15
* ĐỀ 1 : Cảm nhận về đoạn thơ sau đây trong bài thờ “Việt Bắc” của Tố Hữu: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi , nhìn song nhớ nguồn Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi Aó chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. I. Mở bài : - “Việt Bắc” là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống biệt”, đề tài cũ mà vẫn mới mẻ bởi bài thơ ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954. - Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. - Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân ly : “Mình về mình có nhớ ta …. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. II. Thân bài : 1. Toàn đoạn thơ có 8 câu, được viết theo thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tha thiết mang âm hưởng của ca dao dân ca, là lời ướm hỏi và sự giãi bày nỗi niễm, cảm xúc của cả người đi lẫn người ở lại. 2 . a. Trước hết, mở đầu đoạn thơ là 4 câu thơđầu là lời ướm hỏi chân thành của Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong giây phút ban đầu của cuộc chia tay: “Mình về mình có nhớ ta. Nhìn cây nhớ núi nhìn song nhớ nguồn”. - Gịong thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao. + Cách xưng hô “mình- ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân gian .Đại từ “mìnhtrong dân gian chỉ thể hiện ở cao trào của tình yêu khi hai con người hoá thân thành một. Ở đây, tác giả lấy phép màu nhiệm của tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ với nhân dân. + Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “ mình về mình có nhớ ”được láy lại 2 lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở. + Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm …” làm cho nỗi nhớ càng như thăm thẳm .Con số mười lăm năm vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc ( như mối tình Kim- Kiều qua bao nhiêu năm thử thách vẫn hướng về nhau). +Cách dùng hình ảnh gợi ý niệm về không gian “cây…núi”; “sông…nguồn ” làm cho nỗi nhớ bồng bềnh, thăm thẳm . Các cặp hình ảnh “ cây-núi”; “sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo.--> gợi được không gian núi rừng Việt Bắc với những 1

van ki 1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: van ki 1

* ĐỀ 1: Cảm nhận về đoạn thơ sau đây trong bài thờ “Việt Bắc” của Tố Hữu:Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi , nhìn song nhớ nguồnTiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước điAó chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.I. Mở bài :  - “Việt Bắc” là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống biệt”, đề tài cũ mà vẫn mới mẻ bởi bài thơ ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954.- Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình.- Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân ly :                                                “Mình về mình có nhớ ta                                                ….                                                Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.II. Thân bài:      1. Toàn đoạn thơ có 8 câu, được viết theo thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tha thiết mang âm hưởng của ca dao dân ca, là lời ướm hỏi và sự giãi bày nỗi niễm, cảm xúc của cả người đi lẫn người ở lại.     2 .       a. Trước hết, mở đầu đoạn thơ là 4 câu  thơđầu là lời ướm hỏi chân thành của Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong giây phút ban đầu của cuộc chia tay:                                                  “Mình về mình có nhớ ta.                                                                      …                               Nhìn cây nhớ núi nhìn song nhớ nguồn”.         - Gịong thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao.            + Cách xưng hô “mình- ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân gian .Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể hiện ở cao trào của tình yêu khi hai con người hoá thân thành một. Ở đây, tác giả  lấy phép màu nhiệm của tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ với nhân dân.           + Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “ mình về mình có nhớ”được láy lại 2 lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở.           + Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ càng như thăm thẳm .Con số mười lăm năm vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc ( như mối tình Kim- Kiều qua bao nhiêu năm thử thách vẫn hướng về nhau).          +Cách dùng hình ảnh gợi ý niệm về không gian “cây…núi”; “sông…nguồn” làm cho nỗi nhớ bồng bềnh, thăm thẳm . Các cặp hình ảnh “ cây-núi”; “sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo.--> gợi được không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Ngoài ra, nó còn gợi lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra. Nhớ về nhân dân, như nhớ về cội nguồn Cách liên tưởng so sánh trong bài thơ đã nới rộng về không gian của nỗi nhớ, làm cho kỷ niệm cứ được tuôn ra tầng tầng lớp lớp.         b.Tiếp theo, 4 câu sau là sự thể hiện tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, bịn rịn của người đi với người ở lại

Tiếng ai tha thiết bên cồn….

