Upload
pvdai
View
43
Download
1
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011Ứng dụng tọa độ Plücker xem xét cấu hình đặc biệt của cơ cấu song song Applying Plücker Coordinates taking into account Singularities of Parallel MechanismsNguyễn Minh Thạnh, Trần Công Tuấn1, Nguyễn Ngọc Lâm2, Nguyễn Minh Thi3, Phan Văn Đức Trường ĐH Giao thông Vận tải TP.HCM, 1)Trường Cao đẳng nghề CNTT iSPACE, 2) Viện nghiên cứu Điện tử, Tin học và Tự động hóa, 3)Trường Cao đẳng nghề TP. HCM e-Mail: [email protected], tuantc@is
Citation preview
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Ứng dụng tọa độ Plücker xem xét cấu hình đặc biệt của cơ cấu song song
Applying Plücker Coordinates taking into account Singularities of Parallel
Mechanisms
Nguyễn Minh Thạnh, Trần Công Tuấn1, Nguyễn Ngọc Lâm
2,
Nguyễn Minh Thi3, Phan Văn Đức
Trường ĐH Giao thông Vận tải TP.HCM, 1)
Trường Cao đẳng nghề CNTT iSPACE, 2)
Viện nghiên cứu Điện tử, Tin học và Tự động hóa, 3)Trường Cao đẳng nghề TP. HCM
e-Mail: [email protected], [email protected],
[email protected], [email protected], [email protected]
Tóm tắt Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu các vấn đề về
cấu hình đặc biệt và khả năng tải của tay máy song
song với các chân dẫn động phụ phân bố ngoài không
gian làm việc, trong đó sử dụng phương pháp lý
thuyết vít và dùng toạ độ Plücker.
Bài báo cũng đề xuất các thuật toán xác định mô hình
cho cơ cấu này trên cơ sở lý thuyết vít, xác định được
sự ảnh hưởng của chuẩn số gần tiến tới các cấu hình
đặc biệt và ảnh hưởng căn bản tới kết quả mô hình
hóa cũng như khả năng chịu tải của cơ cấu song song.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy việc áp dụng lý
thuyết vít và dùng toạ độ Plücker vào bài toán tay
máy song song là rất hiệu quả, đặc biệt trong xét các
cấu hình đặc biệt, cũng như khả năng chịu tải.
Abstract:
The research results on issues singularities
configurations and load capacity of the parallel
mechanism with actuators located outside the
workspace, which uses screw theory and used Plücker
coordinates are presented.
The algorithms to determine the model of mechanism
take into account configuration singularities based on
screw theory are proposed, the criterion of closeness
to singularity is determined, the basic impact
modeling results as well as load capacity of parallel
mechanisms.
The research results show that the application of
screw theory and used Plücker coordinates parallel
mechanisms problem is very effective, especially in
consideration of singularities configurations, as well
as load capacity.
1. Phần mở đầu Trong những năm gần đây, cơ cấu có cấu trúc song
song (cơ cấu song song) dành được sự quan tâm lớn
của cộng đồng Robotics. Chúng cũng được ứng dụng
ngày càng nhiều trong các lĩnh vực: máy công cụ, tổ
hợp cảng, mô phỏng bay, các công cụ định vị có tải
trọng lớn, độ chính xác cao. Giải bài toán về cơ cấu
song song có một vai trò đặc biệt, cho phép nâng cao
hiệu quả hoạt động của các thiết bị kỹ thuật mà nó
tham gia, đặc biệt là những vấn đề về khả năng tải
trọng và độ chính xác.
Đã có nhiều công trình được công bố quốc tế [10-13]
giới thiệu các kết quả nghiên cứu về cơ cấu song
song. Trong đó, nhiều phương pháp tính toán tối ưu
và điều khiển được áp dụng như các phương pháp mô
hình hoá sử dụng tập hợp tối ưu Pareto, thuật toán di
truyền, lý thuyết điều điều khiển hiện đại và điều
khiển thông minh, ... Tuy nhiên, do tiềm năng của lĩnh
vực này rất rộng lớn với hướng nghiên cứu mở và còn
nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
Về tính đặc biệt của cơ cấu song song cũng được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu và công bố [14-28],
trong đó việc xem xét ảnh hưởng của các vị trí đặc
biệt lên đặc trưng của vùng làm việc là hết sức quan
trọng.
Đối với mô hình cơ cấu song song có các dẫn động
được bố trí ngoài vùng làm việc, việc nỗ lực thiết lập
các chuỗi động học của chúng cũng đóng một vai trò
quan trọng cho các thiết bị hoạt động trong môi
trường ăn mòn, hoặc thiết bị dùng dưới nước. Do đặc
điểm ràng buộc về mặt hình học và kết cấu vật lý của
các chuỗi động liên kết của cơ cấu song song làm hạn
chế các thông số của vùng làm việc, cũng như yêu cầu
về khả năng tải và các đặc tính sẳn của nó có thể làm
suy giảm cạnh cấu hình đặc biệt (cấu hình suy biến).
