cân đối.
+ Dùng thiên địch để diệt trừ.
+ Khi rệp phát triển nhiều thì dùng Ofatox 50EC, Trebon 10EC theo liều
khuyến cáo để diệt rệp.
Sâu cuốn lá:
- Triệu chứng gây hại: Sâu cuốn lá lạc gặm ăn hết biểu bì để lại lá non màu
trắng, nếu mật độ cao làm ảnh hưởng đáng kể đến năng suất lạc.
- Biện pháp phòng trừ
+ Tổ chức bắt bằng thủ công.
+ Sử dụng thuốc hoá học như: Match 50ND, Sherpa 25 EC... Theo liều
khuyến cáo.
34
Biện pháp phòng trừ tổng hợp đối với sâu hại lạc
- Trồng lạc đúng quy trình kỹ thuật tạo điều kiện cho lạc sinh trưởng, phát
triển tốt.
- Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, chú ý ngay từ lúc mới gieo, phát
hiện kịp thời sâu xám, sâu khoang… nếu có mật độ cao nên tổ chức bắt sâu vào
sáng sớm hoặc chiều tối là biện pháp quan trọng và cho hiệu quả cao.
- Xử lý bằng thuốc Basudin 10H.
- Thời kỳ lạc ra hoa bói trở đi nếu có mật độ sâu khoang, sâu xanh, cuốn lá
cao (sâu tuổi lớn) nên tổ chức bắt sâu bằng thủ công vì dùng thuốc ít hiệu quả.
Trong trường hợp dùng thuốc thì phải xử lý lúc sâu mới nở tuổi 1-3.
b. Bệnh hại lạc
Bệnh héo xanh vi khuẩn:
- Nguyên nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Pseudomonas Solanacerum.
- Triệu chứng: Bệnh thường xuất hiện khi lạc có 5-6 lá đến lúc hình thành củ.
Lạc chết héo đột ngột cả cây hay một số cành trên cây, nhưng lá vẫn xanh. Chẻ dọc
rễ cây bị bệnh có màu nâu đậm hơi khô, khi bị nặng thân rũ xuống, rễ thối đen. Khi
cắt một đoạn thân cây bị bệnh nhúng vào cốc nước trong ta sẽ thấy dịch nhầy chảy
ra ở vết cắt.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Vệ sinh đồng ruộng, nhổ và tiêu huỷ cây bị bệnh.
+ Luân canh với các cây trồng như mía, bông ...
+ Dùng giống kháng bệnh.
35
+ Tăng cường bón phân chuồng và vôi bột.
Bệnh lở cổ rễ
- Nguyên nhân: Do nấm Rhizoctoniak gây hại.
- Triệu chứng: Bệnh gây hại chủ yếu ở thời kỳ cây con, khi mưa nhiều, độ
ẩm cao. Bệnh gây hại ở phần cổ rễ, rễ, gốc thân nơi tiếp giáp với mặt đất bị thâm
đen, cây héo dần và bị chết.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Xử lý đất bằng vôi bột.
+ Luân canh sau 2 vụ mới trồng lạc trở lại đối với đất trồng lạc bị nhiễm
bệnh nặng.
+ Khi bị nặng dùng thuốc Rovral 50WP, Ridomil…theo liều khuyến cáo.
c, Phòng trừ bệnh chết cây con
Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng thuốc trừ nấm Rovral 50 wp 0,3g/1kg
hạt, hoặc phun carbedazin 0,5 – 0,7 lít/ ha.
d, Phòng trừ bệnh lá
Dùng Daconnil, Anvil, Bayleton 0,1 - 0,3% hoặc Zinhep 0,2%, Boocdo phun
lần 1 sau mọc 25 - 30 ngày, lần 2 cách lần một 15 - 20 ngày để ngăn ngừa bệnh
rụng lá sớm.
10. Thu hoạch và bảo quản:
Thu hoạch:
36
Chọn ngày nắng ráo để thu hoạch, thu hoạch khi lạc có số củ già đạt 85-90%
tổng số củ trên cây. Lạc sau khi nhổ bứt củ hoặc cắt cách gốc 10cm để cả chùm củ
phơi và bứt dần. Sau đó phơi quả dưới nắng đến khi bóc hạt thấy tróc vỏ lụa (độ ẩm
dưới 10%) là đủ tiêu chuẩn bảo quản.
Lạc che phủ nilon chín sớm hơn lạc không che phủ nilon 7-10 ngày nên cần
theo dõi để thu hoạch đúng thời vụ, tránh để lạc mọc mầm biến màu trong củ.
Phơi và bảo quản:
Đối với lạc giống phải phơi bằng các dụng cụ nong, nia… không phơi trực
tiếp trên sân gạch, xi măng, tôn dưới nắng to hoặc phơi củ lạc còn dính với cây
trong bóng râm. Sau khi phơi phải để lạc nguội, sau đó cho vào bao nilon hoặc
chum vại đậy kín, để nơi khô mát.
PHẦN 4 - KỸ THUẬT TRỒNG KHOAI LANG
(Nguồn: Theo VNG.
Web:http://khcncaobang.gov.vn/index.php?option=com_docman&task=cat_view&
gid=73&limitstart=20)
I. Các loại giống khoai lang
Khoai lang là cây dễ trồng, có thể trồng được tất cả các vụ trong năm. Nếu sản
xuất ở điều kiện bình thường thì năng suất có thể đạt từ 16 - 25 tấn củ/1ha, 10 - 15
tấn thân lá/1ha, trong thời gian từ 70-80 ngày. Trong điều kiện được thâm canh
trồng đúng kỹ thuật, bón phân NPK hợp lý nhất là kali sẽ đạt năng suất cao từ 30-
40 tấn củ và 15-30 tấn thân lá/ha. Vì vậy, trồng khoai lang nhằm giải quyết thức ăn
37
cho chăn nuôi. Tăng hệ số sử dụng ruộng đất, giải quyết công ăn việc làm khi nông
nhàn, tăng thu nhập. Nhất là làm vào vụ đông trên diện tích đất cấy 2 vụ lúa.
1. Giống khoai lang Hoàng Long
a. Nguồn gốc:
Là giống nhập nội của Trung Quốc hiện đang trồng phổ biến ở nhiều nơi trên
miền Bắc.
b.Những đặc tính chủ yếu:
Thuộc loại hình cây dài trung bình, thân màu tím đỏ, lá già xanh tím, gân lá
tím, mặt dưới lá tím, lá hình tim. Thời gian sinh trưởng ngắn, vụ đông 100 ngày, vụ
xuân 120 ngày. Năng suất bình quân 8-10 tấn/ha, cao 15 tấn/ha. Vỏ củ hồng nhạt,
ruột vàng đậm, bở trung bình, độ ngọt khá. Khả năng chịu hạn, rét kém, dễ sùng hà.
c. Hướng sử dụng và yêu cầu kỹ thuật:
- Thích hợp với vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ, trên các loại đất cát pha.
Thời vụ trồng cuối tháng 9 đến đầu tháng 10, vụ xuân tháng 1 đến đầu tháng 2. Mật
độ 4-5 vạn dây/ha, đặt dây kiểu dọc luống.
- Phân bón: 8-10 tấn phân chuồng/ha, 60kg N + 30P2O5 + 90 K2O. Bón lót
100% phân chuồng + 100% P2O5 + 1/2 N + 1/2 K2O.
Bón thúc sớm cùng với làm cỏ đợt 1 sau trồng 15-25 ngày, thúc toàn bộ số
phân còn lại. Làm cỏ đợt 2 sau đợt 1 : 10-15 ngày.
Lưu ý : Vụ Xuân vun luống cao tránh sùng hà.
2. Giống khoai lang VX-37
a. Nguồn gốc:
VX-37 được tuyển chọn do tập đoàn nhập nội từ Đài Loan. Được công nhận
năm 1995.
38
b.Những đặc tính chủ yếu:
Thân tím, đốt ngắn, phân nhánh nhiều, lá xanh, gân lá tím, lá xẻ thùy nông. Củ
màu hồng nhạt, ruột vàng nhạt, bở, ăn ngon. Củ hình thành sớm 15-20 ngày sau khi
trồng, tích lũy nhanh, thời gian sinh trưởng ngắn ngày 90 ngày thích hợp với vụ thu
đông và đông sớm. Khả năng chịu nóng khá, chịu rét kém. Năng suất bình quân 10-
15 tấn/ha.
c. Hướng dẫn sử dụng và yêu cầu kỹ thuật:
Giống VX-37 thích hợp trồng trên chân đất 2 vụ lúa 1 màu hoặc 2 màu 1 lúa.
Thời vụ trồng cuối tháng 8 đầu tháng 9 đến 5/10. Vụ xuân cuối tháng 1 đến đầu
tháng 3.
- Kỹ thuật trồng và chăm sóc tương tự giống khoai Hoàng Long. lưu ý giống
VX-37 có thời gian sinh trưởng ngắn, củ hình thành sớm nên chú ý bón lót thêm
phân hóa học, bón thúc sớm.
3. Giống cực nhanh
a. Nguồn gốc:
Là giống nhập nội từ Trung Quốc năm 1980. Giống được công nhận và đem
vào sản xuất ở miền Bắc năm 1995.
b. Những đặc tính chủ yếu:
Giống có thân ngắn, đốt ngắn, phân nhánh khỏe, thân màu xanh đậm, lá xẻ
thùy chân vịt, màu xanh, ngọn xanh. Củ màu trắng ngà, ruột trắng ngà, bở, thơm,
phẩm chất ngon.
Giống có thời gian sinh trưởng ngắn 90-100 ngày vụ đông, 100-110 ngày vụ
xuân.
39
Giống cực nhanh có thể trồng được quanh năm, khả năng chịu rét, chịu hạn
khá. Năng suất bình quân 12-15 tấn/ha, tỷ lệ củ thương phẩm cao.
c. Hướng dẫn sử dụng và yêu cầu kỹ thuật:
Giống thích hợp với chân đất nhẹ, vụ đông trồng cuối tháng 9 đầu tháng 10,
vụ xuân tháng 1 đầu tháng 2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc giống như khoai Hoàng
Long.
Lưu ý: Cần bón thúc sớm và tập trung.
4. Giống khoai lang 143
a. Những đặc tính chủ yếu:
Sinh trưởng mạnh, thân lá phát triển sớm, năng suất chất xanh cao. Thân màu
xanh sẫm, lá to hình tim, phiến lá mỏng, dây dài phân nhánh ít.
Củ màu hồng nhạt, ruột vàng, dạng củ thuôn dài, ăn ngon, bở. Khả năng chịu
rét khá, tỷ lệ của thương phẩm cao. Tiềm năng năng suất cao 18-23 tấn/ha.
b. Hướng dẫn sử dụng và yêu cầu kỹ thuật:
- Trồng ở đất cát pha, chân đất 3 vụ/năm ở đồng bằng và trung du Bắc bộ, có
thể trồng lấy thân lá cho gia súc.
- Kỹ thuật trồng như các giống khác.
Chú ý: Bấm ngọn sớm để tăng số nhánh.
5. Giống khoai lang HL4
a. Nguồn gốc:
Giống khoai lang HL4 là giống được chọn lọc từ tổ hợp lai: (Gạo x Bí Đà Lạt)
x Tai Nung 57.
b. Những đặc tính chủ yếu:
40
Thân chính dài trung bình 110 cm, màu xanh. Lá xanh thẫm, phân thùy 3-5
khía nông, gân trên màu xanh, gân dới màu tím. Thời gian sinh trưởng vụ xuân 85-
90 ngày, hè thu và thu đông 90-95 ngày, vụ đông 80-90 ngày. Năng suất trung bình
17,4 tấn/ha, thâm canh tốt có thể đạt trên 23 tấn/ha. Vỏ củ màu đỏ, ruột màu cam
đậm, tỷ lệ chất khô trung bình 30,4%.
Trung gian giữa nhóm khoai dẻo và khoai bột. Củ to vừa phải, thuôn, láng
thích hợp với bán tươi.
Thích ứng rộng. Chịu hạn khá, ít nhiễm sâu đục thân, nhiễm nhẹ đến trung
bình đối với sùng đục củ (Cylasformicariu).
c. Hướng sử dụng và yêu cầu kỹ thuật:
Thích hợp với đất xám trên phù sa cổ, đất đỏ bazan. Có thể trồng nhiều vụ
trong năm và nếu đủ nước tưới.
Vụ hè thu: Trồng cuối tháng 4 đầu tháng 5, thu hoạch cuối tháng 7 đầu tháng
8. Vụ thu đông: Trồng cuối tháng 7 đầu tháng 8 thu hoạch cuối tháng 10 đầu tháng
11. Vụ đông xuân (sau vụ lúa, trên đất đồi thấp): Trồng giữa tháng 11 đến giữa
tháng 12.
Kỹ thuật trồng: Luống rộng 1,2m, mật độ 4,8-5 vạn dây/ha. Đặt dây phẳng dọc
luống.
Phân bón cho 1 ha:
+ Đầu tư thấp: 40 N + 40 P2O5 + 80 K2O.
+ Đầu tư trung bình: 5 tấn phân chuồng + 60 N + 60 P2O5 + 120 K2O.
Bón lót toàn bộ phân chuồng và phân lân. Thúc lần 1 (15 ngày sau khi trồng)
2/3 phân đạm + 1/2 kali kết hợp làm cỏ đợt 1. Thúc lần 2 (35 ngày sau trồng) 1/3
đạm + 2/3 kali kết hợp làm cỏ đợt 2.
41
Lưu ý: Nhấc dây (65 ngày sau trồng) kết hợp đặt bẫy sùng (nếu có). Ở các
chân đất trung bình - tốt nên trồng xen thêm ngô ở lưng chừng luống, khoảng cách
2,4m x 0,5m x 2 cây (cách một luống xen một luống) đạt hiệu quả kinh tế cao hơn
trồng thuần.
6. Giống khoai lang KL5
a. Nguồn gốc:
Chọn từ quần thể thụ phấn tự do của giống số 8. Đã được khu vực hóa tháng
1/1998.
b. Những đặc tính chủ yếu:
Sinh trưởng thân lá mạnh, khả năng tái sinh nhanh. Thân lá mềm ngọt, thích
hợp làm thức ăn gia súc. Năng suất củ 15-20 tấn/ha, năng suất thân lá 15-20 tấn/ha.
Lá xẻ thùy sâu. Củ to thuôn dài, vỏ đỏ tươi, ruột củ màu vàng, chất lượng khá.
Hàm lượng chất khô trong củ 22,03% (vụ đông) và 24,74% (vụ xuân), tinh bột
14,43% (vụ đông) và 18,73% (vụ xuân).
Chịu rét khá, thời gian sinh trưởng 100-120 ngày.
c. Hướng sử dụng và yêu cầu kỹ thuật:
Thích hợp với cách trồng để tỉa thân lá (khoảng 10 ngày/lần) làm thức ăn gia
súc. Củ có thể ăn tươi, thái lát phơi khô dùng cho người hoặc gia súc.
Vụ đông trồng 15/9 đến 15/10, vụ xuân từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 2.
Đặt dây nông và phẳng theo dọc luống. Tưới nước phân sau mỗi lần cắt tỉa.
7. Giống khoai lang KL1
a. Nguồn gốc:
Chọn từ tổ hợp lai VX 37-6 x Pitis 5. Giống đang được khảo nghiệm quốc gia.
42
b. Những đặc tính chủ yếu:
Sinh trưởng khỏe, thân lá to mập và mềm ngọt thích hợp làm thức ăn gia súc.
Năng suất củ 10-15 tấn/ha, năng suất thân lá 20-25 tấn/ha.
Lá to hình tim, màu xanh hơi vàng, cuống lá dài. Dạng củ thuôn dài, vỏ và
ruột củ màu vàng, ăn ngon và bở. Hàm lượng chất khô trong củ 26,21% (vụ đông)
và 32,62% (vụ xuân), tinh bột 14,85% (vụ đông) và 20,16% (vụ xuân).
