Upload
dinhtu
View
217
Download
4
Embed Size (px)
Citation preview
HỎI & ĐÁP MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC–LÊNINHỎI & ĐÁP
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC–LÊNIN
(Tái bản lần thứ VIII)
LỜI NÓI ĐẦU
Giảng dạy và học tập các môn lý luận Mác – Lênin là nhiệm vụ quan
trọng trong các trường Đại học, trong đó, Kinh tế chính trị Mác – Lênin được
coi là một môn tương đối khó khăn đối với một số giảng viên và sinh viên.
Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập bộ môn này trong xu thế đổi
mới phương pháp dạy và học trong các trường Đại học (độc biệt là trong
trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh). Bộ môn Kinh tế chính trị
đã thực hiện biên soạn tài liệu này dưới dạng câu hỏi và trả lời.
Về mặt nội dung, tài liệu này bảo đảm:
– Dựa vào Chương trình chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành từ
năm học 1991 – 1992 và qua nhiều lần tái bản.
– Bổ sung những tri thức kinh tế học hiện đại và những vấn đề mới của
nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
– Vận dụng những đổi mới trong giáo trình kinh tế học chính trị Mác –
Lênin, ban hành năm 1999.
– Bổ sung những quan điểm mới của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại
hội IX.
Về mặt phương pháp, tài liệu này phục vụ cho việc đổi mới phương
pháp dạy và học môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin theo hướng sau:
– Trang bị những khái niệm, kiến thức cơ bản, có hệ thống.
– Gợi mở những vấn đề sinh viên phải tự nghiên cứu trước, giảm nhẹ
việc ghi chép của sinh viên, giúp cho sinh viên nắm được nội dung cơ bản
của bài giảng ngay tại lớp.
– Tạo điều kiện cho sự hướng dẫn của giảng viên và sự tự nghiên cứu
của sinh viên để thực hiện một số đề tài tiểu luận.
– Tạo ra không khí thi đua học tập giữa các sinh viên qua việc áp dụng
phương pháp nêu vấn đề và các phương pháp dạy – học khác.
Mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng trong việc biên soạn, nhưng
trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và học trước sự phong phú và đa
dạng của thực tiễn; tập tài liệu này chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến của các đồng nghiệp, của các bạn sinh
viên để tiếp tục hoàn thiện tập tài liệu giảng dạy và học tập này.
NHÓM BIÊN SOẠN
Câu 1: Trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển của Kinh tế chính trị trong lịch sử.
Quá trình hình thành và phát triển của Kinh tế chính trị được thể hiện
qua quá trình xuất hiện và phát triển của những tư tưởng và học thuyết kinh
tế.
– Trong thời cổ đại, từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, nhiều vấn đề
kinh tế đã được đề cập trong các tác phẩm của Aristote, Xenophon, Platon,
hay của các nhà tư tưởng Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ… nhưng đó chỉ là
những tri thức chưa đầy đủ về các hoạt động kinh tế làm tăng của cải và tài
sản trong nền kinh tế tự nhiên.
– Trong thời trung cổ ở phương Tây, từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ 15, các
nhà tư tưởng là các giáo sĩ, các nhà thần học, như Augustin, Thomas
D'Aquin, đã khẳng định nền kinh tế tự nhiên và tìm cách giải thích sự gia tăng
của cải, tài sản và sự phân phối thu nhập theo quan điểm tôn giáo.
– Trong thời phục hưng, vào thế kỷ 15 – 17, ở Âu Châu, Chủ nghĩa
trọng thương đã xuất hiện, đánh dấu sự phát triển của kinh tế hàng hóa, cúng
với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học, sự phát kiến địa lý, sự
phát triển của lĩnh vực hàng hải…
Một đại biểu của chủ nghĩa trọng thương là Antoine De Montchréstien
(1575–1629), một giáo sĩ người Pháp, là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ kinh
tế chính trị học. Theo ông, “Kinh tế chính trị” là khoa học về của cải thương
mại thông qua việc “mua nhiều bán ít” và nó còn “nghiên cứu các qui luật kinh
tế chi phối đời sống chính trị – xã hội”.
Chủ nghĩa trọng thương chú trọng thương nghiệp và cho rằng nó quyết
định việc gia tăng của cải, nâng cao thu nhập xã hội và Nhà nước cần sử
dụng quyền lực để thúc đẩy nó. Hạn chế của chủ nghĩa trọng thương là chưa
đi sâu vào bản chất bên trong của các hiện tượng và quá trình kinh tế.
– Vào thế kỷ 18, Chủ nghĩa trọng thương đã bị tan rã và Chủ nghĩa
trọng nông xuất hiện ở Pháp với đại biểu sáng lập là Franvois Quesnay (1694
– 1774). Chủ nghĩa trọng nông chú trọng lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là sản
xuất nông nghiệp và cho rằng:
+ Sự giàu có của một quốc gia là ở số dân, đặc biệt là nông dân và khối
lượng nông sản phẩm của quốc gia đó.
+ Chỉ có nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm ròng – nguồn gốc của mọi
thu nhập của xã hội; vì vậy phải tạo điều kiện phát triển nông nghiệp.
+ Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế mà hãy để cho trật tự
tự nhiên qui định và hãy để cho nông dân được tự do trong sản xuất, trao đổi
sản phẩm.
Chủ nghĩa trọng nông đã chứng minh rằng lưu thông không tạo ra giá
trị mà chỉ làm thay đổi hình thái của giá trị. Tuy nhiên, Chủ nghĩa trọng nông
có hạn chế khi quá coi trọng nông nghiệp, không thấy được mối quan hệ biện
chứng giữa lưu thông và sản xuất.
– Vào cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19, Trường phái KTCT tư sản cổ
điển Anh xuất hiện với hai đại biểu nổi bật là A. Smith (1723 – 1790) và D.
Ricardo (1772 – 1823), đã chú trọng đến nguồn gốc và bản chất của sự gia
tăng của cải, sự giàu có của các dân tộc và sự phân phối của cải đó trong xã
hội.
Khi nói đến lý luận giá trị – lao động và lý luận về thu nhập trong xã hội,
họ khẳng định chính hao phí lao động trong sản xuất mới tạo ra giá trị hàng
hoá, còn lợi nhuận, lợi tức, địa tô chỉ là những khoản khấu trừ vào giá trị ấy.
Ngoài ra, họ còn đề cập tới lý thuyết về thương mại quốc tế, lý thuyết về bàn
tay vô hình…
Trường phái kinh tế này tuy đã cố gắng đi vào bản chất bên trong của
các hiện tượng và quá trình kinh tế, nhằm vạch ra những quy luật kinh tế chi
phối nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng lại không nhận thấy tính lịch sử
đặc thù của nền sản xuất ấy.
– Trường phái kinh tế chính trị Mác – Lênin do Karl Marx (1818–1883)
và Friedric Engels (1820 – 1895) sáng lập vào thế kỷ 19 và sau đó được
V.I.Lênin (1870–1924) bảo vệ và phát triển vào thế kỷ 20.
Marx đã tạo ra được một bước ngoặt đối với môn học do xác định được
đối tượng nghiên cứu là quan hệ sản xuất và đã áp dụng rõ rệt các phương
pháp nghiên cứu của môn học. Hơn nữa, Marx còn việc đi sâu nghiên cứu
quan hệ sản xuất hàng hóa và nghiên cứu một cách sâu sắc quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa qua lý luận giá trị thặng dư, làm rõ sự chuyển hoá giá
trị thặng dư thành lợi nhuận, lợi tức, địa tô, vạch rõ bản chất bóc lột lao động
làm thuê của quan hệ sản xuất ấy.
V.I.Lênin cũng đã góp phần phát triển môn học với việc nghiên cứu về
chủ nghĩa tư bản độc quyền, việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, việc
thực hiện chính sách tân kinh tế trong bước đầu xây dựng nền kinh tế xã hội
xã hội chủ nghĩa.
Do những đóng góp quan trọng của Marx và Lênin mà tên của môn học
được gọi là Kinh tế chính trị Mác – Lênin.
Tuy nhiên, là một môn khoa học có đối tượng và phương pháp nghiên
cứu riêng, kinh tế chính trị không chỉ trình bày những tư tưởng kinh tế mác–xít
mà còn đề cập các lý luận kinh tế khác nữa, chẳng hạn như học thuyết kinh tế
vĩ mô của John Maynard Keynes (1883 – 1946). Học thuyết này ra đời trong
bối cảnh nền kinh tế tư bản chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng (1929 – 1933), với
lập luận rằng việc sử dụng tối đa các yếu tố sản xuất không thể dựa vào cơ
chế thị trường mà cần phải có sự can thiệp, điều tiết vĩ mô của Nhà nước để
tái lập và duy trì sự cân bằng của nền kinh tế.
Như vậy Kinh tế chính trị đã được phát triển, hoàn thiện không ngừng,
đồng thời với sự xuất hiện của những tư tưởng và học thuyết kinh tế.
Câu 2: Cơ sở ra đời của Kinh tế chính trị Mác – Lênin là gì? Phân tích đối tượng và mục đích nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin. Phân biệt sự khác nhau giữa kinh tế chính trị với kinh tế học.
– Môn kinh tế chính trị ra đời là do yêu cầu của cuộc sống.
Đời sống của xã hội loài người là một hệ thống các quan hệ rất phức
tạp, chằng chịt giữa người với người, giữa người với tự nhiên và vô vàn các
quá trình kinh tế – chính trị – xã hội phong phú, đa dạng. Muốn nhận thức
được các quan hệ hay quá trình ấy trong đời sống thực tiễn, muốn hiểu được
do đâu xã hội loài người trải qua các chế độ kinh tế – xã hội khác nhau, thì
cần phải có một môn khoa học không chỉ mô tả bên ngoài mà còn phải có đủ
khả năng thâm nhập vào bản chất bên trong của những hiện tượng và quá
trình kinh tế, để có thể phát hiện ra động lực cũng như các quy luật chi phối
sự vận động và phát triển của chúng. Đó chính là Kinh tế chính trị, là môn
khoa học xã hội có đối tượng, phương pháp riêng biệt và nội dung vô cùng
phong phú, xuất phát từ thực tiễn hoạt động kinh tế của con người.
Kinh tế chính trị học vừa là môn khoa học kinh tế vừa là môn khoa học
xã hội, mang tính chất kế thừa, nó biến đổi dưới ảnh hưởng của những vận
động kinh tế – xã hội, chính nhờ vậy mà lý luận kinh tế chính trị không ngừng
phát triển.
– Đối tượng:
Kinh tế chính trị Mác – Lênin nghiên cứu quan hệ sản xuất trong sự tác
động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng trong quá trình
phát triển của các nền sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất và phân phối của cải vật chất. Mỗi quan hệ sản xuất luôn có ba mặt là
quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối, trong đó quan hệ sở
hữu có vai trò quyết định. Quan hệ sản xuất còn được xem xét trong quá trình
tái sản xuất với bốn khâu là sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, mà quan
trọng nhất là khâu sản xuất.
Dựa vào đối tượng nghiên cứu, có thể định nghĩa kinh tế chính trị học:
là khoa học về các quan hệ kinh tế, nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế giữa
các thủ thể trong nền kinh tế.
– Mục đích nghiên cứu:
Kinh tế chính trị Mác – Lênin nghiên cứu quan hệ sản xuất trong sự tác
động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng để vạch rõ bản
chất, nguyên nhân của các hiện tượng và quá trình kinh tế, làm rõ các phạm
trù kinh tế, tìm ra các quy luật kinh tế chi phối sự vận động và phát triển của
nền sản xuất xã hội, trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Kinh tế chính trị học còn nghiên cứu cơ chế, phương pháp và hình thức
vận dụng các quy luật kinh tế nhằm đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao cho nền
kinh tế quốc gia.
Phạm trù kinh tế là khái niệm phản ánh những mặt cơ bản phổ biến
nhất của một tập hợp các sự vật hiện tượng. Quy luật kinh tế là sự phản ánh
những mối liên hệ bản chất bên trong, phổ biến, tất yếu khách quan, lặp đi lặp
lại, ổn định, không lệ thuộc vào ý muốn con người của các hiện tượng và quá
trình kinh tế.
– Đặc điểm của qui luật kinh tế:
Quy luật kinh tế được phát sinh do những điều kiện kinh tế nhất định và
chỉ mất đi khi những điều kiện đó không còn. Quy luật kinh tế sẽ thay đổi khi
các điều kiện của nó thay đổi. Do vậy, con người không thể tạo ra hay xóa bỏ
các quy luật kinh tế mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng chúng.
Quy luật kinh tế chỉ phát sinh và phát huy tác dụng thông qua hoạt động
kinh tế của con người.
– Tính chất của qui luật kinh tế:
Tính lịch sử: các quy luật kinh tế thường có tính chất lịch sử, nghĩa là
chúng không tồn tại lâu dài như quy luật tự nhiên.
Tính khách quan: quy luật kinh tế và quy luật tự nhiên giống nhau ở chỗ
là chúng đều là khách quan nằm ngoài ý muốn con người.
Tính hệ thống: trong một phương thức sản xuất thường có một hệ
thống các qui luật kinh tế phối hợp với nhau:
Quy luật kinh tế chung cho mọi phương thức sản xuất như: quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, quy luật quan hệ sản xuất phải đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế, quy
luật nhu cầu không ngừng tăng, quy luật tăng năng suất lao động, quy luật
tích lũy…
Quy luật kinh tế chung cho một số phương thức sản xuất có điều kiện
kinh tế giống nhau như các quy luật của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Quy luật kinh tế đặc thù riêng có của một phương thức sản xuất nhất
định; trong đó quy luật kinh tế cơ bản phản ánh bản chất và quy định xu
hướng vận động của phương thức sản xuất ấy.
Các phương thức sản xuất khác nhau bởi quy luật kinh tế đặc thù
nhưng có quan hệ với nhau qua những quy luật kinh tế chung.
Do tính chất hệ thống này, nên cần phải vận dụng các quy luật kinh tế
một cách toàn diện và tổng hợp.
– Kinh tế chính trị học có mối quan hệ gần gũi với môn kinh tế học. Kinh
tế học là môn khoa học nghiên cứu những phương thức sử dụng các nguồn
lực hữu hạn một cách hữu hiệu nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu vô hạn của
con người.
Sự khác nhau giữa kinh tế chính trị học và kinh tế học có thể thấy được
là:
* Về mặt lịch sử, kinh tế chính trị học có trước kinh tế học. Kinh tế học
là kết quả phân nhánh của kinh tế chính trị học.
* Khi xem xét một quá trình hay hiện tượng kinh tế, kinh tế chính trị học
đi sâu phân tích về mặt chất, thiên về định tính; còn kinh tế học lại chú ý
những biểu hiện ra bên ngoài và thiên về định lượng.
* Kinh tế chính trị học chuyên nghiên cứu quan hệ kinh tế còn kinh tế
học lại chú trọng lực lượng kinh tế, chú trọng việc sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế.
Câu 3: Phân tích nội dung, ý nghĩa và phương thức thực hiện phương pháp trừu tượng hóa của Kinh tế chính trị.
Trừu tượng hóa là tạm thời gạt bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu những
biểu hiện ngẫu nhiên, cá biệt, những mặt nhất định của tổng thể; đồng thời
tìm ra và nhấn mạnh những biểu hiện bền vững, phổ biến, nhờ vậy mà thấy
được bản chất bên trong và quy luật vận động của nó.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị vốn rất phức tạp, lại luôn bị
bao phủ bởi những biểu hiện bề ngoài, do vậy phương pháp trừu tượng hóa
trở nên có vai trò quan trọng trong hệ thống các phương pháp nghiên cứu của
kinh tế chính trị. “Khi phân tích các hình thái kinh tế, người ta không thể dùng
kính hiển vi hay những chất phản ứng hoá học. Sức trừu tượng hoá phải thay
thế hai kiểu làm đó”. Muốn nhận thức hàng loạt yếu tố trong đối tượng nghiên
cứu thì không thể thực hiện một cách đầy đủ ngay lập tức, mà phải nghiên
cứu từng phần, từ mặt này đến mặt khác.
Phương pháp này đã được các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển vận
dụng, nhưng do họ không kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng và
quan điểm duy vật lịch sử để phân tích và tổng hợp các hiện tượng và quá
trình kinh tế nên chưa đạt được đến trình độ trừu tượng hóa khoa học như
Các Mác; do đó họ đã không thể tìm ra được các quy luật kinh tế chi phối sự
vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội.
Phương pháp này có thể được thực hiện bằng cách đưa ra những giả
định để giới hạn phạm vi và đơn giản hóa việc nghiên cứu, tuy nhiên cũng
cần chú ý tính hợp lý của các giả định ấy nhằm đảm bảo tính khoa học, tránh
chủ quan và điều cần nhớ là sau đó cần phải giải tỏa chúng, để đảm lảo quan
điểm toàn diện và liên hệ phổ biến khi nghiên cứu các hiện tượng và quá trình
kinh tế.
Trừu tượng hóa chính là phương pháp nghiên cứu đi từ cụ thể (cụ thể
trực quan) đến trừu tượng, từ hiện tượng đến bản chất (sự phản ánh cái hiện
thực vào trong tư duy), từ đó mà xác định được các phạm trù kinh tế và tìm ra
các quy luật kinh tế; đồng thời quá trình ngược lại là từ trừu tượng trở về cụ
thể (cụ thể lý tính) phải được thực hiện để có thể nhận thức các hiện tượng
và quá trình kinh tế một cách đầy đủ.
Cần kết hợp sự thống nhất biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái
đơn nhất để không làm sai lệch hiện thực, dẫn đến xuyên tạc nó.
Cần sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu để hỗ trợ cho
phương pháp trừu tượng hoá khoa học: phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp logic kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp diễn
dịch, phương pháp mô hình toán…
Câu 4: Phân tích các chức năng của Kinh tế chính trị Mác – Lênin và làm rõ sự cần thiết phải nghiên cứu môn học này ở nước ta.
– Chức năng nhận thức:
Quá trình nhận thức thế giới khách quan của con người được bắt đầu
từ trực quan sinh động đi đến tư duy trừu tượng và được nâng lên khi kết quả
của tư duy trừu tượng được vận dụng, kiểm nghiệm, so sánh đối chiếu với
thực tiễn, qua đó mà góp phần cải tạo thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Kinh tế chính trị học thực hiện chức năng này bởi vì nó giúp nhận thức
các hiện tượng và quá trình kinh tế trong đời sống xã hội. Sự nhận thức
không chỉ dừng lại ở chỗ giải thích hay mô tả, mà quan trọng là vạch rõ bản
chất và tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của chúng.
Khi nghiên cứu sự tác động qua lại quan hệ sản xuất, lực lượng sản
xuất và kiến trúc thượng tầng, môn học sẽ giúp nhận thức được vai trò của
Nhà nước, của pháp luật đối với sự ra đời, tồn tại, phát triển và thay thế các
chế độ kinh tế–xã hội khác nhau; nhận thức được sự tác động qua lại giữa
kinh tế với chính trị, văn hoá, xã hội.
– Chức năng thực tiễn:
Thực hiện chức năng này, môn học phải coi thực tiễn là cơ sở để hình
thành và kiểm nghiệm tính đúng đắn của lý luận, để hoàn thiện và phát triển
chúng. Đây là sự đòi hỏi của lý luận: thực tiễn mới thì lý luận phải mới.
Kết quả hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước và chiến lược kinh
doanh của các doanh nghiệp sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn và thực sự khoa
học các luận điểm, học thuyết và các quy luật kinh tế mà Kinh tế chính trị học
chỉ ra.
Ngoài ra, môn học còn phải nghiên cứu những gì mà thực tiễn cuộc
sống đặt ra và lý luận phải có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Đây là sự đòi hỏi
của thực tiễn đòi hòi: thực tiễn là đối tượng của lý luận.
– Chức năng phương pháp luận:
Chức năng này thể hiện rõ rệt và trực tiếp tính khoa học của môn học,
được thể hiện qua hai yêu cầu:
+ Môn học phải trang bị tư duy khoa học, tư duy kinh tế cho người học
và giúp họ thực hành vận dụng các phương pháp nghiên cứu.
Tư duy kinh tế là những suy nghĩ hay động não (hoạt động não) của
con người đưa đến việc hình thành ý thức kinh tế, khả năng vận dụng những
tri thức kinh tế vào thực tiễn cuộc sống và tiến lên xây dựng hệ thống khái
niệm và lý luận về kinh tế. Tư duy kinh tế biểu hiện năng lực trí tuệ của con
người trong việc nhận thức bản chất các hiện tượng kinh tế, nắm vững và vận
dụng thành thạo các quy luật kinh tế vào thực tiễn cuộc sống.
Tư duy lý luận cao hơn tư duy kinh nghiệm. Tư duy kinh nghiệm tuy đã
ở vào giai đoạn nhận thức lý tính, nhưng đó là nhận thức lý tính chưa đầy đủ.
Tuy nhiên, có được tư duy kinh nghiệm vẫn tốt hơn là chỉ có tư duy cảm tính.
+ Qua nội dung của môn học, những nguyên lý, những phạm trù kinh tế
được đề cập, những quy luật kinh tế, những kết luận lý luận được chỉ ra sẽ là
cơ sở lý luận của đường lối, danh sách của Đảng và Nhà nước; là cơ sở lý
luận của các môn khoa học kinh tế ngành (kinh tế nông nghiệp, công nghiệp,
xây dựng…), của các môn kinh tế chức năng (kinh tế lao động, kế hoạch tài
chính, thống kê…) và của một số môn khoa học gần gũi (địa lý kinh tế, dân số
học, lý thuyết quản lý…). Kinh tế chính trị học cung cấp phương pháp luận để
nghiên cứu các môn khoa học xã hội, khoa học kinh tế khác. Ngược lại, kinh
tế chính trị cũng sẽ phát triển nhờ vào sự phát triển của các khoa học kinh tế
khác.
– Chức năng tư tưởng:
Môn học có tính giai cấp rõ rệt, nó phải đứng trên lập trường của giai
cấp thống trị và phải cung cấp vũ khí tư tưởng, vũ khí lý luận để bảo vệ lợi ích
của giai cấp đó.
Lợi ích của giai cấp thống trị có thể không thống nhất với lợi ích của xã
hội. Tuy nhiên để giữ vững địa vị của mình, bất cứ giai cấp thống trị nào cũng
phải luôn đảm bảo lợi ích xã hội, phải làm sao cho nền kinh tế phát triển, xã
hội tiến bộ không ngừng.
Thực hiện chức năng này, môn học còn phải góp phần giải quyết
những vấn đề tư tưởng đặt ra ở mỗi bước chuyển lịch sử của xã hội và phải
đảm bảo hình thành thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn cho người
học.
Với các chức năng như vậy, Kinh tế chính trị có vai trò quan trọng trong
đời sống xã hội của nước ta hiện nay.
– Ý nghĩa của môn học còn được thể hiện ra là:
+ Cần phải nghiên cứu môn học này để hiểu rõ hơn nữa các chủ
trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Những phạm trù kinh
tế, quy luật kinh tế mà kinh tế chính trị chỉ ra chính là cơ sở lý luận cho mọi
đường lối kinh tế của Đảng, cho mọi chính sách, chủ trương, biện pháp kinh
tế của Nhà nước. Các doanh nghiệp cũng phải dựa vào đó để xây dựng chiến
lược sản xuất, kinh doanh.
+ Nó giúp trang bị cho người học những kiến thức cơ bản và phương
pháp luận khoa học, giúp người học hiểu và vận dụng những quy luật kinh tế
trong xây dựng và phát triển kinh tế để họ có thể góp phần xây dựng một nền
sản xuất xã hội có hiệu quả cao, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
+ Nó còn là chìa khóa giúp chúng ta hiểu những vấn đề lớn của thời
đại.
Hơn nữa, trong công cuộc đổi mới kinh tế xã hội toàn diện hiện nay,
yêu cầu nghiên cứu học tập kinh tế chính trị học được đặt ra một cách bức
thiết nhằm khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, tránh sự vận dụng sự giáo
điều, rập khuôn những lý luận không còn phù hợp hiện thực khách quan, sự
tách rời lý luận với cuộc sống, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới cho
người học.
“Chúng ta không hề coi lý luận của Mác là một cái gì đã xong xuôi hẳn
và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”.
Chính vì vậy, thái độ học tập đúng đắn là phải nghiên cứu để nắm vững
những nguyên lý cơ bản và phát triển, hiện đại hóa môn học bằng cách bổ
sung lý luận xuất phát từ thực tiễn cuộc sống và tiếp thu có phê phán những
thành tựu của nhiều môn khoa học kinh tế khác.
Mối quan hệ giữa kinh tế chính trị và các khoa học kinh tế khác.
Nói chung, Kinh tế chính trị có quan hệ chặt chẽ với các khoa học kinh
tế khác như: kinh tế học vĩ mô; kinh tế học vi mô; kinh tế học phát triển; kinh
tế học công nghiệp; kinh tế học nông nghiệp; kinh tế học thương nghiệp v.v…
Tất cả đều xoay quanh nghiên cứu những vấn đề của nền sản xuất xã hội,
những phương thức làm gia tăng của cải và sự giàu có cho xã hội, qua xem
xét trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông; nhưng giữa kinh tế chính trị và các
môn khoa học kinh tế lại khác nhau về phương pháp nghiên cứu và mục đích
nghiên cứu cụ thể.
Các môn kinh tế khác sử dụng phương pháp thực chứng để quan sát
và giải thích những hiện tượng kinh tế cụ thể diễn ra trong cuộc sống hằng
ngày; qua đó vạch ra những quy luật vận động riêng của từng ngành hay lĩnh
vực kinh tế cụ thể. Mục đích là xây dựng các lý thuyết làm cơ sở cho chính
sách kinh tế của Nhà nước và cho kế hoạch hoạt động cụ thể của doanh
nghiệp.
Kinh tế chính trị sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học và các
phương pháp khác để đi sâu vào mối liên hệ bản chất bên trong của các hiện
tượng và quá trình kinh tế nhằm mục đích tìm ra các nguyên lý, quy luật kinh
tế và làm rõ các quá trình kinh tế có tính quy luật. Nhà nước sẽ căn cứ vào đó
để đề ra chính sách và chương trình kinh tế – xã hội nhằm xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp hơn, thịnh vượng hơn và công bằng hơn.
Sự khác nhau về phương pháp và mục đích nghiên cứu không làm cho
kinh tế chính trị và các môn khoa học kinh tế khác tách biệt nhau; ngược lại,
chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau: kinh tế chính trị được xem là môn cơ
sở; nó cung cấp những nguyên lý và những quy luật kinh tế chung cho các
khoa học kinh tế cụ thể; đồng thời bản thân kinh tế chính trị lại được bổ sung,
phát triển nhờ vào kết quả của các môn khoa học kinh tế khác.
Câu 5: Tại sao nói sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội? Ý nghĩa của nguyên lý này đối với nền kinh tế nước ta.
1. Sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội.
Sản xuất chính là sự kết hợp các yếu tố của nó để tạo ra sản phẩm đáp
ứng nhu cầu của con người.
Sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, bởi vì những
sản phẩm phong phú và đa dạng được tạo ra sẽ giúp thỏa mãn những nhu
cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của con người trong xã hội, đảm bảo sự tồn
tại và phát triển không ngừng của xã hội.
Hơn nữa, trình độ phát triển của sản xuất của cải vật chất quyết định
trình độ văn minh, tiến bộ của xã hội và tạo nền tảng cho thể chế chính trị của
quốc gia. Quá trình lao động sản xuất còn giúp hoàn thiện chính bản thân con
người, thúc đẩy xã hội phát triển. Những công cụ, kỹ thuật và công nghệ
được sáng tạo ra sẽ giúp con người chinh phục và cải tạo tự nhiên ngày càng
tốt hơn.
Nguyên lý này là nhận thức được xuất phát từ quan điểm duy vật cơ
bản (vật chất quyết định ý thức) và trở thành cơ sở cho chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội của các quốc gia. Điều này có nghĩa là Nhà nước cần phải
đảm bảo khả năng sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất, đảm bảo an toàn
lương thực để có thể duy trì sự phát triển ổn định, bền vững. Yêu cầu thường
trực, bức thiết là phải đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của lực lượng lao động to
lớn ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
2. Ý nghĩa của nguyên lý:
Nguyên lý “sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội” có ý
nghĩa quan trọng đối với mọi quốc gia.
Đối với nước ta, nguyên lý này càng có ý nghĩa lớn, có tiền đề và khả
năng thực hiện, bởi vì sản xuất nông nghiệp là thế mạnh của nước ta, còn
sản xuất công nghiệp thì ngày càng phát triển.
Những nền kinh tế “bong bóng” chứa đựng nhiều mối nguy cơ dễ dẫn
đến khủng hoảng kinh tế là do không chú ý nguyên lý này. Tuy nhiên, nhiều
quốc gia có ít khả năng sản xuất của cải vật chất, không có tiềm năng nông
nghiệp, nhưng nhờ trao đổi hợp tác thì vẫn đảm bảo duy trì sự ổn định cho
nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, với xu hướng phân công và hợp tác
quốc tế, không nên hiểu nguyên lý này một cách cứng nhắc, mà phải tính đến
nhu cầu tiêu dùng thực tế, tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Câu 6: Phân tích các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1. Các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất
Ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất là lao động, đối tượng lao
động và tư liệu lao động.
– Lao động:
Lao động là hoạt động đặc trưng, có mục đích, có ý thức của con người
nhằm làm thay đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình
hay của xã hội.
Lao động là yếu tố sản xuất tích cực và quyết định của quá trình sản
xuất.
Đối với nền sản xuất xã hội, con người vừa là tiền đề vừa là mục đích
của nó bởi vì mục đích cuối cùng của sản xuất là thoả mãn nhu cầu con
người, phục vụ con người.
Nhờ có lao động mà con người ngày càng được phát triển, hoàn thiện
(về vóc dáng, thể lực, ngôn ngữ, tư duy), thế giới tự nhiên được cải tạo, xã
hội loài người mới được tồn tại và phát triển không ngừng.
Đặc điểm của lao động: tính chất có ích, tính chất tự giác, tính chất
sáng tạo, tính chất xã hội. Con người nhận thức và hành động theo đúng quy
luật khách quan để trở thành con người “tự do” trong quá trình lao động. Xã
hội hiện đại vừa tạo điều kiện cho lao động sáng tạo, vừa tạo động lực thúc
đẩy sự phát triển của con người. Lao động có tính chất xã hội cao hay thấp
tùy thuộc vào các điều kiện như: sự phân công lao động xã hội, xã hội hóa
sản xuất, sự phát triển của khoa học – kỹ thuật.
– Đối tượng lao động:
Là tất cả những vật thể mà lao động con người tác động vào làm thay
đổi hình thái của chúng để phù hợp với mục đích sử dụng của con người.
Có hai loại đối tượng lao động:
+ Một loại có sẵn trong thiên nhiên như quặng trong lòng đất, cây trong
rừng nguyên thủy, tôm cá dưới sông biển… đây là đối tượng của những
ngành khai thác.
+ Loại thứ hai đã qua lao động (đất đai đã cải tạo hay nguyên vật liệu
trong sản xuất), đây là đối tượng của những ngành chế biến.
Đối tượng lao động loại 2 có xuất xứ từ loại 1. Loại 1 sẽ bị cạn kiệt
trong tương lai, trong khi nhu cầu đối với loại 2 thì ngày càng tăng. Giải pháp
tất yếu là phải sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm hơn, nhờ áp dụng những
thành tựu công nghệ mới.
– Tư liệu lao động:
Là tất cả những vật dụng, những yếu tố vật chất mà con người sử dụng
trong quá trình lao động sản xuất.
Tư liệu lao động gồm có 3 loại:
+ Công cụ lao động: đây là loại được người lao động sử dụng trực tiếp,
giúp nối dài cánh tay con người; bao gồm trang thiết bị, dụng cụ, hệ thống
máy móc (máy công tác, máy phát lực, máy truyền lực, máy điều khiển từ
xa…).
+ Những đồ vật, vật liệu dùng để chứa đựng và bảo quản đối tượng lao
động như bao bì, hệ thống ống dẫn, bình chứa…
+ Những cơ sở vật chất tham gia vào quá trình sản xuất bao gồm một
phần là nhà xưởng, kho chứa… thuộc các doanh nghiệp; và một phần là cơ
sở hạ tầng được sử dụng chung (cầu đường, bến cảng, sân bay, các phương
tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc,…).
Tư liệu lao động là thước đo trình độ phát triển của sản xuất, là căn cứ
để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, trong đó công cụ lao động và các
cơ sở vật chất chủ yếu có vai trò quan trọng nhất.
Chính vì vậy mà Các Mác đã viết: Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động được phân biệt một cách tương
đối, tùy theo tính chất sử dụng của chúng trong quá trình sản xuất và chúng
được nhập lại thành tư liệu sản xuất. Như vậy, thay vì nói ba yếu tố sản xuất,
ta có thể chỉ cần nói hai yếu tố là lao động và tư liệu sản xuất.
Đó là hai yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, từ đó mà phát sinh ra
các yếu tố như là vốn, năng lượng, công nghệ, quản lý… Môi trường, thông
tin cũng được xem là các yếu tố sản xuất, nhưng xem đây là điều kiện của
sản xuất thì đúng hơn.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các yếu tố sản xuất:
– Giúp nhận thức được vai trò của các yếu tố sản xuất, các nguồn lực
của nền kinh tế, nhân lực (lao động) – nguồn lực của mọi nguồn lực, nhân lực
tạo ra các nguồn lực khác, vật lực (tài nguyên, đất đai, thiết bị), tài lực (vốn
tiền tệ)…
– Giúp nhận thức các thành phần cần thiết phải được phân phối từ kết
quả sản xuất.
Câu 7: Thế nào là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với vị trí là hai mặt của nền sản xuất xã hội? Hãy làm rõ mối tương quan giữa chúng.
1. Lực lượng sản xuất:
Tư liệu sản xuất và lực lượng lao động trong cùng một nền sản xuất xã
hội được hợp lại thành lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất, bao gồm các
yếu tố vật chất và con người trong sản xuất, là nội dung vật chất của nền sản
xuất xã hội, biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất, cho thấy trình độ chinh phục, tác động vào tự nhiên của con
người.
Các thành phần của lực lượng sản xuất luôn tương ứng với nhau theo
một cơ cấu nhất định và có quan hệ biện chứng tác động qua lại với nhau,
trong đó lực lượng lao động là thành phần chủ đạo, quyết định, tích cực và
quy cho cùng chính lao động con người đã tạo ra mọi thứ của cải, kể cả khoa
học và công nghệ.
Người lao động luôn tìm cách sáng chế những công cụ lao động hữu
ích, giúp giảm nhẹ sự nặng nhọc trong lao động, làm cho năng suất lao động
tăng lên, cải tạo các đối tượng lao động. Qua đó, tư duy, hiểu biết của con
người sẽ được nâng lên; vóc dáng cơ thể, ngôn ngữ được hoàn thiện… và
con người lại tiếp tục sáng chế công cụ lao động mới với trình độ cao hơn.
Quá trình tiếp diễn liên tục này chính là cội nguồn của sự phát triển không
ngừng của lực lượng sản xuất. Sự phát triển ấy sẽ là nhanh chóng khi sự
phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa đi vào chiều sâu; lao động trí óc
cũng tham gia vào việc cải tiến công cụ lao động, góp phần tạo ra những kỹ
thuật, công nghệ mới.
2. Quan hệ sản xuất:
Để tiến hành sản xuất con người không chỉ tác động đến tự nhiên mà
còn quan hệ, tác động lẫn nhau.
Nếu lực lượng sản xuất là nội dung vật chất thì quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của sản xuất và được biểu hiện trên ba mặt:
– Quan hệ sở hữu là quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong việc định
đoạt một tài sản hay tư liệu sản xuất nào đó và những sản phẩm từ tư liệu
sản xuất ấy.
– Quan hệ quản lý là quan hệ giữa người với người (giữa chủ thể với
khách thể) trong việc tổ chức, điều hành, quản lý sản xuất.
– Quan hệ phân phối là quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào sản
xuất kinh doanh trong việc phân phối các yếu tố sản xuất và kết quả sản xuất.
Các mặt nói trên có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau,
trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức
quản lý và quan hệ phân phối cũng tác động trở lại quan hệ sở hữu.
3. Mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Đây là hai mặt không thể tách rời của mọi nền sản xuất xã hội. Chúng
được hợp nhất lại với nhau thành phương thức sản xuất tức là phương thức
kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất.
Trong mối tương quan này, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải thay
đổi theo.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là quy
luật chung cho sự phát triển của các nền sản xuất xã hội. Đây là quy luật do
Marx tìm ra.
Quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng không được
lựa chọn chủ quan, mà phải tùy thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất.
“Bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất
yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới” (Mác–Ăngghen tập 4,
Nxb CTQG 1995, trang 467).
Mặt khác, quan hệ sản xuất cũng có tác động trở lại đối với lực lượng
sản xuất, nó có thể thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất
nếu nó phù hợp hay không phù hợp với lực lượng sản xuất và quan trọng là
nó đảm bảo hay không đảm bảo sự hài hòa về lợi ích kinh tế.
Câu 8: Trình bày khái niệm và phân loại tái sản xuất xã hội? Phân tích mô hình tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. Những căn cứ để lựa chọn hai mô hình trên là gì?
1. Khái niệm tái sản xuất.
Sản xuất là một quá trình diễn ra không ngừng, giai đoạn sản xuất
trước là tiền đề cho giai đoạn sản xuất sau. Sản xuất hiểu theo nghĩa rộng
như vậy chính là tái sản xuất.
Tái sản xuất là sự lặp lại và đổi mới của sản xuất mà trước hết là tái tạo
các yếu tố vật chất và xã hội của sản xuất.
2. Phân loại tái sản xuất:
a. Xét về phạm vi, tái sản xuất có hai loại là tái sản xuất cá biệt và tái sản xuất xã hội.
Tái sản xuất cá biệt được diễn ra trong từng doanh nghiệp hay đơn vị
kinh tế. Tái sản xuất xã hội được diễn ra trong phạm vi nền kinh tế. Tái sản
xuất xã hội là tổng thể của tất cả các quá trình tái sản xuất cá biệt.
Quốc tế hóa sản xuất chính là sự liên kết các quá trình tái sản xuất của
các quốc gia thông qua trao đổi thương mại và đầu tư quốc tế.
b. Xét về quy mô, tái sản xuất có hai loại là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
Tái sản xuất giản đơn là quá trình lập lại sản xuất với quy mô và kỹ
thuật không thay đổi. Tái sản xuất mở rộng là quá trình lập lại sản xuất với
quy mô lớn hơn và kỹ thuật cao hơn trước.
c. Hai loại tái sản xuất mở rộng.
– Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng là quá trình lập lại sản xuất với
quy mô tăng, sản lượng tăng do sử dụng các nguồn lực nhiều hơn nhưng chỉ
chú trọng về mặt số lượng, năng suất lao động và cơ cấu các yếu tố sản xuất
vẫn không thay đổi.
– Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu là quá trình lập lại sản xuất với
quy mô tăng, nhưng chú trọng chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng các
yếu tố sản xuất, làm tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm.
Đối với mỗi quốc gia hay mỗi doanh nghiệp, khi lựa chọn các loại tái
sản xuất mở rộng, phải căn cứ vào khả năng và yêu cầu của nền kinh tế hay
của doanh nghiệp. Trong thời kỳ đầu, mô hình phát triển theo chiều rộng là
chủ yếu, còn trong thời kỳ sau, mô hình phát triển theo chiều sâu được chú
trọng hơn, phù hợp với nền sản xuất hiện đại.
Câu 9: Phân tích nội dung và vai trò của các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.
1. Các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, nhất là nền sản xuất hàng hóa,
quá trình tái sản xuất xã hội đều diễn ra qua bốn khâu là: sản xuất, phân phối,
trao đổi và tiêu dùng.
Sản phẩm xã hội bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng vận
động tuần tự qua các khâu trên mới trở thành các yếu tố sản xuất cho giai
đoạn sản xuất tiếp theo tư liệu sản xuất di chuyển đến nơi cần thiết, tư liệu
tiêu dùng chuyển hóa thành sức lao động.
2. Phân tích nội dung và vai trò của các khâu.
a. Sản xuất:
Sản xuất là khâu xuất phát, trực tiếp tạo ra sản phẩm và của cải vật
chất cho xã hội, nên có vai trò quyết định. Quy mô sản xuất, cơ cấu và chất
lượng sản phẩm sẽ quyết định quy mô và cơ cấu của các khâu còn lại.
b. Phân phối:
Phân phối là hoạt động của con người nhằm phân chia các nguồn lực
kinh tế và kết quả của sản xuất.
Có hai loại phân phối được phân biệt một cách tương đối là:
Phân phối các yếu tố sản xuất vừa tự phát qua tác dụng của các quy
luật kinh tế, vừa thông qua chức năng kinh tế của Nhà nước.
Phân phối kết quả sản xuất bao gồm phân phối sản phẩm và phân phối
thu nhập cho các chủ thể theo tỷ lệ đóng góp của họ vào sản xuất kinh doanh.
Phân phối theo nghĩa rộng bao gồm cả trao đổi và có thể được thực
hiện dưới hai hình thức: hiện vật và giá trị, trong đó hình thức phân phối giá trị
là tối ưu nhờ phát huy vai trò của tiền tệ.
Phân phối cũng có tác động trở lại sản xuất: một phương thức phân
phối đảm bảo sự hài hòa sẽ tạo ra động lực cho sản xuất và ngược lại. Phân
phối cho dự trữ để ổn định sản xuất: hàng hóa luôn có sẵn và lưu chuyển liên
tục qua các kênh phân phối, không nhất thiết phải phân phối cho dự trữ lớn.
c. Trao đổi:
Trao đổi là hoạt động của con người nhằm chuyển đổi quyền sở hữu
hay quyền sử dụng các hàng hóa, vật phẩm và dịch vụ cho nhau.
Thương mại là trao đổi hàng hóa hữu hình, còn trao đổi dịch vụ là trao
đổi hàng hóa mà có thành phần vô hình. Trao đổi có sử dụng tiền tệ và
chuyển giao quyền sở hữu được gọi là mua bán.
Trao đổi là điều kiện và là mục đích của sản xuất, bởi vì nó được thực
hiện trước, trong và sau sản xuất. Khâu trao đổi giúp khắc phục những thiếu
sót của khâu phân phối, góp phần phân phối lại sản phẩm và thu nhập xã hội
một cách hợp lý hơn. Phân phối theo nghĩa rộng thì bao gồm cả trao đổi.
Quốc tế hóa sản xuất chính là sự liên kết các quá trình tái sản xuất của
các quốc gia thông qua khâu trao đổi thương mại và đầu tư.
d. Tiêu dùng:
Tiêu dùng là việc sử dụng các sản phẩm của các chủ thể để đáp ứng
nhu cầu của mình, gồm có tiêu dùng sản xuất, tiêu dùng nhà nước và tiêu
dùng cá nhân.
Tiêu dùng phản ánh nhu cầu, thị hiếu của xã hội, là “đơn đặt hàng” của
xã hội đối với sản xuất, là động cơ và là mục đích của sản xuất. Căn cứ vào
cơ cấu và xu hướng tiêu dùng, các nhà sản xuất sẽ xác định khối lượng, cơ
cấu và chất lượng sản phẩm.
Chỉ khi đi vào tiêu dùng, được tiêu dùng thì sản phẩm mới hoàn thành
chức năng của nó, quá trình tái sản xuất mới được suôn sẻ.
3. Nhận xét:
Các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội luôn thống nhất với nhau,
tạo điều kiện cho nhau và đảm bảo sự liên tục, nhịp nhàng của quá trình ấy.
