Upload
ngo-chi-tam
View
675
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
LỜI CẢM ƠN
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới toàn thể các thầy cô
trong khoa du lịch học trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn. §Æc
biÖt, em xin được gửi lời cảm ơn s©u s¾c nhÊt tíi Thạc sỹ Nguyễn
Quý Phương - ThÇy đã rÊt tận tình chỉ bảo và giúp đỡ, híng dÉn vµ
cung cÊp cho em nh÷ng ph¬ng ph¸p lµm viÖc cã hiÖu qu¶
nhÊt trong suốt qúa trình chuÈn bÞ, thùc hiÖn vµ hoµn thµnh
khoá luận tốt nghiệp nµy.
§ång thêi em xin cảm ơn tới gia ®×nh ®· lu«n lu«n bªn c¹nh
®éng viªn gióp ®ì em trong suèt kho¶ng thêi gian qua.
Cuối cùng t«i xin chân thành cảm ơn toµn thÓ c¸c bạn đã luôn
nhiÖt t×nh tham gia gióp ®ì t«i trong qu¸ tr×nh nghiªn cøu
vµ cïng t«i trao ®æi ý kiÕn ®Ó ®Ò tµi ®îc hoµn thiÖn.
Sinh viên: Trân trọng cảm ơn!
ĐỀ TÀI: Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy gi¸ trÞ v¨n
ho¸ truyÒn thèng d©n téc.
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Trong cuéc sèng hiÖn ®¹i ngµy nay, du lịch đã trở thành
một nhu cầu tất yếu của xã hội, không những là ngành kinh tế mũi nhọn của
các quốc gia mà còn là cầu nối giao lưu giữa các dân tộc, quốc gia và các
miền trong một đất nước. Bạn bè quốc tế trước đây biết đến Việt Nam là một
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
quốc gia phải trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh với các thế lực xâm lược
mạnh hơn gấp nhiều lần và họ đã anh hùng đánh bại các thế lực xâm lược
đó, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ non sông của đất nước. Bởi vậy, ngày nay, khi
kh¸ch du lịch đến Việt Nam hä thêng ngạc nhiên và tự hỏi không hiểu
vì sao những con người mãnh liệt, dũng cảm, lập nhiều kỳ tích trong chiến
tranh như vậy lại cuốn hút kh¸ch tham quan bởi sự hiền hậu, chân tình và
th©n thiÖn chứ không phải bằng những ánh hào quang của chiến thắng.
Có lẽ một phần câu trả lời đang ẩn mình trong tính cách và truyền thống của
người Việt, bởi trải qua hµng ngàn năm lịch sử, người Việt đã tạo dựng cho
mình một phong cách, một nền văn hoá, thuần phong, mỹ tục riêng. Đồng
thời du lịch còn tạo ra một sự trải nghiệm cho chính du khách, giúp họ nhìn
nhận lại những giá trị quý báu của dân tộc mà biết bao thế hệ, ngay cả chính
họ đã phải đổi bằng xương máu của mình để tạo dựng nên. Đối với thế hệ
trẻ thì du lịch là dịp để họ hiểu hơn về công lao của cha ông mình, đồng thời
cũng hiểu những giá trị nhân văn, giá trị truyền thống và thiên nhiên mà họ
đang được thừa hưởng. Du lịch ngày nay đã trở thành một hoạt động không
thể thiếu trong đời sống sinh hoạt xã hội, làm cho đời sống xã hội ngày một
phong phú hơn, lý thú và bổ ích hơn. Về phương diện kinh tế, du lịch đã trở
thành một ngành mũi nhọn, chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập kinh tế
quốc dân, không những vậy do đặc tính hoạt động, du lịch còn góp phần
không nhỏ trong phát triển kinh tế vùng chậm phát triển, đồng thời giúp xoá
đói, giảm nghèo ở những vùng sâu vùng xa.
Nhưng quan trọng hơn du lịch có vai trò to lớn trong việc bảo tồn và phát
huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Đặc biệt Việt Nam là một quốc gia
đa dân tộc, có một nền văn hoá lâu đời, phong phú, thống nhất mà đa dạng.
Với số dân gần 80 triệu người của 54 dân tộc an hem cùng đoàn kết chung
sống trên một vùng lãnh thổ, trải qua nhiều đời, mỗi dân tộc đã đóng góp,
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
dựng xây tạo nên những thành quả trên nhiều lĩnh vực: kinh tế- văn hoá- xã
hội, bên cạnh đó cũng hình thành nên những vùng văn hoá với nét đặc trưng
riêng. Đất nước Việt Nam, con người Việt Nam với các thành phần dân tộc,
qua hang ngàn năm xây đắp đã tạo dựng nên một kho tàng văn hoá hết sức
phong phú, độc đáo và quý giá. Xuyên suốt chặng đường lịch sử hình thành
và phát triển đất nước, các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt
Nam nói chung và 54 dân tộc anh em nói riêng là một di sản vô cùng quý
báu, một tài nguyên vô cùng quý giá trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nước. Trải qua những năm tháng chiến tranh chống xâm lược bảo vệ tổ
quốc, do một phần nhận thức của người dân còn thấp đặc biệt là sự quản lý,
phối hợp lỏng lẻo của các ngành các cấp nên nhiều vốn quý trong kho tang
văn hoá truyền thống các dân tộc đã bị mất mát và mai mộ. Nghị quyết 4 của
Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 8 về việc bảo tồn và phát huy giá trị
văn hoá truyền thống là định hướng quan trọng trong việc khôi phục lại
nguồn vốn quý của dân tộc. Nhiều công trình văn hoá nghệ thuật trên các
lĩnh vực văn hoá phi vật thể và vật thể được kiểm kê, trùng tu, tôn tạo
chống xuống cấp, sưu tầm bảo quản nghiên cứu giới thiệu, giao lưu để bảo
tồn trong cuộc sống và cho khách tham quan. Trong đó du lịch đóng vai trò
to lớn và đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống dân tộc. Bởi vậy nghiên cứu về du lịch sẽ góp phần quan trọng
trong việc nâng cao nhận thức và phương hướng phát triển ngành du lịch
Việt Nam. Tuy nhiên do điều kiện có hạn về không gian, thời gian và tư liệu
nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu “Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”. Đề tài sẽ cố gắng đi sâu phân tích vai trò
của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của một
số tài nguyên du lịch chọn mẫu, so sánh nhận thức thực tế, hoạt động của
các chương trình du lịch trong những năm 2004 – 2008 để phát huy vai trò
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
mà du lịch đã tiếp cận, những tiềm năng mà du lịch còn chưa được khai thác
để đáp ứng nhu cầu của khách nội địa và quốc tê.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài “ Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc” hướng tới giải quyết mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá, trong
đó những nhân tố truyền thống dân tộc cần được phát huy như một nền tảng
vững chắc giúp cho ngành du lịch đi đúng hướng và tiến tới phát triển du
lịch một cách bền vững. Đồng thời thong qua phân tích, so sánh em hy vọng
sẽ góp phần củng cố thong tin bổ ích về vai trò của du lịch với việc bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cho những người tham gia hoạt động du
lịch để họ có thể phát huy tác dụng của nó như một cách tối đa và có hiệu
quả nhất.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên tập trung vào nghiên cứu ngành du lịch Việt Nam để làm rõ
vai trò của nó đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đồng thời những nhận thức về bản sắc văn hoá dân tộc và những vấn đề có
lien quan cũng được nghiên cứu và làm rõ để làm sáng tỏ vấn đề.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu
- Phương pháp khảo sát thực địa
- Phương pháp tiếp cận hệ thống.
- Phương pháp trực quan, phương tiện thông tin đại chúng
4. Bố cục khoá luận
Gồm ba phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm:
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Chương 1: Những nhận thức về du lịch và bản sắc văn hoá truyền thống
dân tộc.
Chương 2: thực trạng vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc.
Chương 3: Một số giải pháp kiến nghị để phát huy vai trò của du lịch
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc.
Phần kết luận.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những nhận thức cơ bản về du lịch và văn hoá truyền thống
của dân tộc.
1.Những khái niệm cơ bản về du lịch:
Du lịch đối với nước ta là một ngành kinh tế mới mẻ. Từ sau khi đất
nước hoàn toàn giải phóng, ngành du lịch mới thực sự được đảng và Nhà
nước quan tâm. Đặc biệt từ đại hội lần VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
cùng với sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần, khu vực kinh tế, ngành du
lịch lần đầu tiên được nghị quyết của Đảng khẳng định là một ngành kinh tế
mũi nhọn. Muốn cho kinh tế du lịch phát triển đúng hướng mang lại nguồn
lợi cho nền kinh tế quốc dân chúng ta cần hiểu rõ khái niệm, lịch sử, xu thế,
những nhân tố tạo điều kiện cho ngành này phát triển để vận dụng vào điều
kiện cụ thể của nước ta.
1.1. Khái niệm du lịch:
Mặc dù du lịch đã trở thành hiện tượng kinh tế, xã hội phổ biến trên thế
giới và là thói quen trong nếp sống sinh hoạt của xã hội. Nhưng cho đến nay
nhận thức về nội dùng du lịch vẫn chưa được thống nhất. Trước thực tế phát
triển của ngành du lịch về mặt kinh tế cũng như trong lĩnh vực đào tạo,
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
nghiên cứu thảo luận, để đi đến thống nhất một số khái niệm trong đó có
khái niệm về du lịch là một đòi hỏi cần thiết.
Theo ông Nguyễn Khắc Viện thì du lịch là sự mở rộng không gian
văn hoá của con người.
Trong từ điển tiếng Việt du lịch lại được giải thích là đi chơi cho biết
xứ người.
Với Ghisman: du lịch là sự khắc phục về mặt không gian của con
người hướng tới một điểm nhất định nhưng không phải là nơi thường xuyên
của họ.
Guer Freuler: du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là một hiện
tượng của thời đại chúng ta dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục
sức khỏe và sự thay đổi về môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh,
phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp của thiên nhiên chia sẻ quan niệm này với
Guer Freuler, PTS Trần Nam đưa ra quan điểm của mình: du lịch là quá
trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục
đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc,
độc đáo khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời được tính
bằng đồng tiền.
Aza nhận thấy du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm
thời tự một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang nước khác
nếu không gắn với sự thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc.
Quan điểm của Kaspar: du lịch là toàn bộ những quan hệ về hiện
tượng xảy ra trong quá trìn di chuyển và lưu trú của con người tại nơi không
phải là nơi ở thường xuyên hoặc nơi làm việc của họ.
Quan điểm cuả Hunziker và Kraff cũng bắt nguồn từ ý tưởng này: du
lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi
làm việc thường xuyên của họ.
Du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà nó phải gắn
chặt với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên mỗi học giả lại có những nhận định
khác nhau về vấn đề này.
Theo Kuns một yếu tố không thể thiếu được trong định nghĩa về du
lịch cần được bổ sung là đến bằng các phương tiện giao thong và sử dụng
các xí nghiệp du lịch.
Picira Edmod đã đưa ra định nghĩa: du lịch là việc tổng hoà, việc tổ
chức và chức năng của nó không chỉ về phương diện khách vãng lai mà
chính về phương diện giá trị do người chỉ ra và của những khách vãng lai
đến với một túi tiền đầy tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp cho các chi phí của
họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí.
Mariot coi tất cả các hoạt động, tổ chức, kỹ thuật và kinh tế phục vụ
các cuộc hành trình và lưu trú của con người ngoài nơi cư trú, với nhiều mục
đích ngoài mục đích kiếm việc làm và thăm viếng người thân là du lịch.
Ngoài những khái niệm thiên về tiếp cận kinh tế, tiếp cân xã hội cũng
có một số khái niệm sau: đối với Nguyễn Cao Thường và Tô Đăng Hải cho
rằng: “Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ có mhiệm vụ phục vụ
nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi hoặc không kết hợp với các hoạt động
chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và nhu cầu khác”.
Michand – chuyên gia nghiên cứu về du lịch thuộc lĩnh vực địa lý đưa
ra quan điểm của mình: du lịch là tập hợp những hoạt động sản xuất và tiêu
thụ phục vụ cho việc đi lại và ngủ lại ít nhất một đêm ngoài nơi ở thường
ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sản xuất, hội họp, thể thao hoặc tôn giáo.
Ngoài tiếp cận môi trường, hoạt động du lịch phải có tiếp cận cộng
đồng mới đảm bảo sự phát triển lâu dài.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Coltman đã định nghĩa: du lịch là quan hệ tương hỗ do sự tương tác
của bốn nhóm du khách, cơ quan cung ứng du lịch, chính quyền và dân cư
tại nơi đến du lịch tạo nên.
Còn Robert W.Mcintosh, Charles R.Goelder, J.R Brent Ritchie phát
biểu về du lịch như là tổng các hiện tượng và mối quan hệ nảy sinh từ tác
động qua lại giữa du khách, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ
nhà trong quá trình thu hút và đón tiếp du khách.
Với mục đích quốc tế hoá, tại hội nghị Liên Hợp Quốc vệ du lịch họp
tại Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch “Du lịch là tổng
hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các
cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường
xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ lưu trú
không phải nơi làm việc của họ”.
Khác với quan điểm trên các học giả biên soạn bách khoa toàn thư
Việt Nam đã tách hai nội dùng cơ bản của du lịch thành hai phần:
+ Nghĩa thứ nhất: du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực
của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật…
+ Nghĩa thứ hai: du lịch được coi là ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả
cao về nhiều mặt, nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và
văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng tình yêu đất nước, đối với người
nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch là lĩnh
vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Luật Du lịch Việt Nam chỉ rõ: “Du Lịch là họat động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
khoảng thời gian nhất định”. Theo định nghĩa này ta thấy, du lịch trước tiên
phải là hoạt động của con người và phải là hoạt động ngoài nơi cư trú
thường xuyên của họ. Tuy vậy ở đây còn nêu lên một vấn đề rất chung
chung là “nơi cư trú” bởi từ này có thể hiểu với một không gian rất rộng như
một đất nước, bởi một nước cũng có thể hiểu là nơi cư trú của công dân
nước đó hoặc không gian nhỏ hơn là một vùng lãnh thổ, một tỉnh, thành phố
hay một huyện, một xã, hay một làng. Việc giới hạn không gian linh hoạt
như trên đã giúp chúng ta có cái nhìn nhận linh hoạt hơn không bị quá bó
hẹp về không gian du lịch mà nó được lien hệ với các yếu tố khác. Du lịch
phải nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của con người
đi du lịch, trong đó một nhu cầu rất quan trọng là tham quan, điều này cho
chúng ta thấy hoạt động của con người ngoài nơi cư trú nhưng không nhằm
thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng thì sẽ không được công
nhận là du lịch. Theo tinh thần đó thì những hoạt động như học tập ngoài nơi
cư trú, lao động ngoài nơi cư trú sẽ không phải là du lịch. Du lịch được diễn
ra trong một khoảng thời gian nhất định nghĩa là du lịch nhằm thoả mãn nhu
cầu của con người đi du lịch trong những thời gian nhất định, điều này giúp
ta phân biệt nhu cầu, hoạt động của con người đi du lịch với các nhu cầu
khác của họ và cho ta thấy giới hạn thời gian của khách du lịch, từ đó mà có
những sản phẩm du lịch phù hợp với giới hạn thời gian của họ.
Ngày nay, Tổ chức Du lịch Thế Giới (UNWTO) đã thống nhất khái
niệm du lịch phản ánh các mối quan hệ có tính bản chất bên trong là cơ sở
cho việc nghiên cứu các xu hướng và quy luật phát triển của nó. Do đó: “ Du
lịch là tổng thể những hiện tượng về mối quan hệ phát sinh do sự tác động
qua lại giữa khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và
cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du
lịch. Trong thực tế cuộc sống, do sự phát triển của xã hội và nhận thức, các
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
từ ngữ thường có nhiều nghĩa, nhiều khi trái ngược nhau. Như vậy việc giải
thích bằng cách gộp các nội dùng khác nhau vào một định nghĩa sẽ gây khó
hiểu, không rõ ràng. Vậy có thể tách du lịch thành hai phần để định nghĩa:
- Thứ nhất, du lịch có thể hiểu là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm
thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú
nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ về nhận thức về
thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo sự tiêu thụ một số giá
trị kinh tế, văn hoá, và dịch vụ do các cơ sở cung ứng.
- Thứ hai: Du lịch có thể được hiểu là một lĩnh vực kinh doanh các dịch
vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu
trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể
ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức
tại chỗ về thế giới xung quanh.
Việc nhận định rõ ràng hai nội dùng cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp
phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Từ những khái niệm trên giúp ta
hiểu rõ về ngành du lịch từ đó có những nhìn nhận đúng đắn về ngành
này cũng như vai trò của nó đối với đất nước, đặc biệt là vai trò bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
1.2. Một số khái niệm liên quan:
- Cũng theo Luật Du Lịch thì “tham quan là hoạt động của khách du lịch
trong ngày tới thăm nơi có tài nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng
thức những giá trị tài nguyên du lịch”. Qua đây cho ta thấy, tham quan là
hình thức quan sát trực tiếp những di tích, danh lam, phong tục, cuộc sống
sinh hoạt của cộng đồng dân cư nơi họ đến du lịch, từ đó cảm nhận, hình
thành những kiến thức hoặc bổ sung thêm kiến thức cho bản thân mình.
Tham quan không chỉ thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thông qua tiếp xúc trực
tiếp các giác quan mà nó còn thông qua việc tiếp xúc ấy để thưởng ngoạn
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
các giá trị của nơi đến tham quan. Tham quan không những giúp cho ta cảm
nhận trực tiếp các đối tượng tham quan và giúp ta kiểm nghiệm, bổ sung trí
tưởng tượng phong phú của con người về các đối tượng mà ta có được thông
qua các hình thức khác như văn học, hội hoạ, truyền thong… Việc hình
thành kiến thức, bổ sung kiến thức thông qua tham quan mang tính khác biệt
với các hình thức khác, bởi kiến thức được hình thành bổ sung một cách nhẹ
nhàng, thoải mái, không bắt buộc. Từ những quan sá kinh tế, trực tiếp, kiến
thức dần dần đọng lại trong khách du lịch một cách tự nguyện, bản năng, bởi
vậy những kiến thức đọng lại thuộc về nhu cầu và tương đối bền vững với
người tiếp nhận nó.