Chịu rét khá, thời gian sinh trưởng 100-120 ngày.
c. Hướng sử dụng và yêu cầu kỹ thuật:
Như với giống KL5.
II. Kỹ thuật trồng khoai lang
1. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
a. Đất: khoai lang yêu cầu trồng ở đất thoát nước, vụ đông chỉ nên đánh luống
hẹp từ 0,9-1,1m, cao từ 35-45cm. Làm đất, bỏ phân, lên luống cần tạo rãnh nông ở
giữa để trồng dây.
b. Phân bón: Phân chuồng bón từ 10-15 tấn/ha. Phân hóa học: có thể dùng
phân tổng hợp NPK: 30N:40P2O5:60K2O; mức cao hơn NPK theo tỷ lệ:
60N:80P2O5:100K2O cho 1 ha.
c. Kỹ thuật trồng: Cắt dây trồng chỉ dùng đoạn 1 và 2, dây dài 25-30cm
không có rễ trên dây, lượng dây trồng khoảng 5 dây/m. 1 sào Bắc Bộ cần từ 1200-
1500 dây.
* Cách trồng: trồng nông, đặt dây thẳng dọc giữa luống nuối đuôi nhau và
dùng tay lấp đất đập nhẹ.
Chú ý giữ phần dây ở giữa luống theo rãnh và thẳng, tránh bị cong.
Kỹ thuật trồng khoai lang quyết định năng suất 50-60%.
43
*Chăm sóc: tuần đầu sau khi trồng nên tới nước giữ ẩm, để tỷ lệ cây sống
được đảm bảo cần bón thúc sớm ở giai đoạn 30-40 ngày sau khi trồng và vun cao,
lấp kỹ gốc để củ phát triển. Nên tưới nước đủ ẩm để củ phình to và phát triển.
*Cách tưới: Tháo nước ngập 2/3 luống, đủ ngấm và phải tháo nước đi ngay
không để tràn mặt luống khoai.
2. Thu hoạch và bảo quản
Nếu cần cắt dây để phục vụ chăn nuôi thì nên cắt sau khi thân lá đã phủ luống,
nên cắt tỉa nhánh dây ra trước và nằm sát mặt đất, không tỉa dây chính, mỗi gốc chỉ
nên tỉa 1-2 dây nhánh.
Sau khi trồng 70-80 ngày ta có thể thu hoạch củ, Nếu để quá thời gian trên củ
dễ bị nảy mầm trên ruộng.
Nếu bảo quản củ để ăn dần thì dùng cát hoặc tro bếp khô rải đều với củ phủ lá
xoan lên trên để tránh bọ hả và bệnh thối đen phá hoại củ.
PHẦN 5 - KỸ THUẬT TRỒNG MỘT SỐ GIỐNG
ĐẬU TƯƠNG Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(Theo Tài liệu tập huấn kỹ thuật cho khuyến nông viên xã miền núi-NXB Nông nghiệp)
I. Điều kiện nơi trồng:
- Đậu tương ưa khí hậu nóng ẩm, cây sinh trưởng bình thường ở 15-380
C.
Nhiệt độ thích hợp 18-250C, thời tiết rét và gió khô nóng ảnh hưởng xấu đến việc ra
hoa.
- Cây đậu tương cần độ ẩm cao trong suốt thời kỳ sinh trưởng phát triển với
độ ẩm không khí trung bình 70-75%, đậu tương có khả năng chịu hạn nhưng không
chịu úng, lúc ra hoa cần tránh hạn và úng.
44
- Chọn đất cát pha, thịt nhẹ, thoát nước tốt, độ pH là 5-8. Nếu đất chua phải
bón thêm vôi là 500kg/ha.
II. Kỹ thuật gieo trồng:
1. Thời vụ:
* Vùng Đông Bắc Bắc bộ:
- Vụ xuân: Gieo 20/2-15/3. Thu hoạch 1/6-15/6.
- Vụ hè thu: Gieo 25/5-30/7. Thu hoạch tháng 8-10.
- Vụ thu đông: Gieo trước 30/9. Thu hoạch 15-30/12.
* Đậu tương trong cơ cấu cây trồng ở miền núi: Cây đậu tương có thể bố trí
luân canh tăng vụ trong các cơ cấu cây trồng sau đây:
- Trên đất ruộng bỏ hoá: Vụ xuân: Đậu tương xuân (gieo hạt tháng 3, thu
hoạch tháng 6) + lúa mùa.
- Trên đất nương rẫy: Ngô xuân hè + đậu tương hè thu (trồng thuần), trồng
xen hoặc trồng gối (tháng 7-10); hoặc đậu tương xuân (tháng 3-6) + ngô hè thu.
- Trên đất trồng mía tơ: Đậu tương xuân (tháng 3-5) xen mía.
- Trên đất trồng bông: Ngô xuân xen đậu tương cực ngắn ngày DT - 99 +
bông gối đậu tương (tháng 6-10).
- Trên đất trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày: Xen đậu tương xuân
hoặc hè thu trong thời kỳ kiến thiết cơ bản.
2. Làm đất:
a. Làm đất trồng đậu tương thuần:
Kỹ thuật làm đất trong điều kiện đất khô, một vụ ở trung du, miền núi:
Sau thu hoạch vụ lúa mùa khi đất còn ẩm cần cày ải, để nỏ đất, bừa kỹ làm đất
nhỏ. Lên luống rộng 1,2-1,5m, cao 15-20cm đảm bảo thoát nước; vụ xuân và hè
rạch hàng ngang, hàng cách hàng 35-45cm; vụ đông 30cm, sâu 5cm để bón lót. lấp
một lớp đất mỏng phủ kín để hạt không tiếp xúc trực tiếp với phân.
Kỹ thuật làm đất cho vụ đông trong điều kiện đất ướt sau vụ lúa:
45
áp dụng kỹ thuật làm đất tối thiểu, cày tạo thành luống rộng 0,8-1,2m, bừa qua
2 lượt đi về, san phẳng, dùng đòn gánh chém hoặc que xiết ngang tạo thành các
rãnh sâu 5cm, hàng cách hàng 30-35cm để gieo hạt ; khi gieo dùng hỗn hợp đất bột
khô trộn 25% phân chuồng + 10% lân Super để lấp hạt (6phần đất+3phần phân
chuồng+1phần supe lân).
b. Làm đất trồng đậu tương gối ngô:
ở vùng cao, thời gian sinh trưởng của ngô dài, có thể trồng thêm 1 vụ đậu
tương, nên áp dụng với các giống đậu tương ngắn ngày như DT-99, AK-03.
Trồng gối khi ngô vào chắc, bắp bi đẫ bắt đầu khô, trồng trước khi ngô thu
hoạch 15-20 ngày; dọn bỏ lá gốc, cỏ dại dưới gốc ngô. Đậu tương trồng theo lỗ 2-3
hạt/hốc dưới chân cây ngô, hàng cách hàng 35cm, hốc cách hốc 12-15cm. khi ngô
thu hoạch xong chặt sát gốc, dọn sạch, bón bổ sung 15-20 kg NPK/sào (tỷ lệ
5:10:3) hoặc 2 kg đạm + 3kg Kali/ sào, bón xa gốc 5cm, xới xáo, nhặt cỏ, vun gốc
kết hợp lấp phân.
3. Chuẩn bị giống:
- Hạt đảm bảo tỷ lệ nảy mầm trên 85%.
- Độ thuần giống xác nhận đảm bảo trên 98%.
- Lượng hạt giống 60kg/ha (2kg/sào).
- Mật độ gieo: Hàng cách hàng 30-35cm; hốc cách hốc 10-12cm ( nếu trồng
xen 12-15cm); mỗi hốc gieo 2-3 hạt.
4. Bón phân:
a. Lượng phân bón/ha:
- Phân chuồng 5-6tấn (đối với đất cát bạc màu tăng thêm 1-2 tấn).
- Đạm U rrê 80-90kg (10-12kg/sào).
- Clorua Kali (đỏ) 100-120kg (3-5kg/sào).
- Vôi bột: Đất chua thì bón 300-500 kg/ha (12-15kg/sào).
b. Cách bón:
46
- Bón lót toàn bộ phân chuồng, lân, vôi bột, 1/2 lượng đạm, 1/2 kali trước khi
gieo hạt. Vôi bón vãi khi cầy bừa làm đất, Lân ủ với phân chuồng, Kali bón theo
hốc.
- Lượng đạm và kali còn lại bón thúc 2 lần: Lần 1 khi cây có 1-2 lá thật, lần 2
khi cây có 5-6 lá thật.
* Chú ý: Không để Kali và Đạm tiếp xúc với hạt; đối với đất chua thì dùng
phân lân nung chảy thay Supe lân; đất dốc cần bổ sung một số vi lượng qua phân
bón lá như: Humix, Komix Atonix, Vilado (theo hướng dẫn trên bao bì).
5. Chăm sóc:
a. Giặm tỉa:
- Sau trồng 7 ngày, giặm vào nơi cây không mọc.
- Sau khi cây có 2 lá thật, tiến hành tỉa định cây theo mật độ qui định kết hợp
với làm cỏ, chống hạn.
- Kỹ thuật xới xáo, vun luống: Xới xáo kết hợp bón thúc kịp thời 2 lần vào lúc
cây có 1-2 lá và 5-6 lá thật, để đất tơi xốp, tạo điều kiện cho hệ rễ vi sinh vật nốt
sần hoạt động giúp cây phát triển nhanh, cho năng suất cao, vun luống cao còn giúp
cây chống đổ.
b. vun xới:
- Xới xáo lần 1 khi cây có 1-2 lá thật, kết hợp bón thúc, làm cỏ. Xới xáo lần 2
sau lần 1 từ 12-15 ngày khi cây có 5-6 lá và vun gốc.
- Chú ý: Đối với vụ thu đông sau nảy mầm 12 ngày cần tưới đạm, lân pha
loãng (100g u rê + 100gsupe lân + 20 lít nước).
c. Tưới tiêu: Cần đảm bảo đủ nước cho cây ở thời kỳ cây con, ra hoa, đậu quả; có
biện pháp tháo nước nhanh khi ngập úng.
6. Kỹ thuật gieo hạt và làm mạ đậu tương:
- Gieo mạ trên đất khô lạnh: Vào các năm hạn, mưa xuân muộn, để tranh thủ
thời vụ, cần tưới vào rạch trước khi gieo để hạt mọc nhanh và đều hơn.
Gieo hạt trên đất ướt: Vào mùa mưa, nếu gieo hạt khô trong vòng 24 giờ mà
gặp mưa to kết hợp với nắng gắt, hạt dễ bị thối mốc, không mọc được. Kỹ thuật này
47
sử dụng khi đất còn ẩm, ngâm hạt 1 giờ, ủ 2 ngày cho hạt nứt nanh rồi đem gieo,
gặp mưa to hạt vẫn mọc đều ( chú ý đất phải thoát nước, không để ngập úng).
Làm mạ hạt đậu tương áp dụng cho đất ướt trong mùa mưa, hoặc để giặm.
Cách làm như sau:
- Diện tích làm mạ cần: 100m2 đủ trồng 1ha (4-5m
2/sào).
- Phủ một lớp đất trộn cát hoặc trấu với tỷ lệ 1:1 dày 5cm trên nền đất cứng
hay sân phơi có rải lá chuối hoặc giấy ximăng, nilon. Rắc đều hạt giống lên mặt,
tưới đậm rồi phủ tiếp 1cm đất trộn cát, sau 4-5 ngày hạt mọc đều, cách nhật tưới 1
lần, 6-8 ngày sau gieo, rũ nhẹ bỏ đất, đưa mạ ra trồng trên đất đất ướt. Trồng theo
rạch sâu 5 cm, mỗi hốc 2 cây kèm theo 1 nắm đất bột trên có trộn thêm 1/3 lượng
phân chuồng hoai mục và 1/10 lượng phân lân theo qui trình. Trồng xong cần tưới
nước 1-2 lần cho cây bén rễ. Nếu trồng đậu tương bằng hạt, các góc ruộng nên tận
dụng khoảng trống 1m2 giữa các rạch làm mạ để giặm khi mật độ bị khuyết. Kỹ
thuật này tuy tốn hơn 0,5 công/sào so với trồng bằng hạt, nhưng có thể chủ động
trồng đậu tương trong mọi thời tiết, dễ quản lý sâu bệnh (đặc biệt là với dòi đục
thân vụ đông gây hại lúc cây có lá đơn và 1-2 lá nhặm).
7. Phòng trừ sâu bệnh:
a. Sâu hại đậu tương:
Đậu tương thường bị dòi đục thân, lá; sâu khoang, sâu xanh; sâu đục quả,
rầy, rệp, nhện đỏ...
Phòng trừ: Khi trồng đậu tương, chúng ta phải căn cứ vào kết quả cụ thể, kết
hợp với dự tính, dự báo để có biện pháp phòng trừ.
- Phòng trừ sâu xanh, sâu đục quả bằng Supracid 40ND 1,25-1,5 lít/ha;
Ofatox 400EC nồng độ 0,2%; trừ bọ xít bằng Padan 50SP 0,1-0,15%, Dipterex 0,1-
0,15%.
- Vụ xuân và hè: Phun Bi 58 0,1% trộn với Dipterex 0,2% trừ bọ xít hại quả.
- Vụ đông cần phòng trừ ruồi đục thân bằng cách lón lót Padan 10G (0,4-
0,5kg/sào) vào rạch, phun Padan 50SP 0,1 Selecron 500ND 0,15%, hoặc Ofatox
400EC 0,2% khi cây có 2 lá đơn và 5-6 lá thật.
48
Thời gian phun: Khi cây có 2 lá đơn và 4-5 lá trước khi tắt hoa, làm quả
phun thuốc vào buổi chiều mát.
b. Bệnh hại đậu tương: Đậu tương thường bị các bệnh gỉ sắt, sương mai, thối rễ,
cháy lá, đốm nâu vi khuẩn...
Phòng trừ:
- Chọn giống chống bệnh, bón phân cân đối, luân canh hợp lý...
- Dùng thuốc hoá học trừ bệnh gỉ sắt, đốm nâu: Phun Zinep 0,5% hoặc Score
250 ND 0,3-0,5 lít/ha (dùng theo hướng dẫn trên nhãn thuốc)
PHẦN 6 - KỸ THUẬT TRỒNG ATISO
(Nguồn: kỹ thuật do công ty cổ phần tra pha cô cung cấp)
1. Đặc điểm sinh học
Là cây thân thảo, sống hàng năm, có lông bao phủ. Thân có vân dọc, cao 1-
1,5m. Lá mọc so le, bản to, xẻ thuỳ sâu hình lông chim. Hoa kép, có nhiều lá bắc
nhọn cứng và sắc như gai, khi nở có màu tím, từ lúc bắt đầu nở đến kết thúc nở
khoảng 6 -10 ngày, các hoa đơn nở từ ngoài vào trong, nhị tung bao phấn trước khi
nhuỵ chín 2-3 ngày. Quả bế, nhẵn khi chín màu nâu đen mang các tơ trắng dài dính
nhau ở gốc tạo thành vòng dễ tách ra khi quả chín. Hạt không có nội nhũ.
Nguồn gốc: từ Pháp du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 19, được trồng ở vùng
núi cao có khí hậu mát mẻ quanh năm như Sapa, Mường Khương(Lào Cai), Tam
Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng).
2. Chuẩn bị giống (mầm hoặc hạt)
Trồng bằng mầm: Lấy mầm của cây mẹ to khoẻ, năng suất cao….từ vụ
trước. Chọn mầm to mập, không sâu bệnh. Tách mầm khi thời tiết mát mẻ vào buổi
49
sáng sớm hoặc chiều mát. Có thể trồng ngay ra vườn, cũng có thể trồng trong vườn
ươm cho mầm phát triển ổn định rồi mang ra ruộng trồng.
Trồng bằng hạt: cần chọn lọc những hạt mẩy, đều, bỏ những hạt lép, tạp
chất.
