41
185 VÀNG VÀ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở VIỆT NAM NĂM 2013 TS.Nguyễn Minh Phong Thực tế cho thấy, độc quyền sản xuất vàng không thể giống độc quyền sản xuất tiền của Chính phủ, càng không thể quản lý vàng theo thương hiệu quốc gia như một dạng tiền tệ chính thức quốc gia. Nói cách khác, không thể dùng quyền độc quyền vàng như một loại máy in tiền; không thể biến việc chống “vàng hóa” thành việc “tiền tệ hóa” vàng, nếu không muốn biến một quốc gia từ chỉ có một đồng bản tệ duy nhất thành có 2 đồng tiền cùng lưu hành chính thức và độc quyền như nhau. 1. Nguồn gốc, dự trữ và quản lý vàng trên thế giới Đầu tháng 3/2013, các nhà khoa học thuộc ĐH Queensland (Australia) vừa công bố công trình nghiên cứu chứng tỏ vàng được tạo ra nhờ nước và động đất. Kết quả nghiên cứu này vừa được đăng tải trên tạp chí Nature Geoscience. Dion Weatherley, một nhà địa vật lý tại Đại học Queensland, Australia và là tác giả chính của nghiên cứu tiết lộ: “Động đất gây ra hiện tượng đứt gãy địa chất, tạo nên vô số các khe hở. Nước nhanh chóng choán đầy những khe hở này. Điều đặc biệt xảy ra ở khoảng 10 km dưới lòng đất, nơi có áp suất và nhiệt độ cực kỳ cao”. “Điều kiện môi trường như vậy, cộng với việc nước mang nồng độ cao các chất carbon điôxít, silíc điôxít cùng một số chất cần thiết khác sẽ giúp tạo ra vàng. Sau đó, dư chấn hoặc các trận động đất khác khiến những khe hở mở rộng hơn làm áp suất giảm đột ngột, nước nhanh chóng bay hơi và bất cứ hạt vàng nào tồn tại trong chất lỏng đều kết tủa gần như ngay lập tức”.

VÀNG VÀ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở VIỆT NAM …dl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9798/1/Vang va quan ly thi truong vang...chóng bay hơi và bất cứ hạt vàng nào tồn

Embed Size (px)

Citation preview

185

VÀNG VÀ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở VIỆT NAM NĂM 2013

TS.Nguyễn Minh Phong

Thực tế cho thấy, độc quyền sản xuất vàng không thể giống độc quyền sản xuất tiền của Chính phủ, càng không thể quản lý vàng theo thương hiệu quốc gia như một dạng tiền tệ chính thức quốc gia. Nói cách khác, không thể dùng quyền độc quyền vàng như một loại máy in tiền; không thể biến việc chống “vàng hóa” thành việc “tiền tệ hóa” vàng, nếu không muốn biến một quốc gia từ chỉ có một đồng bản tệ duy nhất thành có 2 đồng tiền cùng lưu hành chính thức và độc quyền như nhau.

1. Nguồn gốc, dự trữ và quản lý vàng trên thế giớiĐầu tháng 3/2013, các nhà khoa học thuộc ĐH Queensland

(Australia) vừa công bố công trình nghiên cứu chứng tỏ vàng được tạo ra nhờ nước và động đất.

Kết quả nghiên cứu này vừa được đăng tải trên tạp chí Nature Geoscience. Dion Weatherley, một nhà địa vật lý tại Đại học Queensland, Australia và là tác giả chính của nghiên cứu tiết lộ: “Động đất gây ra hiện tượng đứt gãy địa chất, tạo nên vô số các khe hở. Nước nhanh chóng choán đầy những khe hở này. Điều đặc biệt xảy ra ở khoảng 10 km dưới lòng đất, nơi có áp suất và nhiệt độ cực kỳ cao”.

“Điều kiện môi trường như vậy, cộng với việc nước mang nồng độ cao các chất carbon điôxít, silíc điôxít cùng một số chất cần thiết khác sẽ giúp tạo ra vàng. Sau đó, dư chấn hoặc các trận động đất khác khiến những khe hở mở rộng hơn làm áp suất giảm đột ngột, nước nhanh chóng bay hơi và bất cứ hạt vàng nào tồn tại trong chất lỏng đều kết tủa gần như ngay lập tức”.

186

Quá trình kiến tạo trong vỏ trái đất khiến động đất lặp đi lặp lại giúp hình thành lớp vàng trầm tích (trầm tích cát vàng). Các nhà khoa học cho biết vàng trên thế giới có nguồn gốc từ các mạch trầm tích hình thành trong thời kỳ địa chất tạo núi diễn ra 3 tỷ năm trước đây. Vàng bị nóng chảy từ trong lòng đất đã được đẩy lên theo sự vận động của vỏ trái đất. Vàng có dạng thỏi do các khoáng chất kèm theo bị ôxi hóa bởi thời tiết và việc rửa trôi bụi vào các con suối, dòng sông nơi vàng tích tụ hoặc do hoạt động của nước liên kết lại. Nghiên cứu của các nhà địa chất Australia cũng cho biết chấn động duy nhất sẽ không tạo ra vàng có giá trị kinh tế. Để tạo thành một mạch chứa 100 tấn vàng sẽ mất 100.000 năm.

Phát hiện ra cơ chế hình thành vàng sẽ giúp ích cho con người trong việc tìm kiếm, thăm dò những mỏ vàng mới trong tương lai. Người ta đã tính được trữ lượng vàng trên thế giới đạt 250 ngàn tấn. Đến nay, loài người đã khai thác khoảng 150 nghìn tấn vàng từ lòng đất. Sản lượng khai thác hàng năm trung bình là 2.300 tấn thì quặng vàng sẽ cạn kiệt vào năm 2050.

Ở Việt Nam, quặng vàng phân bố rải rác ở nhiều nơi với quy mô nhỏ, tổng tài nguyên tính được khoảng vài nghìn tấn và trữ lượng chỉ đạt vài trăm tấn. Đến nay đã phát hiện gần 500 điểm quặng và mỏ vàng gốc (quặng vàng thực thụ và các loại quặng khác có chứa vàng),trong đó có gần 30 nơi đã được tìm kiếm thăm dò và đánh giá trữ lượng với số lượng khoảng 300 tấn vàng.

Năm 1931, chính phủ Anh đình chỉ đổi đồng bảng Anh lấy vàng. Đầu năm 1968, Mỹ huỷ bỏ đạo luật dùng vàng dự trữ bảo đảm cho 25% tiền giấy lưu thông trong nước, đồng thời đình chỉ việc chuyển đổi tiền đô la giấy lấy vàng cho tư nhân nước ngoài; năm 1971 thì đình chỉ nốt việc đổi đô la giấy lấy vàng cho các chính phủ và ngân hàng trung ương nước ngoài. Từ đó, chế độ bản vị đô la nói riêng và chế độ bản vị vàng - hối đoái nói chung sụp đổ hoàn toàn. Chấm dứt vĩnh viễn việc kết gắn giá trị của đồng tiền một nước bất kỳ vào một hàm lượng vàng nhất định nào đó.

187

Trên thực tế, vàng là hàng hóa đặc biệt, vừa mang tính chất hàng hóa phục vụ đời sống, sinh hoạt và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân; đồng thời, vàng vừa mang chức năng thước đo giá trị và chức năng dự trữ như một loại ngoại hối đặc biệt; Cũng vì vậy, mỗi khi bối cảnh thị truờng trong nước và quốc tế có biến động bất thuờng, vàng thuờng được coi là sự lựa chọn hàng đầu để bảo toàn giá trị tài sản và thể hiện sự giàu có của cả các quốc gia, ngân hàng và người dân các nước, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, vàng chỉ còn có chức năng không đầy đủ (tức chỉ có chức năng thước đo giá trị và dự trữ, mà không còn có chức năng thanh toán và lưu thông) của tiền tệ quốc tế, nên vàng không phải là tiền tệ thế giới, cũng không phải là đồng tiền quốc gia.

Theo IMF, vàng miếng được phân thành hai loại là vàng - tiền tệ và vàng phi tiền tệ. Trong đó, vàng tiền tệ là vàng được nắm giữ bởi các cơ quan quản lý tiền tệ như một phần của dự trữ chính thức của quốc gia và các tổ chức quốc tế như IMF, BIS. Vàng phi tiền tệ là vàng được sử dụng như tài sản tài chính và vàng hàng hóa được nắm giữ phục vụ cho mục đích sản xuất (trang sức, công nghệ), tồn kho hoặc cất trữ và phải được đối xử bình thường như với bất kỳ hàng hóa nào khác trong nền kinh tế (IMF, 2006). Theo TS. Hoàng Công Gia Khánh, Trưởng khoa Tài chính ngân hàng Trường ĐH Kinh tế - Luật - TP.HCM, ở hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Úc, Canada, Nhật Bản… đều đã tự do hóa thị trường vàng từ rất lâu. Thị trường vàng ở các nước này hoạt động theo các chuẩn mực rõ ràng, chủ yếu giao dịch các chứng chỉ vàng thông qua sàn giao dịch tập trung. Việc giao dịch vàng không qua sàn giao dịch (OTC) vẫn còn diễn ra sôi động ở Anh, Thụy Sĩ giữa các nhà bán buôn. Các giao dịch này được tổ chức rất quy củ, minh bạch và chủ yếu liên quan đến vàng lưu kho tại London thông qua thay đổi sở hữu vàng của các bên liên quan tại kho vàng này.

Một số các nước ở Trung Đông, châu Á nơi dân chúng vốn có truyền thống cất trữ vàng cũng đã tổ chức rất thành công giao dịch vàng qua sàn giao dịch tập trung. Và sàn này bao gồm cả vàng vật chất và vàng tài khoản. Cụ thể như Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Trung Quốc, Hong Kong.

188

Ấn Độ và Trung Quốc vốn là hai thị trường tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế giới, chiếm hơn 42% nhu cầu vàng trên thế giới. Đồng thời đây cũng là hai quốc gia đã từng trải qua thời gian dài kiểm soát rất chặt thị trường vàng trong quá khứ nhưng sau đó phải tiến hành cải cách thị trường vàng theo hướng tự do hóa và họ đã đạt được các thành công đáng kể.

Tại Ấn Độ, với 90% lượng vàng tiêu thụ phải nhập khẩu. Đất nước này phải đối mặt với thách thức không nhỏ trong việc kiểm soát vàng nhập khẩu để giảm thâm hụt cán cân thanh toán. Từ những năm 1963 đến 1964, Ấn Độ đã kiểm soát rất chặt thị trường vàng, cấm nhập khẩu vàng… Tuy nhiên, trong suốt hàng chục năm sau đó mặc dù việc nhập khẩu vàng phi chính thức diễn ra trầm trọng nhưng giá vàng trong nước vẫn cao hơn từ 20% đến 50% so với giá vàng quốc tế. Tháng 6-1990, Ấn Độ thừa nhận sự thất bại trong chính sách quản lý vàng chặt chẽ khi bãi bỏ luật quản lý vàng 1963. Và ba năm sau đó bãi bỏ luật điều tiết ngoại hối 1964. Các hạn chế sở hữu tư nhân về vàng đã giảm đi, các thương nhân kinh doanh vàng không còn phải xin giấy phép, cho phép nhập khẩu vàng nhằm gia tăng tỉ trọng nhập khẩu vàng chính thức (giảm nhập lậu), tăng thu ngân sách thông qua việc thu được thuế nhập khẩu vàng, kích thích sản xuất nữ trang xuất khẩu, phát triển ngành sản xuất vàng và chế tác trang sức, khuyến khích tái chế vàng trang sức trong nước. Sau đó Chính phủ Ấn Độ cũng đã đưa ra các tiêu chí cụ thể để xác định ngân hàng nào đủ điều kiện được cấp phép nhập khẩu vàng. Các tổ chức này được phép mua bán vàng trong nước và quốc tế không giới hạn. Ngoài ra, họ còn được phép cung cấp các sản phẩm tiết kiệm và cho vay liên quan đến vàng.

Giai đoạn từ 1998 đến 1999, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ cho phép các ngân hàng thương mại trả lãi tiền gửi vàng vật chất, phát hành các chứng chỉ vàng và các chứng chỉ này được phép chuyển nhượng, giao dịch trên thị trường thứ cấp với mục tiêu phát triển thị trường chứng chỉ vàng. Tuy nhiên, việc triển khai đã thất bại khi sau 12 tháng triển khai chỉ huy động được tám tấn vàng so với 100 tấn theo kế hoạch. Điều này

189

cho thấy dân chúng vẫn thích nắm giữ vàng vật chất hơn là chứng chỉ vàng. Bởi vậy từ năm 2003, Ấn Độ cho phép các ngân hàng giao dịch hợp đồng vàng kỳ hạn trong nước hoặc quốc tế nhưng không được phép giao dịch với các tổ chức phi ngân hàng. Đến cuối năm 2011, có bốn sở giao dịch quốc gia thực hiện giao dịch vàng. Các sản phẩm phái sinh vàng được cho phép giao dịch từ năm 2006 và cho đến nay sản phẩm thông dụng nhất trong số các sản phẩm phái sinh vàng là ETF vàng. Đến đầu năm 2012, ở Ấn Độ đã có 30 ngân hàng bao gồm cả ngân hàng nhà nước, ngân hàng tư nhân và ngân hàng nước ngoài được phép nhập khẩu vàng, bạc để bán tại thị trường trong nước. Hiện nay họ có cả hai thị trường vật chất và phi vật chất. Thị trường bán lẻ vàng thoi OTC diễn ra phổ biến rộng rãi giữa nhà đầu tư với các tổ chức kinh doanh vàng. Nhưng Ấn Độ không bắt buộc giao dịch vàng thoi phải diễn ra tại các sàn giao dịch mà có thể thực hiện ở thị trường bán lẻ phân tán khắp cả nước với trên 100.000 thợ kim hoàn và hơn 1 triệu cửa hàng bán lẻ.

