Upload
duc-nguyen
View
231
Download
1
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Vu Tru Hoc Phat Giao Minh-Quang Nguyen Le Duc dich
Citation preview
1
VŨ TRỤ HỌC PHẬT GIÁO
nguyên tác Buddhist Cosmology
của Dhammakaya Open University
Minh-Quang Nguyễn Lê Đức dịch Việt
CHÙA HẢI-ĐỨC
Jacksonville, Florida,
ấn tống năm Nhâm-Thìn 2012
tại Hoa-kỳ
2
Sách ấn tống. Không được bán.
For free distribution only. Not for sale.
3
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1
Kiến thức căn bản về Vũ trụ học
Các phần trong chương này
1.1 Danh từ quan trọng cần biết
1.1.1 Định nghĩa Vũ trụ học 15
1.1.2 Định nghĩa chữ “Thế giới này” 16
1.1.3 Định nghĩa “Thế giới này & thế giới sau” 19
1.2 Niềm tin liên quan đến thế giới này và sau
1.2.1 Bằng chứng cho sự tồn tại của Thế giới
này và Thế giới sau 23
1.2.2 Những điều cần thiết để hiểu về Thế
giới này 26
1.2.3 Lợi ích của việc hiểu biết đúng đắn
Thế giới này 28
1.2.4 Chuẩn bị đúng đắn cho Thế giới sau 29
1.3 Nguồn Kiến thức về vũ trụ của Phật giáo
1.3.1 Tìm kiếm kiến thức trong Phật giáo 32
1.3.2 Vũ trụ học là Một phần kiến thức của 35
Đức Phật
1.3.3 Nguồn Kiến thức về vũ trụ của Phật giáo 38
1.3.4 Vũ trụ học Phật giáo là không thể thăm dò
bởi tư tưởng khái niệm 41
1.3.5 Các Mục đích của Nghiên cứu Vũ trụ học 43
CHƯƠNG 2
Những Yếu Tố Xây Dựng Cuộc Sống và Thế Giới
4
Các phần trong chương này
2.1 Các Đại
2.1.1 Vài định nghĩa 52
2.1.2 Phân loại các Đại 53
2.1.3 Đặc điểm và phẩm chất của các Đại 56
2.2 Mục đích học các Đại 62
2.2.1 Tỷ lệ các Đại tạo đa dạng 65
2.2.2 Các Đại có thể thay đổi được 67
2.2.3 Chúng sinh liên kết theo các Đại 70
2.2.4 Tất cả các Đại đều tùy thuận Ba Đặc
Điểm Phổ Quát 72
CHƯƠNG 3
Cấu trúc của vũ trụ
Các phần trong chương này
3.1 Vũ trụ học khoa học 83
3.1.1 Vũ trụ vô tận 84
3.2 Vũ trụ học Phật giáo 86
3.3 Cấu trúc của vũ trụ 87
3.3.1 Xung quanh núi Tu Di 87
1. Bốn châu thiên hạ: 88
1.1 Đông Thắng Thần Châu
[Pubbevidehadiipa] 88
1.2 Tây Ngưu Hóa Châu
[Aparagoyaanadiipa] 88
1.3 Bắc Câu Lư Châu [Uttarakurudiipa] 88
1.4 Nam Thiệm Bộ Châu [Jambuudiipa] 89
5
3.3.2 Trên núi Tu Di 89
1. Trời Tứ Thiên Vương
[Caatummahaaraajika] 89
2. Trời Tam Thập Tam [Taavat.imsa] 89
3. Trời Dạ Ma [Yaamaa] 89
4. Trời Đâu Suất Đà [Tusita] 89
5. Trời Hóa Lạc [Nimmaanaratii] 90
6. Trời Tha Hóa Tự Tại [Paranim
mitavasavattii] 90
3.3.3 Bên dưới núi Tu Di 90
3.4 Thế giới của chúng sinh 91
3.4.1 Phân biệt giữa Cảnh Giới và các Cõi (Hữu) 91
3.5 Các thành phần của mỗi Giới 92
3.5.1 Định nghĩa Cảnh Giới 93
3.6 Dục giới 93
3.6.1 Nhân Giới 94
3.6.2 Bốn Cảnh Giới Bất Hạnh 97
1. Các cõi Địa ngục [Niraya] 97
1.1 Những Địa Ngục chính 98
1.1.1 Đẳng-hoạt Địa Ngục [Sanjiiva
niraya] 98
1.1.2 Hắc-thằng Địa Ngục [Kaa.lasutta
niraya] 99
1.1.3 Chúng-hợp Địa Ngục [Sa "ngha.ta
niraya] 99
1.1.4 Hào-khiếu Địa Ngục [Roruva
niraya] 99
1.1.5 Đại-khiếu Địa Ngục [Mahaaroruva
niraya] 100
1.1.6 Viêm-nhiệt Địa Ngục [Taapana
niraya] 100
6
1.1.7 Đại-nhiệt Địa Ngục [Mahaataapana
niraya] 100
1.1.8 Vô-gián Địa Ngục [Aveci niraya] 101
1.2 Những Địa Ngục Phụ [Ussada] 101
1.2.1 Nhục-trùng Địa Ngục [guutha] 102
1.2.2 Nhiệt-khôi Địa Ngục [kukku.la] 102
1.2.3 Kiếm-diệp Địa Ngục [asipatta] 102
1.2.4 Khủng-giang Địa Ngục [vetaranii] 102
1.3 Luyện Ngục [Yamaloka] 103
1.3. 1 Lohakumbhii Luyện Ngục 103
1.3. 2 Simbalii Luyện Ngục 104
1.3. 3 Asinakha Luyện Ngục 104
1.3. 4 Taambodaka Luyện Ngục 104
1.3. 5 Ayogul.a Luyện Ngục 104
1.3. 6 Pissakapabbata Luyện Ngục 104
1.3. 7 Dhusa Luyện Ngục 105
1.3. 8 Siitalosita Luyện Ngục 105
1.3. 9 Sunakha Luyện Ngục 105
1.3.10 Yantapaasaa.na Luyện Ngục 105
1.4 Ngục Tối [Lokanta] 106
2. Cảnh Giới Ngạ Quỷ [Pittivisaya] 107
3. Cảnh Giới A Tu La [Asuurakaaya] 109
4. Cảnh Giới Súc Sinh [Tiracchaana] 110
3.6.3 Sáu Cõi Trời 111
3.7 Sắc giới 120
3.8 Vô Sắc giới 128
Chương 4
Nguồn gốc của Trái Đất và Nhân loại
Các phần trong chương này
7
4.1 Khoảng Thời Gian Thăng Trầm của Vũ Trụ 136
4.2 Đo Thời Gian thích hợp cho Tuổi của Vũ Trụ 137
4.2.1 Một Thọ Mệnh [aayu-kappa] 138
4.2.2 Tiểu Kiếp [antara-kappa] 138
4.2.3 Trung Kiếp [asa"nkheyya-kappa] 139
4.2.4 Đại Kiếp [mahaa-kappa] 140
4.3 Những tin tưởng về nguồn gốc của Trái Đất 141
4.3.1 Tổng Niềm tin giả thuyết khoa học 141
4.4 Nguồn gốc của Trái đất và nhân loại Theo
Lý thuyết Phật giáo 142
4.4.1 Động lực của Đức Phật khi Dạy Sáng Thế142
4.4.2 Nguyên Tắc Tổng Quát để Xác minh
sự Tín Xác của Giáo Điều 144
4.4.3 Nguồn gốc của vũ trụ, trái đất, con người
và tất cả chúng sinh 146
Chương 5
Suy thoái Phổ quát gây ra bởi Thiếu Đạo Đức
Các phần trong Chương này
5.1 Thế giới đã Thoái hóa kể từ khi khởi đầu 172
5.2 Niên đại của những Sự kiện Thoái hóa 174
5.3 Thoái hóa Bắt đầu từ Người Cai Trị 176
5.4 Sự xuất hiện của Thoái hóa trong xã hội
loài người 179
5.5 Thoái hóa đến mức khủng hoảng 183
5.6 Nguồn gốc của sự Thoái hóa nơi Loài người 185
5.7 Bảo vệ thế giới và khiến nó được Thịnh vượng 191
8
5.8 Lợi ích của Hiểu biết về Thịnh vượng và
Thoái hóa nơi loài người 195
Chương 6
Sự Tận Hoại của Vũ trụ
Các phần trong Chương này
6.1 Nguyên nhân sự Tận Hoại của Vũ trụ 205
6.2 Nhân Tố của sự phá hủy thế giới Phụ thuộc vào
Nhân Tâm 207
6.3 Phạm vi của sự phá hủy bởi Nước, Lửa và Gió 210
6.3.1 Sự Tiêu hủy bằng Lửa 210
6.3.2 Sự Tiêu hủy bằng Nước 210
6.3.3 Sự Tiêu hủy bởi Gió 211
6.4 Quy trình Hủy diệt của Vũ trụ 212
6.4.1 Quy trình Tiêu hủy bởi Lửa 213
6.4.2 Quy trình Tiêu hủy bởi Nước 216
6.4.3 Quy trình Tiêu hủy bởi Gió 217
6.5 Tại sao Đức Phật dạy Cánh chung 218
Chương 7
Nghiên cứu các Trường hợp Tái sinh trong Chu kỳ Sinh
diệt
Các phần trong Chương này
7.1 Các Chu kỳ Tái sinh của tất cả Chúng sinh 226
được lặp lại
7.2 Trường hợp nghiên cứu: Những chuyện có thật
về cuộc sống sau khi chết 230
9
7.2.1 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới
Phạm thiên 230
7.2.2 Từ Cảnh giới con người đến các Cõi Trời 232
7.2.3 Từ Cảnh giới con người trở lại Cảnh giới
con người 241
7.2.4 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới
Súc sinh 244
7.2.5 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới
Ngạ quỷ 247
7.2.6 Từ Cảnh giới con người đến các Cõi
Địa ngục 256
10
11
CHƯƠNG 1 Kiến thức căn bản về Vũ trụ học
Các phần trong chương này 1.1 Danh từ quan trọng cần biết 1.1.1 Định nghĩa Vũ trụ học 1.1.2 Định nghĩa chữ “Thế giới này” 1.1.3 Định nghĩa “Thế giới này và thế giới sau” 1.2 Niềm tin liên quan đến thế giới này và sau 1.2.1 Bằng chứng cho sự tồn tại của Thế giới này và Thế giới sau 1.2.2 Những điều cần thiết để hiểu về Thế giới này 1.2.3 Lợi ích của việc hiểu biết đúng đắn Thế giới này 1.2.4 Chuẩn bị đúng đắn cho Thế giới sau 1.3 Nguồn Kiến thức về vũ trụ của Phật giáo 1.3.1 Tìm kiếm kiến thức trong Phật giáo 1.3.2 Vũ trụ học là Một phần kiến thức của Đức Phật 1.3.3 Nguồn Kiến thức về vũ trụ của Phật giáo 1.3.4 Vũ trụ học Phật giáo là không thể thăm dò bởi tư tưởng khái niệm 1.3.5 Các Mục đích của Nghiên cứu Vũ trụ học
12
Khái quát về chương này
1. Trước khi nghiên cứu bản chất của sự hiện hữu,
điều quan trọng đầu tiên là sinh viên phải nắm
vững những từ vựng chính như “Vũ trụ học Khoa
học”, “Vũ trụ học Phật giáo”, “thế giới”, “thế giới
này” và “thế giới sau” và định nghĩa của chúng.
2. Hầu hết mọi người nghi ngờ liệu những điều họ
không thể nhìn thấy hay sờ mó được có thực sự tồn
tại - như thế giới này hoặc thế giới sau. Nhiều
người tin rằng cuộc sống kết thúc ở cái chết và
không có tái sinh thêm. Thái độ đó có thể là một
thiếu sót nghiêm trọng cho sự hiểu biết về Vũ trụ
học Phật giáo. Vì thế, người nghiên cứu vũ trụ học
cần phải có một sự hiểu biết đúng đắn về thế giới
này và kế tiếp.
3. Ngày nay, kiến thức về thế giới và vũ trụ được
lấy chủ yếu từ các nghiên cứu và thử nghiệm thực
nghiệm. Kiến thức thu thập được như vậy có xu
hướng là không đầy đủ và do đó luôn luôn thay đổi
theo thời gian. Ngược lại, kiến thức của Đức Phật
phát hiện về bản chất của vũ trụ đến từ tư duy
thiền định. Không như kiến thức khoa học, loại
kiến thức này [vijjaa] là không thay đổi.
Mục đích chương này
13
Sinh viên sẽ có kiến thức, sự hiểu biết và sẽ có thể:
1. Xác định những từ quan trọng trong chương
này.
2. Giải thích được những ảnh hưởng đến cuộc đời
chúng ta vì nghi lầm về thế giới này và thế giới kế
tiếp.
3. Giải thích các nguồn kiến thức về vũ trụ của
Phật giáo.
Nhập đề
Những tiến bộ to lớn của vật chất và công nghệ
ngày nay đã mang lại sự thoải mái cho nhân loại và
dễ dàng cho cuộc sống chúng ta. Khoa học đã có
một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển
công nghệ này. Một số thậm chí đã nói rằng chính
khoa học đã cải thiện nhân loại. Khoa học đã làm
sáng tỏ những bí ẩn của thiên nhiên, thế giới và vũ
trụ. Những khám phá này quan trọng đối với chúng
ta bởi vì những hiện tượng này là không gian sống
của con người và ảnh hưởng đến cuộc sống con
người chúng ta. Vì thế, những lý thuyết về thế giới
và vũ trụ bao giờ cũng thời thượng. Ngoài ra, càng
ngày càng có nhiều tổ chức chuyên nghiên cứu vũ
trụ đã được thành lập - có nghĩa là chủ đề được
14
giảng dạy tại khắp các cơ sở giáo dục trên toàn thế
giới.
Thực ra, kỹ thuật phân tích bản chất của thế giới và
vũ trụ chỉ là một cách tiếp cận chủ đề này. Phật
giáo cũng có kỹ thuật kiểm tra bản chất của thế
giới và vũ trụ. Một số kết luận Phật giáo đồng tình
với những khám phá khoa học trong khi những kết
luận khác lại tương phản. Khóa học này nhắm mục
đích trình bày đường lối Phật giáo tiếp cận Vũ trụ
học. Trước khi bắt đầu vào nội dung của Vũ trụ
học Phật giáo, chương đầu tiên này sẽ giới thiệu
một số thuật ngữ cơ bản trang bị cho sinh viên hầu
giải quyết các khái niệm trong các chương tới.
Mặc dù có thể có các chương trình khác trên thế
giới lien quan đến Vũ trụ học Phật giáo - đấy vẫn
thường là một đề tài học hỏi hiếm lạ. Tuy nhiên,
Viện Đại Học Mở Dhammakaya, California coi
đây là một chủ đề cơ bản để nghiên cứu Phật giáo
sau này.
1.1 Những thuật ngữ quan trọng cần biết
Nhiệm vụ đầu tiên của chương này là trình bày các
bản dịch và ý nghĩa của một số thuật ngữ quan
trọng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn trong Vũ
trụ học.
15
1.1.1 Định nghĩa Vũ trụ học
Từ “Vũ trụ học” (Cosmology), được tạo từ hai
phần là “vũ trụ” (cosmo) - bắt nguồn từ từ, 'vũ trụ'
định nghĩa là vũ trụ coi như một toàn bộ hệ thống
sắp xếp hài hòa1. Phần thứ hai của từ vũ trụ học,
“học” ('-ology) có nghĩa là nghiên cứu. Vì vậy, từ
“vũ trụ học” có nghĩa là:2
Khoa học về nguồn gốc và cấu trúc của vũ trụ, đặc biệt trong nghiên cứu Thiên văn học. Định nghĩa này cũng giúp chúng ta hiểu được ý
nghĩa thường được dựa trên nghiên cứu khoa học
của từ.
Tuy nhiên, khi chúng ta nói ý nghĩa theo Phật giáo,
vẫn chưa có ai được cung cấp một lời giải thích rõ
ràng. Vậy thì, nhằm mục đích của bài này, Vũ trụ
học Phật giáo được định nghĩa là:
Một nghiên cứu về nguồn gốc của thế giới, vũ trụ và tất cả các dạng sống được thấy trong nguồn gốc, sinh tồn và hoại diệt như đã nói trong kinh Đức Phật.
1 Webster’s II New College Dictionary (Boston, USA: Houghton Mifflin
Company 1995) p.255 2 Longman Dictionary of Contemporary English (Harlow and London:
The Pitman Press, 1978), p.248
16
Có một sự khác biệt giữa các định nghĩa của vũ trụ
học theo khoa học và Phật giáo, vì tuy rằng những
vấn đề nghiên cứu trong cả hai loại vũ trụ học
tương đương (bao gồm thế giới và vũ trụ mà chúng
ta đang sống), tuy nhiên mục đích của nghiên cứu
trong hai hình thức vũ trụ học là khác nhau. Lời
giải thích dựa trên khoa học của vũ trụ nhằm mục
đích chỉ là để mở rộng kiến thức của những khám
phá mới bằng cách sử dụng các công cụ khoa học.
Vũ trụ học Phật giáo, ngược lại, là nghiên cứu các
chân lý vĩnh cửu về vũ trụ dựa trên giáo lý của
Đức Phật nhằm mục đích nâng cao nhận thức của
sinh viên đến một sự hiểu biết chính xác về bản
chất của cuộc sống và thế giới.
1.1.2 Định nghĩa chữ “Thế giới này”
Một từ dường như xuất hiện đều trong mỗi chương
của khóa học này là từ “thế giới”. Người ta thường
hiểu ý nghĩa của từ này theo nghĩa hẹp của nó - là
một hành tinh nào đó trong thái dương hệ của
chúng ta. Tuy nhiên, ý nghĩa của thế giới được sử
dụng trong Phật giáo là rộng lớn hơn thế. Vì vậy,
chúng ta cần phải hiểu nó theo cái nghĩa rộng hơn
này.
17
Ý nghĩa của từ “thế giới” theo kinh điển Phật giáo
- tức là từ Pali “loka” - có ba cấp độ mô tả3, là Uẩn
Giới [sānkhaara-loka] Phương Giới [okaasa-loka]
và Sinh Giới [satta-loka]. Trong cả ba thế giới, tất
cả các sinh vật hữu tình ở một trong hai dạng hữu
sắc hoặc vô sắc. Các vật hữu sắc và vô sắc được
gọi là thế giới của chúng sinh (Sinh Giới). Thế giới
có thể được phân ra thành hồ và núi được gọi là
thế giới của phương diện (Phương Giới). Thành
phần tâm vật lý hoặc tập hợp trong cả hai thế giới
được gọi là thế giới của uẩn (Uẩn Giới).
Nói chung thì từ “thế giới” trong ý thức châu Á có
nghĩa là:
1. Hành tinh Trái đất (hành tinh lớn thứ năm trong
thái dương hệ, hành tinh thứ ba từ mặt trời, có một
chu kỳ thiên văn quanh mặt trời là 365,26 ngày tại
một khoảng cách trung bình 92.960.000 dặm hoặc
khoảng 149.000.000 km, một vòng quay trục thời
gian 23 giờ 25,07 phút, một bán kính xích đạo
3.963 dặm hoặc khoảng 6.378 km và khối lượng
5,974 x 1.024 kg, mà còn là
2. Một thuật ngữ chung cho thế giới con người, các
cõi trời và cõi Phạm Thiên như là một nơi ở của
3 Bahujanahita Sutta or Loka Sutta It.78
18
chúng sinh và các dạng sống khác. Các thế giới
này đều có chung hình cầu.
Ý nghĩa của từ “thế giới” trong sách giáo khoa
Phật giáo4 có ý nghĩa rộng.Ý nghĩa hẹp lại bao
gồm cả ba phần, và mỗi phần có ý nghĩa riêng biệt
của nó.
1. Uẩn giới [sankhaara-loka] có nghĩa là cơ thể
của con người và các dạng sống khác được cấu tạo
gồm than và tâm/thần.
2. Sinh giới [satta-loka] gồm tất cả chúng sinh
ngoài chúng ta - tỷ như con người và thú vật, vv.
3. Phương giới [okaasa-loka] có nghĩa là nơi có
cuộc sống của thế giới động vật. Đó là nơi mà mọi
người sinh sống và cũng là chỗ tạo nghiệp, cả tốt
lẫn xấu. Do đó, thế giới về mức độ mô tả này bao
gồm Trái đất (trên đất), nước, bầu trời và vũ trụ.
Ý nghĩa của thế giới như vậy giúp chúng ta hiểu
rằng thế giới không chỉ đơn thuần là chỗ ở cho con
người và các dạng sống khác. Mà thế giới còn có
những ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều có thể được giải
thích trong ba phần: thế giới của sự hình thành
(uẩn giới), thế giới của vị trí (phương giới) và thế
giới của chúng sinh (sinh giới). Có ý nghĩa rộng
4 Tỷ như Inside Understanding Phrabhavanaviriyakhun (2004) (mss. as
yet unpublished in English)
p.45
19
lớn như vậy bởi vì Đức Phật đã khảo sát thực tế
của thế giới với độ chính xác hoàn toàn thông qua
khả năng nhìn thấy và biết chính xác của Ngài.
Không gì Ngài không thể biết được.
Từ ý nghĩa của thế giới như đã đề cập ở trên, người
đọc sẽ nhận ra rằng vũ trụ học dưới kiểm tra trong
đơn vị khóa học chủ yếu là thế giới của vị trí và
điều này bao gồm các lĩnh vực của con người trong
một ý nghĩa siêu hình, giống như hành tinh Trái
đất trong ý nghĩa thiên văn cũng là nơi tồn tại cho
con người và một phần của toàn thể vũ trụ. Các
thành phần của vũ trụ này sẽ là đối tượng của
những chương sau này.
1.1.3 Định nghĩa “thế giới này” và “thế giới
sau”
Những định nghĩa thêm cần phải được biết là “thế
giới này” và “thế giới sau”. Những thuật ngữ này
bắt nguồn từ Kinh Tạng Phật giáo (tipitaka). Niềm
tin vào sự tồn tại của hai thế giới này được thấy
trong mười phần của Chánh Kiến [sammaa-
di.t.thi], mà cũng là con đường đầu tiên của Bát
Chánh Đạo [atthangika-magga] – trong đó Chánh
Kiến đề cập đến một sự hiểu biết chính xác về
cuộc đời và thế giới.
20
Thuật ngữ “thế giới này” đề cập đến tất cả ba cấp
độ mô tả của từ “thế giới” cho dù đó là thế giới của
chúng sinh, hoặc vị trí hoặc của các uẩn. Có thể
kết luận rằng thế giới chỉ đơn giản là một nơi mà
các sinh vật sống, kể cả tâm thức và tất cả các loài
sinh vật khác. Nó đề cập đến cuộc sống hiện tại
của chúng ta từ bây giờ cho đến khi ta chết. Thế
giới này là một thế giới của những sự khác biệt.
Mọi người đều được phân biệt bởi hình dáng cơ
thể, sự giàu có, uy thế, óc thông minh, và khuynh
hướng. Nghiên cứu giáo lý Đức Phật giúp chúng ta
nhận ra rằng sự khác biệt giữa chúng ta đến từ
những hành động chúng ta đã tự mình làm trong
quá khứ. Mức độ của hành động tốt và xấu trong
quá khứ của chúng ta ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống của chúng ta trong “thế giới này”.
Thuật ngữ “thế giới sau” có hai ý nghĩa là:
1. Cuộc Sống sau khi Chết.
Điều này ngụ ý rằng khi con người và các động vật
khác chết, đó không phải là kết thúc của câu
chuyện. Sự tồn tại vật lý của chúng ta được kết
thúc khi xác chết của chúng ta được hỏa táng hoặc
chôn - tuy vậy, tâm thức vẫn tồn tại khi những
phiền não còn vương vấn. Chúng sinh sẽ lại được
21
sinh ra và nhận được một hình dạng cơ thể mới -
những chi tiết này chưa có thể dự đoán trước.
2. Các Cảnh Giới Sống của Chúng Sinh trong
cuộc Đời của họ sau khi Chết.
Chắc chắn là một khi một chúng sinh phát sinh,
cần phải có một chất nền hoặc một địa điểm nơi
mà chúng sinh ấy có thể tồn tại. Từ kinh nghiệm
của chúng ta trong thế giới này, thật dễ dàng để
tưởng tượng rằng nếu một người được sinh ra
trong một gia đình giàu có và nổi tiếng, họ sẽ được
vào một vị trí thoải mái. Mặt khác, nếu một người
được sinh ra trong một gia đình nghèo, họ sẽ có
được một vị trí đầy khó khăn.
Như vậy, có thể kết luận rằng rất khó dự đoán
chính xác các hình thức thế giới sau sẽ đến cho bất
kỳ một chúng sinh nào - nhưng có điều chắc chắn
là chúng ta phải tự chuẩn bị cho thế giới sau khi
chúng ta vẫn còn phiền não trong tâm thức của
chúng ta.
1.2 Niềm tin liên quan đến Thế Giới Này và Sau
Dân chúng các nền văn hóa khác nhau có những
niềm tin khác nhau tùy thuộc vào nơi họ sinh sống
22
và giáo lý của họ. Điều này tạo ra những truyền
thống khác nhau về lời nói, tư tưởng và hành động,
đặc biệt về những niềm tin của họ về thế giới này
và thế giới sau. Có những người từ chối sự tồn tại
của thế giới này hoặc thế giới sau. Sự tin tưởng
này ảnh hưởng đến cách họ nghĩ, nói và hành
động. Niềm tin như vậy đã từng có hàng ngàn năm
trước khi Đức Phật xuất hiện. Ngay cả sau khi Đức
Phật xuất hiện trên thế giới, những hoài nghi ngờ
về sự tồn tại của thế giới này và thế giới sau vẫn
còn được các nhà truyền giáo tiếp tục phổ biến cho
đến ngày nay.
Với kết quả của sự giác ngộ của Ngài, Đức Phật đã
thấy được thực chất của đời sống . Ngài đã thấy rõ
chúng sinh được tái sinh theo nghiệp của chúng,
khiến Ngài biết rằng chối bỏ sự tồn tại của thế giới
này và thế giới sau là sai lầm – và là một trong số
các thái độ tiêu cực đến thế giới được biết đến
trong Phật giáo như là Tà Kiến [micchaa-di t.thi.].
Vì thế, cần phải hiểu rõ thực chất của thế giới này
và thế giới sau, liệu chúng có tồn tại hay không và
những bất lợi khi phủ nhận sự tồn tại của chúng -
và rốt lại có lợi ích ít nhiều gì trong nghiên cứu vũ
trụ học, khi nó được kết nối mật thiết với sự tồn tại
của thế giới này và thế giới sau.
23
1.2.1 Bằng chứng cho sự tồn tại của Thế giới
này và các Thế giới sau
Từ chối sự tồn tại của thế giới này không phải là
điều mới lạ. Đó là một niềm tin đã có từ lâu và vẫn
tiếp tục tồn tại cho đến khi chưa có ai biết đến giáo
lý của Đức Phật. Đức Phật dạy chúng ta tin vào sự
tồn tại của thế giới này và thế giới sau - hoặc, nói
một cách khác, cái chết không phải là kết thúc của
mọi việc. Điều này cũng minh chứng cho thực tế là
những nghiệp tốt và nghiệp xấu không kết thúc
trong thế giới này, nhưng được chuyển sang và ảnh
hưởng đến kẻ tạo nghiệp trong thế giới bên kia.
Chắc chắn là khi chúng ta chết, chúng ta phải được
tái sinh ở những nơi khác nếu như phiền não của
chúng ta không hoàn toàn được dập tắt. Chúng ta
sẽ xuất hiện dưới dạng gì trong thế giới bên kia lại
là chuyện khác. Bằng chứng cho sự tồn tại của thế
giới này và thế giới sau là như sau:
1. Đối số hợp lý:
Nếu khi chúng ta chết, cái chết là kết thúc của mọi
việc, thì điều đó hàm ý rằng cuộc đời hiện tại của
chúng ta cũng là cuộc đời đầu tiên bởi vì những
cuộc sống quá khứ không thể tồn tại. Tất cả sự
24
khác biệt giữa con người sẽ phải xảy ra do “bản
chất” hoặc do “nuôi dưỡng”. Nếu quả thật chúng ta
thực sự được sinh ra trong thế giới này lần đầu
tiên, thì những người có cùng một “bản chất” như
anh em sinh đôi giống hệt nhau phải giống y nhau
trong mọi phương diện, cho dù đó là hình dáng
hoặc nhân cách, bởi vì họ là di truyền giống hệt
nhau. Tuy nhiên, ngay cả sau khi sinh, họ vẫn
không giống nhau. Nếu như sự “nuôi dưỡng” tạo
nên các khác biệt giữa con người, thì các anh chị
em lớn lên cùng cha mẹ cũng phải giống nhau -
vậy mà thực tế rõ ràng không phải là thế. Nếu ta
chối bỏ sự tồn tại của các cuộc đời quá khứ thì khó
mà giải thích được các sự khác biệt ấy. Tuy nhiên,
nếu ta kể đến các nghiệp tích lũy trong cuộc đời
quá khứ thì các sự khác biệt được giải thích thật dễ
dàng qua số lượng khác nhau của công và tội tích
lũy trong quá khứ của mỗi cá nhân. Trong cuộc trò
chuyện giữa Đức Phật với Subha Todeyyaputta5
đã đề cập đến chất lượng cuộc sống của mỗi cá
nhân phụ thuộc vào nghiệp quá khứ của họ:
“Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa
tự của nghiệp.
5 Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt Ttrung Bộ 135) Cula-kammavibhanga
Sutta (M.iii.202ff)
25
Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp
là điểm tựa,
nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt,
có ưu.”
Tóm lại, mỗi cá nhân đều được sinh ra khác nhau,
vì quả báo nghiệp của các hành động, lời nói và ý
thức của mình trong quá khứ. Vì vậy, khi cặp song
sinh giống hệt nhau được sinh ra trong thế giới
này, nghiệp quá khứ của họ đã không giống nhau
mặc dù họ có cùng mẹ và cha. Điều này hỗ trợ hợp
lý cho sự tồn tại của thế giới này và thế giới sau.
2. Đối số thực tế:
Nếu một người tin rằng cái chết là kết thúc của
mọi việc, họ sẽ không có động lực để làm việc tốt
vì bất cứ thiện nghiệp được tích lũy sẽ biến mất
khi một người chết. Vì nghĩ thế, nếu họ không làm
bất cứ việc tốt nào trong suốt cuộc đời của họ chắc
chắn họ sẽ sống một cuộc sống khó khăn gặt hái
những quả báo của những hành động xấu mà họ đã
làm thay vì những hành động tốt. Nếu một người
phủ nhận sự tồn tại của thế giới này và thế giới
sau, nghĩ rằng cái chết là kết thúc của mọi việc, họ
sẽ không bị ray rứt khi làm những việc xấu. Cuộc
đời của họ sẽ là một cuộc sống khổ sở. Nếu quả
26
thật cái chết là kết thúc của mọi việc thì may ra ta
sẽ chỉ đơn thuần là “huề vốn”, nhưng nếu quả thật
có một thế giới bên kia mà quả báo có thể trở lại
với chúng ta, thì thế giới sau sẽ còn khổ hơn so với
hiện tại. Ngược lại, một người tin vào sự tồn tại
của thế giới bên kia sẽ được thúc đẩy để làm việc
tốt trong suốt cuộc đời của họ. Họ sẽ sống một
cuộc đời hạnh phúc. Nếu họ chết và thấy không có
thế giới bên kia, thì chẳng có thiệt hại gì. Tuy
nhiên, nếu quả thật có thế giới bên kia, thì cuộc
sống tiếp theo của họ sẽ được tràn đầy thêm nhiều
hạnh phúc.
Nghiên cứu thế giới này và thế giới sau được trình
bày ở đây để cung cấp một nền tảng cho các
chương sau. Đây không phải là để làm giảm niềm
tin người đọc có thể đã có nhưng để khuyến khích
người học giữ tâm cởi mở và cung cấp cho các mô
tả về thế giới và vũ trụ học sau này lợi ích của sự
nghi ngờ.
1.2.2 Những điều cần thiết để hiểu về Thế giới
này
Cần thiết phải hiểu những điều sau đây về Thế giới
này như sau:
27
1. Thế giới này có một nguồn gốc có nghĩa là
chúng sinh trong thế giới này và tình trạng của họ,
cho dù đó là hình dạng, tình trạng tài chính, thông
minh hoặc định đoạt, tất cả xảy ra có lý do - tức là
nghiệp họ đã làm trong quá khứ.
2. Sự bất ổn của thế giới này có nghĩa là thế giới
luôn luôn thay đổi và không có gì là vĩnh viễn. Ví
dụ, chúng ta được sinh ra khỏe mạnh nhưng có thể
bị bệnh sau này nếu chúng ta không cẩn thận về
sức khỏe của chúng ta trong hiện tại.
3. Thế giới này mang lại lợi ích cho chúng ta đề
cập đặc biệt là thế giới ở mức độ ý nghĩa của than
xác chúng ta - bởi vì thân xác con người đặc biệt
thích hợp cho việc gieo trồng công đức và các loại
nghiệp tốt khác. Thân xác các loài động vật khác,
cho dù chúng có nhiều chân hoặc ít chân hoặc
không có chân nào, không thể làm việc tốt một
cách dễ dàng như con người. Nếu đề cập đến thế
giới ở mức độ ý nghĩa của môi trường chúng ta,
chúng ta thấy rằng thế giới con người là vị trí duy
nhất thích hợp để làm việc tốt. Ở đây chúng ta có
thể gặp gỡ những thiện tri thức [kalyaa.namitta]
bao gồm cả cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè và các tu
sĩ có thể giúp cố vấn cho chúng ta biết làm thế nào
để làm việc tốt.
28
4. Thế giới này chỉ có thời gian giới hạn có nghĩa
là thời gian của chúng ta trong thế giới này bị hạn
chế bởi cái chết mà chúng ta không thể tránh khỏi.
Tuy nhiên, chúng ta không thể biết trước được thời
điểm cái chết của chúng ta. Nó phụ thuộc vào
những hành động tốt hay việc xấu mà mỗi người
đã làm trong cuộc sống của họ trong quá khứ và
hiện tại.
1.2.3 Lợi ích của việc hiểu biết đúng đắn Thế
giới này
Thuộc lòng bốn tính năng của Thế giới này sẽ
giúp chúng ta có được sự khôn ngoan để dạy cho
bản thân lựa chọn chỉ gieo trồng nghiệp thiện trong
khả năng tốt nhất, khuyến khích chúng ta:
1. Chỉ làm nghiệp tốt từ hôm nay trở đi ... bởi vì
hạnh phúc của chúng ta trong thế giới này là phụ
thuộc vào những thành quả của nghiệp tốt gieo
trồng trong những đời quá khứ. Những ảnh hưởng
của các nghiệp tốt trong quá khứ của chúng ta một
ngày kia sẽ hết, đó là lý do tại sao chúng ta cần
phải nhanh chóng làm thêm nhiều nghiệp tốt hơn.
2. Nghiêm tránh làm bất kỳ nghiệp xấu nào vì vô
số các hình thức trừng phạt đến từ nghiệp xấu sẽ
ảnh hưởng đến chúng ta, bạn bè của chúng ta trên
29
khắp thế giới và môi trường xung quanh tự nhiên
của chúng ta.
3. Tránh không ngồi chơi, chẳng làm gì hoặc bỏ
lãng sự gieo trồng bất kỳ nghiệp tốt nào. Sự ở
không nhưng chẳng những không mang lại cho
chúng ta lợi ích nào mà còn khiến cho những
nghiệp tốt mà chúng ta đã tích lũy được trong thời
gian qua cạn mất, trong khi thời gian chúng ta còn
lại để trau dồi công đức bị rút ngắn từng ngày.
4. Nhận thức rằng chúng ta nên sử dụng thân thể
chúng ta để gieo trồng tối đa các nghiệp tốt. Cho
dù thân thể của chúng ta có khỏe mạnh hoặc tàn
tật, chúng ta nên nghiên cứu Luật của Nghiệp cho
đến khi hiểu biết rõ ràng và quyết tâm chỉ làm
những việc tốt. Ngay cả khi thân thể chúng ta bị tật
nguyền, chúng ta vẫn có thể sử dụng nó để làm
việc tốt.
1.2.4 Chuẩn bị đúng đắn cho Thế giới sau
Sau khi đã nhìn nhận những lợi ích của Thế giới
này, cần phải chuẩn bị cho Thế giới sắp tới. Chuẩn
bị cho cuộc sống sau khi chết bao gồm bốn pháp
như sau:
1. Có đức tin vào hoạt động của luật về nghiệp.
Chúng ta phải nghiên cứu luật của Nghiệp và thực
30
sự hiểu nó bởi vì chúng ta phải ngưng làm ác và
làm them nhiều việc tốt.
2. Giữ giới luật nghiêm ngặt. Người thường nên
giữ ít nhất là Năm Giới. Tốt hơn là thỉnh thoảng
nên cố gắng giữ Tám Giới, hoặc tốt hơn nữa, cho
suốt cả cuộc đới còn lại. Ngoài việc gia tăng những
công đức, giữ giới luật còn làm thanh tịnh than,
khẩu và ý.
3. Thực hành sự rộng lượng hoàn toàn. Sau khi
chúng ta chết, chúng ta không thể mang theo thân
xác hay tài sản với chúng ta, nhưng chúng ta có thể
đem theo những công đức gây nên từ những hành
động hào phóng.
4. Tăng trưởng trí tuệ ngày càng nhiều hơn. Điều
này có thể được thực hiện bằng sự thiền định và
lắng lòng cho đến lúc nó sáng rỡ và có thể nhìn
thấy mọi việc như thật.
Tóm lại, trên đây là kiến thức về Thế giới này và
Thế giới sau đã được chỉ ra trong lời dạy của Đức
Phật. Chúng ta nghiên cứu vũ trụ học ở đây để hiểu
rõ hơn về Thế giới này và Thế giới sau, cũng như
đạt được Chánh Kiến về những vấn đề này. Sự
hiểu biết như vậy sẽ cho phép chúng ta lựa chọn
một cách sống có lợi trong thời gian ngắn được
làm người thay vì phải lãng phí thời gian học tập
bằng lối mò mẫm.
31
1.3 Nguồn Kiến thức về vũ trụ của Phật giáo
Tất cả mọi người đều ngu dốt khi họ bước vào thế
giới - với nhiều câu hỏi trong tâm trí của họ hơn là
câu trả lời. Nếu chúng ta cố gắng nhớ lại kinh
nghiệm của chúng ta khi mới được sinh ra, có lẽ
chúng ta chỉ có thể nhớ rất ít cách chúng ta suy
nghĩ hoặc cảm thấy vào lúc đó. Nếu chúng ta có
thể nhớ được, chúng ta sẽ thấy mình hoàn toàn
kinh ngạc với tất cả mọi thứ chúng ta đã thấy,
chạm vào hoặc nghe thấy ngay từ những khoảnh
khắc đầu tiên sau khi chúng ta sinh ra. Một khi
chúng ta đã biết nói, chúng ta bắt đầu hỏi bố mẹ
mình những câu hỏi về tất cả mọi sự mới lạ cho
chúng ta. Ngay cả khi thành thiếu nhi, sự tò mò
của chúng ta về môi trường xung quanh chúng ta
hầu như không giảm bớt. Nhưng điều tò mò của
một đứa trẻ này có lẽ sẽ khác nhau trong tính chất
với sự tò mò của em bé, và dường như cũng khác
sự tò mò của chúng ta ngay cả bây giờ như người
lớn.
Trong tất cả những bí ẩn của cuộc đời, vấn đề sáng
tạo thế giới là điều mọi người đã chú ý nhiều hơn
hết, cả trong triết học lẫn khoa học. Chúng ta ứng
xử với nguồn gốc của hành tinh của chúng ta với
32
sự quan tâm như vậy bởi vì chúng ta nương tựa
vào hành tinh của chúng ta cho sự sống còn của
chúng ta. Chúng ta cần phải biết càng nhiều càng
tốt về hành tinh của chúng ta để chúng ta có thể
tiếp tục sống trong thế giới này an toàn và hạnh
phúc.
Phần còn lại của chương này cho thấy làm sao
phương pháp Phật giáo có thể hữu ích trong việc
trả lời các câu hỏi về thế giới và vũ trụ - một
phương pháp khác với phương pháp khoa học.
Những kết luận rút ra từ phương pháp Phật giáo có
thể có điểm tương đồng cũng như sự khác biệt với
những kết luận rút ra bằng phương pháp khoa học.
1.3.1 Tìm kiếm kiến thức trong Phật giáo
Phật giáo được xem là một tôn giáo dựa trên lý trí.
Đức Phật đã không hề đòi độc quyền bất cứ một
kiến thức nào tạo nên Phật giáo. Dù bất cứ ai đã
nói sự thật, Đức Phật cũng công nhận là đúng. Sự
thật mà chúng ta nói ở đây được gọi là “Pháp”
trong Phật giáo. Đức Phật không phải là nhà phát
minh hoặc sở hữu chủ của Giáo Pháp. Giáo Pháp
là chỉ đơn thuần là bản chất của sự vật trong đời
sống và thế giới. Nếu bất cứ ai đạt được Giác Ngộ,
người đó có thể nhận thức được bản chất thực sự
33
của những vật mà họ thấy trong thế giới chung
quanh. Những nhận xét này, hoặc Giáo Pháp, là
điều Đức Phật đã chọn để chia sẻ với những người
của thế giới để họ cũng được lợi lạc từ kiến thức
đúng về bản chất của sự vật. Cũng như vậy, các
định luật khoa học tồn tại trong thế giới từ lâu
trước khi các nhà khoa học phát hiện ra chúng. Từ
điển của Phật giáo6 cho thấy rằng:
“Cho dù Đức Phật tồn tại hay không, Giáo Pháp
vẫn tồn tại như luật phổ quát [dhammaniyaama].
Khi Đức Phật đã thấy những luật này, Ngài truyền
lại cho người khác, lập nên các mô hình, mô tả các
nguyên tắc và giải thích chúng một cách dễ hiểu là
[Hãy tự tìm lấy!]”
Trong bối cảnh này, Pháp có nghĩa là luật của tự
nhiên - Giáo Pháp của Đức Phật nghiên cứu là vô
số. Bởi vì những khả năng đặc biệt của Đức Phật
“thấy và biết” [naa.nadassana] rộng lớn đến nỗi
thâm nhập vào bản chất của tất cả mọi thứ khiến
chúng ta đề cập đến kiến thức của Ngài là “Chánh
Biến Tri” [sabbannutanaa.na]. Tuy nhiên, Đức
Phật đã không dạy toàn bộ Giáo Pháp cho mọi
người bởi vì một số nội dung chẳng giúp ích gì cho
sự tiến bộ trên con đường đến Giác Ngộ. Đức Phật
6 Paticcasamuppapaadakathaa of the Kathaavatthu 81/18 verse 1086
34
chỉ chia sẻ các phần Giáo Pháp nào giúp những
người khác đạt được giác ngộ (thành tựu khiến họ
có thể tự thấy được bản chất của những Pháp
khác). Vì thế, các Pháp mà Đức Phật đã dạy loài
người có thể được so sánh với một số nắm lá. Các
Pháp mà Đức Phật biết nhưng đã chọn không để
giảng dạy có thể được so sánh với tất cả các lá cây
trong rừng, như đã đề cập trong Kinh Si.msapaa7:
“Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng
Simsapà.
Rồi Thế Tôn lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapà,
bảo các Tỷ-kheo:
Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, cái gì là
nhiều hơn, một số ít lá Simsapà mà Ta nắm lấy
trong tay, hay lá trong rừng Simsapà?
Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá Simsapà mà
Thế Tôn nắm lấy trong tay, và thật là quá nhiều lá
trong rừng Simsapà.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật là quá nhiều,
những gì Ta đã thắng tri mà không nói cho các
Ông! Thật là quá ít những gì mà Ta đã nói ra!
Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại không nói
ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỷ-kheo,
những điều ấy không liên hệ đến mục đích, không
7 Tương Ưng Bộ, q 5, tập 4, phẩm Rừng Simsapà (S.v.437)
35
phải là căn bản cho Phạm hạnh, không đưa đến
yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta không nói lên những
điều ấy.”
1.3.2 Vũ trụ học là Một phần kiến thức của Đức
Phật
Vũ trụ học là một phần của kiến thức mà Đức Phật
đã phát hiện. Đức Phật biết rằng tất cả hiện tượng
xuất hiện như một kết quả của quy luật tự nhiên,
được gọi là Luật Phổ Quát [dhammaniyaama]. Đức
Phật đã đưa ra một bản tóm tắt nội dung của Luật
Phổ Quát, thay vì một mô tả cụ thể. Sau đó, các
luận sư khai triển nội dung tỉ mỉ hơn. Trong những
luận này, có năm loại quy luật tự nhiên:
1. Luật Vật Lý [utuniyaama] là quy luật tự nhiên
bao gồm các biểu hiện của tất cả những điều không
có sự sống, ví dụ, sự xuất hiện của sấm sét. Sự
tăng giảm của thế giới này thậm chí theo các quy
luật tự nhiên. Sách giáo khoa Phật giáo Tây
phương thường nói rằng Ấn Độ cổ đại không có ý
tưởng những gì gây ra các mô hình trong thiên
nhiên, nhưng Phật giáo gán các mô hình này vào
luật vật lý.
36
2. Luật Sinh Học [biijaniyaama] là những quy luật
tự nhiên đặc biệt liên quan đến các đối tượng hoạt
động như thực vật hoặc động vật. Những quy luật
tự nhiên này ấn định rằng khi chúng ta trồng một
hạt lúa nó sẽ phát triển thành một cây lúa. Con voi
phải sinh ra một con voi con. Phật giáo cho dự
đoán này thuộc luật sinh học.
3. Luật Tâm Lý [cittaniyaama] là quy luật tự
nhiên liên quan đến các cơ chế làm việc của tâm
trí. Phật giáo tin rằng mọi người được tạo thành từ
hai phần chính: cụ thể là than xác và tâm thức.
Tâm thức bao gồm hệ thống khiến chúng ta làm
việc, thay đổi và hành động tùy theo mỗi cá nhân.
Phật giáo gán cho những động lực ấy vào luật tâm
lý.
4. Luật Nghiệp Báo [kammaniyaama]: là những
quy luật liên quan đến nghiệp tạo ra các hiệu ứng
như thế nào. Nghiệp đề cập đến hành động cố ý. Ý
định tốt hay xấu đằng sau hành động chia nghiệp
thành hai loại: nghiệp tốt và nghiệp xấu. Nghiệp
tốt được hưởng quả tốt. Nghiệp xấu phải chịu quả
xấu. Loại luật này cũng được gọi là luật nghiệp
báo.
5. Luật Phổ Quát [dhammaniyaama]: là những
quy luật tự nhiên liên quan đến nguyên nhân và
hậu quả trong các hiện tượng tinh thần và thể chất.
37
Luật này có định nghĩa rộng và bao gồm tất cả bốn
loại luật đã được đề cập.
Đức Phật đã phát hiện ra tất cả năm quy luật tự
nhiên nhưng đã không dạy tất cả chúng. Ngài chỉ
dạy Luật Phổ Quát và nhấn mạnh vào Luật Tâm
Lý và Luật Nghiệp Báo. Đức Phật dạy rất ít về
Luật Vật Lý và Sinh Học. Trong khi dó, khoa học
nhấn mạnh các Luật Vật Lý và Sinh Học trong
Luật Phổ Quát. Khoa học ít hoặc không quan tâm
đến Luật Nghiệp Báo hoặc Luật Tâm Lý. Đây là
một trong những điểm phân biệt giữa Phật giáo và
Khoa học. Phật giáo có một cái nhìn rộng hơn về
cuộc sống và thế giới hơn Khoa học.
