Upload
others
View
9
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1. Giới thiệu khái quát vùng
Vùng Tây Nguyên, một thời gọi là Cao nguyên Trung phần Việt Nam là
khu vực cao nguyên bao gồm 5 tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ bắc xuống
nam gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
Tây Nguyên là một tiểu vùng, cùng với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ
hợp thành vùng Nam Trung Bộ, thuộc Trung Bộ Việt Nam.
Thời Việt Nam Cộng hòa, nơi đây được gọi là Cao nguyên Trung phần.
Hiện nay đôi khi được gọi là Cao nguyên Trung Bộ. Trước đó, thời Bảo Đại làm
Quốc trưởng, vùng đất này còn được hưởng quy chế riêng là vùng Hoàng triều
Cương thổ.
Theo Nguyễn Đình Tư trong bài Tây Nguyên xưa và nay, tạp chí Xưa và
nay, số 61B, tháng 3 năm 1999, thì địa danh Tây Nguyên được biết đến từ năm
1960, khi công bố Hiến pháp 1959 của Việt Nam Cộng hòa, trong đó có điều
khoản về các khu tự trị của các sắc tộc thiểu số và có nhắc đến Tây Nguyên.
Trước đó, từ thời Pháp thuộc, vùng đất này chưa có tên gọi riêng mà chỉ là
đơn vị hành chính trực thuộc Khâm sứ Trung Kỳ, nên có tên là vùng Cao nguyên
Trung Kỳ. Ngoài ra, người Pháp còn gọi nơi này là Les Hauts Plateaux du Sud
(Cao nguyên miền Nam). Thời nhà Nguyễn, vùng đất này được thuộc về châu
Thượng Nguyên (bao gồm Thủy Xá, Hỏa Xá là vùng đất cư trú của người Êđê,
Gia Rai, Ba Na và là một phần Tây Nguyên ngày nay)
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim đã đổi tên đơn vị
hành chính cấp Kỳ thành cấp Bộ. Từ đó vùng đất này được gọi là Cao nguyên
Trung Bộ.
Khi Quốc gia Việt Nam thành lập, Quốc trưởng Bảo Đại đã đổi tên đơn vị
hành chính cấp Bộ thành cấp Phần. Riêng khu vực cao nguyên được tách ra và
được hưởng quy chế hành chính đặc biệt có tên là Hoàng triều cương thổ. Tại
vùng này thì Quốc trưởng Bảo Đại vẫn giữ vai trò là Hoàng đế.
Đến năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm chấm dứt chế độ Bảo đại và
thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa. Hoàng triều cương thổ lại được sát nhập vào
Trung phần và được gọi là vùng Cao nguyên Trung phần. Tên gọi này được chế
độ Việt Nam Cộng hòa sử dụng mãi cho đến năm 1975.
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc
Campuchia. trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và
Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với
Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế.
Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của
các bộ tộc thiểu số, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng,
người thưa, các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành nạn nhân trước các
cuộc tấn công của vương quốc Champa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nô lệ.
Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh
Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua
Chăm Pa là Trà Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Chăm Pa thời đó vào Đại Việt.
Hai phần Chăm Pa còn lại, được Lê Thánh Tông chia thành các tiểu quốc nhỏ
thuần phục Đại Việt. Phần đất Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên
tướng Chăm là Bồ Trì trấn giữ, được vua Lê coi là phần kế thừa của vương quốc
Chiêm Thành. Một phần đất nay là tỉnh Phú Yên, Lê Thánh Tông phong cho Hoa
Anh vương tạo nên nước Nam Hoa. Vùng đất phía Tây núi Thạch Bi, tức miền
Tây Nguyên ngày nay được lập thành nước Nam Bàn, vua nước này được phong
là Nam Bàn vương.[2]
Sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các chúa Nguyễn
ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái một số sứ đoàn để
thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ dàng
chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt, vốn không có thói quen buôn bán nô
lệ. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn còn manh mún và mục tiêu của các chúa
Nguyễn nhắm trước đến các vùng đồng bằng, nên chỉ thiết lập quyền lực rất lỏng
lẻo ở đây. Trong một số tài liệu vào thế kỷ 16, 17 đã có những ghi nhận về các bộ
tộc Mọi Đá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Đá Hàm
(Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và
Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số sinh trú ở vùng Nam Tây Nguyên
ngày nay.
Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên
vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời nhà Tây Sơn, rất nhiều
chiến binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt
với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra
Bắc xuân Kỷ Dậu (1789). Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là
một căn cứ chuẩn bị lực lượng cho quân Tây Sơn thủa ban đầu. Người lãnh đạo
việc hậu cần này của quân Tây Sơn là người vợ dân tộc Ba Na của Nguyễn Nhạc.
Sang đến triều nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây
Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ
Tây Nguyên vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ - 1834). Người
Việt vẫn chú yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền
Đông Nam Bộ ngày nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây
Nguyên (như trường hợp của bộ tộc Mạ).
Trong cuốn Đại Việt địa dư toàn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có
viết: Thủy Xá, Hỏa Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong
Thượng đạo tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đông núi ấy, ...
Hỏa Xá ở phía Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân
Lạp, phía Nam thì là Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sông Đại
Giang, phía dưới là sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy.....
Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện
hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các
nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này.
Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông
Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc
thiểu số. Ông ta thành lập Vương quốc Sedang có quốc kỳ, có giấy bạc, có cấp
chức riêng và tự mình lập làm vua tước hiệu Marie đệ nhất. Nhận thấy được vị trí
quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu, chính
phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên “đăng quang” thay Mayréna. Vùng đất
Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn. Sau đó vài
năm, thì vương quốc này cũng bị giải tán.
Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra
cao nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một
thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác
kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên
vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại Nam. Vì vậy, năm 1896, khâm sứ
Trung kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp
phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ. Năm 1898, vương quốc Sedang bị
giải tán. Một tòa đại lý hành chính được lập ở Kontum, trực thuộc Công sứ Quy
Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban dụ trao cho họ Tây
Nguyên để họ có quyền tổ chức hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu
số ở đây.
Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết
định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát. Vùng đất cao nguyên Trung kỳ (Tây
Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền thực dân Pháp. Năm
1907, tòa đại lý ở Kontum đổi thành tòa Công sứ Kontum, cùng với việc thành
lập các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo. Những thực dân người Pháp
bắt đầu lên đây xây dựng các đồn điền đồng thời cũng ngăn cấm người Việt lên
theo, trừ số phu họ mộ được. Năm 1917, tại đó, thị xã Đà Lạt được thành lập.
2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên nổi bật
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc
Campuchia trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và
Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới
với Campuchia. Còn Lâm Viên không có đường biên giới quốc tế.
2.1. Địa hình:
Địa hình vùng Tây Nguyên đa dạng hơn các vùng khác.Đó là các dãy Cao
Nguyên có độ cao thấp khác nhau liền kề nhau như:
cao nguyên kom tum cao khoảng 500 m, cao nguyên kon plong, cao
nguyên kon hà nừng playku cao khoảng 800 m, cao nguyên M’Drăk cao khoảng
500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, MơNông cao khoảng
800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di linh
cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía
Đông bởi những dãy núi và khối núi cao
Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu
vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia
Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và
Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây
Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và
Nam.
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m
so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê,
ca cao, hồ tiêu, dâu tằm,cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây.
Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là
vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ và đang tiến hành khai thác Bô
xit.
Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với
thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác
và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên có thể coi là mái nhà của miền trung, có
chức năng phòng hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên
nhiên và khai thác lâm sản bừa bãi chưa ngăn chận được tại đây có thể dẫn đến
nguy cơ làm nghèo kiệt rừng và thay đổi môi trường sinh thái.
2.1. Khí hậu
cao trên 1000 m như Đà Lạt thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm như vùng
ôn đới Khí hậu ở Tây Nguyên được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến
hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là
hai tháng nóng và khô nhất.Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao
nguyên cao 400-500 m khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên.
2.3. Tài ngyên thiên nhiên.
2.3.1. Tài nguyên đất
Một trong những tài nguyên lớn được thiên nhiên ưu đãi cho Tây Nguyên,
đó là tài nguyên đất. Toàn vùng có diện tích tự nhiên là 13.085 km2, trong đó chủ
yếu là nhóm đất xám, đất đỏ bazan và một số nhóm khác như: đất phù sa, đất
gley, đất đen. Tây Nguyên có 1,8 triệu ha đất đỏ bazan (chiếm 33,08% diện tích
toàn vùng) tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Lâm
Đồng rất thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp; có 91.000 ha đất phù sa,
52.000 ha đồng cỏ tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi đại gia
súc.Các đất hình thành từ đá bazan có độ phì khá cao (pH/H2O từ trung tính đến
chua, đạm và lân tổng số khá). Sự đồng nhất cao giữa độ phì nhiêu tự nhiên và độ
phì nhiêu thực tế của các nhóm đất và loại đất.
Hiện trạng sử dụng đất của vùng năm 2008:
(Đơn vị: Nghìn ha)
Tổng diện
tích
Đất nông
nghiệp
Đất
lâm nghiệp
Đất
chuyên dùng
Đất
thổ cư
Cả nước 33115,0 9420,3 14816,6 1553, 620,4
Tây
Nguyên5464 1626 3122,5 142 43,5
(Theo Nguồn đơn vị hành chính, đất đai và khí hậu của Tổng cục thống kê)
- Nhóm đất phù sa.
Được hình thành và phân bố tập trung ven các sông, suối trong tỉnh. Tính
chất của loại đất này phụ thuộc vào sản phẩm phong hoá của mẫu chất.
- Nhóm đất glay.
Phân bố tập trung ở các khu vực thấp trũng thuộc các huyện Lắk, Krông
Ana và Krông Bông
- Nhóm Đất Xám.
Là nhóm lớn nhất trong số các nhóm đất có mặt tại Đắk Lắk, phân bố ở
hầu hết các huyện.
-Nhóm Đất Đỏ: chủ yếu là nhóm đất đỏ bazan
Là nhóm đất chiếm diện tích lớn thứ hai (sau đất xám) chiếm tới 55,6%
diện tích đất đỏ bazan toàn Tây Nguyên. Đất đỏ bazan còn có tính chất cơ lý tốt,
kết cấu viên cục độ xốp bình quân 62 - 65%, khả năng giữ nước và hấp thu dinh
dưỡng cao... rất thích hợp với các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế như cà
phê, cao su, chè, hồ tiêu... và nhiều loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày
khác. Đây là một lợi thế rất quan trọng về điều kiện phát triển nông nghiệp của
tỉnh Đắk Lắk.