- Luật Du Lịch còn chỉ rõ : “ Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết
hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu
nhập ở nơi đến ”. Về phương diện kinh tế, du khách là những người sử dụng
dịch vụ của các doanh nghiệp du lịch như lữ hành, lưu trú, ăn uống… (theo
nhập môn KH du lịch - Trần Đức Thanh). Khái niệm này cho ta thấy khách
du lịch là rất đa dạng không phân biệt tuổi tác, học thức, nghề nghiệp, địa vị
xã hội hay tôn giáo. Như vậy, sẽ có rất nhiều đối tượng nếu có nhận thức tốt
tham gia vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
- Tài nguyên du lịch: “ là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch
sử- văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân
văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ
bản để hình thành các khu du lịch , điểm du lịch , tuyến du lịch, đô thị du
lịch” ( Luật Du Lịch). Ngay từ khái niệm về tài nguyên du lịch này đã cho ta
thấy một phần vai trò du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc. Vì khi ngành du lịch sử dụng, khai thác nguồn tài nguyên du lịch thì
sẽ đi đôi với việc giữ gìn và tiếp tục kế thừa phát triển nguồn tài nguyên đó
để hướng tới phát triển du lịch bền vững. Cảnh quan thiên nhiên chứa trong
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
bản thân nó vẻ đẹp hùng vĩ của tạo hoá nhưng bên cạnh đó cũng ghi dấu ấn
lịch sử dân tộc qua các thời kỳ, chính vì vậy nó cuốn hút khơi dậy trong mỗi
con người chúng ta tình yêu quê hương đất nước giống như một đại văn hào
đã nói: “dòng suối chảy vào sông, sông chảy vào đại trường giang Von-ga.
Còn sông Von-ga chảy ra biển. Lòng yêu nhà quê hương xứ sở trở thành
lòng yêu nước. Các di tích lịch sử không chỉ chứa đựng những thông tin lịch
sử mà còn chưa đựng cả những tư tưởng, truyền thống cách mạng của các
thế hệ cha ông chúng ta. Đương thời thăm đền Hùng, Hồ chủ tịch đã dạy: “
Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải quyết tâm giữ nước”.
Trong khung cảnh hùng vĩ của đền Hùng, lời dạy đó đi vào lòng chúng ta
một cách êm ái mà sâu sắc biết nhường nào. Những di tích cách mạng với
thời gian năm tháng sẽ không chỉ đơn thuần là di tích cách mạng, mà nó sẽ
trở thành di tích lịch sử - cách mạng với ý nghĩa vô cùng lớn lao chứa đựng
trong bản thân nó và ý nghĩa thời gian nó đã trải qua. Không những chỉ chứa
đựng những thông tin lịch sử văn hoá mà các di tích còn ẩn chứa trong mình,
những giá trị nhân văn, những giá trị ứng xử của con người Việt Nam.
Thông qua các biểu tượng hoặc các truyền thuyết gắn liền với di tích đó, mà
ta thấy được nét truyền thống văn hiến của dân tộc mình. Khuê Văn Các
không phải nghiễm nhiên được xây dựng ở trung tâm Văn Miếu bởi nó ẩn
chứa trong mình những ý chí vươn lên toả sáng - những ánh sang tuyệt đẹp
của con người Việt Nam như ánh sáng của chùm sao Khuê.
- Khu du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên
du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư, phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu
đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi
trường (Luật Du Lịch). Vậy khu du lịch phải là nơi có tài nguyên du lịch hấp
dẫn và đồng thời phải có ưu thế nổi bật về tài nguyên du lịch tự nhiên.
Không những thế, nó phải được quy hoạch, đầu tư phát triển, nhằm thoả mãn
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
nhu cầu đa dạng của khách du lịch nhưng phải mang lại hiệu quả kinh tế, xã
hội và môi trường. Qua đây chúng ta thấy nếu một khu nào đó có đầy đủ
điều kiện, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhưng không mang lại hiệu quả
xã hội và môi trường thì nó vẫn chưa được coi là khu du lịch.
- Điểm du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham
quan của khách du lịch, (Luật Du Lịch). Khái niệm này giúp ta phân biệt
điểm du lịch với các điểm khác như: điểm vui chơi, giải trí, điểm thi đấu thể
thao… Đồng thời nó cũng giúp ta nhận biết đâu là tài nguyên du lịch đâu là
điểm du lịch, tài nguyên du lịch là khái niệm chung trong đó bao gồm cả
điểm du lịch, nhưng điểm du lịch là những tài nguyên du lịch đã được đưa
vào khai thác và phát huy ý nghĩa của nó.
- Tuyến du lịch: là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung
cấp các dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ, đường hàng không. (Luật Du Lịch). Khái niệm này cho ta thấy
hai yếu tố cấu thành nên tuyến du lịch là các điểm, khu du lịch và tuyến giao
thông. Nếu có điểm du lịch nhưng hạ tầng giao thông chưa phát triển thì
cũng không xây dựng được tuyến du lịch. Tất nhiên ta phải hiểu tuyến giao
thông ở đây một cách đa dạng và uyển chuyển: gồm giao thông đường xe cơ
giới, giao thông đường thuỷ, và nhiều khi có cả đường giao thông cho xe thô
sơ và đi bộ trong một khoảng cách chấp nhận được.
- Chương trình du lịch: “là lịch trình, các dịch vụ và giá bán, chương trình
được định trước cho chuyến đi của khách du lịch, từ nơi xuất phát đến điểm
kết thúc chuyến đi ” (Luật Du Lịch). Vậy chương trình du lịch chứa đựng ba
yếu tố cơ bản đó là lịch trình tham quan được định trước và có xác định thời
gian thực hiện; hai là các dịch vụ kèm theo bao gồm lưu trú, vận chuyển,
hướng dẫn, ăn uống và các dịch vụ khác tuỳ thuộc vào từng loại hình du
lịch; ba là chương trình đó phải có giá bán rõ ràng. Qua đây ta thấy chương
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
trình nhằm đáp ứng hai khía cạnh của khách du lịch là sở thích nhu cầu của
khách và khả năng tài chính của khách. Nếu không đáp ứng được hai khía
cạnh đó chương trình du lịch sẽ trở thành không hấp dẫn và khó mà bán
được.
- Lữ hành: “ là việc xây dựng, bán, và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn
bộ chương trình du lịch cho khách du lịch”. Như vậy, lữ hành là việc tổ chức
các chương trình du lịch đã được bán cho khách du lịch. Lữ hành thực chất
là hoạt động của các công ty du lịch chuyển sản phẩm đến người tiêu dùng là
khách du lịch.
- Hướng dẫn du lịch: là hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch thông
qua hướng dẫn viên và những người có liên quan đến đón tiếp, phục vụ,
hướng dẫn khách du lịch thực hiện các dịch vụ theo các chương trình được
thoả thuận và giúp đỡ khách giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trìn
thực hiện chuyến du lịch. Khái niệm trên đã chỉ rõ những hoạt động chủ yếu
của hướng dẫn du lịch mà vai trò quan trọng nhất là của hướng dẫn viên,
những người thay mặt cho tổ chức kinh doanh du lịch thực hiện các hợp
đồng giữa đơn vị mình với khách du lịch. Các hoạt động du lịch bao gồm
nhiều mặt công tác và đòi hỏi về nghiệp độ tuy mức độ không giống nhau.
1.3. Sơ lược về sự phát triển của du lịch
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế
xã hội và đã trở lên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp
sống sinh hoạt trong xã hội ngày nay. Có nước coi du lịch là nguồn thu chủ
yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi du lịch như một
ngành kinh doanh mũi nhọn có sức hút đối với những ngành khác. Ngành
du lịch ở Việt Nam ra đời năm 1960 với việc thành lập Công Ty Du Lịch
Việt Nam theo nghị định số 26 CP ngày 9/7/1960 đã đánh dấu nhận thức
của Đảng và Nhà Nước về triển vọng nền kinh tế này.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Trong suốt gần 50 năm hình thành và phát triển ngành du lịch luôn
được Đảng và nhà nước quan tâm. Ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của du
lịch trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước phù hợp với yêu
cầu của xã hội. Đặc biệt thời kỳ đổi mới và hội nhập, du lịch Việt Nam đã
có những phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát
triển du lịch với các nước trong khu vực. Trở thành ngành kinh tế quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự quan tâm đặc biệt
của Đảng và Nhà Nước với du lịch là một tiền để rất quan trọng cho những
đổi mới của ngành. Sự quan tâm này được thể hiện trong hiến pháp của nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong nghị quyết đại hội
Đảng toàn quốc, trong chỉ thị 46 CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí Thư
Trung Ương, thông báo số 179 TB/TW ngày 11/11/1998 và dự thảo văn
kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X (dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế
5 năm 2006-2010) và hàng loạt các văn bản khác. Như vậy có thể tin tưởng
rằng trong tương lai du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ có một vị trí xứng đáng
trong xã hội và nền kinh tế nước nhà.
Lượng khách quốc tế vào nước ta từ năm 1990-2007:
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Lượng khách nội địa giai đoạn 1990 – 2007:
*
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
250,000440,000
1,018,244
1,607,1551,520,218
2,140,100
2,627,988
2,927,876
3,583,458
4,230,000
0
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
3,000,000
3,500,000
4,000,000
4,500,000
1990 1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004 2006 2007
1. 1. KhKhááchch ququốốcc ttếế
1,000,0002,000,000
6,200,0007,300,000
9,600,00011,200,000
13,000,00014,500,000
17,500,000
19,500,000
0
5,000,000
10,000,000
15,000,000
20,000,000
25,000,000
1990 1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004 2006 2007
§ ¬n vÞ: L î tkh ch
2. 2. KhKhááchch nnộộii đđịịaa
Nguồn: Tổng Cục thống kê
Qua hai bản biểu đồ trên có thể thấy hoạt động du lịch của nước ta giai đoạn 1990-
2007 đã đạt được những thành tựu nhất định, cả lượng khách nội địa và quốc tế đã liên
tục tăng qua các năm. Điều đó khẳng định vị thế và tương lai của du lịch nước ta.
1.4. Các loại hình du lịch ở Việt Nam
Hoạt động du lịch có thể chia thành các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào tiêu
chí đưa ra. Về phần mình các tiêu chí được đưa ra phụ thuộc vào mục đích
việc phân loại và quan điểm chủ quan của tác giả. Do đó, cho đến nay chưa
có bảng phân loại nào được coi là hoàn hảo. Phân loại theo mục đích chuyến
đi thì ở Việt Nam đang hình thành, tồn tại và phát triển các loại hình du lịch
sau:
- Du lịch văn hoá lịch sử: là chương trình tổ chức cho khách du lịch
tham quan các điểm, khu du lịch mang ý nghĩa lịch sử, văn hoá và
thắng cảnh. Du lịch văn hoá, lịch sử giúp cho khách tìm hiểu được
những nét văn hoá , lịch sử truyền thống bản sắc của dân tộc, đất nước
hoặc một vùng. Đây là loại hình du lịch cổ điển và truyền thống nhất
trong các loại hình du lịch và loại hình này hiện nay cung đang phát
triển nhất tại Việt Nam. Tham gia loại hình này khách chủ yếu tham
quan những di tích lịch sử văn hoá, những viện bảo tang những làng
nghề, lễ hội, những thắng cảnh thiên nhiên … Đây là loại hình du lịch
khá phổ thông và thu hút quảng đại khách du lịch và nó chiếm tỷ
trọng lớn trong ngành du lịch. Đồng thời loại hình du lịch này đã thể
hiện rõ nét và được đánh giá cao với vai trò bảo tồn và phát huy nền
văn hoá truyền thống dân tộc
- Du lịch sinh thái: Là du lịch phát huy, khai thác những giá trị sinh thái
môi trường. DU lịch sinh thái giúp ta tìm hiểu được các hệ sinh thái tự
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
nhiên hoặc do con người tái tạo, giúp khách du lịch hiểu được giá trị
của sinh thái và môi trường, ảnh hưởng của sinh thái đối với cuộc
sống và một số ngành sản xuất; mối liên hệ tự nhiên giữa phát triển,
bảo vệ môi trường và giữ cân bằng sinh thái môi trường. Tham gia
loại hình du lịch này khách thường được tham quan các khu bảo tồn
thiên nhiên lưu trú trong những nhà nghỉ khách sạn đơn giản trong các
khu bảo tồn hoặc các khu phụ cận, nhưng lại được đắm mình trong
khung cảnh thiên nhiên và không khí trong lành, qua đó đem lại cho
người ta một ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn môi trường, cải tạo và
trả lại cho môi trường vẻ đẹp vốn có của nó.
- Du lịch mạo hiểm: Là loại hình du lịch mà hoạt động của du khách
mang ít nhiều tính mạo hiểm, khám phá. Từ mạo hiểm cho ta thấy là
trong quá trình du lịch khách dễ gặp phải những rủi ro, nguy hiểm khó
lường trước được và đôi khi nguy hiểm đến cả tính mạng. Loại hình
du lịch này chỉ phù hợp với những người có sức khỏe tốt và có cá tình
mạnh, thích phiêu lưu mạo hiểm. Các dạng phổ biến của loại hình này
là leo núi, chinh phục các ngọn núi cao, vượt sông, thác ghềnh ở
những nơi nguy hiểm tạo cho họ cảm giác mạnh và mang ý nghĩa
chinh phục, lặn biển để khám phá vẻ đẹp dưới đáy biển, khám phá các
hang động để tìm ra những điều bí ẩn. Du lịch mạo hiểm giúp cho con
người rèn luyện ý chí, khả năng xử lý tình huống khi gặp những khó
khăn bất ngờ.
- Du lịch nghỉ dưỡng: một trong những chức năng xã hội quan trọng
của du lịch là phục hồi sức khoẻ cộng đồng. Theo một số học giả trên
thế giới với chế độ du lịch hợp lý cộng đồng có thể giảm được trung
bình 30% ngày điều trị bệnh trong năm. Thông thường loại hình du
lịch này diễn ra ở những nơi có điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
việc nghỉ dưỡng như khí hậu, môi trường, bãi biển và có cơ sở vật
chất đủ đáp ứng cho nhu cầu nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Tham quan khu
vực lân cận với chương trình nhẹ nhàng, mang tính thư giãn và nghỉ
dưỡng là một phần của loại hình này. Thời gian chủ yếu của khách là
nghỉ ngơi kết hợp các vận động nhằm giúp ích cho sức khoẻ hoặc thư
giãn đầu óc, hưởng thụ các dịch vụ tại nơi nghỉ dưỡng. Ở Việt Nam,
các khu nghỉ dưỡng này mới chủ yếu hình thành dọc bờ biển miền
Trung như: Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, Vũng Tàu…
- Du lịch tàu biển: là loại hình du lịch trên các con tàu biển với thiết bị
sang trọng, hiện đại vừa làm chức năng vận chuyển khách giữa các
điểm tham quan trên đất liền hoặc các đảo suốt hành trình trên biển,
đồng thời là nơi lưu trú và giải trí của khách. Khi đến các điểm tham
quan, tàu neo đậu để khách lên bờ tham quan nhưng tối lại quay về
nghỉ ngơi trên tàu. Ngày nay, những con tàu đã được đóng và trang bị
ngang bằng bởi các khách sạn năm sao với đầy đủ các dịch vụ như
phòng nghỉ, bể bơi, sân tennis, câu lạc bộ khiêu vũ… Loại hình du
lịch này hiện đang thu hút được nhiều người lớn tuổi, bởi trong suốt
thời gian di chuyển từ nước này sang nước khác họ không phải nó
mình trên các phương tiện vận chuyển mà vẫn sinh hoạt thoải mái như
ở nhà.
- Du lịch MICE: đây là loại hình du lịch tương đối mới mẻ ở Việt Nam,
nhằm cung cấp dịch vụ cho hội nghị, hội thảo, triển lãm và du lịch
phần thưởng. Ngoài việc cung cấp dịch vụ cho các mục đích nêu trên
thì các dịch vụ phụ trợ hoặc xen kẽ giữa các khoảng thời gian của hội
nghị, hội thảo là rất quan trọng, như chương trình tham quan cho các
thành viên đi theo hoặc chưa tham gia hội nghị. Tổ chức các hoạt
động phụ trợ để hội nghị, hội thảo trở thành sự kiện khó quên đối với
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
các thành viên như các hoạt động nhóm, các bữa tiệc sang trọng mang
nét đặc sắc. Đây là loại hình du lịch hình thành để đáp ứng nhu cầu
hoạt động của các công ty đa quốc gia, các công ty siêu quốc gia, các
tổ chức quốc tế.
- Ngoài ra còn kết hợp du lịch trong chuyến đi vì mục đích tôn giáo,
học tập, nghiên cứu hoặc mục đích thể thao, thăm người thân,…
Qua các hoại hình du lịch nói trên có thể thấy du lịch văn hoá có ảnh hưởng
tác động nhiều đến bản sắc văn hoá dân tộc của người Việt. Đây là loại hình
du lịch khá phổ biến và ngày càng phát triển. Dễ nhận thấy vai trò của nó
đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cũng được thể hiện
một cách rõ nét nhất.
2. Nhận thức cơ bản về văn hoá
2.1. Khái niệm văn hoá
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn và không thống nhất theo cách nghĩ
của mỗi người. Dưới góc độ khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau mỗi
học giả đều tự đưa ra cho mình những quan niệm khác nhau về văn hoá.
Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của
xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn
ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn hoá. Xem dáng vẻ con
người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ (quan hồ nhân văn dĩ hoá thành hiện đại).
Người sử dụng từ văn hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 776 trước
Công Nguyên). Tuy vậy việc xây dựng và sử dụng khái niệm văn hoá không
đơn giản và thay đổi theo thời gian, thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác
tinh thần” được sử dụng vào thế kỷ XVII – XVIII bên cạnh nghĩa gốc là
quản lý, canh tác nông nghiệp.
Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học
phát triển sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
hoá thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp đến cao nhất và văn hoá của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi họ cho rằng văn hoá hướng về trí lực và sự
vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B.Taylo là đại diện của họ.
Theo ông văn hoá là toàn bộ thực tế gồm: hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con
người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Thế kỷ XX, khái niệm văn hoá thay đổi F.Boa ý nghĩa văn hoá được
quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao
siêu như “trí lực” vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng
không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận” của văn hoá.