+ Nếu gieo thẳng: ngâm hạt vào nước 350C trong 5 - 10h cho hạt trương
nước sau đó rửa sạch bằng nước lã để dáo nước khoảng 4h rồi đem gieo. Có thể xử
lý bằng hạt thuốc kích thích nảy mầm giúp cho cây con phát triển tốt, tránh thối
mốc cây con.
+ Nếu dùng vườn ươm: Đất vườn ươm cần vãi 300-500kg vôi bột/ha sau đó
phải làm nhỏ, tơi xốp, nhặt sạch cỏ dại, tưới tiêu thuận tiện. Lên luống rộng 1,2m,
cao 20-25cm, dãnh luống rộng 20-25cm. Trộn đều 10-15 tấn phân chuồng hoai
mục, 500kg phân tổng hợp NPK, 500 kg tro mộc/ha. Rắc phân hỗn hợp lên luống,
chộn đều với đất, tưới nước để khoảng 5-7 ngày trước khi gieo hạt. Hạt gieo xong
cần phủ 1 lớp đất mỏng, luôn để đất đủ ẩm cho tới khi cây con được đánh ra ruộng.
Nếu gieo hạt trong bầu, lấy đất (như làm đối với vườn ươm), đóng sát miệng
bầu, dùng đũa chọc 3 lỗ sâu 1 - 1,5 cm cách đều nhau rồi bỏ hạt và lấp đất lại. Bầu
có thể xếp trong giàn có mái tre hoặc trong hố cát (đất cát) sâu bằng chiều dài của
túi bầu, hố cát này phải cao ráo thoát nước tốt như 1 luống đất trồng ngoài ruộng.
Dùng rơm rạ che phủ đến khi cây mọc đều hoặc mái che nilon cho tới khi
cây chuẩn bị đánh ra trồng ngoài ruộng 1 tuần. Tưới nước đủ ẩm thường xuyên cho
cây mầm. Giai đoạn này thiếu nước cây nảy mầm không đều và dễ chết ẻo, cây nảy
mầm cũng phát triển kém.
+ Thời vụ gieo hạt: Vào cuối tháng 7 đến hết tháng 8 dương lịch.
Cây con được đánh ra trồng khi đạt các tiêu chuẩn sau:
Sau 40 - 45 ngày sau mọc, cây con mập khoẻ, cao TB 15 -20 cm.
50
3. Chuẩn bị đất trồng
Chọn vùng trồng:
Là vùng đất cao, quanh năm mát mẻ nhiệt độ trung bình năm: 15-200C,
lượng mưa 2000-2500mm.
Chọn vùng đất pha cát hoặc thịt nhẹ, nhiều mùn tơi xốp, sạch bệnh không cỏ
dại và thuận tiện cho việc tới tiêu.
Tránh nơi gần nghĩa trang, bãi tha ma, bãi rác sinh hoạt, bãi rác công nghiệp,
nơi có nhiều tàn dư thuốc BVTV.
Gần đường xá để thuận lợi cho việc chuyên chở khi thu hoạch
Kỹ thuật làm đất:
Đất được cày bừa kỹ, nhặt sạch cỏ dại sau khi rắc vôi bột. Đất nên để ải 20-
30 ngày trước khi trồng.
Lên luống: Lên luống cao 20 - 25cm, rộng 1m, dãnh 25 – 30 cm
Bổ hốc: 25 x 25 cm, tra phân lót, đảo đều với đất phủ rồi phủ 1 lớp đất trước
khi trồng cây.
Đất cần xử lý mối bằng cách rắc vào hốc hoặc chộn với hạt.
4. Chuẩn bị phân bón trồng cho 01 ha diện tích Actiso
+ Vôi bột: 1 tấn
+ Phân chuồng hoai mục: 2,5-3 tấn
+ Phân vi sinh Sông gianh: 500-700kg
+ Đạm Ure: 400-500kg
+ Lân Supe: 400kg
+ Kali: 150kg
51
5. Xác định thời vụ và mật độ trồng
Thời vụ trồng: Tháng 9, tháng 10 và tháng 11. Theo kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Bá Hoạt (viện dược liệu) năm 2001 thì thời vụ thích hợp để trồng Actiso là
tháng 10.
Mật độ và khoảng cách: Có thể trồng mật độ 5 vạn cây/ha, khoảng cách
50x40 cm hoặc mật độ 4 vạn cây/ha với khoảng cách 50x50 cm. Cũng có thể trồng
ở mật độ thấp hơn 3,3 vạn cây, khoảng cách 50x60cm.
Thu lá định kỳ: 25-30 ngày thu 1 lần nên trồng ở mật độ cao hay thấp thì
việc cớm bóng lá không cố ảnh hưởng lớn. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Bá Hoạt thì trồng ở mật độ 5 vạn cây/ha, khoảng cách 50x40 cm mang lại hiệu quả
cao nhất.
6. Kỹ thuật trồng
Sau khi lên luống, bổ hốc và tra phân (phân được trộn đều với đất, phủ 1 lớp
đất mỏng).
Đối với gieo thẳng: gieo vào mỗi hố 2 -3 hạt rồi phủ 1 lớp đất bột mỏng đủ
kín hạt. Giữ ẩm cho hạt nảy đều.
Đối với cây mầm: Sau khi chọn và tách được cây mầm đạt tiêu chuẩn, cắt lá
để lại phần gốc 15-20 cm đặt gốc mầm xuống hốc, vùi đất kín gốc và tưới nước.
Đối với cây ươm: Khi cây con đã đạt tiêu chuẩn, ta đánh cây ra trồng ngoài
ruộng sản xuất :
+ Nếu là cây con trong bầu: Đặt bầu cạnh miệng hố, dùng dao sắc rạch cẩn
thận càng tránh vỡ bầu càng ít ảnh hưởng tới bộ rễ non của cây. Sau đó lấp đất kín
gốc.
52
+ Cây con trong vườn ươm: Dùng dầm nhỏ sấn quanh gốc cây con nhẹ
nhàng, sao cho bộ rễ ít bị đứt gãy nhất. Sau đó lấp kín phần gốc.
Sau khi trồng xong, cần tiến hành tưới nước cho im gốc (có thể pha thêm
dung dịch kích thích ra rễ để tưới).
7. Phương pháp và kỹ thuật bón phân
Bón lót
Bón toàn bộ phân chuồng, phân vi sinh, phân lân và Kali. Hỗn hợp phân giải
được trộn đều vào đất sau đó phủ 1 lớp đất lên.
Bón thúc
Đợt I: Sau trồng 20 - 25 ngày tưới nước đạm loãng 2 - 2,5kg đạm/360m2.
Các đợt tiếp theo: Từ tháng 12 - tháng 5 (sau khi thu lá mỗi đợt cần tưới
nước đạm 2,5 - 3kg/360m2).
Chú ý: Tưới nước đạm vào gốc tránh táp lá.
8. Chăm sóc và quản lý đồng ruộng
Chăm sóc
Sau trồng cần vun xới nhỏ định kỳ. Tốt nhất tiến hành sau thu hoạch
Tưới nước, bón phân kịp thời.
Tỉa dặm cây đúng mật độ khoảng cách.
Quản lý đồng ruộng
Giai đoạn mới trồng: có nhớt, sên trần ăn lá và thân non (nằm trong bẹ hoặc
trên lá). Trừ bằng phương pháp thủ công hoặc rắc vôi bột, tro mộc, cũng có thể
dùng bả polythin tẩm với cám.
53
Sâu sám: cắn vào cây con tháng 10 - 12, cắn lá non tháng 2-3. Trừ bằng cách
bắt thủ công hay dùng thuốc.
Rệp: Vào tháng 2 -3 phá hoại mạnh nhất. Dùng thuốc nguồn gốc sinh học "
Tập kỳ 1,8 EC'' nếu có rệp xuất hiện.
Trong điều kiện mưa nhiều: Dễ gây bệnh thối rễ và củ, bệnh nấm, mốc, đốm
đen lá cần dùng thuốc BVTV phòng trừ.
(Các loại thuốc BVTV nên dùng loại có nguồn gốc sinh học nhằm đảm bảo
chất lượng dược liệu và sức khoẻ)
Có thể trồng 1 số loại rau họ thập tự ngắn ngày như rau cải tránh cỏ mọc vừa
thu được rau ăn.
9. Kỹ thuật thu hoạch và bảo quản
Thu hái: Lúc cây sắp ra hoa, hái lấy lá, bẻ sống. Cụm hoa chưa nở làm rau
ăn vào tháng 12 đến tháng 2. Còn lá cũng được thu hái lúc cây sắp ra hoa hoặc
đang có hoa, rọc bỏ sống lá đem phơi khô hay sấy khô. Lá Atisô thu hái vào năm
thứ nhất của thời kỳ sinh trưởng hoặc vào cuối mùa hoa. Khi cây trổ hoa thì hàm
lượng hoạt chất giảm, vì vậy, thường hái lá trước khi cây ra hoa.
Khi bắt đầu trổ nụ, nên để ý để có thể thu hoạch đúng thời điểm. Ðộ lớn vừa
đủ trước khi lá bông bắt đầu mở. Trễ quá nụ sẽ bị cứng và trở nên như gỗ. Cắt nụ
với cuống có độ dài từ 3 - đến 5 cm. Cuống của atisô có vị như nụ, vì vậy không
nên vứt bỏ. Sau khi thu hoạch, nên cắt cuống đến tận chân và bón phân để thúc cây
trổ mầm mới.
Kỹ thuật bảo quản hoa Atiso
Rửa sạch và chần bằng hơi nước sôi ở nhiệt độ 1000C trong 5 phút sau đó bôi
dung dịch Ca(OH)2 bão hòa vào vết cắt cuống sau đó phun đều dung dịch axit citric
1% vào cụm hoa. Đưa sản phẩm vào kho lạnh để bảo quản ở nhiệt độ từ 00C đến
54
20C, độ ẩm không khí từ 90-95%. Sau 30 ngày bảo quản, tỷ lệ hư hỏng là 10%, tỷ
lệ giảm khối lượng 5% và độ Brix tăng từ 5,2% đến 9,24%. Chi phí bảo quản cho 1
tấn sản phẩm là 110.000 đồng.
PHẦN 7 - KỸ THUẬT TRỒNG VÀ THU HOẠCH
CÂY THANH HAO HOA VÀNG
(Nguồn: tài liệu đang được áp dụng trồng tại tỉnh Hòa Bình (Theo đề xuất
trồng thanh hao hòa vàng ban QLDA tỉnh Hòa Bình cung cấp))
1. Kỹ thuật gieo hạt
a. Chọn vườn ươm:
Chọn đất thịt nhẹ, cát pha, tưới tiêu thuận lợi, nên bố trí vườn ươm gần nhà để
tiện chăm sóc.
(Cần có biện pháp chống gà bới và các gia cầm khác).
b. Làm đất:
Cày bữa kỹ cho đất nhỏ, tơi xốp, nhặt sạch cỏ dại sau đó lên luống.
Bón lót 100 kg phân chuồng hoai ủ mục + 5 kg lân, dải đều trên mặt luống
xoa cho lẫn đất.
c. Xử lý và gieo hạt
Lấy hạt thu hái trong năm, ta phơi lại một nắng nhẹ. Cụ thể các bước xử lý và
gieo hạt:
Ngâm hạt vào nước có độ ấm 300C, thời gian ngâm từ 2- 3 giờ.
Sau đó vớt hạt ra để khô, rồi cứ 1 kg hạt đã được xử lý như trên đem trộn với
10 kg cát đen khô.
55
Sau khi hạt và cát đen đã được trộn đều: đem ra gieo đều trên mặt luống. Chia
đều số luống trên 1 sào Bắc Bộ, gieo đều từ 3 - 4 lần số hạt đã chia đều theo luống,
gieo xong phủ 1 lớp rơm rạ mỏng để giữ độ ẩm.
Ngày tưới 2 lần sáng và chiều bằng ô roa, hạt tốt sẽ nảy mầm trong thời gian
khoảng từ 7 – 10 ngày (Tùy theo thời tiết, nếu thời tiết ấm thì hạt sẽ nảy mầm sớm
hơn).
Lưu ý:
+ Khi hạt đã nảy mầm ta bóc lớp rơm rạ lót ra và luôn giữ độ ẩm trên mặt
luống.
+ Sau khi cây giống phát triển khoảng từ 20 – 30 ngày tuổi thì sẽ có khoảng từ
2 – 3 lá, lúc này ta bắt đầu bón thúc.
Bón thúc:
Hòa 3 kg lân với nước lã, tưới đều cho 01 sào cây giống, sau khi tưới ta phải
tưới rửa lá bằng nước lã để tránh lá và cây bị cháy vì cây giống lúc này đang còn
non.
+ Khi cây giống thay đổi chiều cao với thời gian từ 40 – 45 ngày tuổi (lúc này
cây cao khoảng từ 10 – 20 cm) ta có thể nhổ cây giống đem đi trồng.
Cách nhổ:
+ Ta có thể nhổ cây to mập đi cấy trước, những cây bé ta để cây phát triển
thêm và nhổ sau).
+ Trước khi nhổ cây giống ta tưới ướt mặt luống để nhổ, tránh để đứt rễ, ảnh
hưởng đến chất lượng cây trồng.
2. Kỹ thuật trồng
a. Chọn đất và làm đất.
- Có thể trồng trên tất cả các loại đất nhưng với điều kiện nước phải thoát kịp
thời.
- Đất phải được cày bừa kỹ, nhặt sạch cỏ dại.
56
- Lên luống rộng khoảng từ 80 – 100 cm, độ cao khoảng 20 cm.
b. Thời vụ trồng.
- Trồng từ mùng 10/01 – 25/02 dương lịch (thời điểm mưa phùn mùa xuân)
để thu hoạch vào khoảng tháng 6 – tháng 7 trong năm.
- Có thể trồng sang tháng 3 dương lịch để thu hoạch vào tháng 8 trong năm ở
những diện tích đất chưa cần sử dụng gối vụ.
c. Cách trồng
- Luống không mổ hàng đôi (mổ so le).
- Mật độ trồng trên đất tốt nhất là từ 40 – 50 cm/1 cây, khoảng 900 – 1000
cây/ 1 sào Bắc Bộ.
- Khi trồng cây xuống chỉ được tưới nước lã không được hòa lẫn phân vì thời
điểm này rễ cây vẫn còn non, chưa thích nghi được.
- Khi trồng xong phải tưới nước từ 3 – 5 ngày để cây non phục hồi nhanh.
3. Chăm bón
- Bón lót theo hốc (Phân chuồng mục 100 kg + 2 kg phân đạm + 5 kg phân
lân) trên 1 sào Bắc Bộ. Trộn đều 3 loại phân trên rồi bốc theo hốc trước khi trồng.
- Bón thúc lần 1: Sau 20 ngày kể từ khi trồng, bón từ 2 kg – 3 kg NPK trên 1
sào Bắc Bộ, có thể tưới hoặc bón tùy theo độ ẩm của đất, bơm nước cho ẩm luống.
- Bón thúc lần 2: Cây trồng được từ 40 – 50 ngày, lượng bón: 5 kg NPK +
200 kg phân chuồng ủ hoai trên 1 sào Bắc Bộ, luôn giữ nước cho ẩm luống.
- Sau khi bón thúc lần 2 từ 5 – 7 ngày, ta bấm ngọn cho cây ra nhiều nhánh.
- Lưu ý: Những đất trồng chưa cần sử dụng cho vụ sau, ta có thể bón thúc
lần 3. Sau khi thu hoạch lần 2, lượng bón 5 kg NPK (ngâm nước xong tưới vào gốc
cây).
4. Kỹ thuật thu hoạch
57
Thu hoạch lá nên thu hoạch làm 3 lần, khi cây được khoảng 5 tháng tuổi chọn
ngày có thời tiết nắng ráo ta thu hoạch. Tốt nhất vào thời điểm gió tây vì lúc này lá
có nhiều hàm lượng tinh dầu.
a. Thu hoạch lần 1:
Chọn những ngày nắng ráo ta tiến hành tỉa toàn bộ lá gốc cách từ mặt đất trở
lên khoảng từ 30 – 40 cm.