Ban đầu, khâu sản xuất là quan trọng và quyết định, nhưng khi kinh tế thị
trường phát triển, qui mô sản xuất tăng nhanh thì các khâu còn lại cũng có vai
trò quan trọng không kém.
Câu 10: Phân tích các nội dung tái sản xuất xã hội và hãy nêu nhận xét, liên hệ thực tiễn về mỗi nội dung này ở nước ta hiện nay.
1. Nội dung của tái sản xuất xã hội:
a. Tái sản xuất của cải vật chất:
Của cải vật chất là toàn bộ những tài sản vật chất mà xã hội đã tích lũy
đến một thời điểm nào đó.
Đối với một quốc gia, tài sản quốc dân bao gồm của cải vật chất và của
cải tinh thần. Của cải tinh thần như là: truyền thống, văn hóa, nghệ thuật, tôn
giáo, bảng hiệu, bí quyết nghề nghiệp, uy tín,…
Của cải vật chất có thể được thể hiện dưới dạng giá trị hay dạng hiện
vật và chúng có thể chuyển hóa qua lại dễ dàng với nhau nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trường. Dưới dạng hiện vật thì biểu hiện ra là: tư liệu sản xuất
và tư liệu tiêu dùng. Dạng giá trị rất phổ biến, nhất là trong điều kiện kinh tế thị
trường phát triển.
Tái sản xuất của cải vật chất đặt ra vấn đề làm thế nào để nó không
ngừng được tái tạo và tăng cường.
– Cần phải nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu
quả kinh tế. Hiệu quả là tiêu chí liên quan đến thị trường, đến điều kiện tự
nhiên, khách quan và bao hàm cả hai tiêu chí kia.
– Cần phân biệt vật chất cố định với vật chất lưu động; vật chất sản
xuất với vật chất phi sản xuất.
– Việc tái sản xuất tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tái sản
xuất tư liệu tiêu dùng; việc tái sản xuất tư liệu tiêu dùng lại có ý nghĩa quyết
định đối với tái sản xuất sức lao động của con người.
– Cần phải tính đến những hao mòn hữu hình cũng như hao mòn vô
hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất cũng như về giá trị do sử
dụng hay do trải qua thời gian. Hao mòn vô hình là hao mòn chỉ về mặt giá trị,
đó là trường hợp máy móc tài sản vẫn nguyên vẹn nhưng giá trị của nó bị sụt
giảm vì có những cái tương tự được xuất hiện mà tốt hơn và rẻ hơn.
b. Tái sản xuất sức lao động:
Sức lao động là tổng hợp toàn bộ khả năng lao động của con người,
bao gồm những khả năng thể lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong cơ thể sống
của một con người cụ thể, có thể được sử dụng để tạo ra ích lợi nào đó.
Lao động chính là việc sử dụng sức lao động của con người nhằm tạo
ra những vật phẩm có ích.
Sức lao động xã hội bao gồm hai phần: một phần được sử dụng và một
phần còn tiềm năng. Sức lao động không thể dự trữ, để dành mà đòi hỏi phải
được sử dụng thường xuyên. Nếu sức lao động không được sử dụng hoặc
chưa được sử dụng thì cũng phải tốn kém chi phí để duy trì nó, để nuôi sống
người lao động.
Tái sản xuất sức lao động là sự tái tạo, khôi phục và tăng cường sức
lao động cho người lao động cũng như cho xã hội. Theo Karl Marx: “Phát triển
con người, cả hiện tại và tương lai, là một phần của tái sản xuất xã hội”.
Tái sản xuất sức lao động gắn liền với tái sản xuất của cải vật chất, bởi
vì những tư liệu tiêu dùng được tái sản xuất sẽ giúp tái tạo sức lao động.
Ngược lại, sức lao động lại là yếu tố quyết định trong việc tái tạo của cải vật
chất.
Nhưng các doanh nghiệp thường chỉ quan tâm bảo toàn vốn tư liệu sản
xuất, hạ chi phí sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận, nhưng lại không chú ý
bảo toàn vốn nhân lực qua việc đảm bảo mức thu nhập thực tế của người lao
động.
Vấn đề đặt ra đối với nước ta không phải chỉ là việc tái tạo sức lao
động, mà còn là làm sao sử dụng hầu hết sức lao động tiềm năng, khắc phục
tình trạng thất nghiệp trong xã hội.
Muốn vậy, cần phải gia tăng đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hóa
ngành nghề tạo việc làm cho xã hội, phát triển thị trường sức lao động, thúc
đẩy khả năng tự tạo việc làm của người lao động. Bên cạnh đó, cần phải chú
ý nâng cao chất lượng sức lao động bằng cách gia tăng đầu tư cho giáo dục,
y tế… và giảm lượng sức lao động tiềm năng bằng cách hạn chế dân số.
c. Tái sản xuất quan hệ sản xuất:
Để quá trình tái sản xuất được diễn ra thì quan hệ sản xuất (yếu tố xã
hội của sản xuất) cũng phải được tái tạo tùy theo trình độ của lực lượng sản
xuất và phát triển trên cả ba mặt theo hướng xã hội hóa, mà trước hết là tái
tạo các chủ thể của nó.
Tái sản xuất quan hệ sản xuất là quá trình tái tạo, củng cố, hoàn thiện
và phát triển các quan hệ sản xuất. Để đảm bảo cho quá trình này thì nhất
thiết phải đảm bảo sự hài hòa về lợi ích kinh tế của các chủ thể trong quan hệ
sản xuất ấy.
Nhìn chung, các quan hệ sản xuất trong xã hội sẽ được tái tạo cho dù
có sự phá vỡ cục bộ bởi vì đồng thời sẽ có những mối quan hệ được hình
thành ở nơi khác và lúc khác. Như vậy, trong điều kiện bình thường, sự mất
đi hoặc xuất hiện những chủ thể cá biệt nào đó sẽ không làm thay đổi cơ cấu
xã hội. Tuy nhiên, Nhà nước cần phải can thiệp để hạn chế những tác hại của
sự phá vỡ với quy mô lớn.
d. Tái sản xuất môi trường tự nhiên:
Môi trường cũng có thể được coi là một yếu tố của sản xuất dù là điều
kiện gián tiếp nhưng rất quan trọng. Môi trường có nhiều dạng: môi trường xã
hội, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường tự nhiên, môi trường
lao động… Ở đây chỉ xét môi trường thiên nhiên.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, môi trường tự nhiên cũng cần phải
được tái tạo, với hai yêu cầu như sau:
– Đảm bảo nguồn dự trữ, không được làm cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, cần khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả bởi vì hầu hết tài nguyên
đều không tái tạo được.
– Môi trường sống không bị hủy hoại, đảm bảo sự cân bằng sinh thái.
Vấn đề không chỉ là tái tạo môi trường mà còn là cải tạo môi trường
hiện tại. Tuy nhiên, ngăn ngừa thì tốt hơn là cải tạo. Cần có chính sách, quy
định, quy hoạch, biện pháp chế tài, chi tiêu của nhà nước, của các doanh
nghiệp. Điều quan trọng là sự giác ngộ của các chủ thể xã hội.
Quá trình tái sản xuất của cải vật chất và tái sản xuất sức lao động có
thể làm ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên.
Các nội dung của tái sản xuất xã hội có quan hệ mật thiết và luôn tác
động lẫn nhau, đòi hỏi trong quá trình vận dụng không được xem nhẹ một nội
dung nào.
Câu 11: Phân tích các quy luật kinh tế của tái sản xuất.1. Quy luật tích lũy vốn:
Vốn là tất cả những khả năng có thể được sử dụng, được đưa vào quá
trình sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi.
a. Nội dung:
Tích lũy vốn là chuyển một phần giá trị sản phẩm thặng dư thành vốn
tái đầu tư.
Tích lũy vốn được xem là qui luật bởi vì đây là phương thức cơ bản để
có được khối lượng vốn không ngừng gia tăng, là điều kiện của tái sản xuất
mở rộng, có vai trò quyết định đối với quá trình tái sản xuất xã hội, là xu
hướng tất yếu của các quốc gia cũng như doanh nghiệp.
b. Yêu cầu:
– Phải ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất để có được sản phẩm
thặng dư ngày càng nhiều.
– Phải giải quyết một cách hợp lý mối tương quan giữa tích lũy với tiêu
dùng, bởi vì tiêu dùng góp phần cải thiện nguồn nhân lực, cũng là tích lũy.
– Quá trình tích lũy, tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất tư liệu
sản xuất sẽ quyết định quá trình tích lũy ở khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Cần phải ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất, bởi vì nó quyết định
năng suất lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ yêu cầu này, Marx đã khái quát thành quy luật “ưu tiên phát triển
sản xuất tư liệu sản xuất”. Lênin đã phát triển thêm: Sản xuất tư liệu sản xuất
để sản xuất tư liệu sản xuất phát triển nhanh nhất, tiếp theo là sản xuất tư liệu
sản xuất để sản xuất tư liệu tiêu dùng và cuối cùng tăng chậm hơn là sản xuất
tư liệu tiêu dùng.
– Trong quá trình tích lũy vốn, xu hướng phổ biến là tư liệu lao động
được tăng cường nhiều hơn so với việc đầu tư cho người lao động.
2. Quy luật thực hiện tổng sản phẩm xã hội:
a. Nội dung:
Đây là quy luật do Karl Marx tìm ra. Nó cho thấy các bộ phận của tổng
sản phẩm xã hội được trao đổi giữa các khu vực của nền kinh tế quốc dân để
cho quá trình tái sản xuất xã hội được diễn ra một cách liên tục và ổn định.
Karl Marx chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực: khu vực I sản
xuất tư liệu sản xuất, khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng.
b. Yêu cầu:
Quy luật này đòi hỏi sự trao đổi trong nội bộ mỗi khu vực và giữa các
khu vực phải tuân theo các điều kiện nhất định, theo những tỷ lệ thích ứng để
bảo đảm thực hiện tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng.
Các giả định cần thiết là:
– Toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất C – giá trị cũ của cả hai khu vực đều
được tiêu dùng hết trong năm và được chuyển hết sang sản phẩm.
– Tỷ lệ giữa giá trị sản phẩm thặng dư M và giá trị sản phẩm cần thiết V
(phần vốn dành cho lao động) ở cả hai khu vực là 1/1.
– Việc trao đổi đảm bảo nguyên tắc đúng giá trị.
– Tạm thời chưa xét đến sự thay đổi của kỹ thuật.
– Tạm thời không xét đến ngoại thương và dịch vụ.
– Karl Marx chia ra hai trường hợp là tái sản xuất giản đơn và tái sản
xuất mở rộng. Trong trường hợp tái sản xuất giản đơn, Marx giả sử cơ cấu
giá trị tổng sản phẩm của mỗi khu vực là:
Khu vực I: 4000C + 1000V + 1000M
Khu vực II: 2000C + 750V + 750M
Khi thực hiện tổng sản phẩm xã hội, ngoài sự trao đổi trong nội bộ từng
khu vực (khu vực I trao đổi tư liệu sản xuất, khu vực II trao đổi tư liệu tiêu
dùng), hai khu vực còn trao đổi sản phẩm cho nhau và lượng giá trị cần trao
đổi là 2.000.
– Điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn
là:
I (V+M) = II (C): Giá trị mới của khu vực I được trao đổi phải bằng với
giá trị tư liệu sản xuất của khu vực II.
Từ điều kiện này có thể suy ra các điều kiện phụ là:
I (C+V+M) = I(C) + II(C): Tổng giá trị khu vực I phải bằng với tổng giá trị
tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực, nghĩa là sản phẩm của khu vực I phải thoả
mãn đủ nhu cầu về tư liệu sản xuất của cả hai khu vực.
Điều kiện này nói lên vai trò quan trọng của khu vực I trong việc trang bị
tư liệu sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế.
I (V+M) + II (V+M) = II (C+V+M): Giá trị mới của cả hai khu vực tức thu
nhập quốc dân phải bằng với tổng giá trị của khu vực II, nghĩa là sản phẩm
của khu vực II phải thoả mãn đủ nhu cầu về tư liệu tiêu dùng của cả hai khu
vực.
Điều kiện này nói lên vai trò quan trọng của khu vực II trong việc thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội.
Trong trường hợp tái sản xuất mở rộng, giả sử cơ cấu giá trị tổng sản
phẩm của mỗi khu vực là:
Khu vực I: 6000C + 1500V + 1500M
Khu vực II: 2000C + 1000V + 1000M
Giả sử ở khu vực I, 50% giá trị sản phẩm thặng dư được dùng cho tích
lũy. Tái sản xuất mở rộng của khu vực II phải dựa vào tái sản xuất mở rộng
của khu vực I. Hai khu vực có sự sắp xếp lại cơ cấu tổng giá trị sản phẩm
như sau:
Khu vực I: 6000C + 600C' + 1500V + 150V' + 750M
Khu vực II: 2000C + 400C' + 1000V + 200V' + 400M
(M1 là phần giá trị sản phẩm thặng dư dành cho tiêu dùng)
Khi thực hiện tổng sản phẩm xã hội, ngoài sự trao đổi trong nội bộ từng
khu vực, hai khu vực còn trao đổi sản phẩm cho nhau và lượng giá trị trao đổi
là 2.400.
Trở lại cơ cấu giá trị sản phẩm ban đầu, ta có thể thấy được điều kiện
thực hiện tổng sản phẩm xã hội trong tái sản xuất mở rộng là:
I (V+M) > IIC: giá trị mới (giá trị sản phẩm thuần tuý) của khu vực I phải
lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất cần bù đắp của khu vực II, khoảng chênh lệch
dùng để đáp ứng yêu cầu tích lũy của cả hai khu vực.
Từ điều kiện thứ nhất này có thể suy ra các điều kiện phụ là:
I (C+V+M) > IC + IIC: Tổng giá trị khu vực I phải lớn hơn tổng giá trị tư
liệu sản xuất cần bù đắp ở cả hai khu vực để thỏa mãn nhu cầu tăng thêm về
tư liệu sản xuất của nền kinh tế.
I(V+M) + II(V+M) > II(C+V+M): Giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn
hơn tổng giá trị của khu vực II để đáp ứng yêu cầu dành một phần thu nhập
quốc dân mở rộng sản xuất ở cả hai khu vực.
3. Quy luật phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
a. Nội dung:
Tiếp theo việc thực hiện tổng sản phẩm xã hội là việc phân phối nó
trong đó có thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, có thể phân phối trước khi thực
hiện.
Qui luật này nói lên nguyên tắc cần phải đảm bảo khi phân phối tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân cho các chủ thể kinh tế tham gia vào
quá trình sản xuất và tái sản xuất.
b. Yêu cầu:
Quy luật này đòi hỏi sản phẩm xã hội phải được phân chia theo những
tỷ lệ hợp lý để vừa có thể bù đắp các chi phí sản xuất, vừa đảm bảo tiêu
dùng, vừa ổn định xã hội và vừa đảm bảo thực hiện tích lũy đáp ứng quá trình
tái sản xuất xã hội mở rộng.
Yêu cầu này được thể hiện qua sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội
và thu nhập quốc dân như sau:
TỔNG SẢN PHẨM XÃ HỘI
Quỹ bù đắp tư liệu sản
xuất đã hao phí
THU NHẬP QUỐC DÂN
Quỹ tích lũy Quỹ tiêu dùng
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
1: Quỹ phát triển sản xuất, tái sản xuất mở rộng, xây dựng cơ sở hạ
tầng.
2: Quỹ xây dựng công trình văn hóa.
3: Quỹ dự trữ xã hội.
4: Quỹ tiền công, tiền tương cho người lao động, người quản lý.
5: Chi phí quản lý hành chính, an ninh quốc phòng.
6: Chi phí cho giáo dục, y tế, cứu tế xã hội.
7: Quỹ bảo hiểm.
8: Phần lợi nhuận ròng dành cho tiêu dùng của nhà đầu tư.
Câu 12: Thế nào là tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế? Phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
1. Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế.
a. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của nền kinh tế, được chú trọng
về mặt lượng hơn là mặt chất, là kết quả của quá trình tái sản xuất xã hội mở
rộng theo chiều rộng, bằng cách sử dụng nhiều hơn các nguồn lực kinh tế,
hay có sự gia tăng đột biến ở ngành hay vùng kinh tế nào đó, hay có sự gia
tăng xuất khẩu.
Tốc độ tăng trưởng cũng như quy mô tái sản xuất của cải vật chất phụ
thuộc vào quy mô và hiệu quả sử dụng các nguồn lực, biểu hiện ra là: năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
b. Phát triển kinh tế là sự gia tăng của nền kinh tế được chú trọng về
mặt chất, là kết quả của quá trình tái sản xuất xã hội mở rộng theo chiều sâu,
biểu hiện ra là lực lượng sản xuất được đổi mới đồng bộ, năng suất lao động
tăng không ngừng (công nghệ kỹ thuật mới, trình độ người lao động được
nâng cao tương ứng), cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng hiện đại,
tiến bộ xã hội rõ rệt, chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể.
2. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện tiền đề cho phát triển kinh tế. Ngược
lại, phát triển kinh tế tạo điều kiện duy trì sự tăng trưởng liên tục và bền vững.
Sự lựa chọn chiến lược tăng trưởng hay phát triển kinh tế ở các quốc gia trên
thế giới là tùy theo điều kiện và quan điểm của mỗi nước.
Tuy tăng trưởng kinh tế chưa phải là điều kiện đủ, nhưng là điều kiện
cần trước tiên về vật chất để khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu, quyết
định sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Nhờ tăng trưởng kinh tế, thất
nghiệp sẽ giảm, số việc làm và mức thu nhập thực tế của dân cư sẽ tăng, tạo
điều kiện cải thiện chất lượng cuộc sống, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế tự nó chưa giải quyết được các tình trạng trên
nếu thành quả không được phân phối công bằng và hợp lý, cũng như cần
phải duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất cho củng cố an ninh, quốc
phòng, củng cố chế độ chính trị… Đối với các nước đang phát triển, tăng
trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết cho việc chống tụt hậu về kinh tế so
với thế giới. Nhưng tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn nền kinh tế đến
trạng thái “quá nặng”, lạm phát sẽ xảy ra, nền kinh tế sẽ bất ổn. Tăng trưởng
bền vững là tăng trưởng hợp lý, ổn định trong thời gian dài, bảo vệ môi
trường, mang lại hiệu quả kinh tế và tiến bộ xã hội.
3. Những chỉ tiêu đánh giá sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
– Tổng sản phẩm xã hội (theo hệ thống sản phẩm vật chất MPS):
Là toàn bộ giá trị sản phẩm xã hội do lao động trong các ngành sản
xuất vật chất tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Chỉ tiêu này được các nước xã hội chủ nghĩa trước đây sử dụng và có
những hạn chế như sau:
+ Sự trùng lắp: một lượng giá trị tư liệu sản xuất thường bị tính toán
nhiều lần.
+ Sự thiếu sót: lượng giá trị có được từ ngành dịch vụ phi sản xuất lại
không được tính đến.
– Trên thế giới hiện nay, hầu hết các nước đều sử dụng các chỉ tiêu
theo hệ thống kế toán quốc gia (System of National Accounts) là GNP và
GDP để đánh giá sự tăng trưởng hay phát triển kinh tế.
GNP (Gross National Products) – tổng sản phẩm quốc gia là tổng giá trị
những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong một năm từ các nguồn lực
của một quốc gia.
GDP (Gross Domestic Products) – tổng sản phẩm quốc nội là tổng giá
trị những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong một năm trên lãnh thổ
của một nước (không phân biệt nguồn lực ở trong nước hay từ nước ngoài).
(GDPi+1 – GDP1) / GDP1
GNP = GDP + NIA
Người ta thường tính mức tăng trưởng kinh tế trong một năm:
4. Quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tiến bộ xã hội là trạng thái xã hội mà sự công bằng xã hội qua phân
phối được đảm bảo; khoảng cách giàu – nghèo, tình trạng thất nghiệp được
giảm thiểu, chất lượng cuộc sống (nhu cầu, mức sống, tuổi thọ, môi trường),
trình độ văn hóa, trí tuệ và văn minh được nâng lên, con người được phát
triển một cách toàn diện.
Một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội
của một quốc gia là chỉ số HDI (Human Develop–ing Index) do LHQ đưa ra,
dựa trên ba tiêu chí cơ bản: mức thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ bình
quân và thành tựu giáo dục.
Khi xét tác động của tăng trưởng kinh tế đến đời sống xã hội, cần chú ý
đến sự gia tăng dân số, vì vậy, người ta đưa ra khái niệm tổng sản phẩm
quốc dân trên đầu người.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là tiền đề cho tiến bộ xã hội, và ngược
lại, tiến bộ xã hội sẽ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nhờ tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp sẽ giảm, số việc làn và mức thu
nhập của dân cư sẽ tăng, tạo điều kiện cải thiện chất lượng cuộc sống, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, kéo dài tuổi thọ, giảm suy dinh
dưỡng, giúp tăng cường văn hóa giáo dục…
Tiến bộ xã hội thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bởi vì những
nhu cầu phản ánh tiến bộ xã hội chính là động lực thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế ở mức độ cao. Ngoài ra, sự phân phối công bằng, hợp lý –
đòi hỏi của tiến bộ xã hội còn khuyến khích lợi ích vật chất đối với các chủ thể
kinh tế, tạo ra động lực tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế và phát
triển kinh tế.
Phát triển kinh tế luôn đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Nhưng
tăng trưởng kinh tế có thể không cùng chiều với tiến bộ xã hội: làm gia tăng
mức cách biệt giàu nghèo, gây ô nhiễm môi trường… Khi đó, cần phải đổi
mới cơ cấu nền kinh tế để lành mạnh hóa kết quả của tăng trưởng kinh tế,
phải đổi mới chính sách xã hội, giúp đỡ cho các đối tượng yếu thế trong xã
hội; phải nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước cũng như cần phải
duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, cũng như có các biện pháp chế tài…
Câu 13: Phân tích hiệu quả của tái sản xuất xã hội và thử nêu lên các giải pháp nhằm đạt hiệu quả ấy. Tại sao có thể nói nền kim tế xã hội chủ nghĩa đảm bảo kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội?
1. Hiệu quả của tái sản xuất xã hội.
Hiệu quả là kết quả so với chi phí bỏ ra.
(Hiệu quả) = (Kết quả) / (Chi phí)
Hiệu quả hay tính hiệu quả là yêu cầu thường xuyên đặt ra cho bất cứ
hoạt động nào của con người, nhất là hoạt động sản xuất, hoạt động kinh tế.
Tái sản xuất cá biệt ở các doanh nghiệp chỉ chú trọng hiệu quả kinh tế,
tức là hiệu quả được hiểu theo nghĩa hẹp (hiệu quả sản xuất kinh doanh).
(Hiệu quả sử dụng vốn) = (Kết quả sản xuất) / (Vốn sản xuất kinh
doanh)
Để tính toán hiệu quả sản xuất, doanh nghiệp phải sử dụng cả một hệ
thống các chỉ tiêu như hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng tài sản cố
định, hiệu quả sử dụng vật tư và năng suất lao động.
(Năng suất lao động) = (Số lượng sản phẩm) / (Chi phí lao động sống)
Tái sản xuất xã hội đòi hỏi phải đạt hiệu quả kinh tế – xã hội, hiệu quả
kinh tế thống nhất với hiệu quả xã hội, là hiệu quả được hiểu theo nghĩa rộng.
Hiệu quả sản xuất xã hội là kết quả của sản xuất xã hội tính theo mỗi đơn vị
chi phí lao động xã hội.
(Hiệu quả sản xuất xã hội) = (Kết quả sản xuất xã hội) / (Chi phí lao
động xã hội)
(Lao động sống và lao động quá khứ)
2. Các giải pháp nhằm đạt hiệu quả tái sản xuất xã hội.
Tái sản xuất xã hội đòi hỏi phải đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao và
phải chú ý những phương hướng và giải pháp như sau:
– Sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách hợp lý, có hiệu quả đảm bảo
tái tạo tài nguyên và môi trường.
– Cân đối giữa tích lũy với tiêu dùng để đảm bảo tái sản xuất mở rộng
giữa sản xuất với tiêu dùng để đảm bảo sự ổn định và phát triển của sản xuất,
đồng thời đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn.
– Tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát huy lợi thế và tiềm
năng của đất nước. Thu hút các nguồn lực từ nước ngoài cũng như trong
nước để đẩy mạnh tái sản xuất mở rộng theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
– Nhà nước phải kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội, đảm
bảo tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ xã hội.
3. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đảm bảo kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội.
Chỉ có nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mới
thực sự đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội. Bởi vì đó là nền sản xuất xã hội
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được đặt dưới sự quản lý có
hiệu quả của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã
hội sẽ hoàn toàn có thể đạt được.
Câu 14: Trình bày sơ lược lịch sử và phân tích các điều kiện của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nêu những ưu điểm của kinh tế hàng hóa.
1. Sơ lược lịch sử của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Qua các nền sản xuất xã hội, có thể khái quát được hai kiểu sản xuất:
sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của chính
nhà sản xuất, tương ứng với mô hình kinh tế tự nhiên.
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để đáp ứng nhu cầu của người khác, để
trao đổi, để bán, tương ứng với mô hình kinh tế hàng hóa. Như vậy, kinh tế
hàng hóa là mô hình kinh tế dựa trên quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa xuất hiện ngay từ thời kỳ tan rã của chế độ công xã
nguyên thủy, được phát triển cao nhất trong phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa và tiếp tục tồn tại và phát triển trong phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa.
Kinh tế hàng hóa được chia làm hai giai đoạn.
a. Giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn:
Đó là giai đoạn mà chủ thể là những người sản xuất và buôn bán với
qui mô nhỏ, dựa trên kỹ thuật thủ công, phạm vi hẹp, quan hệ “hàng đổi hàng”
là chủ yếu.
Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã dẫn đến sự
xuất hiện tiền tệ, thành thị mọc lên, phân công lao động xã hội ngày càng phát
triển và cách mạng công nghiệp là tiền đề cho việc chuyển sang giai đoạn tiếp
theo.
b. Giai đoạn kinh tế thị trường.
Ở giai đoạn này, quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hóa đã đạt trình độ
cao hơn: tiền tệ xuất hiện và được sử dụng phổ biến, thị trường thống nhất
được hình thành và phát triển với nhiều dạng khác nhau.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, là
giai đoạn mà thị trường có vai trò quan trọng và phát triển đa dạng (tuyệt đại
bộ phận đầu vào và đầu ra phải dựa vào thị trường). Như vậy, kinh tế thị
trường là mô hình kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện
thông qua thị trường.
Kinh tế thị trường được phát triển qua hai thời kỳ:
– Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh (cổ điển) với đặc điểm là quy mô
sản xuất ở mức trung bình là chủ yếu và chưa có sự can thiệp của Nhà nước.
Do vậy, giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn kinh tế thị trường thuần túy
hay hoàn hảo.
Đặc trưng của giai đoạn này là kỹ thuật cơ điện, tư hữu nhỏ và vừa về
tư liệu sản xuất, vận động theo cơ chế thị trường tự điều chỉnh.
– Kinh tế thị trường hiện đại: xuất hiện các nhà sản xuất độc quyền và
sự can thiệp của nhà nước, nhưng vẫn trên cơ sở sự vận động của thị
trường.
Đặc trưng của giai đoạn này là kỹ thuật điện tử tin học, xuất hiện sở
hữu nhà nước, sở hữu cổ phần, sở hữu quốc tế và thị trường chứng khoán;
cơ chế kinh tế hỗn hợp giữa bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình.
2. Điều kiện xuất hiện, tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa:
Sản xuất và trao đổi hàng hóa là một phạm trù lịch sử, bởi vì nó xuất
hiện, tồn tại và phát triển khi có đủ hai điều kiện:
a. Sự phân công lao động xã hội:
Phân công lao động là sự chuyên môn hóa lao động, dựa trên khả năng
và nhu cầu của các chủ thể.
Phân công lao động phải đi đôi với (là điều kiện để tiến hành) hợp tác
bởi vì nó vừa tách biệt, vừa tạo điều kiện thúc đẩy sự liên kết giữa các chủ
thể với nhau. Có các loại phân công lao động là phân công lao động nội bộ tổ
chức hay doanh nghiệp, phân công lao động xã hội và phân công lao động
quốc tế. Kết quả của phân công và hợp tác lao động là năng suất, chất lượng
và hiệu quả.
Đối với phân công lao động trong một xí nghiệp, người lao động được
chuyên môn hóa theo tay nghề, giới tính, tuổi tác, sức khỏe…
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất giữa các
ngành nghề trong nền kinh tế, và đây là xu hướng tất yếu trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất. Đây mới là điều kiện của sản xuất và trao đổi hàng
hóa, bởi vì nó đưa đến việc tạo ra những sản phẩm dịch vụ hoàn chỉnh.
Hơn nữa, phân công lao động xã hội đòi hỏi mỗi nhà sản xuất chỉ có
thể chuyên sản xuất một vài loại sản phẩm nhất định, tùy theo khả năng và
điều kiện của mình. Muốn thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng nhiều mặt của mình,
người sản xuất này phải dựa vào người sản xuất khác, phải trao đổi sản
phẩm cho nhau.
b. Chế độ tư hữu hay sự đa dạng của các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất:
Điều kiện này qui định sự độc lập giữa những người sản xuất hàng hóa
với nhau và qui định quyền định đoạt của mỗi người đối với tài sản vật phẩm
của mình, nên có quyền đem nó trao đổi với vật phẩm của người khác.
Hai điều kiện này làm cho người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc
với nhau đã qui định thẩm quyền cũng như nhu cầu trao đổi sản phẩm của
nhau và kinh tế hàng hóa ra đời đã giúp giải quyết mâu thuẫn này.
3. Những ưu điểm của kinh tế hàng hóa.
– Thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm,
hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực kinh tế và phát triển
lực lượng sản xuất.
– Thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất, làm cho sự phân công
chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, cũng như sự liên kết hợp tác
ngày càng mở rộng và tạo điều kiện cho sự phát triển các hoạt động kinh tế
một cách tự do, dân chủ, bình đẳng.
– Làm cho sản xuất và tiêu dùng gắn bó chặt chẽ với nhau, đáp ứng
đầy đủ và kịp thời mọi nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, giúp nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho mọi người và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa còn có những hạn chế như: gây phân hóa
giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, làm phát sinh kinh tế ngầm
(làm hàng giả, đầu cơ, buôn lậu…)
Câu 15: Hàng hoá là gì? Những thuộc tính của nó được hiểu và có quan hệ với nhau như thế nào? Vì sao hàng hóa lại có các thuộc tính đó?
1. Hàng hoá và những thuộc tính của hàng hoá.
Hàng hóa là một vật phẩm hay dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người và được trao đổi với một vật phẩm, dịch vụ khác.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy được hai thuộc tính của hàng hóa là giá
trị sử dụng và giá trị trao đổi.
a. Giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của vật phẩm là khả năng có thể thỏa mãn nhu cầu con
người, là tính có ích hay công dụng của nó.
Đặc điểm của giá trị sử dụng:
– Giá trị sử dụng ngày càng được tìm tòi, phát hiện do sự phát triển của
sản xuất và đời sống cũng như do khoa học kỹ thuật. Với ý nghĩa này, giá trị
sử dụng được xem là có tính lịch sử cụ thể.
– Giá trị sử dụng cơ bản giúp thỏa mãn nhu cầu con người, nên là
thuộc tính tự nhiên của bất cứ một vật phẩm nào, dù vật phẩm đó có là hàng
hóa hay không, tức là không kể hình thức xã hội của nó là như thế nào. Với ý
nghĩa này, giá trị sử dụng được xem là một phạm trù vĩnh viễn.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa không phải dành cho người sản xuất ra
nó mà là dành cho người mua nó. Do vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa tùy
thuộc vào sự đánh giá của người mua, tùy theo nhu cầu, thị hiếu của họ và
tuỳ theo sự tiêu dùng thực tế. Sự đánh giá này vừa mang tính phổ biến khách
quan, vừa mang tính đặc thù chủ quan.
b. Giá trị trao đổi và giá trị
Giá trị trao đổi của một hàng hóa là khả năng trao đổi, thể hiện qua tỷ lệ
trao đổi giữa hàng hóa đó với một hàng hóa khác.
Ví dụ: Giá trị trao đổi của vải so với gạo là: 1m vải 10kg gạo.
Vải và gạo là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau, nhưng được
trao đổi với nhau vì chúng thuộc hai chủ sở hữu khác nhau, cần đến sản
phẩm của nhau và chỉ cần điều chỉnh tỷ lệ hợp lý là có thể đi đến thống nhất
trao đổi.
Theo Marx, chúng được trao đổi với nhau vì chúng đều là sản phẩm
của lao động và đều kết tinh một lượng lao động hao phí như nhau, tức là
lượng lao động hao phí để làm ra 1m vải bằng với lượng lao động hao phí để
làm ra 10kg gạo.
Marx đã xây dựng khái niệm giá trị: Cái kết tinh của lao động vào trong
hàng hóa (được xã hội thừa nhận), được gọi là giá trị của hàng hoá.
Đặc điểm của giá trị:
– Giá trị là cơ sở, là nội dung bên trong của giá trị trao đổi, còn giá trị
trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị.
– Giá trị trao đổi hay giá trị là thuộc tính đặc trưng của hàng hóa, bởi vì
một vật phẩm là hàng hóa phải được dùng để trao đổi, phải so sánh với hàng
hóa khác.
– Giá trị trao đổi hay giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa, bởi vì nó
biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa.
– Giá trị trao đổi hay giá trị chỉ được xét đến trong điều kiện kinh tế
hàng hoá, do vậy nó được xem là một phạm trù lịch sử.
c. Quan hệ giữa các thuộc tính của hàng hóa
– Đây là mối quan hệ giữa mặt chất và mặt lượng của hàng hóa.
+ Giá trị sử dụng nói lên mặt chất của hàng hoá, bởi vì nó giúp phân
biệt các loại hàng hóa khác nhau.
+ Giá trị trao đổi cho thấy mặt lượng của hàng hóa, bởi vì nó là tỷ lệ các
lượng hàng hóa, phản ánh chi phí lao động để sản xuất ra hàng hóa. Nhờ giá
trị trao đổi thích hợp mà có thể so sánh các hàng hóa khác nhau và bù lại sự
khác biệt về giá trị sử dụng của chúng.
– Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị.
Đây là là hai thuộc tính đồng thời tồn tại và thống nhất trong một hàng
hóa. Nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập bởi vì:
– Mục đích của người sản xuất là giá trị chứ không phải là giá trị sử
dụng. Nếu họ có quan tâm đến giá trị sử dụng cũng chỉ nhằm đạt mục đích
giá trị mà thôi. Ngược lại, người mua lại chỉ cần giá trị sử dụng của hàng hóa,
nhưng muốn vậy thì trước hết phải thực hiện giá trị mới chi phối được giá trị
sử dụng.
– Thực hiện giá trị và giá trị sử dụng là hai quá trình khác nhau về
không gian và về thời gian. Quá trình thực hiện giá trị được tiến hành trước,
trên thị trường, còn quá trình thực hiện giá trị sử dụng được tiến hành sau,
vào lúc tiêu dùng.
2. Nguồn gốc của hai thuộc tính của hàng hoá.
Theo Karl Marx, sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và
giá trị, vì lao động sản xuất ra hàng hóa có tính chất hai mặt là lao động cụ
thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể là lao động theo chuyên môn nghề nghiệp nhất định,
có mục đích, đối tượng cụ thể, với công cụ lao động riêng và kết quả là tạo ra
các giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao động trừu tượng là lao động được hiểu theo nghĩa chung nhất, là
sự hao phí sức lực (thể lực, trí lực, tâm lực) một cách phổ biến, khách quan
và kết quả là tạo ra giá trị của hàng hóa.
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh mâu thuẫn cơ bản của
sản xuất hàng hóa là mâu thuẫn giữa lao động cá biệt với lao động xã hội, tức
là mâu thuẫn giữa tính chất cá biệt với tính chất xã hội của lao động.
Mâu thuẫn này được biểu hiện như sau: Với tính chất cá biệt, sản xuất
cái gì, sản xuất bao nhiêu và như thế nào là việc riêng của mỗi người sản
xuất. Họ không biết được nhu cầu thực tế của xã hội trong tương lai, chỉ đến
khi đưa ra sản phẩm họ mới thực sự biết lao động của mình có cần thiết cho
xã hội hay không, có được xã hội thừa nhận hay không.
Lao động của người sản xuất hàng hóa luôn mang tính chất xã hội, là
một bộ phận của lao động xã hội, nhưng đó chỉ là lao động xã hội cá biệt,
trong khi đó xã hội chỉ thừa nhận lao động xã hội cần thiết.
Lao động xã hội cần thiết mới chính là cơ sở của giá trị, là cái kết tinh
thành giá trị của hàng hóa. Điều này cho thấy rõ thuộc tính xã hội của giá trị
hàng hóa. Lao động xã hội cá biệt là cơ sở tạo ra giá trị cá biệt của hàng hóa.
Câu 16: Lượng giá trị của hàng hóa là gì? Hãy phân tích sự chi phối của các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.
1. Lượng giá trị của hàng hoá.
Theo quan điểm giá trị lao động thì:
Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng thời gian lao động xã
hội cần thiết đã hao phí để tạo ra hàng hóa đó và được tính toán bằng các
đơn vị đo lường thời gian.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian để sản xuất hay tái sản
xuất một hàng hóa trong điều kiện bình thường, tức là với trình độ kỹ thuật
trung bình. Trình độ khéo léo trung bình của xã hội. Thông thường, đó là điều
kiện sản xuất của nhóm người sản xuất và cung ứng đại bộ phận hàng hóa ấy
trên thị trường. Do vậy, giá trị hàng hóa thường gần sát với giá trị cá biệt của
nhóm người sản xuất cung ứng hầu hết lượng hàng hóa đó trên thị trường
(một phần vì họ có sức mạnh thị trường).
Cách tính giá trị hàng hóa: trung bình có trọng số các giá trị cá biệt:
X0 = ( a1x1) / ( a1)
Xí nghiệpGiá trị cá
biệt
Sản
lượng
Tổng giá
trị dự
định
Giá trịTổng giá
trị thực tếKết quả
A 2 70 140 2,4 168 28
3 20 60 2,4 48 –12
C 4 10 40 2,4 24 –16
240 240
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:
a. Lượng giá trị hàng hóa tùy thuộc vào loại lao động sản xuất hàng hóa và theo tính chất ngành nghề:
Có thể phân loại lao động thành lao động giản đơn và lao động phức
tạp. Lao động giản đơn là loại lao động mà bất cứ người nào có khả năng lao
động bình thường đều có thể làm được. Lao động phức tạp là lao động có
chuyên môn, phải qua đào tạo huấn luyện, trải qua kinh nghiệm mới có.
Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra lượng giá trị
nhiều hơn so với lao động giản đơn, nên lao động phức tạp được xem là bội
số của lao động giản đơn.
Vì vậy trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều
được qui thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát, hay được qui
định bởi Nhà nước. Như vậy, lượng giá trị xã hội của hàng hoá do thời gian
lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình quyết định.
b. Lượng giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa nghịch biến với năng suất lao động.
Năng suất lao động là hiệu suất của lao động, được đo bằng số lượng
sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian, hoặc bằng số lượng thời gian hao
phí để tạo ra một đơn vị sản phẩm.
(Năng suất lao động) = (Số lượng sản phẩm) / (Chi phí lao động sống).
Năng suất lao động tăng lên là nhờ lao động sống là điều kiện trực tiếp
và lao động quá khứ là điều kiện gián tiếp. Có thể phân biệt năng suất lao
động sống và năng suất lao động quá khứ.
Năng suất lao động càng cao thì số lượng sản phẩm được tạo ra trong
một đơn vị thời gian sẽ càng lớn, do đó giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa sẽ
càng giảm (nghịch biến với năng suất lao động), nhưng tổng giá trị hàng hoá
thì không đổi.
Năng suất lao động tăng lên làm giảm giá trị hàng hóa, nhưng không
xảy ra với tất cả các thành phần của giá trị hàng hóa, nó chủ yếu làm giảm 2
thành phần là giá trị lao động sống và giảm mức khấu hao máy móc nhà
xưởng; nhưng nó không làm thay đổi định mức sử dụng nguyên vật liệu.
c. Lượng giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa không đổi với cường độ lao động.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay kéo dài của
lao động.
Cường độ lao động tăng lên làm cho mức hao phí lao động tăng cùng
với lượng sản phẩm tạo ra nhiều hơn tương ứng. Nếu năng suất lao động
không đổi, thì tăng cường độ lao động cũng như tăng đầu tư chiều rộng, số
sản phẩm sẽ tăng lên đồng thời với tổng giá trị hàng hóa tăng lên, nên giá trị
của một đơn vị hàng hóa không thay đổi.
Như vậy, khi cường độ lao động thay đổi thì tổng giá trị hàng hoá thay
đổi đồng biến; nhưng giá trị một đơn vị hàng hoá thì không đổi.
Câu 17: Trình bày nguồn gốc, các hình thái và bản chất của tiền tệ.Về nguồn gốc, tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu
dài của trao đổi hàng hóa, được thể hiện qua quá trình phát triển các hình thái
đánh giá hay đo lường giá trị của hàng hóa.
Tiền tệ xuất hiện đã thúc đẩy lưu thông hàng hoá, phát triển thị trường
ngày càng đa dạng và có những tác động tích cực đến nền kinh tế.
Các hình thái thể hiện của tiền tệ:
– Hình thái đo lường giản đơn: Khi số lượng hàng hóa trao đổi còn rất
ít, giá trị của một hàng hóa được đo lường hay biểu hiện ngẫu nhiên qua giá
trị sử dụng của một hàng hóa bất kỳ nào đó.
Ví dụ: Một người đổi 1 cái rìu lấy 40 kg lúa.
Ở đây, giá trị của cái rìu được biểu hiện ở lúa. Người nào cần lúa trước
hết cho tiêu dùng và sau đó là có thể dùng nó để trao đổi lấy thứ khác. Khi
thực hiện mục đích trao đổi, lúa sẽ giữ vai trò vật ngang giá, giá trị sử dụng
của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị.
– Hình thái đo lường mở rộng: Khi việc trao đổi hàng hóa được mở
rộng, giá trị của một hàng hóa được đo lường hay biểu hiện ở giá trị sử dụng
của nhiều hàng hóa khác, nghĩa là có nhiều hàng hóa khác nhau được sử
dụng làm vật ngang giá.
– Hình thái chung: Việc tồn tại quá nhiều vật ngang giá như vậy đã gây
khó khăn cho trao đổi, đòi hỏi phải chọn lọc một số vật ngang giá chung, biểu
hiện giá trị của mọi hàng hóa khác và làm trung gian trao đổi để thuận tiện, dễ
dàng hơn.
– Hình thái tiền: Quá trình chọn lọc tự nhiên đối với các vật ngang giá
chung tiếp tục diễn ra. Khi bạc và vàng được chọn thì hình thái tiền tệ xuất
hiện với chế độ song kim. Nhưng cuối cùng chỉ có vàng mới khẳng định được
tính hơn hẳn của nó. Từ đó tiền tệ theo chế độ bản vị vàng.
Như vậy, về bản chất kinh tế, tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt dùng làm
vật ngang giá chung, giá trị sử dụng của nó biểu hiện (là hiện thân của) giá trị
của mọi hàng hóa khác (vật biểu hiện giá trị). Về bản chất xã hội, tiền tệ là cái
thể hiện lao động xã hội cần thiết và phản ánh mối quan hệ giữa những người
trao đổi hàng hóa.