2.3.2. Tài nguyên nước
-Nguồn nước mặt:
Với những đặc điểm về khí hậu - thủy văn và với 3 hệ thống sông ngòi
phân bố tương đối đều trên lãnh thổ (hệ thống sông Srepok; hệ thống sông Ba, hệ
thống sông Đồng Nai) cùng với hàng trăm hồ chứa và 833 con suối có độ dài trên
10 km, đã tạo cho Đắk Lắk một mạng lưới sông, hồ khá dày đặc. Vì vậy, nhiều
vùng trong tỉnh có khả năng khai thác nguồn nước mặt thuận lợi để phục vụ sản
xuất và đời sống, nhất là các địa bàn phân bố dọc theo hai bên sông Krông Ana
thuộc các huyện:Krông Ana, Krông Pắc,Lắk,....
- Nguồn nước ngầm:
Tập trung chủ yếu trong các thành tạo BaZan & Trầm tích Neogen đệ tứ,
tồn tại chủ yếu dưới 2 dạng: Nước lỗ hổng và nước khe nứt. Tổng trữ lượng ước
tính:
Chất lượng nước thuộc loại nước siêu nhạt, độ khoáng hoá M= 0,1 - 0,5, pH = 7-
9. Loại hình hoá học thường là Bicacbonat Clorua - Magie, Can xi hay Natri.
2. 3.3. Tài nguyên rừng
Sau khi chia tách tỉnh, diện tích đất có rừng của Đắk Lắk là 608.886,2 ha,
trong đó rừng tự nhiên là 594.488,9 ha, rừng trồng là 14.397,3 ha. Độ che phủ
rừng đạt 46,62% (số liệu tính đến ngày 01/01/2004). Rừng Đắk Lắk được phân
bố đều khắp ở các huyện trong tỉnh, đặc biệt là hành lang biên giới của tỉnh giáp
Campuchia. Rừng Đắk Lắk phong phú và đa dạng, thường có kết cấu 3 tầng: cây
gỗ, các tác dụng phòng hộ cao; có nhiều loại cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế,
vừa có giá trị khoa học; phân bố trong điều kiện lập địa thuận lợi, nên rừng tái
sinh có mật độ khá lớn. Do đó rừng có vai trò quan trọng trong phòng chống xói
mòn đất, điều tiết nguồn nước và hạn chế thiên tai. Rừng Đắk Lắk có nhiều loại
động vật quý hiếm phân bổ chủ yếu ở vườn Quốc gia Yôk Đôn và các khu bảo
tồn Nam Kar, Chư Yangsin... có nhiều loại động vật quý hiếm ghi trong sách đỏ
nước ta và có loại được ghi trong sách đỏ thế giới. Rừng và đất lâm nghiệp có vị
trí quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH của tỉnh.
2.3. 4. Tài nguyên khoáng sản:
Dak lak không những được thiên nhiên ưu đãi về tài nguyên đất, rừng mà
còn rất phong phú và đa dạng về các loại hình khoáng sản. Trên địa bàn tỉnh có
nhiều mỏ khoáng sản với trữ lượng khác nhau, nhiều loại quý hiếm như Sét cao
lanh (ở M’DRăk, Buôn Ma Thuột - trên 60 triệu tấn), sét gạch ngói (Krông Ana,
M’DRăk, Buôn Ma Thuột - trên 50 triệu tấn), vàng (Ea Kar), chì (Ea H’Leo),
phốt pho (Buôn Đôn), Than Bùn (Cư M’Gar), đá quý (Opan, Jectit), đá ốp lát, đá
xây dựng, cát xây dựng... phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh.
3. Dân cư, xã hội
3.1. Dân số:
Tây Nguyên là vùng có dân số tăng nhanh nhất nước ta từ 1 triệu người
năm 1975 lên 5 triệu người năm 2005 với tỉ lệ tăng dân số trung bình 10 %/năm
trong vòng 30 năm và là tăng cơ học (theo kinh nghiệm của thế giới thì tăng dân
số cơ học 3 %/năm là ở mức báo động). Việc tăng dân số cơ học với mật độ quá
cao và tốc độ quá nhanh gây ra sự đảo lộn toàn diện về xã hội chưa từng có.
Theo thống kê của Tổng cục thống kê thì dân số năm 2008 của Tây
Nguyên là 5.004.200 người chiếm 5,8 % dân số của cả nước. Với mật độ dân số
trung bình là 92 người/km2 (mật độ trung bình của cả nước là 260 người/km2).
3.2. Dân tộc:
Cơ cấu dân cư ở Tây Nguyên bị đảo lộn lớn, cư dân bản địa trở thành thiểu
số với tỷ lệ chênh lệch lớn trên chính đất đai rừng núi ngàn đời của họ. Đầu thế
kỷ XX: người bản địa chiếm 95% dân số. Năm 1975: 50% dân số. Hiện nay còn
15-20% dân số (Đắc Lắc còn 15%, Đắc Nông còn 10%, Kontum còn 45-50%…).