Sau đó mang về phơi trên sân hoặc phơi trên bạt cho khô, rồi lấy cành cây nọ
đập vào cành cây kia cho rụng lá, sàng xảo để loại bỏ cọng và các tạp chất khác.
Khi hoàn tất các bước trên ta đóng sản phẩm vào bao PP (bao tải xác rắn), bảo
quản để nơi khô mát.
b. Thu hoạch lần 2:
Sau thu hoạch lần 1 khoảng thời gian từ 15 – 20 ngày, ta tiến hành thu hoạch
lần 2, áp dụng biện pháp thu hoạch như lần 1.
c. Thu hoạch lần 3:
Sau lần thu hoạch thứ 2 khoảng thời gian từ 15 – 20 ngày, ta chọn thời tiết
nắng ráo để thu hoạch, các bước tiến hành cụ thể như sau:
Chặt cả cây, phơi ra ruộng. Buổi chiều thu về dựng cây xung quanh nhà,
không chất đống (vì khi chất đống dễ sinh nhiệt độ cao, rễ bị phân hủy hàm lượng
tinh dầu).
Sáng hôm sau phơi tiếp nắng hai, đem ra sân phơi hoặc phơi trên bạt. Đến
khoảng 3 – 4 giờ chiều ta lấy cây nọ đập vào cây kia cho rụng lá, sàng xảo để loại
bỏ các tạp chất khác, phơi lá thêm một nắng nhẹ cho khô hẳn đóng vào bao tải dứa
để nơi thoáng mát, khô ráo.
*Lưu ý:
Nếu đất trồng đó chưa sử dụng cho vụ sau thì ta có thể thu làm 4 lần để tăng
sản lượng, áp dụng biện pháp thu như lần 2.
5. Phân loại chất lượng lá thanh hao hoa vàng và hiệu quả kinh tế
58
a. Lá loại 1: Lá có thời gian sinh trưởng từ 5 tháng tuổi trở lên kể từ khi trồng,
thu hoạch lá lần 2, lần 3 và lần 4 (nếu có). Lá xanh, khô, không lẫn cây,
cành, rễ, nụ, hoa và các tạp chất khác, độ ẩm không quá 5%.
b. Lá loại 2: Lá có thời gian sinh trưởng từ 5 tháng trở lên kể từ khi trồng, lá
xanh ít hơn, khô không có mầu úa, ủng, không lẫn cây, cành, rễ, nụ, hoa và các tạp
chất khác, độ ẩm không quá 5%.
c. Lá loại 3: Lá thu hoạch lần 1 (lá gốc), lá có thời gian sinh trưởng từ 4 tháng
tuổi, mầu hơi thẫm, khô, không lẫn tạp chất, độ ẩm không quá 5%.
d. Sản phẩm thực thu với mức trung bình từ 120 – 150kg/1 sào Bắc Bộ.
* Lưu ý:
- Cuối mỗi mùa vụ gieo trồng và thu hoạch cây thanh hao hoa vàng Bà con
nông dân không nên tự ý cất giữ hạt giống để phục vụ cho mùa vụ kế tiếp;
- Hạt giống qua mỗi mùa vụ nếu không được bảo quản đúng kỹ thuật sẽ rất
dễ thoái hóa và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của cây giống;
- Hạt giống trước khi gieo trồng phải được các Trung tâm, Viện Kiểm
nghiệm kiểm tra, giám định chất lượng.
PHẦN 8 - KỸ THUẬT TRỒNG GỪNG
(Nguồn: Do viện rau hoa quả cung cấp
Website:http://www.rauhoaquavietnam.vn/default.aspx?tabID=5&ID=37&LangID
=1&NewsID=2189)
1. Thời vụ gừng
Gừng trồng từ đầu xuân (tháng 1-2) đến cuối vụ xuân (tháng 4-5). Cuối năm
khoảng từ tháng 10-11-12 hàng năm ta có thể thu gừng. Thời gian sinh trưởng của
gừng từ 8-10 tháng tùy từng giống.
2. Đất trồng gừng
59
Cây gừng có thể sống ở đất ẩm, đất xấu, bóng râm của vườn, khi trồng thành
ruộng, theo luống phải phủ ở giai đoạn đầu, khi cao sẽ không phải phủ luống chỉ tủ
gốc. Đất nên trồng ở những nơi có khả năng thoát nước, gừng có thể trồng được ở
nhiều loại đất, song cho năng suất khác nhau tùy thuộc chất đất.
3. Ươm hom giống gừng
Dùng dao cắt hom, mỗi hom có ít nhất 3-4 mắt, cắt nhẵn, chấm tro bếp ngay
để hãm nhựa.
Sau cắt hom 4-6 tiếng: ta xếp đều trên các khay, dưới lót bao, trên phủ bao ẩm.
Sau 2-3 ngày dùng rơm rác mục sạch phủ kín, tưới ẩm và che kín để khoảng 1-2
tuần.
Sau 10-15 ngày các hom gừng nhú mắt, ta có thể đem trồng (hom già mọc
chậm hơn hom bánh tẻ).
4. Phân bón cho gừng
Phân chuồng 5-10 tấn/ha, phân lân 80kg/ha, phân kali 100kg/ha, cả 2 được
chia đều để bón thúc 2 lần.
Nếu có công ta chia phân chuồng và lân để bón theo hàng và hốc là tốt nhất.
5. Kỹ thuật trồng gừng
Nên đánh luống: Rộng 1,2-1,5m, cao 35-40cm.
Hàng cách hàng 30cm, cây cách cây 20cm
Mỗi hốc đặt một hom.
Lấp mùn nhẹ phủ lên, tưới giữ ẩm 1 tuần đầu để cây mọc đều, phủ đất và phủ
rơm rồi tưới nước giữ ẩm.
6. Chăm sóc cây gừng
Sau khi mọc 1 tháng bón thúc đợt 1 (bón ½ đam, ½ kali).
Sau khi mọc 2-3 tháng bón thúc đợt 2. Bón hết phần đạm, kali còn lại.
7. Thu hoạch gừng
60
Khi gừng có lá vàng và khô trên 2/3 số là là có thể thu hoạch gừng. Khi thu
hoạch chú ý tránh gãy, dập gừng. Kĩ thuật thu tránh gãy là giữ nguyên cả khóm củ
gừng ta cuốc gia gốc 20-25cm, sau đó nhổ nhẹ để lấy cả khóm củ, tỉa hết đất để có
tảng củ của khóm.
8. Sâu bệnh hại gừng
8.1 Sâu hại gừng
Thành phần sâu hại trên cây gừng nói chung ít và tác hại không đáng kể. Một
số sâu hại có thể thấy là:
Châu chấu sống lưng vàng, châu chấu mía, dế dũi, bọ dừa nâu, rầy trắng lớn,
rầy xanh, rệp sáp, bọ trĩ. Ngoài loài dế dũi hại rễ và gốc, các loài khác gây hại trên
lá gừng.
8.2 Bệnh hại cây gừng
Các bệnh chủ yếu thường thấy là bệnh cháy lá, bệnh thối củ do nấm và thối củ
do vi khuẩn.
* Bệnh cháy lá
Tác nhân gây bệnh là nấm piricularia grisea
Triệu chứng tác hại:
Trên phiến lá vết bệnh đầu tiên là những đốm màu xanh tái, sau đó vết bệnh
lớn lên, đường kính 3-7mm, giữa có màu nâu xám, xung quanh viền nâu đậm.
Nhiều vết bệnh liên kết với nhau tạo thành mảng cháy lớn trên lá. Vết bệnh có thể
xuất hiện ở đỉnh hoặc mép lá, tạo thành mảng cháy lan rộng vào trong phiến là.
Bệnh nặng có thể làm phần lớn lá gừng bị cháy xơ xác, củ ít và nhỏ.
Biện pháp phòng trừ
- Thu dọn tàn dư cây sau thu hoạch
- Trồng mật độ vừa phải, bón phân cân đối NPK
- Ngắt bỏ sớm những lá bị bệnh.
61
- Phun thuốc kasai, Trizole, Carbenzim, Benomyl. Theo nồng độ khuyến cáo.
* Bệnh thối khô củ
Tác nhân gây bênh: Nấm Rhizotonia solani
Triệu chứng, tác hại
Đầu tiên vết bệnh xuất hiện ở bẹ lá chỗ gốc cây gần mặt đất, là những đốm
màu nâu xám, rộng khoảng 3-5mm. Sau đó vết bệnh lan rộng ra, không có hình
dạng nhất định, xung quanh viền nâu đen. Lá bị bệnh có xu hướng lan xuống phía
gốc làm thối một phần củ, vết thối khô hơi xốp. Bệnh nặng có hể làm cây chết và
củ bị thối hoàn toàn.
Biện pháp phòng trừ
- Thu dọn tàn dư cây trồng sau thu hoạch
- Lên luống cao cho thoát nước, bón phân hữu cơ ủ hoai. Không trồng mật độ
dày quá, bón phân đạm vừa phải.
- Khi bệnh phát sinh phun thuốc Validacin, Anvil, Monceren, Carbenzim…
* Bệnh thối nhũn củ
Tác nhân gây bệnh: Vi khuẩn Erwinia carotovora
Triệu chứng, tác hại:
Vết bệnh trên củ lúc đầu là một đốm nhỏ màu nâu xám, hơi mọng nước. Sau
đó vết bệnh lớn dần và ăn sâu vào trong làm một phần củ bị thối mềm, cắt ngang
chỗ thối thấy có dịch nhờn. Cây bị bệnh lá úa vàng và đổ gục. Bệnh tếp tục làm
thối củ trong thời gian bảo quản.
Biện pháp phòng trừ
- Không trồng củ bệnh. Trước khi trồng nhúng củ vào dung dịch sulfat đồng
0,5%.
- Bón thêm vôi cho đất, lên luống cao để thoát nước, không trồng mật độ dày
quá, bón đủ phân lân và kali.
- Đào bỏ cây bị bệnh, phun các thuốc Cupremicin, Kasuran.
62
PHẦN 9 - KỸ THUẬT TRỒNG NẤM
(Nguồn: Trung tâm khuyến nông quấc gia. http://www.khuyennongvn.gov.vn/ky-thuat-trong-nam-so_t77c646n21909tn.aspx)
Kỹ thuật trồng nấm rơm
1. Giới thiệu chung
Nấm rơm là loại nấm khá quen thuộc với nhân dân ta. Nấm thường mọc trên
nguyên liệu phổ biến là rơm nên có tên chung là nấm rơm (Straw mushrooom).
Nấm rơm là loại dễ trồng, mau thu hoạch, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Cứ mỗi tấn rơm ra trồng nấm nói chung trừ chi phí trong thời gian 15 – 20 ngày có
thể lãi từ 500.000 – 700.000 đồng. Bã sau khi trồng nấm chế biến thành phân sinh
học cao cấp. Ngoài ra, bã nấm còn dùng để nuôi trùn đất, lấy trùn nuôi gia cầm, gia
súc và tôm, cá.
Tóm tắt quy trình trồng nấm rơm
2. Thời vụ trồng
Nấm rơm có thể trồng được quanh năm, tuy nhiên tùy theo điều kiện thời tiết
mà chúng ta áp dụng các biện pháp khác nhau để khắc phục tình trạng bất lợi.
63
Nếu tháng giáp Tết, có gió lạnh thì phải che kỹ, giữ ấm và làm mô to hơn.
Nếu vào mùa mưa phải làm mái che cho mô nấm hoặc ủ rơm dầy hơn, làm nền mô
cao hơn để tránh ngập úng.
Ở những nơi có gió mạnh, phải làm rào chắn gió, đồng thời bố trí mô nấm
thẳng góc với hướng gió.
3. Chuẩn bị địa điểm
Có thể chất rơm ở nhiều nơi như: đất ruộng, trong vườn cây, chung quanh
nhà,…có thể trên nền đất, gạch, xi măng trên kệ. Ngay cả trong nhà, trong bọc
nylon.
Chọn địa điểm sao cho bằng phẳng, cao ráo không bị ngập úng, sạch sẽ và nhất là
gần đường vận chuyển rơm rạ, gần nước tưới để tiện việc chăm sóc, thu hoạch và
chuyên chở.
Chuẩn bị đất trước khi trồng: nếu đất trũng và nhất là vào mùa mưa, ta nên
xẻ rãnh đê có những liếp rộng 60 – 80cm, cao khoảng 10cm, dốc về hai má, ném
chặt mặt liếp, mục đích sao cho thoát nước khi tưới, không bị ngập úng khi tưới.
4. Vật liệu dùng chất nấm
Người ta có thể dùng nhiều vật liệu khác nhau để trồng nấm rơm như: rơm
rạ, bã mía, thân và lá chuối, lục bình, bông gòn. Nhưng thường ta hay dùng rơm rạ.
Chất nấm bằng rơm, lúa mùa hoặc thần nông, lúa tẻ hoặc lúa nếp đều dùng được
cả. Có thể dùng rơm mới suốt còn tươi hoặc rơm rạ đã khô, miễn đừng mục nát (đã
biến thành màu nâu đen) sẽ cho năng suất không cao.
*Phương pháp ủ rơm:
Phương pháp được áp dụng với tất cả các loại rơm rạ có thể dùng rơm tươi
hoặc rơm khô.
Rơm được chất thành đống rộng khoảng 1,5 – 2m, dài ít nhất 1,5m. Chất một
lớp rơm bề cao khoảng 2 – 3 tấc (bổ sung dinh dưỡng 0,5 – 1% urê, 1% vôi) tưới
nước cho thật ướt và dùng chân dậm cho dẽ. Chất lớp thứ hai dầy khoảng 3 tấc,
tưới nước và dậm dẽ như trên. Tiếp tục lớp thứ 3, thứ 4 – cuối cùng đống ủ có
chiều cao khoảng 1,5m. Mục đích tưới từng lớp để cho nước thấm đều trong rơm.
Vài ngày sau khi ủ, nhiệt độ trong đống ủ lên cao 60 – 70oC
, làm cho nấm dại
chết đi và phân hủy một phần chất hữu cơ để làm cho tơ nấm rơm dễ hấp thụ chất
64
dinh dưỡng. Sau 3 - 4 ngày đảo một lần, đảo rơm rạ từ dưới lên trên, trên xuống
dưới, ngoài vào trong, trong ra ngoài cho đều. Khi đống ủ xẹp xuống (sau 10 –
12 ngày) ta có thể kéo rơm ra chất mô.
5. Xếp mô nấm
Cách xếp rơm ủ:
Dỡ bỏ lớp rơm mặt ngoài đồng ủ, mang rơm bên trong để xếp mô nấm và cố
gắng xếp hết trong ngày.
Cách chất mô nấm:
Dãi vôi xử lý nền trước khi xếp mô, lấy rơm cuộn tròn như cái gối và dựng
đứng ép thành luống chiều cao khoảng 20cm, rộng 30 - 40cm rãi một đường meo ở
giữa dọc theo mô. Tiếp tục rãi rơm chất lớp thứ hai. Riêng lớp thứ hai cao khoảng
15cm, tưới nước, đè dẽ dặt rồi rãi lớp meo thứ hai. (có thể chất 2 – 3 lớp rơm, tùy
theo mùa: mùa nóng chất thấp, mùa lạnh chất cao. Cứ mỗi lớp rơm dầy 15 – 20cm
thì rãi một lớp meo). Ở trên cùng phủ một lớp rơm mỏng khoảng 5cm tưới nước đè
dẽ dặt, vuốt mặt ngoài mô cho láng và dùng tay nhét từng cọng rơm rơi vãi bên
ngoài xuống đáy mô (nếu mặt ngoài mô không láng và không dẽ dặt, sau này khi
thu hoạch sẽ làm hư các nụ nấm nhỏ, năng suất thấp).
Hàng ngày theo dõi tưới nước và 4 -5 ngày sau dùng rơm khô rãi tơi khắp
toàn bộ mặt ngoài của mô, tạo thành áo mô dầy 10 - 15cm (mùa lạnh, mùa mưa,
chất xong phủ rơm ngay và phủ rơm dày hơn mùa nắng).