Tiền tệ cũng là hàng hóa nên cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị
sử dụng thông thường của vàng là khả năng dùng làm đồ trang sức, giá trị sử
dụng đặc biệt của nó là khả năng dùng làm vật ngang giá chung. Do giá trị sử
dụng đặc biệt đó của vàng mà giá trị của nó thường được thừa nhận ở mức
cao.
Giá trị sử dụng đó của tiền tệ được thể hiện đầy đủ qua các chức năng
của nó.
Câu 18: Trình bày các chức năng của tiền tệ.1. Thước đo giá trị:
Để đo giá trị của các hàng hóa, xã hội không thể dùng thước đo trực
tiếp là lao động xã hội cần thiết, mà phải dùng thước đo trung gian là tiền tệ.
Giá trị của mỗi hàng hóa sẽ được biểu hiện qua một số lượng tiền nhất định.
Đây là chức năng cơ bản nhất của tiền tệ, trực tiếp biểu hiện bản chất
vật ngang giá chung của nó.
Để thực hiện chức năng này, bản thân tiền phải được đo lường, tức là
tiền tệ phải có đơn vị tính. Đơn vị tiền tệ có thể thay đổi, tùy thuộc vào: tương
quan cung – cầu về vàng hay giá vàng, tương quan giữa các loại tiền, lượng
tiền phát hành, lưu hành trong xã hội so với yêu cầu sử dụng, giá cả thị
trường…
2. Phương tiện thanh toán:
Tiền là thước đo giá trị nên có thể được dùng để thanh toán tiền hàng,
để trả công, nộp thuế, trả vốn và lãi vay… với đặc điểm là việc thanh toán có
thời hạn.
3. Phương tiện cất trữ:
Là biểu hiện của mọi thứ của cải vật chất, tiền tệ có thể được sử dụng
để cất trữ. Để thích hợp với chức năng này tiền tệ nhất thiết phải có giá trị
đảm bảo, phải là vàng hay những loại tiền đảm bảo giá trị.
Ngày nay người ta cất trữ tiền bằng cách có lợi nhất là gửi vào ngân
hàng. Tiền gửi vào ngân hàng là tiền cất trữ đối với người gửi, nhưng đối với
xã hội lại là tiền vận động, vì nó sẽ được sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiền
mặt cho lưu thông và nhu cầu vốn cho hoạt động kinh tế, góp phần tạo thêm
sản phẩm cho xã hội.
4. Phương tiện trao đổi hàng hóa:
Tiền là thước đo giá trị nên có thể được dùng để làm trung gian trong
trao đổi hàng hóa: H – T – H.
Lúc đầu, tiền tệ trao đổi được biểu hiện dưới dạng vàng thoi, bạc nén.
Hình thức này gây nhiều khó khăn vì mỗi lần trao đổi người ta phải cân lại
vàng, xác định phẩm chất của nó. Tiền đúc ra đời đã khắc phục được khó
khăn đó. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc dần dần bị hao mòn, không còn
đúng với giá trị danh nghĩa của nó, nhưng người mua kẻ bán vẫn thừa nhận
do giá trị thấp và được Nhà nước đảm bảo. Từ thực tế đó, tiền giấy ra đời và
ngày càng phát huy vai trò của nó.
5. Tiền tệ thế giới:
Đây là tổng hợp các chức năng trên của tiền tệ trong quan hệ kinh tế
quốc tế qua các hình thức thương mại, dịch vụ và đầu tư quốc tế.
Ban đầu, chức năng này được thực hiện qua tiền vàng, sau này nó
được thực hiện qua các loại tiền giấy mạnh. Tiền tệ thế giới có nhiều loại đa
dạng và việc mua bán các loại tiền ấy thường xuyên diễn ra.
Những chức năng trên của tiền tệ có liên quan mật thiết với nhau.
Câu 19: Trình bày khái niệm về giá cả, cho biết mối quan hệ giữa giá cả và giá trị hàng hóa. Phân tích mối quan hệ giữa giá trị và giá cả hàng hóa với:
Giá trị thị trường.
Giá cả sản xuất.
Giá cả độc quyền.
1. Khái niệm giá cả, quan hệ giữa giá cả với giá trị:
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, thông qua
tỷ lệ trao đổi giữa một đơn vị hàng hóa ấy với một số tiền nhất định. Giá cả
chính là giá trị trao đổi của hàng hóa, khi so sánh với tiền tệ.
Giá trị hàng hoá là hao phí lao động kết tinh trong hàng hoá, được phân
biệt thành hai loại là giá trị cá biệt và giá trị xã hội của hàng hoá. Chi phí lao
động trong sản xuất là cơ sở xác định giá trị hàng hóa.
Giá trị xã hội của hàng hoá là cái kết tinh trong hàng hóa của hao phí
lao động xã hội cần thiết. Giá trị cá biệt của hàng hoá là cái kết tinh trong
hàng hóa của hao phí lao động xã hội cá biệt.
Trong thực tế sản xuất và trao đổi hàng hóa, giá cả là cái hiển hiện ra
chứ không phải là giá trị. Các doanh nghiệp có chiến lược giá cả, nghiên cứu
tình hình biến động giá cả, chứ không đề cập đến giá trị.
Như vậy, giá trị là cơ sở, là nội dung của giá cả. Giá cả là hình thức
biểu hiện bên ngoài của giá trị. Giá cả hàng hóa thay đổi lên xuống, xoay
quanh giá trị. Giá cả thì cụ thể, còn giá trị thì trừu tượng. Hơn nữa, giá trị là
giá cả trừu tượng hóa, là cái trừu tượng của giá cả.
2. Mối quan hệ giữa giá trị và giá cả hàng hóa với giá trị thị trường của hàng hóa.
Giá cả hàng hoá trên thị trường phải căn cứ vào giá trị và giá trị thị
trường. Các yếu tố chi phối giá trị thị trường là sự đánh giá của người tiêu
dùng về giá trị sử dụng của hàng hoá, sự cạnh tranh, sự tương quan cung –
cầu hàng hóa, sức mua của tiền tệ, sự can thiệp của Nhà nước.
Giá trị và giá trị thị trường là cơ sở của giá cả thị trường. Sự cạnh tranh
bất chính, sự thỏa thuận riêng lẻ, sự tác động tâm lý, những tình hình bất
thường… là những yếu tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường tạo nên sự đa
dạng nhiều vẻ của giá cả, sự tách biệt giữa giá cả thị trường với giá trị và giá
trị thị trường.
Như vậy, giá cả thị trường rất đa dạng nhưng luôn xoay quanh, dựa
trên cơ sở giá trị và giá trị thị trường của hàng hóa.
3. Mối quan hệ giữa giá trị và giá cả hàng hóa với giá cả sản xuất của hàng hoá.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, sự hình thành lợi
nhuận, bình quân đã làm cho giá cả sản xuất có thể đóng vai trò như là giá trị
hàng hoá. Điều này làm cho giá cả thị trường có thể xoay quanh giá cả sản
xuất.
4. Mối quan hệ giữa giá trị và giá cả hàng hóa với giá cả độc quyền.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, sự hình thành lợi nhuận
độc quyền làm cho giá cả độc quyền có thể đóng vai trò như là giá trị hàng
hoá. Điều này làm cho giá cả thị trường có thể phải xoay quanh giá cả độc
quyền.
Câu 20: Thế nào là thị trường và cơ chế thị trường? Trình bày vai trò của thị trường và chức năng của cơ chế thị trường trong nền kinh tế?
1. Khái niệm, phân loại và vai trò của thị trường.
a. Khái niệm:
Thị trường là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa, nơi
tổng hòa các mối quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
Thị trường còn được hiểu là tổng thể các điều kiện khách quan và chủ
quan tác động đến sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa. Các điều kiện
khách quan: không gian cần thiết, sự đảm bảo nguồn cung, sự phát triển nhu
cầu. Các điều kiện chủ quan: sự quản lý của nhà nước, hành vi của các chủ
thể nhằm tối đa hóa lợi ích của mình…
Sự hình thành và phát triển của thị trường gắn liền với sự phát triển của
sản xuất và lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ. Ở đâu có sản xuất và trao
đổi hàng hóa thì ở đó có thị trường.
b. Phân loại thị trường:
Một nền kinh tế hàng hóa chỉ có thể phát triển mạnh mẽ khi có đầy đủ
các dạng thị trường.
Thị trường theo nghĩa hẹp là thị trường hữu hình, chủ yếu là thị trường
hàng hóa, việc mua bán được diễn ra tại một nơi cố định. Thị trường theo
nghĩa rộng còn bao gồm cả thị trường vô hình. Thị trường vô hình thì không
cố định, chủ yếu dựa vào việc quảng cáo, thông qua hoạt động dịch vụ môi
giới…
Xét theo mặt hàng, thị trường bao gồm thị trường các yếu tố sản xuất,
thị trường sản phẩm dịch vụ. Xét theo không gian, thị trường bao gồm thị
trường trong nước, thị trường thế giới; thị trường cả nước, thị trường khu
vực. Xét theo thời gian, thị trường bao gồm thị trường ngắn hạn, thị trường
dài hạn. Xét theo tính chất, thị trường bao gồm thị trường cạnh tranh hoàn
toàn, thị trường độc quyền.
2. Vai trò của thị trường:
– Thị trường là nơi gặp gỡ, nơi khai thông các mối quan hệ giữa người
mua và người bán, là nơi đánh giá các yếu tố có liên quan để xác định số
lượng, chủng loại và giá cả hàng hóa – dịch vụ và thực hiện giá trị của chúng.
– Thị trường là điều kiện và là yếu tố thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng,
đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội được diễn ra một cách có hiệu quả.
– Thị trường là nơi diễn ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất cũng
như người tiêu dùng. Thị trường là nơi phản ánh những thông tin cần thiết
cho người sản xuất và người tiêu dùng, giúp họ điều chỉnh hành vi của mình,
từ đó các doanh nghiệp hoàn thiện chiến lược kinh doanh của mình.
3. Cơ chế thị trường và chức năng của nó.
Cơ chế thị trường là tổng thể những phương thức vận hành nền kinh tế
thông qua khả năng tự điều tiết của nó, tức là thông qua tác dụng của các quy
luật kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết, tự vận hành nền kinh tế theo
yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường. Thông qua các yếu tố kinh tế là
cung, cầu và giá cả hàng hóa, dưới tác động của các quy luật kinh tế vốn có,
nó thúc đẩy việc hình thành các quan hệ kinh tế trên cơ sở hài hòa lợi ích kinh
tế giữa các chủ thể kinh tế, để giải quyết 3 vấn đề cơ bản của kinh tế hàng
hoá là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
Khi giá cả mặt hàng nào đó tăng lên, sản xuất sẽ mở rộng làm cho
cung của hàng hóa đó tăng dần, vượt quá cầu, dẫn đến tình trạng ế thừa
hàng hóa. Để tiêu thụ được hàng hóa, người bán phải cạnh tranh với nhau
bằng cách giảm giá, đồng thời các nhà sản xuất phải thu hẹp quy mô sản
xuất, cung hàng hóa giảm sút tạo ra tình trạng thiếu hàng hóa. Muốn mua
được hàng hoá, người mua sẽ cạnh tranh với nhau làm cho giá cả tăng lên…
Chức năng của cơ chế thị trường:
– Nó làm cho nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng ngày càng có bản
lĩnh hơn. Nó làm cho các nhà sản xuất kinh doanh chủ động, sáng tạo, quan
tâm hơn nữa đến nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng; đảm bảo cho người
tiêu dùng có thể đánh giá sản phẩm thông qua quyết định của mình.
– Nó góp phần điều tiết, kích thích mở rộng sản xuất và tiêu dùng, đồng
thời làm cho sản xuất gắn với tiêu dùng, làm giảm nguy cơ khủng hoảng trong
nền kinh tế.
– Nó làm cho mọi tiềm năng kinh tế được khơi dậy, thúc đẩy sản xuất
hàng hóa nhiều, nhanh, tốt, rẻ hơn, làm cho nền kinh tế trở nên sống động,
mang lại hiệu quả kinh tế cao.
– Nó làm nảy sinh những khuyết tật, tiêu cực, gây lãng phí, tăng mâu
thuẫn xã hội…
Câu 21: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa. Sự biểu hiện hoạt động của quy luật này trong các giai đoạn phát triển của CNTB như thế nào?
1. Nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị:
a. Nội dung:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng
hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt
động khách quan, không lệ thuộc vào ý muốn con người. Đặc điểm hoạt động
của nó cũng có khác biệt giữa các phương thức sản xuất, tùy thuộc vào quan
hệ sản xuất thống trị.
Quy luật giá trị qui định việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa
trên cơ sở giá trị, tức là dựa trên cơ sở lao động xã hội cần thiết.
b. Yêu cầu:
Trong sản xuất, quy luật giá trị đòi hỏi nhà sản xuất phải căn cứ vào giá
trị xã hội, phải hạ thấp giá trị cá biệt sao cho giá trị cá biệt không được vượt
quá giá trị xã hội.
Tuân theo yêu cầu này, các nhà sản xuất mới có thể tồn tại và phát
triển, ngược lại sẽ thua lỗ và phá sản.
Trong trao đổi, quy luật giá trị đòi hỏi người mua kẻ bán phải căn cứ
vào giá trị, phải thực hiện nguyên tắc đúng giá, tức là nguyên tắc mua bán
đúng giá trị. Người mua muốn mua hàng hóa dưới giá trị, người bán muốn
bán hàng hóa trên giá trị, từ đó đi đến thống nhất nguyên tắc đúng giá.
c. Tác dụng:
– Góp phần điều tiết sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa:
Điều tiết sản xuất:
Các nhà sản xuất thường đầu tư hay chuyển hướng đầu tư vào ngành
nào có điều kiện sản xuất thuận lợi, dễ dàng có được giá trị cá biệt thấp, có
được chênh lệch giữa giá trị cá biệt với giá trị. Từ đó, các yếu tố sản xuất sẽ
chuyển dịch đến những ngành đó; quy mô sản xuất sẽ được điều chỉnh:
ngành này mở rộng, còn ngành kia lại thu hẹp.
Sự điều tiết như vậy nói chung là rất cần thiết, mang lại hiệu quả kinh
tế, bởi vì những ngành đó thường là những ngành mà xã hội có nhu cầu cao.
Nhưng trong một số trường hợp thì ngược lại, cho thấy mặt hạn chế của tác
dụng này, cho thấy mâu thuẫn giữa lao động cá biệt và lao động xã hội.
Điều tiết lưu thông:
Quy luật giá trị khiến cho hàng hóa có xu hướng di chuyển từ nơi có giá
trị hay giá cả thấp đến nơi có giá trị hay giá cả cao.
Đây là tác dụng của quy luật ở khâu trao đổi, trong quá trình tái sản
xuất. Sự điều tiết này là có lợi, bởi vì đó là sự điều tiết từ nơi có nhu cầu thấp
đến nơi có nhu cầu cao, giúp phân phối hợp lý các nguồn hàng giữa các vùng
kinh tế, giúp cân đối cung và cầu các loại hàng hóa trong nền kinh tế.
Điều tiết tiêu dùng:
Đây là tác dụng của quy luật ở khâu tiêu dùng, trong quá trình tái sản
xuất. Nói chung, những mặt hàng giá cao (so với thu nhập và so với lúc
trước) sẽ ít được tiêu dùng, những mặt hàng giá giảm thấp sẽ được tiêu dùng
nhiều hơn.
– Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động và phát triển lực
lượng sản xuất.
Để có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị, thu được nhiều lãi, người sản xuất
hàng hóa ngoài việc phát huy những điều kiện thuận lợi, thực hiện tiết kiệm
trong sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý sản xuất, phân phối, họ còn phải đầu
tư mua sắm thiết bị máy móc, cải tiến kỹ thuật, cũng như sử dụng lao động có
tay nghề cao. Từ đó, năng suất lao động cá biệt sẽ tăng lên, năng suất lao
động xã hội cũng tăng theo và lực lượng sản xuất xã hội sẽ phát triển.
– Phân hóa những người sản xuất hàng hóa:
Đây là kết quả của hai tác dụng trên. Người sản xuất hàng hóa thường
bị phân hóa, nhất là những người sản xuất nhỏ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, người sản xuất nào có điều kiện
thuận lợi, biết đầu tư đúng chỗ, cũng như có những nỗ lực cải tiến kỹ thuật và
quản lý, có thể tạo ra sản phẩm với giá trị cá biệt thấp hơn giá trị, thì sẽ thành
công và trở nên giàu có.
Còn ngược lại, những người không có các điều kiện hay nỗ lực như
trên hoặc gặp rủi ro tai nạn thì sẽ mất vốn, bị phá sản, phải đi làm thuê cho
người khác.
Về mặt kinh tế, tác dụng này đưa đến sự phân biệt và chọn lọc những
người sản xuất hàng hóa, thúc đẩy các nhân tố tích cực phát triển.
Về mặt xã hội, tác dụng này đưa đến sự phân hóa giàu nghèo, tạo cơ
sở hình thành quan hệ chủ thợ và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2. Sự biểu hiện của quy luật giá trị trong hai giai đoạn phát triển của CNTB:
– Trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh, quy luật giá trị biểu hiện thành
quy luật giá cả sản xuất.
– Trong thời kỳ CNTB độc quyền, quy luật giá trị biểu hiện thành quy
luật giá cả độc quyền.
Câu 22: Phân tích quy luật cung – cầu trong nền kinh tế hàng hóa.a. Khái niệm về cung, cầu:
– Cung là lượng hàng hóa dịch vụ đang lưu chuyển hay có khả năng
đưa ra thị trường và được thị trường chấp nhận, tùy thuộc vào: tình hình, khả
năng sản xuất – yếu tố quyết định khả năng xuất nhập khẩu; khả năng sử
dụng lực lượng dự trữ, sự dự đoán của người sản xuất cung ứng, sự điều tiết
của Nhà nước và sự tác động của giá cả (tác dụng của qui luật giá trị) giá
tăng thì cung tăng, giá giảm thì cung giảm.
Việc cung ứng hàng hóa của các doanh nghiệp phải phù hợp với nhu
cầu có khả năng thanh toán (sức mua) của xã hội theo thời gian và không
gian thích hợp.
– Cầu là lượng hàng hóa dịch vụ cần thiết để đáp ứng nhu cầu có khả
năng thanh toán của xã hội, tùy thuộc vào: thu nhập xã hội; quan niệm, thị
hiếu, sở thích tiêu dùng; sự dự đoán của người tiêu dùng; giá cả của hàng
hóa có liên quan, chính sách tiêu dùng của Nhà nước; sự tác động của giá cả
của hàng hóa ấy (tác dụng của qui luật giá trị); khả năng xuất nhập khẩu…
b. Nội dung quy luật:
Quy luật cung cầu là quy luật về mối quan hệ biện chứng khách quan
giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường, độc lập với ý muốn của con
người. Cung và cầu hàng hóa thường xuyên tác động lẫn nhau và luôn xoay
quanh trạng thái cân bằng.
– Cầu thúc đẩy, xác định cung về khối lượng và cơ cấu (mẫu mã,
chủng loại) hàng hóa. Cầu luôn giữ vai trò quyết định bởi vì người tiêu dùng
có quyền chọn lựa hàng hóa theo nhu cầu sở thích và thu nhập của mình. Chỉ
những hàng hóa nào phù hợp với nhu cầu, có khả năng thanh toán, được tiêu
thụ nhanh, nhiều mới được sản xuất, tái sản xuất và ngược lại. Người sản
xuất hàng hoá phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu, sở thích của người
tiêu dùng, dự đoán sự thay đổi của nhu cầu, phát hiện các nhu cầu mới… để
cải tiến chất lượng, mẫu mã, hình thức cho phù hợp.
– Cung chịu ảnh hưởng, phụ thuộc cầu nhưng cũng kích thích, tác
động đến cầu. Người tiêu dùng không thể dùng tiền để mua những cái mà
không được sản xuất ra. Những hàng hóa nào có chất lượng tốt, giá cả rẻ,
mẫu mã phong phú, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu, sở thích của người tiêu
dùng thì sẽ được chấp nhận, nhu cầu sẽ tăng hơn. Giá cả thấp kích thích nhu
cầu khá mạnh. Các nhà sản xuất kinh doanh phải dùng những biện pháp như
quảng cáo, khuyến mãi…
– Cung và cầu của một loại hàng hóa nào đó luôn biến động, nhưng
cũng luôn xoay quanh trạng thái cân bằng, thông qua những hành vi của các
chủ thể và qua sự tác động của giá cả hàng hóa.
Khi cung và cầu chênh lệch nhau (do cung, do cầu hoặc do cả hai) thì
sẽ có sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường.
Khi lượng cung < lượng cầu, cần tăng nhập khẩu, xuất dự trữ, nếu
không giá cả sẽ tăng. Giá cả tăng sẽ làm cho cung tăng, cầu giảm và đưa đến
trạng thái cân bằng giữa cung và cầu hàng hóa.
Khi lượng cung > lượng cầu, cần tăng xuất khẩu, nhập dự trữ, nếu
không giá cả sẽ giảm. Giá cả giảm sẽ làm cho cung giảm, cầu tăng và đưa
đến trạng thái cân bằng giữa cung và cầu hàng hóa.
Như vậy, tương quan cung – cầu quyết định giá cả thị trường ở một
thời điểm nhất định, nhưng mặt khác giá trị thị trường lại là tiền đề cho việc
hình thành mức cung, mức cầu hàng hóa.
c. Yêu cầu của quy luật:
– Quy luật đòi hỏi cung và cầu hàng hóa phải luôn phù hợp với nhau về
số lượng, chất lượng giá cả, không gian, thời gian, nếu không giá cả hàng
hóa sẽ biến động cho đến khi cung bằng cầu.
– Quy luật đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải luôn quan tâm đến mối
tương quan cung – cầu, từ đó mà có thể đưa ra những quyết định đúng đắn:
doanh nghiệp xác định kế hoạch sản xuất với số lượng và chất lượng thích
hợp; Nhà nước đưa ra chính sách, biện pháp; người tiêu dùng có quyết định
tiêu dùng.
d. Tác dụng của quy luật cung – cầu:
– Qua việc tác động gián tiếp đến giá cả thị trường, quy luật cung – cầu
cũng góp phần điều tiết sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa dịch vụ.
– Nó làm cho sản xuất và tiêu dùng luôn gắn bó với nhau, giúp ổn định
nền kinh tế.
Khi sản xuất thừa so với nhu cầu, hàng hóa giảm giá có nghĩa là có một
lượng lao động không được thừa nhận, gây lãng phí.
– Nó thúc đẩy tính tích cực, sáng tạo của nhà sản xuất trong việc cải
tiến hàng hóa để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng đa dạng và thay đổi
không ngừng.
Câu 23: Phân tích quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế hàng hóa.a. Khái niệm cạnh tranh:
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa các chủ thể kinh tế nhằm
giành lấy những lợi ích kinh tế lớn nhất cho mình. Cơ sở của cạnh tranh là lợi
ích của các chủ thể kinh tế.
Cạnh tranh có những loại như: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh
tranh giữa các ngành, cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo,
cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh bất chính (phá hoại sản xuất, hạ uy tín
đối phương…).
b. Nội dung:
Cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hóa,
mang tính phổ biến khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người.
Qui luật cạnh tranh qui định việc sản xuất kinh doanh phải đạt hiệu quả
kinh tế cao và phải được giành lợi ích lớn nhất.
c. Yêu cầu:
– Trong sản xuất, quy luật cạnh tranh đòi hỏi các nhà sản xuất phải
dùng mọi biện pháp, phát huy mọi khả năng để làm cho hàng hóa dịch vụ của
mình được chiếm ưu thế trên thị trường và thu được lợi ích nhiều nhất.
Những biện pháp là nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đa dạng
hóa mẫu mã, chủng loại để sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu, thị
hiếu và sở thích của người tiêu dùng và được họ chấp nhận mua với giá cao
nhất.
– Trong trao đổi, quy luật cạnh tranh đòi hỏi người bán cũng như người
mua hàng hóa phải nghiên cứu thị trường để có quyết định đúng đắn và thu
được lợi ích lớn nhất. (thời gian hợp lý, chất lượng và giá cả tốt nhất)
Người sản xuất hay cung ứng hàng hoá dịch vụ phải đưa ra sản phẩm
với chất lượng tốt hơn, với mức giá hạ hơn, để thu hút khách hàng về mình.
Trên thị trường, người mua bao giờ cũng muốn mua hàng tốt với giá rẻ và
hợp thị hiếu của mình.
Như vậy, yêu cầu của quy luật cạnh tranh là nhiều mặt hơn so với yêu
cầu của quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, như biện pháp giành thị phần.
d. Tác dụng:
– Tích cực:
+ Quy luật cạnh tranh góp phần loại bỏ những lạc hậu, yếu kém, góp
phần thúc đẩy sự phát triển không ngừng của xã hội.
+ Quy luật cạnh tranh mang lại sự sống động trong nền kinh tế, bởi vì
nó buộc các nhà sản xuất phải luôn nhạy bén, sáng tạo, thường xuyên cải
tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới, đổi mới tổ chức quản lý… làm tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hóa.
+ Quy luật cạnh tranh thúc đẩy việc đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng
tốt hơn về chất lượng, giá cả, chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng hàng hóa dịch
vụ một cách đầy đủ, nhanh chóng, thoải mái… cho người tiêu dùng.
– Tiêu cực:
+ Qui luật có thể gây ra những lãng phí cho xã hội, làm thiệt hại lợi ích
của người tiêu dùng…
+ Qui luật có thể gây ra sự bất ổn về kinh tế cũng như xã hội (thủ đoạn
phá hoại, phá sản, khủng hoảng kinh tế), phân hóa giàu nghèo, làm xói mòn
đạo đức xã hội (thủ đoạn, bất nhân, bất chính).
Câu 24: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật lưu thông tiền tệ.
1. Nội dung:
Đây là quy luật về mối tương quan giữa số lượng tiền cần thiết trong
lưu thông với tổng trị giá hàng hóa, tiền tệ cần giao dịch mua bán trên thị
trường.
Cơ sở của qui luật này chính là các qui luật của kinh tế hàng hóa: qui
luật giá trị, qui luật cung – cầu và qui luật cạnh tranh, là việc nâng cao hiệu
quả sử dụng đồng tiền.
2. Yêu cầu:
– Lượng tiền giấy phát hành phải dựa trên cơ sở đảm bảo vàng hay
hàng hóa dịch vụ, tương ứng với các nhu cầu sử dụng chúng trong nền kinh
tế, theo các mức giá cả trên thị trường và với tốc độ luân chuyển trung bình
của đồng tiền.
Số
lượng
tiền
=
Tổng trị giá
hàng–
Trị giá hàng
bán chịu–
Tổng các
khoản khấu
trừ
+
Các khoản
tiền cất trừ
và đến hạn
thanh toán
Số lần luân chuyển trung bình của đồng tiền
– Các chủ thể kinh tế phải tăng chu chuyển tiền giấy và tăng cường sử
dụng các hình thức khấu trừ trong khi giao dịch mua bán.
Nếu Nhà nước phát hành tiền giấy và đưa vào lưu chuyển quá nhiều so
với lượng cần thiết sẽ gây ra tình trạng lạm phát.
Lạm phát thường xảy ra ở hầu hết các nước áp dụng mô hình kinh tế
thị trường. Lạm phát làm phân phối lại thu nhập trong xã hội, gây khó khăn
cho đời sống nhân dân lao động vì giá cả tăng làm giảm thu nhập thực tế của
họ. Nó cũng gây khó khăn không ít cho nông dân và thợ thủ công, vì các
khoản lợi do bán hàng của họ nhanh chóng mất đi. Khi lạm phát xảy ra,
những người nắm giữ tài sản vật chất, hàng hoá sẽ được lợi nhưng họ không
hứng thú đầu tư phát triển, cũng gây bất lợi cho nền kinh tế.
Khi giá cả giảm thì lại gây ra thiểu phát, tiền dư thừa, vốn ứ đọng, cũng
làm thiệt hại cho nền kinh tế. Vấn đề quan trọng là sự điều hành lưu thông
tiền tệ của Nhà nước.
3. Tác dụng của qui luật:
– Thúc đẩy hiệu quả sử dụng đồng tiền.
– Giữ vững sức mua của đồng tiền, ngăn ngừa tình trạng lạm phát; góp
phần giữ vững được nhịp độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
– Giữ ổn định tiền tệ, giá cả, điều tiết lưu thông tiền mặt, giúp lưu thông
hàng hóa được thông suốt, giúp ổn định sản xuất và đời sống.
Câu 25: Tư bản là gì? Phân tích công thức tư bản và mâu thuẫn của nó. Trình bày hai điều kiện xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
1. Định nghĩa tư bản:
Tư bản thể hiện ra trước hết là một số tiền, nhưng không phải mọi thứ
tiền đều là tư bản và tư bản không phải chỉ là tiền.
Tư bản là tiền hay các hình thức giá trị khác được sử dụng nhằm mục
đích thu về một số tiền lớn hơn, một lượng giá trị lớn hơn, bằng cách bóc lột
sức lao động của người công nhân làm thuê.
2. Phân tích công thức tư bản và mâu thuẫn của nó:
a. Công thức tư bản:
Tư bản có hai thuộc tính là sinh lợi và vận động. Sự vận động, lưu
thông của tư bản được thể hiện qua công thức chung của nó là: T – H – T'.
b. Phân biệt công thức tư bản và công thức lưu thông hàng hóa:
Công thức tư bản khác với công thức lưu thông hàng hóa H – T – H’ ở
chỗ:
– Điểm xuất phát và điểm kết thúc khác nhau.
– Khác về trình tự của hai giai đoạn mua và bán.
– Mục đích của mỗi công thức là khác nhau: giá trị và giá trị sử dụng.
Do vậy, công thức tư bản không ngừng tiếp diễn, còn công thức lưu thông
hàng hóa sẽ chấm dứt khi đạt được H’.
Điểm giống nhau của hai công thức: các thành phần tương tự nhau,
cùng có những hành vi mua và bán giống nhau.
c. Mâu thuẫn của công thức tư bản:
Trong công thức chung của tư bản, do mục đích của lưu thông tư bản
là giá trị và giá trị lớn hơn, nên phải có T’ > T. T = T’ – T được Karl Marx gọi
là giá trị thặng dư và ký hiệu là m (mehrwert).
Mâu thuẫn của công thức tư bản thể hiện ra là dường như m có được
là nhờ lưu thông, nhưng lưu thông không tạo ra giá trị mà chỉ phân phối lại nó
mà thôi.
Lý giải cho mâu thuẫn này là trong số những hàng hóa mà nhà tư bản
mua về, có một thứ hàng hóa đặc biệt có khả năng làm gia tăng giá trị, tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó là hàng hóa sức lao động.
3. Hai điều kiện xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Sự phát triển của sản xuất hàng hoá với sự tác động của quy luật giá trị
đã dần dần tạo ra hai điều kiện của quan hệ giữa tư bản và lao động làm
thuê, tức là hai điều kiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hơn
nữa, chúng còn là điều kiện của nhau. Đó là:
– Có một lớp người được tự do về thân thể, nhưng không có tư liệu sản
xuất, phải bán sức lao động của mình, tức là sức lao động phải trở thành
hàng hóa.
– Có một số ít người tập trung được một lượng tiền của đủ để có thể
lập các xí nghiệp và cần thuê mướn sức lao động. Khi đó, số tiền của ấy sẽ
trở thành tư bản.
Trong lịch sử, những biện pháp bạo lực, phi kinh tế, mua bán bất bình
đẳng gọi là tích lũy nguyên thủy đã góp phần sớm tạo ra hai điều kiện đó.
Câu 26: Phân tích hàng hóa sức lao động và sự khác nhau của hàng hóa này và hàng hóa thông thường.
1. Phân tích hàng hóa sức lao động.
a. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
– Theo Karl Marx, để sức lao động trở thành hàng hóa thì phải có hai
điều kiện (biểu hiện hai điều kiện của sản xuất và trao đổi hàng hóa):
+ Người có sức lao động phải được tự do về thân thể. Với điều kiện
này, người lao động mới có thể có quyền quyết định đối với sức lao động của
bản thân mình: bán hay không bán, bán cho ai, với điều kiện như thế nào…
+ Người lao động không có vốn liếng hay tư liệu sản xuất, tài sản duy
nhất đảm bảo sự sống của họ chỉ là sức lao động.
Nói rộng hơn: người lao động cần thiết phải biến sức lao động thành
hàng hóa, kể cả trường hợp họ có vốn liếng không phải lo sự sống của mình,
nhưng do sự hấp dẫn của thu nhập (công việc quản lý, chuyên gia), hay do
nguyện vọng muốn làm việc.
– Ngoài ra, còn phải xét đến chất lượng sức lao động, bởi vì khả năng
tạo ra ích lợi của sức lao động chính là cơ sở trước tiên khiến cho nó có thể
trở thành hàng hóa.
Nhưng đó chỉ là những điều kiện xét về cung sức lao động. Mặc dù biết
rằng cung kích thích cầu, ta cũng cần phải xét đến những điều kiện liên quan
đến nhu cầu sử dụng sức lao động. Đó là phải có những cá nhân hay chủ thể
có khả năng vốn liếng, mua sắm tư liệu sản xuất, cần sử dụng sức lao động
để tiến hành sản xuất và tình hình sản xuất kinh doanh phải có triển vọng
sáng sủa.
b. Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là công dụng của nó, cần
thiết cho nhu cầu của người mua và sử dụng nó, mà trước hết là khả năng
tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là nguồn gốc
của giá trị thặng dư và là chìa khóa giải đáp mâu thuẫn của công thức chung
của tư bản. Quá trình sử dụng sức lao động làm thuê cũng là quá trình làm
tăng giá trị.
– Giá trị hàng hóa sức lao động được xác định căn cứ vào lượng lao
động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó, bao gồm những chi
phí “lao động quá khứ và lao động sống”.
Chi phí lao động quá khứ là chi phí đã đầu tư để có được sức lao động
bao gồm:
+ Một phần bù đắp những chi phí nuôi sống người lao động đến trưởng
thành.
+ Một phần bù đắp những chi phí học tập, đào tạo trước đây đảm bảo
trình độ tay nghề của người lao động, tạo nên chất lượng, giá trị sử dụng của
sức lao động.
Nhũng chi phí lao động sống gồm có:
+ Những chi phí về tư liệu sinh hoạt cần thiết đáp ứng nhu cầu vật chất
và tinh thần để bù đắp hay tái sản xuất sức lao động cho người lao động.
+ Một phần những chi phí để nuôi sống các thành viên trong gia đình
người lao động, tái sản xuất sức lao động cho xã hội.
+ Một phần trang trải những chi phí tái đào tạo.
+ Những chi phí bảo hiểm xã hội, dành khi không còn khả năng lao
động.
Giá trị hàng hoá sức lao động được xác định gián tiếp qua giá trị những
tư liệu tiêu dùng cần thiết đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân
và gia đình của người lao động.
Việc xác định giá trị sức lao động thường không tính đến quá trình hình
thành sức lao động, chưa tính đầy đủ các yếu tố lịch sử và yếu tố xã hội,
không đảm bảo sự tái sản xuất sức lao động xã hội đúng nghĩa.
c. Giá cả sức lao động:
Giá cả sức lao động chính là tiền công.
Tiền công là giá cả của sức lao động, chứ không phải là giá cả của lao
động. Cái mà người công nhân bán là sức lao động chứ không phải là lao
động. Lao động là sự sử dụng sức lao động theo nghĩa chung chung, không
đặt vấn đề thời gian, điều kiện hay mục tiêu cụ thể. Còn sức lao động thì
được xác định cụ thể rõ ràng: công việc lao động là gì, điều kiện làm việc ra
sao, thời gian lao động trong ngày là bao nhiêu.
Giá cả sức lao động, trước hết phải dựa trên cơ sở giá trị sức lao động,
sau đó mới tính đến những yếu tố khác như: tình hình cung – cầu trên thị
trường sức lao động; giá trị của tiền tệ; sự thỏa thuận giữa đôi bên; sự cạnh
tranh; giá cả hàng hóa liên quan: giá cả các yếu tố sản xuất khác trong đó
máy móc; giá cả hàng tiêu dùng, giá cả dịch vụ, tiền thuê nhà…
2. Sự khác nhau giữa hàng hoá sức lao động và hàng hoá thông thường.
Mua bán sức lao động chính là thuê và cho thuê quyền sử dụng sức lao
động trong một khoảng thời gian nào đó với những điều kiện và giá cả nhất
định. Người lao động trao quyền sử dụng sức lao động nhưng vẫn giữ quyền
tư hữu đối với sức lao động của mình.
Hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt, có tính nhân văn,
không giống bất cứ một loại hàng hóa thông thường nào. Nó có những khác
biệt với hàng hoá thông thường và cả với những hàng hóa đặc biệt khác, ở
các điểm sau:
– Về sự tồn tại: sức lao động tồn tại trong cơ thể sống của một con
người cụ thể, không thể tách rời con người ấy, nên nó tùy thuộc vào tuổi tác,
giới tính, đặc điểm dân tộc, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
tay nghề, sức khỏe… của mỗi người lao động.
– Tính nhân văn: sức lao động sẽ được phát huy nếu việc sử dụng nó
phù hợp với giới hạn tâm sinh lý của người lao động.
– Về chất lượng hàng hóa: chất lượng sức lao động thể hiện ở năng
suất lao động, ở trình độ tay nghề, kinh nghiệm; tùy thuộc phần lớn vào quá
trình giáo dục và đào tạo của người lao động, vào việc chăm sóc sức khỏe và
cả ý thức thái độ (tích cực, sáng tạo) của người lao động.
– Về thuộc tính giá trị: giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp
qua giá trị tư liệu tiêu dùng và mang các yếu tố tinh thần và lịch sử.
– Về thuộc tính giá trị sử dụng: hàng hoá sức lao động có một công
dụng độc đáo mà không một loại hàng hoá nào khác có được, đó là khả năng
tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của nó khi được sử dụng trong quá trình sản
xuất.
Câu 27: Phân tích quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa và nêu những kết luận (nhận xét) từ quá trình đó.
1. Đặc điểm của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất hàng hóa qui mô lớn
với các đặc điểm:
– Dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê, sản phẩm do công nhân
làm ra thuộc về nhà tư bản.
– Việc kết hợp tư liệu sản xuất với sức lao động dựa trên điều kiện là
sự tách rời chúng trước đó.
2. Bài toán sản xuất:
a. Các giả định cần thiết.
– Giả sử năng suất lao động đảm bảo chỉ cần một phần (chẳng hạn
phân nửa) thời gian trong ngày lao động 8 giờ cũng đủ để tái sản xuất giá trị
sức lao động của mình và chuyển được 10 kg bông thành sợi.
– Giả sử nhà tư bản mua các yếu tố sản xuất và bán sản phẩm đúng
giá trị: mua bông 1USD/kg, mua sức lao động 3USD/ngày; bán sợi
1,5USD/kg.
– Giả sử khấu hao máy móc là 0,2USD/kg sợi và hao phí nguyên vật
liệu không đáng kể.
b. Lựa chọn phương án sản xuất:
Nếu chỉ sử dụng lao động trong 4 giờ để sản xuất 10 kg sợi, chi phí sản
xuất và tiền bán hàng bằng nhau, việc sản xuất sẽ không có lời.
Phương án sản xuất được chọn sẽ là: sử dụng lao động trong 8 giờ
(theo qui định của pháp luật), sử dụng nguyên liệu và tạo ra số lượng sản
phẩm gấp đôi.
– Mua 20 kg bông: 20 USD.
– Hao mòn máy móc: 4 USD.
– Trả công 1 ngày cho công nhân: 3 USD.
Tổng chi phí là 27 USD, tổng doanh thu là 30 USD, nhà tư bản thu
được khoản lời là 3 USD.
3. Nhận xét:
3 USD nói trên chính là giá trị thặng dư m.
Như vậy giá trị thặng dư là lượng giá trị tăng thêm ngoài giá trị sức lao
động do lao động kéo dài của người công nhân tạo ra, là số chênh lệch giữa
giá trị mới do lao động sống tạo ra với giá trị sức lao động.
m = giá trị mới – giá trị sức lao động
Trong 8 giờ lao động, người công nhân đã tạo ra được một lượng giá trị
mới là 6USD. bao gồm giá trị sức lao động và giá trị thặng dư (mỗi giờ tạo ra
lượng giá trị mới là 0,75USD).
Giá trị thặng dư thuộc về nhà tư bản một cách hợp pháp, phù hợp với
chế độ tư hữu và không vi phạm hợp đồng lao động đã ký kết.
Câu 28: Thế nào là tư bản bất biến và tư bản khả biến? Phân tích căn cứ và ý nghĩa phân chia hai phạm trù này.
1. Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
a. Tư bản bất biến:
Đây là bộ phận tư bản dùng để mua tư liệu sản xuất hay tồn tại dưới
hình thức tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nhiên liệu, nguyên
liệu, vật liệu...), do lao động quá khứ tạo ra, giá trị của nó được lao động sống
của người lao động bảo tồn và chuyển hóa nguyên vẹn vào sản phẩm. Tư
bản bất biến được ký hiệu là C (constant capital).
b. Tư bản khả biến:
Đây là bộ phận tư bản dùng để thuê sức lao động của công nhân, được
lao động sống của người lao động chuyển hóa vào sản phẩm thành một
lượng giá trị mới nhiều hơn giá trị của bản thân nó một khoảng là giá trị thặng
dư. Tư bản khả biến được ký hiệu là V (variable capital).
Tư bản khả biến không mất đi trong tiêu dùng của công nhân mà
chuyển hóa hình thái qua quá trình nhiều bước: tư bản khả biến chuyển thành
tiền công, tiền công chuyển thành tư liệu tiêu dùng, tư liệu tiêu dùng chuyển
thành sức lao động, sức lao động chuyển vào giá trị của hàng hóa.
2. Căn cứ và ý nghĩa phân chia hai phạm trù này:
Căn cứ phân chia là vai trò khác nhau của mỗi bộ phận tư bản đầu tư
trong việc làm gia tăng giá trị và tạo ra giá trị thặng dư.
Việc phân chia này giúp hiểu rõ vai trò của mỗi bộ phận tư bản.
Tư bản khả biến là điều kiện quyết định trực tiếp trong việc tạo ra giá trị
thặng dư, bởi vì chính tư bản khả biến sẽ chuyển hóa thành sức lao động cho
công nhân và lao động sống bị kéo dài của công nhân đã tạo ra giá trị thặng
dư.
Tư bản bất biến chỉ là điều kiện vật chất cần thiết cho việc tạo ra giá trị
thặng dư. Tuy nhiên, dưới dạng máy móc, kết tinh của lao động quá khứ, nó
cũng có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, bởi vì những máy móc ấy
là điều kiện vật chất có ảnh hưởng quyết định đến việc tăng năng suất lao
động của công nhân và tạo ra giá trị thặng dư.
Câu 29: Thế nào là ngày lao động? Phân tích và so sánh các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư… ...Cho biết sự liên quan giữa các nội dung trên với tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư? Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu này.
1. Ngày lao động.
Ngày lao động là thời gian làm việc trong ngày của người lao động tại
xí nghiệp hay tại cơ quan. Ngày lao động được chia thành hai phần là thời
gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư.
Thời gian lao động cần thiết là thời gian để tạo ra lượng giá trị sản
phẩm cần thiết (theo định mức lao động), để tái sản xuất sức lao động của
người công nhân, tương ứng với lượng giá trị sức lao động: lao động cho bản
thân người công nhân.
Thời gian lao động thặng dư là thời gian để tạo ra giá trị thặng dự: lao
động cho xã hội và cho nhà tư bản.
2. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Là phương pháp được thực hiện bằng cách kéo dài ngày lao động vượt
quá thời gian lao động cần thiết hay tăng cường độ lao động, với giả sử năng
suất lao động không đổi, tức là giả sử thời gian lao động cần thiết không đổi.
Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản, khi công cụ lao động còn thô sơ, năng suất lao động còn thấp.
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Là phương pháp được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động
cần thiết, do giá trị của sức lao động giảm, nhờ năng suất lao động xã hội
tăng.
Khi năng suất lao động xã hội tăng thì giá trị của mọi sản phẩm hay
dịch vụ đều giảm, giá trị tư liệu tiêu dùng giảm nên giá trị sức lao động sẽ
giảm. Do đó, nhà tư bản có thể mua sức lao động với giá rẻ hơn, cũng có
nghĩa là thời gian lao động cần thiết sẽ giảm và thời gian lao động thặng dư
sẽ tăng.
Tuy nhiên, loại giá trị thặng dư này chỉ là tạm thời vì giá trị sản phẩm
cũng sẽ giảm. Hơn nữa, nhu cầu tiêu dùng lại ngày càng tăng, nên giá trị sức
lao động lại có xu hướng tăng.
c. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch:
Là phương pháp được thực hiện bằng cách hạ thấp giá trị cá biệt của
hàng hóa so với giá trị xã hội của nó.
Các nhà tư bản luôn giành lấy những điều kiện thuận lợi (kể cả khả
năng bóc lột sức lao động), tăng năng suất lao động cá biệt để hạ thấp giá trị
cá biệt. Khoảng chênh lệch giữa giá trị với giá trị cá biệt chính là giá trị thặng
dư siêu ngạch.
Đây là sự thể hiện yêu cầu của quy luật giá trị trong điều kiện của sản
xuất tư bản chủ nghĩa và trở thành động lực mạnh mẽ của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
d. Mối quan hệ giữa các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
– Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư
tương đối đều dựa vào việc gia tăng thời gian lao động thặng dư. Nhưng giá
trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra nhờ kéo dài ngày lao động; còn giá trị thặng
dư tương đối được tạo ra do giảm thời gian lao động cần thiết.
– Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư
siêu ngạch cùng dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Nhưng, phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động xã hội, còn phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch thì dựa
trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt. Hai phương pháp này có liên hệ
mật thiết với nhau.
– Giá trị thặng dư siêu ngạch là tiền đề của giá trị thặng dư tương đối,
vì khi các nhà tư bản riêng lẻ tìm cách giảm giá trị cá biệt xuống thì giá trị xã
hội của hàng hóa cũng giảm theo, nên mới có giá trị thặng dư tương đối.
3. Tỷ suất giá trị thặng dư (m’) là tỷ lệ giữa giá trị thặng dư (m) và giá trị
sức lao động (v); và cũng là tỷ lệ giữa thời gian lao động thặng dư và lao
động cần thiết.
m’ = (m / v) x 100%
Hay m’ = (Tglđtd / Tglđct) x 100%
Tỷ suất giá trị thặng dư cho thấy trình độ sản xuất giá trị thặng dư, cho
biết tỷ lệ lợi ích của nhà tư bản và của người công nhân trong giá trị mới, cho
biết tỷ lệ lao động cho mình và cho nhà tư bản trong ngày lao động của người
công nhân.
Tỷ suất giá trị thặng dư còn cho thấy hiệu quả của việc sử dụng các
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là tổng số giá trị thặng dư thu được
bằng tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư (m’) và tổng tư bản khả biến (V).
M = m'. V
Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột giá trị thặng dư và
cũng cho thấy hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu này:
Nghiên cứu nội dung trên sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất bóc lột
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng, nếu tạm thời gạt bỏ bản chất ấy,
thì có thể thấy rằng các phương pháp trên góp phần tăng năng suất lao động,
cải tiến tổ chức quản lý sản xuất, phát triển sản xuất và tăng khả năng cạnh
tranh cho nền kinh tế.
Câu 30: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị thặng dư. Qui luật này có tồn tại trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa hay không? Vì sao?
1. Nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật:
a. Nội dung:
Tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư nhờ bóc lột, lợi dụng lao động
thặng dư của công nhân làm thuê là quy luật kinh tế cơ bản, mang tính phổ
biến khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nó biểu hiện
bản chất và mục đích của phương thức sản xuất ấy, quyết định sự tồn tại,
phát triển và diệt vong của nó.
Quy luật giá trị thặng dư phản ánh các quy luật kinh tế thị trường trong
điều kiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
b. Yêu cầu:
Quy luật này đòi hỏi nhà tư bản phải dùng mọi phương pháp, biện pháp
và cả những thủ đoạn bóc lột sức lao động để có thể thu được ngày càng
nhiều giá trị thặng dư.
c. Tác dụng:
– Tạo ra sự năng động trong nền kinh tế, tạo nên một sức sản xuất to
lớn, thúc đẩy lực lượng sản xuất ngày càng phát triển.
– Làm cho mâu thuẫn chủ – thợ, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của
sản xuất với hình thức tư hữu tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.
2. Qui luật giá trị thặng dư trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giá trị thặng dư chỉ xuất hiện ở nền sản xuất xã hội có năng suất lao
động cao và là điều kiện quyết định việc nâng cao đời sống của mọi thành
viên xã hội và là nguồn gốc của tiến bộ xã hội.
Quy luật giá trị thặng dư cũng tồn tại trong nền kinh tế định hướng xã
hội chủ nghĩa, bởi vì sự tồn tại của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Xã hội
nào cũng phải cần giá trị thặng dư để phát triển. Vấn đề đặt ra là làm sao có
được giá trị thặng dư vì sự phát triển của xã hội mà không được bóc lột sức
lao động, thông qua việc phân phối nó một cách hài hòa và hợp lý. Sức lao
động là hàng hóa không phải là cái quyết định sự bóc lột mà vấn đề là giá trị
thặng dư tạo ra được phân phối như thế nào.
Trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, qui luật giá trị thặng dư
sẽ được phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
Câu 31: Phân tính thực chất và động cơ của tích lũy tư bản. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy. Cho biết kết quả của quá trình tích lũy tư bản chủ nghĩa.
1. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản:
a. Thực chất của tích lũy tư bản:
Tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư, tức là biến một phần giá
trị thặng dư thành tư bản bổ sung, để tái đầu tư và mở rộng sản xuất.
Để thực hiện tích lũy, nhà tư bản không sử dụng hết giá trị thặng dư
cho tiêu dùng cá nhân mà phải chuyển một phần giá trị thặng dư thành tư bản
tái đầu tư.
Tích lũy tư bản là điều kiện của tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa
và cũng là qui luật hay xu hướng chung của một phương thức sản xuất. Cũng
có thể nói tích lũy tư bản là tái sản xuất tư bản mở rộng.
b. Động cơ của tích lũy tư bản:
Tích lũy tư bản là tất yếu khách quan, mà động cơ thúc đẩy là quy luật
giá trị thặng dư. Điều kiện của tư bản tích lũy là m. Như vậy, m không chỉ là
mục đích, mà còn là phương tiện để đạt mục đích.
2. Các nhân tố làm tăng quy mô tích lũy.
Quy mô tích lũy tư bản tùy thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ
phân chia giá trị thặng dư cho tích lũy và cho tiêu dùng. Với một khối lượng
giá trị thặng dư nhất định thì quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân
chia cho tích lũy và tiêu dùng của nhà tư bản. Nếu tỷ lệ phân chia đó cố định
thì quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào các nhân tố làm tăng khối lượng giá
trị thặng dư, đó là:
– Tăng cường độ lao động, độ dài ngày lao động, tăng ca sản xuất: m
tuyệt đối.
– Tăng năng suất lao động: m tương đối và m siêu ngạch.
– Quy mô tư bản đầu tư, khả năng và hiệu quả của tập trung tư bản.
– Sử dụng tư bản tiềm tàng: sử dụng quỹ khấu hao (do sự chênh lệch
giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định tiêu dùng) như là một khoản tư
bản phụ thêm.
3. Kết quả của quá trình tích lũy tư bản chủ nghĩa:
– Về mặt kinh tế: Quá trình tích lũy tư bản làm cho qui mô và cấu tạo
hữu cơ của tư bản C/V tăng lên, bởi vì C tăng nhanh hơn V, nhất là ở những
ngành công nghiệp nặng cần khối lượng tư bản lớn hay cần tăng cường đầu
tư cải tiến kỹ thuật.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản thể hiện ra là cấu tạo giá trị và do cấu tạo
kỹ thuật quy định.
– Về mặt xã hội: Sự gia tăng cấu tạo hữu cơ còn là một nguyên nhân
của nạn thất nghiệp – nạn nhân khẩu thừa tương đối và bần cùng hoá giai
cấp công nhân.
Câu 32: Mối quan hệ và sự khác nhau giữa tích tụ tư bản và tập trung tư bản. Vai trò của tập trung tư bản trong sự phát triển của CNTB.
1. Khái niệm:
a. Tích tụ tư bản:
Tích tụ tư bản là sự gia tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản
hóa một phần giá trị thặng dư, tức là bằng cách tích lũy tư bản. Tích tụ tư bản
là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
b. Tập trung tư bản:
Tập trung tư bản là sự gia tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách hợp
nhất nhiều tư bản sẵn có thành một tư bản lớn hơn.
Tập trung tư bản được thực hiện qua hai phương thức là liên doanh
liên kết và vay mượn tư bản.
2. Sự khác nhau giữa tích tụ và tập trung TB
Tích tụ tư bản không chỉ làm gia tăng quy mô tư bản cá biệt mà còn làm
tăng quy mô tư bản xã hội. Tập trung tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt
nhưng không làm tăng quy mô tư bản xã hội, bởi vì đây chỉ là sự phân bố và
tổ chức lại tư bản xã hội.
Tích tụ tư bản biểu hiện quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản và công
nhân làm thuê; còn tập trung tư bản biểu hiện quan hệ trực tiếp giữa các nhà
tư bản với nhau.
3. Mối quan hệ:
Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ tác động, thúc đẩy nhau. Tập
trung tư bản tạo điều kiện cho tích tụ tư bản: có điều kiện cải tiến kỹ thuật,
tăng năng suất lao động… Tích tụ tư bản làm tăng quy mô và sức mạnh của
tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung tư bản
mạnh hơn.
4. Vai trò của tập trung tư bản trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản:
Tập trung tư bản có vai trò quan trọng, nếu không có nó thì chủ nghĩa
tư bản không thể xây dựng nên những công trình to lớn như đường sắt, bến
cảng, sân bay…; nhà tư bản mới có thể thực hiện được những hợp đồng lớn.
Tuy nhiên, tập trung tư bản có thể được thực hiện một cách tuỳ tiện, bất chấp
hiệu quả gây lãng phí và khủng hoảng kinh tế.
Câu 33: Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Những nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển tư bản? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?
1. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản:
a. Phân tích sự vận động của tư bản:
Công thức tư bản T – H – T được mở rộng thành T – H – H’ – T’ và cho
thấy sự vận động của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn như sau:
– Giai đoạn 1: giai đoạn lưu thông: T – H.
Tư bản xuất hiện dưới hình thái tư bản tiền tệ T với chức năng là mua
các yếu tố sản xuất.
– Giai đoạn 2: giai đoạn sản xuất: H – H'.
Tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất H với chức năng trực tiếp
tạo ra giá trị thặng dư.
– Giai đoạn 3: giai đoạn lưu thông. H’ – T'.
Tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa H’ với chức năng là thực
hiện giá trị và giá trị thặng dư.
b. Khái niệm về sự tuần hoàn của tư bản:
Sự vận động của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn, thể hiện dưới ba
hình thái và thực hiện ba chức năng tương ứng rồi quay về giai đoạn, hình
thái ban đầu và tiếp diễn không ngừng được gọi là sự tuần hoàn của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản nói lên mặt chất của sự vận động của tư bản.
c. Khái niệm về sự chu chuyển của tư bản:
Chu chuyển tư bản chính là sự tuần hoàn của tư bản khi được xem là
một quá trình định kỳ, với thời gian và tốc độ vận động nhất định của tư bản.
Chu chuyển của tư bản nói lên mặt lượng của sự vận động của tư bản,
tức cho biết tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm, từ đó cho biết ảnh
hưởng của tốc độ đó đến việc sản xuất và thực hiện giá trị thặng dư.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của tư bản
Tốc độ chu chuyển tư bản tùy thuộc vào thời gian chu chuyển của nó.
Thời gian thu chuyển càng ngắn, số vòng chu chuyển càng nhiều thì tốc độ
chu chuyển của tư bản càng nhanh.
– Thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian mà tư bản chuyển từ
một hình thái nhất định trở lại hình thái ấy. Thời gian chu chuyển của tư bản
bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của nó. Thời gian sản xuất
bao gồm thời gian dự trữ sản xuất, thời gian lao động và thời gian gián đoạn
lao động. Các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian sản xuất của tư bản là: năng
suất lao động, việc dự trữ nguyên liệu cho sản xuất. Thời gian lưu thông bao
gồm thời gian tìm nguồn nguyên liệu, thời gian vận chuyển hàng, thời gian
bán hàng. Các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lưu thông của tư bản là: khả
năng về vốn tiền tệ, công tác tiếp thị, sức mua của thị trường, thông tin liên
lạc…
Tốc độ chu chuyển của tư bản được tính bằng số vòng chu chuyển
trong khoảng thời gian là một năm. Số vòng chu chuyển (n) trong năm được
tính theo công thức sau:
n =12 tháng
Thời gian chu chuyển một vòng (tháng)
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Nghiên cứu tuần hoàn tư bản, nhất là chu chuyển tư bản để thấy ảnh
hướng của tốc độ chu chuyển tư bản nhanh hay chậm có liên quan đến quy
mô tư bản đầu tư, liên quan đến tỷ suất giá trị thặng dư (m’) và khối lượng giá
trị thặng dư hàng năm (M).
– Tốc độ chu chuyển, hay số vòng chu chuyển (n) tỷ lệ nghịch với quy
mô tư bản đầu tư.
– Số vòng chu chuyển càng nhiều, tư bản chu chuyển càng nhanh thì
m’ càng cao và M càng lớn.
Câu 34: Phân tích căn cứ phân chia và đặc điểm của tư bản lưu động và tư bản cố định. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản cố định?
1. Căn cứ phân chia:
Trong thực tế, tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận có thời gian chu
chuyển khác nhau, do đó ảnh hưởng tới thời gian chu chuyển của toàn bộ tư
bản. Căn cứ vào tốc độ chu chuyển giá trị của mỗi bộ phận, người ta chia tư
bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
2. Đặc điểm:
– Tư bản cố định: là bộ phận tư bản sản xuất dùng để xây dựng nhà
xưởng, thuê máy móc thiết bị. Bộ phận tư bản này tham gia toàn bộ vào quá
trình sản xuất nhưng giá trị của nó chỉ được chuyển từng phần sang sản
phẩm, tức là phải qua nhiều giai đoạn sản xuất mới chuyển hết vào sản
phẩm: C1.
– Tư bản lưu động: là bộ phận tư bản sản xuất dùng để mua nguyên
vật liệu và thuê công nhân. Bộ phận tư bản này được tiêu dùng hoàn toàn và
giá trị của nó chuyển hết vào sản phẩm sau mỗi đợt sản xuất: C2 + V.
3. Nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản cố định:
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị
hao mòn dần. Có hai loại hao mòn: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, về giá trị sử dụng. Hao mòn vô
hình là hao mòn thuần túy về giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra khi máy móc còn
tốt nhưng bị giảm giá trị vì xuất hiện những máy móc hiện đại hơn mà rẻ hơn.
Tránh được hao mòn vô hình là vấn đề có ý nghĩa trong quản lý kinh tế,
đặc biệt là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Tăng
cường sử dụng công suất máy móc thiết bị, đẩy nhanh tốc độ xây dựng và
đưa công trình vào sử dụng… là các biện pháp để giảm sự hao mòn vô hình
của tư bản cố định.
Để khôi phục tư bản cố định đã hao mòn, nhà tư bản phải lập quỹ khấu
hao, do sự chênh lệch giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định tiêu
dùng. Một phần quỹ khấu hao được dùng vào sửa chữa cơ bản, một phần gửi
ngân hàng hay biến thành vốn tạm, chờ kỳ hạn mua máy móc mới.
Câu 35: So sánh chi phí sản xuất xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận với giá trị thặng dư. Cho biết khái niệm và yếu tố ảnh hưởng tỷ suất lợi nhuận. Vì sao tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm? Ý nghĩa của lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
1. So sánh chi phí sản xuất xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Để sản xuất một hàng hóa nào đó, xã hội đã thực tế chi phí một lượng
lao động xã hội cần thiết, gồm có hai thành phần:
– Lao động quá khứ được vật hóa, kết tinh thành một phần giá trị tư
liệu sản xuất c.
– Lao động sống tạo ra giá trị mới (giá trị do sức lao động tạo ra) là v +
m tức là giá trị sức lao động và giá trị thặng dư.
Tổng số chi phí lao động xã hội cần thiết tạo nên giá trị hàng hóa: H = c
+ v + m.
Nhưng đối với nhà tư bản thì chi phí sản xuất một hàng hóa chỉ gồm c +
v = k (giá thành) và được gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nhỏ hơn tư bản đầu tư bởi vì máy
móc và nguyên vật liệu chỉ sử dụng một phần (k = c + v < C + V = K).
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) và chi phí sản xuất xã hội hay giá
trị hàng hoá (H) khác nhau cả về chất và lượng.
– Về chất: k là chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra, còn H là chi phí
thực tế về lao động xã hội.
– Về lượng: chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nhỏ hơn giá trị hàng hóa:
k < H.
Hiểu được sự khác biệt này sẽ giúp hiểu rõ bản chất của lợi nhuận.
2. So sánh lợi nhuận với giá trị thặng dư
Lợi nhuận (p) là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư. Lợi nhuận tính trên
một đơn vị sản phẩm là: p = giá mua bán – chi phí sản xuất.
=> Chi phí sản xuất + lợi nhuận = giá mua bán của hàng hóa.
Mà Chi phí sản xuất + giá trị thặng dư = giá trị của hàng hóa
Suy ra lợi nhuận chênh lệch với giá trị thặng dư một khoản bằng với
khoản chênh lệch giữa giá cả với giá trị hàng hóa.
Giá trị là cơ sở của giá cả nên giá trị thặng dư là nội dung bên trong
của lợi nhuận. Lợi nhuận chính là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị
thặng dư, sau khi trao đổi.
Vì tổng tư bản đầu tư khác nhau, nên các nhà tư bản không chỉ quan
tâm đến lợi nhuận mà còn đặc biệt quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận.
3. Tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận (p’) là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng giá trị thặng dư
và toàn bộ tư bản đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
p' =M
x 100%C + V
p' nói lên hiệu quả sử dụng tư bản và cho thấy ngành đầu tư có lợi. Tỷ
suất lợi nhuận là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh
của nhà tư bản.
p' =M
=m'V
=m'
K C + V C/V + 1
– Các yếu tố ảnh hưởng tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất giá trị thặng dư m':
p' =M
<M
=m'
=> p’ < m’C + V C + V C/V + 1
=> p' che giấu mức độ bóc lột sức lao động.
p' tỷ lệ thuận với m', V.
Tốc độ chu chuyển tư bản.
Trong thực tế, tư bản cố định và tư bản lưu động có thời gian chu
chuyển và số vòng chu chuyển khác nhau trong năm, nên để tính tỷ suất lợi
nhuận hàng năm người ta thường căn cứ vào thời gian chu chuyển của tư
bản cố định để tính tỷ suất lợi nhuận tổng hợp rồi từ đó mà tính tỷ suất lợi
nhuận hằng năm.
p' tỷ lệ nghịch với C/V, C + V (tiết kiệm chi phí hay tăng vốn sử dụng).
– Suy ra p’ có xu hướng giảm vì C/V có xu hướng tăng (nhất là ở
những ngành công nghiệp).
3. Ý nghĩa của lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
– Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận không chỉ là động lực của nền sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa mà còn là động lực kinh tế của nền kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường nói chung.
– Tuy nhiên, quá trình theo đuổi lợi nhuận mù quáng cũng làm cho nền
kinh tế hàng hóa phát triển không lành mạnh và cạnh tranh gay gắt đã sinh ra
nhiều hậu quả kinh tế khác nhau.
Câu 36: Trình bày sự cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Phân tích sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Nêu ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.
1. Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa:
Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận tối đa. Chủ thể là những nhà tư bản,
động cơ và mục đích là giá trị thặng dư. Có hai hình thức cạnh tranh xét về
phạm vi: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp cùng
sản xuất một loại hàng hóa nhằm mục đích hạ thấp giá trị cá biệt để thu được
giá trị thặng dư siêu ngạch. Kết quả là làm cho điều kiện sản xuất trung bình
trong ngành thay đổi, giá trị của hàng hóa được xác định hay điều chỉnh theo
hướng giảm xuống.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các
ngành sản xuất khác nhau nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất, nơi có p' cao.
2. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân.
Giả sử nền kinh tế có ba ngành sản xuất dệt, da và cơ khí có tỷ suất lợi
nhuận khác nhau theo bảng sau:
Ngành sản xuất K C/V m’ V M p'
Da 100 3/2 150% 40 60 60%
Dệt 150 7/3 120% 45 54 36%
Cơ khí 200 3/1 100% 50 50 25%
Ngành da có p’ cao nhất nên các nhà tư bản ở các ngành khác (nhất là
ngành cơ khí) sẽ chuyển vốn đầu tư sang ngành da…
Từ đó, các yếu tố sản xuất được phân bố lại, làm thay đổi tương quan
cung – cầu và p’ ở các ngành, đưa đến hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân (p).
Tỷ suất lợi nhuận bình quân được tính theo công thức sau:
p’ = M
=> p’ = 36,44% K
3. Sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
– Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận được tính toán trên cơ sở tỷ suất lợi
nhuận bình quân và lượng tư bản đầu tư.
P = p’ x K: lợi nhuận bình quân của xí nghiệp hay của ngành.
p = p x (c+v): lợi nhuận bình quân trên mỗi đơn vị hàng hóa.
– Giá cả sản xuất là loại giá cả được xác định tương ứng với lợi nhuận
bình quân.
Khi p’ được hình thành, lợi nhuận bình quân được xác định thì có thể
xác lập được giá cả sản xuất.
K + P: giá cả sản xuất của xí nghiệp hay của ngành.
c + v + p: giá cả sản xuất của mỗi đơn vị hàng hóa.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
– Ý nghĩa lý luận:
Lợi nhuận bình quân che giấu bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, bởi vì tưởng chừng nó không có quan hệ gì đến khối lượng
giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra. Nó cho thấy sự thống nhất giữa
các nhà tư bản trong việc phân chia lợi ích cho nhau.
Giá cả sản xuất của mỗi đơn vị hàng hóa có thể đóng vai trò như là giá
trị, giá cả hàng hóa sẽ xoay quanh nó; quy luật giá trị chuyển hoá thành quy
luật giá cả sản xuất và quy luật giá trị thặng dư chuyển hoá thành quy luật lợi
nhuận bình quân.
Nhưng tính chất xã hội của giá cả sản xuất còn chưa cao bởi vì nó chỉ
nhằm đáp ứng lợi ích của nhà đầu tư, chưa nói đến lợi ích của người tiêu
dùng và xã hội có thể không chấp nhận nó như là giá trị hàng hóa.
– Ý nghĩa thực tiễn:
Lợi nhuận bình quân cho thấy mức lợi nhuận thu được phải là như
nhau dù đầu tư vào các ngành khác nhau.
Cần phải thấy rằng xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận chỉ diễn
ra trong một thời gian lâu dài, trong ngắn hạn vẫn có sự chênh lệch lợi nhuận.
Trong thực tế, xu hướng bình quân hóa p’ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì nó
còn tùy thuộc nhiều yếu tố.
– Mức độ rủi ro nhiều hay ít: p’ có thể cao nhưng không chắc chắn,
không ổn định.
– Cường độ, sự căng thẳng trong hoạt động được bù lại qua p’ cao.
– Sự chấp nhận của nhà đầu tư: nhà đầu tư còn căn cứ vào khả năng
vốn liếng của mình và tổng số lợi nhuận thu được.
Ở ngành da, mặc dù p’ cao nhưng tổng lợi nhuận thu được không cao
vì vốn đầu tư ít chỉ thích hợp với các nhà tư bản ít vốn. Các nhà tư bản lớn sẽ
đầu tư vào ngành cơ khí sử dụng tư bản nhiều dù p’ thấp nhưng tổng số lợi
nhuận (P = p'.K) thu được khá nhiều.
Câu 37: Tư bản thương nghiệp xuất hiện và phát triển như thế nào? Tại sao tư bản thương nghiệp vừa độc lập lại vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp? Phân tích nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp.
1. Sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp.
Là loại tư bản hoạt động trong lĩnh vực mua bán hàng hóa hay còn gọi
là tư bản hàng hóa chuyên nghiệp hóa.
Về mặt lịch sử, tư bản thương nghiệp có trước tư bản sản xuất và là
loại tư bản ra đời sớm nhất trong lịch sử. Trước kia hoạt động của những
thương nhân dựa trên cơ sở mua rẻ bán đắt, mua đứt bán đoạn, đã góp phần
làm phá vỡ nền sản xuất tự cung tự cấp, hình thành thị trường, nối liền cung
và cầu hàng hóa, thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp còn thay thế tư bản sản
xuất thực hiện giá trị hàng hóa (tiêu thụ hàng hóa). Đây là kết quả tất yếu của
sự phát triển sản xuất và phân công lao động xã hội, nhờ vậy nhà tư bản sản
xuất không còn phải vướng bận vào việc tiêu thụ hàng hóa mà tập trung cho
sản xuất, tăng vòng chu chuyển tư bản.
2. Mối quan hệ giữa tư bản thương nghiệp và tư bản công nghiệp.
Tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc, vừa độc lập với tư bản công
nghiệp.
– Sự phụ thuộc: việc tiêu thụ hàng hóa của tư bản thương nghiệp phải
tùy thuộc vào chu kỳ sản xuất của tư bản công nghiệp và tư bản thương
nghiệp phải mượn vốn hàng hóa (tư bản hàng hóa) của tư bản công nghiệp.
– Sự độc lập tương đối: tư bản thương nghiệp vừa lệ thuộc vào tư bản
công nghiệp khi làm đại lý độc quyền hay không độc quyền tiêu thụ hàng hóa
cho tư bản công nghiệp và vừa có thể phụ thuộc vào tư bản ngân hàng với
nguồn vốn vay được có thể áp dụng phương thức mua bán “đứt đoạn”.
3. Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp.
Lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự vận động của tư bản
thương nghiệp.
Lợi nhuận thương nghiệp trước hết là một phần của giá trị thặng dư
được tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư bản sản xuất công nghiệp
trích trả cho nhà tư bản thương nghiệp do việc đảm nhận tiêu thụ hàng hóa.
Trong trường hợp mua bán đứt đoạn, lợi nhuận thương nghiệp là
khoản chênh lệch giữa giá bán lẻ với giá sỉ (giá bán buôn công nghiệp).
Ví dụ:
Giả định tổng tư bản công nghiệp đầu tư là 900 triệu USD, gồm 720C
và 180V (C/V = 4/1), m’ = 100%.
Tổng giá trị sản phẩm là: 720C + 180V + 180M = 1080.
Như vậy tỷ suất lợi nhuận tạm tính: p’ = 180 / 900 = 20%
Nhưng để thực hiện lượng giá trị trên (bán được hàng), nhà tư bản
công nghiệp phải đầu tư thêm K’ = 100. Từ đó, tỷ suất lợi nhuận chỉ còn: p’ =
M / (K – K’) = 180 / (900 – 100) = 18%
Để tập trung cho sản xuất, nhà tư bản sản xuất công nghiệp nhượng lại
việc tiêu thụ hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp. Nhà tư bản thương
nghiệp phải bỏ ra số tư bản nói trên: KTN = K’.
Như vậy, tư bản thương nghiệp và tư bản công nghiệp cũng tham gia
vào việc bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, p’ = p’, nhưng ở đây chỉ là tỷ suất
lợi nhuận giữa đôi bên.
Nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hóa được số tiền 1080 và thu
được lợi nhuận thương nghiệp là:
PTN = p.KTN = 18%. 100 = 18
Nhà tư bản sản xuất công nghiệp sẽ nhận về số tiền là:
1080 – 18 = 1062.
Nhưng 18 triệu USD chưa thực sự là lợi nhuận thương nghiệp bởi vì
còn phải bù lại 100 đã bỏ ra, trước hết là chi phí lương nhân viên, đóng thuế,
khấu hao cơ sở vật chất…
Tư bản thương nghiệp có thể làm đại lý tiêu thụ hàng hóa cho tư bản
công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp thường không cao; và có thể mua bán
đứt đoạn, mua theo giá bán buôn, thường thấp hơn giá giao đại lý vì tư bản
thương nghiệp không phải bỏ vốn ra.
Câu 38: Thế nào là tư bản cho vay và tư bản ngân hàng. Phân tích nguồn gốc hình thành lợi tức và lợi nhuận ngân hàng.
1. Tư bản cho vay và lợi tức:
a. Tư bản cho vay:
Tư bản cho vay là loại tư bản hoạt động trong lĩnh vực cho thuê tư bản
(tín dụng). Nhà tư bản cho vay là chủ sở hữu cho thuê tư bản tiền tệ hay tư
bản hàng hóa (chủ yếu là tư bản tiền tệ) nhàn rỗi, nhà tư bản đi vay là người
thuê sử dụng số tư bản đó.
Khi mối quan hệ đó được thực hiện, nhà tư bản cho thuê tư bản vẫn
giữ nguyên quyền sở hữu mà chỉ nhượng quyền sử dụng số tư bản đó, phải
chấp nhận sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư bản và phải
chịu sự chia ly với số tư bản của mình.
Tư bản cho vay cũng là hình thức tư bản tồn tại trước chủ nghĩa tư
bản, thường là cho vay nặng lãi vì bấy giờ ít người có vốn nhàn rỗi (các lãnh
chúa hay thương nhân giàu có) và độ rủi ro cao.
Tư bản cho vay xuất hiện do nảy sinh nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng mà khả năng thanh toán tạm thời chưa có, đồng thời một
số nhà tư bản (có thể là nhà tư bản sản xuất, nhà tư bản thương nghiệp) có
vốn nhàn rỗi có thể đáp ứng nhu cầu ấy. Từ đó, thị trường vốn ngắn hạn
được hình thành và ngày càng phát triển.
Công thức vận động của tư bản cho vay là T – T', nên gây ảo tưởng
tiền đẻ ra tiền, từ đó nó được sùng bái nhất trong các loại tư bản.
Xét về lợi ích xã hội, sự xuất hiện tư bản cho vay có tác dụng tập trung,
điều hòa, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
b. Lợi tức:
Lợi tức (Z) là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay
phải trả cho nhà tư bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để được quyền sử
dụng tư bản trong khoảng thời gian nào đó.
P = Z + P doanh nghiệp
Đối với nhà tư bản đi vay, lợi tức chính là chi phí về vốn. Nếu nhà tư
bản không cần vay thì tự trả lợi tức cho mình.
Để tính mức lợi tức thu được so với lượng tư bản cho vay, người ta sử
dụng khái niệm tỷ suất lợi tức. Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ giữa lợi tức phải trả với
lượng tư bản cho vay, là giá cả của tư bản cho vay trong một khoảng thời
gian nhất định và được ký hiệu là z'.
z' =Z
K
Thông thường tỷ lệ lạm phát < z' < p'.
z' có xu hướng ngày càng giảm do p’ có xu hướng giảm và lượng cung
tư bản cho vay ngày càng tăng.
2. Tư bản ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
a. Tư bản ngân hàng:
Lĩnh vực tín dụng nhất là tín dụng tiền tệ ngày càng hấp dẫn các nhà tư
bản. Một số nhà tư bản đã chuyển hẳn sang lĩnh vực này, đầu tư xây ngân
hàng, tăng cường vốn tiền tệ… và trở thành những nhà tư bản ngân hàng.
Tư bản ngân hàng là tư bản cho vay được chuyên nghiệp hóa và mở
rộng hoạt động nữa, không chỉ cho vay bằng vốn của mình mà còn vay để
cho vay.
Ngân hàng là xí nghiệp kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người vay
và cho vay, tập trung các nguồn tiền nhàn rỗi để đáp ứng nhu cầu vay vốn
tiền tệ trong xã hội và thực hiện các dịch vụ tiền tệ khác.
Ngân hàng có vai trò ngày càng quan trọng:
– Huy động và cung ứng vốn tín dụng ngắn hạn, bảo đảm nguồn vốn
cần thiết cho nhu cầu sản xuất. Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ nhận gởi và
nghiệp vụ cho vay; qua đó nó đóng vai trò “thủ quỹ” cho xã hội.
– Làm trung tâm thanh toán các ngân khoản một cách nhanh chóng và
tiện lợi, giảm chi phí lưu thông, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, điều tiết
lưu thông tiền tệ, rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản trong sản xuất và
lưu thông, thúc đẩy quá trình tái sản xuất và quá trình xã hội hóa sản xuất.
– Phục vụ đắc lực cho việc tập trung tư bản, tập trung sản xuất tác
động mạnh mẽ đến việc tích tụ tư bản, tạo thuận lợi cho việc di chuyển tư
bản, góp phần hình thành p'.
Ngân hàng còn là một công cụ để kiểm soát các hoạt động kinh tế,
kiểm toán các doanh nghiệp.
– Kinh doanh tiền tệ, kinh doanh chứng khoán, đầu tư vào sản xuất
kinh doanh. Tư bản ngân hàng cũng tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ
suất lợi nhuận.
b. Lợi nhuận ngân hàng:
Lợi nhuận ngân hàng là kết quả vận động của tư bản ngân hàng, gồm
có: thứ nhất là chênh lệch giữa lợi tức cho vay với lợi tức vay sau khi trừ đi
chi phí cần thiết; thứ hai là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh tiền tệ, dịch vụ
ngân hàng, chiết khấu hối phiếu…
Câu 39: Trình bày về công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này hiện nay ở nước ta.
1. Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là công ty mà số vốn của nó được chia thành nhiều
phần – cổ phần bằng nhau và được mua bán một cách rộng rãi trên thị
trường. Đây là một phương thức tập trung tư bản có hiệu lực.
Cổ phần là phần vốn góp tối thiểu vào công ty cổ phần. Cổ phiếu là giấy
chứng nhận quyền sở hữu cổ phần (phiếu góp vốn), nó là hình thức biểu hiện
ra bên ngoài của cổ phần. Người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông, sẽ
nhận lợi tức cổ phiếu hay cổ tức (lãi cổ phần) chia từ doanh lợi hằng năm của
công ty.
Thực chất của cổ tức là lợi nhuận chứ không phải là lợi tức cho vay.
Về nguyên tắc, công ty cổ phần không hoàn lại vốn cho cổ đông, cổ
phiếu bị mất giá trị khi công ty bị phá sản, nhưng cổ đông có thể bán cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán.
Giá cả của cổ phiếu trên thị trường được gọi là thị giá cổ phiếu. Thị giá
cổ phiếu chỉ đồng nhất với mệnh giá lúc phát hành – giá trị danh nghĩa ghi
trên cổ phiếu, còn nói chung, nó luôn thoát ly với mệnh giá, tỷ lệ thuận với cổ
tức và tỷ lệ nghịch với lãi suất cho vay, với giá cả nhà đất.
Thí dụ: nếu cổ tức trên mỗi cổ phiếu là 9 USD và tỷ suất lợi tức cho vay
3% thì thị giá cổ phiếu sẽ được xác định là:
K = 9 USD: 3% = 300 USD (thoát ly với mệnh giá)
Như vậy thị giá cổ phiếu thường tương ứng với một số tiền mà nếu gởi
số tiền đó vào ngân hàng sẽ thu được số lợi tức bằng cổ tức với thời gian
tương ứng là một năm.
Ngoài ra, tương quan cung – cầu về cổ phiếu cũng ảnh hưởng đến thị
giá cổ phiếu.
Từ thị giá cổ phiếu, tài sản của một công ty cổ phần có thể đo lường
tương đối chính xác.
Trị giá công ty cổ phần = thị giá cổ phiếu x tổng số cổ phần.
Người mua cổ phiếu hy vọng rằng cổ tức cao, thị giá cổ phiếu tăng và
hy vọng về khả năng được làm chủ công ty. Hiện nay, một số cổ đông nhỏ
còn có mục tiêu là việc làm.
Về danh nghĩa, cổ đông có quyền tham gia đại hội cổ đông, bầu ra hội
đồng quản trị và thông qua các quyết định của công ty. Nhưng sự quyết định
trong đại hội cổ đông căn cứ vào số lượng cổ phiếu mà cổ đông sở hữu.
Thông thường, chỉ cần nắm được một lượng cổ phiếu đáng kể, khoảng 30%,
là đủ khả năng để thao túng mọi hoạt động trong công ty.
Ngoài cổ phiếu, công ty cổ phần còn được phát hành trái phiếu (phiếu
vay nợ) hay trái khoán với thời hạn trả vốn và lãi được xác định và lợi tức cố
định không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Các trái chủ không
được tham gia đại hội cổ đông, trừ trường hợp trái phiếu chuyển đổi sang cổ
phiếu.
Karl Marx: Sự hình thành các công ty cổ phần chính là sự thủ tiêu
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở ngay trong lòng nó (Tư bản quyển
III, tập 2, ST78, 195).
Hình thức sở hữu cổ phần biểu hiện sự tách rời giữa quyền sở hữu tư
bản với quyền sử dụng nó. Trong một công ty cổ phần, sự phân biệt quyền sở
hữu và quyền quản lý là rõ ràng, quyền sở hữu quyết định quyền quản lý. Đó
là sự phát triển mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: từ sở hữu tư bản
cá thể chuyển sang sở hữu tư bản tập thể tư bản chủ nghĩa.
2. Tư bản giả:
a. Khái niệm:
Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức chứng khoán có giá. Đó chỉ
là giá trị danh nghĩa; là bản sao của giá trị thật đã đầu tư vào sản xuất.
Sở dĩ nó được gọi là tư bản giả bởi vì giá trị của nó đôi khi tăng cao so
với tư bản thực tế và lại có thể bằng không khi sự phá sản xảy ra. Sự khác
biệt về lượng giữa tư bản thật với tư bản giả đã cho thấy sự khác biệt về chất
giữa chúng. Đôi khi tư bản thật đã sử dụng hết, không còn tồn tại, thì tư bản
giả vẫn còn lưu hành như trường hợp công trái.
b. Hình thức:
Tư bản giả bao gồm hai loại chủ yếu là cổ phiếu – chứng khoán vốn và
trái phiếu – chứng khoán nợ.
Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu cổ phần của cổ đông. Khi
thành lập công ty cổ phần thì tư bản thực tế đã được sử dụng hết. Còn tờ cổ
phiếu chỉ là bản sao của số tư bản thực tế ấy.
Trái phiếu (trái phiếu công ty, trái phiếu ngân hàng, công trái) là những
phiếu nợ do các công ty, các ngân hàng hay Nhà nước phát hành để vay nợ
từ công chúng hay đối tác.
c. Đặc điểm:
– Sự vận động của tư bản thật gắn chặt với sự vận động của sản xuất,
còn tư bản giả tồn tại bên ngoài và không tham gia vào sản xuất.
– Sự vận động của tư bản giả hoàn toàn tách rời sự vận động của tư
bản thật.
3. Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch mua bán các loại chứng khoán
– những giấy tờ có giá khác nhau.
Chứng khoán là giấy chứng nhận quyền sở hữu những giá trị tài sản
thuộc về các cá nhân chủ thể nào đó.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường vốn. Có thể chia
thị trường chứng khoán làm hai bộ phận căn cứ vào loại mặt hàng là thị
trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu (bao gồm cả công trái, thương phiếu,
hối phiếu).
Đối với người mua chứng khoán, vốn cổ phiếu là loại vốn đầu tư trực
tiếp, dài hạn. Vốn trái phiếu là vốn đầu tư gián tiếp, ngắn hạn.
Có hai giai đoạn của thị trường chứng khoán là giai đoạn sơ cấp mua
bán chứng khoán lúc phát hành và giai đoạn thứ cấp mua đi bán lại các
chứng khoán. Giai đoạn sơ cấp là tiền đề, giai đoạn thứ cấp là động lực.
Ngoài thị trường chứng khoán tập trung, còn có thị trường chứng khoán
bán tập trung, giao dịch các loại chứng khoán chưa đủ điều kiện để niêm yết,
chưa đủ tiêu chuẩn. Ở thị trường tập trung, việc mua bán được thực hiện theo
nguyên tắc đấu giá. Ở thị trường bán tập trung, việc mua bán được thực hiện
theo nguyên tắc thương lượng. Ngoài ra, còn có thị trường tự phát, các nhà
đầu tư mua bán trực tiếp với nhau, không đủ thông tin, giá cả được định theo
cảm tính.
Thị trường chứng khoán là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của các
công ty cổ phần. Nó là loại thị trường rất nhạy cảm với các biến động kinh tế,
chính trị, xã hội, quân sự… Giá cả chứng khoán biểu hiện tập trung ở chỉ số
của thị trường chứng khoán, nó tăng lên cho thấy nền kinh tế đang phát triển,
còn ngược lại là đang sa sút, khủng hoảng. Chỉ số chứng khoán là số bình
quân của giá các loại chứng khoán tiêu biểu giao dịch tại một thời điểm nhất
định.
3. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này hiện nay ở nước ta.
Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán có vai trò rất quan trọng đối
với nền kinh tế hàng hóa; nó không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa
tư bản. Đối với nước ta, việc nghiên cứu và sử dụng chúng một cách phù hợp
là cần thiết, có lợi, là đòn bẩy để tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi của nhân
dân, của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, của kiều bào ở nước ngoài.
Tất cả các nguồn vốn ấy sẽ góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để chuyển
đổi nền kinh tế ở nước ta.
Thị trường chứng khoán ở nước ta được hình thành trên cơ sở nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Ủy Ban Chứng khoán
Nhà nước được thành lập trước, hệ thống pháp luật được hoàn thiện rồi mới
hình thành thị trường.
Nếu Nhà nước ta phát huy được vai trò quản lý kinh tế của mình thì
công ty cổ phần và thị trường chứng khoán sẽ trở thành hình thức kinh tế có
hiệu lực để xã hội hóa sản xuất, kết hợp chế độ công hữu với các hình thức
sở hữu khác trong quá trình xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Câu 40: Trình bày về tư bản nhà đất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa liên quan đến nhà đất. Nêu bản chất và phân loại tô tức. Phân tích giá cả nhà đất. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu các vấn đề này.
1. Tư bản nhà đất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa liên quan đến nhà đất.
Tư bản nhà đất là hình thức tư bản hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
đất đai, nhà xưởng, bao gồm cả ruộng đất ở nông thôn.
Dưới chế độ phong kiến, tầng lớp địa chủ cho các nông dân tá điền
thuê ruộng đất và thu tô; ở thành thị, việc thuê nhà đất thì chưa nhiều do
cung, cầu còn ít.
Đến chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất trong nông nghiệp có các chủ
thể trực tiếp là: nhà tư bản kinh doanh ruộng đất, nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp và công nhân nông nghiệp ở thành thị, do đất đai hiếm, những nhà tư
bản địa ốc thường không cho thuê đất mà đầu tư xây dựng nhà, xưởng để
các nhà tư bản sản xuất công nghiệp thuê.
Như vậy, do không có đủ vốn, nhà tư bản sản xuất nông nghiệp ở nông
thôn cũng như nhà tư bản sản xuất công nghiệp ở thành thị phải thuê đất hay
nhà xưởng và thuê người lao động để tiến hành sản xuất.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiệp, nhưng tỷ suất lợi nhuận thì không cao vì năng suất lao động thấp và
khối lượng lợi nhuận cũng không nhiều vì khối lượng tư bản sử dụng còn ít ỏi.