Nhưng các dân tộc ở đây vẫn đã và đang gìn giữ, phát huy được nét đẹp trong
truyền thống văn hóa của mình.
- Người Ê Đê: Còn gọi là người Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê,
êgar, Ðê. Thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Người ê
Ðê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây nguyên. Dấu vết về nguồn gốc
hải đảo của dân tộc ê Ðê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến
trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng ê Ðê vẫn còn là một
xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta. Ðịa bàn cư trú
chủ yếu hiện nay là tỉnh Ðắc Lắc, phía nam tỉnh Gia Lai. Ngôi nhà truyền thống
của người ê Ðê là nhà sàn dài, kiến trúc mô phỏng hình thuyền với 2 đặc trưng cơ
bản là: hai vách dọc dựng thượng thách - hạ thu; hai đầu mái nhô ra. Gia đình ê
Ðê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang họ mẹ, con gái út
là người thừa kế. Xã hội ê Ðê vận hành theo tập quán pháp truyền của tổ chức gia
đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao
đổi. Làng gọi là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất.
Về văn chương, khan là sử thi, trường ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn là loại
ngâm kể kèm theo một số động tác để truyền cảm. Về dân ca có hát đối đáp, hát
đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc ê Ðê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng
bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một trống cái mặt da. Không có một
lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt tiếng
cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu khô
như các dân tộc khác ở Trường Sơn, Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ thuật
riêng mang tính độc đáo.
- Người Ba Na: Còn gọi là người Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông,
Kpang Kông... Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây
Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số
đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các
cao nguyên miền Trung nước ta. Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy.
Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum. Họ cư
trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình
sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với
hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt
chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội
làng, xử án... Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn
thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Dân ca rất phong
phú nhưng phổ biến là điệu hmon và roi. Nhạc cụ rất đa dạng gồm cả bộ dây, bộ
hơi và bộ gõ. Múa dân gian Ba Na trong đó có múa phục vụ nghi lễ và biểu diễn
ở hội hè được nhiều người ưa chuộng.
- Người Gia Rai: Giơ Ray, Chơ Ray, tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ hệ
Malayô Pôlynêixa (ngữ hệ Nam Ðảo). Dân tộc Gia Rai là một trong những cư
dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây Nguyên, lan sang một phần đất Campuchia.
Trong xã hội Gia Rai xưa đã có Pơ tao ia (vua nước) và Pơ tao pui (vua lửa)
chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió hoà... Làng (Plơi hoặc Bôn) vừa là đơn
vị cư trú vừa cấu kết thành tổ chức xã hội, có một hội đồng gồm những ông già
chủ trì chung (Phun pơ bút). Dòng họ theo chế độ mẫu hệ nên phả hệ hoàn toàn
tính về dòng mẹ. Khối cộng đồng máu mủ được tập hợp thành từng họ - Kơ nung
hoặc Ðgioai. Người Gia Rai có nhiều trường ca như Ðăm San, Xinh Nhã, Ðăm
Di... thể hiện dưới hình thức hát thơ có đệm đàn Tưng nưng. Những điệu vũ dân
gian Gia Rai có một số động tác mô phỏng những cuộc chiến tranh giữa các bộ
tộc. Ðàn Tơ rưng, Krông put, Tưng nưng ... rất được phổ biến.
3.3.Lao động:
Lao động ở Tây Nguyên chủ yếu là lao động phổ thông, hiện nay vùng này
vẫn còn đang thiếu một lực lượng lao động lành nghề có trình độ chuyên môn cao
để có thể phục vụ được cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa vùng.
Tỉ lệ người thất nghiệp và chưa có việc làm trong độ tuổi lao động ở Tây
Nguyên năm 2008:(Đơn vị: %)
Thất nghiệp Chưa có việc làm
ChungThành
thị
Nông
thônChung
Thành
Thị
Nông
thôn
Cả nước 2,38 4,65 1,53 5,10 2,34 6,1
Tây Nguyên 1,42 2,51 1,00 5,12 3,72 5,65
(Theo Nguồn dân số và lao động của Tổng cục thống kê)
4. Tình hình phát triển kinh tế
Năm 2008, GDP toàn Tây Nguyên tăng 14% so với năm 2007, thu nhập
bình quân đầu người đạt 11,34 triệu đồng (vượt cả mục tiêu đặt ra cho năm 2010
tới 1,34 triệu đồng). Cơ cấu kinh tế của vùng chuyển dịch theo hướng tích cực,
ngành nông, lâm nghiệp có xu hướng giảm dần, ngành công nghiệp dịch vụ tăng
lên: cơ cấu ngành nông, lâm nghiệp là 45%, ngành công nghiệp xây dựng 26%,
ngành dịch vụ 29%.
4.1 Nông nghiệp:
4.1.1. Trồng trọt: Tuy không phải là vựa lúa của cả nước nhưng là nơi tập
trung phần lớn diện tích cây công nghiệp - cây kinh tế thế mạnh và là nguồn lực
phát triển của vùng.