Nhu cầu vàng ở Trung Quốc đứng thứ hai trên thế giới sau Ấn Độ và chiếm khoảng 16% tổng cầu vàng trên thế giới. Mặc dù Trung Quốc là nhà sản xuất vàng lớn nhất thế giới, đóng góp khoảng 13% tổng cung vàng trên thế giới nhưng nước này vẫn phải nhập khẩu vàng. Trước năm 2002, thị trường vàng tại Trung Quốc được kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất đến phân phối bán lẻ. Giá vàng và hạn ngạch đã được quyết định bởi Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBOC) phối hợp với các cơ quan khác ở trung ương. PBOC cấp giấy xuất khẩu vàng và nhập khẩu vàng trang sức, mặt hàng này chịu mức thuế nhập khẩu 60% ở năm 1996, giảm so với mức 100% trước đó. Từ năm 1996, Trung Quốc đẩy nhanh quá trình cải cách, dần dần tự do hóa và sau đó đã bãi bỏ việc nhà nước độc quyền vàng, bãi bỏ hệ thống cấp phép bán lẻ, bán buôn, sản xuất và không còn kiểm soát giá vàng. Tháng 10-2002, Sàn giao dịch vàng Thượng Hải được thành lập để tổ chức giao dịch vàng thay thế cho PBOC. Kể từ khi mở cửa thị trường vàng và sau khi Sàn giao dịch Thượng Hải đi vào hoạt động, giá vàng tại Trung Quốc đã rất sát với giá vàng thế giới từ năm 2000. Từ năm 2006, Trung Quốc đã cho phép các ngân hàng thương mại giao dịch các sản phẩm đầu tư vàng với nhà đầu

190

tư cá nhân. Cũng trong năm này, hệ thống giao dịch vàng thoi hai giá cũng đã được triển khai. Và đến năm 2007, các ngân hàng thương mại được phép giao dịch vàng thoi vật chất, được tham gia giao dịch tại Sàn giao dịch Thượng Hải, Sàn giao dịch hàng hóa giao sau Thượng Hải.

Về thị trường bán lẻ, Trung Quốc chỉ được phép bán vàng trang sức qua các cửa hàng bán lẻ trang sức vốn chịu sự quản lý của chi nhánh PBOC tại địa phương. Tất cả giao dịch vàng thoi đều phải được thực hiện thông qua Sàn giao dịch vàng Thượng Hải.

Như vậy, sau cải cách, cơ quan nhà nước của cả Ấn Độ và Trung Quốc vẫn quản lý sản xuất, bán buôn, bán lẻ vàng, nhưng đều được thực hiện theo cơ chế minh bạch và hoàn toàn không có sự độc quyền, dù là độc quyền nhà nước hay tư nhân. Việc quản lý nhập khẩu vàng được thực hiện một cách linh hoạt trên cơ sở xử lý hài hòa giữa trạng thái cán cân thanh toán và tình trạng nhập lậu. Ngân hàng trung ương hoàn toàn không tham gia trực tiếp vào hoạt động nhập khẩu, sản xuất. Chính sách quản lý được thực hiện theo nguyên tắc thị trường, thông thoáng nhằm tạo được sự liên thông thị trường trong nước với thị trường nước ngoài khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện. Các quốc gia này cũng đã quản lý chặt chẽ chất lượng vàng kể cả vàng thoi và vàng trang sức, đồng thời xem xét để cấp phép giao dịch các sản phẩm vàng thoi theo tiêu chuẩn quốc tế được sản xuất bởi các nhà sản xuất có uy tín theo danh sách công bố của Hiệp hội Vàng thoi London. Ngoài ra, các nước này cũng đã tổ chức nhiều sàn giao dịch vàng với cơ chế tổ chức theo thông lệ quốc tế với một số điều chỉnh để tương thích với đặc trưng của thị trường trong nước.

Thực tế thế giới cũng cho thấy ngày càng hiếm có nước nào duy trì chính sách chỉ độc quyền một thương hiệu vàng và độc quyền sản xuất vàng miếng. Hiện nay, Ấn Độ đã thả nổi thị trường vàng và chỉ quản lý bằng thuế suất nhập khẩu vàng khi nâng mức thuế lên 50%. Ngân hàng Trung ương Ấn Độ vừa có thông báo chính thức trên website ngày 19/11/2012, yêu cầu các ngân hàng nước này không cho vay với mục đích mua vàng vật chất như trang sức, vàng xu, vàng thanh hay các sản phẩm tài chính có liên quan đến vàng như đầu tư vào quỹ tín thác.

191

Theo số liệu của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), người dân Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang nắm giữ khoảng 5.000 tấn vàng, giá trị 302 tỷ USD, lớn hơn của GDP của Ireland. Huy động được số vàng này trong dân, Thổ Nhĩ Kỳ có thể giảm được nhập khẩu vàng cũng như vay nợ từ bên ngoài. Các ngân hàng ở nước này đang tìm cách hút số vàng trên để chuyển đổi thành tiền mặt. Thu hút vàng trong dân được xem là một cách để Thổ Nhĩ Kỳ giải quyết mức thâm hụt cán cân vãng lai lớn thứ nhì thế giới, chỉ sau Mỹ. Trong năm 2011, thâm hụt cán cân vãng lai của nước này đã vượt mức 77 tỷ USD. Theo số liệu của Ngân hàng Trung ương Thổ Nhĩ Kỳ, từ đầu năm đến tháng 7/2013 vừa qua, số tài khoản gửi vàng tại các ngân hàng ở Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 15%, cao gấp 5 lần tốc độ tăng của số tài khoản gửi tiết kiệm. Cũng từ đầu năm, lượng vàng người dân gửi vào ngân hàng Yapi Kredi Bankasi của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 62%. Còn tại ngân hàng lớn nhất nước này về tài sản là Turkiye Is Bankasi AS, lượng vàng người dân gửi vào tăng 10 lần trong thời gian 2 năm tính đến hết tháng 6 năm nay. Khi mở tài khoản vàng, khách hàng sẽ có được một lượng tiền mặt tương đương với giá trị của số vàng mà họ giao cho ngân hàng. Khách có thể rút tiền mặt hoặc vay vốn từ ngân hàng. Về phần mình, ngân hàng có thể nắm giữ hoặc bán số vàng tùy theo chiến lược kinh doanh riêng. Các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ đang tung ra hàng loạt dịch vụ khác nhau để thu hút người dân gửi vàng. Các ngân hàng Isbank và Turkiye Garanti Bankasi AS - ngân hàng lớn nhất nước này về giá trị vốn hóa - cùng cung cấp các khoản vay bảo đảm bằng vàng. Với dịch vụ này, khách hàng có thể mang nữ trang hoặc tiền xu vàng tới ngân hàng để thế chấp vay vốn. Garanti cũng phát hành thẻ tín dụng dựa trên tài khoản gửi vàng. Ngân hàng này sẽ sớm cho phép khách hàng rút tiết kiệm bằng vàng, thay vì tiền mặt hoặc ngoại tệ. Ngân hàng Hồi giáo Asya Katilim Bankasi AS thì tổ chức những “ngày vàng” để khách hàng đem tiền xu và nữ trang vàng đến cho các chuyên gia kiểm định. Ngân hàng này cho biết đã thu hút được 3 tấn vàng thông qua những “ngày vàng” như vậy từ tháng 3/2012 đến nay. Số tài khoản tiết kiệm vàng trong ngân hàng này tính đến hết tháng 7 đã tăng 22%. Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đang có những biện pháp

192

để hỗ trợ các ngân hàng thu hút vốn vàng. Ngân hàng Trung ương nước này ra quyết định cho phép các ngân hàng tăng tỷ lệ vàng trong dự trữ lên mức 30% từ mức 25% trước đó. Ngoài ra, các nhà chức trách Thổ Nhĩ Kỳ còn đang xem xét đưa ra các quy định cho phép người dân mua hoặc bán vàng tại các chi nhánh ngân hàng hoặc chuyển vàng vào các tài khoản khác. Tuy nhiên, kế hoạch này bị các tiệm vàng ở Thổ Nhĩ Kỳ phản đối vì cho rằng, việc ngân hàng mua bán vàng sẽ khiến doanh thu của các tiệm kim hoàn sa sút.

2. Quản lý vàng ở Việt Nam từ 1975-2013Việt Nam có truyền thống tích trữ và giao dịch vàng trong dân

rất cao do kinh nghiệm đối phó với chiến tranh, loạn lạc và lạm phát cao...

Theo tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ, vàng miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép sản xuất, hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ.

Từ sau năm 1975, ở Việt Nam, Nhà nước dùng các biện pháp hành chính mạnh để kiểm soát và điều khiển giá vàng. Việc giao dịch vàng, kể cả vàng trang sức lẫn vàng miếng, của tư nhân bị cấm; Việc dùng vàng để định giá, thanh toán không được pháp luật thừa nhận. Nhưng trên thực tế, vàng luôn được sử dụng làm thước đo giá trị, phương tiện thanh toán và tài sản cất trữ.

Đến năm 1986, Việt Nam mới thực hiện chủ trương cho thành lập mạng lưới các cửa hàng kinh doanh vàng bạc quốc doanh và đến năm 1989 mới chính thức cho phép tư nhân thành lập cửa hàng kinh doanh vàng, bạc, đá quý. Từ đó, thị trường vàng mới bắt đầu có sự cạnh tranh.

Ngày 23.9.1993, Chính phủ ban hành Nghị định 63/1993/NĐ-CP về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng. Theo đó, Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp về vàng của mọi tổ chức và cá nhân. Cho phép các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền cất giữ, vận chuyển hoặc gửi vàng ở

193

ngân hàng. Các doanh nghiệp kinh doanh vàng được mua bán vàng các loại; được chế tác, gia công, cầm đồ vàng.

Từ năm 1994, vụ Quản lý ngoại hối - NHNN cấp phép nhập uỷ thác để công ty Vàng bạc đá quý Việt Nam (VJC) nhập trực tiếp cho các doanh nghiệp và Vụ Quản lý ngoại hối bán vàng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, từ năm 1996, do tình hình ngoại tệ khan hiếm vì ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, NHNN tạm dừng việc cấp phép nhập khẩu vàng.

Tháng 12.1999, Chính phủ ban hành Nghị định 174/1999/NĐ-CP quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thay thế Nghị định 63/1993/NĐ-CP. Cùng với Nghị định 63/1998/ NĐ-CP về quản lý ngoại hối được ban hành ngày 17.8.1998, cơ chế quản lý vàng ở Việt Nam đã chính thức tách bạch rõ việc quản lý vàng tiền tệ, và quản lý vàng phi tiền tệ với sự nới lỏng đáng kể trong việc quản lý đối với vàng phi tiền tệ tập trung vào các nội dung chính: phân định rõ vàng miếng, vàng trang sức; quản lý xuất nhập khẩu; quản lý sản xuất, gia công; quản lý kinh doanh giao dịch. Nhờ chính sách nới lỏng này, đã có bảy đơn vị tham gia sản xuất, gia công vàng miếng theo dây chuyền công nghệ hiện đại và hơn 12.000 cửa hàng kinh doanh vàng trên khắp cả nước. NHNN cũng đã cho phép các tổ chức tín dụng đủ điều kiện được phép kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài, quy định cụ thể việc huy động vàng và cho vay bằng vàng...