Bài báo này trình bày cách giải quyết các vấn đề nêu
trên khi sử dụng lý thuyết vít và dùng toạ độ Plücker.
Tuy lý thuyết này đã có từ lâu và đã có nhiều nhà
khoa học nghiên cứu ý tưởng của Plücker để đưa vào
giải quyết các vấn đề của mình [2-7].
Việc xây dựng các thuật toán và chương trình tự động
hoá thiết kế các cơ cấu song song có tính đến các đặc
điểm như không gian làm việc, khả năng tải, sự triệt
tiêu từ các cấu hình suy biến trên cơ sở lý thuyết vít
có thể đưa ra một cách giải quyết mới vấn đề đã nêu..
Từ các kết quả trên, có thể giải quyết một các kịp thời
và cấp thiết việc thiết lập hệ thống tự động hoá thiết
kế các cơ cấu song song có các dẫn động được phân
bố ngoài không gian làm việc [29].
2. Các khái niệm cơ bản tọa độ Plücker Trong phần này chúng ta xem xét các khái niệm cơ
bản của tọa độ Plücker (Plücker’s coordinates),
227
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
phương trình của Plücker đường (Plücker’s line), và
Plücker phức hợp tuyến tính (Plücker’s linear
complex) được đưa ra bởi Plücker [1]. Nó được ứng
dụng trong các phức hợp tuyến tính, cho phép ta biểu
diễn trường véc tơ trong chuyển động vít và làm sáng
tỏ về mặt hình học của phương trình mặt lưới và quá
trình kết hợp hai tham số.
2.1 Plücker đường
Một đường thẳng trong không gian được xác định bởi
một vector vị trí ro tại một điểm Mo của một đường
thẳng và một vector hướng song song với đường
thẳng (xem hình H.1). Các thông số thể hiện hướng
của một đường thẳng là:
;( 0),o o or r M M r a A (1)
Đường thẳng được định hướng tương ứng với ký hiệu
của thừa số vô hướng .
H. 1 Biểu diễn một đường thẳng
Nếu đường thẳng được giả định rằng một đi qua điểm
Mo, thì mômen của đường thẳng định hướng đối với
gốc O được xác định như sau:
a om r a (2)
Dễ dàng kiểm tra được rằng
o o ar a r a a r a m (3)
0am a r a a (4)
Từ đó, phương trình
, 0a o am r a r a m a (5)
thỏa mãn cho bất kỳ điểm tồn tại trên đường thẳng.
Những phương trình này xác định một đường thẳng
và được gọi là các phương trình Plücker của một
đường thẳng (Plücker đường) . Vì vậy, sáu tọa độ
((ax, ay, az), (mx, my, mz)) được gọi là tọa độ Plücker.
Chỉ có bốn trong số các tọa độ đó là độc lập tuyến
tính khi 0am a và có một thừa số chung vô
hướng. Cụ thể, chúng tôi có thể biểu diễn /oa a a
và *
a om r a thay cho điểm a và đường thẳng ma.
1.2 Plücker phức hợp tuyến tính của một đường
thẳng nằm trên mặt phẳng
Một mặt phẳng có thể được xác định bằng cách: (a)
một điểm Mo nằm trong mặt phẳng và (b) một véc tơ
pháp tuyến N đến mặt phẳng (xem hình H.2).
Một đường thẳng nằm trong mặt phẳng P được biểu
diễn:
, ( 0), 0or r a N a (6)
H. 2 Biểu diễn một đường thẳng trong một mặt phẳng
Từ phương trình (6)
( ) 0oN r r (7)
và mặt phẳng có thể biểu diễn bởi phương trình:
N r d (8)
Bây giờ chúng ta xem xét một đường thẳng (g, mg),
đường thẳng này nằm trong cùng một mặt phẳng nếu
các phương trình sau đây được thỏa mãn theo [8]:
gN g m d g g (9)
Dùng phép biến đổi trực tiếp phương trình (9), ta thu
được:
( )
( ) ( )
( ) ( )
gN g m N g r g
N r g g g N g
N r g g d g g
(10)
Khi g nằm trong mặt phẳng thì 0 gN
Tiếp theo, xét đường thẳng (a, ma) và (g, mg), chúng
ta có thể kiểm tra được rằng các cặp của đường thẳng
có thể giao nhau từng đôi một hoặc chúng song song
nếu các phương trình sau đây thỏa:
0g aa m m g (11)
Để minh chứng những vấn đề này được dựa trên
những điều sau đây:
(a) Dùng phép biến đổi trực tiếp phương trình (11), ta
thu được:
( ) 0g a a g
a r g r a g r r a g (12)
(b) Phương trình (12) thỏa mãn khi:
0, 0a gr r a g , có nghĩa là các đường thẳng có
một điểm chung.