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.    -Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc ghìm nén trong tâm trạng của người đi : + Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ ( như cách bày tỏ trong ca dao :  Ai về ai có nhớ ai…). + Những từ láy “ tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” diễ tả chính xác con sóng  lòng đang dấy lên trong tâm hồn nhà thơ lúc phân ly.

1

Page 2: van ki 1

 + Hình ảnh hoán dụ “Aó chàm” ( chỉ người Việt Bắc) đã thể hiện tình cảm gắn bó của nhà thơ với những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân tình. + Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách thân tình cái ngập ngừng , bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở.Kỷ vật trao rồi mà mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.III. Kết bài :    - Có thể nói, đây là đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ :         + Nhà thơ đã miêu tả rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người ở vào giờ phút chia li : nỗi nhớ nào cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không gian mênh mông. Nhớ nhau , người ta tính từng khoảng cách. Có điều ở đây, chưa chia li mà đã nhớ. Người còn đấy, cảnh còn đây, mặt đối mặt mà lòng đã bâng khuâng , lưu luyến.        + Dù miêu tả tình cảm mang tính chất chính trị, nhưng đoạn thơ không khô khan, trừu tượng bởi tác giả nắm vững quy luật của tình đời, tình người. Chính vì thế, đoạn thơ ( nói riêng) ; “Việt Bắc” ( nói chung) đã vượt qua ranh giới của thời đại, thấm sâu vào hồn của người đọc qua nhiều thế hệ.

Phân tích đoạn thơ Việt Bắc "Mình về.....cây đa"

Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay: 

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. Các xưng hô “mình - ta” mộc mạc,

thân gần gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”. “15 năm” là chi tiết thực chỉ độ

dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm - nói lên

chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều - Mười lăm năm bằng thời gian Kim - Kiều xa

cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau (Những là rày ước mai ao - Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm

đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc hỏi

về: “Mình về mình có nhớ không - Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao

hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng. 

Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về: 

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ

mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau,

mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội

(10-1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm

bâng khuâng khó tả. 

“Áo chàm đưa buổi phân li” là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt Bắc - tác giả

hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo

2

Page 3: van ki 1

thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. 

Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm - biết nói gì không phải không có điều để giải bày mà

chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn

nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng… 

12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc: 

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”

Điệp từ “nhớ” lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ

tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gài lại niềm thương

theo cách: 

“Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”

Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang

bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn. 

“Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

“Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm

cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta. Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian

rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt: 

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng - “Trám rụng - măng già” không ai thu hái. Nỗi

ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại. Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã

làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm

“lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách

mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng. 

3

Page 4: van ki 1

“Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”

Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố

Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng

chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình

thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

Đề 2 : Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc ” của Tố Hữu:“Nhớ gì nhơ nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương.Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầyTa đi ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi”.* Định hướng

I. Mở bài ( vận dụng cách mở bài của đề 1):  - Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh sang tác của bài thơ.  - Đoạn thơ

“ Nhớ gì như nhớ người yêu……

Mình đây , ta đó đắng cay ngọt bùi thuộc phần 2 của bài thơ Việt Bắc- Sau bối cảnh phân li là lời đối đáp của kẻ ở người đi : người ở lại nhắn nhủ người ra đi mười hai dòng lục bát.Còn người đi đáp lại người ở lại những 72 dòng. Trong 72 dòng ấy, nỗi nhớ được khơi ra chồng chất; và một trong nhiều nỗi nhớ ấy có nỗi nhớ da diết “ như nhớ người yêu” của người đi.  .II. Thân bài:  1. Trước hết, ở 2 câu đầu của đoạn thơ :

“Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương”

      -  Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết.        - Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian : vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược - nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm.       2. Đến hai câu thơ tiếp, tình yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia đình. Toàn không gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia đình ấm áp tình thương.

“Nhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về”

       - Nỗi nhớ không còn mông lung, mơ mộng nữa mà đã cụ thể trong những bản làng, những mái nhà thấp thoáng trong những làn khói sương hư ảo. ( Hình ảnh khói sươnglà đặc điểm của cuộc sống Việt Bắc, vừa là khói sương của thiên nhiên, đồng thời như là hơi ấm của tình đời, tình người toả ra) .Có hình ảnh của ai đó đang chờ đợi bên bếp lửa suốt đêm dài thao thức ( cứ như cảnh vợ chờ cơm chồng).