Ngành nông nghiệp chỉ hấp dẫn các nhà tư bản khi nó được áp dụng khoa
học kỹ thuật nhiều hơn, năng suất lao động cao hơn.
2. Bản chất của tô tức và phân loại tô tức.
Tô tức là số tiền hay các hình thức giá trị khác mà nhà tư bản thuê sử
dụng nhà đất phải trả cho nhà tư bản cho thuê nhà đất để được quyền sử
dụng nhà đất trong một khoảng thời gian nhất định. Nó còn được gọi là tiền
thuê đất đai, nhà xưởng và ký hiệu là R.
Tô tức đã xuất hiện từ khi có quyền tư hữu về ruộng đất và là hình thức
bóc lột chủ yếu trong xã hội phong kiến.
Theo lý luận mác–xít, tiền tô tư bản chủ nghĩa là hình thức biến dạng
của (M); là một phần (M) do người lao động tạo ra mà nhà tư bản sản xuất
kinh doanh phải trả cho nhà tư bản nhà đất để có quyền sử dụng nhà đất.
Phân loại tô tức:
Xét về hình thức thì gồm có: tô lao dịch, tô hiện vật và tô tiền.
Xét về tính chất thì gồm có:
– Tô chênh lệch:
Tiền tô chênh lệch là một phần của lợi nhuận siêu ngạch thu được trên
đất đai, nhà xưởng có điều kiện sản xuất thuận lợi. Phần còn lại là lợi nhuận
bình luân thuộc về nhà tư bản sản xuất. (PSN = P + RCL)
Có hai loại tiền tô chênh lệch:
+ Loại 1: do vị trí thuận lợi, sự mầu mỡ tự nhiên của đất đai.
+ Loại 2: do đầu tư thêm, thâm canh hay tận dụng diện tích.
– Tô tuyệt đối:
Là loại tiền tô nhất thiết phải nộp cho chủ nhà đất cho dù đất tốt hay
xấu, ở xa hay gần. Cơ sở của tiền tô tuyệt đối là khan hiếm đất đai và khả
năng độc quyền chiếm hữu chúng của chủ nhà đất.
Ruộng đất xấu chỉ có địa tô tuyệt đối, còn ruộng đất tốt trung bình thì có
cả địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch. Sự bất hợp lý của tô tuyệt đối có thể
làm cho đất xấu bị bỏ hoang hay được chuyển mục đích sử dụng khác có lợi
hơn.
– Tô đặc biệt:
Là loại tiền tô do tính chất đặc biệt của nhà đất mà có thể tạo ra những
sản phẩm, dịch vụ đặc biệt.
3. Giá cả ruộng đất:
Tư bản nhà đất không chỉ cho thuê đất đai, nhà xưởng mà còn mua đi
bán lại chúng.
Giá cả nhà đất dựa trên giá trị của nó, một phần là giá trị truyền thống,
công sức khai phá, cải tạo, sự mầu mỡ…
Giá cả nhà đất còn tùy thuộc vào khả năng sinh lợi của nhà đất và vào
lãi suất ngân hàng. Người chủ địa ốc hoặc cho thuê đất, nhà để nhận tiền tô,
tiền cho thuê, hoặc bán nhà, đất lấy tiền gửi ngân hàng nhận lợi tức.
Nếu r' > z': người ta sẽ bán nhà, đất để gửi tiền ngân hàng, giá nhà đất
sẽ giảm.
Nếu r’ < z': người ta sẽ rút hay vay tiền ngân hàng để mua nhà đất để
cho thuê, giá nhà đất do vậy sẽ tăng.
Giá cả nhà đất thường xa rời giá trị của nó, mà lại tỷ lệ thuận với tỷ suất
tiền tô và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tức.
Thí dụ một mảnh đất cho thuê, tiền tô hằng năm nhận được là 1.500
USD, z' = 5% thì mảnh đất trên có thể được bán với giá: 1.500/5x100 =
30.000 USD.
Giá cả ruộng đất tương ứng với 30.000 USD, mà khi đem gửi ngân
hàng thì hằng năm vẫn nhận được 1.500 USD, bằng số tiền tô thu được khi
cho thuê đất.
Ngoài ra, giá cả ruộng đất còn chịu ảnh hưởng của cung – cầu về
ruộng đất, sự dự đoán của các nhà đầu tư.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Lý luận về tư bản nhà đất không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa liên quan đến sử dụng đất đai, mà còn là cơ sở khoa học
giúp Nhà nước xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các
ngành khác một cách hợp lý.
Ở Việt Nam, Nhà nước có thể vận dụng lý luận về đất đai để kết hợp
hài hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể, qua đó kích thích phát triển nông
nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế.
– Vận dụng lý luận địa tô chênh lệch 1: Nhà nước nên phân chia đất đai
theo độ phì nhiêu tự nhiên và vị trí địa lý để đánh thuế sử dụng ruộng đất một
cách công bằng, hợp lý; đồng thời khuyến khích nông dân và người sản xuất,
kinh doanh bảo vệ độ phì của đất và bảo vệ môi trường sinh thái.
– Vận dụng lý luận địa tô chênh lệch 2: Nhà nước nên ổn định mức
thuế trong một thời gian nhất định để tạo điều kiện cho người đầu tư đưa
nhanh tiến bộ khoa học – công nghệ vào nông nghiệp; đổi mới cơ cấu cây
trồng, vật nuôi và bảo vệ môi trường tự nhiên.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, Nhà nước phải bảo đảm
quyền sử dụng ruộng đất, quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, quyền
cho thuê, quyền thừa kế ruộng đất cho người dân.
Câu 41: Trình bày những nguyên nhân và nhân tố cản trở xu hướng độc quyền hóa tư bản chủ nghĩa về kinh tế ở các nước tư bản. Tại sao nói sự thống trị của độc quyền là bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền?
1. Khái niệm:
Tập trung sản xuất là sự mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hóa sản
xuất trên cơ sở của tích tụ tư bản và tập trung tư bản, làm xuất hiện các xí
nghiệp lớn hiện đại.
Độc quyền về một loại hàng hóa hay một ngành sản xuất kinh doanh
nào đó là sự chi phối quyết định đến việc sản xuất và tiêu thụ, nắm giữ thị
phần áp đảo đối với đầu vào và đầu ra của hàng hóa hay ngành sản xuất đó.
Tổ chức độc quyền là các công ty tư bản lớn hay liên minh các xí
nghiệp tư bản, tập trung sản xuất kinh doanh, đưa ra khối lượng sản phẩm
lớn, có thể thao túng được thị trường, nắm lấy thị phần, ấn định giá cả độc
quyền và thu được lợi nhuận độc quyền.
2. Nguyên nhân của xu hướng độc quyền hóa:
– Do sự tác động của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa (cũng là do quy luật
giá trị thặng dư, qui luật cạnh tranh, quy luật tích lũy tư bản…):
Sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nội bộ ngành cũng như giữa các ngành
làm thúc đẩy các quá trình:
– Quá trình tích tụ tư bản: do thực hiện tích lũy tư bản, lượng m tư bản
hóa ngày càng tăng làm cho quy mô tư bản cá biệt ngày càng lớn.
– Quá trình tập trung tư bản: các tư bản cá biệt được hợp nhất do hai
khả năng là liên doanh và vay mượn.
– Quá trình tập trung sản xuất (sản xuất được qui về một mối), tích tụ
sản xuất: quy mô sản xuất tăng dần) là kết quả của hai quá trình trên, ngoài ra
còn là do:
+ Sự liên minh giữa các nhà tư bản để tránh thiệt hại do đối đầu cạnh
tranh.
+ Việc mua lại các xí nghiệp thua lỗ phá sản và sát nhập vào các xí
nghiệp phát đạt.
+ Các quá trình trên đây đã tạo nên tình trạng độc quyền về một sản
phẩm hay một ngành sản xuất kinh doanh nào đó.
– Sự phát triển của khoa học – kỹ thuật cũng là một nguyên nhân gián
tiếp làm nảy sinh tình trạng độc quyền, bởi vì:
+ Khoa học – kỹ thuật thúc đẩy quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất.
+ Để ứng dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật mới thì đòi hỏi phải
có quy mô sản xuất lớn, tư bản đầu tư phải nhiều.
+ Khoa học – kỹ thuật tạo điều kiện và thúc đẩy sự cạnh tranh.
– Nguy cơ khủng hoảng kinh tế từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới năm 1873 cũng là một nguyên nhân gián tiếp vì nó thúc đẩy sự liên minh,
liên kết giữa các nhà tư bản để tránh những ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế.
– Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng ngày càng mở rộng và với
sự phát triển của hình thức công ty cổ phần và thị trường chứng khoán đã tạo
ra những khả năng quan trọng trong việc tập trung tư bản, nên chúng cũng là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng độc quyền trong nền kinh tế tư bản.
3. Những yếu tố cản trở xu hướng trên:
– Sự cạnh tranh:
Cạnh tranh cũng là yếu tố cản trở xu hướng độc quyền hóa mặc dù tình
trạng độc quyền là kết quả của cạnh tranh. Độc quyền làm cho cạnh tranh gay
gắt hơn, với quy mô lớn hơn, phạm vi rộng hơn và phương thức đa dạng hơn
khiến các nhà tư bản sẽ phải cân nhắc khi giành lấy vị thế độc quyền.
Chính thị trường đã có khả năng ngăn chận hay làm giảm bớt sự thống
trị của tư bản độc quyền.
– Sự bất lợi vì quy mô:
Ngày nay những xí nghiệp vừa và nhỏ lại có lợi thế hơn các xí nghiệp
quy mô lớn: dễ thay đổi công nghệ thiết bị, bộ máy quản lý gọn nhẹ, dễ thích
nghi, dễ thực hiện giá cả linh hoạt. Cái quyết định cho sự thành công là hiệu
quả kinh doanh, là cái mới lạ của sản phẩm, đem lại ích lợi cho người tiêu
thụ.
– Sự cấm đoán và hạn chế của pháp luật:
Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức bất chấp những
cấm đoán của luật pháp.
4. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Đó là sự thống trị của tư bản độc quyền, xuất phát từ yêu cầu của qui
luật giá trị thặng dư trong điều kiện mới.
Nếu lợi nhuận bình quân là đặc trưng của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh thì lợi nhuận độc quyền là đặc trưng của giai đoạn chủ nghĩa tư
bản độc quyền.
Lợi nhuận độc quyền > lợi nhuận bình quân
PĐQ = giá bán độc quyền – chi phí sản xuất
Lợi nhuận độc quyền cao trên mỗi sản phẩm có cơ sở là giá trị thặng
dư siêu ngạch không chỉ là bóc lột lao động thặng dư của công nhân mà còn
là dựa trên ưu thế sức mạnh kinh tế để hạ gục đối thủ cạnh tranh, do bắt chẹt
người tiêu dùng qua giá bán độc quyền cao, hay chèn ép người cung ứng
nguyên vật liệu qua giá mua độc quyền thấp…
Nếu quy luật giá trị và qui luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất và qui luật lợi
nhuận bình quân, thì trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền chúng biểu
hiện thành quy luật giá cả độc quyền và qui luật lợi nhuận độc quyền cao.
Câu 42: Phân tích nguồn gốc, cơ chế thống trị kinh tế và vai trò của tư bản tài chính trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
1. Nguồn gốc của tư bản tài chính:
Tư bản ngân hàng cũng diễn ra xu hướng độc quyền hóa, xuất phát từ
quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong ngành ngân hàng, đưa đến sự hình
thành tổ chức độc quyền ngân hàng.
Sự thâm nhập lẫn nhau giữa tư bản độc quyền sản xuất công nghiệp và
tư bản độc quyền ngân hàng, vào cuối thế kỷ 19, đưa đến sự hình thành tư
bản tài chính.
Mối liên hệ gắn bó về lợi ích kinh tế (sự đảm bảo an toàn và khả năng
sinh lợi của tiền vốn) giữa tổ chức độc quyền công nghiệp và tổ chức độc
quyền ngân hàng đòi hỏi chúng phải thâm nhập lẫn nhau. Từ đó đưa đến kết
quả là, có một số nhà tư bản chi phối được tổ chức độc quyền công nghiệp
lẫn tổ chức độc quyền ngân hàng do số cổ phần nắm giữ khá lớn. Đó chính là
những nhà tư bản tài chính.
2. Cơ chế thống trị kinh tế của tư bản tài chính:
– Thông qua chế độ tham dự: là chế độ cho phép một tập đoàn tư bản
tài chính nhờ nắm số cổ phiếu khống chế thường từ 20% đến 30%, nên chi
phối được công ty gốc hay “công ty mẹ”, nên chi phối được công ty phụ thuộc
hay các “công ty con”, “công ty cháu”…
– Do chế độ ủy nhiệm: là chế độ cho phép hàng vạn cổ đông nhỏ được
ủy nhiệm cho các cổ đông lớn thay mình quyết định những vấn đề của công
ty.
Các chế độ ấy giúp cho các trùm tư bản tài chính chỉ với lượng tư bản
có hạn của mình có thể khống chế một lượng tư bản lớn hơn nhiều.
3. Vai trò của tư bản tài chính:
Tư bản độc quyền ngân hàng không chỉ nắm giữ hầu hết tổng số tư
bản tiền tệ trong xã hội, mà còn chi phối toàn bộ tư bản hàng hóa bởi vì về
sau này tư bản thương nghiệp ngày càng lệ thuộc vào tư bản ngân hàng hơn
là vào tư bản sản xuất công nghiệp. Còn tư bản độc quyền sản xuất công
nghiệp thì nắm giữ phần lớn tư bản sản xuất, với tỷ trọng nhiều nhất trong
tổng tư bản xã hội.
Như vậy, tư bản tài chính chi phối hầu hết các nguồn vốn chủ yếu trong
xã hội (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa).
Những ông trùm tài chính có khả năng chi phối mọi mặt đời sống kinh
tế chính trị của các nước tư bản cũng như trong quan hệ quốc tế.
Như vậy, có thể nói chủ nghĩa tư bản hiện đại là thời đại thống trị của
tư bản tài chính. Nó ngày càng bành trướng thế lực và ảnh hưởng trên phạm
vi toàn thế giới và đưa đến việc hình thành tư bản độc quyền quốc tế.
Câu 43: Trình bày khái niệm và nêu các hình thức của tư bản độc quyền quốc tế. Phân tích điều kiện hình thành và vai trò của tư bản độc quyền quốc tế.
1. Khái niệm và các hình thức của tư bản độc quyền quốc tế
Tư bản độc quyền quốc tế là liên minh các tổ chức độc quyền của các
nước tư bản bằng hình thức sở hữu cổ phần nhằm phân chia thị trường tiêu
thụ và nguồn nguyên liệu, xác định chính sách giá cả, quy mô sản xuất để thu
được lợi nhuận độc quyền cao.
Tổ chức tư bản độc quyền quốc tế có hai hình thức là công ty đa quốc
gia (MNC) và công ty xuyên quốc gia (TNC).
2. Điều kiện hình thành:
Tư bản độc quyền quốc tế là kết quả của sự phát triển của tư bản tài
chính ra phạm vi thế giới, và cũng là kết quả của việc giành giật thị trường
trên phạm vi thế giới.
Xuất khẩu tư bản là công cụ đắc lực mà tư bản tài chính sử dụng để trợ
giúp cho xuất khẩu hàng hóa. Nó trở thành điều kiện hình thành và mở rộng
phạm vi ảnh hưởng của tư bản độc quyền quốc tế.
Xuất khẩu tư bản là chuyển tư bản ra nước ngoài nhằm thu về giá trị
thặng dư được tạo ra ở nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu hàng hoá là thực
hiện giá trị hàng hóa ở nước ngoài.
Xuất khẩu tư bản, công nghệ hay đầu tư quốc tế còn là phương thức
chủ yếu để giúp tư bản độc quyền quốc tế xâm chiếm thị trường và ràng buộc
các quốc gia đang phát triển như là những thuộc địa.
Cơ sở của quan hệ xuất nhập khẩu tư bản là khả năng cung ứng tư
bản xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu tư bản của nước thừa và nước thiếu tư
bản, nhưng trực tiếp nhất là khả năng thu được giá trị thặng dư nhờ lao động
rẻ và tài nguyên phong phú.
Đầu tư quốc tế có thể được thực hiện qua hai hình thức chủ yếu: tham
gia kinh doanh (đầu tư trực tiếp, xuất khẩu tư bản sản xuất) và tín dụng cho
vay (đầu tư gián tiếp, xuất khẩu tư bản cho vay).
3. Vai trò của tư bản độc quyền quốc tế
– Mở rộng sự thống trị của tư bản tài chính trên toàn thế giới.
Ngày nay, không một chính phủ nào, kể cả chính phủ các nước giàu,
có thể kiểm soát được quyền lực vô hạn của các công ty đa quốc gia.
– Thúc đẩy quá trình phân chia và phân chia lại thế giới về mặt kinh tế,
thúc đẩy quá trình quốc tế hóa sản xuất.
– Làm tăng mâu thuẫn trong nội bộ từng nước và giữa các nước tư
bản.
Vai trò thống trị ngày càng tăng của tư bản tài chính và tư bản độc
quyền quốc tế trong nền kinh tế tư bản hiện đại làm cho mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản ngày càng gay gắt đã đòi hỏi sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước.
Câu 44: Phân tích bản chất, nguyên nhân xuất hiện và những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
1. Bản chất và nguyên nhân xuất hiện:
a. Bản chất:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hệ thống những chính sách,
hình thức mà Nhà nước tư bản sử dụng để quản lý, điều tiết nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa và để đáp ứng lợi ích của các tổ chức tư bản độc quyền (hơn
là vì lợi ích của xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư
bản.
Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được thể hiện ở
các điểm sau:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chính là một hình thức mới của
sự vận động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây không phải là một
giai đoạn của chủ nghĩa tư bản mà chỉ là mức độ cao của giai đoạn chủ nghĩa
tư bản độc quyền.
b. Nguyên nhân xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
– Do nền sản xuất ngày càng xã hội hóa cao, đòi hỏi phải có sự điều
tiết xã hội đối với nền kinh tế.
Sự xã hội hoá cao của sản xuất do quá trình tập trung chuyên môn hóa
nền sản xuất xã hội cùng với những thành tựu mới của tiến bộ khoa học – kỹ
thuật đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển không đồng bộ, cơ cấu kinh tế
thay đổi không hợp lý. Trong điều kiện đó, đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà
nước đối với các quá trình kinh tế, nhằm ổn định và phát triển kinh tế.
– Sự thống trị của các tổ chức độc quyền làm cho mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng sâu sắc, mâu thuẫn xã hội
gay gắt… đã đòi hỏi Nhà nước tư bản phải can thiệp vào nền kinh tế, nhằm
đáp ứng lợi ích của các tổ chức độc quyền cũng như lợi ích của xã hội.
Nhà nước tư bản có thể phải giới hạn sự tự do hoạt động của tư bản
độc quyền, để làm mềm hóa những mâu thuẫn và hạn chế các hậu quả tiêu
cực do sự thống trị của độc quyền sinh ra, nhằm bảo vệ và phát triển phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
– Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế và sự bành trướng của các
công ty độc quyền quốc tế làm tăng mâu thuẫn về lợi ích giữa các nước tư
bản phát triển với nhau và với các nước đang phát triển. Điều này đòi hỏi Nhà
nước tư bản cần có chính sách kinh tế đối ngoại thích hợp.
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nảy sinh như một tất
yếu kinh tế, phần nào đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xã
hội hóa cao độ trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng vẫn không
giải quyết được những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
2. Những hình thức biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
a. Phát huy sở hữu nhà nước:
Sở hữu nhà nước được hình thành từ ngân sách nhà nước, bằng cách
phát hành trái phiếu, tư nhân hóa… Sở hữu nhà nước được sử dụng để đầu
tư phát triển các ngành ít lợi nhuận, cần vốn lớn như xây dựng kết cấu hạ
tầng, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật với nhiều rủi ro, mua lại những
xí nghiệp tư bản bị phá sản, sau đó bán lại những xí nghiệp phát triển chắc
chắn cho các tổ chức độc quyền.
Từ đó, hệ thống các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành kinh tế
được hình thành.
Ngoài ra, Nhà nước tư bản còn phải thực hiện trợ cấp xã hội, thực hiện
xuất khẩu tư bản nhà nước.
Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự
đan kết sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân trong quá trình chu
chuyển của tổng tư bản xã hội.
b. Sự điều chỉnh và kiểm soát của Nhà nước tư bản đối với nền kinh tế thông qua việc sử dụng hệ thống chính sách, hệ thống pháp luật và các công cụ kinh tế cần thiết.
Các công cụ kinh tế rất đa dạng, thường được sử dụng cho nhiều chính
sách kinh tế khác nhau và có thể phân biệt làm hai loại qua tác dụng của
chúng là công cụ kích thích và công cụ điều tiết kinh tế. Công cụ kinh tế nào
được sử dụng, vào lúc nào, với mức độ ra sao sẽ cho thấy năng lực quản lý
kinh tế vĩ mô của bất cứ Nhà nước nào.
c. Sự kết hợp cá nhân giữa tổ chức độc quyền và Nhà nước tư bản:
Hội chủ xí nghiệp có mối quan hệ gắn bó với các đảng phái chính trị
của giai cấp tư sản; nó cung cấp kinh phí cho các đảng phái và quyết định
không chỉ số lượng mà cả thành phần nhân sự ứng cử vào Nghị viện và sau
đó còn tham gia vào việc thành lập Chính phủ. Từ đó, các đại biểu của các tổ
chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác
nhau, từ trung ương đến các địa phương.
Ngoài ra, các quan chức và nhân viên chính phủ cũng tìm cách thâm
nhập vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, nắm giữ những chức
vụ trọng yếu khác nhau.
Câu 45: Phân tích nội dung và cấu trúc của cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
1. Nội dung:
Cơ chế điều tiết kinh tế trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước là sự kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại giữa cơ chế thị trường,
cơ chế kế hoạch hoá của các tổ chức tư bản độc quyền và cơ chế quản lý,
điều tiết của nhà nước tư bản để bảo đảm cho nền kinh tế được phát triển
cân đối và ổn định.
2. Cấu trúc:
Cơ chế điều tiết nền kinh tế trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh dựa vào tác động tự phát của các quy luật kinh tế khách quan, tức
là sự điều tiết của “bàn tay vô hình”, đã tạo ra sự cạnh tranh vô chính phủ,
tích lũy các nhân tố làm xuất hiện các đợt khủng hoảng kinh tế chu kỳ, lạm
phát và thất nghiệp.
Cơ chế điều tiết kinh tế trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước là một hệ thống điều tiết kinh tế tổng hợp gồm ba thành phần phối
hợp chặt chẽ sau đây:
– Cơ chế thị trường hay tác động của các quy luật kinh tế thị trường
vẫn là thành phần cơ bản, tạo ra sự sống động trong nền kinh tế và phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh.
– Cơ chế kế hoạch hoá của các tổ chức tư bản độc quyền: Tổ chức tư
bản độc quyền tham gia điều tiết kinh tế thông qua các kế hoạch sản xuất
kinh doanh dựa trên sự nghiên cứu thường xuyên và thận trọng các nhu cầu
của xã hội, góp phần định hướng và phát triển ổn định cho một số ngành kinh
tế.
– Cơ chế quản lý, điều tiết của Nhà nước: Nhà nước điều tiết các quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội ở tầm vĩ mô, định hướng các mục tiêu,
chương trình phát triển kinh tế dài hạn và ngắn hạn, giám sát các hoạt động
sản xuất kinh doanh, điều tiết thu nhập trong xã hội thông qua hệ thống chính
sách hệ thống pháp luật, qua các đòn bẩy kinh tế, qua hệ thống doanh nghiệp
nhà nước, qua hệ thống tài chính, tiền tệ, dự trữ tín dụng…
Như vậy, cơ chế điều tiết kinh tế này đã phối hợp được các lực lượng
điều tiết, kết hợp “bàn tay vô hình” với “bàn tay hữu hình” nên hợp lý và có
hiệu quả hơn, giúp hạn chế được khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp, làm
mềm hóa mâu thuẫn của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng lại làm tăng sự
âm ỉ và phức tạp của mâu thuẫn ấy.
Câu 46: Hãy trình bày những kết quả, nguyên nhân tồn tại, những tiêu cực và vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
1. Những kết quả của chủ nghĩa tư bản:
a. Về lực lượng sản xuất:
– Thực hiện quá trình xã hội hóa sản xuất qua sự phát triển của chuyên
môn hóa, hợp tác hóa, tập trung hóa, hiện đã hóa sản xuất.
– Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ
thuật hiện dại, nhờ thực hiện cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại.
Marx đã tổng kết: “Trong vòng chưa đầy một thế kỷ thống trị của mình,
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một sức sản xuất khổng lồ, bằng tất cả những gì
mà các thế hệ loài người trước đó đã tạo ra”.
b. Về quan hệ sản xuất:
– Sự phát triển của các tổ chức tư bản độc quyền như tư bản tài chính,
tư bản độc quyền quốc tế.
– Xuất hiện các hình thức sở hữu mới: sở hữu tư nhân tập thể tư bản
chủ nghĩa, sở hữu độc quyền nhà nước, sở hữu cổ phần.
– Vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước tư bản mang lại khả năng
điều tiết nền kinh tế một cách có hiệu quả, có thể hạn chế khủng hoảng và
thất nghiệp. Quản lý doanh nghiệp trở thành một nghề chuyên môn, giúp cho
nhà tư bản thoát ly với sản xuất trực tiếp.
– Việc phân phối được điều chỉnh, từ đó hạn chế được một phần sự
mâu thuẫn về lợi ích kinh tế.
2. Nguyên nhân của những thay đổi của chủ nghĩa tư bản:
– Các nước tư bản đã tạo ra và phát huy được cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại, biết lợi dụng kinh tế thị trường và những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật.
– Sự lạc hậu của các nước thứ ba được lợi dụng.
– Sự tồn tại của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như là
một đối trọng, nên các nước tư bản đã tự điều chỉnh, tự đổi mới để làm dịu
bớt mâu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ ra
bản chất của nó: mục tiêu lợi nhuận là trên hết bất chấp tình trạng thất nghiệp
là như thế nào.
3. Những tệ hại của chủ nghĩa tư bản:
– Bản chất bóc lột không thay đổi, ăn bám, bần cùng, tội ác… Công
nhân vẫn bị hy sinh cho mục tiêu giảm chi phí và tăng lợi nhuận.
– Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn chứa đựng mâu thuẫn
gay gắt, nguy cơ khủng hoảng tổng thể.
– Chủ nghĩa tư bản là thủ phạm của đói nghèo, bệnh tật, chết chóc của
hàng trăm triệu con người, gây ra ô nhiễm môi trường ở các nước đang phát
triển.
– Chủ nghĩa tư bản là thủ phạm chính gây ra hai cuộc chiến tranh thế
giới đẫm máu, là thủ phạm của các cuộc chạy đua vũ trang làm thiệt hại về
người và của.
Nhưng Marx nói: “Chúng ta đau khổ vì chủ nghĩa tư bản nhưng cũng
đau khổ nếu nó chưa phát triển”.
4. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản:
Chủ nghĩa tư bản đã đạt được những kết quả rất đáng kể, nhờ chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chúng ta cần phải nghiên cứu vận dụng
những kinh nghiệm, những mô hình tốt nhằm thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhưng như Lênin nói, bằng việc áp dụng chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước, chủ nghĩa tư bản đã tạm thời xoa dịu những mâu thuẫn của nó và
cũng đã chuẩn bị những tiền đồ vật chất đầy đủ và tiền đề xã hội chín muồi
cho sự ra đời của một xã hội mới.
Theo tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người, theo quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, xã hội tư
bản chủ nghĩa nhất định sẽ bị thay thế bằng một xã hội mới, tiến bộ, hoàn
thiện hơn, đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Câu 47: Trình bày những dự báo của Các Mác và Ph.Ăngghen về xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
1. Dự báo về các đặc trưng kinh tế – xã hội cơ bản của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
a. Lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao hơn hẳn so với xã hội tư
bản chủ nghĩa, phù hợp với qui mô sản xuất lớn, năng suất lao động cao và
trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại nhất.
b. Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ.
Khi chế độ sở hữu xã hội thay thế chế độ sở hữu tư nhân, thì quan hệ
giữa người với người là quan hệ hợp tác giữa những người lao động, quan
hệ bóc lột sẽ bị loại trừ. Khi đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (Mác Ăng–ghen toàn tập, NXB
Chính trị quốc gia, 1995, Tập 4, trang 628)
c. Mục đích và động lực của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là con người và nhu cầu của họ.
Mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là đảm bảo thỏa mãn mọi
nhu cầu vật chất và tinh thần cho các thành viên xã hội.
d. Nền sản xuất được tiến hành theo kế hoạch thống nhất trên toàn xã hội.
Việc tổ chức sản xuất được thực hiện một cách có ý thức, có kế hoạch
trên phạm vi toàn xã hội và không còn tính hàng hóa của sản xuất.
e. Sản phẩm được phân phối công bằng, bình đẳng.
Sự cạnh tranh sẽ được thay bằng hợp tác và thi đua sáng tạo, việc sản
xuất sẽ được tiến hành vì lợi ích chung và với sự tham gia của mọi người.
Phân phối sản phẩm theo sự thỏa thuận chung, tùy theo trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
f. Xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và chân tay, xoá bỏ giai cấp.
Sự phát triển cao về kinh tế, văn hóa và xã hội sẽ tạo cơ sở để loại bỏ
những sự đối lập đó.
2. Dự báo về thời kỳ quá độ lên xã hội cộng sản chủ nghĩa
a. Hai giai đoạn của hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa.
– Giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản còn mang dấu vết của xã hội
cũ mà nó đã lọt lòng ra nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định về mặt
kinh tế và xã hội.
– Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản với những tiền đề vật chất và
tinh thần cần thiết đảm bảo cho sức sản xuất của người lao động ngày càng
tăng, của cải xã hội dồi dào…
b. Những nhiệm vụ kinh tế – xã hội chủ yếu của thời kỳ quá độ:
– Thực hiện việc cải biến cách mạng trong các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tạo điều kiện thỏa
mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra
những tiền đề cần thiết để giải phóng con người.
– Sử dụng giá trị và những quan hệ giá trị để điều tiết thời gian lao
động và phân phối lao động xã hội.
– Đào tạo thế hệ người lao động mới, có năng lực, được phát triển toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Con người được xem là lực lượng sản xuất cơ bản.
3. Dự báo về khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản bỏ qua chế độ tư bản.
– Những nước lạc hậu có thể bước vào con đường phát triển “rút ngắn”
và “chuyển thẳng” lên hình thức sở hữu cộng sản chủ nghĩa, bỏ qua toàn bộ
thời kỳ tư bản chủ nghĩa.
– Bước quá độ chuyển thẳng này thực hiện được khi giai cấp vô sản
thắng được giai cấp tư sản và thay nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng nền
sản xuất do xã hội quản lý.
Câu 48: Trình bày khái quát các lý luận về chủ nghĩa xã hội và kế hoạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội của V. I. Lênin.
1. Các lý luận của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ.
a. Lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số nước, thậm chí ở một nước tư bản riêng lẻ.
Theo Các Mác và Ăngghen, sự phát triển của đại công nghiệp đã san
bằng sự phát triển xã hội ở các nước văn minh và mở rộng thị trường thế giới
giúp nối liền tất cả các dân tộc trên trái đất. Vì vậy, cuộc cách mạng cộng sản
chủ nghĩa vừa có tính dân tộc, vừa có tính quốc tế và sẽ đồng thời xảy ra ở
tất cả các nước văn minh.
Theo V.I.Lênin, quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của
các nước tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa làm cho cách
mạng vô sản phát triển không đều, tạo ra những khâu yếu nhất trong sợi dây
chuyền tư bản chủ nghĩa và cách mạng vô sản có thể nổ ra ở khâu đó.
b. Lý luận về thời đại mới và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Phân tích đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, V.I.
Lênin đã phát hiện ra những tiền đề vật chất làm cơ sở hiện thực cho sự thay
thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
c. Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước tư bản chủ nghĩa chưa phát triển.
– Giành chính quyền là điều kiện tiên quyết để xây dựng tiền đề kinh tế
cho chủ nghĩa xã hội.
– Phải trải qua hàng loạt bước quá độ với sự nhượng bộ tạm thời và
cục bộ đối với chủ nghĩa tư bản nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
và từng bước xã hội hóa sản xuất trong thực tế.
– Phải tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt, theo nguyên tắc “ai
thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội mới ra đời còn non trẻ với một bên là các thế
lực tư bản chủ nghĩa nhằm giải quyết triệt để mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin:
Đây là kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chính sách kinh tế mới
đối với một nước chưa có đủ tiền đề cần thiết.
a. Mục tiêu của kế hoạch là phát triển nền sản xuất trên cơ sở kỹ thuật
tiên tiến, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản để giải phóng người lao
động và đem lại quyền làm chủ cho nhân dân.
Kế hoạch được xây dựng từ việc phân tích nền kinh tế nước Nga năm
1918. Đó là nền kinh tế nhiều thành phần, với những “mảnh”, những “bộ
phận” đan xen giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
b. Nhiệm vụ kinh tế – xã hội cơ bản là thực hiện xã hội hóa sản xuất
trong thực tế và phải đạt được mục tiêu năng suất lao động cao.
Xã hội hoá sản xuất được thể hiện ở sự phân công lao động xã hội
phát triển, chuyên môn hóa đi đôi với hợp tác hóa và mở rộng việc trao đổi
trong xã hội. Quốc hữu hóa không phải là phương thức duy nhất của xã hội
hóa, và đôi khi mang tính hình thức hay sai lầm. Cần phải thực hiện xã hội
hóa trong thực tế, là loại xã hội hóa đòi hỏi phải có sự phân công lao động hết
sức sâu sắc và sự hợp tác lao động hết sức chặt chẽ, gắn liền với trình độ kỹ
thuật và công nghệ cao.
Để thực hiện nhiệm vụ cơ bản trên, Lênin đề ra những nhiệm vụ cụ thể,
mang tính qui luật là:
– Tiến hành công nghiệp hoá để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
cho nền kinh tế và có được năng suất lao động cao.
Quá trình công nghiệp hóa, theo Lênin, được bắt đầu từ việc khôi phục
kinh tế nông dân để đảm bảo lương thực, rồi nhanh chóng phát triển công
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, đặc biệt là công nghiệp điện.
Trong quá trình đó, cần phải tranh thủ kỹ thuật hiện đại nằm trong tay
các nước tư bản chủ nghĩa dù có phải trả giá bằng những khoản “cống vật”
lớn. Theo Lênin, “Chủ nghĩa xã hội là một bước tiến có ý thức và có tính chất
quần chúng để đi đến năng suất lao động cao hơn năng suất lao động dưới
chủ nghĩa tư bản và dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã
đạt được”.
– Thực hiện hợp tác hoá, thu hút người sản xuất hàng hóa nhỏ vào các
hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện với sự hỗ trợ của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, để đưa dần nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn.
– Tiến hành cách mạng văn hóa, nâng cao trình độ học vấn văn hóa
cho nhân dân.
c. Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin là hình thức đảm bảo thực
hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều kiện kinh tế cụ thể và
quy luật kinh tế khách quan. Nội dung cơ bản của NEP được thể hiện ở các
khía cạnh sau:
– Người sản xuất được tự do trao đổi hàng hóa dưới sự quản lý của
nhà nước.
– Sử dụng và cải tạo dần cơ cấu kinh tế cũ theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
– Phát triển chủ nghĩa tư bản theo hướng chủ nghĩa tư bản nhà nước.
– Thu hút và sử dụng có hiệu quả tư bản nước ngoài.
– Sử dụng nhiều hình thức phân phối sao cho kết hợp hài hoà lợi ích
kinh tế cá nhân, tập thể và xã hội; khuyến khích lợi ích vật chất cho người lao
động, thực hiện chế độ trả công sản phẩm.
– Chuyển các xí nghiệp quốc doanh sang chế độ hạch toán kinh tế để
phát huy tính tự chủ, sáng tạo cho người lao động và quản lý.
Sau khi Lênin mất, mô hình kinh tế theo Chính sách kinh tế mới không
được tiếp tục áp dụng, thay vào đó là mô hình kinh tế mà ngày nay chúng ta
gọi là “cơ chế kế hoạch hóa tập trung”.
Thực tiễn lịch sử cho thấy rằng không nên đối lập cứng nhắc mà phải
kết hợp chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường.
Câu 49: Trình bày tính tất yếu, đặc điểm và nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bất kỳ nước nào muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội đều cần phải trải qua
một thời kỳ lịch sử đặc biệt, đó là thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử đặc biệt,
trong đó Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện các cuộc cách mạng vô
cùng sâu sắc và triệt để trên tất cả các mặt kinh tế– chính trị – văn hoá – xã
hội để giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
a. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với Việt Nam:
– Tính tất yếu lịch sử:
Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi sự thống trị của các
nước đế quốc bên ngoài đã đưa cách mạng nước ta phát triển theo con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
– Về tiền đề khách quan:
+ Việt Nam là nước có tài nguyên đa dạng với nguồn nhân lực dồi dào,
cần cù, thông minh và sáng tạo.
+ Cách mạng khoa học – công nghệ đã và đang thúc đẩy quá trình
quốc tế hoá sản xuất và tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước
trên thế giới. Điều này tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển có
thể tiếp thu và vận dụng những kinh nghiệm của các nước đi trước.
– Về tiền đề chủ quan:
+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, Nhà nước ta đã phát huy
quyền dân chủ và tinh thần tích cực của người dân vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
+ Nhân dân ta với ý thức đầy đủ sẽ trở thành lực lượng vật chất đủ sức
vượt mọi khó khăn và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
b. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
– Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua giai đoạn
thống trị của giai cấp tư sản, nhằm giảm đến mức thấp nhất những đau khổ
cho nhân dân do kinh tế tư bản chủ nghĩa gây ra.
– Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự rút ngắn thời gian
thực hiện quá trình xã hội hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng cách sử dụng
các hình thức kinh tế trung gian và phát triển nền kinh tế theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
2. Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
thông qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân,
nhằm mục tiêu năng suất lao động cao.
b. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, hình thành nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
c. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại để kết hợp nội lực và
ngoại lực nhằm tạo ra một sức mạnh tổng hợp đưa nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững.
Câu 50: Trình bày khái niệm và nội dung của xã hội hoá sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nêu những nhận thức của mình về quá trình xã hội hoá sản xuất ở nước ta hiện nay.
1. Khái niệm xã hội hóa sản xuất:
Xã hội hóa sản xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt
thành một quá trình kinh tế mang tính chất xã hội với quy mô lớn hơn và
phạm vi rộng hơn. Đó là quá trình làm cho sản xuất ngày càng mang tính chất
xã hội, tức là quá trình làm cho các yếu tố sản xuất và việc kết hợp chúng
ngày càng mang tính chất xã hội.
2. Nội dung của xã hội hóa sản xuất:
a. Xã hội hóa quan hệ sản xuất:
Đây là quá trình xây dựng và hoàn thiện các quan hệ kinh tế mang tính
xã hội cao, chẳng hạn như:
– Công cuộc xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất tập thể vào đầu
những năm 80 ở Việt Nam.
– Quá trình xây dựng và củng cố những cơ sở kinh tế quốc doanh.
– Quá trình thúc đẩy những quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hóa, liên
kết liên doanh cũng như mở cửa nền kinh tế hiện nay.
– Quá trình đa dạng hoá các loại hình sở hữu hiện nay.
b. Xã hội hóa lực lượng sản xuất:
Đây là quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật và hoàn thiện lực
lượng lao động cho nền kinh tế. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế quốc dân chính là nhằm thực hiện xã hội hóa sản xuất về mặt lực
lượng sản xuất.
c. Xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất:
Đây là quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế cũng như cơ
chế kinh tế, với hai nội dung cụ thể:
– Xác lập và hoàn thiện mối liên hệ giữa các khâu của sự phân công
lao động xã hội, đưa đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
– Xây dựng và hoàn thiện những mối quan hệ quản lý, đưa đến việc
xác định và chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Các nội dung xã hội hóa sản xuất trên đây có mối quan hệ chặt chẽ và
thống nhất với nhau.
3. Một số nhận thức:
a. Xã hội hóa sản xuất được thể hiện qua quá trình phân công và hợp
tác trong nền kinh tế, các ngành nghề mới xuất hiện, các khu vực, các vùng
kinh tế có mối liên hệ ngày càng chặt chẽ, sản xuất tập trung với quy mô hợp
lý, làm xuất hiện nhiều xí nghiệp hiện đại; sản phẩm làm ra là kết quả của
nhiều người hay nhiều nước. Nó không thích ứng với nền sản xuất nhỏ mà
gắn liền với một nền sản xuất lớn và đòi hỏi phải có vai trò quản lý, điều tiết
của Nhà nước.
b. Quá trình xã hội hóa sản xuất là đúng đắn nếu nó đồng thời là quá
trình phát triển kinh tế, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã
hội và không làm ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất xã hội.
Lênin đã gọi kiểu xã hội hóa sản xuất bất chấp hiệu quả kinh tế – xã hội
là xã hội hóa hình thức, thường xuất phát từ ý muốn chủ quan. Cái cần thiết,
đúng đắn là xã hội hóa thực tế, là kiểu xã hội hóa sản xuất xuất phát từ yêu
cầu của nền kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội và không làm thiệt hại
đến quá trình tái sản xuất xã hội.
c. Sản xuất hàng hóa thay cho sản xuất tự cung tự cấp đã đánh dấu
một bước xã hội hóa sản xuất đầu tiên trong lịch sử và nền sản xuất hàng hóa
hiện đại đã đạt trình độ xã hội hóa cao nhất từ trước tới nay.
d. Xã hội hóa sản xuất là quy luật phát triển đi lên của bất cứ nền sản
xuất xã hội nào. Nước ta muốn vươn lên hàng ngũ các quốc gia phát triển thì
cần phải tiến hành xã hội hóa sản xuất bằng những cách thức, biện pháp,
hình thức đúng đắn; phải là xã hội hóa thực tế và cần phải vận dụng những
thành tựu mà loài người đã đạt được, trong đó có kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không mâu thuẫn với
nhau bởi vì chúng đều phù hợp với quy luật xã hội hóa sản xuất và hơn nữa
chúng còn có thể bổ sung cho nhau: nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thì thiếu
động lực, còn kinh tế thị trường thì thiếu ổn định và thiếu bền vững.
Câu 51: Trình bày tính tất yếu khách quan và lợi ích của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
1. Khái niệm:
– Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận của nền kinh tế quốc dân,
được sắp xếp theo một tương quan tỉ lệ nào đó.
– Thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân xét về
mặt quan hệ sản xuất với hình thức sở hữu và quan hệ sở hữu đặc trưng, với
trình độ nhất định về lực lượng sản xuất.
– Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tổng thể các thành phần kinh tế,
được sắp xếp theo một tương quan hợp lý nhằm mục tiêu phát triển lực
lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
2. Tính tất yếu khách quan:
– Theo quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất:
+ Theo sự nhận thức trước đây: lực lượng sản xuất hiện tại còn ở trình
độ thấp, chưa xã hội hóa cao thì quan hệ sản xuất chưa thể là xã hội chủ
nghĩa một cách triệt để, mà quan hệ sản xuất cũ vẫn còn vai trò lịch sử.
+ Cần nhận thức rằng: lực lượng sản xuất luôn có nhiều trình độ không
thuần nhất, nên không thể nào áp dụng một hình thức hay một kiểu quan hệ
sản xuất duy nhất.
Do vậy, cần phải có nhiều quan hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế
tức là phải có cơ cấu kinh tế nhiều thành phần để thích ứng với lực lượng sản
xuất.