, 0a gr r a g , có nghĩa là có hai đường thẳng
song song với nhau.
Phương trình (11) thể hiện Plücker phức hợp tuyến
tính của tất cả các đường thẳng (g, mg) được xác định
bởi một vector a và cặp (a, ma).
Đường thẳng (g, mg) có sáu tọa độ Plücker (gx , gy , gz,
mgx , mgy , mgz), nhưng chỉ có ba là độc lập tuyến tính
bởi vì một đường thẳng chỉ có bốn tọa độ Plücker độc
lập tuyến tính và có thêm một mối quan hệ giữa các
tọa độ được cho bởi bởi phương trình (11).
x
z
y
O
N
g
MoM
xa
z
y
M
oM
r
or
O
228
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
3. Các đặc điểm của cơ cấu song song có
các dẫn động nằm ngoài vùng làm việc 3.1 Đề xuất cơ cấu song song
Có nhiều cơ cấu song song với cấu trúc khác nhau có
thể mang lại vùng làm việc, vận tốc, khả năng tải cao
hơn cũng như đáp ứng môi trường làm việc nguy hại
khác với cơ cấu Stewart Platform (Hexapod). Cơ cấu
song song mà chúng tôi đề xuất trong nghiên cứu này
là một cơ cấu có các dẫn động được phân bố ngoài
vùng làm việc (xem hình H.3). Cơ cấu này có những
ưu điểm là có thể đáp ứng được điều kiện ứng dụng
khắc nghiệt của một thiết bị hoạt động trong môi
trường ăn mòn, hoặc thiết bị dùng dưới nước.
H. 3 Cơ cấu song song với bốn chuỗi động
Loại cơ cấu được lựa chọn này nhìn tổng quát thì có
thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện cho mục tiêu ứng
dụng, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế. Một mặt, với
bốn chuỗi động nó đảm bảo độ cứng vững cao hơn,
khả năng tải và vận tốc cao hơn so với cơ cấu có ba
chuỗi động. Tuy nhiên, sự hiện diện bốn chuỗi động
có thể sẽ thu hẹp thể tích làm việc bởi một khâu nào
đó trong số chúng cản trở chuyển động tương hỗ của
các khâu khác.
Cấu trúc hình học của cơ cấu song song với bốn chuỗi
động và với các chuỗi động được thiết kế bằng cách
tạo các dẫn động bố trí ngoài vùng làm việc, đồng
thời khớp động được bố trí tại các điểm В1, …, В4 cho
phép chuyển dịch tuyến tính của các chân đối với nền,
ngoài ra, chúng còn thực hiện chuyển vị góc. Các
khớp động А1, …, А4 được bố trí ở khâu ra (tấm dịch
chuyển). Ngoài ra các khâu được bố trí giữa các điểm
А5 và В5, А6 và В6, đảm bảo cho hệ thống có số bậc tự
do mong muốn.
Vị trí tương hỗ của khâu ra so với nền được xác định
nhờ sự tồn tại của một ma trận biến đổi (4x4), ma trận
này mô tả ba chuyển động tịnh tiến và ba chuyển
được quay. Tọa độ tâm của các điểm ở các khớp của
khâu ra cũng được xác định trong hệ tọa độ di chuyển.
Ngoài ra, toạ độ của các điểm này cũng được xác định
trong hệ tọa độ cố định. Khoảng cách giữa các điểm
từ Ai đến Bi (i = 1,…, 4) được xác định là tọa độ suy
rộng. Đối với chuỗi động 5 và 6 bài toán được giải
quyết tương tự, chỉ có khác biệt là những điểm cố
định phía trên của dẫn động được bố trí trên chuỗi
động 1 và 4.
Chuyển động tuyến tính của các dẫn động được tạo ra
bằng cách dùng động cơ tuyến tính (linear motor)
hoặc động cơ quay kết hợp với bộ biến đổi chuyển
động quay thành chuyển động tịnh tiến (ví dụ: cơ cấu
bánh vít – trục vít hoặc bánh răng – thanh răng. Trong
trường hợp mất điện cơ cấu bánh vít – trục vít sẽ được
giữ nguyên vị trí. Cơ cấu bánh răng – thanh răng thì
có hiệu quả và phù hợp hơn cho các ứng dụng đòi hỏi
tốc độ cao).
3.2 Lựa chọn khớp động cho cơ cấu
Để có đủ số bậc tự do như mong muốn chuyển động
khâu ra trong không gian, người thiết kế phải tạo ra
một loại cơ cấu song song với các khớp nối giữa các
khâu của các dẫn động với tấm dịch chuyển.
Khi các dẫn động được gắn cố định, cơ cấu sẽ có bậc
tự do là zero, hay nói cách khác, tấm dịch chuyển sẽ
được cố định tại một vị trí.