Sàn vàng ảo hay kinh doanh vàng tài khoản, sàn vàng đã một thời nở rộ tại Việt Nam và trở nên phức tạp trong các năm 2008-2009 với hơn 20 sàn giao dịch trước khi Chính phủ ban hành lệnh cấm vào cuối năm 2009. Thời điểm đó, cùng với chứng khoán, các sàn vàng hoạt động rầm rộ, cho phép các nhà đầu tư kinh doanh vàng qua tài khoản trực tiếp với thị trường quốc tế. Sàn vàng đã thu hút sự tham gia của nhiều đơn vị: DN kinh doanh vàng, ngân hàng, thậm chí tổ chức không có chức năng kinh doanh vàng… lôi kéo hàng chục ngàn nhà đầu tư tham gia đã tạo nên một cơn sốt vàng ảo; kéo theo đó là rất nhiều hệ lụy đối với nhà đầu tư, DN và tổ chức tài chính, ảnh hưởng đến sự ổn định

194

trên thị trường vàng, ngoại hối và tiền tệ. Đối với rất nhiều nhà đầu tư, sau một thời gian tham gia đầu tư vàng ảo, cụ thể hơn là kinh doanh vàng trên tài khoản đã chuốc lấy thất bại, thua lỗ. Trong khi đó, không ít DN và tổ chức tài chính dù ở góc độ người tổ chức kinh doanh hay trực tiếp đầu tư thì cũng gánh chịu nhiều thiệt hại trước biến động của giá vàng thế giới. Đã có những NH công bố con số thua lỗ hàng ngàn tỷ đồng vì vàng. Sàn vàng đã kéo theo các công cụ hỗ trợ như: đòn bẩy tài chính cho nhà đầu tư, hoạt động mua bán vàng liên tục với nước ngoài thông qua tài khoản để cân bằng trạng thái, mua bán khống, mua bán kỳ hạn… được thực hiện dưới nhiều hình thức và biến tướng, gây ra rủi ro tiền ẩn cho các tổ chức tài chính và bất ổn vĩ mô. Thậm chí đã nảy sinh nhiều tranh chấp, kiện cáo về những sự cố, rủi ro khi tham gia sàn vàng. Khi rà soát lại, cơ quan quản lý cho biết kinh doanh sàn vàng là một hoạt động chưa có các quy định quản lý, và những bất lợi của hoạt động này gây ra, khiến sàn vàng đã bị cấm hoạt động. Mọi hoạt động đầu tư vàng ảo chấm dứt. Đến nay, mọi hoạt động kinh doanh vàng qua tài khoản của mọi các nhân, tổ chức đều bị cấm, tài khoản mua bán vàng phục vụ xuất nhập khẩu của các NH cũng chấm dứt. Tuy vậy, trên thực tế, kinh doanh vàng ảo chui vẫn còn rơi rớt. Có không ít tổ chức dùng nhiều hình thức biến tướng để tiếp tục kinh doanh sàn vàng. Tất nhiên, với hoạt động phi pháp thì luôn tiềm ẩn rủi ro và thua thiệt luôn đứng về phía người đầu tư.

Giữa năm 2013, một ngân hàng đầu tiên đã công bố dịch vụ mua bán vàng qua Internet Banking, hoạt động hoàn toàn dựa trên tiền thực và vàng thực. Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, sau khi thận trọng với việc cấp phép đã cho rằng, đây là là giải pháp công nghệ mới và phù hợp quy định. Theo các quy định hiện nay, gần như không có quy định nào xác định ”vàng tài khoản” hay ”kinh doanh vàng trên tài khoản” là gì. Trước đây, Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài có giải thích chung chung: “Kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài” là hoạt động kinh doanh vàng thông qua tài khoản vàng tại nước ngoài dưới các hình thức giao dịch theo thông lệ quốc tế. Từ thực tế hoạt động

195

của sàn vàng ảo trước đây có thể thấy một số đặc trưng sau, gọi là sàn vàng, nhưng thực chất nhà đầu tư chỉ sử dụng một tài khoản để đầu tư ‘vàng ảo” theo giá vàng quốc tế mà không bao giờ được nhận vàng thực. Hoạt động đầu tư sàn vàng ảo trước đây có ba yếu tố đặc trưng: thực hiện khớp lệnh định kỳ giữa người mua với người bán, cho phép vay vàng đầu tư và mua bán khống cũng như giao dịch trạng thái kỳ hạn. Đặc biệt, các ngân hàng và tổ chức kinh doanh sàn vàng cho phép sử dụng công cụ đòn bẩy tài chính trong đầu tư kinh doanh vàng. Vậy mua bán vàng qua Internet Banking có là vàng ảo? Thực tế, ngân hàng cung cấp dịch vụ chỉ đóng vai trò là người cung cấp dịch vụ mua bán vàng vật chất qua các giải pháp ngân hàng điện tử. Khi đặt mua, khách hàng phải chuyển tiền và ngay sau đó sẽ được lấy vàng. Như vậy, tiền thực chuyển đi và vàng thực sẽ được giao. Ngân hàng sẽ chỉ giữ hộ khi khách có nhu cầu. Còn trong trường hợp bán vàng, nếu khách còn gửi vàng tại ngân hàng thì có thể đặt qua mạng, còn không sẽ phải mang vàng đến bán tại các điểm kinh doanh vàng như thông lệ. Như vậy, trong mọi trường hợp, người mua và bán chỉ thông qua ngân hàng như một nhà giao dịch hàng hóa và niêm yết giá. Hoàn toàn không có biểu hiện của vàng ảo như thực hiện khớp lệnh giữa người mua với người bán, không thực hiện mua bán khống, không thực hiện giao dịch trạng thái kỳ hạn, không sử dụng công cụ đòn bẩy tài chính. Mua vàng qua mạng như trên giống như mọi hình thức giao dịch hàng hóa trực tuyến khác. Vàng ở đây là vật chất, hàng hóa chứ không phải là một loại hình đầu tư tài chính. Điểm khác biệt là chỉ là cho phép khách hàng thực hiện giao dịch mua - bán vàng trực tuyến, thông qua kênh Internet Banking và Mobile Banking. Người mua có thể “tranh thủ” mua vàng ở bất cứ đâu theo giá niêm yết của ngân hàng, khách hàng không phải đổ xô xếp hàng mua vàng những lúc cao điểm. Mua vàng qua mạng chỉ mở ra cơ chế giao dịch mới giữa khách hàng với ngân hàng trong khi mô hình sàn giao dịch vàng là giao dịch giữa các nhà đầu tư với nhau, qua khớp lệnh. Các yêu cầu mua- bán vàng chỉ được xác định thông qua giá thực tại thời điểm giao dịch mà không có các trạng thái kỳ hạn như sàn vàng. Hơn nữa, với các quy định về giới hạn trạng thái vàng của Ngân hàng

196

Nhà nước, không được vượt quá 2% vốn tự có; không được cho vay vốn, cho vay vàng để tạo giao dịch “ảo” như ở sàn vàng.

Tuy nhiên, theo ông Lê Minh Hưng, PTĐ NHNN: Phải khẳng định hoạt động sản vàng online là hoạt động bất hợp pháp. Theo quy định tại Khoản 9 Điều 4 Nghị định 24, tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng khác (gồm cả kinh doanh vàng tài khoản, sản giao dịch vàng) sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép và được NHNN cấp phép. Do đó, tổ chức cá nhân thành lập và kinh doanh trên sàn vàng online là trái với quy định của pháp luật. Nghị định 24 cũng quy định rõ các cơ quan chức năng có trách nhiệm phối hợp điều tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về kinh doanh vàng.

Trước khi Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ (Nghị định 24) về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được ban hành, hoạt động mua bán vàng miếng được thực hiện tại khoảng 12.000 doanh nghiệp, cửa hàng nhỏ lẻ kinh doanh vàng.

Bên cạnh đó, nhằm thu hút các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế xã hội, năm 2000, NHNN đã cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) có giấy phép hoạt động ngoại hối được huy động vốn bằng vàng. Với việc triển khai chính sách này, tính đến ngày 02/11/2012, số dư huy động vàng của các tổ chức tín dụng khoảng gần 97 tấn, tương đương khoảng 120 nghìn tỷ VND, chiếm khoảng 3% tổng phương tiện thanh toán (M2), đã giảm nhiều so với mức gần 6% vào cuối năm 2011. Như vậy, quy định cho phép huy động vốn bằng vàng đã cho phép vàng thực hiện một phần chức năng tiền tệ ở mức độ nhất định (có thể gọi là “vàng hóa” chính thức trong hệ thống ngân hàng). Vàng gửi vào hệ thống ngân hàng, rồi được cho vay ra đã tham gia vào hệ số tạo tiền của các ngân hàng. Mặc dù mấy năm gần đây, tập quán sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán song hành với đồng Việt Nam đã dần mất đi, vàng chủ yếu được sử dụng làm công cụ tích trữ, nhưng nhu cầu tích trữ/gửi tiết kiệm vàng miếng của dân vẫn ngày càng tăng (một phần do kỳ vọng giá thế giới tăng, một phần do các TCTD vẫn huy động vàng). Việc đầu tư, đầu cơ có nguy cơ quá mức vào vàng đã gây nhiều hệ lụy

197

cho nền kinh tế - xã hội, rủi ro cho người dân mua vàng/ người vay vàng, và các tổ chức kinh doanh vàng (trong đó có TCTD) khi giá vàng liên tục tăng cao.

Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 ra đời đã khẳng định NHNN có trách nhiệm xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch về phát triển thị trường vàng và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này; bổ sung vàng miếng vào Dự trữ ngoại hối Nhà nước; thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường vàng thông qua các biện pháp: (a) Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị định này; (b) Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua việc quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng miếng phù hợp trong từng thời kỳ. Chi phí tổ chức sản xuất vàng miếng được hạch toán vào chi phí hoạt động của Ngân hàng Nhà nước; (c) Thực hiện mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước và tổ chức huy động vàng theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ khẳng định quyền sở hữu và giao dịch vàng miếng của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật. NHNN độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, thống nhất quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm ổn định thị trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu theo quy định của pháp luật vì lợi ích chung, bảo đảm không biến quyền kinh doanh vàng miếng thành độc quyền và mang lại khối lợi nhuận khổng lồ béo bở cho bất kỳ doanh nghiệp hay một thương hiệu vàng nào. NHNN và các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh vàng có liên qua phải bảo đảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung ứng vàng miếng, không gây ách tắc và méo mó cung-cầu, giá cả thị trường vàng trong nước, bảo đảm những nguồn lợi từ chênh lệch giá vàng trong nước với giá vàng thế giới phải được quản lý chặt chẽ và quy tụ thành nguồn thu bổ sung cho NSNN chung theo quy định của pháp luật.

198

Tính đến 10/1/2013, Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép kinh doanh vàng miếng cho 22 ngân hàng và 16 doanh nghiệp, với 2.497 điểm kinh doanh tại 63 tỉnh thành trên cả nước (TP HCM có khoảng 900 điểm và Hà Nội khoảng 400 điểm). Những đơn vị chưa được cấp phép kinh doanh, mua bán vàng miếng sẽ chỉ được mua bán vàng trang sức hoặc chuyển đổi sang loại hình kinh doanh khác. Cửa hàng nào không có giấy phép kinh doanh vàng miếng mà vẫn mua bán vàng miếng sẽ bị phạt tiền từ 50 đến 100 triệu đồng theo Nghị định số 95/2011/NĐ-CP ban hành năm 2011...

Theo Thông tư số 06/2013/TT-NHNN ngày 12/3/2013 của NHNN về hướng dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước, NHNN có thể tuỳ từng thời điểm để tổ chức đấu thầu (đấu thầu theo giá hoặc theo khối lượng) và mua bán trực tiếp. Quy trình đấu thầu (gồm 11 bước từ khi thông báo đến ký văn bản xác nhận, mua bán) và mua bán trực tiếp (gồm 7 bước từ thông báo mua bán, tổ chức chuyển tiền đặt cọc). Khi đấu thầu theo khối lượng, trường hợp tổng số lô vàng miếng đặt thầu bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHNN mua hoặc bán thì khối lượng trúng thầu bằng khối lượng doanh nghiệp, tổ chức tín dụng đặt thầu. Nếu số lô đặt thầu vượt quá khối lượng NHNN thông báo thì mức trúng thầu xếp thứ tự từ cao nhất xuống thấp nhất. Trường hợp ở mức khối lượng trúng thầu thấp nhất có nhiều đơn vị đặt mua hoặc bán thì khối lượng còn lại chia đều cho tất cả. Khi đấu thầu theo giá, xét theo thứ tự giảm dần từ giá trúng cao nhất cho tới thấp nhất mà tại đó NHNN bán được khối lượng tối đa; hoặc xét theo thứ tự từ thấp đến cao nếu NHNN mua được khối lượng tối đa. Giá trúng thầu của từng đơn vị là giá đặt thầu của chính đơn vị đó.

199

Quy trình đấu thầu vàng và mua bán vàng trực tiếp theo Thông tư 06/2013/TT-NHNN ngày 12/3/2013

Đấu thầu Mua bán trực tiếp1. NHNN thông báo đấu thầu mua, bán vàng miếng2. TCTD, doanh nghiệp đặt cọc3. NHNN kiểm tra và thông báo tư cách dự thầu của TCTD, doanh nghiệp4. NHH thông báo mua, bán (đối với đấu thầu theo khối lượng) hoặc giá sàn và/ hoặc giá trần (đối với đấu thầu theo giá)5. TCTD, doanh nghiệp nộp phiếu dự thầu mua, bán vàng miếng6. NHNN xét thầu7. NHNN thông báo hủy thầu (nếu có)8. NHNN công bố kết quả đấu thầu9. Xác nhận giao dịch10. Thanh toán tiền và giao, nhận vàng miếng11. Xử lý tiền đặt cọc

1. NHNN thông báo mua, bán vàng miếng2. TCTD, doanh nghiệp đặt cọc3. NHNN kiểm tra và thông báo tư cách tham gia giao dịch của TCTD, doanh nghiệp4. NHNN thông báo giá mua, bán5. TCYD, doanh nghiệp đăng ký khối lượng mua, bán (nếu có)7. NHNN xác định, thông báo khối lượng mua, bán với từng TCTD, doanh nghiệp8. Xác nhận giao dịch9. Thanh toán tiền và giao, nhận vàng miếng10. Xử lý tiền đặt cọc

Ngày 28/3/2013, cơ chế đấu thầu giá vàng miếng đã được chính thức khởi động ở Việt Nam với phiên đầu tiên mang tính thăm dò thị trường. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tung ra gói thầu 26.000 lượng vàng (gần 1 tấn vàng) với giá sàn là 43,81 triệu đồng/lượng (cao hơn giá tham chiếu tính giá trị đặt cọc được ấn tính từ chiều hôm trước tới 210 nghìn đồng mỗi lượng, thậm chí cao hơn giá vàng bán ra vào giờ mở cửa tới 330 nghìn đồng mỗi lượng tại SJC và 360 nghìn đồng mỗi lượng ở Doji); tỷ lệ ký quỹ 10%. 21 đơn vị đăng ký tham gia phiên đấu thầu chỉ được bỏ một mức giá, với mức đặt mua thấp nhất 5 lô (500 lượng) và cao nhất 20 lô (2.000 lượng). Kết quả có 2 đơn vị trúng thầu với 2.000 lượng vàng miếng SJC được bán ra theo giá khá sát với giá chào thầu.