– Sự đa dạng của các hình thức sở hữu:
Sở hữu là một phạm trù kinh tế biểu hiện mối quan hệ giữa các chủ thể
kinh tế trong việc định đoạt một tài sản vật phẩm nào đó.
Sở hữu có nhiều hình thức, phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất và được thể hiện trong các quan hệ sở hữu khác nhau. Sự đa dạng
của các hình thức sở hữu về quan hệ sở hữu cho thấy tính chất đa thành
phần của nền kinh tế.
Việc tồn tại nhiều thành phần trong nền kinh tế là tất yếu còn bởi vì đó
là phù hợp với sự phân công lao động xã hội, nhờ vậy mà thế mạnh cũng như
sự hợp tác của các thành phần kinh tế sẽ được phát huy, giúp giải phóng lực
lượng sản xuất, tạo nên sức mạnh kinh tế tổng hợp và thúc đẩy phát triển
kinh tế.
Điều này lại trùng hợp với bài học kinh nghiệm thành công của cách
mạng Việt Nam là phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các thành
phần và lực lượng.
– Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần góp phần đảm bảo hai điều kiện của
kinh tế thị trường và với sự mâu thuẫn và hài hòa về lợi ích kinh tế, sẽ tạo ra
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này lại đúng với nguyên lý phát
triển: đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc của phát triển.
3. Lợi ích của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:
– Nền kinh tế Việt Nam có những yếu kém, sản xuất và đời sống còn
nhiều khó khăn, nhưng lại có nhiều tiềm năng chưa được phát huy. Cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần sẽ góp phần giải quyết những mâu thuẫn, nghịch lý
đó của nền kinh tế, khắc phục tình trạng thất nghiệp, tăng thu nhập, tạo ra
ngày càng nhiều sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, góp phần ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân, tạo điều kiện phát huy mọi nguồn lực
kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
– Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện để các chủ thể lựa
chọn hình thức kinh tế thích hợp, thúc đẩy sự năng động, sáng tạo và mọi nỗ
lực làm giàu hợp pháp.
Câu 52: Phân tích các thành phần kinh tế và định hướng phát triển chúng ở nước ta.
1. Thành phần kinh tế nhà nước:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về tư
liệu sản xuất, bao gồm hệ thống các doanh nghiệp nhà nước ở các lĩnh vực
của nền kinh tế và hệ thống phi doanh nghiệp là các dạng sử dụng sở hữu
nhà nước như tài chính, ngân sách, quỹ đất đai, tài nguyên, các nguồn dự
trữ, cơ sở hạ tầng…
Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu đảm bảo thực hiện vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước. Thông qua đó và qua các công cụ khác, Nhà
nước sẽ giám sát, điều tiết các hoạt động kinh tế và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Thành phần kinh tế hợp tác:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất
(trừ ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước), bao gồm chủ yếu là các hợp tác xã ở
các lĩnh vực của nền kinh tế.
Kinh tế tập thể ra đời thông qua quá trình hợp tác hoá theo nguyên tắc
tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và phát triển từ thấp lên cao. Các xã viên tự
nguyện đóng góp cổ phần, tham gia lao động trực tiếp, phân phối theo cổ
phần và theo kết quả lao động.
Kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước hợp thành nền tảng của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
3. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất có thuê mướn nhân công và quy mô tương đối lớn.
Kinh tế tư bản tư nhân góp phần huy động những nguồn vốn nhàn rỗi,
tiềm tàng trong xã hội; có thể sử dụng một lượng lớn sức lao động, tạo công
ăn việc làm, góp phần khắc phục tình trạng thất nghiệp, làm gia tăng thu nhập
cho xã hội; tạo ra động lực kinh tế và môi trường cạnh tranh, mở rộng năng
lực quan hệ với các đối tác, tạo môi trường đầu tư và mở ra khả năng làm
giàu cho xã hội.
Mặt hạn chế của kinh tế tư bản tư nhân:
– Chạy theo lợi nhuận, nó có thể sử dụng mọi biện pháp và thủ đoạn
nhằm bóc lột người lao động, làm thiệt hại người tiêu dùng.
– Nó chứa đựng những nhân tố gây khủng hoảng kinh tế.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận cần thiết của nền
kinh tế quốc dân, bởi vì với khả năng về vốn liếng, kinh nghiệm quản lý, các
mối quan hệ… trở thành một mắt khâu không thể thiếu trong hệ thống phân
công lao động xã hội.
4. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân quy mô nhỏ về tư
liệu sản xuất và dựa trên lao động của bản thân cũng như gia đình của chủ
sở hữu, bao gồm các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ ở một số ngành, nghề trong
nền kinh tế.
Thành phần kinh tế này có quy mô nhỏ nhưng lực lượng đông đảo, có
tính linh hoạt thích nghi cao, có thể tận dụng lao động nhàn rỗi, vốn liếng dư
thừa trong dân cư, tạo ra việc làm và thu nhập, tạo ra hàng hóa dịch vụ thỏa
mãn nhu cầu xã hội.
Thành phần kinh tế này có kỹ thuật thủ công, lạc hậu, kinh doanh phân
tán, trình độ tổ chức và năng suất lao động thấp, khó ứng dụng khoa học kỹ
thuật, lại dễ bị rủi ro trước những biến động của thị trường. Nó thường chạy
theo lợi ích cục bộ, gây mất ổn định nền kinh tế, ô nhiễm môi trường.
5. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu vốn hỗn hợp, bao
gồm những hình thức liên kết, liên doanh giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa với
các nhà tư bản trong cũng như ngoài nước như các công ty cổ phần, công ty
liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn…
Đây là những hình thức vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chủ
nghĩa tư bản nhà nước là hệ thống chính sách, chủ trương nhằm duy trì chủ
nghĩa tư bản dưới sự quản lý, kiểm soát và hợp tác sản xuất kinh doanh của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, để khai thác mọi tiềm năng và phát triển lực
lượng sản xuất đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thành phần kinh tế này góp phần xã hội hóa sản xuất (huy động các
nguồn vốn, tranh thủ công nghệ hiện đại và thị trường), thực hiện đa dạng
hóa sở hữu, làm cho nền kinh tế trở nên phong phú và sống động, tạo ra
nhiều việc làm cho xã hội, tạo điều kiện nâng cao khả năng tổ chức, trình độ
quản lý và trình độ tay nghề của lực lượng lao động, tạo ra cơ sở vật chất cho
nền kinh tế, giúp đưa nhanh sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Tuy nhiên, nó có
thể làm suy yếu kinh tế nhà nước, có thể gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc
dân.
6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn bộ (100%) của phía
nước ngoài, bao gồm các doanh nghiệp đầu tư FDI, các dự án BOT, nguồn
vốn tín dụng ODA của các Chính phủ, vốn vay của WB, của IMF…
Nhà nước tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này hướng vào xuất
khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất gắn với thu hút công nghệ hiện đại.
Nhà nước cần khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế đan xen,
đa dạng hóa sở hữu; cần nâng cao năng lực quản lý và cải thiện môi trường
đầu tư, cần đảm bảo nguyên tắc cùng có lợi, kết hợp hài hòa giữa kinh tế
trong nước với kinh tế đối ngoại, phát huy sức mạnh tổng hợp của nội và
ngoại lực.
Câu 53: Phân tích vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và giải pháp tăng cường vai trò kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay.
1. Tính tất yếu:
Kinh tế nhà nước phải thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,
bởi vì vị trí của nó trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Nó góp phần chủ yếu giải quyết những mất cân đối hay khủng hoảng,
giúp ổn định nền kinh tế. Nó là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết
vĩ mô nền kinh tế.
– Nó có nhiệm vụ mở đường, định hướng và nêu gương cho các thành
phần kinh tế khác: chấp hành luật pháp, chăm lo đời sống người lao động,
bảo vệ môi trường, tạo việc làm và thu nhập cho xã hội.
– Đây là thành phần kinh tế nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, thực
hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước, là lực lượng vật chất quyết
định sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
2. Điều kiện:
Kinh tế nhà nước sẽ làm tròn vai trò chủ đạo của mình khi hội đủ các
điều kiện sau:
– Được Nhà nước đầu tư vốn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để nó hoạt
động một cách có hiệu quả.
– Nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân.
– Được trang bị công nghệ, kỹ thuật hiện đại.
– Có cơ chế quản lý không ngừng được cải tiến và hoàn thiện.
– Có đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia kỹ thuật và công nhân lành
nghề.
3. Các giải pháp:
– Cần đổi mới sự quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà
nước theo hướng phát huy tính độc lập, tự chủ, năng động, sáng tạo, đồng
thời phải chú ý tính hiệu quả.
– Cần đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, xóa
hình thức trung gian, kết hợp với lành mạnh hóa tài chính.
Chỉ duy trì các doanh nghiệp nhà nước ở những ngành, lĩnh vực quan
trọng hay ở các khâu quan trọng của từng ngành và tập trung đầu tư xây
dựng những ngành chiến lược đòi hỏi vốn lớn. Hình thành một số công ty lớn
đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
– Đẩy mạnh đổi mới công nghệ, kĩ thuật, đảm bảo đội ngũ cán bộ quản
lý kinh tế, cán bộ kĩ thuật và công nhân lành nghề.
Câu 54: Trình bày sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế. Phân tích các quan điểm và giải pháp đảm bảo sự thống nhất giữa các thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần mang tính khách quan và tồn tại lâu
dài. Các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
Theo Báo cáo Chính trị Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX: Đến
năm 2000, tỷ trọng trong GDP là kinh tế nhà nước vào khoảng 39%, kinh tế
tập thể 8,5%, kinh tế cá thể 32%, kinh tế tư bản tư nhân 3,3%, kinh tế tư bản
nhà nước 3,9%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 13,3%.
1. Sự thống nhất giữa các thành phần kinh tế:
a. Đó là sự thống nhất giữa các bộ phận trong một tổng thể. Các thành
phần kinh tế nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, cùng chịu sự
quản lý của Nhà nước, trong đó thành phần kinh tế nhà nước có vai trò chủ
đạo.
b. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà đan xen, phụ thuộc,
hợp tác và liên kết với nhau. Các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế vừa
hợp tác vừa cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng, tạo nên sức mạnh
chung cho nền kinh tế.
c. Hoạt động của các doanh nghiệp dù ở thành phần kinh tế nào cũng
góp phần tạo ra việc làm và thu nhập cho xã hội, cũng phải sử dụng các
nguồn lực kinh tế một cách có hiệu quả, tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng xã hội, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, đáp ứng lợi ích của
xã hội, phù hợp với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh – xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
2. Sự mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế:
a. Hình thức sở hữu và lợi ích kinh tế của các thành phần kinh tế
thường mâu thuẫn với nhau vì bản chất khác nhau.
b. Sự cạnh tranh cũng làm cho các thành phần kinh tế mâu thuẫn với
nhau. Cơ chế quản lý kinh tế mới vẫn đang trong quá trình cải tiến, hoàn thiện
nên sự thiếu đồng bộ trong chính sách kinh tế, dẫn đến sự bất bình đẳng và
mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước chưa thực sự phát huy được vai trò chủ đạo của
mình nên chưa đủ sức tạo ra sự thống nhất và hợp tác hài hòa giữa các
thành phần kinh tế.
c. Quan hệ giữa các doanh nghiệp trong cùng một thành phần kinh tế
cũng có mâu thuẫn với nhau.
3. Quan điểm và giải pháp đảm bảo sự thống nhất giữa các thành phần kinh tế:
a. Quan điểm:
Chính sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế đã tạo
ra động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế.
Vấn đề là không phải xóa bỏ một mặt mâu thuẫn nào, mà là phát huy
sự tác động qua lại theo hướng tích cực, phát huy tính thống nhất của chúng.
b. Giải pháp:
– Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, sử dụng
rộng rãi những hình thức kinh tế tư bản nhà nước, phát huy sức mạnh tổng
hợp của các thành phần kinh tế. Mọi hình thức kinh tế có lợi cho phát triển
đều được khuyến nhích.
Cần phát triển nhiều hình thức hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và bảo
đảm lợi ích hợp pháp của mỗi cá thể kinh tế.
– Cải tiến và hoàn thiện cơ chế kinh tế mới. Bảo đảm môi trường kinh
tế lành mạnh, bình đẳng, đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, xây dựng khuôn khổ pháp lý, chính sách
chung, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, cải cách hành chính để các
thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Tăng cường hệ thống kiểm soát vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ và
giảm thiểu sự can thiệp sâu vào công việc của các doanh nghiệp.
– Tiếp tục cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo cho
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Trong từng nhóm ngành, doanh nghiệp nhà nước phải đóng vai trò hạt
nhân để liên kết hợp tác với các thành phần kinh tế khác.
Đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, dân chủ hóa quản lý, tạo môi trường kích
thích sự hợp tác và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Câu 55: Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1. Khái niệm và thực chất của công nghiệp hóa:
a. Khái niệm:
Công nghiệp hóa là quá trình biến một nước có nền kinh tế kém phát
triển thành một nước công nghiệp, nhằm phát triển lực lượng sản xuất, mang
lại năng suất lao động cao cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
b. Thực chất:
Thực thất của công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển như Việt
Nam chính là tiến hành cách mạng công nghiệp và có tính đến những tác
động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại.
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, trên cơ sở ứng dụng
những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại, để rút ngắn và
nâng cao hiệu quả của công nghiệp hóa. Điều này đúng cho hầu hết các
nước đi sau, thông qua sử dụng tư bản nước ngoài, chuyển giao công nghệ ở
các nước tiên tiến; hướng về xuất khẩu, đi từ bề rộng sang bề sâu.
Với xu hướng toàn cầu hóa, với sự tác động của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật hiện đại, nước ta có nhiều khả năng rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, bằng cách khơi dậy những tiềm năng, thế mạnh,
phát huy các nhân tố chủ quan và khách quan; nắm lấy cơ hội, vượt qua
thách thức để hòa nhập vào kinh tế thế giới; đi nhanh, đi tắt, đi nhảy vọt một
cách chắc chắn.
2. Tính tất yếu khách quan:
a. Công nghiệp hoá, hiện đại hóa chính là nhằm thực hiện xã hội hóa
sản xuất về mặt lực lượng sản xuất, mà xã hội hóa là qui luật phát triển đi lên
của bất cứ nền sản xuất xã hội nào.
b. Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo điều kiện để thực hiện tái sản xuất
xã hội mở rộng theo chiều sâu, mà đây là xu hướng chung của bất cứ nền
kinh tế nào.
c. Sự phát triển của kinh tế thị trường cũng đòi hỏi phải đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, để có được năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh cao cho nền kinh tế.
d. Đối với một quốc gia đang phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là vấn đề mang tính quy luật giúp quốc gia đó thoát khỏi lạc hậu, thoát khỏi
vòng luẩn quẩn của nghèo khó và vươn lên phát triển.
e. Theo yêu cầu của quy luật “quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất”, để những quan hệ sản xuất mới được khẳng định
thì lực lượng sản xuất phải được phát triển trước một bước thông qua quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay từ Đại hội III, IV Đảng ta đã khẳng
định: “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước là nhiệm vụ
trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
3. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác dụng rất quan trọng và toàn diện.
a. Về mặt kinh tế: công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện để biến
đổi về chất đối với lực lượng sản xuất, mang lại năng suất lao động cao, tạo
ra sức sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
b. Về mặt xã hội: công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo điều kiện để tăng
cường giáo dục, y tế, văn hóa, làm biến đổi thực trạng xã hội, xóa sự cách
biệt giữa nông thôn và thành thị, giúp cải thiện và nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
c. Về mặt chính trị: công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất
để nâng cao vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, giúp giữ vững sự ổn định
chính trị, giữ vững quốc phòng – an ninh và góp phần đảm bảo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
d. Về quan hệ quốc tế: công nghiệp hóa, hiện đại hoá tạo điều kiện để
nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, tạo điều kiện vật chất cho
việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tham gia vào phân công lao động
và hợp tác quốc tế và tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
các quốc gia trên thế giới.
Câu 56: Phân tích mục tiêu và quan điểm cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
1. Mục tiêu:
Mục tiêu trước mắt của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là tạo
ra những điều kiện giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
củng cố quốc phòng – an ninh, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, tiến bộ, dân chủ và văn minh.
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là tạo
điều kiện để khắc phục mâu thuẫn giữa tiềm năng phong phú với thực trạng
nghèo nàn, lạc hậu; góp phần xây dựng, củng cố và hoàn thiện các quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, có hiệu
quả cao.
Mục tiêu dài hạn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật của nền kinh tế, dựa trên một nền khoa học và công nghệ
tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới, tạo điều kiện để tham gia vào phân
công lao động quốc tế và xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Nhiệm vụ chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa của chặng đường đầu
của thời kỳ quá độ đã hoàn thành về cơ bản. Nước Việt Nam đang chuyển
sang một thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phấn đấu đến khoảng năm 2020, Việt Nam cơ bản sẽ trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
2. Quan điểm cơ bản:
a. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được thực hiện trên cơ sở giữ
vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế đa phương hoá, đa
dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia vào phân công lao động và hợp
tác quốc tế.
Với quan điểm như vậy mới bảo đảm kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại và mới có thể khai thác những ưu thế về vốn, công nghệ,
thị trường… của thế giới và khu vực. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng rộng rãi
và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước càng thuận lợi và nhanh chóng bấy nhiêu.
b. Sự quản lý của Nhà nước ta, sự lãnh đạo của Đảng ta là tiền đề
quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời,
đây là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế, phù hợp với
nguyên lý: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện trong điều kiện nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế, phát huy sức mạnh kinh tế tổng hợp của đất nước.
c. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế cần coi
trọng và phát huy mọi nguồn lực, nhưng phải chú ý nguồn lực con người,
thông qua việc phát triển văn hóa giáo dục và cải thiện đời sống người dân.
Con người có trình độ chuyên môn và học vấn cao mới có thể áp dụng
công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
d. Khoa học – công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, làm gia tăng sức sản xuất xã hội một cách nhanh chóng, mang lại khả
năng phát triển kinh tế nhảy vọt, nhất là trước những thành tựu của cách
mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại và xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
Cần xây dựng nội lực về khoa học – công nghệ để đủ sức làm chủ,
thích nghi với công nghệ chuyển giao từ bên ngoài; từ đó thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Cần kết hợp công nghệ truyền thống với công
nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định, chú ý
công nghệ vừa, cảnh giác với công nghệ lạc hậu. Quan điểm này cho phép
kết hợp giữa phát triển tuần tự với nhảy vọt, phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước.
e. Hiệu quả kinh tế – xã hội là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quan điểm này đòi hỏi khi xác định các chiến lược, lựa chọn dự án đầu
tư phát triển, phân phối các nguồn lực… phải lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm
tiêu chuẩn cơ bản để xem xét.
f. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay được thực
hiện theo cơ chế thị trường. Kinh tế thị trường với các quy luật kinh tế của nó
có vai trò quan trọng trong việc phân bố các nguồn lực kinh tế, kích thích tính
năng động trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
g. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta có bản chất xã hội khác với
quá trình công nghiệp hóa đã từng diễn ra ở các nước khác; nó phải đáp ứng
được yêu cầu của việc tăng cường địa vị chủ đạo của kinh tế nhà nước và
xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, về mặt
phương pháp, bước đi, các giải pháp… chúng ta có thể tham khảo và vận
dụng sáng tạo những kinh nghiệm thành công của các nước tư bản chủ
nghĩa.
Câu 57: Phân tích nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
1. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất bằng việc cơ khí hóa nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu cách mạng khoa học – kỹ thuật.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết chính là thực hiện cơ khí hóa,
bởi vì đó là quá trình chuyển đổi lao động thủ công thành lao động sử dụng
công cụ hiện đại để đạt năng suất lao động xã hội cao.
Để thực hiện nội dung này, một mặt cần phải trang bị cơ sở vật chất –
kỹ thuật cần thiết, mặt khác cần phải nâng cao trình độ văn hóa và kỹ thuật
cho lực lượng lao động.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật của một nền kinh tế là toàn bộ hệ thống các
yếu tố vật chất, trước hết là các tư liệu sản xuất chủ yếu, đảm bảo cho nền
kinh tế có thể đứng vững và không ngừng phát triển. Một phần cơ sở vật chất
– kỹ thuật thuộc các doanh nghiệp, một phần được sử dụng chung là cơ sở
hạ tầng vật chất của nền kinh tế.
Xuất phát từ lý luận tái sản xuất của Karl Marx – ưu tiên phát triển sản
xuất tư liệu sản xuất, Lênin cho rằng: “Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí, mang lại năng suất lao động cao, có khả
năng cải tạo cả nông nghiệp, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Trình độ của cơ sở vật chất – kỹ thuật cho thấy trình độ của lực lượng
sản xuất, tương ứng với phương thức sản xuất xã hội. Xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật là nhằm thực hiện xã hội hóa lực lượng sản xuất về mặt kinh
tế – kỹ thuật. Mục tiêu là trang bị kỹ thuật, công nghệ mới tiên tiến, đổi mới
thiết bị cho các ngành kinh tế bằng cách đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học
– kỹ thuật hiện đại.
Nền kinh tế đổi mới đã mở ra những khả năng thực tế là nhờ trao đổi,
hợp tác với thế giới và với sự tham gia của các thành phần kinh tế, chúng ta
sẽ sớm có được cơ sở vật chất – kỹ thuật.
2. Thực hiện phân công lại lao động xã hội, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại.
– Thực hiện phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động là sự chuyên môn hoá lao động. Phân công lao
động xã hội không chỉ là sự chuyên môn hóa lao động xã hội mà còn là sự
chuyên môn hoá sản xuất giữa các ngành, các vùng và giữa các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, đưa đến kết quả là hình thành cơ cấu kinh
tế.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận
hợp thành nền kinh tế, biểu hiện ở tỷ trọng, xu hướng và nhịp độ phát triển
của chúng trong nền kinh tế.
Trước những biến đổi về các nguồn lực kinh tế, cơ cấu kinh tế thường
trở nên lạc hậu, bất hợp lý nên khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cần phải phân công lại lao động xã hội, để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phù hợp
với lực lượng sản xuất đã được đổi mới, đáp ứng mục tiêu kinh tế – xã hội
của giai đoạn lịch sử mới. Cơ cấu kinh tế trước đây lại dựa trên cơ chế kế
hoạch hóa tập trung với những biểu hiện chủ quan duy ý chí.
Ở đây, cơ cấu kinh tế được xét về mặt lực lượng sản xuất, bao gồm
các loại cụ thể là cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu sử
dụng các nguồn lực.
Cơ cấu kinh tế ngành có vị trí quan trọng nhất, bởi vì mục tiêu của công
nghiệp hoá, hiện đại hóa là hình thành nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu
kinh tế công – nông nghiệp – dịch vụ hợp lý.
– Tăng tỷ trọng công nghiệp:
Cần tập trung vào những ngành công nghiệp mũi nhọn, có vai trò then
chốt đối với nền kinh tế quốc dân: năng lượng, khai khoáng, vật liệu xây
dựng. Chú ý các ngành công nghiệp sạch có hàm lượng khoa học kỹ thuật và
giá trị gia tăng cao. Cần phát triển các ngành công nghiệp liên quan đến đầu
vào và đầu ra của nông nghiệp: cơ khí chế tạo, hóa chất, phân bón, chế biến
thực phẩm. Chú trọng công nghiệp hàng tiêu dùng: nhựa, dệt may… sử dụng
nhiều lao động, vừa thay thế nhập khẩu, vừa hướng về xuất khẩu với quy mô
vừa và nhỏ.
– Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp.
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên phải chú ý đến nông nghiệp:
Phát triển nông nghiệp để đảm bảo lương thực cho số dân đông đúc, cung
ứng nguyên liệu, nông sản xuất khẩu, đảm bảo phát triển kinh tế bền vững,
nhưng lại làm chậm tốc độ phát triển kinh tế chung. Do đó, cần phải tiến hành
công nghiệp hóa nông nghiệp.
– Tăng tỷ trọng của ngành thương mại – dịch vụ.
Muốn hiện đại hóa nền kinh tế thì cần phải tăng tỷ trọng của ngành
thương mại – dịch vụ là ngành chiếm tỷ lệ 60% trong cơ cấu kinh tế ở các
quốc gia phát triển. Hơn nữa, phát triển kinh tế nói chung, phát triển công
nghiệp nói riêng luôn đi đôi với việc phát triển ngành dịch vụ.
+ Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ.
Trước đây, cơ cấu kinh tế vùng dàn trải làm phân tán lực lượng sản
xuất, nhưng lại tập trung xây dựng kinh tế huyện khép kín làm chia cắt nền
kinh tế, cản trở sự hình thành thị trường thống nhất, sự phát triển các vùng
tiềm năng.
+ Cơ cấu sử dụng các nguồn lực.
Các nguồn lực kinh tế gồm có nhân lực, vật lực và tài lực, trong đó hai
loại quan trọng và quí giá là lao động và đất đai. Cơ cấu các nguồn lực kinh tế
sẽ được điều chỉnh theo sự chuyển đổi của cơ cấu ngành và cơ cấu vùng.
Hai loại cơ cấu này không tách biệt mà gắn với nhau, lồng vào nhau khi thực
hiện công tác quy hoạch sử dụng các nguồn lực.
Cơ cấu lao động xã hội được điều chỉnh theo các yêu như sau:
– Tỷ trọng lao động công nghiệp tăng hơn so với lao động nông nghiệp.
– Tỷ trọng lao động trí tuệ, lao động khoa học – công nghệ, lao động
lành nghề ngày càng tăng hơn so với lao động giản đơn.
– Lao động trong các ngành dịch vụ tăng nhanh hơn lao động trong
ngành sản xuất vật chất.
Vấn đề đặt ra lớn nhất trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực là
làm cho cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động luôn phù hợp với nhau trong từng
bước phát triển và cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao
hàm lượng chất xám trong sản phẩm, làm gia tăng sức cạnh tranh của nền
kinh tế.
Để bảo đảm mục tiêu an toàn lương thực, năng suất lao động trong
nông nghiệp phải tăng để bù lại số diện tích đất nông nghiệp giảm đi.
Cơ cấu kinh tế được xác định phải hợp lý và phải đáp ứng được các
yêu cầu:
– Phản ánh đúng các quy luật kinh tế khách quan.
– Phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế, cho phép khai thác có hiệu
quả mọi tiềm năng của đất nước.
– Góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, đảm bảo tính hợp lý của
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
– Đảm bảo quá trình tái sản xuất diễn ra nhịp nhàng, kết hợp kinh tế
trong nước với kinh tế đối ngoại, tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Câu 58: Phân tích những điều kiện và nêu lên các giải pháp cần thiết của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1. Điều kiện:
a. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả:
Vốn là tất cả những khả năng có thể được sử dụng, được đưa vào quá
trình sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi.
Vốn ở đây được hiểu là vốn của xã hội, bao gồm vốn tài nguyên, vốn
nhân lực, vốn vị trí địa lý… trong đó có cả vốn của các nhà đầu tư, của dân
cư. Nhà nước với tư cách là chủ thể đại diện cho lợi ích của xã hội phải có
chính sách để sử dụng, phát huy chúng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế quốc dân.
Xét về tình trạng sử dụng thì vốn có thể phân loại thành vốn sử dụng và
vốn tiềm tàng. Xét về điều kiện gia tăng thì vốn có thể phân loại thành vốn
đầu tư và vốn tích lũy. Xét về đặc điểm thể hiện thì có vốn hữu hình và vốn vô
hình. Xét về tính chất lưu chuyển thì có vốn cố định và vốn lưu động.
Ở đây, chúng ta cần nhấn mạnh vốn đầu tư với vốn tích lũy. Vốn đầu tư
trong và ngoài nước gia tăng là điều kiện để gia tăng vốn tích lũy. Công
nghiệp hóa chính là thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, do vậy
cần phải có vốn đầu tư, vốn tích lũy.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải tận dụng mọi khả năng để
thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn trong nước cũng như ngoài
nước. Tuy nhiên, không thể kỳ vọng quá lớn vào nguồn vốn bên ngoài, mà
phải phát huy nội lực, tận lực khai thác nguồn vốn sẵn có bên trong. Đảng ta
đã khẳng định tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa 7: “Nguồn vốn trong nước là
quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng”.
b. Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ.
Kỹ thuật là cách thức sử dụng các loại tư liệu lao động. Công nghệ là
cách thức sử dụng các loại tư liệu lao động để tác động vào các đối tượng lao
động cụ thể.
Kỹ thuật và công nghệ đều là kết quả của khoa học, của lực lượng sản
xuất, nhưng công nghệ thì hoàn chỉnh và được tích hợp từ nhiều kỹ thuật
khác nhau.
Công nghệ mang lại năng suất tăng, chất lượng cao, giá thành hạ,
mang lại sức cạnh tranh… là khâu đột phá để đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nước ta tiến hành công nghiệp hoá từ một nền kinh tế kém phát
triển thì càng cần phải xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ.
Những phương hướng: nghiên cứu, ứng dụng; chuyển giao; hợp tác
liên doanh.
Cần kết hợp nhiều trình độ công nghệ, nhiều quy mô để tận dụng được
năng lực tiềm tàng hiện có, đồng thời rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Cần
tranh thủ công nghệ tiên tiến, chú ý công nghệ vừa, cảnh giác với công nghệ
cũ phá hoại môi trường.
c. Đào tạo lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề.
Lênin: “Để đưa sản xuất công nghiệp, nông nghiệp lên độ cao mà chỉ
có phương tiện cơ khí và hóa học thì chưa đủ mà còn phải trang bị năng lực
cho con người sử dụng phương tiện đó nữa”. (Lênin toàn tập, Tập 36, trang
245).
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra những yêu cầu mới về số lượng,
cơ cấu và chất lượng cao của nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt lưu ý đến
nguồn nhân lực trẻ. Phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực quan trọng nhất của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; mục tiêu đó có vị trí quan trọng trong chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế – xã hội của nước ta đến năm 2010.
Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa
phải bao gồm những con người vừa có đức, vừa có tài; được chuẩn bị tốt về
kiến thức văn hóa, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng
lực sản xuất kinh doanh, có trình độ khoa học – kỹ thuật ngang tầm thế giới…
phấn đấu đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến thành công.
Giáo dục đào tạo phải cung cấp những nhà quản lý sản xuất giỏi,
những cán bộ khoa học kỹ thuật và đội ngũ công nhân lành nghề cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
d. Làm tốt công tác đều tra cơ bản, quy hoạch, đánh giá tài nguyên, dự báo phát triển.
Điều tra cơ bản để xác định rõ tiềm năng và điều kiện phát triển kinh tế.
Để tiến hành công nghiệp hóa thì cần phải nắm chắc các nguồn lực để có thể
sử dụng chúng một cách có hiệu quả và hợp lý.
Trước đây, công tác điều tra cơ bản đã được thực hiện bước đầu do
tiến hành soạn thảo các kế hoạch năm năm. Khi chuyển sang kinh tế thị
trường, sự thay đổi về nguồn lực diễn ra nhanh chóng, đầu tư nước ngoài đổ
vào ngày càng nhiều thì đòi hỏi phải điều tra lại. Chiến lược công nghiệp hóa,
hiện đại hóa sẽ được bổ sung và hoàn thiện dựa trên những phát hiện mới và
những biến đổi về nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài.
Quy hoạch là sự định hướng bắt buộc của Nhà nước nhằm xác định
mục tiêu, phương hướng phát triển và các giải pháp thực hiện như quy hoạch
đô thị, quy hoạch các ngành kinh tế, các vùng kinh tế… rất cần thiết cho công
nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Kinh tế thị trường bền vững cũng đòi hỏi phải quy hoạch tốt. Quy hoạch
phát triển phải coi trọng yếu tố thị trường, tác động của khu vực và quốc tế;
phát huy tối đa nguồn nội lực khai thác có hiệu quả nguồn ngoại lực.
2. Những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
a. Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, huy động mọi nguồn lực.
Phải đặt công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp chung của toàn xã
hội, của toàn dân, của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước là
chủ đạo.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta được tiến
hành trong điều kiện nhiều khó khăn: thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, công nghệ và
kinh nghiệm quản lý. Bước khởi đầu của công nghiệp hóa là phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng, muốn vậy phải huy động sức dân.
b. Ổn định chính trị, kinh tế, hoàn thiện bộ máy nhà nước, chống tham nhũng, chống lãng phí, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
c. Đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế đối ngoại.
Kinh tế thị trường là động lực mạnh mẽ đối với công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Xây dựng một nền kinh tế mở, dựa vào nguồn lực trong nước là chính
đi đôi với việc tranh thủ nguồn lực bên ngoài; thúc đẩy quá trình hội nhập với
khu vực và thế giới, phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta.
d. Tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo, ứng dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật – công nghệ, phân bố dân cư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư.
Cần tập trung đổi mới công nghệ ở những ngành sản xuất chủ yếu,
trước hết là các ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu, một số ngành công
nghiệp mũi nhọn như công nghiệp công nghệ thông tin – viễn thông, cơ khí
chế tạo, dầu khí, công nghệ sinh học và vật liệu mới.
Cần xây dựng nội lực về khoa học – công nghệ, tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật cho các ngành khoa học công nghệ, chú trọng đào tạo lớp
chuyên gia đầu đàn.
Câu 59: Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là gì? Vì sao sự tồn tại của kinh tế hàng hoá trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu khách quan và có lợi?
1. Khái niệm:
Kinh tế hàng hoá là mô hình kinh tế dựa trên quan hệ sản xuất và trao
đổi hàng hóa.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, là
giai đoạn mà thị trường có vai trò quan trọng và phát triển đa dạng, là mô hình
kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua thị trường.
2. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hóa ở Việt Nam:
Kinh tế hàng hoá còn tồn tại khách quan trong nền kinh tế định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bởi vì:
a. Do sự tồn tại rõ rệt của hai điều kiện của nó:
Phân công lao động xã hội được phát triển cả bề sâu lẫn bề rộng, do
nhu cầu xã hội đa dạng hóa và do khả năng khác nhau của các chủ thể kinh
tế. Sự chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất kinh doanh đã vượt khỏi
phạm vi quốc gia, do xu hướng phân công lao động quốc tế.
– Hiện nay trong nền kinh tế nước ta, mặc dù chế độ công hữu đã thay
thế cho chế độ tư hữu, nhưng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất lại là
đa dạng, đã tạo nên sự biệt lập nhất định và thúc đẩy sự liên kết những người
sản xuất với nhau.
Trong cùng hình thức sở hữu nhà nước, vẫn có sự độc lập nhất định
giữa các đơn vị kinh tế, đòi hỏi phải thiết lập quan hệ với nhau trên cơ sở thị
trường.
b. Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế xã hội hóa cao, nó phá vỡ tình
trạng lạc hậu về kinh tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác, liên kết và cạnh tranh;
thúc đẩy tích lũy, tích tụ và tập trung sản xuất đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn.
c. Kinh tế hàng hóa tạo động lực phát triển kinh tế, làm cho lực lượng
sản xuất phát triển vượt bậc, bởi vì với các quy luật kinh tế của nó sẽ góp
phần điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
2. Lợi ích của kinh tế hàng hóa:
a. Kinh tế thị trường làm cho sản xuất và tiêu dùng gắn bó với nhau,
làm giảm nguy cơ khủng hoảng sản xuất thừa; giúp đáp ứng một cách đầy
đủ, hợp lý, kịp thời những nhu cầu đa dạng của xã hội; chất lượng sản phẩm
được nâng cao, mẫu mã không ngừng được đổi mới.
b. Kinh tế thị trường tạo cơ sở cho việc phát triển các hoạt động kinh tế
một cách tự do, bình đẳng, từ đó sẽ thúc đẩy sự năng động, sáng tạo, loại bỏ
những bất hợp lý hay yếu kém, phá vỡ tính bảo thủ, trì trệ, hình thành bản
lĩnh cho các chủ thể kinh tế.
c. Việt Nam là một nước nghèo, nhiều khó khăn nhưng lại còn nhiều
tiềm năng chưa được phát huy. Phát triển kinh tế thị trường là con đường tất
yếu để giải quyết mâu thuẫn, nghịch lý đó của nền kinh tế: mọi tiềm năng kinh
tế sẽ được khơi dậy, việc phân phối các nguồn lực hợp lý hơn.
d. Kinh tế thị trường cũng có mặt tiêu cực như gây phân hóa giàu
nghèo, tạo ra bất công xã hội; tạo ra tình trạng chèn ép, thủ đoạn, gian dối lừa
đảo; gây kinh tế ngầm hay cạnh tranh trùng lắp, phá sản gây lãng phí khủng
hoảng; tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, gây ô nhiễm môi trường; phá hoại nền
tảng đạo đức xã hội, làm tha hóa con người. Tuy nhiên, mặt tích cực vẫn trội
hơn và trong một số mặt tiêu cực lại có biểu hiện tích cực.
Câu 60: Phân tích các đặc điểm của kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay.
1. Nền kinh tế hàng hoá nước ta có trình độ xã hội hóa cũng như tính cạnh tranh chưa cao.
Đặc điểm này biểu hiện ở các mặt:
– Con người thiếu năng động, trình độ tay nghề, trình độ kỹ thuật, quản
lý còn yếu kém.
– Nguồn vốn thiếu thốn, cơ sở hạ tầng vật chất và cơ sở hạ tầng xã hội
còn thấp kém. Công nghệ thiết bị lạc hậu nên chất lượng sản phẩm thấp, giá
thành cao, sức cạnh tranh kinh tế kém.
– Thu nhập còn thấp nên sức mua xã hội không cao, do vậy sản xuất
và đời sống khó phát triển, nhu cầu tiêu dùng chưa được thỏa mãn đầy đủ.
– Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ và chưa đồng bộ.
2. Nền kinh tế hàng hóa Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần, với vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
Kinh tế hàng hóa và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần thống nhất với
nhau, bởi vì chúng có cùng cơ sở là 2 điều kiện của kinh tế hàng hóa. Hai
điều kiện này là cơ sở đảm bảo cho sự tồn tại lâu dài của cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta.
Tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế chính là cơ sở thúc đẩy
kinh tế hàng hóa phát triển. Thực trạng kinh tế hàng hóa kém phát triển ở
nước ta do nhiều nguyên nhân gây ra, song nguyên nhân gây hậu quả nặng
nề nhất là sự vội vàng xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
thực chất là xóa bỏ điều kiện tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá, xóa bỏ
động lực quan trọng cho phát triển kinh tế.
Các thành phần kinh tế vừa hợp tác, bổ sung vừa cạnh tranh với nhau
là một đặc điểm không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Theo Văn kiện Đại hội VIII: Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần ở nước ta, thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một thể thống
nhất với nhiều lực lượng khác nhau tham gia sản xuất và lưu thông, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước với vai trò chủ
đạo của nó, nắm giữ các ngành, các lĩnh vực then chốt nên trở thành nhân tố
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế.
3. Kinh tế hàng hóa nước ta có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm này cho thấy sự tương đồng và khác biệt về kinh tế hàng hóa
giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Sự tương đồng là Việt Nam
cũng thực hiện một nền kinh tế hỗn hợp, phát huy đồng thời bàn tay vô hình
và bàn tay hữu hình. Còn sự khác biệt là ở bản chất của Nhà nước ta, thể
hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, sự khác nhau nữa là về
trình độ quản lý, về nghệ thuật điều tiết thị trường.
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn mới,
chưa có tiền lệ. Chính định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần đảm bảo sự
phát triển ổn định, bền vững.
Để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa thì:
– Chế độ công hữu phải giữ địa vị thống trị, được khẳng định về mặt
kinh tế: sở hữu nhà nước phải được vững mạnh, không ngừng củng cố và
phát triển.
– Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế…
duy trì sự ổn định, hạn chế tính tự phát gây thiệt hại của kinh tế thị trường
thông qua việc sử dụng hệ thống luật pháp, hệ thống chính sách kinh tế – xã
hội, hệ thống các công cụ kinh tế. Nhà nước phải trong sạch, vững mạnh với
đội ngũ cán bộ nhà nước có đủ trình độ ngang tầm nhiệm vụ.
– Doanh nghiệp nhà nước phải góp phần làm tốt vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước.
4. Nền kinh tế hàng hoá Việt Nam phát triển theo hướng quốc tế hóa.
Đặc điểm này được nêu lên là do tính lịch sử đặc thù của nền kinh tế
nước ta: đó là trước đây chúng ta quan hệ với thế giới trong phạm vi hẹp, nay
thì mở rộng. Đặc điểm này còn bắt nguồn từ qui luật phân công lao động và
hợp tác quốc tế.
Mở cửa nền kinh tế là phù hợp với quy luật xã hội hóa sản xuất, quốc tế
hóa sản xuất. Mở cửa với bên ngoài mới có thể so sánh với trình độ của thế
giới, phát huy được lợi thế tiềm năng của đất nước và kết hợp nguồn lực bên
trong với nguồn lực bên ngoài.
Câu 61: Phân tích các điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta.
1. Nhà nước cần đảm bảo sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội:
Ổn định là điều kiện để phát triển. Phát triển quá nóng sẽ gây ra hậu
quả, phát triển phải bền vững, đổi mới phải từng bước.
– Ổn định về chính trị là ổn định về chủ trương chính sách, pháp luật
nhất quán, bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện.
– Ổn định về kinh tế là ổn định về tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả ít
biến động, ngăn chặn được lạm phát, duy trì sự cạnh tranh lành mạnh.
– Ổn định xã hội là việc đảm bảo an ninh trật tự, xóa kinh tế ngầm,
giảm thiểu mâu thuẫn xã hội, hạn chế thất nghiệp, đảm bảo đời sống người
dân, tạo ra môi trường xã hội thuận lợi, tạo niềm tin của nhân dân.
2. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất và cơ sở hạ tầng xã hội:
– Cơ sở hạ tầng vật chất là hệ thống cầu đường, bến cảng, sân bay,
điện nước, thông tin bưu điện, chợ, siêu thị… được xem là phần cứng của
nền kinh tế.
– Cơ sở hạ tầng xã hội: là hệ thống giáo dục, y tế, cảnh quan môi
trường, hệ thống bảo hiểm… là phần tâm của nền kinh tế.
Nơi nào mà cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội được đầu tư xây dựng, thì
nơi đó kinh tế thị trường phát triển, đời sống người dân được cải thiện đáng
kể.
3. Có hệ thống luật pháp, hệ thống chính sách hoàn thiện và phải nâng cao năng lực quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
Luật đảm bảo quyền lợi và sẽ xử lý những hành vi trái luật của các chủ
thể kinh tế. Với hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ và hoàn thiện, sẽ giảm
thiểu những vụ phạm pháp và tranh chấp, tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư.
Nhà nước phải vận dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô một cách
đầy đủ và đúng đắn; bộ máy thực hiện có hiệu lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, có đủ trình độ ngang tầm nhiệm vụ, để có thể chống
làm ăn phi pháp, chống quan liêu, tham nhũng.
4. Cần khuyến khích những tâm lý tập quán có lợi cho kinh tế hàng hóa:
– Ham làm giàu một cách chính đáng:
Tâm lý ham làm giàu không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội, bởi vì dân
giàu thì nước mạnh. Làm giàu là ước muốn cần khuyến khích nhưng không
được bất chính, không bóc lột, không phạm pháp.
- Tập quán “Sống và làm việc theo pháp luật”.
– Tập quán giữ uy tín trong kinh doanh.