6. Chọn giống meo
Việc chọn giống meo rất quan trọng. Vì meo tốt, đúng tuổi, không nhiễm tạp
khuẩn sẽ cho năng suất nấm cao và chất lượng nấm tốt.
Meo tốt có những sợi tơ nấm (khuẩn ti) màu trắng trong, mùi tương tự như
nấm rơm, tơ nấm phát triển đều và kín bịch meo.
Nếu bịch meo có những đốm màu xanh, đen, vàng cam là đã nhiễm nấm dại,
không nên sử dụng. Không chọn bịch meo có đáy bịch ướt, nhão và có mùi hôi
chua.
Một bịch meo giống (khoảng 120g) có thể cấp được 2 – 2,5m mô (tính theo chiều
dài mô).
65
7. Chăm sóc và thu hoạch
Chăm sóc:
Chăm sóc nấm rơm trong thời gian ủ tơ quan trọng nhất là theo dõi ẩm độ và
nhiệt độ. Trong đó ẩm độ là yếu tố hàng đầu, vì ẩm độ sẽ tạo nên nhiệt độ thích hợp
cho tơ nấm. Nếu ẩm độ dư thì mô sẽ lạnh và ẩm độ thiếu nhiệt độ của mô tăng làm
cho tơ chậm phát triển.
Theo dõi độ ẩm trong mô bằng cách dùng tay rút một mớ rơm ở giữa mô,
nắm chặt trong lòng bàn tay, nước hơi rịn ra ở kẽ tay là vừa, nếu nước không rịn ra
là khô, ta phải tưới thêm nước. Tưới bên ngoài áo mô, ở cả phía trên mô và hai bên
hông mô. Nếu nắm chặt thấy nước chảy ra thành giọt là dư nước thì ngưng tưới
ngày đó và dỡ áo mô ra cho nước bốc đi.
Điều chỉnh ẩm độ của mô bằng cách tưới nước. Tưới nước phải dùng thùng
tưới vòi búp sen có tia nhỏ, vì giọt nước mạnh dễ làm hư những tơ nấm và nụ nấm
nhỏ.
Theo dõi nhiệt độ có thể sử dụng nhiệt kế đúc sâu vào lớp rơm thứ hai và
ngập khoảng 2/3 nhiệt kế. Sau 3 – 5 phút lấy ra xem. Nếu nhiệt độ của mô khoảng
33 – 37oC
là đạt.
Điều kiện nuôi trồng nấm rơm có thể tóm tắt như sau:
Yếu tố Nuôi ủ tơ nấm Ra quả thể
Khoảng biến
thiên
Tối thích Khoảng biến
thiên
Tối thích
Nhiệt độ 15 – 40 oC
35 ± 2oC
20 – 25 oC
32 ± 2oC
Ẩm độ 60 – 70% 70 ± 2% 80 – 90% 80 ± 2%
pH 6 – 7 6,5 6 – 7 6,5
Sau khi chất mô nấm, từ ngày thứ 6 – 8, mỗi ngày đảo lớp rơm áo một lần để
tránh tơ nấm ăn lan ra lớp rơm áo, không tạo được nấm.
Cách đảo rơm áo: dỡ lớp rơm áo ra, xốc cho tơi và đậy lại.
Từ 9 – 10 ngày sau khi chất các nụ nấm màu trắng bằng đầu đinh ghim xuất
hiện hai bên hông mô, ngày sau nụ nấm chuyển sang màu nâu và bắt đầu lớn
nhanh. Tuỳ theo từng thời tiết, trung bình khoảng 10 – 15 ngày sau khi cấy meo là
có thể hái nấm được.
66
Thu hái nấm:
Khi hái lựa các nấm búp hơi nhọn đầu (gần nứt bao) hái trước, xoay nhẹ tay
tách gỡ ra khỏi mô, không nên để sót lại chân nấm bị đứt trên mô, vì phần này khi
thối rữa sẽ làm hư các nụ nấm kế bên, thu hoạch xong đậy kỹ áo mô lại.
Thời gian thu hoạch kéo dài khoảng 7 – 12 ngày. Trung bình cứ 1m (tính
theo chiều dài mô nấm) hái được 1 – 2,5 kg nấm tươi (tùy theo chất lượng rơm,
meo giống, chiều cao mô chất). Thường nông dân có tập quán hái sớm từ rạng sáng
& vào buổi chiều (mỗi ngày thu hai lần).
Sau khi thu hái đợt 1, ta ngưng tưới 01 ngày, sau đó chăm sóc tiếp tục như
lúc đầu.
Người trồng có thể bón thêm urê hoặc các chất dinh dưỡng. Urê tưới bổ sung
cho nấm vào thời điểm nấm bắt đầu kết nụ (ở đợt 1 & 2), nồng độ sử dụng trong
khoảng 1 – 3%o nên tưới vào lúc nấm đã ở dạng đinh ghim hoặc nút và thường
phun tưới vào sáng sớm là tốt nhất.
Về năng suất lý thuyết: cao nhất là 15% (số kg nấm tươi trên 100kg rơm
khô). Tuy nhiên, thực tế nuôi trồng đại trà năng suất trung bình còn thấp hơn nhiều,
dao động trong khoảng 5 – 10%. Ngoài ra, năng suất còn tuỳ theo chất lượng rơm,
meo giống, chiều cao mô chất, ....).
A. Kỹ thuật trồng nấm sò
Nấm sò có thể trồng quanh năm, nhưng mùa vụ thuận lợi nhất từ tháng 9
năm truớc tới tháng 3 năm sau.
1. Thời vụ
Nấm sò có thể trồng quanh năm, nhưng mùa vụ thuận lợi nhất từ tháng 9 năm
truớc tới tháng 3 năm sau. Nhiệt độ thích hợp với nấm sò: đối với nhóm chịu lạnh
13 - 200C; nhóm chịu nhiệt 24 - 28
0C.
2. Xử lý nguyên liệu
* Nguyên liệu: Chủ yếu là rơm rạ, bông phế thải, mùn cưa,…lượng rơm rạ tối
thiểu là 300 kg mới đủ nhiệt để ủ.
Xử lý nguyên liệu
67
- Làm ướt rơm rạ bằng nước vôi với tỷ lệ 4 kg vôi/1.000 lít nước. Ngâm rơm rạ
trong nước vôi 15 - 20 phút rồi vớt ra để ráo nước. Ủ rơm bằng cách kê kệ ủ sao
cho vuông vắn, có cọc ở giữa để thoát hơi, rải từng lớp rơm rạ lên kệ ủ rồi dẫm
nhẹ, sau đó lấy nilon bọc xung quanh đống ủ để giữ nhiệt.
- Sau 3 ngày ủ rơm tiến hành đảo đống ủ, trong quá trình dỡ, cần kiểm tra độ ẩm
đống ủ, nếu vắt nguyên liệu thấy nước chảy nhỏ giọt ướt vân tay là được. Nếu thấy
khô, bổ sung nước trực tiếp vào rơm rạ, nếu ướt quá cần phơi rơm đến khi đảm bảo
đủ độ rồi ủ lại như ban đầu.
- Ủ tiếp 3 ngày sau đó: Kiểm tra độ ẩm như lần 1, nếu đảm bảo yêu cầu thì đảo
rơm rồi ủ lần 2. Sau 3 ngày dỡ đống ủ và băm rơm thành từng đoạn cỡ 10 – 15 cm
rồi ủ lại. Hai ngày sau, kiểm tra lại đống ủ thấy rơm rạ đã chín đều và đủ độ ẩm thì
tiến hành cấy giống. Nếu có điều kiện, hấp nguyên liệu trước rồi cấy giống trong
phòng vô trùng sẽ hạn chế được tỷ lệ nhiễm bệnh ở nấm.
3. Cấy giống
* Chuẩn bị:
- Túi nilon kích thước 30 x 45 cm, bông nút, nút, chun. Túi nilon phải được gấp
đáy.
- Giống cấy: có mùi thơm dễ chịu, không có mùi chua, không có các đốm kì lạ.
* Đóng bịch, cấy giống:
- Cho nguyên liệu vào túi đã chuẩn bị, dùng tay dầm nhẹ rồi điều chỉnh lớp nguyên
liệu đó dày 5 - 7 cm, sau đó rắc một lớp giống nấm xung quanh thành túi. Làm 3
lớp như vậy, lớp trên cùng rắc đều trên bề mặt (trừ khoảng miệng nút bông), sau
đó lấy một lượng bông bằng miệng chén uống nước nút bông rồi quấn dây chun
chặt nút bông.
- Yêu cầu: Bịch đã cấy giống căng tròn, độ nén vừa phải, trọng lượng của bịch 2,4
- 2,7 kg. Sau khi cấy giống, bịch giống đưa vào nhà ươm thoáng mát, sạch sẽ.
- Tỷ lệ cấy giống: 16 - 20 bịch/kg giống.
4. Ươm giống và rạch bịch
Sau khi cấy giống 20 - 25 ngày, kiểm tra để rạch bịch. Thấy sợi nấm đã ăn xuống
đáy bịch thì tiến hành rạch bịch. Rạch 6-8 đường dài 4 – 6 cm, các đường rạch đều
68
và so le nhau.
5. Chăm sóc và thu hái
* Chăm sóc
Sau khi rạch bịch 4 – 6 ngày chưa cần tưới nước vào bịch. Khi thấy nấm mọc ra từ
các vết rạch, tuỳ theo lượng nấm nhiều hay ít, độ ẩm không khí cao hay thấp để
điều chỉnh lượng nước tưới phù hợp (tưới nước dạng phun sương), tưới 4 - 6
lần/ngày.
* Tác nhân gây bệnh hại nấm
- Các loại nấm mốc xanh, đen, vàng thường xuất hiện sau khi cấy giống 7 ngày.
Nguyên nhân do nguyên liệu ủ chưa đủ nhiệt, vệ sinh khu vực cấy giống không tốt,
thời tiết nóng bức, thiếu độ thông thoáng hoặc giống bị nhiễm bệnh từ trước.
- Nhiễm khuẩn: do vi khuẩn làm hỏng mũ nấm hoặc quá trình tưới nước vào các
vết rạch, do vệ sinh kém sau thu hái.
* Thu hái nấm
Thu hái nấm khi bầu nấm bằng chén uống nước nhỏ, lưu ý phải hái hết phần gốc
trên bịch nấm. Mỗi lứa thu hái 3 - 4 đợt. Sau mỗi đợt thu hái 3 - 4 ngày không tưới,
khi thấy tại những vết rạch xuất hiện quả thể nấm mới tưới nước. Thời gian thu hái
nấm khoảng 30 - 45 ngày kể từ ngày hái đầu tiên.
69
PHẦN 10 – KỸ THUẬT GIEO ƯƠM VÀ CHĂM
SÓC CÂY THUỐC TẮM
(Nguồn: Do ban QLDA giảm nghèo huyện SaPa cung cấp)
1. Các phương pháp gieo trồng.
a. Cây gieo bằng hạt.
- Các loại cây gieo hạt chính: Phuồng Đìa Nhau, Phuồng Đìa Bua, Giàng
Nài, Đìa Siêu, Mà Gày Khang.
- Phương pháp gieo hạt.
+ Chọn hạt đúng mùa quả chín, thu hái vào ngày nắng ấm lúc trời râm mát.
+ Bảo quản nơi khô thoáng.
+ Làm đất xây dựng vườn ươm.
+ Gieo hạt đều, mật độ hợp lý.
+ Đào cây đảo bầu ra luống khác.
+ Đưa cây đi luóng khác.
- Sau khi gieo hạt cần có rơm rạ hay cỏ khô phủ luống để giữ ẩm, tưới nhẹ
cho đất ẩm đều và khi cây đã ra lá mần thì gỡ bỏ lớp rơm rạ đã phủ ra, để cho cây
mọc.
b. Các loại cây giâm hom.
- Các loại cây giâm hom chính: Đìa giản, Chu tay, Kè Gày Chét.
- Phương pháp giâm hom.
+ Chôn cành cây bánh tẻ tốt không sây bệnh, nhiều mắt, mắt đều. hom cắt
đoạn đều ( khoảng 15cm ).
+ Xây dựng vườn dâm hom phải dúng kĩ thuật.
+ Sau khi cây nảy mầm đưa ra vườn ươn trồng đại trà chăm sóc.
+ Sau khi ươm khoảng 45 ngày đưa cây đi trồng.
c. Các loại cây cắm cành và thân cây tự sống.
70
Như cây Chùa Dì , Tùng dè, Trà Kỉn, Cây Ngũ Gia Bì.
2. Làm cỏ, vun xới.
Luôn luôn làm cỏ sạch sẽ, phải vun xới thường xuyên. Nhất là đối với
những cây lấy củ, rễ. nếu lá cây phủ kín gốc thì không cần vun sới nữa.
3. Tỉa cây.
Muốn cho cây sinh trưởng, phát triển tốt cho năng xuất cao thì phải tỉa bớt
cây con, khoảng cách theo yêu cầu từng loại cây. Những cây xấu, cây có bệnh cũng
phải nhổ đi kịp thời. Những cây trồng bằng mầm thì cũng nên tỉa bớt những mầm
yếu chỉ để lại nhũng mầm khoẻ thì mới đạt năng suất cao.
4. Tưới tiêu.
Cây thuốc ưa ẩm nhưng lại sợ úng, do vậy mỗi khi khô hạn thì phải tưới
nước, nhưng khi trời mưa to thì phải thoát nước. Việc tưới tiêu phải luôn luôn được
chú ý, khi cây đơm hoa, kết hạt hay ra củ thì tưới cho cây ẩm mát nhưng tránh ẩm
ướt không có lợi.
5. Bấm hoa, tỉa cành.
Đối với cây lấy củ, khi thấy chớm nụ hoa là phải cắt bỏ ngay để chất dinh
dưỡng tập trung vào rễ cho củ to hơn. cắt những lá già cho thoáng, ít sâu bệnh. Đối
với cây lấy hạt làm thuốc, làm giống thì phải bấm bớt hoa và quả nhỏ, chỉ để lại
những quả to cho hạt chắc mẩy.
6. làm giàn.
Đối với những cây ưa bóng râm thì phải làm giàn che nắng. Tôt nhất là trồng
và để phát triển ngoài rừng tự nhiên sen với những cây cao cóấo rợp để lấy bóng
mát.
7. Thu hoạch và bảo quản
a. Thu hoạch
Muốn có sản lượng cao và chất lượng tôt cần phải xá định đúng thời kỳ thu
hoạch. Đối với cây lấy củ người ta thường thu vào lúc cây bắt đầu vàng úa, lá gốc
71
đã già lúc này hoạt chất tập trung ở trong củ. Trong trường hợp mưa nhiều, úng
nước, có hiện tượng thối củ thì phải thu hoạch sớm để tránh khỏi thất thu. Đối với
cây lấy tinh đầu người ta thu hoạch vào thời kì hoa nở rộ, lúc này hàm lượng tinh
dầu cao nhầt.
Chọn những ngày nắng ráo để thu hoạch sẽ chủ động được việc phơi sấy, chế
biến. Thu hoạch cây lấy củ cần chú ý đào hoặc quốc sâuổtánh làm củ bị sây sát
hoặc đứt rễ. Thu hoạch cây lấy lá cần cắt gọn ghẽ, rải mỏng, không được sếp đống
vì nếu sếp đống không thoáng mát thì lá sẽ bị hấp nóng , thối nhũn. Đối với cây cho
lá để cất tinh dầu thì phải cắt lá khi tan hết sương cho đỡ hao kém tinh dầu. Thu
hoạch dược liệu những cât lấy vỏ thì phải chon mùa lá rụng ( róc vỏ ), làm cữ chiều
dài rạch thành phiến đều để phới sấy và uốn từng thanh, không bóc tuỳ tiện làm
giảm giá trị dược liệu.
b. Bảo quản.