Ngày 16/8/2013, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức đầu thầu bán vàng miếng lần thứ 53 với khối lượng trúng thầu đạt 25.800 lượng trong tổng số 26.000 lượng chào thầu. Giá tham chiếu để tính giá trị đặt cọc là 37,56 triệu đồng/lượng, tương đương giá mua vàng ngoài thị trường của

200

các doanh nghiệp trong chiều nay. Mỗi đơn vị tham gia được đặt thầu tối thiểu là 1.000 lượng và tối đa 3.000 lượng.

Từ ngày 28/3/2013 đến 16/8/2013, NHNN đã đấu thầu bán vàng miếng với tổng khối lượng trúng thầu là 1.426.400 lượng (tương đương với 54,86 tấn) trên tổng số 1.530.000 lượng (tương đương với 56,84 tấn) chào thầu.

Tính đến sáng 17/8/2013, chênh giá trong nước so với giá quốc tế quy đổi đã co về còn 3,1 triệu đồng/lượng; nếu tính đủ các loại chi phí, chênh lệch chỉ còn khoảng 2,6-2,7 triệu đồng/lượng. Như vậy, sau hơn một năm chênh lệch giá từng lên tới gần 20%, nay chỉ còn khoảng 7%.

Kết quả các phiên đấu giá vàng miếng cho thấy, quy trình đấu thầu của Ngân hàng Nhà nước được thực hiện thông suốt, đúng quy định tại Thông tư số 06/2013/TT-NHNN ngày 12/3/2013 và Quyết định số 563/QĐ-NHNN ngày 18/3/2013 của NHNN. Mục tiêu cao nhất của việc NHNN tổ chức đấu thầu vàng miếng trước thời điểm 30/6/2013 với tư cách là nguời kiến tạo và bảo đảm nguồn cung vàng miếng cho thị trường đã được thực hiện tốt. Xét từ góc độ quy trình và các mục tiêu đấu thầu vàng miếng, cho thấy phiên đầu là không thành công do đặt giá chào bán cao hơn 500 nghìn đồng/lượng so với giá thị trường tại cùng thời điểm, nên chỉ bán được dưới 8% lượng vàng chào bán và chỉ có dưới 10% đơn vị tham gia trúng thầu. Tuy nhiên, các phiên đấu thầu vàng về sau đã thành công hơn nhiều cả về quy mô vàng bán ra, cũng như số đơn vị trúng thầu; đồng thời tạo nguồn thu mới cho NSNN…

Đánh giá việc quản lý thị trường vàng theo cơ chế mới, các báo cáo và phát ngôn chính thức của NHNN đều khẳng định: NHNN can thiệp thị trường vàng không vì mục tiêu lợi nhuận, đồng thời chỉ theo đuổi mục tiêu ổn định thị trường, chứ không có mục tiêu ổn định hay là làm cho giá vàng trong nước hay giá vàng thế giới thu hẹp lại... Một trong những nội dung bình ổn thị trường vàng mà Nghị định 24 đã làm được là ổn định được giá vàng trong nước một cách tương đối, làm cho động cơ để đầu cơ vào vàng khi giá thế giới biến động không còn hấp dẫn như trước đây nữa và tránh được tác động lên xuống thất thường

201

của giá vàng nước ngoài mà từ đó ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô. Về tổng thể, sau một năm thực hiện khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng, quyền sở hữu, tích trữ, mua bán vàng miếng hợp pháp của người dân được bảo vệ. Thị trường vàng đã được sắp xếp lại một cách cơ bản, hoạt động ổn định và vàng không còn ảnh hưởng mạnh tới thị trường ngoại hối như trước đây. Hoạt động đầu cơ bị đẩy lùi, thị trường, tỷ giá ổn định, lạm phát được kiềm chế, ngoài ra đã mua lại được của dân gần 100 tấn vàng. Có thể nói, đa số yêu cầu của Quốc hội về thị trường vàng đã được thực hiện và bước đầu có kết quả rất tích cực, ngoại trừ thực tế giai đoạn 2012-2013, chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới ở mức cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Theo Thống đốc NHNN, đến nay toàn bộ hoạt động nhập vàng do nhà nước đảm nhiệm và toàn bộ chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới là thuộc về ngân sách nhà nước để đầu tư lại cho nền kinh tế, thực hiện các công trình phúc lợi xã hội. Việc thu hẹp giá vàng trong nước và thế giới không làm bình ổn thị trường vàng, không loại bỏ được các tác động tiêu cực lên kinh tế vĩ mô, không làm giảm vàng hóa, mà trái lại, ở các chừng mực khác nhau lại có tác động ngược lại. Chính chênh lệch giá vàng cao ở những thời điểm nhất định và hoạt động can thiệp theo hình thức đấu giá của NHNN đã giữ cho giá vàng trong nước và thị trường vàng trong nước ổn định trước những biến động bất thường của giá vàng thế giới, đã làm mất đi động lực đầu cơ, làm giá, tạo sóng kiếm lời của giới đầu cơ, và do vậy góp phần kiềm chế “vàng hóa” nền kinh tế… Ngoài ra, thực hiện cơ chế quản lý vàng mới theo tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP đã giúp tiết giảm nguồn ngoại tệ cho mục tiêu nhập khẩu vàng. NHNN đã cấp phép nhập khẩu bình quân khoảng 50-60 tấn vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Đồng thời, khối lượng ngoại tệ NHNN sử dụng để nhập khẩu vàng (với 55 tấn vào khoảng 2,5 tỷ USD) là nhỏ hơn nhiều lần lượng ngoại tệ nền kinh tế phải bỏ ra để nhập khẩu vàng trong những năm trước đây (khoảng trên dưới 10 tỷ USD). Lượng ngoại tệ này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với lượng ngoại tệ NHNN đã mua vào tăng dự trữ ngoại hối nhà nước trong thời gian qua. Mục tiêu trước mắt và mục tiêu trực tiếp là bình ổn thị trường vàng nói

202

chung, trong đó có bình ổn giá vàng trong nước để tránh việc đầu cơ trục lợi; tiếp tục ổn định được kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện kéo giá vàng trong nước và thế giới sát lại gần nhau hơn.

3. Những điểm nhấn triển vọng và giải pháp bình ổn thị trường vàng thời gian tới

Mức giảm hơn 20% của vàng từ đầu năm tới 6/2013 là chuỗi ngày tồi tệ nhất kể từ năm 1981. Ngày 19/6/2013, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã tuyên bố FEDsẽ giảm quy mô gói mua trái phiếu trị giá 85 tỷ USD mỗi tháng kể từ cuối năm nay và sẽ kết thúc chương trình vào năm 2014. Tuyên bố này đưa vàng hướng tới năm giảm đầu tiên kể từ năm 2000, đồng thời cũng làm hạ giá bạc, thị trường chứng khoán Mỹ mất điểm, giá dầu lao dốc và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng vọt, trong đó lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm lên mức cao nhất kể từ tháng 8/2011…

Trong năm 2013, các nhà đầu tư thế giới đều đang giảm nắm giữ vàng. Theo thống kê của Bloomberg, các quỹ ETF đã bán ròng gần 526 tấn vàng từ đầu năm 2013 - tới nay, trong đó riêng quỹ SPDR Gold Trust bán ra xấp xỉ 360 tấn, đưa lượng nắm giữ xuống dưới 1.000 tấn lần đầu tiên kể từ tháng 2/2009. Các tỷ phú lừng danh đều giảm nắm giữ cổ phần trong các quỹ đầu tư vàng và các công ty khai mỏ khi họ nhận thấy đà tăng kéo dài 12 năm của vàng đã đến lúc kết thúc.

Tuy nhiên, nhu cầu mua vào của Trung Quốc trong nửa đầu năm 2013 tăng khoảng 52% và đã vượt Ấn Độ để trở thành nước tiêu thụ vàng nhiều nhất thế giới năm 2013.

Về tổng thể và trung hạn, giá vàng sẽ tiếp tục có những động thái bất thường, không loại trừ sự gia tăng và sụt giảm nhanh với những biên độ lớn và giật cục. Những nguyên nhân cội rễ lớn nhất và trực tiếp của sự biến động này chính là những toan tính, chính sách và hành động có chủ đích nhằm thao túng thị trường và tạo sức ép có lợi trong thương mại và thương lượng chính trị quốc tế của một số nước lớn, các quỹ đầu cơ vàng và cả là hệ quả của cuộc chiến tiền tệ trên thế giới, cũng như sự thiếu lành mạnh tài chính - ngân hàng tiềm tàng trong nhiều nước trên

203

thế giới. Đặc biệt, yếu tố tâm lý và sự nhạy cảm giá vàng tùy thuộc tỷ lệ thuận với độ “đóng cửa”, thiếu liên thông trực tiếp, nhanh nhạy và thiếu minh bạch thông tin trên thị trường vàng trong nước. Vì vậy, việc bảo đảm dòng chảy tự nhiên của vàng giữa thị trường trong nước và quốc tế theo các nguyên tắc thị trường và sự phát triển đầy đủ, vận hành có hiệu năng thực tế của các thể chế thị trường là hết sức cần thiết; Đồng thời, việc tăng cường quản lý các hiện tượng buôn lậu, đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt và những hiện tượng lạm dụng để trục lợi cũng quan trọng không kém trong hoạt động quản lý nhà nước đối với thị trường vàng...

Về khách quan, có thể nói, trên thực tế, thị trường vàng trong nước hiện không có sự liên thông với thế giới và có mức giá vàng miếng thường cao hơn so với giá quốc tế. Khoảng cách chênh lệch sau phiên đấu thầu thứ nhất (28/3) là 3,2 triệu đồng/lượng so với mức lệch ngày 27/3 là 2,6 triệu đồng. Các phiên tiếp theo tăng dần lên mức là 4,1 triệu, 4,5 triệu... và có lúc lên tới gần 7 triệu đồng/lượng. Nguyên nhân gây ra sự chênh lệch cao, kéo dài giữa vàng trong nước và quốc tế là do nguồn cung cho thị trường chủ yếu là nguồn vàng nhập khẩu và được định giá sàn độc quyền cao có mục tiêu, trong bối cảnh các NHTM có nhu cầu cao về vàng miếng để đáp ứng nhiệm vụ tất toán trạng thái vàng trước 30/6 theo yêu cầu của NHNN. Đồng thời, đó còn do hiện tượng các NHTM và công ty kinh doanh vàng trúng thầu trì hoãn hoặc cố tình giảm giá vàng chậm hơn cho lượng vàng mình tung ra thị trường so với tốc độ sự sụt giảm mạnh bất ngờ, liên tục và khó đoán định của vàng thế giới, cũng như e ngại rủi ro từ nguyên tắc “không liên thông” giữa thị trường trong nước với thế giới mà NHNN đang cố gắng theo đuổi…

NHNN khẳng định: Thị trường còn nhu cầu, còn thiếu cung thì còn tiếp tục tổ chức đấu thầu vàng để tạo cung, để tránh thiếu cung có thể gây bất ổn thị trường.

Trong thời gian tới, sẽ có nhiều chuyển động mới trên thị trường vàng miếng, với 2 khả năng lớn sau:

Thứ nhất, giá vàng miếng trong nước sẽ biến đổi mạnh theo hướng thu hẹp khoảng cách và bám sát giá vàng thế giới, cũng như rút ngắn

204

khoảng cách giữa hai đầu giá mua và bán, với ba lý do chính: (1).Nhu cầu vàng miếng trên thị trường trong nước sẽ giảm thiểu; (2) NHNN vì lời hứa của mình và theo yêu cầu của Quốc hội, sẽ đặt giá sàn các phiên đầu giá trong thời gian từ đầu tháng 7/2013 thấp và sát với giá thế giới hơn, chứ không chỉ dựa vào giá giao dịch thực tế bán lẻ vàng miếng trong nước; (3) Vàng thế giới sẽ có sự giảm giá mạnh và liên tục cho tới năm 2014-2015 theo nhiều dự báo của các tổ chức và chuyên gia vàng trên thế giới, thậm chí sẽ chỉ còn khoảng 1100-1200 USD/oz so với mức trên dưới khoảng 1300 USD/oz hiện nay.