Văn hoá không xét ở mức độ tăng giảm mà ở góc độ khác biệt. Trong ý
nghĩa rộng nhất: “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng
biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và
văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: văn hoá đem lại cho
con người khả năng suy xét về bản thân, chính văn hoá làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và sống
có đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản
thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét
những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ
và sáng tạo nên những công trình vượt trội nên bản thân.
Như vậy, văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt, văn hoá là tổng
thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra: văn
hoá là chìa khoá của sự phát triển.
2.2. Di sản văn hoá vật thể và phi vật thể
Theo quan niệm của UNESCO có hai loại di dản văn hoá:
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
- Một là, những di tích văn hoá hữu thể như: đình, đền, miếu, lăng mộ,
nhà sàn, bảo tàng… hay những di tích kiến trúc nghệ thuật.
- Hai là, những di sản văn hoá vô hình (phi vật thể) bao gồm các biểu
hiện tượng trưng và “không sờ thấy được” của văn hoá được lưu
truyền và biến đổi qua thời gian, với một số quá trình tái tạo “trung
tu” của cộng đồng. Những di sản văn hoá tạm gọi là vô hình này theo
UNESCO gồm cả: âm nhạc, múa, truyền thống, văn chương truyền
miệng ngôn ngữ, huyền thoại, nghi thức, phong tục tập quán, việc nấu
ăn, các món ăn, lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề
truyền thống.
Các hữu thể và các vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau
như thân xác và tâm trí con người.
2.3. Khái niệm truyền thống và hiện đại
Có nhiều cách hiểu khác nhau trong phân loại xã hội, nhưng ngày nay
người ta thường lấy tiêu chí hoạt động của con người để chia lịch sử thành:
- Xã hội thu lượm (hái lượm và đi săn)
- Xã hội nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi)
- Xã hội công nghiệp (cơ giới)
- Xã hội hậu công nghiệp (thời đại tin học)
Ở Việt Nam xã hội cổ truyền là xã hội nông nghiệp, văn minh cổ truyền
là văn minh thôn dã (xóm làng), văn hoá Việt Nam truyền thống thường
được xem là nền văn hoá xuất hiện từ lúc hình thành quốc gia dân tộc, qua
nhiều bước phát triển nội sinh và ảnh hưởng ngoại sinh cho đến khi văn hoá
phát triển (chủ yếu là văn hoá Pháp) tác động đến một số lĩnh vực. Như vậy
khoảng thời gian kéo dài từ xa xôi cho đến những năm đầu thế kỷ XX tạm
được coi là giới hạn của văn hoá truyền thống. Từ thời điểm đó đến nay,
được coi là văn hoá hiện đại. Đôi khi người ta cũng có sự lẫn lộn giữa khái
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
niệm cổ truyền và truyền thống. Có thể coi khái niệm cổ truyền bao gồm cả
cái không tích cực. Khái niệm truyền thống là tập quán đã được sàng lọc.
Truyền thống được dùng ở đây là tính cho đến thời điểm trước công cuộc
giao thoa truyền thống văn hoá Đông – Tây, Việt – Pháp.
Định nghĩa văn hoá truyền thống: trong bài viết văn hoá cổ truyền, văn
hoá truyền thống và truyền thống văn hoá của một tác giả tên đăng trên tạp
chí văn hoá dân gian có nêu: “văn hoá truyền thống là khái niệm dùng để chỉ
một cấu trúc văn hoá, chỉ văn hoá của các xã hội nông nghiệp truyền thống”.
Tuy đây là định nghĩa ngắn gọn nhưng còn gây cho người đọc sự khó hiểu,
diễn đạt còn chưa thoát ý.
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm có đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội”. Từ điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học do
Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “Truyền thống là thói quen hình thành đã
lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ
khác”.
2.3. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá
Để có thể đánh giá được đầy đủ và chính xác vai trò của ngành du lịch
trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, ta cần phải
nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa du lịch và văn hoá thể hiện như
sau:
Về mặt lý luận, văn hoá là toàn bộ những hoạt động, những giao lưu,
những sản phẩm vật chất và tinh thần do con người sáng tạo trong sự ứng xử
toàn diện với thiên nhiên, với xã hội, với -chính bản thân mình, để tồn tại và
phát triển; là quá trình con người không ngừng hoàn thiện và phong phú hoá
các quan hệ nhân tính của xã hội, của cộng đồng và các cá nhân khẳng định
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
hệ giá trị văn hoá. Về du lịch, hầu như trước đây có bao nhiêu tác giả nghiên
cứu tìm hiểu du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa. Như đã được nêu trong
phần khái niệm du lịch. Vậy mối quan hệ biện chứng giữa du lịch và văn hoá
thể hiện ở chỗ nào? Nếu ta nghiên cứu sự hình thành và phát triển của ngành
du lịch, điều đó có thể khẳng định là từ cổ đại mầm mống của du lịch bắt
nguồn từ nhu cầu hoạt động văn hoá (hành hương, hành trình lễ hội). Ngược
lại văn hoá cũng tác động đến việc hình thành các dịch vụ sơ khai của ngành
du lịch hiện đại (sự xuất hiện của các cơ sở lưu trú phục vụ cho khách hành
hương). Văn hoá là sự giao lưu; thực vậy, nhờ có sự giao lưu, trao đổi mà
các hoạt động văn hoá, tín ngưỡng được lan truyền từ vùng này sang vùng
khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Con người với đặc trưng cơ bản là
biết lao động, tư duy và sáng tạo, hướng tới hoàn thiện và cái đẹp ở thời cổ
đại chính khát vọng vươn tới tự do, khát vọng được nâng đỡ cứu giúp khỏi
các thảm hoạ thiên nhiên và bất công xã hội, con người đã sáng tạo ra thần
thánh và tôn giáo như một giá đỡ tinh thần. Từ đó Kitô tôn giáo, Phật giáo
và hồi giáo xuất hiện và được truyền bá từ vùng này sang vùng khác. Mỗi
dân tộc đều có truyền thống bản sắc văn hoá riêng. Những tinh hoa văn hoá
của từng dân tộc có được là do quá trình lao động sáng tạo của cộng đồng,
được cộng đồng thừa nhận và lưu truyền từ đời này qua đời khác. Truyền
thống, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc không phải là cái bất biến, nó không
ngừng được hoàn thiện phát triển qua các thởi đại nhờ sự hoàn thiện và
những yếu tố du nhập từ các nền văn hoá của mình. Thông qua giao tiếp, tìm
hiểu các dân tộc trao đổi cho nhau những kiến thức về văn hoá, những cái
hay, cái đẹp trong cuộc sống qua đó mỗi dân tộc có sự chắt lọc, bổ sung,
nâng cao nền văn hoá của mình. Đây là đặc trưng trong tính kế thừa theo
trục không gian của các nền văn hoá. Nếu không có giao lưu, nền văn hoá
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
vủa mỗi cộng đồng, dân tộc khi bị cô lập sẽ ở trạng thái ngưng trệ. Sự kế
thừa theo trục không gian đã thúc đẩy văn hoá nhân loại phát triển.
Khi nghiên cứu du lịch ta không chỉ xem xét trên góc cạnh của người
hướng dẫn mà trên thực tế những người cung cấp dịch vụ là yếu tố thứ hai
trong du lịch tạo nên một hiện tượng Kinh Tế - Văn Hoá. Họ là những người
cung cấp thông tin, tổ chức các chuyến du lịch, người cung cấp phương tiện
giao thông, cung cấp cơ sở lưu trú, ăn uống để thoả mãn như cấu cơ bản của
con người. Ngoài ra những người làm công tác nghệ thuật, tổ chức vui chơi
giải trí, cung cấp thiết bị kỹ thuật … Với tư cách là “nhà sản xuất hàng hoá
dịch vụ, hoạt động của người làm du lịch không thể tách rời các yếu tố văn
hoá” .
Trong doanh nghiệp hoạt động du lịch, yếu tố văn hoá là toàn bộ giá trị
vật chất và tinh thần mà doanh nghiệp tạo ra. Sử dụng trong quá trình phục
vụ khách, vì vậy có thể nói rằng văn hoá chính là toàn bộ quá trình xây dựng
bố trí cơ sở vật chất: thiết bị vận chuyển, khách sạn, nhà hàng, các dịch vụ
phụ trợ khác …
Một điểm cần lưu ý là sản phẩm của nghành du lịch mang tính chất đặc
thù. Nghĩa là nó không thể đóng gói, tồn kho, bày bán như các sản phẩm
thông thường. Yếu tố dịch vụ mang tỷ trọng lớn trong sản phẩm. Như vậy
một sản phẩm du lịch không chỉ có mặt vật chất mà nó chứa đựng yếu tố văn
hoá, tinh thần. Kết tinh vào sản phẩm có sức lao động của con người thông
qua giao tiếp, phục vụ, chăm sóc khách hàng. Nhân viên phục vụ với tính
chất là sản phẩm của một nền văn hoá vì họ mang trong mình khả năng
chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, và các yếu tố truyền
thống trong nhân cách. Họ đại diện cho doanh nghiệp và cả một nền văn hoá
để cảm hoá khách hàng.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Tóm lại giữa du lịch và văn hoá có mối quan hệ biện chứng. Hoạt động
của ngành du lịch như một ngành kinh tế dịch vụ góp phần cho sự tăng
trưởng và sự phát triển của nền kinh tế xã hội, tạo điều kiện nâng cao mức
sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng, thúc đẩy phát triển văn hoá và
ngược lại, sự phát triển của một xã hội văn minh trong đó trình độ văn hoá,
chính trị, tư tưởng của các thành viên trong cộng đồng lại tác động lại đến
phát triển kinh tế trong đó có du lịch.
Chương 2: Thực trạng du lịch Việt Nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá truyền thống của người Việt.
2.1. Vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội .
2.1.1. Vai trò của nghành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân:
Nhà Nước Việt Nam xác định: du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp
quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và
xã hội hoá cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí,
nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân
trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Qua đó, ta thấy:
- Đối với nền kinh tế quốc dân thì du lịch có vai trò là một ngành kinh tế
tổng hợp quan trọng có tính liên ngành liên vùng. Du lịch là ngành dịch vụ.
Nên nó sử dụng một tỷ trọng nhân công tương đối lớn, từ đó đã tạo ra một
khối lượng lớn việc làm cho người lao động. Du lịch là ngành kinh tế tổng
hợp nên khi nó phát triển sẽ kích thích và tạo điều kiện cho các ngành khác
phát triển và ngược lại, các ngành khác phát triển cũng kích thích và tạo điều
kiện cho ngành du lịch phát triển. Trong nền kinh tế quốc dân nước ta, du
lịch vẫn còn là ngành non trẻ, tuy vậy ngành này đang ngày càng phát triển
với một tốc độ mạnh và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập quốc
dân. Một số nước trong khu vực có điều kiện tương tự nước ta nhưng do
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
nhận thấy vai trò của du lịch đối với nền kinh tế nên họ đã có chính sách
thúc đẩy ngành phát triển và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước. Như Thái Lan, trong suốt hàng chục năm qua, tỷ trọng ngành du lịch
luôn đứng đầu trong nền kinh tế quốc dân, không những thế, nó còn đóng
vai trò quan trọng trong việc giúp kinh tế nước này phục hồi nhanh chóng
sau cuộc khủng hoảng tài chính của khu vực. Nước ta trong năm năm gần
đây du lịch đã đóng góp một phần không nhỏ vào phát triển kinh tế đất
nước.
Doanh thu từ du lịch trong những năm 1990- 2006:
Nguồn: Tổng Cục Du Lịch
Nhờ những phát triển trong ngành du lịch mà đã tạo ra được đội ngũ
phục vụ có chuyên môn, một cơ sở vật chất về lưu trú đủ khả năng phục vụ
và đã phục vụ thành công các sự kiện lớn của Nhà Nước, như phục vụ
SeaGame 22, phục vụ hội nghị Thượng Đỉnh Á - Âu và đã để lại ấn tượng
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
3. Thu 3. Thu nhnhậậpp dudu llịịchch
1,350 2,8308,000 9,500
14,00017,400
23,00026,000
51,000
0
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
1990 1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004 2006
tốt với các nguyên thủ cũng như các đoàn đại biểu của các nước. Du lịch
phát triển còn nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng các hàng hoá vật chất và
các hàng hoá phi vật chất. Do đó nhu cầu về dịch vụ rất được khách quan
tâm. Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng du lịch và
tiêu dùng các hàng hoá khác là việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra cùng
một lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện được quá
trình tiêu thụ sản phẩm, người mua hàng được đưa đến nơi sản xuất và tiêu
dùng tại chỗ. Vì vậy sản phẩm du lịch mang tính độc quyền. Vậy, ảnh hưởng
kinh tế của du lịch được thể hiện thông qua tác động qua lại của quá trình
tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá trình này tác động lên lĩnh vực
phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến những lĩnh vực khác nhau
của quá trình tái sản xuất xã hội.
Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác động biến đổi cán cân
thu chi của khu vực và của đất nước. Du khách mang ngoại tệ vào đất nước
mà họ đi du lịch, làm tăng ngoại tệ cho đất nước họ đến, ngược lại phần thu
ngoại tệ sẽ tăng lên đối với quốc gia có nhiều người đi du lịch nước ngoài.
Trong phạm vi một quốc gia hoạt động du lịch làm xáo động hoạt động luân
chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có
trình độ kinh tế - văn hoá khác nhau tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế
của đất nước, song có tác dụng điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế phát
triển sang vùng kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trưởng kinh tế các
vùng sâu vùng xa.
Khi khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách từ mọi nơi đi về
sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số
lượng lớn vật tư, hàng hoá các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành liên
quan như nông nghiệp, công nghiệp chế biến…
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
So với ngoại thương ngành du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội. Du
lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều
khâu nên tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người
mua không cao.
Qua đây ta thấy du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh
tế của đất nước. Việt Nam với chủ trương mở cửa làm bạn với tất cả các
nước. Nhằm thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp nước ngoài vào hợp tác
cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập
cao, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, cải thiện đời sống
sinh hoạt, giá cả trong nước ổn định.
2.1.2. Vai trò của du lịch đối với văn hoá – xã hội
Ngày nay, du lịch không chỉ trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn,
ngành công nghiệp không khói của rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới mà
nó còn trở thành một nhu cầu không thể thiếu được của con người. Kinh tế
càng phát triển, đời sống của người dân càng tăng bởi một đặc tính cố hữu
của con người là ham hiểu biết và giao lưu. Càng tham quan nhiều, càng
giao lưu nhiều thì con người càng cảm nhận kiến thức của mình còn nhiều
khập khiễng giao lưu còn quá bó hẹp. Chưa nói đến phạm vi rộng, chỉ cần
biết được các miền của đất nước, cuộc sống của con người Việt Nam ở mỗi
vùng, mỗi dân tộc là ước mơ của biết bao triệu người dân chúng ta. Với bề
dày lịch sử, hàng ngàn năm văn hiến, với biết bao danh lam thắng cảnh, di
tích trải dài trên suốt chiều dài của đất nước, tất cả đã trở thành nguồn tài
nguyên vô tận để ngành du lịch khai thác phục vụ cho kinh tế, nâng cao đời
sống tinh thần cho người dân và làm bạn bè quốc tế hiểu hơn về đất nước
cũng như con người Việt Nam. Thông qua du lịch các tầng lớp dân cư trong
xã hội có điều kiện để tiếp xúc với nhau và hiểu nhau hơn, từ đó hình thành
nên những nhận thức chung và quan tâm chung. Không có du lịch làm sao
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
các cộng đồng miền xuôi có điều kiện để tiếp xúc và hiểu được hoàn cảnh,
thực tế cuộc sống , kinh tế của các cộng đồng dân tộc miền ngược, vùng
kinh tế kém phát triển, từ đó xây dựng cho họ nhận thức, tinh thần tương
thân giúp đỡ nhân đạo tốt hơn. Du lịch cũng giúp cộng đồng dân tộc miền
ngược có điều kiện tiếp xúc, tiếp thu những kiến thức tiên tiến về văn hoá,
kinh tế, nếp sống văn minh của các cộng đồng khác từ những vùng kinh tế
văn hoá phát triển. Không những chỉ có tác dụng giao lưu xã hội mà du lịch
còn tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, khảo sát thực tế tiềm năng phát
triển,cơ hội đầu tư ở những vùng kinh tế còn khó khăn, từ đó họ có những kế
hoạch chiến lược đầu tư vào những khu đó giúp phảt triển kinh tế xã hội và
góp phần xoá đói giảm nghèo của các khu vực khó khăn này. Dân gian có
câu “ trăm nghe không bằng một thấy” thì du lịch cũng là một trong những
cơ hội để các nhà đầu tư thấy trực tiếp, quan sát trực tiếp, tìm hiểu trực tiếp
tiềm ăng, cơ hội đầu tư cho các dự án phát triển du lịch, phát huy giá trị du
lịch.
Bên cạnh đó du lịch còn là ngành kinh tế tổng hợp có nội dung văn hoá
sâu sắc có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao nên du lịch còn có vai
trò giúp cho người đi du lịch muốn được trải nghiệm và thẩm nhận những
giá trị văn hoá của cộng đồng khác. Cũng như du lịch đáp ứng được nhu cầu
mong muốn được hoàn thiện mình, ai ai cũng muốn nâng cao trình độ hiểu
biết của mình dể trở thành những bậc vĩ nhân như trong huyền thoại …
Chính những mong muốn được mở mang trình độ hiểu biết, sự tò mò tìm
hiểu và khám phá chân trời mới trong tiềm thức mỗi con người đều trỗi dậy
những ý tưởng về nền văn minh cổ đại và họ muốn khám phá ra những điều
bí mật ấy. Chính những nhu cầu này mà ngày nay xu hướng du lịch văn hoá
ngày càng phát triển, du khách muốn đi tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá
những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc ngày càng nhiều. Như vậy
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
du lịch đóng vai trò thiết yếu và không thể thiếu được đối với nền văn hoá xã
hội Việt nam
2.2 Thực trạng du lịch Việt nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá truyền thống của người Việt
Là một ngành kinh tế mũi nhọn song mục đích của phát triển du lịch
không chỉ vì lợi nhuận kinh tế. Điều quan trọng và căn bản hơn là du lịch
trực tiếp góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt nam đối với thế giới
cũng như các nước trong khu vực. Có thể nói khách nước ngoài đến với
Việt nam bởi nhiều lý do trong đó có sự thân thiện của con người Việt nam.