Theo [9], số bậc tự do của cơ cấu được tính như sau:
1
( 1)j
i d
i
w l j f I
(13)
trong đó là bậc tự do trong không gian ( = 6); l là
số khâu của cơ cấu; j: số khớp của cơ cấu; fi: số bậc tự
do của khớp thứ i; Id: số bậc tự do thừa của cơ cấu.
Giả sử cả hai đầu mỗi một khâu được gắn với các
khớp cầu có một bậc tự do thừa, trong trường hợp
này, chúng ta cần phải xem xét đến bậc tự do thụ
động Id.
Xét cơ cấu song song có n khâu, các dẫn động được
gắn cố định. Khi đó, = 6, l = n + 1 + 1 (sáu khâu,
tấm dịch chuyển và bệ), j = 2·n (số khớp trong cơ
cấu). Vì tất cả các khớp đều là khớp cầu, nên fi = 3
(mỗi khớp có 3 bậc tự do). Mỗi khâu được gắn với hai
khớp cầu, Id = n bậc tự do thụ động. Từ (13), số bậc
tự do của cơ cấu sẽ được tính:
w = 6(n+1+1-2·n-1) + 2·n·3 – n = 6–n (14)
Tiếp theo, nếu chúng ta dùng khớp Các-đăng và khớp
lăng trụ dọc trên trục mỗi khâu, thay vì dùng các khớp
cầu như trên. Ta có, = 6, l = n + 1 + 1 = 8, j = 3·n.
Khi đó, cơ cấu sẽ có 12 khớp Các-đăng với 2 bậc tự
do cho mỗi khớp (fi = 2, với i = 1,…, 2n) và 6 khớp
lăng trụ với một bậc tự do cho mỗi khớp (fi = 1, với I
= 2n+1,..., 3n), và Id = 0. Trong trường hợp này, theo
(13) số bậc tự do của cơ cấu sẽ được tính:
w = 6(2·n+1+1-3·n-1)+2·n·2+n·1= 6-n (15)
Từ phương trình (14), (15) ta thấy cơ cấu sẽ được
định vị một cách vững chắc nếu có n = 6 khâu, khi đó
bậc tự do của tấm dịch chuyển sẽ là zero.
4. Tác động tương hỗ của chuỗi động và
khâu ra Sự tồn tại của các cấu hình đặc biệt (cấu hình kỳ dị,
cấu hình suy biến) có thể ảnh hưởng một cách căn bản
đến các chức năng làm việc của cơ cấu song song.
Trong các cấu hình đặc biệt, hệ thống vít lực đặc
trưng sự tác động tương hỗ giữa các chuỗi động và
khâu ra bị suy biến. Việc tìm thấy vít động – gradien
y z
x
O
A1
A2
A3
B1
B3
B2
A5
B5
A4
B4
A6
B6
229
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
đưa hệ thống tới gần cấu hình đặc biệt. chính vì thế,
phân tích bài toán xác định vít động đưa cơ cấu ra
khỏi vị trí đặc biệt là cần thiết.
Chúng ta tiến hành xác định các vít lực biểu diễn sự
tác động tương hỗ của chuỗi động và khâu ra.
H. 4 Một chuỗi động phụ
Xem xét một chuỗi động phụ thứ i (xem hình H.4),
dẫn động của chuyển vị tuyến tính được bố trí dưới
góc gần thanh nối. Trong trường hợp tổng quát khi
dẫn động bị hãm trục của vít lực thuộc mặt phẳng
được đặc trưng bởi các đoạn AiBj và BjCj đi qua Cj và
hướng thẳng góc với phương chuyển vị có thể của Cj,
được xác định bằng phép quay của Bj xung quanh tâm
khớp cầu của Ai. Khi xem xét sự chuyển động có thể
của Cj trong mặt phẳng được đặc trưng bởi các đoạn
AiBj và BjCj thì ta sẽ tìm thấy tâm vận tốc tức thời của
chuỗi động BjCj tại Fi. Chuyển dịch có thể của Cj ở
khâu ra thẳng góc với đoạn FiCj, cho nên trục thẳng
được định ra bởi đoạn này là trục của vít lực cần phải
tìm.
Vétơ của vít lực:
* **
i i ip p p
/ / / . /i j j j j i j j j
AC s d l f l d AC DC d DC (16)
trong đó pi là véc tơ vít lực thứ i; pi*, pi** là các hình
chiếu của véc tơ pi song song và thẳng góc với véc tơ
BCj; ACi, DCj là các véc tơ được sắp xếp giữa các
điểm Ai và Cj, Dj và Cj tương ứng; sj, dj, fj là chiều dài
các vétơ BCj, DCj, BDj; (với j=1 và i=1, 2, 3; j=2 và
i=4, 5; j=3 và i=6).