4

Page 5: van ki 1

     Quan hệ giữa cán bộ và nhân dân như tụ họp ở ngọn lửa bất diệt thiêng liêng ấy.  3.Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bác. Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi :

“Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy suối Lê vơi đầy

Ta đi ta nhớ những ngày,Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”

       - Bằng phép liệt kê làm cho  những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác.        + Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chungmô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng.        + Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử , đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng- nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt .         Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được.III. Kết :

-         Đoạn thơ là những hồi ức và nỗi nhớ thương da diết của người đi với Việt Bắc.--> Tấm lòng của CBKC với Việt Bắc sâu đậm ân tình.

-         Đoạn thơ còn là sự thể hiện thành công phong cách thơ Tố Hữu : ngọt ngào tha thiết và đậm đà tính dân tộc.

ĐỀ 4:  Phần tích ( hay cảm nhận) về đoạn thơ sau đây trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo nắng ánh dao gài thắt lưngNgày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

5

Page 6: van ki 1

( Theo Văn học 12- tập 1- NXBGD)* ĐỊNH HƯỚNG

- Cách 1:lập ý phân tích theo cách cắt ngang ( bức tranh 4 mùa).I.Mở bài:

-Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thưc dân Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc đến “Việt Bắc” của Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm đà màu sắc dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Thông qua đó, thể hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son đầm thắm của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến với thiên thiên, núi rừng và con người Việt Bắc.

-Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất về cảnh và người Việt Bắc trong hồi ức của người cán bộ cách mạng miền xuôi, ở đây chính là nhà thơ.

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

………………

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

II. Thân bài:

-         Đoạn thơ có 10 câu, được viết theo thể thơ lục bát với giọng thơ ngọt ngào tha thiết , diễn tả sâu sắc nỗi nhớ của người đi với Việt Bắc:

1.Trước hết là 2 câu thơ :

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

- Đây là hai câu thơ mở đầu nhưng nó mang cảm xúc chung cho toàn đoạn.

+ “Ta” là người ra đi cũng chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo lối đối đáp thông thường trong dân ca truyền thống. Do đó, đây chính là lời hỏi ngọt ngào của người ra đi với người ở lại, dễ liên tưởng người được hỏi ở đây là một thiếu nữ địa phương. Và câu hỏi tu từ này là cái cớ bày tỏ tình yêu của một chàng trai miền đồng bằng với cô gái miền cao.

+ “Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây, thiên nhiên hòa điệu với con người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ còn có mối tương sinh lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra con người và con người làm nồng ấm quê hương Việt Bắc.

2.Tiếp theo ,   tám dòng lục bát còn lại  như là một bức tranh tứ bình về thiên và con người Việt Bắc. Với bốn dòng lục, nhà thơ đã miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên thiên có nét đẹp riêng biệt. Qua đây, ta thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã thấm đậm tính chất dân gian.

a.Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình cảm mến thương của mùa đông Việt Bắc. Tại sao lại là mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành phố, bí

6

Page 7: van ki 1

mật theo chân cầu sông Hồng ngược xuôi lên căn cứ cách mạng Việt Bắc. Sự kiện này, đến tận bây giờ vẫn còn chứng minh bởi một khúc hát quen thuộc:

                         “Đêm cái đêm rét quá chân cầu

                         Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại

                         Sông, sông Hồng bên bờ hát mãi

                         Tỏ niềm tin khúc khải hoàn ca”.

Lưu Trọng Lưu trong “Một mùa đông” đã từng viết :

                       “Đôi mắt em lặng buồn,

                         Nhìn tôi mà không nói.

                        Tình đôi ta vời vợi,

                        Có nói cũng vô cùng

                        Trời hết một mùa đông

                         Không một lần đã nói…”

Thế vậy mà, ở chốn núi rừng heo hút này Mùa đông rừng biếc xanh đột ngột bùng lên màu đỏ tươi của hoa chuối rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực. Vẻ đẹp nên thơ và rực rỡ của Việt Bắc vào mùa đông gợi những người đọc những rung động sâu xa. Thông qua bức tranh, ta thấy, dù mùa đông lạnh giá nhưng sự sống núi rừng vẫn cứ như tuôn trào, cảm giác đem đến cho lòng người sự ấm áp lại.