Thứ hai, giá vàng miếng trong nước sẽ tiếp tục quán tính kéo dài sự giãn cách cao như hiện nay, dù có thể giãn cách hai đầu mua - bán vàng miếng của các đơn vị được phép kinh doanh vàng miếng trong nước vẫn còn cao, nhưng giãn cách giá vàng trong nước với thế giới sẽ có sự thu hẹp đáng kể (có thể còn từ 10-5% theo dự báo của HSBC trong vòng từ 2-3 tháng tới; và lý tưởng nhất đối với người dân là chỉ còn chênh lệch tối đa 400.000 đ/lượng như lời hứa còn nợ đọng của Thống đốc NHNN hồi tháng 10/2011) do tổng cầu vàng miếng từ khối các NHTM trên thị trường vàng trong nước sẽ có sự giảm mạnh đáng kể từ tháng 7/2013 (trong giả định cần và đã được cung ứng thêm 4-6 tấn vàng miếng SJC để bảo đảm tất toán nốt trạng thái vàng theo quy định vào 30/6). Đồng thời, nhu cầu vàng trang sức và vàng miếng thương hiệu phi SJC có thể không giảm nhiều, nhất là khi kinh tế trong nước có sự khởi sắc đậm hơn vào nửa cuối năm 2013 và giá cả thế giới tiếp tục đà rơi tự do như dự báo... Thực tế cho thấy, thị trường vàng Việt Nam vẫn thiếu cung kéo dài như lời Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình trong lần trao đổi với báo chí gần đây, vàng trong dự trữ ngoại hối quốc gia và vàng nhập khẩu về hơn 20 triệu lượng vàng miếng SJC đã được đưa ra thị trường, nhưng phần lớn không trở lại giao dịch, dù chắc chắn không chảy ra bên ngoài vì giá trong nước những năm gần đây luôn cao hơn giá thế giới. Điều này cho thấy, vàng đã, đang và vẫn sẽ được coi là một công cụ tích trữ và hình thức tài sản, thậm chí, một công cụ để rửa tiền được ưa chuộng ở Việt Nam…

205

Gần đây, việc tất toán trạng thái vàng của các NHTM cơ bản đã xong (theo đánh giá sơ bộ của NHNN, đến 28/6 đã có trên 98% hợp đồng huy động vàng đã được tất toán, hay nói cách khác, số dư huy động vàng chỉ còn 2%, các đơn vị này chủ yếu đều ở Thành phố Hồ Chí Minh), NHNN giảm số vàng được phép mua tối đa để đảm bảo khả năng tham gia của các NH và doanh nghiệp, hạn chế vàng đấu thầu chảy vào túi các NH lớn gây đầu cơ, lũng đoạn giá bán lẻ. Số lượng vàng tối đa mà mỗi đơn vị được phép mua qua mỗi phiên đấu thầu, từ mức 15.000 lượng/phiên, giảm xuống mức 5.000 lượng và hiện nay còn 3.000 lượng. Hiện các NH được duy trì số vàng dương 2%. Tính tổng vốn của 22 NH được phép kinh doanh vàng, các NH có thể duy trì số dư vàng tương đương 70.000 lượng. Con số này không cao nhưng trong một thời gian, nếu các NH dồn dập tung hàng ra thì có khả năng chỉnh giá thị trường theo ý đồ của mình. Với tình trạng độc quyền cung và độc quyền phân phối như hiện nay, người dân thường có tâm lý thủ, người có vàng cũng không dám bán vì sợ không mua lại được. Tất cả các phiên đấu thầu, NHNN chỉ bán ra chứ không mua vào được, từ đó làm cho túi vàng trong dân ngày càng phình lên. Vấn đề gốc rễ không giải quyết được mà làm cho tình trạng vàng hóa ngày càng trầm trọng thêm. Tình trạng giá vàng bị đẩy lên vào những ngày NHNN không thực hiện đấu thầu là do đầu cơ và thiếu nguồn cung…

Trong thời gian tới, để bình ổn thị trường vàng trong nước, đặc biệt là quản lý thị trường vàng miếng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của NHNN theo quy định của Luật NHNN, theo đúng tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP và Nghị định 86 về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước, Quyết định 16 của Thủ tướng Chính phủ về mua bán vàng miếng của NHNN trên thị trường trong nước và các văn bản hướng dẫn thi hành hai nghị định nêu trên, cần có sự thống nhất nhận thức và đồng bộ, nhất quán trong định hướng mục tiêu và sử dụng các công cụ quản lý thị trường này. Theo đó, NHNN thực hiện chức năng quản lý và hoạch định chính sách và từng bước chủ động vai trò là người kiến tạo và mua bán cuối cùng trên thị trường; bảo đảm quyền lợi hợp pháp và hài hòa của

206

các chủ thể tham gia thị trường vàng miếng theo quy định; có những giải pháp thích hợp để huy động được nguồn vàng trong dân cư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động đấu thầu vàng miếng sẽ được tiếp tục với sự tuân thủ các nguyên tắc thị trường ngày càng đầy đủ hơn và sự tham gia rộng rãi, tự do hơn của các đối tượng và chủ thể thị trường. Các yêu cầu về phương thức thanh toán và cung ứng vàng trúng thầu cũng cần được nâng cao hơn để bảo đảm an ninh ngoại hối và quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường này.

Đặc biệt, cần khẳng định mục tiêu cao nhất của quản lý nhà nước đối với thị trường vàng miếng là góp phần ổn định và dễ dự đoán các động thái thị trường vàng trong nước theo sát các động thái giá và xu hướng thị trường vàng thế giới; theo yêu cầu của Quốc hội, cần gia tăng sự liên thông thị trường của vàng trong nước với vàng quốc tế, từng bước thu hẹp sự cách biệt giá trong nước và quốc tế; giải tỏa sức ép các yếu tố tâm lý về sự khan hiếm vàng giả tạo, cũng như các hoạt động đầu cơ, buôn lậu, găm giữ vàng và kỳ vọng tăng giá một chiều trong tương lai; giảm dần giao dịch vàng miếng để chuyển sang giao dịch tập trung, có tổ chức các sản phẩm khác của vàng với hệ thống các công cụ bảo hiểm rủi ro; ngày càng hội nhập và tiếp cận được những sản phẩm tài chính quốc tế; ưu tiên lợi ích ổn định vĩ mô và cân đối, bảo đảm an toàn dự trữ ngoại hối; ngăn chặn các hiện tuợng liên kết làm giá, giữ giá, đẩy giá trong và sau đấu thầu vàng miếng; giám sát việc sử dụng vàng và giá bán lẻ đối với lượng vàng trúng thầu; giảm thiểu việc các tổ chức tín dụng cho vay để kinh doanh vàng; nâng cao hơn các yêu cầu minh bạch hóa và phòng chống rửa tiền trong kinh doanh vàng...

Hơn nữa, cần tránh ngộ nhận và đồng nhất việc độc quyền nhập khẩu và dập vàng thương hiệu quốc gia giống như độc quyền sản xuất tiền của Chính phủ, càng không thể quản lý vàng theo thương hiệu quốc gia như một dạng tiền tệ chính thức quốc gia. Nói cách khác, không thể dùng quyền độc quyền vàng như một loại máy in tiền; không thể biến việc chống “vàng hóa” thành việc “tiền tệ hóa” vàng, nếu không muốn biến một quốc gia từ chỉ có một đồng bản tệ duy nhất thành có hai đồng tiền cùng lưu hành chính thức và độc quyền như nhau.

207

Chủ trương thực hiện quản lý vàng theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP để chống “vàng hóa” (nhất là coi vàng như công cụ thanh toán) là đúng và cần thiết, bảo đảm hiệu quả của chính sách tiền tệ quốc gia có mục tiêu; song không vì thế mà ngộ nhận hoặc làm dụng trong quản lý và kinh doanh vàng miếng, biến vàng miếng thành “đồng tiền quốc gia thứ hai”, điều tự mâu thuẫn với yêu cầu chỉ được phép lưu hành một đồng tiền duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam, như mục tiêu đặt ra ban đầu của quản lý nhà nước và phù hợp với thông lệ trên thế giới.

Đồng thời, cần thực hiện quản lý vàng thương hiệu quốc gia trên cơ sở pháp lý đầy đủ, minh bạch, với giá được tính theo hàm lượng vàng, được chuẩn hóa và bảo đảm bởi yêu cầu mang tính pháp định cao.

Hiện tượng cùng một miếng vàng có trọng lượng và hàm lượng giống hệt nhau, những nếu chúng được dập thành thương hiệu quốc gia thì giá sẽ cao hơn hẳn loại dập dưới thương hiệu khác chính là điển hình của việc ngộ nhận vàng thương hiệu quốc gia là tiền quốc gia, khiến làm tăng giá trị ảo của vàng miếng mang thương hiệu quốc gia, với tất cả những hệ lụy nặng nề và gây thiệt hại cho người dân và những ai muốn sở hữu vàng.

Sự bám sát giá vàng trong nước và thế giới là nguyên tắc của giá cả thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa; cũng như là điều kiện để giảm thiểu tình trạng đầu cơ, sốt giá và rủi ro kinh doanh vàng.

Được biết, với lý do bảo mật thông tin về vàng nhập khẩu, NHNN đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép bổ sung mặt hàng vàng nhập khẩu của NHNN vào danh mục hàng hóa đặc biệt được áp dụng quy chế miễn khai báo, miễn kiểm tra và miễn báo cáo thủ tục hải quan (cùng danh mục hàng hóa phục vụ an ninh, quốc phòng như tiền, vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ in, đúc tiền của NHNN đã được Thủ tướng chấp thuận không phải thực hiện thủ tục khai báo hải quan) vào Luật Hải quan sửa đổi. Đồng thời, đề nghị các Bộ Công an, Giao thông vận tải, Tài chính và Tổng cục Hải quan, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam phối hợp với NHNN thực hiện tổ chức tiếp nhận, bốc dỡ, vận chuyển và bảo vệ các chuyến hàng đảm bảo an toàn, bí mật. Có thể thấy, những đề

208

nghị và điều chỉnh trên, bên cạnh những tác động tích cực là tạo thuận lợi và an toàn cho quản lý vàng theo yêu cầu nghiệp vụ và theo tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP, song cũng cần có sự cân nhắc kỹ và nhất là cần chủ động xây dựng và thực hiện tốt các cơ chế kiểm soát, giám sát và giải pháp phòng ngừa các tác động mặt trái, nhất là hiện tượng lạm dụng, buôn lậu vì mục đích trục lợi cá nhân hay lợi ích nhóm, vi phạm pháp luật, làm tổn hại lợi ích và an ninh quốc gia…

Đặc biệt, cần tránh những bất cập do ngộ nhận hoặc lạm dụng sau đây về quản lý vàng trong nước:

Thứ nhất, độc quyền sản xuất vàng khác độc quyền sản xuất tiền.Theo Điều 16 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012,

Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch về phát triển thị trường vàng và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này; bổ sung vàng miếng vào Dự trữ ngoại hối nhà nước; thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường vàng thông qua các biện pháp: (a) Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị định này; (b) Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua việc quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng miếng phù hợp trong từng thời kỳ. Chi phí tổ chức sản xuất vàng miếng được hạch toán vào chi phí hoạt động của Ngân hàng Nhà nước; (c) Thực hiện mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước và tổ chức huy động vàng theo quy định của Thủ tướng Chính phủ…

Về cả bản chất và tính chất, cũng như cơ sở pháp lý quốc gia và quốc tế hiện nay, thì vàng đủ hàm lượng 99,99% dù của bất kỳ ai và dưới dạng hình thức nào cũng cần được đối xử bình đẳng và cũng như nhau về giá trị; tức không thể dùng ý chí chủ quan tạo sự chệnh biệt giá cả lớn giữa vàng có “thương hiệu quốc gia” với vàng khác cùng hàm lượng % vàng như nhau. Nếu coi vàng được gắn ‘thương hiệu quốc gia” là vàng có giá trị chênh biệt cao hơn hẳn các vàng khác, thì vô tình hay cố ý đã biến vàng thành tiền quốc gia, tương tự như việc Chính phủ

209

thông qua máy in tiền đã biến tờ giấy in bình thường thành đồng tiền giấy quốc gia, dù với những công nghệ chống làm giả ngày càng tinh vi hơn mà thôi.

Nói cách khác, chủ trương thực hiện quản lý vàng theo Nghị định 24?2012/NĐ-CP để chống “vàng hóa” (nhất là coi vàng như công cụ thanh toán) là đúng và cần thiết, bảo đảm hiệu qủa của chính sách tiền tệ quốc gia có mục tiêu; song không vì thế mà ngộ nhận hoặc lạm dụng trong quản lý và kinh doanh vàng miếng, biến vàng miếng thành “đồng tiền quốc gia thứ hai”, điều tự mâu thuẫn với yêu cầu chỉ được phép lưu hàng một đồng tiền duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam, như mục tiêu đặt ra ban đầu của quản lý nhà nước và phù hợp với thông lệ trên thế giới.

Thứ hai, thương hiệu vàng quốc gia cần theo quy chuẩn hóa quốc gia.