Một điểm quan trọng cần nhận thức là Luật Phổ
Quát bao trùm tất cả bốn loại luật khác. Mặc dù
đúng là Phật giáo chú trọng vào Luật Phổ Quát và
Tâm Lý, nó không chối bỏ Luật Vật Lý hay Sinh
Học vốn là trọng tâm của nỗ lực khoa học. Do đó,
Phật giáo có khuynh hướng không xung đột với
khoa học.
Sau khi được trang bị với các pháp khiến chúng ta
được giác ngộ, chúng ta biết rằng còn có nhiều
việc Đức Phật đã khám phá ra nhưng không chia
sẻ với chúng ta. Những điều Ngài đã dạy là chỉ là
phần làm giảm sự đau khổ trước mặt vốn là mối
quan tâm lớn nhất với tất cả mọi người.
38
1.3.3 Nguồn Kiến thức về vũ trụ của Phật giáo
Kiểm chứng thực nghiệm, bằng cách sử dụng thiết
bị bên ngoài cơ thể, vốn là nguồn gốc của hầu hết
các kiến thức khoa học, chỉ là chính xác trong vài
phương diện. Những trường hợp nghiên cứu thực
nghiệm cho kết quả chính xác thường là vì đối
tượng nghiên cứu không quá phức tạp và thường
kết quả nghiên cứu không được hoàn toàn triệt để.
Hiệu quả của nghiên cứu bị giới hạn vì những hạn
chế của các công cụ nghiên cứu.
Một cách khác để lấy kiến thức và nhìn thấy mọi
thứ một cách chính xác là nghiên cứu bằng tâm trí,
mà không phải dựa trên bất kỳ công cụ nào. Chỉ
cần một cái tâm đủ rõ ràng để đạt được cái nhìn
nội tại. Có một tâm tĩnh lặng và ổn định đạt được
bằng thiền định luôn luôn nhất quán là điểm khởi
đầu để khám phá sự thật về cuộc đời. Sau khi
thành công, kiến thức thu được từ những hình ảnh
xuất hiện trong tâm hoặc theo thuật ngữ Phật học,
các khả năng “thấy và biết” [nanadassana] hoặc
thấy bằng lực của tâm.
Những người trong chúng ta thuộc kỷ nguyên khoa
học có thể e dè về tiềm năng của tâm để phát hiện
ra những quy luật phổ quát, vì thế trước nhất
39
chúng ta cần tìm hiểu các chức năng tâm trí ra sao.
Thể ban đầu của tâm là rõ ràng trong suốt. Tuy
nhiên, một khi tâm trí bị nhiễm với phiền não, tâm
trí sẽ rơi vào một tình trạng mờ đục bất thường, bị
bóp méo và phân tán làm giảm chất lượng của tâm,
khiến nó trở nên nghèo nàn và làm suy yếu khả
năng của nó. Tuy nhiên, nếu được tu tập đến mức
tĩnh lặng (đem đến những khả năng về nhận thức,
tư tưởng, nhớ nghĩ và kiến thức tập trung ở một
điểm duy nhất giữa cơ thể), tâm trí chúng ta sẽ
đoạt lại khả năng của nó. Nó tương tự như ánh
sáng mặt trời bị toả chiếu, nhưng nếu tập trung bởi
một ống kính thành một chỗ sẽ đủ nhiệt để đốt
cháy một lỗ. Tâm của chúng ta cũng như thế. Một
khi tâm được tập trung trong sự tĩnh lặng trên một
điểm duy nhất, tư duy chúng ta sẽ đi sâu hơn thay
vì tán xạ, do đó, tâm có thêm lực để làm những
điều tuyệt vời.
Để lấy một ví dụ khác - thông thường chúng ta
xem tốc độ của ánh sáng là tốc độ nhanh nhất có
thể có trong vũ trụ. Tuy nhiên, tốc độ của ánh sáng
vẫn còn chậm hơn so với tốc độ của tâm. Giả sử
chúng ta mới đây đã đến thăm một đất nước cách
xa mười ngàn dặm và hồi tưởng lại, tâm chúng ta
chỉ cần một phần nhỏ của một giây để trở lại tại
đất nước này một lần nữa. Tâm chúng ta có thể đi
40
du lịch không chỉ trong hiện tại, nhưng thậm chí có
thể nhảy về quá khứ và tương lai. Đây là phép lạ
của tâm.
Kiến thức đến từ tâm được tu luyện không phải là
độc quyền của Phật giáo song đã có trước đó. Các
ẩn sĩ, vị tu sĩ và các nhà lãnh đạo tinh thần của thời
cổ đại tập trung tâm trí của họ để truy cập kiến
thức bằng cách nhìn thấy trong tâm trí, nhưng
những hình ảnh họ nhìn thấy có thể đã bị phân
mảnh hoặc không đầy đủ. Họ đã dạy cho những
người khác kiến thức của họ với tiết lộ những thứ
như kiến thức về thiên đường hay thế giới Phạm
thiên. Họ cho rằng những cảnh giới cao nhất họ
nhìn thấy là tột đỉnh.
Đức Phật xuất hiện trên thế giới là hậu quả của sự
tu tập trong vô số kiếp và vì thế có một kiến thức
toàn hảo về bản chất của những vật vô tình và hữu
tình trên thế giới, sự thành hoại của thế giới, vũ trụ
học và nguồn gốc của tất cả các sự vật. Ngài đã
truyền trao kiến thức này cho những người khác -
một khối lượng kiến thức [vijjaa] là mức cao nhất
của kiến thức Phật giáo. Kiến thức tối cao này
được gọi là Tam Trí [tevijja] và bao gồm:
1. Kiến thức về đời trước
[pubbenivaasanussatinaa.na]. Đây là khả năng tự
nhớ lại những cuộc sống của mình trong quá khứ
41
từ một, hai, mười, một trăm hay một ngàn kiếp
sống trước đây.
2. Kiến thức về đời trước của những người khác
[cutuupapaatanaa.na]. Đây là khả năng biết làm
sao nghiệp của chúng sinh ảnh hưởng đến sinh tử
của họ trong chu kỳ tồn tại - cho họ cuộc sống có
chất lượng tốt hơn hoặc tồi tệ hơn, cho dù đó là làn
da mịn màng hay thô kệch, sự giàu có hay nghèo
hèn. Một tên khác cho khả năng này là thiên nhãn
[dibbhacakkhu].
3. Kiến thức về sự tận cùng các phiền não
[asavakkhayanaa.na].
Kiến thức Tam Trí này, đặc biệt là hồi ức về kiếp
sống trước đây của Ngài, khiến Đức Phật biết về
sự tiến hóa của Trái đất vì Ngài có thể nhớ lại kiếp
sống cũ của mình nhiều lần trong quá trình thành
và hoại của Trái đất. Đức Phật hiểu thực tế có
những thời kỳ như vậy nên chứng minh được Trái
Đất không phải luôn luôn như bây giờ - và cũng
thế đối với vũ trụ và mọi thứ khác. Bằng cách tu
học Phật pháp, một ngày kia chúng ta cũng có thể
được điểm giác ngộ và chúng ta có thể tự mình
chứng minh bản chất của trái đất và vũ trụ.
1.3.4 Vũ trụ học Phật giáo là không thể thăm dò
bởi tư tưởng khái niệm
42
Như đã đề cập trên đây, Phật giáo là một tôn giáo
dựa trên lý trí. Tuy nhiên, có một số vấn đề mà
Đức Phật không chủ trương mọi người hãy suy
đoán theo lý trí. Đức Phật chỉ định những điều đó
là không thể thăm dò bằng cách tư duy theo khái
niệm. Dù thoạt nhìn điều này có thể dường như
mâu thuẫn, nhưng thật ra Đức Phật đã nhận thấy
những hạn chế của sự hiểu biết trần tục. Cần phải
thiền định, đủ để có cái nhìn sâu sắc về những vấn
đề như đã đề cập trong đề tài nguồn gốc kiến thức
Phật giáo về vũ trụ. Lời Đức Phật giải thích về các
vấn đề không thể thăm dò bằng cách tư duy theo
khái niệm thấy trong kinh Acintita8 như sau:
1. Quyền năng của Đức Phật [buddhavisaaya] -
tức là, phạm vi quyền năng Đức Phật khi trở thành
một vị Phật.
2. Các Thiền giới của người khi nhập Thiền
[naa.navisaaya] - tức là, phạm vi quyền hạn mà
người ta có thể có được trong khi họ đạt đến
absorptions trong thiền định.
3. Quả dị thục của nghiệp - tức là các kết quả
chính xác của hành động nghiệp.
8 Kinh Không Thể Nghĩ Được A.ii.80
43
4. Tâm tư thế giới - tức là phỏng đoán (về xuất xứ,
...) trên thế giới.
Từ kinh này, chúng ta sẽ thấy rằng sự suy đoán về
(ví dụ) ai đã tạo ra trái đất, tạo như thế nào, hoặc
Trái đất sẽ kết thúc ra sao là không thể thăm dò bởi
tư duy khái niệm, do đó chúng ta không nên bận
tâm với chúng vì nếu không chúng ta có thể bị mất
trí. Trái đất của chúng ta đã hiện hữu một khoảng
thời gian rất dài, những thành và hoại nó chỉ có thể
được tính bằng số kiếp khôn lường [asankheyya
kappa]. Không thể chứng minh bằng thực nghiệm.
Càng dùng khái niệm để tìm hiểu, nó càng trở nên
rối mù - cho đến khi cuối cùng mình bị điên loạn.
Những gì chúng ta nên thực sự bận tâm với là làm
thế nào để thoát khỏi thế giới này. Chúng ta nên sử
dụng sự thành hoại để khơi dậy một cảm giác cấp
bách trong việc gieo trồng những nghiệp tốt hầu
thoát khỏi chu kỳ của sự tồn tại như tu tập định
tâm chúng ta để chứng minh bản chất thật sự của
những vấn đề này sau khi chúng ta đã chấm dứt
mọi phiền não.
1.3.5 Các Mục đích của Nghiên cứu Vũ trụ học
Các giai đoạn đầu của giáo lý Phật giáo tập trung
vào khuyến khích người ta gieo trồng những
44
nghiệp tốt và thích ứng bản thân để thoát khỏi đau
khổ. Kết quả là sau khi tu tập giáo lý này họ hoàn
thành mục tiêu thực sự của cuộc sống của họ để trở
nên tự tại khỏi phiền não, đạt đến Niết bàn và phá
tan chu kỳ sinh tử. Vì cuộc đời của chúng ta trên
thế giới này là ngắn, chúng ta không còn thời gian
để không biết gì về những thứ như vũ trụ học.
Vì vậy, về các chủ đề như vũ trụ học, Đức Phật
không dạy chi tiết mà chỉ giải thích các phần cần
thiết để có thể thấu hiểu sự thành, trụ và hoại của
các hiện tượng thế gian. Được trang bị với các giáo
lý của Ngài, người ta trở nên cảnh giác của sự cảm
tính và có hứng khởi để thiền định theo như một ví
dụ được đưa ra trong kinh điển Phật giáo9:
“Vào thời điểm đó, Malunkya trở thành một tu sĩ
trong Phật giáo, muốn có câu trả lời rõ ràng về
việc liệu Trái Đất có thường trú hoặc vô thường,
về thế giới này và tiếp theo. Nhà sư Malunkya nghi
ngờ rằng Đức Phật không thể trả lời một số mười
câu trong đó có sự vĩnh cửu của trái đất và liệu sẽ
có một ngày tận thế. Ông yêu cầu Đức Phật trả lời
những câu hỏi, nói rằng nếu Đức Phật biết câu trả
lời, Ngài sẽ không để lại nghi nan gì trong tâm trí
Malunkya. Trái lại, nếu Đức Phật không biết câu
9 Cuu.lamalunkayovaada Sutta M.i.426ff.
45
trả lời, Ngài nên thừa nhận nó. Nếu Đức Phật
không trả lời, ông sẽ rời khỏi tăng đoàn.
Đức Phật hỏi ông, “Này Malunkyaputta, Ta nào có
nói với Ông: "Này Malunkyaputta, hãy đến và
sống Phạm hạnh theo Ta, Ta sẽ trả lời cho Ông?”
Tu sĩ Malunkya đồng ý Ngài không hề nói.
Đức Phật tiếp tục nói rằng ngay cả nếu có ai đó đã
đe dọa hoàn tục nếu không được trả lời hay người
đó sẽ chết trước khi Đức Phật đồng ý trả lời họ. Nó
giống như một người đàn ông đã bị một mũi tên
độc bắn trúng. Ngay cả thân nhân đã cố gắng đưa
anh ta đến thày thuốc để chữa lành, anh đã từ chối
cho các thày thuốc nhổ mũi tên ra, cho đến khi ai
đó nói với anh ta người nào đã bắn, người đó tên là
gì, người đó cao hay thấp, người đó đen hay trắng,
người đó sống ở đâu, mũi tên làm bằng gì, v.v...
Người đàn ông này sẽ chết vô ích nếu ông tiếp tục
hỏi những câu hỏi không cần thiết. Nhu cầu cấp
thiết của anh là chữa sự đau khổ, không phải là tìm
kiếm câu trả lời.
Cuối cùng, Đức Phật kết luận rằng Ngài sẽ chỉ trả
lời các vấn đề giúp đưa mọi người đến giải thoát
khổ đau, xa lìa nhục dục, được an lành, hạnh phúc,
đạt được trí tuệ và kiến thức và đạt được Niết
Bàn.”
46
Kinh này chứng minh rằng Đức Phật sẽ không đáp
ứng với kiến thức vô dụng. Một số câu hỏi mà sư
Malunkya hỏi, giống như những câu về thế giới
này và thế giới sau là không thể thăm dò bằng cách
tư duy theo khái niệm. Những vấn đề như vậy là để
thêm kiến thức. Câu trả lời khái niệm những câu
hỏi như vậy là vô ích trong việc giúp chúng ta giải
thoát khỏi đau khổ. Thay vì thế chúng ta nên chăm
chú tu tập cho đến khi thành công - chỉ bằng cách
đó mà chúng ta có thể thực sự học hỏi thêm Cũng
như người đàn ông đã bị trúng tên sẽ bị chết nếu
anh nhất định tìm cho ra cung thủ và v.v…, là một
người tu. tiến bộ sẽ bị tổn hại nếu chúng ta lãng
phí thời gian tìm kiếm những câu trả lời vô ích.
Vũ trụ học là một trong những vấn đề không thể
thăm dò bằng cách suy nghĩ theo khái niệm. Đức
Phật dạy kinh Cuu.lamalunkya-ovaada để cảnh báo
mọi người không nên giải đãi và cần đạt một cảm
giác cấp bách bởi sự vô thường của thế giới. Ngài
dạy chúng ta sử dụng thời gian ngắn ngủi của cuộc
đời chúng ta để thực hành tối đa những nghiệp
thiện hầu đạt được chân lý của cuộc sống chỉ có
thể truy cập bằng thiền định.
47
48
CHƯƠNG 2 Những Yếu Tố Xây Dựng Cuộc Sống và Thế
Giới Các phần trong chương này 2.1 Các Đại 2.1.1 Vài định nghĩa 2.1.2 Phân loại các Đại 2.1.3 Đặc điểm và phẩm chất của các Đại 2.2 Mục đích học các Đại 2.2.1 Tỷ lệ các Đại tạo đa dạng 2.2.2 Các Đại có thể thay đổi được 2.2.3 Chúng sinh liên kết theo các Đại 2.2.4 Tất cả các Đại đều tùy thuận Ba Đặc Điểm Phổ Quát
Khái quát về chương này:
1. Các thực thể sinh động và vô tri vô giác căn bản
được tạo nên từ các thành phần nhỏ và chính, gọi
là “đại” – các yếu tố xây dựng cơ bản không thể
chia nhỏ hơn.
2. Các đại là các thực thể tự duy trì, tự nhiên tồn
tại và nuôi dưỡng sự tiếp tục tồn tại của một toàn
thể.
49
3. Bốn đại đất, nước, lửa và gió - có mặt trong tất
cả các thực thể sinh động và vô tri vô giác, trong
khi sáu đại đất, nước, lửa, gió, không và thức - chỉ
hiện diện trong đời sống con người và động vật.
Cây cỏ không có những đại bổ sung mặc dù chúng
cũng là chúng sinh, bởi vì cây cỏ thiếu ý thức.
4. Mỗi đại có thuộc tính riêng. Đất hay đại rắn có
một thuộc tính đặc biệt có thể làm cứng hoặc làm
mềm các vật đối tượng. Nếu không có yếu tố này,
không vật chất nào có thể hình thành hình dạng cụ
thể. Nước hoặc đại lỏng cho phép sự gắn kết và
tính lưu động của các vật chất. Lửa hoặc đại nóng
khiến cho vật chất ấm áp hoặc mát mẻ. Gió hoặc
đại chuyển động khiến vật chất di chuyển hoặc
đứng yên. Không đại là sự trống rỗng hoặc chân
không - nơi không có đất, nước, lửa, gió - không
gian trống nằm giữa các đại khác. Thức đại, khi
kết hợp với năm đại kia, tạo ra cuộc sống. Thông
thường, đại này hiện diện ở người và động vật - và
chỉ khi họ còn sống.
5. Nghiên cứu các đại khiến chúng ta hiểu rằng các
toàn thể - dù là sinh động hoặc vô tri vô giác -
được tạo bằng sự kết hợp các thành phần đại. Vậy
thì sự đa dạng của các sự vật là kết quả của sự kết
hợp các đại khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các đại có
thể thay đổi và trở nên thanh tịnh - ví dụ như trong
50
con người mà các đại có thể được thanh tịnh bằng
cách giữ giới và thực hành thiền định. Ngoài ra,
chúng ta hiểu rằng tất cả chúng sinh được kết hợp
với nhau tùy theo các đại. Động vật có xu hướng
liên kết với những loại tương tự - cũng như con
người. Vì các đại có thể thay đổi và ảnh hưởng lẫn
nhau, chúng ta phải nhận thức rằng khi chúng ta
sống lâu với đặc biệt một người nào - chúng ta sẽ
chịu ảnh hưởng của họ. Vì thế Phật giáo dạy người
ta tránh những kẻ si ngốc và gần gũi người khôn
ngoan. Tuy nhiên, tất cả các đại đều phải theo ba
Điều kiện Phổ quát [ti-lakkha.na]. Các sự vật đều
thành, trụ và sau rốt hoại. Cuối cùng, khi thời gian
đến, các đại tạo nên một thực thể riêng biệt tan rã
và trở lại hình thức ban đầu của chúng. Do đó
chúng ta không nên có bất cứ chấp trước thế gian
nào mà chúng ta nên nhìn những sự vật như thực
và thực hành lời dạy của Đức Phật, đó là con
đường cao quý dẫn đến Niết bàn giải thoát chúng
ta khỏi vòng sinh tử.
Mục đích chương này
Chương này cung cấp cho sinh viên kiến thức và
sự hiểu biết để có thể:
51
1. Giải thích chính xác các thành phần cơ bản của
một toàn thể.
2. Định nghĩa chính xác các đại.
3. Giải thích chính xác sự khác biệt trong phân loại
của bốn và sáu đại.
4. Giải thích các đặc tính và phẩm chất của mỗi
đại.
5. Giải thích mục đích sự học hỏi các đại.
Nhập đề
Trong chương trước, định nghĩa vũ trụ học, chúng
ta biết rằng Đức Phật đã phát hiện ra sự thật về
cuộc sống và thế giới, cũng như bản chất của vật
chất. Phát hiện như vậy khiến chúng ta hiểu rõ hơn
các hiện tượng, về phương diện nhân và quả, thay
vì là niềm tin mù quáng hoặc niềm tin bắt buộc.
Mỗi người có thể chứng minh kiến thức Phật giáo
cho chính mình - và Đức Phật truyền lại cho chúng
ta phương pháp để đạt đến. Được trang bị với một
khái niệm cơ bản về vũ trụ học, chúng ta tiếp tục
tiến đến một nhập đề về những thành phần cơ bản
của tất cả các thực thể, được gọi là 'đại' [dhaatu].
2.1 Các đại
52
Các đại mà chúng ta sắp nghiên cứu trong chương
này không giống như các yếu tố thấy trong các bài
hóa học cấp trung học của chúng ta là Bảng Tuần
Hoàn Mendeleev - cho dù đó là heli, argon hay
nitơ. Ở đây chúng ta nói đến các đại như đơn vị cơ
bản chất lượng “vô/hóa học” không thể chia nhỏ
hơn nữa - là thành phần cấu tạo chính của tất cả
các thực thể, nghĩa là tất cả các thực thể sinh động
và vô tri vô giác được cấu tạo từ những yếu tố cơ
bản này.
2.1.1 Vài định nghĩa
Sau đây là một số định nghĩa của các đại được các
học giả đưa ra:
• Các đại là những thực thể trưởng dưỡng, tồn tại,
tiếp diễn10
.
• Các đại là những thực thể tồn tại trong thiên
nhiên, không thể chia nhỏ hơn nữa, là hình dạng cơ
bản và gốc11
.
• Các đại là vật chất, vốn là thành phần cơ bản của
tất cả mọi thứ12
.
10 P. Longsombun Pali-Thai Dictionary (Bangkok: Athorn Karn Pim) p.336 11 2 ibid.p.366 12 Pin Mutukant, Explanations for Buddhist Studies Vol. III, 3rd ed. (Bangkok: Kamol Karn Pim 1965) p.101
53
Từ định nghĩa trình bày ở trên, chúng ta có thể kết
luận:
Các đại là những thành phần chất lượng tối cùng
của một toàn thể, bao gồm cả hai thực thể sống và
không sống, và không có thể được chia nhỏ.
Chúng hành hoạt để duy trì sự tiếp nối của sự tồn
tại một thực thể.
2.1.2 Phân loại các đại
Các đại có thể được phân loại làm hai cách: Bốn
Đại, và Sáu Đại. Lý do để phân chia theo hai cách
được giải thích như sau13
:
“Trường hợp các đại… được phân loại làm bốn là
vì lợi ích của người tu hành. Theo cách này, chúng
được nhắm dùng như một trợ cụ để tịnh tâm bằng
cách quán sát các đại [dhaatu kamma.t.thaana].
Trường hợp các đại được phân loại làm sáu, đó là
nhắm mục đích phân tích nội tại.”
Bốn đại
Bốn đại cũng được gọi là các Sắc Chất
[bhuutaruupa] hoặc Đại Sắc Chất [mahaa
bhuutaruupa]. Chúng gồm đất, nước, lửa, gió. Đất
13 ibid. p.102
54
hoặc chất rắn [pa.thavii-dhaatu] là nền tảng cho
các đại khác, vì mọi đối tượng vật chất đều cần đến
đại đất để tạo thành các hình dạng vật lý khác
nhau. Nước hoặc thành phần lỏng [aapo dhaatu]
gây ra sự gắn kết và tính lưu động. Lửa hoặc đại
nhiệt [tejo-dhaatu] có tính cách sưởi ấm và làm
mát sự vật, và giúp tiêu hóa. Đại cuối cùng là gió
hoặc đại chuyển động [vaayo-dhaatu] cho các vật
chất tính cách mạnh mẽ hay chịu đựng, khiến
chúng yên lặng hoặc di chuyển.
Bốn đại này là thành phần của một toàn bộ - có thể
là con người, động vật, thực vật, tất cả các đối
tượng vật lý cả trong và ngoài thế giới này - nói
cách khác, tất cả mọi thứ hiện có trong vũ trụ. Tất
cả bốn đại có mặt trong các đối tượng vật chất.
Những vật chất biểu hiện độ cứng rắn cao chịu ảnh
hưởng của đại đất. Tương tự như vậy, tính thanh
khoản là do sự hiện diện mạnh mẽ của đại nước.
Sáu đại
Sáu đại bao gồm đất, nước, lửa, gió, không và
thức. Bốn đại đầu tiên giống hệt như trong bốn
đại. Đại không [aakasa-dhaatu] nghĩa là không
gian giữa đại đất và đại nước cho phép các đại gió
cư trú và chảy qua. Đại gió biểu hiệu sự chuyển
55
động - đó là đại có thể di chuyển từ nơi này đến
nơi khác, trong khi đại không biểu hiện cho sự
trống rỗng. Thật ra, đại không đã tồn tại trong bốn
đại. Tuy nhiên, nó không được bao gồm trong bốn
đại để tránh nhầm lẫn với đại gió, vì đại không có
thể quá phức tạp để cho tâm trần tục hiểu. Vì lý do
này, đại không được gồm thay vào đó, trong sáu
đại thường được giảng dạy cho các người tu thiền
định. Đại thức [viññaa.na-dhaatu] là một đại
thường chỉ thấy có ở các chúng sinh - điều sẽ được
thảo luận chi tiết sau này.
Sau khi học được những điểm tương đồng và khác
biệt giữa hai cách phân loại các đại, chúng ta có
thể kết luận rằng bốn đại có thể được áp dụng cho
tất cả các thực thể sinh động và vô tri vô giác như
nhau, nhưng sáu đại chỉ có thể được áp dụng duy
nhất cho chúng sinh. Thuật ngữ “chúng sinh” ở
đây chỉ đề cập đến con người và động vật, nhưng
không bao gồm các cây cỏ. Mặc dù các cây cỏ
được sống với khả năng phát triển và thay đổi,
chúng không có đại thức. Do đó, các cây cỏ không
có cảm giác hoặc nhận thức. Chúng là những vật
chất sinh học không có tâm thường trụ - không như
con người và động vật. Sau đây là khảo sát mỗi đại
trong chi tiết.
56
2.1.3 Đặc điểm và phẩm chất của các Đại
Vì bốn đại đầu tiên trong số Sáu Đại giống hệt như
là bốn đại, đặc điểm của mỗi đại được áp dụng
trong cả hai hình thức phân loại.
1. Đại Đất:
Nói đến đất chúng ta không muốn nói đất, cát hoặc
đất sét thấy trong đồng ruộng hay sân sau của bạn.
Đại đất ở đây có nghĩa là tính chất bền vững có thể
là đặc tính của các vật liệu. Vật chất được cấu tạo
chủ yếu bởi đại đất hoặc có tỷ lệ đại đất tương đối
cao hơn các đại khác, sẽ biểu hiện độ bền vững - ví
dụ, kim loại, đá và gỗ thì chắc và cứng vì đất là
thành phần chính của chúng. Trái lại, vật chất nào
chỉ gồm có ít đại đất sẽ được mềm mại và nhu
nhuyễn. Như thế, sự cứng chắc của vật dụng đều
tùy thuộc vào tỷ lệ của đại đất trong vật dụng đó và
duy chỉ một mình đại đất xác định độ cứng hoặc
tính uốn được của các vật thể. Đại đất tồn tại cả
bên trong và bên ngoài cơ thể của chúng ta. Trong
cơ thể chúng ta, đại đất có mặt trong tất cả các cơ
quan bên ngoài và nội tạng nào cứng cáp hoặc hình
thành một thực thể rõ rệt - bao gồm cả sợi tóc trên
đầu, lông ngoài da, răng, da, thịt, gân, xương, tủy
57
xương, lá lách, tim, gan, mô liên kết, thận, phổi,
ruột già, ruột non, thức ăn và phân. Bên ngoài cơ
thể chúng ta, đại đất được thấy trong tất cả mọi thứ
thể hiện độ chắc đặc - nghĩa là tất cả các đối tượng
vật lý cho dù đó là nhà ở, xe ô tô, tàu, thiết bị gia
dụng. Nếu không có đại đất, các hợp chất của đại
này sẽ không thể còn nguyên vẹn - cũng giống như
chúng sinh trên mặt đất cần đất khô để tồn tại. Đại
đất có thể được so sánh với một cái cốc và các đại
khác với nước. Tự bản chất Nước không thể duy trì
hình dạng của nó, trừ khi nó được đổ vào một đồ
đựng - mà nó sẽ lấy hình dạng của vật đựng đó.
Nước có thể được những hình dạng khác nhau và
duy trì chúng, do đó tùy thuộc vào cái cốc để làm
như vậy. Cũng như thế, chúng ta chỉ có thể nhận
định những vật như các thực thể trong thế giới
quanh ta, bởi vì đại đất liên kết chúng thành các
hình dạng rõ rệt.
2. Đại Nước:
Đại nước không cụ thể có nghĩa là H2O - như trong
nước ngọt, nước biển, nước lợ hay nước giếng. Đại
nước đề cập đến tính cách mềm mại hoặc dính kết
và có tiềm năng để gia tăng tính mềm mại hoặc
dính kết cho các đối tượng vật lý. Nếu đại nước là
58
đại chính trong bất cứ vật gì, nó khiến cho vật đó
lỏng – làm cho vật đó chảy được. Tuy nhiên, nếu
đại nước tương đối hiếm, nó sẽ gây ra sự gắn kết
giữa các vật giống như dầu dính hoặc sự kết dính
dán các vật với nhau. Bất cứ vật nào mà có đại
nước nhiều hơn đại đất, lực của đại nước sẽ làm
suy yếu những tính chất của đại đất, khiến các đối
tượng hóa lỏng và trở thành chất lỏng. Nước chảy
được bởi vì nó được cấu tạo chủ yếu bằng đại nước
nhưng có rất ít đại đất. Những chất rắn có thể hóa
lỏng và chảy bởi sức mạnh của đại nước bất cứ khi
nào đại đất trở nên ít hơn. Tuy nhiên, nếu đại nước
ít hơn so với đại đất, những tính chất của đại nước
sẽ cho khiến các phân tử của đại đất dính kết với
nhau, lắp ráp chúng thành một đơn vị duy nhất,
tương tự như độ ẩm khiến bột dính kết với nhau.
Đại nước cũng tồn tại cả bên trong và bên ngoài
chúng sinh. Đại nước bên trong dùng để chỉ các bộ
phận của cơ thể ngập tràn, ứ, thấm, nhỉ và chảy -
cho dù đó là mật, đờm dãi, chất lỏng bạch huyết,
máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, giải mỡ, nước bọt,
nhầy, tủy hoặc nước tiểu. Đại nước bên ngoài là
bất cứ điều gì ở bên ngoài cơ thể của chúng ta tràn
ngập, dính và kết - bao gồm cả các mùi vị trái cây
và rau quả, sữa, sữa chua, bơ, bơ lỏng và sự ẩm
ướt trong đất hay khí quyển.
59
3. Đại Lửa:
Đại lửa được đặc trưng bởi những tính chất của
nhiệt [u.nha-tejo] hoặc lạnh [siita-tejo]. Bản chất
của đại lửa là để phát ra nhiệt hoặc lạnh. Đại lửa
tồn tại cả bên trong và bên ngoài cơ thể chúng ta.
Đại lửa bên trong là đại cung cấp sự ấm áp cho cơ
thể chúng ta, làm cho cơ thể của chúng ta bị thoái
hóa, gây kích ứng và giúp tiêu hóa thức ăn. Đại lửa
bên ngoài yếu tố lửa là nhiệt và sự ấm áp đến từ, tỷ
như, lửa, đốt cháy, sét, nhiệt năng lượng mặt trời
và ấm áp bên trong vật liệu như đốt lửa hoặc than
hồng rực rỡ. Có năm loại đại lửa trong cơ thể:
1. ấm áp cơ thể [usmaa-tejo]
2. nhiệt sốt [santappana tejo]
3. thân nhiệt cực kỳ [dahana-tejo]
4. sức nóng của sự lão hóa [jira.na-tejo]
5. nhiệt tiêu hóa [paacaka-tejo]
Trong số năm đại lửa, chỉ có ấm áp cơ thể và nhiệt
tiêu hóa là luôn hoạt động trong chúng sinh. Thân
nhiệt cực kỳ, nóng sốt và nhiệt lão hóa nói chung
là vắng mặt. Chỉ khi nhiệt độ cơ thể trở nên bất
thường - ví dụ như khi bị sốt – mà nó biến đổi
thành nhiệt sốt, đại lửa mạnh mẽ hơn. Nếu sốt
nặng hơn làm cho các bệnh nhân mê sảng, nó có
60
nghĩa là nóng sốt đã biến thành thân nhiệt cực kỳ.
Đối với những người thường xuyên bị bệnh tật
hoặc bước vào tuổi già, nó có nghĩa là sức nóng
của sự lão hóa đã lật đổ nhiệt độ cơ thể bình
thường. Nhiệt của lão hóa tự bản chất gây ra sự
suy thoái thể chất của cơ thể chúng ta kể cả tóc
bạc, răng lung lay, cưòm khô và nếp nhăn.
4. Đại Gió:
Đại gió có đặc điểm là tính chất chuyển động và đè
ép. Thuộc tính nén của gió [vitthambhana vaayo]
khiến cho vật thể trở nên ổn định và bất động. Nếu
hiện diện trong cơ thể nó gây ra căng thẳng, cứng
đờ và đau nhức trong cơ thể của chúng ta - tỷ như,
khi các cơ bắp của chúng ta co rút vì luyện tập quá
lố hay khi chúng ta bị mỏi mắt vì nhìn chăm chú
quá lâu. Những hành động này tạo nên sự nén ép.
Ở bên ngoài cơ thể, cũng bởi các đặc tính trên mà
tạo nên sự ổn định hoặc đè nén của tất cả các vật
thể - ví dụ, một quả bóng có thể trở nên căng sau
khi nó được thổi phồng vì đại gió. Một khía cạnh
khác của đại gió là sự chuyển động [samiira.na
vaayo] của nó. Đặc tính này khiến chúng sinh di
chuyển được. Những khả năng của chúng sinh, tỷ
như, di chuyển qua lại, nhấp nháy và trợn mắt,
61
chuyển động các bộ phận cơ thể, đi vệ sinh và sinh
đẻ, tất cả đều có thể gán cho đặc tính của đại này.
Ở bên ngoài cơ thể, đặc tính này tạo nên sự chuyển
động của các vật thể. Đại gió nằm cả bên trong và
bên ngoài cơ thể chúng ta. Đại gió trong cơ thể
chúng ta xuất hiện dưới dạng những chất chảy bên
trong cơ thể - chẳng hạn như ợ hơi, đánh rắm, hơi
trong dạ dày, hơi trong ruột hoặc các cơ quan khác,
thở ra, hít vào và chuyển động hoặc dòng chảy nào
khác bên trong cơ thể . Đại gió bên ngoài cơ thể
liên hệ đến mọi chuyển động và sự yên tĩnh của
các vật thể - tỷ như, gió thổi, không khí ô nhiễm,
không khí trong lành, hơi nóng hoặc lạnh.
5. Đại Không:
Đại không là không gian trống rỗng, hoặc chân
không, nơi các đại đất, nước, lửa, gió không có
mặt. Nó là khoảng trống rỗng giữa các đại. Đại
không tồn tại cả bên trong và bên ngoài cơ thể
chúng ta. Đại không nội tại là các khoảng trống và
xoang ở trong và quanh các cơ quan cơ thể chúng
ta - tỷ như, lỗ mũi, khoang mũi, khoang miệng và
cổ họng. Đại không bên ngoài cơ thể được thấy ở
bất cứ nơi nào mà bốn đại trên vắng mặt.
62
6. Đại Thức:
Đại thức, khi xuất hiện kết hợp với các đại khác,
khiến chúng hoạt động. Bình thường, chỉ có con
người và động vật là có đại thức và nó luôn ở với
họ khi nào họ còn sống. Xác chết và xác động vật
không còn hoạt động bởi vì đại thức đã lìa bỏ
chúng, chỉ để lại có năm đại khác. Đại thức khiến
chúng ta thành một chúng sinh - cho chúng ta được
nhận thức và nhận ra những gì đang xảy ra, cho dù
đó là hạnh phúc, đau khổ hay chẳng vui chẳng khổ.
Ngoài ra, cảm xúc và suy nghĩ cũng là thành quả
của đại thức. Đại thức có thể được chia thành sáu
loại:
1. Nhãn-thức [cakkhu-viññaa.na-dhaatu]
2. Nhĩ-thức [sota viññaa.na-dhaatu]
3. Tỹ-thức [ghaana-viññaa.na-dhaatu]
4. Thiệt-thức [jivhaa-viññaa.na-dhaatu]
5. Thân-thức [kaaya-viññaa.na-dhaatu]
6. Ý-thức [mano-viññaa.na-dhaatu]
Nhận thức những thứ xung quanh chúng ta được
thực hiện bởi đại thức xuyên qua mắt, tai, mũi,
lưỡi, và cơ thể - một quá trình dễ hiểu hơn bằng
cách thực hành thiền định.
2.2 Mục đích học các Đại
63
Nghiên cứu các đại cho phép sự hiểu biết tốt hơn
về thế giới vật chất - sinh động và vô tri vô giác,
bên trong và bên ngoài cơ thể của chúng ta - sự
hiểu biết rằng trong thực tế, mỗi thực thể có thể
được chia nhỏ thành các đại. Các kết hợp khác
nhau của các đại tạo ra một loạt các vật chất và
dạng sống khác nhau và sẽ tồn tại chừng nào
những đại này vẫn còn gắn bó với nhau. Sau một
thời gian, các hợp chất của các đại sẽ tan vỡ, kết
thúc cái thực thể mà các đại đã tạo ra.
Vì vậy chúng ta không nên có bất cứ dính mắc thế
gian nào – dù là vật nào hay đáng giá ra sao - vì
không có gì là vĩnh cửu. Ngay cả những tài sản thú
vị nhất cũng có tuổi thọ giới hạn, vào lúc cuối
cùng chúng sẽ phân hủy và tan vỡ thành bốn đại cơ
bản. Sự dính mắc thế gian đem lại đau khổ và buồn
phiền. Nó là nguyên nhân của xung đột, khủng bố,
đấu tranh và bóc lột giữa loài người, tạo ra một chu
kỳ bất tận của khổ sở và đau đớn.
Phần lớn của cuộc khủng hoảng chúng ta thấy
trong thế giới ngày hôm nay đến từ sự thiếu hiểu
biết của mọi người về bản chất đại của vật chất -
không có gì là vĩnh cửu - tất cả mọi thứ phát sinh,
trụ trong một thời gian và cuối cùng phân hoại.
Không biết được bản chất vô thường của các vật
64
chất khiến cho người ta trở nên chấp trước. Sự vô
minh của họ dẫn đến sự ích kỷ, bóc lột trong xã hội
và, thật đáng buồn, bạo lực và chiến tranh mà trớ
trêu thay phá hủy chính những cái họ quá gắn bó.
Nếu mọi người tìm hiểu bản chất đại của vật chất
và vô thường của thiên nhiên, họ sẽ nhận thức rằng
chấp trước những vật chất thế gian là vô ích. Tất cả
chúng ta là những con người. Không ai có thể
thoát khỏi cái chết. Ngay cả các hoàng đế vĩ đại
nhất hay những tỷ phú giàu nhất vẫn phải thở hơi
cuối cùng, để lại phía sau thế giới và tất cả các tài
sản của họ. Hiểu được điều ấy, người ta sẽ không
khinh rẻ người khác hoặc tận dụng lợi thế của
nhau. Sẽ không có đua chen và lạm dụng hệ thống.
Mọi người sẽ chia sẻ những gì họ có và mở rộng
bàn tay giúp đỡ những người khác, bởi vì họ biết
tất cả mọi người đều phải đối phó với sự đau khổ
giống như mình.
Trên hết, sự hiểu biết khiến chúng ta thấy rằng thế
giới này đầy đau khổ. Đau khổ có nhiều loại và
không thể tránh khỏi khi nào chúng ta vẫn còn tùy
thuộc vào chu kỳ sinh tồn. Trong thế giới đầy đau
khổ này, không có gì là vĩnh cửu để chúng ta có
thể nương tựa. Vì vậy, chúng ta nên lìa bỏ mọi
chấp trước thế gian và tìm lấy một con đường để
thoát khỏi chu kỳ sinh tồn bằng cách tu tập công
65
đức và thiện lành, thanh tịnh bản thân cho đến khi
tất cả các phiền não được bứng ra khỏi tâm trí
chúng ta và cuối cùng hoàn toàn thoát khỏi sự tái
sinh.
Bởi vì các đại không ổn định, đặc biệt là ở trong
chúng sinh. Nó làm cho các đặc tính và chất lượng
của các đại thay đổi được. Một chúng sinh có
những đại bất tịnh sẽ có các thuộc tính thấp kém.
Song nếu các đại trong một chúng sinh rất thanh
tịnh, chúng sinh đó sẽ có các thuộc tính tuyệt vời.
Như vậy, thay đổi các đại bên trong chúng ta cũng
là mang lại sự thay đổi chính mình - một chủ đề
được thảo luận sau này.
2.2.1 Tỷ lệ các Đại tạo đa dạng
Mặc dù con người và động vật chỉ do sáu đại tạo
nên, bao gồm cả thức đại (những dạng sống thấp
chỉ có năm đại), mức độ đa dạng giữa người và
động vật là đáng chú ý.
Sự khác biệt trong cả hai tùy thuộc vào tỷ lệ khác
nhau của sáu đại cũng như sự thanh tịnh của các
đại - để lấy một ví dụ, kim cương và đá rõ ràng là
khác nhau về chất lượng và hình dáng bởi vì các
66
đại cấu thành của chúng không có cùng tỷ lệ tương
tự và độ tinh khiết.
Ngay cả sự khác biệt giữa con người - dù đã được
sinh ra trong cùng một quốc gia hoặc một gia đình
có thể được tạo nên từ sự khác biệt trong độ tinh
khiết của các đại từ người này sang người khác -
cũng giống như một bức tượng làm bằng xi măng
có thể cứng chắc hay dễ vỡ tùy thuộc vào những
thành phần xi măng có được sàng lọc trước khi
trộn hay không.
Sự thanh tịnh các đại của một người được xác định
bằng giá trị đạo đức của mỗi cá nhân. Đạo đức
càng cao, các đại người ấy có càng thanh tịnh.
Thường thì các đại cấu thành con người và động
vật bị ô nhiễm bởi tham [lobha], sân [dosa] và si
[moha]. Một người có đạo đức cao sẽ có những đại
thanh tịnh bởi vì đức hạnh của họ sẽ giúp tiêu diệt
tham, sân và si.
Sự thanh tịnh của các đại thể hiện bằng nhiều cách
khác nhau - ví dụ, bằng sự lanh lợi và trí thông
minh, sức khỏe tốt, ngoại hình đẹp và làn da tốt.
Các đại thanh tịnh cũng ảnh hưởng đến cách một
người suy nghĩ, nói và hành động theo đường lối
đạo đức chính xác. Ngược lại, các đại không thanh
tịnh khiết là nguyên nhân gây ra kém thông minh,
thiếu sức khỏe, và hình dạng xấu xí. Nó khiến cho
67
một người suy nghĩ, nói và hành động không đạo
đức, mang lại cho chính họ và những người khác
nhiều khổ sở.
Nói cách khác, mỗi con người hoặc động vật được
phân biệt tùy theo mức độ tham, sân và si trong
các đại của họ. Tuy nhiên, những đại bên trong
chúng ta có thể được cải thiện bằng cách phát triển
toàn vẹn đạo đức - chẳng hạn như, giữ giới luật và
thực hành thiền định thường xuyên để thanh tịnh
chúng. Ngoài ra, những đại trước đây tinh khiết có
thể trở thành nhiễm ô nếu ta không còn đạo đức.
2.2.2 Các Đại có thể thay đổi được
Sự đa dạng trong chúng sinh có thể được gây ra
tùy theo mức độ thanh tịnh khác nhau của họ. Để
lấy một ví dụ, giả sử một người bình thường như
chúng ta có một công việc an toàn và có thể kiếm
sống không khó khăn. Nếu ta thông minh và học
giỏi, đó là bởi vì các đại bên trong ta tương đối
thanh tịnh. Tuy nhiên, nếu ta trở nên vướng mắc
với tham, sân và si, sự thông minh và tài năng của
ta chắc chắn sẽ bị suy thoái.
Chúng ta cũng có thể thấy sự thanh tịnh các đại
ảnh hưởng như thế nào đến hiệu suất của chúng ta.
Khi chúng ta tức giận, chúng ta không thể suy nghĩ
68
rõ ràng. Mặc dù chúng ta bình thường thông minh,
nhưng ngay khi chúng ta mất đi sự bình tĩnh,
chúng ta không thể tìm thấy giải pháp hiệu quả cho
các vấn đề của chúng ta. Những xung động tiêu
cực, chẳng hạn như trở nên hung hăng, thống trị
tâm trí của chúng ta. Khi chúng ta uống rượu,
chúng ta trở thành một thằng ngốc đáng kinh ngạc
phun ra những lời vô nghĩa, không mạch lạc và
thiếu kiểm soát.
Ngược lại, khi các đại của chúng ta trở nên thanh
tịnh hơn, hiệu suất của chúng tôi sẽ theo đó cải
thiện. Một ví dụ đơn giản là nghỉ ngơi đầy đủ,
chúng ta sẽ trở nên khỏe mạnh. Tâm trí chúng ta sẽ
trở nên tươi tỉnh và vui vẻ. Chúng ta sẽ nhận thấy
rằng tất cả mọi thứ dường như đều diễn ra suôn sẻ
hơn. Nếu các đại bên trong chúng ta trở nên thanh
tịnh hơn, hiệu suất chúng ta cũng sẽ như thế. Các
dạng tinh thể của xá lợi tìm thấy trong tro hỏa táng
của các nhà sư nổi tiếng về sự thanh tịnh đạt được
trong thiền định hoặc các vị A La Hán càng thêm
xác nhận rằng các đại, đặc biệt là những đại bên
trong con người - có thể được thay đổi và thanh
tịnh hóa.
Khi những vị A La Hán hay bậc thầy thiền định
còn sống, thể chất họ trông giống như tất cả mọi
người khác. Tuy nhiên sau khi họ qua đời và than
69
thể của họ đã được hỏa táng, hài cốt của họ đã
được biến thành xá lợi giống như đá quý, trong
suốt và sang ngời. Ngược lại, tro của những người
chưa giác ngộ thì xám xịt và nhớp nhúa. Đó là bởi
vì tro của những thành tựu đã thanh tịnh các đại
bên trong khỏi tham, sân và si.
Các đại có thể được thanh tịnh bằng cách trì Giới
và tu tập thiền định. Giới được giữ theo nhiều cấp
độ - tùy thuộc giới luật cho hang tại gia hay giới
luật cho hàng xuất gia. Ngoài ra, tác động của giới
luật thay đổi theo số lượng và tính nghiêm minh
những giới luật thọ trì. Hành thiền cũng mang lại
kết quả khác nhau tùy theo mức độ thành tựu của
người tu. Tác động của giới luật và thiền định trên
các đại của một người, do đó, phụ thuộc vào cách
thức trì Giới và sự thánh tựu trong thực hành thiền
định.
Các nhà sư Phật giáo và cư sĩ quyết tâm hành thiền
và trì Giới có thể đạt được thần thông. Trong kinh
Phật [tipi.taka] có vô số truyện kể các nhà sư và cư
sĩ trong thời Đức Phật đã đạt những thần thông
như thiên nhãn hay thiên nhĩ. Một số có thể bay.
Một số người có thể nhớ những kiếp quá khứ của
họ. Những khả năng này là kết quả của sự thanh
tịnh các đại của họ. Khi các đại được thanh tịnh
đến mức tất cả các phiền não được diệt trừ, người
70
đó trở thành một vị A La Hán được giải thoát khỏi
vòng sinh tử. Tuy nhiên, ngay cả những thần thông
của các vị A La Hán cũng khác nhau tùy theo sự
khác biệt trong độ thanh tịnh của các đại.