Đây là một thế mạnh mag tính truyền thống cần được gìn giữ phát huy. Mặt
khác qua du lịch, khách muôn phương có dịp hiểu hơn về con người, đất
nước, kinh tế, văn hoá Việt nam. Du lịch Việt nam giống như một sứ giả hoà
bình và hữu nghị thắt chặt tình thân ái với bạn bè năm châ.Vì thế Việt nam
ngày càng trở thành điểm đến hẫp dẫn của khách du lịch quốc tế. Bảng thống
kê dưới đây cho ta thấy số lượng khách du lịch trong 9 tháng của năm 2007.
kh¸ch quèc tÕ ®Õn viÖt nam
9 th¸ng n¨m 2007
Th¸ng 9 Céng dånTh¸ng 9/2007
Th¸ng 9/200
79 th¸ng
n¨m9 th¸ng
®Çuso víi
so víi cïng
®Çu n¨m 2007
2007 n¨m 2007 th¸ng 8kú
n¨m tríc
so víi cïng
(Lît kh¸ch)(Lît
kh¸ch)n¨m 2007
(%) (%) kú n¨m tríc (%)
Tæng sè 358,000 3,171,763
100.6 132.0 118.5
I. Chia theo ph¬ng tiÖn
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
®Õn:
1. §êng kh«ng 279,733 2,475,540
101.3 131.5 126.5
2. §êng biÓn 21,565 168,923
98.6 118.3 95.5
3. §êng bé 56,702 527,300
97.9 141.1 96.9
II. Chia theo môc ®Ých chuyÕn ®i: 1. Du lÞch, nghØ ng¬i
221,096 1,969,208 100.9 140.4 128.9
2. §i c«ng viÖc 57,893 481,388 99.4 102.5 114.2
3. Th¨m th©n nh©n
48,961 455,697 103.9 156.6 104.5
4. C¸c môc ®Ých kh¸c
30,050 265,470 95.4 115.8 91.0
III. Chia theo mét sè thÞ trêng chñ yÕu
1. Trung quèc 49,080 422,957
98.0 123.8 100.7
2. Hång K«ng
628 4,307 99.7 201.3 138.6
3. §µi Loan 30,153 243,741
100.6 137.6 118.0
4. NhËt 34,802 304,599
107.1 82.8 110.0
5. Hµn Quèc 37,257 372,681
94.4 116.6 121.7
6. Campuchia 10,900 116,628
93.7 170.9 91.3
7. Indonesia
1,881 17,292 100.4 102.3 111.4
8. Lµo
2,767 23,865 103.9 90.0 84.9
9. Malaysia 12,374 109,248
99.0 133.4 157.5
10. Philippin
2,728 23,926 95.4 125.8 114.8
11. Singapore 1 95,326 97.4 124.3 130.0
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
1,001
12. Th¸i Lan 13,602 120,867
99.9 161.7 137.3
13. Mü 32,889 323,758
105.1 141.4 111.0
14. Canada
7,595 72,083 105.2 218.3 131.6
15. Ph¸p 17,681 141,219
102.4 233.1 147.4
16. Anh
9,748 79,809 102.5 172.7 130.1
17. §øc
7,649 71,775 104.8 182.5 130.7
18. Thuþ sÜ
1,671 15,477 101.3 170.7 129.9
19. Italy
2,133 16,674 82.0 203.6 151.7
20. Hµ Lan
3,934 27,543 102.2 188.9 147.9
21. Thuþ ®iÓn
1,155 16,842 130.5 145.6 126.3
22. §an M¹ch
1,470 15,738 95.4 133.0 114.7
23. PhÇn Lan
220 4,449 92.2 86.1 106.9
24. BØ
1,790 14,185 114.5 211.5 140.0
25. Na uy
888 8,777 112.7 193.9 89.0
26. Nga
2,879 33,051 103.5 131.0 157.0
27. T©y Ban Nha
3,852 20,220 71.6 159.9 132.8
28. óc 17,618 166,601
101.4 125.6 133.4
29. Niudil©n
1,661 14,792 97.4 120.6 142.5
30. C¸c thÞ trêng 3 262,914 105.9 152.2 124.6
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
kh¸c 4,888
Nguån: Tæng côc Thèng kª
Trong đó 15 nước có lượng khách vào Việt Nam lớn nhất gồm:
15 THÞ TR¦êNG DÉN §ÇU
VÒ kh¸ch quèc tÕ ®Õn viÖt nam
(XÕp theo n¨m 2007)§¬n vÞ: L
N¨m 2000
N¨m 2001
N¨m 2002
N¨m 2003
N¨m 2004N¨m 2005
Tæng sè 1,734,025
1,881,797
2,147,832
2,006,641 2,485,519
2,957,87
1. Trung Quèc
626,476 672,846 724,385 693,423
778,431 717,409
2. Hµn Quèc
53,452 75,167 105,060 130,076
232,995 325,882
3. NhËt 152,755 204,860 279,769 209,730
267,210 338,509
4. Mü 208,642 230,470 259,967 218,928
272,473 330,197
5. §µi Loan 212,370 200,061 211,072 207,866
256,906 274,379
6. óc 68,162 84,085 96,624 93,292 128,661 148,839
7. Ph¸p 86,492 99,700 111,546 86,791 104,025 133,432
8. Th¸i Lan 26,366 31,789 40,999 40,123 53,682 86,844
9. Malaysia 20,378 26,265 46,086 48,662 55,717 80,602
10. Campuchia
124,557 76,620 69,538 84,256 90,838 198,582
11. Singgapore
29,100 32,110 35,261 36,870 50,942 82,240
12. Anh 56,355 64,673 69,682 63,348 71,016 82,909
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
13. §øc 32,058 39,096 46,327 44,609 56,561 69,378
14. Canada
30,845 35,963 43,552 40,063 53,813 63,780
15. Nga 6,017 8,092 7,964 8,604 12,249 24,895
Nguån: Tæng côc Thèng kª
Đến tháng 4/ 2008 chúng ta đã đón 1,96 triệu lượt khách nước ngoài tăng
116,1% so với cùng kỳ của năm 2007.Dự kiến con số này còn cao hơn nữa
trong những tháng tiếp theo của năm 2008. Điều đó chứng tỏ du lịch Việt
Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Cùng với sức hấp dẫn của ngôi sao đang lên, du khách nước ngoài lựa
chọn Việt nam vì đây còn là điểm đến thân thiện có bề dày lịch sử mấy
nghìn năm cùng với truyền thống văn hoá, đa dạng và phong phú. Như vậy
du lịch giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc đã được khẳng định một
cách sâu sắc hơn bao giờ hết
Khôi phục, lưu truyền và giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc. Đặc tính của khách du lịch là sau mỗi chuyến du lịch, khi trở về nơi
cư trú họ thường kể lại cho bạn bè, người thân nghe những gì họ đã thu
lượm được trong chuyến du lịch. Một phần không nhỏ trong câu chuyện là
về bản sắc văn hoá, truyền thống và tính cách của con người nơi mà họ đã
tham quan du lịch. Cứ tính theo một cách suy diễn thông thường nếu du lịch
đảm nhận tốt vai trò của mình trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống thì ảnh hưởng đó sẽ được nhân lên 5,6 lần và có thể là nhiều
hơn thế trong cộng đồng, trong xã hội. Nhờ có du lịch mà giá trị văn hoá,
truyền thống không bị mai một hoặc mất dần đi mà ngược lại các truyền
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
thống đó luôn được ghi nhớ trong lòng du khách từ các thế hệ này đến thế hệ
khác. Cũng có khi những giá trị văn hoá truyền thống đã bị lãng quên theo
thời gian nhưng du lịch lại góp phần khôi phục lại những truyền thống đó
bằng cách dựng lại những hình ảnh, những biểu tượng hoặc sự kiện có liên
quan để phục vụ cho sự khám phá, thích tìm hiểu của du khách.
Du lịch tạo ra nguồn kinh phí để tu bổ các giá trị văn hoá vật thể. Du
lịch được xác định là một ngành công nghiệp không khói, một ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước. Trong tương lai đây là ngành có nhiều tiềm năng và
triển vọng. Nguồn thu từ du lịch tương đối lớn nó góp phần cân đối ngân
sách và đóng góp hang tỷ đồng cho đất nước. Một phần ngân sách thu được
từ du lịch được trích ra để tạo nguồn kinh phí tu bổ các giá trị văn hoá vật
thể như: công trình kiến trúc, đình chùa miếu, lăng tẩm,… Sự tôn tạo này
nhằm khôi phục lại những gì đã xuống cấp của các di sản văn hoá. Điều này
thể hiện tương đối rõ vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Phát triển du lịch đồng nghĩa với việc khẳng định, tôn vinh giá trị văn hoá
truyền thống. Mỗi điểm du lịch đều ẩn chứa trong mình những giá trị văn
hoá sâu sắc, những truyền thống độc đáo của dân tộc . Ngay cả phong cách
lối sống của cư dân tại điểm cũng thể hiện điều đó. Khi du khách đi du lịch
sẽ được thẩm thấu các giá trị văn hoá đó qua nhiều cách khác nhau như tự
khám phá cảm nhận, hay qua sự truyền đạt giàu cảm xúc rung động lòng
người từ hướng dẫn viên du lịch. Hoặc cũng có thể từ những thông tin đã
được cung cấp tại điểm du lịch. Vậy có thể thấy du lịch có vai trò quan trọng
trong việc truyền đạt và lưu giữ giá trị văn hoá truyền thống trong lòng du
khách từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nó tạo nên một sức sống trường tồn
của văn hoá truyền thống .
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Du lịch bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống như một tài
nguyên quý giá. Vì văn hoá truyền thống còn được coi là nguồn tài nguyên
để phát triển du lịch. Muốn phát triển du lịch một cách bền vững thì nhất
định phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy chính nguồn tài nguyên quý
giá này. Du lịch coi văn hoá truyền thống của dân tộc như một điểm mạnh,
một sự độc đáo và làm nên sự khác biệt của du lịch nước ta với các nước
khác. Cho nên ngành du lịch đã nghiên cứu về giá trị văn hoá của nứơc ta.
Sự nghiên cứu này tạo nên sự hiểu biết về văn hoá dân tộc hay có những tác
phẩm về văn hoá du lịch hay du lịch văn hoá từ đó mà ra đời. Các tác phẩm
này giống như một kho tang quý giá giúp cho các thế hệ đời sau hiểu hơn về
văn hoá của 54 dân tộc anh em.
Du khách đi du lịch đồng nghĩa với việc kích thích tiêu thụ các sản phẩm,
dịch vụ trong đó có các sản phẩm văn hoá gồm cả sản phẩm văn hoá vật thể
và phi vật thể. Ví dụ : khi du khách đến thăm làng nghề họ sẽ muốn mua
những sản phẩm do các nghệ nhân tạo ra, hay đơn giản hơn họ đi du lịch chỉ
để thưởng thức một món ăn truyền thống nổi tiếng. Đây cũng là hình thức kế
thừa và phát huy giá trị văn hoá dân tộc .
Du lịch còn giống như một sợi dây liên kết vô hình gắn chặt các quốc gia
khu vực với nhau. Khi du khách đi du lịch tạo ra sự giao lưu giữa các vùng
miền với nhau. Đây cũng là cơ hội cho những nhà nghiên cứu, những người
làm du lịch hay bất cứ ai ai đổi các kinh nghiệm bảo tồn và phát triển văn
hoá. Từ đó có những phương pháp tối ưu nhất để bảo tồn và phát triển giá
trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta.
Để có nhận thức tổng quát về vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị văn hoá truyền thống chúng ta sẽ đi sâu xem xét vai trò của
du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể
qua ví dụ điển hình sau:
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
2.1. Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, Việt Nam được biết đến là một vùng
đất còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hoá và cách mạng có giá trị. Giá trị
đặc biệt quan trọng bởi giúp tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử dân tộc, tập quán
các làng xã, để các thế hệ hôm nay và mai sau có thêm hiểu biết về cội
nguồn dân tộc, truyền thống quê hương.
Trong đó làng quê Kinh Bắc- một vùng truyền thống, nơi quần tụ bao đời,
cái nôi văn hoá của cả nước, nơi có truyền thống khoa bảng, lưu giữ những
huyền thoại đẹp với bao di tích và lễ hội dân gian - một điểm du lịch hấp
dẫn, đựơc coi là một ví dụ điển hình của việc phát triển du lịch gắn liền với
bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì thế trong phần
này sinh viên đã chọn Bắc Ninh để phân tích, tìm hiểu vai trò của du lịch
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống trên địa bàn tỉnh
và mang những nét chung của ca đất nước.
Theo ông Nguyễn Duy Nhất, PGĐ ban quản lý di tích Bắc Ninh thì toàn
tỉnh hiện có 1259 di tích thuộc các loại hình: di tích lịch sử - văn hoá, di tích
kiến trúc nghệ thuật, và di tích cách mạng. Trong đó nhiều nhất vẫn là đình,
đền và chùa. Có thể kể đến những chùa như Chùa Dâu, Phật tích…là những
di sản văn hoá tiêu biểu của quê hương Kinh Bắc và dân tộc. Đây là các
chứng tích vật chất xác thực, phản ánh sinh động về lịch sử lâu đời và truyền
thống văn hiến – cách mạng của nhân dân Bắc Ninh nói riêng cũng như cả
nước nói chung.
- Chùa Dâu: Chùa Dâu được bộ văn hoá thông tin đưa vào danh mục 38 di
tích quốc gia đặc biệt. Cùng với việc xác định giá trị lịch sử văn hoá của di
tích, lập bản đồ đất đai va khoanh vùng bảo vệ di tích, ngăn chặn xâm hại di
tích, trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn di tích cũng được quy định một cách rõ
ràng.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Chắc hẳn câu ca dao cổ:
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp Chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu
Đã đi sâu vào tâm trí mỗi du khách như một lời nhắc nhở, một lời mời gọi về
thăm lại chùa Dâu. Miền Dâu, liên lâu hoặc luy lâu - huyện Thuận Thành
ngày nay nằm gần trung tâm châu thổ Bắc Bộ. Khi đến thăm chùa Dâu du
khách sẽ được hiểu thêm về Luy Lâu đó là một trong 3 trung tâm Phật giáo
lớn trong đế chế Trung Hoa là luy lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Hơn nưa
miền Dâu sớm trở thành một trung tâm thương mại sầm uất mang tầm cỡ
quốc tế. Nơi đây là chốn đô hội, thủ phủ của quận Giao Chỉ và Châu Giao,
trung tâm giao lưu kinh tế, văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo của nước ta những
thế kỷ sau công nguyên với các nước trong vùng. Trung tâm Phật giáo Dâu
được hình thành trong bối cảnh đó.
Đồng thời khách du lịch cũng được cung cấp những thông tin về chùa Dâu
như chùa xưa có tên chữ là “Cổ Châu Tự”, “Thiền Địch Tự”, và ngày nay là
“Diên ứng tự”. Tên Phổ biến vẫn được gọi là chùa Pháp Vân theo tên Vị
Phật được thờ ở chùa, còn Chùa Dâu là theo tên địa phương. Đây là ngôi
chùa có lịch sử hình thành và phát triển cổ nhất trong số các chùa còn lại ở
nước ta hiện nay. Được xây dựng vào thế kỷ VI sau công nguyên gắn liền
với lịch sử du nhập đạo phật vào vùng Dâu. Chùa được coi là trung tâm phật
giáo của vùng Dâu.
Tại chùa Dâu có một cây tháp lớn có chân hình vuông. Dân gian truyền
rằng tháp này do Mạc Đĩnh Chi xây dựng lại, cao chín tầng. Mặc dù mặt
tháp không có trang trí hoa văn nhưng giá trị kiến trúc mỹ thuật được thể
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
hiện ở hình khối, màu gạch và mạch vữa, có mối quan hệ với kiến trúc. Chùa
tháp của Ấn Độ trong buổi đầu dựng chùa tháp Hoà Phong là một biểu
tượng thể hiện sự giao thoa văn hoá và tín ngưỡng bản địa giữa người Việt
Nam và Ấn Độ.
Du khách còn được thưởng thức những tác phẩm có giá trị nghệ thuật
thẩm mỹ cao như: nan can bậc cửa trước của tháp chạm thành khối lượng
tròn, mỗi bên có một con sóc nằm phủ phục theo dáng bò từ trên xuống. Đây
là sản phẩm của thời Trần. Hay tấm bia ghi lại việc xây dựng tháp, con cừu
đá dài 1,33m cao 0,88m. Tượng cừu được tạo bằng đá sa thạch biến chất
nằm gọn trong khối chữ nhật, rừng cong, tai dài, có râu chải thẳng xuống,
miệng ngậm, mũi bẹt, mũi ti hí. Hình tượng nghệ thuật này rất hiếm trong
nghệ thuật điêu khắc Việt Nam. Từ nghệ thuật điêu khắc cho đến chất liệu
của tượng đã thể hiện sự giao thoa văn hoá giữa Việt Nam, Ấn Độ và Trung
Hoa mang dấu ấn của lịch sử phát triển vùng Dâu và thành cổ luy lâu.
Ngoài ra còn nhiều tác phẩm đẹp của các nghệ sỹ trong thời Trần còn
lưu lại đến ngày nay. Cánh gà ngoài cửa giữa cột cái và cột hiên có mảng
ván thời nhà Trần chạm dây hoa, còn lại đều là của thời Lê thuộc nửa cuối
thế kỷ XVII với hình rồng ổ mẹ con đùa giỡn nhau, đây là hình tượng nghệ
thuật mang đầy chất dân gian. Bên trong thượng điện là những tượng phật đa
dạng, phong phú và đặc sắc chỉ có ở chùa Dâu, thể hiện sự giao thoa, hội
nhập văn hoá giữa tôn giáo ngoại lai là phật giáo với tín ngưỡng thờ các vị
thần thiên nhiên là thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp. Tuy nhiên truyền thuyết
mang đầy màu sắc huyền thoại những vị thần này trong tín ngưỡng của cư
dân trồng lúa nước vùng nhiệt đới Bắc Bộ Việt Nam đã chuyển thành Phật
Tử Pháp. Đó cũng là khát vọng bao đời của người nông dân mong sao cho
mưa thuận gió hoà để nền nông nghiệp vốn phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên
có thế sinh sôi nảy nở.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Chùa Dâu là ngôi chùa có lịch sử cổ nhất nước ta hiện nay, một viên
ngọc quý vô giá minh chứng phật giáo du nhập lớn từ những đầu thế kỷ
công nguyên vào nước ta. Chùa Dâu còn là nơi giao thoa, hội nhập giữa văn
hoá tín ngưỡng Việt Nam với văn hoá tín ngưỡng, kiến trúc phật giáo từ Ấn
Độ. Nơi đây còn lưu giữ nhiều giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ kính vô giá,
nhiều cổ vật có giá trị là những tư liệu quý hấp dẫn du khách tham quan
nghiên cứu.