- Cây lương thực: Tuy Tây Nguyên không phải là vùng có thế mạnh về
sản xuất lương thực nhưng sản lượng lương thực có hạt vẫn tăng nhanh: năm
2000 là 907 nghìn tấn và năm 2007 là trên 2 triệu tấn. Lương thực bình quân
cũng tăng từ 214 kg lên 310 kg/người trong thời gian tương ứng. Từ năm 2003
đến 2007, khu vực Tây Nguyên đã sản xuất đạt bình quân lương thực đầu người
trên 300kg/năm, về cơ bản đã chủ động được lương thực cho toàn bộ dân số
trong vùng.
Cây lương thực có hạt nói chung của toàn vùng năm 2008:
Cả nước Tây Nguyên
Diện tích (nghìn ha) 8542 448,9
Sản lượng (nghìn tấn) 43258,3 2032,7
Năng suất bình quân (tấn/ha) 5,06 4,53
(Theo Nguồn Nông – Lâm – Thủy sản của Tổng cục thống kê)
Cây lương thực có hạt của vùng chiếm 5,25% tổng diện tích cây có hạt của
cả nước với sản lượng chiếm khoảng 4,7% tổng sản lượng cây có hạt của cả
nước. Năng suất bình quân 4,53 tấn/ha thấp hơn so với mức năng suất bình quân
của cả nước là 5,06 tấn/ha. Và sản lượng cây lương thực có hạt bình quân đầu
người của vùng là 406,2 kg thấp hơn mức so với cả nước là 501,8 kg.
+ Cây lúa: Diện tích lúa của vùng năm 2008 là 211,7 nghìn ha chiếm
2,86% tổng diện tích lúa cả nước, với sản lượng 938,4 nghìn tấn chiếm 2,42 %
tổng sản lượng lúa của cả nước, năng suất bình quân là 44,3 tạ/ha thấp hơn mức
năng suất bình quân của cả nước 52,2 tạ/ha. (Theo Nguồn Nông – Lâm – Thủy
sản của Tổng cục thống kê)
+ Cây lương thực khác:
Diện tích cây ngô của vùng năm 2008 là 236,9 nghìn ha chiếm 21% diện
tích ngô của cả nước và sản lượng là 1093,9 nghìn tấn chiếm 24,1% sản lượng
ngô của cả nước với năng suất bình quân là 46,2 tạ/ha. (Theo Nguồn Nông – Lâm
– Thủy sản của Tổng cục thống kê).
- Cây hoa màu: Đây là vùng có điều kiện thuận lợi để gieo trồng và sản
xuất các loại rau, củ quả ôn đới
- Cây công nghiệp hàng năm: Đây là vùng có nhiều điều kiện tự nhiên để
phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày như dâu tằm, đậu tương, lạc
+ Cây đậu tương:
Tỷ trọng diện tích đậu tương của Tây Nguyên so với cả nước
Năm 2004 2005 2006 2007
Diện tích gieo
trồng cả nước
(nghìn ha)
182568 183833 185600 190269
Diện tích gieo
trồng của TN
(nghìn ha)
23043 23081 23600 24920
% so với cả
nước12.62% 12.55% 12.71% 13.09%
Tỉ trọng sản lượng đậu tương của Tây Nguyên so với cả nước
Năm 2004 2005 2006 2007
Sản lượng cả
nước (nghìn
tấn)
242092 292481 285100 275317
Sản lượng của
TN (nghìn tấn)24524 42571 37400 39833
% so với cả
nước9.84% 14.55% 13.11% 14.46%
(Theo Nguồn thống kê ngành trồng trọt của Bộ NN&PTNT)
+ Cây lạc:
Tỷ trọng diện tích lạc của Tây Nguyên so với cả nước
Năm 2004 2005 2006 2007
Diện tích gieo
trồngcả nước
(nghìn ha)
285689 263683 246700 254249
Diện tích gieo
trồng của TN
(nghìn ha)24787 25280 23100 20529
% so với cả 8.67% 9.58% 9.36% 8.07%
nước
Tỉ trọng sản lượng lạc của Tây Nguyên so với cả nước
Năm 2004 2005 2006 2007
Sản lượng cả nước (nghìn
tấn) 451095 485610 462500 504921
Sản lượng của TN (nghìn
tấn) 24273 31863 33100 32119
% so với cả nước 5.38% 6.56% 7.15% 6.36%
(Theo Nguồn thống kê ngành trồng trọt của Bộ NN&PTNT)
- Cây công nghiệp lâu năm: Tây Nguyên được xem là vùng chuyên môn
hóa cây công nghiệp lâu năm là một trong những thế mạnh của vùng trong phát
triển nông nghiệp với các loại cây tiêu biểu như cà phê, cao su, chè…
+ Cây cà phê:
Đặc điểm sinh thái: là cây ưa nóng, nhiệt độ thích hợp từ 16-20oC cần nhiều
ánh sang, không chịu được sương muối, thích hợp nhất với các loại đất đỏ bazan,
feralit, độ ẩm trong đất luôn trên 70%
Phân loại:
Cà phê vối
Cà phê chè
Cà phê mít
Phân bố chủ yếu ở Đắc Lăk, Đắc Nông, Gia Lai, Lâm Đồng.
Tây Nguyên được xem là vùng có lợi thế so sánh trong chuyên môn hóa sản
xuất cây cà phê, có điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu thuận lợi để phát triển sản
xuất cây cà phê cho năng suất, sản lượng cao với chi phí thấp. Trong ngành nông
nghiệp của Tây Nguyên, sản xuất cà phê giữ vị trí quan trọng ảnh hưởng lớn tới
giá trị sản lượng nông nghiệp. Sản xuất cà phê đóng góp khoảng gần 30% GDP
của Tây Nguyên. Hiện khu vực này là vùng chuyên canh tập trung có qui mô lớn
về sản xuất cà phê của Việt Nam. Trong những năm cuối của thập niên 90, sản
lượng cà phê nhân của vùng Tây Nguyên chiếm trên dưới 70% sản lượng của cả
nước. Tác động của ngành sản xuất này với tăng trưởng kinh tế của vùng là rất
lớn. Sản xuất cà phê là nguồn thu ngoại tệ quan trọng với các tỉnh Tây Nguyên,
trong tổng kinh ngạch xuất khẩu của các tỉnh Tây Nguyên, giá trị xuất khẩu của
cà phê luôn chiếm khoảng 80%. Nếu giá trị xuất khẩu của cà phê tăng 1% thì kim
ngạch xuất khẩu sẽ tăng 1.075%. Tác động của ngành sản xuất này không chỉ với
tăng trưởng kinh tế mà quan trọng hơn là tạo ra thu nhập và việc làm cho người
dân ở đây.
Tỷ trọng diện tích cà phê của Tây Nguyên so với cả nước
2004 2005 2006 2007
Diện tích cả nước (ha) 503200 520891 497000 506400
Diện tích của TN (ha) 434335 452026 449400 458200
% so với cả nước 86.3% 86.8% 90,42% 90,48%
Tỉ trọng sản lượng cà phê của Tây Nguyên so với cả nước
Năm 2004 2005 2006 2007
Sản lượng cả
nước (nghìn tấn)834,6 767,7 985,3 961,2
Sản lượng của
TN (nghìn tấn)768,5 706,8 928,2 897,9
% so với cả nước 92,08% 92,06% 94,2% 93,4%
(Theo Nguồn thống kê ngành trồng trọt của Bộ NN&PTNT)
Diện tích cà phê hiện nay của các tỉnh Tây Nguyên là 436.000 ha, giảm
khoảng 50.000 - 60.000ha so với thời kỳ đạt đỉnh cao vào năm 2002. Với diện
tích này, cà phê Tây Nguyên vẫn chiếm khoảng 90% diện tích cà phê cả nước.
+ Cây cao su:
Đặc điểm sinh thái: cây Caosu là cây cực kỳ khó tính, nhiệt độ từ 25-30oC,
độ cao dưới 600m, độ ẩm đất trên 60%, không mưa nhiều nhưng độ ẩm đất cao,
không chịu được gió mạnh.
Tỉ trọng diện tích gieo trồng cao su của Tây Nguyên so với cả nước:
Năm 2004 2005 2006 2007
Diện tích gieo trồng
cả nước (nghìn ha)450,8 480,2 522,2 549,6
Diện tích gieo trồng
của TN (nghìn ha)104,4 110 117,5 124,9
% so với cả nước 23% 22,7% 23,2% 22,9%
Tỉ trọng sản lượng cao su của Tây Nguyên so với cả nước:
Năm 2004 2005 2006 2007
Sản lượng cả nước
(nghìn tấn)400,1 468,6 55,4 601
Sản lượng của TN
(nghìn tấn)56,8 80 93,2 106,6
% so với cả
nước17% 17,7% 14,2% 17,1%
(Theo Nguồn thống kê ngành trồng trọt của Bộ NN&PTNT)
+ Cây chè:
Đặc điểm sinh thái: thích nghi ở nhiệt độ từ 15-25oC , tổng nhiệt độ trong
năm phải đạt 8000oC độ ẩm không khí trên 70%, chịu được sương muối và thích
hợp nhất với đất feralit đỏ vàng.