Vì thế, để thanh tịnh các đại riêng của mình, chúng
ta cần giữ giới và tu tập thiền định hoàn toàn. Nếu
chúng ta tinh tấn đến độ các đại của chúng ta trở
nên thanh tịnh, chúng tôi sẽ có thể giải thoát khỏi
vòng sinh tử - không còn có sự tái sinh cho chúng
ta - không còn khổ sở hay đau đớn.
2.2.3 Chúng sinh liên kết theo các Đại
Những cá nhân không những khác nhau theo các
đại – mà còn tùy thuộc đến cách liên kết của
chúng. Vật chất có xu hướng kết hợp nếu có các
thuộc tính giống nhau, nhưng lại tách rời nếu các
thuộc tính của chúng khác nhau - ví dụ, nếu chúng
ta đổ một cốc nước vào một cốc nước khác, nước
liền hòa hợp không thể tách rời - cũng giống như
các dòng suối chảy vào một con sông, biển và đại
dương không thể tách rời ra được.
Ngược lại, các thực thể có các thuộc tính khác
nhau không kết hợp - nước và dầu là một ví dụ tốt.
Chúng không bao giờ kết hợp dù chúng ta có cố
71
gắng thế nào. Đó là vì nước và dầu khác nhau
trong các thuộc tính của chúng.
Điều này đúng không những chỉ trong các vật chất,
mà còn ở trong chúng sinh. Động vật có xu hướng
liên kết với các đồng loại, như trong những lời của
câu tục ngữ, “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Con
người có xu hướng liên kết với những người có các
đại tương tự hoặc giống nhau, khiến họ được hòa
hợp hoặc chia sẻ các thuộc tính. Về vấn đề này,
Đức Phật dạy14
:
“Này các tỳ kheo! Chúng sinh có các đại tương tự
có xu hướng quấn quýt lấy nhau. Những người có
Tà Kiến gần gũi những người có Tà Kiến. Những
người có Tà Tư Duy gần gũi những người có Tà
Tư Duy. Những người có Tà Ngữ gần gũi những
người có Tà Ngữ. Những người có Tà Nghiệp gần
gũi những người có Tà Nghiệp. Những người có
Tà Mạng gần gũi những người có Tà Mạng.
Những người có Tà Tinh Tấn gần gũi những người
Tà Tinh Tấn. Những người có Tà Niệm gần gũi
những người có Tà Niệm. Những người có Tà
Định gần gũi những người có Tà Định.
Những người có Chánh Kiến gần gũi những người
có Chánh Kiến. Những người có Chánh Tư Duy
14
A.t.tha”ngkika Sutta S.ii.168
72
gần gũi những người có Chánh Tư Duy. Những
người có Chánh Ngữ gần gũi những người có
Chánh Ngữ. Những người có Chánh Nghiệp gần
gũi những người có Chánh Nghiệp. Những người
có Chánh Mạng gần gũi những người có Chánh
Mạng. Những người có Chánh Tinh Tấn gần gũi
những người có Chánh Tinh Tấn. Những người có
Chánh Niệm gần gũi những người có Chánh Niệm.
Những người có Chánh Định gần gũi những người
có Chánh Định.”
Sự nhận xét của Đức Phật cho thấy các khuynh
hướng của xã hội nơi mọi người có xu hướng gắn
bó với những người cùng chí hướng. Các viên
chức chính phủ có khuynh hướng liên kết với các
viên chức chính phủ khác. Người nghiện ma túy
hoặc cờ bạc cũng sẽ có xu hướng liên kết với
những kẻ giống mình, bởi vì các đại tương tự ở
trong họ của họ kéo họ lại với nhau. Vì vậy, có thể
nói rằng về mặt các đại, cái gì giống nhau thu hút
nhau - và có động lực tương tự như những điều đã
được đề cập đến sự thanh tịnh hoặc biến đổi các
đại.
2.2.4 Tất cả các Đại đều tùy thuận Ba Đặc Điểm
Phổ Quát
73
Bởi vì bản chất của các đại thay đổi, Đức Phật dạy
chúng ta phải sử dụng trí tuệ để thấy các đại như
thật. Mặc dù những vật sở hữu của chúng ta hoặc
thậm chí cả cơ thể của chúng ta có thể dường như
thuộc về chúng ta, trong thực tế, chúng không thế -
chúng không phải là của chúng ta, không phải là
chúng ta và không phải ‘thuộc về ta’. Với chánh
kiến này, chúng tôi sẽ từ bỏ được sự tham đắm các
đại (tạo thành các vật chất) và cuối cùng từ bỏ
những chấp trước thế gian.
Không hiểu biết bản chất của các đại gây ra sự
dính mắc vào chúng với những thăng trầm hưng
phấn hay thất vọng. Vì sự chấp trước ấy, chúng
sinh không thể giải thoát mình khỏi chu kỳ sinh
tử15
:
“Này các tỳ kheo! Chừng nào chúng sinh còn vô
minh trước sự thật - những dục lạc và nguy hiểm
của tứ đại, và đạo không bị tứ đại ràng buộc -
những chúng sinh ấy vẫn còn bị ràng buộc, xiềng
xích, cầm tù trong thế giới này - cũng như thế giới
của chư thiên [deva], thế giới của ngạ quỷ [maara],
và thế giới của Phạm Thiên - sẽ không thể giải
thoát khỏi cảnh giới súc sinh, cũng như cảnh giới
Phạm Thiên, chư thiên và loài người. Tâm họ là
không thể thoát khỏi phiền não và vòng sinh tử.
15
Noceda Sutta S.ii.172
74
Khi những chúng sinh ấy giác ngộ sự thật - những
dục lạc và nguy hiểm của tứ đại, và đạo không bị
tứ đại ràng buộc - những chúng sinh sẽ được giải
thoát, cởi trói, thoát khỏi thế giới này - cũng như
thế giới của chư thiên [deva], thế giới của ngạ quỷ
[maara], thế giới của Phạm Thiên và ngay cả cảnh
giới súc sinh - cũng như cảnh giới Phạm Thiên,
chư thiên và loài người. Tâm họ không còn phiền
não và thoát khỏi vòng sinh tử.”
Đức Phật cũng dạy rằng các đại là nguồn gốc của
bệnh tật và nguyên nhân biểu hiện của lão hóa16
:
“Này các tỳ kheo! Sự thành, trụ, hoại của đại đất…
lả sự thành, trụ, hoại của già và chết. Sự thành, trụ,
hoại của đại nước… đại lửa… đại gió… là nguồn
gốc của đau khổ, nguồn gốc của bệnh tật, biểu hiện
của già và chết.
Này các tỳ kheo! Sự vùi dập, tĩnh lặng và chấm
dứt của đại đất… là sự sụp đổ của đau khổ, sự kết
thúc của bệnh tật và tuyệt chủng của già và chết.
Sự vùi dập, tĩnh lặng và chấm dứt của đại nước…
của đại lửa… của đại gió… là sự sụp đổ của đau
khổ, sự chấm dứt của bệnh tật và tuyệt chủng của
già và chết.”
16
Uppada Sutta S.iii.31
75
Ngoài ra, Ngài còn dạy rằng, để thoát khỏi đau
khổ, người ta phải dứt bỏ sự tham đắm các đại (cấu
thành đối tượng vật chất) do đó đem lại dục lạc17
:
“Này các tỳ kheo! Kẻ nào tham đắm đại đất… quả
thật là người tham đắm đau khổ. Kẻ nào tham đắm
đau khổ, ta bảo rằng kẻ đó không thoát khỏi đau
khổ. Kẻ nào tham đắm đại nước… Kẻ nào tham
đắm đại gió… Kẻ nào tham đắm đại lửa… quả thật
là người tham đắm đau khổ. Kẻ nào tham đắm đau
khổ, ta bảo rằng kẻ đó không thoát khỏi đau khổ.
Này các tỳ kheo! Kẻ nào từ bỏ tham dục với đại
đất… quả thật là người từ bỏ đau khổ. Kẻ nào từ
bỏ đau khổ, ta bảo rằng kẻ đó được thoát khỏi đau
khổ. Kẻ nào từ bỏ tham dục với đại nước… Kẻ nào
từ bỏ tham dục với đại lửa… Kẻ nào từ bỏ tham
dục với đại gió… quả thật là người từ bỏ đau khổ.
Kẻ nào từ bỏ tham đắm đau khổ, ta bảo rằng kẻ đó
được thoát khỏi đau khổ.”
Kết luận
Tất cả chúng sinh đều do các đại tạo thành, có các
đại làm thành phần xây dựng cơ bản. Con người và
động vật được tạo nên từ sáu đại, trong khi cây cỏ
17
Abhinandana Sutta S.iii.31
76
được tạo nên từ năm. Vì thế, chẳng có sinh vật nào
sống đời đời. Chúng tàn hoại đi theo thời gian - và
cuối cùng khi thời điểm đến, các đại liền tan rã. Vì
thế chúng ta không nên có bất kỳ chấp trước thế
gian nào, vì chấp trước chỉ mang lại đau khổ, thất
vọng, buồn rầu và đôi khi bất hạnh. Chúng ta nên
thấy những sự việc theo bản chất thật sự của
chúng. Thấy được như vậy khiến chúng ta tiếp tục
sống hạnh phúc và lót đường cho việc theo đuổi
thánh đạo dẫn đến Niết bàn và rốt cuộc thoát ly
vòng sinh tử.
77
78
CHƯƠNG 3 Cấu trúc của vũ trụ
Các phần trong chương này
3.1 Vũ trụ học khoa học 3.1.1 Vũ trụ vô tận 3,2 Vũ trụ học Phật giáo 3.3 Cấu trúc của vũ trụ 3.3.1 Xung quanh núi Tu Di 1. Bốn châu thiên hạ: 1.1 Đông Thắng Thần Châu [Pubbevidehadiipa] 1.2 Tây Ngưu Hóa Châu [Aparagoyaanadiipa] 1.3 Bắc Câu Lư Châu [Uttarakurudiipa] 1.4 Nam Thiệm Bộ Châu [Jambuudiipa] 3.3.2 Trên núi Tu Di 1. Trời Tứ Thiên Vương [Caatummahaaraajika] 2. Trời Tam Thập Tam [Taavat.imsa] 3. Trời Dạ Ma [Yaamaa] 4. Trời Đâu Suất Đà [Tusita] 5. Trời Hóa Lạc [Nimmaanaratii] 6. Trời Tha Hóa Tự Tại [Paranim mitavasavattii] 3.3.3 Bên dưới núi Tu Di 3.4 Thế giới của chúng sinh 3.4.1 Phân biệt giữa Cảnh Giới và các Cõi (Hữu)
79
3.5 Các thành phần của mỗi Giới 3.5.1 Định nghĩa Cảnh Giới 3.6 Dục giới 3.6.1 Nhân Giới 3.6.2 Bốn Cảnh Giới Bất Hạnh 1. Các cõi Địa ngục [Niraya] 1.1 Những Địa Ngục chính 1.1.1 Đẳng-hoạt Địa Ngục [Sanjiiva niraya] 1.1.2 Hắc-thằng Địa Ngục [Kaa.lasutta niraya] 1.1.3 Chúng-hợp Địa Ngục [Sa "ngha.ta niraya] 1.1.4 Hào-khiếu Địa Ngục [Roruva niraya] 1.1.5 Đại-khiếu Địa Ngục [Mahaaroruva niraya] 1.1.6 Viêm-nhiệt Địa Ngục [Taapana niraya] 1.1.7 Đại-nhiệt Địa Ngục [Mahaataapana niraya] 1.1.8 Vô-gián Địa Ngục [Aveci niraya] 1.2 Những Địa Ngục Phụ [Ussada] 1.2.1 Nhục-trùng Địa Ngục [guutha] 1.2.2 Nhiệt-khôi Địa Ngục [kukku.la] 1.2.3 Kiếm-diệp Địa Ngục [asipatta] 1.2.4 Khủng-giang Địa Ngục [vetara.nii] 1.3 Luyện Ngục [Yamaloka] 1.3. 1 Lohakumbhii Luyện Ngục 1.3. 2 Simbalii Luyện Ngục 1.3. 3 Asinakha Luyện Ngục 1.3. 4 Taambodaka Luyện Ngục
80
1.3. 5 Ayogul.a Luyện Ngục 1.3. 6 Pissakapabbata Luyện Ngục 1.3. 7 Dhusa Luyện Ngục 1.3. 8 Siitalosita Luyện Ngục 1.3. 9 Sunakha Luyện Ngục 1.3.10 Yantapaasaa.na Luyện Ngục 1.4 Ngục Tối [Lokanta] 2. Cảnh Giới Ngạ Quỷ [Pittivisaya] 3. Cảnh Giới A Tu La [Asuurakaaya] 4. Cảnh Giới Súc Sinh [Tiracchaana] 3.6.3 Sáu Cõi Trời 3.7 Sắc giới 3.8 Vô Sắc giới
Khái quát về chương này:
1. Theo Đức Phật, có một số lượng khôn lường thế
giới có thể được chia thành ba nhóm, nhỏ (gồm
1.000 thế giới), trung (gồm 1.000.000 thế giới), lớn
(gồm một tỷ thế giới). Cấu trúc của mỗi thế giới
đều giống hệt nhau bao gồm một mặt trời, mặt
trăng, núi Tu Di, bốn châu lục theo hướng la bàn,
bốn đại hải, sáu cõi trời, các cõi Trời Sắc Giới, các
cõi Trời Vô Sắc Giới và cảnh giới bất hạnh. Thẳng
đứng trên núi Tu Di là sáu cõi trời được xếp từ
dưới lên bắt đầu từ Trời Tứ Thiên Vương, Trời
81
Tam ThậpTam, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất Đà,
Trời Hóa Lạc và Trời Tha Hóa Tự Tại, trên nữa là
các cảnh Trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới.
2. Các hữu (cõi) [bhava] có nghĩa là thế giới của
chúng sinh. Tam Giới bao gồm Dục Giới, Sắc Giới
và Vô Sắc Giới. Cảnh giới [bhuumi] có nghĩa là
đất, mặt đất với tổng cộng ba mươi mốt cấp độ
khác nhau trong một thế giới.
• Từ ‘bhuumi’ (địa) cũng có nghĩa là ‘cảnh giới’
hoặc ‘tâm cảnh’ - chia thành bốn cấp, cụ thể là:
dục-giới [kaamavacara-bhuumi], sắc-giới
[ruupavacara-bhuumi], vô-sắc-giới
[aruupavacara bhuumi] và siêu-việt-giới.
• Có mười một cảnh-giới trong Dục-giới bao gồm
nhân-giới, bốn cảnh-giới địa ngục và sáu cảnh-giới
trời như sau:
■ Nhân-giới [manussa loka] được chia sẻ với
những cảnh-giới của tất cả ba giới trong cùng một
thế giới.
■ Những cảnh-giới vô-phương [apayabhuumi] bao
gồm các cảnh-giới địa ngục, cảnh-giới ngạ-quỷ,
cảnh-giới a-tu-la và cảnh-giới súc sinh.
o các cảnh-giới địa ngục [niraya bhuumi] được
chia thành ba vùng chính; Địa-ngục Chính, Địa-
ngục Phụ [ussada] và Luyện Ngục.
82
o cảnh-giới quỷ được chia thành ba loại, quỷ trên
trời, quỷ đói và quỷ địa ngục.
o cảnh-giới súc sinh [tiraacchanayoni bao gồm các
sinh vật như chó, mèo, chuột, gà, vịt, rắn và cá.
■ Các cảnh-giới trời có sáu cấp độ khác nhau.
Sắc-giới hoặc cảnh-giới Phạm-thiên là nơi cư ngụ
của các vị Phạm Thiên và bao gồm mười sáu tầng
trời. Vô-sắc-giới hay cảnh-giới Trời Vô Sắc được
chia thành bốn tầng.
Mục đích chương này
Bài này cung cấp cho sinh viên kiến thức và sự
hiểu biết để có thể:
1. Giải thích cấu trúc vật lý và các thành phần của
vũ trụ.
2. Giải thích các tầng và các cảnh-giới sinh sống
của các loại chúng sinh khác nhau trong thế giới.
Trong chương trước, chúng ta đã học được rằng tất
cả mọi thứ trên thế giới và vũ trụ vào mức độ vi
được cấu tạo từ các đại. Vật chất vô tri vô giác
trong thế giới này gồm bốn đại, trong khi đối với
chúng sinh, một đại thức bổ sung [viññaa.na-
dhaatu] cho phép họ suy nghĩ và cảm nhận.
83
Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận về cấu
trúc vĩ mô của vũ trụ như đã tồn tại suốt một thời
kỳ vô số thời gian cho đến ngày nay.
Đầu tiên chúng ta sẽ so sánh và đối chiếu quan
điểm về vũ trụ của khoa học hiện đại với quan
điểm của Phật giáo. Tuy nhiên, dù cho khoa học có
tiến bộ đến thế nào, những khám phá của nó sẽ
luôn luôn nằm trong phạm vi của các mô tả Phật
giáo về bản chất, đặc biệt bản chất của thế giới là
vô thường. Những vật trên thế giới sinh, trụ, dị và
cuối cùng diệt. Vì thế chúng ta nên tích lũy đầy đủ
việc thiện hầu thoát khỏi chu kỳ sinh tử để đạt giải
thoát tối hậu cho chúng ta.
3.1 Vũ trụ học khoa học
Khám phá khoa học giải thích nguồn gốc của trái
đất khác với nhiều tôn giáo là thế giới này được
tạo ra bởi một thần sáng tạo. Tuy nhiên, các nhà
khoa học chỉ ra rằng thế giới không phải là trung
tâm của vũ trụ. Thay vào đó, nó chỉ là một hành
tinh xoay quanh mặt trời. Ngay cả mặt trời vốn là
trung tâm của thái dương hệ vẫn là một trong hàng
trăm ngôi sao thuộc giải Ngân hà. Có khoảng một
trăm ngàn triệu thiên hà trong vũ trụ của chúng ta.
Các nhà thiên văn học chia những ngôi sao có thể
thấy được thành các chòm sao. Họ kết luận rằng vũ
84
trụ có hình dạng xoắn ốc bao gồm nhiều ngôi sao
với một trung tâm sáng chiếu sáng những khoảng
dài rộng lớn của không gian. Thế giới của chúng ta
chỉ là một phần nhỏ của nó.
3.1.1 Vũ trụ vô tận
Trước khi đi vào trong cấu trúc của vũ trụ trong
Vũ trụ học Phật giáo, chúng ta cần phải hiểu rằng
thế giới này, mặc dù dường như là vô hạn và bao
gồm vô số những vật, thật ra chỉ là một điểm nhỏ
trong vũ trụ bao la này. Nếu chúng ta kết hợp tất cả
các vũ trụ với nhau, chúng ta sẽ thấy rằng thậm chí
các vũ trụ cũng khác nhau về kích thước lớn hay
nhỏ, tùy thuộc vào có bao nhiêu vũ trụ tồn tại trong
đó.
Đức Phật đã phát hiện ra sự tồn tại của chẳng phải
một, mà là vô số vũ trụ hơn 2.500 năm trước đây.
Trong các kinh Phật, từ được sử dụng để chỉ vũ trụ
là ‘lokadhaatu’. Phát hiện 2.500 năm trước đây của
Đức Phật phù hợp với những khám phá khoa học
chỉ mới được thực hiện trong vài thập kỷ qua. Do
đó, thật tuyệt vời làm sao mà Đức Phật có thể
khám phá ra sự kiện đó chính xác 2.500 năm trước
khi kiến thức khoa học chưa phát hiện được. Sự
85
nhận xét của Đức Phật về vũ trụ được ghi lại như
sau18
:
“Một thời, Trưởng lão A-nan hỏi Đức Phật về tỳ-
kheo Abhibhuu , một đệ tử của Đức Phật Thi Khí,
người có giọng nói có thể nghe được trên khắp
1.000 thế giới, như thể tiếng nói của Phạm Thiên.
A-nan hỏi tiếng nói của Đức Phật có thể nghe được
bao xa. Đức Phật đáp muốn nghe bao xa cũng
được. Đoạn, Đức Phật giảng về các kích thước
khác nhau của vũ trụ: một tiểu thiên thế giới bao
gồm 1.000 thế giới [sahassiicuu.lanika-
lokadhaata], một trung thiên thế giới bao gồm 1
triệu thế giới [dvisahassiimajjhimikaa-lokadhaata],
và một đại thiên thế giới bao gồm một tỷ thế giới
[tisahassiimahassii-lokadhaata]. Tiếng nói của Đức
Phật có thể nghe được trên toàn bộ của một đại
thiên thế giới.”
Từ bài kinh này, chúng ta đã học được mức độ hầu
như vô hạn của vũ trụ. Đức Phật cũng đã phân loại
chi tiết vũ trụ, theo cách không thể được thực hiện
bằng dụng cụ khoa học hay nhận thức của con
người thông thường. Chỉ có những người có tâm
trí đã được tu tập cùng một mức độ như Đức Phật
18
Cu.lanii Sutta A.i.226
86
mới có thể nhìn thấy rõ ràng sự bao la của không
gian. Như vậy, Đức Phật chia vũ trụ thành ba loại:
1. Tiểu thiên thế giới: bao gồm một nghìn thế giới.
2. Trung thiên thế giới: bao gồm một triệu thế giới.
3. Đại thiên thế giới: bao gồm một tỷ thế giới.
Chúng ta cũng hiểu rằng con người và các dạng
sống khác không chỉ cư trú trong thế giới hoặc vũ
trụ của chúng ta mà còn trong các vũ trụ khác.
3.2 Vũ trụ học Phật giáo
Đã nhận thức được sự bao la của vũ trụ, chúng ta
sẽ khởi sự nghiên cứu cấu trúc của vũ trụ theo Phật
giáo. Việc bố trí vật lý và các thành phần của các
vũ trụ đều giống nhau. Theo kinh điển19
:
“A-nan! Tất cả hệ thống thế giới là bao la như
chiều dài của một tia sáng trăng hoặc tia nắng Mỗi
thế giới gồm một nghìn mặt trăng, một nghìn mặt
trời, núi Tu Di, một Nam Thiệm Bộ Châu
[Jambuudiipa], một Tây Ngưu Hóa Châu
[Aparagoyaanadiipa], một Bắc Câu Lư Châu
[Uttarakurudiipa], một Đông Thắng Thần Châu
[Pubbevidehadiipa], một nghìn đại hải, sáu cảnh
trời và một nghìn cõi Phạm thiên.”
19
ibid.
87
Rõ ràng vũ trụ thật bao la, mặc dù nó là khôn
lường. Nó trải dài xa như một tia sáng trăng hay
những tia nắng. Nếu chúng ta có thể đo được chiều
dài một tia sáng từ mặt trời hay mặt trăng xa đến
đâu, điều khó thể thực hiện, chúng ta sẽ có thể biết
được kích thước của vũ trụ.
Hơn nữa, mỗi thế giới đều các thành phần giống
hệt nhau về thể chất bao gồm một mặt trời, một
mặt trăng, núi Tu Di, bốn châu lục: Nam Thiệm Bộ
Châu [Jambuudiipa], Tây Ngưu Hóa Châu
[Aparagoyaanadiipa], Bắc Câu Lư Châu
[Uttarakurudiipa], Đông Thắng Thần Châu
[Pubbevidehadiipa, bốn đại hải, sáu cảnh trời và
thế giới Phạm Thiên. Mặc dù kinh Cuulanii không
đề cập đến những cảnh trời vô sắc, và những cõi
địa ngục, chúng được bao gồm trong vũ trụ theo
kinh điển Phật giáo.
3.3 Cấu trúc của vũ trụ
Vì các vũ trụ có cấu trúc giống hệt nhau nên phần
ngắn dưới đây sẽ là một xem xét các thành phần
chung khiến người đọc nhận ra các thành phần và
mối quan hệ của chúng.
3.3.1 Xung quanh núi Tu Di
88
Tại trung tâm mỗi thế giới là núi Tu Di. Núi Tu Di
được bao quanh bởi bảy dãy núi, giống như các
lớp đồng tâm bọc xung quanh núi Tu Di. Mỗi dãy
được phân cách bằng nước. Ngoài ra còn có một
đại hải bao bọc ngoài dãy núi cuối cùng. Trong đại
hải này là bốn châu thiên hạ có trụ sở tại bốn điểm
la bàn xung quanh núi Tu Di. Mặt trời và mặt trăng
xoay quanh núi Tu Di ở giữa chừng độ cao giữa
các mực nước biển và đỉnh núi Tu Di.
1. Bốn châu thiên hạ
Bốn châu thiên hạ20
trong cảnh giới con người
được đặt như sau:
1.1 Đông Thắng Thần Châu [Pubbevidehadiipa] nằm ở phía đông của núi Tu Di và được thắp sáng
bởi ánh sáng màu xám.
1.2 Tây Ngưu Hóa Châu [Aparagoyaanadiipa] nằm về phía tây, đất phủ bằng thủy tinh và được
thắp sáng bởi ánh sáng trắng.
1.3 Bắc Câu Lư Châu [Uttarakurudiipa] nằm ở
phía bắc, đất phủ vàng và được thắp sáng bởi ánh
sáng vàng.
20
SnA.ii.443, A.i.227, A.v.59
89
1.4 Nam Thiệm Bộ Châu [Jambuudiipa] nằm về
phía nam, đất bao phủ với ngọc lục bảo và do đó
được chiếu sáng bởi ánh sáng màu xanh lá cây.
3.3.2 Trên núi Tu Di
Sau khi học về cách bố trí vật lý của núi Tu Di,
chúng ta sẽ đi vào cấu trúc thẳng đứng của núi Tu
Di ở trên đó là các cảnh giới của sự sống:
1. Trời Tứ Thiên Vương
[Caatummahaaraajika]
Đây là cảnh trời đầu tiên và có vị trí lưng chừng
núi. Đây là chỗ ở của nhiều loại thần kể cả các
thần đất, thần cây và thần không hành. Một số vị
trời cư trú trên Nam Thiệm Bộ Châu trong số
những con người. Những vị sống trên các hành
tinh khác được gọi là các thần không hành.
2. Trời Tam Thập Tam [Taavat.imsa]
Đây là cảnh trời thứ hai và ở trên đỉnh núi Tu Di,
khoảng giữa chừng Cảnh Sắc Giới.
3. Trời Dạ Ma [Yaamaa]
Đây là cảnh trời thứ ba nằm giữa không trung phía
trên Trời Tam Thập Tam.
4. Trời Đâu Suất Đà [Tusita]
Đây là cảnh trời thứ tư ở phía trên Trời Dạ Ma và
lớn hơn nó.
90
5. Trời Hóa Lạc [Nimmaanaratii]
Đây là cảnh trời thứ năm nằm ở trên Trời Đâu Suất
Đà và lại còn lớn hơn.
6. Trời Tha Hóa Tự Tại
[Paranimmitavasavattii]
Đây là cảnh trời thứ sáu ở trên Trời Hóa Lạc và
cũng lớn hơn nó.
Các cảnh Trời Sắc và Vô Sắc nằm ở trên Trời Tha
Hóa Tự Tại và càng lớn hơn nhiều khi càng ở cao
hơn.
3.3.3 Bên dưới núi Tu Di
Các cảnh giới vô phúc nằm bên dưới núi Tu Di.
Núi Tu Di nằm trên đỉnh của ba ngọn núi nhỏ hơn.
Giữa các dãy núi nhỏ này, có các thung lũng là
lĩnh vực của A-tu-la [asuura] tức thần say rượu bị
trục xuất khỏi cõi trời. Giữa những ngọn núi bên
dưới cảnh giới của A-tu-la là cảnh giới của những
ngạ quỷ [peta] và a-tu-la [asuurakaaya].
Bên dưới cảnh giới của a-tu-la là các cõi địa ngục,
với tầng địa ngục đầu tiên ở trên cùng và tầng địa
ngục thứ tám (lớn nhất) ở dưới chót. Ngoài ra còn
có nhiều địa ngục nhỏ hơn [ussada] và Luyện ngục
91
[yamaloka] bao bọc chung quanh mỗi tầng địa
ngục chính.
3.4 Thế giới của chúng sinh
Khi chúng ta nhìn thấy vũ trụ bao la, chúng ta
không thể không tự hỏi liệu có sự sống nào ở đó.
Tuy nhiên, thật ra đó là bởi vì hầu hết các cảnh
giới của chúng sinh không thể nhìn thấy được bằng
mắt thường, ngoại trừ các cảnh giới con người và
súc sinh. Vì vậy, chúng ta chỉ thấy một không gian
vô biên nhưng không thấy tất cả các cõi trời hoặc
vô số cư dân của họ.
3.4.1 Phân biệt giữa các Cảnh Giới và các Hữu
Có hai thuật ngữ thường bị nhầm lẫn: Cảnh Giới
[bhava] và Hữu (cõi) [bhumi]. Vì vậy chúng ta cần
phải làm rõ sự khác biệt trước khi đi xa hơn:
Cảnh Giới [bhava] có nghĩa là thế giới của chúng
sinh hoặc điều kiện sống của chúng sinh:
1. Dục Giới là chỗ ở của những người tham đắm
dục lạc.
2. Sắc Giới là chỗ ở của các vị Trời Sắc Giới
[ruupa-brahma].
92
3. Vô Sắc Giới là chỗ ở của các vị Trời Vô Sắc
[aruupa-brahma].
Hữu (hay Cõi) [bhumi] có nghĩa là mặt đất, đất
đai, hoặc vùng được chia nhỏ thành ba mươi mốt
cõi sống (sẽ được thảo luận sau này)
‘Cảnh Giới’ và ‘Cõi’ giống nhau về ý nghĩa. Số
phân loại lại không giống nhau. Cõi có thể được
chia nhỏ hơn so với Cảnh Giới. Tuy nhiên, chỉ có
cảnh giới mới có thể được chia nhỏ thành ba (dục
giới, sắc giới và vô sắc giới) được gọi chung là
‘tam giới’ [ti-bhava]. Nói chung, chúng ta thường
sử dụng hai từ này lẫn lộn nhau.
Sau đây là một xem xét ngắn của mỗi cảnh giới để
chúng ta hiểu về cuộc sống trong ba cảnh giới.
Chúng ta có thể xem xét chi tiết hơn từng cảnh giới
máy bay trong bài học về Nghiên Cứu Đời Sau.
3.5 Các Thành Phần của mỗi Giới
Mỗi thế giới có cùng một cấu trúc và cách bố trí
cũng như bao gồm ba mươi mốt cõi sống sắp xếp
thành ba tầng - Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc
Giới.
93
3.5.1 Định Nghĩa Cảnh Giới
Dục Giới là cảnh giới của những chúng sinh tâm
trí vẫn còn dính mắc với tham dục. Có mười một
cõi trong Dục Giới: một cõi người, bốn cõi địa
ngục và sáu cõi trời.
Sắc Giới hoặc Trời Sắc Giới gồm những cõi chúng
sinh có tâm trí đã đạt được các tầng Thiền
[jhaana]. Trời Sắc Giới nằm trên sáu cõi trời và
tinh tế hơn các cõi trời.
Vô Sắc Giới hoặc Trời Vô Sắc Giới gồm các cõi
của những người đã đạt được các tầng Định Vô
Sắc. Nó nằm ở trên Sắc Giới và cũng tinh tế hơn.
Mỗi cảnh giới bây giờ được xét thêm chi tiết.
3.6 Dục Giới
Dục Giới gồm các cõi của chúng sinh mà tâm trí
vẫn còn dính mắc với tham dục. Nó bao gồm mười
một cõi: một cõi người, bốn cõi địa ngục và sáu cõi
trời. Chúng ta sẽ bắt đầu với cõi người vì đây là
nơi duy nhất mà thiện nghiệp và ác nghiệp có thể
được thực hiện đầy đủ, dẫn đến sự tái sinh trong
các cõi tốt hoặc không tốt.
94
3.6.1 Nhân Giới
Cõi người [manussaloka] được ưu đãi với những
chúng sinh có một mức độ tâm thức cao. Từ
nguyên của từ Pali cho con người, “manussa” có
nguồn gốc từ ‘mana’ tâm trí, và “ussa” hoặc “-
udama”, có nghĩa là ‘cao’. Là ‘con người’ do đó
có nghĩa là đạo đức, nhân từ và can đảm. Cõi
người là nơi trú ngụ của con người đang cư trú
trong châu lục của chúng ta cũng như ba châu lục
khác cùng một trong vũ trụ với chúng ta.
Các châu lục có cõi người được đặt tại các điểm la
bàn từ cơ sở núi Tu Di (trung tâm của vũ trụ), cụ
thể là các châu Đông, Tây, Nam và Bắc đã đề cập
ở trên.
Các loại cây, lá, nước biển và bầu trời trong mỗi
châu lấy màu sắc từ những phản chiếu của các loại
châu ngọc nằm trên mỗi phía vách núi Tu Di. Mỗi
châu lục có 500 phụ-châu kết hợp. Dân chúng trên
mỗi phụ-châu có hình dạng và lối sống khác với
những cư dân ở châu chính.
Con người của bốn châu lục nhìn về thể chất tương
tự, chỉ khác nhau về trình độ tu chứng. Tỷ như, con
người sống trên Nam Thiệm Bộ Châu có khuôn
mặt hình bầu dục. Những người trên Tây Ngưu
Hóa Châu có khuôn mặt tròn như trăng rằm.
95
Những người trên Đông Thắng Thần Châu có
khuôn mặt như một lát chanh. Những người trên
Bắc Câu Lư Châu có khuôn mặt hình vuông. Các
hình dạng của khuôn mặt con người trên mỗi châu
lục phản ánh hình dạng của chính châu lục đó.
Những người ở Nam Thiệm Bộ Châu có hình dáng
hấp dẫn hay xấu xa tùy theo nghiệp họ mang lại từ
những đời trước. Trong ba châu lục kia, tất cả cư
dân trông giống hệt nhau bởi vì họ có cùng một
mức độ đức hạnh như nhau.
Sau đây là ba đặc tính mà mọi người trong Nam
Thiệm Bộ Châu được ưu đãi tốt hơn với những
người trên các châu lục khác và thậm chí cả những
chúng sinh ở tầng trời thứ hai.
1. Họ quyết tâm làm những việc lành
[suurabhaava] chẳng hạn như bố thí, trì giới và
thiền định
2. Họ tin vào Tam Bảo [satimanta]
3. Họ có thể xuất gia và sống đời thánh thiện
[brahmacariyavaasa]
Bốn đặc điểm đặc biệt chỉ có ở những người của
Nam Thiệm Bộ Châu như sau:
1. Là Dũng Cảm: sẵn sàng làm những việc thiện
hay ác. Những người quyết hành thiện có thể đạt
được Phật quả hay các mức độ khác nhau của
thánh giả Phật giáo. Về phía tà ác, họ có thể đi đến
96
mức giết chết cha mẹ hoặc A La Hán, hoặc làm
thương tổn một vị Phật. Người dân ở ba châu lục
khác sẽ không thể làm đến thế.
2. Biết Tư Duy: trong cả hai chiều hợp lý và
không hợp lý. Họ có khả năng hiểu rõ nguyên nhân
của các vấn đề cụ thể và trừu tượng.
3. Có Khả Năng Hiểu Rõ Sự Lợi Ích và Tổn Hại
của Mọi Việc: cả lợi ích thế gian và siêu thế gian.
Các lợi ích thế gian bao gồm lợi lạc, khen ngợi,
vinh quang, hạnh phúc, của cải con người và trên
trời. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết khác nhau tùy
theo đức tin, sự tinh tấn, trí tuệ, sự hoàn hảo và
những người mà họ gần gũi.
4. Hiểu Biết Thiện và Ác: dù đó là việc thiện thế
gian hay xuất thế. Về mặt thiện, đó là bố thí, trì
giới và thiền định. Về mặt bất thiện, nó bao gồm
tham lam, sân hận và si mê.
Những người ở Bắc Câu Lư Châu có ba đặc điểm
tinh tế hơn những người ở Nam Thiệm Bộ Châu và
những người ở tầng trời thứ hai bởi vì:
1. Họ không coi sự giàu có và tài sản của họ như là
của riêng của họ.
2. Họ không coi con cái, vợ, hoặc chồng của họ
như là của riêng của họ.
3. Họ sống đến 1000 năm.
97
Không có gì đặc biệt về các châu lục Đông và Tây.
Mọi người ở đó có lối sống tương tự như những
người trên Nam Thiệm Bộ Châu. Tuy nhiên,
những trạng thái tâm không có tiềm năng để đạt
được cực đoan của những người trên Nam Thiệm
Bộ Châu. Đức Phật, Bồ Tát và các vị A La Hán chỉ
được sinh ra để theo đuổi thánh đạo trên Nam
Thiệm Bộ Châu.
Chúng ta được sinh ra là con người bởi vì chúng ta
có những đức tính cơ bản làm cho chúng ta con
người - cụ thể là, Năm Giới. Những người không
thể giữ Năm Giới sẽ không có khả năng lấy lại tình
trạng con người.
3.6.2 Bốn Cảnh Giới Bất Hạnh
Các cảnh giới bất hạnh [apaya] của đời sống là các
nơi mà chúng sinh phải chịu đau đớn và khốn khổ.
Các chúng sinh ở đó không tạo nên công đức nào.
Nó là cảnh giới thấp nhất của đời sống và bao gồm
các nhóm có bốn cấp độ: các cõi địa ngục, các cõi
súc sinh, các cõi ngạ quỷ và cảnh giới của a-tu-la.
1. Các Cõi Địa Ngục [niraya]: Đây là một cảnh
giới rất đau khổ. Dân cư thật vô phúc. Các cõi địa
98
ngục rộng lớn và được chia thành nhiều tầng lớn
hơn và nhỏ. Chúng sinh ở mỗi tầng nhận những sự
trừng phạt khác nhau tùy theo những hành động tội
lỗi mà họ đã thực hiện. Các cõi địa ngục được chia
thành ba khu vực lớn, các địa ngục chính, các địa
ngục phụ và các luyện ngục.
1.1 Những Địa Ngục chính
Địa ngục chính, gồm tám tầng, là vùng lớn nhất
trong các cõi địa ngục. Bên trong có những ngục
tốt có bổn phận trừng phạt những người tái sinh
trong địa ngục. Những ngục tốt này tự nhiên phát
sinh như là kết quả của các hành động tội lỗi được
nạn nhân của họ thực hiện. Tám tầng địa ngục
chính là như sau:
1.1.1 Đẳng-Hoạt Địa Ngục [Sanjiiva niraya] được
biết đến như là địa ngục ‘bất tử’. Nghĩa là chúng
sinh bị trừng phạt tàn nhẫn theo hành động tà ác
của họ đã làm trong quá khứ. Họ bị trừng phạt
bằng nhiều cách như bị chặt thành miếng hoặc bị
đốt đến chết. Khi họ chết, một cái gọi là “gió
nghiệp” sẽ thổi và họ sẽ được tái sinh trong đau
khổ giống hệt như trước. Chu kỳ cứ thế được lặp đi
lặp lại cho đến khi nghiệp báo đã được trả hết.
99
Nghiệp sát là nghiệp chính khiến chúng sinh phải
sinh vào địa ngục lớn này.
1.1.2 Hắc-Thằng Địa Ngục [Kaa.lasutta niraya]
được gọi là ‘địa ngục của các dạy thừng màu đen’,
bởi vì ở tầng này, các ngục tốt trừng phạt nạn nhân
bằng cách nướng họ trên các tấm thép nóng đỏ và
thích họ bằng những dạy thép đen to như cây dừa
trước khi chặt nạn nhân thành từng mảnh theo dấu
thích. Nghiệp đạo là nghiệp chính khiến chúng
sinh được một chỗ trong địa ngục lớn này.
1.1.3 Chúng-Hợp Địa Ngục [Sangha.ta niraya]
được gọi là ‘địa ngục mà cơ thể bị nghiền nát’. Họ
bị nướng rất đau đớn trong lửa địa ngục trước khi
bị nghiền nát đến chết giữa hai ngọn núi thép lớn.
Nghiệp dâm là nghiệp chính khiến cho chúng sinh
được một chỗ trong địa ngục lớn này.
1.1.4 Hào-Khiếu Địa Ngục [Roruva niraya] được
gọi là ‘địa ngục đầy tiếng khóc đau đớn’. Chúng
sinh bị đặt nằm xấp trong một hoa sen thép. Ngay
sau khi họ để mặt ở một đầu cánh hoa và các ngón
chân và cổ tay của họ ở một đầu cánh hoa khác,
một ngọn lửa cháy lên và thiêu đốt hoa sen với các
nạn nhân bên trong. Nghiệp vọng là nghiệp chính
100
khiến cho chúng sinh được một chỗ trong địa ngục
lớn này.
1.1.5 Đại-Khiếu Địa Ngục [Mahaaroruva niraya]
được gọi là ‘địa ngục đầy những tiếng kêu đau
đớn’. Chúng sinh bị để đứng trong một hoa sen
thép có những cánh hoa sắc bén, màu đen nóng.
Họ bị đốt cháy từ đầu đến chân, từ trong ra ngoài
qua chín lỗ cơ thể của họ. Lửa nóng đến độ tầng
địa ngục này đôi khi được gọi là ‘địa ngục đầy
tiếng kêu đau đớn từ lửa gây ra’ [jaalaroruva].
Nghiệp tửu là nghiệp chính khiến cho chúng sinh
được một chỗ trong địa ngục lớn này.
1.1.6 Viêm-Nhiệt Địa Ngục [Taapana niraya]
được gọi là ‘địa ngục nóng không thể tả’. Các nạn
nhân bị buộc phải trèo lên mũi của một ngọn giáo
to như một cây dừa chìm trong lửa. Họ nhận thấy
mình bị mũi giáo đâm và đốt cháy như một con gà
nướng trước khi bị một con chó to lớn xé xác và ăn
thịt. Nghiện cờ bạc là nghiệp chính khiến cho
chúng sinh được một chỗ trong địa ngục lớn này.
1.1.7 Đại-Nhiệt Địa Ngục [Mahaataapana niraya]
được gọi là ‘địa ngục nóng không thể chịu được’.
Chúng sinh bị gươm với giáo đâm và chìm trong
ngọn lửa khi họ bị đuổi chạy lên một ngọn núi lửa
trước khi bị mưa axit tưới xuống họ, trong khi từ
dưới, họ bị những gai thép khổng lồ xuyên thủng.
101
Một cuộc sống trụy lạc [apayamukha] là nghiệp
chính khiến cho chúng sinh được một nơi trong địa
ngục lớn này.
1.1.8 Vô-Gián Địa Ngục [Aveci niraya] được gọi
là ‘địa ngục không ngưng nghỉ’ (dịch nghĩa: sóng).
Trong một số địa ngục, có khi đau khổ nhiều hơn
và có khi lại ít hơn - nhưng trong địa ngục này, sự
dày vò liên tục mà không để cho ngưng. Đó là địa
ngục lớn nhất đầy đủ những nỗi kinh hoàng và
khủng khiếp nhất. Nó được bao quanh bằng các
cửa thép nóng bỏng. Có nhiều chúng sinh ở đây
hơn ở các địa ngục khác. Họ bị trừng phạt trong tư
thế tương tự mà họ đã hành động tà ác. Giết cha
mẹ, giết thánh giả, làm tổn hại Phật hoặc phá hòa
hợp tăng là nghiệp chính khiến cho chúng sinh
được một chỗ trong địa ngục lớn này.
1.2 Những Địa Ngục Phụ [Ussada]
Một địa ngục phụ là một nhóm các cõi bị chiếm
đóng bởi những người đã cạn kiệt sự trừng phạt
của họ trong địa ngục chính. Xung quanh mỗi tầng
của địa ngục chính có mười sáu địa ngục phụ (bốn
trong mỗi hướng la bàn). Vì vậy, có tổng cộng 128
địa ngục phụ. Địa ngục phụ được đặt theo hướng
tương đương của mỗi địa ngục chính và được gọi
102
bằng tên giống như địa ngục chính nhưng khác
nhau về mức độ nghiêm trọng:
1.2.1 Nhục-Trùng Địa Ngục [guutha]: Tầng địa
ngục này đầy dãy sâu răng kim lớn như voi, ăn
tươi nuốt sống nạn nhân đến chết, thậm chí không
để lại xương. Sâu nhỏ hơn ăn nuốt các cơ quan từ
bên trong cơ thể của các nạn nhân.
1.2.2 Nhiệt-Khôi Địa Ngục [kukku.la]: Tầng này
đầy ngập than hồng nóng bỏng đốt cháy các nạn
nhân đến chết. Họ sống lại và bị đốt cháy để chết
đi sống lại như thế cho đến khi quả báo của họ bị
cạn kiệt.
1.2.3 Kiếm-Diệp Địa Ngục [asipatta]: Khi các
nạn nhân trong địa ngục vào một vườn xoài, lá
xoài sắc bén như thanh kiếm hoặc mũi giáo rơi vào
họ, xuyên thủng chân tay. Khi họ chạy trốn bức
tường sắt chìm trong ngọn lửa đột nhiên vọt lên
khỏi mặt đất cắt đứt mọi hướng họ cố gắng trốn
thoát và các nạn nhân bị đàn chó và kên kên có
mõm sắt lột thịt cho đến khi họ chết.
1.2.4 Khủng-Giang Địa Ngục [vetara.nii]: Các
nạn nhân bị một lưới sắt làm trầy trụa rồi bị ném
vào nước ăn da ngập trong ngọn lửa đốt cháy họ.
Nếu họ lặn trốn dưới nước, họ bị những cánh và lá
hoa sen bằng kim loại sắc bén đâm cắt. Họ vùng
vẫy như một con cá đang bị đập đầu. Sau đó họ bị
103
ngục tốt kéo lên và đâm bằng giáo và để lại trên
một cây cọc, giống như một con cá trên một cái
móc. Rồi họ bị đặt trên một tấm thép nóng và buộc
phải uống nước sôi và thép nóng chảy cho đến khi
họ bị đốt cháy từ bên trong và chết.
1.3 Luyện Ngục [Yamaloka]
Những người chưa trả báo hết hoàn toàn sẽ đến
tầng địa ngục này sau khi trải qua các địa ngục
phụ. Mỗi địa ngục chính có mười cõi Luyện Ngục
xung quanh ở mỗi bốn điểm la bàn. Có tổng cộng
320 đơn vị Luyện Ngục nếu tính tất cả tám địa
ngục chính. Không có sự khác biệt thực sự giữa
các Luyện Ngục trong các hướng khác nhau hoặc
thuộc các tầng khác nhau của địa ngục chính,
ngoại trừ mức độ nghiêm trọng. Bên trong luyện
ngục, một quan tòa với các bồi thẩm của mình
quyết định chúng sinh phải bị đến cảnh giới nào.
Các quan tòa và bồi thẩm đoàn là những thần trời,
không phải là các ngục tốt tự nhiên phát sinh bằng
lực các nghiệp xấu của mỗi nạn nhân. Mười Luyện
Ngục như sau:
1.3.1 Luyện Ngục Lohakumbhii: Chúng sinh bị
ném vào một cái vạc cao như một ngọn núi tràn
đầy kim loại nóng chảy tới miệng. Đôi khi các nạn
nhân bị các ngục tốt thắt cổ bằng một sợi dây thép.
104
Nghiệp sát là nghiệp chính khiến cho chúng sinh
được một nơi trong luyện ngục này.
1.3.2 Luyện Ngục Simbalii: Các nạn nhân nam nữ
buộc phải lần lượt leo lên một cây thủy tùng có gai
sắc bén đang cháy để gặp nhau. Các gai xé nát ra
từng mảnh khi họ leo lên leo xuống. Có khi họ bị
loại quạ mỏ thép tấn công lúc họ leo lên. Ngoại
tình là nghiệp chính khiến cho chúng sinh được
một nơi trong luyện ngục này.