Đến với chùa Dâu dù chỉ một lần du khách sẽ cảm nhận được bề dày
văn hoá của vùng Dâu được ghi dấu ấn rõ nét trong từng thớ gỗ, từng chi tiết
kiến trúc ở đây. Vì vậy chùa Dâu được coi là một tài nguyên du lịch vô giá.
Cũng chính nhờ du lịch mà kiến trúc độc đáo này được thẩm thấu và truyền
đạt ở mức độ cao nhất. hàng năm, chùa Dâu đón hàng ngàn lượt du khách
đến thăm. để khi trở về họ ghi đậm dấu ấn của chùa Dâu trong lòng cứ như
vậy những giá trị này được khẳng định và không bị mai một theo thời gian.
mặt khác chùa còn được trùng tu nhiều lần nhằm bảo vệ, phát huy giá trị lịch
sử văn hoá theo hướng phát triển du lịch văn hoá nhằm phục vụ khách thăm
quan du lịch. Trong đó việc phát triển du lịch tạo ra một nguồn kinh phí
đáng kể trong việc trùng tu tôn tạo di tích lịch sử văn hoá này. Nguồn thu đó
có thể từ tấm long hảo tâm của du khách thập phương qua việc góp công
đức, nguồn thu đó cũng có thể thu được từ các dịch vụ tại điểm du lịch. Mặt
khác để phục vụ cho việc phát triển du lịch, ban quản lý di tích đã có nhiều
phương pháp quản lý nhằm bảo tồn khôi phục và phát triển di sản văn hoá
vật thể quý giá này. Điều này có ý nghĩa trong việc chống xuống cấp làm
mai một di sản. Vậy với việc bảo tồn, khôi phục và phát triển di tích chùa
Dâu du lịch đóng vai trò quan trọng.
Chùa bút tháp: chùa có tên là “Linh khúc thiên tự cách chùa Dâu 3 km.
Tên chùa mới có từ nửa sau thế kỷ XIX do vua Tự Đức khi thấy cây tháp
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
của chùa giống như bút đang đề thơ nên trời. Chùa có kiến trúc hoà nhập với
môi trường tự nhiên bao quanh. Đây cũng là nơi có những trung tâm Phật
giáo suốt từ đầu công nguyên đến đầu thời tự chủ.
Chùa Búp Tháp là một ngôi chùa độc đáo, có bộ cục gọn gàng, chặt chẽ
và rất sinh động. Việc xây dựng dựa vào các vật liệu bền chắc và đã kế thừa
những nét truyền thống dân tộc từ thời đại Lý, Trần trước đó. Các đơn
nguyên kiến trúc được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu trung tâm nhưng lại
tự nhiên ở khu vực xung quanh. Cụm kiến trúc trung tâm ở chùa Bút Tháp
bao gồm 9 đơn nguyên chạy song hàng, bố trí đăng đối trên một đường “linh
đạo” lối bố trí đăng đối theo trục chính và phương pháp về xử lý các khối
kiến trúc của công trình đã tạo nên vẻ thâm nghiêm, u tịch và thanh thoát
cho cảnh chùa
Mở đầu là tam quan ba gian, hai mái, tường hồi, bít dốc. Gác chuông
hai tầng tám mái, nền vuông, một gian hai dĩ, tám hoa. Toàn khối kiến trúc
như một bông sen khổng lồ, độc đáo và hấp dẫn. Trong chùa còn có nhiều
kiểu kiến trúc lạ và đẹp mắt tạo sự thanh thoát, bay bổng. Các tháp chính ở
vòng ngoài tuân thủ triệt để nguyên tắc đăng đối: phía sau chùa là tháp Tôn
Đức nằm trên đường trục, bằng đá ghép, bình diện vuông, năm tầng là điểm
cuối đưa nhịp điệu kiến trúc hoà vào sự bay bổng lên không khung, hai bên
có hai tháp đá khác cùng hàng ngang nhưng nhỏ hơn. Hai bên sườn chùa, từ
giữa hồi nhà Trung kéo ra, bên trái có tháp đá Bảo Nghiêm, bình diện bát
giác đây là điểm cao nhất để tôn xưng hòa thượng mở đầu cho hệ thống tổ
chùa ở đây.
Trong kiến trúc cũng như trang trí ở chùa Bút Tháp, ta không thể không
nói đến các yếu tố của hai nền văn hoá Việt – Hàn. Tuy nhiên các yếu tố này
đã được việt hoá một cách tài tình. Khiến chúng hoà nhập nhuần nhuyễn với
văn hoá Việt, tạo một phong cách độc đáo của chùa Bút tháp.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Chùa Bút Tháp còn có một hệ thống tượng tròn rất đặc sắc so với ngôi
chùa khác. Có ba loại chính: Tượng Phật giáo, tượng chân dung và tượng
thờ màu. Trong đó tượng Phật giáo có nhiều loại: tượng Phật, tượng các vị
Bồ Tát, tượng Hộ Pháp, tượng các vị La Hán… Có những pho rất quý, nổi
tiếng, độc nhất vô nhị và được coi là khuôn mẫu của tượng Phật giáo Việt
Nam. Nổi trội hơn cả là tác phẩm Phật Bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay.
Tượng chân dung ở chùa Bút Tháp rất đáng được quan tâm gồm tượng tổ
chức và tượng hậu Phật. Tượng hậu Phật thực sự nở rộ vào thế kỷ XVII và
điển hình là chua Bút Tháp.
Trang trí ở chùa Bút Tháp hết sức nổi bật trên hai loại chất liệu là gỗ và
đá được thể hiện nhiều trên các chi tiết kiến trúc cũng như trên đồ thờ. Trên
các chi tiết kiến trúc gỗ, các mảng chạm mang thuần phong cách truyền
thống việt, những con rồng của thời Lê Trung Hưng có hiện đại vào khoảng
giữa và cuối thế kỷ XVII được chạm rất tinh xảo.
Có thể nói ông cha ta đã thổi hồn vào ngôi chùa Búp Tháp qua các thời
kỳ từ lúc dựng chùa tới các lần trùng tu sau này. Đến thăm chùa Bút Tháp ta
được cảm nhận tinh thần từ bi hỉ xả của đạo Phật, để thưởng thức những tác
phẩm điêu khắc kiến trúc, để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật một thời
và để cảm nhận niềm tự hào về tài nghệ của cha ông. Khi du khách đến tham
quan đồng nghĩa với việc khẳng định giá trị lớn lao của kiến trúc, nghệ
thuật, văn hóa, tôn giáo tại đây. Hàng năm, chùa Bút Tháp đón hàng ngàn
lượt du khách trong và ngoài nước đến thăm. Đây còn là một con số đáng tự
hào vì khẳng định giá trị văn hóa truyền thống của nước ta luôn là tài nguyên
du lịch hấp dẫn. Đồng thời mỗi du khách đến thăm chùa được cảm nhận về
giá trị, và vẻ đẹp độc đáo của chùa thì càng thêm tự hào về đất nước và con
người Việt Nam. Điều này có ý nghĩa giáo dục lớn lao đối với ý thức bảo vệ
và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của mỗi người. Du lịch cũng tạo ra
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
nguồn kinh phí đóng góp cho chùa Bút Tháp trùng tu và khôi phục những
giá trị kiến trúc đã bị mai một. Việc phát triển du lịch cùng giúp cho ban
quản lý và phát huy cụm di tích để phục vụ nhu cầu của khách du lịch.
Nhắc đến Bắc Ninh ta không thể không nhắc đến Từ Sơn, nơi khởi
nguồn của nhà Lý, một triều đại phong kiến thịnh vượng vào bậc nhất của
nước ta. Nơi đây được coi là một vùng văn hóa cổ của người Kinh Bắc, nơi
có nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng được công nhận. Hiện nay Từ Sơn
quản lý 66 di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, để phục vụ nhu cầu
văn hóa của người dân cũng như khách du lịch. Trải qua những thăng trầm,
biến cố lịch sử, sự thay đổi của nền kinh tế, nhưng nhiều làng cổ của huyện
Từ Sơn vẫn giữ được nét văn hóa riêng, đặc trưng của vùng Kinh Bắc cổ
xưa.
Trong đó đình Đình Bảng và Đền Đô như những chứng tích lịch sử và
trở thành điểm du lịch hấp dẫn của Bắc Ninh nói riêng và của cả nước nói
chung. Tại đây vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
du lịch được thể hiện rõ nét.
- Đình Đình Bảng:
Đình Đình Bảng của Bắc Ninh đã trở lên quen thuộc với mỗi người
trong câu ca dao:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Đình Bảng với anh thì về
Đình Bảng là tên làng và tên xã nay thuộc huyện Tiên Sơn, huyện lưu giữ
ngôi đình nổi tiếng là Đình Bảng công trình kiến trúc này được xây dựng
năm Bính Thìn triều Lê, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ II (1736). Được dựng trên
một khu đất không cao lắm, truyền rằng có một con nhện khổng lồ ở trung
tâm làng. Đây là một công trình kiến trúc tuyệt xảo, giàu tính dân tộc, nghệ
thuật chạm khắc trang trí điêu luyện.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
đình Đình Bảng trông về hướng Nam, nguyên trước đây có cả tam quan, tả
vu và hữu vu. Nhưng những kiến trúc đó đã bị phá hoại hoàn toàn trong thời
gian kháng chiến chống thực dân pháp. Nay đình chỉ còn lại tòa bái đường,
ống muống và hậu cung nối liền với nhau tạo thành một khối chữ “công”.
Trong quá trình lịch sử từ ngày dựng đình tại khu vực Đình Bảng chưa có
biến cố nào gây tác hại thay đổi ngôi Đình, những thành phần kiến trúc và
lối cấu trúc vẫn được giữ nguyên, nên đình Đình Bảng có thể được xem như
một tài liệu gốc để tìm hiểu nghệ thuật kiến trúc thế kỷ XVIII.
Khi đến thăm đình Đình Bảng du khách còn được thưởng thức công trình
quan trọng nhất về nghệ thuật cũng như về kiến trúc chính là toà Bái Đường.
Toà này dược xây dựng trên một nền cao hai bậc, cạp đá xanh xung quanh
rất bề thế và vững chắc.
Bốn mái Đình xoè rộng ra bốn phía tránh nắng hắt, mưa xiên. Các toà mái
uốn cong nhẹ nhàng, duỗi ra cho đến đoạn chót thì cong vút lên, bắt gặp độ
cong của tòa mái lên, tạo thành đầu đao như cánh của một bông sen.
Hai đầu dốc mái có nắp riềm và vỉ ruồi trang trí mây, hoa, lá bằng kỹ thuật
chạm thủng tỉ mỉ và công phu. Hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc được
thể hiện rõ nét. Không thể đem ngôi đình đồ sộ này so sánh với hình ảnh nhà
sàn trống đồng Đông Sơn, nhưng ta vẫn thấy sự đồng nhất rất rõ giữa hai
mẫu hình ấy. Như vậy đình Đình Bảng là sự nối tiếp, kế thừa của một truyền
thống kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng nước.
Không chỉ là công trình mang tính khoa học cao đình Đình Bảng còn là một
tác phẩm nghệ thuật trang trí kiến trúc nổi tiếng. Ván nong gạch vòng xung
quanh toà Bái Đường như một vòng hoa nghệ thuật, làm cho kiến trúc bề
thế mà duyên dáng, chúng nối tiếp nhau chạy vòng quanh đình được chạm
nổi hồi văn nền gấm chữ “ vạn”. Chốt bẩy là những con rồng mình nhỏ
nhắn, hai chân nắm hai sợi râu mép, dáng hình ngộ nghĩnh nét mặt như
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
cười, 28 con rồng là 28 hình ảnh sinh động, đa dạng. Trên tám đầu bẩy
trước còn đặt thêm tám đầu rồng, nghê để đỡ mái cũng là tác phẩm điêu
khắc không đồng bản, mang một ấn tượng đẹp từ bên ngoài. Trong lòng đình
là tất cả những tinh hoa của nghệ thuật chạm khắc nửa đầu thế kỷ XVIII.
Khi bước vào bái đình ta sẽ chiêm ngưỡng ngay bức cửa võng lớn ở cung
ngoài thuộc gian giữa, phủ kín một diện rộng. Màu váng son choáng lộng
của cửa vọng làm rực lên cả gian đình. Đề tài trang trí là các đồ án chữ
triện, chữ công, hoa, lá, và các con vật trong bộ tứ quý. Nhìn toàn thể thấy
có phần rườm rà,nhưng vẫn chặt chẽ, tươi mát, các chi tiết có rậm, nhưng
không rối , càng nhìn càng cảm thấy say mê tài của các nghệ nhân trang trí.
Không thể không nhắc đến hai tác phẩm tượng tròn, tạc hai con nghê gỗ ở
đầu dư của xà hạ. Đôi ghê không nằm mà ngồi xổm, chống thẳng hai chân
trước như hai trục đỡ vững chắc.Trông tư thế trang nghiêm mà không cứng
nhắc, lại rất sôi động. Đây là những tác phẩm quý có giá trị văn hoá cao.
Suốt hai trăm năm từ khi xây dựng cho đến nay, đình Đình Bảng đã đi vào
đời sống tình cảm của nhân dân địa phương và một vùng xứ Bắc, làng cũ
quê xưa:
“ Thứ nhất là đình Đông Khang
Thứ nhì Đình Bảng, vẻ vang đinh Diềm.”
Trong hệ thống tài nguyên hữu thể của Bắc Ninh, nổi trội lên là đình Đình
Bảng vì những giá trị đặc sắc bậc nhất về kiến trúc, cũng như nghệ thuật
trang trí của nó. Đây vừa là một tài sản kiến trúc vô giá cần được quan tâm,
bảo tồn và giữ gìn. Đây vừa là một điểm du lịch nổi tiếng của Bắc Ninh
cũng như của cả nước. Hàng năm điểm du lịch đình Đình Bảng đón hàng
trăm, hàng nghìn người tham quan và con số đó ngày càng tăng . Việc du
lịch phát triển đã tác động lớn đến môi trường, không gian văn hoá, kinh tế,
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
đời sống của nhân dân trong vùng. Đồng thời trong đó du lịch cũng thể
hiện được vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì
đình Đình Bảng là tài nguyên văn hoá và cũng là tài nguyên du lịch nên
những giá trị kiến trúc độc đáo này được giữ gìn một cách cận thận nhằm
lưu lại một nền văn hoá một thời cũng như phục vụ điều kiện tham quan.
Điều này có tác động đến các ban quản lý di tích nhằm bảo tồn và phát huy
giá trị văn hoá truyền thống có hiệu quả để phục vụ du lịch . Hơn nữa khi du
lịch phát triển những giá trị kiến trúc nghệ thuật, hay những tác phẩm quý
giá của đình Đình Bảng đã được khai thác sử dụng, điều này khẳng định giá
trị của văn hoá truyền thống nước ta. Nó không bị quên lãng mà luôn luôn
trở thành một kho tàng kiến thức cho du khách tìm hiểu, khai thác. Sự phát
triển du lịch tạo ra sự giao lưu văn hoá tuy nhiên những giá trị văn hoá
truyền thống không bị mai một làm mất bản sắc riêng của vùng mà nó luôn
được bảo tồn và phát huy hơn nữa trong tương lai.
Vậy du lịch có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá truyền thống.
Ngoài chùa Dâu, chùa Phật Tích, đình Đình Bảng, Bắc Ninh còn được biết
đến với đền Đình Diềm, đền Bà Chúa Kho, Văn Miếu Bắc Ninh,…Với hệ
thống các di tích lịch sử văn hoá này, du lịch đều thể hiện được một cách rõ
nét vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Ngày nay, khách quốc tế tới Việt Nam ngày càng đông (đến 4/2008 chúng
ta đã đón 1,69 triệu lượt khách ước tính con số này còn tiếp tục tăng trong
các tháng tiếp theo ) và mức chi trả cho hoạt động du lịch của họ tại Việt
Nam ngày tăng, đã phản ánh được rằng Việt Nam có du lịch hấp dẫn, đáp
ứng được nhu cầu của du khách. Phần lớn khách quốc tế tới nước ta đều cho
rằng họ đi du lịch là để khám phá, khám phá những nét độc đáo của bản sắc
dân tộc Việt Nam, khám phá những điều kỳ diệu của các danh thắng mà chỉ
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
ở Việt Nam mới có để từ đó họ hiểu hơn về đất nước và con người Việt
Nam. Tất cả điều đó có lẽ du khách sẽ tìm thấy được khi họ có những
chuyến tham quan thực tế tại các di sản, cả ở di sản thế giới cũng như di sản
ở Bắc Ninh. Điều đó khẳng định vai trò của các di sản đối với sự phát triển
của du lịch nước ta. Cũng như vai trò của du lịch đối với việc bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc qua hệ thống văn hoá
vật thể, mà tiêu biểu là các di tích lịch sử, di sản văn hoá nơi kết tinh mồ hôi
và xương máu, trí tuệ và tình cảm, bàn tay tài khéo léo và óc sáng tạo…của
các thế hệ dân làng trong thời kỳ lịch sử lao động sản xuất, chiến đấu nhằm
xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.
Du lịch làng nghề: trong xu thế hội nhập và mở cửa như hiện nay, làng nghề
truyền thống đang dần lấy lại vị trí quan trọng của mình trong đời sống kinh
tê, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Những làng nghề này như một
hình ảnh đầy bản sắc, khẳng định nét riêng độc đáo không thể thay thế,một
cách giới thiệu sinh động về đất nước và con người của mỗi vùng, miền, địa
phương. Phát triển du lịch chính là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, được
nhiều quốc gia ưu tiên trong chính sách quảng bá và phát triển du lịch.