Phân loại:
Chè Tuyên Quang lá to
Chè Tuyên Quang lá nhỏ
Chè Shan
Chè Ấn Độ
Cây chè được trồng nhiều ở Mộc Châu, Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Lâm Đồng.Tỉ trọng diện tích chè của Tây Nguyên so với cả nước:
Năm 2004 2005 2006 2007
Diện tích cả nước
(nghìn ha)118,7 118,4 122,9 125,7
Diện tích của TN
(nghìn ha)26,9 26,8 28 27,8
% so với cả nước 22,7% 22,6% 22,8% 22,1%
Tỉ trọng sản lượng chè của Tây Nguyên so với cả nước:
Năm 2004 2005 2006 2007
Sản lượng cả nước
(nghìn tấn)487,6 534,2 648,9 704,9
Sản lượng của TN
(nghìn tấn)149,2 157,4 175,6 193,1
% so với cả nước 30,6% 29,5% 27,1% 27,4%
(Theo Nguồn thống kê ngành trồng trọt của Bộ NN&PTNT)
4.1.2. Chăn nuôi:
Phát huy thế mạnh của khu vực có lợi thế về điều kiện tự nhiên, đồng cỏ,
nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc phong phú, trong vài năm trở lại đây,
nhất là từ năm 2001 đến nay ngành chăn nuôi của các tỉnh Tây Nguyên đã có
những bước phát triển mới, nâng dần tỷ trọng trong sản xuất nông nghiệp (tỷ
trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp đã chiếm 10,7%, còn thấp nhiều so với
cả nước). Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên đã có tổng đàn bò trên 747.900 con,
tăng 21,21% so cùng kỳ này năm ngoái và cao hơn so với tăng trưởng chung toàn
quốc là 17,5%, đàn trâu 79.025 con, tăng gần 10%, tổng đàn dê, cừu 116.100
con, tăng 81,8% so cùng kỳ năm ngoái. Các tỉnh Tây Nguyên hiện cũng có tổng
đàn lợn gần 1,4 triệu con, 7,8 triệu con gia cầm và 272.194 đàn ong (chiếm
40,08% tổng đàn, và 64,5% sản lượng mật của cả nước). Tây Nguyên đã có sự
chuyển biến tích cực về tổ chức sản xuất trong chăn nuôi, từ phân tán, nhỏ lẻ, ít
đầu tư, thậm chí có vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa "tự cung,
tự cấp" sang chăn nuôi tập trung ở qui mô trang trại, hoặc đồng bào dân tộc đã
làm chuồng trại để chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm... xuất bán ra thị trường. Cơ
cấu giống cũng đã có sự chuyển đổi từ những giống địa phương, giống truyền
thống sang chăn nuôi bằng các giống mới ngoại nhập, giống lai cho năng suất,
chất lượng thịt cao. Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên đã phát triển hàng ngàn trang
trại chăn nuôi bò, trâu, lợn, dê với qui mô mỗi trang trại từ 100 con trở lên, trong
đó, riêng bò có 919 trang trại. Hệ thống tổ chức ngành chăn nuôi, thú y tại khu
vực Tây Nguyên cũng đã được tăng cường mở rộng và ngày càng được củng cố,
các loại dịch bệnh nguy hiểm từng bước được khống chế. Công tác phát triển
chăn nuôi đã mang lại những kết quả nhất định góp phần thúc đẩy nền kinh tế của
các tỉnh Tây Nguyên, các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo công ăn
việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho xã hội, tăng tích luỹ ngân sách,
giúp cho một bộ phận đồng bào các dân tộc xoá đói giảm nghèo, đồng thời, tạo ra
những tiền đề tốt hơn để phát triển chăn nuôi trong những năm kế tiếp.
4.2. Lâm nghiệp
Tổng diện tích rừng của Tây Nguyên năm 2008
(Đơn vị: Nghìn ha)
Tổng diện tích rừng Rừng tự nhiên Rừng trồng
Cả nước 13118,6 10348,6 2770,2
Tây Nguyên 2928,7 2713,4 197,3
(Theo Nguồn Nông - lâm – ngư nghiệp Tổng cục thống kê)
Đất lâm nghiệp chiếm 57,1% tổng diện tích đất của vùng. Diện tích rừng
của Tây Nguyên chiếm 22,32 % tổng diện tích rừng của cả nước. Trong đó, diện
tích rừng tự nhiên chiếm 93,26% diện tích rừng của Tây Nguyên và chiếm
26,39% tổng diện tích rừng tự nhiên của cả nước.
Nhưng do sự suy giảm tài nguyên rừng nên sản lượng khai thác gỗ giảm
không ngừng, từ 600 – 700 nghìn m3 vào cuối thập kỉ 80 - đầu thập kỉ 90, nay chỉ
còn khoảng 200 – 300 nghìn m3/năm. Năm 2008 tổng sản lượng gỗ khai thác của
vùng là là 373,6 nghìn m3 chiếm 10,49 % tổng sản lượng gỗ khai thác của cả
nước. (Theo Nguồn Nông – Lâm – Thủy sản của Tổng cục thống kê)
4.3 Công nghiệp
Đây là vùng có công nghiệp kém nhất cả nước với tổng giá trị sản xuất
công nghiệp là 10926,1 tỷ đồng chiếm 0,74 % tổng giá trị sản xuất công nghiệp
của cả nước (năm 2007 - Theo Tổng cục thống kê). Công nghiệp của vùng chủ
yếu là các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản như chế biến cà phê, gỗ…
- Thủy điện: Nhờ địa thế cao nguyên và nhiều thác nước, nên tài nguyên
thủy năng của vùng lớn và được sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn. Trước đây
đã xây dựng các nhà máy thủy điện Đa Nhim (160.000 kW) trên sông Đa Nhim
(thượng nguồn sông Đồng Nai), Đray H'inh (12.000 kW) trên sông Serepôk. Mới
đây, công trình thủy điện Ya ly (700.000 kW) đưa điện lên lưới từ năm 2000 và
đang có dự kiến xây dựng các công trình thủy điện khác như Bon Ron - Đại
Ninh, Plây Krông.
5. Những vấn đề còn tồn tại của vùng
1.Những vấn đề tồn tại trong phát triển kinh tế, giáo dục…của vùng.
- Điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn:
+ Thiếu lao động lành nghề, cán bộ khoa học kĩ thuật.