1.3.3 Luyện Ngục Asinakha: Chúng sinh tự móc
thịt của mình với móng tay móng chân nhọn sắc,
tự ăn thịt mình. Ăn cắp là nghiệp chính khiến cho
chúng sinh được một nơi trong luyện ngục này.
1.3.4 Luyện Ngục Taambodaka: Chúng sinh bị
buộc phải nằm ngửa trên một tấm thép nóng đỏ.
Các ngục tốt đem lại đồng đỏ nóng nung chảy và
đổ xuống cổ họng nạn nhân cho đến chết. Say sưa
uống rượu là nghiệp chính khiến cho chúng sinh
được một nơi trong luyện ngục này.
1.3.5 Luyện Ngục Ayogul.a: Chúng sinh bị đói
đến nỗi họ ăn các cục thép nóng đỏ đốt cháy họ
đến chết từ bên trong. Tham ô là nghiệp chính
khiến cho chúng sinh được một nơi trong luyện
ngục này.
1.3.6 Luyện Ngục Pissakapabbata: Chúng sinh
bị ép nát đến chết bởi bốn ngọn núi bay vào họ từ
105
bốn hướng cùng một lúc. Làm người cai trị bất
công là nghiệp chính khiến cho chúng sinh được
một nơi trong luyện ngục này.
1.3.7 Luyện Ngục Dhusa: Chúng sinh đang khát
gặp một vũng nước mát mà họ uống. Vì quả báo
trừng phạt, nước biến thành trấu khô bên trong và
bắt lửa đốt cho đến chết. Làm một thương buôn vô
đạo đức là nghiệp chính khiến cho chúng sinh
được một nơi trong luyện ngục này.
1.3.8 Luyện Ngục Siitalosita: Chúng sinh bị
quăng vào nước băng giá nơi họ đóng băng đến
chết. Ngay sau khi họ chết, họ tự sống lại để lại bị
ném vào trong nước băng lần nữa. Dìm chết thú
vật là nghiệp chính khiến cho chúng sinh được một
nơi trong luyện ngục này.
1.3.9 Luyện Ngục Sunakha: Luyện ngục này đầy
năm loại chó màu đen, trắng, vàng, đỏ và chó đốm.
Chúng sinh bị các con chó này đuổi và xé thịt đến
chết. Nói lời gay gắt với cha mẹ, thân nhân lớn
tuổi hoặc những người trì giới nghiêm minh là
nghiệp chính khiến cho chúng sinh được một nơi
trong luyện ngục này.
1.3.10 Luyện Ngục Yantapaasaa.na: Chúng sinh
bị ép nát đến chết bởi hai ngọn núi bay đến từ các
hướng đối diện cùng một lúc. Ngược đãi vợ hoặc
106
chồng là nghiệp chính khiến cho chúng sinh được
một nơi trong luyện ngục này.
1.4 Ngục Tối [Lokanta]
Đây là tầng địa ngục đặc biệt, nơi có bóng tối vĩnh
cửu. Những chúng sinh bị kết án ở đây có thân
hình rất lớn. Chúng bám vào mép của vũ trụ bắng
móng tay của chúng. Nếu chúng gặp nạn nhân
đồng nghiệp trong địa ngục, chúng cho rằng họ là
thực phẩm của nhau và tấn công nhau không
thương tiếc. Đôi khi chúng rơi vào một biển băng
axit ăn mòn cơ thể của chúng. Sau khi ra khỏi biển
băng axit, chúng lại bám vào mép của vũ trụ.
Chúng chịu đựng sự đau khổ này ở đây trong một
khoảng thời gian vô tận. Chỉ khi nào có Đức Phật
đạt giác ngộ, mới có một tia sáng lóe lên trong
bóng tối. Có Tà Kiến cực đoan – Tà Kiến xấu đến
nỗi họ thậm chí có thể làm tổn thương các tu sĩ - là
nghiệp chính khiến cho chúng sinh được một chỗ
trong tầng địa ngục này.
So sánh Tuổi chúng sinh dưới Địa Ngục và Con
Người
107
2. Cảnh Giới Ngạ Quỷ
Cảnh giới các quỷ đói [pittivisaya] là nơi sinh sống
của các chúng sinh lang thang trong rừng, đồi núi,
biển, hải đảo. Sau khi chúng đã được thoát khỏi địa
ngục, chúng được sinh ra như quỷ đói [peta] chịu
đói và tìm kiếm thực phẩm và quần áo vô ích. Vì
sự bất thiện trong cuộc đời quá khứ, chúng phải tái
sinh vào cảnh giới này.
Có mười hai loại quỷ đói như sau:
Đại Địa Ngục Tuổi thọ (bằng Năm Địa Ngục)
1 Ngày ở Ngục (bằng Triệu Năm Trái Đất) Years)
Tuổi thọ (bằng Triệu Năm Trái
Đất)
1. Sañjiiva 500 9 1,620,000
2. Kaa.lasutta 1,000 36 12,960,000
3. Sa”ngha.ta 2,000 144 103,680,000
4. Roruva 4,000 576 831,040,000
5. Mahaaroruva
8,000 1,304 6,635,520,000
6. Taapana 16,000 9,216 53,084,160,000
7. Mahaataapana Khoảng nửa tiểu kiếp [antarakappa] 8. Aveci Khoảng một tiểu kiếp [antarakappa]
108
1. Quỷ đói ăn nươ c dải, đờm và nôn mửa
[vantaasa-peta]
2. Quỷ đói ăn xác chết con người hoặc động vật
[ku.napaasa-peta]
3. Quỷ đói ăn phân [guuthakhaadaka-peta]
4. Quỷ đói với miệng nóng cháy [aggijaalamukha-
peta]
5. Quỷ đói với miệng nhỏ như lỗ kim [sucimukha-
peta]
6. Quỷ đói luôn bị đói khát [ta.nha.d.dita-peta]
7. Quỷ đói có thân thể giống như thân cây cháy
[sunijjhaamaka-peta]
8. Quỷ đói có móng tay móng chân dài và sắc bén
[sattha "nga-peta]
9. Quỷ đói khổng lồ [pabbata "nga-peta]
10. Quỷ đói có thân hình như trăn cuộn [ajagara
"nga-peta]
11. Quỷ đói có cung điện trên trời chỉ có thể sử
dụng ban ngày [vemaanika-peta]
12. Quỷ đói mạnh mẽ cai trị các quỷ đói trong
những khu rừng ở chân dãy núi Hi-mã-lạp-sơn
[mahiddhika-peta]
Ngoài ra còn có những loại quỷ đói khác. Một loại,
ngạ quỷ “paradattuupajiivi”, có thể nhận và hoan
hỉ với công đức chuyển từ người thân của họ vì họ
thường cư trú xung quanh nhà cũ họ ở.
109
3. Cảnh Giới A-Tu-La [asuurakaaya]
Cảnh giới này là nơi trú ngụ của chúng quỷ bức
bách và chán nản. Một số trong chúng đang đói và
tiều tụy. Mắt và miệng chúng quá nhỏ khiến gây ra
khó khăn trong việc ăn uống và tìm kiếm thức ăn.
Trộm cắp, biển thủ tiền chùa là nghiệp chính cho
sự tái sinh vào cảnh giới này. Có ba loại A-tu-la
như sau:
1. A-tu-la thần [angel-asuurakaaya] sống như
thần trời. Họ cư trú thoải mái trong một đường
hầm lớn bên dưới ba ngọn núi hỗ trợ núi Tu Di.
2. A-tu-la ngạ quỷ [petti-asuurakaaya] chịu cùng
một cảnh như quỷ đói.
3. A-tu-la địa ngục [niraya-asuurakaaya] sống
cuộc sống đau khổ nhất trong địa ngục Lokanta.
Dường như a-tu-la khá tương tự như quỷ đói, tuy
nhiên chúng khác nhau ở điểm những quỷ đói bị
đói nhưng a-tu-la thường bị khát nước vì chúng ít
khi gần chỗ có nước. Một số trong chúng đã không
có gì để uống trong hàng triệu triệu năm.
A-tu-la sống cuộc sống khó khăn hơn những con
quỷ đói. Chúng xấu xí và đáng sợ hơn. Vì vậy,
chúng không muốn được nhìn thấy. Đây là lý do
110
tại sao ‘thiếu can đảm’ [asuura-] được bao gồm
trong từ nguyên của tên chúng.
4. Cảnh Giới Súc Sinh [tiracchaana]
Cảnh giới súc sinh là chỗ ở của tất cả súc vật, kể cả
chó, mèo, chuột, gà, vịt, rắn hay cá. Súc vật không
thể đạt Niết Bàn trong hình dạng này. Chúng chỉ
có thể lên trời là tối đa.
Các loài súc vật không chịu khổ nhiều như ngạ quỷ
hay a-tu-la. Chúng có khuynh hướng vui sướng chỉ
từ ba loại lạc thú, ăn, ngủ và quan hệ tình dục. Từ
nguyên của từ ‘Ti-’ + ‘-racchaano’ xuất phát từ
những chúng sinh này chỉ hưởng thụ có ba thú vui.
Có bốn nhóm súc vật như sau:
1. Súc vật Không Chân [apada-tiracchaano] kể
cả rắn, cá và giun đường ruột
2. Súc vật Hai Chân [dvipada tiracchaano] bao
gồm cả gà, vịt và quạ.
3. Súc vật Bốn Chân [catupada-tiracchaano] bao
gồm chó, mèo, voi, ngựa, bò và trâu.
4. Súc vật Nhiều Chân [apada-tiracchaano] bao
gồm tất cả các loài động vật có bốn chân, cho dù
đó là kiến, mối mọt, con rết.
111
Súc vật chia sẻ cùng một cảnh giới sinh sống với
con người. Chúng thường có thể nhìn thấy bằng
mắt thường, không giống như các ngạ quỷ và a-tu-
la mà trong những hoàn cảnh bình thường không
thể nhìn thấy được. Súc vật lang thang từ nơi này
đến nơi khácvà sống cuộc sống khó khăn hơn so
với con người. Chúng bị kẻ thù tấn công, chịu đói
khát và không có chỗ ở cố định.
Tuy nhiên có một dạng khác của súc vật sống
trong rừng Himavanta (thuộc tầng trời đầu tiên).
Chúng là một lớp súc vật cao cấp và không thể
nhìn thấy bằng mắt thường.
Si mê là nghiệp chính khiến chúng sinh phải sinh
ra thành súc vật. Si mê bao gồm ví dụ như bị ám
ảnh với sự giàu có tài sản hoặc những người
thương yêu. Những người khác đọa vào cảnh giới
súc sinh để sử dụng quả báo còn lại sau khi đã trải
qua các cõi địa ngục, ngạ quỷ hoặc a-tu-la. Sự tái
sinh thành súc vật thường tiếp tục lặp đi lặp lại
nhiều đời. Vì thế, chúng hiếm khi có cơ hội để tích
luỹ công đức.
3.6.3 Sáu Cõi Trời
Các cõi trời là một vùng trời chiếm đóng bởi các
thần trời. Thần trời tự phát sáng vì là một kết quả
112
của những công đức mang lại từ đời trước. Họ tự
phát sinh [opapaa.tika] ở trên trời trong hình thức
người lớn. Họ không sinh ra từ bụng mẹ hay một
quả trứng. Mức độ công đức được tích luỹ trong
đời sống con người xác định mức độ tầng trời
trong đó họ được tái sinh. Có sáu tầng trời: Trời
Tứ Thiên Vương [Caatummahaaraajika], Trời Tam
Thập Tam [Taavat.imsa], Trời Dạ Ma [Yaamaa],
Trời Đâu Suất Đà [Tusita] , Trời Hóa Lạc
[Nimmaanaratii], Trời Tha Hóa Tự Tại
[Paranimmitavasavattii].
1. Trời Tứ Thiên Vương [Caatummahaaraajika]
Đây là tầng trời thấp nhất, được cai trị bởi Bốn
Thiên Vương và được đặt trên núi Tu Di. Nó đặt
dưới sự thống trị của tầng trời thứ hai. Trời này
gần gũi hơn với thế giới con người hơn bất kỳ tầng
trời nào khác. Trời này bao gồm bốn vùng chính
trong đó có đầy đủ những nơi vui thích như ao hoa
sen thơm, vườn hoa, và những vườn trái cây. Bốn
vùng được cai trị bởi bốn vị vua như sau:
1) Trì Quốc Thiên Vương [Dhatara.tha] ngự trị
khu vực phía đông của Catummaharajika. Ngài cai
113
quản ba nhóm thần trời – càn thát bà, trì minh và
tỳ xá già.
i. Càn thát bà [gandhabba] là các thần trời được
sinh ra và sống trong mười phần có mùi thơm của
gỗ, gốc, lõi, gỗ, vỏ cây, nhựa cây, cành cây, lá,
hoa, trái cây và rễ dưới đất. Họ có ba hạng, cao,
giữa và thấp. Thần trời cấp cao chẳng hạn như
Pancasikkha ở trong cung điện trên tầng trời thứ
nhất và có kẻ hầu cận. Thần trời bậc trung hoặc
thần cây được sinh ra trong rừng Himavanta. Họ là
hầu cận của các thần trời cấp cao hơn. Thần trời
cấp thấp ở trong cảnh giới con người. Một số
người trong số họ có gia đình - một số thì không.
Họ là một loại thần cây ở trong các loại cây thơm
ngát như cây gỗ lim Malabar. Thần nhạc trời có
năng khiếu về âm nhạc, kịch, múa, nghệ thuật, văn
học và thơ ca. Nhiệm vụ của họ là để giải trí các
thần trời khác. Để được sinh ra là càn thát bà, họ
đã làm nhiều công đức song vẫn còn tham đắm dục
lạc.
ii. Trì minh [vidhayaadhara] là những người tài
giỏi trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm cả
mười tám Văn Học, Y học, Tử Vi và Khoa học. Họ
có thể bay và có khả năng làm ma thuật và yếm
đối. Một số người trong họ sống một mình nhưng
những người khác sống theo nhóm. Một số đã kết
114
hôn, một số thì không. Một số sống khổ hạnh. Số
khác sống như con người.
iii. Tỳ xá già [pisaca] được phú cho sự xuất hiện
kỳ lạ với mái tóc xoăn, da đen, bụng lớn, tinh hoàn
lớn như cái nồi và không có răng nanh, không dễ
sợ như quỷ. Họ cũng được chia thành các hạng cao
và thấp. Những thần nhạc trời này cũng có trách
nhiệm trừng phạt chúng sinh trong luyện ngục, bán
thời gian.
2) Tăng Trưởng Thiên Vương [Viru.lahaka] cai
trị phần phía Nam của tầng trời đầu tiên. Chỗ có
các Ca-lâu-la [Garudas] cư trú. Kiêu mạn và cố
chấp trong khi thực hiện các công đức khiến cho
chúng sinh được một nơi trong khu vực này trên
trời như là một Garuda.
3) Quảng Mục Thiên Vương [Viruupakka] phụ
trách miền Viễn Tây của tầng trời thứ nhất, đó là
vương quốc của rồng [Nagas]. Kiêu mạn và cố
chấp trong khi thực hiện các công đức khiến cho
chúng sinh được một nơi trong khu vực này trên
trời như là một Naga.
4) Đa Văn Thiên Vương [Vessava.na] hoặc
[Kuvera] cai trị phần phía Bắc của tầng trời thứ
115
nhất và tất cả các dạ xoa [yakkha]. Một số các dạ
xoa được ưu đãi với vẻ đẹp tuyệt vời và tự phát
sáng. Những kẻ khác như quỷ nước, thì xấu xí, dễ
sợ, hung hăng và hiếu chiến. Sân hận và tật đố
trong khi thực hiện các công đức khiến cho chúng
sinh được một nơi trong khu vực này trên trời như
là một dạ xoa.
Ngoài ra còn có các thần khác thuộc cấp thấp như
thần đất, thần cây và thần không khí.
• Các thần đất cùng chia sẻ ở cõi người của chúng
ta trong những tổ mối, gò, các hang động dưới
lòng đất, núi, sông, nhà cửa, chùa chiền, lều hoặc
vòm. Một số trong họ có cung điện trên trời.
• Các thần cây ở trong các ngành, cây và trên
ngọn cây. Một số cư trú tại cung điện trên trời, số
khác thì không.
• Các thần không được ưu đãi với cung điện trên
trời của họ nằm cách khoảng 16 km (một giải đấu
[yojana]) trên mặt đất. Những thần trời này chịu
dưới sự cai trị của Bốn Thiên Vương.
• Thần nhạc trời có khác các thần đất. Trong khi
các thần đất sẽ không bao giờ rời khỏi chỗ ở của
họ trong rừng ngay cả khi nó đã bị hư hại, thần
nhạc trời sẽ di chuyển đến một cây mới cùng với
cung điện trên trời của họ nếu cây đã bị chặt bỏ.
116
Himavanta là một khu rừng vàng. Mọi thứ kể cả
mặt đất, lá, v.v… đều bằng vàng. Nó nằm ở trên
triền núi Tu Di. Trước kia, nó đã tiếp cận bốn châu
lục. Tuy nhiên, khi con người bắt đầu làm nhiều
hành động bất thiện hơn, đất tách ra ngăn chặn sự
du hành giữa cảnh giới con người và rừng
Himavanta. Rừng Himavanta bao gồm 84,000 đỉnh
núi, năm con sông chính, sông Hằng, sông
Yamuna, Sarabhuu, Aciravadii và Mahimaa. Nó có
bảy hồ chính; Anotatta, Ka.n.namu.n.da,
Rathakaala, Chaddanta, Mandakinii, Siihappaata
và Ku.nala. Xung quanh hồ Anotatta là năm ngọn
núi; Sudassana, Cittakuu.ta, Kaa.lakuu.ta, Kailash
và Gandhamaadana trong đó có một hang động tên
là Nandamuula nơi nhiều Bích-chi-Phật sống.
Trong Nandamuula có ba hang động, một vàng,
một thủy tinh và một bạc. Có rất nhiều sinh vật kỳ
lạ khác thường trú tại Himavanta như sinh vật nửa
người nửa chim, rồng, kim xí điểu, sư tử huy hiệu
và các loại voi đặc biệt, cá, chim và trái cây.
2. Trời Tam Thập Tam [Taavati.msa]
Trời Tam Thập Tam là một cõi trời rộng lớn nằm
tại đỉnh núi Tu Di, xung quanh có các bức tường
và cung điện thủy tinh bao bọc với một nghìn cửa
117
thủy tinh. Ngay giữa trung tâm của Taavat.imsa là
một cung điện tên là Vejayanta, trang trí với bảy
loại đá quý. Nó thuộc về vua trời Đế Thích (đôi
khi được gọi là vua Indra) người cai trị vương
quốc. Trời này được chia thành ba mươi hai khu
vực, mỗi khu vực được cai trị bởi một trong ba
mươi hai người bạn thân của vua trời Đế Thích. Cư
dân ở đây có thể bao gồm những người đã đạt
được các thánh quả thấp của Phật giáo, chẳng hạn
như quả nhất lai [sakadagaamii] và quả nhập lưu
[sotapanna] - cũng như những người đã đạt được
Tam Bảo bên trong và các thần trời nói chung.
3. Trời Dạ Ma [Yaamaa]
Trời Dạ Ma được cai trị bởi thần Tu-Dạ-Ma. Trời
này nằm xa trên cao tầng trời thứ hai. Không giống
như hai tầng trời dưới, Dạ Ma không có nền tảng
đất cứng. Nó nằm ở một nơi vượt xa ra ngoài ánh
sáng mặt trời và mặt trăng. Các thần trời ở đây có
thể nhìn thấy những sự vật nhờ ánh sáng của thân
mình phát ra. Họ tính thời gian đi qua bằng cách
nhìn những bông hoa trên trời nở vào ban ngày và
khép lại vào ban đêm.
4. Trời Đâu Suất Đà [Tusita]
118
Tầng trời thứ tư này được Vua Hỷ Kiến cai trị. Cư
dân trời Đâu Suất Đà là những người quyết tâm đạt
được giác ngộ vì lợi ích của chúng sinh. Họ chọn
trời Hỷ Kiến như là một ‘nơi an nghỉ’ trên đường
đến giác ngộ. Họ trông duyên dáng, phúc hậu và
vui trong Giáo Pháp. Họ sống trong cung điện
nguy nga trên trời. Thậm chí Đức Phật tương lai
còn cư ngụ trong cung Trời Đâu Suất hiện nay.
Vua Hỷ Kiến thực ra là người mẹ trước đây của
Đức Phật hiện tại. Những cư dân của Trời Hỷ Kiến
rất quảng đại. Họ muốn giúp đỡ người khác. Khi
họ được tái sinh ra làm con người ở thế gian, cung
điện và của cải ở trên trời chờ đợi họ, không giống
như các thần trời ở các tầng trời khác mất của cải
trên trời khi họ trở lại tái sinh trên trái đất.
5. Trời Hóa Lạc [Nimmaanaratii]
Tầng trời thứ năm này được cai trị bởi vua
Sunimmita. Các vị trời Hóa Lạc ước gì liền được.
6. Trời Tha Hóa Tự Tại [Paranimmitavasavattii]
Tầng trời thứ sáu này cao nhất và lớn nhất. Các vị
trời ở tầng này muốn gì liền được các vị trời khác
thỏa mãn.
119
Nguyên nhân Sinh lên Mỗi Tầng Trời
Để được sinh lên trời đòi hỏi người thực hiện
những hành động đạo đức và tích luỹ công đức đầy
đủ. Mức độ của sự giàu có và tinh tế có thể khác
nhau theo mức độ và loại ý định đằng sau những
thiện nghiệp, có thể được phân loại như sau:
1. Vì Sợ: Những người này làm nghiệp tốt vì họ
không muốn vào địa ngục, nếu nó thực sự tồn tại.
Họ không có ý định tốt để làm những thiện nghiệp.
Có thể so sánh họ với một đứa trẻ làm việc tốt chỉ
vì nó không muốn bị trừng phạt. Những người này
có khuynh hướng được sinh ra như thần đất, thần
cây và thần không khí.
2. Vì Được Thưởng: Những người này làm công
đức chỉ vì họ muốn được một cái gì đó trở lại.
Điều này có thể được so sánh với một đứa trẻ làm
việc tốt hy vọng để có được bánh kẹo hoặc đồ
chơi. Những người này có khuynh hướng được tái
sinh làm trời ở tầng thấp nhất.
3. Vì Muốn Được Ngưỡng Mộ: Những người này
làm việc lành vì họ khao khát lời khen ngợi. Điều
này có thể được so sánh với một đứa trẻ làm điều
tốt vì nó muốn được những người khác chấp nhận.
120
Những người này có khuynh hướng được tái sinh
làm trời ở tầng thấp nhất.
4. Làm Tốt Chỉ Vì Tốt: Những người này thực
hiện công đức vì họ nghĩ rằng đó là điều phải làm.
Họ tự tin của những hành động công chính của họ
bất kể ý kiến của người khác. Họ có khuynh hướng
được tái sinh làm trời ở tầng thứ hai hay cao hơn
tùy thuộc vào độ thanh tịnh của tâm trí của họ khi
họ thực hiện công đức.
So sánh Tuổi của các vị Trời và Con Người
Trời Tuổi thọ (năm
trên trời)
Dài Một Ngày Đêm Trên Trời
(bằng Năm Trái Đất)
Tuổi Thọ (bằng Triệu
Năm Trái Đất)
1. Tứ Thiên Vương
500 50 9
2. Tam Thập Tam
1,000 100 36
3. Dạ Ma 2,000 200 144
4. Đâu Suất Đà 4,000 400 576
5. Hóa Lạc 8,000 800 2,304
6. Tha Hóa Tự Tại
16,000 1,600 9,216
3.7 Sắc Giới
121
Sắc giới hoặc Phạm Thiên Sắc Giới là nơi cư trú
của Phạm Thiên. Sắc Giới nằm cao hơn các cõi
trời với của báu trời tốt hơn và tinh tế hơn.
Phạm Thiên [Brahma] là một vị thần đã hoàn toàn
hạn chế dục lạc [kaamachanda] từ khi họ vẫn còn
là con người. Phạm Thiên trông giống đàn ông hơn
là đàn bà. Những người đã chứng thiền cõi sắc
[ruupa jhaana] sẽ được sinh ra trong Sắc Giới. Sắc
Giới được chia thành mười sáu tầng là nơi sinh
sống của chúng sinh với các mức độ chứng thiền
khác nhau.
1. Ba Cõi Sơ Thiền
Những người sống ở cõi này là những người đã đạt
được sơ thiền. Ba cấp độ sau đây của cõi sơ thiền
được đặt vào mức độ tương tự nhau, không phải là
tầng này trên tầng kia như ở cõi dục:
a. Cõi Phạm Chúng Thiên
[Brahmapaarisajjaa]: cư dân là Phạm Thiên đã
đạt được mức bắt đầu của sơ thiền. Họ là những vị
Phạm Thiên bình thường không có thần thông. Họ
là đồ chúng của các Đại Phạm Thiên.
b. Cõi Phạm Phụ Thiên [Brahmapurohitaa]: Cư
dân là những vị Phạm Thiên đã đạt được mức
trung bình của sơ thiền. Họ giúp các vị Đại Phạm
Thiên với các nhiệm vụ khác nhau.
122
c. Cõi Đại Phạm Thiên [Mahabrahma]: Cư dân
là những vị Phạm Thiên đã đạt được mức cao nhất
của sơ thiền. Họ là những nhà lãnh đạo của hai loại
Phạm Thiên đầu tiên. Sức Càn Đại Phạm
[Sahampati Brahma], là người ban đầu đã mời
Đức Phật thuyết pháp cho chúng sinh là một cư
dân của cõi này. Các Phạm Thiên đã đạt được mức
cao nhất của sơ thiền sẽ ở trung tâm của mỗi cõi và
được bao quanh bởi những người đã đạt được mức
độ thấp hơn của sơ thiền.
2. Ba Cõi Nhị Thiền
Cõi nhị thiền là nơi sinh sống của những người đã
đạt được nhị thiền. Nó nằm trên ba cõi của sơ
thiền.
a. Cõi Thiểu Quang Thiên [Parittaabhaa] (‘paritta-’ có nghĩa là giới hạn, ‘-aabha’ ánh
sáng).
b. Cõi Vô Lượng Quang Thiên [Appamanabha]
c. Cõi Quang Âm Thiên [Aabhasaraa]: Chúng
sinh được tái sinh ở đây như là một kết quả của
tâm sáng và rõ ràng của họ.
3. Ba Cõi Tam Thiền
123
Những người sống ở cõi tam thiền là những người
đã chứng được tam thiền. Nó nằm trên ba cõi của
tầng nhị thiền.
a. Cõi Thiểu Tịnh Thiên [Parittasubhaa] Các
chúng sinh này có hào quang như mặt trăng, tuy
nhiên, ít rực rỡ hơn so với các vị Phạm Thiên của
cảnh giới cao hơn.
b. Cõi Vô Lượng Tịnh Thiên
[Appamaa.nasubhaa]
c. Cõi Biến Tịnh Thiên [Subhaki.nhaa]
4. Bảy Cõi Tứ Thiền
Cõi tứ thiền là nơi sinh sống của những người đã
đạt được tứ thiền, bao gồm:
a. Cõi Phúc Sinh Thiên [Vehapphalaa]: sức
mạnh của công đức đạt được không thể bị hủy diệt,
giải thể. Trong số các vị Phạm Thiên trong chín
tầng trời đề cập đến nay, những vị trong lĩnh vực
Biến Tịnh Thiên sống cuộc sống dài nhất. Họ sống
sáu mươi bốn tiểu kiếp. Vị nào đạt đến sáu mươi
bốn tiểu kiếp sẽ được tái sinh trở lại trong quá trình
tái lập của thế giới. Sau đó, là các Phạm Thiên
khác với cuộc sống ngắn hơn tiếp theo. Sau sáu
mươi bốn tiểu kiếp, cõi tam thiền sẽ bị gió phá
hủy. Tuy nhiên, cõi trời Phúc Sinh có khả năng
124
chống phá hủy bởi nước, lửa, gió. Do đó, các
Phạm Thiên trong cõi Phúc Sinh sống tới năm trăm
tiểu kiếp.
b. Cõi Quảng Quả Thiên [Asanniisattaa]: Những chúng sinh ở đây không còn thọ [vedanaa],
tưởng [sannaa], hành [sa"nkhaara] hay thức
[vinnaa.na]. Họ còn có thân uẩn với khả năng diệt
trừ mọi cảm thọ - nhưng họ vẫn còn phiền não. Họ
có một thân sắc vàng giống như hình ảnh Đức
Phật, và có thể có bất cứ một trong ba tư thế, ngồi,
nằm, đứng, tùy thuộc vào tư thế họ qua đời trong
cuộc sống trước đây của họ. Họ sẽ vẫn ở vị trí đó
trong suốt cuộc sống.
Cả hai cõi trong tứ thiền được đặt cao hơn so với
cõi tam thiền. Phạm Thiên trong các cõi cao hơn
có thể thấy những người trong những cõi thấp
nhưng những người trong những cõi thấp không
thể nhìn thấy những vị trong những cõi cao hơn.
Các Phạm Thiên cõi Sắc trong mười một cõi đề
cập đến nay tất cả sẽ trở lại để tái sinh trong địa
ngục hay lên trời, tùy thuộc vào nghiệp quá khứ
của họ, bao giờ họ vẫn chưa đạt được thánh quả.
5. Ngũ Tịnh Cư Thiên [Suddhavasa]
125
Có năm mức độ xếp loại theo độ thanh tịnh khiết
của năm lực sau: tín [saddha], tấn [viriya], niệm
[sati], định [samaadhi] và tuệ [pannaa].
a. Cõi Vô Phiền Thiên [Avihaa]: Đây là những vị
Phạm Thiên có đức tín mạnh mẽ nhất trong các
lực. Họ sẽ không đi tái sinh trước khi hết hạn tuổi
của họ. Tuy nhiên, các vị Phạm Thiên trong bốn
cảnh giới cao hơn có thể chọn để được đi tái sinh
trước khi đến hạn tuổi.
b. Cõi Vô Nhiệt Thiên [Atappaa]: Đây là những
vị Phạm Thiên có đức tấn mạnh mẽ nhất trong các
lực. Họ không bao giờ mất hạnh phúc vì tâm trí họ
luôn luôn đắm sâu trong thiền định. Họ không hề
bị chướng ngại [nivara.na]
c. Cõi Thiện Kiến Thiên [Sudassaa]: Đây là
những vị Phạm Thiên có đức niệm mạnh mẽ nhất
trong các lực. Vì thế, họ có Ngũ Nhãn của Đức
Thế Tôn; nhục nhãn đặc biệt mạnh mẽ và nhạy
cảm, thiên nhãn, huệ nhãn, Phật nhãn và pháp
nhãn. Họ được ưu đãi với vẻ đẹp tuyệt vời - một
niềm vui cho tất cả những người khác nhìn được.
d. Cõi Thiện Hiện Thiên [Sudassii]: Những vị
Phạm Thiên này có đức định mạnh mẽ nhất trong
các lực. Họ có thể thấy rõ ràng hơn so với các vị
Phạm Thiên Thiện Kiến thông qua nhục nhãn,
126
thiên nhãn và huệ nhãn của họ. Tuy nhiên, Phật
nhãn của họ cũng chỉ mạnh mẽ như những vị
Phạm Thiên Thiện Kiến.
e. Cõi Sắc Cứu Cánh Thiên [Akanittha]: Đây là
những vị Phạm Thiên có đức tuệ mạnh mẽ nhất
trong các lực. Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh được ưu
đãi với của cải và hạnh phúc trên trời lớn nhất.
Phạm Thiên trong bốn cõi khác của Tịnh Cư Thiên
có thể tái sinh lên các cõi trên, nhưng các vị Phạm
Thiên Sắc Cứu Cánh được sinh ra và chết trong cõi
riêng của họ. Trong cõi Trời Sắc Cứu Cánh có một
thánh địa quan trọng tên là Dussa-Cetiya. Trong
tháp này là hoàng bào của Hoàng tử Sĩ-đạt-ta từ bỏ
vào ngày xuất gia của mình. Phạm Thiên
Gha.tikaara đến từ cõi Trời Sắc Cứu Cánh để cung
cấp tám vật dụng cần thiết cho hoàng tử xuất gia.
Ngài đã giữ áo choàng cùng với một trong các vật
dụng cần thiết trong Dussa-Cetiya, cao khoảng 192
km (mười hai giải đấu [yojana].
Các Tịnh Cư Thiên chỉ xuất hiện chỉ khi nào có
giáo lý của Đức Phật vì đó là cõi của những người
đã đạt được thánh quả thứ ba của Phật giáo. Khi
không có sự xuất hiện của Phật giáo, không thể có
người nào đạt được mức độ tâm thức này. Vì thế,
các Tịnh Cư Thiên chỉ phát sinh vào những thời
127
điểm nhất định. Chúng chỉ kéo dài ít hơn tuổi thọ
tập thể của Năm Tịnh Cư Thiên, cơ bản đó là
khoảng 31.000 tiểu kiếp. Sau đó tất cả các vị thánh
Phật giáo sẽ đi đến một kết thúc của sự tái sinh và
các Tịnh Cư Thiên biến mất. Chúng sẽ xuất hiện
lại một lần nữa khi Đức Phật kế tiếp xuất hiện - lập
lại chu kỳ.
Tuổi của Trời Sắc Giới trong 16 Tầng Trời
Tầng Trời Tuổi Thọ
128
1. Phạm Chúng Thiên 2. Phạm Phụ Thiên 3. Đại Phạm Thiên 4. Thiểu Quang Thiên 5. Vô Lượng Quang Thiên 6. Quang Âm Thiên 7. Thiểu Tịnh Thiên 8. Vô Lượng Tịnh Thiên 9. Biến Tịnh Thiên 10. Phúc Sinh Thiên 11. Quảng Quả Thiên 12. Vô Phiền Thiên 13. Vô Nhiệt Thiên 14. Thiện Kiến Thiên 15. Thiện Hiện Thiên 16. Sắc Cứu Cánh Thiên
1/12 tiểu kiếp21
1/6 tiểu kiếp 1/4 tiểu kiếp 2 tiểu kiếp 4 tiểu kiếp 8 tiểu kiếp 16 tiểu kiếp 32 tiểu kiếp 64 tiểu kiếp 500 tiểu kiếp
500 tiểu kiếp 1,000 tiểu kiếp
2,000 tiểu kiếp 4,000 tiểu kiếp 8,000 tiểu kiếp 16,000 tiểu kiếp
3.8 Vô Sắc Giới
Vô Sắc Giới là thế giới vô tướng hay thế giới
Phạm Thiên Vô Sắc. Nó nằm cao hơn so với Sắc
Giới và còn có nhiều giàu có trên trời hơn nữa.
21
Kappa Sutta A.ii.142
129
Phạm Thiên Vô Sắc đẹp hơn và tự phát sáng hơn
so với Phạm Thiên Sắc Giới. Họ được sinh ra là
Phạm Thiên Vô Sắc vì họ đã đạt được vô sắc định.
Phạm Thiên Vô Sắc cũng có thể là những chúng
sinh vô cảm [abhabbasatta] không thể đạt được
giác ngộ trong cuộc đời này (Phạm Thiênvào mức
độ tri giác chúng sinh cũng được coi là vô cảm).
Vô Sắc Giới bao gồm bốn cấp độ sau đây từng là
nơi ở của những vị đã đạt được các tầng định khác
nhau:
1. Không Vô Biên Xứ [Aakaasaanancaayatana] là nơi ở của những người đã đạt được tầng định
thứ nhất. Họ dùng không vô biên làm đối tượng
thiền định và có thể sống đến 20.000 tiểu kiếp.
2. Thức Vô Biên Xứ [Vinnaa.nancaayatana] là
cõi của những người đã đạt được tầng định thứ nhì.
Họ dùng không gian làm đối tượng thiền định. Họ
sống lâu đến 40.000 tiểu kiếp.
3. Vô Sở Hữu Xứ [Akincannaayatana] là cõi của
những người đã đạt được tầng định thứ ba. Họ
không nghĩ gì khi họ thiền định. Họ sống lâu đến
60.000 tiểu kiếp.
4. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
[Nevasannaanaasannaayatana] là cõi của những
người đã đạt được tầng định thứ tư. Họ không còn
130
tưởng cũng không có không-tưởng. Họ sống lâu
đến 84.000 tiểu kiếp.
Kết luận
Sau khi nghiên cứu cấu trúc của vũ trụ, bây giờ
chúng ta có thể đánh giá cao con người, cũng như
các chúng sinh khác, được tái sinh vô tận trong các
cảnh giới và thế giới khác nhau. Sự tái sinh như
vậy chắc chắn mang lại cho chúng ta đau buồn và
khổ sở. Chúng sinh phải sinh ra trong địa ngục
chịu rất nhiều đau khổ từ hình phạt nặng. Con
người bị đau khổ vì sự vô thường; đau khổ, và cái
chết. Thần trời cũng bị thiếu của cải trên trời. Ngay
đến các vị Phạm Thiên cũng đau khổ vì không
sáng bằng những vị khác. Không có ai hưởng hạnh
phúc toàn hảo.
Vì thế, nếu chúng ta đã biết những sự thật của cuộc
sống, chúng ta nên cố gắng tìm cách giải thoát ra
khỏi chu kỳ sinh tử bằng cách tích lũy công đức
càng nhiều càng tốt và dẫn dắt những người khác
cũng làm như vậy. Thêm công đức sẽ đưa chúng ta
đến hạnh phúc thật sự.
131
Chương 4
Nguồn gốc của Trái Đất và Nhân loại
Các phần trong chương này 4.1 Khoảng Thời Gian Thăng Trầm của Vũ Trụ 4.2 Đo Thời Gian thích hợp cho Tuổi của Vũ Trụ 4.2.1 Một Thọ Mệnh [aayu-kappa] 4.2.2 Tiểu Kiếp [antara-kappa] 4.2.3 Trung Kiếp [asa"nkheyya-kappa] 4.2.4 Đại Kiếp [mahaa-kappa] 4.3 Những tin tưởng về nguồn gốc của Trái Đất 4.3.1 Tổng Niềm tin giả thuyết khoa học 4.4 Nguồn gốc của Trái đất và nhân loại Theo Lý thuyết Phật giáo 4.4.1 Động lực của Đức Phật khi Dạy Sáng Thế 4.4.2 Nguyên Tắc Tổng Quát để Xác minh sự Tín Xác của Giáo Điều 4.4.3 Nguồn gốc của vũ trụ, trái đất, con người và tất cả chúng sinh
Khái quát về chương này:
132
1. Vũ trụ và Trái đất đã phát sinh và phân hủy vô
số lần. Trong từng thời kỳ, thành, trụ và hoại đã
thực hiện xảy ra trong thời gian dài đến nỗi không
thể đếm được. Nếu so sánh thì ngay cả một triệu
năm cũng còn ngắn. Chu kỳ sinh diệt của thế giới
bắt đầu vào thời điểm khi lửa đốt trái đất tàn lụi.
Vũ trụ lúc đó được lấp đầy với không khí trống.
Sau đó, mưa xuống và tràn ngập vũ trụ. Sau nữa,
khi mực nước giảm xuống, để lộ ra các cõi chúng
sinh từ sắc giới xuống đến tầng trời đầu tiên (Trời
Tứ Thiên Vương), một khi nước đã lắng xuống
một mức độ ổn định trầm tích đông tụ và nổi trên
mặt nước. Những trầm tích này, được biết đến như
Đề Hồ của trái đất, màu vàng, ngọt và thơm. Khi
Phạm Thiên xuống Trái đất để ăn Đề Hồ trái đất,
họ trở thành con người. Về sau, mức độ ô nhiễm
trong tâm trí con người tăng lên làm cho các Đề
Hồ của Trái đất biến mất. Các dạng thực phẩm thô
hơn xuất hiện thay thế. Do đó, cơ thể con người
thay đổi để biểu lộ đặc điểm giới tính nam hay nữ.
Họ bắt đầu sinh sản bằng cách quan hệ tình dục và
sau đó những con người du mục định cư lại trong
nhà cửa. Nhiều loại động vật được sinh ra. Tại thời
điểm này, phiền não của con người với tham, sân
và si nở rộ. Cùng với sự thoái hóa của chất lượng
tâm trí, chất lượng môi trường bị xâm nhập. Trái
133
đất đã bị gió, lửa hoặc nước phá hủy và chu kỳ
thành, trụ và hoại của Trái Đất và Vũ Trụ được
viên mãn. Thế giới và vũ trụ thành và hoại như thế
vô số lần trong nhiều kiếp.
2. Không thể tính toán thời gian thành, trụ và hoại
của Trái Đất và Vũ Trụ bằng các đơn vị toán học,
khoa học. Các đơn vị thông thường của chúng ta
thật quá nhỏ. Phật giáo là tôn giáo duy nhất trên
thế giới sử dụng các đơn vị riêng của mình để tính
toán tuổi của Trái Đất và Vũ Trụ, một số được gọi
là 'một khôn lường' (= 10140
) và 'kiếp' [kappa] (bao
gồm cả thọ mệnh [aayu-kappa], tiểu kiếp [antara-
kappa], Trung Kiếp [asa"nkheyya-kappa] và Đại
Kiếp [mahaa-kappa])
3. Phật giáo là một tôn giáo của những người tin
vào nhân quả. Đức Phật không bao giờ dạy người
ta chấp nhận bất cứ điều gì dựa trên đức tin mù
quáng, mà chủ trương xem xét các sự kiện và xác
minh sự thật cho chính mình. Ngài bảo mọi người
không nên chấp nhận những sự việc đơn giản chỉ
vì: 1. tin đồn; 2. truyền thống; 3. báo cáo; 4. văn
bản hoặc kinh điển; 5. biện chứng; 6. suy luận; 7.
lý luận; 8. lý thuyết; 9. xác suất, hoặc 10. kính
trọng vì một vị thày đã nói như vậy.
4. Nhân loại có nguồn gốc từ các vị Phạm Thiên
cõi Quang Âm Thiên. Trong thời kỳ đầu tiên, con
134
người được tự nhiên sinh ra. Con người phát sinh
ra ngay lập tức ở dạng người lớn mà không cần
cha mẹ. Con người tại thời điểm đó không có quan
hệ tình dục, tự có hào quang của mình, có thể bay,
được nuôi dưỡng bằng thọ lạc, có hình dáng giống
như Phạm Thiên và thọ mệnh lâu dài. Sau đó,
hương thơm từ các Đề Hồ của Trái đất cám dỗ các
vị Phạm Thiên nếm thử. Một khi đã nếm Đề Hồ,
hào quang của họ biến mất và họ không thể bay
được nữa. Tuy nhiên, trái đất trong thời kỳ đầu tiên
rất thoải mái, không có sự thiếu thốn nào. Khó
khăn duy nhất là thực phẩm tốt mất dần, và được
thay thế bởi thực phẩm thô hơn. Sự kỳ thị phát
sinh từ sự khác biệt về màu da. Sự khác biệt giới
tính khiến con người bị hấp dẫn tình dục với nhau.
Định cư tại nhà, tích trữ vật dụng và lợi dụng nhau
cuối cùng gây ra sự thành lập một hệ thống chính
phủ. Thời đại đầu tiên của chính phủ là một chế độ
quân chủ tuyệt đối, với quốc vương hành động
giống như một người cha chăm sóc con cái của
mình. Một người đàn ông khôn ngoan có các đặc
tính và cách cư xử phù hợp, được mọi người tôn
trọng sẽ được lựa chọn làm vua [kasatriya] - từ
nguyên trong đó ngụ ý rằng tại thời điểm đó ông
cũng là lãnh đạo nông nghiệp [kaseta]. Những thú
vật trong thời kỳ đầu tiên cũng tự sinh ra. Voi và
135
ngựa là những thú vật đầu tiên xuất hiện trên trái
đất. Con người chỉ bắt đầu ăn thú vật vì những
người đến thế giới con người từ cõi địa ngục mang
theo họ khuynh hướng giận dữ và hiếu chiến. Họ
đã quen mang mối hận thù với nhau. Một khi họ
nhìn thấy nhau, họ liền nghĩ đến giết hại. Lúc đầu,
họ không giết để ăn, nhưng sau đó, con người thử
ăn thịt và trở nên nghiện hương vị của nó. Khi ăn
thịt đã trở thành phổ biến rộng rãi con người hiểu
lầm rằng thú vật được sinh ra để làm thức ăn cho
họ.
Mục đích chương này
Chương này cung cấp cho sinh viên những kiến
thức và sự hiểu biết để có thể:
1. Giải thích chu kỳ thành, trụ và hoại của vũ trụ.
2. Giải thích các đơn vị thời gian thích hợp để mô
tả về nguồn gốc của vũ trụ.
3. Giải thích các nguyên tắc cần được hiểu rõ trước
khi tin theo phương pháp Phật giáo một cách chính
xác.
4. Giải thích nguồn gốc của nhân loại và các đặc
điểm, thời đại đầu tiên của đời sống con người,
nguồn gốc của các hình thức chính phủ đầu tiên
136
trên trái đất, nguồn gốc thú vật và ăn thịt một cách
chính xác.
Nhập Đề
Nhiều người có thể đã tìm hiểu các câu chuyện về
nguồn gốc của vũ trụ, trái đất và nhân loại, vì chủ
đề này đã thu hút sự quan tâm rộng lớn của con
người hơn bao giờ hết từ thời cổ đại. Nhiều người
đã tạo ra những giả thuyết và cố gắng tìm kiếm câu
trả lời cho các câu hỏi - nguồn gốc của tất cả
chúng sinh là gì? Trái đất được tạo ra như thế nào?
Chúng ta đến từ đâu? Người đầu tiên trên trái đất
là ai? Mặc dù đã nghiên cứu nhiều, vẫn chưa có
câu trả lời cụ thể nào cho những câu hỏi đó.
Trong chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu về nguồn
gốc của vũ trụ, trái đất, nhân loại và tất cả chúng
sinh khác từ góc nhìn Phật giáo. Trước khi nghiên
cứu các vấn đề này, chúng ta sẽ giải thích chu kỳ
thành, trụ và hoại của vũ trụ. Điều này bao gồm
các đơn vị thời gian thích hợp để đo lường sự
thành, trụ và hoại của vũ trụ.
4,1 Khoảng Thời Gian Thăng Trầm của Vũ Trụ
137
Nguồn gốc của vũ trụ, trái đất, nhân loại và tất cả
chúng sinh diễn ra trong nhiều bước. Tất cả đều
phải trải qua thành, trụ và hoại như đã nói ở trên.
Khoảng thời gian tham gia vào sự thành, trụ và
hoại của vũ trụ thách thức các đơn vị đo lường
khoa học truyền thống, vì thế Phật giáo sử dụng
các đơn vị đo lường riêng của mình hầu đáp ứng
các tính toán liên quan đến khoảng thời gian thành,
trụ và hoại của vũ trụ như đã mô tả trong vũ trụ
học của họ.
4.2 Đo thời gian thích hợp cho tuổi của vũ trụ
Từ những khám phá của Đức Phật đề cập trong
Chương 1, chúng ta nhận ra rằng thời gian của sự
thành, trụ và hoại của vũ trụ là một thời gian rất
dài - thậm chí một triệu năm vẫn còn là ngắn khi
so sánh. Vì vậy, khi thực hiện phép đo chúng ta
buộc phải sử dụng các thuật ngữ như ‘một vô
lượng’ [asa”nkheyya] (= 10140
) hoặc ‘kiếp’22
[kappa] để thích ứng với sự mênh mông của thời
gian đang nghiên cứu. Những từ trên chỉ duy nhất
có trong Phật giáo.