Véc tơ vít lực thứ i:
/i i i
r p p (17)
Mômen vít lực ri0 sẽ bằng tích vétơ:
0
ji C ir r (18)
trong đó ri0 là mômen vít lực thứ i;
jC là bán kính
véc tơ của Сj ở khâu ra.
5. Ảnh hưởng của cấu hình đặc biệt lên
các thông số của vùng làm việc
Ảnh hưởng của cấu hình đặc biệt lên các thông số
vùng làm việc của cơ cấu song song là một vấn đề rất
quan trọng cần được xem xét. Ta cần phải định ra các
cơ sở để xác định cấu hình đặc biệt. Ở đây, chúng ta
có thể xem xét giá trị tiêu chuẩn (chuẩn số) hoạt động
đối với tọa độ trục các dẫn động tuyến tính của cơ
cấu. Đồng thời phải xem xét các ma trận được thiết
lập từ tọa đã nêu, toạ độ này được xác định là tọa độ
Plücker, được tìm trên cơ sở lý thuyết vít.
Khi tay máy di chuyển đến cấu hình đặc biệt, tay máy
sẽ mất điều khiển, gây ảnh hưởng xấu đến các chức
năng của các hệ thống. Vì thế rất cần phải phân tích và
tìm cách xác định sự tồn tại của các cấu hình đặc biệt
ảnh hưởng đến các thông số của không gian làm việc.
Việc tìm các giới hạn của các giá trị chuẩn số có thể
cần được xem xét.
Các thông số của cơ cấu song song (xem hình H.3):
Bi, Ai là các điểm kẹt chặt ở trên nền và khâu ra. si
(sxi, syi, szi), ri(rxi, ryi, rzi) là các vectơ xác định giữa
gốc tọa độ O đến các đến điểm được đề cập Bi, Ai (si
là hằng số).
Vít lực tác động lên khâu ra được định vị dọc trục trên
các chuỗi động với Ei=ei+eoi, (i=1,…,6), ở đây Ei
là được biết đến như là tọa độ Plücker, là các hệ số
Clifford, 2=0 (đối với một véc tơ, eie
oi=0). Các tọa
độ của véc tơ ei được thể hiện thông qua tọa độ của
các điểm: (xBi–xAi)/Li, (yBi –yAi)/Li, (zBi –zAi)/Li, ở
đây xAi, yAi, zAi, xBi, yBi, zBi là tọa độ của điểm Ai và
Bi.
Chúng ta hãy xem xét định thức của ma trận (T) (ký
hiệu det(T)) được tạo từ các tọa độ Plücker của các vít
đơn vị Ei, (i = 1,…,6) các trục của vít lực tác động từ
các chuỗi động học đến khâu ra. Ma trận của Plücker
được biễu diễn:
1 1 1 1 1 1
2 2 2 2 2 2
6 6 6 6 6 6
. . . . . .( )
. . . . . .
. . . . . .
o o o
x y z x y z
o o o
x y z x y z
o o o
x y z x y z
e e e
e e e e
e e e e e e
e e e
e e
T
(19)
Cấu hình của cơ cấu song song là đặc biệt khi định
thức của ma trận (T) tiến đến zero, nghĩa là:
det(T) = 0 (20)
Cấu hình đặc biệt sẽ được tìm thấy nếu tất cả các
véctơ trên trục của các dẫn động là phụ thuộc tuyến
tính.
Ví dụ, chúng ta thiết lập thuật toán ban đầu, với các
tọa độ tham số của các điểm Bi (i = 1,…,6) trong hệ
tọa độ tương ứng với nền là (m): 1.5
0
0
1
0
1.5
0
1
0
1.5
0
1
1.5
0
0
1
1.5
1.5
0
1
1.5
1.5
0
1
abi
abi*
Bj
abi**
Dj Ai
pi ri pi
*
pi**
Fi Cj
230
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Tọa độ tham số của các điểm Ai (i = 1,…,6) trong hệ
tọa độ tương ứng với khâu ra có giá trị (ở đây cột 5 và
6 tương ứng với cột 1 và 4) (m): 0.8
0
0
1
0
1
0
1
0
0.8
0
1
1
0
0
1
0.8
0
0
1
1
0
0
1
Tọa độ Plücker của các trục được tìm thấy dựa trên
bài toán động học ngược và được xác định bởi ma
trận (T):
T
1
0
0
0
0
0
0
1
0
0
0
0
0
1
0
0
0
0
1
0
0
0
0
0
0.423
0.906
0
0
0
0.725
0.316
0.949
0
0
0
0.949
Định thức của ma trận (T) ở trên là bằng zero:
det(T)=0. Như vậy cấu hình đặc biệt của cơ cấu đã
được tìm thấy.