Thực tế đáng ngạc nhiên là xã hội bùng nổ làn sóng săn lùng vàng SJC như thương hiệu vàng quốc gia sau tuyên bố của Thống đốc NHNN, nhưng dường như cho đến nay người dân vẫn khó tìm thấy một văn bản pháp lý nào trong đó quy định quy chuẩn chi tiết hình thức mẫu mã, trọng lượng, chất lượng, cơ cấu sản phẩm vàng miếng, cùng các quy chế giao dịch và bảo đảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung ứng vàng miếng, xử lý các tranh chấp có liên quan đến loại vàng miếng mới lên ngôi này; đặc biệt, càng hiếm có những quy định bảo vệ quyền lợi thỏa đáng của người dân sở hữu các loại vàng miếng khác nhau.

Nói cách khác, sẽ là tùy tiện và áp đặt nếu thực hiện quản lý vàng thương hiệu quốc gia mà không có đủ cơ sở pháp lý minh bạch về vị thế của nó.

Tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ là bảo đảm Nhà nước độc quyền kinh doanh vàng miếng và quản lý tập trung thị trường vàng, chống lại các hoạt động đầu cơ và gây rối loạn thị trường vàng nói riêng, cũng như thị trường tài chính - tiền tệ và sự ổn định kinh tế vĩ mô quốc gia nói chung. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Nhà nước cho phép duy ý chí trong việc đưa ra các công cụ pháp

210

lý và hành chính quản lý vàng, chống lại các quy luật kinh tế thị trường và yêu cầu kinh doanh vàng theo sát với động thái thị trường quốc tế; không cho phép sự vô tình hay cố ý tạo ra các nhóm lợi ích cơ hội hay bắt ai đó phải trả giá cho những rủi ro chính sách mà họ phải gánh chịu. Bởi vậy, sẽ là ngộ nhận lớn về mục tiêu và tinh thần xuyên suốt của Nghị định này, cũng như sớm muộn sẽ gây hệ quả nhiều mặt cho đất nước nếu đóng cửa thị trường vàng trong nước với thị trường vàng quốc tế, kiểu “mũ ni che tai”, thiếu hài hòa các lợi ích, dù được biện minh bằng những lợi ích nào đó về cán cân thương mại và thanh toán.

Thứ ba, chênh lệch giá vàng miếng không phải do chất lượng vàng.Vì ngộ nhận quản lý độc quyền vàng như quản lý độc quyền tiền,

nên giá vàng không còn được tính theo hàm lượng vàng, mà lại được tính theo thương hiệu. Cùng một miếng vàng có trọng lượng và hàm lượng giống hệt nhau, nhưng nếu chúng được dập thành thương hiệu SJC thì giá sẽ cao hơn hẳn loại dập dưới thương hiệu khác. Chính đây là điển hình của việc ngộ nhận vàng thương hiệu quốc gia là tiền quốc gia, khiến làm tăng giá trị ảo của vàng miếng mang thương hiệu quốc gia với tất cả những hệ lụy nặng nề và gây thiệt hại cho người dân và những ai muốn sở hữu vàng.

Hơn nữa, chênh lệch giá vàng miếng trong nước với giá thế giới cao và kéo dài đang đặt ra nhiều bức xúc trong xã hội, nhất là về lợi ích thực sự của nó; thì dư luận càng khó hiểu hơn khi điều này đang được NHNN giải thích bởi liên thông thị trường, mà không liên thông giá vàng; và NHNN chỉ thực hiện bình ổn thị trường, mà không bình ổn giá vàng. Câu hỏi đặt ra là cần hiểu như thế nào về sự liên thông thị trường, hay chỉ nên hiểu sự liên thông này chỉ đơn giản là việc NHNN có nhập khẩu vàng độc quyền về để bán lại cho nhu cầu trong nước; và cần hiểu ra sao về bình ổn thị trường, hay chỉ nên hiểu đơn giản bình ổn thị trường là lúc nào cũng có vàng bán ra thị trường, dù với giá độc quyền cao của người kinh doanh vàng cao nhất là NHNN.

Sự bám sát giá vàng trong nước và thế giới là nguyên tắc của giá cả thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa; cũng như là điều kiện để giảm

211

thiểu tình trạng đầu cơ, sốt giá và rủi ro trong việc kinh doanh vàng. Ngược lại, các ngân hàng thương mại và đơn vị kinh doanh vàng miếng phải chịu rủi ro chính sách lớn khi đối diện với thực tế: Trước đó, họ được cho phép huy động và kinh doanh vàng miếng trong bối cảnh bảo đảm liên thông và bám sát giá vàng thế giới; rồi đột ngột họ bị rút lại quyền đó và phải tất toán trạng thái vàng trong thời hạn đã định, nhất là trong tình huống mới khi NHNN đã độc quyền nhập khẩu vàng và thực hiện bán đấu vàng miếng giá với giá sàn luôn cao hơn nhiều so với giá trung bình thế giới…

Lời hứa về triển vọng giá vàng trong nước sẽ bám sát giá vàng thế giới từ sau tháng 6 năm 2013 khi đã tất toán trạng thái vàng của các NHTM sẽ còn là một ẩn số, vì chưa có cơ chế pháp lý cụ thể nào bảo đảm điều này trên thực tế.

Hơn nữa, cần tránh ngộ nhận và suy luận logic hình thức rằng, việc độc quyền vàng và để giãn cách giá vàng trong nước với nước ngoài cao là công cụ hữu hiệu để chống buôn lậu (nhớ rằng buôn lậu vàng dễ hơn nhiều các loại hàng hóa cồng kềnh và dễ bị phát hiện khác), chống dòng chảy ngoại tệ nhập vàng và do đó, giúp bảo đảm tỷ giá ổn định...

Về tổng thể và nguyên tắc, Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ khẳng định quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật. NHNN là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này. Vì vậy, việc thực hiện quản lý kinh doanh vàng theo Nghị định này cũng đòi hỏi, một mặt, tiêu chuẩn hóa các cơ sở và điều kiện kinh doanh vàng miếng, giảm bớt những sức ép “đội” giá vàng trong nước do qua quá nhiều các “cầu trung gian” hay những hoạt động đầu cơ; đồng thời, mặt khác, đề cao chất lượng dịch vụ của các đơn vị được phép kinh doanh vàng miếng, bảo đảm sự tiếp cận thuận lợi và quyền lợi của người mua và sở hữu vàng. Đồng thời, Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng và quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm phát triển ổn

212

định và bền vững thị trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu theo quy định của pháp luật.

Điều đặc biệt cần nhấn mạnh là Nghị định này khẳng định rõ yêu cầu Nhà nước độc quyền kinh doanh vàng miếng vì lợi ích chung (tăng cường ổn định vĩ mô và nguồn thu NSNN) của quốc gia, chứ không xóa bỏ quyền sở hữu và giao dịch vàng miếng của người dân, cũng như không biến quyền kinh doanh vàng miếng thành độc quyền và mang lại khối lợi nhuận khổng lồ béo bở cho bất kỳ doanh nghiệp hay một thương hiệu vàng nào. Với tinh thần đó, mọi biểu hiện không bảo đảm chất lượng dịch vụ và sản phẩm vàng miếng cung cấp cho thị trường, gây ách tắc và méo mó cung - cầu, giá cả thị trường vàng trong nước phải được nhận diện đầy đủ và sâu sắc các nguyên nhân, cũng như quy rõ trách nhiệm cá nhân và tổ chức để xử lý kịp thời, nghiêm khắc, nhất là bảo đảm những nguồn lợi từ chênh lệch giá vàng trong nước với giá vàng thế giới kéo dài trong thời gian qua phải được tính toán chính xác và quy tụ thành nguồn thu bổ sung cho NSNN theo quy định của pháp luật.

Từ thực tế thị trường vàng miếng thời gian qua và những nhận thức trên, đòi hỏi trong thời gian tới cần tiếp tục tăng cường hoàn thiện quản lý nhà nước đối hoạt động kinh doanh vàng miếng theo đúng tinh thần Nghị định 24/2012-NĐ-CP. Các can thiệp hành chính nhà nước cần bảo đảm sự đông bộ và hài hoà, phục vụ tốt mục tiêu góp phần ổn định nhanh chóng các động thái thị trường, nhất là giải tỏa các yếu tố tâm lý; gia tăng sự liên thông thị trường của vàng trong nước với vàng quốc tế, giảm thiểu sự cách biệt giá trong nước và quốc tế, cũng như sự khan hiếm vàng giả tạo, các hoạt động đầu cơ, buôn lậu, tâm lý găm giữ vàng và kỳ vọng tăng giá trong tương lai… Tiếp tục tổ chức, sắp xếp chặt chẽ thị trường vàng theo hướng giảm dần giao dịch vàng miếng để chuyển sang giao dịch tập trung, có tổ chức các sản phẩm khác của vàng với hệ thống các công cụ bảo hiểm rủi ro; ngày càng hội nhập và tiếp cận được những sản phẩm tài chính quốc tế. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý và hoạch định chính sách và từng bước

213

chủ động vai trò là người kiến tạo và mua bán cuối cùng trên thị trường; Đồng thời, tạo ra môi trường kinh thuận lợi để các doanh nghiệp tham gia thị trường vàng trang sức mỹ nghệ, kể cả đầu tư nước ngoài; vừa bảo đảm quyền lợi của người dân, các DN và ngân hàng khi thực hiện giao dịch vàng miếng; vừa đảm bảo nguồn thu vào NSNN lợi nhuận từ kinh doanh vàng miếng theo quy định, có những giải pháp thích hợp để huy động được nguồn vàng trong dân cư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội... Điều cần nhấn mạnh rằng, để đạt được mục tiêu đảm bảo hài hoà các lợi ích, trong đó ưu tiên lợi ích ổn định vĩ mô và cân đối dự trữ ngoại hối, các mức giá mua - bán vàng miếng cần được NHNN cân nhắc hợp lý; đồng thời, cần có biện pháp ngăn chặn các hiện tượng liên kết làm giá, giữ giá, đẩy giá trong và sau đấu thầu vàng miếng; nhất là giám sát việc sử dụng vàng, cơ chế giá bán lẻ đối với lượng vàng trúng thầu; áp giới hạn trạng thái vàng thấp hợp lý; cấm các tổ chức tín dụng cho vay để mua vàng, ngoại trừ trường hợp được Thống đốc xét duyệt; đồng thời triển khai quyết liệt Luật Phòng chống rửa tiền. Ngoài ra, để giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp tham gia đấu thầu vàng, NHNN cũng cần thực hiện tốt các cam kết nghĩa vụ cung ứng vàng trúng thầu theo đúng khối lượng, chất lượng, giá và thời gian đã “chốt” với doanh nghiệp theo quy định đấu thầu...

Đặc biệt, cần có điều chỉnh quy định về số lượng điểm và thời gian giao dịch vàng và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp lẻ vàng miếng để tránh gây phiền, thiệt thòi cho người dân. Ví dụ, buộc các ngân hàng có giao dịch mua - bán vàng thực sự, chứ không chỉ giữ chỗ hay chỉ chấp nhận mua vàng có bao bì mới, loại 1 lượng trở lên…

Ngày 22/4, Thanh tra Chính phủ đã công bố quyết định Thanh tra Chính phủ sẽ tiến hành thanh tra trách nhiệm việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NHNN đối với hoạt động kinh doanh vàng, huy động và cho vay vốn bằng vàng. Khoảng thời gian thanh tra sẽ tính từ tháng 1/2009 đến hết tháng 3/2013. Tuy nhiên, khi cần thiết, có thể thanh tra trước hoặc sau thời kỳ nêu trên. Thời hạn thanh tra là 60 ngày kể từ ngày công bố quyết định thanh tra (22/4)… Hy vọng, qua thanh tra

214

sẽ góp phần hoàn thiện quản lý thị trường vàng miếng Việt Nam hơn nữa…

Một số câu hỏi còn bỏ ngỏ về quản lý vàng trong nước:

1. Theo NHNN, sau khi được Thủ tướng cho phép, NHNN đã tổ chức tạm xuất vàng phi

SJC, tái nhập vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế để đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi vàng phi

SJC thành vàng SJC nhằm đáp ứng nhu cầu chỉ trả vàng SJC cho người dân của TCTD (đến

30/6 các TCTD sẽ phải tất toán xong tài khoản vàng với khách hàng). Tổng cộng, sẽ có 10 tấn

vàng miếng phi SJC được tạm xuất, tái nhập, trong đó có 1,6 tấn vàng được cấp phép chuyển

đổi cho DongA Bank và Techcombank. Toàn bộ việc tạm xuất tái nhập vàng được thực hiện

xong trước 10/3. Số lượng vàng tạm xuất, tái nhập này là vàng miếng phi SJC của các TCTD

đang giữ của người dân. NHNN đã thực hiện kiểm tra tồn quỹ thực tế số vàng này hai lần

trước khi trình Chính phủ cho phép thực hiện. Phương án này giúp đẩy nhanh tiến độ kiểm

định, gia công vàng miếng phi SJC thành vàng miếng SJC, khắc phục được “điểm nghẽn” về

tiến độ kiểm định của công ty SJC (nếu không thực hiện phương án tạm xuất, tái nhập nêu

trên, công ty SJC cần khoảng 6 tháng để hoàn thành việc kiểm định, gia công vàng miếng

phi SJC có nhu cầu chuyển đổi); đồng thời, không làm phát sinh nhu cầu ngoại tệ để nhập

vàng, do vậy không tạo áp lực lên thị trường ngoại tệ, không gây ra biến động về tỷ giá.