22
As Defined in the 1982 Rajapunditiyasathana Thai Dictionary (3rd ed. 1987)
p.207
138
Vì vậy, việc tính toán thời gian của sự thành, trụ và
hoại của vũ trụ không thể được thực hiện theo các
đơn vị thông thường của thời gian vì quá ngắn.
Đơn vị đo lường được ưa chuộng trong Phật giáo
là kiếp mà có thể được chia thành bốn loại23
:
4.2.1 Một ‘Thọ Mệnh’ [aayu-kappa] có nghĩa là
tuổi thọ trung bình của chúng sinh trong một cõi
nhất định, tại một thời gian nhất định trong lịch sử.
Ví dụ, trên trái đất, hầu hết mọi người khi Đức
Phật còn sống có tuổi thọ hàng trăm năm, như vậy
‘thọ mệnh’ tại thời điểm đó là một trăm năm.
Trong ngày nay, tuổi thọ trung bình là bảy mươi
lăm năm nên ‘thọ mệnh’ bây giờ là bảy mươi lăm
năm. Trong những cõi trời như Trời Tứ Thiên
Vương ‘thọ mệnh’ có thể là năm trăm năm trên
trời. Nguyên tắc này cũng có thể được áp dụng cho
các cảnh giới khác
4.2.2 Một Tiểu Kiếp [antara-kappa] là thời gian
cần để ‘thọ mệnh’ con người giảm từ ‘một vô
lượng’ (ví dụ: 10140) năm xuống đến mười năm rồi
23
Thavin Wattirangkul Rao keu krai (Bangkok: 1987) p.35
139
được khôi phục lại đến ‘một vô lượng’ năm. Một
chu kỳ hoàn chỉnh như vậy là một ‘tiểu kiếp’.
4.2.3 Một Trung Kiếp [asa"nkheyya-kappa] dài
sáu mươi bốn tiểu kiếp. Các kinh điển Phật giáo
tóm tắt bốn loại Trung Kiếp24
:
1. Thời đại khi thế giới bị hỏa tai [sa.mva.t.ta-
asa nkheyya-kappa]. Thời gian trong đó vũ trụ bị
hủy diệt là một Trung Kiếp.
2. Thời đại khi thế giới đã bị phá hủy hoàn toàn
[sa.mva.t.ta.t.thaayii-asa"nkheyya-kappa] là
khoảng thời gian khi vũ trụ bị phá hủy hoàn toàn.
Chỉ có cái không trong mười Trung Kiếp.
3. Thời đại khi thế giới được tái lập [viva.t.ta-
asa"nkheyya-kappa]. Thời gian là một Trung
Kiếp.
4. Thời hoàng kim của thế giới
[viva.t.ta.t.thaayii-asa"nkheyya-kappa]. Đây là
thời gian từ khi bắt đầu thành lập vũ trụ cho đến
lúc nó phát triển đầy đủ. Trái đất, những núi, sông,
cây cối, đại dương, mặt trời, mặt trăng, sao, con
người và thú vật xuất hiện. Thời gian là một Trung
Kiếp [asa"nkheyya-kappa].
24
Kappa Sutta A.ii.142
140
4.2.4 Một Đại Kiếp [mahaa-kappa] là chu kỳ
hoàn chỉnh của vũ trụ thông qua tất cả bốn thời đại
thế giới đã đề cập ở trên. Thời gian của một Đại
Kiếp là một thời gian rất dài và chưa được xác
định. Đức Phật dạy25
:
“Này các Tỳ kheo! Giả sử có một thùng chứa bằng
đồng dài một do tuần (16 km), rộng một do tuần và
cao một do tuần chứa đầy các hạt cải. Nếu một
người cứ một trăm năm lại lấy ra một hạt cải, thì
ngay cả khi tất cả các hạt cải đã được lấy hết, vẫn
chưa hết một đại kiếp.”
Trong một ví dụ khác26
:
“Này các Tỳ kheo! Giả sử có một tảng đá khổng lồ
dài một do tuần, rộng một do tuần và cao một do
tuần, không có lỗ ở trong và không có hang động.
Nếu một người mặc một tấm áo mỏng và cứ một
trăm năm lại phết qua núi một lần. Thời gian mà
tảng đá này được mòn đến đất là khoảng một đại
kiếp.”
Bây giờ người đọc dễ dàng phác thảo thời gian của
từng giai đoạn trong chu kỳ thế giới. Mặc dù Đức
Phật đã đưa ra những ẩn dụ phong phú về các
25
Saasapa Sutta S.ii.182 26
Pabbata Sutta S.ii.181
141
khoảng thời gian, trong thực tế thời gian thậm chí
có thể lâu hơn nữa. Chu kỳ của sự thành, trụ và
hoại của vũ trụ đã được diễn ra liên tục. Nó đã trải
qua vô số chu kỳ - nhận thức điều này khiến cho
chúng ta nhàm chán chu kỳ của sự sinh tồn và cho
chúng ta một cảm giác cấp bách để thực hành giáo
lý của Đức Phật đến viên mãn.
4,3 Những tin tưởng về nguồn gốc của Trái Đất
4.3.1 Những Niềm tin Tổng quát & Những Giả
thuyết Khoa học
Nhiều tôn giáo hữu thần, cho dù đó là tín ngưỡng
của những người Ai Cập cổ đại, các người
Samarians và người Babylon, các Kitô hữu, Bà La
Môn, người Hồi giáo hoặc Thần đạo đã tin rằng
thượng đế của họ chịu trách nhiệm cho việc tạo ra
vũ trụ. Mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, trái đất,
loài người và tất cả chúng sinh khác được xem là
công việc của một thần sáng tạo, với mỗi tôn giáo
có những kinh điển với phiên bản Sáng Thế Ký
của họ.
Trong thế giới ngày nay, nhiều công nghệ và kỹ
thuật mới được phát hiện từng giờ. Những công
nghệ đó đã được sử dụng để xác minh hoặc loại trừ
142
ra chân lý về vũ trụ đã được dùng làm nền tảng của
niềm tin kể từ thời cổ đại - chẳng hạn như giả
thuyết cho rằng thế giới và vũ trụ phát sinh từ vụ
nổ Big Bang hay rằng loài người tiến hóa từ khỉ
không đuôi. Giả thuyết như vậy nghe có vẻ hợp lý
- nhưng trong quá trình khoa học luôn luôn có
những ý tưởng mới để bác bỏ những cái cũ. Cho
đến nay, chỉ có những giả thuyết – chưa có gì đủ
thực tế cho một lý thuyết về nguồn gốc của vũ trụ.
Phật giáo cũng có quan điểm trong cuộc tranh luận
này, và các vấn đề của Sáng Thế Ký Phật giáo
trình bày ở đây có nguồn gốc từ những kinh điển
Phật giáo có trước khoa học đến gần 2.500 năm.
4.4 Nguồn gốc của Trái đất và nhân loại Theo
Lý thuyết Phật giáo
4.4.1 Động lực của Đức Phật Khi Dạy Sáng Thế
Đức Phật đã mô tả nguồn gốc của vũ trụ, trái đất,
nhân loại và tất cả chúng sinh trong Agga~n~na
Sutta27
. Kinh này giảng về nguồn gốc của vũ trụ,
trái đất, nhân loại và tất cả chúng sinh cũng như tất
cả những hiện tượng này đã thay đổi theo thời gian
như thế nào. 27
D.iii.80ff.
143
Mục đích chính của bài kinh này không phải để
giải thích sự Thành Lập Thế Giới mà là để đả phá
các tuyên bố của Bà la môn về nguồn gốc của hệ
thống giai cấp. Bài kinh đã được giảng cho hai nhà
sư mới tên là Vase.t.tha và Bhaaradvaaja, vốn
được sinh ra trong giòng Bà la môn. Tại thời điểm
đó ở Ấn Độ, có bốn giai cấp khác nhau trong hệ
thống, bao gồm:
1. Giai cấp vua chúa.
2. Giai cấp bà-la-môn.
3. Giai cấp thương gia.
4. Giai cấp thủ-đà-la.
Giai cấp thày cúng (bà-la-môn) được coi là một
giai cấp cao. Các giai cấp thương gia được coi là
một giai cấp trung bình và giai cấp lao động (thủ-
đà-la) được coi là giai cấp mức thấp nhất. Tất cả
các thành viên trong bốn giai cấp đều khinh rẻ giai
cấp dưới. Các thành viên trong một giai cấp không
liên kết với những người thuộc giai cấp khác. Nếu
có một mối quan hệ nam nữ giữa các giai cấp khác
nhau, đứa con sinh ra của hai vợ chồng sẽ bị xa
lánh như kẻ ngoài lề. Khi Vase.t.tha và
Bhaaradvaaja trở thành tu sĩ Phật giáo (tôn giáo Bà
La Môn nói chung khinh rẻ các nhà sư Phật giáo
và gọi họ là 'bọn trọc') bị xem là đã giảm xuống
144
một giai cấp kém hơn - xem như có nguồn gốc từ
bàn chân của Phạm Thiên.
Đức Phật giải thích về nguồn gốc của hệ thống giai
cấp cho hai nhà sư mới. Ngài mô tả vũ trụ từ một
thời gian khi nó vẫn còn chứa đầy nước xuống đến
thời gian khi hệ thống giai cấp đã được thành lập.
Ngài kết luận một cá nhân được coi như cao hoặc
thấp tùy theo các hành động thiện và bất thiện họ
đã thực hiện - chứ không phải là một loại giai cấp
được áp đặt từ bên ngoài. Mặc dù bài kinh này
không có mục đích giải thích nguồn gốc của trái
đất, nhân loại và tất cả chúng sinh - nó giúp chúng
ta biết rõ quan điểm Phật giáo về nguồn gốc của
đời sống trong cuộc tranh luận về Sáng tạo.
4.4.2 Nguyên Tắc Tổng Quát để Xác minh sự
Tín Xác của Giáo Điều
Những người đã có niềm tin trước đó về nguồn gốc
của vũ trụ có thể có miễn cưỡng liên quan đến các
phương pháp tiếp cận của Phật giáo đối với những
vấn đề này. Quyết định những gì tin được không
bao giờ là một vấn đề dễ dàng, và trong lĩnh vực
này, Đức Phật đã đề ra những hướng dẫn để kiểm
tra xem một đối số có xứng đáng với niềm tin của
một người hay không.
145
Bởi vì Phật giáo không phải là một tôn giáo buộc
bất cứ ai tin vào kinh điển của mình, nó không
quan tâm đến việc những người có đức tin trong
tôn giáo hay không. Phật giáo là một tôn giáo dành
cho những người có đủ trí tuệ để quyết định cho
mình. Đó là tôn giáo cung cấp lý luận. Khi Đức
Phật trình bày giáo lý, Ngài đã làm như vậy bởi vì
Ngài thấy những người khác có thể đạt được lợi
lạc nếu họ thực hành chúng. Những kinh điển
không phải là để được tin tưởng, mà Đức Phật
muốn mọi người quán chiếu và chứng minh các
giáo lý làm cho họ được hài lòng. Về vấn đề này,
Ngài đã dạy28
:
“Này quý vị Kalama, đương nhiên quý vị có những
nghi ngờ, phân vân. Khi có điều đáng nghi ngờ,
đương nhiên phân vân khởi lên. Này quý vị
Kalama:
1. Đừng tin vì nghe truyền khẩu;
2. Đừng tin vì đó là truyền thống;
3. Đừng tin vì nghe đồn đại;
4. Đừng tin vì được ghi trong kinh điển;
5. Đừng tin vì lý luận;
6. Đừng tin vì suy diễn;
28
Kaalaama Sutta A.i.188
146
7. Đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ;
8. Đừng tin vì dựa theo ý kiến đã được cân nhắc;
9. Đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền;
10. Đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thày của mình;
Nhưng này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình
biết rõ: ‘Các pháp này là bất thiện; các pháp này là
đáng chê; các pháp này bị người trí chỉ trích; các
pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa
đến bất hạnh khổ đau’, quý vị hãy từ bỏ chúng.”
Do đó, nó không phải là lạ rằng ai đó sẽ từ chối
hoặc không đồng ý với những câu chuyện về
nguồn gốc của trái đất. Theo quan điểm của Phật
giáo, nó không quan trọng cho dù độc giả tin vào
câu chuyện như vậy ngay lập tức nhưng nó sẽ là
một lợi lạc nếu cuối cùng họ có thể tự chứng minh
điều đó cho bản thân.
4.4.3 Nguồn gốc của vũ trụ, trái đất, loài người
và tất cả chúng sinh
Trước khi có nguồn gốc của Nhân Loại
Các vũ trụ, trái đất và tất cả chúng sinh đều bắt đầu
với không gian trống rỗng. Chỉ có cái không (trong
chương 2, chúng ta biết rằng “không” là một chất
mà không có các phụ gia của bất kỳ đại nào khác,
nó là một khối xây dựng cơ bản của tất cả cuộc
147
sống). Cái không gian này là phần còn lại khi vũ
trụ trước đây đã bị phá hủy bởi lửa, nước và gió -
một sự kiện mà chúng ta sẽ tìm hiểu thêm ở
chương 6.
Vì vũ trụ và trái đất đã thành và hoại vô số lần và
chúng tiếp tục thành và hoại mà không thấy kết
thúc, thật khó để xác định chính xác điểm khởi đầu
hoặc kết thúc của chu kỳ. Sự tái lập của vũ trụ
được mô tả trong chương này là điều diễn ra sau
khi vũ trụ đã bị phá hủy bởi lửa.
Vũ trụ đã hoàn toàn không có vật chất trong một
thời gian dài (dài đến nỗi chiều dài của thời gian
không thể được xác định) cho đến khi có mưa rơi
trong một vũ trụ duy nhất chỉ có không gian trong
nó. Ban đầu, những giọt mưa rất mịn, nhưng sau
đó kích thước tăng lên cho đến khi những giọt mưa
lớn như thân của một cây cọ. Do lượng mưa liên
tục, mực nước tăng lên cho đến khi nó tràn ngập
toàn bộ vũ trụ.
Lý do tại sao mưa có thể ở lại trong vũ trụ là do sự
hỗ trợ của gió, đóng vai trò như một cái bát khổng
lồ. Do đó, gió đã giúp gom lượng mưa lại thay vì
để cho nó phân tán. Điều đặc trưng này của gió
dần dần làm cho lượng mưa chấm dứt và mực
nước giảm dần. Khi lũ rút đi, nhiều cõi trời được lộ
148
ra, từ tầng trời Phạm Thiên trên cùng cho đến cung
trời Tứ Thiên Vương.
Khi lũ rút đi khỏi mặt đất, mực nước được ổn định.
Những trầm hiện từ khả năng đông tụ của các đại
thô xuất hiện trôi nổi trên mặt nước. (Ngược lại cõi
trời Phạm Thiên và có nguồn gốc từ lượng mưa
của các yếu tố tinh tế nên không thể nhìn thấy
được bằng mắt thường). Những trầm hiện đông tụ
và nổi trên mặt nước tương tự như lá sen nổi trên
mặt nước mà không chìm. Những trầm hiện này có
màu vàng, vị ngọt và mùi thơm. Chúng được gọi là
“Đề Hồ của Trái đất” và sau đó trở thành chất nền
cho nhiều dạng sống khác và còn được biết đến là
“đất nguyên thủy”.
Sau khi mặt đất được hình thành, cây cỏ bắt đầu
phát triển. Giống cây đầu tiên mọc lên là cây sen -
loại cây mọc trong không khí (khác với loại sen
thời hiện đại luôn luôn là thủy sản). Những cây sen
luôn luôn là hình thức cây cỏ đầu tiên xuất hiện
trên một Trái Đất ‘mới phát sinh’ - tuy nhiên, số
lượng hoa sen xuất hiện trên mỗi cây vào đầu của
mỗi chu kỳ thế giới có thể không giống nhau. Đôi
khi sẽ không có bông hoa nào và cho các chu kỳ
thế giới khác sẽ có một đến năm bông hoa nhưng
không bao giờ nhiều hơn. Số lượng hoa sen xuất
hiện cho biết số lượng Đức Phật được sinh ra trong
149
kiếp đó. Ví dụ, khi khởi nguyên của kiếp chúng ta
năm hoa sen xuất hiện có nghĩa là năm vị Phật sẽ
phát sinh. Kết quả là, loại hoa sen này được gọi là
“hoa sen tiên tri”.
Thời kỳ Đầu Tiên của Con Người
Một khi Trái Đất đã trở nên sống được, một loại
thần trời, được gọi là Phạm Thiên cõi Trời Quang
Âm, đã chết từ cõi Phạm thiên và sinh ra là con
người bởi vì tuổi thọ Phạm Thiên của họ đã hết.
Con người trong thời đại đầu tiên không cần cha
mẹ để sinh ra - họ xuất hiện ngay dưới hình thức
người lớn. Đây là loại sinh được gọi là tự phát phát
sinh [opapaatika].
Những con người này có kích cỡ và sự xuất hiện
giống như khi họ là những Phạm Thiên. Họ không
có giới tính, cơ thể của họ có một hào quang - tự-
rạng rỡ. Họ có thể bay trong không khí - và thọ
lạc, chứ không phải là thức ăn đặc, là thức ăn
chính của họ.
Hình thức của trái đất trong giai đoạn này là bằng
phẳng và được nối kết với tầng trời đầu tiên (Trời
Tứ Thiên Vương). Chúng sinh có thể đi lại một
cách tự do giữa cõi người và cõi trời tại thời điểm
đó. Dần dần, thế giới thay đổi hình dạng, càng
150
ngày càng rời xa tầng trời theo mức độ gia tăng
phiền não con người đã biểu lộ trong hành động
của thân, khẩu và ý. Trái đất hình phẳng phồng lên
để trở thành hình bầu dục và cuối cùng hình cầu.
Phải mất một thời gian dài để thay đổi hình dạng
của trái đất trong mỗi bước. Trong thời kỳ trái đất
hình cầu, tuổi thọ con người ít hơn một trăm nghìn
năm.
Thực Phẩm trong Những Ngày Đầu của Thế
Giới
Tuổi thọ của con người trong kỷ nguyên đầu tiên là
gần như vô hạn cho đến khi một người đàn ông
nào đó (có người nhiều người vẫn còn sống tại thời
điểm đó, không chỉ một hoặc hai) đã bị cám dỗ bởi
màu sắc và hương thơm của Đề Hồ của Trái Đất
đến nỗi muốn nếm thử. Chỉ bằng cách liếm Đề Hồ
của Trái Đất với lưỡi của mình, hương vị của nó đã
được hấp thụ và lây lan khắp cơ thể của mình. Y
thực sự yêu thích hương vị và ăn nhiều hơn. Các
người khác theo gương y và với kết quả của việc
ăn những Đề Hồ của trái đất này, hào quang của cơ
thể họ và độ sáng nội tâm của họ bắt đầu biến mất.
Cả thế giới rơi vào bóng tối và con người trở nên
sợ hãi.
151
Trong bóng tối, thần Suriya cùng với ánh nắng mặt
trời đột nhiên xuất hiện để xua đi bóng tối. Tại thời
điểm đó, đã có sự phát sinh của mặt trăng và các
ngôi sao để ban ngày, ban đêm, ngày, tháng, năm
và các mùa trở nên xác đáng. Những phát triển này
diễn ra trong một khoảng thời gian rất dài.
Thức ăn đặc không chỉ loại bỏ hào quang cơ thể
của họ, nhưng làm cho cơ thể của họ mất đi làn da
tươi sáng. Màu xậm của da thay đổi từ người này
sang người khác. Một số có làn da xậm, người
khác sáng hơn - tùy thuộc vào nghiệp từ những đời
trước và mức độ cảm thụ của họ trong quá khứ.
Khi sự khác biệt trở nên rõ ràng, những người da
sáng khinh rẻ những người da xậm. Kết quả của sự
kỳ thị này là cơ thể của họ trở nên cục mịch và họ
bị mất đi khả năng bay. Ngoài ra, khinh tội này
làm thay đổi môi trường. Đề hồ của trái đất biến
mất và trở thành một loại nấm. Nhưng vẫn còn
ngon, có mùi ngọt ngào và ngon miệng. Những
chúng sinh càng bị phiền não thống trị thì các
lương thực càng trở nên ít tinh chế. Các loại nấm
xuống cấp thành dây leo và cuối cùng thay đổi từ
dây leo xuống lúa.
Lúa trong thời đại đó khác với lúa bây giờ. Trấu
mỏng như vỏ dưa chuột để con người có thể ăn
toàn bộ hạt gạo màu trắng vàng, mà không cần
152
đập. Hương vị của nó ngon, dịu, thơm và đầy đủ
dinh dưỡng. Chỉ cần ăn nó có thể làm một người
đói giảm và mệt mỏi. Chiều dài của một hạt gạo
trong những ngày đó là khoảng một xải tay (theo
kích thước cơ thể của người dân tại thời điểm đó).
Một hạt gạo đủ cho ba đến năm người ăn. Khi
người ta muốn ăn, họ sẽ đặt hạt gạo ra trên một
loại đá bằng phẳng đặc biệt và gạo sẽ được tự động
nấu chín.
Do tầm vóc to lớn của con người trong thời kỳ đầu,
lớn hơn rất nhiều so với kích thước hiện tại, thân
cây lúa rất là lớn. Chiều cao của nó bằng cây dầu29
.
Thậm chí nó còn lớn hơn và cao hơn con người
trong thời đại đó. Thông thường, bông lúa thẳng
đứng. Tuy nhiên, khi lúa chín, bông lúa trĩu xuống
đến tầm tay với của con người. Sau khi hạt lúa đã
được hái, nó sẽ nhanh chóng mọc trở lại. Gạo này
có thể phát triển ở khắp mọi nơi.
Sự tồn tại của Nội tạng Người
Bởi vì có sự gia tăng trong số lượng thực phẩm thô
và kém hơn (do mức độ gia tăng phiền não trong
tâm trí con người), thực phẩm mà con người ăn
không thể được hấp thụ một cách hiệu quả như
29
Dipterocarpus alatus Roxb which is 40-45 meters tall
153
trước. Chất thải không tiêu được tích lũy trong cơ
thể và các cơ quan tiêu hóa xuất hiện cùng với các
cơ quan tình dục. Các cơ quan tình dục là nam hay
nữ phụ thuộc vào độ tinh khiết mà họ đã giữ Giới
thứ Ba trong những kiếp trước.
Các đặc điểm giới tính khác nhau giữa các cá nhân
khêu gợi một ham muốn tình dục giữa họ và cuối
cùng là khởi đầu của quan hệ tình dục. Quan hệ
tình dục trước đây chưa từng có đối với con người.
Đa số các cộng đồng xa lánh nhóm thiểu số những
người quan hệ tình dục, rầy la các cặp vợ chồng
khiến cho họ ngừng bằng sự chỉ trích, mắng mỏ
và cuối cùng xua đuổi. Xua đuổi được mô tả như
sau30
:
“Người nào bị bắt gặp giao hợp sẽ bị rải rác, với
bụi tro hoặc phân bò và chế giễu ‘Đồ vô lại! Chết
xuống địa ngục! Đồ vô lại! Chết xuống địa ngục!
Làm sao một người có thể làm được điều này với
người khác ...?’”
Tạo nơi Cư Trú
Các cặp vợ chồng có quan hệ tình dục, đã làm như
vậy trong bí mật. Họ đã xây dựng nơi trú ẩn của
riêng của họ, nơi họ có thể che giấu hành vi đáng
30
Aggañña Sutta D.iii.80
154
xấu hổ của họ. Họ xây dựng nhà cửa và ở ổn định.
Sau khi mọi người bắt đầu có quan hệ tình dục
rộng rãi hơn, lối sinh bằng tử cung sinh [jalaabuja]
bắt đầu trở nên phổ biến nhất. Từ thời đó trở đi con
người được sinh ra từ tử cung chứ không còn phát
sinh một cách tự nhiên nữa.
Một khi con người đã xây dựng nhà để ở, họ đã trở
nên quá lười biếng để săn tìm những hạt gạo và trở
thành tham lam. Khi họ đi ra ngoài tìm thân cây
gạo, thay vì chỉ thu thập đủ cho ngày hôm đó, họ
sẽ lấy nhiều hơn cần thiết và tích trữ nó. Khi lòng
tham của họ tăng lên, chất lượng của các thân cây
gạo trở nên tồi tệ hơn và kích thước trở nên nhỏ
hơn. Trấu gạo thành dày đặc. Hạt gạo không còn tự
mọc trở lại khi đã bị hái. Chúng bắt đầu trở nên
khan hiếm.
Sự sụt giảm từ các thần trời xuống thành con người
ở đầu thời gian đã được gây ra bằng cách rơi vào
sự cám dỗ của các Đề Hồ Trái Đất - trắng ra là sa
vào tham dục từ phần các vị Phạm Thiên. Sau khi
đã thử nó một lần, Phạm Thiên đã trở nên nô lệ
vào những phiền não của họ. Đề Hồ Trái Đất là sự
sụp đổ của họ cũng như mồi câu có thể là sự sụp
đổ của một con cá ngu ngốc.
Mặc dù các vị Phạm Thiên là con người ở thời kỳ
đầu, tuổi thọ của con người dài đến vô lượng kiếp.
155
Cuộc sống có thể lâu dài là bởi vì không có nhiều
ô nhiễm như bây giờ. Thời tiết và các mùa không
bị mất cân bằng mà vẫn điều hòa. Không có nhu
cầu cho nơi trú ẩn để tránh mưa và không cần bóng
mát để bảo vệ khỏi ánh nắng mặt trời. Hình dáng
của chúng sinh tương tự như các vị Phạm Thiên.
Không có nhu cầu làm việc để kiếm sống vì không
có khó khăn thực sự.
Thế giới vào đầu thời gian là một thế giới thoải
mái không có bất kỳ khó khăn nào. Nếu có bất kỳ
khó chịu, nó là không đáng kể và thường chỉ là
một việc làm kém vui. Ví dụ, khi có tình trạng
thiếu đề hồ trái đất, mọi người phải ăn các các loại
nấm ít tinh chế trong đất.
Một sự thay đổi đó có tác động lớn đến vẻ đẹp
hoặc xấu xa của làn da con người xảy ra vào đầu
thời gian khi mọi người bắt đầu ăn không phải vì
họ cần, nhưng bởi vì họ muốn. Bởi vì Phạm Thiên
có thọ lạc như là lương thực chủ yếu của họ, các
loại thực phẩm khác không cần thiết. Nếu không
chống lại nổi sự tham lam và bắt đầu ăn những
thức phù hợp với lương thực chủ yếu cho con
người, các yếu tố thô sẽ tồn tại trong cơ thể. Dư
lượng này làm cho chất lượng của làn da xấu đi.
Tuy nhiên, nếu tiêu thụ chỉ đủ để tồn tại, sẽ chỉ có
ít yếu tố thô trong cơ thể. Làn da sẽ vẫn trong sáng
156
- do đó, da của họ thấy hấp dẫn hơn so với những
người tiêu dùng nhiều hơn.
Nó có thể được so sánh với sơn đen pha với sơn
trắng. Bởi vì sơn màu trắng là màu của sự tinh
khiết, nên dù chỉ trộn vào một ít màu đen, nó sẽ
chuyển sang màu xám trắng. Tuy nhiên, nếu chúng
ta pha vào nhiều hơn, màu trắng sẽ trở thành màu
đen. Do đó, mọi người phân biệt đối xử với nhau
trên sự đánh giá về màu sắc của da họ.
Các cơ quan của các thần trời mất đi vẻ đẹp của họ
khi nó đã trở nên vững chắc hơn, giống như một
phản ứng tạo thành một hợp chất hóa học. Những
thay đổi trong cơ thể của họ chậm, tương tự như
những thay đổi của nước đặt trong tủ lạnh. Nước
bắt đầu như là một chất lỏng, nhưng một khi nó
được lạnh, nó sẽ nổi vân cẩm thạch và khi nó đạt
đến nhiệt độ nhất định, nó cuối cùng sẽ trở thành
băng. Nước không trở thành băng ngay lập tức.
Cũng như thế, cơ thể của thần trời thay đổi thành
con người qua quá trình hàng triệu triệu năm.
Cơ thể của con người nguyên thủy lớn hơn nhiều,
cao hơn và mạnh hơn so với ngày nay. Trong kinh
Phật như kinh Buddhava.msa kích thước của
những người thành Phật đã được mô tả. Một số cao
đến sáu mươi xải tay.
157
Trong lịch sử ít xưa hơn, những vũ khí bí ẩn kích
thước lớn đã được khai quật như các loại vũ khí
trong khu vực chôn cất Hoàng đế Tần Thủy
Hoàng. Ví dụ thêm được hiển thị trong Bảo tàng
Quốc gia Thái Lan, mặc dù chúng không phải là từ
sự khởi đầu thời gian. Chúng rõ ràng thuộc về
những con người có cơ thể rất lớn và rất mạnh mẽ,
cho thấy rằng những thay đổi trong môi trường có
tác động đến cơ thể con người trong những năm
qua. Khi môi trường và thiên nhiên trở nên tồi tệ
hơn, cơ thể con người trở nên nhỏ hơn, yếu hơn và
dễ bị bệnh. Tuy nhiên, như chúng ta đã học được,
những thay đổi trong môi trường tự nhiên bắt
nguồn từ những thay đổi trong chất lượng của tâm.
Kiểu Mẫu đầu tiên của Chính phủ trong Thế
giới này
Khi cây lúa đã trở thành khan hiếm và xa hơn nữa
từ chỗ ở, con người liền bắt đầu trở thành thổ cư và
thiết lập ranh giới xung quanh đất của họ. Một số
người ăn cắp gạo từ đất của người khác và cuối
cùng hành vi trộm cắp bắt đầu trở thành một vấn
đề. Khi những tên trộm bị bắt, chúng đã nói dối về
những gì chúng làm. Một số thậm chí còn hành
động hung bạo với những người khác làm tổn hại
158
đến chúng. Do đó, cộng đồng đã đồng ý thiết lập
một chính phủ để giữ luật pháp và trật tự.
Trong quá trình lựa chọn một nhà lãnh đạo cai trị
người dân, dân chúng phải tìm một người có đủ sự
khôn ngoan, sáng chói và hùng vĩ và tuyệt vời, đủ
để có khả năng chi phối tất cả mọi người. Một khi
họ tìm thấy một người nào với những phẩm chất
này, họ bầu ông làm vua cai trị đất nước. Vua của
đất nước đặt ra pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi
cho hòa bình và hạnh phúc trong cộng đồng. Đất
đã được phân chia một cách công bằng. Vì vậy,
người đầu tiên tôn trọng như một vị vua [Pali =
kasatriya], có nghĩa là một người rất xuất sắc trong
việc xử lý đất [Pali = kaseta]. Hệ thống chính phủ
này là hệ thống đầu tiên trên thế giới. Không giống
như ngày nay, vị vua trong thời kỳ đó trị vì như
một người cha chăm sóc cho con cái của mình.
Bên cạnh quá trình ra quyết định lựa chọn một vị
vua, có một số người nhìn thấy những người khác
tham gia trong việc làm sai trái, khuyến khích họ
chấm dứt. Những người tốt này đã lãnh đạo những
người khác tránh các hành vi vô đạo đức là tiền
thân của các Bà La Môn. Họ xây dựng những túp
lều phủ bằng lá rừng và tham gia vào thiền định
trên các đối tượng quán [kasi.na], mười hồi ức và
nội quán. Họ không đi ra ngoài và kiếm sống như
159
những người khác trong thế giới này, và thay vì
mua sắm thực phẩm lại tùy thuộc vào bố thí. Dân
làng thấy những người này là siêu trên vô đạo đức
và hành vi sai trái - một ví dụ về đạo đức mà dân
làng chưa thể tự thực hiện. Điều này khiến dân
làng thấy hạnh phúc khi hỗ trợ các Bà La Môn
bằng thực phẩm. Một khi họ đã nhận được bố thí,
họ tiếp tục tinh tấn quán tưởng cho đến khi phát
sinh thiền định. Những người này cũng được gọi là
‘chứng thiền’ [jhaayikaa].
Một số Bà La Môn đã tham gia thiền định nhưng
không thể tiến bộ. Thay vào quán tưởng, họ đi lang
thang trong cộng đồng và chép kinh. Những người
Bà La Môn này được biết đến như là những ‘giáo
thọ’ [ajjhaayika]. Trong thời đại cổ xưa, từ này có
thể là mỉa mai. Nhưng ngày nay, nó đã có một ý
nghĩa tích cực. Những người đã sống một cuộc
sống gia đình và đã làm việc để kiếm sống được
gọi là giai cấp làm việc [vessaa]. Sau đó thuật ngữ
[vessaa] được dành cho các thương nhân (những
người sở hữu doanh nghiệp) trong khi từ [suuda]
được dùng để chỉ người lao động hoặc lao động
chân tay.
Sinh sản Thú vật
160
Sau đó, các thú vật bắt đầu phát sinh trên thế giới
với những con voi và ngựa là loài nguyên sơ.
Chúng xuất hiện với số lượng lớn. Người ta có thể
thuần voi và ngựa như con thú làm việc cày bừa
đất và thú tải nặng sử dụng cho vận tải. Trước khi
sử dụng chúng, người ta thoạt tiên quây tất cả
những con vật này và lựa chọn các con vật có
phẩm chất tốt nhất để cung cấp cho nhà vua và sau
đó nhà vua phân chia các thú vật cho việc sử dụng
của công dân.
Một khi con người đã chọn một vị vua để cai trị xã
hội của họ, người ta phải vâng theo luật pháp ông
đã đặt ra. Tuy nhiên, mức độ phiền não trong tâm
trí con người không giảm bớt, mà trở nên tồi tệ
hơn. Vì vậy, các loại thực phẩm chủ yếu có sẵn trở
thành thô, thực phẩm thay đổi từ gạo thơm trước
đây để trở thành những hình thức thực phẩm ít bổ
ích và không ngon như rau và trái cây mọc tự
nhiên. Chúng xuất hiện dưới hình thức phát triển
đầy đủ. Không cần phải gieo một hạt giống và chờ
cho nó lớn lên. Một khi con người thấy điều này,
họ thu hoạch và ăn cùng với cơm. Ban đầu, ngay
cả những thân cây có thể được ăn sống và không
cần phải thêm gia vị hoặc nấu nướng như bây giờ.
Khi mức độ tham dục của con người tăng lên, các
hình thức mới của thú vật xuất hiện. Những con
161
vật này vốn là cư dân của các cõi không may trong
vũ trụ khác - một số là cư dân của địa ngục, ngạ
quỷ [peta], a tu la [asuurakaaya] hoặc súc sinh.
Khi vũ trụ những con vật này sống trước đây đến
tận cùng thọ mệnh, bởi vì những con vật này đã
chưa trả hết quả báo nghiệp xấu của chúng, chúng
được tái sinh trong vũ trụ này để tiếp tục trả hết
nghiệp của chúng. Con vật nào chịu quả báo trở
thành súc sinh được sinh ra như là súc sinh trong
vũ trụ mới này.
Thú vật trong thời đại nguyên thủy giống như con
người - tức là chúng được sinh ra bởi chế độ tự
phát phát sinh. Chúng sinh ra ngay lập tức ở dạng
người lớn mà không có nhu cầu cha mẹ. Các loại
thú vật được sinh ra tùy thuộc vào sự kết hợp của
tham, sân và si còn sót lại trong tâm. Hầu hết
những người được sinh ra như thú vật đều có một
ưu thế si mê. Tuy nhiên, nếu có nhiều sân hơn là
si, chúng sẽ có xu hướng được sinh ra là thú ăn
thịt. Nếu có nhiều ưu thế của tham hơn sân, thì sẽ
sinh ra một con vật ăn cỏ. Nếu tham và sân có tỷ lệ
ngang nhau, thú vật được sinh ra là một con ăn tạp.
Tham, sân và si giống như các màu cơ bản mà từ
đó bất kỳ màu nào khác có thể tạo ra. Sự kết hợp
của ba phiền não có thể cung cấp cho một quang
phổ đầy đủ các loài.
162
Các loại thú vật được sinh ra trước rất nhiều các
loài thú vật là voi và ngựa, được coi là thú vật cao
cấp và được sinh ra trong hoàn cảnh tự nhiên phát
sinh. Sau đó, các loại thú vật khác được sinh ra.
Thoạt tiên những con vật này cũng được sinh ra
trong cùng một kiểu tự phát phát sinh. Tuy nhiên,
có sự khác biệt giới tính rõ ràng giữa chúng. Nếu
chúng sinh có những tàn tích của sự quả báo phạm
giới thứ ba, chúng được sinh ra nữ. Nếu chúng
không có quả báo như vậy hoặc đã dứt quả báo nào
từng có, chúng sẽ được sinh ra nam. Một khi các
thú vật có giới tính khác nhau bắt đầu sinh sản với
nhau, một loại sinh mới được bắt đầu mà cần giao
tử từ cả nam và nữ. Trẻ bắt đầu được sinh ra từ
trứng và từ đó trở đi, tất cả các loài động vật được
sinh ra từ trứng chứ không phải là một cách tự
nhiên phát sinh.
Từ điểm này trở đi, thú vật có khuynh hướng là
các giống trở nên nhỏ hơn. Điều này bắt đầu với
các động vật cao cấp là voi và ngựa mả theo lịch
sử lớn hơn các dạng sống khác như bò, trâu, sư tử,
linh dương, hươu, nai, lợn, chó, mèo, vịt và gà. Cả
nam và nữ được sinh ra với số lượng rất lớn trong
tất cả các loại thú vật. Khi mức độ phiền não ở con
người tăng thêm, động vật nhỏ như kiến, mối,
muỗi và côn trùng khác đã trở nên phổ biến.
163
Từ thời điểm đó, có sự đa dạng hóa các loài động
vật. Một loạt lớn các loài phát triển vì những phiền
não của con người đa dạng và cùng với nó là sự trả
báo của những thú vật này. Sự đa dạng hóa này sẽ
tiếp tục cho đến khi tuổi thọ con người đạt đến
mức ngắn nhất. Tuổi thọ ngắn nhất của con người
là mười năm. Các loài thú vật sinh ra tại thời điểm
này sẽ có các thân hình lớn đặc biệt. Các con cự đà
nhỏ vào các thời điểm khác sẽ được sinh ra như là
các con cự đà lớn tại thời điểm này. Các loài thú
vật sinh ra trong thời đại này không còn được sinh
ra bằng cách tự phát phát sinh nữa.Thay vào đó,
chúng được sinh ra bởi sinh sản hữu tính và càng
tăng sự tàn bạo của chúng theo thời gian.
Con Người Bắt Đầu Ăn Thịt
Lý do mà con người bắt đầu ăn thịt là bởi vì những
người đã đến thế giới con người từ cõi địa ngục
mang theo khuynh hướng tức giận và hung hăng
[dosacarita] của họ với họ. Bởi vì trong cuộc sống
quá khứ chúng đã là thú ăn thịt động vật, khi
chúng được sinh ra làm con người, chúng vẫn
không thoát khỏi của sự cám dỗ để giết thịt. Khi
chúng gặp những thú vật đã từng giết chúng trong
cuộc đời quá khứ, sự vướng víu nghiệp quả cám dỗ
164
chúng muốn giết những thú vật này. Trong thời đại
đó, thú vật bị giết bằng cách ném đá hoặc bị đánh
đập bằng gậy.
Lúc đầu, những vướng mắc nghiệp quả đó thúc
đẩy người ta chỉ muốn giết. Chỉ sau đó rất lâu ý
nghĩ ăn thịt xác chết mới xảy đế với họ. Một khi
họ bắt đầu ăn thịt, họ trở thành nghiện hương vị.
Sau đó họ bắt đầu giết đặc biệt là để có được thịt
để ăn - và thịt đã trở thành một phần của chế độ ăn
uống của con người mãi cho đến ngày nay.
Khi ăn thịt đã trở nên phổ biến hơn một số người
hiểu lầm rằng thú vật được sinh ra chỉ đơn thuần
làm thực phẩm cho con người. Thoạt tiên trao đổi
thịt rồi trở thành mua và bán, một thị trường lớn
cho thịt và cuối cùng dung tiền tệ để chi trả cho nó.
Những vấn đề thảo luận ở đây liên quan đến sự
tiến hóa của con người chỉ đề cập đến những người
được sinh ra trong thế giới mà chúng ta đang sống
bây giờ, được gọi là Nam Thiệm Bộ Châu. Ngoài
thế giới chúng ta đang sống, cũng có những con
người được sinh ra trong ba châu lục khác của vũ
trụ. Đó là Bắc Câu Lư Châu, Đông Thắng Thần
Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Ban đầu, tuổi thọ
của con người sống trong những thế giới này rất
dài và kéo dài vô lượng kiếp. Khi phiền não trong
tâm con người tăng lên, nó khiến cho môi trường
165
trở nên kém lành mạnh. Đó là bởi vì công đức nuôi
dưỡng và hỗ trợ con người giảm xuống. Công đức
này ban đầu đến từ những hành động lành mạnh
của con người. Phiền não tăng lên do đó làm cho
tuổi thọ của con người giảm xuống hơn nữa.
Con người trong châu lục phía Bắc có tuổi thọ có
thể giảm đến 1.000 năm và sau đó nó vẫn không
đổi. Con người sống ở châu lục phía Đông có tuổi
thọ có thể bị giảm đến 700 năm và sau đó nó vẫn
không đổi. Và con người sống trong châu lục phíag
Tây có tuổi thọ có thể bị giảm đến 500 năm và sau
đó nó vẫn không đổi. Những con người sống trong
Nam Thiệm Bộ Châu có tuổi thọ có thể bị giảm
đến mười năm và sau khi nó đạt đến mười năm,
tuổi thọ của con người ở châu lục đó sẽ tăng cho
đến khi nó đạt đến chiều dài của một kiếp không
thể tính toán một lần nữa. Và một khi nó đạt đến
một vô lượng kiếp, nó bắt đầu giảm lại.
Trong mỗi vũ trụ, có cùng một tập hợp của bốn
châu lục. Tất cả các vũ trụ có tuổi thọ tương tự như
con người trên các lục địa phía Bắc, Đông và
phương Tây như một quy luật và theo năm giới.
Tất cả mọi người do đó có một cuộc sống an lành
và hạnh phúc. Tuy nhiên, Đức Phật luôn luôn lựa
chọn để được sinh ra trên Nam Thiệm Bộ Châu.
166
Kết luận
Có rất nhiều thay đổi trong thế giới của chúng ta
kể từ lúc bắt đầu của thời gian, một thần trời đã đi
xuống để ăn ‘Đề Hồ của Trái Đất’. Bởi điều này,
ông trở thành người đầu tiên trên thế giới của
chúng ta. Kể từ đó, lối sống của con người đã thay
đổi như chúng ta biết đến ngày nay. Nguồn gốc
của tất cả mọi thứ khởi từ tâm của chính con
người. Mặc dù các nhà khoa học đã không phát
hiện ra con người từ đâu đến, Đức Phật dạy chúng
ta qua kinh điển của Ngài là con người không tiến
hóa từ động vật như các nhà khoa học giả định.
Nếu kiến thức khoa học được so sánh với kiến thức
về Phật giáo, nó chỉ trông giống như các mảnh nhỏ
của toàn bộ sự thật. Ngay cả Albert Einstein, một
nhà khoa học trong thời đại mới, người đã phát
hiện ra Thuyết Tương Đối, vẫn bày tỏ quan điểm
của mình về Phật giáo:
“Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ
cần phải siêu xuất một Thượng Đế cá nhân và
tránh những giáo điều và thần học. Bao gồm cả tự
nhiên và tinh thần, nó phải được dựa trên một cảm
nhận tôn giáo phát sinh từ kinh nghiệm của tất cả
mọi thứ, tự nhiên và tinh thần, có ý nghĩa như một
sự thống nhất. Phật giáo trả lời được yêu cầu này.
167
Nếu có một tôn giáo nào có thể thỏa mãn nhu cầu
khoa học hiện đại, nó sẽ là Phật giáo.”31
Thực tế, lý do Đức Phật đã dạy về vũ trụ, thế giới,
con người và thậm chí cả nguồn gốc của những
việc này là để tiết lộ nguồn gốc của Phạm Thiên và
hệ thống giai cấp. Kinh này được dự định để khôi
phục lại niềm vui và niềm tự hào về việc trở thành
tỳ kheo Phật giáo cho các vị Vase.t.tha và
Bharadvaaja. Đức Phật không có ý định nói về
nguồn gốc của thế giới trực tiếp bởi vì Ngài không
bao giờ nghĩ kiến thức này sẽ giúp mọi người vượt
lên trên đau khổ. Thông thường, nếu có ai hỏi câu
hỏi Đức Phật về nguồn gốc của thế giới, Ngài sẽ
không trả lời. Một lần, có ngay cả một nhà sư đã
đe dọa sẽ lột y giữa chúng nếu Đức Phật không trả
lời câu hỏi của mình liên quan đến nguồn gốc của
thế giới - ngay cả như vậy, Đức Phật vẫn không trả
lời câu hỏi này bởi vì Ngài tin rằng nó sẽ không
làm lợi lạc cho nhà sư chút nào. Tuy nhiên, bởi vì
Đức Phật đã gom góp rất nhiều công đức và
nghiệp tốt để Ngài có thể đạt được mục tiêu của sự
Giác Ngộ như một vị Phật, Ngài biết rằng Ngài
31
May 19th, 1939, Albert Einstein’s speech on “Science and Religion” in
Princeton, New Jersey, U.S.A.
168
không chỉ muốn có kiến thức về mọi thứ. Ngài
muốn giúp tất cả thoát khỏi đau khổ. Vì lý do này,
Ngài tiết lộ nguồn gốc của thế giới cho Vase.t.tha
và Bharadvaaja bởi vì nó mang lại lợi ích cho họ.
Trong kết luận, khi nghiên cứu vũ trụ học, nếu
chúng ta nghiên cứu chỉ đơn thuần là để nâng cao
kiến thức của chúng ta, nó sẽ không phục vụ bất kỳ
mục đích gì cả, đi ngược lại mục tiêu của Đức Phật
giảng dạy các tài liệu này. Tuy nhiên, nếu chúng ta
nghiên cứu nó và nó giúp chúng ta trở nên nhàm
chán sự đau khổ của chu kỳ sinh tử, nó sẽ chúng ta
them tinh tấn để chúng ta không phải quay trở lại
chu kỳ tái sinh này thêm một lần nữa. Đó sẽ là lý
do dư thừa để nghiên cứu chủ đề này.
169
Chương 5
Suy thoái Phổ quát gây ra bởi Thiếu Đạo Đức
Các phần trong Chương này 5.1 Thế giới đã Thoái hóa kể từ khi khởi đầu 5.2 Niên đại của những Sự kiện Thoái hóa 5.3 Thoái hóa Bắt đầu từ Người Cai Trị 5.4 Sự xuất hiện của Thoái hóa trong xã hội loài người 5.5 Thoái hóa đến mức khủng hoảng 5.6 Nguồn gốc của sự Thoái hóa nơi Loài người 5.7 Bảo vệ thế giới và khiến nó được Thịnh vượng 5.8 Lợi ích của Hiểu biết về Thịnh vượng và Thoái hóa nơi loài người
Khái quát về Chương này
1. Sự thoái hóa chất lượng của đời sống con người
đã được khởi động bằng cách ăn thức ăn đặc bởi
những chúng sinh nguyên thủy sống trên thế giới -
một hành động dẫn đến biến đổi sâu hơn trong môi
trường con người và vật chất và hậu quả là xấu đi
chất lượng cuộc sống của con người. Những tài
170
nguyên thiên nhiên trước đây phong phú trở nên
cạn kiệt. Phân biệt đối xử và hung bạo bắt đầu nuôi
dưỡng đầu xấu xí của họ.