Bây giờ ta xét đến ảnh hưởng của cấu hình đặc biệt lên
vùng làm việc của cơ cấu song song đề xuất. Vùng làm
việc của cơ cấu được giới hạn khoảng dịch chuyển của
các dẫn động, nghĩa là giới hạn dịch chuyển của tọa độ
suy rộng. Ở đây cần quan tâm đến mối liên hệ giữa
giới hạn của tọa độ suy rộng và tọa độ tuyệt đối trong
không gian tham số. Trong trường hợp này chúng ta
giải bài toán và kiểm tra giới hạn trong tọa độ suy
rộng, cũng như giới hạn cấu trúc cơ cấu.
Để minh chứng các giá trị chuẩn số suy biến có ảnh
hưởng đến các thông số của vùng làm việc, ta tiến
hành kiểm tra giá trị của chuẩn số với
|det(T)|0.000001. Vùng làm việc của cơ cấu song
song với góc hướng thay đổi trong trường hợp giới hạn
của tọa độ suy rộng cho trước là 2.5 ≤ li ≤ 4.5(m) đối
với chuỗi động 1, 2, 3, 4 (i=1,…,4) và 0.8 ≤ li ≤ 2.2(m)
đối với chuỗi động 5 và 6 (i=5, 6). Giá trị đầu và cuối
của tọa độ tuyệt đối x và y thay đổi trong phạm vi từ –
3.5 đến 3.5(m) và tọa độ tuyệt đối z là từ 0 đến 3(m).
Góc hướng khâu ra thay đổi từ π/6 đến -π/6. Số bước
quét trong không gian tham số đối với x, y là 5 và đối
với z, α, β, γ là 4. Kết quả vùng làm việc của cơ cấu:
workspace
0 1 2 3 4 5 6 7 8
6394
6395
6396
6397
6398
6399
3.5 3.5 3 0 0.524 0.175 0.175 961 27
3.5 3.5 3 0 0.524 0.175 0.524 961 27
3.5 3.5 3 0 0.524 0.524 -0.524 961 27
3.5 3.5 3 0 0.524 0.524 -0.175 961 27
3.5 3.5 3 0 0.524 0.524 0.175 961 27
3.5 3.5 3 0 0.524 0.524 0.524 961 27
Quan sát vào kết quả trên ta thấy cấu hình đạt được là
961 và vị trí tâm khâu ra đạt được là 27. Vị trí tâm
khâu ra thể hiện trong vùng làm việc được trình bày
trên hình H. 5.
Tiếp theo, ta lần lượt xét giá trị của các chuẩn số suy
biến ảnh hưởng đến vùng làm việc của cơ cấu thể hiện
qua số cấu hình cơ cấu và vị trí của tâm khâu ra đạt
được. Kết quả đạt được thể hiện trên Bảng 1.
X Y Z( ) H. 5 Vị trí của tâm khâu ra
Bảng 1. Kết quả khảo sát các giá trị của chuẩn số suy biến
|det(T)| Cấu hình Tâm khâu ra
0.00001 961 27
0.0001 956 27
0.001 883 27
0.01 497 21
0.1 0 0
Quan sát trên Bảng 1. chúng ta có thể tìm thấy giới
hạn các giá trị chuẩn số xác định cấu hình đặc biệt của
cơ cấu song song, từ đó chúng ta có thể điều khiển tay
máy song song ra khỏi cấu hình đặc biệt tồn tại trong
vùng làm việc của chúng.
6. Khả năng chịu tải của cơ cấu Khả năng chịu tải của cơ cấu song song có thể được
xác định trên cơ sở giá trị trung bình của cấu hình có
thể và vị trí tâm khâu ra ở thời điểm tức thời. Đây
cũng có thể là một chuẩn số mà chúng ta cần xem xét,
vì nó phản ánh được khả năng chịu tải của cơ cấu.
Chuẩn số đó là giá trị định thức được lập ra từ tọa độ
của các dẫn động. Giả sử có một lực tác động lên tấm
dịch chuyển, mà nó có thể biểu diễn dưới dạng một
véctơ sáu chiều, hoặc vít lực được đặc trưng bởi véctơ
lực và véctơ mômen:
(R) = (F,M) (21)
Lực này có thể phân chia ra các lực thành phần trong
từng dẫn động. Để có được điều đó, cần có một ma
trận (T) được lập ra từ tọa độ các dẫn động:
(R) = (T)(f) (22)
trong đó (f) là véc tơ lực trong các dẫn động, có hệ
thức:
(f) = (Т)-1
(R) (26)
trong đó (Т)-1
là ma trận nghịch đảo.
Từ hệ thức trên, rõ ràng rằng các lực trong các dẫn
động đạt được giá trị vô cùng trong các cấu hình suy
biến khi định thức ma trận |det(T)| = 0. Định thức
càng lớn thì lực cần có trong các dẫn động càng nhỏ
và khả năng tải trọng càng lớn. Chính vì thế hệ thức
trên có thể được tiếp nhận như chuẩn số khả năng tải
trọng.