Câu hỏi đặt ra là sao không để trong nước luyện vàng để có việc làm, thu nhập và đỡ

tốn chi phí xuất-nhập; liệu có phải là động tác hợp lý hóa vàng nhập lậu hay để buôn vàng/

vàng có thực xuất hay chỉ để ở kho ngoại quan rồi lại tái nhập, hợp lý hóa vì vàng gửi của

dân, sao NHNN cho phép xuất đi, lúc trả dân thì bằng vàng nào, ai chịu thiệt hoặc chi phí

cơ hội…?Hơn nữa, sao NHNN lại có đề nghị không kiểm tra vàng nhập khẩu vào đúng thời

điểm tạm xuất tái nhập này?

2. Lợi ích từ đấu thầu do chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước hàng trăm tỷ đồng/

phiên thực sự được phân bổ như thế nào, có lợi ích nhóm hay tham nhũng không?Và những

rủi ro chính sách gắn với cho phép rồi đột ngột cấm kinh doanh tín dụng bằng vàng trong

bối cảnh độc quyền nhập khẩu và đấu giá vàng của các NHTM thì ai chịu trách nhiệm?

3. Chi phí do vàng vênh, cong và rách nilon bọc ngoài phải đổi mới tại sao lại bị tính

cao và phiền nhiễu cho khách hàng như vậy, sẽ xử lý ra sao? Tiêu chuẩn hóa các tiêu chí cụ

thể về hình thức, mẫu mã và chất lượng, cũng như dịch vụ đánh giá chất lượng vàng Thương

hiệu quốc gia sẽ như thế nào? Liệu vàng nhẫn đủ hàm lượng và chất lượng như SJC có được

coi và giao dịch như là vàng thương hiệu quốc gia không?

4. Sàn vàng giao dịch phi vật chất sẽ được tổ chức như thế nào? Mới đây, hình thức

mua bán vàng trực tuyến thông qua dịch vụ ngân hàng điện tửlần đầu tiên được áp dụng

tại Việt Nam từ tháng 7/2013. Dịch vụ này được quảng cáo là một hình thức giao dịch hiện

đại, tuy nhiên lại làm nảy sinh nghi vấn liệu việc kinh doanh vàng tài khoản, sàn vàng ảo…

lại tái xuất?

215

5. Thời gian tới xử lý vấn đề bán vàng đấu thầu sẽ thu ngoại tệ hay vẫn thu nội tệ? Nếu

thu nội tệ thì dự trữ ngoại hối sẽ được cân đối ra sao để bù số ngoại tệ phải xuất kho mua

vàng nhập về bán trong nước?

6. Bao giờ giá vàng trong nước sát với giá thế giới và mức tối đa là bao nhiêu, bao giờ

lời hứa của Thống đốc NHNN về giãn cách tối đa 400.000 đồng /lượng sẽ thành hiện thực?

bởi:

- Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ tư, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)

được giao nhiệm vụ khắc phục những bất cập trong quản lý, ổn định thị trường vàng, bảo

đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp về tài

sản của người dân.

- Nghị quyết 01 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực

hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2013 cũng yêu

cầu NHNN bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích

hợp pháp về tài sản của người dân.

7. Bao giờ và bằng cách nào để thu hút lượng vàng trong dân như một nguồn vốn rẻ

và có lợi cho tất cả các bên, từ NN, NH và DN, cũng như người dân có vàng…. Báo cáo kinh

tế vĩ mô 2012 có chủ đề: “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu” của Ủy ban Kinh tế Quốc

hội nhận định, việc xây dựng một thị trường vàng hiện đại là nhu cầu cần thiết ở Việt Nam,

nhằm huy động số vàng lên tới 300 - 500 tấn trong dân để phục vụ mục tiêu phát triển kinh

tế và tránh để các hoạt động trên thị trường vàng ảnh hưởng đến tỷ giá. Báo cáo cho rằng,

mấu chốt của vấn đề thị trường vàng Việt Nam nằm ở việc tách hoạt động kinh doanh vàng

vật chất ra khỏi khỏi hoạt động đầu cơ giá vàng.

8. Tại sao vừa qua tình trạng nhập lậu vàng ít xẩy ra, dù chênh lệch giá vàng trong và

ngoài nước rất lớn và biên giới lại dài. Công an tỉnh Quảng Ninh cho biết ngày 24/4 đã bắt

10kg vàng 9999 nghi nhập lậu từ Trung Quốc về tại Trạm kiểm soát liên hợp km 15 (Móng

Cái, Quảng Ninh) khi đang được vận chuyển theo hướng Móng Cái - Hạ Long mà không có

giấy tờ chứng minh nguồn gốc. Tại thời điểm bị kiểm tra, chủ hàng khai nhận, số vàng này là

của gia đình và đang trên đường đem đi trả nợ. Tuy nhiên, qua kiểm tra, số vàng trên có xuất

xứ từ Trung Quốc. Được biết, chênh lệnh giá giữa vàng 9999 trong nước và bên Trung Quốc

là khoảng 5-6 triệu đồng/lượng. Khoảng cách chênh lệch cao như vậy chính là nguyên nhân

dẫn đến tình trạng nhập lậu vàng trên thị trường.

9. Làm gì để ngăn chặn tình trạng các NHTM lạm dụng quyền được đấu thầu vàng

miếng trở thành người trung gian đầu cơ vàng, đầu nậu hay ông chủ bán giấy phép 30-

40 triệu đồng/tháng của các cửa hàng vàng nhỏ-đại lý không đủ điều kiện tham gia đấu

thầu…?

Luật Doanh nghiệp quy định về những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện do Chính

phủ công bố. Ví dụ, kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định 6 tỷ đồng, dịch vụ đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài: 5 tỷ đồng... Nghị định 24 quy định hoạt động kinh

216

doanh mua bán vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện, có cấp giấy chứng nhận

đủ điều kiện kinh doanh. Việc không cấp giấy phép cho các doanh nghiệp, cửa hàng nhỏ lẻ

không đủ điều kiện kinh doanh vàng miếng dù không trái với Luật Doanh nghiệp, nhưng

bản thân các doanh nghiệp, cửa hàng này vẫn được chuyên hoạt động sản xuất, gia công,

kinh doanh mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ (nếu đủ điều kiện)... Theo Nghị định 24/2012,

DN muốn kinh doanh vàng miếng, phải đáp ứng điều kiện: có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở

lên; có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua bán vàng từ 2 năm trở lên; có

số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong 2 năm

liên tiếp gần nhất; có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương trở lên… Với điều kiện này, chỉ có những DN kinh doanh vàng có

quy mô lớn và các ngân hàng mới được phép mua - bán vàng miếng.

Nghị định 24 cũng đã nêu rõ các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được cấp phép

kinh doanh mua bán vàng miếng không đuợc thực hiện kinh doanh mua bán qua các đại lý.

Doanh nghiệp nào mở đại lý giao dịch là trái với các quy định của pháp luật.

10. Chống vàng hóa không bằng cách tiền tệ hóa vàng. Xử lý các vàng phi SJC như thế

nào để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân?

Trong thời gian trước mắt, loại vàng miếng giao dịch mua bán với Ngân hàng Nhà nước

là vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất (vàng miếng SJC). Tuy nhiên, tùy

điều kiện thực tế, trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét mua bán

các loại vàng miếng khác do Ngân hàng Nhà nước đã cho phép sản xuất trong các thời kỳ.

Đây có thể là lối thoát cho các loại vàng miếng phi SJC được phép gia công suốt một

thời gian dài trước khi SJC trở thành thương hiệu vàng miếng quốc gia. Được biết, loại vàng

miếng giao dịch cụ thể sẽ được thông báo cho các TCTD, doanh nghiệp trong thông báo

mua, bán vàng miếng hoặc thông báo đấu thầu mua, bán vàng miếng của Ngân hàng Nhà

nước. Quy trình mua bán cụ thể cũng được Ngân hàng Nhà nước ấn định, theo đó cơ quan

này có thể thực hiện qua hình thức gồm mua, bán trực tiếp và mua, bán qua đấu thầu theo

giá hoặc đấu thầu theo khối lượng. Thời hạn thanh toán và giao vàng cũng được Ngân hàng

Nhà nước quy định rất rõ. Cụ thể, với trường hợp Ngân hàng Nhà nước bán vàng, thời hạn

thanh toán tiền mua vàng chậm nhất là ngày làm việc tiếp theo ngày ký xác nhận giao dịch

(T+1), thời hạn giao vàng là ngày làm việc tiếp theo ngày thanh toán đầy đủ tiền mua vàng.

Đối với trường hợp Ngân hàng Nhà nước mua vàng, thời hạn giao vàng chậm nhất là ngày

làm việc tiếp theo ngày ký xác nhận giao dịch (T+1) và thời hạn thanh toán là ngày làm việc

liền kề tiếp theo ngày giao vàng đầy đủ. Song căn cứ vào mục tiêu điều hành chính sách và

diễn biến thị trường vàng trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước có thể quyết định thời

hạn giao vàng khác với thời hạn quy định nêu trên tại thông báo mua, bán vàng miếng hoặc

thông báo đấu thầu cho các TCTD và doanh nghiệp.

217

PHụ LụC

I. MƯỜI Mỏ VÀNG LỚN NHẤT THẾ GIỚI

Trên thế giới, đến nay đã có tổng số khoảng 165.000 tấn vàng được khai thác. Có nhiều ý kiến khác nhau về việc đâu là mỏ vàng lớn nhất.

Nhiều người cho rằng, mỏ vàng Muruntau ở Uzbekistan là mỏ lớn nhất, trong khi nhiều người khác lại tin là mỏ Grasberg ở Indonesia mới là mỏ dẫn đầu thế giới về sản lượng.

Dựa trên những nguồn dữ liệu đáng tin cậy nhất về sản lượng vàng khai mỏ, ngoài báo cáo từ các công ty khai mỏ hàng đầu, trang International Business Times đã điểm qua những mỏ vàng lớn nhất trên thế giới. Xếp hạng dựa trên số liệu về sản lượng của các mỏ vàng này trong năm 2010.

1. Mỏ Grasberg

Mỏ vàng có 19.500 công nhân này nằm ở tỉnh Papua của Indonesia. Theo báo cáo thường niên của Rio Tinto, sản lượng của mỏ này trong năm 2010 là 2,025 triệu ounce vàng. Cổ phần chính của mỏ Grasberg thuộc quyền sở hữu của công ty Freeport-McMoRan Copper & Gold. Ngoài vàng, mỏ này còn cung cấp bạc và đồng.

2. Mỏ vàng Muruntau

Mỏ Muruntau nằm cách 250 dặm thủ đô Tashkent của Uzbekistan về phía Tây. Sản lượng vàng của mỏ lộ thiên này trong năm 2010 ước tính khoảng 1,8 triệu ounce. Điều hành mỏ Muruntau là công ty quốc doanh Navoi Mining and Metallurgical Combinat của Uzbekistan.

3. Mỏ vàng Carlin-Nevada

Năm 2010, mỏ vàng Carlin-Nevada ở bang Nevada của Mỹ cho sản lượng 1,735 triệu ounce vàng. Đây là mỏ thuộc sở hữu của công ty Newmont Mining Corp. Khai thác mỏ này, các nhà khai mỏ vừa tìm vàng lộ thiên, vừa đào vàng trong lòng đất.

218

4. Mỏ vàng Yanacocha Mỏ vàng tọa lạc ở miền Bắc Peru này là mỏ vàng lớn nhất ở Mỹ

Latin, với sản lượng 1,46 triệu ounce vàng trong năm 2010. Mỏ do công ty Newmont Mining vận hành, đồng thời thuộc sở hữu của công ty này và đối tác Peru có tên Buenaventurda.

5. Mỏ vàng Goldstrike (Betze Post)Đây là mỏ vàng lớn thứ hai ở bang Nevada của Mỹ, cho sản lượng

1,24 triệu ounce vàng trong năm 2010. Mỏ thuộc quyền sở hữu của công ty Barrick Gold Corp.

6. Mỏ vàng CortezLại một mỏ vàng lớn nữa ở Nevada, Mỹ. Mỏ Cortez là nơi sản

xuất ra 1,14 triệu ounce vàng trong năm 2010. Đây là mỏ của công ty Barrick Gold.

7. Mỏ vàng Valerado Mỏ vàng Valerado nằm ở Argentina, cho sản lượng 1,12 triệu ounce

vàng trong năm 2010. Mỏ này thuộc sở hữu của công ty Barrick Gold Corp.

8. Mỏ vàng Lagunas NorteNằm ở phía Bắc của quốc gia Nam Mỹ Peru, mỏ Lagunas Norte là

nơi sản xuất ra 808.000 ounce vàng trong năm 2010. Đây cũng là mỏ vàng của công ty Barrick Gold Corp.

9. Mỏ vàng LihirChủ sở hữu của mỏ vàng này là công ty Newcrest Mining, nhà sản

xuất vàng lớn nhất Australia. Năm 2010, mỏ cho sản lượng 790.974 ounce vàng.