Thiên thiên đáng yêu như thế, còn con người thì sao? Ta xét tiếp câu hát:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

b.Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời gian này tạo sự vật vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi màu xanh bạt ngàn điểm hoa chuối đỏ, bây giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng ta một cảm giác thơ mộng bâng khuâng.Ngoài ra màu trắng của hoa mơ gợi cho người ta cái thanh thoát hơn, đem lại cho lòng người sự thanh thản, thảnh thơi. Câu thơ làm cho ta thấy dường như màu xanh đã bị lấn lướt. Mùa xuân ở đây không tưng bừng như mùa xuân của Xuân Diệu mà nó đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng không kém niềm vui.

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

+ Mùa xuân miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc. Sợi giang là sản phẩm của Việt Bắc. Do vậy người lao động đó là người Việt Bắc chứ không phải là người miền xuôi. Nhìn thấy được từng sợi giang, tức là con người được nhìn ở tầm gần. Việc làm này có nhàn nhã như chính mùa xuân, mùa xuân làm cho người ta cảm thấy thơ thới và đem đến cho họ dáng điệu sống như thế.

c.Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ vào mùa hạ :  

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

- Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác.

7

Page 8: van ki 1

   +  Đầu tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó biết kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ này. Rừng phách là những cây lạ ở miền Bắc. Nó không mọc riêng rẽ mà mọc thành rừng, rất nhạy cảm với thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ.

  +Tiếp theo,  Á nh nắng đang tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới ánh nắng mặt trời.

   + Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ ”hái măng một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đên một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính, một nhà thơ của đồng quê:

“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ

Say nhìn ra rặng núi xanh lơ

Khí trời lặng lẽ và trong trẻo

Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”

Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ”Cô hái mơ”. Ta thấy có sự giống nhau rất ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc. Chỉ có điều ở đây là “hái mơ” chớ không phải “hái măng”.

Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác: bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ.

=>Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.

d.Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần thơ mộng:

”Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

- Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng với đất nước.

- Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ, cùng thương” “nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

* Qua đây, ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao:

8

Page 9: van ki 1

 + Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại.

 + Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ” dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ “rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của màu sắc.

 + Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm.

=>  Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của ”ta” và cho người nhận là “mình”. Cả ”ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung ”Tiếng hát ân tình “ và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.

III. Kết bài : Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Cảnh thiên nhiên và con người trong đây được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt Bắc.

Đề 3 :       Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu :

“ Những đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu sung bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đước từng đoànBước chân nát đá muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dàyĐèn pha bật sang như ngày mai lên

Tin vui chiến thắng trăm miềnHoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.

( Theo Văn học 12- tập một).* Định hướng.

I. Mở bài ( vận dụng cách mở bài của đề 1 và đề 2).II. Thân bài :      *Cần là rõ các nội dung cần phân tích trong đoạn thơ :   - Đoạn thơ ghi lại cảnh tượng hào hùng , sôi động, đầy khí thế của cuộc kháng chiến chống Pháp . Cảnh tượng ấy được đặc tả qua :      1. Hai câu đầu    : Hình ảnh con đường Việt Bắc trong đêm kháng chiến.      2. 6 câu tiếp      : Sức mạnh từ sự hợp lực của quân dân và  niềm lạc quan, niềm tin của quân dân trong cuộc kháng chiến gian khổ.

9

Page 10: van ki 1

     3.4 câu tiếp         : Niềm vui chiến thắng trên khắp mọi miền của Tổ quốc.*Nội dung trên được nhà thơ biểu đạt qua các phương tiện nghệ thuật đặc sắc:   1.Cách chọn lọc những từ ngữ , hình ảnh gợi tả, gợi cảm ( rầm rập; điệp điệp trùng trùng; ánh sao đầu súng; bước chân nát đá…).  2. Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ ( phép điệp; so sánh; cường điệu, liệt kê…).  3. Gịong thơ sôi nổi, hào hùng thể hiện khí thế ra trận của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp.=> Đoạn thơ thể hiện sâu sắc khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn .III. Kết bài ( vận dụng cách kết của các dàn bài của đề 1và đề 2)