Chúng ta đi tìm biểu thức biểu diễn cho độ cứng và sự
biến dạng của cơ cấu. Để có hệ thức của chuyển vị
đàn hồi trong các dẫn động thì cần phải tăng lực trên
ma trận tính để biến dạng (С)-1
:
231
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
(q) = (C)-1
(f) (27)
trong đó (C)-1
là ma trận chéo, vì vậy:
(C)-1
= (1/C) (28)
Sự chuyển dịch trong các dẫn động lúc này có thể
được biểu thị qua lực tác động lên tâm dịch chuyển:
(q) = (C)-1
(f) = (C)-1
(Т)-1
(R) (29)
Tiếp theo ta có thể tìm thấy sự chuyển dịch của tấm
dịch chuyển bao gồm hai thành phần: chuyển vị tuyến
tính và chuyển vị góc.
(W) = (r,φ) = (Т)-1
(q) = (Т)-1
(C)-1
(Т)-1
(R) (30)
Từ đó ma trận biến dạng được tìm thấy: (G)-1
= (Т)-
1(C)
-1(Т)
-1, trong ma trận này cũng có sự hiện diện của
tọa độ trục các dẫn động. Ma trận độ cứng sẽ là:
(G) = (Т)(C)(Т) (31)
Từ những điều trên đây có thể đưa ra kết luận rằng ma
trận (T), cũng như định thức của nó có thể là hệ số
khả năng tải trọng và độ cứng cơ cấu song song.
7. Kết luận Nghiên cứu những khái niệm cơ bản của lý thuyết vít
và dùng toạ độ Plücker, ứng dụng chúng để giải quyết
một số vấn đề cho cơ cấu song song có các dẫn động
phân bố ngoài vùng làm việc đã cho một số kết quả cơ
bản sau:
Các thuật toán được đề xuất trên cơ sở lý thuyết vít
cho phép xác định mô hình cơ cấu song song có các
dẫn động được bố trí ngoài vùng làm việc có tính đến
các cấu hình đặc biệt .
Trên cơ sở các thuật toán đã đưa ra, việc xác định
được sự ảnh hưởng của chuẩn số gần tiến tới các cấu
hình đặc biệt đã được thực hiện. Hệ thức được lập từ
tọa độ các trục dẫn động tuyến tính của cơ cấu song
song có thể sử dụng một các hiệu quả cả khi mô hình
hóa. Giá trị của chuẩn số tiến gần đến các cấu hình
đặc biệt ảnh hưởng căn bản tới kết quả mô hình hóa
cũng như khả năng chịu tải của cơ cấu song song.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy việc áp dụng lý
thuyết vít và dùng toạ độ Plücker vào bài toán tay
máy song song là rất hiệu quả, đặc biệt trong xét các
cấu hình đặc biệt và khả năng chịu tải.
Tài liệu tham khảo [1] Plücker J., On a New Geometry of Space,
Philosophical Transactions of the Royal Society,
Vol. 155, pp. 725–791, 1865.
[2] Ball, R., A Treatise on the Theory of Screws,
Cambridge at the University Press, 1900.
[3] Klein F., Elementary Mathematics From an
Advanced Standpoint, Dover Publications, New
York, 1939.
[4] Bottema O., Roth B., Theoretical Kinematics,
North-Holland Publishing Co. 1979.
[5] Karger, A., Novak, J., Space Kinematics and Lie
Groups, Gordon and Breach Science Publishers,
New York. ISBN 2-88124-023-2, 1978.
[6] F. Dimentberg, The Screw Calculus and its
Applications in Mechanics, Nauka, 1965
(English translation: AD680993, Clearinghouse
for Federal Technical and Scientific
Information, Virginia).
[7] Lipkin, H., Geometry and Mappings of screws
with applications to the hybrid control of
robotic manipulators, PhD thesis, University of
Florida, 1985.
[8] Merkin D.R., Algebra of Free and Sliding
Vectors”, Fizmatgis, 1962 (in Russian).
[9] Yang D.C.H., Lee T.W., Feasibility Study of a
Platform Type of Robotic Manipulators from a
Kinematic Viewpoint. Journal of Mechanisms,
Transmissions, and Automation in Design, June
1984, Vol 106, 191-198.
[10] J. Angeles, The Qualitative Synthesis of the
parallel Manipulators, Journal of Mechanical
Design. Vol. 126, 2004, pp. 617-624.
[11] J.-P. Merlet, Parallel Robots, Kluwer Academic
Publishers, 2006, 394p.
[12] M. Ceccarelli, Fundamentals of Mechanics of
Robotic Manipulation, Kluwer Academic
Publishers, 2004, 310p.
[13] V. Parenti-Castelli, C. Innocenti, Direct
Displacement Analysis for Some Classes of
Spatial Parallel Mechanisms, Proceedings, VIII
CISM-IFToMM Symposium on Theory and
Practice of Robots and Manipulators, Cracow,
Poland, 1990, pp. 123-130.