2. Sự thoái hóa trong xã hội con người trở nên
nghiêm trọng hơn khi những người có quyền lực
thực hiện chính sách bất công - và thay vì giải
quyết các vấn đề xã hội, đã khiến chúng trở nên tồi
tệ hơn.
3. Sự suy thoái dẫn đến sự thiếu hiểu biết của con
đường Thập Thiện Nghiệp và người ta sa vào con
đường Thập Ác Nghiệp. Hành vi bất thiện như vậy
chỉ làm tồi tệ hơn sự suy thoái mà con người đang
kinh nghiệm.
4. Biết được nguyên nhân gốc rễ của sự thoái óa
chất lượng cuộc sống con người. nó trở nên rõ ràng
rằng chỉ hành vi thiện một mình có thể bảo vệ thế
giới và dẫn đến sự thịnh vượng.
Mục đích Chương này
Chương này cung cấp cho sinh viên những kiến
thức và sự hiểu biết để có thể:
1. Giải thích một cách chính xác làm sao hành vi
của con người có thể là nguyên nhân gốc rễ của
suy thoái hoặc sự thịnh vượng trên thế giới.
171
2. Mô tả các kết quả nghiệp báo của từng hình thức
của hành động thiện và bất thiện một cách chính
xác.
Nhập Đề
Từ chương trước, chúng ta đã học vũ trụ và tất cả
những vật trong nó được hình thành bởi sự kết hợp
của bốn đại (đất, nước, lửa, gió) như đã đề cập ở
chương 2. Sự xuất hiện của các thành phần của vũ
trụ đã được trình tự dần dần và đã diễn ra trong
một thời gian dài. Những khoảng thời gian tham
gia là vượt xa phạm vi của các đơn vị thông
thường của thời gian. Cấu trúc đầy đủ hình thành
của vũ trụ được mô tả trong chương 3. Sau đó, tiếp
theo sự hình thành của vũ trụ và trái đất, con người
phát sinh. Ban đầu, con người phát sinh theo
phương thức tự phát phát sinh và chỉ có thọ lạc chứ
không phải ăn thức ăn rắn. Không cần phải tiêu thụ
thực phẩm sờ mó được. Sau đó, có nhiều thay đổi.
Bắt đầu từ thời điểm các chúng sinh ăn thức ăn
rắn, hào quang của họ biến mất. Sự khác biệt giới
tính nam và nữ trở nên rõ ràng, họ định cư tại nhà
và vùng lãnh thổ được phân chia cho đến khi vị
vua đầu tiên được lên ngôi. Chương này mô tả làm
thế nào sự suy thoái của vũ trụ và mọi thứ trong đó
172
đã xảy ra bởi vì hành vi của con người đã sa ngã
vào những phiền não của tham, sân và si.
5.1 Thế giới đã thoái hóa kể từ khi khởi đầu
Theo định nghĩa của chúng ta, sự thoái hóa phổ
quát có nghĩa là không chỉ sự thoái hóa của vũ trụ,
mà tất cả những vật trong nó nữa. Các triệu chứng
của sự thoái hóa của vũ trụ không chỉ trở nên rõ
ràng trong ‘lần cuối cùng’ của vũ trụ, mà bắt đầu
biểu hiện từ cách nhỏ ngay khi những thay đổi đầu
tiên xảy ra vào lúc bắt đầu của lịch sử.
Ngay lập tức sau khi cấu trúc của vũ trụ đã rơi vào
vị trí, tốc độ thay đổi (entropy) trong vũ trụ là rất
nhẹ - tuy nhiên, với sự xuất hiện của con người,
tốc độ thay đổi đột ngột tăng tốc - và điều này đã
tiếp tục đến ngày nay. Liên lạc của con người với
thiên nhiên đã không chỉ thay đổi thiên nhiên,
nhưng cũng đã phản ánh trên con người để thay
đổi ngay chính chất lượng cuộc sống của mình - và
khi quán sát chúng ta thấy rằng phần nhiều trong
số những thay đổi này đã gây thiệt hại cho con
người và thiên nhiên như nhau.
Ban đầu khi con người vẫn còn là Phạm Thiên của
Trời Quang Âm, họ đã có một làn da rạng rỡ và
hào quang sáng, không phải phụ thuộc vào ánh
173
sáng bên ngoài, đã có một cơ thể nhẹ nhàng và
vượt qua giới tính, có thể bay và đi bộ trong không
khí, không phải tiêu thụ thức ăn đặc bởi vì họ đã
duy trì thọ lạc. Những con người có tuổi thọ dài
với rất ít sự đau khổ. Tuy nhiên, một khi những
chúng sinh này đã sa ngã vì hương vị thơm ngon
của Đề Hồ trái đất, bởi vì họ không thể kiềm chế
tham dục của mình cho nó, các bánh xe của thoái
hóa đã được khởi sự chuyển động cho con người
và môi trường vật lý.
Con người thay đổi để hào quang trước đây của họ
đã bị mất, cơ thể mất đi sự sáng ngời, sự khác biệt
giới tính xuất hiện cùng với các cơ quan nội bộ (cơ
quan nội tạng phát triển theo nhu cầu mới để tiêu
hóa thức ăn đặc), họ không còn có thể bay trong
không khí như trước và bị dính đất, phải di chuyển
từ nơi này đến nơi khác bằng chân.
Khi hành vi con người thay đổi, những thay đổi vật
lý cũng bắt đầu diễn ra trong vũ trụ. Từ không gian
trống rỗng, các thành phần của cấu trúc vũ trụ bắt
đầu xuất hiện. Những điều đã tồn tại biến mất hoặc
bị giảm hoặc xuống cấp về chất lượng và số lượng.
Mặt trời và mặt trăng xuất hiện, đem ánh sáng cho
vũ trụ. Sau đó, đến các ngôi sao và bắt đầu một
ngày và một đêm và luân chuyển của các mùa. Gió
thổi và có nóng và lạnh. ‘Đề Hồ Trái đất’ dần cạn
174
kiệt và bị thay thế bằng một loại thức ăn thô mà
sau này cũng tự biến mất.
Như vậy, rõ ràng rằng suy thoái không phải là một
cái gì đó chỉ mới bắt đầu, nhưng đã xảy ra kể từ
khi bắt đầu của lịch sử - hay chính xác hơn, kể từ
khi bắt đầu có con người trong vũ trụ. Ngay sau
khi con người xuất hiện trong vũ trụ, thế giới bắt
đầu xấu đi. Tuy nhiên, vì sự suy thoái không được
rõ ràng, có vẻ như chỉ có những thay đổi tự nhiên
khi môi trường sống đạt trạng thái cân bằng. Tuy
nhiên, khi quán sát những thay đổi cả về chất
lượng của cuộc sống con người và môi trường,
kinh điển Phật giáo cho chúng ta biết rằng nó đã là
một cuộc suy thoái liên tục kể từ sự ra đời của lịch
sử nhân loại. Như vậy, có thể nói rằng thế giới đã
xấu đi kể từ lúc bắt đầu.
5.2 Niên đại của những Sự kiện Thoái hóa
Để trình bày sự suy thoái xảy ra nhu thế nào,
những gì sau đây là một trình tự chi tiết thời gian
của các sự kiện tiền sử đã đề cập đến trong chương
4. Những thay đổi đầu tiên diễn ra trong màu da
của con người. Làn da trở nên xậm hơn cho những
người ăn nhiều ‘Đề Hồ Trái Đất’ và sang hơn ở
những người ăn ít. Những người da sáng khinh rẻ
175
những người da sẫm màu hơn, và vì thái độ phân
biệt đối xử, ‘Đề Hồ Trái Đất’ biến mất và được
thay thế bởi một cây nấm như thực phẩm. Vì nấm
này thô hơn so với ‘Đề Hồ Trái đất’, làn da của họ
thay đổi tương ứng. Con người càng ăn nhiều thì
họ càng thay đổi nhiều. Sự khác biệt của màu da
làm trầm trọng thêm sự phân biệt đối xử, làm thức
ăn như nấm biến mất. Khi thức ăn giống như nấm
đã biến mất, một dây leo như thực phẩm xuất hiện
trong vị trí của nó.
Sau đó, khi hành vi của con người bị suy thoái
thêm, lúa mì xuất hiện ở vị trí của dây leo. Lúa mì
có một thân cây cao và các hạt lớn mà không có
trấu. Các hạt lúa bổ dưỡng và ăn ngon. Lúa mì có
thể phát triển hoang dã, bất cứ nơi nào. Khi các hạt
đã được hái, nó sẽ phát triển trở lại giống hệt như
trước nhiều lần như nó đã từng được hái. Mặc dù
thực phẩm đã được phong phú, con người trở nên
lười biếng và không muốn đi hái lúa mì mỗi ngày.
Họ hái nhiều hơn so với sự cần dùng hàng ngày và
tích trữ dư thừa. Do đó, lúa mì bị xuống cấp và
phát triển trấu... Một vỏ trấu xuất hiện. Sau khi gặt,
hạt lúa mì không còn phát triển trở lại và lượng lúa
mì đã trở thành khan hiếm. Nó không còn phát
triển ở bất cứ nơi nào – mà bây giờ chỉ còn phát
triển trong vùng. Các hạt và thân cây đã trở thành
176
kích thước nhỏ hơn. Sự bổ dưỡng và ngon của lúa
mì giảm sút đi tương ứng.
Lúa mì không phải dễ dàng tìm thấy như trước. Vì
thế, người ta phân chia vùng lãnh thổ và làm ranh
giới xung quanh họ. Tuy nhiên, có một số cá nhân
không dựa vào lúa mì được trồng trên lãnh thổ của
mình, nhưng ăn cắp từ các vùng láng giềng của họ.
Những tên trộm đã bị bắt và được khuyên răn, tuy
nhiên khi được thả, đã trở lại ăn cắp như trước. Khi
bị bắt một lần nữa, họ đã nói dối phủ nhận những
gì họ đã làm. Các đối số tiếp theo và bạo lực đã
khiến xã hội phải tìm một giải pháp cho vấn đề của
sự bất công.
5.3 Thoái hóa Bắt đầu từ Người Cai Trị
Dân chúng quyết định chọn một người cầm quyền
chịu trách nhiệm cho các quyết định công lý cho
những kẻ sai trái. Từ đó trên, xã hội con người bị
chi phối bởi một vị vua. Một số người cầm quyền
như vậy có công đức và sức mạnh đầy đủ và đã trở
thành Vua Chuyển Luân người quản lý đất đai một
cách công bằng bởi đức hạnh của Phật giáo. Một vị
vua như vậy cai trị tất cả bốn châu lục vũ trụ và
được ưu đãi với bảy báu vật: các bánh xe báu, voi
báu, ngựa báu, châu báu, người phụ nữ báu, thủ
177
quỹ báu và các tướng báu. Ngài đã chiến thắng kẻ
thù của mình chỉ đơn thuần vì sự hiện diện của
ngài.
Một vị Chuyển Luân Vương tên Da.lhanemi32
trị
vì cho đến khi ông nhận thấy rằng bánh xe báu của
ông đã trượt từ vị trí bình thường của nó (chỉ ra
rằng công đức cần thiết để cai trị một cách công
bằng đã bị kiệt quệ), do đó ông thoái vị ủng hộ con
trai mình và từ bỏ thế giới, trở thành một ẩn sĩ
sống trong rừng. Bảy ngày sau đó, bánh xe báu đã
biến mất hoàn toàn. Để làm cho bánh xe báu trở về
vị ẩn sĩ khuyên vua mới thực hành các nhân đức
của một Chuyển Luân Vương [cakkavatti-vatta],
cụ thể là:
1. Để cai trị đất một cách công bằng, bảo vệ cuộc
sống con người và thú vật - không cho phép bất
công được diễn ra trong vương quốc của mình.
2. Để giải ngân tài sản cho những người cần.
3. Yêu cầu giảng pháp từ những tu sĩ hay Bà La
Môn là những gì cấu thành thiện nghiệp hoặc ác
nghiệp, nghiệp phải làm, nghiệp phải tránh, nghiệp
đem lại lợi ích và hạnh phúc và nghiệp có hại và
đau khổ. Trên cơ sở của những giáo lý này, chỉ
32
Cakkavatti Sutta D.iii.58
178
hành động phù hợp với những gì là thiện và tránh
xa những gì là ác.
Người con trai nghe lời của người cha và hành
động phù hợp. Bánh xe báu xuất hiện trở lại. Sử
dụng bánh xe báu, ông đã có thể đi du lịch đến tất
cả các châu lục vũ trụ và đã có thể cai trị tất cả
chúng một cách đúng đắn theo lời mời của các vị
vua của mỗi lục địa. Trên mỗi lục địa ông chỉ thị
cho các đại chúng công dân:
"Không sát sanh."
"Không lấy của không cho."
"Không phạm tội ngoại tình."
"Không nói dối."
"Không được uống rượu."
Và cho phép các vua của lục địa đó để cai trị như
trước đây dưới quyền thống trị của mình. Như vậy,
Năm Giới không có gì là mới với thời đại chúng ta.
Chúng là những gì đã đảm bảo hòa bình và hài hòa
trong thế giới rất lâu trước khi có Phật giáo. Đức
Phật đã không tạo nên các giới - chúng là một
truyền thống lâu đời của các Chuyển Luân Vương.
Vì khi còn một Chuyển Luân Vương tồn tại trên
trái đất, ngài sẽ dạy cho con dân của mình giữ
Năm Giới. Ví khi nào dân chúng còn giữ năm giới,
hòa bình và hạnh phúc sẽ còn mãi - và sẽ không có
mối đe dọa xâm lược.
179
Sáu thế hệ sau của Chuyển Luân Vương theo ví dụ
của mình. Khi vị Chuyển Luân Vương thứ bảy
thấy rằng bánh xe báu đã chuyển từ vị trí của nó,
ngài đã trở thành một ẩn sĩ và truyền cho con trai
của mình để thực hiện truyền thống của một
Chuyển Luân Vương. Bảy ngày sau đó, bánh xe
báu biến mất hoàn toàn. Người con trai lên ngôi,
chỉ đơn thuần là thương tiếc sự biến mất của các
bánh xe báu, mà không đi tìm kiếm sự hướng dẫn
từ cha mình về sự tu tập của một Chuyển Luân
Vương. Ông chỉ cai trị vương quốc của mình bằng
sự mò mẫm.
5.4 Sự Xuất hiện của Thoái hóa trong Xã hội
Loài người
Như là một kết quả của các thiếu sót trong hành vi
của mình, vương quốc đã không tận hưởng sự
thịnh vượng mà nó đã thực hiện theo chế độ quân
chủ trước. Sau đó, các Bộ trưởng đã thông báo cho
vua của các lý do có thể xảy ra khó khăn trong
vương quốc của họ và thúc giục ngài tìm hiểu về
cách tu tập của một Chuyển Luân Vương từ những
người còn có thể ghi nhớ chúng. Ngài đã có thể
tìm hiểu các chi tiết của việc tu tập của một
Chuyển Luân Vương theo cách này - nhưng ngài
180
đã không đem tất cả chúng ra thực hành. Ông chắc
chắn không có sự bất công nào diễn ra trong vương
quốc của mình, nhưng ông đã quên bố thí cho
người nghèo. Trong trường hợp không có sự giúp
đỡ, đói nghèo đầy dẫy và do đó hành vi trộm cắp
đã trở thành phổ biến rộng rãi. Khi những tên trộm
đã bị bắt giữ, chúng khai rằng chúng đã buộc phải
đánh cắp bởi vì chúng không có cách nào khác để
mua sắm tài sản. Chỉ sau đó vua đã cung cấp cho
chúng, với hy vọng chúng sẽ kiếm được một sinh
hoạt thích hợp thay vì của trộm cắp.
Khi những người khác biết được rằng nhà vua đã
ưu tiên bố thí kẻ trộm, họ cũng ăn cắp với hy vọng
nhận được sự hỗ trợ của hoàng gia. Nhà vua nhận
thấy rằng nếu ông tiếp tục chính sách này, hành vi
trộm cắp sẽ sớm có đầy rẫy trong vương quốc của
mình. Thay vào đó, ông trừng phạt những kẻ trộm
bằng cách cạo đầu họ, buộc họ đi diễu hành trưóc
công chúng, sau đó chặt đầu chúng và bêu đầu
chúng trên cọc nhọn. Khi kẻ trộm phát hiện ra sự
trừng phạt vì tội ăn cắp đã được tăng lên án tử
hình, họ mài sắc vũ khí của họ, và cắt đầu những
người mà họ đã đánh cắp. Giết người trở nên đầy
rẫy trong vương quốc.
Kể từ khi hình phạt vì tội ăn cắp là án tử hình, nếu
kẻ tình nghi bị bắt giữ và thẩm vấn, chúng sẽ nói
181
dối phủ nhận sự tham gia của chúng. Nói dối do đó
đã trở thành phổ biến. Lý do chính cho tất cả các
vụ giết hại, trộm cắp, nói dối trong vương quốc là
vì nhà vua đã không tu tập hạnh của Chuyển Luân
Vương kể từ khi bắt đầu bằng cách bố thí cho
người nghèo.
Khi giết hại thú vật và con người trở nên đầy rẫy,
cùng với nói dối, tuổi thọ của con người bị giảm
bớt. Làn da của người dân mất đi vẻ sáng của mình
hơn nữa. Với sự suy giảm tuổi thọ và da trong thế
hệ đầu tiên, những người của thế hệ thứ hai đã bị
ảnh hưởng nặng nề hơn. Những đứa trẻ với một
tuổi thọ của cha mẹ khoảng 80.000 năm tuổi sẽ có
tuổi thọ chỉ khoảng 40.000 năm. Khi thế hệ với
tuổi thọ chỉ có 40.000 năm này tiếp tục ăn cắp và
nói dối, con cái của họ được để lại với tuổi thọ chỉ
còn khoảng 20.000 năm.
Khi tuổi thọ con người giảm còn 20.000 năm,
nhiều người tìm cách nói lời đâm thọc. Khi kẻ
trộm bị bắt, chúng mạ lị người khác buộc tội trộm
cắp cho họ. Do sự tự kỷ của họ bị thêm thiếu xót,
làn da và tuổi thọ con người càng tệ hơn đi nữa.
Các thế hệ sau được để lại với tuổi thọ chỉ còn có
10.000 năm và làn da của họ trở nên tồi tệ, khiến
cho một số người có làn da tốt hơn và một số tồi tệ
hơn. Những người có làn da sẫm màu hơn coi
182
những người khác với sự nghi ngờ và cam kết tội
ngoại tình với vợ của người khác.
Như là một kết quả của con số ngày càng tăng của
nghiệp xấu được thực hiện bởi những con người,
thế hệ kế tiếp sinh ra đã có một tuổi thọ giảm còn
5.000 năm. Khi thêm hai loại hành vi bất thiện đã
trở thành phổ biến rộng rãi trong dân gian là nói
lời ác khẩu (chửi thề) và nói chuyện vô ích giảm
tuổi thọ của thế hệ tiếp theo chỉ còn 2,000-2,500
năm.
Với thế hệ tuổi thọ 2.000 năm, tham lam và sự trả
thù đã trở thành phổ biến rộng rãi trong xã hội loài
người và sự hung bạo đã trở thành phổ biến hơn.
Tuổi thọ và làn da xấu đi hơn nữa. Tuổi thọ đã
giảm đến 1.000 năm và ở thế hệ này Tà Kiến trở
nên phổ biến. Tuổi thọ và làn da xấu đi hơn nữa để
thế hệ kế tiếp còn với tuổi thọ 500 năm. Tuổi thọ
500 năm thế hệ đã chứng kiến sự xuất hiện của ba
tệ nạn xã hội hơn nữa trong thâu góp vô đạo
[adhamma raaga] tham lam vô tận [visama-lobha]
và đam mê bất thường [micchaa-dhamma]. Tuổi
thọ và làn da xấu đi hơn nữa để thế hệ kế tiếp với
tuổi thọ chỉ có 200-250 năm.
Với thế hệ tuổi thọ 250 năm, xã hội suy thoái đến
nỗi người ta không còn kính mến cha mẹ, người
già, các nhà sư hoặc tu khổ hạnh.
183
5.5 Thoái hóa đến mức Khủng hoảng
Kể từ khi con người sa ngã vào hành vi bất thiện
ngày càng nhiều hơn, và hành vi thiện ngày càng ít
hơn, tuổi thọ và sắc da tiếp tục xấu đi cho đến khi
tuổi thọ con người chỉ còn lại mười năm. Mọi
người sẽ đến tuổi lập gia đình lúc lên năm. Các
món ngon tốt nhất còn lại tại thời điểm đó, bơ sữa
trâu lỏng, mật ong, mật đường và muối - đã hoàn
toàn cạn kiệt. Thực phẩm tốt nhất còn lại là cỏ ‘câu
xa’ - tương đương với gạo, lúa mì hoặc thịt trong
thời điểm hiện tại.
Trong thời đại đó, không còn một đường lành nào
trong thập thiện nghiệp được tồn tại, toàn thể xã
hội đã rơi vào con đường thập ác nghiệp. Không
còn ai yêu mến cha mẹ, người già, các thày tu hoặc
người khổ hạnh nữa - và những người này lại được
xã hội ca ngợi. Người ta không còn biết sự khác
biệt giữa thiện hoặc ác nữa. Người ta bị bận tâm
bởi những thứ không phải dành cho sự giác ngộ
[asaddhamma] và bừa bãi về những người mà họ
đã ‘phối hợp’ - có thể là cha mẹ, anh chị em, người
thân, bạn bè, sinh viên hoặc giáo viên. Tình dục
của họ không khác nhau với thú vật.
184
Bên cạnh quan hệ tình dục bừa bãi của con người
thời đó cũng là bạo lực và tàn nhẫn đối với nhau,
săn bắn nhau như một con mồi - có thể là cha mẹ,
anh em hoặc chị em, người thân, bạn bè, sinh viên
hoặc giáo viên. Nó đã kết thúc với một cuộc tàn sát
bảy ngày được biết đến như ‘satthantarakappa’.
Dân số con người tất cả giết nhau ngoại trừ một
nhóm người đã chạy trốn vào khu rừng, thung
lũng, hải đảo với suy nghĩ, “Có thể chúng ta không
giết những người khác và cầu cho những người
khác đừng giết chúng ta!” Trong nơi hoang dã, họ
sống sót bằng rễ củ và các loại trái cây trong rừng
làm thực phẩm. Sau khi cuộc tàn sát bảy ngày đã
qua, họ xuất hiện khỏi chỗ trốn. Khi họ ôm nhau,
họ nhận ra rằng sự thoái hóa đã xảy ra vì sự suy
thoái của con người vào hành vi bất thiện. Từ nay
trở đi, họ thuyết phục nhau là sống trong hạnh lành
và tránh sự cố giết chết. Khi họ đã làm càng ngày
càng nhiều thêm những hạnh lành, tuổi thọ và sắc
da tốt thêm mỗi thế hệ. Con cái của thế hệ đó đã có
một tuổi thọ là hai mươi năm. Thế hệ mới đã làm
những hạnh lành nhiều hơn các thế hệ tổ tiên, và
tuổi thọ và sắc da của họ cũng được cải thiện
tương xứng.
185
5.6 Nguồn Gốc của sự Thoái Hóa nơi Loài
Người
Vì sự suy thoái trong xã hội loài người xảy ra dần
dần theo thứ tự được mô tả, và chủ yếu là con
người rốt lại nhận được những đau khổ từ sự thoái
hóa. Tất cả mọi người đều có những mức độ phiền
não trong tâm trí của họ - nhưng khả năng để đạt
được thành công của họ phụ thuộc vào sự tỉnh giác
của họ về những phiền não này – và khi đã tỉnh
giác với những phiền não này, thì họ có hành động
để loại bỏ chúng hay không. Nếu họ đã không cố
gắng để khắc phục những phiền não ấy, họ sẽ chỉ
là những con rối bị ảnh hưởng xấu xa trong tâm trí
của họ. Nếu họ tràn ngập với phiền não, họ sẽ sa
ngã vào sự tham lam, sân hận, và si mê trong tâm
trí của họ.
Một khi con người bị phiền não sai sử, họ có xu
hướng làm những điều bất thiện. Hành vi bất thiện
của họ khởi động sự mở rộng vòng tròn của thoái
hóa. Từ niên đại suy thoái diễn ra trong kinh
Cakkavatti, trình tự của cuộc suy thoái trong bất
thiện được hiển thị cho đến khi cả hai, con người
và môi trường, phải chịu hậu quả nghiêm trọng.
Sau khi nhà vua đã không thực hiện các nhiệm vụ
của một Chuyển Luân Vương như người tiền
186
nhiệm của ông đã làm, hành vi bất thiện đầu tiên
người ta làm là ăn cắp [adinnadaana]. Các hành vi
bất thiện sau họ đã làm là giết chết
[paa.naatipaata], nói dối [musaavaada], nói lời
đâm thọc [pisu.navaacaa], ngoại tình
[kaamesumicchacaara], chửi rủa [pharusavaacaa]
và nói chuyện tào lao [samphapplaapa], tham lam
[abhijjhaa] , sân hận [byaapaada] và Tà Kiến
[micchaa-di.t.thi].
Ngoài việc sa ngã vào con đường Thập Ác Đạo,
điều tiếp theo mà con người không chống lại nổi là
chấp trước vô đạo [adhamma-raaga], tham lam vô
tận [visama-lobha], tham dục vô độ [micchaa-
dhamma]. Khi ba thái độ này trở nên phổ biến, xã
hội suy thoái tới điểm người ta không còn yêu mến
cha mẹ, giáo viên, người già, các nhà sư hoặc tu
khổ hạnh.
Từ thời gian đó trở đi, co đến khi tuổi thọ con
người đã giảm đến mười năm, con người không hề
còn kính trọng cha mẹ, giáo viên, người già, các
nhà sư hoặc tu khổ hạnh. Họ giao phối bừa bãi như
thú vật. Cuối cùng, họ trở nên hung dữ và độc ác,
săn bắn nhau như một con mồi.
Các hành vi con người cụ thể dẫn đến sự thoái hóa
của thế giới được đề cập đến trong Phật giáo gọi là
con đường Thập Ác Đạo. Đây là nghiệp mà cuối
187
cùng dẫn đến tan rã, đau khổ, và cuối cùng là
những Cảnh Giới bất hạnh. Con đường Thập Ác
Đạo có thể được phân loại theo ba phương thức
hành động của thân, khẩu và ý:
Bất thiện của thân hành bao gồm:
1. Giết chết [paa.naatipaata] con người, thú vật và
ngay cả tự tử.
2. Ăn cắp [adinnadaana] là lấy những điều không
được cho.
3. Tà dâm [kaamesumicchaacaara] cụ thể là vi
phạm ngoại tình và tất cả các loại quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân.
Bất thiện của khẩu hành bao gồm:
1. Nói dối [musaavaada].
2. Đâm thọc [pisu.naavaacaa].
3. Chửi rủa [pharusavaacaa].
4. Nói chuyện tầm phào [samphaplaapa].
Bất thiện của ý hành bao gồm:
1. Tham lam [abhijjhaa].
2. Sân hận [byaapaada].
3. Tà kiến [micchaa di.t.thi].
188
Tà kiến bao gồm mười thái độ sau đây mâu thuẫn
với thực tế liên quan đến cuộc sống và thế giới, cụ
thể là sự hiểu biết rằng:
1. Chia sẻ là thừa thãi.
2. Làm việc công ích là không cần thiết.
3. Đức hạnh không cần phải được tôn vinh.
4. Việc tốt và xấu chẳng có kết quả nghiệp báo
nào.
5. ‘Thế giới’ không thực sự tồn tại.
6. Không có cuộc sống sau khi chết.
7. Chúng tôi không mắc nợ với mẹ của chúng tôi.
8. Chúng tôi không mắc nợ với cha của chúng tôi.
9. Chúng tự phát phát sinh không tồn tại.
10. Những người giác ngộ khôn ngoan không có
thực.
Từ thời điểm khi dân số con người sa đọa vào Tà
kiến, họ đóng cửa với tất cả điều thiện, tất cả mọi
người sa ngã vào chấp trước vô đạo [adhamma-
raaga], tham lam vô tận [visama-lobha], tham dục
vô độ [micchaa-dhamma]. Xã hội xuống cấp đến
điểm mà người ta không còn yêu mến cha mẹ,
người già, các tu sĩ hay nhà tu khổ hạnh - và điều
này đi xa hơn nữa đến độ có giao phối bừa bãi và
cuối cùng giết chết bừa bãi.
189
Mười loại Tà kiến che khuất bất kỳ kiến thức thực
sự hay sự hiểu biết của con người và kết quả là
chúng bao gồm không tin vào chia sẻ, phúc lợi xã
hội, đạo đức, nghiệp báo, nợ của lòng biết ơn đối
với cha mẹ, cuộc sống sau khi chết. Do đó họ
không có bất kỳ lương tri về hành động của họ và
trở thành con rối hoàn toàn cho sức mạnh của
phiền não mang lại sự sụp đổ gần như hoàn toàn
của nhân loại.
Sự suy giảm của Tuổi thọ con người
Tuổi trung bình
(năm)
Nguyên nhân
Từ 80.000 đến 40.000 Giết, ăn cắp và nói dối
Từ 40.000 đến 20.000 Giết, ăn cắp và cố ý nói
dối
Từ 20.000 đến 10.000 Giết, ăn cắp, cố ý nói dối
và đâm thọc
Từ 10.000 đến 5.000 Giết, ăn cắp, cố ý nói dối,
đâm thọc và ngoại tình
Từ 5.000 đến 2.500 -
2000 ¬
Giết, ăn cắp, cố ý nói dối,
đâm thọc và ngoại tình,
chửi rủa và nói nhảm nhàn
rỗi
Từ 2,000-2,500 đến Giết, ăn cắp, cố ý nói dối,
190
1.000 đâm thọc và ngoại tình,
chửi rủa và nói nhảm nhàn
rỗi, tham lam và sân hận
Từ 1.000 đến 500 Giết, ăn cắp, cố ý nói dối,
đâm thọc và ngoại tình,
chửi rủa và nói nhảm nhàn
rỗi, tham lam và sân hận
và Tà kiến
Từ 500 đến 200-250 Giết, ăn cắp, cố ý nói dối,
đâm thọc và ngoại tình,
chửi rủa và nói nhảm nhàn
rỗi, tham lam và sân hận
và Tà kiến chấp trước vô
đạo, tham lam vô tận và
tham dục vô độ.
Từ 200-250 đến 100 Giết, ăn cắp, cố ý nói dối,
đâm thọc và ngoại tình,
chửi rủa và nói nhảm nhàn
rỗi, tham lam và sân hận
và Tà kiến chấp trước vô
đạo, tham lam vô tận,
tham dục vô độ, và không
còn thương yêu cha mẹ,
người lớn tuổi, nhà tu hay
khổ hạnh.
Từ 100-10 Giết, ăn cắp, cố ý nói dối,
191
đâm thọc và ngoại tình,
chửi rủa và nói nhảm nhàn
rỗi, tham lam và sân hận
và Tà kiến chấp trước vô
đạo, tham lam vô tận,
tham dục vô độ, và không
còn thương yêu cha mẹ,
người lớn tuổi, nhà tu hay
khổ hạnh, hoàn toàn biến
mất con đường Thập
Thiện Nghiệp và hưng
thịnh của con đường Thập
Ác Nghiệp.
Từ 10 năm đến 7
ngày tàn sát
Thoái hóa đến giao phối
bừa bãi và giết chết [Thời
kỳ Migasa~n~nii].
5.7 Bảo vệ thế giới và khiến nó được Thịnh
vượng
Như đã đề cập ở trên, khi tuổi thọ con người giảm
đến mười năm, bảy ngày tàn sát đã xảy ra, trong đó
người ta săn bắn giết nhau một cách bừa bãi - xử lý
lẫn nhau không khác gì hơn so với hươu bị săn
lùng để ăn thịt. Họ sử dụng vũ khí chống lại nhau
như gạch, gậy, dao, gây thương tích chí tử cho đến
192
khi phần lớn dân số nhân loại đã chết. Tuy nhiên,
một thiểu số đã bỏ chạy khỏi cuộc tàn sát - được
sống sót. Trong hậu quả, họ nhận ra sự suy thoái
đã bắt nguồn từ hành vi bất thiện của con người.
Do đó, họ thuyết phục người khác làm những điều
lành từ đó về sau do đó làm tăng sự thịnh vượng
của con người và tuổi thọ. Hành vi lành mạnh tăng
lên với mỗi thế hệ mới và tăng tuổi thọ tương ứng.
Cuối cùng con người làm tốt đến nỗi tăng tuổi thọ
lên đến một ‘khôn lường’ năm. Môi trường cũng
được cải thiện. Các hành vi lành mạnh của con
người bao gồm cụ thể một con đường Thập Thiện
Nghiệp có thể được chia làm ba loại hành động của
thân, khẩu và ý:
Thân hành thiện bao gồm:
1. Kiêng sát sinh [paa.naatipaata] con người, thú
vật và ngay cả tự tử.
2. Kiêng trộm cắp [adinnadaana] lấy những điều
không được cho.
3. Kiêng tà dâm [kaamesumicchaacaara] cụ thể là
phạm tội ngoại tình và tất cả các loại quan hệ tình
dục ngoài hôn nhân khác.
Khẩu hành thiện bao gồm:
1. Kiêng nói dối [musaavaada].
193
2. Kiêng nói lời đâm thọc [pisu.naavaacaa].
3. Kiêng chửi rủa [pharusavaacaa].
4. Kiêng nói nhảm nhàn rỗi [samphaplaapa].
Ý hành thiện bao gồm:
1. Kiêng tham lam [abhijjhaa].
2. Kiêng sân hận [byaapaada].
3. Chính kiến [micchaa di.t.thi].
Chính kiến bao gồm mười thái độ sau đây xác
nhận thực tế liên quan đến cuộc sống và thế giới,
cụ thể là sự hiểu biết rằng:
1. Chia sẻ là mong muốn.
2. Làm việc công ích là cần thiết.
3. Đức tính cần được tôn trọng.
4. Việc tốt và xấu có kết quả nghiệp báo.
5. Sự tồn tại thực sự của thế giới.
6. Có cuộc sống sau khi chết.
7. Chúng ta mang nợ với mẹ chúng ta.
8. Chúng ta mang nợ với cha chúng ta.
9. Chúng tự phát phát sinh tồn tại.
10. Những người giác ngộ khôn ngoan tồn tại.
Như một kết quả của hành vi con người tăng hành
thiện, môi trường dần dần được cải thiện. Thế giới
phát triển mạnh mẽ và được hòa bình. Tuổi thọ con
194
người tăng lên, đặc biệt là kết quả của Chính kiến
khiến mọi người hiểu thực tế của cuộc sống và thế
giới, và khuyến khích họ càng làm thêm nhiều việc
thiện.
5.8 Lợi ích của Hiểu biết về Thịnh vượng và
Thoái hóa nơi loài người
Trong những năm gần đây, sự tiến bộ vật chất đã
gây ngày càng nhiều hiệu quả trong cuộc sống của
chúng ta. Tuy nhiên, tiến bộ vật chất này đã tạo
nên một sự suy giảm trong tiêu chuẩn tinh thần và
đạo đức trong xã hội. Các hình thức nghiêm trọng
của suy đồi đạo đức đã trở thành mẫu mực - trong
khi những người công khai khuyến khích bạn bè
họ đi nhậu nhẹt, họ lại phải giữ bí mật đi chùa hoặc
tiến trình tâm linh. Vì thế, có được một nhận thức
về những gì đằng sau sự thịnh vượng hoặc thoá
hóa của con người chắc chắn có thể trợ giúp chúng
ta lựa chọn trong hành vi của chúng ta để giúp cho
sự thịnh vượng của xã hội:
1. Chúng ta nên hạn chế bản thân để chỉ hành vi
thiện lành từ ngày hôm nay ... bởi vì bất kỳ may
mắn nào chúng ta kinh nghiệm tại thời điểm hiện
tại phải đến từ những thiện nghiệp chúng ta đã làm
trong quá khứ - và rằng công đức rốt cuộc sẽ hết.
195
Vì vậy, chúng ta nên nhanh chóng lập thêm việc
làm công đức, trong thời gian ngắn còn lại, để
chúng ta có thể trở thành quen với chúng trong mỗi
cuộc đời trong tương lai.
2. Chúng ta nên dứt khoát tránh bất kỳ hình thức
hành vi bất thiện nào, nhận thức nhiều hình thức
quả báo tai hại cho chính mình, cho một người
đồng loại và cho môi trường vật lý.
3. Chúng ta không thể ở nhàn rỗi mà không làm
việc tốt, bởi vì ngoài sự không nhận được bất kỳ
‘lợi ích’ thêm về những việc làm tốt chúng ta đã
làm trong quá khứ, chúng ta đang ăn vào vốn.
4. Chúng ta phải sử dụng cơ thể của chúng ta đầy
đủ cho dù chúng ta có thể chất khỏe mạnh hay
không - bởi vì không giống như cơ thể của một con
vật, cơ thể con người là chuyên nghiệp và có thể tu
tập tất cả các loại công đức lành cho chính nó.
Vì vậy, một sự hiểu biết rõ ràng về phương cách
hành vi của chúng ta ảnh hưởng đến sự thịnh
vượng và suy thoái của nhân loại sẽ giúp chúng ta
phấn đấu cho sự thịnh vượng mà cuối cùng sẽ
khiến chúng ta hoàn thành mục tiêu tối thượng của
con người là đạt được Niết Bàn.
Bởi vì vô minh là nguồn gốc của điều kiện con
người của chúng ta, chúng ta có xu hướng thiếu
196
câu trả lời cho các câu hỏi vĩnh cửu của cuộc sống
như chúng ta từ đâu đến, mục đích của chúng ta
trong cuộc sống và nơi chúng ta đến khi chúng ta
chết. Một điều kiện vẫn còn với chúng ta đến khi
nào chúng ta vẫn chưa gặp một ai đó có kiến thức
thực sự cho phép một người phá vỡ chu kỳ sinh
diệt. Người tốt nhất trong các thiện hữu
[kalyaa.namitta] là Đức Phật, thông qua Ngài
chúng ta có thể biết mục đích thực sự của chúng ta
trong cuộc sống. Mặc dù Đức Phật có thể không
còn sống nữa, nhưng di sản của giáo lý của Ngài
vẫn còn sống trong thời đại chúng ta. Hơn nữa, các
cộng đồng tu sĩ vẫn còn tồn tại, những người tiếp
tục tuyên truyền giáo lý của Đức Phật đến với thế
giới. Các đặc tính của một người thiện hữu như
Đức Phật đã dẫn đầu thế giới tới sự thịnh vượng
được so sánh dưới đây với các đặc tính của một kẻ
ngốc dẫn đầu thế giới đến với hủy diệt:
Một so sánh các đặc điểm Kẻ Ngốc và Thiện
Hữu
Đặc trưng của các kẻ
ngốc
Đặc điểm của các
Thiện Hữu
197
1. Hành động vô đạo
đức33
.
2. Phát biểu vô đạo đức.
3. Ý nghĩ vô đạo đức.
1. Hành động đạo đức.
2. Phát biểu đạo đức.
3. Suy nghĩ đạo đức.
1. Tư tưởng ác34
.
2. Ngôn từ ác.
3. Hành động ác.
1. Tư tưởng lành.
2. Ngôn từ lành.
3. Hành động lành.
1. Không thấy lỗi của
chính mình35
.
2. Không nhận lỗi mình.
3. Không tha thứ cho
những người xin lỗi cho
những sai lầm của họ.
1. Thấy lỗi của chính
mình.
2. Tự nhận lỗi mình.
3. Tha thứ những người
khác xin lỗi cho những
sai lầm của họ.
1. Đặt câu hỏi mà không
suy nghĩ khéo léo36
.
2. Trả lời câu hỏi mà
không suy nghĩ khéo
léo.
3. Ganh tỵ những người
khác trả lời câu hỏi chỉ
sau khi suy nghĩ khéo
1. Đặt câu hỏi với sự
phản ánh khéo léo.
2. Trả lời câu hỏi với sự
phản ánh khéo léo
3. Không gang tỵ những
người trả lời câu hỏi chỉ
sau khi suy nghĩ khéo
léo 33
Lakkha.na Sutta A.i.102 34
Cinta Sutta A.i.102 35
Accaya Sutta A.i.103 36
Ayoniso Sutta A.i.103
198
léo.
1. Hành động bất thiện37
2. Ngôn từ bất thiện
3. Suy nghĩ bất thiện
1. Hành động thiện lành
2. Ngôn từ thiện lành
3. Suy nghĩ thiện lành
1. Hành động có hại38
2. Ngôn từ có hại
3. Suy nghĩ có hại
1. Hành động vô hại
2. Ngôn từ vô hại
3. Suy nghĩ vô hại
1. Hành động gây hấn39
2. Ngôn từ gây hấn
3. Suy nghĩ gây hấn
1. Hành động không
gây hấn
2. Ngôn từ không gây
hấn
3. Suy nghĩ không gây
hấn
Từ bảng trên, chúng ta có thể kết luận rằng sự
thịnh vượng hoặc phân rã trên thế giới là một kết
quả của hành vi con người. Chất lượng của hành vi
con người phụ thuộc phần lớn vào ví dụ thuyết
phục của thiện hữu trong xã hội, những người biết
mục đích đúng đắn trong cuộc sống để theo đuổi
sự Toàn Thiện để đạt được Niết Bàn. Vì vậy chúng
37
Akusala Sutta A.i.103 38
Saavajja Sutta A.i.104 39
Sabyaapajja Sutta A.i.104
199
ta nên cố gắng theo Tứ Chánh Cần đã được Đức
Phật phát động40
:
1. Việc ác chưa làm thì không làm
[sa.mvarapadhaana].
2. Việc ác đã làm thì không làm nữa
[pahaanapadhaana].
3. Việc thiện chưa từng làm thì hãy làm
[bhaavanaapadhaana].
4. Việc thiện đã làm thì hãy làm nữa
[anurakkhaapadhaana].
Bởi vì chúng ta có thể có được tái sinh trong nhiều
kiếp sống trong tương lai để tích luỹ tất cả ba mươi
dạng của Ba La Mật, nên cần thiết phải tìm hiểu
sâu sắc về bản chất của cuộc sống và thế giới. Một
chu kỳ thời gian thế giới rất dài - dù sao, chúng ta
chỉ có thể tích lũy giá trị trong một góc phần tư của
chu kỳ trên thế giới - có nghĩa là chúng ta có cơ
hội rất hạn chế.
Kết luận
Mục đích của con người chúng ta trong cuộc sống
là để theo đuổi sự hoàn hảo để đạt được Niết Bàn -
40
Mahaa-satipa.t.thaana Sutta D.ii.290ff
200
có nghĩa là làm những điều lành để mang lại thịnh
vượng cho cuộc sống và thế giới. Tuy nhiên, bất
cứ khi nào người ta quên đi mục đích thực sự của
họ trong cuộc sống, hành vi của họ không chống
nổi sự ác và họ tích trữ ác nghiệp ngày càng tăng
khiến họ bị mắc kẹt trong chu kỳ sinh diệt.
Từ một nghiên cứu về Phật giáo, chúng ta biết rằng
số lượng chư Phật trong quá khứ đã nhập Niết Bàn
nhiều hơn tất cả các hạt cát trong biển. Cũng đã
được hơn 2.500 năm kể từ khi Đức Phật của chúng
ta nhập Niết Bàn. Mặc dù thế, cá nhân chúng ta
dường như không gần gũi hơn với sự giải thoát
khỏi chu kỳ sinh tử! Đó là bởi vì Chính Kiến trong
tâm trí của chúng ta vẫn chưa kiên định. Ngoài ra,
đã có nhiều yếu tố để làm cho chúng ta bỏ qua
những đau khổ của sinh, già, bệnh, tử. Khi chúng
ta sai lầm vào hành vi bất thiện không biết hậu
quả, cơ thể con người của chúng ta đã xấu đi, da
của chúng ta trở nên tồi tệ hơn và tuổi thọ của
chúng ta bị rút ngắn lại.
Sau khi chết, trong những cảnh giới bất hạnh mà ta
phải lãnh quả báo của tất cả nghiệp xấu ta đã thực
hiện trong khi sống trong một thời gian dài. Rất
khó khăn để trở lại sinh ra con người một lần nữa.
Ngay cả khi được tái sinh trong cõi người, những
tàn tích của một quả báo quá khứ vẫn sẽ cản trở
201
những nỗ lực để làm việc tốt bằng cách khiến
chúng ta gặp trở ngại như nghèo đói, bệnh tật, ngu
đâ n và rút ngắn cuộc sống. Chỉ khi có cơ hội gặp
gỡ với một thiện hữu và phải thấm nhuần vững
chắc trong tâm trí rằng ta sẽ có chánh niệm đủ
mạnh mẽ để tiếp tục làm những hành động đạo đức
mặc dù hoàn cảnh cám dỗ ta cách khác.
Như vậy, với một nhận thức đầy đủ về thực tại của
cuộc sống và thế giới, trong khi có trong tay các
thiện hữu, nó sẽ khiến chúng ta thấy rằng thực sự
không có gì là mới trong thế giới này. Chúng ta đã
được sinh ra ở đây vô số lần mà không tìm thấy bất
cứ điều gì có thể thú vị, mang lại hạnh phúc thật
sự. Như vậy, thật là đúng nếu chúng ta không nên
ngần ngại tu tập tối đa những hành động công đức
để thoát khỏi hoàn toàn sự bất trắc của sự tái sinh
trong chu kỳ sinh tử.
202
203
Chương 6 Sự Tận Hoại của Vũ trụ
Các phần trong Chương này
6.1 Nguyên nhân sự Tận Hoại của Vũ trụ 6.2 Nhân Tố của sự phá hủy thế giới Phụ
thuộc vào Nhân Tâm 6.3 Phạm vi của sự phá hủy bởi Nước, Lửa
và Gió 6.3.1 Sự Tiêu hủy bằng Lửa 6.3.2 Sự Tiêu hủy bằng Nước 6.3.3 Sự Tiêu hủy bởi Gió
6.4 Quy trình Hủy diệt của Vũ trụ 6.4.1 Quy trình Tiêu hủy bởi Lửa 6.4.2 Quy trình Tiêu hủy bởi Nước 6.4.3 Quy trình Tiêu hủy bởi Gió
6.5 Tại sao Đức Phật dạy Cánh chung
Khái quát về Chương này
1. Thế giới cuối cùng sẽ bị phá hủy bởi lửa,
nước, gió tùy theo những phiền não tinh thần chủ
yếu của cộng đồng nhân loại. Nếu cộng đồng nhân
loại có quá nhiều sự giận dữ, thế giới sẽ bị phá hủy
204
bởi lửa. Nếu cộng đồng nhân loại có nhiều tham
dục quá mức, thế giới sẽ bị phá hủy bởi nước. Nếu
cộng đồng nhân loại có quá nhiều vọng tưởng, thế
giới sẽ bị phá hủy bởi gió.
2. Mức độ thiệt hại cho ba mươi mốt cõi
thay đổi trong ngày tàn của thế giới tùy thuộc vào
việc thế giới bị phá hủy bởi nước, lửa hoặc gió.
Ngoài ra, có một trình tự cho phương thức hủy diệt
đem đến sự tận thế. Thông thường, thế giới bị phá
hủy bởi nước, nhưng cứ mỗi tám lần, nó sẽ bị phá
hủy bởi lửa. Rốt lại, trong thời gian cuối cùng (thứ
64), nó sẽ bị phá hủy bởi gió.