5. Cần có các nhà quản lý và kinh doanh giỏi, thích nghi với kinh tế thị trường.
Nền kinh tế hàng hoá dưới tác động của quy luật giá trị sẽ phân hoá
những người sản xuất hàng hoá thành hai nhóm người: người kinh doanh giỏi
sẽ tồn tại và phát triển, người kinh doanh kém bị phá sản và bị loại khỏi thị
trường. Muốn phát triển kinh tế hàng hoá. Nhà nước phải có chính sách và
chương trình kinh tế – xã hội rộng lớn nhằm đào tạo và phát triển đội ngũ các
chuyên gia kinh tế, kỹ thuật, quản lý…
Cần có đội ngũ công chức hành chính không vụ lợi, tận tâm phục vụ
cho công cuộc phát triển kinh tế.
Câu 62: Phân tích những giải pháp mấu chốt để phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta.
1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, đa dạng
hóa sở hữu, khuyến khích đầu tư trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài, phát
huy các nguồn lực, lợi thế và tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền
sở hữu và thu nhập hợp pháp, không bị phân biệt đối xử hay áp đặt. Bảo đảm
môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng và bình đẳng cho tất cả các
thành phần kinh tế.
Củng cố, sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước để có thể làm tốt vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần: chỉ nắm những ngành,
mặt hàng trọng yếu; đảm bảo sự tự chủ về mọi mặt để kinh doanh có hiệu
quả.
Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho sự phát triển kinh tế hàng
hóa. Sử dụng rộng rãi các hình thức của kinh tế tư bản nhà nước, nhằm tạo
ra sức mạnh hỗn hợp giữa tư bản trong và ngoài nước với Nhà nước.
2. Đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ.
Mở rộng phân công và hợp tác theo hướng chuyên môn hóa kết hợp
với đa dạng hóa sản xuất kinh doanh. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế
ngành, vùng hợp lý; phát triển ngành phi sản xuất vật chất, coi trọng lao động
trí tuệ.
3. Hoàn thiện cơ chế kinh tế mới, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.
Nhà nước cần sử dụng có hiệu lực các công cụ đòn bẩy và công cụ
điều tiết: giá cả, thuế, lãi suất, tỷ giá, bù giá, hạn ngạch, sử dụng quỹ dự trữ
quốc gia, quỹ dự phòng rủi ro.
4. Thực hiện chính sách xã hội một cách hợp lý, đảm bảo sự thống
nhất giữa kinh tế và xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Kết hợp các chính sách hay chương trình kinh tế – xã hội để có tác
dụng tổng hợp: chính sách đất đai, nhà ở, cơ sở hạ tầng cho nông thôn; chính
sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo nghề, tạo việc làm; chương trình nước
sạch, chăm sóc sức khỏe, hạn chế tỷ lệ tăng dân số, chính sách trợ giúp giá
cả: bảo hiểm giá nông sản cho nông dân, cải cách tiền lương…
5. Cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính cần thiết cho quản lý kinh tế – xã hội, nhưng phải
tạo thuận lợi cho sản xuất và đời sống, tạo điều kiện cho kinh tế hàng hóa
phát triển.
Ba bộ phận hợp thành của nền hành chính nhà nước: thể chế, bộ máy
và công chức.
– Thể chế hành chính: thủ tục hành chính muốn được cải cách lại bị
cản trở bởi hệ thống luật chậm đổi mới.
– Tinh gọn bộ máy hành chính, sắp xếp lại biên chế tổ chức nhằm nâng
cao hiệu lực và hiệu quả. Tăng cường cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ
thông tin; cải cách tiền lương và các chế độ đãi ngộ.
– Nâng cao trình độ, thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ công chức nhà
nước: trình độ văn hóa sẽ loại bỏ chủ nghĩa quan liêu.
Câu 63: Trình bày khái niệm và đặc điểm của cơ chế kinh tế. Làm rõ sự cần thiết khách quan của vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1. Khái niệm và đặc điểm của cơ chế kinh tế.
a. Khái niệm:
Cơ chế kinh tế là tổng thể hữu cơ những phương thức vận hành nền
kinh tế trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan,
nhằm đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế.
Ở nước ta, cơ chế kinh tế cũ là cơ chế kế hoạch hóa tập trung và cơ
chế kinh tế hiện nay là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ta đã biết rằng, cơ chế thị trường là tổng thể
những phương thức vận hành nền kinh tế thông qua khả năng tự điều tiết của
nó, tức là thông qua tác dụng của các quy luật kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường giúp cho nền kinh tế thị trường có thể tự điều chỉnh,
nhưng bên cạnh các ưu điểm, nó cũng có những khuyết tật nhất định.
b. Đặc điểm của cơ chế kinh tế:
– Cơ chế kinh tế là sản phẩm chủ quan của con người mà trước hết là
của các chủ thể quản lý.
Qui luật kinh tế tồn tại khách quan mặc dù phải thông qua hoạt động
của con người, nhưng cơ chế kinh tế là sản phẩm của sự nhận thức và vận
dụng các qui luật kinh tế của con người.
– Cơ chế kinh tế luôn thể hiện sự kết hợp giữa việc phát huy tác dụng
của các quy luật kinh tế với vai trò điều tiết, quản lý kinh tế của Nhà nước, tức
là kết hợp giữa bàn tay vô hình với bàn tay hữu hình. Như vậy, thuật ngữ “cơ
chế quản lý kinh tế” có ý nghĩa hẹp hơn cơ chế kinh tế.
Trong cơ chế cũ, bàn tay vô hình được nhận thức chưa đúng, còn bàn
tay hữu hình lại thể hiện chưa hợp lý. Trong cơ chế kinh tế mới, hai bàn tay
được kết hợp một cách nhịp nhàng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào khi sử dụng
bàn tay hữu hình phải phát huy tác dụng của bàn tay vô hình.
2. Sự cần thiết khách quan phải có vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
a. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể đại diện cho chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất nên phải đảm bảo cho chế độ sở hữu ấy được khẳng định
về mặt kinh tế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế (tổ chức, xây dựng, quản
lý, điều tiết nền kinh tế…) trước hết là bắt nguồn từ chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất.
b. Nền kinh tế thị trường, nền sản xuất xã hội hóa đòi hỏi Nhà nước
phải có vai trò kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh
tế.
– Sự năng động quá mức cần thiết của các chủ thể có thể gây ra
những mất cân đối hay rối loạn, đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng kế hoạch
định hướng, điều tiết các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế, để duy trì sự
ổn định và mang lại hiệu quả cho nền kinh tế.
Sự hợp tác và cạnh tranh của các chủ thể trong nền kinh tế cần được
quy định và bảo vệ bằng những quy tắc pháp lý do Nhà nước đề ra.
– Sự mất ổn định của thị trường (phá sản, khủng hoảng), tình trạng lạm
phát hay suy thoái của nền kinh tế tự nó không thể khắc phục được, đòi hỏi
Nhà nước phải can thiệp để tái lập sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế.
c. Vì lợi ích xã hội, Nhà nước phải khắc phục những mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường, quan tâm đến việc bảo vệ môi trường và đảm bảo công
bằng xã hội.
Công bằng xã hội được đảm bảo qua việc phân phối lại thu nhập, qua
chi tiêu hay cung cấp hàng hóa công cộng của Chính phủ…
Nhà nước có những chính sách, quy định, quy hoạch, biện pháp chế
tài, dữ liệu… để ngăn ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường.
Câu 64: Phân tích các chức năng và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước:
a. Chức năng định hướng:
Nhà nước quyết định chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã
hội; chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy các nguồn lực kinh
tế, và cụ thể hóa các chiến lược bằng các chính sách, kế hoạch, mục tiêu,
quy hoạch, chương trình, đề án… mang tính chất định hướng. Nhà nước cần
chuyển từ chức năng “chèo thuyền” sang chức năng “lái thuyền”.
Tuy nhiên cần chú ý rằng người tiêu dùng, nhu cầu tiêu dùng của xã hội
cũng định hướng cho sản xuất. Nhà nước từ tầm vĩ mô phải nhận định nhu
cầu xã hội mà có kế hoạch định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với nước ta, Nhà nước còn phải đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa cho nền kinh tế, đảm bảo thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
b. Chức năng điều chỉnh, điều tiết kinh tế:
Nhà nước phải thay thế thị trường khi nó không thể tự giải quyết những
mất cân đối và phải điều chỉnh tốc độ tăng trưởng để đảm bảo sự phát triển
ổn định.
Nhà nước phân bổ các nguồn lực, phân phối và phân phối lại thu nhập
xã hội qua hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế như là chính sách giá,
thuế, tiền lương, đầu tư, cổ phần hóa… Nhà nước điều tiết cung – cầu hàng
hóa thông qua việc sử dụng các công cụ bù giá, trợ giá, sử dụng lực lượng
dự trữ kết hợp với thị trường tự điều tiết.
Đồng thời với hệ thống chính sách, hệ thống pháp luật cũng là một
công cụ điều chỉnh quan trọng, tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho các
hoạt động kinh tế.
c. Chức năng kích thích kinh tế:
Nhà nước thu thuế thấp, ưu đãi đầu tư ở một số ngành hay mặt hàng
sẽ kích thích đầu tư. Nhà nước đầu tư thành lập vài doanh nghiệp cùng
ngành nghề sẽ kích thích sự cạnh tranh, hạn chế tình trạng độc quyền. Nhà
nước gia tăng chi tiêu, đặt hàng các doanh nghiệp sẽ có tác dụng kích thích
sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển.
d. Chức năng phối hợp và hướng dẫn ứng xử:
Nhà nước thực hiện việc hướng dẫn ứng xử cho các chủ thể kinh tế,
thông qua hệ thống pháp luật, qua chức năng của hệ thống bộ máy, từ đó góp
phần giải quyết các mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế.
Phân công và phối hợp trong hệ thống bộ máy tổ chức với các loại phối
hợp ngang, đồng cấp; phối hợp dọc, phối hợp trong từng tổ chức và phối hợp
yếu tố bên ngoài với yếu tố bên trong. Cần khắc phục sự thiếu đồng bộ, đảm
bảo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
e. Chức năng bảo trợ:
Nhà nước dùng khả năng tài chính của chủ sở hữu công sản (ngân
sách, quỹ dự trữ, trợ giá, trợ chi phí), phát huy vai trò của hệ thống bộ máy,
sử dụng thế mạnh về quan hệ kinh tế đối ngoại thì hoàn toàn có thể thực hiện
việc bảo trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, Nhà nước còn thực hiện việc bảo trợ xã hội, cung cấp phúc
lợi công cộng.
f. Chức năng qui định, kiểm soát:
Nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua các cơ quan chức
năng để hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.
Nhà nước cần tăng cường hệ thống kiểm soát vĩ mô nền kinh tế và
giảm thiểu can thiệp vào công việc của doanh nghiệp.
2. Các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
a. Kế hoạch hóa:
Kế hoạch hoá là phương thức quản lý kinh tế trên cơ sở nắm chắc các
khả năng và nguồn lực kinh tế, xác định rõ chiến lược kinh tế – xã hội với các
mục tiêu cụ thể và sắp xếp, phối hợp các biện pháp thực hiện mục tiêu trong
một khoảng thời gian nhất định.
b. Hệ thống các chính sách kinh tế:
Chính sách kinh tế là sách lược, chủ trương của Nhà nước để thực
hiện việc quản lý kinh tế, nhằm mục tiêu ổn định và phát triển nền kinh tế.
Chính sách kinh tế cơ bản của Nhà nước ta là chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những chính
sách kinh tế cụ thể là: chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách tài
chính, chính sách tín dụng…
c. Hệ thống pháp luật:
Hệ thống pháp luật là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng và
có hiệu lực.
Hệ thống pháp luật giúp nâng cao hiệu lực và đơn giản hóa việc quản lý
trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Hệ thống pháp luật
sẽ tạo ra những chuẩn mực để điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, tạo
nên hành lang pháp lý bình đẳng cho các chủ thể ấy.
Ngoài ra, còn các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô khác như là lực lượng
kinh tế nhà nước, lực lượng dự trữ quốc gia…
Câu 65: Trình bày khái niệm của kế hoạch hóa. Phân tích cơ sở khách quan, vai trò, nội dung và phương hướng đổi mới kế hoạch hoá ở nước ta hiện nay.
1. Khái niệm:
Kế hoạch hóa là phương thức quản lý kinh tế trên cơ sở nắm chắc các
khả năng và nguồn lực kinh tế, xác định rõ chiến lược kinh tế – xã hội với các
mục tiêu cụ thể và sắp xếp, phối hợp các biện pháp thực hiện mục tiêu trong
một khoảng thời gian nhất định.
2. Cơ sở khách quan, điều kiện, vai trò và nội dung của kế hoạch hóa ở nước ta:
a. Cơ sở khách quan:
Kế hoạch hóa là một quá trình kinh tế có tính quy luật đối với nền sản
xuất xã hội hóa cao đòi hỏi phải có sự phối hợp thống nhất để điều hòa các
hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở của kế hoạch hóa trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất.
Kế hoạch hóa là hoàn toàn cần thiết đối với nền kinh tế cũng như đối
với các doanh nghiệp và cả đối với mỗi cá nhân.
b. Điều kiện:
– Các chủ thể có liên quan phải ý thức được vai trò, nhiệm vụ của mình
trong quá trình kế hoạch hóa và phải có một chủ thể đưa ra quyết định.
– Các nguồn lực, tiềm năng kinh tế được nắm vững và mục tiêu được
xác định.
– Trình độ của nền sản xuất lớn, cơ sở vật chất cần thiết được đảm
bảo.
– Cải tiến hệ thống bộ máy làm kế hoạch, nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ làm kế hoạch, nhất là kế hoạch hoá vĩ mô.
– Đảm bảo nguyên tắc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa: tập trung dân
chủ, phân công hợp tác, khuyến khích lợi ích vật chất, phát huy tinh thần chủ
động sáng tạo của cơ sở… để tạo động lực kinh tế, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả.
– Để kế hoạch hóa sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế thì
doanh nghiệp phải tiến hành hạch toán kinh tế dựa trên cơ sở thị trường một
cách đầy đủ. Điều kiện của hạch toán kinh tế là đơn vị kinh tế phải có sự độc
lập, sự tự chủ về tài chính, phải có tư cách pháp nhân.
c. Vai trò của kế hoạch hóa:
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kế hoạch hóa là một
công cụ rất quan trọng để Nhà nước tổ chức và quản lý nền kinh tế, hướng
dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế xây dựng kế hoạch theo
các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã hoạch định.
d. Nội dung của kế hoạch hóa:
Ở mỗi nước, trong mỗi thời kỳ nhất định của chiến lược kinh tế – xã
hội, có nội dung kế hoạch hóa tương ứng.
Kế hoạch hóa là một quá trình bao gồm nhiều khâu: chuẩn bị kế hoạch;
xây dựng kế hoạch; tổ chức thực hiện kế hoạch, tổng kết đánh giá việc thực
hiện kế hoạch. Những khâu ấy có quan hệ mật thiết với nhau và đều có tầm
quan trọng nhất định, trong đó quan trọng nhất là khâu tổ chức thực hiện kế
hoạch.
3. Phương hướng đổi mới kế hoạch hóa hiện nay ở nước ta:
– Trong cơ chế cũ, kế hoạch hoá mang tính pháp lệnh và trực tiếp. Nhà
nước đề ra các chỉ tiêu pháp lệnh, các đơn vị kinh tế có trách nhiệm phải thực
hiện chúng.
Các chỉ tiêu đưa ra dựa vào các cân đối và các định mức. Các cân đối:
cân đối trên từng sản phẩm, cân đối nội bộ xí nghiệp, cân đối ngành, cân đối
liên ngành. Các định mức: định mức kinh tế kỹ thuật, định mức nguyên vật
liệu, định mức thời gian cho một sản phẩm và định mức sản lượng. Những
chỉ tiêu pháp lệnh là không thể thay đổi, dẫn đến tình trạng quan liêu, không
phát huy tính tự chủ của cấp dưới, bộ máy thực hiện cồng kềnh.
Chúng ta đã tưởng rằng có thể kế hoạch hoá cung – cầu hàng hóa dễ
dàng trong khi nhu cầu xã hội đa dạng và thay đổi không ngừng.
– Trong cơ chế mới, kế hoạch hóa mang tính chất hướng dẫn, gián tiếp
và được phân biệt thành hai cấp kế hoạch hóa:
+ Kế hoạch hóa vĩ mô do Nhà nước xây dựng và thực hiện để định
hướng nền kinh tế. Các địa phương phải căn cứ vào lợi thế của mình để đề
ra kế hoạch cụ thể.
Hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh được thay bằng hệ thống chỉ tiêu cân đối
mang tính định hướng. Các nhu cầu của Nhà nước sẽ được thực hiện chủ
yếu bằng các đơn đặt hàng thông qua đấu thầu.
+ Kế hoạch hóa vi mô: là kế hoạch hóa sản xuất kinh doanh ở các
doanh nghiệp dựa trên những định hướng của Nhà nước, khả năng của
doanh nghiệp và các quan hệ thị trường có được.
– Ngoài ra, trong cơ chế mới, thị trường được xem là đối tượng và căn
cứ của kế hoạch hóa.
Nhà nước điều tiết thị trường thông qua kế hoạch hóa vĩ mô – kế hoạch
hóa gián tiếp bằng hệ thống chỉ tiêu cân đối định hướng, trên cơ sở vận dụng
các công cụ và chính sách, tác động vào tương quan cung – cầu hàng hóa
trên thị trường, hướng thị trường vận động và phát triển theo các chỉ tiêu ấy;
còn thị trường hướng dẫn hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh
tế qua kế hoạch hóa vi mô. Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế
hoạch hóa.
Chuyển đổi cơ chế kế hoạch hóa là chuyển từ cân đối tĩnh sang cân đối
động, nhằm khai thác mọi lợi thế tiềm năng, trên cơ sở phát huy tác dụng tích
cực của thị trường.
Câu 66: Trình bày đặc điểm, tác dụng của lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ.
1. Trao đổi hàng hóa, lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ:
Ngoài quan hệ trao đổi hàng hoá thông thường, khi kinh tế thị trường
phát triển thì có hai dạng trao đổi hàng hóa chủ yếu:
– Quan hệ mua – bán hàng hóa: là quan hệ trao đổi hàng hoá có thành
phần tiền tệ và phải thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu cho nhau, bên
mua có tiền và bên bán có hàng.
– Quan hệ thuê và cho thuê: là quan hệ trao đổi quyền sử dụng vật
phẩm với tiền tệ, là quan hệ giữa bên cho thuê là chủ sở hữu vật phẩm với
bên thuê có tiền cần sử dụng nó. Khi việc trao đổi được tiến hành, bên cho
thuê vẫn giữ nguyên quyền sở hữu đối với vật phẩm đó.
Việc trao đổi mua bán hàng hóa qua trung gian tiền tệ trong nền kinh tế
đã tạo ra hai luồng di chuyển hàng hóa và luồng di chuyển tiền tệ ngược
chiều nhưng thống nhất với nhau.
Quá trình lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ là điều kiện giúp
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất
xã hội được diễn ra thuận lợi, thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển.
Qua hai quá trình đó, quan hệ tài chính và quan hệ tín dụng sẽ xuất
hiện và góp phần khắc phục sự trở ngại hay tắc nghẽn của hai quá trình đó.
2. Đặc điểm của lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ ở nước ta hiện nay:
Quan hệ trao đổi mua bán, lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ
trong nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, có tính
chất độc quyền sang cơ chế thị trường, cạnh tranh giữa các thành phần kinh
tế, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc kinh
doanh tiền tệ được tự do hóa một bước với sự tham gia của các thành phần
kinh tế.
Sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa cùng với vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước sẽ đảm bảo sự ổn định và cân đối cho nền kinh tế. Các
quy luật kinh tế thị trường ngày càng được vận dụng theo hướng tích cực,
lành mạnh.
3. Giải pháp và chính sách:
a. Phát triển đầy đủ các dạng thị trường và tổ chức hệ thống thị trường nhiều qui mô trên từng địa bàn, thông suốt giữa các địa phương trong nước và mở rộng ra nước ngoài.
Đẩy mạnh giao lưu, tiếp thị, tăng dung lượng thị trường trong và ngoài
nước: tham gia hội chợ, hội thảo, khảo sát thị trường, quảng cáo, hội nghị
khách hàng…
b. Thực hiện chính sách tiền tệ một cách đúng đắn:
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là đảm bảo lưu thông tiền tệ thông suốt,
đảm bảo sự ổn định của đồng tiền, góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế và
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Chính sách tỷ giá hối đoái là một bộ phận của chính sách tiền tệ, được
thực hiện theo hướng giữ tỷ giá đồng tiền ổn định nhưng linh hoạt, phù hợp
với qui luật kinh tế, yêu cầu của nền kinh tế và các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Ngoài ra, Nhà nước còn phải chú ý chính sách khuyến khích không
dùng tiền mặt, chính sách bảo vệ chủ quyền tiền tệ…
c. Thực hiện chính sách giá cả và quản lý giá cả một cách hợp lý:
Giá cả chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trước hết là giá trị, sau nữa là
tương quan cung cầu, giá trị của tiền tệ, tình hình lưu thông tiền tệ, tâm lý, tin
đồn, tốc độ lạm phát. Ngược lại, giá cả cũng tác động trở lại đến các yếu tố
ấy.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, giá cả là một
công cụ kinh tế quan trọng: kích thích, điều tiết sản xuất và tiêu dùng, phân
phối và phân phối lại thu nhập quốc dân…
Chính sách giá cả thể hiện sự sử dụng công cụ giá cả của Nhà nước.
Mục tiêu của chính sách giá cả là ổn định giá, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế: mức tăng chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%/năm. Chỉ
số giá là chỉ số phản ánh hay căn cứ vào giá cả của gần 100 loại hàng hoá và
dịch vụ chủ yếu của một quốc gia.
Nhà nước có thể điều chỉnh giá cả một cách trực tiếp đối với những
mặt hàng mà Nhà nước chi phối hầu hết và có thể tác động vào giá cả một
cách gián tiếp đối với những mặt hàng còn lại thông qua việc sử dụng các
công cụ thuế, tỉ giá, lãi suất, sử dụng lực lượng dự trữ và chi ngân sách…
nhằm duy trì sự ổn định của giá cả, hạn chế ảnh hưởng của giá cả thị trường
thế giới đến hệ thống giá cả trong nước.
Câu 67: Phân tích bản chất, đặc điểm, chức năng và vai trò của tài chính trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
1. Bản chất của tài chính:
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế đưa đến hình thành và phân
phối sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung cũng như không tập trung trong nền
kinh tế.
NGAN SACH NHA NUOC
CAC QUY CUA TO CHUC XA HOI
CAC QUY CUA DOANH NGHIEP
NGAN SACH CUA HO GIA ĐINH
Sự trở ngại của quan hệ hàng – tiền trong nền kinh tế đã đưa đến nảy
sinh, hình thành hàng loạt các quan hệ khác như vay mượn, tài trợ… Đó
chính là các quan hệ tài chính, quan hệ tín dụng.
Quan hệ hàng – tiền và quan hệ tài chính có sự khác nhau. Trong quan
hệ hàng – tiền, tiền là vật ngang giá và giá trị chỉ thay đổi hình thức tồn tại.
Trong quan hệ tài chính, giá trị không thay đổi hình thức tồn tại, tiền dịch
chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác đưa đến việc thực hiện chức năng
phương tiện thanh toán.
2. Đặc điểm:
– Hệ thống tài chính quốc gia được thể hiện qua hệ thống các quỹ tiền
tệ trong nền kinh tế. Quỹ tập trung là ngân sách nhà nước, quỹ tín dụng, quỹ
bảo hiểm xã hội. Quỹ không tập trung là quỹ doanh nghiệp, quỹ gia đình, quỹ
của các tổ chức xã hội.
HỆ THỐNG CÁC QUỸ TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ
– Hệ thống tài chính còn là tổng thể các mối quan hệ tài chính của các
chủ thể trong nền kinh tế.
+ Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, hộ gia đình, các
tổ chức xã hội với Nhà nước.
+ Nhóm các quan hệ tài chính giữa Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ
chức xã hội, hộ gia đình với hệ thống ngân hàng, công ty tài chính.
+ Nhóm các quan hệ tài chính giữa Nhà nước, các doanh nghiệp, hộ
gia đình với hệ thống bảo hiểm.
+ Nhóm các quan hệ tài chính giữa các thành viên với nhau trong mỗi
hệ thống doanh nghiệp, tổ chức xã hội và hộ gia đình.
+ Nhóm các quan hệ tài chính giữa Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ
chức xã hội với các đối tác nước ngoài.
– Có hai loại quan hệ tài chính là quan hệ tài chính thu và quan hệ tài
chính chi. Trong một bộ phận tài chính, quan hệ thu là điều kiện cho quan hệ
chi. Giữa các bộ phận tài chính, quan hệ thu của bộ phận này lại là điều kiện
cho quan hệ chi của bộ phận kia.
Quan hệ tài chính thu bao gồm: quan hệ phân phối và phân phối lại thu
nhập, quan hệ tín dụng (vay mượn). Quan hệ tài chính chi bao gồm quan hệ
đầu tư hợp tác, quan hệ trợ cấp xã hội, quan hệ thanh toán…
3. Các chức năng của tài chính:
a. Chức năng phân phối, điều tiết:
Tài chính phản ánh mặt quan hệ phân phối của quan hệ sản xuất xã
hội. Trong nền kinh tế hàng hoá, của cải vật chất được quy thành tiền; vì vậy,
việc tập trung và phân chia của cải vật chất được thực hiện chủ yếu thông
qua hoạt động tài chính. Thông qua quan hệ tài chính, các tư liệu sản xuất sẽ
được phân phối cho các chủ thể sản xuất và các tư liệu tiêu dùng sẽ được
phân phối cho các hộ gia đình một cách gián tiếp, dưới hình thức tiền tệ.
Ngoài ra, thông qua quan hệ tài chính, việc phân phối và phân phối lại
thu nhập trong xã hội sẽ được thực hiện một cách trực tiếp, bởi vì nó đưa đến
việc hình thành các quỹ tiền tệ.
b. Chức năng giám đốc:
Thông qua quan hệ tài chính, tình hình trao đổi hàng – tiền, tình trạng
của các quỹ tiền tệ, sự tắc nghẽn của lưu thông hàng hóa, của lưu thông tiền
tệ, của quan hệ tín dụng, của bản thân quan hệ tài chính sẽ được thể hiện ra
và đòi hỏi phải được giám sát và đôn đốc giải quyết, thông qua đồng tiền.
Chức năng giám sát các hoạt động kinh tế của tài chính là gián tiếp
nhưng tổng hợp và có hiệu lực cao vì mọi tài sản, mọi hoạt động kinh tế đều
thể hiện qua đồng tiền. Những tài sản hiện vật cũng là đối tượng của tài chính
nhưng phải chuyển đổi sang tiền tệ.
Phân phối và giám đốc là hai chức năng cơ bản của tài chính, chúng
gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình vận hành nền kinh tế.
4. Vai trò của tài chính:
Vai trò của tài chính được thể hiện qua các chức năng của nó nhằm đạt
các mục tiêu nhất định.
Qua chức năng phân phối, điều tiết, tài chính có vai trò kích thích kinh
tế: kích cầu đầu tư và cầu tiêu dùng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tài chính có những vai trò
chủ yếu đối với nền kinh tế như: tập trung và tích lũy các nguồn lực, cung ứng
các nguồn tiền cho các nhu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước, đòi hỏi sự giải
quyết hợp lý mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.
Tài chính nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc
gia, bởi vì nó có vai trò chủ yếu trong việc đáp ứng được lợi ích xã hội.
Câu 68: Phân tích chính sách tài chính và phương hướng đổi mới chính sách tài chính ở nước ta hiện nay.
1. Chính sách tài chính:
Chính sách tài chính là những quan điểm, chủ trương của Nhà nước về
quan hệ tài chính hay về lĩnh vực tài chính nói chung nhằm đảm bảo sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tài chính là xây dựng một nền tài chính quốc
gia độc lập, tự chủ và lành mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
Các bộ phận tài chính có mạnh thì nền tài chính quốc gia mới mạnh.
Sự vững mạnh của một bộ phận tài chính được thực hiện qua việc cân đối,
làm chủ thu chi và có được thặng dư nguồn thu. Khi các bộ phận tài chính
mất cân đối thì có thể tìm kiếm nguồn tiền bổ sung từ thị trường vốn tín dụng,
tức là từ các quan hệ tín dụng hay bằng cách điều chỉnh quan hệ tài chính.
2. Phương hướng đổi mới chính sách tài chính ở nước ta hiện nay.
Mục tiêu của chính sách tài chính được thực hiện theo nhóm phương
hướng giải pháp sau:
– Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về tài chính; xây dựng hệ
thống phân tích, kiểm soát tài chính.
– Thực hiện chủ trương lấy sản xuất làm gốc, phục vụ cho sản xuất,
thúc đẩy sản xuất phát triển.
– Cần giải quyết mâu thuẫn giữa tích lũy và tiêu dùng trên cơ sở hiệu
quả kinh tế – xã hội: khi thúc đẩy tiêu dùng thì lại làm giảm đi sự tiết kiệm và
tái đầu tư.
– Bồi dưỡng, phát triển, động viên nguồn thu, cần chú ý các nguồn thu
từ các lĩnh vực phi sản xuất. Thuế cao thì sẽ thất thu mà lại không khuyến
khích phát triển kinh tế. Giảm thuế suất, miễn thuế thời gian đầu cho các
doanh nghiệp mới thành lập; hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
đổi mới máy móc thiết bị.
– Sử dụng quan hệ tín dụng để cân đối tài chính, phát triển thị trường
vốn, thị trường tín dụng: không phát hành tiền, mà thông qua hình thức vay;
góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tiền tệ. Việc cung ứng vốn cho
các doanh nghiệp nhà nước không bằng cách cấp phát mà theo phương thức
tín dụng.
Nhà nước vay dân sẽ kích thích nhu cầu trong nước, tài chính doanh
nghiệp và dân cư sẽ khá lên, tài chính nhà nước không bị ảnh hưởng.
Trường hợp Nhà nước giảm thuế cũng có tác dụng tương tự đối với tài chính
doanh nghiệp và dân cư, còn tài chính nhà nước thì bị suy giảm. Nếu tăng
thuế thì có tác dụng ngược lại.
– Hạn chế bội chi ngân sách (không được vượt quá 50% GDP), góp
phần khống chế và kiểm soát lạm phát. Thực hiện phương châm Nhà nước
và nhân dân cùng làm.
– Huy động và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực trong và
ngoài nước với nhiều phương thức vay vốn và trả nợ. Áp dụng phương thức
mua bán nợ: bán quyền chủ nợ để giải phóng nợ, thu hồi vốn khi cần thiết và
mua nợ để sinh lợi.
– Thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục, y tế, văn hóa nhằm mở
rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực
trong xã hội: nhưng không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước và
ngân sách nhà nước.
– Cân đối thu chi một cách tích cực, tạo điều kiện làm tốt công tác dự
trữ: tiết kiệm chi là chi có hiệu quả kinh tế – xã hội. Đảm bảo nhu cầu chi
thường xuyên thật sự cần thiết và chi đầu tư phát triển.
Câu 69: Phân tích bản chất, các hình thức, chức năng, vai trò và các chính sách tín dụng trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
1. Bản chất:
Tín dụng là hoạt động vay và cho vay trong nền kinh tế.
Quan hệ tín dụng là quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong việc vay và
cho vay những ngân khoản nhằm thực hiện một mục đích nào đó và phải
hoàn trả vốn và lợi tức cho bên cho vay trong một khoảng thời gian nhất định.
Mục đích của quan hệ tín dụng: sinh lợi, thanh toán các khoản nợ, cân
đối tài chính.
Về bản chất kinh tế, quan hệ tín dụng biểu hiện sự tách rời giữa quyền
sở hữu vật phẩm, tiền tệ với quyền sử dụng chúng mà chủ sở hữu của chúng
sẽ được nhận lợi tức khi chấp nhận sự tách rời ấy.
Về bản chất xã hội, quan hệ tín dụng tồn tại trong các phương thức sản
xuất với mô hình kinh tế hàng hoá và mang những bản chất khác nhau tùy
theo bản chất của từng phương thức sản xuất khác nhau. Các quan hệ tín
dụng ở nước ta được hình thành trên cơ sở nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Các hình thức quan hệ tín dụng:
Các hình thức tín dụng khác xét về mục đích: tín dụng đầu tư, tín dụng
thương mại, tín dụng tiêu dùng, tín dụng học đường… Tín dụng thương mại:
các doanh nghiệp mua bán hàng hoá và dịch vụ theo phương thức trả chậm
với kỳ hạn và lợi tức nhất định.
Các hình thức tín dụng xét theo chủ thể thực hiện: tín dụng nhà nước,
tín dụng ngân hàng, tín dụng nhân dân, tín dụng tập thể, tín dụng doanh
nghiệp.
Quan hệ tín dụng được thể hiện tập trung qua hoạt động của ngân
hàng. Ngân hàng là: trung tâm huy động và cung ứng vốn tín dụng trong nền
kinh tế, trung tâm thanh toán không dùng tiền mặt, trung tâm tiền mặt của xã
hội. Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa nền kinh tế, là
đòn bẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế.
3. Chức năng và vai trò:
a. Chức năng của tín dụng:
– Chức năng phân phối, điều tiết: quan hệ tín dụng thực hiện việc phân
phối lại các nguồn tiền tệ, tài sản theo nguyên tắc hoàn trả và có điều kiện.
Nội dung của chức năng này biểu hiện ở cơ chế “hút” vốn tiền tệ nhàn rỗi và
“đẩy” nó vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
– Chức năng giám đốc, kiểm soát gián tiếp các hoạt động kinh tế trong
nền sản xuất xã hội.
b. Vai trò của tín dụng:
– Tín dụng là phương thức trợ giúp có hiệu lực cho các quan hệ tài
chính. Đây là một phương thức cân đối tài chính kịp thời và có hiệu quả: vay
mượn để cân đối thu – chi, khi thu > chi thì hoàn trả lại.
– Huy động, tập trung, cung cấp vốn cho các doanh nghiệp; tạo điều
kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, áp dụng
khoa học – công nghệ; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển và góp phần hạn chế lạm phát.
– Tạo điều kiện mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại giữa
nước ta với các nước khác trên thế giới.
– Trợ giúp cho tiêu dùng của cư dân, ổn định và cải thiện đời sống xã
hội.
– Tín dụng giúp mở rộng lưu thông tiền tệ, giảm lượng tiền nhàn rỗi,
nâng cao hiệu quả sử dụng tiền tệ, góp phần củng cố sức mua của đồng tiền,
nó tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động kinh tế, bảo đảm cho quá trình tái sản
xuất xã hội được diễn ra một cách thuận lợi…
– Tín dụng làm cho các doanh nghiệp cũng như người dân thường
xuyên quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn tiền tệ và tài sản; luôn cân
nhắc, lựa chọn các phương án tối ưu, do phải chịu lợi tức.
– Tín dụng cũng là công cụ để Nhà nước giúp đỡ về mặt tài chính cho
các doanh nghiệp và người dân: ngân hàng giãn nợ cho nông dân, ưu đãi lãi
suất cho doanh nghiệp xuất khẩu.
4. Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là những quan điểm, chủ trương của Nhà nước về
quan hệ tín dụng hay về lĩnh vực tín dụng nói chung nhằm đảm bảo sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tín dụng là nâng cao chất lượng, hiệu quả và
độ an toàn trong hoạt động tín dụng, góp phần ổn định tiền tệ, ổn định thị
trường và tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
Cần hoàn thiện hệ thống ngân hàng để trợ giúp cho các doanh nghiệp.
Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước được phân định rõ ràng qua chức năng
của ngân hàng nhà nước. Ngân hàng nhà nước là cơ quan quản lý vĩ mô về
tín dụng và tiền tệ.
Cần đổi mới tín dụng đầu tư theo hướng giảm cơ chế “xin – cho”, khắc
phục tình trạng bao cấp qua tín dụng; hạn chế ưu đãi lãi suất trước đầu tư mà
chỉ ưu đãi sau đầu tư.
Trong chính sách tín dụng, chính sách lãi suất chiếm vị trí chủ yếu qua
việc qui định lãi suất sàn, lãi suất trần và tiến tới tự do hóa lãi suất; áp dụng
lãi suất chiết khấu để điều hành lưu thông tiền tệ.
Câu 70: Phân tích bản chất và vai trò của lợi ích kinh tế. Giải pháp vận dụng vai trò lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay.
1. Bản chất và vai trò:
a. Bản chất:
Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế biểu hiện quyền lợi phải đòi hỏi của
một chủ thể trong mối quan hệ kinh tế nào đó, tương ứng với công sức, vốn
liếng mà chủ thể ấy bỏ ra.
Nhận xét:
– Lợi ích kinh tế chỉ xuất hiện khi các cá nhân chủ thể có những mối
quan hệ kinh tế với nhau.
– Việc các chủ thể đòi hỏi quyền lợi cũng chính là vì nhu cầu tiêu dùng
của họ.
Nhu cầu của con người là sự đòi hỏi, sự mong muốn được tiêu dùng
những vật phẩm cần thiết, hay được thỏa mãn những sở thích xã hội, để họ
có thể tồn tại và phát triển.
– Lợi ích kinh tế luôn bao gồm hai phần là lợi ích vật chất và lợi ích tinh
thần, bởi vì nhu cầu con người có hai dạng là nhu cầu vật chất và nhu cầu
tinh thần. Nhu cầu vật chất thì có hạn, nhưng nhu cầu tinh thần thì vô hạn.
– Lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể còn tùy thuộc vào vai trò, vị trí của chủ
thể đó trong xã hội, nên cũng phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị và sự
phát triển của phân công lao động xã hội.
– Lợi ích kinh tế luôn mang tính lịch sử và giai cấp. Đấu tranh giai cấp
xảy ra là nhằm giải quyết sự bất hợp lý về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp.
b. Vai trò của lợi ích kinh tế:
– Lợi ích kinh tế đem lại khả năng đáp ứng những nhu cầu của các chủ
thể kinh tế.
Để thỏa mãn nhu cầu của mình; trước hết, con người phải lao động tự
cung tự cấp cho mình; và ngoài ra, họ phải tìm kiếm lợi ích kinh tế từ các mối
quan hệ kinh tế và quan hệ xã hội có được, để đảm bảo khả năng thanh toán
cho những nhu cầu còn lại của mình.
Nhu cầu có khả năng thanh toán là nhu cầu mà xã hội thực tế đáp ứng
cho các thành viên xã hội. Chính từ các lợi ích kinh tế ấy sẽ mang lại khả
năng thanh toán cho nhu cầu của mỗi cá nhân trong xã hội, cụ thể như: tiền
lương, lợi nhuận, tiền lãi ngân hàng…
– Lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, phát triển
kinh tế – xã hội của một quốc gia.
Một khi quyền lợi của các chủ thể được giải quyết một cách hài hòa,
hợp lý thì mỗi một chủ thể sẽ có ý thức hành động với thái độ tích cực lâu
bền, tạo nên một sự cộng hưởng to lớn từ hoạt động của tất cả các chủ thể.
Sự thống nhất về lợi ích là động lực cơ bản của mọi nền sản xuất xã hội.
– Lợi ích kinh tế là điều kiện hình thành, tồn tại và phát triển hay phá vỡ
của các quan hệ kinh tế.
Chính việc đảm bảo lợi ích kinh tế của tất cả các chủ thể liên quan mới
là điều kiện quyết định không những đối với việc hình thành mà còn đối với
sự tồn tại và phát triển các quan hệ kinh tế.
Lực lượng kinh tế chỉ là điều kiện cần thiết để thực hiện quan hệ kinh
tế. Không có lực lượng kinh tế thì hẳn là rất khó khăn, nhưng một khi lợi ích
kinh tế của các chủ thể được hài hòa thì sẽ dễ dàng có được lực lượng kinh
tế. Chính lợi ích kinh tế mới là điều kiện quyết định quan hệ kinh tế.
Ngày nay, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế đã được nhận thức và giải quyết
một cách hợp lý với sự tham gia của Nhà nước, chủ thể đại diện cho lợi ích
của xã hội.
2. Một số quan điểm và giải pháp về lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay.
– Bảo đảm thực hiện nguyên tắc các bên cùng có lợi trong quan hệ
kinh tế.
Nguyên tắc này xuất phát từ việc nhận thức vai trò của lợi ích kinh tế.
Đây chính là cơ sở của các chính sách kinh tế.
Năm 1959, trong dự thảo hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Trong chế độ ta, lợi ích của Nhà nước, của tập thể và lợi ích cá nhân căn bản
là nhất trí.
– Quan tâm chú ý đến lợi ích lâu dài, lợi ích của số đông.
Vì lợi ích lâu dài, cần đặt nó lên trên lợi ích trước mắt, để tạo thế ổn
định cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
+ Nhà nước cần nuôi dưỡng sức dân, chớ vội thu thuế vào lúc khó
khăn hay lúc mới đầu tư.
+ Mở cửa nền kinh tế chúng ta phải hy sinh một số lợi ích trước mắt.
Nhà nước phải đặt lợi ích của số đông lên trên lợi ích thiểu số, để tạo ra
sức mạnh tổng hợp to lớn cho nền kinh tế.
Nhà nước cần nâng mức thụ hưởng của nông dân tương xứng với mức
đóng góp của họ bằng cách trợ giúp giảm chi phí sản xuất, tìm kiếm thị
trường, ổn định giá cả đầu vào và đầu ra.
– Mở rộng sự phân công và hợp tác trên mọi lĩnh vực, cũng như giữa
các chủ thể trong nền kinh tế.
Giải pháp này xuất phát từ sự đổi mới nhận thức về lợi ích kinh tế của
xã hội. Chỉ có tiến hành tốt sự phân công và hợp tác thì quan hệ sản xuất mới
được hình thành, mới nảy sinh vấn đề lợi ích kinh tế và đòi hỏi sự điều hòa
các lợi ích kinh tế với nhau.
Đảng ta đã chỉ rõ: Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng
lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất
quyền lợi với nghĩa vụ công dân. Trong đó, lợi ích thiết thân, đồng thời là
động lực thúc đẩy trực tiếp đối với người lao động là việc làm và thu nhập.
Câu 71: Phân tích các loại lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay.1. Lợi ích kinh tế của xã hội:
Là loại lợi ích kinh tế chung của toàn thể các thành viên xã hội, hướng
tới các nhu cầu về cải thiện và nâng cao mức sống, về an toàn – trật tự xã hội
và an ninh Tổ quốc.
Đây là loại lợi ích giữ vai trò chủ đạo, mà Nhà nước là người đại diện.
Lợi ích kinh tế của xã hội và lợi ích của Nhà nước luôn thống nhất với
nhau, nhưng vẫn có sự khác biệt. Lợi ích kinh tế của Nhà nước được thực
hiện thông qua công cụ tài chính chủ yếu là thuế, chi ngân sách và các công
cụ khác để tăng cường và sử dụng vốn tài sản của Nhà nước một cách có
hiệu quả. Lợi ích kinh tế của xã hội còn đòi hỏi phải đảm bảo các yêu cầu là
làm sao sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực kinh tế của quốc gia, làm
sao phát triển nền kinh tế quốc dân một cách nhịp nhàng, hài hòa và nâng
cao mức sống trong xã hội.
Quan tâm đến lợi ích kinh tế của xã hội không có nghĩa là coi nhẹ các
lợi ích kinh tế khác, mà chính việc đảm bảo các lợi ích kinh tế khác, việc kết
hợp hài hòa các lợi ích kinh tế sẽ tạo điều kiện đáp ứng lợi ích kinh tế của xã
hội. Đây là cơ sở của các chính sách kinh tế – xã hội.