[14] C. Gosselin, J. Angeles, Singularity Analysis of
Closed Loop Kinematic Chains, In IEEE Trans.
on Robotics and Automation, 1990, 6(3): 281-
290.
[15] H. Funabashi, Y. Takeda, Determination of
Singular Points and Their Vicinity in Parallel
Manipulators Based on the Transmission Index,
In Proceedings of the 9th World Congress on the
TMM, Milano, Italy, 1995, pp. 1977-1981.
[16] Y.N. Sarkissyan, T.F. Parikyan, Analysis of
Special Configurations of the parallel Topology
Manipulators, In: Eight CISM-IFMoMM Symp.
of Robots and Manipulators, Krakow, Poland,
1990, pp. 156-163.
[17] D. Zlatanov, R.G. Fenton, B. Benhabib,
Identification and Classification of the Singular
Configurations of the mechanisms, Mechanism
and Machine Theory, Vol. 33, 1998, No 6, pp.
743-760.
[18] A.F. Kraynev, V.A. Glazunov, Parallel
Structure Mechanisms in Robotics, In
MERO’91, Sympos. Nation. de Roboti Industr.,
Bucuresti, Romania, 1991, 1: 104-111.
[19] V.A. Glazunov, A.S. Koliskor, A.F. Kraynev,
Spatial Parallel Structure Mechanisms,
Moscow, Nauka, 1991, 96p. (in rus.).
[20] V.A Glazunov, A.F. Kraynev, G.V. Rashoyan,
A.N. Trifonova, Singular Zones of the parallel
Structure Mechanisms, In Proceeding of the
10th World Congress on TMM, Oulu, Finland,
1999, pp. 2710-2715.
232
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
[21] V.A. Glazunov, A.F. Krainev, G.V. Rashoyan,
A.N. Trifonova, and M.G. Esina, Modeling the
zones of singular positions of the parallel-
structure manipulators, Journal of Machinery
Manufacture and Reliability, Allerton Press Inc.,
2000, No. 2, pp. 85-91.
[22] V.A. Glazunov, Twists of Movements of the
parallel Mechanisms Inside Their Singularities,
In Mechanism and Machine Theory, 2006, 41:
1185-1195.
[23] Victor Glazunov, Roman Gruntovich, Alexey
Lastochkin, Nguyen Minh Thanh,
Representations of constraints imposed by
kinematic chains of parallel mechanisms, In
Proceedings of the 12th IFToMM World
Congress in Mechanism and Machine Science,
France, June 17-21, 2007, Vol. 1, pp. 380-385.
[24] Victor Glazunov, Nguyen Minh Thanh,
Determination of the parameters and the Twists
Inside Singularity of the parallel Manipulators
with Actuators Situated on the Base,
ROMANSY 17, Robot Design, Dynamics, and
Control. In Proceedings of the Seventeenth
CISM-IFToMM Symposium, Tokyo, Japan,
2008, pp. 467-474.
[25] Nguyen Minh Thanh, Victor Glazunov, Lu Nhat
Vinh, Nguyen Cong Mau, Parametrical
optimization of parallel mechanisms while
taking into account singularities, In ICARCV
2008 Proceedings, Hanoi, Vietnam, 2008,
International Conference on Control,
Automation, Robotics and Vision, IEEE 2008,
pp. 1872-1877.
[26] Nguyen Minh Thanh, Le Hoai Quoc, Victor
Glazunov, Constraints analysis, determination
twists inside singularity and parametrical
optimization of the parallel mechanisms by
means the theory of screws, In Proceedings of
the (CEE 2009) 6th International Conference on
Electrical Engineering, Computing Science and
Automatic Control, IEEE 2009, Toluca, Mexico,
2009, pp. 89-95.
[27] Victor Glazunov, Nguyen Ngoc Hue, Nguyen
Minh Thanh, Singular configuration analysis of
the parallel mechanisms, In Journal of
Machinery and Engineering Education, ISSN
1815-1051, No. 4, 2009, pp. 11-16.
[28] Nguyen Minh Thanh, Victor Glazunov, Lu Nhat
Vinh, Determination of Constraint Wrenches
and Design of Parallel Mechanisms. In CCE
2010 Proceedings, Tuxtla Gutiérrez, Mexico,
2010, International Conference on Electrical
Engineering, Computing Science and Automatic
Control, IEEE 2010, pp. 46-53.
[29] Nguyen Minh Thanh, Victor Glazunov, Tran
Cong Tuan, Nguyen Xuan Vinh, Multi-criteria
optimization of the parallel mechanism with
actuators located outside working space. In
ICARCV 2010 Proceedings, Singapore, 2010,
International Conference on Control,
Automation, Robotics and Vision, IEEE 2010,
pp. 1772-1778.
233