Việc đóng gói bao bì, bảo quản chống mối mọt là yếu tố quan trọng dể giữ
cho phẩm chất dược liêu được tốt, khỏi hư hỏng. Tuỳ loại dược liệu sẽ có những
cách bảo quản khác nhau nhưng hầu hết dược liệu có thể đóng gói bằng hai lớp
bao bì; lớp trong là bao tải hoạch bao vải, lớp ngoài là túi polietylen.
Về bảo quản các loại dược liệu là quả, hạt thì nên đựng trong chum phủ lá
chuối và đậy kín bằng nút rơm. Để chống mốc thì lót ở dưới đáy một lớp lớp vôi
cục, cách ly một lớp lá chuối khô, trên xếp dược liệu. Chống mọt thì lót và phủ lá
Ngải cứu khô.
8. Các yếu tố ảnh hưởng gieo trồng cây thuốc tắm.
a. Khí hậu - Thời tiết.
Cây thuốc cũng như mọi sinh vật khác cần có những điều kiện ngoại cảnh
thích hợp mới có thể sinh trưởng và phát triển tốt nhất.
b. Sinh thái và thời vụ.
72
Cây thuốc có những nguồn gốc sinh sống khác nhau khác nhau nên
việc gieo trồng cần phải trọn thời vụ thích hợp, nói chung khi thời tiết không quá
khô nóng hoặc quá ẩm ướt. Thường thì cuối mùa thu và mùa xuân ấm áp thì cây rễ
mọc. Nếu trồng vào thời vụ không thích hợp thì cây lâu mọc, thời gian sinh trưởng
ngắn và năng suất sẽ giảm. quá rét cây sẽ chết.
c. Ánh sáng.
Là yếu tố rất quan trọng đối với cây thuốc. Nếu thiếu ánh sáng thì cây không
thể sinh trưởng hoặc sinh trưởng không bình thường. Nếu cây bị rọi ánh nắng trực
tiếp quá nhiều thic cây nhỏ lại, hoa biến sắc. Nhu cầu về ánh sáng khác nhau ở mỗi
loại cây thuốc.
d. Nhiệt độ.
Nhiệt độ quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng sấu đến cây trồng. Nhiệu độ
quá cao sẽ thúc đẩy qú trình sinh trưởng sau đố suy yếu, nhiệt độ quá thấp thì hạt
gieo không mọc hoặc mọc chậm, thời gian sinh trưởng kéo dài, ra hoa kết quả hoặc
không đều hoặc chín muộn.
Vì vậy cần chọn thời vụ thích hợp cho mỗi loại cây trồng và có những biện
pháp chống nắng như che vườn ươm, phủ rơm rạ hay tưới nước chống hạn.
e. Độ ẩm.
Cả độ ẩm của không khí và độ ẩm của nước đều rất cần thiết cho sinh trưởng
của cây trồng. Nếu thiếu ẩn, mặt đất và cây trồng đều tăng cường thoát hơi nước thì
cây thuốc sẽ bị khô héo, cằn cỗi. Tuy nhiên, ở từng thời kì của sinh trưởng và phát
triển thì cây thuốc có nhu cầu khác nhau về độ ẩm : Khi cây còn non thì cần đảm
bảo duy trì độ ẩm thường xuyên nhưng khi cây ra hoa kết hạt nếu độ ẩm quá cao sẽ
làm hoa nở ít, hạt lép.
Đa số các cây thuốc ưa ẩm nhưng sợ úng, nếu trời mưa nhiều, độ ẩm trông
không khí cao thì nhiều sâu bệnh phát sinh, phát triển mạnh, củ, rễ, hoa, quả dễ bị
thối.
73
PHẦN 11 - KỸ THUẬT TRỒNG KHOAI TÂY ĐỨC
(Theo:vaas.org.vn.Website:
http://www.baovecaytrong.com/kythuatcaytrongchitiet.php?Id=335&caytrongkythu
at=khoai%20t%C3%A2y)
Giống khoai tây hiện nay đang phổ biến trong sản xuất là giống Diaman
được nhập từ Đức.
1. Thời vụ trồng:
- Tại đồng bằng: trồng hai vụ: Vụ Đồng chính vụ trồng từ 25/10 đến 10/11
dương lịch, tránh thiệt hại đầu mùa do mưa lớn cuối tháng 10 nên điều chỉnh thời
vụ sang đầu tháng 11 và thời điểm này là vụ Đông chính vụ nên cũng hạn chế được
sự hoạt động của vi khuẩn gây bệnh chết héo xanh do nhiệt độ thấp.
Vụ Đông Xuân trồng đầu đến cuối tháng 12 dương lịch.
- Tại miền núi: Vùng thấp (vùng trồng 2 vụ lúa/năm) trồng như vụ đông
chính vụ tại đồng bằng. Vùng cao có độ cao trên 1000m so với mặt nước biển chỉ
trồng được một vụ lúa nước thời vụ được bố trí vào đầu đến giữa tháng 2 dương
lịch. Tránh gặp sâu bệnh hại khoai tây nên được trồng trên ruộng lúa nước.
2. Làm đất, chuẩn bị giống:
- Làm đất: Đất được cày bừa và làm nhỏ, lên luống rộng 0,8 - 0,9 đối với
luống đơn, đối với kiểu luống này sẽ thuận lợi cho cây khoai tây sinh trưởng phát
triển tốt, giảm sự gây hại của sâu bệnh, thuận lợi chăm sóc, tỷ lệ củ to nhiều hơn so
với trồng luống kép.
Nếu đất khoai tây được cày ải phơi năng thì rất có tác dụng làm cho đất tơi
xốp, dưỡng khí tạo nhiều thuận lợi cho hệ rễ phát triển đồng thời diệt trừ cỏ dại
cũng như sâu bệnh hại tồn dư trong đất.
- Chuẩn bị giống: Trước khi trồng 1 - 2 ngày, nếu củ giống to có nhiều mầm
nên bổ bằng dao sắc, mỗi miếng có từ 2 - 3 mầm, trong khi bổ cần nhúng dao bằng
nước xà phòng để tránh lây lan bệnh (đặc biệt với các biện virus, héo xanh vi
khuẩn…). Chấm mặt cắt của miếng khoai tây bổ vào xi măng + vôi bột khô, rồi xếp
74
một lượt lên dàn bảo quản. Đối với giống cỡ củ từ 25 - 35 củ/kg thì không nên bổ
trừ mục đích nhân giống gốc khi số lượng giống còn ít.
Đối với giống Solara là giống có thời gian ngủ dài, do vậy khi ra khỏi kho
lạnh mầm còn ngắn và ít mầm nên để giống trong nhà 7 - 10 ngày (chú ý nên để nơi
thoáng mát và bóng tối tránh nơi có nhiều gió gây khô củ mầm khó phát triển) để
mầm dài thêm và tăng số mầm/củ. Điều này có tác dụng làm cho khoai tây mọc
nhanh sau trồng và số thân/khóm nhiều (khoảng 3 - 4 thân/khóm), đó là một trong
yếu tố tăng năng suất khoai tây.
3. Trồng:
- Rạch hàng trên mặt luống, rải phân chuồng mục và lân vào rãnh và phân
Đạm + kali phải bón cách củ 15cm (tức là củ cách củ 30 cm thì bón vào giữa
khoảng cách giữa hai củ).
- Đặt củ giống hay miếng bổ vào rạch, chú ý không để củ giống tiếp xúc với
phân khoảng cách củ giống 30 x 30 cm (4 khóm/m2 tương đương 1400 - 1450
khóm/360m2).
- Kỹ thuật lấp đất: Phải lấp đất kín củ, kín phân bón, dùng đất nhỏ và phủ dày
5 cm, không được hở mầm (nếu hở mầm khoai tây sẽ không mọc được), nếu đất đủ
ẩm thì chỉ sau 7- 10 ngày khoai tây bằng đầu mọc khỏi mặt đất.
4. Phân bón: Tính cho 1 sào Bắc Bộ (360m2).
- Phân chuồng 400 - 600 kg (Nên ủ phân chuồng với vôi bột + Lân trước
trồng từ 2 - 3 tháng trước trồng là tốt nhất, có tác dụng khử bệnh trong phân chuồng
và có tác dụng cung cấp lân dễ tiêu cho khoai tây).
- Đạm Urê 9 kg
- Super lân 20 kg
- Kali 8 kg.
Cách bón:
75
- Bón lót: Đối với củ giống không bổ: bón lót toàn bộ phân chuồng và lân
cùng ½ lượng đạm, lượng kali. Đối với củ giống bổ: Bón lót củ gống bổ: Bón lót
toàn bộ phân chuồng và lân (không nên bón lót phân đạm và kali).
- Bón thúc đợt 1: Cây mọc cao15 - 20 cm bón lót ½ lượng đạm và ½ lượng
kali kết hợp với vun xới nhẹ.
- Bón thúc đợt 2: (đối với củ giống bổ): Sau đợt 1 từ 10 - 15 ngày với ½
lượng đạm và ½ lượng kali còn lại kết hợp với vun xới cao.
Chú ý: nên kết thúc vun xới sau khi trồng 40 ngày.
5. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh:
Sau khi trồng 10 - 15 ngày nếu đất đủ ẩm khoai sẽ mọc đều, nếu đất khô nên
tưới rãnh nhẹ cho khoai mọc nhanh (đối với củ không bổ).
Vun xới 2 lần kết hợp với 2 lần bón thúc. Lần 1 vun nhẹ, lần 2 vun cao đảm
bảo đủ đất cho củ sinh trưởng tốt, kết hợp phủ kín phân hoá học bằng đất vun.
Phòng bệnh mốc sương: Khi có sương mù hoặc trời ẩm ướt nên kiểm tra
đồng ruộng thường xuyên, đặc biệt đối với giống nhiễm và tiến hành phun phòng
bằng Zinep 0,3% hoặc dung dịch Boocdo 1%, nếu phát hiện bệnh nên trừ ngay
bằng Daconin hoặc bằng thuốc đặc hiệu khác.
Một số bệnh nấm từ lúa có thể lây nhiễm cho khoai tây do vậy đối với ruộng
lúa bị bệnh như khô vằn, đạo ôn, tiêm lửa … việc trừ các đối tượng trên cây lúa là
yếu tố cần thiết, sẽ tránh được củ bị ghẻ thậm chí nặng gây thối củ, hoặc đất nhiễm
khuẩn nên khử bằng vôi trộng ủ với phân chuồng. Vấn đề phòng trừ bệnh hại của
cây trồng trước không tốt, nguồn bệnh có sẵn sẽ gây hại ngay ở thời kỳ cây còn
nhỏ, làm cho khoai tây chết sớm có thể ngay giai đoạn 50 - 70 ngày sau trồng, làm
thiệt hại lớn cho sản xuất.
Sau khi trồng 10 - 15 ngày nếu đất đủ ẩm khoai sẽ mọc đều, nếu đất khô nên
tưới rãnh nhẹ cho khoai mọc nhanh (đối với củ không bổ).- Vun xới 2 lần kết hợp
với 2 lần bón thúc. Lần 1 vun nhẹ, lần 2 vun cao đảm bảo đủ đất cho củ sinh trưởng
tốt, kết hợp phủ kín phân hoá học bằng đất vun.- Phòng bệnh mốc sương: Khi có
sương mù hoặc trời ẩm ướt nên kiểm tra đồng ruộng thường xuyên, đặc biệt đối với
giống nhiễm và tiến hành phun phòng bằng Zinep 0,3% hoặc dung dịch Boocdo
76
1%, nếu phát hiện bệnh nên trừ ngay bằng Daconin hoặc bằng thuốc đặc hiệu
khác.- Một số bệnh nấm từ lúa có thể lây nhiễm cho khoai tây do vậy đối với ruộng
lúa bị bệnh như khô vằn, đạo ôn, tiêm lửa … việc trừ các đối tượng trên cây lúa là
yếu tố cần thiết, sẽ tránh được củ bị ghẻ thậm chí nặng gây thối củ, hoặc đất nhiễm
khuẩn nên khử bằng vôi trộng ủ với phân chuồng. Vấn đề phòng trừ bệnh hại của
cây trồng trước không tốt, nguồn bệnh có sẵn sẽ gây hại ngay ở thời kỳ cây còn
nhỏ, làm cho khoai tây chết sớm có thể ngay giai đoạn 50 - 70 ngày sau trồng, làm
thiệt hại lớn cho sản xuất.
Tưới nước: Nước đóng vai trò quan trọng trong sản xuất khoai tây, quyết
định đến năng suất khoai tây; yêu cầu nước tưới phải đủ để cây sinh trưởng phát
triển tốt về thân lá, ra tỉa củ và hình thành củ theo đúng giai đoạn sinh trưởng, tạo
thuận lợi cho quá trình hút dinh dưỡng nuôi cây, trong thời vụ không được để
ruộng khoai tây bị hạn nếu không sẽ mất rất lâu hoặc khoai tây không mọc được ở
giai đoạn đầu vụ hoặc thời gian sinh trưởng sẽ bị rút ngắn, do vậy làm giảm năng
suất và tỷ lệ củ to trên khóm sẽ thấp, độ ẩm thích hợp cho khoai tây trong cả vụ là
80 - 85% (tương ứng với tưới rãnh 3 - 4 lần/vụ nếu thời gian trồng ít mưa. Trước
khi thu hoạch khoảng 25 - 30 không tưới nước, để thu hoạch ruộng khoai tây khô
ráo. Như thế sẽ rất tốt cho củ giống sau này và khoai tây thương mại cũng đảm bảo
chất lượng cao.
6. Thu hoạch
thời gian sinh trưởng đạt khoảng 85 - 90 ngày sau trồng (đối với ruộng khoai
tây sinh trưởng phát triển bình thường, không bị hạn làm chậm thời mọc khỏi mặt
đất), quan sát 2/3 ruộng khoai tây đã ngả màu vàng, biểu hiện khoai tây đã già, chín
sinh lý thì chọn ngày nắng ráo tiến hành thu hoạch, tuyệt đối không thu hoạch khi
ruộng ướt hoặc trời mưa sẽ gây hỏng sản phẩm. Nếu sản xuất giống thì nên phân
loại củ giống ngay trên đồng ruộng, tránh chọn nhiều lần gây trầy xước vỏ củ làm
sâu bệnh dễ xâm nhập hoặc làm thối củ nếu gặp nước. Sản phẩm khi thu hoạch về
nên để nơi thoáng mát, khô ráo tránh ánh sáng trực xạ nếu không sẽ làm vỏ củ bị
xanh làm chất lượng khoai tây bị giảm và không nên chất đống quá lớn sẽ làm củ
hấp hơi ướt, vỏ củ yếu rất dẽ bị trầy xước.
77
PHẦN 12 - KỸ THUẬT TRỒNG KHOAI SỌ (MÔN)
1. Thời vụ trồng
Trồng tháng giêng và tháng 2 âm lịch. Tốt nhất là trồng vào thời điểm xung
quanh tiết lập xuân, để sau khi trồng, gặp mưa xuân đỡ phải tưới nước và cây mọc
thuận lợi.
2. Mật độ
Tuỳ theo điều kiện khí hậu, đất đai từng nơi, có thể trồng theo khoảng cách,
mật độ như sau:
70 x 70cm (khoảng 20.400 cây/ha).
80 x 80cm (khoảng 15.600 cây/ha).
90 x 90cm (khoảng 12.300 cây/ha).
3. Làm đất, đào hố, bón phân
Đất được cày bừa kỹ, nhặt sạch cỏ. Đào hố với kích thước 20 x 20 x 20cm.
- Bón lót phân hữu cơ 8 - 10 tấn/ha, trung bình 0,5 - 0,8kg/hố.
- Bón thúc phân đạm, lân, kali. Nếu bón 30kg N + 60kg P2O5 + 30kg K2O cho
1 ha thì năng suất tăng 155 - 277% so với đối chứng không bón, năng suất củ đạt
15,75 tấn/ha, trong đó, trọng lượng củ cái 5,91 tấn/ha. Như vậy, lượng phân bón
cho một sào là: Phân chuồng (4 - 7 tạ) + urê (2 - 3kg) + phân lân nung chảy (10 -
12kg) + Sunphat kali (2 - 4kg).