2. Lợi ích kinh tế trong một doanh nghiệp:
a. Trong một doanh nghiệp nhà nước, các lợi ích kinh tế bao gồm:
– Lợi ích của doanh nghiệp (lợi ích tập thể): được thể hiện thông qua
các hình thức kinh tế cụ thể như: lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp để hình
thành các quỹ của doanh nghiệp và ngoài ra còn là sự đảm bảo quyền độc
lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
– Lợi ích của Nhà nước: thể hiện ở thuế, ở lợi nhuận trích nộp, ở việc
bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước… ngoài ra Nhà nước còn đòi hỏi
doanh nghiệp nhà nước phải làm tốt vai trò chủ đạo của mình…
– Lợi ích của cá nhân người lao động được đảm bảo thông qua các
hình thức tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi và còn qua điều kiện làm việc, khả
năng học tập nâng cao tay nghề và trình độ văn hóa, được tham gia ý kiến, có
quyền quyết định về hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, có quyền
giám sát, kiểm tra do luật pháp qui định. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
đảm bảo quyền làm chủ thực tế của người lao động.
b. Trong một doanh nghiệp tư nhân, các lợi ích kinh tế gồm có:
– Lợi ích của nhà đầu tư biểu hiện ra là phần lợi nhuận ròng chủ đầu tư
được hưởng sau khi nộp thuế và trang trải các chi phí và ngoài ra còn thể
hiện ở việc được khuyến khích, trân trọng, ưu đãi, được tạo điều kiện…
– Lợi ích của người lao động được thể hiện qua tiền công, tiền thưởng,
phúc lợi và ngoài ra còn là được đối xử tôn trọng, được thăng tiến…
– Lợi ích nhà nước được thể hiện qua thuế phải nộp, ngoài ra Nhà
nước còn đòi hỏi doanh nghiệp phải chấp hành sự quản lý, quy hoạch chung.
– Lợi ích của doanh nghiệp được thể hiện qua việc hình thành các quỹ,
ngoài ra còn là việc được Nhà nước giúp đỡ, được đảm bảo điều kiện về môi
trường kinh doanh…
Đối với các doanh nghiệp nói chung, thì còn phải quan tâm đến lợi ích
của người tiêu dùng, của các doanh nghiệp khác, của ngân hàng…
Nếu không quan tâm giải quyết thỏa đáng các lợi ích trong một doanh
nghiệp thì những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế sẽ có thể dẫn đến sự đối kháng
gay gắt làm triệt tiêu động lực, thậm chí làm tan rã doanh nghiệp và khiến cho
xã hội trở nên bất ổn.
3. Lợi ích kinh tế của cá nhân:
Mỗi cá nhân trong xã hội luôn đòi hỏi những lợi ích kinh tế khác nhau từ
các mối quan hệ kinh tế có được. Với tư cách là một thành viên trong xã hội,
họ đòi hỏi sự đối xử bình đẳng, có đầy đủ quyền tự do theo luật định, được
hưởng trợ cấp xã hội nếu có… Trong các mối quan hệ khác, họ còn có thể
đòi hỏi các loại thu nhập: tiền lương, cổ tức, lợi nhuận, tiền bảo hiểm… Lợi
ích kinh tế của cá nhân phản ánh các nhu cầu về việc làm, thu nhập, về điều
kiện lao động và điều kiện sinh sống.
Lợi ích kinh tế cá nhân đóng vai trò động lực trực tiếp và quan trọng
nhất đối với việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người lao
động. Trong điều kiện xây dựng kinh tế, việc quan tâm đến lợi ích cá nhân sẽ
tạo ra một động lực phát triển xã hội mạnh mẽ. Chúng ta tôn trọng lợi ích cá
nhân, nhưng không cho phép vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại đến các lợi ích
khác to lớn hơn.
Trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” (1958), Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân
và đảm bảo cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.
4. Lợi ích kinh tế của bên nước ngoài:
– Lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư nước ngoài, của các công ty đa
quốc gia: lợi nhuận ròng thu được, việc chuyển lợi nhuận về nước, ngoài ra
còn được khuyến khích tái đầu tư, được đảm bảo môi trường đầu tư kinh
doanh…
– Lợi ích của các quốc gia:
Hợp tác trao đổi thương mại, đầu tư, hợp tác tín dụng với các quốc gia
cần đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế, đảm bảo lợi ích cho các doanh
nghiệp trong nước.
– Lợi ích của các tổ chức tài chính quốc tế:
IMF và WB là hai cơ quan được hình thành bởi thỏa ước Bretton
Woods (1944) để cân bằng nền kinh tế thế giới, bảo đảm lợi ích kinh tế giữa
các nước; nhưng sự độc lập tự chủ, lợi ích của mỗi quốc gia lại có thể không
được đảm bảo.
Câu 72: Trình bày khái niệm và nội dung của phân phối. Phân tích khái niệm, bản chất và vai trò của quan hệ phân phối.
1. Khái niệm và nội dung của phân phối.
a. Khái niệm:
Phân phối là hoạt động của con người nhằm phân chia các nguồn lực
và lợi ích trong nền kinh tế.
b. Nội dung:
Có hai nội dung của phân phối:
– Phân phối các nguồn lực kinh tế (phân phối đầu vào) cho các chủ thể
kinh tế – phân phối trước sản xuất, vừa qua tác dụng tự phát của cơ chế thị
trường, vừa thông qua chức năng điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
– Phân phối kết quả sản xuất là phân phối sau sản xuất, một trong bốn
khâu của quá trình tái sản xuất, bao gồm phân phối sản phẩm và phân phối
thu nhập.
+ Phân phối sản phẩm được thực hiện bằng hai phương thức: hiện vật
và giá trị, trong đó hình thức phân phối giá trị là tối ưu nhờ phát huy vai trò
của tiền tệ.
+ Phân phối thu nhập quốc dân được thực hiện qua hai lần:
* Phân phối lần đầu cho các chủ thể liên quan trực tiếp đến sản xuất
kinh doanh, hình thành nên thu nhập chính của các chủ thể trong xã hội.
* Phân phối lại được thực hiện trong quá trình sử dụng các khoản thu
nhập có được từ lần phân phối đầu, hay còn được thực hiện qua việc sử
dụng công cụ thuế và giá cả.
2. Khái niệm và bản chất của quan hệ phân phối:
a. Khái niệm:
Quan hệ phân phối là quan hệ giữa người và người trong lĩnh vực phân
phối: Đó là quan hệ giữa các chủ thể kinh tế tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp
vào sản xuất, kinh doanh trong việc phân phối sản phẩm làm ra, cũng như
trong việc phân chia thu nhập có được.
Những người không tham gia vào sản xuất, kinh doanh cũng được
phân phối, nhưng không phải là chủ thể, mà là khách thể thụ động.
Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến phân phối kết quả sản xuất, trong đó
chú trọng phân phối thu nhập.
b. Bản chất:
Bản chất của quan hệ phân phối được thể hiện ở quan hệ sản xuất
thống trị, tức là ở chế độ xã hội, ở bản chất của Nhà nước.
– Với chế độ tư bản chủ nghĩa, do dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, nên quan hệ phân phối luôn nhằm bảo vệ tối đa cho
lợi ích của nhà tư bản.
– Với chế độ xã hội chủ nghĩa, do dựa trên hình thức sở hữu công cộng
về tư liệu sản xuất, nên quan hệ phân phối đảm bảo sự bình đẳng giữa
những người lao động tự do, trên cơ sở năng suất chất lượng và hiệu quả lao
động.
3. Vai trò của quan hệ phân phối:
– Quan hệ phân phối là một trong ba mặt của quan hệ sản xuất, nó
đảm bảo cho sự quyết định của quan hệ sở hữu được thực hiện về mặt lợi
ích kinh tế. Chủ sở hữu phải được phân phối tương xứng với số vốn đã bỏ ra.
– Quan hệ phân phối đảm bảo kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế:
không chỉ phân phối theo vốn mà còn phải phân phối theo lao động, theo sự
đóng góp, tham gia trực tiếp cũng như gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh
doanh; tức là nó không chỉ đảm bảo lợi ích của chủ sở hữu mà còn đảm bảo
lợi ích các chủ thể kinh tế khác. Sự kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích kinh
tế được hiện thực hóa trong quan hệ phân phối.
– Quan hệ phân phối góp phần điều tiết việc sử dụng các nguồn lực
kinh tế trong nền sản xuất xã hội.
– Quan hệ phân phối đảm bảo sự công bằng xã hội qua quá trình phân
phối lại thu nhập quốc dân.
Tuy nhiên, phải phòng và tránh những xu hướng không đúng như: phân
phối bình quân hay phân phối vượt quá mức cho phép của nền kinh tế. Hơn
nữa, phân phối lại quá đáng sẽ gây phản ứng xã hội và làm triệt tiêu động lực
kinh tế.
Câu 73: Phân tích các hình thức phân phối thu nhập cơ bản ở nước ta hiện nay.
1. Phân phối theo lao động:
a. Nội dung:
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số
lượng, chất lượng và hiệu quả lao động mà mỗi người đã bỏ ra.
b. Sự cần thiết:
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập cá nhân chủ
yếu trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì:
– Trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển, nhu cầu tiêu dùng của
mỗi người trong xã hội chỉ có thể được thỏa mãn bằng khả năng thanh toán
có được từ chính sức lao động của họ.
– Do sự khác biệt về tính chất, thái độ và trình độ lao động; về vị trí, vai
trò và địa vị người lao động… nên chủ yếu phải căn cứ vào lao động mà mỗi
người đã bỏ ra để thực hiện việc phân phối thu nhập.
c. Nguyên tắc và đặc điểm:
– Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Trong điều kiện lao động
như nhau, nếu kết quả lao động ngang nhau thì phải được trả công giống
nhau, không phân biệt giới tính, màu da, dân tộc.
– Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi người làm ra bao
nhiêu thì được hưởng cả bấy nhiêu, mà còn phải phân phối cho các đối
tượng, chủ thể khác trong xã hội. Như vậy nó đảm bảo kết hợp chặt chẽ lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.
– Hình thức phân phối theo lao động còn xét đến sự khác biệt giữa các
loại lao động và các ngành nghề trong xã hội.
d. Phương thức thực hiện:
Phân phối theo lao động được thực hiện qua các hình thức thu nhập:
tiền lương, tiền công, tiền thưởng và tiền phụ cấp.
Đối với lao động hành chính sự nghiệp thì một phần được phân phối lại
dưới hình thức tiền lương từ ngân sách nhà nước.
Ngoài tiền công được xác định lúc tuyển dụng, người lao động còn phải
được hưởng một phần lợi nhuận của doanh nghiệp mà họ đã góp phần làm
ra, dưới hình thức tiền thưởng một cách thỏa đáng.
e. Tác dụng:
Đảm bảo việc tái tạo sức lao động cho người lao động cũng như cho xã
hội.
Kích thích tính tích cực của người lao động, thúc đẩy việc nâng cao
năng suất lao động, phát huy tài năng sáng kiến, tăng cường kỷ luật lao động,
tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình của họ.
Góp phần phát huy nguồn nhân lực, phân bố lực lượng lao động, phát
triển lực lượng sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế.
Góp phần kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế khác nhau, đảm bảo sự
công bằng xã hội.
2. Phân phối theo vốn đầu tư:
a. Nội dung:
Đây là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào vốn đầu tư cho sản
xuất kinh doanh. Hình thức này chỉ được thừa nhận từ khi đổi mới kinh tế.
b. Phương thức thực hiện:
Hình thức phân phối này được thực hiện qua các hình thức thu nhập là
lợi nhuận, cổ tức, lợi tức cho vay và tô tức.
c. Vai trò, tác dụng:
– Nó đảm bảo cho quan hệ sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế.
– Nó giúp khai thác tối đa mọi tiềm năng về vốn trong xã hội, góp phần
ổn định thị trường, ổn định tiền tệ và thúc đẩy phát triển kinh tế.
3. Phân phối lại qua quỹ phúc lợi và bảo hiểm.
a. Nội dung:
Đây là hình thức phân phối thu nhập không căn cứ trên lao động, hay
vốn liếng bỏ ra, có thể thực hiện một cách bình quân mang lại thu nhập bổ
sung cho mỗi cá nhân và có thể thực hiện một cách không bình quân khi bù
đắp rủi ro hay khó khăn xảy đến cho họ.
b. Phương thức thực hiện:
Hình thức này được thực hiện trong quá trình phân phối lại thu nhập
quốc dân, qua các dạng thu nhập là tiền phúc lợi, trợ cấp khó khăn, trợ cấp
mất việc, trợ cấp thôi việc, trợ cấp thất nghiệp, bồi thường của bảo hiểm…
ngoài ra nó còn được thực hiện qua hình thức thuế, giá cả và các chính sách
xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn thì hình thức phân phối
này chỉ được thực hiện có mức độ.
c. Tác dụng:
Hình thức phân phối này góp phần đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo
đời sống của các cá nhân không có khả năng lao động, giảm bớt sự phân hóa
giàu nghèo…
4. Phân phối qua hoạt động kinh tế phụ gia đình.
a. Nội dung:
Đây là hình thức phân phối thu nhập vừa căn cứ trên lao động, vừa căn
cứ trên vốn đầu tư của những người lao động làm việc ngoài giờ với quy mô
có giới hạn.
b. Phương thức thực hiện:
Hình thức phân phối này được thực hiện qua các dạng thu nhập từ lao
động và vốn bỏ ra.
c. Tác dụng:
– Nó thúc đẩy việc sử dụng lao động nhàn rỗi, vốn liếng dư thừa, tận
dụng kỹ năng chuyên môn, mang lại thu nhập bổ sung và giúp cải thiện đời
sống người lao động.
– Tuy nhiên, hình thức này lại có thể làm hạn chế sự phân công chuyên
môn hóa lao động xã hội và có thể làm giảm đi số lượng việc làm cho người
khác…
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, các hình thức phân phối thu nhập
trên đây là đa dạng nhưng thống nhất. Chẳng hạn, trong một hợp tác xã, xã
viên vừa được phân phối theo lao động, vừa được phân phối theo vốn cổ
phần.
Câu 74: Trình bày tính tất yếu khách quan và lợi ích của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay.
1. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta.
a. Các quốc gia trên thế giới có nguồn tài nguyên khác biệt, trình độ
nhân lực và trình độ khoa học – công nghệ cách biệt nhau, đòi hỏi phải mở
rộng phân công chuyên môn hóa, hợp tác trao đổi với nhau, phát huy có hiệu
quả lợi thế của nhau để cùng nhau phát triển.
Một điều rõ ràng là, hiệu quả của một nền kinh tế mở cửa thì hơn hẳn
hiệu quả của nền kinh tế đóng cửa. Với nền kinh tế mở cửa thì ngoại lực và
nội lực sẽ hợp thành tổng lực để thúc đẩy phát triển kinh tế, nhất là đối với
quốc gia kém phát triển. Không có quốc gia bị cô lập hay tự cô lập nào mà lại
thịnh vượng.
b. Đặc điểm của thời đại ngày nay đã và đang tạo các tiền đề cơ bản
cho việc mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước. Đó là các đặc
điểm sau:
– Sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hoá làm cho thị trường
trong nước bị bão hòa, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm cách thâm nhập vào
thị trường thế giới.
Trong điều kiện đó, đầu vào cho sản xuất có thể huy động từ khắp thế
giới, đầu ra cũng được tiêu thụ trên toàn thế giới. Có thể nói thị trường thế
giới vừa cung cấp đầu vào vừa là giải quyết đầu ra cho sản xuất của mỗi
nước. Xu hướng chuyển giao công nghệ ngày càng được phổ biến. Thị
trường tư bản toàn cầu mở rộng khắp các lục địa.
– Sự xuất hiện và mở rộng hoạt động của các công ty đa quốc gia,
công ty xuyên quốc gia, làm cho sự cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt,
hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất và chi phí sản xuất và giá cả quốc tế.
– Sự tác động của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, nhất là
công nghệ thông tin làm cho lực lượng sản xuất và đời sống kinh tế ngày nay
được phát triển nhanh chóng và quốc tế hóa sâu rộng, tạo ra sức sản xuất to
lớn, đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Phương tiện thông tin liên lạc và giao thông hiện đại phát triển mạnh
mẽ đã giúp giảm chi phí sản xuất, giúp rút ngắn khoảng cách và thời gian đi
lại giữa các nước, làm cho quá trình liên kết giữa các quốc gia ngày một phát
triển.
c. Tính đa dạng, mâu thuẫn và lệ thuộc lẫn nhau của nền kinh tế thế
giới trong thời đại ngày nay đã thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế quốc gia phụ thuộc vào
nhau, liên thông, giao thoa và tác động lẫn nhau trên các lĩnh vực sản xuất,
thương mại, đầu tư, tài chính thông qua các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Mỗi
thị trường của quốc gia là một phần của thị trường thế giới và khu vực, được
nối kết qua hoạt động thương mại và đầu tư.
Xu thế hợp tác cũng như cạnh tranh (vừa là đối tác vừa là đối tượng
cạnh tranh) trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của nhau và đảm bảo các bên
cùng có lợi đã mang lại thời cơ và khả năng cho phát triển.
Chiến tranh lạnh kết thúc, quá trình hội nhập đang mở rộng, trật tự kinh
tế thế giới mới được hình thành, với xu hướng rõ rệt là: hợp tác đối thoại thay
cho đối đầu.
d. Khoảng cách chênh lệch khá xa giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển đã đặt ra sự cần thiết phải mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế. Điều này có lợi cho cả hai phía.
Ngày nay, các nước đang phát triển xuất hàng chế biến sang các nước
phát triển, ngược lại các nước phát triển xuất dịch vụ tài chính tiền tệ và kỹ
thuật sang các nước đang phát triển.
2. Lợi ích của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đối với nước ta.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ mang lại lợi ích nhiều mặt cho
nước ta: thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, khai thác một cách tối ưu
những nguồn lực bên trong, chuyển giao công nghệ, chuyển dần cơ cấu kinh
tế, phát huy được lợi thế so sánh, qua đó giải quyết được việc làm, nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống xã hội.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một nội dung quan trọng của
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta, là một đối sách để tranh thủ
thời cơ, vượt qua thách thức, đưa nền kinh tế tiếp tục phát triển với nhịp độ
cao. Nó có tác dụng kích thích và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và từng
bước rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước phát triển.
Nhưng đồng thời, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng mang lại
những mặt tiêu cực nhất định: dễ bị xói mòn bản sắc dân tộc, rơi vào chủ
nghĩa thực dân mới, làm thiệt hại lợi ích quốc gia. Có mở cửa mới có thể phát
triển, nhưng phải làm chủ quá trình mở cửa: tạo môi trường đầu tư tốt, nhưng
phải tránh lệ thuộc vào phía nước ngoài…
Câu 75: Phân tích các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Mỗi quốc gia muốn mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cần tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản nhất định.
1. Nguyên tắc bình đẳng:
Đây là nguyên tắc nền tảng được đặt ra khi thiết lập các mối quan hệ
kinh tế quốc tế. Nó bắt nguồn từ yêu cầu phải coi mỗi đối tác bên ngoài là
những chủ thể có đủ tư cách trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đảm bảo nguyên
tắc này, các bên đối tác không phân biệt giàu hay nghèo, lớn hay nhỏ, phải
tôn trọng nhau, không được chèn ép nhau, không được đưa ra những đòi hỏi
vô lý đối với bên kia. Những nước lớn thường vi phạm nguyên tắc này.
2. Nguyên tắc cùng có lợi.
Nguyên tắc này là cơ sở kinh tế để thiết lập, mở rộng và duy trì lâu dài
các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Chỉ có đảm bảo lợi ích cho các bên thì quan
hệ kinh tế quốc tế mới hình thành và phát triển. Đây vừa là động lực kinh tế
vừa là cơ sở hình thành, tồn tại và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Nếu
nguyên tắc này không được đảm bảo thì cũng là vi phạm nguyên tắc thứ
nhất, bởi vì đây là sự bình đẳng trong thực tế.
Nguyên tắc này xuất phát từ quy luật giá trị, qui luật cạnh tranh, quy luật
giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường.
Đây là cơ sở thiết kế đường lối và chính sách kinh tế đối ngoại của
nước ta hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trên nguyên tắc bình đẳng và hai
bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với
tất cả các nước” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, Nhà xuất bản Sự thật Hà nội,
1989, trang 425).
3. Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.
Nguyên tắc này được nêu lên là xuất phát từ sự khác biệt về chế độ
chính trị, hệ thống chính sách, hệ thống pháp luật và quan điểm của các quốc
gia: sự độc lập và chủ quyền chính trị. Mỗi nước có giá trị riêng của mình và
nhập gia phải tùy tục. Chủ quyền kinh tế: chủ quyền tiền tệ, lãnh hải, bầu
trời… xuất phát từ chủ quyền chính trị.
Đảm bảo nguyên tắc này, các quốc gia, các bên đối tác phải loại trừ
những trở ngại do sự khác biệt ấy mang lại, không được dùng quan hệ kinh tế
để gây áp lực chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, đưa
ra những yêu sách về chế độ kinh tế – chính trị của nhau.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhưng phải quản lý kiểm soát chặt
chẽ, đó là chủ quyền của mỗi quốc gia.
4. Nguyên tắc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế xã hội.
Nguyên tắc này yêu cầu mỗi nước phải phát huy lợi thế so sánh của
nước mình, nhằm kết hợp nội lực với ngoại lực để khẳng định vị thế của nước
mình trong nền kinh tế thế giới và phấn đấu vì sự thịnh vượng chung.
Đây là nguyên tắc bảo đảm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát
triển kinh tế – xã hội trong mỗi nước và trên toàn thế giới khi quan hệ kinh tế
quốc tế được mở rộng.
– Nhà nước cần phải có sách lược mở cửa đúng đắn, mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, phải đảm bảo ổn định và phát triển sản xuất cũng như đời
sống; phải tạo điều kiện thuận lợi cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế, phát huy lợi thế của đất nước.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải góp phần giải quyết việc làm,
nâng cao thu nhập xã hội, không được làm thiệt hại đến sản xuất trong nước.
– Phải cảnh giác với những thiệt hại cho đất nước do phía nước ngoài
tìm cách định giá công nghệ cao, tài sản vô hình trong nước không được tính
đủ.
– Cần tránh sự lệ thuộc quá nhiều vào phía nước ngoài.
Câu 76: Trình bày các hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta.
1. Các hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại:
a. Ngoại thương (thương mại quốc tế):
Là hoạt động buôn bán hàng hóa (không kể dịch vụ) giữa các quốc gia
trên thế giới, xuất phát từ sự cách biệt về giá cả (do tăng năng suất lao động
hay tăng cường độ lao động) và chất lượng hàng hóa trong nước so với nước
ngoài.
Đây là hình thức lâu đời nhất, trực tiếp phát huy lợi thế, tiềm năng của
các quốc gia và biểu hiện sức mạnh của một quốc gia.
Đối với các doanh nghiệp, sản xuất cần phải có thị trường, trong khi thị
trường nội địa đã bão hòa, giải pháp tất yếu là phải đẩy mạnh xuất khẩu.
Có hai quan điểm được nêu lên:
– Người ta chỉ xuất những sản phẩm là thế mạnh của mình và là thế
yếu của quốc tế và ngược lại. Đây là xét về cung hàng hóa.
– Người ta chỉ xuất khẩu những thứ mà thị trường thế giới cần chứ
không phải những thứ mà mình có. Đây là xét về cầu hàng hóa. Quan điểm
này tích cực, năng động hơn, phải nhập khẩu để phục vụ cho xuất khẩu.
Vấn đề là làm thế nào để những sản phẩm thế mạnh của mình được thị
trường thế giới chấp nhận, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. Giải pháp
là cải tiến chất lượng, để nâng giá cả, đổi mới cơ cấu mặt hàng…
b. Hợp tác đầu tư vốn với nước ngoài:
Đây là hình thức hợp tác về vốn trên phạm vi thế giới, nhằm mục đích
thu về giá trị tăng thêm và còn giúp cân đối cán cân thương mại, cán cân
thanh toán quốc tế.
Về mặt lịch sử, hình thức này xuất hiện sau nhưng lại góp phần tạo
điều kiện cho hình thức ngoại thương. Nó dựa trên cơ sở quy luật bình quân
hóa tỷ suất lợi nhuận trên phạm vi thế giới.
Có các loại đầu tư nước ngoài:
– Đầu tư quốc tế trực tiếp FDI của doanh nghiệp và cá nhân ở nước
ngoài vào sản xuất kinh doanh; chủ sở hữu nắm giữ quyền sử dụng và quản
lý vốn đầu tư; hiệu quả đầu tư tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh với
các hình thức là:
+ Hợp tác kinh doanh theo hợp đồng, không cần thành lập pháp nhân
mới: hợp đồng gia công, hợp đồng thương vụ.
+ Cùng góp vốn theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp liên doanh
có hội đồng quản trị và ban điều hành chung.
+ Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
+ Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao: hình thức này cần
nguồn vốn lớn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ
tầng.
Hình thức này giúp mở rộng thị trường, trực tiếp tạo ra việc làm và thu
nhập cho nền kinh tế, tạo ra năng lực sản xuất mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
– Đầu tư gián tiếp: nhà đầu tư chỉ cho vay, quyền sở hữu tách rời
quyền sử dụng vốn đầu tư, không gắn với quá trình sản xuất kinh doanh, chỉ
cần thu về lợi tức trong ngắn hạn; phía trong nước phải tự tổ chức sản xuất
kinh doanh, tự tìm thị trường, nguồn vốn có thể đến từ Chính phủ (vốn ODA)
hay tư nhân nước ngoài.
Cần chú trọng các nguồn nội lực, tích lũy vốn trong nước hơn là vay
mượn nước ngoài trong giai đoạn đầu phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài
giảm không hẳn là không tốt, sự gia tăng của nó chỉ đến một mức nào đó thôi.
Vốn ngắn hạn sẽ có thể chuyển thành dài hạn và vốn dài hạn cũng có
thể chuyển thành ngắn hạn một cách dễ dàng. Khi những khoản đầu tư gián
tiếp, ngắn hạn rút đi sẽ gây nguy cơ khủng hoảng tài chính tiền tệ, nên cần
kiểm soát, quản lý nguồn vốn này.
c. Hợp tác về khoa học và công nghệ:
Đây là hình thức hợp tác nhằm trao đổi, nghiên cứu công nghệ, thông
tin, tri thức. Những dạng cụ thể là:
– Mua bán bằng phát minh sáng chế kỹ thuật, chuyển giao công nghệ.
Ngày nay công nghệ là hàng hóa, luật pháp bảo vệ tác quyền – quyền
sở hữu trí tuệ.
– Thu hút chất xám, trao đổi chuyên gia.
– Hợp tác nghiên cứu, trao đổi thông tin về khoa học và công nghệ.
Hình thức này giúp tiết kiệm được vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học
– kỹ thuật và ứng dụng; đồng thời tiết kiệm được thời gian, tránh trùng lắp
công sức trong việc nghiên cứu công nghệ.
d. Hợp tác tài chính, tín dụng quốc tế:
Đây là hình thức hợp tác giữa các quốc gia qua việc thương lượng hay
vay – cho vay những ngân khoản cũng như hàng hóa để cân đối tài chính,
cân đối cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế. Hình thức hợp tác
tín dụng khác với hình thức hợp tác đầu tư vốn là không chú trọng việc sinh
lợi của đồng tiền mà chỉ chú trọng khả năng thanh toán của nó.
Khả năng trả nợ của một nước tùy thuộc vào: dự trữ ngoại tệ, khả năng
xuất khẩu so với nợ nước ngoài.
e. Những hình thức xuất nhập khẩu vô hình, trao đổi dịch vụ:
– Hàng không, du lịch quốc tế: giúp lưu chuyển tiền tệ giữa các quốc
gia; thực hiện xuất khẩu tại chỗ; tạo điều kiện cho thương mại và đầu tư.
– Vận tải và bảo hiểm: mở ra khả năng xuất khẩu vô hình, tạo điều kiện
thúc đẩy xuất khẩu, tạo ra nguồn thu cho đất nước.
– Hợp tác lao động: xuất nhập khẩu lao động tạo nguồn thu lớn, hiệu
quả sử dụng lao động cao hơn so với sử dụng trong nước.
– Giáo dục, y tế, thể dục thể thao.
f. Những hình thức theo các đối tác:
Ở trên là những hình thức hợp tác theo mặt hàng hay đối tượng, ngoài
ra còn có các hình thức theo đối tác là:
– Hợp tác giữa các địa phương, thành phố của hai quốc gia.
– Hợp tác với các Tổ chức phi chính phủ (NGO).
– Hợp tác với các tổ chức Chính phủ.
– Hợp tác với các doanh nghiệp bản xứ ở nước ngoài.
Câu 77: Phân tích những mục tiêu và quan điểm về chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Trình bày những giải pháp cần thiết để thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại trong giai đoạn hiện nay.
1. Mục tiêu và quan điểm chung về chính sách kinh tế đối ngoại.
a. Mục tiêu:
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là nhằm từng bước tiến tới dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong những năm trước mắt, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước
trong khu vực và trên thế giới là nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b. Quan điểm:
Xuất phát từ yêu cầu khách quan là phải mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại và quán triệt quan điểm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Chính sách kinh tế đối ngoại ở nước ta được thực hiện theo định
hướng: “đa phương hóa về nguồn và đa dạng hóa về hình thức quan hệ kinh
tế quốc tế”; bảo đảm phục vụ mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra cho từng giai
đoạn lịch sử cụ thể; kết hợp nội lực với ngoại lực để vừa phát huy ý chí tự
lực, tự cường, vừa hoà nhập nhanh vào cộng đồng thế giới.
Cần quán triệt quan điểm mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng
ta: đa dạng về hình thức, đa phương về nguồn – để tranh thủ mọi nguồn vốn,
phát huy mọi khả năng, kết hợp giữa nội lực với ngoại lực để góp phần phát
triển kinh tế của đất nước. Để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ta cần có
các yếu tố nội lực.
Vấn đề đặt ra là: không phải loại bỏ hình thức nào, chọn lấy hình thức
nào, mà là chọn tất cả các hình thức nhưng phải xem xét cụ thể và phải lựa
chọn những giải pháp tối ưu cho mỗi hình thức. Chẳng hạn, đối với hình thức
ngoại thương: phấn đấu xuất tinh chứ không xuất thô, cố gắng xuất nhiều hơn
nhập, chú trọng hàng hóa nào và không chú trọng hàng hóa nào…
2. Những giải pháp cần thiết.
a. Đảm bảo sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội.
Quá trình toàn cầu hóa với nguy cơ khủng hoảng kinh tế đòi hỏi phải
quản lý chặt chẽ và tăng cường hệ thống bảo hộ xã hội.
b. Xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội. Có hệ
thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Phải
hoàn thiện hệ thống luật pháp cho phù hợp với sân chơi chung mà chúng ta
tham dự.
c. Xây dựng các thể chế kinh tế, hình thành các tổ chức kinh tế trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng thuộc nhiều thành phần kinh tế… có khả năng tham gia hội nhập quốc tế.
Việt Nam ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần để tranh thủ vốn từ các
nhà đầu tư và sự hợp tác của chính phủ các nước.
Nhà nước cần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, cải tiến thủ tục
hành chính, đẩy mạnh vận động xúc tiến đầu tư… Ngoại giao phải phục vụ
việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
d. Đổi mới tư duy kinh tế, tư duy chính trị.
Tư duy mới đòi hỏi phải có nhận thức đúng, phù hợp với mô hình và
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời phải linh hoạt,
thích ứng với các điều kiện mới của thời đại.
– Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong bối cảnh mới là xây dựng và
phát triển đất nước, mang lại đời sống ấm no cho người dân, giữ độc lập chủ
quyền không có nghĩa là khước từ hội nhập vào cộng đồng, tham gia vào
phân công lao động quốc tế.
– Không tách mình ra khỏi các thông lệ quốc tế, cải thiện các mối quan
hệ quốc tế, cần xây dựng uy tín, sự tin cậy lẫn nhau…
– Phải giải quyết hợp lý các vấn đề có liên quan đến lịch sử, quá khứ.
– Tìm kiếm nguồn thu, lợi ích, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế
e. Đổi mới cơ chế kinh tế, cải tiến thủ tục hành chính, tránh các quy định rườm rà, phức tạp làm cản trở các hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo môi trường tốt hơn cho doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, tính toán hợp lý các nguồn thu bổ sung như tăng thuế thu nhập, thuế tiêu thụ, không phân triệt về giá cả…
f. Cần đào tạo và tiêu chuẩn hóa cán bộ làm kinh tế đối ngoại, đáp ứng yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần tránh được thiệt hại trong quan hệ làm ăn với nước ngoài.
Sau khi tìm hiểu môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin dưới dạng các câu
hỏi – đáp; chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng rằng đây là một môn học có khối
lượng kiến thức rộng rãi, đề cập đến nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội,
quan hệ quốc tế…
Qua việc nắm vững được những qui luật kinh tế, những nguyên lý,
những quan điểm… chúng ta sẽ vận dụng chúng một cách đúng đắn vào
công cuộc phát triển kinh tế của nước nhà và hoàn thiện xã hội xã hội chủ
nghĩa ngày một tốt đẹp hơn.
MỤC LỤCCâu 1. Trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển của Kinh
tế chính trị trong lịch sử.
Câu 2. Cơ sở ra đời của Kinh tế chính trị Mác – Lênin là gì? Phân tích
đối tượng và mục đích nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin.
Phân biệt sự khác nhau giữa kinh tế chính trị với kinh tế học.
Câu 3. Phân tích nội dung, ý nghĩa và phương thức thực hiện phương
pháp trừu tượng hóa của Kinh tế chính trị.
Câu 4. Phân tích các chức năng của Kinh tế chính trị Mác – Lênin và
làm rõ sự cần thiết phải nghiên cứu môn học này ở nước ta.
Câu 5. Tại sao nói sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã
hội? Ý nghĩa của nguyên lý này đối với nền kinh tế nước ta.
Câu 6. Phân tích các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Ý nghĩa của
việc nghiên cứu vấn đề này.
Câu 7. Thế nào là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với vị trí là
hai mặt của nền sản xuất xã hội? Hãy làm rõ mối tương quan giữa chúng.
Câu 8. Trình bày khái niệm và phân loại tái sản xuất xã hội? Phân tích
mô hình tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu.
Những căn cứ để lựa chọn hai mô hình trên là gì?
Câu 9. Phân tích nội dung và vai trò của các khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội.
Câu 10. Phân tích các nội dung tái sản xuất xã hội và hãy nêu nhận xét,
liên hệ thực tiễn về nội dung này ở nước ta hiện nay.
Câu 11. Phân tích các quy luật kinh tế của tái sản xuất.
Câu 12. Thế nào là tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế? Phân tích
mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế, giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ xã hội.
Câu 13. Phân tích hiệu quả của tái sản xuất xã hội và thử nêu lên các
giải pháp nhằm đạt hiệu quả ấy. Tại sao có thể nói nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa đảm bảo kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội?
Câu 14. Trình bày sơ lược lịch sử và phân tích các điều kiện của sản
xuất và trao đổi hàng hóa. Nêu những ưu điểm của kinh tế hàng hóa.
Câu 15. Hàng hóa là gì? Những thuộc tính của nó được hiểu và có
quan hệ với nhau như thế nào? Vì sao hàng hóa lại có các thuộc tính đó?
Câu 16. Lượng giá trị của hàng hóa là gì? Hãy phân tích sự chi phối
của các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.
Câu 17. Trình bày nguồn gốc, các hình thái và bản chất của tiền tệ.
Câu 18. Trình bày các chức năng của tiền tệ.
Câu 19. Trình bày khái niệm về giá cả, cho biết mối quan hệ giữa giá
cả và giá trị hàng hóa. Phân tích mối quan hệ giữa giá trị và giá cả hàng hóa
với: Giá trị thị trường, Giá cả sản xuất, Giá cả độc quyền.
Câu 20. Thế nào là thị trường và cơ chế thị trường? Trình bày vai trò
của thị trường và chức năng của cơ chế thị trường trong nền kinh tế?
Câu 21. Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị
trong nền kinh tế hàng hóa. Sự biểu hiện hoạt động của quy luật này trong
các giai đoạn phát triển của CNTB như thế nào?
Câu 22. Phân tích quy luật cung – cầu trong nền kinh tế hàng hóa.
Câu 23. Phân tích quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế hàng hóa.
Câu 24. Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật lưu thông
tiền tệ.
Câu 25. Tư bản là gì? Phân tích công thức tư bản và mâu thuẫn của
nó. Trình bày hai điều kiện xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Câu 26. Phân tích hàng hóa sức lao động và sự khác nhau của hàng
hóa này với hàng hóa thông thường.
Câu 27. Phân tích quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa và nêu những
kết luận (nhận xét) từ quá trình đó.
Câu 28. Thế nào là tư bản bất biến và tư bản khả biến? Phân tích căn
cứ và ý nghĩa phân chia hai phạm trù này.
Câu 29. Thế nào là ngày lao động? Phân tích và so sánh các phương
pháp sản xuất ra giá trị thặng dư. Cho biết sự liên quan giữa các nội dung
trên với tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư? Ý nghĩa lý luận
và thực tiễn của các nghiên cứu này.
Câu 30. Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị
thặng dư. Qui luật này có tồn tại trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa hay không? Vì sao?
Câu 31. Phân tích thực chất và động cơ của tích lũy tư bản. Phân tích
những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy. Cho biết kết quả của quá trình
tích lũy tư bản chủ nghĩa.
Câu 32. Mối quan hệ và sự khác nhau giữa tích tụ tư bản và tập trung
tư bản. Vai trò của tập trung tư bản trong sự phát triển của CNTB.
Câu 33. Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Những nhân
tố ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển tư bản? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
vấn đề này.
Câu 34. Phân tích căn cứ phân chia và đặc điểm của tư bản lưu động
và tư bản cố định. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản cố
định?
Câu 35. So sánh chi phí sản xuất xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa, lợi nhuận với giá trị thặng dư. Cho biết khái niệm và các yếu tố ảnh
hưởng tỷ suất lợi nhuận. Vì sao tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm? Ý nghĩa
của lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
Câu 36. Trình bày sự cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Phân tích sự hình
thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
Nêu ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.
Câu 37. Tư bản thương nghiệp xuất hiện và phát triển như thế nào? Tại
sao tư bản thương nghiệp vừa độc lập lại vừa phụ thuộc vào tư bản công
nghiệp? Phân tích nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp.
Câu 38. Thế nào là tư bản cho vay và tư bản ngân hàng. Phân tích
nguồn gốc hình thành lợi tức và lợi nhuận ngân hàng.
Câu 39. Trình bày về công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng
khoán. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này hiện nay ở nước ta.
Câu 40. Trình bày về tư bản nhà đất và quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa liên quan đến nhà đất. Nêu bản chất và phân loại tô tức. Phân tích giá
cả nhà đất. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu các vấn đề này.
Câu 41. Trình bày những nguyên nhân và nhân tố cản trở xu hướng
độc quyền hóa tư bản chủ nghĩa về kinh tế ở các nước tư bản. Tại sao nói sự
thống trị của độc quyền là bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền?
Câu 42. Phân tích nguồn gốc, cơ chế thống trị kinh tế và vai trò của tư
bản tài chính trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Câu 43. Trình bày khái niệm và nêu các hình thức của tư bản độc
quyền quốc tế. Phân tích điều kiện hình thành và vai trò của tư bản độc quyền
quốc tế.
Câu 44. Phân tích bản chất, nguyên nhân xuất hiện và những biểu hiện
của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Câu 45. Phân tích nội dung và cấu trúc của cơ chế điều tiết kinh tế của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Câu 46. Hãy trình bày những kết quả, nguyên nhân tồn tại, những tiêu
cực và vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
Câu 47. Trình bày những dự báo của Các Mác và Ph.Ăngghen về xã
hội mới xã hội chủ nghĩa.
Câu 48. Trình bày khái quát các lý luận về chủ nghĩa xã hội và kế
hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin.
Câu 49. Trình bày tính tất yếu, đặc điểm và nhiệm vụ cơ bản của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Câu 50. Trình bày khái niệm và nội dung của xã hội hóa sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nêu những nhận thức của mình về quá trình xã
hội hóa sản xuất ở nước ta hiện nay.
Câu 51. Trình bày tính tất yếu khách quan và lợi ích của cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần.
Câu 52. Phân tích các thành phần kinh tế và định hướng phát triển của
chúng ở nước ta.
Câu 53. Phân tích vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và giải pháp
tăng cường vai trò kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay.
Câu 54. Trình bày sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần
kinh tế. Phân tích các quan điểm và giải pháp đảm bảo sự thống nhất giữa
các thành phần kinh tế.
Câu 55. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Câu 56. Phân tích mục tiêu và quan điểm cơ bản của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.
Câu 57. Phân tích nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta.
Câu 58. Phân tích những điều kiện và nêu tên các giải pháp cần thiết
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Câu 59. Kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là gì? Vì sao sự tồn tại của
kinh tế hàng hoá trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
một tất yếu khách quan và có lợi?
Câu 60. Phân tích các đặc điểm của kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện
nay.
Câu 61. Phân tích các điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế hàng
hóa ở nước ta.
Câu 62. Phân tích những giải pháp mấu chốt để phát triển kinh tế hàng
hoá ở nước ta.
Câu 63. Trình bày khái niệm và đặc điểm của cơ chế kinh tế. Làm rõ sự
cần thiết khách quan của vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Câu 64. Phân tích các chức năng và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của
Nhà nước trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 65. Trình bày khái niệm của kế hoạch hóa. Phân tích cơ sở khách
quan, vai trò, nội dung và phương hướng đổi mới kế hoạch hóa ở nước ta
hiện nay.
Câu 66. Trình bày đặc điểm, tác dụng của lưu thông hàng hóa và lưu
thông tiền tệ.
Câu 67. Phân tích bản chất, đặc điểm, chức năng và vai trò của tài
chính trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Câu 68. Phân tích chính sách tài chính và phương hướng đổi mới
chính sách tài chính ở nước ta hiện nay.
Câu 69. Phân tích bản chất, các hình thức, chức năng, vai trò và các
chính sách tín dụng trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Câu 70. Phân tích bản chất và vai trò của lợi ích kinh tế. Giải pháp vận
dụng vai trò lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay.
Câu 71. Phân tích các loại lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay.
Câu 72. Trình bày khái niệm và nội dung của phân phối. Phân tích khái
niệm, bản chất và vai trò của quan hệ phân phối.
Câu 73. Phân tích các hình thức phân phối thu nhập cơ bản ở nước ta
hiện nay.
Câu 74. Trình bày tính tất yếu khách quan và lợi ích của việc mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay.
Câu 75. Phân tích các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ kinh tế đối
ngoại.
Câu 76. Trình bày các hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta.
Câu 77. Phân tích những mục tiêu và quan điểm về chính sách kinh tế
đối ngoại của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trình bày những giải pháp cần thiết để thực hiện chính sách kinh tế đối
ngoại trong giai đoạn hiện nay.
---//---
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
HỎI & ĐÁPMÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
(Tái bản lần thứ 8)
Nhiều tác giả
Chị trách nhiệm xuất bản: TS. QUÁCH THU NGUYỆT
Biên tập: ÁNH TUYẾT
Bìa: BÙI NAM
Sửa bản in: HOÀNG MAI
Kỹ thuật vi tính: THU HÀ
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
161B Lý Chính Thắng – Quận 3 – Tp.HCM
ĐT: (08) 9316 289 – 9350 973 – 9316 211; Fax: (08) 8437 450
Email: [email protected]
Chi nhánh NXB TRẺ tại Hà Nội
Số 20 ngõ 91 Nguyễn Chí Thanh – Q. Đống Đa – Hà Nội
ĐT: (04) 7734 544; Fax: (04) 7734 544
Email: [email protected]
Website: http://www.nxbtre.com.vn