Những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ thể hiện
ở những con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế, ở việc giải quyết nguồn lao
động địa phương mà hơn thế còn là một cách thức giữ gìn và bảo tồn những
giá trị văn hoá truyền của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài để phát triển
du lịch bền vững.
Việt Nam là một quốc gia có bề dầy truyền thống lịch , là đất nước có rất
nhiều làng nghề truyền thống độc đáo.Điểm đặc trưng của làng nghề Việt
Nam chính là sự gắn bó, tồn tại song song với lịch sử dân tộc. Các làng nghề
ra đời dựa trên các nền văn hoá, văn minh của dân tộc. Các làng nghề tập
trung chủ yếu ở khu vực đồng bằng phía Bắc, được phân chia thành các
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
nhóm khác nhau. Theo phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Trung Lương – viện phó
viện nghiên cứu phát triển du lịch Việt Nam, làng nghề là một nét đặc thù
của Việt Nam với sự kết hợp độc đáo cùng các lễ hội, phong tục, tập quán
các vùng, miền. Hiện cả nước có 1500 làng nghề thủ công, trong đó có 300
làng nghề truyền thống với hơn 150 năm tồn tại và phát triển. Chính vì vậy
Việt Nam là nước có tiềm năng rất lớn về việc khai thác và phát triển hình
thức du lịch làng nghề. Hiện nay du lịch làng nghề đang là hình thức ngày
càng hấp dẫn du khách, là một ưu tiên trong phát triển du lịch Việt Nam
bởi những giá trị to lớn mà nó mang lại. Tại Việt Nam có rất nhiều làng
nghề truyền thống trong đó Bắc Ninh được biết đến là một vùng quê nổi
tiếng cò nhiều làng nghề truyền thống như: làng Mái ( làng Tranh Đông Hồ),
làng Đồng Kỵ,… là những nơi tiêu biểu cho việc phát triển làng nghề Việt
Nam.
Du khách trong nước và quốc tế ngày càng ưa chuộng những tour du lịch
làng nghề truyền thống nói trên với mong muốn được chiêm ngưỡng những
tác phẩm thủ công độc đáo được làm ra dưới bàn tay tài hoa của những nhà
nghệ nhân, và được thấy trong đó cả một chiều dài lịch sử – văn hoá lâu bền.
Việc phát triển du lịch tại các làng nghề truyền thống giúp khách có được
những điều kiện để học hỏi về sản phẩm, hiểu rõ về quy trình sản xuất. Điều
này giáo dục ý thức của cộng đồng và du khách trong việc bảo tồn các giá trị
văn hoá truyền thống. Điều đó tạo ra sự tham gia tự nguyện của cả cộng
đồng,đó chính là chìa khoá làm nên sự thành công trong bảo tồn làng nghề
truyền thống cũng như bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống
của cả dân tộc ta.
Bảo tồn làng nghề truyền thống giờ đây đã là mối quan tâm chung của cả
quốc gia. Theo phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Trung Lương với kinh nghiệm hiện
nay của Việt Nam, du lịc tại các làng nghề đã có sự sóng đôi trong các
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
phương án và sáng kiến bảo tồn các giá trị văn hoá. Sự phát triển du lịch ở
các làng nghề đã hướng tới phát triển bền vững theo xu hướng bảo tồn và
phát huy văn hoá truyền thống, chính vì vậy năm 2004 dự án nghiên cứu
khả thi về phát triển du lịch liên quan đến làng nghề thủ công dọc hành lang
Đông – Tây đã được đề xuất và được thông qua. Viện nghiên cứu Châu Á
cũng đã tiến hành nghiên cứu, có sự hợp tác tổ chức chương trình hội thảo
du lịch làng nghề tại Việt Nam. Những nghiên cứu này có giá trị lớn với
Việt Nam để có các phương pháp phát triển du lịch mà có thể bảo tồn giá
trị văn hoá Việt Nam.
Các giải pháp phát triển du lịch làng nghề nhằm đạt được mục đích bảo tồn
và phát huy giá trị văn hoá cần phải có sự đồng thuận thực hiện được nhiều
phía, từ trung ương đến địa phương, phát huy cả nguồn lực trong nước và
quốc tế. Việc phát triển du lịch đã lôi kéo được nhiều bên và nhiều tổ chức
tham gia cùng bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam.
Bàn về bảo tồn và giữ gìn các làng nghề truyền thống có một số ý kiến cho
rằng: nghề thủ công đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước,
kết hợp được các yếu tố truyền thống và hiện đại, phát triển kinh tế,phát
triển du lịch với bảo tồn phát huy văn hoá truyền thống dân tộc. Sự đa dạng
về văn hoá được phản ánh qua các sản phẩm thủ công truyền thống. Việc
phát triển du lịch tại các làng nghề đã thực hiện hàng loạt biện pháp, áp dụng
các sáng kiến, để phát triển làng nghề thủ công tạo ra sản phẩm cung cấp cho
khách du lịch. Đây cũng là cách thức hữu hiệu để bảo tồn và giữ gìn làng
nghề truyền thống.
Việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá thông qua phát triển du lịch các
làng nghề truyền thống đã trở thành mối quan tâm của cả quốc gia dân tộc.
Đặc biệt với Bắn Ninh nơi có các sản phẩm thủ công của làng nghề đa dạng,
độc đáo đã trở thành một đối tượng tài nguyên du lịch có giá trị, được khai
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
thác để phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu tìm hiểu văn hoá, tham quan du lịch
của du khách, mang lại lợi ích kinh tế cho địa phương và đất nước, góp
phần tôn vinh , bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Hiện tại ở Bắc
Ninh du lịch làng nghề đã có những bước phát triển nhất định. Nhiều làng
nghề đã được khôi phục và phát triển, gắn kết làng nghề truyền thống với
phát triển du lịch.
Du lịch tại các làng nghề giúp cho các làng nghề tiêu thụ được nhiều sản
phẩm, kích thích sản xuất sản phẩm và làm đa dạng hoá các sản phẩm du
lịch, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tăng cường khả năng lựa
chọn của du khách với sản phẩm du lịch của Việt Nam, tăng cường khả
năng xây dựng các sản phẩm du lịch có tính khác biệt lớn giữa các điểm đến
trong tour, tăng cường mức độ hấp dẫn và ấn tượng với du khách, thoả mãn
nhu cầu của du khách, đặc biệt là khách du lịch quốc tế, muốn tìm hiểu về
văn hoá làng, xã, gắn liền với nó là những sản phẩm thủ công truyền thống
của làng nghề mang tính độc đáo, nghệ thuật cao.
+ Làng tranh Đông Hồ:
“ Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát, có nghề làm tranh”
( ca dao)
Làng Mái là làng Đông Hồ – quê hương của dòng tranh Đông Hồ nổi tiếng,
nằm cạnh sông Đuống. Vì được khai sinh từ một mảnh đất có nền tảng văn
hoá và truyền thống thủ công nên Đông Hồ đã sớm nổi lên như một điểm
sáng văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần đáng tự hào của miền quê Kinh
Bắc. Trong khi các dòng tranh như tranh Hàng Trống, tranh làng Sình, tranh
Kim Hoàng, bị hiện đại hoá, thất truyền đến nay hầu như không còn nữa thì
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
tranh Đông Hồ đến nay vẫn được duy trì và đứng vững, thu hút sự quan tâm
của du khách, đặc biệt là khách quốc tê. Ngày nay có thể xem Đông Hồ như
một trung tâm sản xuất tranh dân gian nổi tiếng nhất Việt Nam. Tuy nhiên
tranh Đông Hồ không còn hưng thịnh như xưa. Trước đây hầu hết các gia
đình trong làng đều làm tranh nhưng bây giờ chỉ còn lại ba hộ: ông Nguyễn
Đăng Chế, ông Nguyễn Hữu Sam và ông Trần Nhật Tấn. Nhưng dẫu sao ta
vẫn tự hào rằng nghề làm tranh Đông Hồ vẫn tồn tại, và không những thế
sản phẩm của nó còn có mặt ở nhiều nơi trên thế giới như: Nhật Bản,
Singapo, Đức, Hoa Kỳ,…
Khi đến thăm làng tranh Đông Hồ du khách du khách được cung cấp thông
tin về kỹ thuật làm tranh khắc gỗ dân gian của làng Đông Hồ phải trải qua
các quy trình như:
Sáng tác mẫu tranh: đây là khâu quan trọng nhất, từ chọn nội dung
đến hình thức. Vì vậy nghệ nhân phải có một trình độ hiểu biết nhất
định, có óc sáng tạo và tình cảm sâu đậm. Để vẽ mẫu hoàn hảo thì
phải tốn hàng tháng và qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Các mẫu tranh
sau khi đã được bổ sung thường được vẽ bằng mực nho lên giâý mỏng
để khi dán sấp lên mặt gỗ, nét vẽ thấm vào mặt sau tờ giấy, nhờ đó
người thợ mới khắc được lên bề măt gỗ.
Khắc ván: trước tiên phải chọn ván in, chất liệu được làm từ thiên
nhiên, từ các loại cỏ cây gần gũi với đời thường vì thế nó tạo nên một
nét độc đáo cho riêng dòng tranh này.
In tranh: là giai đoạn phức tạp nhất, gồm nhiều khâu khác nhau như:
bối điệp, nhuộm giấy, in và tô màu và thường được làm khi thời tiết
khô ráo.
Ngoài ra những nội dung và giá trị nghệ thuật của tranh Đông Hồ cũng được
du khách cảm nhận một cách sâu sắc. Khi nhìn ngắm những bức tranh Đông
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Hồ du khách có cảm giác được trở về với cuộc sống thôn dã của những
người nông dân Việt Nam. Nội dung tranh rất phong phú và đa dạng, tất cả
đều được bắt nguồn từ phong tục tập quán, từ những sự kiện lịch sử, từ nếp
sống sinh hoạt thường ngày của người mà nên, ví dụ có những bức tranh có
đề tài lấy từ truyện cổ tích, ca ngợi tình nghĩa thuỷ chung, thảo hiền, trừng
trị gian ác, như tranh Sơn Tinh – Thuỷ Tinh,Thạch Sanh , Kiều,…
Tranh về đề tài lịch sử, ca ngợi những vị anh hùng dân tộc như tranh: Bà
Trưng, Bà Triệu,…
Tranh phản ánh nguyện vọng, ước mơ của nhân dân lao động về cuộc sống
ấm no, hạnh phúc như tranh: Hứng Dừa, Đánh Ghen, Đánh Vật,…
Loại tranh khắc gỗ Đông Hồ không chỉ hấp dẫn ở nội dung tư tưởng mà còn
thoả mãn yêu cầu thẩm mỹ của người xem. Chính vì cái đẹp ấy đã làm nó
sống mãi. Dù nhu cầu thẩm mỹ xã hội đã thay đổi nội dung tranh luôn luôn
kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tạo nên nét đẹp của
dân tộc Việt Nam.Đặc biệt khi cuộc sống được nâng cao, nhu cầu du khách
tăng thì làng tranh Đông Hồ còn trở thành một điểm du lịch hấp dẫn. Đến
thăm làng tranh Đông Hồ du khách không chỉ cảm nhận trực tiếp vẻ đẹp của
những tác phẩm làng nghề thủ công mà còn hiểu được vẻ đẹp của con người
làng Mái.Mặt khác khi đến nơi đây họ còn muốn mua những bức tranh đó
làm quà kỷ niệm. Điều nàyđã kích thích tiêu thụ sản phẩm nơi đây. Giúp cho
việc sản xuất được đảm bảo diễn ra thường xuyên và phát triển rộng khắp.
Điều này có vai trò quan trọng trong viêc duy trì và phát huy sự tồn tại của
làng tranh Đông Hồ.
Với làng nghề Đồng Kỵ ( Từ Sơn) – một làng nghề truyền thống, chuyên
làm các đồ gỗ mỹ nghệ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Những nét chạm
trổ nổi tiếng bao đời nay, vẫn được thể hiện trên các sản phẩm tinh xảo, theo
phong cách cổ. Phát huy thế mạnh của làng nghề truyền thống, Đồng Kỵ đã
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
trở thành vùng quê trù phú. Du khách đến đây có thể lựa chọn nhiều mặt
hàng như: vải may quần, áo, đồ dùng học tập…
Tóm lại du lịch có vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống như đã được phân tích đối với văn
hoá vật thể của nước ta trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Còn đối với văn hoá phi
vật thể vai trò của du lịch được thể hiện trong việc bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá truyền thống như sau:
2.2.2 Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống phi vật thể:
Là một đất nước được biết đến có nền văn hoá đa dạng và phong phú,
không chỉ ở hệ thống giá trị văn hoá vật thể mà còn ở những nét đẹp trong
giá trị văn hoá phi vật thể, tiêu biểu là các lễ hội, âm nhạc, ẩm thực, phong
tục, tập quán…
- Lễ hội ở Việt Nam là một loại hình sinh hoạt văn hoá tổng hợp hết
sức đa dạng, phong phú và độc đáo. Sự kết hợp giữa lễ hội và di tích
lích sử – văn hoá đã tạo nên sự hấp dẫn kỳ diệu đối với du khách, giúp
khai thác tốt hơn các loại hình du lịch này.
Có thể nói, di tích lích sử văn hoá chính là những công trình, hiện vật, dấu
tích,… tồn tài dưới dạng vật chất trong khi đó lễ hội là những giá trị tinh
thần , là cái hồn nhằm chuyển tải những nét đẹp truyền thống đến muôn đời
sau. Việc lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộcqua các hình
thức du lịch và phát triển cho phù hợp với thời đại mới là vô cùng quan
trọng và cần thiết. Đây được xem là thế mạnh của du lịch Việt Nam so với
các nước trong khu vực Đông Nam Á .Không chỉ có nước ta mà hầu như các
nước trên thế giới đều có lễ hội. ở mỗi nơi, lễ hội có hình thức và nội dung
khác nhau, về ý nghĩa màu sắc và tình cảm… Nhưng tất cả đều có một cái
chung: đó là hoạt động văn hoá mang tính nhân loại. Lễ hội có hai mảng yếu
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
tố cấu thành : lễ gồm những nghi thức nghi lễ, cách ứng xử của con người và
cộng đồng người đối với tiền thân, thần linh ; hội là những hoạt động vui
chơi, thể thao,văn hoá, về tính chất nội dung: lễ hội thường mang màu sắc
tôn giáo và lễ hội gắn liền với các tập tục sinh hoạt sản xuất, những sự kiện
lịch sử. Đối với Việt Nam lễ hội dành vị trí trung tâm của sự ngưỡng vọng
cho con người . Một đặc điểm của lễ hội Việt Nam là thời gian tổ chức hầu
như quanh năm và những giá trị truyền thống văn hoá Vịêt Nam ít tính chất
thần bí, giầu tính nhân bản. Hầu hết các lễ hội đều gắn liền với một thần
linh, có thể là người thường được thiêng liêng hoá. Đó chính là những nhân
vật lịch sử có công với đất nước. Ngoài lễ hội gắn với các danh nhân lịch
sử, sự độc đáo lễ hội Việt Nam còn thể hiện ở các lễ hội gắn liền với nền
văn minh lúa nước. Đó là lễ hội liên quan đến nghề nông, biểu hiện tâm tư
tình cảm đối với các vị thần, đối với trời đất đã ban cho con người nguồn
sống vô tận, thể hiện niềm khát khao có những vụ bội thu, ca ngợi cái đẹp
của cuộc sống và lao động. Hiện tại chúng ta có những lễ hội lớn tầm cỡ
quốc gia như: hội Đền Hùng, hội Chùa Hương, hội Lim, … và hàng nghìn
lễ hội khu vực khác.
Ngày nay khi du lịch phát triển, đặc biệt du lịch văn hoá ngày càng thu hút
đông đảo sự quan tâm của du khách thì việc khai thác và tổ chức tốt các lễ
hội truyền thống của dân tộc là điều kiện giúp cho ngành du lịch tăng sự
phong phú của các chương trình du lịch. Đồng thời du lịch cũng tạo sự giao
lưu văn hoá, tìm hiểu văn hoá của các dân tộc và việc giới thiệu cho du
khách các lễ hội truyền thống của Việt Nam sẽ làm tăng thêm cho nhân dân
thế giới sự hiểu biết về dân tộc Việt Nam, qua đó tăng cường tình đoàn kết
hữu nghị, tăng cường các mối quan hệ. Vì vậy, vai trò bảo tồn và phát huy
giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc được thể hiện một cách rõ nét.
Ngoài ra khi du khách tham gia vào các lễ hội cùng người dân địa phương
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
đã làm cho quy mô của lễ hội được mở rộng lớn hơn,sự sôi động và nội
dung của lễ hội cũng phong phú hơn. Điều này giúp cho các lễ hội ngày
càng phát triển rộng hơn và được duy trì thường xuyên tuy nhiên nó vẫn kế
thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.
Bắc Ninh nơi vốn được coi là làng quê cổ kính của Việt Nam thì các hoạt
động văn hoá, nghệ thuật với các nội dung hấp dẫn được tổ chức thường
xuyên. Nơi đây đã sản sinh cho Việt Nam rất nhiều thuần phong mỹ tục. Hệ
thống lễ hội và ca hát là nét đẹp tiêu biểu của vùng đất này. Trong đó hội
Lim được coi là một lễ hội lớn và gây được ấn tượng sâu đậm trong lòng du
khách. Đây là một sinh hoạt văn hoá nghệ thuật đặc sắc của nền văn hoá
truyền thống lâu đời ở miền Bắc. Hội Lim diễn ra trên mảnh đất Nội Duệ.
Vào ngày 11 tháng giêng ( âm lịch) tại thị trấn Lim đã xuất hiện nhiều du
khách nam thanh, nữ tú từ phương xa tới, các nhà trọ , khách sạn đã trật kín
chỗ. Họ tới đây sớm để tham dự hôị Lim với đầy đủ các nghi lễ linh thiêng.
Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm và diễn ra tại ba địa phương
bao quanh đó là xã Nội Duệ, Liên Bão, và thị trấn Lim với nhiều hoạt động
của cả phần lễ và phần hội. Tại khu vực trung tâm lễ hội, dựng chín bức
trướng ở phần lăng tướng quân Nguyễn Đình Diễn phục vụ việc tế lễ. Từ
ngày 10 tháng giêng (âm lịch), tất cả các đình, đền, chùa trên địa bàn ba địa
phương nêu trên đều mở cửa phục vụ việc tế lễ dâng hương. Ngày 13 tháng
giêng – chính hội sẽ được tổ chức rước từ Nội Duệ về đồi Lim và lễ dâng
hương, tế lễ ở lăng Hồng Vân và chùa Hồng Ân. Phía trước trước chùa Hồng
Ân dựng sân khấu trung tâm và bốn lán Quan họ. Các trò vui dân gian sẽ
được mở rộng thật hấp dẫn và đặc sắc trên đồi Lim như: vật, cờ người, dệt
cửi, chọi gà, tổ tôm điếm, đu tiên, đập niêu, bịt mắt bắt dê …
Đặc biệt khi du khách đến với hội Lim còn được quấn hút và say mê hơn cả
vẫn là các loại hình sinh hoạt văn hoá Quan họ – loại hình dân ca đã trở
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
thành tài sản văn hoá chung của cả dân tộc. Các liền anh, khăn xếp, áo the,
liền chị áo mớ ba, mớ bẩy, nón thúng quai thao đã sẵn sàng đến hẹn lại lên,
gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu,tinh tế và lịch lãm theo lề lối của
người Quan họ. Bằng những lời ca đối đáp diễn ra trong nhà, trên sân đình,
trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những chiếc thuyền thúng giữa ao, hồ-
dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trươg
Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Hát Quan họ thường được tổ
chức từ ngày 12 tháng giêng tại Lim, cửa đình , cửa chùa Lũng Giang, Lũng
Sơn, Duệ Đông (thị trấn Lim), Đình Cả, Lô Bao, Duệ Khánh ( Nội Duệ) ,
Hoài Thượng, Hoài Trung, Hoài Thị ( Liên Bão). Để thoả mãn những du
khách sành sỏi quan họ, thích một không khí đầm ấm gia đình, hát đối đáp
Quan họ cũng sẽ được tổ chức tại các gia đình nghệ nhân ở Lũng Giang,
Lũng Sơn, Duệ Đông ( thị trấn Lim). Tại những địa điểm trên đồi Lim, hay
trên thuyền , trong nhà du khách sẽ được thưởng thức hàng trăm làn điệu dân
ca,quan họ thể hiện trong lối chơi đối đáp đạt tới trình độ nghệ thuật cao và
là sự hội tụ tuyệt vời của thơ ca, nhạc hoạ nhằm bày tỏ tình yêu trai gái
miền Quan họ với đầy đủ trạng thái, cung bậc trong mối giao cảm giữa nam
và nữ giữa con người với vạn vật, thể hiện khát vọng vươn tới cuộc sống với
sự thuỷ chung làm giá trị cao cả và lâu bền nhất. Điều này được phản ánh
trong câu ca:
“ Hôm nay sum họp trúc mai
Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm”
Hội Lim chính là nơi trúc mai sum họp tương phùng, tương ngộ. Bên cạnh
những khuôn mặt chị Hai, anh Ba,thợ cấy,thợ cày đi trẩy hội còn có cả sự
góp mặt của du khách thập phương.
Vậy có thể nói hội Lim mang đậm bản sắc văn hoá Việt trên vùng đất Kinh
Bắc – là một trong những vùng đất tiêu biểu của cội nguồn văn hoá dân tộc,
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
đáp ứng được tình cảm, sự mến mộ của du khách thập phương. Khi đó nó có
tác dụng kích thích du lịch phát triển. Và du lịch lại có sự tác động trở lại với
hội Lim. Nhờ có du lịch mà những câu ca, điệu hát, những phong tục,tập
quán của người dân Kinh Bắc được mọi người biết đến cùng nâng niu và gìn
giữ. Du lịch khai thác và sử dụng yếu tố truyền thống trong hội Lim như một
tài nguyên, vậy nên du lịch có những phương pháp bảo tồn phát triển chính
nguồn tài nguyên đó để hướng tới phát triển du lịch bền vững. Các nhà quản
lý và những nhà nghiên cứu đã tìm ra biện pháp để bảo tồn giá trị văn hoá
quý giá này làm cho hội Lim sẽ sống mãi với thời gian và mang đậm nét
riêng của dân tộc Việt Nam.
- Âm nhạc: nước ta có truyền thống lâu đời về âm nhạc. Ngay từ thời cổ
xưa cư dân Việt Nam đã rất say mê với âm nhạc. Đối với họ âm nhạc
là một nhu cầu không thể thiếu. Bởi vậy trong quá trình phát triển lịch
sử, người Việt Nam đã sáng tạo ra rất nhiều nhạc cụ và các thể loại ca
nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, để có thêm sự phấn chấn và sức mạnh
trong lao động, trong chiến đấu, để giáo dục con cháu truyền thống
của cha ông,đạo lý làm người, để giao tiếp với thế giới thần linh, để
bay lên những ước mơ về cuộc sống tương lai tươi đẹp, hạnh phúc
trong hiện tại và tương lai. Trải qua bao thiên biến ngày nay Việt Nam
còn lưu giữ một kho nhạc khí đủ loại từ những dạng đơn sơ nhất cho
đến những dạng có sự phát triển cao với kỹ thuật diễn tấu tinh tế.
Chúng ta đang sống và làm việc trong thời kỳ đổi mới, giao lưu văn
hoá đã tạo điều kiện cho văn hoá phương Tây, trong đó có âm nhạc,
nghệ thuật, xâm nhập vào Việt Nam. Trong khi mở cửa, hoà nhập với
thế nhập với thế giới bên ngoài chúng ta hết sức coi trọng vốn văn
hoá dân tộc. Chất liệu quan trọng để tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc.
Bên cạnh những loại hình tạm coi là hiện đại như phim, sân khấu
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
opera, nhạc giao hưởng,… luôn song hành tồn tại các loại sân khấu
chèo, tuồng, cải lương, dân ca,… Đối với khách nước ngoài sức hấp
dẫn của chương trình tham quan không phải vị họ được thưởng thức
các loại hình nghệ thuật phương tây ở Việt Nam. Các loại hình nghệ
thuật truyền thống là đối tượng mà họ hướng tới để khám phá
thưởng thức. Đặc biệt quan họ – một loại dân ca đăc sắc của vung đất
Kinh Bắc. Dân ca Quan họ nổi tiếng không chỉ là ở những lời ca trữ
tình, nồng nàn yêu cuộc sống và tình yêu lứa đôi trai gái hoặc với 200
làn điệu âm nhạc đặc sắc mà còn do những đặc điểm khác hiếm thấy ở
dân ca nơi khác.
Đến với Quan họ Bắc Ninh là đến với lời ca, tiếng hát trữ tình dịu dàng,
đằm thăm, làm say lòng người. Hình thức đối đáp giao duyên giữa nam và
nữ trong quan họ gắn bó chặt chẽ với đời sống kinh tế – xã hội của cộng
đồng người Việt và trở thành đặc trưng văn hoá của cư dân vùng châu thổ
Bắc Bộ. Điều này lý giải tại sao Quan họ lại nằm trong danh sách đề nghị
UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.
Bắc Ninh có 44 làng Quan họ gốc, đến nay còn gần 30 làng duy trì được lối
chơi văn hoá Quan họ. Trước đây mỗi làng Quan họ có thể có nhiều bọn
quan họ nam hoặc nữ, môĩ bọn có chừng năm đến sáu người. Người đứng
đầu được gọi là anh Cả hay chị Cả, thường là những người có tuổi, giữ vai
trò tổ chức chỉ đạo,liên hệ với những Quan họ bạn, giữ gìn tiếp xúc cho
đúng thủ tục. Sau anh Cả có các anh Hai, Ba,… sau chị cả là các chị Hai, Ba,
…Những tên này được đặt theo thứ tự thời gian nhập bọn trươc hoặc sau.
Văn hoá Quan họ là kết quả của sự suy ngẫm, sáng tạo không biết mệt mỏi
của người dân. Bằng những lời ca mộc mạc, chân thành nhưng thấm đẫm
tình người, họ có thể nói với chính mình, với bạn bè về những ước mơ, khát
vọng, những tâm trạng buồn, vui, yêu ghét, nhở thương:
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
“ Người ơi, người ở đừng vê
Người về em những khóc thâm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa”
Ngày nay khi du lịch phát triển, khách du lịch muốn nghe và thưởng thức
những lời ca, làn điệu Quan họ của người dân Kinh Bắc. Điều này đã kéo
theo sự phát triển của Quan họ, Quan họ sẽ ngày càng hoàn chỉnh cả về
phương diện âm nhạc, lời ca và hình thức trình diễn. Âm thanh Quan họ giàu
làn điệu, mỗi làn điệu đã đạt tới trình độ ca khúc hoàn chỉnh, có phong cách
riêng. Mỗi bài hát theo từng làn điệu đều có lời thơ chữ tình , âm hưởng
ngọt ngào, giai điệu nhẹ nhàng, ấm áp tình người. Có thể nói về mặt sáng
tạo, nghệ thuật dân ca Quan họ được coi là đỉnh cao nghệ thuật thí ca, xứng
đáng tôn vinh và giữ gìn. Việc phát triển du lịch tại Bắc Ninh có vai trò to
lớn trong việc khôi phục các giá trị văn hoá truyền thống. Đồng thời du lịch
cũng giống như một kênh, một biện pháp để quảng bá giá trị văn hoá Quan
họ tới nhân dân cả nước và thế giới. Giúp cho văn hoá Quan họ có được vị
trí xứng đáng trong đời sống của người dân Việt Nam cũng như toàn cầu.
- Ẩm thực : với sự phát triển của du lịch trên thế giới và nhu cầu giao
lưu hội nhập, ẩm thực đã trở thành một ngành được các nhà chuyên
môn nghiên cứu. Đó là “ văn hoá ẩm thực”, “ nghệ thuật ẩm thực”,…
Sự giao lưu đã làm cho một số nền văn hoá ẩm thực nổi tiếng có một
số loại thức ăn , đồ uống là đặc sản của một vùng, một quốc gia, có
loại thuộc về những món ăn truyền thống. Mặc dù có sự giao lưu
nhưng những thói quen, tập quán trong ẩm thực của mỗi dân tộc rất
khó thay đổi. Có thể nói nguyên nhân chính là ẩm thực đã gắn liền với
điều kiện tự nhiên về sản xuất lương thực,thực phẩm và thói quen đó
đã “thấm sâu vào máu” của dân tộc. Ăn uống là nhu cầu lịch sử tự
nhiên của con người trong ba nhu cầu cơ bản: ăn, mặc , ở. Từ ngàn
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
xưa con người đã chú ý tới cách chế biến món ăn và cách ăn. Cách ăn
ở đây không phải đơn giản là ăn như thế nào, ăn bằng gì, mà trong đó
chứa đựng nhiều yếu tố kể cả văn hoá. Chẳng hạn như nghệ thuật nấu
nướng,chọn lựa những ẩm thực bổ dưỡng có tác dụng chữa bệnh.
Nghệ thuật trang trí món ăn, quan hệ ứng xử của thành viên trong gia
đình trong bữa ăn, lễ nghi đón tiếp khách trong bữa ăn … chẳng thế
mà ông cha đã dạy “học ăn, học nói” hoặc “ ăn trông nồi ngồi trông
hướng”. Tất cả những yếu tố đó được lưu truyền, bổ sung, nâng cao
qua các thời đại và trở thành văn hoá ẩm thực của dân tộc.
Việt Nam với các món ăn truyền thống như bánh Chưng, bánh Dày, có món
nổi tiếng đặc trưng của một vùng như: Chả Cá Lã Vọng, Nem Sài Gòn, bánh
cuốn Thanh Trì,bánh phu thê Bắc Ninh,… Đó là một kho tàng quý giá để
thoả mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ẩm thực dân tộc của du khách trên
thế giới.
Khám phá cái lạ trong món ăn truyền thống của dân tộc không chỉ để thưởng
thức vị ngon của nó mà còn giúp du khách hiểu biết thêm lịch sử dân tộc,
hay hiểu biết thêm về triết lý của dân tộc Việt, hiểu về tình yêu thiên nhiên
đất nước và lòng tôn kính công lao của cha ông.
Để bảo tồn và phát huy các món ăn dân tộc truyền thống, nhiều hoạt động
quảng bá các món ăn Việt Nam đã được thực hiện. Năm 1996 tổng cục du
lịch đã tổ chức hội thi nấu ăn toàn quốc với mục đích khuyến khích các
doanh nghiệp phát huy khả năng chuyên môn về chế biến các món ăn dân
tộc. Sài Gòn Tourist tổ chức “tuần lễ món ăn Việt Nam”.Năm 2000, hưởng
ứng chương trình du lịch “ Việt Nam điểm hẹn của thiên niên kỷ mới”,các
công ty du lịch khắp ba miền Bắc – Trung – Nam đã tổ chức tuần lễ , tháng
món ăn Việt Nam để giới thiệu cho du khách trong và ngoài nước. Khách
sạn Continental tổ chức “ tháng món ăn Việt Nam” công ty du lịch Huế tổ
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
chức Festival Huế, công ty du lịch Quảng Ninh tổ chức “ Hạ Long
Festival”… Những hoạt động vừa kết hợp các lễ hội truyền thống vừa trình
diễn cho du khách nghệ thuật ẩm thực truyền thống dân tộc.
Với bánh Phu Thê- một đặc sản của vùng quê Đình Bảng, một nét đặc trưng
của nền văn hoá Kinh Bắc. Ai chưa được ăn thì bị hấp dẫn bởi cai tên, còn ai
đã từng được thưởng thức thì không thể quên được hương vị độc đáo của nó.
Bánh Phu Thê đã có mặt ở làng quê Bắc Ninh từ rất lâu rồi. Đây là một loại
bánh sang trọng dùng trong những dịp lễ tết, cưới hỏi hay dùng làm quà
biếu. Theo chân khách hành hương bánh Phu Thê đã đi khắp trong nam
ngoài bắc, và từng xuất ngoại qua nhiều nước. Một số người Hàn Quốc sau
khi được mời ăn loại bánh này đã mua hẳn một vali bánh về làm quà. Bánh
được gói bằng lá dong giản dị, rồi luộc lên, bánh Phu Thê không khoe mui ,
toả hương như bánh rán, bánh Khúc, chỉ tới khi bóc bánh đặt lên đĩa nó mới
gây nên sự ngỡ ngàng. Dưới lớp vỏ bánh sắc vàng trong suốt rắc lấm tấm
những hạt vừng đen , nhân bánh hiện ra. Ngoài đỗ xanh đãi sạch vỏ đã được
hấp chín đánh tơi. người ta còn cho thêm đường trắng cùi dừa, hạt sen, và
các hương ngũ vị. Tất cả như biểu tượng cho sự hoà hợp của đất trời và con
người . Lá gói bánh cũng là lá dong gói bánh Chưng nhưng phải lựa chọn
cẩn thận hơn, sau khi rửa sạch lá để ráo nước người ta phải tước bớt cộng
để khi gói bánh được mềm mại. Lá lót trong phải là lá chuối tây dẻo luộc
chín hong khô chứ không được dùng lá chuối tiêu. Người ta còn quét lên lá
một lớp mỡ để khi bóc bánh không bị dính, lại làm cho bánh có độ ngậy đặc
trưng.
Bánh Phu Thê ngày càng được nhiều người ưa thích. Du lịch đã góp phần
đáng kể trong việc tuyên truyền giới thiệu bánh Phu Thê đến mọi người
dân Việt Nam cũng như trên thế giới. Điều này giúp cho bánh Phu Thê cũng
như nhiều món ăn Việt Nam hay văn hoá ẩm thực Việt Nam có chỗ đứng
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
trên nền văn hoá ẩm thực thế giới. Nhiều nhà hàng, khách sạn đã đưa bánh
phu thê vào thực đơn để nhằm thoả mãn nhu cầu của du khách cũng như sự
khơi dậy niềm ham thích tìm hiểu văn hoá ẩm thực Việt Nam. Đó là những
hoạt động thiết thực nhằm bảo tồn và phát huy văn hoá ẩm thực truyền
thống Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị để phát huy vai trò của du lịch
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống.
3.1 Một số giải pháp để phát huy vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị văn hoá truyền thống:
Sự phát triển của du lịch có những tác động nhất định tới nền văn hoá
truyền thống của dân tộc. Bên cạnh những tác động tích cực nó còn làm cho
nền văn hoá truyền thống có những biến đổi như: bào mòn và ảnh hưởng
bởi lối sống hiện đại của du khách …Cho nên để phát huy tối đa vai trò của
du lịch trong việc bảo tồn văn hoá truyền thống cần có những giải pháp sau:
- Phát triển du lịch cần đi đôi với nhận thức đúng đắn và có sự phối hợp
chặt chẽ giữa những người làm kinh doanh du lịch và các cấp đảng
uỷ, chính quyền các ngành và các tổ chức xã hội và cộng đồng dân
cư làng xã với mỗi người dân trong mọi hoạt động nhằm bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Đồng thời để bảo tồn các
giá trị văn hoá truyền thống tại mỗi vùng địa phương cần phải xác
định phát triển du lịch một cách có nguyên tắc và có những giải pháp
cụ thể để bảo tồn những giá trị này .
- Phát triển du lịch dựa trên sự gắn bó mật thiết giữa du lịch và giá trị
văn hoá truyền thống dân tộc. Từ đó có những biện pháp khai thác
hợp lý, khi khai thác phải phát huy được giá trị văn hoá truyền thống
dân tộc, nghĩa là phải xác định vai trò quan trọng của du lịch trong
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
việc bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống. Đôi khi phát triển du lịch
nhưng mục tiêu kinh tế không được đặt lên hàng đầu.