3. Phương thức để được sống sót trong sự
hủy diệt của thế giới là thực hành thiền định cho
đến khi đạt được những tầng thiền hầu được sinh
ra trong một cõi bên ngoài khu vực hủy diệt. Tuy
nhiên, muốn hoàn toàn chắc chắn, ta cần phải triệt
bỏ tất cả phiền não để tránh khỏi bất kỳ sự tái sinh
nào.
Mục đích Chương này
Sinh viên sẽ đạt được những kiến thức và sự
hiểu biết để có thể:
205
1. Giải thích một cách chính xác lý do tại
sao thế giới được đưa đến một kết thúc bằng lửa,
nước, gió.
2. Chứng minh trình tự của lửa, nước, gió
đưa thế giới đến một kết thúc trong các chu kỳ thế
giới liên tiếp và mức độ thiệt hại cho vũ trụ theo
mỗi tác nhân hủy diệt.
3. Giải thích những phương pháp để sống
sót ngày tận thế cho bản thân và những người
khác.
Nhập đề
Trong những chương trước, chúng ta đã học
được về cấu trúc và vị trí của các cảnh giới khác
nhau - bản chất và thành phần của chúng. Cũng từ
chương 5, chúng ta biết về nguồn gốc của vũ trụ,
trái đất, các ngôi sao, con người và tất cả những
thứ khác. Chúng ta biết sự tiến hóa diễn ra như thế
nào, và làm sao nó ảnh hưởng đến tuổi thọ của thế
giới và vũ trụ.
Chương này sẽ giải thích các cách khác
nhau mà trái đất và vũ trụ có thể đi đến một tận
cùng (cánh chung).
6.1 Nguyên nhân sự Tận Hoại của Vũ trụ
206
Trong thế giới chúng ta ngày hôm nay,
chúng ta đã quen với ý tưởng rằng nếu thế giới tận
diệt, đó sẽ là bởi vì vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tuy
nhiên, từ quan điểm của Phật giáo chỉ có ba điều
có thể tận diệt thế giới, cụ thể là lửa, nước hoặc
gió.
Chúng ta có thể là quen thuộc với ba đại
này, nhưng chúng ta có thể vẫn không hiểu làm thế
nào lửa có thể đốt cháy cả thế giới. Ngay cả khi
những kẻ khủng bố đốt cháy một số giếng dầu -
được xem là một trong những vụ cháy trầm trọng
nhất của thế giới - Trái đất vẫn còn được giữ
nguyên vẹn. Thế giới đã không bị nó đốt cháy.
Cũng là điều khó khăn cho chúng ta để hiểu được
làm thế nào lũ lụt hoặc cuồng phong có thể hủy
diệt trái đất theo những gì chúng ta đã thấy từ lũ
lụt hoặc các cơn bão thông thường.
Điều này là bởi vì lửa, nước và gió có khả
năng phá hủy thế giới thuộc một cường độ hoàn
toàn khác với những gì mà chúng ta đã có kinh
nghiệm. Cái lửa đem cả thế giới đến một tận diệt
vào cuối kiếp đã được gầy dựng từ quả báo những
nghiệp xấu của chúng sinh còn sót lại trên thế giới
- đặc biệt là con người - bởi vì các thú vật khác
không thể tạo nên nhiều nghiệp - hầu hết chỉ chịu
207
quả báo là kết quả của nghiệp mà chúng đã làm khi
còn là một con người trong quá khứ. Cũng như thế,
các thần trời và các vị Phạm Thiên ở trên trời
không có nhiều cơ hội để tạo nghiệp mới bởi vì họ
chỉ hưởng thành quả của những việc tốt mà họ đã
làm khi còn là con người trong quá khứ.
Những người sinh trong các cõi bất hạnh -
dù là trong địa ngục lớn, các luyện ngục, ngạ quỷ,
a tu la hoặc súc sinh, chủ yếu là chịu quả báo vốn
là kết quả của nghiệp mà họ đã làm khi còn là một
con người trong quá khứ. Thế thì, cũng không có
cơ hội để làm thêm nghiệp bất thiện. Chỉ có con
người mới có tự do ý chí để suy nghĩ, nói và hành
động cố ý. Mặc dù được nhiều cơ hội và tự do để
suy nghĩ, nói và hành động theo thiện nghiệp,
nhiều người đã chọn để làm hành vi bất thiện. Khi
ác nghiệp của họ tích lũy ngày càng nhiều hơn, quả
báo tập thể của nghiệp sẽ đem lại sự tận diệt của
thế giới.
6.2 Nhân tố của sự phá hủy Thế giới Phụ
thuộc vào Nhân Tâm
Mặc dù các tác nhân phá hủy thế giới, lửa,
nước hoặc gió là các tác nhân ảnh hưởng lớn nhất
- chỉ một trong ba chịu trách nhiệm cho sự kết thúc
208
của thế giới vào ngày tận thế, không phải tất cả ba
- ví dụ nếu thế giới hoại tận bằng lửa, thì chỉ một
mình lửa sẽ tiêu diệt nó.
Nêu như bất kỳ đại nào cũng có thể hoại tận
thế giới chỉ có thể xảy ra bởi vì tâm trí con người
đã trở thành dày đặc phiền não. Nếu tâm trí con
người đã trở thành đầy hận thù, thế giới sẽ bị phá
hủy bởi lửa. Nếu tâm trí con người bị tràn ngập bởi
tham dục, trái đất sẽ bị phá hủy bởi nước. Nếu tâm
trí con người bị lấp đầy với si mê, hành tinh sẽ bị
kết thúc bởi gió.
Với kiến thức đó, chúng ta có một sự lựa
chọn về cách chúng ta muốn thế giới kết thúc. Nếu
chúng ta trở nên bận tâm bởi tham dục, bởi sự ích
kỷ, trái đất sẽ kết thúc bởi lũ lụt. Nếu chúng ta trở
nên bận tâm bởi hận thù, thích thú sự hung hăng và
giận dữ, trái đất sẽ kết thúc bằng lửa. Nếu chúng ta
trở nên bận tâm bởi si mê, bỏ qua luật nghiệp báo,
không nhớ đến công đức và tội lỗi, trái đất sẽ kết
thúc bởi gió. Tuy nhiên, nếu muốn thế giới được
an toàn và không bị tàn phá bởi bất cứ điều gì,
chúng ta phải giúp đỡ tất cả mọi người trên toàn
thế giới bằng cách không để cho chính chúng ta
hoặc những người khác bị khắc phục bằng ba
nhóm của phiền não.
209
Biểu đồ 6.2
Sự phá hoại của thế giới
Tác nhân của tiêu hủy Phiền
não chiếm ưu thế
Lửa ------------------------
Sân Hận
Nước ------------------------
Tham Lam
Gió ------------------------
Si Mê
Thế giới sẽ không bị phá hủy bởi cả ba đại
cùng một lúc - nó chỉ có thể bị phá hủy bởi có một
đại mỗi lần. Có một thứ tự các đại chịu trách
nhiệm để đưa thế giới đến hoại tận. Thông thường,
thế giới bị phá hủy bởi lửa, nhưng mỗi tám lần, nó
sẽ bị phá hủy bởi nước. Cuối cùng, trong thời gian
cuối cùng (64), nó sẽ bị phá hủy bởi gió. Sau đó,
thế giới và vũ trụ sẽ được tái lập. Và trái đất sẽ bị
tàn phá một lần nữa mà không có kết thúc.
Trong kết luận, trong một chu kỳ thế giới,
thế giới sẽ bị phá hủy bởi lửa năm mươi sáu lần,
nước bảy lần và gió trong thời gian cuối cùng.
210
6.3 Phạm vi của sự Phá hủy bởi Nước,
Lửa và Gió
Mức độ thiệt hại cho ba mươi mốt cảnh giới
thay đổi trong ngày tãn thế tùy thuộc vào việc thế
giới bị phá hủy bởi lửa, nước hoặc gió:
6.3.1 Sự Tiêu hủy bằng Lửa:
Tiêu hủy bằng lửa đưa đến sự hủy diệt của
mười bốn cảnh giới, cụ thể là:
1. Bốn cõi bất hạnh: các địa ngục lớn, cõi
ngạ quỷ, và cảnh giới súc sinh.
2. Cõi người.
3. Sáu cõi trời.
4. Ba cõi Phạm thiên của tầng Sơ thiền.
6.3.2 Sự Tiêu hủy bằng Nước:
Tiêu hủy bằng nước đưa đến sự hủy diệt của
mười bảy cảnh giới, cụ thể là:
1. Bốn cõi bất hạnh: các địa ngục lớn, cõi
ngạ quỷ, và cảnh giới súc sinh
2. Cõi người.
3. Sáu cõi trời.
4. Ba cõi Phạm thiên của tầng Sơ thiền.
5. Ba cõi Phạm thiên của tầng Nhị thiền.
211
6.3.3 Sự Tiêu hủy bởi Gió:
Tiêu hủy bằng nước trong việc tiêu diệt hai
mươi cõi, cụ thể là:
1. Bốn cõi bất hạnh: các địa ngục lớn, cõi
ngạ quỷ, và cảnh giới súc sinh
2. Cõi người.
3. Sáu cõi trời.
4. Ba cõi Phạm thiên của tầng Sơ thiền.
5. Ba cõi Phạm thiên của tầng Nhị thiền.
6. Ba cõi Phạm thiên của tầng Tam thiền.
Biểu đồ 6.3
Phạm vi của sự phá hủy bởi Lửa, Nước và
Gió
212
6.4 Quy trình Hủy diệt của Vũ trụ
213
6.4.1 Quy trình Hủy diệt bởi Lửa
Khi thế giới tận hoại bởi lửa, nó bắt đầu với
hạn hán nghiêm trọng và kéo dài. Thế giới trở nên
khô cằn và các cây khô đi rồi chết. Sau đó, hai mặt
trời xuất hiện trên bầu trời. Không còn có ngày hay
đêm nữa vì thế giới bị chiếu sáng từ hai bên cùng
một lúc.
Mặt trời mới trở nên nóng hơn mặt trời ban
đầu. Cũng vì mặt trời thứ hai phát sinh từ sức
mạnh của nghiệp xấu tập thể của loài người, nên
không có thiện thần hộ mệnh của mặt trời - như
Suriya người trông nom mặt trời ban đầu (không
phát sinh để trả nghiệp cho người). Do nhiệt độ gia
tăng rất nhiều, thiện thần hộ mệnh cho mặt trời ban
đầu không còn có thể thực hiện nhiệm vụ của
mình. Ngài khẩn trương thiền định để đạt được các
tầng thiền và trốn thoát để được sinh ra trong các
cõi Phạm Thiên cao vượt quá mức độ hủy diệt của
thế giới.
Với sự xuất hiện của hai mặt trời trên bầu
trời, nhiệt độ trên trái đất tăng lên cao đến nỗi sẽ
không thể có đám mây cũng không sương mù. Các
nước trong hồ cạn kiệt. Số nước còn lại chỉ được
tìm thấy trong năm con sông là sông Hằng, các
214
sông Yamunaa, Aciravadii, Mahii và Sarabhuu. Sự
sống còn trong hình dạng con người không còn
nữa. Những người có thể thiền định trước khi họ bị
đốt cháy đã được tái sinh trong những cõi Phạm
thiên.
Con người biết 100.000 năm trước rằng thế
giới sẽ bị phá hủy bởi vì các thiện thần được gọi là
thiện thần ‘Lokabyuha’ mặc áo đỏ đã thông báo
rằng trong 100.000 năm, thế giới con người, tất cả
chúng sinh, sáu cõi trời và cõi Phạm thiên của tầng
Sơ thiền sẽ bị phá hủy tất cả. Họ cảnh báo tất cả
mọi người không nên giải đãi mà phải nhanh
chóng hoàn thành những công đức hầu được sinh
ra trong các cõi vượt quá mức độ hủy diệt.
Sau khi nghe các thiện thần công bố tất cả
nhân loại cảm thấy một cảm giác bức bách. Họ tu
hành điều thiện và thiền định cho đến khi chứng
thiền - khiến họ được sinh ra trong cõi Phạm thiên.
Các thiện thần và các vị Phạm Thiên trong các cõi
thấp cũng tích cực thiền định để được tái sinh lên
cõi an toàn. Khi các súc sinh trong các cảnh giới
bất hạnh đã trả hết nghiệp của họ và có thể được
sinh ra làm con người, biết việc thiện thần công bố,
họ liền tu thiện và tích cự thiền định. Phần còn lại
là những người có Tà kiến không vội vàng hành
thiện. Khi thế giới đã kết thúc, những người này
215
được tái sinh trong một lĩnh vực tương đương của
một vũ trụ đã không bị phá hủy.
Sau một thời gian dài, một mặt trời thứ ba
xuất hiện trên bầu trời. Với sức nóng tăng lên, tất
cả các nước còn lại trong năm con sông đều bốc
hơi. Tiếp theo, một mặt trời thứ tư xuất hiện. Nhiệt
độ cực đoan khiến ngay cả những hồ lớn do tuyết
tan chảy trong rừng Himavanta bị hoàn toàn khô
kiệt. Nước trong đại dương vũ trụ bắt đầu bay hơi.
Sau đó, một mặt trời thứ năm xuất hiện trên
bầu trời. Các nước trong đại dương khô cạn hoàn
toàn. Khi một mặt trời thứ sáu xuất hiện trên bầu
trời, sức nóng khiến cho đại nước trong đất và núi
biến mất hoàn toàn. Nó không thể duy trì tình
trạng trước đây của nó và trở thành bụi thoảng trên
khắp thế giới.
Tiếp theo, một mặt trời thứ bảy xuất hiện
trên bầu trời với một sức nóng vô hạn khiến nó
khởi động đốt cháy toàn bộ một nhóm lớn của vũ
trụ [tisahassiimahassii-lokadhaata] liền một lúc.
Ồn ào của vụ nổ vang dội khắp vũ trụ. Đỉnh núi Tu
Di, nơi có hai tầng trời thấp nhất vỡ tan, sụp đổ và
biến mất trong không khí.
Ngọn lửa đốt cháy và phá hủy trái đất và vũ
trụ bắt nguồn từ cảnh giới con người. Sau đó nó
lan truyền nhanh chóng đến các tầng kế tiếp của
216
trời và cảnh giới Phạm thiên của cõi Sơ thiền.
Ngọn lửa sẽ tiếp tục đốt cháy trong một thời gian
rất dài cho đến khi không còn gì hết. Sau đ ó ngọn
lửa sẽ bắt đầu dập tắt trong cõi Phạm thiên này.
Sau khi lửa tàn lụi, tất cả những gì còn lại của phần
còn lại của vũ trụ là không gian trống rỗng và bóng
tối đã nhận chìm vũ trụ trong một thời gian rất dài.
6.4.2 Quy trình Hủy diệt bởi Nước
Khi vũ trụ bị phá hủy bởi nước, không có
mặt trời thứ hai xuất hiện trên bầu trời. Chỉ có một
mặt trời như trước. Việc tiêu hủy bắt đầu với sự
xuất hiện của một đám mây axit. Mưa axit rơi từ
các đám mây, do tính ăn mòn nó tan chảy tất cả
các đối tượng mà nó chạm vào và nó vẫn tiếp tục
mưa theo cách này mà không ngừng. Thứ nhất, trời
mưa từng giọt một. Sau đó, mưa rơi nặng hạt và
các giọt mưa ngày càng lớn hơn cho đến khi trở
thành một thác nước. Mực nước dâng lên cho đến
khi lũ lụt đất, ngập cả những ngọn núi, rồi ngập
tràn thế giới, vũ trụ và những cụm lớn của vũ trụ.
Nước ăn mòn tất cả các cảnh giới cho đến
khi không có gì còn lại trong những vật bị ngập -
không để lại gì kể cả các tầng trời, các cõi Phạm
217
thiên tầng Sơ thiền và Nhị thiền và chỉ dừng lại ở
cõi Tam thiền.
Khi tất cả mọi thứ đã bị ăn mòn đi hết không
để lại gì, nước có tính axit sẽ bớt đi và biến mất để
lại khoảng trống không gian và bóng tối ngập tràn
vũ trụ trong một thời gian rất dài.
6.4.3 Quy trình Hủy diệt bởi Gió
Khi vũ trụ bị phá hủy bởi gió, không có mặt
trời thứ hai xuất hiện trên bầu trời. Chỉ có một mặt
trời như trước. Việc tiêu hủy hoàn toàn bị gây ra
bởi gió. Lúc khởi đầu nó bắt đầu như làn gió
nhưng ngày càng lớn dần. Thoạt đầu nó chỉ thổi
bụi, nhưng sau đó quét đi cả cát, sỏi rồi cuối cùng
là đá. Nó phát triển mạnh mẽ hơn cho đến khi nó
xẻ tung cây, cuốn bay nhà cửa dinh thự phăng đi
trong không khí.
Với sức mạnh hùng hậu của gió, các mảnh
vỡ bị đập tan thành mảnh vụn, phân tán và biến
mất.
Sau đó, gió bắt đầu phát sinh từ bên dưới
mặt đất. Cường độ của gió khiến đất bị lộn ngược
và thổi bay đi trong không khí. Dù đó là những
ngọn núi, sông, biển và đại dương, tất cả mọi thứ
đều bị gió cuốn bay đi và đập nát, và tán xạ bởi sức
218
mạnh của cuồng phong, sức mạnh xé nát hoàn toàn
tất cả mọi thứ.
Một khi thế giới đã bị xé nát, mọi thứ trong
vũ trụ bắt đầu chịu ảnh hưởng. Ngay cả núi Tu Di
cũng bị gió vùi dập, nghiền nát và tiêu tan không
để lại vết tích. Các cảnh giới khác nhau của các
tầng trời và vũ trụ va chạm với nhau cho đến khi
chúng bị tan nát thành mảnh vụn. Cõi Phạm Thiên
đến Tam thiền hoàn toàn bị phá hủy bởi gió.
Khi tất cả mọi thứ đã hoàn toàn đổ nát, gió
sau đó lặng dần. Chỉ còn lại không gian trống rỗng
và bóng tối tràn ngập toàn bộ vũ trụ trong một thời
gian rất dài.
6.5 Tại sao Đức Phật dạy Cánh chung
Lý do mà Đức Phật đã mô tả sự phá hủy thế
giới không phải vì mục đích để đe dọa bất cứ ai,
hoặc để dự đoán ngày tàn của thế giới, hoặc thậm
chí chỉ để phô bày kiến thức của Ngài về cánh
chung. Tuy nhiên, mục đích của Ngài trong việc
giải thích sự hủy diệt của thế giới là thúc đẩy sự
tỉnh ngộ của chúng ta với thế giới và được tái sinh
trong chu kỳ sinh tồn vốn là khó để tìm một sự
khởi đầu hoặc kết thúc.
219
Mặc dù các các cảnh giới có thể có vẻ thú
vị, không có gì là chắc chắn. Không ai có thể sở
hữu bất cứ điều gì mãi mãi hết. Không ai có thể
quyến luyến vật thân yêu nhất mà cuối cùng không
bị tách rời khỏi nó. Theo thời gian, mọi thứ bị phân
hủy hoặc chết. Đó là vô thường. Cho dù chúng ta
thích một cái gì đó hay không, cuối cùng chúng ta
cũng phải tách rời khỏi nó. Do đó, nếu chúng ta
phải chết và được tái sinh một lần nữa, chúng ta
phải đối mặt với đau khổ mà không có kết thúc.
Đó là lý do tại sao Đức Phật đã giải thích sự
phá hủy thế giới để mang lại cho chúng ta sự vỡ
mộng với thế giới và truyền cảm hứng cho chúng
ta tìm kiếm sự giải thoát41
:
“Này các Tỳ kheo! Thể xác là vô thường,
không vững và đau khổ. Đấy là bản chất của nó.
Ta phải thất vọng với nó. Ta phải không đam mê
vì nó. Ta phải giải thoát khỏi sự say mê với hình
tướng. Này các Tỳ kheo! Núi Tu Di dài 84.000 do
tuần và rộng 84.000 do tuần. Nó bắt nguồn từ
84.000 do tuần ở đại dương và cao lên 84.000 do
tuần ở trên nó. Đến một thời, sẽ có không có mưa
trong nhiều năm, hàng trăm năm, hàng ngàn năm
và hàng một trăm ngàn năm không mưa. Khi
không mưa lâu như vậy, các cây cối, cây và cỏ -
41
Suriya Sutta A.iv.100
220
thậm chí cả khu rừng rất lớn đều khô hạn. Cũng
như vậy, thể xác bị phá hủy, bởi vì bản chất của nó
là vô thường và bất ổn, đau khổ, ta phải thất vọng
với nó. phải không đam mê nó. Ta phải giải thoát
chính mình.
Này các Tỳ kheo! Sau một thời, một mặt trời
thứ hai xuất hiện. Tất cả các con sông và kênh rạch
sẽ khô. Khi không có nước… Cũng như vậy, thể
xác bị phá hủy, …Ta phải giải thoát chính mình.
Này các Tỳ kheo! Sau một thời, một mặt trời
thứ ba xuất hiện. Khi mặt trời thứ ba xuất hiện, các
con sông lớn, như sông Hằng, sông Yamunaa,
Aciravadii, Mahii và Sarabhuu khô cạn. Khi không
có nước… Cũng như vậy, thể xác bị phá hủy, …Ta
phải giải thoát chính mình.”
Đức Phật công bố rằng bản chất của thế
giới, vũ trụ và tất cả chúng sinh sẽ bị hoàn toàn
phá hủy khi mặt trời thứ bảy xuất hiện trên bầu trời
và để cho chúng ta phải thất vọng, không đam mê
và giải thoát chính mình. Ngài cũng nói rằng dù ta
có được sinh ra như là một vị vua trên trời, Phạm
Thiên hay một hoàng đế, ta cũng không thể vượt
qua đau khổ khi nào ta vẫn chưa giác ngộ, chưa
hiểu được giới, định, tuệ và giải thoát cao quý một
cách rõ ràng. Nếu có ai thấu hiểu tất cả bốn thành
quả này, thì cũng như giác ngộ bởi vì họ có thể
221
khắc phục tham ái và do đó giải thoát hoàn toàn
khỏi sự tái sinh - đạt được an toàn chân thật.
222
223
Chương 7 Nghiên cứu các Trường hợp Tái sinh trong
Chu kỳ Sinh diệt Các phần trong Chương này
7.1 Các Chu kỳ Tái sinh của tất cả Chúng sinh được lặp lại 7.2 Trường hợp nghiên cứu: Những chuyện có thật về cuộc sống sau khi chết 7.2.1 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới Phạm thiên 7.2.2 Từ Cảnh giới con người đến các Cõi Trời 7.2.3 Từ Cảnh giới con người trở lại Cảnh giới con người 7.2.4 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới Súc sinh 7.2.5 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới Ngạ quỷ 7.2.6 Từ Cảnh giới con người đến các Cõi Địa ngục
Khái quát về Chương này
Tam Giới [tribhava] là chất nền cho tất cả các dạng
sống và chúng sinh bị buộc phải tái sinh từ cảnh
224
giới này sang cảnh giới khác trong hệ thống vũ trụ
này tùy theo công đức hoặc tội lỗi, điều thiện hoặc
bất thiện họ đã tích lũy. Tái sinh trong chu kỳ sinh
tồn đã được diễn ra quá lâu nên rất khó tìm thấy
một khởi đầu hoặc kết thúc của nó. Chỉ bằng cách
nhổ sạch gốc rễ tất cả những phiền não còn sót lại
trong tâm trí mình mà ta có thể tìm cách phá vỡ
hoàn toàn chu kỳ sinh tồn.
Mục đích Chương này
Sinh viên sẽ có kiến thức và sự hiểu biết để có thể
so sánh một cách thích hợp và lý luận cơ chế của
Luật Nghiệp báo đã dẫn đến tình huống ngày nay
và trong thế giới sau này
Nhập dề
Học vũ trụ học đã mở ra một thế giới mới đối với
nhiều người trong chúng ta. Nó nói đến các vấn đề
mà chúng ta có thể chưa bao giờ nghe hoặc nghĩ về
trước. Chúng ta đã lớn lên trong một thế giới của
khoa học và công nghệ. Giáo dục trọn đời trong
các đối tượng đang phát triển nhanh chóng của
khoa học và công nghệ đã định hình quá trình suy
nghĩ của chúng ta. Điều này, cùng với chủ nghĩa
225
duy vật hiện hành của xã hội, đã khiến chúng ta
càng ngày càng ít dành sự chú ý hơn cho các đối
tượng giống như vũ trụ học.
Kiến thức khoa học được phát triển bằng cách
kiểm tra giả thuyết giả định được thực hiện trên cơ
sở của lý thuyết từ trước. Nhiều lý thuyết được
thiết lập vững chắc đã được chứng minh là sai vào
một ngày sau khi khoa học và công nghệ phát
triển. Có thể là trong thiên niên kỷ tiếp theo, sự
hiểu biết của chúng ta về tự nhiên sẽ khác nhau
đáng kể so với điều chúng ta biết ngày hôm nay.
Vậy thì, có cái kiến thức ‘tuyệt đối’ nào mà chúng
ta có thể tin tưởng sẽ không bao giờ bị lỗi thời?
Kiến thức lượm lặt từ khoa học và công nghệ
không thể phủ nhận mang lại lợi ích cho chúng ta
trong nhiều khía cạnh của cuộc sống. Trong khi
khoa học bắt đầu từ quan sát, phân tích, thử
nghiệm giả thuyết và thành lập các lý thuyết,
nghiên cứu về vũ trụ học bắt đầu với nguyên nhân,
mà Đức Phật biết đến không phải bằng giả thuyết
mà thông qua sự giác ngộ. Trí tuệ của Ngài đến từ
cái nhìn sâu sắc của Ngài vào bản chất thật sự của
tất cả các vấn đề và do đó tuyệt đối và vô tận. Sự
giác ngộ của Ngài khiến Ngài thấy tường tận tất cả
các khía cạnh của vũ trụ một cách rõ ràng và đơn
226
giản như chúng ta có thể nhìn vào một vật và xoay
chuyển nó trong lòng bàn tay của chúng ta.
Thực ra, không có việc gì Đức Phật tìm thấy đã do
Ngài tự phát minh. Ngược lại, Ngài quan sát thấy
những sự thật hiện có mà không ai khác đã thấy ý
nghĩa. Hơn 2.500 năm trước đây, Đức Phật đạt
được giác ngộ và trình bày trí tuệ Ngài đã phát
hiện ra trước thế giới. Những giáo lý này, như
được ghi trong kinh điển Phật giáo, đã bền bỉ với
thời gian đem lợi lạc cho tất cả chúng ta, thế hệ
này tiếp nối thế hệ khác.
7.1 Các Chu kỳ Tái sinh của tất cả Chúng sinh
được lặp lại
Những chương trước đã mô tả cấu trúc và đặc tính
của vũ trụ và bản chất của các đại cấu thành nó.
Ngoài ra, chúng đã trình bày nguồn gốc của con
người bao gồm cả chúng ta được sinh ra như thế
nào, chúng ta đã ra sao trong cuộc sống trước đây
và chúng ta sẽ đi về đâu trong tương lai. Chúng ta
cũng biết rằng cuộc du hành của chúng ta xuyên
suốt các cảnh giới khác nhau được điều chỉnh bởi
mức độ của công đức và tội lỗi mà chúng ta đã tích
lũy cho chính mình.
227
Cõi người giống như một ‘cái chợ’ công đức hoặc
tội lỗi thay vì các hàng hóa phổ biến. Khi là một
chúng sinh trong hình dạng con người, ta có thể
tích luỹ tối đa công đức hoặc tội lỗi cho chính
mình bằng những hành động của mình. Chúng sinh
có thể đã đi đến cõi người từ những nơi khác nhau
bao gồm cả cảnh giới con người, cõi trời, cõi Phạm
thiên Sắc giới, cõi Phạm thiên vô Sắc và các cảnh
giới bất hạnh cho dù đó là các cõi địa ngục, ngạ
quỷ, a tu la hay súc sinh. Tuy nhiên, mặc dù chúng
ta đến từ cảnh giới nào, ngay khi chúng ta được
sinh ra trong một hình thể của con người, dù cho
chúng ta có thể có quốc tịch khác nhau, chúng ta sẽ
thấy mình được ưu đãi với đầy đủ thể chất, trí tuệ,
sức mạnh và khả năng, tình trạng xã hội và tiêu
chuẩn sống để tự làm ra sự lựa chọn về làm sao để
sống cuộc sống của chúng ta - bằng cách làm nhiều
công đức hoặc tự gánh nặng mình với nghiệp xấu.
Cõi người của chúng ta cũng giống như một nơi
mà chúng ta có thể chọn cách đầu tư quà tặng -
trong công đức hoặc trong các tội lỗi. Công đức
hay tội lỗi mà chúng ta tích lũy sẽ không biến mất
nhưng tích trữ, gây kết quả là hạnh phúc hay khổ
đau trong cuộc sống của chúng ta. Chính chúng ta
là kẻ ra lệnh cho cuộc sống riêng của chúng ta.
Tương lai của chúng ta, kéo dài đến đời sau, trên
228
thực tế nằm trong kiểm soát của chúng ta và sẽ
phản ánh những gì chúng ta đã làm ngày hôm nay,
trong khi chúng ta đang sống.
Để có một sự hiểu biết tốt hơn về cách tái sinh
trong chu kỳ sinh diệt xoay quanh hành vi trong
cảnh giới con người so với một ‘cái chợ’, xem hình
1. Hình này cho thấy sự tái sinh đến và từ thế giới
con người sang cõi khác.
Hình 1. Những con đường khả dĩ Tái sinh từ
Cõi người
Từ sơ đồ, rõ ràng rằng chúng sinh có thể đến với
thế giới con người từ nhiều cảnh giới khác. Nơi họ
sẽ đến sau cảnh giới con người tùy thuộc chủ yếu
vào các công đức và tội lỗi họ đã tu hành trong khi
làm con người. Khi kết thúc cuộc sống, mỗi người
họ đều đi đến cảnh giới khác nhau, một số đến cõi
tốt hơn, một số đến cõi tồi tệ hơn, tất cả tùy thuộc
vào những công đức và tội lỗi của họ và không gì
khác.
229
Cõi
Người
Trời Vô Sắc
Trời Cõi Sắc
Sáu Cõi Trời
Trời Vô Sắc
A tu la
Địa ngục Địa ngục
Ngạ quỷ Ngạ quỷ
A tu la
Súc sinh
Cõi Người
Súc sinh
Cõi Người
Sáu Cõi Trời
Trời Cõi Sắc
230
7.2 Trường hợp nghiên cứu: Những chuyện có
thật về cuộc sống sau khi chết
Các điểm mạnh và điểm thực hiện trong đời sống
con người của chúng tôi ra lệnh điểm đến thế giới
bên kia của chúng tôi và chất lượng cuộc sống của
chúng ta có. Đối với một sự hiểu biết tốt hơn về
chủ đề này, một số nghiên cứu trường hợp minh
họa dựa trên câu chuyện có thật của cuộc sống sau
khi chết từ các chương trình mẫu giáo Giấc mơ
được sao chép ở đây bằng cách đó, nếu ví dụ minh
họa.
7.2.1 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới
Phạm thiên
Tái sanh trong cõi Phạm Thiên nhờ đạt được các
tầng thiền42
Trước ở Thái Lan, có một nông dân, người này hào
phóng, thích thực hành thiền định và giữ các giới
luật nghiêm tịnh. Ông đi chùa mỗi tháng hai lần và
là một người lãnh đạo khối cư sĩ trong chùa. Ông
bị bệnh hen, các triệu chứng trong số đó giảm
42
Dream Kindergarten Case Study: August 27, 2003
231
xuống khi ông thực hành thiền định - khiến một
bác sĩ hoặc thuốc men là không cần thiết.
Ông qua đời vì tuổi già lúc được bảy mươi lăm sau
khi nằm liệt giường hai tháng. Trong thời gian đó,
ông đã dạy con gái của ông về bản chất của cuộc
sống bằng cách sử dụng cơ thể của mình như là
một ví dụ43
. Cuối cùng, ông thông báo con gái của
mình rằng ông sẽ chết vào ngày hôm sau. Ông gọi
con gái của mình đi mua cà sa và các vật dụng cần
thiết trong chùa với tiền của mình để dâng một
món quà công đức cho các tu sĩ cho một lần cuối
cùng tại nhà riêng.
Sau khi ông đã xin thọ Ngũ giới, ông xin được
dâng của cúng cho tăng đoàn [sa”ngadaana], đổ
nước để hồi hướng công đức và nhận được chúc
lành của các tu sĩ. Sau đó, ông ngồi thiền trong hơn
hai giờ trước khi mời các nhà sư chọn áo cà sa và
thiền định thêm hai tiếng trước khi từ biệt con cháu
của mình rồi ra đi một cách an lành.
Sau khi thần thức của ông rời khỏi thân xác của
mình, ông tái sinh là Phạm Thiên, trong cõi trời
Phạm Phụ với một cung điện thủy tinh là kết quả
của việc có thực hành thiền định thường xuyên và 43
That his body was breaking down, because it is of a nature of
body is impermanent, unstable and unpleasant. One should be disenchanted with it. One should reach dispassion concerning it. One should liberate oneself.
232
đạt được giai đoạn đầu của Sơ thiền. Tâm trí của
ông là rất trong sáng. Mặc dù ông chưa đạt được
cõi Pháp bên trong, tâm trí của ông sáng bên trong
toàn bộ thời gian.
Ông đã bị bệnh suyễn bởi vì trong cuộc sống con
người và cuộc sống trước đây, ông đã làm việc quá
sức con thú của gánh nặng. Tuy nhiên, thực hành
thiền định trong cuộc sống này giúp ngăn chặn sự
trả thù của nghiệp này và khiến ông được tái sinh
trong cõi Phạm thiên.
7.2.2 Từ Cảnh giới con người đến các Cõi Trời
Tái sinh ra ở tầng trời thứ sáu do thực hành bố
thí vì đức tin44
Trước kia có một bà phụ nữ Thái Lan tính hiền
lành yêu thích và thờ phụng giáo lý của Đức Phật.
Bà thọ giới tỳ-kheo-ni, hành thiền và trú xứ tại
Chùa Lâm-mangka. Một tháng trước khi bà qua
đời, bà yêu cầu cô cháu gái, người đã chăm sóc bà
trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, đi
thỉnh các nhà sư đến tại thất của bà. Bà đã cúng
dường trai tăng cho các nhà sư và nhận được một
chúc lành từ họ mỗi ngày trong một tháng. Có điều
44
Dream Kindergarten Case Study: August 27, 2003.
233
lạ là trong suốt thời gian một tháng này, bà đã
không ăn gì cả. Bà không bị bệnh và trông khỏe
mạnh. Bà đã qua đời trong giấc ngủ một cách an
lành đến nỗi cô cháu gái ngủ bên cạnh bà đã không
nhận ra mãi cho đến sáng sớm.
Người phụ nữ đã chết vì tuổi già. Thần thức của bà
lìa khỏi thân xác của mình và nhìn thấy một chiếc
xe ngựa trên trời trông giống như một lâu đài
vàng-pha lê với một đoàn tùy tùng rất đông trên
trời. Tất cả họ đều đến đón bà lên trời và đưa bà
đến tầng trời thứ sáu. Cung điện trên trời của bà rất
tinh xảo và tráng lệ, được làm bằng vàng-pha lê,
trong suốt như một viên kim cương, cẩn nhiều loại
đá quý. Đây là một hệ quả của thực hành bố thí của
bà với một tâm thức thấm nhuần đức tin vào sức
mạnh của sự rộng lượng và Tam Bảo, trong khi giữ
Tám giới suốt thời gian cuối cùng của cuộc đời bà.
Sinh ra ở tầng trời thứ tư sau khi một cuộc sống
ngắn ngủi nhưng nhiều công đức45
Thuở đó có một người đàn ông trẻ Thái Lan đã
sống đạo đức trong suốt cuộc đời của ông. Ông
không hút thuốc hoặc uống rượu và được mọi
người trong gia đình cũng như thân quyến yêu
45
Dream Kindergarten Case Study: September 13, 2003.
234
thích. Ông đã có một tuổi thơ khó khăn. Là con trai
cả, ông đã giúp đỡ mẹ mình làm việc và chăm sóc
các em ruột trẻ hơn của ông. Ông đã phải trải qua
một phẫu thuật trên một van tim khi ông được hai
mươi hai tuổi. Ông đã lấy vợ và có ba đứa con.
Ông sở hữu một doanh nghiệp bán vật tư xây
dựng. Ông là một người làm việc chăm chỉ và đã
kinh doanh rất tốt.
Cả nhà ông đi chùa mỗi chủ nhật đầu tiên của
tháng và đã tham gia các khóa tu học dài về thiền
quán trong những ngày lễ. Vào đêm 06 tháng 5
năm 2002, vợ ông đã tìm thấy ông nằm bất tỉnh
trên sàn nhà tắm. Cô biết ông đã chết vì cơ thể của
ông đã chuyển sang màu xanh và không còn mạch.
Cô vội vàng đưa ông đến bệnh viện nhưng được
cho biết rằng chồng cô đã qua đời vì một cơn đau
tim. Ông mới chỉ có ba mươi bảy tuổi.
Sau khi ông qua đời, thần thức của ông đã lìa khỏi
xác chết của ông nhưng đã không đi xa. Ông vẫn
còn lo lắng về gia đình và vì vậy tinh thần của ông
vẫn còn nán lại xung quanh ở nhà của họ mà
không nhận ra ông đã chết. Trong trường hợp này,
người đàn ông đã có một cái chết đột ngột, do đó,
những hình ảnh [gatinimitta] lóe lên trước khi ông
ta trước khi ông qua đời không rõ ràng và tâm thức
của ông không bị mờ mịt nhưng cũng không rạng
235
rỡ. Ông đã cố gắng hoài công để giao tiếp với gia
đình của mình. Không ai có thể nhìn thấy hoặc
nghe thấy ông ta bởi vì ông ở trong một cõi khác.
Ông chỉ nhận ra rằng ông đã chết khi ông chứng
kiến tang lễ của chính mình.
Sau bảy ngày, khi sự ràng buộc và lo lắng của
mình về gia đình đã giảm bớt, ông đã có thể nhớ
lại tất cả các công đức ông đã làm trong cuộc sống
của mình. Cùng với các công đức gia đình của ông
đã hồi hướng cho ông ta, tâm thức trở nên rõ ràng
và thần thức của ông bắt đầu trở nên rạng rỡ. Thân
trung ấm của ông biến thành một thần trời. Một xe
ngựa vàng trên trời có kích thước trung bình, cẩn
ngọc quý cùng với một đoàn tùy tùng các thần trời
hiện ra với ông và đưa ông đi nhiễu Dhammakaya
Cetiya theo chiều kim đồng hồ. Ông được tràn đầy
hoan lạc và đi đến tầng trời thứ tư vì sức mạnh của
công đức.
Ông có một cuộc sống ngắn ngủi do nghiệp xấu
trong quá khứ của mình. Ông đã từng là một
người lính và đã giết chết rất nhiều kẻ thù - nguyên
nhân chính khiến ông chết sớm. Suy tim của ông là
một hậu quả của ngược đãi thú vật, trong trường
hợp này, là một sứ giả cưỡi ngựa trong quân đội
trong một kiếp sống khác. Ông cưỡi ngựa đến cái
chết để có được thông điệp của mình đến người
236
nhận của họ cho kịp thời. Nghiệp xấu này sẽ còn
tiếp tục theo ông ta trong nhiều cuộc sống tới nữa.
Rơi xuống từ trời xuống cõi người vì sự oán hận,
sau này được trở lại46
Có một phụ nữ Thái hiền dịu luôn luôn có một nụ
cười trên khuôn mặt của cô. Cô không bao giờ
nguyền rủa bất cứ ai - cô không bao giờ bị khó
chịu hoặc nổi giận với bất cứ ai. Cô không bao giờ
đánh con mình. Cô chăm sóc bà mẹ mình với lòng
biết ơn cho đến khi mẹ cô qua đời. Khi cô không
còn cần thiết phải chăm sóc bà mẹ cô, cô dành
nhiều thời gian hơn để công phu thiền định. Cô đi
chùa tham dự mọi buổi lễ chính và ngày Chủ nhật
tuần đầu tiên của tháng. Cô đã tặng hai tượng Phật
cho Maha Dhammakaya Cetiya và là một thí chủ
chính cho buổi lễ Kathina vào năm 1991, cung cấp
vàng cho đúc hình ảnh vàng son của Đại Lão Hòa
Thượng Chùa Paknam cùng với nhiều công đức
khác.
Một ngày nọ, khi cô đang nằm đọc sách Phật Pháp
và nhớ lại trong niềm vui tất cả những điều tốt đẹp
cô đã làm trong suốt cuộc đời cô, cô ngồi dậy và
mở rộng hai cánh tay cô như thể cô đã mong nhận
46
Dream Kindergarten Case Study June 16, 2003.
237
được một cái gì đó. Cô sau đó hạ tay, nhắm mắt
lại, mỉm cười và qua đời ở tuổi bảy mươi hai. Cô
là một phụ nữ khỏe mạnh không bệnh tật.
Điều gì khiến cô có hành vi đó thật khá thú vị. Cô
đã nghe ai đó gọi tên mình, vì vậy cô ngồi dậy.
Trước mặt cô, cô nhìn thấy nhiều thần trời nữ mặc
quần áo đẹp chính là đoàn tùy tùng của mình. Họ
dâng cô một vòng hoa mà cô vui vẻ mở rộng hai
tay ra để đón nhận. Sau đó, cô qua đời bởi vì thời
gian của mình đã đến. Thần thức của cô lìa khỏi
thể xác như là một thần trời đẹp. Sau đó, cô và
đoàn tùy tùng của cô đã lên cỗ xe trời hai bánh có
kích thước trung bình được làm bằng vàng và cẩn
ngọc quý. Xe này đã đưa cô đến một cung điện lớn
trên trời thuộc tầng trời thứ hai.
Trước khi cô được sinh ra như là một con người ở
trong đời sống này, cô đã là một thần trời nữ ở
tầng trời thứ hai với bạn của mình, một thần trời
nam đẹp trai có một hào quang sáng. Đối tác của
cô là một diễn giả hùng hồn và phổ biến trong các
hội chúng thần trời. Sự nổi tiếng của anh đã khiến
cô bực bội, làm cho cô phải một kết thúc của cuộc
sống thần trời của mình và phải tái sinh xuống cõi
người. Trước khi cô qua đời từ cõi trời, cô ấy đã
làm một vòng hoa và nguyện rằng nếu chồng vẫn
còn yêu cô ấy, anh sẽ đưa nó cho cô. Chồng bà
238
nhìn thấy vòng hoa khi ông trở lại cung điện trên
trời của họ. Ông hiểu những gì đang xảy ra ngay
lập tức và tiếp tục theo dõi cô trên hành tinh trái
đất cho đến khi thời gian của mình như một con
người đến. Sau đó, ông gửi một đoàn tùy tùng với
vòng hoa đó để mời cô trở lại tầng trời thứ hai.
Sinh ra ở tầng trời thứ ba47
Trước kia có một nhà sư Phật giáo Thái Lan đã thọ
giới ba mươi mốt năm năm trước khi qua đời vào
ngày 19 tháng ba năm 2003 ở tuổi 57. Ở tuổi mười
một, ông đã thọ giới Sa di tại một ngôi chùa ở tỉnh
Nongkhai. Ông đã đi học các trường phái Phật giáo
khác nhau và đã có thể hoàn thành tất cả các khóa
học thành công, sau đó chuyển đến Chùa Naklang
ở Bangkok. Sau đó, ông đã đi Ấn Độ trong bốn
năm và tốt nghiệp với bằng cao học. Tuy nhiên,
ông cảm thấy bị cám dỗ để rời khỏi tăng đoàn sau
khi ông trở lại Thái Lan. Ông nói dự định của mình
với vị trụ trì Chùa Naklang, vị này sau đó đã đưa
ông vào một cuộc hành hương dhuta”nga trong
rừng hơn mười năm. Ở đó, ông đã nghiên cứu
thiền và y học cổ truyền. Ông trở nên tinh xảo
47
Dream Kindergarten Case Study: April 22, 2003.
239
trong các chủ đề và đã giúp vị trụ trì chữa bệnh
trong nhiều năm.
Năm 2001, ông được bầu làm trụ trì của ngôi chùa
ông ở. Ông đã xây dựng bốn nhà ở tu viện, đã lót
đường xung quanh chùa, cải tạo tháp chuông và
tang phòng. Dự án dở dang của ông là xây dựng
một trường học cho nghiên cứu Phật giáo. Ông qua
đời trong khi ông được một giấc ngủ ngắn sau bữa
ăn trưa. Một tháng trước khi ông qua đời, ông
thường bị mụn mủ. Ông đã có một phẫu thuật để
loại bỏ các mụn mủ, chỉ hai tuần trước khi qua đời.
Vị tri sự chùa mang xác ông đến bệnh viện. Bác sĩ
đã cố gắng để làm ông ấy sống lại nhưng dừng lại
sau khi chắc chắn rằng nhà sư đã chết. Ông định
tiêm xác chết với formalin khi đột nhiên điện bị
cắt. Năng lượng dự trữ cắt giảm thay vào đó,
nhưng cũng liền bị tắt ngay. Các nhà sư đi theo
yêu cầu bác sĩ đến tiêm xác tại chùa. Họ di chuyển
xác chết và lần này tiêm được thành công - nhưng
ngay sau đó, toàn tỉnh bị mất điện, và có gió giật
mạnh và mưa lớn.
Tất cả các sự kiện bất ngờ đã được gây ra bởi ước
vọng mạnh mẽ của vị tu sĩ đã chết, nhưng chưa sẵn
sàng chết. Ông muốn thực hiện công việc của mình
đối với Phật giáo. Ông không thành công trong cố
gắng để trở vào lại cơ thể đã chết của mình và do
240
đó không muốn bác sĩ tiêm ông ta. Ông hiểu rằng
nếu cơ thể của ông đã bị tiêm formalin, ông sẽ
không có cơ hội nào nữa để sống lại. Ông đã nhớ
lại tất cả các công đức của mình và mong muốn
rằng không ai có thể tiêm được cho anh ta. Sức
mạnh của công đức của ông gây ra việc cắt đứt
điện lực và sự cố bất thường tại bệnh viện.
Sau đó, ông đã đi theo cơ thể đã chết để về chùa và
cuối cùng chấp nhận cái chết của mình. Ông nghĩ
về công đức của mình và thần thức của ông thay
đổi thành một thiên thể và cuối cùng cơ thể của
một thần trời với tất cả những cạm bẩy của thiên
đàng. Xe ngựa trên trời và đoàn tùy tùng của ông
hiện ra với ông và hộ tống ông ta vào tầng trời thứ
ba.
Tuy nhiên, mưa lớn gió lớn tại chùa, đã được gây
ra vì sức mạnh của các thần cây, không khí và đất,
những người trong nỗi buồn sâu vào cái chết của
một nhà sư. Khi nhà sư còn sống, ông đã luôn luôn
trải lòng từ ái cho họ bất cứ khi nào ông thực hiện
công đức. Bây giờ không còn nhà sư, họ không có
công đức để vui mừng.
Nhà sư thường có mụn mủ như một hệ quả của làm
việc chăm chỉ của mình trong cuộc sống hiện tại và
cũng từ những tà ngữ trong cuộc sống quá khứ của
mình. Khi còn là một sa di trong cuộc sống quá
241
khứ của mình, ông đã cứng đầu và cãi lời vị sư
thàycủa mình, khiến sư thày thấy rất khó chịu và
cảm thấy sự oán giận. Phẫu thuật ông đã có trên
ngực của mình là vì không vâng lời cha mẹ và
người cao niên của mình. Ông đã quá tự tin và
thường tranh luận và đe dọa những người lớn tuổi
và giỏi hơn mình, khiến họ khó chịu. Ông đã sống
một cuộc sống khá ngắn vì đã giết người trong
cuộc sống trước đây.