Với số lượng hoá học trên, có thể dùng toàn bộ phân lân, 1/2 đạm và kali trộn
đều vào đất trước khi trồng. Phân đạm và kali còn lại có thể đem bón 1 - 2 lần sau
khi trồng từ 3 - 6 tháng.
4. Trồng và phủ luống
Đặt củ giống ở độ sâu 7 - 8cm, tránh tiếp xúc trực tiếp với phân, phủ kín đất.
Sau khi trồng phủ mặt luống bằng rơm rạ hoặc cỏ khô để giữ cho đất ẩm, xốp và
hạn chế cỏ dại.
5. Tưới nước
Sau khi trồng, cần phủ luống, tưới nước. Khoai sọ núi ưa ẩm, nhưng nếu úng
nước, bộ rễ sẽ phát triển kém. Sau khi trồng, nhiệt độ không khí chưa cao, lượng
sinh trưởng của cây chưa lớn, chỉ giữ cho đất đủ ẩm là được. Thời kỳ cây sinh
78
trưởng mạnh, cây hình thành củ và củ phát triển, cây cần nhiều nước, nếu gặp hạn
cần tưới nước.
6. Vun luống
Sau khi trồng 2 - 3 tháng, cây đã mọc khoẻ, vun luống cao 15 - 20cm, rộng 40 -
50cm để rễ bất định mọc nhiều, tăng khả năng chống hạn cho cây, hạn chế mầm
ngọn nảy sinh, tạo điều kiện cho cây mẹ phát triển.
7. Phòng trừ sâu bệnh
Đề phòng một số loại bệnh, trong đó, có bệnh mốc sương thường phát sinh vào
thời kỳ nhiệt độ cao và độ ẩm lớn, bệnh nặng gây thành dịch.
- Luân canh 3 - 4 năm cần thay đổi cây trồng khác.
- Chọn củ giống kháng bệnh, tránh các vết thương cơ giới ở phần trên và phần
dưới của cây.
- Lúc bệnh mới phát sinh, phun thuốc Boócđô 1% hay Ridomil MZ 0,2%,
Anvil 0,2%.
Dùng Dipterex 0,2 - 0,3% để phòng trừ các loại sâu hại lá.
8. Thu hoạch và bảo quản củ giống:
- Khi lá chuyển sang màu vàng và khô dần là lúc củ đã già, hàm lượng tinh bột
khá cao, hương vị củ thơm ngon, có thể thu hoạch củ. Vụ thu hoạch chính vào
trung tuần tháng 9. Nếu cần kéo dài thời gian cung cấp cho thị trường thì thu hoạch
sớm hơn (cuối tháng 8) hoặc muộn hơn (tháng 10).
- Củ làm giống phải để thật già mới thu hoạch. Trước khi thu hoạch vài ngày,
cần cắt lá và bẹ phía trên củ 2 - 3cm, để vết cắt khô. Thu hoạch củ lúc thời tiết khô
ráo tránh củ bị thối trong thời gian cất giữ. Củ giống thu về, để nơi thoáng mát, tốt
nhất là xếp vào giàn, chọn và loại bỏ các củ bị sây sát, nếu thấy củ thối phải nhặt
riêng để tránh lây lan.
79
PHẦN 13 - KỸ THUẬT TRỒNG CỎ
(Nguồn: Trung tâm khuyến nông Yên Bái)
A. KỸ THUẬT TRỒNG CỎ VOI
1. Đặc điểm
Cỏ trồng được khắp nơi. Trên vùng đất cao, đất thấp, sườn đồi. Nhưng tăng
trưởng mạnh nơi đất có nhiều chất mùn, ẩm độ cao. Cỏ voi dễ bị thối gốc và chết
nếu đất bị ngập nước.
2. Làm đất
Trước khi trồng phải cày bừa thật kỹ và làm sạch cỏ. Cày đất ở độ sâu 20 -
25cm, nhặt hết cỏ dại và san bằng đất trồng. Rạch hàng sâu 15 - 20cm.
3. Cách trồng
Giống như trồng sắn.
Cỏ voi sinh sản vô tính, trồng bằng thân. Tốt nhất sử dụng thân giống loại
không quá già, không non quá, có độ tuổi 80 - 100 ngày và được chặt vát thành
hom, độ dài 20-25cm/hom. Mỗi hom có 3 - 5 mắt mầm.
Bảo quản hom giống trong râm mát, vài hôm sau đem trồng là tốt nhất. Không
nên để khô, sẽ kém nẩy mầm.
Đặt hom gối đầu nối tiếp nhau, rồi lấp đất dày từ 7- 10cm.
Sử dụng 7 - 10 tấn giống/ha. Trồng bằng hom, nên trồng theo từng hàng, tiện
cho việc chăm sóc như làm cỏ dại, bón phân, ...
Khoảng cách trồng: 30cm x 40cm (khoảng cách giữa các hom = 30cm,
Khoảng cách giữa các hàng = 40 cm).
4. Bón phân:
Tùy theo từng loại đất tốt, trung bình, xấu mà bón phân cho phù hợp. Sau đây
là cách bón phân cho 1ha đất/năm để tham khảo:
Phân chuồng: 15- 20 tấn.
Super lân: 250- 300 kg.
KCL: 100- 200 kg.
Urê: 400-500 kg.
Trong đó, phân chuồng và Super lân được sử dụng toàn bộ để bón lót. KCL và
80
Urê chia đều cho bón thúc (sau khi trồng từ 20- 30 ngày) và sau mỗi đợt thu hoạch.
Tuy nhiên tùy theo đất tốt hay xấu và mùa nắng hay mùa mưa mà chúng ta
tăng hay giảm lượng phân bón cho phù hợp.
5. Chăm sóc:
Để cỏ sử dụng được lâu và năng suất ổn định, cần chăm sóc thường xuyên
theo đúng quy trình kỹ thuật.
Sau khi trồng được 10 - 15 ngày, tiến hành kiểm tra tỷ lệ nẩy mầm. Trồng dặm
những chỗ bị chết. Làm cỏ dại 2 - 3 lần trước khi cỏ trồng lên cao phủ kín mặt đất.
Sau mỗi lần thu hoạch, xới đất, diệt cỏ dại, tưới nước, bón phân Urê để cỏ
trồng tái sinh nhanh, cho năng suất cao.
6. Thu hoạch:
- Thu hoạch lần đầu sau 2 tháng kể từ ngày trồng. Và những lần sau, chu kỳ
thu hoạch từ 30- 40 ngày trong mùa mưa . Mùa nắng, những đồng cỏ không có hệ
thống tưới, thời gian thu hoạch có thể tới 60 ngày.
- Một năm trung bình thu hoạch từ 6- 10 lần. Cỏ voi có thể cao đến 3m, nhưng
thường khi cỏ cao độ 1m là cho thu hoạch. Vì nếu cỏ càng già, thành phần giá trị
dinh dưỡng càng kém và tỷ lệ chất xơ sẽ gia tăng nhiều. Nếu cỏ còn non quá, chứa
nhiều nước, gia súc ăn vào dễ bị tiêu chảy.
- Gốc cỏ chừa lại cao từ 20- 30 cm, để cỏ nhảy nhiều mầm. Năng suất 1 lần cắt
trung bình 30- 60 tấn/ha, một năm từ 240- 350 tấn/ha.
B. Kỹ thuật trồng cỏ VA06
Nồng dân xã Y Can (Trấn Yên) trồng cỏ chăn nuôi gia súc.
81
YBĐT - Cỏ VA06 cho năng suất, chất lượng cao, khẩu vị ngon, có khả năng
chịu rét, chịu hạn tốt nên có thể trồng trên đất có độ dốc cao. Cỏ VA06 có thể cho
năng suất 500 tấn /ha/năm.
Giống cỏ này đã được đưa vào trồng ở một số địa phương trong tỉnh như: Văn
Chấn, Trấn Yên, Trạm Tấu, thành phố Yên Bái… đều cho năng suất từ 350 đến
400 tấn/ha và gia súc rất thích ăn.
1. Thời vụ trồng:
- Tốt nhất là trồng vào vụ xuân (bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 4) hàng năm,
Ngoài ra, có thể trồng VA06 vào bất cứ mùa nào, khi có mưa.
- Riêng 2 huyện vùng cao là Trạm Tấu, Mù Cang Chải thời vụ tốt nhất vào
mùa mưa từ tháng 5 - 7 (không trồng được vụ xuân vì thời tiết khô hanh).
2. Chuẩn bị đất để trồng:
- Cày vỡ đất ở độ sâu 20 cm, sau đó bừa và cày đảo (cày 2 lần) làm sạch cỏ
dại và san phẳng đất.
- Trên đất bằng, nên lên luống để tiện cho việc chăm sóc và tưới tiêu nước.
- Trồng trên đất dốc, phải trồng theo đường đồng mức hoặc trồng theo hốc.
3. Chuẩn bị hom giống:
- Chọn cây thành thục đạt 6 tháng tuổi, khoẻ mạnh không sâu bệnh, bóc hết lá
bẹ ở mầm nách (cây bánh tẻ).
- Dùng dao sắc cắt thành từng đoạn, cắt nghiêng mỗi đoạn một mắt, trên mỗi
mắt có một mầm nách.
- Đoạn thân trên của mắt ngắn hơn, đoạn thân dưới của mắt dài hơn, để tăng
tỷ lệ sống. Sau đó, xoa tro bếp vào vết cắt, hom xử lý đến đâu thì trồng ngay đến đó
để tránh mất nước.
4. Mật độ trồng:
- Nếu trồng làm thức ăn gia súc: trồng với khoảng cách hàng cách hàng 60 -
70cm, cây cách cây 40 - 50 cm; mật độ 40.000 - 45.000 hom/ha.
- Nếu trồng để làm giống: trồng với khoảng cách là hàng cách hàng 1m, cây
cách cây 70 - 80cm; mật độ 12.000 - 15.000 hom/ha
- Nếu trồng làm hàng rào, trồng để chống xói mòn trên đất dốc thì nên trồng
dày với khoảng cách cây cách cây 33 - 35 cm; hàng cách hàng 40 cm, mật độ
100.000 hom/ha.
82
5. Phân bón:
+ Bón lót: lượng phân bón lót/1ha như sau: Phân chuồng hoai mục: 30 tấn;
Supe lân: 3 tấn (bón lót toàn bộ theo hàng rạch)
Bà con lưu ý: Nếu không có phân chuồng thì mỗi hốc bón 100 gam phân hỗn
hợp cùng với 100 gam supe lân; phân bón phải được trộn đều dưới đáy hốc để tăng
khả năng đẻ nhánh.
+ Bón thúc: Dùng phân Urê lượng 500 - 600 kg/ha (Chia đều để bón thúc sau
mỗi lần thu hoạch).
6. Cách trồng:
Cách 1: Trồng dưới rãnh.
- Rạch rãnh sâu 14 cm, rộng 20 cm, hàng nọ cách hàng kia 60 - 65 cm. Sau
đó, đưa các loại phân bón lót xuống rãnh và phủ một lớp đất mịn dày 7cm, rồi nén
nhẹ.
- Đem hom đã chuẩn bị sẵn đặt vào lòng rãnh, đặt hom nọ cách hom kia từ 40
- 50cm, đặt theo độ nghiêng 45 độ hoặc đặt hom nằm ngang dưới rãnh.
- Cuối cùng, phủ lớp đất mịn dày 7cm lên phía trên mầm.
Cách 2: Trồng theo hốc:
- Trên ruộng, trồng cuốc hố theo khoảng cách hốc nọ cách hốc kia 40 - 50 cm.
- Nếu trồng trên đồi thì các hốc phải trồng so le theo hình nanh sấu và cách đặt
hom như phương pháp trên.
7. Chăm sóc:
- Sau khi trồng, tưới nước giữ ẩm và nếu khuyết cây thì phải trồng bổ sung
để đảm bảo tỷ lệ sống đạt trên 98% đạt mật độ 30.000 - 45.000 cây/ha.
- Sau khi trồng 1 tháng, làm cỏ xới xáo và bón mỗi gốc 10 gam đạm Urê.
- Làm cỏ lần 2 sau khi trồng 2,5 tháng và bón mỗi gốc 25 gam đạm Urê, đồng
thời vun gốc để cây khỏi đổ, vì đây là thời kỳ cỏ phát triển nhanh nhất.
- Nếu gặp khô hạn thì 1 tuần phải tưới nước 1 lần, nhưng không để đọng nước.
- Vào mùa mưa phải tiêu, thoát nước kịp thời.
- Sau mỗi lần cắt 2 ngày thì phải xới xáo và bón thúc 1 lần và mức bón là 300
- 350 kg đạm urê/ha để nâng cao năng suất.
- Trước khi vào vụ đông, nên bón 1 lần phân chuồng nhằm đảm bảo mầm qua
đông và tái sinh được tốt.
83
- Phòng trừ sâu bệnh: giữ vườn cỏ thông thoáng, nếu phát sinh sâu bệnh thì
dùng các biện pháp phòng trừ sinh học, hết sức tránh dùng thuốc hoá học.
5. Cách thu hoạch và sử dụng cỏ:
- Thời vụ cắt vào các tháng 4 đến tháng11 hàng năm, cứ sau 20 - 40 ngày cắt
một lần.
- Nếu cho gia súc ăn thì cắt lúc cỏ cao 130 -170 cm, mỗi năm cắt 5-6 lứa.
- Nếu nuôi cá, lợn thì có thể cắt lúc cỏ cao 80 - 100 cm, mỗi năm cắt 7-10 lứa.
- Cách cắt như sau: dùng dao sắc cắt nhẹ tay, cắt cách mặt đất 15 cm; không
cắt quá thấp để tránh ảnh hưởng xấu đến tái sinh, tránh cắt vào ngày mưa vì dễ gây
sâu bệnh.
*Cỏ VA06 có khả năng lưu gốc rất tốt, trồng 1 năm có thể thu liên tục 6 - 7
năm.
PHẦN 14 - KỸ THUẬT TRỒNG CÀ PHÊ
(Nguồn: trung tâm khuyến nông tỉnh bình thuận.
http://www.baovecaytrong.com/kythuatcaytrongchitiet.php?Id=224&caytrongkythu
at=c%C3%A2y%20c%C3%A0%20ph%C3%AA)
I. Giới thiệu chung
1. Rễ:
Cây cà phê có 3 loại rễ - Rễ cọc:dài từ 0,3-0,5 m, mọc từ thân chính. Nhiệm
vụ giữ thân tránh đỗ ngã. - Rễ nhánh: mọc ra từ rễ cọc, có thể ăn sâu 1,2- 1,5 m.Rễ
nhánh càng ăn sâu, khả năng hút nước và chịu hạn càng tốt. Các rễ bên mọc từ rễ
nhánh thành hệ thống rễ con. - Rễ con:phát triển của rễ con phụ thuộc vào độ dày
của tầng đất canh tác, giống cà phê, chế độ bón phân, tưới nước, canh tác. Hệ thống
rễ này hầu hết tập trung ở tầng đất mặt (từ 0-30 cm). Nhiệm vụ chủ yếu là hút chất
dinh dưỡng và nuôi cây.
84
2. Lá:
Đối với cà phê vối, lá có tuổi thọ từ 7 – 10 tháng. Thời tiết , dinh dưỡng không
tốt có thể làm lá rụng sớm . Cành và lá có tương quan chặt chẽ với năng suất cà
phê. Lá, cành và thân cà phê là nơi dự trữ dinh dưỡng để tạo hoa và nuôi quả. Tinh
bột trong quang hợp sẽ tích lũy trong lá và hệ thống mô của cây, nếu lượng này suy
giảm sẽ dẫn đến hiện tượng rụng hoa, quả và cho hạt nhỏ, năng suất thấp. Đây
chính là yếu tố cần quan tâm trong quá trình chăm sóc cây cà phê để đạt năng suất
cao.