+ Mức sống của nhân dân còn thấp, tỉ lệ chưa biết đọc biết viết còn cao.
+ Cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn nhiều, trước hết là mạng lưới đường giao thông,
các cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, dịch vụ kỹ thuật.
+ Công nghiệp trong vùng mới trong giai đoạn hình thành, với các trung tâm
công nghiệp quy mô nhỏ
- Vấn đề trong việc khai thác và chế biến lâm sản.
- Vào đầu thập kỉ 90, rừng che phủ 60% diện tích lãnh thổ.
- Còn nhiều rừng gỗ quý (cẩm lai, gụ mật, nghiến, trắc, sến), nhiều chim, thú
quý (voi, bò tót, gấu...). rừng chiếm 36% diện tích đất có rừng và 52% sản lượng
gỗ có thể khai thác của cả nước.
- Sản lượng gỗ khai thác hiện nay khoảng 200 – 300 nghìn m3/ năm. Phần lớn
gỗ khai thác được đem xuất ra ngoài dưới dạng gỗ tròn chưa qua chế biến.
- Vấn đề đặt ra:
+ Phải ngăn chặn nạn phá rừng.
+ Khai thác rừng hợp lí đi đôi với khoanh nuôi, trồng rừng mới.
+ Công tác giao đất giao rừng cần được đẩy mạnh.
+ Đẩy mạnh việc chế biến gỗ tại địa phương, hạn chế xuất khẩu gỗ tròn.p nhỏ và
* Khó khăn & biện pháp khắc phục để phát triển kinh tế vùng:
- Mùa khô kéo dài cần giải quyết vấn đề thuỷ lợi, mùa mưa cần có biện pháp
chống xói mòn đất.
- Thiếu lao động lành nghề, đã thu hút lao động từ nơi khác đến tạo ra tập quán
sản xuất mới.
- Bảo đảm LT-TP cho vùng thông qua trao đổi hàng hóa với các vùng khác, tạo
điều kiện ổn định diện tích cây công nghiệp.
- Hoàn thiện quy hoạch các vùng chuyên canh cây công nghiệp, mở rộng diện
tích có kế hoạch, đi đôi với việc bảo vệ rừng và phát triển thuỷ lợi.
- Đa dạng hoá cơ cấu cây công nghiệp. Phát triển mô hình KT vườn trồng café,
hồ tiêu… để nâng cao hiệu quả sản xuất.
- Nâng cấp mạng lưới GTVT như đường 14 xuyên Tây Nguyên, đường 19, 26
nối với đồng bằng duyên hải. - Đẩy mạnh các cơ sở chế biến, XK & thu hút đầu
tư nước ngoài. điểm công nghiệp.
2.Văn hóa
- Khác biệt văn hóa với các vùng khác, nên dễ xảy ra xung đột văn hóa, sắc
tộc. Nên cần phải có những chính sách phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với
vùng như quan tâm hơn tới đời sống nhân dân, có chính sách đầu tư phát triển
kinh tế, xã hội…
- Trong tình hình hiện đại hóa, công nghiệp hóa có nhiều bản sắc dân tộc
đã dần dần bị mai một như cồng chiêng Tây Nguyên đã không còn giữ được nét
truyền thống như trước, nhiều người trẻ bây giờ không biết chơi cồng chiêng,
những bộ cồng chiêng cổ thì không còn đủ bộ…nên cần có những chính sách bảo
tồn và phát huy những truyền thống văn hoá và bản sắc văn hoá của vùng.
KẾT LUẬN
Tây nguyên có nhiều tiềm năng phát triển nông lâm nghiệp cho năng suất cao.
Đây là vùng có điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển cây công nghiệp và chăn
nuôi đại gia súc. Tây nguyên là vùng đứng đầu của cả nước về sản lượng cà phê,
cao su đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu.Việt Nam là nước xuất
khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới có được thành tựu đó Tây Nguyên đóng một vai
trò to lớn.Tây Nguyên còn là vùng có phong tục tập quán phong phú và đa dạng
đóng góp vào kho tàng văn hóa của cả nước, Cồng chiêng Tây Nguyên đã được
Unessco công nhận là văn hóa phi vật thể của thế giới.Bên cạnh những thuận lợi
đạt được Tây Nguyên còn gặp rất nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế như địa
hình khó khăn, khí hậu khác nhiệt, trình độ dân trí còn thấp, kĩ thuật canh tác
chưa cao, việc áp dụng KHKT vào sản xuất còn hạn chế chưa kai phá hết tiềm
năng của Tây Nguyên.Hơn nữa ở đây là vùng rất nhạy cảm bởi đời sống văn hóa
ở đây phức tạp nhân dân theo nhiều tôn giáo, dân trí thấp nên hay bị các thế lực
phản động lợi dụng nhân dân gây bạo loạn như vụ thành lập Nhà nước Đề ca của
những tín đồ đạo Tin Lành……
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vung kinh tế này, đã có nhiều chính sách
nhằm phát triển kinh tế, ổn định chính trị như: áp dụng KHKT vào sản xuất,
chính sách di xây dựng vùng kinh tế, dầu tư xây dựng điện, đường, trường,
trạm… Vì vậy Tây nguyên đang có những bước khởi sắc mới.