ĐỀ RA: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) 

ĐỀ RA: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu)Những đường Việt Bắc của ta………Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng

Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Trong đó, Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ để lại dấu ấn về nội dung và giá trị nghệ thuật đặc sắc nhất trong bài thơ Việt Bắc:Những đường Việt Bắc của ta………Vui lên VB đèo De núi HồngNếu như ở những đoạn thơ trước, Tố Hữu mang đến cho người đọc vẻ đẹp của tình nghĩa quân dân qua những kỷ niệm ngọt ngào gắn bó. Thì ở đoạn thơ này, nhà thơ đã đột ngột chuyển dòng. Không còn những dòng thơ ngọt ngào như ca dao nữa mà đoạn thơ này đã mang âm hưởng của cảm hứng sử thi hùng tráng. Đó là những hình ảnh gợi ra ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn quân ra trận vô tận điệp trùng, là hình ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân từ hình ảnh những đoàn dân công, là hình ảnh những đoàn xe cơ giới trên đường ra trận làm bừng sáng những đêm kháng chiến. Đó là khí thế của "40 thế kỷ cùng ra trận" ngời sáng trong trận chiến sinh tử với kẻ thù.

10

Page 11: van ki 1

Trước hết đó là ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến với “những đường VB của ta... đất rung”. Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ “đêm đêm”, từ láy “rầm rập”. Và từ gợi tả hình ảnh “đất rung”. Những từ ấy đều là những từ được cấu tạo bởi phụ âm nổ (đ - “đêm đêm”), những phụ âm rung (r - “rầm rập”). Ấn tượng ở những câu thơ này còn được nổi bật lên bởi ý nghĩa khái quát, ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh con đường. Khi tác giả nói “những đường Việt Bắc” đó là những con đường vừa rất thực như tác giả từng viết “đường ta rộng thênh thang tám thước”. Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên, đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên… những con đường mở ra cùng với chiến thắng của quân dân ta, nhưng cũng là con đường đầy ý nghĩa tượng trưng khái quát cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường đang dẫn tới thành công.Hình ảnh một đất nước trong kháng chiến, của Việt Bắc trong tháng năm hào hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi hình ảnh những đoàn quân ra trận:“Quân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”Còn nhớ ngày 22.12.1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Tiền thân của QĐND Việt Nam). Khi ấy, đội quân mới chỉ có 34 người. Vậy mà mấy năm sau từ 34 người với trang bị vũ khí thô sơ, quân đội ta dã phát triển thành tinh nhuệ với “điệp điệp trùng trùng”. Điệp ngữ “điệp điệp trùng trùng” gợi lên sự đông đảo, lớn mạnh, đoàn quân như trải dài vô tận, vươn ra khắp núi rừng Việt Bắc. Sự tinh nhuệ ấy là sức mạnh vô địch chứng tỏ sự trưởng thành của quân dân ta, đồng thời cũng cho thấy, quân đội ta đã thực sự lớn mạnh cả về chất và lượng, có thể đương đầu với mọi kẻ thù to lớn.Hình ảnh đoàn quân ra trận đã được cảm hứng lãng mạn tạo nên tầm vóc vũ trụ bởi hình ảnh ánh sao đầu súng, một hình ảnh rất thực nhưng đã vụt lớn lên bởi cảm hứng lãng mạn. Ba hình ảnh: súng – sao – mũ như đi cùng nhau. Khẩu súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của người lính, chiếc mũ là cách nói hoán dụ để nói về người lính nhưng đồng thời lại để chỉ tầm vóc vươn tới sao trời của người lính. Ánh sao là hình ảnh chỉ ngôi sao trên mũ người chiến sĩ. Sao cũng là biểu tượng của tổ quốc. Người lính ra chiến trận mang theo cả tổ quốc bên mình:Anh vào bộ đội sao trên mũVẫn mãi là sao sáng dẫn đườngEm mãi là hoa thơm trên đỉnh núiBốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm(Vũ Cao)Nhà thơ đã dùng thước đo vũ trụ để đo tầm vóc của người chiến sĩ cách mạng. Những người chiến sĩ đang hành quân ra trận. Đó là âm hưởng của những chữ “đi”, “điệp điệp”, “trùng trùng”. Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của những đoàn binh ra trận mà như một dải ngân hà lấp lánh đang cuồn cuộn đổ về phía tiền phương.Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu còn dùng một màu sáng, một màu sáng chói loà để làm bừng lên vẻ đẹp hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân, dù chỉ qua một chi tiết về đoàn dân công. Đó là hình ảnh:“Dân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đã muôn tàn lửa bay”Câu thơ không hề có một chữ “điệp điệp”, “trùng trùng” nào mà ta vẫn thấy sự điệp trùng ấy. Đó là cảm giác có được bởi cấu trúc hết sức độc đáo của câu thơ. Tác giả không viết “từng đoàn dân công đỏ đuốc”, mà mở đầu câu thơ là hai chữ “dân công”, cuối câu thơ là hai chữ “từng đoàn”. Cấu trúc ấy gợi ra sự điệp trùng vô tận của những đoàn dân công. Ở đây là hình ảnh “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Hình tượng bàn chân là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh của con người gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng. Ở đây hình ảnh bàn chân đã được thủ pháp phóng đại, cường điệu làm bừng sáng lên ánh sáng lãng mạn nhưng đầy khí thế oai hùng lẫm liệt tựa như “tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (thế mạnh ba quân như hổ báo nuốt trôi trâu). Sức mạnh bàn chân ấy cũng đã từng được Tố hữu nhắc đén trong bài Ta đi tới:Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn Đã bước dưới mặt trời cách mạng.Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao LạngLừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu

11

Page 12: van ki 1

Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầuLũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp!.Với hai dòng thơ tiếp theo, bức tranh kháng chiến hiện lên với những hình ảnh mới. Đó là hình ảnh “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”, hình ảnh của những đoàn xe cơ giới ra trận. Sự hùng vĩ của nó được đo bằng thước đo của nghìn đêm lịch sử, “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” đã bị xua đi bởi “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”. Sự tương phản giữa quá khứ “thăm thẳm sương dày” với ánh sáng của “ngày mai lên” là sự tương phản làm nổi bật giá trị của nghìn đêm kháng chiến. Chữ “bật sáng” nhằm nhấn mạnh cái khoảnh khắc chói loà, kháng chiến chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ chiến thắng. Bốn câu thơ cuối khép lại bằng niềm vui chiến thắng :Tin vui chiến thắng trăm miền…Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi HồngTố Hữu sử dụng bốn câu thơ để miêu tả không khí chiến thắng đang dồn dập trên khắp đất nước. Cũng là một thủ pháp liệt kê nhưng những địa danh ở đây không gắn với chữ “nhớ” như ở những dòng thơ mở đầu của đoạn mà gắn với những chữ “vui” để thấy tin vui đang như bay lên từ khắp trăm miền. Kết cấu của bốn câu thơ này cũng là một kết cấu khá chặt chẽ. Câu một là cảm xúc bao quát: “Tin vui chiến thắng trăm miền”, còn ở câu sau nhằm thể hiện sự lan toả của những tin vui khắp trăm miền ấy. Vì thế những địa danh liên tiếp xuất hiện gắn liền với các tin vui chiến thắng. Sự liệt kê các địa danh chiến thắng cũng chứa đựng những giá trị tư tưởng-nghệ thuật. Đó là sự sắp xếp nhằm làm nổi bật tin vui như bay đi trong một tốc độ “siêu tốc”. Vừa mới đó là Hòa Bình - Tây Bắc – Điện Biên, tiếp sau đã là Đồng Tháp (Nam Bộ), An Khê (Tây Nguyên), lại đã là Việt Bắc, đèo De núi Hồng.Tóm lại, đoạn thơ đã rất thành công khi thể hiện niềm vui chiến thắng của quân và dân ta trong những ngày kháng chiến chống thực dân pháp gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng. Thành công ấy là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật thể hiện: thể thơ lục bát truyền thống; ngôn ngữ sử thi hào hùng; hình ảnh thơ giàu sức sống; nhịp thơ dồn dập, nhiều điệp từ, điệp ngữ… tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hùng tráng về những ngày sục sôi đánh pháp. Hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi mà sức sống mãnh liệt của thời đại ấy vẫn còn rực lửa trong trái tim mỗi con người Việt Nam.

12