10. Mỏ vàng Super Pit/KalgoorlieĐây là mỏ vàng lộ thiên nằm ở miền Tây, Australia, thuộc quyền sở

hữu của Barrick Gold Corp. và Newmont Mining. 788.000 ounce vàng đã được khai thác từ mỏ này trong năm 2010.

(theo vneconomy.vn)

219

II. MƯỜI NƯỚC Có NHU CẦU VÀNG LỚN NHẤT THẾ GIỚI TRONG NăM 2011

Nhu cầu về vàng trong năm 2011 tiếp tục ở mức cao. Theo danh sách các quốc gia có nhu cầu vàng lớn nhất của Hội đồng Vàng thế giới (WGC), Việt Nam đứng ở vị trí thứ tám.

Nhu cầu vàng của thế giới trong năm 2011 ở mức 4.067,1 tấn tức trị giá khoảng 205,5 tỷ USD. Đây là mức nhu cầu về vàng tăng mạnh nhất trong vòng 14 năm liên tiếp. Nhu cầu mua vàng tại Ấn Độ và Trung Quốc chiếm 49% nhu cầu của thế giới và 55% vàng trang sức toàn cầu. Giá trung bình trong năm 2011 ở mức 1.571,5 USD/ounce, tăng hơn 28% so với năm 2010. Năm 2011, mức giá có thời điểm lên đến 1.920 USD/ounce hồi tháng 9/2011. Sau đó dao động trong vùng 1.300 USD/ounce, chốt năm ở mức 1.531 USD/ounce.

Trong lịch sử, giá vàng tăng từ mốc 272 USD/ounce hồi năm 2000 lên đến mức 1.700 USD/ounce hiện nay, mức giá đã tăng gấp sáu lần. Theo Thomson Reuters, giá vàng thế giới sẽ lên ngưỡng 2.000 USD/ounce vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2013.

Hội đồng Vàng thế giới (WGC) vừa đưa ra danh sách 10 quốc gia có nhu cầu vàng lớn nhất thế giới trong năm 2011. Trong đó, Việt Nam xếp ở vị trí thứ tám với tổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011 ở mức 100,3 tấn.

1. Ấn ĐộTổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 933,4 tấnNhu cầu năm 2011: Giảm 7%Người dân Ấn Độ có truyền thống mua vàng, tuy nhiên nhu cầu đã

giảm 7% xuống còn 933,4 tấn trong năm 2011. Nguyên nhân xuất phát từ việc giá vàng tăng cao và đồng Rupi Ấn Độ suy yếu. Tuy nhiên, nhu cầu của nhiều người dân vẫn cao. Nước này chỉ sản xuất khoảng 4 tấn vàng mỗi năm, bằng 0,4 % nhu cầu của nước này.

2. Trung QuốcTổng số vàng tiêu thụ: 811,2 tấn vàng

220

Nhu cầu năm 2011: Tăng 22%Người dân Trung Quốc tiêu thụ vàng nhiều thứ hai thế giới trong

năm 2011, với tổng khối lượng 811,2 tấn tức tăng 22% so với 1 năm trước đó. Trong đó, nhu cầu vàng miếng và vàng với mục đích đầu tư tăng 38%, đạt 258,9 tấn, nhu cầu vàng nữ trang tăng 13% đạt 510,9 tấn. Trong quý IV năm 2011, Trung Quốc tiêu thụ 201,6 tấn vàng, hơn Ấn Độ 28,6 tấn vàng. Theo ước tính của Hội đồng vàng thế giới, Trung Quốc sẽ thay thế Ấn Độ để lần đầu tiên đứng đầu danh sách các quốc gia tiêu thụ vàng nhiều nhất thế gới. Theo Hiệp hội Vàng Trung Quốc, sản lượng vàng của Trung Quốc đạt mức cao kỷ lục 360,96 tấn trong năm 2011, vì vậy nước này vẫn đứng trong hàng các quốc gia sản xuất vàng nhiều nhất thế giới trong 5 năm liên tục.

3. Mỹ

Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011:194,9 tấnNhu cầu năm 2011: Giảm 17%Mỹ sản xuất 237 tấn vàng trong năm 2011, đồng thời là nước tiêu

thụ vàng lớn thứ ba thế giới. Nhu cầu vàng so với năm 2010 đã giảm 17% còn 194,9 tấn do kinh tế khó khăn. Nhu cầu vàng nữ trang chiếm 115,1 tấn, giảm 11% so với 2010. Vàng miếng và vàng đầu tư trong quý 4/2011 là 79,9 tấn, giảm 25% so với năm 2010.

4. ĐứcTổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 159,3 tấnNhu cầu năm 2011: Tăng 26%Đức là thị trường tiêu thụ vàng lớn thứ tư thế giới trong năm ngoái.

Năm 2010, nước này tiêu thụ tổng khối lượng 126,9 tấn, con số này đã tăng lên mức 159,3 tấn trong năm 2011, tức tăng 26%. Trong quý 4/2011, nhu cầu của nước này lên đến 39,7 tấn vàng, tăng 15% từ mức 34,6 tấn của 1 năm trước đó. Sự gia tăng về nhu cầu vàng của châu Âu chủ yếu đến từ Đức và Thụy Sĩ – thông tin từ Hội đồng vàng thế giới.

5.Thổ Nhĩ KỳTổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 144,2 tấn

221

Nhu cầu năm 2011: Tăng 30%Thổ Nhĩ Kỳ là nước tiêu thụ vàng nhiều thứ năm thế giới trong

năm 2011. Nhu cầu của nước này trong năm ngoái tăng 30% so với mức 111,1 tấn hồi năm 2010 và vàng được coi là kênh đầu tư an toàn. Trong năm 2011, nhu cầu vàng trang sức giảm 10% xuống còn 63,8 tấn, trong khi nhu cầu vàng đầu tư tăng 99% lên 80,4 tấn. Lượng vàng do nước này sản tăng 43% lên mức 24,4 tấn trong năm 2011.

6. Thụy SĩTổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 116,2 tấnNhu cầu năm 2011: Tăng 25%Nhu cầu vàng của Thụy Sĩ tăng 25% so với năm 2010. Trong quý

4 năm 2011, nhu cầu vàng của nước này ở mức 30,7 tấn, tăng 17% so với năm 2010. Đầu tư vào vàng miếng tăng lên do giá vàng tăng cao và cuộc khủng hoảng nợ công của châu Âu.

7. Thái LanTổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 108,9 tấnNhu cầu năm 2011: Tăng 57%Thái Lan là nước tiêu thụ vàng nhiều thứ bảy thế giới trong năm

2011. Là quốc gia mà ở đó vàng được gắn với sự giàu có và thịnh vượng. Nhu cầu vàng trang sức tại nước này giảm 34% trong năm 2011. Ngược lại vàng đầu tư tăng 66% do kỳ vọng về giá tăng lên.

8. Việt NamTổng vàng tiêu thụ trong năm 2011: 100,3 tấnNhu cầu trong năm 2011: Tăng 23%Việt Nam xuất khẩu khoảng 35-38 tấn vàng trong năm 2011, tổng

nhu cầu trong năm 2011 tăng 23% từ mốc 81,4 tấn hồi năm 2010 lên hơn 100 tấn so. Trong năm ngoái, nhu cầu vàng trang sức giảm 9%. Năm 2011, vàng được xem là kênh đầu tư thích hợp.

9. NgaTổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011: 75,1 tấn

222

Nhu cầu trong năm 2011: Tăng 14%

Nga là nước tiêu thị vàng lớn thứ chín thế giới trong năm 2011. Tổng nhu cầu vàng tăng 14% so với năm 2010. Vàng trang sức được tiêu thụ nhiều nhất. Tuy nhiên, Nga là nước sản xuất vàng lớn thứ tư thế giới trong năm 2011, tổng lượng sản xuất 200 tấn vàng.

10. Ả - Rập – Xê - út

Tổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011: 72,2 tấn

Nhu cầu trong năm 2011: Giảm 12%

Ả - Rập - Xê - út là nước tiêu thụ vàng lớn thứ 10 thế giới trong năm ngoái. Tuy nhiên, tổng nhu cầu vàng giảm 12% so với năm 2010, chiếm khoảng 36% của khu vực Trung Đông. Năm 2011, nhu cầu đồ trang sức của Ả - Rập - Xê - út giảm 17% còn 55,8 tấn.

3. Mười nước dự trữ vàng lớn nhất thê giới

Danh sách mười quốc gia có kho dự trữ vàng chính thức lớn nhất thế giới dựa trên số liệu của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC). Được biết, tổng lượng vàng dự trữ của mười quốc gia này là 21,364 tấn.

10. Ấn Độ

Dự trữ vàng chính thức: 557,7 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 9,8%

Được biết đến với việc mua vàng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và xem vàng là một kênh đầu tư an toàn nhưng hiếm khi Ngân hàng Trung ương Ấn Độ tiết lộ kế hoạch mua vàng của mình.

9. Hà Lan

Dự trữ vàng chính thức: 612,5 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 60,2%

Năm 1999, Hà Lan tuyên bố sẽ bán 300 tấn vàng trong năm năm theo CBGA 1 nhưng nước này chỉ bán được 235 tấn. Theo CBGA 2, Hà Lan cho biết sẽ bán tổng cộng 165 tấn vàng (bao gồm 65 tấn còn lại từ CBGA 1) và tuyên bố không bán vàng theo CBGA 3.

223

8. Nhật BảnDự trữ vàng chính thức: 765,2 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 3,1%

Năm 1950, dự trữ vàng của Nhật Bản chỉ có 6 tấn nhưng đến năm 1959, ngân hàng trung ương nước này lần đầu tiên gia tăng đáng kể lượng vàng nắm giữ khi mua thêm 169 tấn so với năm trước. Năm 2011, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) bán vàng để bơm 20 ngàn tỷ JPY vào nền kinh tế nhằm trấn an nhà đầu tư sau thảm họa động đất và sóng thần.

7. NgaDự trữ vàng chính thức: 918,0 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 9,2%

Từ năm 2006 đến nay, Nga đã đều đặn gia tăng dự trữ vàng nhằm đa dạng hóa kho dự trữ ngoại hối và đưa đồng rúp trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế. Tính đến cuối tháng 7/2012, dự trữ vàng của Nga có tổng trị giá 48.7 tỷ USD.

6. Thụy SĩDự trữ vàng chính thức: 1.040,1 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 14,2%

Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho biết, năm 1997 Thụy Sĩ công bố đề xuất bán một phần vàng dự trữ vì số vàng này được xem là không còn cần thiết đối với chính sách tiền tệ. Theo đó, nước này bắt đầu bán 1,300 tấn vàng được xem là dư thừa vào tháng 5/2000; bao gồm 1.170 tấn được bán theo CBGA 1 và 130 tấn được bán theo CBGA 2. Thụy Sĩ cho biết sẽ không bán vàng theo CBGA 3.

5. Trung QuốcDự trữ vàng chính thức: 1.054,1 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 1,6%

Vàng vẫn còn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong kho dự trữ ngoại hối có tổng giá trị 3.2 ngàn tỷ USD của Trung Quốc, thấp hơn cả mức

224

bình quân toàn cầu là 10%. Theo Financial Times, tăng cường dự trữ vàng sẽ là một động thái quan trọng đối với Trung Quốc trong lúc Bắc Kinh đang tiến hành quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và đưa đồng tiền này trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế.

4. PhápDự trữ vàng chính thức: 2.435,4 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71,6%

Pháp bán 572 tấn vàng theo CBGA 2. Ngoài ra, nước này còn chuyển nhượng khoảng 17 tấn cho Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) vào cuối năm 2004 để mua cổ phần của BIS. Pháp đã không công bố bất kỳ kế hoạch bán vàng nào theo CBGA 3.

3. ÝDự trữ vàng chính thức: 2,451.8 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71.3%

Ý không bán vàng theo CBGA 1 hoặc CBGA 2 và tuyên bố sẽ không bán vàng theo CBGA 3. Tuy nhiên trong năm 2011, các ngân hàng nước này tìm cách bán vàng cho Ngân hàng Trung ương Ý để để củng cố bảng cân đối kế toán trước khi diễn ra đợt thanh tra ngân hàng (stress test).

2. ĐứcDự trữ vàng chính thức: 3.395,5 tấn

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71,9%

Đức đã bán vàng theo CBGA 1 và CBGA 2 để đúc đồng xu vàng làm kỷ niệm. Trong năm đầu tiên của CBGA 3 (2008-2009), Ngân hàng Trung ương Đức (Bundesbank) đã bán xấp xỉ 6 tấn vàng. Kể từ ngày 07/09/2011 đến nay, Bundesbank đã bán thêm 4,7 tấn vàng. Đến thời điểm hiện tại, Đức vẫn từ chối sử dụng kho dự trữ vàng để gia tăng nguồn vốn cho Quỹ Bình ổn Tài chính châu Âu (EFSF).

1. MỹDự trữ vàng chính thức: 8.133,5 tấn

225

Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 75,1%

Mỹ luôn là nước có kho dự trữ vàng lớn nhất thế giới xét về khối lượng kể từ năm 1952. Khi đó, dự trữ vàng của Mỹ đạt tổng cộng 20.663 tấn. Năm 1968 đánh dấu lần đầu tiên dự trữ vàng của Mỹ rớt mốc 10.000 tấn.