7.2.3 Từ Cảnh giới con người trở lại Cảnh giới
con người
Sinh ra là một người phụ nữ vì đã lăng loàn48
Trước đây có một người đàn ông Lào đã di cư đến
Chicago. Ông đẹp trai và thường sai lầm với vợ
của người đàn ông khác. Sau khi ông đã lắng nghe
giáo lý về Kinh Ma”ngala, đặc biệt là về hậu quả
của tà dâm, ông đã hiểu được luật nhân quả và
ngừng hành vi ngoại tình của mình. Ông trở thành
một người tốt hơn và thường xuyên đi chùa, thực
hành bố thí, giữ năm giới, hành thiền và tụng kinh
buổi sáng và đêm. Ông đã tặng hình ảnh Đức Phật
trên các Dhammakaya Cetiya cho bản thân và mọi
48
Dream Kindergarten Case Study: February 15, 2003.
242
người khác trong gia đình của mình. Sau đó, ông
đã suy thận và đã qua đời ngay sau đó. Vì sự dính
mắc và tình yêu của ông cho gia đình mình, tâm
thức của ông không bị che khuất cũng không rạng
rỡ và thần thức của ông vẫn còn nán lại xung
quanh nhà của họ. Vào ngày thứ bảy, ngục tốt của
luyện ngục xuất hiện và đưa ông vào Luyện Ngục.
Qua tòa trong luyện ngục cho thấy hành vi bất
thiện của ông và những cảnh của anh ta phạm
ngoại tình đã được đưa lên trên màn hình ở phía
trước tòa của thẩm phán. Ông xem những hình ảnh
với nỗi buồn và tội lỗi cho đến khi hình ảnh của
thiện nghiệp của mình được hiển thị. Điều này
khiến ông vui mừng và cho phép tâm thức của ông
trở nên rõ ràng và rạng rỡ.
Phán quyết của thẩm phán rằng ông cần phải được
một cơ hội khác trong cõi con người. Ông yêu cầu
được sinh ra trong gia đình cũ của mình một lần
nữa do quan hệ gần gũi của mình với họ. Vào thời
điểm đó, con gái cũ của ông đã kết hôn và mang
thai. Thần thức của ông sau đó đã được rút ra cho
nàng và sinh ra là đứa con của nàng. Ông được
sinh ra làm con gái vì ông đã ngoại tình trong cuộc
sống gần đây nhất của ông.
Ông đã có một cuộc sống ngắn ngủi và một lần
nữa đã chết vì suy thận bởi vì trong một cuộc đời
243
trước đây, ông đã là một người lính đã chiến đấu
và giết nhiều kẻ thù đặc biệt bằng cách đâm trong
thận.
Cuộc sống ngắn từ nghiệp xấu của giết chết49
Trước kia có một cậu bé người Thái Lan đã mẹ
mình nuôi dưỡng sau khi cha mẹ ly dị. Mẹ yêu anh
ấy rất nhiều và anh cũng thương bà ấy - luôn luôn
làm những gì bà nói. Khi anh được mười sáu tuổi,
anh và người bạn của mình đã bị một tai nạn xe
hơi, anh bị giết nhưng người bạn của anh sống sót.
Sau khi anh qua đời, thần thức của anh bị rời khỏi
cơ thể của mình không nhận ra rằng anh đã chết
cho đến khi anh nhìn thấy xác chết của mình được
mang đi. Anh nghĩ đến mẹ mình và trở về nhà để
nhìn thấy bà ấy. Anh đã cố gắng hoài công để giao
tiếp với bà. Vào ngày thứ bảy, các ngục tốt của
luyện ngục hộ tống anh đi vào Luyện Ngục. Thẩm
phán cân nhắc công đức và tội lỗi của anh và quyết
định gửi cho anh ta trở lại cõi người. Anh được tái
sinh ra trong một gia đình sang trọng như một hệ
quả của công đức quá khứ của mình.
Anh đã chỉ sống một cuộc sống ngắn bởi vì anh đã
giết chết hai người trong một cuộc sống trước đó.
49
Dream Kindergarten Case Study: December 19, 2002.
244
Anh đã thương một cô gái đã có bạn trai. Anh ghen
tị với họ và đã thuê một người đàn ông để giết cả
hai. Sau khi anh qua đời từ cuộc sống ấy, anh đã bị
kết án để phục vụ thời gian của mình liên tiếp
trong địa ngục lớn, địa ngục phụ, luyện ngục, ngạ
quỷ, a tu la, cõi súc sinh và sau đó làm người,
những người hoặc là phải đối mặt với tai nạn bi
thảm hoặc phải bị sát hại.
7.2.4 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới Súc
sinh
Sinh ra như một con tắc kè trả thù cho giết chết
tắc kè50
Có một người Thái Lan không Phật giáo kết hôn
với một phụ nữ Phật giáo. Ông có long quảng đại
và không bao giờ cấm người vợ Phật tử của mình
làm công đức. Ông thậm chí còn tham gia một số
việc làm công đức, bao gồm cả việc dâng y
Kathina hoặc áo choàng.
Mỗi thứ Sáu hàng tuần, ông đã lấy nhiệm vụ của
mình giết chết tắc kè làm nghiêm trọng. Vị tiên tri
của tôn giáo ông đã bị kẻ thù bắt trong khi ẩn náu
trong một hang động do tiếng ồn tắc kè gây ra.
50
Dream Kindergarten Case Study: August 15, 2003.
245
Ông coi tắc kè là kẻ thù của ông vì ông đã có một
đức tin lớn vào vị tiên tri của mình. Ông đã thực
hiện nghĩa vụ này mặc dù vợ của ông đã cảnh báo
ông. Ngoài việc giết chết tắc kè, ông uống rượu,
đánh bạc và hút thuốc. Ông bị bệnh hen suyễn và
các bệnh khác. Cuối cùng, ông qua đời vì xuất
huyết não. Sau khi chết, thân nhân của ông đã bố
thí để xây dựng một hình ảnh Đức Phật trên Maha
Dhammakaya Cetiya trong tên của mình và hồi
hướng công đức cho ông.
Ông đã nhầm lẫn và không hoàn toàn ý thức trong
khi ông chết. Điều cuối cùng ông nhìn thấy trước
khi ông qua đời là bóng tối và tắc kè xuất hiện với
ông. Thần thức của ông bị rút vào một quả trứng
của một con tắc kè mang thai - một hệ quả của
thực hành thói quen của mình giết chết tắc kè.
Xem xét nghiệp xấu của ông từ thói quen giết
người, cờ bạc, hút thuốc và uống rượu, ông đã có
thể bình thường bị rút vào các cõi địa ngục chính.
Tuy nhiên, ông đã đi đến cõi súc sinh bởi vì công
đức ông đã làm trong Phật giáo hoãn quả báo của
nghiệp xấu đó.
Trong cõi súc sinh, ông không thể nhận được bất
kỳ công đức hồi hướng cho ông từ thân nhân của
ông. Ông sẽ phải được tái sinh như một con tắc kè
trong suốt những cuộc sống nhiều lần tới. Khi
246
nghiệp từ giết chết của ông đã kiệt sức, nghiệp
khác, công đức hoặc các hình thức khác, sẽ chiếm
thế thượng phong. Nếu công đức đã đạt được
chiếm đa số, ông sẽ được tái sinh trong cõi người.
Nếu tội lỗi chiếm thế thượng phong, ông sẽ thấy
chính mình ở các địa ngục lớn hoặc địa ngục phụ.
Xuất huyết não của ông đã được gây ra bởi nghiệp
ông đã xây dựng được cho mình trong cuộc sống
hiện tại bằng cách giết chết tắc kè, uống rượu, hút
thuốc lá và cờ bạc.
Nghiệp báo của một sở hữu chủ một trang trại
vịt51
Có một người đàn ông đến từ Trung Quốc và sống
bằng cách vận hành một trang trại vịt. Ông mua vịt
nhỏ và nu ôi lớn lên đến tuổi đẻ trứng. Ông thu
thập và bán trứng vịt. Nếu vịt không đẻ trứng đủ,
ông sẽ bán cho các nhà giết mổ. Ông cho vịt ăn
tép, đun sôi và băm nhuyễn với cá để có được
tròng đỏ trứng màu đỏ.
Ông là một người tử tế - luôn luôn hữu ích và hào
phóng với bạn bè của mình - nhưng hút thuốc và
uống một tách nhỏ rượu thuốc mỗi ngày. Ông
51
Dream Kindergarten Case Study: June 26, 2003.
247
thỉnh thoảng làm công đức tại một ngôi chùa Tàu
và bố thí cho người nghèo.
Mỗi buổi chiều, ông đi đến gặp các người bạn
Trung Quốc và uống vài tách trà với họ ở chợ
chồm hổm. Một ngày nọ, ông bảo vợ rằng ông
thấy khó chịu và sắp chết sau khi ông đã từ chợ về
nhà. Vợ và con cái ông đã cố gắng cấp cứu cho
ông nhưng ông đã có một cơn đau tim và qua đời ở
tuổi bảy mươi sáu.
Trước khi qua đời, ông đã rất buồn bởi vì ông đã bị
con gái chủ nợ của mình xúc phạm. Tâm trí của
ông bị mờ mịt, khiến điê u tội lỗi giành quyền kiểm
soát của những hình ảnh [gatinimitta] nhấp nháy
trước mắt ông khi ông sắp chết. Ông đã thấy và
nghe thấy những con vịt ông đã nuôi để cả lấy
trứng và giết mổ. Những hình ảnh này đã khiến
ông được tái sinh trong cõi súc sinh như một con
vịt phải bị giết mổ nhiều lần cho đến khi quả báo
này bị cạn kiệt.
7.2.5 Từ Cảnh giới con người đến Cảnh giới
Ngạ quỷ
Sinh ra như một con ma đói vì keo kiệt và xúc
phạm các nhà sư52
52
Dream Kindergarten Case Study: September 22, 2003.
248
Trước kia có một người đàn ông Trung Quốc di cư
sang Thái Lan từ Sán Đầu ở Trung Quốc. Ông qua
đời ở tuổi bảy mươi hai.
Khi ông là một người đàn ông trẻ, ông phải vật lộn
để nuôi gia đình của mình bởi vì ông ta có mười
người con. Ông đã có một tình hình tài chính tốt
hơn khi ông đến tuổi trung niên. Ông không gần
gũi với con cái của ông bởi vì ông cũng đã có một
tình nhân và dành hầu hết thời gian của mình với
cô ấy. Nói chung, ông đã làm các loại công trình từ
thiện nhân dân Trung Quốc muốn làm, nhưng ông
đã từ chối hỗ trợ cho các nhà sư Phật giáo. Ông coi
họ là lười biếng bởi vì họ đã không làm việc. Ông
cũng truyền định kiến này đến tất cả các con trai
của ông. Ông có năm người con trai và năm người
con gái. Tất cả con gái của ông, ngược lại, thích hỗ
trợ Phật giáo như mẹ của họ (vợ ông).
Ông duy trì sức khỏe mạnh cho đến khi giai đoạn
cuối cùng của cuộc đời ông khi ông đã phát triển
các triệu chứng của bệnh tiểu đường và huyết áp
cao. Ông qua đời một cách an lành trong giấc ngủ,
trong khi nằm nghiêng một phía ôm chiếc gối của
ông như thể ông vẫn còn sống.
Thần thức của ông rời khỏi xác của ông và vẫn còn
nán lại xung quanh nhà riêng của mình trong bảy
249
ngày. Vào ngày thứ bảy, ngục tốt của luyện ngục
đến bắt ông mang lại trước tòa án của luyện ngục.
Họ kéo ông ta đến đó trái với ý muốn của ông,
khiến lòng ông chứa đầy sợ hãi. Ngay phía trước
cổng tòa, các dòng người mới chết, trần truồng và
thuộc nhiều dân tộc khác nhau, cả đàn ông và phụ
nữ. Ông đã được đưa ra hầu tòa trong luyện ngục
[yamaraaja]
Thẩm phán trong luyện ngục hỏi ông ta về cuộc
sống quá khứ của mình và hỏi: “Ông có biết lý do
tại sao ông lại đang ở đây?”
Ông trả lời khiêm tốn rằng ông không biết, nói,
“Xin đừng hành hạ tôi! Xin phép cho tôi đi!”
“Ông sẽ được phép đi chỉ sau khi các công đức và
tội lỗi của ông đã được xem xét.” Thẩm phán đã ra
lệnh các công tố viên (đại diện những hành động
xấu nạn nhân đã làm) [suvaanalekhaa] kiểm tra hồ
sơ của người đàn ông về những hành động bất
thiện. Nghiệp xấu của ông cho thấy cảnh này đến
cảnh khác trên một màn hình ở phía trước ngai
vàng của thẩm phán, đặc biệt là sự không chung
thủy của ông với vợ của mình và thái độ tiêu cực
của ông đối với các nhà sư và đã xúc phạm họ.
Người đàn ông cảm thấy buồn và tội lỗi khi nhìn
lại quá khứ của mình, cơ thể ông trở nên đần độn.
Thẩm phán đã ra lệnh bị đơn (đại diện cho những
250
việc làm tốt các nạn nhân đã thực hiện)
[suva.n.nalekhaa] kiểm tra hồ sơ của người đàn
ông về các hành vi thiện. Những cảnh của ông ta
làm công đức, mặc dù không phải là rất nhiều, xuất
hiện trên màn hình bao gồm các khoản đóng góp
mà ông đã làm cho công tác xã hội. Kết quả là, ông
đã được dắt từ luyện ngục qua một lối ra vào các
cõi của ngạ quỷ. Cơ thể của ông bây giờ là màu
đen, mỏng và cao với giòi đầy miệng. Ông đã có
hơi thở hôi và mùi thân thối, đến như là một hậu
quả đã khinh rẻ các nhà sư. Bộ phận sinh dục của
ông là rất lớn và nặng nề do nghiệp xấu đã được
tích luỹ bởi sự không chung thủy của mình. Trong
cõi này, may mắn là ông đã có thể nhận được công
đức từ người thân của ông, giúp giảm thời gian
ông sẽ phải trải qua sự trừng phạt ở đó.
Được tái sinh như một con ma đói với một lâu
đài trên trời vì xúc phạm các nhà sư53
Thuở trước có một nông dân nghèo Thái Lan,
người đã đấu tranh để nuôi dạy bảy người con của
ông. Chẳng có đứa nào trong số con cái của ông
được học hết lớp vì chúng đã phải giúp đỡ ông
trong công viêc đồng áng. Chế độ ăn uống của họ
53
Dream Kindergarten Case Study: February 22, 2003.
251
chỉ gồm các loại rau củ và cá đánh bắt từ một con
sông gần đó.
Ông là một người đàn ông biết lo cho vợ con, đáng
tin cậy, kiên trì và siêng năng làm việc. Ông đã
chăm chỉ làm việc nên sau đó được hưởng một
cuộc sống thoải mái hơn. Tuy nhiên, ông không tin
rằng một hành động có thể tạo nên công đức hoặc
điê u tội lỗi và do đó không thực hiện những công
đức hoặc tội lỗi gì đáng kể. Một đôi lần, ông để bát
các nhà sư, gây quỹ cho Kathina, hoặc cúng dường
với lễ thọ giới tỳ kheo. Mãi cho đến giai đoạn cuối
của cuộc đời, ông mới làm công đức nhiều hơn
nhờ vào sự thuyết phục của con gái mình. Tuy
nhiên, sau lưng con gái mình, ông lại nói với
người khác rằng ông không tin vào thiên đàng hay
địa ngục và còn nhục mạ các tu sĩ nữa.
Ông bị mất cảm giác ngon miệng và trí nhớ khi lớn
tuổi trong khoảng thời gian cuối cùng của cuộc đời
mình - nhưng lại không để các bác sĩ chăm sóc ông
ta.
Trước khi ông qua đời, những hình ảnh tiêu cực
lóe sáng trước mặt ông, thấy những tôm, cua, sò,
hến, cua, cá, ông đã giết chết và hình ảnh bản thân
ông xúc phạm các nhà sư. Những hình ảnh tiêu cực
này xen kẽ với hình ảnh tích cực của chính ông đôi
khi làm những việc công đức. Tâm trí của ông
252
không sang rỡ cũng không bị che khuất. Sau khi
chết, thần thức của ông vẫn còn nán lại xung quanh
nhà mình đến bảy ngày. Vào ngày thứ bảy, các
không thần chịu trách nhiệm về khu vực nhà ông ở
đã đưa ông tới ngôi làng của những ngạ quỷ sở
hữu biệt thự trên trời [vemaanikapeta]54
. Những
con ma đói này trải qua đêm của họ như là con ma
đói và ngày của họ như là thần cây. Ông có một
cung điện bằng bạc nổi kích thước trung bình ở
cấp độ của ngọn cây.
Trong ngày, thời gian ông là một con ma, ông đã
có rất nhiều thực phẩm từ công đức ông đã làm.
Tuy nhiên, vào lúc hoàng hôn, ông cảm thấy nỗi
54
People are reborn as hungry ghosts possessing heavenly
mansions because of having done a mixture of good and bad deeds. Some are hungry ghosts at night and angels during the day. They can have a lifespan of anything from a hundred years to a million. At the time they are able to enjoy their own heavenly mansion they know that these are the fruits of merits they have done during their human life and they dread the time when they will have to return to being a hungry ghost. Hungry ghosts with heavenly mansions come in three types: 1. earth-sprites with heavenly mansions [bhumadevaa-vemaanikapeta] which have their own villages of many types located on land, on water or beneath the water; 2. tree-sprites with heavenly mansions in the treetops [rukkhadevaa-vemaanikapeta] and; 3. air-sprites which have heavenly mansions in the air at a height of about one league above the earth [aakaasadevaa-vemaanikapeta]
253
đau đớn và bị bắt buộc (bởi nghiệp của mình) trốn
ra khỏi cung điện và biến thành một con ma đói.
Đây là một hậu quả của việc không tin vào địa
ngục, thiên đường hay luật nhân quả. Ông đã có
một cơ thể cao lớn bị mưng mủ và nhăn nheo.
Miệng của ông đã bị lấp đầy với những con giòi từ
nghiệp xấu đã mạ lỵ các nhà sư. Ông cảm thấy đau
đớn cùng tột và cứ la lớn: “Bây giờ tôi tin rồi. Bây
giờ tôi tin có thiên đường và địa ngục rồi!” Với cái
miệng đầy giòi, ông không thể nói bất cứ điều gì
thật rõ ràng. Sự đau khổ của ông đã khiến ông tin
rằng ông đã nằm trong địa ngục Thật ra, ông không
ở trong địa ngục và không có ý tưởng rằng sự tra
tấn trong địa ngục lại còn mãnh liệt hơn.
Ông không thể chờ đợi bình minh để được thoát
khỏi đau đớn và biến đổi thành thần cây. Sự đau
khổ làm cho ông ta cảm thấy rằng đêm không bao
giờ kết thúc.
Thoát khỏi được từ một địa ngục lớn bằng công
đức con trai mình hồi hướng55
Trước kia có một người đàn ông Thái Lan làm việc
chăm chỉ để nuôi sống gia đình mình bằng cách
mở một cửa hàng bán rượu nhỏ trong khi giết mổ
55
Dream Kindergarten Case Study: November 11, 2002.
254
cá, vịt và lợn. Ông là một người đàn ông nặng 125
kg, nhưng bị bệnh tiểu đường. Ông nghiện cờ bạc
đặc biệt là gieo xúc xắc và quản lý số đề lậu.
Tuy nhiên, ông là một người tử tế, thích giúp đỡ
cộng đồng mình và tình nguyện như là một thành
viên ban trị sự tại một ngôi chùa gần đó. Cộng
đồng và tất cả các nhà sư đều yêu mến ông ấy.
Những lúc đau ốm, con trai của ông - cũng là một
tình nguyện viên chùa - đã cố gắng nhắc nhở cha
mình công đức ông đã làm trước khi ông qua đời.
Con trai của ông biết rõ các hình ảnh nhấp nháy
trước mắt một người sắp chết [gatinimitta] báo
trước điểm đến thế giới bên kia của một người sắp
chết. Con trai của ông thông báo với ông thường
xuyên các cơ hội cho những việc làm công đức và
thuyết phục ông làm thêm nhiều công đức.
Người cha đã qua đời ở tuổi bốn mươi tám. Trước
khi ông qua đời, hình ảnh lóe lên trước mắt ông là
cả hai hành vi thiện và bất thiện. Các hình ảnh giết
lợn, cá, vịt, cờ bạc, bán rượu và các loại ma túy và
bán số đề lậu lóe sáng trước mắt ông ta khi ông
chết, nhưng cũng còn hình ảnh của anh ta giúp đỡ
cộng đồng và tình nguyện như là một thành viên
ban trị sự tại chùa. Tâm trí của ông khi đang chết
luân phiên giữa sáng rỡ và bị che khuất.
255
Cuối cùng, khi tâm trí của ông đã được sang rỡ
nhiều hơn che khuất, thần thức của ông lìa khỏi
thân xác của ông và đi lẩn quẩn xung quanh nhà
của mình. Thần thức của ông tham dự tang lễ của
chính ông. Ông vẫn còn nán lại trong nhà riêng của
mình trong bảy ngày, nhưng không thể giao tiếp
với bất cứ ai. Các địa thần chịu trách nhiệm về khu
vực ông ở tiếp cận và thông báo với ông, “Ngươi
có một hỗn hợp của cả hai công đức và tội lỗi do
đó ngươi sẽ được dẫn đến các cõi của ngạ quỷ với
một cung điện trên trời [vemaanika peta] – cung
điện được đặt trong một khe núi gần căn nhà trên
trần thế của ngươi.” Sau đó ông đã được đưa đến
cung điện của ông, là một cung điện màu trắng bạc
với viền vàng nhẹ. Ngay sau khi ông ta đi qua cửa
ra vào, cơ thể lớn của ông sụt xuống khoảng bảy
mươi kg là một kết quả của công đức của ông –
công đức từ sự thọ giới tỳ kheo của con trai mình,
công đức được hồi hướng cho ông ta từ gia đình và
công đức của chính ông từ việc ông xây dựng một
hình ảnh Đức Phật trên Maha Dhammakaya Cetiya
Nếu không có những công đức này, ông hẳn phải
thấy bản thân mình trong các cõi Địa Ngục Lớn.
Cung điện của ông nằm trong một khe núi. Ông
hoàn toàn ở một mình không có tùy tùng, nhưng đã
được phâ n hoa trời để nuôi như là kết quả của các
256
công đức mà ông đã làm. Ông là một thiên thần
trong ngày, nhưng vào ban đêm, ông cảm thấy nỗi
thống khổ và bắt buộc phải trốn khỏi cung điện
trên trời. Ngay sau khi ông rời khỏi cung điện của
mình, cơ thể của ông biến thành một con ma đói
bay trong không khí như là một kết quả của nghiệp
xấu mà ông đã phạm bằng cách giết chết thú vật,
cờ bạc và bán rượu. Ông có cơ thể, cái đầu và chạy
lúp xúp như lợn, bàn chân và cánh của một con vịt
và đuôi của một con cá.
Đầu của ông bị lửa đốt vì nghiệp xấu bán rượu và
bán số đề lậu. Nhiều con xúc xắc kim loại chìm
trong ngọn lửa và một số lượng ít hơn các lá bài
kim loại trút xuống trên đầu. Trong khi trải qua sự
trừng phạt này, ông đã được bao quanh bởi một
đoàn tùy tùng của những người đã cam kết tương
tự như nghiệp xấu và những người không có nơi
cư trú hoặc nơi để sinh sống. Các thành viên của
đoàn tùy tùng này được mang đến cho ông từ
người đứng đầu của các địa thần chịu trách nhiệm
về khu vực.
7.2.6 Từ Cảnh giới con người đến các Cõi Địa
ngục
257
Đọa vào các cõi Địa ngục mặc dù mong đợi được
lên trời56
Trước kia có một người đàn ông không phải Phật-
tử Thái Lan thích ăn gà. Mọi thứ ông ăn đều có thịt
gà ở trong đó. Ông giết mổ một con gà để cúng tế
trong tất cả các buổi lễ quan trọng của tôn giáo của
mình,
Trước khi qua đời, ông bị bệnh nặng và bị liệt.
Ông cuộn tròn mình khi ngủ như một con gà
không đầu. Ông qua đời không biết gì, do đó
những hình ảnh cuối cùng [kammanimitta] nhấp
nháy trước mắt ông ta không rõ ràng. Thần thức lìa
khỏi xác chết của ông vẫn còn nán lại xung quanh
nhà của mình trong bảy ngày cho đến khi các ngục
tốt của luyện ngục đã đến và dẫn ông đi xét xử.
Ông đã rất hoảng hốt khi thấy mình trong môi
trường không quen thuộc của luyện ngục vì ông đã
luôn luôn được dạy rằng ông sẽ tự động được đưa
về gặp chúa của mình trên thiên đàng khi ông qua
đời. Ở phía trước cửa tòa, có dòng mới đã chết,
trần truồng và của nhiều dân tộc khác nhau, cả
nam và nữ. Tất cả họ trông ảm đạm và sợ hãi, chờ
đợi để được đưa ra xét xử.
56
Dream Kindergarten Case Study: August 15, 2003.
258
Người lục sự gọi tên ông và ông được đưa vào tòa
án. Thẩm phán có hỏi ông về cuộc sống của mình,
tên và địa chỉ. Ông đã trả lời tất cả các câu hỏi và
nhấn mạnh rằng ông đã có một đức tin mạnh mẽ
vào Thiên Chúa. Thẩm phán nói với ông rằng ông
sẽ chỉ được xem xét trên cơ sở của nghiệp tốt và
xấu. Những hình ảnh của ông ta rạch cổ họng gà
và ra lệnh người khác làm như vậy, xuất hiện trên
màn hình ở mặt trước của tòa thẩm phán. Tâm trí
của ông trở nên lu mờ khi nhìn thấy những hình
ảnh đó.
Các thẩm phán nói với ông rằng giết hại và tra tấn
thú vật là một điê u đáng chê nghiêm trọng và bị
kết án anh ta bị tra tấn bằng cách bị ném vào một
vực thẳm sâu (ở cấp độ đầu tiên của địa ngục). Hố
đã bị lấp đầy với các ngục tốt của địa ngục, sử
dụng thanh kiếm khổng lồ để cắt cổ họng của nạn
nhân. Họ đã chết trong đau đớn cùng cực, chỉ được
tái sinh trong cùng một tình trạng khó khăn để sẽ
thông qua cái chết này hết lần này đến lần khác.
Một nhà quản lý máy cất rượu bị buộc phải rót
đồng nóng chảy vào người khác trong luyện
ngục57
57
Dream Kindergarten Case Study: June 16, 2003.
259
Ngày trước có một người đàn ông Thái Lan đã trở
thành người quản lý của máy chưng cất rượu ở tuổi
hai mươi. Ông ấy rất có tài năng mặc dù đã thôi
học ở lớp bốn trường tiểu học. Ông có thể nói
được nhiều thứ tiếng. Ở tuổi hai mươi lăm, ông
đảm nhận vị trí quản lý tại các nhà máy sản xuất
đường, bột, rượu và nước đá. Ông là sinh động, nói
nhiều và thẳng thắn bởi thói quen và đã tham gia
vào các việc làm công đức, đặc biệt là tại một ngôi
chùa địa phương Trung Quốc theo niềm tin truyền
thống của Trung Quốc.
Mỗi tháng vào hai ngày nửa trăng, ông bảo các con
mình giúp đỡ mẹ chúng nấu đồ cúng được đặt trên
bàn thờ nhà để cúng dường Đức Phật. Ông cũng
dắt cả gia đình mình đến một ngôi chùa gần đó.
Ông đã đóng góp bất cứ khi nào được hỏi và đã
tặng một hình ảnh Đức Phật trên Maha
Dhammakaya Cetiya. Ông chỉ uống rượu xã giao.
Ông qua đời ở tuổi năm mươi chín vào ngày 21
tháng 4 năm 1998, vì các biến chứng từ siêu âm
điều trị túi mật của mình. Thần thức của ông rời
khỏi cơ thể của ông và vẫn còn nán lại xung quanh
gia đình mình thêm bảy ngày nữa cho đến khi ngục
tốt của luyện ngục đưa ông đi xét xử. Các thẩm
phán có so sánh công đức và tội lỗi của ông và kết
260
án ông phục vụ như là một ngục tốt [kumbha.n.da]
trừng phạt những người khác trong luyện ngục.
Trong mỗi một năm trời, ông sẽ phục vụ chín
tháng như là một ngục tốt trong luyện ngục và có
ba tháng (để tận hưởng một cuộc sống tiêu chuẩn
thần trời). Sau đó, khi gia đình ông hồi hướng công
đức cho ông ta, bản án của ông đã giảm, chỉ có ba
tháng phục vụ trong luyện ngục. Nhiệm vụ của ông
trong luyện ngục là đổ chất lỏng đồng nóng chảy
xuống cổ họng của nạn nhân có nghiệp uống rượu.
Tái sinh trong tầng đầu tiên của địa ngục lớn do
nghiệp xấu giết chết súc vật58
Có một lần hai người nhập cư Trung Quốc đã định
cư tại Thái Lan như người làm vườn ở chợ. Người
vợ đã chết trong khi sinh con và sau đó, ông lấy
một người phụ nữ Thái Lan làm vợ của mình.
Khi còn là một người đàn ông trẻ, ông thường đi ra
ngoài săn bắn trong rừng - đặc biệt là để bắt con gà
rừng trống làm thực phẩm. Hàng xóm của ông
thường yêu cầu ông giết mổ gà, vịt và lợn nhân
danh họ, khi có lễ hội địa phương. Ông cũng thích
uống rượu và đánh số đề lậu.
58
Dream Kindergarten Case Study: July 30, 2003.
261
Khi ông đến tuổi sáu mươi sáu, ông bắt đầu phát
triển một cơn đau ở chân và đầu gối bị sưng. Triệu
chứng của ông ta quá nghiêm trọng đến nỗi ông
không còn có thể đi bộ. Gia đình ông đã đưa ông ta
đến bệnh viện nơi mà các triệu chứng đã giảm bớt.
Sau khoảng một năm, ông lại phát triển một cơn
đau tương tự và đã đi lại vào bệnh viện. Sau khi
dùng thuốc trong hai tuần, ông bắt đầu nổi một
phát ban trên lưng. Bệnh của ông trở nên tồi tệ hơn
và cuối cùng ông đã qua đời ở tuổi sáu mươi tám.
Ngay trước khi ông qua đời, hình ảnh [gatinimitta]
lóe lên trước mắt ông của tất cả các loài thú vật mà
ông đã giết chết bao gồm cả vịt, gà và lợn. Những
cảnh ấy lấp đầy tâm trí của ông với nỗi buồn và tối
tăm. Điều cuối cùng vào tâm trí của ông trước khi
ông chết do đó là bóng tối. Khi ông qua đời, sức
mạnh của tội lỗi ông đã làm đã thu hút ông ta trực
tiếp đến tầng đầu tiên của địa ngục lớn [Sanjiiva].
Tái sinh trong địa ngục đó, cơ thể của ông thành ra
rất lớn và là một nửa súc vật một nửa con người.
Lúc đầu, ông có cái đầu gà và cơ thể của một con
người. Các ngục tốt của địa ngục đã phát sinh một
cách tự nhiên để gây đau khổ cho ông ta thông qua
sức mạnh của nghiệp xấu của mình, cắt hoặc đâm
cổ họng của ông, để lại ông ta phải chết một cái
chết đau đớn. Ngay sau khi ông chết, ông sẽ được
262
tái sinh trong cùng một tình trạng khó khăn để phải
chết đi chết lại nhiều lần trong cùng một cách
trong các hình thức của một con vật nửa người nửa
thú, kết hợp khác nhau - đôi khi một nửa con
người, một nửa con lợn, đôi khi nửa người, nửa
vịt, đôi khi nửa người, nửa con ngỗng. Ông đã bị
chặt đầu vô số lần và luôn luôn đau đớn cùng cực
và chịu đau khổ.
Sinh ra ở tầng thứ ba của địa ngục chính do
hành vi tà dâm59
Có một lần một ngươ i Trung hoa đã di cư sang
Thái Lan. Ông đã làm việc trong nhà thuốc. Ông là
một người lăng nhăng và có quan hệ với bốn phụ
nữ khác ngoài vợ nhà. Ông đã không bao giờ thành
công trong sự nghiệp của mình và hầu như đã
chẳng giúp đỡ vợ hoặc gia đình của mình chút nào.
Ông đã lo lắng nhiều hơn với phụ nữ khác và gia
đình của họ. Ông thậm chí còn yêu cầu vợ của
mình giúp chăm sóc người tình mới nhất của mình
và hai đứa con suốt trong tám năm, mặc dù vợ của
ông đã có sáu người con của riêng mình. Vợ của
ông là một phụ nữ tốt bụng và không mang sự oán
hận nào cho tình nhân của ông.
59
Dream Kindergarten Case Study: May 19, 2003.
263
Ông thường giúp các công việc vặt tại chùa Trung
Quốc đặc biệt là khi có một buổi hát Tàu. Nói
chung là ông vô tư trong việc làm công đức, mặc
dù có một úc, ông đã mang lại một bộ thức ăn bữa
ăn trưa cho các vị sư trụ trì một ngôi chùa nào đó
vì đức tin.
Trong thời gian cuối của cuộc đời, ông bị bệnh tim
và qua đời trong nhà của vợ. Trước khi qua đời,
hình ảnh [kammanimitta] lóe lên trước mắt ông tất
cả các hành vi sai trái tà dâm của mình, khiến tâm
trí của ông bị che khuất. Thần thức của ông bị rút
ra để tái sinh trong tầng thứ ba của địa ngục lớn
[Sa”nghaata]. Cơ thể của ông trở thành to lớn với
bộ phận sinh dục bất thường lớn. Ngục tốt của địa
ngục đã phát sinh thông qua sức mạnh của nghiệp
xấu của nạn nhân, cắt mổ ngực, kéo trái tim ra khỏi
và bóp nó, như là để trả thù cho làm tổn thương
cảm giác của vợ và các con của mình. Ông sẽ chết
trong đau đớn và tái sinh lại nữa. Hết thời gian
này, ngục tốt của địa ngục tấn công bộ phận sinh
dục của ông với một con dao sắc nét. Mặc dù hầu
như không còn sống, ông sẽ đau đớn trong một
thời gian dài nữa.
Bệnh tim của ông là một hậu quả của nghiệp từ
một cuộc sống trước khi ông đã làm một nông dân
săn bắt động vật để kiếm sống. Bệnh tim là tổng
264
lượng của nghiệp giết hại trong cuộc sống trướcvà
hành vi tà dâm trong cuộc sống này.
Thoát khỏi địa ngục bằng cách nhớ lại công
đức60
Thuở trước có một phụ nữ Thái người luôn luôn
làm công đức và tu hạnh bố thí bất cứ khi nào ngôi
chùa kêu gọi. Năm 1997, cô nghe nói về việc xây
dựng các Maha Dhammakaya Cetiya và tham dự
buổi lễ quyên góp cọc để đặt móng cho cơ sở.
Cùng với nhiều người khác, cô vui vẻ tham gia
trong một buổi lễ đóng cọc tương trưng. Về sau, cô
mở một nhà hàng hải sản phục vụ hải sản tươi
sống. Cô giữ cá sống và tôm, cua, sò, hến trong hồ
cho khách hàng lựa chọn. Tất cả thời gian của cô
phải dành cho nhà hàng và cô đã không có cơ hội
để tham dự nghi lễ nào tại chùa nữa. Cô đã mới
kinh doanh nhà hàng của mình chỉ một vài năm
trước khi cô ngã bệnh và qua đời.
Trước khi cô chết những hình ảnh của cá và tôm,
cua, sò, hến cô đã giết lóe lên trước mắt cô. Điều
ấy khiến cho tâm trí cô bị lu mờ và điều cuối cùng
còn lại trong tâm trí cô trước khi cô qua đời là
bóng tối. Cô đã được tái sinh ngay lập tức trong
60
Dream Kindergarten Case Study: September 7, 2003.
265
một địa ngục phụ của tầng địa ngục đầu tiên.
Trong cõi này, tội nhân có các hình dáng vật lý
khác nhau, một số có cơ thể của con người và đầu
tôm, cua hay cá. Họ xếp hàng trước một cái thớt
nóng bỏng làm bằng thép. Các ngục tốt đứng đợi
trước cái thớt này với một dao phay khổng lồ được
sử dụng để chặt đấu họ từng người một.
Thân xác các tội nhân được cắt thành từng miếng
nhỏ. Các ngục tốt thu thập các mảnh lại trong một
tấm lưới thép nóng và đặt chúng sang một bên.
Trong cõi này, tội nhân chết sẽ được đưa trở lại
cuộc sống bằng bằng một làn gió đặc biệt thổi. Sau
khi tái sinh, họ sẽ thấy chính mình trong cùng một
tình trạng khổ nhọc như trước, bị chết đi sống lại
hết lần này đến lần khác trong đau đớn và khổ sở.
Cô đã tái sinh với đầu cá và đang đứng đợi trong
hàng. Trên đường đi đến cái thớt, cô thấy một tội
nhân trên sàn nhà với một cây cọc sắt đang bị đâm
qua ngực của nó. Một ngục tốt đóng cây cọc vào
ngực với một cái vồ lớn. Những âm thanh kim loại
vang động khi cọc sất bị đóng vào nhắc nhở cô âm
thanh cô đã thực hiện khi đóng cây cọc tượng
trưng tại buổi lễ thành lập Maha Dhammakaya
Cetiya. Chỉ đến bây giờ mà cô có thể nhớ lại được
một công đức, và ghi nhớ được một công đức, tất
cả những điều tốt đẹp khác cô đã thực hiện trở lại
266
với cô ấy. Đột nhiên cơ thể của cô trở nên rạng rỡ.
Thời gian của cô như một tội nhân trong địa ngục
đã kết thúc và thiện nghiệp của cô đã thu hút cô tới
các cõi trời. Cô đã có một cơ thể thần trời mới và
một cung điện nhỏ trên trời ở tầng trời thứ hai.
7.3 Kết luận
Các trường hợp nghiên cứu liên quan ở đây chỉ là
một mẫu nhỏ của những bài phát sóng trong
chương trình Mẫu giáo Giấc mơ. Rõ ràng rằng sự
quả báo khác nhau từ người này sang người kia có
thể được quy cho sự đa dạng rộng của những hành
động nghiệp những người khác nhau đã làm trong
quá khứ và cũng cho trình tự để các nghiệp trả quả.
Thời gian sống được mô tả trong trường hợp
nghiên cứu chỉ là một bản ghi nhanh các cuộc hành
trình mỗi chúng sinh đã đạt được trong quá trình
chu kỳ của sự sinh diệt. Mỗi chúng sinh, con người
hoặc sinh vật khác, đã chết và được tái sinh rất
nhiều lần đến nỗi thật khó khăn để tìm ra sự khởi
đầu hoặc kết thúc nó.
Có nhiều dịp Đức Phật dạy về mức độ tái sinh
trong chu kỳ của sự tồn tại như đã được ghi lại
trong kinh điển Phật giáo61
:
61
Assuu Sutta S.ii.179
267
“Này các Tỷ-kheo! Lành thay, này các Tỷ-kheo,
các Ông đã hiểu như vậy Pháp do Ta dạy! Cái này
là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo, tức là dòng nước
mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải
hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với
những gì mình thích, khi các Ông phải lưu chuyển
luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải
nước trong bốn biển lớn. Trong một thời gian dài,
này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng mẹ chết... các
Ông chịu đựng con chết. ... các Ông chịu đựng con
gái chết... các Ông chịu đựng tai họa về bà con...
các Ông chịu đựng tai họa về tiền của... các Ông
chịu đựng tai họa của bệnh tật… Cái này là nhiều hơn, là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than
van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì mình
không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi
các Ông phải chịu đựng tai họa, bệnh tật chớ
không phải nước trong bốn biển. Vì sao? Vô thỉ là
luân hồi này, này các Tỷ-kheo... bị tham ái trói
buộc. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa
đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ
bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả
các hành.”
268
Đức Phật cũng chỉ ra độ dài của chu kỳ khôn
lường của sự tồn tại bằng cách so sánh số lượng
sữa chúng ta đã bú trong suốt cuộc hành trình của
chúng ta thông qua chu kỳ của sự tồn tại với lượng
nước trong đại dương62
:
“Này các Tỷ-kheo, các Ông đã hiểu như vậy Pháp
do Ta dạy! Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo,
tức là sữa mẹ mà các Ông đã uống trong khi các
Ông lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài
chớ không phải nước trong bốn biển. Vì sao? Vô
thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để
các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.”
Đức Phật cũng chỉ ra chiều dài của chu kỳ khôn
lường của sự tồn tại bằng cách so sánh số lượng
các xương ta đã để lại phía sau trong quá trình của
chu kỳ sự tồn tại63
:
“Tại đấy Thế Tôn... Vô thỉ là luân hồi này, này các
Tỷ-kheo... Các xương của một người, này các Tỷ-
kheo, lưu chuyển luân hồi có thể lớn như một đồi
xương, một chồng xương, một đống xương, như
núi Vepulla này, nếu có người thâu lượm xương
62
Khiira Sutta S.ii.180 63
Puggala Sutta S.ii.185
269
lại, gìn giữ chúng, không làm chúng hủy hoại. Vì
sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là
vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.”
Đức Phật cũng chỉ ra chiều dài của chu kỳ khôn
lường của sự tồn tại bằng cách so sánh số lượng
máu đã chảy từ cơ thể của chúng ta trong quá trình
của chu kỳ sự tồn tại:
“Này các Tỷ-kheo, các Ông đã hiểu Pháp Ta dạy
như vậy! Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo,
tức là dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích
khi các Ông lưu chuyển luân hồi trong thời gian
dài này, không phải là nước trong bốn biển lớn.
Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu các
Ông bị thương tích khi các Ông là bò, sanh ra làm
bò trong thời gian dài, hay là nước trong bốn biển
lớn? Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu
bị thương tích khi các Ông là trâu, sanh ra làm trâu
trong thời gian dài... Này các Tỷ-kheo, dòng máu
tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông là
cừu, sanh ra làm cừu trong thời gian dài... khi các
Ông là dê, sanh ra làm dê... khi các Ông là nai,
sanh ra làm nai... khi các Ông là gia cầm, sanh ra
làm gia cầm... khi các Ông là heo, sanh ra làm
heo... Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do
270
đầu bị thương tích khi các Ông làm đạo tặc, làm kẻ
trộm làng bị bắt trong thời gian dài... Này các Tỷ-
kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích
khi các Ông làm đạo tặc, ăn cướp đường bị bắt
trong thời gian dài... Này các Tỷ-kheo, dòng máu
tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông làm
đạo tặc, tư thông vợ người trong thời gian dài chớ
không phải là nước trong bốn biển lớn. Vì sao? Vô
thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để
được giải thoát đối với tất cả các hành...”
Đức Phật cũng chỉ ra chiều dài của chu kỳ khôn
lường của sự tồn tại bằng cách nói rằng không có
một người nào chưa từng bao giờ chẳng phải là
thân nhân của chúng ta64
:
“Này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ,
đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sinh
bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Này các
Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng
sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã
làm mẹ, làm cha, làm anh, làm em trai, làm chị,
làm em gái, làm con trai, làm con gái. Vì sao? Vô
thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm
không thể nêu rõ, này các Tỷ-kheo, đối với sự lưu
64
Maatu etc. Suttas S.ii.189ff.
271
chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh
che đậy, bị tham ái trói buộc.”
Theo trích dẫn lời dạy của Đức Phật đến các tu sĩ
trong thời gian của Ngài, nó trở nên rõ ràng rằng
chiều dài của chu kỳ tái sinh là khôn lường. Thật
khó để tìm thấy một khởi đầu hoặc kết thúc của nó.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thấu hiểu rằng chúng ta
đã được tái sinh không đếm được lần trong các
cảnh giới khác nhau và thành những chúng sinh
khác nhau tùy thuộc vào nghiệp của chúng ta.
Theo quan điểm sự hiểu biết về chu kỳ tái sinh,
không có kinh nghiệm sống nào thực sự mới cho
chúng ta vì chúng ta đã phát sinh dưới mọi dạng
sống trong quá trình đi qua các chu kỳ của sự tồn
tại. Không có gì mới. Không có gì là vĩnh viễn.
Chúng ta không nên bám víu vào bất cứ điều gì và
chúng ta cũng không thể đi ngược lại vòng quay
của các chu kỳ. Vì thế, khi chúng ta càng bám víu
mạnh mẽ hơn vào các yếu tố luôn thay đổi của chu
kỳ sự tồn tại, chúng ta sẽ càng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng hơn. Nếu không có sự hiểu biết sự
thật về cuộc sống, chúng ta sẽ bị tràn ngập nỗi
buồn trong chu kỳ vô hạn của sự tái sinh.
Những người khôn ngoan thấy sự thay đổi và vô
thường của tất cả các đại. Họ cảm thấy không dính
272
mắc đối với những ảo tưởng này và tìm kiếm một
con đường ra khỏi mê cung của đau khổ. Tuy
nhiên, những người vẫn không thể nhìn thấy sự
thật, khao khát thú vui phù du, những người vẫn
còn vướng mắc với những gì họ đã quen thuộc, cần
phải chuẩn bị để đối mặt với sự không chắc chắn
không thể tránh khỏi đến với họ.
273
PHƯƠNG DANH QUÝ PHẬT TỬ ẤN TỐNG
VŨ TRỤ HỌC PHẬT GIÁO
1. NGUYỄN LÊ ĐỨC 1000.00
2. TRẦN KIM TRUNG 40.00
3. BÙI HỮU NGHĨA 20.00
4. NGUYỄN LOAN 30.00
5. PHÚ CÚC 20.00
6. HUỲNH LÝ 20.00
7. NGUYỄN QUÁ 40.00
8. TRẦN NGỌC ĐÓA 60.00
9. NGUYỄN KIỆT 50.00
10. LÊ THANH VĨNH 50.00
11. NGUYỄN QUYỀN THỌ 20.00
12. LÝ BÌNH HÒA 60.00
13. ĐOÀN X. HIẾU 50.00
14. MY HAYES 20.00
15. TRẦN HIỀN 30.00
16. NGUYỄN BƯỜNG 10.00
17. YẾN PHẠM VOGT 20.00
18. DJODIMY STRONG 50.00
19. BONTAMY GLASGOW 50.00
20. PHẠM LAN 20.00
21. VIÊN XUÂN 20.00
22. CAO LỢI 20.00
23. NGUYỄN SƠN, YẾN 40.00
274
24. BÙI THỊ TÁNH 50.00
25. QUAN HỒNG, TIẾNG 100.00
26. HỒ THỊ ĐÊ 50.00
27. DƯƠNG THỊ EM 50.00
28. NGUYỄN HƯNG, QUYÊN 300.00
29. NGUYỄN THÁI BÌNH 100.00
30. ĐOÀN QUỐC GIÁM 150.00
31. NGUYỄN THỊ TRƯỜNG 50.00
32. TRẦN BOY 50.00
33. NGUYỄN TƯƠNG HIỆP, YẾN 200.00
34. NGUYỀN QUYỀN QUỚI 50.00
35. NGUYỄN THỊ QUY 40.00
36. LƯ THỊ YẾN 40.00
37. DƯƠNG JIMMY 20.00
38. ĐÀO PHIÊN 15.00
39. NGÔ CÚC, TRINH, HÙNG, HÀ LÊ 50.00
40. TRẦN TẤN TRỌNG 100.00
275
276