3. Hoa:
Hoa mọc ra ở các chồi nách lá của cành sơ cấp và cành thứ cấp. Hoa thường nở
về đêm và nở hết khoảng 4-5 giờ sáng. Cà phê vối (Robusta) thụ phấn chéo là chủ
yếu, đặc tính này phụ thuộc rất nhiều vào gió và côn trùng, vì vậy việc nuôi ong
mật trong vườn cây cà phê cũng là biện pháp tăng tỷ lệ đậu quả của cà phê.
Cà phê vối không ra hoa lại ở những đoạn cành (hoặc nách lá) đã ra hoa năm
trước.
4. Quả:
Sau khi thụ phấn, quả phát triển nhanh, thường quả cà phê có 1-2 nhân (tùy theo
lượng nước tưới và chế độ dinh dưỡng). Thời gian sinh trưởng đối với quả cà phê
vối thường từ 9-11 tháng (tuỳ theo điều kiện chăm sóc).
II. Điều kiện ngoại cảnh:
Nhiệt độ: Cây cà phê vối sinh trưởng phát triển thích hợp nhất từ 22 – 26 độ
C.
Ánh sáng: cây cà phê vối thích hợp ánh sáng trực xạ yếu, do đó cần trồng cây
che bóng để điều hòa ánh sáng cho vườn cây cà phê hợp lý đặc biệt là giai đoạn
kiết thiết cơ bản.
Ẩm độ: Cây cà phê (Vối) thích hợp trong điều kiện ẩm độ cao, gần như bão
hòa.
Lượng mưa: Cây cà phê sinh trưởng phát triển tốt ở những vùng có lượng mưa
hàng năm 1.800 – 2.000 mm, có một mùa khô ngắn vào cuối và sau vụ thu hoạch
để phân hóa mầm hoa.
Gió: Gió nóng, lạnh hay gió mạnh đều gây ảnh hưởng cho sinh trưởng phát
triển cây cà phê. Khi lập vườn cần trồng cây chắn gió phù hợp cho vườn cà phê.
III. Đất đai
Cây cà phê không đòi hỏi khắt khe về đất, nó có thể phát triển tốt trên nhiều
loại đất khác nhau như: Đất nâu đỏ, nâu vàng hoặc đất xám …. Trong đó, đất đỏ
85
bazan cây cà phê sinh trưởng tốt, cho năng suất cao. Yêu cầu cơ bản là có tầng đất
mặt sâu từ 70 cm trở lên, có thành phần cơ giới trung bình đến hơi nặng (Đất thịt
nhẹ- sét).
VI. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
1. Kỹ thuật trồng:
Thời vụ:Trồng vào đầu mùa mưa (tháng 5, tháng 6).
Khoảng cách, mật độ: Đất tốt, điều kiện thâm canh cao thì trồng thưa và
ngược lại. Khoảng cách: đất tốt và bằng phẳng 3 x 3 m (1.118 cây/ha); đất trung
bình và dốc 3 x 2.5 m (1.330 cây/ha).
Cách trồng, bón phân lót: Đào hố trước trồng 1 tháng ( 60 x 60 x60 cm). Bón
lót : - Lớp đất mặt trộn với 10 – 20 kg phân chuồng hoai + Hữu cơ sinh học HVP
401B : 1 kg + Hữu cơ khoáng vi lượng HVP ORGANIC : 0,2 kg + 0,5 kg super lân
+ 0.5 kg vôi bột đưa xuống hố. Lớp đất dưới để một phía sau dùng làm bồn quanh
gốc. Lúc trồng bón lót ngoài tán lá cây 100 gram phân NPK 16–16–8–13 S.
*Chú ý: Dặm chặt đất ở xung quanh gốc, sau cơn mưa lớn cần vét bồn, để
phòng cây bị lấp.
2. Bón phân, chăm sóc
Đánh chồi vượt cho cây cà phê: Chồi vượt phát triển rất nhanh trong mùa
mưa, do vậy cần đánh chồi vượt kịp thời. Trung bình 1 tháng đánh chồi vượt 1 lần.
Khi đánh chồi vượt chú ý vặt các cành tăm, cành nhớt mọc quá nhiều ở cùng một vị
trí đốt cành. Ở mỗi vị trí đốt cành chỉ nên để lại không quá 3 cành dự trữ được phát
sinh.
*Chú ý: vặt các cành thứ cấp mọc dày trên đỉnh tán tạo điều kiện để ánh sáng
lọt vào bộ tán cà phê.
Đào rãnh ép xanh, hoặc cày rạch hàng ép xanh: Đào rãnh sâu 30cm, dài 1m,
rộng 20-25cm dọc theo mép trong bồn cà phê, mỗi gốc cà phê đào 1-2 rãnh. Dồn tất
cả cỏ rác trên lô và cả phân chuồng vào rãnh, lấp đất lại. Cũng có thể cày rạch hàng
giữa 2 hàng cà phê, cày sâu 50cm, nên cày 1 hàng, bỏ một hàng và năm sau lại cày
luân phiên để hạn chế làm tổn thương bộ rễ cà phê. Tương tự như rãnh đào trong
mép bồn, rãnh cày là vị trí để ép xanh cỏ rác trên lô và bón phân chuồng.
Làm cỏ, bón phân: Làm sạch cỏ trên hàng cà phê, không để cỏ dại cạnh tranh với
cà phê. Bón phân cho cà phê sau khi làm cỏ sạch. Liều lượng phân bón và loại
phân bón như sau:
- Phân hữu cơ: - phân chuồng hoai :liều lượng 15-20 m3/ha ( 2 năm bón 1
lần)
86
- Phân hữu cơ sinh học “HVP ORGANIC CHUYÊN THÚC CÀ PHÊ” với lượng
1-1,5 tấn/ha(chia 2-3 lần bón/năm) . Kết hợp việc bón phân hữu cơ với đào rãnh
ép xanh cho vườn cà phê.
- Vôi bột: bón 300-400 kg/ha/năm, rải tung đều khắp mặt đất, tiếp xúc với đất
càng nhiều càng tốt, không cần lấp đất.
- Phân hóa học:
* Các năm trồng mới và kiến thiết cơ bản:
Sử dụng phân NPK 20-20-15-TE , bón với liều lượng sau:
+ Năm trồng mới: 400-600 kg/ha
+ Năm thứ 2: 600-700 kg/ha
+ Năm thứ 3: 800-900 kg/ha
Lượng phân trên được chia ra bón 3 lần trong mùa mưa.
* Cà phê kinh doanh:
Sử dụng loại phân NPK 16-8-16-13S-TE , có thành phần NPK cân đối, có thành
phần lưu huỳnh và trung vi lượng cần thiết phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng cà
phê trong mùa mưa.
Bón 3 lần trong mùa mưa. Đối với vườn cà phê đạt từ 3-4 tấn nhân/ha, bón với
liều lượng sau:
+ Đợt 1: 500-700 kg/ha, bón vào đầu mùa mưa, khi mưa đã đều.
+ Đợt 2: 700-800 kg/ha, bón vào giữa mùa mưa.
+ Đợt 3: 800-1000 kg/ha, bón gần cuối mùa mưa, trước khi chấm
dứt mưa 20 ngày.
Nếu năng suất vườn cây cao hơn mức 3-4 tấn nhân/ha, ở mỗi đợt bón, cần bón
tăng cường thêm từ 150-200 kg/ha/lần.
Bỏ phân khi đất đủ ẩm. Rạch rãnh xung quanh tán cây cà phê, rải phân đều và lấp
đất.
-Phân bón lá: + HVP 801S CHUYÊN CÀ PHÊ :phun định kỳ 7-10
ngày/1lần để nuôi cành dưỡng lá. +HVP 15-30-15 : phun giai đoạn trước ra hoa 1
tháng để hình thành mầm hoa,. +HVP AUXIN ORGANIC : phun trước khi ra
hoa 10 ngày để thúc ra hoa đồng loạt. + HVP 5-35-6 CHỐNG RỤNG TRÁI CÀ
PHÊ : phun giai đoạn 7-14 ngày trước khi trổ hoa và sau khi đã đậu trái non. Định
kỳ phun 7 ngày /1lần để dưỡng trái . +HVP SIÊU TO HẠT : phun định kỳ 7
ngày /1 lần giai đoạn trái đang lớn để làm to hạt,tăng chất lượng hạt.
87
Tỉa cành: Thường xuyên tỉa bỏ những chồi vượt, những cành bị sâu bệnh gây
hại, những cành đã ra quả ở những năm trước chỉ còn 2-3 cặp lá ở đầu cành.
V. Sâu bệnh
1. Bệnh hại
a. Bệnh lở cổ rễ (nấm Rhizoctonia solani):
Bệnh thường gây hại cây con ở vườn ươm và thời kỳ kiến thiết cơ bản. Bệnh
hại ở phần cổ rễ, làm cổ rễ bị teo, khô thắt lại.
Phòng trị: Tiêu huỷ những cây bệnh nặng, dùng các loại thuốc để tưới vào
gốc như: Validamycin (Validacin); Pencycuron (Monceren) hoặc các loại thuốc gốc
đồng.
b. Bệnh khô cành, khô quả (nấm Collectotrichum coffeanum)
Bệnh thường phát triển vào đầu mùa mưa nhưng thể hiện rõ rệt khi quả còn
non đến lúc 6-7 tháng tuổi.
Phòng trị: Bón phân đầy đủ, kịp thời cân đối NPK, dùng các loại thuốc
Propineb (antracol); Carbendazim(bavistin); hoặc các loại thuốc gốc đồng như
copper sulfat (Bordeaux), Kasugamycin 2 % + Copper Oxychloride 45% (Kasuran)
để phòng trừ 2-3 lần/vụ.
c. Bệnh tuyến trùng:
Do tuyến trùng Pratylenchus coffae gây vết thương, tuyến trùng
Meloidogyne spp. gây nốt sần, tuyến trùng Tylenchus gây nội sinh. Cây bị bệnh
thường sinh trưởng kém, vào mùa khô thường bị vàng héo, có khả năng lây lan lớn.
Phòng trị: Phát hiện sớm, tiêu hủy những cây bệnh nặng, cây bị bệnh nhẹ nên
tăng cường bón phân hữu cơ, xử lý đất bằng thuốc cytokinin (Sincocin).
d. Bệnh rỉ sắt (Hemileia vastatrix)
Triệu chứng: Bệnh thường xuất hiện ở những vườn cây già cỗi, đầu tư kém.
Bệnh hại trên lá, vết bệnh hình tròn, có lớp bột phấn vàng màu da cam ở mặt dưới
lá. Bệnh làm rụng lá, thường hại nặng vào tháng 10-11-12 và tháng 3, 4 trong năm.
Phòng trị: Cuối mùa mưa (tháng 10-11 dùng copper sulfat (Bordeaux 1%)
hay copper hidroxide (Champion) phun mặt dưới lá 3-4 tuần/lần khi bệnh mới xuất
hiện. Hiện nay có thể dùng các loại thuốc nội hấp Hexaconazole 85% (Anvil),
cyproconazole 94% (Bonanza), Propiconazole 90% (Tilt).
*Chú ý: Bệnh đã phát triển cần vệ sinh vườn, tỉa cành cho thông thoáng kết
hợp với dùng thuốc hóa học.
e. Nấm hồng (Corticium salmonicolor)
88
Tác hại trên cành và phần ngọn của cây, thường phát sinh mạnh vào đầu và
trong mùa mưa, khi phát hiện thấy cành bị bệnh và cắt đốt kịp thời. Tiến hành phun
thuốc phòng trừ : dùng Bordeaux hay Oxyt clorua Đồng1% phun vào vùng bị bệnh,
boặc dùng dung dịch Bordeaux 5% quét lên vết bệnh ở cành chưa bị héo.
2. Sâu hạ
a. Rệp sáp (Pseudococus. Spp):
Gây hại ở chùm quả và vùng rễ làm cho cây cà phê phát triển kém, làm rụng
quả. Thường xuyên theo dõi và phát hiện sớm. Thực hiện phun thuốc trên những
cây phát hiện rệp.
Phòng trị: Phát hiện sớm dùng Alpha-cypermethrin 90% (Fastac),
Methidathion 96% (Supracide 40 EC).
b. Mọt đục cành (Xyleborus mortati):
Phá hại chủ yếu trong thời kỳ kiến thiết cơ bản sang thời kỳ kinh doanh.
Phòng trị: Phát hiện cắt bỏ kịp thời, gom đốt những cành bị mọt.
c. Sâu đục vỏ trái (Prays endolemma)
Thường tấn công trái non làm rụng trái hay tạo các ụ lớn trên vỏ trái làm trái
bị biến dạng, giảm giá trị sản phẩm.
Phòng trị: Cần theo dõi thu gom các trái rụng đem chôn để trừ ấu trùng đang
phát triển trong vỏ trái.
d. Mọt đục trái (Stephanoderes lampei)
Đục từ núm quả vào trong sau đó phá hạt. Dùng các loại thuốc để trừ như:
Phun Fenvalerate 92% (First 20EC), Etofenprox 96% (Trebon), Lambda-
cyhalothrin (Karate) vào giai đoạn quả chuyển từ xanh sang chín.
Ngoài ra còn bị một số bệnh khác do thiếu dinh dưỡng được gọi là bệnh sinh
lý như bệnh vàng lá do thiếu lưu huỳnh (S), bệnh rụt cổ do thiếu kẽm (Zn)…
e. Sâu đục thân thường gọi là Bore (Xylotrechus quadripe).
Chỉ tác hại trên giống cà phê chè ở tuổi cây thường từ cuối năm thứ 3 trở đi.
Sâu đẻ trứng vào kẻ nút của vỏ sau đó sâu non vào phá hoại phần gỗ bên trong thân
cây là cho cây héo rồi chết. Loại sâu này khả năng xuất hiện quanh năm nhưng tập
trung đẻ trứng rộ vào hai thời kỳ xuân, hè (tháng 3,4,5) và thu đông (tháng 10,11).
Trồng cây bóng mát cho cà phê để hận chế sự tác hại của sâu. Dùng Boremun
4% phun phủ kín lên thân cây từ ngọn đến gốc 1 năm 2 lần để diệt trừ trứng, sâu
non và sâu trưởng thành vào tháng 3-4 (xuân – hè) và tháng 10-11 (vụ thu đông).
Những cây bị sâu nặng phải kịp thời cưa cắt kịp thời để kịp thời diệt nguồn sâu
89
trưởng thành.
VI. Thu hoạch và bảo quản chế biến
1. Thu hoạch:
Khi thu hoạch chỉ nên hái trái cà phê vừa chín vì những trái cà phê quá chín
hoặc xanh là nguyên nhân làm cho cà phê mất mùi vị ngon. Ngoài ra nó còn tạo
điều kiện cho nấm mốc và độc tố phát triển.
Cà phê thu hoạch ngày nào, chế biến ngay ngày đó, không nên ủ quá 24 giờ,
làm giảm chất lượng.
2. Chế biến: Có 2 phương pháp:
Chế biến ướt: Xát tươi loại bỏ phần vỏ, thịt, sau đó lên men hay xát bỏ phần
nhớt bám xung quanh vỏ trấu, ngâm rửa rồi đem phơi.
Chế biến khô: Sau khi thu hoạch đem phơi cả quả, không qua khâu xát tươi.
Cà phê được phơi trên nền ximăng, trên tấm vải nhựa. Phơi từng lớp mỏng (không
dày quá 3-4cm) và đảo qua lại thường xuyên.
3. Bảo quản sau thu hoạch:
Chỉ đưa vào bảo quản trong kho khi độ ẩm trong hạt không quá 12,5% để cà
phê không bị lên men mốc, không bị mất mùi, không để trực tiếp trên nền đất.
Dùng bao tải sạch để bảo quản cà phê, trong nhà kho có thông gió tốt và đề
phòng nước dột, không để cà phê sát tường. Không dùng bao nhựa để chứa cà phê,
chứa cà phê trong bao không quá đầy