- Tổ choc tất cả các hoạt động du lịch văn hoá theo mô hình hợp lý,
kích thích tiêu thụ sản phẩm văn hoá qua đó vừa trực tiếp phục vụ
nâng cao đời mọi mặt của dân làng, vừa đưa tới sự phát triển mạnh mẽ
của các hoạt động du lịch dịch vụ. Trong đó xu hướng gắn văn hoá
với phát triển du lịch cần xử lý hài hoà lợi ích của các thành phần
cộng đồng dân cư làng , xã nơi khai thác các giá trị văn hoá truyền
thống. Và cũng nhờ phương thức đó mà các nguồn lực xã hội được
huy động tối đa cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền
thống, đưa văn hoá trở thành một nhịp cầu giao lưu và hội nhập quốc
tế
- Tổ chức các cuộc hội thảo, nghiên cứu các bài tham luận của các
chuyên gia Việt Nam và nứơc ngoài về quản lý bảo tồn di sản và các
giá trị văn hoá trong xu hướng phát triển mạnh mẽ các loại hình du
lịch ở Việt Nam, các vấn đề như quy hoạch, định hướng phát triển du
lịch tại các khu vực có giá trị văn hoá phong phú và đa dạng. Xác
định mức độ cần thiết của việc bảo tồn tôn tạo và phát huy các giá trị
văn hoá truyền thống. Bên cạnh công tác bảo tồn , gìn giữ giá trị của
nền văn hoá truyền thống thì hoạt động xúc tiến quảng bá được đánh
giá là hết sức quan trọng, đặc biệt các chương trình quảng bá, xúc tiến
tại nước ngoài. Qua đó tôn vinh những giá trị ưu tú trong văn hoá các
dân tộc Việt Nam
- Mặc dù còn là một ngành kinh tế mới nhưng với những đặc trưng của
mình , du lịch có thể tạo ra sức bật lớn, lan toả nhanh. Để phát huy hết
vai trò của ngành du lịch thì du lịch Việt Nam cần có chiến lược cụ
thể hơn, căn bản hơn, trước hết từ công tác đào tạo con người, và quy
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
hoạch cơ sở hạ tầng theo hướng coi du lịch là một kênh quan trọng
trong việc bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc và nâng cao vị thế đất nước.
Với việc lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc qua
hình thức du lịch và phát triển phù hợp với thời đại mới là vô cùng
quan trọng.
- Xây dựng một hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển du lịch
nhưng vẫn đảm bảo việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy và làm giàu bản
sắc văn hoá dân tộc. Tránh tình trạng khai thác bừa bãi, thiếu tôn
trọng truyền thống văn hoá dẫn đến sự biến dạng lai tạp, mất bản sắc
dân tộc.
- Ngành du lịch nên có những hình thức tái đầu tư trở lại hoặc hỗ trợ
các địa chỉ và hoạt động văn hoá truyền thống hàng năm từ doanh thu
ngành du lịch và bằng tài trợ trực tiếp để bảo vệ tôn tạo, chống xuống
cấp một số di tích văn hoá.
- Tổ chức các lễ hội dân gian, các lớp tập huấn truyền nghề từ các nghệ
nhân cao tuổi cho đến các lớp trẻ tạo nên sự hiểu biết sâu sắc về giá trị
văn hoá truyền thống trong tất cả các tầng lớp xã hội.
- Tăng cường công tác giáo dục về truyền thống văn hoá, lịch sử cho
cộng đồng, nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức trân trọng các giá trị
văn hoá dân tộc cho mỗi người dân. Có chiến lược đào tạo để bồi
dưỡng nguồn nhân lực, đảm bảo chất lượng và văn minh trong phục
vụ.
- Phân loại các điểm, các khu du lịch theo ý nghĩa và vai trò, các
chuyên đề du lịch cần phát huy, khai thác.
Từ những phân tích ý nghĩa, vai trò của một số điểm du lịch, khu du lịch
ta they mỗi nhóm tài nguyên du lịch đều chứa đựng những ý nghĩa nhất
định đối với nhu cầu của khách du lịch. Có nhóm chứa đựng ý nghĩa
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
truyền thống dân tộc, có nhóm chứa đựng ý nghĩa về kinh tế nhóm thì
chứa đựng ý nghĩa về văn hoá, nhân văn, nhóm chứa đựng giá trị tâm
linh,…Nói chung, ý nghĩa của các tài nguyên du lịch là đa dạng và phong
phú và mỗi tài nguyên đều có thế mạnh và những hạn chế trong việc khai
thác, phát huy ý nghĩa của nó đối với từng loại hình du lịch. Nhìn lại
thực tế chúng ta thấy ngành du lịch và xã hội còn thiếu về hệ thống tư
liệu nghiên cứu, phản ánh hệ thống các giá trị của các tài nguyên du lịch.
Khách nước ngoài vào du lịch Việt Nam, nhất là khách du lịch balô
thường họ phải tham khảo sách giới thiệu chỉ dẫn về du lịch Việt Nam do
các tác giả nước ngoài xuất bản. Không những khách nước ngoài mà
ngay cả những công ty du lịch khi cần đến tư liệu cũng phải cần đến sách
nước ngoài để tham khảo. Tuy chưa phong phú nhưng đã có một số tài
liệu nghiên cứu giới thiệu, cung cấp nhận thức ý nghĩa về các điểm du
lịch, các khu du lịch.Mặc dù còn nặng về giới thiệu về lịch sử hình thành
và tồn tại của các điểm, các khu mà bỏ qua những giá trị về bản sắc văn
hoá, nhân văn chứa đựng trong bản thân nó hoặc chứa đựng trong những
truyền thuyết gắn liền với sự tồn tại của di tích đó. Nhưng nó có tác dụng
lớn trong việc quảng bá những nơi mà khách chưa đến tham quan và đưa
lại một nguồn khách du lịch không nhỏ cho các điểm du lịch đó.
- Duy tu tôn tạo các di tích, các điểm, khu du lịch khôi phục và phát
triển các làng nghề truyền thống và lễ hội
Các điểm du lịch, các di tích, làng nghề truyền thống là những thứ có ý
nghĩa vật thể trong hoạt động du lịch, nếu không có những giá trị vật thể
này thì du lịch sẽ mất hết ý nghĩa của nó. Quan sát trực tiếp là hoạt động
mang ý nghĩa sinh động nhất trong du lịch bởi vậy việc bảo tồn duy tu có
tầm quan trọng trong du lịch. Duy tu và tôn tạo các di tích, các điểm, các
khu du lịch là một việc làm rất khó, tốn kém thời gian, tiền của. Nếu tôn
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
tạo không đúng quy trình kỹ thuật và nguyên tắc thì việc tôn tạo duy tu sẽ
không đem lại hiệu quả như mong muốn mà nhiều khi còn phản tác
dụng. Bởi vậy công việc duy tu, tôn tạo đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa
bên tham gia như: nhà khoa học , sử học, các nhà nghệ nhân, nhà kiến
trúc xây dung, nhà quy hoạch,… Một đòi hỏi khắt khe của các di tích, các
tài nguyên du lịch là phải giữ được tính nguyên thể của nó. Có như vậy
mới hấp dẫn du khách và phát huy được ý nghĩa của chính nó. Do đặc
tính này nên khi có kế hoạch duy tu tôn tạo một di tích, một quần thể du
lịch cần phải lập kế hoạch một cách chi tiết: phần nào có khả năng duy
tu, tôn tạo , phần nào để nguyên trạng và phần nào cần cải tạo. Tất cả
việc đó cần phải được tiến hành một cách hài hoà, để khi hoàn thành
công trình có vẻ đẹp tôn nghiêm của nó.
Ngoài việc quan tâm duy tu, tôn tạo các tài nguyên vật chất, cần có một
đường lối chủ trương nhằm khôi phục các tài nguyên phi vật thể mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc như các sinh hoạt dân gian, các lễ hội,cần
tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các cấp uỷ, các
ngành đoàn thể trong việc tổ chức lễ hội.
Các di tích trong lễ hội cần được tôn tạo trùng tu để không bị xuống cấp
và mất đi vẻ uy nghi vốn có của nó.
Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng như: điện nứơc, đường giao thông, và các
công tác vệ sinh môi trường an ninh trật tự được đảm bảo,… để tạo tâm
lý an toàn cho khách
- Đầu tư sản xuất đi đôi với việc xây dung và khôi phục một số sản
phẩm vật chất và văn hoá mang tính đặc trưng để thu hút khách tới lễ
hội nói riêng và phục vụ cho việc phát triển đất nước nói chung.
- Khôi phục các làng nghề truyền thống, công nghiệp càng phát triển thì
các làng nghề truyền thống càng thu hút khách du lịch. Các làng nghề
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
này không chỉ thu hút khách du lịch bởi các sản phẩm vật chất nguyên
gốc được sản xuất bằng các phương pháp thủ công mà nó còn thu hút
khách du lịch bởi những giá trị phi vật chất đó là quy trình sản xuất,
cách sản xuất thủ công nhưng lại tạo ra những sản phẩm tinh xảo.
Cách sản xuất, quy trình sản xuất mới là yếu tố kích thích trí tò mò
của du khách vừa đáp ứng vừa thoả mãn nhu cầu tìm hiểu của du
khách. Khách đến thăm làng tranh Đông Hồ chưa hẳn là để mua một
bức tranh mà để tìm hiểu về cách thức làm tranh Đông Hồ. Sauk hi
thoả mãn nhu cầu tìm hiểu người ta lại muốn mua một vài sản phẩm
để làm kỷ niệm. Có nhận biết được điều này thì các làng nghề cũng
như ngành du lịch mới phát huy được giá trị của các làng nghề. Phát
triển du lịch làng nghề cần chú ý:
Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch làng nghề đặt trong mối
quan hệ chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển du lịch chung. Cần
nghiên cứu tiềm năng du lịch, thị trường khách, đánh giá năng lực của
cộng đồng trong phát triển du lịch, quan tâm đến vấn đề phát triển bền
vững du lịch làng nghề
Đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển làng nghề và du lịch làng nghề.
Chú trọng nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp đào tạo nghệ nhân,
hướng dẫn viên, thuyết minh viên, trang bị những kiến thức văn hoá ,
chuyên môn kỹ thuật và cách thức quản lý kinh doanh trong cơ chế thị
truờng, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ đón tiếp khách du lịch.
Tuyên truyền giáo dục rộng rãI trong việc xây dựng nâng cao nhận thức
vai trò vị trí của du lịch làng nghề. Tổ chức hội nghị, hội thảo, tuyên
truyền cổ động nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của việc bảo
tồn giá trị văn hoá truyền thống. Phát triển thị trường, xây dựng thương
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
hiệu làng nghề, đa dạng hoá sản phẩm làng nghề tạo sự hấp dẫn với
khách du lịch.
Trong những năm gần đây, ngành du lịch đã có những bước tiến bộ trong
nhận thức, phát triển trong hoạt động kinh doanh và đã có những đóng
góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Nhà nước đã quan tâm lập ra ban
chỉ đạo nhà nước về du lịch, đã ban hành pháp lệnh du lịch và đang soạn
thảo luật du lịch. Đội ngũ cán bộ kinh doanh đã phát triển cả về số lượng
và chất lượng. Với tiềm năng của mình du lịch sẽ ngày càng phát triển và
phát huy được vai trò của nó trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá truyền
thống.
3.2. Một số kiến nghị
- Có đường lối kế hoạch nhằm tuyên truyền rộng rãi cho các tầng lớp
nhân dân trong xã hôị thấy được du lịch không chỉ là một ngành kinh tế
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân mà nó còn có vai trò
to lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, góp
phần bảo vệ duy tu các di tích, tôn tạo và bảo vệ môi trường, góp phần
tạo ra quy mô to lớn của các lễ hội. Du lịch giúp các cộng đồng cư dân
các vùng miền có cơ hội được giao lưu với nhau, từ đó mà hiểu nhau hơn
và có tinh thần tương thân tương ái tốt hơn…
- Phải có cơ quan chuyên trách đủ khả năng tập hợp thông tin tư liệu về các
tài nguyên du lịch của đất nước, nghiên cứu các giá trị nhân văn truyền
thống và các giá trị khác của nó để biên tập, giới thiệu tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng, nhu cầu du lịch và nhận thức đúng đắn về
vai trò của du lịch trong các tầng lớp dân cư xã hội.
- Phải quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du
lịch nhằm tạo đựơc đội ngũ nhân lực đủ năng lực trí tuệ nhằm cung cấp
cho ngành du lịch. Phát triển du lịch phải gắn liền với văn hoá dân tộc
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
nhằm hướng tới du lịch bền vững tạo ra phong cách riêng độc đáo đậm đà
nét Việt Nam.
- Kiên quyết loại bỏ những ảnh hưởng sai lệch về văn hoá, những hiện
tượng lai căng văn hoá, làm bào mòn nền văn hoá dân tộc làm mất đi nét
đẹp của nền văn hoá truyền thống Việt Nam.
- Nhanh chóng xây dựng các văn bản pháp quy để xây dựng hành lang
pháp lý cho hoạt động của ngành du lịch , nhằm hướng nó phát triển một
cách bền vững có định hướng, tránh được những hoạt động lệch lạc để lại
hậu quả và di chứng xấu cho sự phát triển của ngành. Du lịch là ngành
kinh tế tổng hợp mang tính liên vùng, liên khu vực, không những thế nó
còn mang tính xã hội cao nên hành lang pháp lý không chỉ là có giá trị
điều tiết, hướng dẫn dưới góc độ quản lý nhà nước mà còn là cơ sở điều
tiết mối quan hệ xã hội trong du lịch và sự hợp tác giữa các vùng, các
miền thuộc phạm vi quản lý hành chính khác nhau nhưng lại nằm trong
một tổng thể khu du lịch thống nhất.
Phần 3: Kết luận
Một lần nữa chúng ta khẳng định rằng: du lịch là một ngành kinh tế mũi
nhọn trong các ngành dịch vụ. Phát triển du lịch hoàn toàn phù hợp với
điều kiện kinh tế của nước ta, phù hợp với xu thế chuyển dịch cơ cấu
kinh tế mà các nước đang theo đuổi: đó là tỷ trọng dịch vụ cao trong thu
nhập quốc dân. Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản
Việt Nam cũng đã khẳng định rằng việc phát triển ngành du lịch và một
số ngành dịch vụ khác sẽ từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm
du lịch , thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.Tuy nhiên việc
phát triển du lịch phải gắn liền với bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc nhằm hướng tới phát triển du lịch bền vững.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Đồng thời những giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt
Nam , qua đó được khẳng định tôn vinh và nâng cao lên một tầm mới.
Ngoài ra du lịch còn có một vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân
trí, các bậc tiền bối đã dạy: “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Ngày
nay, du lịch đóng vai trò đưa người dân đi không phải một “ngày đàng”
mà nhiều “ ngày đàng”, và tất nhiên, người đi du lịch sẽ học được rất
nhiều “ sàng khôn”.Nâng cao dân trí thông qua du lịch sẽ mang lại hiểu
quả rất đa dạng, nhiều mặt bởi hình thức của nó là thông qua hoạt động
thực tiễn, cảm nhận và ghi nhận một cách rất trực tiếp và được minh hoạ
bởi những ví dụ hoàn cảnh cụ thể. Du lịch còn đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo điều kiện và cơ hội để các cộng đồng có thể giao lưu với
nhau một cách thuận tiện, dễ dàng không bị dàng buộc bởi các rào cản
như chế độ chính trị, sự khác nhau về tôn giáo hay đẳng cấp xã hội. Nhờ
thông qua du lịch mà hàng triệu khách du lịch quốc tế đã đến tham quan
và giao lưu với nước ta.
Du lịch là một ngành kinh tế non trẻ ở Việt Nam thậm chí trước đây còn
có nhận thức sai lầm rằng: du lịch là ngành ăn chơi nên không được quan
tâm đầu tư, phát triển đúng mức và đúng tiềm năng của đất nước. Trải
qua thời gian và những hiệu quả kinh tế xã hội do du lịch mang lại, nhận
thức về vai trò của du lịch đã ngày càng được cải thiện và phát triển theo
chiều hướng tích cực. Những nhận thức đúng đắn và tích cực đang được
củng cố và phát triển. Tuy vậy trong xã hội vẫn đang tồn tại một xu
hướng khá phổ biến là chỉ quan tâm khai thác nguồn lợi kinh tế của hoạt
động du lịch. Những khai thác chủ quan tức thời, thiếu hiểu biết sẽ gây
nên hậu quả nghiêm trọng đối với tương lai phát triển du lịch của nước
nhà. Nó sẽ nhanh chóng phá vỡ hoặc làm lu mờ những giá trị thực những
giá trị thực của các tài nguyên du lịch, làm ô nhiễm môi trường, từ đó
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
làm mất đi lợi thế so sánh về du lịch của nước ta. Để cho ngành du lịch
phát triển một cách bền vững, phát huy được những giá trị của nó, Nhà
nước cần có những biện pháp kịp thời nhằm nâng cao nhận thức của cộng
đồng cũng như các tổ chức tham gia vào quá trình hoạt động du lịc. Giúp
cho mọi người hiểu được sản phẩm du lịch bao giờ cũng có hai giá trị kết
tinh trong đó là giá trị vật thể và giá trị phi vật thể, có như vậy ta mới giữ
gìn được bản sắc của dân tộc và vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị văn hoá truyền thống mới được thể hiện rõ nét.
Tài liệu tham khảo:
[1] .Luật Du Lịch 2006
[2]. Trần Đức Thanh -Nhập Môn Khoa Học Du Lịch –NXB Đại H ọc Quốc
Gia Hà Nội.
[3 ]. Trần Quốc Vượng- Cơ Sở văn hoá – NXB Giáo Dục
[4 ]. Đinh Trung Kiên -Nghiệp Vụ Hướng Dẫn Du Lịch- NXB Quốc Gia.
[5 ] .Ứng X ử V ăn Ho á Du L ịch.
[6 ]. Tr ần Ng ọc Th êm -C ơ S ở V ăn Ho á- NXB Gi áo D ục.
[7 ]. Đ ào Duy Anh - V ăn Ho á S ử C ư ơng- NXB Th ông Tin.
[8 ]. Nh ững Th ách Th ức C ủa V ăn Ho á Vi ệt Nam Trong Q úa Tr ình H ội Nh ập
Kinh T ế Qu ốc T ế.- NXB V ăn Ho á Th ông Tin Th ư Vi ện V ăn Ho á.
[9 ]. H ội Th ảo Ph át Tri ển S ản Ph ẩm Du L ịch tr ên c ơ s ở khai th ác c ác gi á tr ị v ăn
ho á Vi ệt c ổ- B ộ V ăn Ho á Th ể Thao v à D u L ịch.
[10 ]. B ùi Th ị H ải Y ến- Tu y ến Đi ểm Du L ịch Vi ệt Nam- NXB Gi áo D ục.
[11].Trang web của Tổng Cục Du Lịch Việt Nam
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn