200
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ - HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG - VIỆN SỬ HỌC KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC “VUA LÝ NAM ĐẾ VỚI CĂN CỨ ĐỘNG KHUẤT LÃO, XÃ VĂN LƯƠNG, HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ” 1

tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ - HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAMỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG - VIỆN SỬ HỌC

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC“VUA LÝ NAM ĐẾ VỚI CĂN CỨ ĐỘNG KHUẤT LÃO,

XÃ VĂN LƯƠNG, HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ”

Phú Thọ - 2014

1

Page 2: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

“VUA LÝ NAM ĐẾ VỚI CĂN CỨ ĐỘNG KHUẤT LÃO,

XÃ VĂN LƯƠNG, HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ”

2

Page 3: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ - HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAMỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG - VIỆN SỬ HỌC

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC“VUA LÝ NAM ĐẾ VỚI CĂN CỨ ĐỘNG KHUẤT LÃO,

XÃ VĂN LƯƠNG, HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ”

Phú Thọ - 2014

3

Page 4: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Tượng Vua Lý Nam Đế tại Đền thờ Lý Nam Đế thuộc Gò Cổ Bồngkhu 2, xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ

4

Page 5: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

LỜI GIỚI THIỆU

Tam Nông là huyện miền núi, nằm ở phía Tây Nam tỉnh Phú Thọ, diện tích tự nhiên 15.596,92 ha, dân số trên 84.000 người; 20 đơn vị hành chính trực thuộc huyện, bao gồm 19 xã và 01 thị trấn, với 172 khu dân cư. Toàn huyện hiện có 20 dân tộc (Kinh, Tày, Thái, Mường, Hoa, Nùng, H.Mông, Dao, Sán Chung, Co Ho, Thổ, Tà Ôn, La Chí, Lô Lô…). Đảng bộ huyện có 42 cơ sở đảng với 5.867 đảng viên (tính đến tháng 12/2013).

Huyện Tam Nông có vị trí, địa lý, kinh tế thuận lợi; là cửa ngõ, cầu nối giữa Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Đông Bắc, Tây Bắc của Tổ quốc. Được tỉnh và Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp tạo điều kiện cho sự phát triển chung của huyện. Cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân và đặc biệt là Ban chấp hành Đảng bộ huyện đã phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, tập trung sức lực và trí tuệ xây dựng huyện Tam Nông ngày càng giàu đẹp, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chủ trương lớn của tỉnh cũng như của huyện đề ra, tích cực lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.

Địa hình của huyện thể hiện những nét đặc trưng của một vùng bán sơn địa. Với diện tích đất đai, tài nguyên, cho phép huyện có khả năng phát triển nông nghiệp đa dạng, phong phú, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá cây trồng vật nuôi. Mặt khác, xuất phát từ tiềm năng đất đai và tài nguyên, cùng hệ thống giao thông thuận lợi, huyện Tam Nông có nhiều lợi thế phát triển sản xuất công nghiệp và dịch vụ thương mại. Những năm qua, kinh tế của huyện đã từng bước phát triển trên nhiều lĩnh vực như: Sản xuất lương thực, thuỷ sản, chăn nuôi bò thịt, phát triển vùng nguyên liệu giấy, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất hàng sơn mài, nhựa sơn, mây tre đan, nghề mộc gia dụng..., cơ sở hạ tầng khu công nghiệp đã được hình thành và đầu tư phục vụ phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.

Huyện Tam Nông 三 農 , tỉnh Phú Thọ hiện nay, từ đời Trần (1225-1400) trở về trước gọi là châu Cổ Nông 古 農. Thời thuộc Minh (1407-1427), vẫn gọi là châu Cổ Nông, thuộc vào phủ Đà Dương. Tháng 3 năm Quang Thuận thứ 10 (1469), vua Lê Thánh Tông định bản đồ trong cả nước, gồm 12 thừa tuyên, trong đó Thừa tuyên Sơn Tây, có sáu phủ là: Quốc Oai, Tam Đái, Lâm Thao, Đoan Hùng, Đà Dương và Quảng Oai. Phủ Đà Dương quản lãnh 2 huyện là Tam Nông và Bất Bạt1. Như vậy, tên huyện Tam Nông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1469 dưới triều Lê Thánh Tông, và được đổi từ Cổ Nông mà thành (Bài tham luận tại Hội thảo khoa học Vua Lý Nam Đế với căn cứ Động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ của PGS.TS Nguyễn Minh Tường - Viện Sử học).

1 Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb Giáo dục, H. 1998, tập 1, tr. 1076.5

Page 6: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Huyện Tam Nông có trung tâm Thủ Phủ Hưng Hoá là tỉnh lỵ của tỉnh Phú Thọ xưa, là vùng đất cổ có nhiều tầng văn hóa liên quan tới thời đại Hùng Vương). Nơi đây xưa kia đã diễn ra cuộc kháng chiến trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, gắn liền với tên tuổi Danh nhân văn hóa Nguyễn Quang Bích (1832 - 1890). Thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Tam Nông đã vinh dự đón Chủ Tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng về ở làm việc trong những ngày đầu toàn Quốc kháng chiến (tháng 3/1947). Năm 2005 Đảng bộ và nhân dân Tam Nông Vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân thời kỳ chống Pháp, Huân chương lao động hạng nhì thời kỳ đổi mới.

Đặc biệt nơi đây xưa kia đã diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Lương của Vua Lý Nam Đế (Tên huý là Lý Bôn, Lý Bí) là người xưng Đế đầu tiên của nước Nam, lấy tên hiệu nước ta là Vạn Xuân; cuộc đời và sự nghiệp của Ông gắn liền với cuộc chiến tranh chống lại phong kiến phương Bắc từ năm 541 - 548 (Thế kỷ thứ VI sau Công nguyên). Quê hương của ông tại Thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên (Hội thảo Khoa học - Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của Vua Lý Nam Đế được tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội tháng 12 năm 2012

Lý Bí (còn có tên gọi là Lý Bôn) sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (tức ngày 17 tháng 10 năm 503). Căm thù giặc Lương tàn bạo, ông đã triệu tập nhân dân cùng các hào kiệt nổi dậy chống lại quân Lương từ năm 541 đến cuối năm 542. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược, đến tháng Giêng năm 544 Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế (nhà Tiền Lý), lên ngôi đặt niên hiệu là Thiên đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước ta là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến muôn đời. Đến tháng 6 năm 545, nhà Lương sai Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm tư mã xâm lấn nước Vạn Xuân. Trần Bá Tiên chiếm thành Gia Ninh, Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Sau một thời gian tập hợp và củng cố lực lượng, ông đem 2 vạn quân từ đất Lạo sang đóng ở hồ Điển Triệt. Đến đêm, mưa lũ, nước sông lên mạnh, tràn ngập vào hồ. Nhân cơ hội đó Trần Bá Tiên đem quân theo dòng nước tiến vào. Quân Vạn Xuân không phòng bị, vì thế tan vỡ. Lý Nam Đế phải lui về động Khuất Lão ( trước kia thuộc xã Cổ Tiết, nay thuộc xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ), trao binh quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục kháng chiến. Năm 548, Lý Nam Đế ốm nặng rồi mất tại động Khuất Lão.

Việc xác định Động Khuất Lão thuộc gò Cổ Bồng là nơi an nghỉ cuối cùng của Lý Nam Đế là vấn đề lịch sử còn có một số ý kiến khác nhau. Với tấm lòng tri ân sâu sắc công lao to lớn của vị vua xưng Đế đầu tiên của dân tộc, từ ý thức trách nhiệm với vị vua có vị thế trong lịch sử nước nhà; trong nhiều năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Tam Nông luôn tìm tòi, sưu tầm những cứ liệu lịch sử gắn với cuộc đời và sự nghiệp của vị Hoàng Đế đầu tiên trong lịch sử dân tộc.

Với ý nghĩa tôn vinh người Anh hùng dân tộc, nhân dịp kỷ niệm 1465 năm ngày mất của Đức Lý Nam Đế (548 - 2013). Được sự quan tâm của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ; Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông phối hợp

6

Page 7: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam tổ chức Hội thảo Khoa học “Vua Lý Nam Đế với căn cứ Động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ” với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, sử học, nhà nghiên cứu đầu ngành về lịch sử Việt Nam của Trung ương và tỉnh Phú Thọ. Tại Hội thảo các nhà Khoa học đã tiếp tục khẳng định quê hương, công lao to lớn của Vua Lý Nam Đế trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Hội thảo đã đi đến thống nhất nơi an nghỉ cuối cùng của Vua Lý Nam Đế: Tại căn cứ Động Khuất Lão thuộc gò Cổ Bồng, khu 02 xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Đó là kết quả của một quá trình nghiên cứu, điền dã, tìm tòi những giá trị chân thực của lịch sử; kết quả tâm huyết của các nhà khoa học, sử học, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian trong nước và tỉnh Phú Thọ cùng các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông. Mảnh đất địa linh nhân kiệt Tam Nông rất vinh dự và tự hào được đón nhận Lý Nam Đế chọn làm căn cứ chiến đấu chống quân Lương, trao binh quyền và là nơi an nghỉ cuối cùng của Người.

Cuốn Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Vua Lý Nam Đế với căn cứ Động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ” là tập hợp những bài tham luận của các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ; các nhà khoa học, sử học, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, các tư liệu, chứng cứ lịch sử, các địa danh liên quan gắn với sự nghiệp của Đức Lý Nam Đế. Đồng thời, đây cũng là thể hiện trách nhiệm, tình cảm, tấm lòng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Tam Nông tri ân công lao của Đức Lý Nam Đế.

Thay mặt Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ; cảm ơn Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Viện Sử học, Viện Hán Nôm; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các nhà nghiên cứu văn hóa Dân gian của tỉnh Phú Thọ. Xin trân trọng cảm ơn Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Hoài Đức, Hà Nội; huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Các cấp Ủy đảng, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ nguyện sẽ phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông, phát huy truyền thống huyện Anh hùng tiếp tục xây dựng mối quan hệ gắn bó với các địa phương liên quan đến công lao và sự nghiệp của Đức Lý Nam Đế để xây dựng quê hương Tam Nông ngày càng giàu đẹp văn minh.

HUYỆN ỦY - HĐND - UBND HUYỆN TAM NÔNG TỈNH PHÚ THỌ

BÀI PHÁT BIỂU CHỈ ĐẠO CỦA LÃNH ĐẠO TỈNH PHÚ THỌ

Hà Kế San7

Page 8: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ

Kính thưa các nhà khoa học!Thưa các vị đại biểu khách quý!Thưa toàn thể Hội thảo!Đến dự hội thảo khoa học: Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão,

xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ hôm nay. Thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Phú Thọ tôi xin nhiệt liệt chào mừng và xin được trân trọng cảm ơn đối với các nhà khoa học, các Giáo sư, những nhà nghiên cứu, nhà quản lý và các vị đại biểu đã hết lòng vì sự nghiệp văn hóa Việt Nam nói chung và di sản văn hóa của tỉnh Phú Thọ nói riêng, đã giành thời gian dự hội thảo khoa học này. Kính chúc các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các vị đại biểu, các đồng chí và các bạn mạnh khỏe, nhiều thành công; Chúc hội thảo khoa học Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông đạt kết quả tốt đẹp!

Kính thưa hội thảo!Phú Thọ, đất Tổ Hùng Vương còn lưu giữ trong mình kho tàng di sản văn

hóa vô cùng quý báu. Theo hồ sơ quản lý của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tới đầu năm 2012 tỉnh Phú Thọ đã bước đầu kiểm kê được 1.372 di tích lịch sử văn hóa gồm: 161 di tích khảo cổ học, 262 chùa, còn lại là di tích kiến trúc hoặc dấu vết kiến trúc và các di tích lịch sử cách mạng kháng chiến. Trong số đó có di tích lịch sử Đền Hùng được xếp hạng Quốc gia đặc biệt và 73 di tích được xếp hạng Quốc gia; 219 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh. Có 260 lễ hội, gồm 223 lễ hội dân gian, 05 lễ hội tôn giáo, 32 lễ hội cách mạng; hiện còn 47 lễ hội đang được duy trì hoạt động hàng năm. Phú Thọ vinh dự có di sản Hát Xoan đã được UNESCO công nhận là di di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại; Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Di sản văn hóa không chỉ được coi là tài sản có giá trị giáo dục truyền thống, mà còn là một nguồn lực to lớn góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ.

Thưa các vị đại biểu, khách quý, các đồng chí và các bạn!Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, với địa thế chiến lược

có sông, có núi, thuận lợi cho tiến công và phòng ngự. Địa bàn tỉnh Phú Thọ được các thế hệ cha ông lựa chọn làm nơi tổ chức luyện quân, phòng ngự, tác chiến chống giặc, trong đó có địa bàn các huyện Tam Nông, Thanh Sơn, Tân Sơn, Cẩm Khê, Yên Lập, Thanh Thủy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng (phía trước có hệ thống sông Thao, sông Đà án ngữ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng; phía sau là hệ thống núi cao với nhiều hang động tiếp giáp với các tỉnh Tây Bắc của đất nước). Nhiều địa điểm lịch sử trên địa bàn tỉnh Phú Thọ còn ghi lại dấu tích lịch sử này, trong đó có căn cứ động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông được Vua Lý Nam Đế lựa chọn trong cuộc chiến chống quân Lương.

8

Page 9: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Việc Hội khoa học Lịch sử Việt Nam cùng Viện Sử học phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; UBND huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ tổ chức hội thảo khoa học về Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ có ý nghĩa hết sức quan trọng, không những bổ sung tư liệu làm sáng tỏ về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp, vai trò của Vua Lý Nam Đế trong phong trào kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương thế kỷ thứ VI và sự nghiệp giữ nước Vạn Xuân trong lịch sử; nghiên cứu một cách toàn diện về cuộc kháng chiến chống quân Lương thế kỷ thứ VI của Vua Lý Nam Đế trên địa bàn huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Khẳng định được vị thế địa của huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, trong bối cảnh chung của Quốc gia Vạn Xuân vào giữa thế ký thứ VI; xác định Động Khuất Lão là căn cứ chiến đấu đồng thời cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của Vua Lý Nam Đế; xác định các địa điểm, căn cứ chống quân Lương và sự đóng góp của nhân dân các dân tộc huyện Tam Nông trong phong trào chống quân Lương. Góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, thể hiện đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", lòng tự hào dân tộc và phục vụ phát triển du lịch; đồng thời tiếp tục củng cố, hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia Đền thờ Vua Lý Nam Đế tại Gò Cổ Bồng, xã Văn Lương, huyện Tam Nông.

Thông qua hội thảo để chúng ta cùng nhau trao đổi, nhận diện được giá trị di sản văn hóa; xác định được những giá trị tiêu biểu của di tích Đền thờ và Lăng mộ Vua Lý Nam Đế. Kết quả của công việc này sẽ tiếp tục góp phần khẳng định và đề cao giá trị văn hóa Việt Nam, làm cho nhận thức của nhân dân cũng như giới khoa học thấy rõ hơn ý nghĩa, giá trị, vai trò của Vua Lý Nam Đế - Nhà Tiền Lý với công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương ở thế kỷ VI, mở đầu cho công cuộc 1000 năm chống Bắc thuộc của dân tộc Việt Nam trên quy mô cả nước.

Tôi hy vọng rằng, với tinh thần trách nhiệm, với sự nhiệt tình của các nhà khoa học, các giáo sư, tiến sỹ, nhà nghiên cứu, nhà quản lý và các vị đại biểu tham dự hội thảo hôm nay chúng ta sẽ làm được điều đó. Kết quả của hội thảo sẽ thực sự góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam ngay trên vùng đất Tổ Hùng Vương.

Tỉnh Phú Thọ xin trân trọng ghi nhận, tiếp thu những ý kiến của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu sử học, văn hóa học, các nhà quản lý, các vị đại biểu đã tham gia đóng góp trí tuệ trong cuộc hội thảo khoa học đầy ý nghĩa này.

Về phía tỉnh Phú Thọ, chúng tôi sẽ cố gắng làm tốt hơn nữa công tác nghiên cứu, tôn tạo, tu bổ và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa gắn với Vua Lý Nam Đế trên đất Phú Thọ để thông qua đó giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho thế hệ trẻ vùng đất Tổ Hùng Vương giàu truyền thống lịch sử và văn hiến.

Xin trân trọng cảm ơn và kính chúc các nhà khoa học, các đồng chí và các bạn sức khỏe và hạnh phúc./.

Ph¸t biÓu chµo mõng cña l·nh ®¹ohuyÖn tam n«ng, tØnh phó thä

9

Page 10: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Triệu Quang Kết Phó Bí thư Huyện ủy

Chủ tịch UBND huyện

Kính thưa các vị đại biểu khách quý, các nhà khoa học!Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, phong trào kháng

chiến chống quân Lương giữa thế kỷ thứ VI do Lý Bí lãnh đạo tuy chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng đã tô thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của quê hương Tam Nông, Phú Thọ nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Hội thảo khoa học "Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông" là dịp để chúng ta cùng nhau làm sáng tỏ một số vấn đề về Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão - nơi an nghỉ cuối cùng của Ngài; về Lăng mộ Vua cùng các địa danh liên quan khác trong cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam Đế.

Hôm nay, tại thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông, tỉnh lỵ của tỉnh Phú Thọ xưa, UBND huyện Tam Nông phối hợp Viện Sử học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Phú Thọ tổ chức Hội thảo khoa học "Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông". Thay mặt Huyện ủy - HĐND - UBND - UBMTTQ huyện Tam Nông tôi xin nhiệt liệt chào mừng các vị đại biểu, các nhà khoa học tham dự Hội thảo, chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.

Kính thưa các vị đại biểu! Thưa các nhà khoa học!Vua Lý Nam Đế (tên huý là Lý Bôn, Lý Bí) là người xây dựng nhà nước độc

lập đầu tiên của dân tộc ta trong thời Bắc thuộc - nhà nước Vạn Xuân. Cuộc đời và sự nghiệp của Ông gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ của phong kiến phương Bắc từ năm 541 - 548 (thế kỷ thứ VI sau Công nguyên).

Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (tức ngày 17 tháng 10 năm 503). Từ nhỏ Lý Bí rất thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí lên 5 tuổi thì Cha mất; 7 tuổi thì Mẹ mất, Ông đến ở với chú ruột. Một hôm có vị Pháp tổ thiền sư đi ngang qua trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm đèn sách chuyên cần, Lý Bí đã trở thành một người học rộng, hiểu sâu. Nhờ có tài văn võ kiêm toàn Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Căm thù giặc Lương tàn bạo, ông đã triệu tập nhân dân cùng các hào kiệt nổi dậy chống lại quân Lương từ năm 541 đến cuối năm 542. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược, mùa Xuân, tháng Giêng năm Quý Hợi (544) nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời. Ông cho dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội.

Đất nước thanh bình trong một thời gian ngắn, thì đến tháng 6 năm Giáp Tý (545), nhà Lương cử Dương Phiêu, Trần Bá Tiên... đem quân tiến sang đánh Giao Châu. Vua Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, nhưng bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, nên phải rút quân về thành Gia Ninh (thuộc huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Trước tình thế bất lợi, vua lại cho rút quân về Tân Xương để củng cố lực lượng, sau đó cho quân ra tiến đánh quân giặc tại hồ Điển

10

Page 11: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Triệt (nay thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), nhưng không giành thắng lợi. Thế cô, lực lượng mỏng, Lý Nam Đế tiếp tục lui giữ động Khuất Lão (trước kia thuộc xã Cổ Tiết, nay thuộc khu 02 xã Văn Lương, huyện Tam Nông) và đã giao cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục giữ nước, cầm quân chống giặc. Vua Lý Nam Đế mất tại động Khuất Lão ngày Tân Hợi (tức ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn - 548). Sau khi vua băng hà, các tướng sĩ cùng nhân dân đã mai táng và lập đền thờ tại gò Cổ Bồng.

Sự nghiệp, công lao và đóng góp của Lý Bí - Lý Nam Đế đối với lịch sử dân tộc nói chung, với vùng đất Tam Nông, Phú Thọ nói riêng đã được sử sách và hậu thế ghi nhận, bởi cả nửa cuối cuộc đời ông gắn bó với vùng đất trung du này. Minh chứng rõ ràng nhất, xác thực nhất là tại khu 02 xã Văn Lương còn lưu giữ được phần mộ, đền thờ cùng nhiều dấu tích địa danh liên quan đến cuộc kháng chiến chống quân Lương xâm lược của vua Lý Nam Đế, như: Gò Cổ Bồng, Ao Quan, Rừng Cấm, Đính Trại, hố Lỗ Tiên, hố Hang Hùm... Đặc biệt là hiện nay các cấp chính quyền của huyện Tam Nông, xã Văn Lương đã phục hồi xây dựng lại ngôi đền thờ thật khang trang to đẹp trên gò Cổ Bồng nhằm tưởng nhớ và truy tôn đến công lao của vị vua "xưng Đế đầu tiên của nước Nam - Vua Lý Nam Đế".

Vấn đề được đặt ra ở Hội thảo lần này là:1. Nghiên cứu, bổ sung tư liệu để làm sáng tỏ về cuộc đời, thân thế, sự

nghiệp, vai trò của Vua Lý Nam Đế trong phong trào kháng chiến chống quân Lương thế kỷ thứ VI và sự ra đời của Nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử.

2. Xác định gò Cổ Bồng, động Khuất Lão cùng các địa danh khác là căn cứ chiến đấu đồng thời cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của vua Lý Nam Đế. Tại đây vẫn còn Lăng mộ Ngài.

3. Xác định các địa điểm, căn cứ chống quân Lương và sự đóng góp của nhân dân các dân tộc huyện Tam Nông trong phong trào chống quân Lương.

4. Giáo dục truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

5. Củng cố tư liệu nghiên cứu, tôn tạo quần thể các di tích có liên quan nhà Tiền Lý trên đất Tam Nông, đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia để góp phần giáo dục lòng tự hào dân tộc và phục vụ phát triển tham quan du lịch.

Chúng tôi mong rằng, những ý kiến trao đổi, thảo luận của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu tại hội thảo và qua việc tham quan di tích Đền thờ - Lăng mộ Vua Lý Nam Đế chúng ta hiểu thấu đáo về những giá trị quý báu của di tích đền thờ Lý Nam Đế; về các địa danh liên quan đến động Khuất Lão, những vấn đề khoa học bổ ích và lý thú góp phần đắc lực vào việc phục hồi di tích cũng như hoạt động lễ hội tại di tích trong thời gian tới.

Thay mặt Huyện ủy - HĐND - UBND - UBMTTQ huyện Tam Nông kính chúc các quý vị đại biểu, các nhà khoa học sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt! Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!

11

Page 12: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

B¸o c¸o ®Ò dÉn héi th¶o khoa häcVua lý nam ®Õ víi c¨n cø ®éng khuÊt l·o,

x· v¨n l¬ng, huyÖn tam n«ng, tØnh phó thä

PGS. TS. Nguyễn Văn Nhật

12

Page 13: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Viện trưởng Viện Sử học

Kính thưa các quý vị đại biểuThưa các nhà khoa học!Cách đây gần 15 thế kỷ, cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo chống lại ách đô

hộ của chính quyền phương Bắc đã nổ ra và giành được thắng lợi trọn vẹn. Thành tựu to lớn nhất mà cuộc khởi nghĩa đem lại là sự ra đời của nhà nước Vạn Xuân độc lập. Lý Bí lên ngôi Hoàng đế (sử cũ gọi là Lý Nam Đế), đặt niên hiệu là Thiên Đức, khẳng định nền độc lập tự chủ trước đế chế Trung Hoa.

Từ nhiều thập kỷ qua, giới sử học Việt Nam đã tập trung nghiên cứu nhiều về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và quá trình tồn tại của nhà nước Vạn Xuân, của nhà Tiền Lý. Nhiều vấn đề liên quan đến Lý Bí và cuộc khởi nghĩa do Ông lãnh đạo dần được sáng tỏ. Trong cuộc Hội thảo khoa học Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam đế do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp với UBND huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên tổ chức tại Hà Nội cuối năm 2012 đã bước đầu đưa ra được một số kết quả nghiên cứu mới, đặc biệt đã xác định được quê gốc của Lý Bí là làng Cổ Pháp thuộc xã Tiên Thù, tổng Tiên Thù, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên (nay thuộc xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên). Trong cuộc Hội thảo khoa học nói trên, một vấn đề cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm, đó là xác định địa danh lịch sử động Khuất Lão - là căn cứ hoạt động của Lý Nam Đế, đồng thời là nơi ông sống những năm tháng cuối đời. Đây là một trong những nội dung quan trọng và cần thiết khi nghiên cứu về cuộc khởi nghĩa Lý Bí (thế kỷ VI) nhưng chưa được đề cập đầy đủ trong Hội thảo. Chính vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu về động Khuất Lão và các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ có liên quan mật thiết đến cuộc khởi nghĩa Lý Bí là nội dung chủ yếu trong cuộc Hội thảo khoa học này.

Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử học, văn hóa học, bảo tàng học đến từ Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Hoài Đức (Hà Nội); của các nhà nghiên cứu tỉnh Phú Thọ và lãnh đạo xã Văn Lương, lãnh đạo huyện Tam Nông…

Nội dung các báo cáo khoa học tập trung vào ba chủ đề chính:1. Nghiên cứu chung về cuộc khởi nghĩa Lý Bí, về quê hương của Ông; sự ra

đời của nhà nước Vạn Xuân độc lập; Ý nghĩa và tầm vóc của cuộc khởi nghĩa trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam. Nội dung của chủ đề này tập trung trong các báo cáo: Lý Nam Đế và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương ở thế kỷ VI trên địa bàn huyện Tam Nông, Phú Thọ của PGS.TS. Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học); Quê hương và ngày mất của Lý Nam Đế của PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ (Viện Sử học); Nghiên cứu về nguyên nhân thất bại của Lý Nam Đế và việc trao binh quyền cho Triệu Quang Phục của Nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên (Phú Thọ); Giá trị bài học lịch sử từ cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nước Vạn Xuân của PGS.TS. Vũ Duy Mền (Viện Sử học); Nhân dân Tam Nông với cuộc khởi nghĩa Lý Bí của ThS. Trần Nam Trung (Viện Sử học) và

13

Page 14: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Hoàng hậu Đỗ Thị Khương về Khuất Lão của Nhà nghiên cứu Phan Dương (Phú Thọ).

2. Nội dung thứ hai trực tiếp tìm hiểu về địa danh động Khuất Lão, vai trò vị trí của động Khuất Lão trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Đặc biệt, trong nội dung này các nhà nghiên cứu đã nêu lên nhiều địa danh lịch sử gắn liền với một số di tích quan trọng liên quan đến Lý Nam Đế, trong đó tiêu biểu nhất là Di tích Lăng mộ của Lý Nam đế trên gò Cổ Bồng trong khu vực động Khuất Lão xưa kia. Đây là chủ đề có nội dung tương đối mới, cung cấp nhiều thông tin quý giá thông qua điều tra, khảo sát thực địa cũng như sưu tầm ghi chép của thư tịch cổ. Đó là các tham luận Tư liệu Hán Nôm về động Khuất Lão trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí thế kỷ VI của PGS.TS. Đinh Khắc Thuân (Viện nghiên cứu Hán Nôm); Động Khuất Lão - nơi an nghỉ cuối cùng của vua Lý Nam Đế của PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi (Viện Sử học); Vài ý kiến về động Khuất Lão của TS. Hà Mạnh Khoa (Viện Sử học); Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ của TS Nguyễn Anh Tuấn (Bảo tàng Hùng Vương); Những địa danh trên vùng đất Tam Nông - Phú Thọ còn ghi dấu ấn trong cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam Đế thế kỷ VI của ThS. Nguyễn Tiến Khôi (Hội KHLS tỉnh Phú Thọ).

3. Trùng tu, tôn tạo và bảo tồn di tích trên địa bàn xã Văn Lương tiến tới khôi phục các lễ hội truyền thống gắn với nhân vật lịch sử Lý Nam Đế là nội dung chính của chủ đề thứ ba. Về chủ đề này, Ban tổ chức đã nhận được các báo cáo Về vấn đề bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích địa điểm lịch sử gắn liền với sự nghiệp của Lý Nam Đế tại xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ của Nhà nghiên cứu Lê Thị Thoa (Sở VH, TT&DL tỉnh Phú Thọ); Ý nghĩa khôi phục Đền thờ và Lăng mộ Lý Nam Đế trong việc phát triển du lịch hướng về cội nguồn của Nhà nghiên cứu Phạm Bá Khiêm (Sở VH, TT&DL tỉnh Phú Thọ); Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão - Vị trí, quy mô phục hồi Đền thờ và Lăng mộ vua Lý Nam Đế của ông Triệu Quang Kết (UBND huyện Tam Nông); Bảo tồn và phát huy giá trị căn cứ động Khuất Lão nhìn chung trong hệ thống di tích lịch sử văn hóa của TS Nguyễn Thế Hùng (Cục Di sản văn hóa - Bộ VH, TT&DL); Phục dựng lễ hội truyền thống tưởng niệm vua Lý Nam Đế tại xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ của Nhà nghiên cứu Đặng Đình Thuận (Hội Văn nghệ dân gian Phú Thọ); Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Văn Lương với việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa tại địa phương của ông Cù Minh Loan (UBND xã Văn Lương).

Theo kết quả nghiên cứu của giới sử học thì hiện nay có ba địa phương gắn bó mật thiết với cuộc đời và sự nghiệp của Lý Nam Đế, đó là xã Tiên Phong, huện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên là quê gốc của Lý Nam Đế; Giang Xá (Hoài Đức, Hà Nội) là nơi ông dấy nghiệp và động Khuất Lão (xã Văn Lương) là căn cứ hoạt động của Lý Nam Đế và cũng là nơi ông sống những năm tháng cuối đời. Trong ba địa phương kể trên, đền Giang Xá và các địa phương thuộc huyện Hoài Đức là nơi lưu giữ khá nhiều tài liệu thư tịch Hán Nôm về Lý Nam Đế. Tham luận Tư liệu Hán Nôm về Lý Nam Đế hiện đang được lưu giữ tại các di tích lịch sử văn hóa Đình, Đền, Chùa Giang Xá thị trấn Trạm Trôi của Nhà

14

Page 15: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

nghiên cứu Đỗ Văn Thúy (Phòng VH-TT Hoài Đức) sẽ bổ sung thêm nhiều tài liệu quý, giúp cho việc tìm hiểu về Lý Nam Đế được đầy đủ và toàn diện hơn. Dưới góc độ văn hóa dân gian, Nhà nghiên cứu Dương Huy Thiện sẽ cung cấp thêm cho Hội thảo Các tư liệu văn hóa dân gian về cuộc kháng chiến chống quân Lương của vua Lý Nam Đế (544-548).

Kính thưa các quý vị đại biểu!Thưa các nhà khoa học! Do thời gian có hạn nên tại cuộc Hội thảo này chúng ta chỉ nghe một số

tham luận đại diện cho từng chủ đề. Hội thảo sẽ giành thời gian nhất định để các nhà khoa học trao đổi, thảo luận nhằm hướng tới sự đồng thuận trong nhận thức về những mục tiêu cơ bản mà Hội thảo đặt ra.

Xin kính chúc quý vị sức khỏe, chúc Hội thảo thành công tốt đẹp./.N.V.N

15

Page 16: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Lý nam ®Õ vµ cuéc kh¸ng chiÕn chèng qu©n x©m lîc nhµ l¬ng trªn ®Þa bµn

huyÖn tam n«ng - phó thä

PGS.TS. Nguyễn Minh Tường Viện Sử học

Huyện Tam Nông 三 農, tỉnh Phú Thọ hiện nay, từ đời Trần (1225-1400) trở về trước gọi là châu Cổ Nông 古 農. Thời thuộc Minh (1407-1427), vẫn gọi là châu Cổ Nông, lệ vào phủ Đà Dương.

Tháng 3 năm Quang Thuận thứ 10 (1469), vua Lê Thánh Tông định bản đồ trong cả nước, gồm 12 thừa tuyên, trong đó Thừa tuyên Sơn Tây, có sáu phủ là: Quốc Oai, Tam Đái, Lâm Thao, Đoan Hùng, Đà Dương và Quảng Oai. Phủ Đà Dương quản lãnh 2 huyện là Tam Nông và Bất Bạt1.

Như vậy, tên huyện Tam Nông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1469 dưới triều Lê Thánh Tông, và được đổi từ Cổ Nông mà thành.

Vấn đề được đặt ra là Tam Nông 三 農, có nghĩa là gì?Sách Từ Nguyên giải thích: “Tam Nông: Chu Lễ: Tam nông sinh cửu cốc.

Tiên Trịnh chú: Tam nông: Bình địa nông; Sơn nông; Trạch nông dã. Hậu Trịnh chú: Tam nông: Nguyên nông; Thấp nông; Bình địa nông” (Nghĩa là: Tam Nông. Sách Chu Lễ viết: Ba vùng đất nông nghiệp sinh sản ra 9 loại lương thực2. Họ Trịnh trước (chỉ Trịnh Hưng, Trịnh Chúng - TG) giải thích rằng: Tam Nông gồm có: Bình địa nông (vùng đất nông nghiệp ở đồng bằng); Sơn nông (vùng đất nông nghiệp ở miền núi); Trạch nông (vùng đất nông nghiệp ở đầm lầy). Họ Trịnh sau (chỉ Trịnh Khang Thành) giải thích rằng: Tam Nông gồm có: Nguyên nông (vùng đất nông nghiệp ở vùng cao); Thấp nông (vùng đất nông nghiệp ở vùng thấp); Bình địa nông (vùng đất nông nghiệp ở đồng bằng)3.

Chúng ta đều biết, trước khi cuộc khởi nghĩa Lý Bí nổ ra (542), Châu Giao (tên nước ta thời ấy) ở dưới quyền cai trị của Vũ Lâm hầu Tiêu Tư. Tiêu Tư là tôn thất, họ hàng với Lương Võ đế Tiêu Diễn. Chính sử Trung Quốc phải thừa nhận rằng Vũ Lâm hầu Tiêu Tư là một kẻ tàn bạo, tham lam, mất lòng dân. Khi được cử đi đàn áp nhân dân vùng Giao, Quảng, tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên cũng nói rõ nguyên nhân những cuộc “phản loạn” của nhân dân là do “tội của các ông tôn thất” nhà Lương4.

Lý Bí, theo như kết quả nghiên cứu gần đây của nhiều nhà sử học, cho thấy: Ông quê tại thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên5.

1 Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb Giáo dục, H. 1998, tập 1, tr. 1076.2 Cửu cốc: 9 loài lương thực, gồm có: 1. Tắc (lúa tắc); 2. Thuật (lúa nếp); 3. Thử (lúa

mùa); 4. Đạo (lúa gié); 5. Ma (vừng); 6. Đại đậu (đậu hạt to); 7. Tiểu đậu (đậu hạt nhỏ); 8. Đại mạch; 9. Tiểu mạch.

3 Từ Nguyên: Tập Tý, Bộ Nhất.4 Trần thư, Q.1.5 Xem thêm: Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế .

Nxb Khoa học xã hội, H. 2013.16

Page 17: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Năm 9 tuổi Lý Bí được vị Pháp tổ Thiền sư trụ trì tại chùa Hương Ấp quê nhà nhận làm tiểu. Ông tu tại chùa Hương Ấp chừng 4 năm, đến năm 13 tuổi thì theo Pháp tổ Thiền sư về tu tại chùa Giang Xá (Linh Bảo tự), thuộc Hoài Đức, Hà Nội.

Sử cũ chép: Lý Bí có tài văn võ, từng làm quan cho nhà Lương, coi quận Cửu Đức (nay là đất Hà Tĩnh), vì không đắc chí, trở về Thái Bình khởi nghĩa, vào năm 542. Theo nhà sử học Đặng Xuân Bảng thì đất “Thái Bình là các phủ Quảng Oai, Quốc Oai của Sơn Tây và Ứng Hòa của Hà Nội ngày nay”1.

Lý Bí, nhân lòng oán hận của nhân dân và của tầng lớp hào trưởng Việt Nam đối với chính quyền đô hộ, đã hiệu triệu hào kiệt các châu cùng lãnh đạo nhân dân nổi dậy. Sử cũ nước ta chép rằng tù trưởng Chu Diên (vùng Hải Dương ngày nay) là Triệu Túc, phục tài đức Lý Bí, đem quân theo trước tiên. Châu Giao, tức miền đất nước ta bấy giờ gồm các châu: Giao, Hoàng (Bắc Bộ); Ái (Thanh Hóa); Đức, Lợi, Minh (Nghệ Tĩnh).

Lý Bí đã không gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của bọn quan lại phương Bắc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua (chỉ Lý Bí – TG) bấy giờ làm chức Giám quân ở Cửu Đức, nhân liên kết với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng. Có Triệu Túc tù trưởng ở Chu Diên, phục tài đức vua, bèn dẫn đầu đem quân theo về. Tiêu Tư biết việc, đem của đến hối lộ cho vua, rồi chạy về Quảng Châu. Vua ra chiếm giữ châu thành (tức là Long Biên)”2.

Như vậy, Lý Bí phát động khởi nghĩa vào tháng Chạp năm Đại Đồng thứ 7 (1-542) đời nhà Lương, không quá 3 tháng đã chiếm giữ được châu thành Long Biên.

Tháng 2 năm 544, Lý Bí chính thức lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Nam Việt Đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đặt trăm quan. Vua dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Sử cũ chép Vua “lấy Triệu Túc làm Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu đều làm tướng văn, tướng võ”3.

Đầu năm 545, nhà Lương tổ chức cuộc chinh phục Châu Giao, lấy Dương Phiêu làm Thứ sử Châu Giao, Trần Bá Tiên được phong làm Tư mã Giao Châu, lĩnh chức Thái thú Vũ Bình, cùng với Dương Phiêu tổ chức cuộc đàn áp Châu Giao. Trần Bá Tiên thu nạp được nhiều quân vũ dũng, khí giới đều tốt. Dương Phiêu rất vui mừng, cho Trần Bá Tiên làm chức Kinh lược.

Dương Phiêu cho Trần Bá Tiên làm tướng tiên phong, đem quân đi trước. Từ Phiên Ngung (nay là Thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc), có lẽ Trần Bá Tiên đã tiến vào Châu Giao, theo con đường ven vịnh Bắc Bộ, ngược sông Thái Bình, đi dọc theo chân núi miền Đông Triều mà nhắm tới thủ phủ Long Biên (Bắc Ninh). Khoảng tháng 6 năm 545, Trần Bá Tiên tiến tới đất Chu Diên. Bấy giờ, Lý Nam Đế đã đem 3 vạn quân ra trấn giữ ở Chu Diên, cùng với quân Trần Bá Tiên đánh nhau ở đó4. Lý Nam Đế bị thua, phải lui về

1 Đặng Xuân Bảng: Việt sử cương mục tiết yếu. Nxb Khoa học xã hội, H. 2000. Bản dịch của Hoàng Văn lâu, tr. 400

2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, H. 1998, tập 1, tr. 179.3 Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1. Sđd, tr. 179.4 Tư Mã Quang: Tư trị thông giám, Q.159, tờ 3a.

17

Page 18: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

giữ cửa sông Tô Lịch, dựng thành lũy để chống lại quân Trần Bá Tiên. Trần Bá Tiên tiến đánh, Lý Nam Đế lại bị thua, và phải chạy lên giữ thành Gia Ninh (Bạch Hạc, Việt Trì). Trần Bá Tiên đem quân tới vây thành Gia Ninh. Thứ sử Dương Phiêu cũng đem quân tới tiếp ứng cho Trần Bá Tiên.

Cuộc chiến đấu cầm cự ở Gia Ninh kéo dài tới mấy tháng, chắc rằng quân tiên phong của Trần Bá Tiên sau khi được đại quân do Dương Phiêu chỉ huy tới tiếp ứng đã phá được thành Gia Ninh. Thành Gia Ninh bị phá ngày 25-2-546. Lý Nam Đế chạy thoát được vào trong động Lão ở Tân Xương (Vĩnh Phúc).

Lý Nam Đế vào trong động Khuất Lão, mộ thêm quân lính, tới tháng 10-546, lại từ trong vùng người Lão ra đóng ở hồ Điển Triệt. Theo nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên thì hồ Điển Triệt là một cái đầm rộng chừng hơn 50 mẫu Bắc Bộ, thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Hồ Điển Triệt dài 1 km, khúc rộng nhất 400m, nhỏ nhất 50m, nước hồ sâu trung bình 4,5m. Hồ Điển Triệt cách sông Lô chừng 300m, xưa kia còn có một con đường thủy đạo nối từ sông vào hồ1.

Lý Nam Đế cho đóng rất nhiều thuyền bè, thả đầy cả mặt hồ. Thấy quân của Lý Nam Đế rất mạnh, quân Lương sợ hãi, chỉ đóng ở cửa hồ không dám tiến. Nhưng đêm ấy, nước sông Lô đột ngột lên to, chảy rót vào trong hồ. Trần Bá Tiên liền đem quân theo dòng nước mà tiến lên. Quân sĩ của Trần Bá Tiên được lợi thế, đánh trống hò reo mà tiến, Lý Nam Đế không kịp phòng bị, nên bị thua to, nghĩa quân ta tan vỡ cả. Lý Nam Đế phải rút quân về động Khuất Lão.

Tại động Khuất Lão, nghĩa quân ta đang củng cố lại lực lượng thì vua Lý Nam Đế bị ốm nặng. Biết không qua khỏi, Lý Nam Đế chọn Triệu Quang Phục (con của Thái phó Triệu Túc), làm người giữ toàn bộ binh quyền, để tiếp tục chống giặc Lương. Hai năm sau, tháng 4 năm 548, Lý Nam Đế qua đời.

Động Khuất Lão là tên một khu đồi hiện nằm giữa 2 xã Văn Lương và Cổ Tiết, thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. “Động” là một đơn vị hành chính ở vùng núi phía Bắc thuở xưa của nước ta, tương đương với “thôn” ở vùng đồng bằng. Tại động Khuất Lão có 3 quả đồi nằm dọc bên hữu ngạn sông Hồng, hiện cách sông khoảng 1 km. Người dân địa phương còn gọi là khu “Cổ Bồng”, “Tam Khu”, hay “Khu Lăng”, hiện vẫn còn có Lăng mộ Lý Nam Đế. Năm 2010, chính quyền và nhân dân huyện Tam Nông đã xây dựng một ngôi đền thờ Lý Nam Đế khá uy nghi, trên gò Cổ Bồng, xã Văn Lương. Hằng năm, nhân dân khắp nơi về chiêm bái và dâng hương lên Đức vua Lý Nam Đế, không bao giờ ngớt. Quanh khu đồi, là khu đồng ruộng bao bọc, xưa kia vào mùa mưa, thường bị ngập nước. Thuở xưa, đây là khu đất cấm, chỉ có ngày tế lễ, dân mới vào, đi bằng thuyền, ngày nay, đã có đường ô tô, cho xe đi vào tận sân đền.

Theo sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 thì: “Nhìn xa, động Khuất Lão trông như một bông sen, cuống bám vào dẫy rừng Cấm, thuộc xã Văn lang, 3 cánh xòe trên cánh đồng chiêm trũng thuộc xã Cổ Tiết… Cả vùng này kiêng tên “Bí”, gọi

1 Vũ Kim Biên: Về vị trí hồ Điển Triệt và động Khuất Lão trong cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam Đế. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế. Tổ chức tại Nhà Thái học trong khu Văn Miếu - Quốc Tử giám Hà Nội, ngày 10-9-2012.

18

Page 19: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

là “Bầu”, kiêng tên “Bảo” (Lý Thiên Bảo) gọi là “Biểu”. Việc thờ Lý Nam Đế ngày trước theo nghi lễ thờ vua:

Trên năm chéo lọng vàng cờ đỏDưới hai hàng văn võ chầu sang.

Tương truyền, về cuối đời, Lý Nam Đế bị mù. Thần Thành hoàng làng Danh Hựu (nay thuộc xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông), vẫn được các làng xung quanh gọi là “Vua Mù”, và khi tế lễ, phải xướng tên các vật phẩm để cho thần biết”1.

Trong thời gian Triệu Quang Phục thay Lý Nam Đế nắm giữ binh quyền tại động Khuất Lão, ông đã cùng với Lý Thiên Bảo, anh ruột Lý Nam Đế gấp rút chuẩn bị binh lương. Sau khi Lý Nam Đế mất (548), lực lượng kháng chiến còn lại của Lý Nam Đế chia làm 2 cánh quân.

Một cánh do Lý Thiên Bảo chỉ huy, trong đó có Lý Thiệu Long rút vào miền Trung. Theo Trần thư, Lý Thiên Bảo, Lý Thiệu Long đã tập hợp được 2 vạn quân (trong đó chắc chắn số quân tuyển được ở động Khuất Lão không phải là nhỏ), tiến đánh Đức Châu (Hà Tĩnh), giết chết Thứ sử Trần Văn Giới. Hai ông lại kéo quân ra vây Ái Châu (Thanh Hóa), nhưng bị Trần Bá Tiên đem quân vào đánh bại. Lý Thiên Bảo phải rút lên vùng thượng du châu Ái (vùng Thanh Hóa giáp Lào), ở động Dã Năng, xưng là Đào Lang vương.

Một cánh quân khác, do vị tướng trẻ Triệu Quang Phục chỉ huy, với số lượng hơn 1 vạn quân, lui về lập căn cứ mới ở đầm Dạ Trạch (nay ở bãi Màn Trò, xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Theo sử cũ, Triệu Quang Phục đóng quân ở bãi đất nổi giữa vùng đầm lầy ven sông Hồng, rộng mênh mông, lau sậy um tùm. Ngày ngày, quân sĩ thay phiên nhau luyện tập, vừa phát bờ, cuốc ruộng, trồng lúa, trồng khoai để tự túc lương thực; ban ngày tắt hết khỏi lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đến đêm nghĩa quân mới kéo thuyền ra đánh úp các trại giặc, cướp được nhiều lương thực, “làm kế trì cửu”. Người trong nước gọi Triệu Quang Phục là “Dạ Trạch vương” (Vua Đầm Đêm). Khi nghe Lý Nam Đế mất, ông xưng là Triệu Việt Vương.

Tóm lược quá trình kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương do vua Lý Nam Đế lãnh đạo vào giữa thế kỷ VI, chúng ta thấy thời gian nghĩa quân đồn trú tại động Khuất Lão, thuộc 2 xã Văn Lương, Cổ Tiết huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, không dài nhưng địa điểm ấy, giữ vị trí rất quan trọng trong cuộc đời của vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nước ta nói riêng và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Lương nói chung.

Thứ nhất, động Khuất Lão nói riêng, vùng đất Tam Nông nói chung là nơi chứng kiến cuộc chuyển giao quyền lực giữa một vị vua cao tuổi, sức khỏe suy giảm là Lý Nam Đế sang cho một vị tướng trẻ, một thủ lĩnh đầy khí thế, nhiệt huyết Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương sau này). Và cũng từ đó, cuộc kháng chiến của nhân dân ta, từ Lý Nam Đế qua Triệu Việt Vương đã có sự chuyển hướng chiến lược, thay đổi địa bàn và cách đánh. Về địa bàn kháng chiến vào thời Lý Nam Đế là miền đồi núi hiểm trở, sang thời Triệu Việt Vương

1 Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam, tập 1. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985, tr. 291.

19

Page 20: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

là vùng đồng bằng, nhiều sông lạch chia cắt, nhiều đầm hồ lầy lội. Về cách đánh, thời Lý Nam Đế áp dụng phương thức tác chiến phòng ngự, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch, còn ở thời Triệu Việt Vương sử dụng phương thức đánh lâu dài, đánh tiêu hao sinh lực địch.

Thứ hai, đây là nơi chứng kiến những năm tháng cuối đời của vua Lý Nam Đế. Nếu thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên có vinh dự là nơi sinh ra và nuôi dưỡng vị Hoàng đế đầu tiên của nước ta, thì động Khuất Lão, xã Văn Lương và xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, có trọng trách gìn giữ phần lăng mộ và di thể của Đức vua Lý Nam Đế.

Có thể nói sinh thời, vua Lý Nam Đế sống và hoạt động ở nhiều nơi, nhưng chúng tôi cho rằng có 4 địa danh luôn gắn liền với tên tuổi của ông, là:

1. Thôn Cổ Pháp: Nơi nhà vua chào đời và sống thời niên thiếu.2. Thôn Giang Xá (Hoài Đức - Hà Nội): Nơi nhà vua tu hành và thuộc vùng

đất ông phát động cuộc khởi nghĩa chống quân Lương.3. Hồ Điển Triệt, xã Tứ Yên: Nơi diễn ra trận thủy chiến lịch sử giữa nhà

vua và tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên.4. Động Khuất Lão, thuộc 2 xã Văn Lương và Cổ Tiết, huyện Tam Nông:

Nơi nhà vua đi vào cõi vĩnh hằng.Vì vậy, chúng tôi cho rằng động Khuất Lão nói riêng và huyện Tam Nông

nói chung, cần được ghi vào sử sách như một địa danh quan trọng trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược nhà Lương do Lý Nam Đế lãnh đạo vào giữa thế kỷ VI. Hiện nay, tại đây vẫn còn lưu giữ được lăng mộ của Lý Nam Đế, và đã có đền thờ để phụng thờ ông. Nhưng, với tư cách một người nghiên cứu lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Viện Sử học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, tôi đề nghị Nhà nước ta, các cơ quan hữu quan cần đầu tư hơn nữa, để mở rộng không gian đền thờ Đức vua Lý Nam Đế tại động Khuất Lão. Chúng ta cần xây thêm một số hạng mục kiến trúc nữa để thờ các vị tướng của Lý Nam Đế bên cạnh đền thờ ông như: Lý Thiên Bảo (anh ruột vua), Triệu Việt Vương… Họ là những người đã từng gắn bó với mảnh đất Tam Nông “địa linh nhân kiệt” của chúng ta. Nếu làm được như vậy, tôi tin tưởng rằng trong tương lai gần “Khu Di tích Lịch sử văn hóa động Khuất Lão” sẽ trở thành một điểm nhấn du lịch trở về cội nguồn của huyện Tam Nông nói riêng và của tỉnh Phú Thọ nói chung./.

Hà Nội, ngày 8 tháng 9 năm 2013N.M.T

20

Page 21: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Quª h¬ng vµ ngµy mÊt cña lý nam ®Õ

PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ Phó Viện trưởng Viện Sử học

Nửa đầu thế kỷ VI là một mốc đột phá quan trọng trong lịch sử hơn ngàn năm chống Bắc thuộc của nhân dân ta, được đánh dấu bởi một cuộc khởi nghĩa lớn - cuộc khởi nghĩa Lý Bí với sự thành lập nhà nước Vạn Xuân, mở ra một thời kỳ độc lập cho đất nước kéo dài gần 6 thập kỷ (644 - 603).

Năm 502, nhà Tề đổ, nhà Lương thành lập ở Trung Quốc. Năm 505, nhà Lương phong Lý Tắc làm Thứ sử Giao Châu, nước ta lại bị nhà Lương đô hộ.

Dưới ách thống trị của nhà Lương, nhân dân 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam phải chịu hàng trăm thứ thuế, lòng oán hận ngày càng tăng. Năm 542, cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ. Nhân dân và hào kiệt khắp nơi nổi dậy hưởng ứng, thanh thế nghĩa quân tăng lên nhanh chóng. Sau khi đánh chiếm được các địa phương, nghĩa quân tiến về bao vây châu thành Long Biên. Quân Lương đại bại, Thứ sử Tiêu Tư hoảng sợ, bỏ chạy về nước. Cuộc khởi nghĩa chỉ diễn ra trong 3 tháng đã hoàn toàn thắng lợi, từ Giao Châu đến cả vùng Hoan Châu, Ái Châu.

Thư tịch cổ ghi chép về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự hình thành của nhà nước Vạn Xuân rất phong phú1. Trong hơn nửa thế kỷ qua đã xuất hiện nhiều công trình khoa học, nhiều bài viết tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của Lý Bí nói riêng, về

1 Thí dụ như: Việt sử lược (Nxb. Văn Sử Địa, HN, 1960), Việt điện U linh tập (Nxb. Văn học, HN, 1972), Đại Việt sử ký toàn thư (Nxb. KHXH, HN, 1993), Việt sử tiêu án (Nxb. Thanh niên, HN, 2001), Đại Việt sử ký tiền biên (Nxb. KHXH, HN, 1997), Khâm định Việt sử thông giám Cương mục (Nxb. Giáo dục, HN, 1998), Lịch triều hiến chương loại chí (Nxb. KHXH, HN, 2007), Việt sử cương mục tiết yếu (Nxb. KHXH, HN, 1999), Việt Nam sử lược (Bộ Giáo dục, Trung tâm học liệu xuất bản, 1971)…

21

Page 22: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

nhà Tiền Lý nói chung1. Thông qua nguồn thư tịch cổ và các công trình nghiên cứu, thân thế và sự nghiệp của Lý Bí - Lý Nam Đế đã được làm sáng rõ.

Liên quan đến nhân vật Lý Bí - Lý Nam Đế, có một vấn đề chưa có sự thống nhất, đó là quê hương của ông. Cho đến trước Hội thảo khoa học Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam đế, do Hội KHLS Việt Nam phối hợp với UBND huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử giám Hà Nội tháng 10 - 2012, trong giới nghiên cứu sử học vẫn tồn tại 3 khuynh hướng khác nhau:

- Thứ nhất cho rằng, Lý Bí sinh ra ở vùng Hà Tây (cũ). Đó là ý kiến của Đào Duy Anh, Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Vinh Phúc, Lê Thành Lân, Nguyễn Gia Bảo…

- Thứ hai, các tác giả Văn Tân, Trương Hữu Quýnh, Phạm Thị Nết; tập thể tác giả sách Lịch sử Việt Nam (tập I), sách Lịch sử Vĩnh Phú… đã chứng minh quê hương của Lý Bí ở Thái Bình.

- Thứ ba là thuộc tỉnh Thái Nguyên. Đây là quan điểm của Đinh Văn Nhật, Bùi Thiết, Nguyễn Hữu Khánh, Minh Tú, Nguyễn Đình Hưng…

Trong các bộ chính sử của nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử cương mục tiết yếu, Đại Việt sử ký tiền biên chép: “Vua họ Lý, tên huý là Bí, người Thái Bình, Long Hưng”. Trước đây giới nghiên cứu phần đông nghiêng về quan điểm cho rằng địa danh Thái Bình chính là nằm ở khu vực Hoài Đức, Đan Phượng (Hà Tây). Nhưng trong bài viết Quê hương gốc của Lý Bí theo văn bia, ngọc phả đền Giang Xá (xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội), Đinh Văn Nhật lại cho rằng đây chỉ là quê hương thứ hai của Lý Bí: “Mọi người đều biết rằng vùng Hoài Đức, Đan Phượng tuy có nhiều đền thờ Lý Bí (ở Giang Xá, Lưu Xá, Đại Tự, Di Trạch, Miêu Nha, Phương Lang nội và ngoại), nhưng vẫn chỉ là quê

1 Ví như: Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam (Nxb. Văn Sử Địa, HN, 1957), Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn…: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập I, Nxb. Giáo dục, HN, 1963), Đỗ Đức Hùng: Về cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (Luận văn Tốt nghiệp khoa Sử ĐHTH khóa 1969-1973); Trương Hữu Quýnh (chủ biên): Đại cương Lịch sử Việt Nam (tập I, Nxb. Giáo dục, HN, 1997); Đỗ Đức Hùng: “Về tên đất Thái Bình, quê hương của Lý Bôn trong cuộc khởi nghĩa chống quân Lương”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1 (190)-1980, Nguyễn Vinh Phúc: “Quê hương Lý Bí”, Báo Hà Nội mới, số 4797 ngày 17/7/1983, Minh Tú: “Di tích Lý Nam Đế”, Báo Nhân dân, số 11659 ngày 8/6/1986, Phạm Thị Nết: “Vấn đề quê hương Lý Bí và sự nghiệp dựng nước của ông”, Danh nhân Thái Bình (tập I, Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình, 1986), Lê Thành Lân: “Quê hương và ngày giỗ của Lý Nam Đế”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số II/1988 (35), Đinh Văn Nhật: “Đi tìm quê hương gốc của Lý Bí”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1 (244)/1989, Minh Tú: “Về Lý Nam Đế”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1 (254)-1991, Nguyễn Hữu Khánh: “Tìm hiểu thêm về châu Giã Năng và ấp Thái Bình thời Lý Bí”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số VI (12/1997), Nguyễn Hữu Khánh: “Ấp Thái Bình thời Lý Bí trên đất Phổ Yên”, Tạp chí Văn hóa Thái Nguyên, số 11+12/2007, Nguyễn Đình Hưng: “Tìm hiểu về quê hương Lý Nam Đế qua các di tích ở huyện Hoài Đức”, Tạp chí Văn hóa Hà Tây, số 40 (12/2007), Nguyễn Gia Bảo: “Tìm hiểu thêm về quê hương Lý Nam Đế qua các tư liệu Hán Nôm mới phát hiện tại huyện Hoài Đức (Hà Nội)” và “Di sản Hán Nôm mới phát hiện tại huyện Phổ Yên (Thái Nguyên)”, trong Thông báo Hán Nôm học năm 2007 và 2009 (Nxb. Thế giới, HN, 2008, 2010)...

22

Page 23: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

hương thứ hai, vì ông đi theo làm chú tiểu cho vị thiền sư trụ trì chùa Linh Bảo ở Lưu Xá từ năm 13 tuổi (tức khoảng năm 516)”1.

Trong bài báo Di tích Lý Nam Đế, tác giả Minh Tú thông qua cuộc khảo sát, điền dã các di tích Lý Nam Đế tại các huyện Hoài Đức, Từ Liêm, Đan Phượng, Ba Vì, Quốc Oai của hai tỉnh Hà Nội và Hà Tây nêu ra tư liệu mới phát hiện để chứng minh quê của Lý Bí ở Kinh Bắc. Theo Tiền Lý Nam đế ngọc phả cổ truyền do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm 1572 thì Lý Nam đế quê ở huyện Thái Bình, châu Giã Năng, xứ Kinh Bắc2. Minh Tú còn khẳng định rõ hơn: châu Giã Năng bao gồm một phần đất của huyện Sóc Sơn, Hà Nội và huyện Phổ Yên, tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên). Trong bản đồ còn nhìn thấy cả tên đất “Thái Bình” nằm trong xã Tiên Phong, thuộc huyện Phổ Yên, cách phố Cò 4km về hướng đông nam, gần thị xã Sông Công3.

Đinh Văn Nhật, trong bài Quê hương gốc của Lý Bí… khai thác dưới góc độ địa lý học lịch sử đã xác định các địa danh cổ Thái Bình và Giã Năng. Vùng Giã, tức Kẻ Giã (tên Lạc Việt cũ) là vùng ngã ba sông Công và sông Cầu hiện nay. Đây là vùng trung du và bậc thềm, nên cổ địa lý và địa lý hiện nay không có gì thay đổi nhiều. Vùng đất Giã là một địa điểm chiến lược chỉ huy bảo vệ vùng đồng bằng. Thời xa xưa, đây là nơi đóng quân của các vị Lạc tướng huyện Tây Vu, sau đổi thành huyện Phong Khê và huyện Vọng Hải. Chợ Chã ngược lên Thái Nguyên, sông Cầu không đi thuyền được, vì lòng sông có nhiều lớp đá tảng, chợ Chã trở thành một bến lớn, trung tâm giao dịch phía cực bắc. Chợ Nỉ là trung tâm kinh tế vùng Giã; quanh ngã ba sông Công, sông Cầu hiện nay còn tồn tại các tên gọi như: Thượng Giã, Trung Giã, Hạ Giã; phía sông Cầu còn có Giã Thù và Giã Trung. Như vậy Giã Năng ở quanh ngã ba sông vùng Đa Phúc, chợ Nỉ, chợ Chã. Phía tả ngạn sông Cầu cách 5km có địa danh Thanh Năng.

Từ chợ Chã đi về tây bắc 5km hoặc từ phố Cò đi về đông nam 4km thì đến trại Thái Bình. Như vậy, tên Thái Bình là tên một trang trại lớn về thời Lý Bí dưới triều Lương. Năm 271, cuối đời Ngô thì thành lập quận Vũ Bình gồm các đất miền núi. Trại Thái Bình có lẽ thuộc huyện Phong Khê. Đến thời Tuỳ thì toàn bộ đất từ ngã ba sông Công trở lên Thái Nguyên là huyện Vũ Bình, lỵ sở đóng ở vùng chợ Chã, từ ngã ba sông Công về nam là đất huyện Bình Đạo, lỵ sở ở Phù Lỗ.

Đinh Văn Nhật kết luận: “Lý Bí đã sinh sống trong một điền trang lớn mang tên là trang Thái Bình, trên đất Giã Năng, thuộc quận Vũ Bình, vùng bắc ngã ba

1 Đinh Văn Nhật “Quê hương gốc của Lý Bí theo văn bia, ngọc phả đền Giang Xá (xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội)” trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1988, Viện Khảo cổ học, 1990.

2 Minh Tú: “Di tích Lý Nam đế”, Báo Nhân Dân, ngày 8-6-1986. Minh Tú: “Tìm hiểu quê hương Lý Nam đế” trong Thái Nguyên đất và người, Sở VH-TT Thái Nguyên, 2003.

3 Minh Tú: “Tìm hiểu quê hương Lý Nam đế” in trong Thái Nguyên đất và người; Sở Văn hoá Thông tin Thái Nguyên, 2003, tr.235-236.

23

Page 24: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

sông Công và sông Cầu, nay là huyện Phổ Yên, tỉnh Bắc Thái”1. “Đất Giang Xá, Hoài Đức, Đan Phượng chỉ là quê hương thứ hai”2.

Trong bài Tìm hiểu thêm về châu Giã Năng và ấp Thái Bình thời Lý Bí, tác giả Nguyễn Văn Khánh, một nhà nghiên cứu địa phương thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu ngữ ngôn cổ kết hợp với địa danh học tại địa phương, bước đầu đưa ra nhận định: danh từ Giã Năng được ghép bởi 2 từ tố Giã và Năng. Giã là tên một con sông lớn chảy trong vùng này. Phan Huy Chú trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí, cũng đã nhắc tới sông Giã của Thái Nguyên. Vào năm 1767, theo lệnh của phủ chúa, các viên quan Nguyễn Đình Huấn và Ngô Thì Sĩ (từng giữ chức Đốc đồng Thái Nguyên) lên mỏ Tống Tinh (thuộc châu Bạch Thông, Thái Nguyên) để điều tra và giải quyết tình trạng khai thác mỏ bừa bãi, nhưng mới đến sông Giã (Giã giang) chỗ địa phận các xã Thượng Giã, Trung Giã và Hạ Giã, thì được tin Minh vương Trịnh Doanh chết, họ phải quay về3. Như vậy, sông Giã mà Phan Huy Chú nhắc đến vào thế kỷ XVIII, chính là sông Công ngày nay. Dòng sông Giã bắt nguồn từ huyện Định Hoá chảy qua Đại Từ về phía tây Đồng Hỷ rồi chảy dọc huyện Phổ Yên, cắt huyện thành 2 phần đông và tây. Khi chảy đến chỗ gần cầu Đa Phúc hiện nay thì dòng sông ngoặt rẽ sang phía đông tạo ra một góc thước thợ, rồi chảy thêm chừng 2km nữa thì gặp sông Cầu ở ngã ba Vát (nơi giáp ranh 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang và Hà Nội). Cũng vì lý do trên, nên vùng đất này được dân chúng gọi là châu Giã (Năng). Còn từ tố “Năng” (trong Giã Năng) thì hiện nay vẫn còn tồn tại trong nhiều địa danh như: phía trên có Cương Năng (xưa là Thượng Năng) gần xã Tân Cương, nay thuộc phía tây thành phố Thái Nguyên; phía bắc có Bảo Năng (đọc chệch là Bảo Nang) xưa gọi là Bắc Năng; giữa có Trung Năng, giáp triền phía đông dãy Tam Đảo, nay tách thành các thôn Trung Năng Thượng và Trung Năng Hạ thuộc xã Phúc Thuận (Phổ Yên). Như vậy, có thể khẳng định được rằng châu Giã Năng bao gồm một phần đất phía đông bắc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, cả huyện Phổ Yên và thị xã Sông Công lên giáp phía tây thành phố Thái Nguyên và phía tây bắc huyện Phú Bình.

Theo các tài liệu lịch sử, sau khi không làm quan nữa, Lý Bí về quê và tập hợp binh lính nổi dậy khởi nghĩa. Vậy, nếu “quê hương Lý Bí đích thực là ở ấp Thái Bình châu Giã Năng mà trung tâm là vùng đất huyện Phổ Yên (Thái Nguyên ngày nay)”4 thì chứng tỏ Thái Nguyên không những là nơi xuất phát, khởi binh của cuộc khởi nghĩa Lý Bí mà còn là một trong những “hậu phương chiến lược”, cung cấp dồi dào về lương thực và lực lượng quân lính cho nghĩa quân Lý Bí.

Để chuẩn bị tài liệu cho cuộc Hội thảo nói trên, từ giữa năm 2012, một số nhà nghiên cứu thuộc Viện Sử học, Viện nghiên cứu Hán Nôm, Viện LSQS Việt Nam

1 Đinh Văn Nhật: “Đi tìm quê hương gốc của Lý Bí”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1, 1989, tr.78-82.

2 Đinh Văn Nhật: “Quê hương gốc của Lý Bí theo văn bia, ngọc phả đền Giang Xá (xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội)” trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1988, Viện Khảo cổ học, 1990, tr.113.

3 Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí tập II, Nxb KHXH, Hà Nội 1992, tr.264.4 Nguyễn Văn Khánh: “Tìm hiểu thêm về châu Giã Năng và ấp Thái Bình thời Lý Bí”, Tạp

chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, 1997, tr.86.24

Page 25: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

và các cán bộ nghiên cứu địa phương của huyện Phổ Yên (Thái Nguyên), đã tiến hành cuộc điều tra điền dã tại làng Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên; xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên – nơi có chùa Hương Ấp 鄉 邑 寺 mà trong Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền có nhắc đến: “Pháp tổ Thiền sư trụ trì ngôi chùa ở bản châu” là: 法 祖 禪 師 住 持 在 本 州 邑 之 寺 (Phiên âm: Pháp tổ Thiền sư trụ trì tại bản châu ấp chi tự). Vậy, chùa Châu Ấp (hay chùa Hương Ấp) hiện ở đâu…? Hiện nay có một ngôi chùa mang tên Hương Ấp tự (Chùa Hương Ấp). Tại chùa Hương Ấp và vùng đất xung quanh còn khá nhiều di tích và địa danh lịch sử liên quan tới vua Lý Nam Đế1. Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền cho biết: Lý Nam Đế tu tại chùa Hương Ấp được chừng 4 năm, đến năm 13 tuổi thì theo Phổ Tổ Thiền sư về tu hành tại chùa Giang Xá (Linh Bảo tự), thuộc huyện Hoài Đức (Hà Nội).

Đoàn khảo sát cũng đã về điều tra điền dã tại một số địa phương có liên quan đến phạm vi huyện Thái Bình vào thế kỷ VI mà theo nghiên cứu của Đặng Xuân Bảng, Đào Duy Anh… có thể bao gồm địa bàn một số huyện Hà Tây cũ như Chương Mỹ, Hoài Đức, Quốc Oai…Đây là mảnh đất có khá nhiều làng xã thờ vua Lý Nam Đế làm thần Thành hoàng. Trong số đó, cần kể tới một vài ngôi đình, đền thờ Lý Nam Đế dưới đây:

- Đình, đền thờ Lý Nam Đế ở thôn Giang Xá, huyện Hoài Đức.- Đình, đền thờ Lý Nam Đế và Phạm Tu ở thôn Ngọc Than, xã Ngọc Mỹ,

huyện Quốc Oai.- Đình thờ Lý Nam Đế, ở làng Hạ Mỗ, tổng Thượng Hội, phủ Hoài Đức, tỉnh

Hà Đông…Mật độ khá dày của các đình, đền thờ vua Lý Nam Đế tại vùng đất Xứ Đoài

cũ, tự nó đã nói lên rằng: Mảnh đất này gắn bó nhiều với vị vua sáng lập nhà Tiền Lý (544-602)2.

Trong các địa bàn kể trên, đáng chú nhất là cụm di tích Đình - Đền thờ Lý Nam Đế và ngôi chùa Linh Bảo (còn gọi là chùa Giang Xá) ở thôn Giang Xá (huyện Hoài Đức). Tại đây còn bảo lưu được nhiều chứng tích, di vật và truyền thuyết liên quan tới vua Lý Nam Đế.

Đình Giang Xá thờ Lý Nam Đế làm thần Thành hoàng. Tại đây còn lưu giữ được bản Ngọc phả ghi chép về tiểu sử, hành trạng của Lý Nam Đế, có tên là: Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền (gọi tắt là Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền) và 22 đạo sắc phong của triều đình quân chủ Việt Nam phong cho Đức vua Lý Nam Đế. Đạo sắc sớm nhất có niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông; Đạo sắc muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924).

Cuối tháng 7 năm 2012, một số nhà nghiên cứu về trực tiếp khảo sát ngôi chùa Hưng Quốc và đình Tử Các ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Các tài liệu

1 Xem thêm bài của Phạm Văn Kính: “Về mối quan hệ giữa chùa Giang Xá, Hoài Đức, Hà Nội với chốn Tổ: Chùa Hương Ấp, Phổ Yên”… trong Kỷ yếu Hội thảo Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam đế Hà Nội, 2012.

2 Tham khảo Nguyễn Minh Tường: “Vấn đề quê hương Lý Nam Đế - Một nghi án lịch sử cần được làm sáng tỏ”, Kỷ yếu Hội thảo Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam đế, Hà Nội, 2012.

25

Page 26: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

điền dã tại chùa Hưng Quốc, thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy nói riêng và tỉnh Thái Bình nói chung không đủ cơ sở khoa học để xác định quê hương Lý Bí ở đây.

Trong cuộc Hội thảo khoa học… vấn đề về quê hương của Lý Bí được nhiều tác giả quan tâm. Trên cơ sở nguồn sử liệu, tài liệu địa lý học lịch sử và đặc biệt là tư liệu điền dã ở Tiên Phong (Phổ Yên), Giang Xá (Hoài Đức), Ngọc Than (Quốc Oai và Thái Thụy (Thái Bình), các tác giả Nguyễn Minh Tường, Nguyễn Hữu Khánh, Nguyễn Đình Hưng và Minh Tú đều khẳng định: quê hương của Lý Bí là làng Cổ Pháp thuộc xã Tiên Thù, tổng Tiên Thù, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay, làng Cổ Pháp - “gốc tích của Lý Bí”, thuộc xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên1.

Năm 544, Lý Bí xưng hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, dựng triều đình, xếp đặt quan lại, lấy tên nước là Vạn Xuân với ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội; lấy Triệu Túc làm Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu đều làm tướng văn, tướng võ”.

Khởi nghĩa Lý Bí đã hoàn toàn thắng lợi. Nó kế tục và phát huy truyền thống đấu tranh giành quyền độc lập mà Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa đầu tiên trong thời kỳ chống Bắc thuộc. Thắng lợi của khởi nghĩa Lý Bí có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một bước trưởng thành của ý thức dân tộc, khẳng định nền độc lập, tự chủ của nhân dân ta và phủ nhận quyền đô hộ, thống trị của đế chế phương Bắc đối với đất nước và dân tộc ta.

Tháng Sáu năm Ất Sửu (545), nhà Lương cử Dương Phiêu, Trần Bá Tiên… đem quân tiến sang đánh Giao Châu. Vua Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, nhưng bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, nên phải rút quân về thành Gia Ninh (thuộc huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Trước tình thế bất lợi, vua lại cho rút quân về Tân Xương để củng cố lực lượng, sau đó cho quân ra tiến đánh quân giặc tại hồ Điển Triệt (nay thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), nhưng không giành thắng lợi. Thế cô, lực lượng mỏng, Lý Nam Đế tiếp tục lui giữ động Khuất Lão điều chỉnh quân ngũ. Để mưu tính chiến đấu lâu dài với quân Lương, vua đã giao cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục giữ nước, cầm quân chống giặc. Vua Lý Nam Đế mất vào ngày mùng 2 tháng Năm năm Mậu Thìn (548) tại động Khuất Lão2.

Về cơ bản, xác định nơi mất của vua Lý Nam Đế có sự nhất quán hơn, khi đa số tài liệu chính sử và các bài nghiên cứu đều chép: Vua Lý Nam Đế mất ở động Khuất Lão. Tra cứu các tài liệu địa danh và chú thích liên quan thì động Khuất Lão xưa, nay thuộc 2 xã Cổ Tiết và Văn Lương (huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ). Tại khu 2, xã Văn Lương còn di tích mộ và đền thờ Lý Bí trên gò Cổ Bồng. Còn

1 Tham khảo Nguyễn Minh Tường: “Vấn đề quê hương Lý Nam Đế - Một nghi án lịch sử cần được làm sáng tỏ”, Kỷ yếu Hội thảo Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam đế, Hà Nội, 2012.

2 Theo nội dung tấm bia Giang Xá từ bi ký (soạn năm Tự Đức thứ 5 - 1852) và Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền cho biết: Ngày kỵ của Lý Nam đế là ngày mùng 2 tháng Năm. Có một số tài liệu Thần tích ở các nơi thờ tự Lý Nam Đế ở Phúc Thọ, Vĩnh Phúc cho biết Lý Nam đế mất ngày 20 tháng Ba (hoặc 10 tháng Ba) năm Mậu Thìn.

26

Page 27: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

về tên gọi, Khuất Lão (屈 獠) - Khuất Liêu (屈 獠) - Khuất Lạo (屈 潦)… thì không có sự khác biệt, bởi đó là do đọc chệch, hoặc cách phiên âm (vì có tự dạng gần giống nhau).

Sự nghiệp, công lao và đóng góp của Lý Bí - Lý Nam Đế đối với lịch sử dân tộc nói chung, với vùng đất Tam Nông, Phú Thọ nói riêng đã được sử sách và hậu thế ghi nhận vì những năm tháng cuối đời ông gắn bó với vùng đất trung du này. Minh chứng xác thực nhất là tại xã Văn Lương còn lưu giữ nhiều dấu tích địa danh liên quan đến cuộc kháng chiến chống quân Lương xâm lược của vua Lý Nam Đế, như: Gò Cổ Bồng, Ao Quan, Rừng Cấm, Đính Trại, hố Lỗ Tiên, hố Hang Hùm,… Đặc biệt, nhân dân trong vùng đã xây dựng một ngôi đền thờ nhằm tưởng nhớ và truy tôn đến công lao của vị vua “xưng vương đầu tiên của nước Nam”. Tuy nhiên, trải qua thời gian, ngôi đền thờ đã bị phá hủy, nhưng được sự chung sức đồng lòng của chính quyền và nhân dân địa phương, một ngôi đền thờ mới khang trang hơn, to đẹp hơn đã được dựng lên và đang trở thành một địa chỉ văn hóa lịch sử của tỉnh Phú Thọ nói riêng và cả nước nói chung./.

N.Đ.N

27

Page 28: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Ý NGHĨA KHÔI PHỤC ĐỀN THỜ VÀ LĂNG MỘ LÝ NAM ĐẾ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH HƯỚNG VỀ CỘI NGUỒN

Phạm Bá Khiêm PGĐ Sở VH,TT&DL Phú Thọ

1. Mở đềLý Bí là người có tài văn võ. Đầu năm 542 Ông đã lãnh đạo nhân dân khởi

nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ nhà Lương. Lý Bí xưng Đế hiệu là Lý Nam Đế năm 544, dựng nước Vạn Xuân, đặt niên hiệu Thiên Đức, đóng đô ở Long Biên.

Vương triều Tiền Lý tồn tại trong thời gian khoảng 60 năm (544 - 602), với 4 đời vua: Lý Nam Đế (544 - 548), Lý Đào Lang Vương (549 - 555), Triệu Việt Vương (549 - 570) và Hậu Lý Nam Đế (571- 602).

Quê hương Lý Bí có nhiều nguồn tài liệu ghi chép khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí ghi ông là người Thái Bình, phủ Long Hưng. Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi: "tên Thái Bình đặt từ thời Đường (618 - 907), còn Long Hưng đặt từ thời Trần (1225-1400)", như vậy gọi Thái Bình và Long Hưng là gọi theo tên sau này đặt ra. Các sử gia thời Nguyễn xác định Long Hưng thuộc Thái Bình và cho rằng quê Lý Bí ở Thái Bình. Việt Nam sử lược ghi rằng phủ Long Hưng thuộc tỉnh Sơn Tây (cũ).

Nhân kỷ niệm 1470 năm (542 - 2012) ngày cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức Hội thảo khoa học "Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế". Hội thảo đưa ra kết luận vua Lý Nam Đế có quê gốc ở thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

* Đánh đuổi quân LươngCuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống quân Lương xâm lược.

Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Dương) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Tinh Thiều, một người giỏi từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan, nhưng chỉ cho chức "gác cổng thành", nên bỏ về Giao Châu theo Lý Bí. Ngoài ra trong lực lượng của Lý Bí còn có các võ tướng là Phạm Tu, Trịnh Đô, Lý Công Tuấn…

Lý Bí liên kết với các châu lân cận cùng chống lại Tiêu Tư. Theo sách Lương thư của Trung Quốc, Tiêu Tư liệu thế không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót để được tha chạy thoát về Quảng châu. Quân của Lý Bí đánh chiếm lấy thành Long Biên.

Tháng 4 năm 542, Lương Vũ Đế sai Thứ sử Việt châu là Trần Hầu, thứ sử La châu là Ninh Cự, thứ sử An châu là Úy Trí, thứ sử Ái châu là Nguyễn Hán cùng hợp binh đánh Lý Bí. Lý Bí đã chủ động tiến quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía nam, làm chủ toàn bộ Giao châu.

* Đánh lui cuộc phản công của nhà LươngCuối năm 542, Lương Vũ đế sai thứ sử Giao châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân

châu là Lư Tử Hùng sang đàn áp. Được tin quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ 28

Page 29: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng bị quân Lý Bí đánh bại, 10 phần chết đến 6 - 7 phần.

Chiến thắng này giúp Lý Bí kiểm soát toàn bộ Giao Châu, tức là miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, cộng thêm quận Hợp Phố thuộc Quảng Đông, Trung Quốc hiện nay.

* Đánh đuổi quân Lâm ẤpTháng 5 năm 543, vua Lâm Ấp mang quân xâm chiếm quận Nhật Nam và đánh

lên quận Cửu Đức. Lý Nam Đế sai Phạm Tu cầm quân vào nam đánh giặc. Phạm Tu đánh tan quân Lâm Ấp ở Cửu Đức khiến vua Lâm Ấp phải bỏ chạy.

* Dựng nước Vạn XuânTháng giêng năm 544, Lý Bí lên ngôi, xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là

Vạn Xuân, đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội, thiết lập triều đình với hai ban văn, võ. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ.

* Chạy về động Khuất LãoTháng 6 năm 545, nhà Lương sai Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, Trần

Bá Tiên làm Tư mã, sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội quân với Phiêu ở Giang Tây cùng xâm lấn nước Vạn Xuân.

Khi quân của Trần Bá Tiên đến Giao Châu, Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra đánh, bị thua ở Chu Diên và ở cửa sông Tô Lịch, tướng Tinh Thiều tử trận. Ông chạy về thành Gia Ninh (nay thuộc xã Thanh Đình, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ).

Tháng giêng năm 546, Trần Bá Tiên chiếm thành Gia Ninh, tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Sau một thời gian tập hợp và củng cố lực lượng, ông đem 2 vạn quân từ đất Lạo sang đóng ở hồ Điển Triệt (xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Quân Lương bao vây song dừng lại ở cửa hồ không dám tiến đánh ngay. Đến đêm, mưa lũ, nước sông lên mạnh, tràn ngập vào hồ. Nhân cơ hội đó Trần Bá Tiên đem quân theo dòng nước tiến vào. Quân Vạn Xuân không phòng bị, vì thế tan vỡ.

Lý Nam Đế phải lui về động Khuất Lão (còn gọi là Khuất Lạo, Khuất Liêu hay Khuất Liệu), giao binh quyền cho Triệu Quang Phục là con Thái phó Triệu Túc tiếp tục chống lại Trần Bá Tiên.

* Trút hơi thở cuối cùng Ngày 20 tháng Ba (tức ngày 13-4 dương lịch), năm 548, Lý Nam Đế qua đời.

Ông ở ngôi được 5 năm (544 - 548), thọ 46 tuổi.Theo sách Việt Nam văn minh sử cương của Lê Văn Siêu dẫn một số nguồn

tài liệu cổ, do ở lâu ngày trong động, Lý Nam Đế bị nhiễm lam chướng nên mù cả hai mắt, sau ốm chết. Vì vậy đời sau đến ngày giỗ, khi cúng, thường phải xướng rõ tên các đồ lễ vật để Vua nghe thấy ( đây là hèm tục cúng đền thờ Lý Nam Đế ).

2. Tu bổ, tôn tạo đền thờ và Lăng mộ Vua Lý Nam ĐếCác nhà sử học khẳng định trong thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, kéo dài

hơn 1000 năm, cuộc khởi nghĩa Lý Bí nói riêng và Vương triều Tiền Lý nói chung giữ một vị trí rất quan trọng. Đây là cuộc khởi nghĩa đã thu được thắng lợi vang

29

Page 30: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

dội nhất và giành được quyền độc lập, tự chủ lâu dài nhất. Trong lịch sử nước nhà, Lý Nam Đế là người đầu tiên xưng hiệu Đế và đặt niên hiệu Thiên Đức. Lý Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí trung tâm đất nước của vùng đất Hà Nội xưa...

Di tích thờ Lý Nam Đế hiện nằm rải rác trên địa bàn các tỉnh Thái Bình, Thái Nguyên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ… nhưng chỉ duy nhất ở Phú Thọ có đền thờ nơi Lý Nam Đế qua đời gắn với Lăng mộ của Ngài.

Hiện nay chúng ta tu bổ, tôn tạo đền thờ, lăng mộ, các di tích liên quan Vua Lý Nam Đế tại căn cứ động Khuất Liêu xưa như thế nào để đảm bảo vừa khoa học, vừa xứng tầm vị trí của bậc đế vương. Tu bổ di tích không chỉ đơn giản là khôi phục lại như mới một công trình kiến trúc cổ truyền, mà là sự tổng hợp của nhiều mặt hoạt động phức tạp có quan hệ qua lại rất chặt chẽ như: nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật và quá trình thi công, xây dựng v.v... Công tác tu bổ di tích phải đáp ứng được các nhu cầu: giải phóng, tước bỏ khỏi di tích tất cả các lớp bổ sung xa lạ, gây ảnh hưởng xấu tới các mặt giá trị của di tích; giữ lại tối đa những yếu tố nguyên gốc của di tích; trên cơ sở khoa học đáng tin cậy; khôi phục lại một cách chính xác những yếu tố đã bị thiếu hụt, mất mát trong quá trình tồn tại của di tích; trả lại cho di tích hình dáng vốn có của nó; làm cho di tích có độ bền vững về mặt kết cấu để tồn tại lâu dài trước tác động của điều kiện khí hậu và thời tiết khắc nghiệt, cũng như thử thách của thời gian.

Mục tiêu bao trùm là phải xác định chính xác giá trị của di tích về các mặt lịch sử, văn hoá, khoa học... tìm biện pháp bảo tồn nguyên trạng di tích để phát huy giá trị, phục vụ những nhu cầu do xã hội đặt ra. Quá trình xây dựng và thực thi các dự án tu bổ, tôn tạo và phát huy di tích có những yêu cầu cơ bản như: Nội dung các dự án phải phù hợp với các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, phục vụ lợi ích cộng đồng và các nhu cầu do xã hội đề ra; phải xây dựng dự án theo đúng những định hướng cơ bản đã được phê duyệt trong quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy di tích.

Di tích đền thờ Vua Lý Nam Đế và lăng mộ của Ngài được tu bổ, tôn tạo có giá trị văn hóa tâm linh đặc biệt quan trọng bởi lòng tôn kính, tri ân công đức người có công giữ nước của dân tộc Việt Nam.

3. Đưa du lịch đến với di tích Đền thờ Vua Lý Nam Đế Việt Nam, đất của các di tích, từ miền núi tới hải đảo đâu đâu cũng có di tích

lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.Di tích là những bằng chứng vật chất có ý nghĩa quan trọng, minh chứng về

lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Di tích giúp cho con người biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hoá của đất nước và do đó có tác động ngược trở lại tới việc hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Di tích chứa đựng những giá trị kinh tế to lớn đồng thời, di tích còn mang ý nghĩa là nguồn lực cho phát triển kinh tế. Nếu được khai thác, sử dụng tốt sẽ góp phần không nhỏ cho việc phát triển kinh tế đất nước và nó càng có ý nghĩa to lớn khi đất nước đang rất cần phát huy tối đa nguồn nội lực để phát triển.

30

Page 31: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Di tích lịch sử liên quan tới sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có những đóng góp, ảnh hưởng tới sự tiến bộ của lịch sử dân tộc. Đến với di tích lịch sử, khách tham quan như được đọc cuốn sử ghi chép về những con người, những sự kiện tiêu biểu, được cảm nhận một cách chân thực về lịch sử, những cảm nhận không dễ có được khi chỉ đọc những tư liệu ghi chép của đời sau.

Ngày nay, du lịch được coi là một trong những phương tiện hàng đầu để trao đổi văn hóa, là động lực tích cực cho việc bảo vệ di sản văn hóa và di sản thiên nhiên. Theo thống kê của Cục Di sản văn hóa (Bộ VH,TT&DL), hiện nay trên cả nước có khoảng gần 4 vạn di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong đó, có hơn 3 nghìn di tích được xếp hạng cấp quốc gia, hơn 5 nghìn di tích xếp hạng cấp tỉnh. Cộng thêm vào đó là gần 1 nghìn di sản văn hóa phi vật thể được sưu tầm nghiên cứu, lưu trữ…

Với sự phong phú đa dạng như vậy của các di sản văn hóa ở Việt Nam, dễ thấy rằng bên cạnh việc bảo tồn các di sản thì việc đưa những di sản này vào khai thác, và phát triển về du lịch là một điều cần thiết. Bởi văn hóa là yếu tố nội sinh của du lịch, nên những di sản phong phú, nhiều giá trị về văn hóa chính là thế mạnh nội lực giúp Việt Nam có thể đẩy mạnh phát triển “ngành công nghiệp không khói” - du lịch trên cơ sở những di sản có sẵn.

Tỉnh Phú Thọ được biết đến không chỉ bởi Đền Hùng linh thiêng - nơi thờ tự Tổ tiên của người Việt, mà còn là kinh đô đầu tiên của nước Việt Nam - nơi các vua Hùng đã chọn làm đất khởi nghiệp sơn hà; dựng nên nhà nước đầu tiên trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Một vùng đất sơn chầu thủy tụ; hùng vĩ tựa dáng cha, trữ tình như lòng mẹ đã trở thành bến hẹn cho những hành trình du lịch tâm linh, lịch sử, văn hoá và sinh thái đồng quê.

Trong những năm qua, kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ có những bước phát triển khá, tốc độ tăng trưởng GDP cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh luôn quan tâm tới sự phát triển du lịch. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVII đã lựa chọn du lịch là một trong ba khâu đột phá phát triển kinh tế của tỉnh. Vì vậy, việc liên kết hợp tác và khai thác tiềm năng du lịch giữa các địa phương, vùng miền trên cả nước, thậm chí liên kết với các nước trong khu vực cần phải được đẩy mạnh hơn nữa. Thông qua việc tổ chức thành công các sự kiện đã góp phần tuyên truyền, quảng bá, tạo điểm nhấn cho các hoạt động du lịch, tạo được không khí vui tươi, phấn khởi và điều kiện để nhân dân và du khách được tham gia sáng tạo, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, góp phần phục hồi, phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa cội nguồn dân tộc. Trong quá trình tổ chức các lễ hội, nhiều phong tục tập quán, nét đẹp văn hóa truyền thống, các trò diễn dân gian của các làng, xã đã từng bước được phục hồi, phát triển, tạo được nét đặc trưng riêng của mỗi dân tộc, gây được sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước.

Kết luận: Di sản và du lịch có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Du lịch không chỉ dựa vào di sản để phát triển mà còn mang sứ mệnh cao cả, đó là tôn vinh giá trị di sản, đồng thời bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp của di sản đã được kết tinh và gìn giữ. Di sản là tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn mạnh mẽ, là động cơ tác động đến quyết định nhu cầu hưởng thụ của du khách.

31

Page 32: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Việc khôi phục di tích: đền thờ, khu lăng mộ, các địa điểm liên quan đến căn cứ địa động Khuất Lão, gò Cổ Bồng… sẽ tạo thành điểm đến hấp dẫn trong hành trình du lịch văn hóa tâm linh hướng về cội nguồn dân tộc, viếng thăm miền Đất Tổ Hùng Vương./.

Tháng 6-2013

P.B.K

32

Page 33: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

VUA LÝ NAM ĐẾ VỚI CĂN CỨ ĐỘNG KHUẤT LÃO - VỊ TRÍ, QUY MÔ PHỤC HỒI ĐỀN THỜ VÀ LĂNG MỘ NGÀI

Triệu Quang Kết Phó Bí thư Huyện ủy

Chủ tịch UBND huyện Tam Nông

Kính thưa quý vị đại biểu Kính thưa các nhà khoa học!Lý Bí (còn có tên gọi là Lý Bôn) sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (tức

ngày 17 tháng 10 năm 503). Từ nhỏ Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé rất thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì Cha mất; 7 tuổi thì Mẹ mất. Ông đến ở với chú ruột, một hôm có một vị Pháp tổ thiền sư đi ngang qua trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về Chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm đèn sách chuyên cần, Lý Bí đã trở thành một người học rộng, hiểu sâu. Nhờ có tài văn võ kiêm toàn Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Ông được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức Châu (huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng người, lại do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác, Lý Bí đã bỏ quan, về quê, chiêu binh, mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.

Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí càng lớn mạnh. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Dương) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục khâm phục tài đức của Lý Bí nên đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Tinh Thiều, một người giỏi từ chương, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan nhưng chỉ cho chức quan “gác cổng thành” nên đã bỏ về Giao Châu theo Lý Bí, ngoài ra trong lực lượng của ông còn có một võ tướng là Phạm Tu đã ngoài 60 tuổi.

Căm thù giặc Lương tàn bạo, ông đã triệu tập nhân dân cùng các hào kiệt nổi dậy chống lại quân Lương từ năm 541 đến cuối năm 542. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược, đến tháng Giêng năm 544 Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế (nhà Tiền Lý), lên ngôi đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến muôn đời. Lý Nam Đế đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, TP Hà Nội), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội, thiết lập triều đình với hai ban văn, võ. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ.

Nhà nước Vạn Xuân xây dựng chưa được bao lâu thì vào khoảng tháng 6 năm 545, nhà Lương lại đem đại binh tấn công sang nước ta. Sau nhiều lần kịch chiến với quân Lương ở Chu Diên (Hải Dương), Tô Lịch (Hà Nội), Gia Ninh (Bạch Hạc), đầu năm 546 Lý Nam Đế đưa quân vào Động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) để củng cố lực lượng. Tháng 10 năm 546, Ông kéo 2 vạn quân ra hồ Điển Triệt (Lập Thạch) lập thủy trại. Tại đây, sau một đêm nước sông dâng lên cao 7 thước tràn đổ vào hồ, quân của Trần Bá Tiên theo dòng nước chảy tiến vào, quân của Lý Nam Đế không phòng bị đã bị tan vỡ. Lúc đó nhà Vua phải vượt sông Thao chạy về động Khuất Lão, ông trao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục. Năm 548, Lý Nam Đế ốm nặng rồi mất tại động Khuất Lão.

33

Page 34: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Viết về cuộc kháng chiến chống quân Lương của nhà Tiền Lý, sách Đại Việt sử ký toàn thư có nghi:

“Bính Dần năm thứ ba, mùa xuân, tháng giêng, bọn Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Vua chạy vào đất người Lão ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Mùa thu tháng 8, Vua lại đem 2 vạn quân từ trong đất người Lão ra đóng ở hồ Điển Triệt. Đóng rất nhiều thuyền chật cả trong hồ. Quân Lương đóng ở cửa hồ, ngại không dám vào. Đêm hôm ấy, nước sông dâng mạnh, cao bảy thước rót vào hồ. Bá Tiên đem quân của mình theo dòng nước tiến vào. Quân Lương đánh trống, reo hò mà tiến, Vua không phòng bị nên tan vỡ, lui giữ ở trong động Khuất Lão. Mậu Thìn năm thứ 5 (548), mùa xuân, tháng ba, ngày Tân Hợi, Lý Nam Đế nhiễm lam chướng lâu ngày, ốm chết”.

Tại cuốn sách Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X (tr. 119, 120) có ghi chép về cuộc khởi nghĩa của Lý Bí như sau:

“Trong một lần đánh nhau với quân Lương, Lý Bí lại phải lui quân về thành Gia Ninh (Bạch Hạc). Được sự phối hợp của quân Dương Phiêu, Trần Bá Tiên đã đánh chiếm được thành. Đầu năm 546, Lý Nam Đế chạy vào động Khuất Lão ở Phú Thọ củng cố lực lượng. Sau một thời gian bổ xung quân số, tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế kéo 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt (xã Yên Lập, Lập Thạch, Vĩnh Phúc). Tại đây, quân nhà Tiền Lý lại bại trận trước một cuộc tấn công lớn, một lực lượng áp đảo của quân Lương. Lý Nam Đế phải vượt sông Thao, chạy về động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) và giao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục là một tướng trẻ có tài năng”1.

Kính thưa các vị đại biểu khách quý!Trong cuộc kháng chiến chống quân Lương xâm lược, Lý Nam Đế đã chọn

động Khuất Lão để củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng kháng chiến, đây cũng là căn cứ cuối cùng của Lý Nam Đế với triều đình Vạn Xuân. Nơi này cũng chứng kiến những hoạt động và những ngày cuối đời của Lý Nam Đế (546 - 548) - vị Hoàng đế đầu tiên của nước Việt.

Động Khuất Lão trước kia thuộc xã Cổ Tiết, từ năm 1955 thuộc địa giới hành chính xã Văn Lang (Văn Lương hiện nay), với nhiều tên gọi: Khuất Lão, Khuất Liêu, Tam Khu, Liên Hoa, gò Cổ Bồng, Gò Cấm. Tương truyền, đây là nơi chôn cất thi hài của Vua Lý Nam Đế cho nên cũng gọi là Khu Lăng… Động Khuất Lão nằm ở hữu ngạn sông Hồng, cách sông khoảng 500m, là khu đồi nhỏ hình đài sen ba cánh xòe ra. Cánh thứ nhất hướng Bắc, cánh thứ hai hướng Đông, cánh thứ ba hướng Nam, cuống hoa cắm vào dải Rừng Cấm. Ba mặt Bắc, Đông, Nam được bao bọc bởi 115 mẫu ruộng chiêm quanh năm ngập nước, nguyên trước đây vẫn gọi là Vụng Xưa hay Vụng Ba Triệu. Về sau do phù sa sông Thao bồi đắp, tạo thành xứ đồng Chằm, hố Náp, hố Ao, hố Ấu, hố Hang Hùm…, phía trước là dòng sông Thao hùng vĩ.

Quan sát vị trí động Khuất Lão trong thực tế chống quân Lương của Lý Bí thế kỉ VI, chúng tôi thấy, đây là một căn cứ quân sự lý tưởng theo truyền thống của binh pháp cổ: “phía trước sáng, phía sau tối, phía trước có sông nước, phía sau có đường vận lương thảo”. Ba mặt Đông, Nam, Bắc của động là đồng nước mênh

1 Sách đã dẫn, Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội, 2003, tr. 119-120.34

Page 35: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

mông, phía Tây Bắc, Tây Nam là dải Rừng Cấm và vùng đồi núi trùng điệp, rậm rạp um tùm, tạo nên bức tường thành tự nhiên che chắn cho khu căn cứ. Rừng Cấm từ xưa đến nay vẫn là nơi thâm nghiêm, bí hiểm, linh thiêng đối với người dân Văn Lang. Cũng có thể đây là khu vực “Cấm Thành” để bảo vệ cho nhà vua và nghĩa quân ở động Khuất Lão. Nhìn xa hơn nữa, khu căn cứ này còn được bao bọc bởi các con sông lớn: phía Đông là sông Thao, phía Nam là sông Đà, phía Bắc là sông Bứa, tạo thành chướng ngại tự nhiên để chặn các hướng tiến công của quân Lương từ Long Biên lên, từ Gia Ninh sang và từ phía Bắc xuống. Từ động có thể quan sát, bao quát và khống chế một vùng rộng lớn tới tận thành Gia Ninh và khu vực ngã ba sông (sông Hồng, sông Lô, sông Đà).

Động Khuất Lão chỉ có một đường độc đạo duy nhất vào căn cứ, đó là con đường từ phía Tây qua làng Cổ Tiết, qua Đính Trại - nơi các trại nghĩa quân của Vua Lý Nam Đế đóng để bảo vệ con đường huyết mạch không cho ai lạ mặt vào Động. Ở Đính Trại (cách động từ 300m đến 800m) có 8 chiếc ao cổ do con người đào (hiện nay vẫn còn dấu tích), vừa là hào lũy vừa là nơi cấp nước sinh hoạt cho quân sĩ. Tiếp đến để đi vào Động, phải qua Khe hố Nhà Phan - một khe nhỏ, dốc dựng đứng, sâu gần 20m, rất rậm rạp và chỉ từng người mới lách qua được. Qua khe đó muốn đến khu vực trung tâm của động Khuất Lão - nơi đóng đại bản doanh của Vua Lý Nam Đế; và còn phải qua một khe hẹp khác, một bên là hố Ao, một bên là hố Ấu mới tới gò Cổ Bồng. Những tên gọi Ao Quan, Đính Trại, Rừng Cấm, Tam Khu, Khu Lăng… đều gắn với dịa danh động Khuất Lão cùng với cuộc khởi nghĩa của Vua Lý Nam Đế.

Thật là một căn cứ hiểm yếu, tiến có thể đánh về vùng châu thổ sông Hồng, lui có thể giữ gìn, bảo toàn lực lượng. Động Khuất Lão với vị trí hiểm yếu, tiện lợi, nó không chỉ là căn cứ của Vua Lý Nam Đế trong cuộc kháng chiến chống quân Lương, mà qua các truyền thuyết dân gian, thì nơi đây còn là nơi trung chuyển lương thảo giữa ba vùng thượng nguồn sông Lô, hạ nguồn sông Chảy và kinh đô Văn Lang trong cuộc chiến tranh Hùng - Thục.

Sau khi Vua Lý Nam Đế băng hà, để tưởng nhớ công ơn của nhà vua, với tâm linh tôn kính và biết ơn những người có công với dân với nước, các tướng sỹ cùng nhân dân đã dựng ngôi Đình và một Đền, Điện Mộ thờ trên gò Cổ Bồng và động Khuất Lão để thờ Lý Nam Đế, Lý Thiên Bảo (anh ruột của Lý Bí), Lý Phật Tử (người trong dòng họ), những người cùng Lý Bí khởi nghiệp và hai thủy thần là Long Hải Vương và Lân Hải Vương đã có công giúp ông và tướng sỹ vượt sông Thao (theo truyền thuyết, khi Lý Nam Đế chạy đến tả ngạn sông Thao gặp nước lớn, không có thuyền mảng vượt sông, phía sau là quân Lương truy đuổi, tình thế vô cùng nguy khốn. Giữa lúc nguy hiểm đó, thủy thần xuất hiện và giúp Lý Nam Đế cùng tướng sĩ vượt qua sông lớn, thoát khỏi sự truy đuổi của quân giặc).

Do nhiều nguyên nhân Đền thờ cùng các di tích khác đã bị hư hỏng trở thành phế tích, năm 2005 nhân dân địa phương đã phát hiện ra nền móng cũ vẫn còn nhưng chưa có điều kiện để xây dựng lại. Năm 2010 được sự đồng ý của UBND tỉnh Phú Thọ, UBND huyện Tam Nông đã tiến hành phục hồi, xây dựng lại Đền thờ Vua Lý Nam Đế cùng Điện Mộ của Vua tại Gò Cổ Bồng xã Văn Lương, nhằm tôn vinh vị Hoàng Đế đầu tiên của dân tộc, cho xứng tầm với di tích vốn có của

35

Page 36: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

nó, đồng thời cũng đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân xã Văn Lương, nhân dân trong huyện và khắp mọi miền đất nước.

Vị trí xây dựng: Trên nền móng cũ.Quy mô: Kiến trúc chữ Đinh, gồm 02 tòa:- Tiền đường: 03 gian; dài 9,90m, Rộng 5,64m.- Hậu cung: Dài 9,0m; Rộng 5,91m (gồm có Điện - Mộ và Tượng Vua đúc

bằng đồng đỏ nặng hơn 400kg đặt trong Hậu cung).Khung, cột của Hậu Cung và Tiền Đường được làm bằng gỗ, các đầu dư, cốn

nách, có trạm trổ hoa văn, mái lợp ngói mũi hài.Đền thờ đã được xây dựng xong và đưa vào sử dụng từ tháng 10/ 2011.Kính thưa các vị đại biểu!Các vị đại biểu cùng các nhà khoa học đã được đến thăm quan di tích đền thờ

- Điện mộ của Vua Lý Nam Đế, những địa danh gắn liền với Lý Nam Đế. Tại Hội thảo hôm nay, chúng ta sẽ được nghe những ý kiến phát biểu của các nhà khoa học, các vị đại biểu giới thiệu thêm về cuộc đời, sự nghiệp, vai trò của Lý Nam Đế với căn cứ Động Khuất Lão trong cuộc kháng chiến chống quân Lương. Cuộc Hội thảo sẽ góp phần quan trọng trong việc bổ sung những tư liệu quý báu về một giai đoạn hào hùng, một căn cứ lịch sử kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam Đế trên địa bàn huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ giữa thế kỷ thứ VI sau công nguyên.

Huyện Tam Nông chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để làm tốt hơn nữa công tác sưu tầm, bảo vệ, quy hoạch, tôn tạo, phát huy giá trị di tích gắn với Vua Lý Nam Đế - căn cứ động Khuất Lão và các địa danh khác, góp phần giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Chúng tôi hy vọng cuộc Hội thảo sẽ làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề về thân thế, sự nghiệp quân sự, sự nghiệp chính trị, văn hóa của Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão để tiến tới việc củng cố hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.

Trân trọng cảm ơn!

36

Page 37: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

B¶o tån vµ ph¸t huy gi¸ trÞ c¨n cø ®éng khuÊt l·o nh×n chung trong hÖ thèng

di tÝch lÞch sö v¨n hãa

TS. Nguyễn Thế Hùng Cục trưởng Cục Di sản văn hóa

Bộ VH, TT & DL

Cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Lương do Lý Bí lãnh đạo nổ ra vào đầu năm 542 và đã thu được thắng lợi vang dội, dẫn đến việc Lý Bí xưng Đế hiệu (Lý Nam Đế) năm 544, đặt niên hiệu Thiên Đức, dựng nước Vạn Xuân. Vương triều Tiền Lý tồn tại trong thời gian khoảng 60 năm (544-602), với 4 đời vua: Lý Nam Đế (544-548), Lý Đào Lang Vương (549-555), Triệu Việt Vương (549-570) và Hậu Lý Nam Đế (571-602). Năm 548, ngày 20 (ngày Tân Hợi) tháng 3 (tức ngày 13-4 dương lịch), Lý Nam Đế ở động Khuất Lão lâu ngày bị nhiễm lam chướng, ốm qua đời. Ông ở ngôi được 5 năm (543-548), thọ 46 tuổi.

Động Khuất Lão là một địa danh lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lý Bí đã được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Năm 2010, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ và nhân dân đã tiến hành xây dựng ngôi đền thờ vua Lý Nam Đế tại gò Cổ Bồng, xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Trong quần thể ngôi đền thờ này còn có một ngôi mộ - tương truyền là lăng mộ của vua Lý Nam Đế.

Căn cứ quy định của Luật Di sản văn hóa, việc xếp hạng di tích hiện nay được chia theo bốn loại hình: di tích lịch sử (di tích lưu niệm sự kiện, di tích lưu niệm danh nhân), di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh. Trong cả bốn loại hình trên đều có sự hiện diện của các công trình tín ngưỡng - tôn giáo.

Trong những năm qua, nhân dân có vai trò to lớn đối với việc bảo vệ các di tích tín ngưỡng - tôn giáo. Cùng với nguồn ngân sách nhà nước, nhân dân các nơi, ở trong và ngoài nước, đều có người tham gia đóng góp tu bổ di tích. Sự đóng góp của nhân dân cho tu bổ di tích không ít hơn sự đầu tư của Nhà nước. Đây là một truyền thống tốt đẹp hình thành từ quá khứ, vẫn được duy trì tới ngày nay.

Để bảo vệ và tu bổ tôn tạo tốt các di tích tín ngưỡng - tôn giáo phải có sự tham gia của toàn xã hội. Sức mạnh tinh thần và vật chất của toàn xã hội cần được định hướng theo những nguyên tắc khoa học nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Nhiều vấn đề cấp thiết đang đặt ra là:

- Ban hành chính sách thu hút và tập hợp quần chúng vì sự nghiệp bảo vệ di sản văn hoá.

- Quản lý công tác tu bổ di tích theo đúng Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).

- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ biến Luật di sản văn hóa và các quy định khác của pháp luật liên quan đến hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.

37

Page 38: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

- Ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài chính của di tích (tiền công đức, tiền bán vé, tiền tài trợ, tiền kinh doanh dịch vụ tại di tích...) theo định hướng ưu tiên sử dụng các nguồn thu của di tích cho việc tu bổ, tôn tạo di tích.

Đối với di tích Đền thờ Lý Nam Đế tại gò Cổ Bồng, xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, cần thực hiện một số công tác cụ thể sau:

- Nghiên cứu tổng thể các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, sưu tầm các nguồn tư liệu chính thống của nhà nước phong kiến kết hợp với nguồn sử liệu địa phương để xây dựng hồ sơ khoa học về di tích, tiến tới trình các cấp có thẩm quyền xem xét xếp hạng di tích lịch sử trong hệ thống di tích Việt Nam.

- Tổ chức khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích và cắm mốc giới cho di tích, tạo cơ sở pháp lý vững chắc về đất đai, tránh hiện tượng xâm phạm di tích sau này.

- Quy hoạch tổng mặt bằng tu bổ tôn tạo di tích để có phương án tổng thể việc tôn tạo, tránh việc xây dựng nhỏ lẻ, manh mún làm, chú ý không phá vỡ môi trường, cảnh quan di tích.

- Thành lập tiểu ban quản lý di tích để quản lý các hoạt động về tôn tạo, xây dựng, quản lý thu chi nguồn công đức, lựa chọn các hiện vật của nhân dân cung tiến phù hợp với văn hóa truyền thống để đưa vào di tích.

Nhận thức đúng về lịch sử, tu bổ tôn tạo là một mặt quan trọng trong nhận thức về di tích. Và, chỉ có bảo vệ, tôn tạo tốt di tích chúng ta mới có điều kiện tổ chức tốt nhất các hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo, văn hoá ở di tích./.

N.T.H

38

Page 39: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

GIÁ TRỊ BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ CUỘC KHỞI NGHĨA LÝ BÍ VÀSỰ THÀNH LẬP NƯỚC VẠN XUÂN (542-603)

PGS.TS. Vũ Duy Mền Viện Sử học

1. Khái quát về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nước Vạn Xuân Nguồn gốc xuất thân và quê hương Lý Bí.Theo Lương thư (Trung Quốc): “Lý Bôn ở Giao Chỉ đời đời là Hào hữu (Hào

trưởng)”. Thư tịch Việt Nam cho biết rõ thêm: “Tổ tiên (Lý Bôn) là người phương Bắc. Cuối thời Tây Hán cực khổ vì chiến tranh, lánh nạn sang ở đất Nam. Đến đời thứ 7 thành người phương Nam”1. Vì vậy, đến thời thuộc Lương, Lý Bí bị coi thuộc tầng lớp hàn tộc, không được trọng dụng, mặc dù ông vốn “có tài văn, võ”. Lý Bí từng ra làm quan với nhà Lương, đến chức Giám quân ở Đức Châu. Xã hội Giao Chỉ bấy giờ còn quá nhiều sự bất công, người dân luôn bị đối xử hà khắc và bị bóc lột tàn tệ, khiến ông bất bình, bỏ quan về quê, chiêu tập nghĩa sĩ cùng các Hào trưởng địa phương, nổi dậy chống lại sự thống trị tàn bạo của nhà Lương, giành lại độc lập cho đất nước.

Các sách sử và thư tịch cũ như: Đại Việt sử ký toàn thư; Đại Việt sử ký tiền biên; Khâm định Việt sử thông giám cương mục; Việt điện u linh… đều chép: “Vua họ Lý, húy là Bôn, người Long Hưng, Thái Bình”2. Các tác giả khi biên soạn sách Việt sử thông giám cương mục đã tỏ ra nghi ngờ về địa danh, (liên quan đến quê hương của Lý Bí) bởi vì tên gọi Thái Bình mới xuất hiện từ thời Đường (năm 621), còn tên Long Hưng được đặt từ đời Trần, đời Lương chưa thấy có địa danh này3.

Qua khảo sát điền dã tại một số địa phương, đối chiếu với ghi chép của các thư tịch về những địa danh xảy ra trận chiến, dấu tích của những đình, chùa, đền thờ liên quan… các nhà khoa học đã đi đến nhận định khác nhau về quê hương Lý Bí. Hiện nay quê hương của ông được xác định ở vùng hai thôn Đường Lâm và Nam Nguyễn thuộc Thái Bình vào thời thuộc Đường (thế kỷ VII) (nay thuộc khu

1 Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. KHXH, HN, 1997, tr 101.2 Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr 101.3 Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, tập I, Nxb Giáo

dục, HN, 1998, tr 168.- Minh Tú: “Về Lý Nam Đế”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1 năm 1991, căn cứ vào bản

thần tích do Nguyễn Bính viết năm 1572, về Lý Nam Đế; cho rằng Quê Lý Bí ở Thái Bình, thuộc Giang Xá, huyện Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội.

- Nguyễn Đình Hưng: “Tư liệu Hán Nôm ở các di tích huyện Hoài Đức (Hà Nội) viết về quê hương của Lý Nam Đế” in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế (nhân kỷ niệm 1470 năm cuộc khởi nghĩa Lý Bí -542- 2012), tr 153 viết: “Theo các tư liệu Hán Nôm đã nói trên cho phép đặt giả thiết ấp Thái Bình (là xóm Thái Bình, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên ngày nay) có thể là quê hương gốc của Lý Nam Đế”.

39

Page 40: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì ngoại thành Hà Nội)1. Hoặc trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế (nhân kỷ niệm 1470 năm cuộc khởi nghĩa Lý Bí 542- 2012)”, trang 124 có viết: “Anh hùng dân tộc Lý Bí, Lý Nam Đế, đã lập nên Nhà nước Vạn Xuân, quê hương gốc của ông chính là vùng Thái Bình - Cổ Pháp xưa thuộc châu Giã Năng, xứ Kinh Bắc, ngày nay thuộc thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”.

Theo chúng tôi, về quê hương của Lý Bí cần gia công tìm hiểu thêm.Sơ lược về cuộc khởi nghĩa Lý Bí.Cuộc khởi nghĩa do Lý Bí khởi xướng đã nổ ra vào mùa xuân năm 542.

Lương thư và Trần thư đều ghi rằng: “Gặp khi Vũ lâm hầu Tiêu Tư tàn bạo, hà khắc, mất lòng dân. Lúc này Lý Bôn đang là Giám quân ở Đức Châu (châu Cửu Đức), liền liên kết với hào kiệt ở các châu cùng nhau làm phản”2. Qua đó cho thấy cuộc khởi nghĩa đã được Lý Bí chuẩn bị hết sức cẩn thận. Lý Bí đã phải gặp gỡ, liên kết với những người cùng chí hướng ở các châu để tổ chức lực lượng rồi phối hợp khởi nghĩa.

Sử liệu Việt Nam ghi chép về cuộc khởi nghĩa của Lý Bí đều nói đến những vị tướng tài giỏi phù tá có công lao trong sự nghiệp giành độc lập. Nhân vật đầu tiên được nhắc đến là Tinh Thiều.

Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: ông “học giỏi, văn hay, đã sang triều Lương ứng tuyển để ra làm quan, nhưng Thượng thư bộ Lại là Sái Tốn cho rằng tiên tổ họ Tinh không có người hiển đạt nên chỉ bổ cho làm Quảng Dương môn lang (quan coi cổng). Tinh Thiều xấu hổ, trở về mưu việc binh với Lý Bôn”3. Tinh Thiều lại là người Việt ở vùng Lĩnh Nam, dù ông có tài giỏi vẫn bị coi thường, khinh rẻ. Ông là nạn nhân của chế độ Sĩ tộc mà Nam triều phân biệt đối xử. Uất hận vì bị làm nhục, ông đã đến với Lý Bí và trở thành một vị tướng tài, có nhiều đóng góp trong cuộc khởi nghĩa.

Sử gia Ngô Thì Sĩ cho biết: “Có người Tù trưởng ở Chu Diên (vùng Đan Hoài, nay thuộc ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc; phục tài đức của vua (Lý Nam Đế), đem quân theo vua đầu tiên”4. Triệu Quang Phục cũng là một vị tướng tài, có công diệt giặc, được Lý Bí rất tín nhiệm, phong cho chức Tả tướng. Thần tích xã Đạo Đức, huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) ghi về việc gặp gỡ của Lý Bí với Triệu Quang Phục ở trại Táo Tuyến. Hai ông đã đọc binh thư, luyện võ, bày đặt mưu kế

1 Đỗ Văn Ninh (Cb): Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, Nxb. KHXH, HN, 2001, tr 327.

2 Nguyễn Hữu Tâm: “Thư tịch cổ Trung Quốc viết về Lý Bí và cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế (nhân kỷ niệm 1470 năm cuộc khởi nghĩa Lý Bí -542- 2012), tr 100 - 103.

3 Cương mục, Sđd, tập I, tr 167.- Đại Việt sử ký tiền biên cũng chép về Tinh Thiều tương tự, Sđd, tr 101.4 Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr. 101.

40

Page 41: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

chống giặc tại đây. Khi Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, dân làng Đông Lỗ đã có rất nhiều người tham gia vào nghĩa quân1.

Theo thần tích và truyền thuyết ở các làng khu vực dọc sông Đáy thuộc các huyện như: Quốc Oai, Hoài Đức, Đan Phượng… (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), có một vị tướng đó là Lý Phục Man, tuy không được sử sách nhắc đến, nhưng ông lại có công lớn trong khởi nghĩa của Lý Bí. Theo thần tích Ông là người làng Yên Sở, huyện Hoài Đức. Ông có sức khỏe và tài nghệ phi thường. Ông đã cùng nhân dân trong vùng nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lý Bí. Ông lập được nhiều chiến công trong các trận chiến với quân Lương. Ông còn lập công lớn trong trận đánh giặc Lâm Ấp xâm lấn Nhật Nam, được Lý Bí trọng thưởng và gả con gái cho. Ông đã làm đến chức Thái úy trong triều đình Vạn Xuân.

Tham gia cuộc khởi nghĩa Lý Bí còn có Phạm Tu 2, một tướng giởi quê ở làng Thanh Liệt, (Hà Nội). Ông cũng là người theo Lý Bí từ những ngày đầu khởi nghĩa và sau này có công diệt giặc Lâm Ấp. Ông đã hy sinh trong trận chiến khi quân Lương sang đánh diệt nước Vạn Xuân.

Như vậy, ngay từ đầu cho thấy các anh hùng hào kiệt và nhân dân quanh vùng đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa chống giặc Lương của Lý Bí. Các châu quận cũng đồng loạt hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, tạo thành sức mạnh to lớn, nhấn chìm quân nhà Lương. Cuộc khởi nghĩa đã thành công nhanh chóng. Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào năm 542, chỉ sau 3 tháng, nghĩa quân của Lý Bí đã làm chủ được thành Long Biên (Bắc Ninh), thủ phủ của chính quyền đô hộ. Sử nhà Lương ghi rằng: Thứ sử “Tiêu Tư đưa hối lộ cho (Lý) Bôn, chạy trốn về Quảng Châu”3. Bộ máy của chính quyền đô hộ nhà Lương hoàn toàn tan rã.

Sau khi khởi nghĩa Lý Bí giành được thắng lợi, bộ chỉ huy quân khởi nghĩa đóng ở thành Long Biên, để chuẩn bị đối phó với sự phản công của quân nhà Lương.

Cuộc khởi nghĩa diễn ra sau ba tháng, nhà Lương chính thức mở một cuộc phản công quy mô lớn. Tất nhiên Lý Bí đã có sự chuẩn bị lực lượng để đương đầu với quân Lương. Lương thư cho biết việc triều đình huy động Thứ sử các châu trực tiếp tham gia trận chiến: “Niên hiệu Đại Đồng năm thứ 8 (542), mùa xuân, tháng 3, sai Thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, Thứ sử La Châu là Ninh Cự, Thứ sử An Châu là Lý Tri, Thứ sử Ái Châu là Nguyễn Hán cùng nhau đi chinh phạt Lý Bôn ở Giao Châu”4. Quân Lương đã thất bại. Lý Bí ngay sau đó đã kiểm soát được các châu ở khu vực phía Nam, trong đó gồm cả Đức Châu.

1 Đỗ Văn Ninh (Cb): Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, Sđd, tr 331.2 Hiện nay theo một số nhà nghiên cứu cho biết, Phạm Tu và Lý Phục Man là một người.

Phạm Tu là người có công chinh phục được quân Lâm Ấp, khi chúng tấn công châu Hoan. Sau chiến công đó ông được ban Quốc tính và được mang tên Lý Phục Man. Ông còn được gọi là Phục Man tướng quân Phạm Tu. Xem thêm: Yên Sơn- Nguyễn Bá Hân. Sự tích đức thánh Giá, Nxb KHXH, HN, 2009.

- Vấn đề trên cần được nghiên cứu thêm. 3 Thư tịch cổ Trung Quốc viết về Lý Bí, Sđd, tr 100.4 La Châu và An Châu nay thuộc Quảng Đông, Lương Thư. Q3. DT-Thư tịch cổ Trung Quốc

viết về Lý Bí .. Sđd, tr 101.41

Page 42: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Đến cuối năm đó, nhà Lương lại mở cuộc phản công lần thứ hai. Cuộc phản công thứ hai của quân Lương được tổ chức trong tình hình nội bộ thiếu sự thống nhất và tinh thần chiến đấu giảm sút. Đại Việt sử ký tiền biên ghi: “Nhâm Tuất, năm thứ 2 (542), mùa đông, tháng 12, vua nhà Lương sai Lư Tử Hùng và Tôn Quýnh sang xâm lấn. Bấy giờ là mùa xuân. Khí độc đang bốc lên, Tử Hùng xin đợi đến mùa thu sẽ đi đánh. Thứ sử Quảng Châu là Tân Du hầu Tiêu Ánh không cho, Vũ Lâm hầu là Tư, lại thúc giục, Tử Hùng bất đắc dĩ đành phải đi. Đến Hợp Phố, mười phần chết tới sáu, bảy, quân tan vỡ phải quay về”. Tư tâu với vua Lương rằng: “Tử Hùng và Quýnh thông đồng với xứ ngoài, dùng dằng không chịu tiến quân”. Vua Lương bắt họ đều phải tự tử ở Quảng Châu”1.

Từ sự ghi chép trên, có thể cho rằng: bấy giờ là mùa xuân, có thể do nhiễm “khí độc đang bốc lên”, khiến quân giặc “mười phần chết tới sáu, bảy, quân tan vỡ phải quay về”. Như vậy cuộc phản công lần thứ hai của quân Lương không bị đánh mà tự tan dã.

Sau khi đập tan cuộc xâm lược của nhà Lương ở phía Bắc, Lý Bí phải đối phó và đã đánh bại sự xâm lấn của Lâm Ấp ở phương Nam.

Sự kiện này đã được Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi lại: “Quân nước Lâm Ấp xâm lấn quận Nhật Nam, Lý Bôn sai tướng Phạm Tu đi đánh và phá được ở Cửu Đức”.2

Sự thành lập nước Vạn Xuân.Sau khi khởi nghĩa giành thắng lợi và đập tan cuộc phản công quy mô lớn của

quân nhà Lương, theo chính sử cho biết, vào mùa xuân, tháng Giêng năm Giáp Tý, Lý Bí chính thức tự xưng là Nam Việt đế, đặt niên hiệu Thiên Đức năm thứ nhất (544). Lý Nam Đế dựng lên một Quốc gia độc lập với Quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Ông cho đặt trăm quan, lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ; dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội; đúc tiền Thiên Đức để khẳng định sự tồn tại của một Quốc gia có nền độc lập, tự chủ. Lúc bấy giờ đạo Phật đã được du nhập và phổ biến ở nhiều nơi trong nước, Lý Nam Đế cho dựng ngôi chùa lớn mang tên Khai Quốc.

Quốc gia Vạn Xuân độc lập, non trẻ, tồn tại yên ổn không được bao lâu, năm 546, khoảng 3000 quân tinh nhuệ của Trần Bá Tiên và Dương Phiêu đã tấn công nhằm tiêu diệt Lý Nam Đế. Ba vạn quân của vua đã chiến đấu rất dũng cảm, chặn được bước tiến của quân Trần Bá Tiên nhưng cuối cùng do thế bất lợi, quân của Lý Nam Đế bị thất bại. Ông phải chạy vào động Khuất Liêu (vùng Phú Thọ), rồi bị bệnh mất năm 548.

Sau khi Lý Nam Đế mất, nước Vạn Xuân trải qua nhiều biến động, thăng trầm. Triệu Quang Phục (là con Triệu Túc) tiếp tục sự nghiệp của Lý Nam Đế,

1 Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr. 102.2 Cương mục, Sđd, tập I, tr. 168. - Theo Việt điện u linh, Lý Phục Man cũng được Lý Bí cử đi phá giặc Lâm Ấp. - Đỗ Văn Ninh (Cb): Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, sđd, tr 339, cho biết: Theo Ngọc phả đình Ngọc Thanh và Lưu Xá, sau khi Lý Phục Man thắng quân Lâm Ấp ở

Nhật Nam, ông được thưởng rất hậu, được ban Quốc tính họ Lý và được Lý Nam Đế gả con gái cho.

42

Page 43: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

lãnh đạo cuộc kháng chiến đánh thắng quân Lương, giết tướng Dương Sàn, chiếm lại phủ thành Long Biên, giải phóng đất nước.

Hậu Lý Nam Đế.Sau đó xảy ra sự bất hòa giữa Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương) với Lý

Phật Tử; năm 554, hai bên đánh nhau ở Thái Bình, không phân thắng bại, phải lấy bãi Quần Thần (vùng Thượng Cát, Hạ Cát, huyện Từ Liêm, Hà Nội) làm ranh giới chia đôi thế lực. Lý Phật Tử bội ước, đã bất ngờ đem quân đánh úp Triệu Quang Phục, giành lấy quyền, xưng là Nam Đế (Hậu Lý Nam Đế). Sự tranh giành quyền lực giữa Lý Phật Tử và Triệu Việt Vương khiến nước Vạn Xuân thêm suy yếu. Quân sĩ bị tiêu hao, kinh tế kiệt quệ, nhân dân thêm khốn khổ; quyền lực bị phân tán, làm giảm sút sức mạnh của đất nước.

Ở Trung Quốc, năm 602, nhà Tùy đã thay thế nhà Lương. Tháng Giêng năm 603, vua nhà Tùy phong Lưu Phương làm Giao Châu đạo hành quân Tổng quản, Kinh Đức Lượng làm Trưởng sử, thống suất 27 quân doanh (khoảng 10 vạn quân) tiến hành xâm lược nước Vạn Xuân.

Cha con Lý Phật Tử đã bố phòng lực lượng chặn đánh quân Tùy, khi chúng xâm lược nước Vạn Xuân. Khi quân của Lưu Phương đến, quân sĩ Vạn Xuân đã chiến đấu kiên cường, đánh quân Tùy khi chúng vây thành Ô Diên, Long Biên và Cổ Loa. Tại Cổ Loa, quân Tùy vừa bao vây nhiều mặt, dùng binh lực uy hiếp, vừa dụ dỗ… Thế cùng, Lý Phật Tử buộc phải đầu hàng và bị bắt đưa về Kinh đô Trường An (Trung Quốc) năm 603.

Cuộc kháng chiến của Lý Phật Tử và nhân dân nước Vạn Xuân bị thất bại, thêm một lần nữa đất nước ta lại rơi vào vòng đô hộ của phong kiến phương Bắc.

2. Giá trị từ những bài học lịch sử - Lịch sử ghi nhận cuộc khởi nghĩa quật cường của Hai Bà Trưng, chống lại

ách đô hộ hà khắc của nhà Đông Hán năm Canh Tý (40) sau Công nguyên. Trưng Trắc xưng vương, độc lập được 2 năm; năm 43, bị Mã Viện tướng nhà Hán đem quân đến đàn áp dã man những người tham gia cuộc khởi nghĩa. Chúng bắt 300 Cừ súy người Việt đưa về Linh Lăng (Hồ Nam, Trung Quốc); từ đó thay đổi chế độ cai trị cũ, đặt Huyện lệnh cử quan trực tiếp cai trị. Cuộc khởi nghĩa tuy bị đàn áp tàn khốc, nhưng tinh thần yêu nước quật khởi của Hai Bà Trưng và các nghĩa sĩ bất diệt, luôn sống mãi trong lòng dân tộc; nuôi dưỡng và cổ vũ lớp lớp hậu thế noi gương, bất khuất, kiên trung trong cuộc đấu tranh bền bỉ, lâu dài chống lại ách đô hộ của phương Bắc, khi thời cơ đến.

Tinh thần yêu nước, quật khởi chống giặc Bắc của Hai Bà Trưng, được tiếp nối, phát huy mạnh mẽ trong cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Ngô, năm 248 của Triệu Thị Trinh hay còn gọi là Triệu Trinh Nương (Bà Triệu Ẩu), ở quận Cửu Chân (thuộc Thanh Hóa). Cuộc khởi nghĩa đã thu hút được nhân dân ở địa phương và nhiều nơi khác tham gia. Nghĩa quân chiến đấu rất kiên cường, tiêu diệt được nhiều quân địch, giành nhiều ưu thế. Sau đó, quân Ngô do Lục Dận chỉ huy đánh phá nghĩa quân, Triệu Ẩu bị thua trận, nghĩa quân tan vỡ.

Tuy thất bại nhưng tinh thần yêu nước chống Bắc thuộc của Bà Trưng, Bà Triệu - những người phụ nữ anh hùng - sống mãi, luôn cổ vũ mọi người dân Việt không được sờn lòng, nản chí trong cuộc đấu tranh cam go, lâu dài, chống giặc Bắc, quyết giành lại độc lập tự chủ cho dân tộc và núi sông gấm vóc. Khởi nghĩa

43

Page 44: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

của Lý Bí, đã tiếp nối được tinh thần yêu nước, chống giặc bất khuất của Bà Trưng, Bà Triệu.

- Gần 300 năm sau cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu Ẩu, trong đêm trường Bắc thuộc, tưởng rằng ngọn lửa yêu nước trong lòng nhân dân đã bị dập tắt, ý chí phản kháng chống lại ách đô hộ phương Bắc, giành lại độc lập, tự chủ của người dân Việt đã mai một, nhưng không phải như vậy. Ngọn lửa đó vẫn được nuôi dưỡng âm ỉ trong lòng muôn người dân nước Việt, trong các làng xã, châu, quận. Mùa xuân năm 542, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí đã nổ ra. Như đã nêu, khởi nghĩa đã tập hợp được các bậc Hào trưởng người Việt ở địa phương, họ đã trưởng thành về ý thức dân tộc độc lập, tự chủ; không thể chịu đựng mãi sự đè nén áp bức của phong kiến phương Bắc, đã cùng nhau đứng lên tổ chức lực lượng nghĩa quân (xuất thân từ các tầng lớp nhân dân) đánh đổ chế độ cai trị của ngoại bang, xây dựng nên chính quyền độc lập.

Việc Lý Bí xưng đế - Lý Nam Đế dựng nước Vạn Xuân, đặt triều đình, tuy mới chỉ có hai ban văn, võ (đơn giản); đúc đồng tiền riêng - Thiên Đức, dựng chùa Khai Quốc; tất cả thể hiện sự độc lập, tự chủ thực sự từ người đứng đầu Nhà nước (Vua) đến người dân Việt. Đó chính là thành quả vô cùng to lớn, tự hào, mà nhân dân Giao Châu đã giành được trong cuộc đấu tranh chống ách nô dịch Bắc thuộc, chống Hán hóa, trên một chặng đường dài hơn 500 năm qua, vô cùng nghiệt ngã, đầy thử thách và nhiều hy sinh trả giá. Những thành quả mà cuộc khởi nghĩa Lý Bí (Lý Nam Đế) và Hậu Lý Nam Đế giành được trong hơn 60 năm (542- 603) luôn là bài học quý giá về việc chớp thời cơ, tổ chức lực lượng khởi nghĩa (liên kết với nhân dân các địa phương trong nước), đánh đổ chế độ đô hộ, xây dựng chính quyền tự chủ và duy trì bảo vệ chính quyền đó lâu dài, vững chắc.

Bài học căn cốt nhất từ Hậu Lý Nam Đế cho thấy, muốn duy trì và bảo vệ thành quả của vương triều độc lập, tự chủ và đất nước, chống lại sự xâm lược của ngoại bang thì trước hết trong nội bộ vương triều phải đoàn kết. Đoàn kết vương triều, đoàn kết toàn dân sẽ tạo nên sức mạnh vô địch, chống lại bất cứ kẻ thù nguy hiểm nào, khi bị chúng tấn công. Đáng tiếc, Hậu Lý Nam Đế đã không giữ vững được sự đoàn kết nhất trí. Do mối bất hòa, tranh giành quyền lực, khiến Triệu Việt Vương và Lý Phật Tử đem quân đánh lẫn nhau. Lý Phật Tử tuy thắng thế, nhưng quân sĩ bị tổn thất, lực lượng bị suy yếu. Vì thế trước sức tấn công tập trung ưu thế của quân nhà Tùy, Lý Phật Tử không thể chống đỡ nổi, bị bắt, kết thúc sự nghiệp trong uất hận và nuối tiếc; đất nước ta lại một lần nữa rơi vào vòng đô hộ của phong kiến phương Bắc.

- Khởi nghĩa Lý Bí bước đầu thành công, với việc xưng đế - Lý Nam Đế, đặt niên hiệu riêng - Thiên Đức và việc dựng nước Vạn Xuân độc lập đã đánh dấu mốc son trong chặng đường dài hơn 500 năm chống Bắc thuộc. Đó là nguồn cổ vũ tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước nồng nàn, bất diệt để các thế hệ sau tiếp tục sự nghiệp đấu tranh vẻ vang đó. Nếu không có Lý Bí - Lý Nam Đế và nước Vạn Xuân thì sẽ không có những cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc, chống Hán hóa ở thế kỷ tiếp sau:

Khởi nghĩa chống nhà Đường của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687, làm chủ thành Tống Bình (Hà Nội) trong một thời gian, sau đó bị nhà Đường đàn áp. Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (813- 822), ở trong nước liên kết với các châu, ở

44

Page 45: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

bên ngoài liên kết với Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân… với khoảng 30 vạn người tham gia. Mai Thúc Loan Xưng là Hắc Đế (Mai Hắc Đế), kéo đại quân bao vây phủ đô hộ là thành Tống Bình. Sau đó tướng nhà Đường là Dương Tư Húc và viên An Nam đô hộ đương thời là Quang Sở Khách, đem 10 vạn quân đến đàn áp. Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan đã chứng tỏ sự tiếp nối tinh thần dân tộc độc lập, tự chủ, không chịu sự áp bức ngoại bang của nhân dân Giao Châu. Tuy cuộc khởi nghĩa cuối cùng bị đàn áp, song tinh thần bất diệt đó, cùng với các cuộc khởi nghĩa khác đã góp phần tạo nên một cao trào phản kháng mạnh mẽ của nhân dân Giao Châu trong giai đoạn cuối của thời kỳ Bắc thuộc; như các cuộc khởi nghĩa tiếp theo của Phùng Hưng (766 - 791). Nghĩa quân chiếm được phủ thành Giao Châu, Phùng Hưng lên ngôi vua, trị vì được 7 năm thì bị bệnh mất. Con là Phùng An, nắm binh quyền được 2 năm, sau bị đô hộ Triệu Xương nhà Đường dụ hàng. Như vậy Phùng Hưng cũng là lãnh tụ tiếp tục xu thế Việt hóa tầng lớp lãnh đạo đất nước, tiếp nối ý thức giành độc lập, tự chủ cho dân tộc. Vì thế công lao và sự nghiệp của Bố cái đại vương - “Vua cha mẹ” đã được ghi trong sử sách; nhân dân lập đền, lăng thờ phụng mãi mãi không quên. Cuộc phản chiến hay khởi nghĩa của Dương Thanh năm 819, cũng là một đòn giáng mạnh vào nhà Đường, thức tỉnh ý thứ dân tộc, chống đô hộ Bắc thuộc. Chính quyền tự chủ của họ Khúc ở Hồng Châu (Hải Dương) (905 - 923); tiếp theo là chính quyền tự chủ của họ Dương; đặc biệt chiến thắng quân Nam Hán vang dội trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập, tự chủ cho đất nước ta.

Hà Nội mùa thu Quý Tỵ (2013) V.D.M

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Đào Duy Anh. “Cái bia cổ Trường- Xuân với vấn đề nhà Tiền Lý”, Tạp chí Nghiên cứu

Lịch sử, số 50- 1963.2. Yên Sơn- Nguyễn Bá Hân. Sự tích đức thánh Giá, Nxb KHXH, HN, 2009. 3. Nguyễn Duy Hinh. Văn minh Lạc Việt, Nxb. VHTT, HN, 2001.4. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb. KHXH, HN,

1972. 5. Đỗ Văn Ninh (Chủ biên). Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, Nxb. KHXH, HN,

2001.6. Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Nxb. Giáo

dục, HN, 1998. 7. Ngô Thì Sĩ. Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH, HN, 1997.8. Ngô Thời Sĩ. Việt sử tiêu án, Nxb Thanh niên, HN.9. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An. Khởi nghĩa Mai Thúc

Loan (713-722). Nxb. CTQG, HN, 2013. 10. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Lịch sử quân sự Việt Nam: Đấu tranh giành độc lập

tự chủ (từ năm 179 TCN đến năm 938), tập 2, Nxb CTQG, HN, 2001. 11. UBND tỉnh Thái Nguyên, Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND huyện Phổ Yên,

Công ty cổ phần đầu tư phát triển Yên Bình. Một số vấn đề về vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế (nhân kỷ niệm 1470 năm cuộc khởi nghĩa Lý Bí -542- 2012)”, HN, 2012.

12. Lý Tế Xuyên. Việt điện u linh, Nxb. Văn học, HN, 2008.

45

Page 46: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

nh©n d©n tam n«ng víi cuéc khëi nghÜa lý bÝ

ThS. Trần Nam Trung Viện Sử học

1. Khái quát về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và nhà nước Vạn XuânĐầu năm 542, sau khi thống nhất được các tù trưởng hùng mạnh trong vùng,

như Tù trưởng Chu Diên (ở Hải Dương) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục cùng một số nhân tài khác, như Tinh Thiều - người giỏi từ chương hay Phạm Tu - một tướng có tài…, Lý Bí chính thức phát động khởi nghĩa chống lại sự thống trị bạo tàn của nhà Lương, khí thế rất mạnh. Trước sức mạnh của cuộc khởi nghĩa, quân Lương bỏ chạy về vùng Quảng Châu. Nghĩa quân chiếm được thành Long Biên và kiểm soát toàn bộ vùng Giao Châu.

Sau khi thất bại, Lương Vũ đế sai Thứ sử Giao Châu là Tô Quýnh, Thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng sang đàn áp cuộc khởi nghĩa của Lý Bí. Nhận được tin quân Lương chuẩn bị tiến sang nước ta, Lý Bí chủ động đem quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh, khiến quân Lương hoàn toàn thất bại. Chiến thắng này giúp quân của Lý Bí kiểm soát toàn bộ vùng đất Giao Châu và dựng lên nhà nước Vạn Xuân. Năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Nam Việt đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên.

Thành lập nước Vạn Xuân chưa được bao lâu thì vua Lý Nam Đế lại phải đối đầu với cuộc tấn công xâm lược mới của thế lực phương Bắc. Tháng 6 năm 545, nhà Lương sai Trần Bá Tiên làm Tư mã đem quân tiến đánh nước ta. Khi quân xâm lược kéo đến Giao Châu, vua Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, nhưng trước sức mạnh của quân Lương, quân của nhà nước Vạn Xuân non trẻ bị thất bại trong trận đánh ở Chu Diên, sau đó tiếp tục để thua trên cửa sông Tô Lịch. Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân địch, tướng Phạm Tu tử trận, lực lượng kháng chiến sứt mẻ và suy yếu dần, quân của nhà nước Vạn Xuân chạy về thành Gia Ninh (thuộc xã Gia Ninh, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Khi hạ được thành Tô Lịch, Trần Bá Tiên lại tung quân lên bao vây và tấn công thành Gia Ninh, đồng thời cử người báo tin thắng trận cho chủ tướng giặc Dương Phiêu ở tuyến sau biết. Dương Phiêu lập tức đem hậu quân tới tiếp ứng cho Trần Bá Tiên.

Tháng Giêng năm 546, quân Lương tiến đánh, lấy được thành Gia Ninh. Rất may, vua Lý Nam Đế cùng một số binh tướng đã thoát chạy được vào miền người Lão ở Tân Xương (Vĩnh Phúc) nhằm củng cố lực lượng, chờ thời cơ phản công quân Lương. Sau một thời gian chuẩn bị, tập hợp lực lượng tại động Khuất Lão, khoảng tháng 10 năm 546, vua Lý Nam Đế dẫn theo 2 vạn quân ra đóng tại hồ Điển Triệt (nay thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), đóng thuyền đậu kín mặt hồ. Trước sức mạnh của quân ta, quân Lương lo sợ, cho quân đóng tại đoạn sông Lô phía ngoài cửa hồ mà không dám tiến vào. Tuy nhiên, trong một đêm nước sông Lô bất ngờ dâng cao 7 - 8 thước, tràn cả vào hồ. Nhân cơ hội đó, Trần Bá Tiên đem quân theo dòng nước làm tiên phong tiến vào đánh úp quân của vua Lý Nam Đế. Quân của nhà nước Vạn Xuân chủ quan, không có phòng bị nên nhanh chóng tan vỡ.

46

Page 47: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Trước tình hình trên, vua Lý Nam Đế quyết định rút lui về động Khuất Lão, thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, với mục đích củng cố lực lượng, chờ thời cơ quyết chiến với quân Lương và giao quyền cho Triệu Quang Phục lo việc giữ nước, điều quân tiến đánh quân Lương. Tại động Khuất Lão, vua Lý Nam Đế đang gấp rút củng cố lực lượng thì bị ốm nặng. Biết khó lòng qua khỏi, vua Lý Nam Đế cho gọi Triệu Quang Phục (con trai Thái phó Triệu Túc) và giao toàn bộ binh quyền, tiếp tục chống lại quân Lương. Vào tháng 4 năm 548, vua Lý Nam Đế qua đời tại động Khuất Lão.

Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao vua Lý Nam Đế lại chọn động Khuất Lão, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ là điểm lui quân củng cố lực lượng? Vùng đất Tam Nông, tỉnh Phú Thọ có vị trí như thế nào trong cuộc cuộc đấu tranh chống lại quân xâm lược nhà Lương - Trung Quốc?… trong cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế.

2. Tam Nông trong cuộc khởi nghĩa của Lý BíTheo Đặng Xuân Bảng trong Sử học bị khảo, huyện Tam Nông "đời Trần là

huyện Cổ Nông, niên hiệu Hồng Đức đời Lê đổi là Tam Nông"1. Sách Đại Việt địa dư toàn biên của Phương đình Nguyễn Văn Siêu cũng chép: Tam Nông là một huyện thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hoá, "thời thuộc Minh gọi là huyện Cổ Nông, thuộc châu Đà Giang, đời Lê năm Hồng Đức thuộc phủ Đà Dương. Năm Vĩnh Thịnh thuộc phủ Lâm Thao. Bản triều năm Minh Mệnh thứ 12, đổi thuộc phủ Gia Hưng, có 5 tổng, 33 xã"2. Đó là tổng: Tứ Mỹ, Hiền Quan, Dị Nậu, Thượng Nông, Văn Lang. Trong đó, tổng Dị Nậu gồm các xã Dị Nậu, Hạ Nậu, Đức Phong, Bảo Vệ, Thọ Xuyên và Hương Nộn3; Tổng Văn Lang gồm 9 xã là: Văn Lang, Danh Hựu, Phú Cường, Phụ Cường, Thanh Uyên, Tự Cường, Cổ Tiết, Nam Cường và Xuân Quang.

Theo dân gian truyền lại, trên mảnh đất Tam Nông đã có những câu vè mang đặc tính của người dân nơi đây, như: Hay nói tổng Văn, hay ăn tổng Dị… Theo dân gian, tổng Văn Lang lại có tục nói khoác, nói trạng từ xưa tới tận ngày nay. Ví dụ như, sắn trồng ở Văn Lang thì tốt đến nỗi củ mọc xuyên qua Quốc lộ 32A, bở đến nỗi không cần luộc, chỉ cần đi đào sắn, dắt vào cạp quần, có hơi ấm là về nhà bỏ ra đã bở tung (sắn có hơi ấm của người tự chín). Hay cây sơn mà trồng ở tổng Văn thì to và cao, đến nỗi ba đứa trẻ con trèo lên có thể xem được bóng đá ở thành phố Việt Trì cách đó mấy chục cây số (?!)... Đất đai ở tổng Văn Lang rất thích hợp với trồng sắn và sơn, luôn cho năng suất và sản lượng cao, nổi tiếng trong vùng. Do đó, tục nói trạng ở đây cũng là một phản ánh một cách sinh động về đời sống tinh thần, sản vật của địa phương.

Tổng Dị tức tổng Dị Nậu, là địa bàn nằm liền kế với tổng Văn Lang về phía Nam, được dân gian gán cho "danh hiệu" là hay ăn. Sở dĩ như vậy vì người dân nơi đây có tính hay ăn, hơn nữa hễ gia đình nào hoặc làng có việc là người dân nơi đây

11. Đặng Xuân Bảng. Sử học bị khảo. Viện Sử học và Nxb. Văn hoá Thông tin, H. 1997, tr. 432.

22 Nguyễn Văn Siêu: Đại Việt địa dư toàn biên, Viện Sử học và Nxb. Văn hoá, HN, 1997, tr. 410.

3 Vũ Thị Minh Hương...: Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Viện Viễn Đông Bác Cổ, Nxb. Văn hoá Thông tin & Cục lưu trữ Nhà nước, HN, 1999, tr. 670.

47

Page 48: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

lại làm cỗ linh đình. Trong mâm cỗ thường có những món không thể thiếu, đó là: xôi nếp, thịt gà, canh khoai sọ hoặc bí đỏ..., rất ít các loại rau, phản ánh thói quen và sản vật đất trung du… Còn những tổng khác trên vùng đất Tam Nông ít mang tính đặc trưng cho sản vật và tính cách của con người Tam Nông nên tôi xin phép được bàn trong những luận văn sau.

Một vấn đề cốt lõi mà chúng tôi muốn đề cập đến trong bài viết này là động Khuất Lão. Tuy nhiên, theo tôi được biết đã có một bài viết khá công phu và khảo rất kỹ về vị trí địa lý, tiềm năng để trở thành một căn cứ quân sự cho vua tôi Lý Nam Đế đã được đề cập khá sâu sắc trong bài tham luận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông tại cuộc Hội thảo này. Chính vì vậy tôi chỉ điểm qua đôi nét về tiềm năng của căn cứ nơi đây. Trước kia động Khuất Lão thuộc xã Cổ Tiết, từ năm 1955 thuộc địa giới hành chính xã Văn Lang (Văn Lương hiện nay), nơi đây có một vị trí rất thích hợp với một căn cứ quân sự với ba mặt Đông, Nam, Bắc có địa hình là vùng sông nước, đầm lầy, phía Tây Bắc và Tây Nam là dải núi rừng trùng điệp. Điều kiện tự nhiên vô hình trung đã tạo cho nơi đây trở thành một bức tường thành tự nhiên che chắn cho căn cứ động Khuất Lão.

Hơn nữa, nếu ta nhìn xa hơn, nơi đây còn được bao bọc bởi các dòng sông (sông Thao, sông Đà, sông Bứa), có thể chống lại quân địch tấn công từ phía Nam lên, phía Đông qua và phía Tây Bắc xuống. Nơi đây có địa thể chiến lược, tiến có thể đánh xuống vùng Long Biên, tiến đánh quân giặc đóng ở phía Đông Nam và đẩy lùi sự tiến công của quân giắc từ hướng Bắc, lùi có thể bảo toàn được lực lượng khi rút hết quân vào vùng rừng núi rậm rạp phía Tây…

Qua việc tìm hiểu tài liệu cũng như khảo sát thực địa trên địa bàn Tam Nông, chúng tôi nhận thấy, nơi đây là một vùng đất lành, con người có lối sống và suy nghĩ rất trọng tình cảm và mến khách, điều này được thể hiện rất rõ qua nét văn hóa ẩm thực của người dân tổng Dị Nậu. Hay nơi đây còn là một vùng đất có thể xuất hiện những mưu sĩ trong thời kỳ hình thành Nhà nước Vạn Xuân non trẻ. Điều này được thể hiện khá sinh động trong tục nói khoác của con người tổng Văn Lang (nơi có động Khuất Lão - căn cứ của Vua Lý Nam Đế) - Những người nói khoác thường có tư duy và trí tưởng tượng phong phú, trí tuệ hơn người… Hơn nữa người dân vùng đất tổng Văn Lang thông thạo địa hình, có thể tính kế giúp vua quan và binh sĩ của vua Lý Nam Đế đẩy lùi các đợt tấn công của quân Lương.

Chúng ta cũng phải khẳng định, trên mảnh đất bán sơn địa này, rất phong phú về chủng loại nông sản và các loại cây trồng như: sắn, khoai sọ, bí đỏ, lúa nếp tại các dộc… thường cho sản lượng cao, có thể đảm bảo việc tiếp tế lương thực, thực phẩm cho quan quân, vua tôi nhà nước Vạn Xuân rất thuận lợi. Không những vậy, vùng đất Khuất Lão và huyện Tam Nông còn là điểm giáp gianh với địa bàn của đồng bào các dân tộc thiểu số nên việc huy động quân lính tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại quân nhà Lương là rất thuận lợi.

Có thể khẳng định, trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương của vua Lý Nam Đế trong thế kỷ VI, nhân dân Tam Nông đã có công rất lớn trong việc đùm bọc, che chở cho nghĩa quân, đã có không ít người con của đất Tam Nông đã đầu quân đánh lại quân xâm lược nhà Lương. Nhân dân Tam Nông đồng thời là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu nuôi sống nghĩa quân trong thời gian đóng trên địa bàn động Khuất Lão. Và đặc biệt, sau khi

48

Page 49: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

vua Lý Nam Đế chết, nhân dân Tam Nông đã chôn cất và thờ cúng Ông rất cẩn thận và trang nghiêm.

Hiện nay, động Khuất Lão đã được quy hoạch tổng thể và xây dựng thành một nơi thờ cúng tương đối khang trang. Tuy nhiên, một số hạng mục vẫn chưa được hoàn thiện, và chưa xứng với tầm với một vị vua đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Với tầm vóc trên, chúng tôi hy vọng trong thời gian tới, chính quyền và nhân dân Tam Nông nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung cần chú ý hơn nữa trong việc xây dựng, bảo tồn các hạng mục trong quần thể của động Khuất Lão và hoàn thiện hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia./.

T.N.T

49

Page 50: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

TÀI LIỆU HÁN NÔM VỀ ĐỘNG KHUẤT LÃO TRONGCUỘC KHỞI NGHĨA LÝ BÍ THẾ KỶ VI

PGS.TS. Đinh Khắc Thuân Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Lý Nam Đế (chữ Hán: 李 南 帝; 503 - 548) là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử Việt Nam. Vấn đề quê quán của ông đã được xác định cụ thể trong Hội thảo khoa học gần đây, nhất là địa danh Thái Bình thời đó được ghi chép trong sử sách, là một vùng đất cổ thuộc vùng Sơn Tây, Vĩnh Phúc, chứ không phải thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay. Tuy nhiên, còn một địa danh khác là động Khuất Lão, nơi Lý Nam Đế ẩn náu và qua đời cũng cần được làm rõ. Bài viết này nhằm thông tin về các nguồn tư liệu Hán Nôm đề cập đến địa danh này, cùng một số kiến giải bước đầu của chúng tôi.

1. Tài liệu Hán Nôm về động Khuất LãoCác tài liệu Hán Nôm được trình bày ở đây, trước hết là tài liệu thư tịch,

bao gồm tư liệu trong các bộ chính sử, sau đó là tài liệu thần tích và thư tịch khác.

1.1. Ghi chép trong các bộ sửGhi chép về cuộc khởi nghĩa của Lí Bí được gặp trong khá nhiều bộ sử, song

ở đây chúng tôi giới thiệu bộ Đại Việt sử kí toàn thư và Việt sử lược.Ghi chép về Lí Bí, Đại Việt sử kí toàn thư giành ra một kỷ riêng, là Kỷ nhà

Tiền Lý, có một số đoạn trích sau đây: "Giáp Tý, [Thiên Đức] năm thứ 1 [544], (Lương Đại Đồng năm thứ 10). Mùa

xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái Phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu đều làm tướng văn, tướng võ.

甲 子 天 德 元 年,粱 大 同 十 年 公 元 五 四 四 年 , 春 正 月帝 因 勝 敵 自 稱 南 越 帝 即 位 建 元 置 百 官 建 國 號 曰 萬 春 望 社 稷 至 萬 世 也。 起 萬 壽 殿 以 為 朝 會 之 所 以 趙 肅 為 太 傅 並 韶。

[16a] Ất Sửu, [Thiên Đức] năm thứ 2 [545], (Lương Đại Đồng năm thứ 11). Mùa hạ, tháng 6, nhà Lương cho Dương Phiêu làm Thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm Tư mã, đem quân sang xâm, sai Thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội với bọn Phiêu ở Giang Tây... Rồi Bá Tiên đem quân đi trước, Phiêu cho Bá Tiên làm tiên phong. Khi [quân của Bá Tiên] đến Giao Châu, vua đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, vua chạy về thành Gia Ninh. Quân Lương đuổi theo vây đánh.

乙 丑 二 年 夏 六 月 以 霸 先 為 先 鋒 至 州 。 帝 率 眾 三 萬 拒 之 敗 於 朱 鳶 又 敗 於 蘇 歷 江 口 。 帝 奔 嘉 寧 城 粱 兵 追 射 之 。

霸 先 等 克 嘉 寧 城 帝 入 新 昌僚 [16b] Bính Dần, [Thiên Đức] năm thứ 3 [546], (Lương Đại Đồng năm thứ

nhất). Mùa xuân, tháng giêng, bọn Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Vua 50

Page 51: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Mùa thu, tháng 8, vua lại đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt, đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ, cứ đóng lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Trần Bá Tiên bảo các tướng rằng: "Quân ta ở đây đã lâu, tướng sĩ mỏi mệt, vả lại thế cô không có tiếp viện. Tiến sâu vào trong lòng [nước] người, nếu một đánh mà không thắng, thì đừng mong sống sót. Nay nhân lúc bọn họ vừa thua luôn mấy trận, lòng người chưa vững, mà người Di Lạo ô hợp, dễ đánh giết, chính nên cùng ra tay liều chết, cố sức đánh lấy, không có cớ gì mà dừng lại thì lỡ mất thời cơ". Các tướng đều im lặng, không ai hưởng ứng. Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng cao 7 thước, tràn đổ vào hồ. Bá Tiên đem quân bản bộ theo dòng nước tiến trước vào. Quân Lương đánh trống reo hò mà tiến. Vua vốn không [17a] phòng bị, vì thế quân vỡ, phải lui giữ ở trong động Khuất Lạo để sửa binh đánh lại, ủy cho đại tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên.

丙 寅 天 德 三 年 粱 中 大 同 元 年 春 正 月 霸 先 等 克 嘉 寧 城 帝 入 新 昌 獠 中 粱 兵 遂 屯 嘉 寧 江 口

秋 八 月 帝 復 率 二 萬 自 獠 中 出 屯 典 澈 湖 大 造 珠 船 充 塞 湖 中 粱 兵 憚 之 頓 湖 口 不 敢 進

霸 先 謂 諸 將 曰 我 師 已 老 將 士 疲 勞 且 孤 軍 無 援 人 人 心 腹 若 不 戰 不 利 豈 望 生 全 今 籍 其 屢 敗 人 情 未 固 夷 獠 烏 合 易 為 摧 殄 。正 當 共 出 百 死 決 力 守 之 無 固 停 留 時 事 去 矣 。

諸 將 皆 默 然 莫 應 。 是 夜 江 水 暴 漲 七 丈。 霸 先 勤 所 部 兵 隋 流 水先 進 粱 眾 鼓 操 而 前 。 帝 素 不 為 備 因 大 潰 退 保 屈 獠 洞 中 治 兵 欲 復 戰 委 大 將 趙 光 復 守 國 調 兵 繫 霸 先 。

Đinh Mão, [Thiên Đức] năm thứ 4 [547], (Lương Thái Thanh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, nhật thực. Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại. Nhưng quân của Bá Tiên rất đông, Quang Phục liệu thế không chống nổi bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch. Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được. Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết. Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm.

Mậu Thìn, năm thứ 1 [548], (Lương Thái Thanh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, ngày Tân Hợi, [Lý] Nam Đế ở động Khuất Lạo lâu ngày nhiễm lam chướng, ốm chết.

戊 辰 元 年 粱 太 清 二 年 春 三 月 辛 亥 南 帝 在 屈 獠 洞 中 日 久 冒 殯 病 薨 。

Trong khi Đại Việt sử kí toàn thư giành một Kỷ riêng để ghi chép về Lý Bí, thì Việt sử lược bộ sử được biên soạn vào thời Trần chép về lịch sử Đại Việt từ thời Lý trở về trước, thì chỉ chép các sự kiện liên quan đến Lí Bí vào trong các sự

51

Page 52: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

kiện của Dương Phiêu. Tuy nhiên, tư liệu được chép ở đây cũng tương tự như được chép trong Đại Việt sử kí toàn thư.

Việt sử lược ghi: “Xưa người trong châu là Nguyễn (Lý) Bí làm phản, giữ thành Long Biên, tự xưng là Nam Việt đế, đặt trăm quan, cải nguyên là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân.

Lương Vũ đế cho Phiêu làm Thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm Tư mã đi đánh Bí. Bí đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại bị thua ở cửa sông Tô Lịch. Bí chạy tới thành Gia Ninh. Phiêu tiến quân tới vây. Bí chạy vào trong rợ Lão ở Tân Xương, lại đem 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt, làm nhiều thuyền bè, thả đầy mặt hồ. Đêm đó nước sông vụt dâng cao, Bá Tiên đem binh theo dòng nước tiến lên, quân lính hò reo mà theo. Bí không chuẩn bị, nên tan vỡ, lui giữ động Khuất Lão, bị bệnh chết. Dư đảng sợ thế quân Bá Tiên bèn đem quân ra hàng. Con Bí là Thiên Bảo vào Cửu Chân. Bá Tiên đem binh dẹp yên được, đổi Cửu Châu làm Ái Châu”1.

初 州 人 阮 賁 反 據 龍 編 城 自 稱 南 越 帝 置 百 官 改 元 天 德 國 號 萬 春 粱 武 帝 拜 膘 為 交 州 刺 史 陳 霸 先 為 司 馬 以 擊 賁 率 眾 三 萬 拒 之 敗 於 朱 鳶 又 敗 於 蘇 瀝 江 口 賁 奔 嘉 寧 城 膘 進 軍 圍 之 賁 之 新 昌 中 又 率 眾 二 萬 出 屯 典 澈 湖 大 造 船 爦 充 塞 湖 中 是 夜 江 水 暴 漲 霸 先 率 所 部 兵 隋 流 先 進 諸 軍 鼓 操 以 從 賁 不 為 備 因 大 潰 退 保 屈 獠 洞 病 卒 餘 黨 畏 霸 先 兵 勢 乃 舉 眾 就 降 賁 子 天 寶 入 九 真 霸 先 舉 兵 討 平 之 以 九 真 為 愛 州 。

1.2. Tài liệu Thần tíchTại đình làng Giang Xá huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội, hiện có hai bản

thần tích về Lý Nam đế, vị Hoàng đế của nước Vạn Xuân. Đó là bản Việt Thường thị Tiền Lý Nam đế ngọc phả cổ truyền.

Nội dung có đoạn viết:Vua tự xưng là Lý Nam đế từ đó thường đánh quân Lương, giặc thua chạy về

Bắc quốc. Sau đó, quân Lương lại sai Lư Tử Hùng tiến binh. Triệu Quang Phục sau là Triệu Việt Vương tiên phong đón giặc Lương, chém hơn nghìn tên, máu chảy đầy sông. Vua sai quân đánh châu Cửu Đức, Lâm Ấp, xưng Nam Việt đế, dựng nước Vạn Xuân, bách quan hô Vạn tuế. Các đất Dã Năng, Chu Diên, Giang Xá, Thái Bình, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Liêu Động, đều cho làm ấp thang mộc. Nhân dân xin lập sinh từ, sau phụng thờ.

Đất nước thanh bình 7 năm, đến tháng 6 năm Ất Sửu, nhà Lương sai Thứ sử Trần Bá Tiên làm Tư mã đến xâm chiếm. Vua nghe tin quân Lương kéo đến, sai 3 vạn quân ra ứng chiến. Quân giặc đánh đến Chu Diên, vua quay về Giang Xá, hôm đó nhân dân hành lễ bái mừng, vua dừng quân hội binh, sau ra đóng ở thành Gia Ninh. Quân Lương đánh Gia Ninh, vua lại bỏ vào đất Liêu Trung ở Phong Châu thuộc huyện Tân Xương, quân Lương vây cửa sông Gia Ninh, vua xuất 2 vạn người từ Liêu Động đóng đồn ở hồ Điển Triệt. Quân Lương và vua chống lại được ngoài 5 tháng. Một hôm quân Lương thừa cơ ban đêm nước hồ dâng cao, xuôi theo dòng nước tiến đánh. Vua không lo phòng bị, nên quân Lương đến, liền thua

1 Việt sử lược, Bản dịch Trần Quốc Vượng, Nxb.Thuận Hóa, Huế, 2005, tr. 30-31.52

Page 53: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

rút về đồn Liêu Động. Đại tướng Triệu Quang Phục đánh quân Lương đến năm Đinh Mão.

Ngày 2 tháng 5 ở Liêu Động vua nằm chính cung, có mấy thị vệ, bỗng mây đen ập đến có hình như hình chó, rơi xuống biến thành người cao 1 trượng đứng trước vua. Thế là vua hóa. Các nơi Dã Năng, Chu Diên, Giang Xá, Thái Bình, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Liêu Động, có sinh từ phụng thờ vua.

(梁 兵 再 克 嘉 寧, 帝 避 入 新 昌 縣 屬 峰 州 僚 中,梁 兵 堅 守 嘉 寧 江 口 帝 復 率 二 萬 人 自 僚 洞 之 屯 典 澈 湖,梁 兵 與 帝 相 拒 之 居 得 外 五 月 間 一 日 梁 兵 乘 夜 間 江 水 暴 漲 鳴 流 先 進 帝 素 不 為 備 因 見 梁 兵 迫 至 乃 大 潰 退 保 僚 洞 屯 委 大 將 趙 光 拒 戰)。

Ngoài ra, còn có một số Thần tích của làng xã khác cùng thờ Lí Bí, như Thần tích làng Tuân Liệt huyện Đông Anh, vốn thuộc huyện Phúc Yên, kí hiệu AEa11/3, làng Cổ Trai tổng Diên Hà huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng tỉnh Thái Bình, kí hiệu AEa5/12, làng Đồng Đại tổng Lộc Điền huyện Thư Trì tỉnh Thái Bình, kí hiệu AEa5/63, thần tích xã Ngọc Than huyện Yên Sơn tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Quốc Oai, tp. Hà Nội, kí hiệu AEa10/27,... Những Thần tích này đều ghi chép khá cụ thể sự nghiệp dựng nước của Lí Bí, trong đó đề cập đến quê quán ông là đất Thái Bình, và vùng đất mà ông hoạt động chủ yếu là ở các địa phương thuộc vùng Sơn Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh ngày nay.

2. Về địa danh Khuất Lão được ghi chép trong tài liệu Hán NômTrước hết, cần trở lại địa danh Thái Bình thời Lí Nam đế, vì sử liệu chỉ ghi Lí

Bí người đất Thái Bình, cho nên được giải thích Thái Bình thuộc đất Long Hưng nay thuộc tỉnh Thái Bình như một số tài liệu địa chí, kể cả Đại Việt sử kí toàn thư (tập 1, bản dịch, Nxb. KHXH, HN, 1998, tr. 178) cũng đã giải thích như vậy. Đây là cách suy diễn sau khi có lộ Long Hưng thời Trần, nay thuộc Thái Bình, nên đã nhầm lẫn như vậy. Thực tế, địa danh Thái Bình gắn với Lí Bí thế kỷ VI không phải là Thái Bình của lộ Long Hưng, mà thuộc quận Long Biên như một số Thần tích nêu trên đã giải thích, tức là một địa danh Thái Bình khác cận kề với với các địa danh Chu Diên, Giang Xá, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương. Điều này hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với việc các địa phương khác, trong đó có một số địa phương tỉnh Thái Bình ngày nay thờ Lí Nam Đế.

Vậy các địa danh Chu Diên, Giang Xá, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương nơi nghĩa quân Lí Bí hoạt động nay thuộc vùng đất nào?

Giang Xá, Giang Tây thì hiện vẫn còn địa danh này, đó là làng Giang Xá thuộc huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội nơi mà thuở nhỏ Lí Bí đến sinh sống, học hành và tu Phật. Vậy còn địa danh Chu Diên, Gia Ninh và Tân Xương?

Sử liệu đã nêu ở trên cho biết: khi Bá Tiên kéo quân đến Giao Châu, Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, tướng Tinh Thiều tử trận. Sau đó, ông phải chạy về thành Gia Ninh bị quân Lương đuổi theo vây đánh.

Tháng giêng năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh, tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương

53

Page 54: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

đóng ở cửa sông Gia Ninh. Sau rút về hồ Điển Triệt, rồi lại rút vào động Khuất Lão và mất tại đây.

Như vậy, Chu Diên là nơi bị quân Lương tiến đánh khi đổ quân đến, sau đó lại đánh tiếp đến cửa sông Tô Lịch. Cửa sông Tô Lịch ở đây là cửa sông Hồng, sát với thành Long Biên, thủ phủ của các chính quyền đương thời. Do đó vùng đất này thuộc một phận đất Bắc Ninh và phía Bắc Hà Nội ngày nay.

Sau khi thất thủ ở Chu Diên và cửa sông Tô Lịch, nghĩa quân Lí Bí phải chạy lên thành Gia Ninh, có nghĩa là Gia Ninh phải nằm ở phía Tây bắc của thành Long Biên. Địa danh Gia Ninh nay vẫn còn thuộc xã Gia Ninh, huyện Vĩnh Lạc tỉnh Vĩnh Phúc cũ ngày nay thuộc xã Thanh Đình, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ). Có nghĩa là thành Gia Ninh là vùng đất rộng lớn ở phía Tây bắc Long Biên tương đương vùng đất Sơn Tây xưa và một phần của Phú Thọ ngày nay. Trong thành Gia Ninh, (cần giải thích rõ thêm rằng thành ở đây như một đơn vị dân cư, như Bà Trưng từng lấy được 65 thành, tức là đã giải phóng được cả nước) có Tân Xương (Tân Xương có thể được xem là một huyện) đất của người Lạo, trong có hồ Điển Triệt.

Thực tế, chữ Lạo hay Liêu cùng được viết bằng chữ Hán là: 獠, ý chỉ vùng hoang sơ, hẻo lánh. Các chữ Lạo, Liêu hay Khuất Lão này đều cùng là một địa danh, nhưng sở dĩ có cách gọi khác nhau, bởi do sự ghi chép lại cách phát âm của người bản địa đương thời.

Theo ngữ âm lịch sử, thì tiếng Việt xưa có phụ âm kép, như Blời (trời), Blăng (trăng), Tlèm (Trèm, Chèm). Để ghi được các phụ âm kép đó bằng chữ Hán, người ta phải tách ra thành hai từ, như Blời ghi Ba Lợi (Liệt), Blăng ghi Ba lăng, Tlèm ghi Từ Liêm,... Ngày nay hầu hết bên cạnh các địa danh bằng chữ Hán ta còn thấy có tên gọi dân gian được gọi là tên Nôm, như làng Thanh Liệt còn gọi là làng Sét, Luy Lâu gọi là Dâu,... Riêng địa danh Luy Lâu, vốn vùng đất khá cổ xưa nên trải qua năm tháng đã nảy sinh nhiều tên gọi khác, như Dâu, Keo, Giao,... Thực tế, vốn địa danh ban đầu nơi đây có phụ âm kép KL, rồi tách thành K và L. K thành Keo, Giao; còn L thành Dâu.

Địa danh Khuất Lão cũng vậy, vốn được ghi lại bởi một âm đọc có phụ âm kép KL, nên có thể ghi lại là Lạo (Liêu), hay Khuất Lão. Và như vậy, Khuất Lão là vùng đất của người Lạo hay người Liêu, vùng đất thuộc Tân Xương thành Gia Ninh thời nhà Tiền Lý, nơi hoang vu, hẻo lánh. Điều này hoàn toàn phù hợp với tài liệu lịch sử ghi rằng Lý Nam Đế ở động Khuất Lão lâu ngày bị nhiễm lam chướng, ốm qua đời.

Địa danh hồ Điển Triệt thì nay đã được xác định thuộc địa phận xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Và đương nhiên, động Khuất Lão nơi mà Lí Bí khi bị vây hãm ở Điển Triệt đã chạy đến náu thân, chắc hẳn cũng cách hồ Điển Triệt này không xa. Nơi đây ngày nay được xác định thuộc đất Tam Nông tỉnh Phú Thọ là hoàn toàn phù hợp với tài liệu Hán Nôm được trình bày ở trên.

Tóm lại, tư liệu Hán Nôm về địa danh Khuất Lão nơi mà Lí Nam đế trú quân và mất được ghi chép khá cụ thể và thống nhất. Đây là vùng đất của người Lạo, còn được gọi là Liêu hay Khất Lão, khá hẻo lánh, hiểm trở thời bấy giờ, nay thuộc địa phận các xã Cổ Tiết và Văn Lang (Lương) huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ,

54

Page 55: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

hiện còn di tích mộ và đền thờ Lý Bí trên gò Cổ Bồng.Việc xác định rõ nơi mất của vua Lí Nam đế để được tôn vinh đúng với công

lao to lớn của ông trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc là việc làm hết sức có ý nghĩa thể hiện lòng tri ân, đạo lý truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta./.

Đ.K.T

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Đại Việt sử kí toàn thư, Bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.2. Việt sử lược, Bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb.Thuận Hóa, Huế, 2005.3. Đại cương Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Tập 1, Hà Nội, 2000.

55

Page 56: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

4. Đinh Khắc Thuân, Văn bản thần tích "Việt Thường thị Tiền Lý Nam đế ngọc phả cổ truyền", tham luận tại Hội thảo khoa học về Lý Nam đế, tổ chức năm 2012.

ĐỘNG KHUẤT LÃO NƠI AN NGHỈ CUỐI CÙNG CỦA VUA LÝ NAM ĐẾ

PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi

Viện Sử học

Động Khuất Lão, địa danh liên quan đến nơi Lý Nam Đế sống những năm tháng cuối cùng và băng hà tại đó, được chính sử - cuốn Đại Việt sử ký toàn thư chép khá chi tiết: “Năm Bính Dần (546), mùa Xuân, tháng Giêng, bọn Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Vua chạy vào đất người Lão ở Tân Xương. Quân nước Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Mùa thu, tháng 8 vua lại đem 2 vạn quân từ trong đất Lão ra đóng ở hồ Điển Triệt, đóng rất nhiều thuyền, chật cả trong hồ. Quân Lương ngại, đóng lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Trần Bá Tiên bảo các tướng rằng: “Quân ta sang đây đã lâu, tướng sĩ mỏi mệt, vả lại quân trơ trọi một mình, không có tiếp viện, tiến sâu vào trong nước người ta, nếu một trận đánh mà không thắng lợi thì đừng có mong sống được. Nay nhân lúc họ thua luôn, lòng người chưa vững, mà người Di Lão ô hợp, dễ bề đánh giết, chính nên cố sức liều chết, quyết tâm đánh lấy, không có duyên cớ gì mà dừng lại, lỡ mất thời cơ”1. Quyết định đó đưa đến một trận tấn công của quân Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy ở hồ Điển Triệt. Quân của Lý Bí do bị đánh bất ngờ, tan vỡ, lui về động Khuất Lão. Nhưng chi tiết sau đây được ĐVSKTT chép và khẳng định động Khuất Lão là nơi quân vua Lý Nam Đế băng hà tại đó, “Mậu Thìn (548). Mùa Xuân, tháng 3, ngày Tân hợi, Nam Đế ở động Khuất Lão lâu ngày, nhiễm lam chướng, ốm chết”2. Động Khuất Lão được ĐVSKTT chú giải là: “Người ta truyền rằng động Khuất Lão, chỗ Lý Bôn rút, là chỗ làng Đào Xá thuộc huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ, ở hữu ngạn sông Hồng, ở đấy hiện có đền thờ Lý Bôn”3. Nay, động Khuất Lão thuộc địa phận xã Văn Lương, huyện Tam Nông4, tỉnh Phú Thọ (giáp với xã Cổ Tiết).

1 Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt là ĐVSKTT), tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, tr.119.

2 ĐVSKTT, tập I, Sđd, tr.121. Từ tháng 8 -546 đến tháng 3- 548, Lý Nam Đế đã ở trong động Khuất Lão 18 tháng.

3 ĐVSKTT, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, tr.322.4 Năm 1831, cải cách của Minh Mạng, thành lập các tỉnh ở miền Bắc, huyện Tam Nông tách

khỏi tỉnh Sơn Tây nhập vào tỉnh Hưng Hóa. Thị xã Hưng Hóa (thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1895, vốn là thành Hưng Hóa), đóng tại xã Trúc Khê, huyện Tam Nông (nay là thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ); Từ 1903-1968 là huyện thuộc tỉnh Phú Thọ; Từ 1968-1996 thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Theo Quyết định số 178-CP ngày 5-7-1977 của Hội đồng Chính phủ, huyện Tam Nông sáp nhập với huyện Thanh Thủy thành huyện Tam Thanh. Năm 1999, lại tách ra thành hai huyện Tam Nông, Thanh Thủy. Nay huyện Tam Nông có 1 thị trấn (Hưng Hóa) và 19 xã (Hùng Đô, Quang Húc, Hiền Quan, Thanh Uyên, Tam Cường, Văn Lương, Cổ Tiết, Hương Nộn, Thọ Văn, Dị Nậu, Dậu Dương, Thượng Nông, Hồng Đà, Phương Thịnh, Tề Lễ, Tứ

56

Page 57: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (viết tắt là Cương mục) chép sự kiện này về cơ bản cũng giống như ĐVSKTT nhưng chỉ riêng tên động Khuất Lão thì Cương mục chép là động Khuất Lạo, “Mùa Thu, tháng Tám (546). Nam Việt đế Lý Bôn đóng đồn ở hồ Điển Triệt. Quân Lương đến đánh, quân Lý Bôn bị vỡ, rút vào giữ động Khuất Lạo”1. Tuy nhiên, động Khuất Lạo ở nơi nào thì Cương mục chú là: “không rõ ở đâu”2.

Phan Huy Chú (1782-1840) trong Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Mục Nhân vật chí, động Khuất Lão cũng được chép là động Khuất Lạo: “Nhà Lương sai Trần Bá Tiên sang xâm lấn. Vua chống đánh bị thua, lui về giữ động Khuất Lạo rồi chết ở trong động. Ở ngôi được 8 năm”3.

Trong cuốn Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập I, hai tác giả Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn đã viết: “Lý Bí phải chạy trốn vào động Khuất Lão rồi sau chết ở đó”4. Để làm rõ hơn những ý kiến xung quanh động Khuất Lão, hai tác giả chú thích như sau: “Cương mục, chua là “chưa rõ”. Ông Đào Duy Anh cho là thuộc làng Đào Xá, gần Hưng Hóa ngày nay. Cụ Nguyễn Văn Tố cho rằng Khuất Lão không phải là tên riêng mà là “động Mường Mán đã chịu khuất. Lương thư chỗ thì chép là Lão động, chỗ thì chép là Khuất Lão động. Theo Madrolle (do Nguyễn Quang Lục dẫn trong Lịch sử Hà Nội. Gió Việt, Sài Gòn 1952) Lý Bí chạy vào xứ Thái ở Tuyên Quang. Cách Tuyên Quang 10 km, trên đường đi Yên Bái, có đền thờ Lý Nam Đế ở trên núi, đó là nơi xưa kia Lý Nam Đế đã bị giết5”.

Sách Lịch sử Việt Nam, tập I của Ủy ban Khoa học xã hội chỉ viết chung chung là Lý Nam Đế sau khi bị thất bại “phải lẩn tránh vào miền núi, giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Sau ông bị bệnh chết (4-548)”6.

Các tác giả Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh trong “Lịch sử Việt Nam”, tập 17 mô tả về động Khuất Lão nơi có lăng Lý Nam Đế: “Động Khuất Lão là tên một khu đồi hiện nằm giữa hai xã Văn Lang và Cổ Tiết thuộc huyện Tam Nông (Vĩnh Phú - Phú Thọ ngày nay), gồm 3 quả đồi ở bờ phải sông Hồng, hiện cách khoảng 1 km. Dân gian còn gọi là khu Cổ Bồng, Tam Khu

Mỹ, Xuân Quang, Hương Nha, Vực Trường).

1 Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, tập I, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 1998, tr. 171.

2 Cương mục, tập I, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 1998, tr. 172.3 Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992,

tr.188.4 Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục,

Hà Nội, 1963, tr.104.5 Lê Văn Siêu trong "Việt Nam văn minh sử cương", Lá Bối xb, 1967, đã dẫn một số tài liệu

cổ cho rằng, Lý Nam Đế ở lâu ngày trong động, vì nhiễm lam chướng nên bị mù hai mắt. Cũng theo tài liệu này, có ý kiến cho rằng vua bị người Lạo làm phản giết hại, không phải bị ốm chết.

6 Ủy ban Khoa học xã hội, Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tr.115.

7 Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, tập I. Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991.

57

Page 58: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

hay Khu Lăng, vì tương truyền đây là khu mộ Lý Nam Đế; xưa có đền thờ Lý Nam Đế và Lý Thiên Bảo, sau dời sang làng Danh Hựu. Quanh khu đồi là đồng lầy bao bọc. Xưa là khu đất cấm, chỉ có ngày tế lễ, dân mới vào, đi bằng thuyền. Nhìn xa, động Khuất Lão trông như một bông sen, cuống bám vào dãy rừng Cấm thuộc xã Văn Lang, 3 cánh xòe trên cánh đồng chiêm trũng thuộc xã Cổ Tiết. Cũng như Danh Hựu, làng Tự Cường1 (cách Danh Hựu 1 km) cũng có đền thờ Lý Bí và Lý Thiên Bảo. Cả vùng này kiêng tên Bí - gọi là Bầu, kiêng tên Bảo - gọi là Biểu. Việc thờ Lý Bí ngày trước theo nghi lễ thờ vua”2.

Trong một số sách, động Khuất Lão, Khuất Lạo còn được gọi là Khuất Liêu, Khuất Liệu. Trong sách Việt sử cương mục tiết yếu, tác giả Đặng Xuân Bảng viết: “Quân Lương tiến đánh, quân Bí tan vỡ, lui về giữ động Khuất Lạo (có lẽ là vùng Thái Nguyên)3. Sau này các dịch giả của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chú thích là “Động Khuất Lạo - cũng đọc là Khuất Liêu ở vùng núi thuộc hai xã Cổ Tiết và Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ ngày nay. Ở đây còn di tích mộ và đền thờ Lý Bí trên gò Cổ Bồng)4.

Các tác giả của Viện Sử học trong Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X5 không chỉ nhận định về động Khuất Lão, căn cứ và là nơi Lý Nam Đế sống những ngày cuối cùng mà còn mô tả cảnh quan của động. Hơn nữa, do đây là nơi an táng vua Lý Nam Đế nên động Khuất Lão còn được nhân dân gọi là “Khu Lăng”, “Cổ Bồng”: “Động Khuất Lão nay còn gọi là Khuất Liêu, là căn cứ cuối cùng của Lý Bí và triều đình Vạn Xuân. Đây cũng là nơi chứng kiến những hoạt động và những ngày cuối cùng của Lý Bí. Nằm giữa khu vực thuộc hai xã Văn Lang (Văn Lương nay - TG chú) và Cổ Tiết, động Khuất Lão là một khu đồi nhỏ, diện tích ước chừng hơn 40 mẫu. Dân gian gọi là khu “Cổ Bồng”, là “Tam khu”. Tương truyền đây là nơi chôn cất Lý Bí nên cũng gọi là Khu Lăng. Vùng này khi xưa là một vùng cây cối rất rậm rạp không có ai được vào. Những ngày tế lễ, dân từ làng Danh Hựu muốn vào Khu Lăng này phải đi bằng thuyền, vì xung quanh là đầm lầy bao bọc. Trước đây, ở giữa Khu Lăng đó có đền thờ Lý Bí và Lý Thiên Bảo, sau đó do điều kiện đi lại khó khăn nên đã được đưa về đình làng thờ cúng”6.

Trong bản “Thái Bình tỉnh Thư Trì huyện Lộc Điền tổng các xã Đồng Đại Thanh Ninh An Điện thần tích” 太 平 省 舒 池 縣 祿 田 總 各 社 銅 玳 清 寧 安

1 Làng Tự Cường thuộc xã Tam Cường2 Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, tập I, Sđd,

tr. 266.3 Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb Khoa học xã hội, HN, 2000, tr. 41.4 Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, sđd, tr. 41.5 Đỗ Văn Ninh (Chủ biên), Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, 2001, 465 trang.6 Đỗ Văn Ninh (Chủ biên), Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, 2001, tr.345.

Năm 2010, chính quyền và nhân dân huyện Tam Nông đã tiến hành xây dựng ngôi đền thờ vua Lý Nam Đế tại gò Cổ Bồng, xã Văn Lang, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Trong quần thể ngôi đền thờ này còn có một ngôi mộ, tương truyền là lăng của vua Lý Nam Đế.

58

Page 59: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

甸 神 蹟. Thần tích 3 xã thuộc tổng Lộc Điền, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình. Kí hiệu AE.A5/63, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì động Khuất Lão được viết là Khuất Liệu: “Đế tự vào động Khuất Liệu mà băng (ngày 15 tháng 7). Lúc đó trời đất tối đen, trải 3 ngày trời đất mới sáng dần lại, thì ở chỗ ấy đã thấy giun đất đắp thành một gò đất lớn”1.

Nhân dân vùng thôn Đại Tự, xã Kim Chung, Hoài Đức, Hà Nội còn lưu truyền câu chuyện về sự ra đi của Lý Nam Đế, trong đó cũng khẳng định Lý Nam Đế băng hà tại động Khuất Lão. Truyền thuyết dân gian kể lại: “Ngày mồng 2 tháng 5 năm Mậu Thìn (548), khi còn ở động Khuất Lão nhà vua nằm ngủ mộng thấy ở sao Thái Dương có một điềm đen. Một ngôi sao rơi xuống trước mặt nhà vua biến thành người múa và hát rằng:

Vua ta chừ, vua ta chừThang mây thiên đế gọi nhà vuaXe rồng một buổi về thiên giớiThế nước truyền cho Phật Tử giờNhà vua tỉnh lại, kể giấc mộng đó cho quần thần nghe và bỗng thấy đau rồi

chết chôn tại đó…”2.Trong thư tịch cổ của Trung Quốc chép về Lý Nam Đế những ngày cuối đời

ở động Khuất Lão: “Lý Bôn (Bí) đã trực tiếp lãnh đạo và anh dũng tử tiết trong trận chiến tại động Khuất Lão vào năm 548”. Sách Lương thư, Lương kỷ 15, Cao Tổ Vũ hoàng đế, niên hiệu Trung Đại Đồng thứ 1 (Bính Dần, năm 546) chép: “Lý Bôn lại đưa 2 vạn tướng sĩ từ trong động Khuất Liêu (Lão) ra đồn trú tại hồ Điển Triệt, đóng hàng loạt các chiến thuyền, chật kín trong hồ. Quân sĩ (của Bá Tiên) sợ hãi, dồn ứ ở cửa hồ, không dám tiến […]. Đêm hôm đó, nước sông dâng lên đến 7 trượng, tràn vào hồ. Bá Tiên thúc giục quân lính thừa cơ tiến vào, quân lính đánh trống reo hò cùng tiến. Quân của (Lý) Bôn đại bại, lẩn vào trong động Khuất Lão”. Sách Lương thư quyển 3, Bản kỷ đệ tam, Vũ đế hạ: “Niên hiệu Thái Thanh năm thứ 2 (548), Tháng 3, ngày Kỷ Mùi, động Khuất Lão chém được Lý Bôn, chuyển thủ cấp về Kinh sư”. Sách Trần thư, Diêu Tư Liêm người đời Đường soạn. Bản kỷ đệ nhất, Cao Tổ thượng chép: “Quân của (Lý) Bôn đại bại, lẩn vào trong động Khuất Lão. Chém được Lý Bôn trong hồ, truyền đưa thủ cấp về Kinh sư. Năm đó là năm Thái Thanh thứ nhất (547)”3.

Như vậy, mặc dù tên gọi về động có khác nhau: Khuất Lão, Khuất Lạo, Khuất Liêu, Khuất Liệu, song từ lịch sử đến truyền thuyết Việt Nam đều khẳng định và lưu truyền về nơi an nghỉ cuối cùng của Lý Nam Đế là động Khuất Lão.

1 Vương Thị Hường, Lý Nam Đế trong thư tịch Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế”, 2012.

2 Theo lời kể của ông Trần Văn Quang, 60 tuổi ở thôn Đại Tự, Kim Chung, Hoài Đức, Hà Nội, dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Mai, Lý Nam Đế, từ lịch sử tới tâm thức dân gian, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 304, tháng 10-2009.

3 Dẫn theo Nguyễn Hữu Tâm, Thư tịch cổ Trung Quốc viết về Lý Bí và cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế”, 2012.

59

Page 60: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Thư tịch cổ Trung Quốc tuy chép về cái chết của Lý Nam Đế dưới màu sắc khác nhưng cũng viết thống nhất rằng, động Khuất Lão là nơi chứng kiến vua Lý Nam Đế trút hơi thở cuối cùng.

Không phải ngẫu nhiên mà hơn 40 năm trước, “trên các địa phương miền Bắc có hơn hai trăm đền miếu thờ Lý Bí và các tướng tá của ông”1. Ngày nay, để lưu truyền về nhà vua anh hùng của dân tộc, thiết nghĩ động Khuất Lão cần được quy hoạch xây dựng thành di tích lịch sử - văn hóa để không chỉ tưởng nhớ tới vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Vạn Xuân mà còn để con cháu ngàn năm hương khói./.

Hà Nội, đầu tháng 8-2013N.T.P.C

VÀI Ý KIẾN VỀ ĐỘNG KHUẤT LÃO

TS. Hà Mạnh Khoa

1 Ủy ban Khoa học xã hội, Lịch sử Việt Nam, tập I, sđd, tr.114.60

Page 61: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Viện Sử học

Năm 541, Lý Bí liên kết với các hào kiệt các châu đập tan bộ máy cai trị của chính quyền đô hộ của nhà Lương, chiếm thành Long Biên và tiếp đó vào năm 543 đánh tan quân Lâm Ấp xâm lược. Sau hai thắng lợi vẻ vang đó, năm 544, Lý Bí xưng đế-mở đầu cho một thời kỳ bảo vệ và xây dựng nhà nước Vạn xuân độc lập tự chủ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư bộ chính sử lớn nhất của nước ta thời trung đại, được biên soạn dưới thời Lê đã đánh giá khái quát về cuộc khởi nghĩa của Lý Bí như sau: “Vua họ Lý, tên húy là Bí, người Thái Bình, phủ Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc, cuối đời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam. Vua có tài văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp loạn, trở về Thái Bình. Bấy giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, Lâm Ấp cướp phá ngoài biên, vua dấy binh đánh đuổi được, xưng là Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên”1.

Việc ra đời nhà nước Vạn Xuân nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, của lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ đất nước và phát triển một cách độc lập. Đó là ước mơ xây dựng một nhà nước độc lập của các thế hệ con cháu của các Vua Hùng, của Bà Trưng, Bà Triệu…người Việt phương Nam, sau hơn nửa thiên niên kỷ chống Bắc thuộc, chống đồng hoá, ngang hàng và đối sánh với phương Bắc, đến đây bắt đầu trở thành hiện thực.

Nhưng cũng giống như các triều đại phong kiến Trung Quốc trước đó, nhà Lương không từ bỏ tham vọng đô hộ nước ta. Đầu năm 545, nhà Lương bắt đầu tổ chức cuộc chiến tranh xâm lược Vạn Xuân nhằm chinh phục lại Giao Châu mà chúng vẫn cho là “thuộc quốc”. Dương Phiêu được cử làm Thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên được cử làm Tư mã Giao Châu, lĩnh chức Thái thú Vũ Bình, được giao nhiệm vụ tiêu diệt Lý Nam Đế và nhà nước Vạn Xuân.

Biết tin quân Lương sắp sang, Lý Nam Đế càng gấp rút xây dựng lực lượng, huy động quân đội, đắp thành lũy, tăng cường bố phòng, sẵn sàng đánh giặc.

Sau khi thành Chu Diên và Tô Lịch lọt vào tay Trần Bá Tiên, Lý Nam Đế buộc phải rút lui khỏi kinh đô, ngược dòng sông Hồng, lên giữ thành Gia Ninh trên miền đồi núi trung du, ngã ba sông Trung Hà - Việt Trì.

Tháng 2 năm 546, thành Gia Ninh bị vỡ, Lý Nam Đế cùng tướng sĩ tổ chức phá vây, kéo quân lên động Khuất Lão ở Tân Xương. Lý Nam Đế dựa vào núi rừng của huyện Tân Xương trong đó đại bản doanh của Lý Nam Đế đóng ở Khuất Lão để tổ chức lại lực lượng. Đóng quân trên khu vực này, ngoài số binh tướng còn lại sau khi Gia Ninh thất thủ, lực lượng của Lý Nam Đế còn được tăng thêm do có đông đảo đồng bào đủ các thành phần dân tộc đã hăng hái gia nhập quân đội, tình nguyện đánh giặc cứu nước. Số quân lúc đó đông tới ba, bốn vạn người. Quân đội của Lý Nam Đế dựng lán trại trong rừng, hạ cây, xẻ ván đóng thuyền bè,

1 Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H. 1983, tập 1, tr. 170.

61

Page 62: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

chuẩn bị cho một hình thức kháng chiến mới. Tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế đem quân ra đóng ở hồ Điển Triệt.

Vậy động Khuất Lão như thế nào và ở đâu? Về vấn đề này, các tài liệu của Trung Quốc khi viết về cuộc kháng chiến của Lý Nam Đế liên quan đến địa danh Khuất Lão, như sau:

Sách Lương thư, Lương kỷ 15, Cao Tổ Vũ hoàng đế, niên hiệu Trung Đại Đồng thứ 1 (Bính Dần, năm 546), chép: “Mùa thu, tháng 7, Nhâm Dần, Lý Bôn lại đưa 2 vạn tướng sĩ từ trong động Khuất Liêu (Lão) ra đồn trú tại hồ Điển Triệt, đóng hàng loạt các chiến thuyền, chật kín trong hồ. Quân sĩ (của Bá Tiên) sợ hãi, dồn ứ ở cửa hồ, không dám tiến”.

Sách Lương thư quyển 3, Bản kỷ đệ tam, Vũ đế hạ, chép: “Niên hiệu Thái Thanh năm thứ 2 (548), tháng 3, ngày Kỷ Mùi, động Khuất Lão chém được Lý Bôn, chuyển thủ cấp về Kinh sư”.

Sách Trần thư, Diêu Tư Liêm người đời Đường soạn, chép: “Niên hiệu Đại Đồng năm thứ 7 (541), mùa xuân, tháng Giêng. Quan quân đến Giao Châu. Quân của Lý Bôn vài vạn người lập thành trại đóng ở cửa sông Tô Lịch để chống lại. Dương Phiêu cho Trần Bá Tiên làm tiên phong vây hãm. Lý Bôn vào địa giới Khuất Lão lập trại, cho đóng nhiều thuyền chiến, chật kín trong hồ. Quân sĩ (của Bá Tiên) sợ hãi, dồn ứ ở cửa hồ, không dám tiến”1.

Như vậy Động Khuất Lão là một địa danh có thật và có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta dưới vương triều Tiền Lý mà các sử liệu của Trung Quốc đã phải ghi chép lại.

Các sử liệu của ta chép về động Khuất Lão như sau: Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng cao 7

thước, tràn đổ vào hồ. Bá Tiên đem quân bản bộ theo dòng nước tiến trước vào. Quân Lương đánh trống reo hò mà tiến. Vua vốn không phòng bị, vì thế quân vỡ, phải lui giữ ở trong động Khuất Lạo để sửa binh đánh lại, ủy cho đại tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên”2.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép:“Lý Bôn lại đem quân từ trong xứ người Lão ra, đóng đồn ở hồ Điển Triệt. Quân Lương sợ cứ đóng ở cửa hồ, không dám tiến”3. Trước hết ta biết theo ghi chép của tài liệu chính sử thì “động Khuất Lão ở Tân Xương”. Theo khảo cứu của Học giả Đào Duy Anh: Quận Tân Xương “Thời thuộc Ngô, Tôn Hạo đặt quận Tân Hưng. Tấn Vũ Đế diệt Ngô đổi là quận Tân Xương. Quận đặt từ thời Ngô Mạt Đế Tôn Hạo cuối đời Tam Quốc, tách ra từ quận Giao Chỉ, sang thời Tấn không thay đổi. Tân Xương gồm có 6 huyện, 3.000 hộ. Các huyện thuộc Tân Xương là: Mê Linh, Gia Hưng, Ngô Định, Phong Sơn, Lâm Tây, Tây Đạo. Quận này được xác định vị trí ở vùng bao gồm: huyện Mê

1 Dẫn theo Nguyễn Hữu Tâm, “Thư tịch cổ Trung Quốc viết về Lý Bí và cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo” trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế, tổ chức tại Hà Nội, năm 2012

2 Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Sđd, tr 172.3 Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội, 1998, tr.171.62

Page 63: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Linh (Hà Nội), phía bắc thị xã Sơn Tây (Hà Nội), tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Phú Thọ và tỉnh Yên Bái”1.

Trước hết tìm hiểu về diên cách và sự thay đổi cương vực của quận Tân Xương. Theo các nguồn sử liệu, quận Tân Xương đời Hán là huyện Mê Linh; đời Ngô là quận Tân Hưng; đời Tấn là quận Tân Xương gồm có 6 huyện: Mê Linh, Gia Ninh, Phong Sơn, Lâm Tây, Tây Đạo, Ngô Định; đời Tống và Tề cơ bản vẫn theo như đời Tấn. Đến đời Tuỳ thì Tân Xương chia làm 3 huyện là Gia Ninh, Tân Xương, An Nhân. Đời Đường đổi làm Phong Châu, năm 621 chia làm 6 huyện: Gia Ninh, Tân Xương, An Nhân, Trúc Lạc, Thạch Đê và Phong Khê. Năm 758 chia lại làm 5 huyện: Gia Ninh, Tân Xương, Thừa Hoá, Tùng Sơn, Châu Lực.

Như thế ta thấy Tân Xương trong quá trình phát triển lúc đầu mang tên của một quận sau là tên của một huyện. Cho dù ở cấp độ hành chính nào danh xưng Tân Xương vẫn luôn hiện hữu khi các sử liệu chép về các đơn vị hành chính đến trước thế kỷ X. Điều đó chứng tỏ trong khu vực Phong Châu ở thế kỷ thứ VIII, Tân Xương luôn có một vị trí trọng yếu cả về địa thế và không tách rời tiềm năng về sức người và sức của của vùng đất này. Một vùng đất vốn có nhiều đóng góp trong sự nghiệp dựng nước của các Vua Hùng và đấu tranh chống ách cai trị của phong kiến phương Bắc.

Trong huyện Tân Xương có động Khuất Lão (hoặc còn gọi là Khuất Liêu).Trước hết cần làm rõ khái niệm Động. Về tổ chức các đơn vị hành chính cấp

cơ sở, các chính quyền cấp trung ương trong các thời kỳ lịch sử, trong quá trình thực hiện chính sách cai trị, bất kỳ một chính thể nhà nước trung ương nào cũng muốn uy quyền của mình đến tận làng xã. Nhưng tham vọng đó không phải dễ thực hiện, vì thế mà mỗi chính quyền tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà có sách lược khác nhau.

Động không chỉ gắn với các sự kiện, nhân vật quan trọng mà trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước Động là một đơn vị hành chính cấp cơ sở, được ghi chép lại trong các nguồn sử liệu. Trong Kỷ nhà Đinh, khi viết về Đinh Tiên Hoàng, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Họ Đinh, húy là Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng”2.

Năm 1490, vua Lê Thánh tông tiến hành cải cách hành chính, đã phân chia nước ta có 13 xứ Thừa tuyên và phủ Phụng Thiên gồm 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6.815 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 trường. Đến thời Nguyễn trong các đơn vị làng, xã được ghi trong Các trấn, tổng, xã danh bị lãm, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí “động” vẫn là một đơn vị hành chính cấp cơ sở ở vùng miền núi, tương đương như xã, thôn ở vùng đồng bằng.

Như vậy khái niệm Động là một đơn vị hành chính đã ra đời rất sớm và tồn tại đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nếu đến thời Nguyễn, Động là đơn vị hành chính cơ sở như cấp làng xã thì trước đó nhất là từ các thế kỷ từ XV trở về

1 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005, tr. 74.

2 Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tập 1, tr. 205.

63

Page 64: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

trước dù là cấp cơ sở nhưng cương vực của nó rất rộng, tương đương như một tổng hoặc một huyện của thế kỷ XIX.

Động Khuất Lão là một địa danh lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lý Bí đã được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.

Do nhiều điều kiện, khách quan và chủ quan, việc tìm hiểu, trước đây việc xác định địa bàn cụ thể của Động Khuất Lão chỉ mới dừng lại ở mức giả định.

Đặng Xuân Bảng trong sách Việt sử cương mục tiết yếu chép: “Quân Lương tiến đánh, quân Bí tan vỡ, lui về giữ động Khuất Lạo (có lẽ là vùng Thái Nguyên)1

.Đào Duy Anh trong cuốn Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX,

viết: “… Bá Tiên đuổi theo, Lý Bôn phải chạy sang huyện Tân Xương (tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay), đóng binh ở hồ Điển Triệt (tức Đầm Vạc, cũng gọi là hồ Tích Sơn). Quân Lương đến cửa hồ, đóng lại không dám tiến nữa. Nhưng một đêm, nhân nước hồ lên to, Bá Tiên cho quân theo nước lên mà tiến phá được nghĩa binh. Lý Bôn phải rút quân vào động Khuất Liêu (ở làng Đào Xá, gần Hưng Hóa ngày nay). Ở đây Lý Bôn lo nuôi lực lượng để mưu khôi phục. Mặt ngoài thì giao cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục giữ binh quyền mà chống lại quân Lương”2.

Theo sử cũ của ta, từ sau khi rút về động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị đau yếu luôn. Ông giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Hai năm sau vua mất”3.

Có thể khẳng định rằng động Khuất Lão hay Khuất Liêu hay Khuất Lạo tuy cách gọi có khác nhau, nhưng đều là một địa danh lịch sử gắn liền với cuộc khởi nghĩa của vua Lý Nam Đế. Các nhà sử học đi trước đều có cái nhìn tương đối thống nhất rằng, sau khi vua Lý Nam Đế thất bại trong trận đánh với quân Lương tại hồ Điển triệt đã rút quân về động Khuất Lão, giao binh quyền cho Triệu Quang Phục và mất tại đây. Tuy nhiên các tác giả đã chưa xác định chính xác vùng động Khuất Lão. Tác giả Đặng Xuân Bảng nghi ngờ đó là vùng đất thuộc địa phận tỉnh Thái Nguyên, còn Đào Duy Anh lại cho đó là thuộc làng Đào Xá, mà Đào Xá là vùng đất nằm giáp với địa giới xã Hưng Hóa, huyện Tam Nông nhưng lại thuộc địa phận của huyện Thanh Thủy.

Đây chính là những gợi ý khoa học để các nhà nghiên cứu sau này tiến hành điều tra khảo sát, xác định cương vực cụ thể của địa danh nổi tiếng này.

Trải qua quá trình nghiên cứu, khảo sát, năm 1973 Đỗ Đức Hùng đã làm luận văn tốt nghiệp Đại học với nội dung chủ yếu là xác định vị trí của Động Khuất Lão và sau đó năm 1980 công bố chuyên luận Về tên đất Thái Bình, quê hương của Lý Bôn trong cuộc khởi nghĩa chống quân Lương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 191, tháng 3-4 năm 1980.

Từ các kết quả nghiên cứu của Đỗ Đức Hùng, cùng sự thẩm định của các nhà khoa học trung ương và địa phương, vị trí của động như sau: “Động Khuất Lão là

1 Đặng Xuân Bảng: Việt sử cương mục tiết yếu. Nxb Khoa học xã hội, H. 2000, tr. 41.2 Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX. Nxb Văn hóa Thông tin, H.

2002, tr. 137.3 Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam, tập I. Nxb

Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, H. 1991, tr. 266.64

Page 65: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

tên một khu đồi hiện nằm giữa hai xã Văn Lang và Cổ Tiết thuộc huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ, gồm 3 quả đồi ở bờ phải sông Hồng, hiện cách khoảng 1 km”4.

Ở khu vực này trong dân gian còn lưu truyền tên gọi là khu Cổ Bồng, Tam Khu hay Khu Lăng, vì tương truyền đây là khu mộ Lý Nam Đế; xưa có đền thờ Lý Nam Đế và Lý Thiên Bảo, sau dời sang làng Danh Hựu. Quanh khu đồi là đồng lầy bao bọc, xưa là khu đất cấm, chỉ có ngày tế lễ, dân mới vào, đi bằng thuyền. Nhìn xa, động Khuất Lão trông như một bông sen, cuống bám vào dãy rừng Cấm thuộc xã Văn Lang (Lương), 3 cánh xòe trên cánh đồng chiêm trũng thuộc xã Cổ Tiết. Cũng như Danh Hựu, làng Tự Cường (cách Danh Hựu 1 km) cũng có đền thờ Lý Bí và Lý Thiên Bảo. Cả vùng này kiêng tên Bí - gọi là Bầu; kiêng tên Bảo - gọi là Biểu. Việc thờ Lý Bí ngày trước theo nghi lễ thờ vua….

Động Khuất Lão có một vị trí chiến lược đối với cuộc khởi nghĩa Lý Bí, phía Đông được bảo vệ bằng dòng sông Hồng. Sông Hồng ở khu vực này nước luôn chảy xiết, dòng sông rộng là điều kiện thuận lợi trong việc phòng thủ, không để cho kẻ thù có thể tấn công bất ngờ được. Còn ba phía còn lại vào đầu thế kỷ VI và đến trước thế kỷ X có lẽ vẫn được bao bọc bởi hệ thống đầm lầy và rừng rậm.

Sau khi thất bại tại trận thủy chiến trên hồ Điển Triệt, Lý Nam Đế nhận thấy Động Khuất Lão là nơi có địa thế đắc dụng để tiếp tục khôi phục lại lực lượng, chờ thời cơ mở cuộc phản công đánh đuổi quân Lương, đồng thời không cho quân địch có điều kiện thuận lợi nhằm đánh úp vào quân của mình. Tiếc rằng, vua Lý Nam Đế bị bệnh, mất quá sớm, không thể tổ chức được một đội quân hùng mạnh phản công lại quân xâm lược nhà Lương.

Theo các tài liệu thì tổng Văn Lang thuộc huyện Tam Nông thuộc phủ Gia Hưng. Tổng Văn Lang, đời Trần về trước là châu Cổ Nông. Thời thuộc Minh vẫn gọi là châu Cổ Nông thuộc phủ Tam Giang. Năm Quang Thuận 10 (1469) đời Lê Thánh Tông định bản đồ toàn quốc, đổi tên là huyện Tam Nông thuộc phủ Đà Dương thừa tuyên Sơn Tây. Khoảng niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1719) đặt thuộc phủ Lâm Thao. Năm Minh Mệnh 12 (1831) đổi thuộc phủ Gia Hưng. Huyện Tam Nông phía Đông giáp huyện Sơn Vi tỉnh Sơn Tây, phía Tây giáp huyện Thanh Sơn, phía Nam giáp huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, phía Bắc giáp huyện Cẩm Khê tỉnh Sơn Tây. Đông Tây cách nhau 41 dặm. Nam Bắc cách nhau 48 dặm. Trụ sở của huyện đặt ở xã Cổ Tiết, tổng Văn Lang.

Nguồn tư liệu trên cho biết, xã Cổ Tiết vào thời Nguyễn là trung tâm của huyện Tam Nông. Từ đó ta có thể đoán định đây là một trong những địa bàn có vai trò và vị trí tương đối quan trọng của huyện Tam Nông và có một sự phát triển nhất định về kinh tế, xã hội.

4 Theo kết quả nghiên cứu khảo sát của Đỗ Đức Hùng Về tên đất Thái Bình, quê hương của Lý Bôn trong cuộc khởi nghĩa chống quân Lương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 191, tháng 3-4 năm 1980; Trần Nam Trung, Về vị trí và quy mô của động Khuất Lão liên quan tới cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam Đế. Vũ Kim Biên, Về vị trí hồ Điển Triệt và động Khuất Lão trong cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam đế trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế, Tổ chức tại Hà Nội , năm 2012.

65

Page 66: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Vậy tại sao Lý Nam đế lại chọn Khuất Lão làm căn cứ địa để chống lại cuộc xâm lược của nhà Lương? Trong lịch sử khi chọn các địa điểm đặt là lỵ sở của bộ máy chính quyền cấp huyện, cấp tỉnh, bao giờ người ta cũng chọn ngoài vị thế về các điều kiện tự nhiên còn gồm cả các yếu tố về kinh tế và xã hội.

Trên các cơ sở đó, tuy vào thế kỷ VI, vùng đất này còn là nơi chưa có sự phát triển như các vùng đồng bằng sông Hồng, nhưng trước sự tấn công của nhà Lương, Động Khuất Lão xưa và khu vực Văn Lương, Cổ Tiết và cả huyện Tam Nông ngày nay không chỉ có địa thế thuận lợi để có thể “thủ” và “công” mà còn là có sự phát triển về kinh tế xã hội hơn các nơi khác. Chính vì thế mà chỉ trong một thời gian ngắn Lý Nam Đế đã có “2 vạn tướng sĩ, đóng hàng loạt các chiến thuyền, chật kín trong hồ”. Có thể số liệu trên chưa thật sự thuyết phục, nhưng nó là một trong các minh chứng phản ánh phần nào về lực lượng của Lý Nam đế ở Khuất Lão và cũng nói lên tiềm năng dân cư của khu vực, lòng yêu nước của nhân dân các dân tộc trong vùng để Lý Nam Đế tập hợp lực lượng chiến đấu chống lại quân Lương.

Cùng với kết quả nghiên cứu mới nhất được công bố quê của Lý Nam Đế ở tại xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên1, cương vực của động Khất Lão ở huyện Tam Nông mà lõi là các xã Văn Lương, Cổ Tiết đã càng thêm khẳng định “Lý Nam đế không chỉ có chí diệt giặc, cứu dân mà còn là người khởi đầu nghiệp Đế của dân tộc ta trong thời kỳ bị phong kiến Trung Quốc đô hộ”./.

Hà Nội, tháng 9 năm 2013H.M.K

LÝ NAM ĐẾ VỚI CĂN CỨ ĐỘNG KHUẤT LÃO, XÃ VĂN LƯƠNG, HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ

TS. Nguyễn Anh Tuấn1 Nguyễn Minh Tường, “Vấn đề quê hương Lý Nam đế - Một nghi án lịch sử cần được làm

sáng tỏ” và Nguyễn Hữu Khánh, “Về quê hương vua Lý Nam Đế” trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế, tổ chức tại Hà Nội, năm 2012.

66

Page 67: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Giám đốc Bảo tàng Hùng Vương

Lý Nam Đế (503-548) là vị Hoàng đế đã sáng lập ra triều đại Tiền Lý, khai sinh ra nhà nước Vạn Xuân. Tên ông là Lý Bí (còn gọi là Lý Bôn). Người làng Thái Bình, phủ Long Hưng (có thể nay địa danh này chính là vùng Sơn Tây - Phú Thọ).

Ông là người văn võ toàn tài, đã đứng lên lãnh dạo nhân dân khởi nghĩa đánh đuổi quân đô hộ, tự xưng là Nam Đế (tức vua nước Nam) đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Lý Nam Đế cũng là vị Hoàng Đế đầu tiên của nước ta sau khi giành độc lập tự chủ từ tay phong kiến phương Bắc. Ông đã thành lập một triều đình có đế vương, định niên hiệu, ngang hàng với nước lớn ở phương Bắc. Vị vua này cũng đã được tôn vinh là 1 trong 14 vị anh dùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.

Sử cũ ghi lại rằng tháng 6 năm 545, nhà Lương cho Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu và Trần Bá Tiên làm Tư mã đem quân xâm lấn Nam Việt, lại sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội quân với Dương Phiêu ở Giang Tây. Trần Bá Tiên đem quân đi trước. Quân của Trần Bá Tiên đến Giao Châu, Lý Nam Đế đem 3 vạn quân chống giặc bị thua ở Chu Diên và sông Tô Lịch. Ông phải bỏ thành Long Biên chạy về giữ thành Gia Ninh (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc). Quân Lương truy đuổi theo quyết tiêu diệt Lý Nam Đế. Tháng Giêng năm 546, Lý Nam Đế không giữ được thành Gia Ninh, trong trận này tướng Phạm Tu (là tướng võ của vua Lý Nam Đế) đã tử trận. Sau đó ông phải chạy về đất quận Tân Xương (nay là khu vực huyện Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn). Khi biết quân tướng Lý Nam Đế đóng quân ở Tân Xương, giặc Lương lại tiến đến đuổi đánh. Thấy mình thế yếu, không chống đỡ nổi, nên Lý Nam Đế đã cho rút quân lên đóng ở động Khuất Lão, đợi thu xếp quân sĩ lại ra đánh trả. Được gần 1 năm, tháng 8 năm 546 Lý Nam Đế đem hai vạn quân đánh Trần Bá Tiên ở hồ Điển Triệt (nay là xã Tứ Yên, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc), thuyền bè san sát quyết chiến với quân Lương. Vùng đồi gò mà quân tướng Lý Nam Đế đóng quân được bao bọc bởi đồng chiêm và hồ Điển Triệt, xung quanh ruộng lầy, hồ nước sâu bao bọc hiểm trở. Việc đi lại chỉ có thể nhờ thuyền độc mộc, nhưng khi nước lũ từ sông Lô tràn vào thì nước mênh mông có thể đi lại bằng thuyền lớn. Do địa thể hiểm trở nên Quân Lương lo lắng hoảng sợ, án binh bất động không dám tiến đánh. Nhưng không may mắn, nước lũ sông Lô năm ấy dâng cao tràn ngập hồ Điển Triệt. Trần Bá Tiên theo dòng nước sông Lô tràn vào như vũ bão. Quân tướng Lý Nam Đế chủ quan không phòng bị, thế trận bị vỡ, cuối cùng ông lại tìm lối rút lui về Động Khuất Lão. Do bị bệnh nặng nên Ông đã giao phó cho tướng Triệu Quang Phục tổ chức lực lượng đánh giặc.

Ngày 13/4/548 (tức ngày 20 tháng Ba năm Mậu Thìn) Lý Nam Đế qua đời trong một cơn bạo bệnh. Như vậy, căn cứ cuối cùng của Lý Nam Đế là động Khuất Lão, sự nghiệp anh hùng của ông dừng lại ở động Khuất Lão.

Vậy, động Khuất Lão có vai trò như thế nào trong cuộc đời và sự nghiệp của Lý Nam Đế và địa danh lịch sử này chính xác là ở đâu?

67

Page 68: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư có chú giải về động Khuất Lão như sau: “Người ta truyền rằng động Khuất Lão chỗ Lý Bôn rút là chỗ làng Đào Xá thuộc huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ ở hữu ngạn sông Hồng, ở đấy hiện có đền thờ Lý Bôn”. Trong bản “Báo cáo về việc phát hiện động Khuất Liêu trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí (541 - 546)” từ năm những năm 70 của thế kỷ 20, đã có những căn cứ qua khảo sát thực tế xác định về địa danh lịch sử này. Theo chú giải của Đại Việt sử ký toàn thư: Động Khuất Lão nằm làng Đào Xá, nhưng địa danh này ở Phú Thọ thuộc huyện Thanh Thủy, chứ không phải huyện Tam Nông. Đã có nhiều cuộc khảo sát, tìm kiếm tại xã Đào Xá- huyện Thanh Thủy nhưng không có kết quả và đi đến kết luận rằng địa danh lịch sử động Khuất Lão không thuộc xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy; tại đây cũng không có dấu tích gì liên quan đến vua Lý Nam Đế. Tuy nhiên, khi khảo sát tại huyện Tam Nông thì có động tên là Khuất Liêu (hay Khuất Lão) và đặc biệt ở đây lại còn có một số đền thờ Lý Bí. Động Khuất Lão là một quả đồi bao quanh là rừng và đồng chiêm trũng, nay thuộc xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Với địa thế như thế này thì có điều kiện hoàn toàn phù hợp với một căn cứ. Hiện nay, tại động Khuất Lão - huyện Tam Nông vẫn còn có mộ và nền móng cũ của ngôi đền thờ Lý Nam Đế cùng một số vị khác là Lý Thiên Bảo, Lý Phật tử (hai người này là anh em và là tướng lĩnh của Lý Nam Đế) cùng thờ với hai vị thủy thần có công giúp vua vượt sông là Long Hải Vương và Lân Hải Vương. Như vậy có thể khẳng định được rằng địa danh lịch sử năm xưa: Động Khuất Lão thuộc địa danh xã Văn Lương, huyện Tam Nông.

Vấn đề địa điểm động Khuất Lão đã được xác định, nhưng còn vai trò của nó đối với cuộc đời và sự nghiệp của Lý Nam Đế như thế nào?

Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi đại ý rằng: Sau khi Lý Nam Đế bại trận ở thành Gia Ninh, chạy đến đất Tân Xương. Quân nhà Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Đến tháng 8, Lý Nam đến lại đem quân đóng ở hồ Điển Triệt. Trận đánh nhau với quân Trần Bá Tiên tại hồ Điển Triệt do không phòng bị nên quân Lý Nam Đế đã bị thua trận, phải chạy về lui giữ ở trong động Khuất Lão.

Còn trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim lại có chép: “ Trần Bá Tiên đem quân lên vây thành Gia Ninh, Lý Nam Đế chạy về giữ thành Tân Xương… Quân nhà Lương tiến lên đuổi đánh, Lý Nam Đế thấy thế mình yếu, chống không nổi, nên mới rút quân lên đóng ở động Khuất Liêu (tức Khuất Lão), để đợi thu xếp được quân sĩ lại ra đánh. Được non một năm, Lý Nam Đế đem hai vạn quân ra đánh nhau với Trần Bá Tiên ở hồ Điển Triệt, lại thua, Lý Nam Đế bèn giao binh quyền lại cho tả tướng Triệu Quang Phục chống nhau với quân nhà Lương rồi trở về Khuất Liêu”.

Nếu so sánh nội dung lịch sử trong hai cuốn sử trên thì có thể thấy rằng vai trò của động Khuất Lão trong sự nghiệp giữ nước của vua Lý Nam Đế là hoàn toàn khác nhau. Theo như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì động Khuất Lão chỉ là nơi rút quân sau khi đã bại trận của Lý Nam Đế và là nơi ở cuối cùng trong cuộc đời ông vua này. Còn theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì Khuất Lão là căn cứ án binh, đợi thu xếp, bố trí lực lượng để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu tiếp theo chống lại quân Lương; sau khi thua trận ông lại lui về đây dưỡng bệnh trao quyền lại cho Triệu Quang Phục và qua đời tại đây. Như vậy, trước tiên có thể khẳng định được rằng Động Khuất Lão chính là nơi ở cuối cùng của Lý Nam Đế. Nhưng,

68

Page 69: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

đây liệu có phải là một căn cứ quân sự trong sự nghiệp bảo vệ giang sơn của vua Lý Nam Đế? Đây là vấn đề lịch sử cần phải trao đổi thêm để làm sáng tỏ.

Theo các tư liệu lịch sử thì khi quân nhà Lương mở cuộc xâm chiếm sang vùng lãnh thổ đất nước Vạn Xuân, quân tướng vua Lý Nam Đế liên tục thua trận từ bỏ thành Long Biên cho đến thành Gia Ninh, chạy đến quận Tân Xương nhưng sau cũng phải rút lui khỏi đây. Sau đó, Lý Nam Đế đã cho đóng quân ở hồ Điển Triệt hay ở động Khuất Lão? Có hai thông tin lịch sử được đưa ra: thông tin lịch sử thứ nhất, sau khi tiếp tục thất bại tại Tân Xương Lý Nam Đế đóng quân tại khu vực hồ Điển Triệt (theo Đại Việt sử ký toàn thư); thông tin lịch sử thứ hai, sau khi chạy khỏi Tân Xương, Lý Nam Đế đóng quân tại căn cứ Động Khuất Lão rồi sau đó mới kéo quân ra hồ Điển Triệt để chiến đấu với quân Lương (theo Việt Nam sử lược và Lịch sử Việt Nam, tập 1). Có lẽ thông tin thứ hai là hợp lý hơn. Vì, sau những thất bại liên tục và nặng nề như vậy, thế và lực đã suy yếu không còn khả năng chống đỡ, nên chắc chắn vua tôi nhà Tiền Lý sẽ phải sử dụng biện pháp quân sự án binh, dành thời gian chiêu mộ, rèn luyện thêm binh sĩ, bàn mưu tính kế chuyện chiến đấu tiếp theo. Trong khi hồ Điển Triệt chỉ có một khu vực gò nổi ở lòng hồ (gọi là gò Dền), vị thế hiểm trở nhưng xung quanh biệt lập sông nước mênh mông, không phải là một căn cứ có thể đóng quân lâu dài để dưỡng binh, rèn binh mà chỉ là địa điểm diễn ra trận thủy chiến năm xưa. Còn động Khuất Lão có địa thế khá phù hợp với việc xây dựng một căn cứ kháng chiến. Như vậy, nơi đây đã từng là địa điểm căn cứ phục vụ cho việc bảo toàn lực lượng, rèn luyện binh sĩ trong cuộc chống trả với quân nhà Lương của vua Lý Nam Đế. Và sau khi thua trận ở lòng hồ Điển Triệt ông lại rút về động Khuất Lão. Theo các tư liệu lịch sử, tại nơi đây ông bị nhiễm lam chướng ốm nặng, trao quyền lại cho tướng Triệu Quang Phục và trút hơi thở cuối cùng tại vùng căn cứ này.

Như vậy có thể cho rằng: Động Khuất Lão là căn cứ quân sự mang tính sách lược của vua Lý Nam Đế trong một thời gian nhất định, trong cuộc chiến tranh chống nhà Lương xâm chiếm, với vai trò là nơi dưỡng binh, chiêu binh, mưu tính việc bảo vệ giang sơn đất nước của vua tôi Lý Nam Đế. Gần cuối cuộc đời Lý Nam Đế cũng gắn liền với căn cứ động Khuất Lão, do khí hậu rừng thiêng, nước độc thời đó, ông ốm đau triền miên và đã qua đời ở tuổi 46 tại đây. Dấu tích đền thờ của ông tại vùng đất này là minh chứng cho dấu ấn của cuộc đời Lý Nam Đế và một giai đoạn cuộc chiến tranh chống nhà Lương đối với người dân tại địa phương.

Vùng đất trung du Phú Thọ trong suốt quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền của dân tộc luôn chiếm giữ một vị thế quân sự quan trọng, nơi đây nhiều căn cứ chiến đấu đã được xây dựng, có vai trò quan trọng trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Việc nhìn nhận, đánh giá chính xác những địa danh lịch sử đó của dân tộc là việc làm hết sức cần thiết để đánh giá toàn diện lịch sử đấu tranh chống xâm lăng của dân tộc ta. Hy vọng trong thời gian tới, căn cứ động Khuất Lão sẽ sớm được công nhận là một địa điểm di tích lịch sử gắn liền với một danh nhân lịch sử, một giai đoạn lịch sử quan trọng của dân tộc. Thêm một di sản, một địa điểm ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân, giáo dục truyền thống lịch sử cho các thế hệ hôm nay và mai sau./.

69

Page 70: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

N.A.T

NHỮNG ĐỊA DANH TRÊN VÙNG ĐẤT TAM NÔNG - PHÚ THỌ CÒN GHI DẤU ẤN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN

LƯƠNG CỦA LÝ NAM ĐẾ THẾ KỶ THỨ VI

70

Page 71: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

ThS. Nguyễn Tiến Khôi Chủ tịch Hội KHLS tỉnh Phú Thọ

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương (Trung Quốc) giữa thế kỷ thứ VI đã khắc ghi những dấu son không thể phai mờ trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến này, đồng bào các dân tộc ở Tam Nông nói riêng, Phú Thọ nói chung đã tham gia tích cực, góp sức cùng Lý Nam Đế chống quân xâm lược, để lại những trang sử vẻ vang trong lòng dân tộc.

Trong lịch sử nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân ta phải chịu sự thống trị của nhiều triều đại phong kiến phương Bắc. Không cam tâm làm nô lệ, hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã nổ ra chống lại ách thống trị của kẻ thù. Mở đầu là khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40-43), đến cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (248) và cuộc khởi nghĩa của Lý Bí, đưa đến thành lập nhà nước Vạn Xuân (542 đến 548).

Nhà Lương thay nhà Tề thống trị nước ta từ năm 505 đến 555. Dưới ách cai trị tàn bạo của quân xâm lược, nhân dân ta hết sức cơ cực. Tháng giêng năm 542, Lý Bí đã tập hợp nhân dân đứng lên khởi nghĩa, nhanh chóng đánh đuổi quân xâm lược về bên kia biên giới, giành độc lập cho dân tộc.

Với việc chống lại ách thống trị của ngoại bang, để lập ra nhà nước Vạn Xuân độc lập và Lý Bí xưng Hoàng đế thể hiện tinh thần bất khuất, ý chí quật cường của dân tộc ta, nhưng điều đó lại là cái gai trước mắt đối với kẻ thù xâm lược. Vì thế, nhà Lương quyết đem quân xâm lược lại nước ta và tiêu diệt nhà nước Vạn Xuân non trẻ.

Năm 545, nhà Lương xuất quân tiến đánh nước ta. Trước sức mạnh của quân thù, trong khi lực lượng quân ta còn non yếu, chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, buộc Lý Nam Đế phải chỉ đạo quân ta vừa chặn đánh địch, vừa rút lui để bảo toàn lực lượng.

Sau khi đại bản doanh ở Long Biên thất thủ, Lý Nam Đế cho quân lui về thành Gia Ninh (Bạch Hạc, Việt Trì). Quân Lương tiếp tục truy đuổi, Lý Nam Đế lui quân về giữ thành Tân Xương (Phong Châu - Phú Thọ). Quân ta chống đỡ quyết liệt, nhưng trước sức mạnh áp đảo của kẻ thù, thành Tân Xương lọt vào tay giặc.

Theo hướng dẫn của các Tù trưởng địa phương, Lý Nam Đế cho quân rút về hướng Tây, nơi có miền rừng núi hiểm trở, an toàn cho việc bảo toàn lực lượng, tiếp tục chuẩn bị cho những trận chiến đấu sau này. Lý Nam Đế chọn nơi đóng quân là động Khuất Lão (thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ ngày nay).

Ở đây, Lý Nam Đế đã được nhân dân địa phương che chở và hết lòng ủng hộ. Chỉ sau vài tháng, nhân dân quanh vùng đã nô nức tham gia lực lượng kháng chiến, nên quân số Lý Nam Đế chiêu mộ được đã lên tới vài vạn người.

Để tiếp tục cuộc kháng chiến, Lý Nam Đế đã đưa lực lượng về đóng quân tại hồ Điển Triệt (Tứ Yên, Lập Thạch, Vĩnh Phúc). Đây cũng là một vị trí hiểm yếu, có sông, hồ, rừng núi bao quanh, rất thuận lợi cho quân ta đồn trú và tiến đánh kẻ thù. Khi biết Lý Nam Đế đóng quân tại đây, quân Lương tiến hành bao vây. Lợi dụng đêm tối, giông bão, nước sông dâng cao quân Lương đã đánh úp quân ta buộc Lý Nam Đế lại một lần nữa phải rút lui, đem lực lượng còn lại về động Khuất Lão để tiếp tục củng cố lực lượng kháng chiến.

71

Page 72: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Thời kỳ cuối cùng ở động Khuất Lão, do bệnh nặng Lý Nam Đế đã trao binh quyền cho Triệu Quang Phục, một tướng trẻ có tài tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống lại quân xâm lược nhà Lương.

Ở động Khuất Lão trong vòng 2 năm, mặc dù được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ, nhưng bệnh tình quá nặng Lý Nam Đế đã tạ thế vào ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn (tức 13-4-548).

Để tưởng nhớ Lý Nam Đế, người anh hùng dân tộc đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương vào giữa thế kỷ thứ VI, nhân dân địa phương cùng với nghĩa quân đã mai táng ông chu đáo ngay tại nơi đồn trú cuối cùng ở động Khuất Lão. Về sau nhân dân xây mộ, lập đền để con cháu mãi mãi hương khói, thờ phụng tri ân công đức vị Hoàng đế đầu tiên của đất nước.

Ngày nay, chúng ta có dịp tìm hiểu về nơi đồn trú của Lý Nam Đế trong thời gian cuối cùng của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương mới thấy hết vị trí lợi hại, có tầm chiến lược của động Khuất Lão nói riêng và khu vực địa bàn Tam Nông nói chung.

Khu vực động Khuất Lão xưa kia thuộc thôn Danh Hựu, tổng Văn Lang. Đến năm 1955, khu vực động Khuất Lão thuộc địa giới hành chính xã Văn Lang (Văn Lương hiện nay), huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

Động Khuất Lão nằm ở hữu ngạn sông Thao, cách bờ sông khoảng 500m. Vào thế kỷ thứ VI, nơi đây còn là những cánh rừng đại ngàn kéo dài từ bờ sông Thao vào sâu các dãy núi phía Tây huyện Tam Nông, tiếp giáp với Thanh Sơn, Yên Lập. Sau lưng là rừng rậm, trước mặt là dòng sông Thao ngày đêm nước chảy xiết, xa hơn một chút về phía Bắc có dòng sông Bứa, phía Nam là sông Đà, tạo thành chiến lũy tự nhiên bao bọc cho căn cứ kháng chiến của Lý Nam Đế.

Tại khu vực động Khuất Lão, địa thế hết sức hiểm trở. Ở giữa khu vực động là một vùng đất nhô cao, nơi đóng đại bản doanh của Lý Nam Đế, nay có tên gọi là gò Cổ Bồng. Để vào được khu vực trung tâm của đại bản doanh chỉ có lối đi độc đạo từ phía Tây qua làng Cổ Tiết, qua Đính Trại - nơi có các đồn trại của nghĩa quân đóng án ngữ bảo vệ, không cho người lạ mặt vào Động. Tiếp đến là đoạn đường hiểm yếu để đi vào Động. Trên đoạn đường này có các khe nhỏ chỉ một người qua được; phía trên là dốc đá dựng đứng, cây cối rậm rạp; phía dưới là các ao hồ nước sâu, bùn lầy ngăn cách với bên ngoài. Vì thế những cái tên như Rừng Cấm, Ao Quan là những địa danh có từ thời Lý Nam Đế đóng quân nơi đây.

Bên cạnh vị trí đắc địa, động Khuất Lão còn nằm trong một vùng có thế chiến lược, với những cánh đồng ven sông màu mỡ, dân cư đông đúc, có rừng núi, sông ngòi bao bọc, rất thuận lợi để Lý Nam Đế xây dựng căn cứ kháng chiến lâu dài chống quân xâm lược nhà Lương.

Chính vì thế, mà sau khi rút lui về động Khuất Lão lần thứ nhất (năm 546) chỉ sau một thời gian ngắn Lý Nam Đế đã được đồng bào các dân tộc ở địa phương nơi đây hết lòng ủng hộ và gia nhập nghĩa quân, lực lượng nhanh chóng phát triển lên tới vài vạn người.

Đến khi bị vây hãm ở hồ Điển Triệt (Tứ Yên, Lập Thạch) Lý Nam Đế lại một lần nữa lui quân về đóng ở động Khuất Lão, tiếp tục củng cố lực lượng chờ thời cơ phản công lại kẻ thù xâm lược. Do lâm trọng bệnh, Lý Nam Đế đã trao quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến và Ông mất tại đây.

72

Page 73: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Bây giờ, khi đến thăm khu vực Động Khuất Lão, chúng ta không còn nhận thấy cảnh thâm u, hiểm trở như xưa. Những cánh rừng đại ngàn không còn nữa. Khu vực đại bản doanh của Lý Nam Đế nằm trên một quả đồi lộ thiên hình đài sen, xung quanh có các ao hồ do quá trình bồi đắp của dòng sông Thao (sông Hồng) mà thành. Trải qua thời gian, với các biến thiên của lịch sử động Khuất Lão còn có các tên gọi khác nhau như Khuất Liêu, Tam Khu, Liên Hoa, gò Cổ Bồng, Gò Cấm. Tương truyền khi Lý Nam Đế quy tiên, thi hài ông được chôn cất tại nơi đây, nên còn có tên gọi là khu Lăng.

Với tấm lòng ngưỡng mộ và thành kính đối với Lý Nam Đế - người đã có công chống ngoại xâm bảo vệ non sông đất nước, nhân dân địa phương đã xây mộ, dựng đền để tri ân công đức của Ngài.

Vua Lý Nam Đế băng hà đến nay đã gần 1500 năm. Do thiên tai và chiến tranh tàn phá, những ngôi đền do ông cha ta xây dựng trước đây không còn nữa. Năm 2005 nhân dân địa phương đã tìm được dấu tích (nền móng) của ngôi đền cũ. Năm 2010, UBND huyện Tam Nông xin chủ trương của UBND tỉnh phục dựng lại ngôi đền cùng với mộ phần để tôn thờ vị Hoàng Đế đầu tiên của nước ta ngay trên nền móng cũ tại Gò Cổ Bồng.

Đền được xây dựng khang trang. Kiến trúc gồm hai tòa, tiền sảnh và hậu cung. Trong hậu cung có mộ Lý Nam Đế và pho tượng của Ngài được đúc bằng đồng ở tư thế ngồi rất uy nghi, thể hiện sự trân trọng của nhân dân ta đối với công lao to lớn của Ngài.

Để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc đã an nghỉ tại quê hương, hàng năm, nhân dân địa phương vẫn tổ chức các ngày lễ trọng.

Từ mồng 2 đến 7 tháng Giêng, lễ tưởng nhớ cuộc khởi nghĩa của Lý Bí.Ngày 12 tháng Ba, lễ tưởng nhớ ngày Lý Bí lên ngôi Hoàng đế.Ngày 20 tháng Ba, lễ tưởng nhớ ngày Vua hóa.Ngày 12 tháng Chín, lễ tưởng nhớ ngày Vua sinh.Trong các ngày lễ đó, tháng giêng được nhân dân địa phương tổ chức long

trọng, vừa làm lễ vừa mở hội. Nhân dân tập trung tại các đình làng tổ chức nghi lễ trang nghiêm, thành kính đối với Lý Nam Đế. Sau đó tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian diễn lại các tích trò đánh trận của nghĩa quân, tạo không khí vui nhộn trong dịp đầu xuân.

Tại khu vực động Khuất Lão, mặc dù ngôi đền thờ Lý Nam Đế đã được tu bổ, tôn tạo nhưng việc quy hoạch tổng thể khu vực này để trở thành một di tích lịch sử văn hóa xứng tầm với công lao vị Hoàng đế đầu tiên của nước ta, còn nhiều việc phải làm.

Rất mong các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương cần có sự quan tâm đầu tư để xây dựng khu tưởng niệm Lý Nam Đế khang trang, bề thế để tri ân bậc Tiên Đế đã có công lao to lớn với đất nước.

Khu vực gò Cổ Bồng và đền thờ Lý Nam Đế đã là một di tích lịch sử có vị trí quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Do đó nơi đây cần sớm được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia và dựng tượng đài bề thế để con cháu mãi mãi tôn thờ./.

N.T.K73

Page 74: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

PHỤC DỰNG LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG TƯỞNG NIỆMVUA LÝ NAM ĐẾ TẠI XÃ VĂN LƯƠNG, HUYỆN TAM NÔNG,

TỈNH PHÚ THỌ

Đặng Đình Thuận PCT Hội VNDGPT, TP nghiệp vụ văn hoá

Sở VH, TT&DL Phú Thọ

I. Khái quát thân thế, sự nghiệp vua Lý Nam Đế (503 - 548)Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí (còn gọi là Lý Bôn) người làng Thái Bình, phủ

Long Hưng (khoảng Thạch Thất và thành phố Sơn Tây, Hà Nội). Ông là một vị Hoàng đế đầu tiên của nước ta, người đã sáng lập ra nhà Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân. Ông có tài văn võ, đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ phương Bắc, rồi xưng là Nam Việt Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên (gần thành phố Bắc Ninh ngày nay). Chính sử Trung Quốc đều công nhận Lý Bí là "Giao Châu thổ nhân" (người gốc Giao Chỉ - Việt Nam).

Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503). Từ nhỏ, Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất; 7 tuổi thì mẹ qua đời. Ông đến ở với chú ruột. Một hôm, có một vị Pháp tổ thiền sư đi ngang qua, trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm rèn sách chuyên cần, lại được vị thiền sư gia công chỉ bảo nên Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp. Nhờ có tài văn võ kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.

Năm 541, Thứ sử Giao Châu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng người. Lúc ấy lại có giặc Lâm Ấp quấy phá ở phía Nam. Nhân dân Giao Châu rất khổ cực. Lý Nam Đế làm quan cho chính quyền đô hộ nhưng không hài lòng, nên bỏ về quê, chiêu mộ nghĩa quân. Tinh Thiều, một người giỏi từ chương, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan, nhưng nhà Lương chỉ cho chức "gác cổng thành" nên bỏ về Giao Châu theo Lý Nam Đế. Lúc bấy giờ ông làm chức giám quân ở châu Cửu Đức (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), liên kết với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng. Triệu Túc, tù trưởng ở Chu Diên (có lẽ là Phả Lại, tỉnh Hải Dương ngày nay), phục tài đức của Lý Nam Đế, nên đã dẫn quân theo. Quân của Lý Nam Đế đánh Tiêu Tư thua chạy về Quảng Châu và chiếm lấy Long Biên. Tháng 12 năm 542, vua Lương sai Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng sang đàn áp. Thứ sử Quảng Châu là Hoán (theo Trần thư là Tiêu Ánh) không cho, Tiêu Tư cũng thúc giục. Tử Hùng đi đến Hợp Phố, 10 phần chết đến 6-7 phần, quân tan rã. Năm 543, tháng 4, vua Lâm Ấp xâm chiếm quận Nhật Nam, Lý Nam Đế sai Phạm Tu đánh tan địch ở Cửu Đức. Năm 544, tháng giêng, ông tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến muôn đời. Đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội). Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Thiết lập triều đình với hai ban văn, võ. Lấy Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ.

74

Page 75: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Năm 545, tháng 6, nhà Lương cho Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm Tư mã, đem quân xâm lấn, lại sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội với bọn Phiêu ở Giang Tây (theo Trần thư và Thông giám là Tây Giang, thuộc Quế Lâm). Trần Bá Tiên đem quân đi trước. Khi quân của Bá Tiên đến Giao Châu, Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, tướng Tinh Thiều tử trận. Ông chạy về thành Gia Ninh (xã Gia Ninh, huyện Vĩnh Lạc tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay). Quân Lương đuổi theo vây đánh.

Tháng giêng năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh, tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Tháng 8, ông đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt (xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ, cứ đóng lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng cao 7 thước, tràn đổ vào hồ. Bá Tiên đem quân theo dòng nước tiến trước vào. Quân Vạn Xuân không phòng bị, vì thế tan vỡ, phải lui giữ ở trong động Khuất Lạo, ông ủy cho con Thái phó Triệu Túc là tả tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên.

Năm 548, ngày 20 (ngày Tân Hợi) tháng Ba (tức ngày 13-4 dương lịch), Lý Nam Đế ở động Khuất Lạo lâu ngày bị nhiễm lam chướng, ốm qua đời. Ông ở ngôi được 5 năm (544-548), thọ 46 tuổi.

II. Những căn cứ khoa học, những tư liệu liên quan để phục dựng lễ hội tưởng niệm vua Lý Nam Đế

1. Những kết quả nghiên cứu và công bố trên các tài liệu thông sử chính thống của Việt Nam đều khẳng định triều vua Lý Nam Đế là một triều đại có thật, được thành lập sớm nhất ở nước ta (nhà Tiền Lý). Lý Nam Đế là người đã có công lập nên nước Vạn Xuân, khẳng định độc lập, chủ quyền lãnh thổ đối với các triều đại phong kiến phương Bắc lúc bấy giờ. Vì vậy, phục dựng tổ chức lễ hội tưởng niệm Lý Nam Đế có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện lòng biết ơn và tình cảm tri ân công đức đối với vị Hoàng đế đầu tiên của dân tộc ta và thể hiện đạo lý truyền thống "Uống nước nhớ nguồn; Ăn quả nhớ người trồng cây" của dân tộc Việt Nam nói chung và của nhân dân địa phương nói riêng.

2. Địa điểm gò Cổ Bồng động Khuất Lão xã Văn Lương và làng Danh Hựu xã Cổ Tiết huyện Tam Nông là những địa điểm vua Lý Nam Đế lâm bệnh mất tại đó và liên quan đến việc thờ tự Vua Lý Nam Đế. Theo các cụ cao niên kể lại, từ xưa, nhân dân đã dựng ngôi Đình và Đền thờ trên động Khuất Lão để thờ Lý Nam Đế, Lý Thiên Bảo (anh ruột của Lý Bí), Lý Phật Tử (người trong dòng họ), những người cùng Lý Bí khởi nghiệp và hai thủy thần là Long Hải Vương và Lân Hải Vương đã có công giúp ông và tướng sỹ vượt sông Thao (theo truyền thuyết, khi Lý Nam Đế chạy đến tả ngạn sông Thao gặp nước lớn, không có thuyền mảng vượt sông, phía sau là quân Lương truy đuổi, tình thế vô cùng nguy khốn. Giữa lúc nguy hiểm đó, thủy thần xuất hiện và giúp Lý Nam Đế cùng tướng sĩ vượt qua sông lớn, thoát khỏi sự truy đuổi của quân giặc).

Phía bên phải Đền, khi xưa có Lăng vua dưới gốc cây xương rồng, lăng vua xây gạch như mộ thường. Trước đây mọi nghi lễ cầu cúng đều được tiến hành ở Đình, Đền và Lăng trên gò Cổ Bồng, sau đó rước về đình làng Danh Hựu (còn có

75

Page 76: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

tên Diên Hựu hay Danh Viên) xã Cổ Tiết để tổ chức đình đám, hội hè. Tuy “ngọc phả” bị giặc Pháp lấy mất, nhưng nhân dân vẫn còn ghi nhớ hai câu đối và vẫn còn truyền tụng:

- Thiên khải Thánh minh phù thế đạo Địa lưu thần tích hộ phương dân.

(Tạm dịch: Trời lập bậc Thánh minh để mở đường lớn Đất vẫn còn lưu dấu tích bảo hộ và giúp dân)- Lý triều Thánh đế lưu linh tích Nam quốc sơn hà kiến đại công.

(Tạm dịch: Triều vua Lý như bậc Thánh vương vẫn còn lưu dấu tíchSông núi nước Nam được lập nên nhờ công lớn

Do đi lại thờ cúng khó khăn trở ngại, mỗi lần làm lễ phải qua cánh đồng chiêm trũng (phải đi bằng thuyền) nên nhân dân Danh Hựu làm lễ dỡ đền đem về dựng đấu với đình Danh Hựu, rồi rước nồi hương, bài vị về đình (vào khoảng những năm 1934 - 1935). Sau đó, do tác động của chiến tranh, giặc dã đình Danh Hựu cũng bị tàn phá và lễ hội cũng bị mai một cho đến ngày nay.

Hiện nay, tại địa điểm động Khuất Lão chỉ còn dấu tích của ngôi Đình, qua khảo sát thì hướng của ngôi Đình quay về hướng chính Đông, với chiều dài là 8,2m, chiều rộng là 4,2m, chiều rộng của móng đình là 0,8m. Vật liệu để xây dựng là gạch chỉ với kích thước là 0,24m x 0,11m x 0,05m (đặc trưng gạch thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX). Bên cạnh móng Đình, Đền, năm 2006, nhân dân Văn Lương xây dựng bệ thờ tương truyền là mộ Vua Lý Nam đế để tưởng niệm có viết hai chữ Hán “Thiên Đức” (niên hiệu triều vua Lý Nam Đế) để hương khói thờ cúng Vua Lý Nam Đế. Tuy còn đơn sơ, song việc làm đó đã nói lên tấm lòng và nguyện vọng của nhân dân địa phương đối với vị anh hùng dân tộc. Được sự đồng ý của UBND tỉnh Phú Thọ, huyện Tam Nông đã khôi phục đền thờ vua Lý Nam Đế trên nền đất cũ gần mộ Vua và trên gò Cổ Bồng và đã lập quy hoạch khu di tích bao gồm các thiết chế di tích của ngôi đền thờ danh nhân truyền thống. Còn ngôi đình trên gò Cổ Bồng và đình làng Danh Hựu thuộc xã Cổ Tiết đã bị mất vẫn còn dấu tích của ngôi đình liên quan đến thờ tự Vua Lý Nam Đế (năm 2010 được sự đồng ý của UBND tỉnh nhân dân đã phục hồi xây dựng lại đình Danh Hựu trên nền móng cũ). Đó là những di tích văn hoá vật thể rất quan trọng là điều kiện cơ sở vật chất để làm căn cứ khôi phục di tích và phục dựng các hoạt động lễ tưởng niệm vua Lý Nam Đế và tổ chức các hoạt động hội theo nghi thức truyền thống của dân tộc.

3. Các cụ cao niên kể lại, tục hèm thờ cúng tại đền thờ Lý Nam Đế ở động Khuất Lão cũng rất phong phú. Một năm có 4 kỳ cầu:

- Từ mùng 2 đến mùng 7 tháng Giêng: Tục truyền kỷ niệm ngày khởi nghĩa của Lý Bí ( ngày lễ xuất quân).

- Ngày 12 tháng Ba: kỷ niệm ngày Vua lên ngôi.- Ngày 6 tháng Tám: kỷ niệm ngày Vua hóa (ngày mất).- Ngày 12 tháng Chín: kỷ niệm ngày Vua sinh.Tại Đình Danh Hựu xã Cổ Tiết tương truyền nơi đây xưa kia là vị trí các

tướng sỹ tổ chức đón Vua nên gọi là Bến Nghinh (nghênh), nhân dân đã dựng ngôi đình để tưởng nhớ công lao của Vua Lý Nam Đế. Năm 1971 do nước sông lên cao

76

Page 77: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

những đồ thờ tự trong đình đã bị nước cuốn trôi, hiện nay nhân dân còn giữ lại được 02 bức đại tự có nội dung Thái bình linh huống (Ban cho nền thái bình linh thiêng); Nam thiên chính khí (Chính khí trời Nam).

Hàng năm tổ chức 4 ngày lễ và ngày cầu như sau:- Từ 04 đến 07 tháng Giêng: lễ hội kỷ niệm ngày Vua ra quân- Ngày 12 tháng Ba: kỷ niệm ngày Vua lên ngôi.- Ngày 20 tháng Ba: kỷ niệm ngày Vua mất (Vua hoá).- Ngày 12 tháng Chín: kỷ niệm ngày Vua sinh.Trong các kỳ cầu, lễ tháng Giêng là lớn nhất, đông vui nhất và có nhiều trò

chơi vui khỏe, khéo léo mang tính chất hội làng vào dịp đầu xuân. Các nghi lễ và trò chơi trong dịp đầu xuân để ghi nhớ, mô phỏng các chiến công của các bậc tiền bối trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Để chuẩn bị cho lễ hội, ngay từ trong năm, nhân dân đã phải chuẩn bị trâu, lợn đen, bột bánh, hoa quả, giặt tán, lọng, áo mũ, sơn lại kiệu, chỉnh trang, bao sái các đồ thờ, tế lễ… Trai tráng phân chia nhau lo chuẩn bị sân đấu vật, lo cắt cử người đi mời dân nước nghĩa ở Phiên Quận? (Cẩm Khê) sang năm mới về dự hội xuân. Đến dịp tổ chức, mọi người tập trung ở đình làng, lựa chọn một số người khiêng kiệu đi trước, dân làng theo sau, đến đình, đền Diên Hựu tại động Khuất Lão rồi làm lễ cầu vua và hai vị Thiên Bảo, Phật Tử lên kiệu rước về đình làng dự lễ hội. Đồng thời mọi người cũng đem kiệu ra bờ sông Thao mời hai vị thuỷ thần Long Hải Vương và Lân Hải Vương lên kiệu, rước từ bờ sông về dự hội xuân với dân làng. Sau khi đã rước đủ năm vị, lễ cúng tại đình mới bắt đầu. Trước tiên là cúng vua Lý Nam Đế theo nghi lễ rất trang nghiêm:

Trên năm chéo lọng vàng cờ đỏDưới hai hàng văn võ chầu sang

Tiếp đến là khấn cầu bốn vị công thần, sau cùng mới đến các tướng sỹ của nhà vua. Vật phẩm cầu cúng gồm: bánh giầy, bánh rán, bánh mật, chè lam, chè kho, hoa quả… Cỗ bàn cầu cúng được chia làm 3 nơi: Thượng cung xếp 5 mâm cho vua và 4 vị phối thưởng; hạ đàn đặt 7 mâm cho các tướng; ngoài sân đặt 9 đến 10 mâm cho quân sỹ. Thế rồi các trò chơi tung nõ - nường, cướp vĩ, đấu vật, ném cầu được tiến hành, kéo dài từ mồng 5 đến mồng 7 tháng Giêng, đặc biệt lễ cầu mồng 7 tháng Giêng luôn có đại biểu nước nghĩa đến dự.

4. Nguyện vọng của chính quyền và nhân dân địa phương mong muốn khôi phục ngôi đình trên gò Cổ Bồng và phục dựng lễ hội truyền thống tại Đền thờ và Lăng mộ Vua Lý Nam Đế tại khu vực gò Cổ Bồng xã Văn Lương và lễ hội tại đình làng Danh Hựu xã Cổ Tiết huyện Tam Nông, nhằm từng bước xây dựng nơi đây thành khu di tích tưởng niệm công lao lập quốc của Vua Lý Nam Đế, thu hút khách thăm viếng để biến nơi đây thành điểm du lịch văn hoá tâm linh trong hệ thống các di tích thờ tự trên địa bàn huyện Tam Nông như: Đền thờ Nguyễn Quang Bích và Cột cờ Hưng Hoá; Lễ hội Phết Hiền Quan; Lễ hội làng Gia Dụ; Lễ hội Đền Quốc Tế xã Dị Nậu... và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói chung, góp phần thúc đẩy kinh tế - văn hoá - xã hội ngày càng phát triển đưa du lịch trở thành ngành kinh tế đột phá của huyện và của tỉnh theo nghị quyết đại hội lần thứ XVII của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã đề ra.

III. Đề xuất nội dung phục dựng Lễ hội77

Page 78: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

1. Thời gian và địa điểm:1.1. Thời gian: Từ 01 đến 03 ngày (tuỳ theo năm tròn, năm chẵn) lấy ngày 20

tháng Ba kỷ niệm ngày Vua mất để tổ chức lễ hội tưởng niệm Vua Lý Nam Đế là phù hợp theo tư liệu trong chính sử Việt Nam và phong tục, tập quán truyền thống của người Việt (đó là cúng giỗ vào ngày mất). Lễ hội diễn ra trong những tháng tổ chức lễ hội mùa xuân trên quê hương Đất Tổ sẽ thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân trong và ngoài tỉnh về tham dự lễ hội (các ngày cầu khác vẫn được duy trì theo các ngày âm lịch trong năm).

1.2. Địa điểm: Căn cứ tình hình thực trạng về di tích liên quan đến Vua Lý Nam Đế trên địa bàn huyện Tam Nông. Chúng tôi đề xuất địa điểm tổ chức phục dựng lễ hội tưởng niệm Vua Lý Nam Đế tại khu di tích đền thờ và lăng mộ Vua Lý Nam Đế trên gò Cổ Bồng xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

2- Nội dung:2.1. Phần Lễ: - Tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm tại lăng mộ Vua Lý Nam Đế với nghi

thức truyền thống do UBND huyện Tam Nông làm chủ lễ: Có vòng hoa; hương; cử nhạc truyền thống. Sau đó hành lễ vào đền thờ Vua Lý Nam đế để tiến hành nghi thức tế.

- Lễ vật: Lễ vật chia thành lễ mặn và lễ chay. Lễ mặn là lợn đen và rượu (không mổ trâu để thực hành tiết kiệm và bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp). Lễ chay gồm: Bánh giầy, bánh rán, bánh mật, chè lam, chè kho…

Bố trí cỗ bàn cầu cúng được chia làm 3 nơi: thượng cung xếp 5 mâm cho vua và 4 vị phối thờ; hạ đàn đặt 7 mâm cho các tướng; ngoài sân đặt 9 đến 10 mâm cho quân sĩ.

- Tổ chức rước kiệu từ đền thờ Lý Nam Đế (Diên Hựu) tại động Khuất Lão gò Cổ Bồng rồi làm lễ cầu vua và hai vị Thiên Bảo, Phật Tử lên kiệu rước ra bờ sông Thao mời hai vị thần Long Hải Vương và Lân Hải Vương lên kiệu, rước từ bờ sông về dự lễ hội xuân với dân làng tại gò Cổ Bồng. Sau khi đã rước đủ năm vị, lễ tế Vua Lý Nam Đế mới bắt đầu (tế 3 tuần). Văn tế phải soạn riêng cho phù hợp với tư liệu dân gian: Trước tiên là cúng vua Lý Nam Đế theo nghi lễ rất trang nghiêm. Tiếp đến là khấn cầu bốn vị công thần, sau cùng mới đến các tướng sĩ. Theo sách Việt Nam văn minh sử của Lê Văn Siêu dẫn một số nguồn tài liệu cổ, Lý Nam Đế ở lâu ngày trong động, vì nhiễm lam chướng nên bị mù hai mắt. Vì vậy đời sau đến ngày giỗ thường phải xướng tên các đồ lễ để vua nghe thấy. Đây có thể coi như tục hèm đặc trưng phần lễ của Lễ hội tưởng niệm Vua Lý Nam Đế. Vì vậy, trong phần văn tế cần xướng tên các lễ vật dâng cúng Vua Lý Nam Đế rõ ràng, mạch lạc.

2.2. Phần Hội:Tổ chức đấu vật dân tộc. Tổ chức các trò chơi các hoạt động hội mang đậm

tính chất dân gian và mang đậm tính thượng võ như: Tung nõ - nường, cướp vĩ, đấu vật, ném cầu, thi đấu cờ tướng và một số hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao hiện đại như Liên hoan, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng đá, bóng chuyền... tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho lễ hội nhằm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân về tham dự lễ hội.

3. Thủ tục xin phép phục dựng lễ hội tưởng niệm Vua Lý Nam Đế:78

Page 79: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Theo nhân dân địa phương, lễ hội tưởng niệm Vua Lý Nam Đế đã bị mai một từ rất lâu trong lịch sử. Đến nay, chỉ còn trong trí nhớ của một số cụ cao tuổi, nhưng cũng không được đầy đủ và chính xác. Theo quyết định số 39 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về ban hành quy chế tổ chức Lễ hội thì UBND huyện Tam Nông cần tiến hành lập các văn bản liên quan để trình UBND tỉnh cho phép phục dựng lễ hội truyền thống tưởng niệm Vua Lý Nam Đế. Mặt khác, để có căn cứ pháp lý về di tích Đền thờ Lý Nam Đế, UBND huyện Tam Nông cần đề nghị Sở VH, TT&DL; UBND tỉnh Phú Thọ công nhận xếp hạng di tích Đền thờ vua Lý Nam Đế theo Luật Di sản văn hoá quy định.

IV. Kết luận Lễ hội truyền thống Việt Nam nói chung và lễ hội tưởng niệm Vua Lý Nam

Đế tại xã Văn Lương huyện Tam Nông nói riêng là hoạt động văn hóa truyền thống được tổ chức mang tính cộng đồng và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhằm tưởng nhớ và tri ân công đức Vua Lý Nam Đế với công lao lập nước Vạn Xuân của dân tộc Việt Nam. Thể hiện đạo lý và truyền thống văn hoá mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam.

Phục dựng lễ tưởng niệm Vua Lý Nam Đế nhằm góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá truyền thống trên quê hương Đất Tổ góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội trên địa bàn huyện Tam Nông nói riêng và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói chung vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.

Tháng 7-2013Đ.Đ.T

79

Page 80: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

VỀ VẤN ĐẾ BẢO TỒN, TÔN TẠO VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐỊA ĐIỂM LỊCH SỬ GẮN LIỀN VỚI SỰ NGHIỆP CỦA LÝ NAM ĐẾ TẠI XÃ

VĂN LƯƠNG, HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ

Lê Thị Thoa Trưởng phòng Di sản văn hóa

Sở VH, TT&DL Phú Thọ

Lý Nam Đế là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử Việt Nam. Bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí của sử gia Phan Huy Chú - Bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam đã viết về Lý Nam Đế trong mục “Nhân vật chí - Dòng chính thống các đế vương” như sau: “Họ Lý, tên Bôn, là người ở làng Thái Bình, (quận) Long Hưng. Vua nếp nhà hào trưởng, có tài văn vũ, làm quan với nhà Lương không thỏa chí, bỏ về quê Thái Bình. Vì chán cái loạn nội thuộc, vua hăng hái dấy nghĩa binh, đuổi thứ sử Tiêu Tư. Lại phá nước Lâm Ấp, tự xưng là Nam Việt đế. Khi lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Đức, đặt trăm quan, dựng nước gọi là nước Vạn Xuân. Sau nhà Lương sai Trần Bá Tiên sang xâm lấn. Vua chống đánh bị thua, lui về giữ động Khuất Lạo rồi chết ở động. Ở ngôi được 8 năm”.

Trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc tiêu biểu. Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đã đưa ra danh sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam theo thứ tự thời gian như sau: Quốc tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh.

Tam Nông là vùng đất cổ huyền thoại và lịch sử. Nơi đây hiện còn lưu giữ các sự tích, truyền thuyết từ thuở Vua Hùng dựng nước và tồn tại rất nhiều di tích, chứng tích gắn liền với truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Một trong trong số những chứng tích lịch sử đó là di tích địa điểm lịch sử động Khuất Lão với cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và đền thờ Lý Nam Đế.

Về cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam Đế và địa điểm lịch sử động Khuất Lão trên vùng đất Văn Lương - Tam Nông đã được ghi lại trong nhiều tài liệu chính sử, như: Lịch triều hiến chương loại chí; Đại Việt sử ký toàn thư; Việt Nam văn minh sử cương; Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X… Động Khuất Lão (còn có nhiều tên gọi khác trong lịch sử: Khuất Lạo, Khuất Liêu…) trước kia thuộc làng Danh Hựu, xã Cổ Tiết; từ năm 1955, thuộc xã Văn Lang (nay là xã Văn Lương) và hiện thuộc khu hành chính số 2, xã Văn Lương, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ. Động Khuất Lão nằm ở hữu ngạn sông Hồng, gồm những khu đồi, ruộng rộc, ba mặt Bắc, Đông, Nam được bao bọc bởi hệ thống ruộng chiêm quanh năm ngập nước, trước đây vẫn gọi là vụng Xưa hay vụng Ba Triệu. Về sau do phù sa sông Thao bồi đắp, tạo thành xứ đồng Chằm, hố Náp, hố Ao, hố Ấu, hố Hang Hùm…, phía trước là dòng sông Thao hùng vĩ.

Theo các nhà sử học, vị trí, địa hình động Khuất Lão là một căn cứ quân sự lý tưởng theo truyền thống của binh pháp cổ: “phía trước sáng, phía sau tối, phía trước

80

Page 81: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

có sông nước, phía sau có đường vận lương thảo”, địa thế hiểm yếu, tiến có thể đánh về vùng châu thổ sông Hồng, lui có thể giữ gìn, bảo toàn lực lượng. Ba mặt Đông, Nam, Bắc của động là đồng nước mênh mông, phía Tây Bắc, Tây Nam là dải Rừng Cấm và vùng đồi núi trùng điệp, rậm rạp um tùm, tạo nên bức tường thành tự nhiên che chắn cho khu căn cứ. Vào động Khuất Lão chỉ có một đường độc đạo duy nhất, đó là con đường từ phía Tây qua làng Cổ Tiết, qua Đính Trại - nơi các trại nghĩa quân của Vua Lý Nam Đế đóng để bảo vệ con đường huyết mạch không cho ai lạ mặt vào Động. Ở Đính Trại (cách động Khuất Lão từ 300m đến 800m) có 8 chiếc ao cổ do con người đào (hiện nay vẫn còn dấu tích), vừa là hào lũy vừa là nơi cấp nước sinh hoạt cho quân sĩ. Tiếp đến để đi vào Động, phải qua khe hố Nhà Phan và muốn đến gò Cổ Bồng, khu vực trung tâm của động Khuất Lão - nơi đóng đại bản doanh của Lý Nam Đế, còn phải qua một khe hẹp khác, một bên là hố Ao, một bên là hố Ấu mới tới gò Cổ Bồng.

Động Khuất Lão là nơi Lý Nam Đế sống những ngày cuối đời của mình và tương truyền đây còn là nơi chôn cất thi hài của Ông. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, Lý Nam Đế đã 2 lần lui quân về động Khuất Lão. Lần thứ nhất vào cuối tháng 2 năm 546, sau khi thành Gia Ninh bị vỡ, nhà vua lui về đây để củng cố xây dựng lực lượng. Nơi này địa thế hiểm yếu, dân cư khá đông, có điều kiện để cung cấp nhân tài, vật lực cho cuộc kháng chiến, nên chỉ sau một thời gian, nghĩa quân đã tập hợp được lực lượng đông đảo. Lần thứ hai khi thế trận ở hồ Điển Triệt bị vỡ trước sự tấn công ồ ạt của Bá Tiên, Lý Nam Đế rút quân về động Khuất Lão, sống những ngày cuối đời và tạ thế ở đây, trao binh quyền cho Triệu Quang Phục - một tướng trẻ tài năng cầm quân, tiếp tục kháng chiến.

Với truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn những người có công với dân với nước, sau khi Lý Nam Đế băng hà, để tưởng nhớ công ơn của nhà vua, các tướng sỹ và nhân dân địa phương đã lập đền thờ tại gò Cổ Bồng ở động Khuất Lão để thờ Lý Nam Đế, Lý Thiên Bảo (anh ruột của Lý Nam Đế), Lý Phật Tử (người trong dòng họ), những người cùng Lý Nam Đế khởi nghiệp và hai thủy thần là Long Hải Vương và Lân Hải Vương đã có công giúp ông và tướng sỹ vượt sông Thao. Theo các cụ cao niên, phía bên phải đền, khi xưa có Lăng vua được xây bằng gạch chỉ dưới gốc cây xương rồng bà. Trước đây mọi nghi lễ cầu cúng đều được tiến hành ở đền và lăng và lần thực hiện cuối cùng vào khoảng những năm 1940. Một năm có 4 kỳ cầu với các tục hèm thờ cúng cũng rất phong phú:

- Ngày mồng 2 đến mồng 7 tháng Giêng: Tục truyền tưởng nhớ ngày khởi nghĩa của Lý Bí.

- Ngày 12 tháng Ba: Ngày vua lên ngôi.- Ngày 20 tháng Ba: Ngày mất của Lý Nam Đế- Ngày 12 tháng Chín: Ngày sinh của Lý Nam Đế.Kỳ cầu tháng Giêng là lớn nhất, đông vui nhất với nghi lễ và trò chơi dân

gian trong dịp đầu xuân để tưởng nhớ, mô phỏng các chiến công của các bậc tiền bối trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Để chuẩn bị cho lễ hội, ngay từ trong năm, nhân dân đã phải chuẩn bị trâu, lợn, bột bánh, hoa quả, giặt tán, lọng, áo mão, sơn lại kiệu, chỉnh trang các đồ dùng tế lễ… Trai tráng phân chia nhau lo chuẩn bị sân đấu vật, lo cắt cử người đi mời dân nước nghĩa ở Phiên Quận (Cẩm

81

Page 82: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Khê) sang năm mới về dự hội xuân. Đến dịp tổ chức, mọi người tập trung ở đình làng, lựa chọn một số người khiêng kiệu đi trước, dân làng theo sau, đến đình, đền Diên Hựu tại động Khuất Lão rồi làm lễ cầu vua và hai vị Thiên Bảo, Phật Tử lên kiệu rước về đình làng dự lễ hội. Đồng thời mọi người cũng đem kiệu ra bờ sông Thao mời hai vị thần Long Hải Vương và Lân Hải Vương lên kiệu, rước từ bờ sông về dự hội xuân với dân làng. Sau khi đã rước đủ năm vị, lễ cúng tại đình mới bắt đầu. Trước tiên là cúng vua Lý Nam Đế theo nghi lễ rất trang nghiêm. Vật phẩm dâng cúng gồm: Bánh giầy, bánh rán, bánh mật, chè lam, chè kho, hoa quả… Cỗ bàn cầu cúng được chia làm 3 nơi: Thượng cung xếp 5 mâm cho vua và 4 vị phối thưởng; hạ đàn đặt 7 mâm cho các tướng; ngoài sân đặt 9 đến 10 mâm cho quân sĩ. Các trò chơi tung nõ - nường, cướp vĩ, đấu vật, ném cầu được tổ chức kéo dài từ mồng 5 đến mồng 7 tháng Giêng.

Hiện nay, tại khu vực địa điểm động Khuất Lão còn rất nhiều địa điểm dấu tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Vua Lý Nam Đế, như: Ao Quan, Đính Trại, Rừng Cấm, Tam Khu, Khu Lăng…

Đất nước ta đã trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, sau thời kỳ Hai Bà Trưng quá ngắn ngủi, sự nghiệp độc lập mà Lý Nam Đế tạo dựng dù không truyền được lâu dài như nhà Hậu Lý sau này nhưng vẫn có thể coi là to lớn. Cuộc đời và sự nghiệp của Lý Bí được sử sách ghi lại như những trang sử hào hùng nhất. Ông được thờ tự ở rất nhiều nơi ở Thái Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ…Các di tích thờ các nhân vật lịch sử và lưu niệm các sự kiện lịch sử của Lý Bí ở khắp các địa bàn đã phản ánh rất đậm nét về Lý Bí và sự đóng góp lớn lao của người dân vào cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (năm 544) lập nên nước Vạn Xuân độc lập. Trải qua thăng trầm của lịch sử, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, đền thờ Lý Nam Đế đã bị hư hỏng, chỉ còn là phế tích. Năm tháng qua đi, song những dấu tích lịch sử về vị hoàng đế sáng lập ra nhà Tiền Lý vẫn còn đó, nền móng đền thờ Lý Nam Đế - những dấu tích kiến trúc nằm sâu trong lòng đất địa danh gò Cổ Bồng - động Khuất Lão đã được hậu thế tìm lại năm 2005. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hoá dân tộc, đồng thời nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau và đáp ứng lòng mong mỏi của đông đảo quần chúng nhân dân, năm 2010, được sự đồng ý của UBND tỉnh Phú Thọ, UBND huyện Tam Nông đã phục hồi, xây dựng đền thờ Lý Nam Đế tại gò Cổ Bồng xứng tầm với giá trị lịch sử vốn có của địa điểm di tích với quy mô, kiểu dáng kiến trúc truyền thống, gồm 02 tòa: Tiền tế và hậu cung.

Hiện nay, huyện Tam Nông đang xây dựng quy hoạch khu di tích lịch sử đền thờ Lý Nam Đế tại địa điểm gò Cổ Bồng gắn với địa danh Động Khuất Lão, xã Văn Lương, với tổng diện tích trên 5 ha. Đây là một tổng thể kiến trúc rộng lớn, là nơi thờ Lý Nam Đế và các nhân vật lịch sử triều Tiền Lý với các công trình kiến trúc được bố trí theo trục chính, chia thành các không gian, như: không gian hành lễ, không gian nội tự đền, không gian vườn cây xanh, là một công trình kiến trúc kế thừa và phát huy truyền thống kiến trúc dân tộc - kiến trúc đền thờ. Việc phục hồi, tôn tạo di tích còn là việc làm đạo nghĩa nhằm góp phần khôi phục và bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống. Trong tương lai, khu di tích được quy hoạch, phục hồi di tích, xây dựng các công trình phụ trợ, khu vực đền thờ Lý Nam Đế cùng với địa danh gò Cổ Bồng - động Khuất Lão với những dấu tích vật chất,

82

Page 83: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

những giá trị văn hóa phi vật thể đặc sắc được khôi phục chắc chắn sẽ trở thành nơi thờ tự, di tích lịch sử gắn liền với sự nghiệp người anh hùng dân tộc - Lý Bí; nơi tổ chức các sinh hoạt văn hoá mang tính tâm linh để các thế hệ hôm nay và mai sau bày tỏ tình cảm, sự ngưỡng vọng của mình với các vị anh hùng dân tộc thời Tiền Lý; một địa chỉ văn hóa tâm linh xứng tầm với giá trị lịch sử vốn có.

Theo quy định của Luật di sản văn hóa, một trong những tiêu chí để xem xét xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa là: Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc địa phương trong các thời kỳ lịch sử. Như vậy, gò Cổ Bồng - động Khuất Lão là địa điểm lịch sử gắn liền với sự nghiệp của Lý Nam Đế, thuộc loại di tích lịch sử (di tích lưu niệm danh nhân). Tiến hành các thủ tục đề nghị Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử đối với địa điểm lịch sử gò Cổ Bồng - động Khuất Lão là việc làm cần thiết trước hết nhằm khẳng định giá trị lịch sử của di tích, tạo cơ sở pháp lý, định hướng lâu dài cho các hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích./.

L.T.T

TÀI LIỆU THAM KHẢO- Tư liệu trong chính sử Việt Nam.- Bài viết: Động Khuất Lão với cuộc khởi nghĩa Lí Bí của ThS. Nguyễn Phi Nga, nguyên

giảng viên Trường Đại học Hùng Vương. - Cụ Hán Văn Huy (mất năm 1979) ở khu 3 xã Văn Lương kể lại cho con trai là ông Hán

Văn Sinh ( mất năm 2009).- Cụ Nguyễn Ngọc Đống 91 tuổi, Ông Nguyễn Văn Lâm 72 tuổi ở khu 1 thôn Danh Hựu

xã Cổ Tiết.

83

Page 84: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

TƯ LIỆU HÁN NÔM VỀ LÝ NAM ĐẾ HIỆN ĐANG ĐƯỢC LƯU GIỮ TẠI CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐÌNH, ĐỀN, CHÙA GIANG XÁ,

THỊ TRẤN TRẠM TRÔI

Đỗ Văn Thúy Trưởng phòng VH-TT huyện Hoài Đức

Lý Nam Đế, tên húy là Lý Bí (hay Lý Bôn), theo các thư tịch cổ và các tài liệu nghiên cứu lịch sử gần đây cho rằng quê ông ở phủ Long Hưng, tỉnh Thái Bình. Ông là người xưng đế đầu tiên của dân tộc Việt - Hoàng đế Lý Nam Việt Đế, người đầu tiên đặt nền móng cho độc lập, tự chủ lâu dài cho dân tộc dựng nên nhà nước Vạn Xuân ở thế kỷ thứ VI.

Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu, những hội thảo khoa học về thân thế, sự nghiệp và công lao của Lý Nam Đế trên những bình diện khoa học khác nhau ở cấp Trung ương và một số địa phương nơi có những dấu ấn, những di tích liên quan đến nhân vật lịch sử này. Để làm phong phú thêm tư liệu về Lý Nam Đế, chúng tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu các tư liệu thư tịch cổ, các công trình nghiên cứu khoa học, sưu tầm các tư liệu dân gian, đặc biệt là tìm hiểu các tư liệu Hán Nôm có trong các di tích thờ phụng hoặc liên quan đến thân thế, sự nghiệp của ngài trên địa bàn huyện Hoài Đức. Trên địa bàn huyện hiện có 198 di tích lịch sử, trong đó có 87 di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa các cấp. Qua tìm hiểu cho thấy có 5 di tích trên địa bàn 2 xã, 1 thị trấn thờ Lý Nam Đế, đó là: Đền Giang Xá, đình Giang Xá, chùa Bảo Phúc thuộc Thị trấn Trạm Trôi; đình Lưu Xá xã Đức Giang; đình Đại Tự xã Kim Chung và 9 di tích nằm trên địa bàn 5 xã phụng thờ Lý Phục Man (Phạm Tu) một bộ tướng tâm phúc của Lý Bí gồm: Quán Giá xã Yên Sở; đình - quán xã Dương Liễu; đình Tiền Lệ, quán Nước, quán Mới, đình Yên Thái xã Tiền Yên; đình Phương Bảng xã Song Phương; đình Mộc Hoàn xã Vân Côn. Tuy nhiên với giới hạn cho phép, trong tham luận này chúng tôi chỉ tập trung vào các tư liệu Hán Nôm tại cụm di tích thuộc địa bàn Thị trấn Trạm Trôi và xã Đức Giang, đây được cho là nơi phát tích sự nghiệp của Lý Bí trên con đường lập nước xưng đế.

Qua những lần khảo sát, nghiên cứu chúng tôi đã thu thập được những tư liệu quý như: Bia đá, sắc phong, hoành phi, câu đối, văn tế, trong đó, tại di tích đình và đền Giang Xá gồm 03 bia đá, 22 Sắc phong, 02 Ngọc phả (1 bản sao), 04 hoành phi, 18 câu đối; tại đình Lưu Xá gồm: 01 thần tích, 14 Sắc phong, 2 hoành phi, đại tự và 10 câu đối có giá trị. Sau đây, chúng tôi chọn lọc các tư liệu Hán Nôm là văn bia, hoành phi và câu đối ở các di tích để giới thiệu.

1. Văn biaVăn bia hay ngọc phả tại đình, đền Giang Xá đều có chung một nội dung

chép về lai lịch và sự nghiệp vinh quang của Lý Nam Đế, đồng thời qua nghiên cứu các tư liệu Hán Nôm tại cụm di tích này chúng ta sẽ có những nhận thức sâu sắc hơn về quê hương cũng như hành trạng của nhân vật lịch sử này. Tấm bia đá ở đền Giang Xá ghi Thần tích về Lý Nam Đế có kích thước 1,1m x 0,58 m, làm bằng một phiến đá nguyên khối. Văn bia khắc một mặt, chữ Hán xen chữ Nôm, chữ khắc theo lối chân phương, khắc nông, nét mảnh. Toàn văn bia có khoảng gần

84

Page 85: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

1 nghìn chữ Hán. Nghiên cứu và phân tích nội dung tấm bia này, thấy rằng đây là văn bản của cuốn Ngọc phả về vua Lý Nam Đế, bản chính do Đông các học sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm 1572 niên hiệu Hồng Phúc, đời vua Lê Anh Tông, đang được lưu giữ tại đền Giang Xá. Dựa vào văn bản này, người xưa ở địa phương đã khắc Ngọc phả vào tấm bia đá thờ ở đền. Hiện bia vẫn được đặt ở trong hậu cung của đền, các cụ ta coi đó như một vật báu, một cuốn sách đá đã ghi nhận về quê hương, công lao đóng góp của vị vua Lý Nam Đế. Đặc biệt là cứ liệu quan trọng đối với các nhà nghiên cứu quan tâm, những dòng chữ quan trọng nói về quê hương, hành trạng cũng như công lao của Lý Nam Đế được khắc rất rõ; Cụ thể:

“Giang Xá từ bi ký:Việt Thường thị tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền... lưu thiếu bản xã khắc

vu bi.Tích ngã Việt thế truyền thử gian quy ư Lương Đại Đồng chi y dã! Nam lược

vi ... khắc sử các gian .... Kinh Bắc xứ, Giã Năng châu, địa hữu ông Lý Toản... Xuyên kinh dư Thanh

Hoa Lê Thị Oánh thất kỳ thị... công gia thế diệc âm hành thiện tinh chi dư đa thất.Thị Lý Công tứ thập ngoại, Lê Thái tam thập dư. Lê Thái viết: Gián ... kiến

thiên địa... ngọc .. linh hoàng bạch... sao thái dương tinh trợ nhiên sinh dong giáng nhập Lê Thái chi khẩu... hữu dựng .. Thai nhũ lai chi ... cụ cáo Lý Công... thử Lê Thái ức cảm nhi hậu thất Quý Mùi niên, cửu nguyệt thập nhị nhật y tắc sinh, hạ nhất nam khôi ngô khác thường. Nhân thân tam tuế nhân danh viết: Quý ngũ tuế Lý Công mệnh một, thất tuế Lê Thái tái mệnh một. Tiền huynh danh .. niên Tỵ thập tam nhật phụ mẫu y gia... hỹ!

... Quân thân báo chi gia ... kiến bản tự thiền sư vị viết: Danh quý thể ... đa kha phi kha... từ môn vị tất thành thân báo văn kỳ dữ mãi vi dư tử thiền sư thất. Niên thập tam thiền sư vãng hồi quốc tuế Đan Phượng hữu Lưu Xá xã Lê, Nguyễn, Trần tam nhân kiến sư đạo đức minh hồi phổ độ gia tiên hựu Giang Xá thôn, hữu Linh Bảo tự tại tiểu giang biên tích thanh thiền hồi tại dán sư mệnh đế quy... đế... thông ... chi... thường hưng thử tự điện thần đối ... hữu gián hạ ... tự gián sư y phong sư hồng đế bất... đế báo thanh... mao.

Tả vu đức trung vân: Ngã giáng tàng điện thần lưu vị ... kiến giám tướng y... lai ... Lương nội bất ninh Lương kiến điện thần báo ái viết: Sư cẩu y ... từ hữu đế...... giáng nhiên ngã vô nhân sư thái nhi đế... chi thị kiến thử ái kiến cụ dĩ cáo sư khai sư... Đế viết: Quân ta thanh thế ... ứng thần khâm nhân dân trợ quân tuyên ức.. điện thần đắc huống Lương an đế quân vô sư đắc ngoại thập niên... xuất thông minh tài, trí nhân đa sư chi đế bách, Đan Phượng mãi ... chu vi đẳng xuyên huyện... Phân sĩ tam thiên thị tuết nhị nguyệt sơ tứ nhật hội binh tại Giang Xá tự lập từ... thiên địa bách thần kiến... lôi linh phong vũ ngũ sắc linh tây hậu thượng chính hồn tri hữu đế vương chi đào... tam nguyệt sư thập nhật hưởng sĩ tốt tạ thiền sư... Binh cố ... xuyên địa khuông chiến duyệt binh đa... Đế tái viết: Lý Nam Đế tự xưng.. cố địa quốc chu... trưởng... khởi ... giai báo kỳ uy hạnh y ... yên! Túc hoàn Quảng Châu lưu tử khởi quang hậu tỷ đế ... quốc đế điện... thành sư hoàng đế vị ký nguyên Thiên Đức duyệt đế tái mệnh... tử duy ... vấn đẳng ... tải duyệt binh đa... đế tái mệnh Phạm Tu tường binh... cửu đức lâm ấp vương hựu... vi nam... Đế thiền quốc viết: Vạn Xuân kỳ dựng đặt ... Giang Xá, Thái Bình, Giang Tây, Giang

85

Page 86: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Ninh.. xương... động đẳng địa giai hứa vi Dương Phiêu sắc nhân thị chi lập sinh từ dĩ hậu phụng chi thất niên lục nguyệt duyệt binh tái chiến... ...... ... Giang Xá binh cụ đế hồi Giang Xá địa nhân thị ... gia... viết: Thịnh đế kỳ địa khức kỳ địa Đan Phượng huyện nội ... .... ..... binh khả sở năng hữu ... phụng chi đế ... gia tự khuông tam nguyệt khai binh đại .... đế ....

... Bảo ... ... động ... quang ... tải hưng Lạc tướng Bá Tiên.Tàng nhị niên trung vị phân thân mỗi hậu hữu thời vân:Thư hùng vị quyết tại hà nhânLưỡng tướng giai đồng báo nghĩa quân.Thiết thạch nhất tâm ư quốc sựDanh chiêu thiên cổ thử trung thần.Đế quân động ngũ nguyệt sơ nhị nhật... kiến thái dương hữu xám chiêm ... đế

tiền... thành nhất nhân... hứa ... vân Lý quân... Lý quân... thiên ... vân phật điện xa kim nhật hồi thiên thượng quốc thế truyền lai phật tử... đế ... lai cụ... hưng... thần hốt nhiên hiển ... tự hoá... vương thử địa... thần tái xử huống Thiên Bảo ngưỡng vương, ngưỡng vị thập nguyệt thập nhị nhạt nãi phong đế vi Lý Nam Đế quốc vương thiên tử thái vương truyền nhân Lương lập lăng phụng chi tồn Dương Phiêu ấp chư dân nhân ngưỡng vật...

Đế huống bát niên minh hậu Lý điện y vị lịch triều sắc phong xuân thu quốc tế hậu Đinh, Lê, Lý, Trần tứ sinh khai cơ giai hữu hộ quốc cố lịch đại vương sắc phong mỹ tự huyết thực vô cùng tả.

Nhất huý thứ tự: Lý Toản... mỗi vương kỵ cửu nguyệt thập nhị nhật sinh, ngũ nguyệt sơ nhị nhật hoá.

Diệc lâm hoàng cung sắc... Đế phụ nhị nguyệt nhị thập hoá.Đế mẫu chính nguyệt sơ thập nhật hoá.Thiền sư nhị nguyệt thập ngũ nhật hoá.Khánh gia nhật dĩ hạ chính nguyệt sơ tứ nhật, thập nguyệt thập nhị nhật. Thập

nhị nguyệt sơ nhị nhật. Nhất bản chính bộ ngoại tứ thập xã tại phụng lễ.Hồng Phúc nguyên niên chính nguyệt sơ thập nhật. Hàn lâm viện Đông các

đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn.Tự Đức ngũ niên tuế tại Nhâm Tý nhị nguyệt cát nhật khắc thành. Bản tại ... Giang Xá thôn hương trưởng Lê Văn Túc phụng tả.Bản từ diệc triều sắc phong cúng tiến niên xuân tế Lưu, Giang Xá nhị thôn

đồng nghinh, đồng tế hệ lệ nhất niên chính nguyệt dữ nhị nhật bát thôn nhập tịch... vu bản từ nghinh tế...1 tạ từ lễ thử tam giả tự cổ dĩ lai vi”.

Dịch nghĩa: Bài ký đền Giang Xá2

(Bản Ngọc phả cổ truyền đền Giang Xá về Lý Nam Đế, nước Việt ... khắc vào bia đá).

1 Những chỗ có dấu … là phần bia bị mờ chữ không luận được. 2 Bản dịch nghĩa văn bia Giang Xá từ bi ký của Ban quản lý di tích và thắng cảnh thành phố

Hà Nội (Hồ sơ di tích lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật Đền và Đình Giang Xá, xã Đức Giang, Hoài Đức).

86

Page 87: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Xưa kia, nước Việt ta bị giặc nhà Lương đô hộ. Vào niên hiệu Đại Đồng nhà Lương, tường Tiêu Tư được cử làm thứ sử đất Giao Châu. Tiêu Tư vốn tính tham nhũng, hà khắc và bạc ác. Nhân dân ta sống một cuộc sống cơ cực, lầm tham khốn cùng.

Lúc đó, ở châu Giã Năng, xứ Kinh Bắc có ông Lý Toản lấy vợ người Châu Ái (nay là Thanh Hoá) là Lê Thị Oánh. Hai ông bà tính tình từ thiện hay giúp đỡ người khốn khó. Ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi, hai ông bà sinh được một người con trai khôi ngô, tuấn tú, tướng mạo khác thường. Ông bà đặt tên con là Bí. Khi Lý Bí lên 5 tuổi thì bố chết, hai năm sau thì mẹ chết. Lý Bí cùng anh là Lý Bảo chịu tang cha mẹ, gia tài bị tiêu tán hết. Hai anh em về ở với người chú ruột. Sau người chú ruột đem bán cho nhà sư làm con nuôi. Lúc ấy, có ba người họ Lê, Nguyễn và Trần ở thôn Giang Xá (xứ Sơn Tây) thấy nhà sư có đức hạnh bèn đón về trụ trì ngôi chùa trong làng. Lý Bí theo nhà sư về sống ở chùa Bảo Linh thuộc làng ấy. Nhà sư cho Lý Bí học hành. Lý Bí là người có tài văn võ, lại có chí lớn, ông căm ghét chế độ đô hộ của nhà Lương, bất mãn về sự tham lam tàn bạo của Tiêu Tư. Lý Bí ngầm chiêu mộ quân sĩ ở các châu, huyện như Đan Phượng, Giã Năng, Chu Diên được hơn ba nghìn người. Ở các nơi khác thì chiêu mộ được tướng Tinh Thiều, Triệu Túc, Phạm Tu. Quân sĩ kéo về tụ hợp cùng Lý Bí.

Ngày 4 tháng 2 năm 542, Lý Bí họp quân ở chùa Giang Xá, lập đàn cầu trời đất và bách thần. Ngày 10 tháng 3, Lý Bí khao mừng quân sĩ và phát động khởi nghĩa lật đổ ách đô hộ nhà Lương. Nhân dân và hào mục các châu đua nhau hưởng ứng khiến thanh thế của nghĩa quân rất hùng mạnh. Sau khi đánh chiếm các địa phương, nghĩa quân tiến về bao vây châu thành Long Biên. Quân Lương đại bại. Thứ sử Tiêu Tư hoảng sợ chạy về Quảng Châu, nghĩa quân kéo vào giải phóng Long Biên.

Được tin Long Biên mất, vua Lương vội sai Thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, Thứ sử La Châu là Ninh Cự, Thứ sử An Châu là Lý Trí, Thứ sử Ái Châu là Nguyễn Hán cùng hợp quân kéo sang đánh Lý Bí. Nhưng chúng vừa kéo xuống đã bị quân của Lý Bý đánh tan.

Mùa xuân năm 534, vua Lương sai Thứ sử Giao châu là Tôn Quynh, Thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng đem quân sang đánh. Nhưng chúng kéo đến Hợp Phố, đã bị quân của Lý Bí đánh tan.

Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi vua, tự xưng là Nam Việt Đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, dựng triều đình đặt trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, phong thưởng cho các tướng sĩ.

Sau đó, Lý Bí kéo quân đi trấn áp, đánh dẹp các lực lượng chưa thuần phục ở các địa phương.

Đời sau có thơ rằng:Anh hùng chưa dứt ở ai giờHai tướng chung lòng báo nghĩa vua.Sắt đá một lòng vì việc nướcTrung thần tiếng đẹp mãi nghìn thu.Mùa hạ năm 545, vua Lương lại sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân

sang đánh nước ta. Được tin này, Lý Bí kéo 3 vạn quân ra trấn thủ Chu Diên (phía Bắc Hà Nội ngày nay), đánh nhau dữ dội với quân của Trần Bá Tiên. Bị thua lớn ở

87

Page 88: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

đây, Lý Bí kéo quân về trấn giữ vùng cửa sông Tô Lịch chia thành nhiều trại chống nhau với giặc.Ở đây, Lý Bí lại thua trận, chạy về Giang Xá. Quân Lương đuổi theo, Lý Bí chạy về thành Gia Ninh (Bạch Hạc).

Đầu năm 546, Lý Bí đem 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt (Vĩnh Phúc). Quân Lương tiến đánh. Vì thiếu cảnh giác, quân Lý Bí đã tan rã. Biết tình thế khó kéo dài, Lý Bí giao binh quyền cho tướng Triệu Quang Phục rồi chạy lên vùng Khuất Lão (Phú Thọ) định chuẩn bị lực lượng tiếp tục chống giặc. Chẳng may, bị cảm đột ngột, ông đã mất tại đây.

Sau khi Lý Bí qua đời, nhân dân các nơi lập đền thờ, nhân dân Giang Xá nhớ tới công lao của Lý Bí đã lập đền và tạc tượng thờ ông.

Ghi nhớ công ơn của Lý Nam Đế các triều đại đều có sắc phong, xuân thu hai mùa cúng tế. Từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần cầu đảo đều có linh ứng sắc ban cho vị thần đã bảo vệ tổ quốc, sắc phong mỹ tự thật vô cùng cung kính.

Ghi nhớ ngày giỗ theo thứ tự:Vua Lý Nam Đế sinh ngày 12 tháng Chín, giỗ ngày mùng 2 tháng Năm.Màu vàng phải kiêng trong khi hành lễ. Thánh Phụ ngày hoá ngày 20 tháng Hai.Thánh Mẫu ngày hoá mùng 10 tháng Giêng.Giỗ Thiền sư vào ngày rằm tháng Hai.Ngày mùng 4 tháng Giêng và ngày12 tháng Giêng, ngày mùng 2 tháng Chạp

toàn bản xã cùng vào đại lệ.14 xã cùng phụng thờ tại đền.Bản Ngọc phả này do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn, bản chính lưu

tại Bộ lễ của Quốc gia.Hoàng triều Hồng Phúc nguyên niên (1572), ngày 10 tháng Giêng.Hoàng triều Tự Đức năm thứ 5 (1852) ngày tốt tháng Hai, theo bản Ngọc phả

bèn khắc vào bia đá.2. Ngọc phả, sắc phong Trong số các di vật còn bảo lưu được tại đình Giang Xá có lẽ di vật Hán

Nôm bằng giấy có số lượng lớn hơn cả. Trong đó, có giá trị và ý nghĩa nhất là cuốn Ngọc phả Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn ngày mùng 10 tháng Giêng năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và một bản sao được dân làng chép lại vào năm 1989 nhân dịp làng đón nhận di tích lịch sử văn hóa. Bản gốc Ngọc phả do Hàn Lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn được lưu giữ trên đền Hùng Vương. Tập Ngọc phả có tên đầy đủ: Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền (nghĩa là: Ngọc phả cổ truyền Đức Tiền Lý Nam Đế, thuộc họ Việt Thường thị), thường được gọi tắt là Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền. Theo PGS.TS. Nguyễn Minh Tường, “Về cơ bản, hai bản Ngọc phả này có nội dung giống nhau, chỉ có một số chữ khác nhau do thêm bớt hoặc viết sai tự dạng chữ Hán”.

- Bản chép chữ khổ lớn: khoảng 2 cm x 1,5 cm, mỗi tờ có 7 dòng, mỗi dòng thường có 15 chữ là bản A. Bản A không thấy ghi được sao chép vào thời gian nào.

88

Page 89: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

- Bản chép chữ khổ nhỏ: khoảng 1 cm x 0,8 cm, mỗi tờ có 8 dòng, mỗi dòng thường có từ 23 - 24 chữ là bản B. Bản B ghi rõ ở ngoài bìa là sao lại vào năm 1989.

Nhìn chung, bản Ngọc phả này đã kể lại một cách khá đầy đủ và chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp dấy binh, khởi nghĩa chống lại quân xâm lược nhà Lương, lập nên Nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế. Tuy nhiên, theo bản Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền này, thì Lý Bí quê ở châu Giã Năng, xứ Kinh Bắc. Đến khi 13 tuổi thì theo Pháp tổ Thiền sư về làng Giang Xá, huyện Đan Phượng để cúng phả độ tổ tiên cho nhân dân làng Giang Xá và ông đã dấy binh, khởi nghiệp tại đây. Vì thế, cho đến ngày nay, nhân dân làng Giang Xá cũng vẫn chỉ coi làng mình là quê hương thứ hai của người anh hùng dân tộc Lý Nam Đế.

Sách chép trên giấy dó khổ khá dài trên 20cm, gồm 16 trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 25 chữ. Trang cuối sách ghi: Ngày 10 tháng giêng năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn, nguyên bản tại Hùng Vương điện, bên cạnh đó còn có các sắc phong của các triều đại phong kiến phong tặng cho Lý Nam Đế. Đây có thể coi là những nguồn sử liệu quý giá để kết hợp với các bộ chính sử giúp các nhà nghiên cứu lịch sử có thể tìm hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Lý Nam Đế. Nội dung sách chép được dịch cơ bản như sau:

Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ lụcXưa nước Việt ta, các đời truyền rằng, khi đó thuộc vào thời nhà Lương, có

Vũ Lâm hầu làm Thứ sử Giao Châu, tính tàn bạo, tham tàn, tửu sắc vô độ, tài hóa, nhân tâm không phục, anh hùng hào kiệt đều ta thán.

Khi đó có gia trưởng một bộ thuộc đất châu Dã Năng xứ Kinh Bắc, họ Lý húy Toản, lấy vợ người Châu Ái (sau đổi là Thanh Hóa) là Lê Thị Oanh. Nhà họ Lý luôn làm điều thiện, nhân đức, đúc chuông, tạo tượng đều có tâm, giúp kẻ yếu cứu người nguy khốn, giúp người nghèo, nuôi dưỡng người già.

Khi đó, Lý công tuổi ngoài bốn mươi, Thái bà họ Lê tuổi ngoài 30 mà vẫn chưa một lần sinh nở. Một hôm Thái bà nằm nghỉ ở ngoài sảnh đường thiếp đi, bỗng thấy trời đất tối đen, ngước nhìn thấy từ trên trời có đám mây ngũ sắc trong đó có hai rồng, một màu trắng, một màu vàng, cùng tranh giành sao Thái dương. Sao Thái dương bỗng nhiên dáng xuống miệng Thái bà, rồng vàng giáng thẳng xuống bụng Thái bà. Thái bà bỗng tỉnh dậy, biết đó là giấc mộng, liền nói với Thái ông. Thái ông nói rằng theo như báo mộng thì tất thị nhà ta có phúc lớn, trời ban hiền nhân, đất sinh tuấn kiệt, thiện thay, thiện thay.

Nói xong, tự nhiên Thái bà như đã có thai. Vào giờ Thìn ngày 12 tháng 9 năm Quý Tỵ sinh hạ 1 nam. Thần tướng lẫm liệt, diện mạo khác thường, mày như mày vua Nghiêu, mắt như mắt vua Vũ, lưng như lưng vua Thang, quả là không phải người thường. Khi sinh có mây sa sầm, mưa gió nổi lên, hương thơm, khí lành tràn ngập đầy phòng.

Xuân qua đông tới, đến lúc 3 tuổi, đã thông âm luật, cha mẹ liền đặt tên là Bí. Khi vua 5 tuổi, vô cùng thông minh, khí tượng siêu quần, ăn nói lưu loát, chơi đùa với trẻ trong thôn ấp luôn có mưu lạ, thuật kỳ. Vua tuổi tuy còn nhỏ, nhưng tư chất hơn người, thông minh khoan hòa, hiếu đễ dung nghi, nghiêm cẩn, anh hùng.

89

Page 90: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Lý công một hôm tức ngày 30 tháng 2, bỗng không bệnh mà mất. Thái bà hành lễ chọn đất trong ấp an táng. Khi đó vua mới 7 tuổi, thái bà cũng lại cùng tạ thế vào ngày mồng 10 tháng giêng. Vua có người anh là Lý Bảo, 13 tuổi, anh em hành lễ an táng mẹ, cúng giỗ phần mộ, gia cảnh cùng quẫn, phải sống nhờ nhà người chú. Khi này có nhà sư hiệu Pháp Tổ Thiền sư trụ trì tại chùa trong ấp, thấy vua diện mạo khác thường, có khí chất lẫm liệt, Thiền sư nói với người chú rằng nhà ông có phúc lớn, nên hai cháu có thiên bẩm, tất về sau thành danh vậy.

Khi đó người em là Bí cầu Phật đạo dựa vào nhà chùa tế độ có biệt danh là Thọ. Thiền sư nhận làm con nuôi. Được ba, bốn năm, vua đã 13 tuổi, lúc này Thiền sư đến xã Lưu Xá huyện Đan Phượng phủ Quốc Oai. Làng có ba dòng họ lớn là Lê, Nguyễn, Trần, thấy nhà sư đạo đức kinh pháp tinh thông, nên rước về lập trai đàn phổ độ gia tiên, suốt 7 ngày đêm. Khi đó ở Giang Xá có ngôi chùa nhỏ dựng ở bên sông, nhân dân thấy thiền sư đức hạnh, liền rước về ở lại trong ấp, nhờ coi giữ cảnh chùa. Thiền sư thấy cảnh quang sáng sủa, dân thuần tục hậu, nên nhận lời. Từ đó nhà sư về sống ở đất Giang Xá, trụ trì chùa. Nhà sư cho vua thụ giới nhập học, vua khí bẩm thông minh, đức độ, được tú khí chung linh là do trời sinh ra vậy. Khi đó trong chùa có Long thần chủ tể linh thông. Vua thường ngồi tọa thiền ở chỗ Long thần. Ngày thường thấy vua đến ngồi bên tượng, tượng bỗng nhiên bật dậy. Một hôm có kẻ gian ăn cắp áo cà sa của sư chùa, không thể tìm lại được. Thiền sư mắng vua trông coi không cẩn thận. Vua giận, bèn đến bên tượng Long Thần lấy bút viết lên tượng, nói: Ta nay giáng cấp Long Thần. Vua viết xong, Long Thần biến sắc, mặt xanh như lá, chốc lát kẻ gian tự trói tay dâng áo mũ nhà sư đến. Khi người vật trong làng không yên ổn, nhân dân tức Giang Xá lo sợ, bèn lập đàn cầu đảo tế trời đất cầu an. Đêm hôm đó, quan viên chức sắc nhân dân trong ấp đến tế lễ, xong việc về nhà ngủ đều mộng thấy một quan nhân mặc áo giáp ngũ quan cầm long bào xán lạn, cưỡi một con tuấn mã màu trắng, đi sau có vài thanh đồng, đường đường tiến thẳng vào chỗ dân cư, rồi xuống ngựa, ngồi ở giữa. Nhân dân thưa rằng sao quan quân lại đến đây. Quan quân đáp: Ta chính là già lam long thần chủ tể. Nay có vua là Bí đến nhậm ở chùa, ta sơ tâm bất cẩn để cho bọn trộm vào chùa lấy cắp áo cà sa nhà sư, nên bị giáng cấp cho coi chùa. Nhân dân tỉnh dậy biết là mộng báo, cho là chuyện lạ, liền tụ tập tại chùa nói hết chuyện báo mộng với nhà sư. Nhà sư cùng nhân dân đến sau tượng xem, thấy quả có dòng chữ "ta là do vua giáng cấp ở lại coi giữ chùa". Nhân dân lập tức về hành lễ. Vua tự đến xem, nhân dân đi theo hành lễ. Long Thần thấy vua đến bỗng biến sắc, người toát mồ hôi như tắm. Vua đứng phía sau, tẩy bỏ chữ đi. Tẩy xong, Long Thần lại biến sắc, hoan hỉ, tượng gỗ đều như cử động, nhân dân hành lễ và được yên lành.

Lại nói, khi đó vua ở với Thiền sư tại chùa Giang Xá, được hơn 10 năm, lúc đó vua 25 tuổi rất thông minh, trí tuệ hơn người. Vua mộ được trong huyện các xã Lưu Xá, Giang Xá, Giã Năng, Chu Diên tuyển hơn 3 nghìn viên, hôm đó ngày 4 tháng 2, hợp binh tại chùa Giang Xá cầu đảo thiên địa bách thần âm phù. Hôm đó ngày 10 tháng 3 vua khao quân sĩ, tả hữu văn võ, rồi tiến quân trở về châu Dã Năng lập đồn sở cắt đất chia dân, sai tướng lĩnh lập đồn đóng chống Thái thú nhà Lương. Vua tự xưng là Lý Nam Đế từ đó thường đánh quân Lương, giặc thua chạy về Bắc quốc. Sau đó, quân Lương lại sai Lư Tử Hùng tiến binh. Triệu Quang Phục

90

Page 91: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

sau là Triệu Việt Vương tiên phong đón giặc Lương, chém hơn nghìn tên, máu chảy đầy sông. Vua sai quân đánh châu Cửu Đức, Lâm Ấp, xưng Nam Việt đế, dựng nước Vạn Xuân, bách quan hô Vạn tuế. Các đất Dã Năng, Chu Diên, Giang Xá, Thái Bình, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Liêu Động, đều cho làm ấp thang mộc. Nhân dân xin lập sinh từ, sau phụng thờ. Đất nước thanh bình 7 năm, đến tháng 6 năm Ất Sửu, nhà Lương sai Thứ sử Trần Bá Tiên làm Tư mã đến xâm chiếm. Vua nghe tin quân Lương kéo đến, sai 3 vạn quân ra ứng chiến. Quân giặc đánh đến Chu Diên, vua quay về Giang Xá, hôm đó nhân dân hành lễ bái mừng, vua dừng quân hội binh, sau ra đóng ở thành Gia Ninh. Quân Lương đánh Gia Ninh, vua lại bỏ vào đất Liêu Trung ở Phong Châu thuộc huyện Tân Xương, quân Lương vây cửa sông Gia Ninh, vua xuất 2 vạn người từ Liêu Động đóng đồn ở hồ Điển Triệt. Quân Lương và vua chống lại được ngoài 5 tháng. Một hôm quân Lương thừa cơ ban đêm nước hồ dâng cao, xuôi theo dòng nước tiến đánh. Vua không lo phòng bị, nên quân Lương đến, liền thua rút về đồn Liêu Động. Đại tướng Triệu Quang Phục đánh quân Lương đến năm Đinh Mão.

Ngày 2 tháng 5 ở Liêu Động vua nằm chính cung, có mấy thị vệ, bỗng mây đen ập đến có hình như hình chó, rơi xuống biến thành người cao 1 trượng đứng trước vua. Thế là vua hóa. Các nơi Dã Năng, Chu Diên, Giang Xá, Thái Bình, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Liêu Động, có sinh từ phụng thờ vua".

Hiện tại đền còn lưu giữ 22 đạo sắc phong có niên đại từ thời Hậu Lê đến vua Duy Tân (nhà Nguyễn). Cụ thể:

+ Sắc năm Cảnh Trị thứ 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông+ Sắc năm Dương Đức thứ 3 (1674) đời vua Lê Gia Tông+ Sắc năm Chính Hòa thứ 5 (1684) đời vua Lê Hy Tông+ Sắc năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710) đời vua Lê Dụ Tông, được nhà vua gia

phong cặp mỹ tự Tuyên Từ, Huệ Hòa Đại vương.+ Sắc năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730) đời vua Lê Duy Phường với các mỹ tự

Khải Tường, Tập Khánh, Linh Cảm, Phu Ứng Đại vương.+ Sắc năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740) đời vua Lê Hiển Tông với các mỹ tự

Thùy Hưu, Diên Huống Đại vương.+ Sắc năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767) đời vua Lê Hiển Tông với các mỹ tự

Diễn Phúc, Thuần Hồ Đại vương và Hoành Du, Phi Liệt, Quảng Vận Hoàng đế.+ 02 sắc Cảnh Hưng thứ 44 (1783) đời vua Lê Hiển Tông với các mỹ tự Địch

Triết, Dương Hưu, Kiến Võ Hoàng đế và Dương Văn, Trung Lộc. Sinh Phúc Hoàng đế.

+ Sắc năm Chiêu Thống thứ nhất (1787) với mỹ tự Thần Uy, Hiển Thánh, Thần Công Hoàng đế.

+ Sắc năm Quang Trung thứ 3 (1790) đời Tây Sơn với các mỹ tự Hữu Đạo, Trí Nhân Hoàng đế.

+ Sắc năm Cảnh Thịnh thứ nhất (1793) đời Tây Sơn với các mỹ tự Cao Minh, Bác Hậu, Thuần Triết Hoàng đế.

+ Sắc năm Gia Long thứ 9 (1810)+ Hai sắc năm Minh Mệnh thứ 2 (1821)+ Hai sắc năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)+ Hai sắc năm Tự Đức thứ 3 (1850)

91

Page 92: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

+ Hai sắc năm Đồng Khánh thứ 2 (1887)+ Sắc năm Duy Tân thứ 3 (1909)Đình, đền Giang Xá làm một trong số ít những ngôi đình còn bảo lưu được

một hệ thống sắc phong của các triều đại. Các đạo sắc này phần nào khẳng định công lao vĩ đại của vị anh hùng dân tộc Lý Nam Đế và sự quan tâm của vua chúa các triều đại về sau đối với nhân vật lịch sử này. Bên cạnh đó cũng đã chứng minh cho sự trường tồn của di tích qua các biến cố thăng trần của lịch sử và dòng chảy của thời gian.

3. Hoành phi, câu đốiỞ đình, đền Giang Xá hiện nay có nhiều hoành phi, câu đối cổ có nội dung ca

ngợi công lao, ân đức của Lý Nam Đế như:Vạn Xuân triệu thống(Đặt nền Vạn Xuân)Thiên Đức kiến nguyên(Mở hiệu Thiên Đức)Lư Hạp tôn quang(Dân làng tôn sùng sự quang minh)Thái Bình ấp(Chỉ ấp Thái Bình, quê vua Lý Nam Đế).Hoặc những câu đối tiêu biểu:Văn võ bẩm toàn tài, phá Lâm Ấp, phạt Tiêu Tư, thiết mã kim qua trường

hách dịch;Sơn hà khai nhất thống, bất sĩ Lương, xưng đế Việt, Nam châu Bắc quận chấn

uy thanh.Dịch nghĩa:Văn võ đủ cả toàn tài, phá Lâm Ấp đuổi Tiêu Tư, ngựa sắt gươm vàng vẫn

còn hiển hách;Non sông mở nền chính thống, bỏ nhà Lương, xưng đế Việt, châu Nam, quận

Bắc lừng lẫy uy danh.Câu đối đã tóm lược khá đầy đủ sự tích đánh giặc bảo vệ đất nước của người

anh hùng dân tộc Lý Bí gần đầy đủ như lời nhà sử học Ngô Sĩ Liên ghi trong sách Đại Việt sử ký toàn thư:

"Vua có tài văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp thời loạn lạc trở về thái bình. Bấy giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, quân Lâm Ấp cướp phá ngoài biên. Vua dấy binh đánh đuổi được, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên".

Cửu Đức như Giang Xá trụ ThiềnVạn Xuân khải thái bình thăng đế.

Dịch nghĩa:Từ đất Cửu Đức đến tu đạo Thiền ở làng Giang XáLập nước Vạn Xuân mở đời thái bình lên ngôi hoàng đế.

Nước Vạn Xuân là quốc hiệu do vua Lý Nam Đế đặt ra, đã được các nhà sử học đời sau rất quan tâm, nên nhiều công trình sử học đều thấy nhắc đến.

Về tên đất Cửu Đức, theo sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chỉ dẫn thì Cửu Đức là tên quận Cửu Đức do nhà Ngô đặt ra trên khu vực đất đai của

92

Page 93: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Việt Thường thị, cai quản 8 huyện. Trải các đời Tấn, Tống, Tề vẫn giữ tên quận, sang đời nhà Lương mới đổi làm huyện Cửu Đức cho lệ thuộc vào quận Nhật Nam. Do vậy có ý kiến cho rằng Lý Bí từng làm quan với nhà Lương, có thể là ở huyện Cửu Đức này. Thế nhưng thần tích lại cho thấy Lý Bí từ đất Giã Năng về tu ở chùa Giang Xá theo Thiền sư Pháp Tổ, nên cũng có ý kiến cho rằng đất Cửu Đức chính là Giã Năng.

Bạch ngưu vãng sự khai thiên vậnĐan Phượng sùng từ hiển địa linh.

Dịch nghĩa:Việc xưa trâu trắng mở ra thiên vậnĐền lớn Đan Phượng tỏ rõ đất thiêng.

Sự tích trâu trắng nói đến trong câu đối này, không tìm thấy trong các bộ sử lớn như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, cũng như trong các bản thần tích lưu giữ ở đình làng, chỉ riêng sách Đại Nam sử ký quốc ngữ lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu Ab.6 có chép:

Vận trời ví đã mở mangCũng nên chế độ hưng vương một đời.Thịnh suy nào biết cơ trời,Trâu ai có chữ vẽ vời trên vai.Chữ rằng “nhật phụ mộc lai”,Sấm văn rành rỡ đôi bài chưa phân.Ai ngờ Lương lại phát quânSai quan Tư mã là Trần Bá Tiên.

Ở phần chú giải bằng Hán văn, sách viết: "Thị thời hắc ngưu bạch độc hữu văn: nhật phụ mộc lai, tức Trần tự dã, ứng Trần Bá Tiên lai xâm" (Nghĩa là: Thời bấy giờ có con trâu đen sinh ra con nghé trắng trên mình nghé con có hoa văn hiện thành hình chữ nhật phụ mộc lai, tức là chữ Trần, ứng vào sự việc Trần Bá Tiên kéo quân sang xâm lược).

Nhất đẳng anh hùng, Bắc nhi Lương, Nam nhi Việt;Lũy triều bao tặng, sinh vi đế, một vi thần.Dịch nghĩa là:Anh hùng bậc nhất đất Bắc là nhà Lương, cõi Nam là nước Việt;Nhiều đời phong tặng lúc sống làm hoàng đế, khi mất là linh thần.Hiện ở đình làng Giang Xá còn giữ được 22 đạo sắc phong của các vị Hoàng

đế đời Lê Trung hưng và đời Nguyễn như đã thống kê ở phần trên. Kiểm tra kĩ về niên đại của 22 đạo sắc phong này, chúng tôi mới hiểu câu "Lũy triều bao tặng" của tác giả soạn thảo câu đối là hoàn toàn chuẩn xác. Mỗi lần mở hòm sắc tuyên đọc sắc văn, nhìn vào hàng chữ còn như mới nguyên, ai nấy đều tưởng tượng ra công đức cao vời của Đức vua Lý Nam Đế.

Lý gia nhất thống dư đồ thủyGiang chử thiên thu miếu mạo tân.

Dịch nghĩa:Nhà Lý bắt đầu mở ra dư đồ nhất thống,Miếu thờ bên bến sông ngàn thu vẫn mới.

93

Page 94: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Miếu thờ bên bến sông là chỉ vào ngôi đền Giang Xá này. Nếu tính từ ngày vua Lý Nam Đế mất cũng đã hơn một ngàn năm rồi. Đó là truyền thuyết dân gian, còn nếu dựa vào chứng cứ lịch sử như sắc phong thần do triều Lê ban tặng lưu giữ ở đình, thì ngôi đền Giang Xá cũng đã có lịch sử hơn 300 năm rồi. Do vậy vế đối ghi "Giang chử thiên thu miếu mạo tân" là rất đáng tin cậy.

Từ Giang chử ở vế đối này là chỉ vào bến sông của làng Giang Xá. Đó là lưu vực dòng sông Nhuệ thời xưa. Các chứng tích lịch sử hiện còn cho thấy dòng sông Nhuệ chảy qua hai tỉnh Hà Nam, Hà Nội bây giờ vốn phát nguyên từ cửa Hạ Mỗ thông với sông Hồng, rồi chảy qua các làng xã Tân Hội, Tân Lập, Giang Xá, Tây Đam, Phú Diễn rồi xuôi xuống Tây Mỗ, Cầu Đơ... Đến cuối thế kỷ XIX, người Pháp cho khơi cửa sông Chèm, và lấp cửa Hạ Mỗ. Do vậy các khúc sông Nhuệ còn lại ở Giang Xá, Tây Đam hiện nay gợi lại một vùng sông nước thuyền bè xuôi ngược ở khu vực Giang Xá.

Những đôi câu đối tiêu biểu nêu ra ở trên gần như đã khái quát đầy đủ công lao hiển hách của vua Lý Nam Đế thuở nào. Khách đến thăm đền thông qua hệ thống câu đối, hoành phi cũng có thể nắm bắt tương đối đầy đủ sự tích của vua Lý Nam Đế.

Hai câu đối đình Lưu Xá nằm trong quần thể di tích phụng thờ Lý Nam Đế lại ghi:

Kinh Bắc xuất thánh minh, khởi Giáp Tý, chung Mậu Thìn, nhất thống sơn hà khai đỉnh nghiệp.

Vạn Xuân tự đế quốc, hậu Triệu, Trưng, tiền Đinh, Lý, thiên thu miếu mạo lẫm dư linh.

Dịch nghĩa:Đất Kinh Bắc nơi xuất bậc thánh minh, sinh năm Giáp Tý, mất năm Mậu

Thìn, thống nhất sơn hà, khai sinh đất nước.Lập nước Vạn Xuân, sau Triệu, Trưng, trước Đinh, Lý nghìn thu miếu mạo

còn linh thiêng. Từ đây có thể cho phép đặt giả thiết về quê hương của Lý Nam Đế rằng Lý

Nam Đế quê ở xứ Kinh Bắc, theo như bản văn bia đã ghi chép. Vấn đề là bấy lâu nay, có một vài nhà nghiên cứu đã từng cho rằng ông quê ở tỉnh Thái Bình. Chúng tôi cũng đã nghiên cứu bài “Về Lý Nam Đế" đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 1 năm 1991 của ông Minh Tú. Qua phân tích phả hệ họ ông Lý Nam Đế, vốn quê ở Long Hưng (Trung Quốc).

Qua cuộc khảo sát di tích đền Giang Xá, đình Giang Xá, đình Lưu Xá ở Hà Nội ngoài văn bia trên, còn có các tư liệu khác như hoành phi, câu đối ở đền Giang Xá, đình Lưu Xá cũng cho biết những thông tin quan trọng có dấu hiệu về quê hương của Lý Nam Đế. Như vậy, theo các tư liệu Hán Nôm đã nói trên cho phép đặt giả thiết ấp Thái Bình (là xóm Thái Bình, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên ngày nay) có thể là quê hương gốc của Lý Nam Đế. Cần phải nghiên cứu, khảo sát vùng đất Phổ Yên để kết hợp với các tư liệu điền dã thu thập được ở Hoài Đức - Hà Nội để góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên về quê hương vị vua Lý Nam Đế.

Đối với tư liệu Hán Nôm tại chùa Bảo Phúc (Linh Bảo tự) đã cho thấy rõ hơn về sự liên quan của ngôi chùa làng Giang Xá đối với nhân vật Lý Nam Đế. Theo

94

Page 95: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

cuốn Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền ngôi chùa là nơi Đức Pháp tổ thiền sư đã được một số dòng họ trong làng vời về làm trụ trì và đây cũng là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, cốt cách của một đấng quân vương, đồng thời cũng là đại bản doanh cho cuộc khởi nghĩa giành độc lập về sau. Hiện ở chùa còn lưu giữ bức tượng Đức Pháp tổ thiền sư tại khu nhà Tổ của chùa và có đôi câu đối ghi rằng:

Lý triều Thánh Đế tái lai, đức trạch sơn hà nam bắc quốcTừ chi thần tăng ứng hiện, ân quang vũ trụ cổ kim ngânDịch nghĩa:Vua Lý thăm thầy, trọn tài đức ấy vang lừng trong hai nướcThăm thầy, thăm cha, ơn ngang trời đất, xưa nay chỉ có ngườiTheo bài minh trên chuông chùa Bảo Phúc cho biết chuông này được đúc vào

năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), nhưng trước đây vào thời Lê mạt, chuông chùa Bảo Phúc đã được đúc thời Lê Trung Hưng cách đấy hơn 200 năm. Đây là ngôi chùa lớn được dựng từ thời Lý. Do binh biến, loạn lạc ngôi chùa cổ và quả chuông không còn nên đến thời Minh Mệnh mới làm lại chùa và đúc chuông. Chúng tôi xin trích dịch nghĩa bài minh chuông này:

“Làng Giang Xá, xã Lưu Xá huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai là nơi dân cư đông đúc phồn thịnh phong vật nhàn tản thanh lịch, có ngôi chùa Bảo Phúc là ngôi chùa to liệt hạng…

Cuối thời nhà Lê loạn lạc, giặc dã triền miên…Ngày nay dâu bể đã qua thanh bình trở lại dân làng bình yên, chùa Bảo Phúc là cơ sở thứ 2 của Phật giáo Việt Nam, hằng năm chư tăng các nơi về đây học tập giáo lý rèn luyện đức hạnh…

Chùa Bảo Phúc xưa có tam quan, trên treo quả chuông to đã bị mất, tam quan hư hỏng. Tương truyền chuông đúc vào thời Lê, truyền đến Hậu Lê Trung Hỷ trên ba trăm năm. Trong chùa trên Tam bảo thờ Phật đặc biệt dưới nhà Tổ thờ vị Lý triều Pháp tổ thiền sư là người có công nuôi dạy vua Tiền Lý trưởng thành lên ngôi Hoàng đế, trải qua các triều đại ghi đã trên bảy trăm năm…”.

Trên đây là những nghiên cứu tư liệu lịch sử thông qua các di vật về Hán Nôm có tại các di tích phụng thờ Lý Nam Đế trên địa bàn huyện Hoài Đức mong góp một phần nhỏ bé trong công tác nghiên cứu chung về việc làm rõ lai lịch, hành trạng cũng như công lao của Đức Lý Nam Việt Đế đối với quê hương và dân tộc, đây cũng là chút tấm lòng tri ân của các thế hệ “con Lạc, cháu Rồng” nói chung và của người dân Giang Xá - Hoài Đức nói riêng đối với người anh hùng dân tộc Lý Nam Đế.

Kính chúc quý vị đại biểu sức khỏe, hạnh phúc, chúc hội thảo thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn!Đ.V.T

TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

Page 96: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

1. Hồ sơ khoa học Đình, Đền Giang Xá và Chùa Bảo Phúc (Linh Bảo tự) Thị trấn Trạm Trôi (Lưu trữ tại Phòng VH&TT huyện Hoài Đức - Hà Nội).

2. Di tích Hà Tây, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây xuất bản năm 1999.3. Tìm hiểu sự tích Lý Nam Đế quan các câu đối thờ ở đền Giang Xá của PGS.TS. Nguyễn

Tá Nhí (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).4. Tư liệu Hán Nôm ở các di tích huyện Hoài Đức (Hà Nội) viết về quê hương Lý Nam Đế

của Nguyễn Đình Hưng (Sở VH, TT&DL tỉnh Thái Nguyên).5. Đình Giang Xá nơi thờ vua Lý Nam Đế làm thần Thành hoàng của Ngô Vũ Hải Hằng

(Viện Sử học).6. Văn bản Thần tích “Việt Thường thị tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền của PGS.TS.

Đinh Khắc Thuân (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

96

Page 97: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

NGHIÊN CỨU VỀ NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA LÝ NAM ĐẾ VÀ VIỆC TRAO BINH QUYỀN CHO TRIỆU QUANG PHỤC

NNC. Vũ Kim Biên

UBND huyện Tam Nông đề nghị tôi tham gia hội thảo với đề tài trên. Theo quy định của chương trình là bài dài 5 trang trở lại. Nhưng đây là kết quả sưu tầm từ giữa thế kỷ XX nên chúng tôi cung cấp để làm tư liệu gốc, có dài hơn một chút.

Nói đến thất bại của Lý Nam Đế là phải nói đến hồ Điển Triệt. Nói đến việc trao binh quyền cho Triệu Quang Phục là phải nói đến động Khuất Liêu (hay Khuất Lão).

Về hai địa điểm này, sách Đại Việt sử ký toàn thư của triều Lê viết: “Bính dần Thiên Đức năm thứ 3 (546) (Lương Đại Đồng năm thứ 1). Mùa xuân

tháng giêng, bọn Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Vua chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Mùa thu tháng 8 vua lại đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt, đóng nhiều thuyền chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ cứ đóng lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Trần Bá Tiên bảo các tướng rằng: “Quân ta ở đây đã lâu tướng sĩ mỏi mệt, vả lại thế cô không có tiếp viện. Tiến sâu vào trong nước người, nếu một trận đánh mà không thắng thì đừng mong sống sót. Nay nhân lúc bọn họ vừa thua luôn mấy trận lòng người chưa vững, mà người Di Lạo ô hợp dễ đánh giết, chính nên cùng ra tay liều chết cố sức đánh lấy, không có cớ gì mà dừng lại thì lỡ mất thời cơ”. Các tướng đều im lặng không ai hưởng ứng. Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh dâng cao 7 thước tràn đổ vào hồ. Bá Tiên đem quân bản bộ theo dòng nước tiến trước vào. Quân Lương đánh trống hò reo mà tiến. Vua vốn không phòng bị vì thế quân vỡ, phải lui ở trong động Khuất Lão để sửa binh đánh lại, ủy cho đại tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên.

Mậu thìn năm thứ 1 (548) (Lương Thái Thanh năm thứ 2). Mùa xuân tháng 3, ngày Tân hợi Lý Nam Đế ở động Khuất Lạo lâu ngày nhiễm lam chướng ốm chết”.

ĐVSKTT không nói hồ Điển Triệt và động Khuất Lạo ở địa phương nào.Sách Lịch sử Việt Nam tập I của Ủy ban khoa học xã hỗi Việt Nam xuất bản

năm 1971 viết:“Đầu năm 545 nhà Lương cử Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân xâm

lược nước Vạn Xuân non trẻ. Lý Nam Đế dẫn ba vạn quân ra chống giặc ở Chu Diên (Hải Hưng). Bị thua, Nam Đế lui quân về cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) dựng thành lũy chống giặc. Trần Bá Tiên cùng lũ quân vũ dũng tiến công thành Tô Lịch. Đại tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế phải lui giữ thành Gia Ninh (Việt Trì). Giặc bao vây thành Gia Ninh. Sau vài tháng cầm cự, cuối tháng 2 năm 546 thành bị vỡ, Lý Nam Đế phải chạy vào miền Khuất Lão (Vĩnh Phú). Được sự ủng hộ của nhân dân miền núi, Lý Nam Đế tập hợp thêm được nhiều nghĩa quân. Tháng 10 năm 546 Lý Nam Đế lại kéo quân ra vùng hồ Điển Triệt (Đầm Vạc, Vĩnh Yên) đóng nhiều thuyền bè đậu đầy mặt hồ. Quân Lương sợ hãi dao động. Nhưng một đêm thừa nước sông lên to, nước chảy như rót vào hồ, Trần Bá Tiên thúc quân tiến đánh. Lý Nam Đế không kịp phòng bị, nghĩa quân tan vỡ. Cuộc kháng chiến của

97

Page 98: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Lý Nam Đế bị thất bại. Nam Đế phải lẩn tránh vào miền núi, giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Sau ông bị bệnh chết (4/548)”.

Theo LSVN thì Lý Nam Đế từ thành Gia Ninh lên động Khuất Lão, rồi từ động Khuất Lão ra hồ Điển Triệt (Đầm Vạc). Bị thất bại ở Đầm Vạc, Lý Nam Đế chạy vào miền núi giao binh quyền cho Triệu Quang Phục rồi mất, không rõ nơi nào.

Vậy là phải giải quyết hai vấn đề then chốt:1- Hồ Điển Triệt ở đâu?, động Khuất Lão ở đâu?2- Hành trình của Lý Nam Đế sau khi mất thành Gia Ninh di chuyển ra sao?I- Phát hiện vị trí hồ Điển Triệt, và cắt nghĩa nguyên nhân Lý Nam Đế

đang thắng thế ở căn cứ Điển Triệt, bỗng dưng thua.Năm 1971 khi nhận nhiệm vụ biên soạn cuốn Lịch sử Vĩnh Phú, chúng tôi đã

giành ra khá nhiều thời gian công sức, và đã đạt được kết quả làm rõ hai vấn đề trên (1).

Trước tiên chúng tôi trình bày về phát hiện ở Lập Thạch (Vĩnh Phúc). Tại xã Tứ Yên nằm bên bờ sông Lô cách Bạch Hạc 15km về phía Nam có một cái đầm tên nôm là đầm Miếng. Hầu hết nhân dân trong xã chỉ gọi tên đầm như vậy, chứ không biết hồ Điển Triệt. Riêng các cụ bô lão thì vẫn còn nhớ và giải thích rằng sở dĩ tên đầm là Điển Triệt vì nó trong suốt mà không bao giờ cạn hết nước được. Trên quả gò dựng trường cấp một của xã là nền ngôi chùa cũ rất đồ sộ vào hàng thứ nhất ở huyện Lập Thạch mới bị phá trong kháng chiến chống Pháp. Các cụ cho biết cửa chùa có đôi câu đối viết năm Khải Định thứ 10 là:

“Bạch nhật hiến hoa thành Lĩnh điểuÔ Long thính kệ Điển hồ ngư”Câu đối này nhắc lại hai di tích lịch sử của xã là thành Lĩnh và hồ Điển Triệt.Theo tài liệu địa chính, hồ rộng 50 mẫu dài khoảng 1km, khúc rộng nhất là

400mét, có bảy ngách lớn và nhiều ngách nhỏ, mùa khô nước sâu 3 đến 4 mét, lòng hồ thu lại còn chừng hơn 40 mẫu. Hồ cách sông Lô 300m, ba phía đông nam bắc là một dải đồi cao, phía tây có một gân đồi thấp chỉ cao hơn mặt nước chừng hai, ba mét bò suốt từ chân gò xuống phía nam.

Gân đồi ngừng lại để trống một khoảng dài 180m thành ra cửa hồ thông luôn với đồng chiêm trũng. Quan sát kỹ dải đồi ta thấy rằng ba mặt là đồng chiêm và chằm sâu bao bọc, còn phía tây là hồ Điển Triệt. Trên các đồi này hiện nay là các làng Yên Phú, Yên Lương và Yên Kiều. Chính dải đồi này theo truyền thuyết của nhân dân là nơi nghĩa quân Lý Nam Đế đóng. Có một quả đồi dùng cho triều đình ở gọi là thành Rền hay thành Lĩnh. Một quả đồi khác cao nhất sát bờ hồ có thể nhìn rõ Việt Trì, Bạch Hạc gọi là đồi Vua Ngự. Tương truyền vua Lý hàng ngày ngồi quan sát địch tình ở phía Bạch Hạc và đôn đốc quân sĩ đục thuyền độc mộc. Quanh hồ Điển Triệt có nhiều bến được nhân dân ghi nhớ, đó là bến Chảy nước rất trong là bến Vua hay ra tắm rửa, và bến Bêu là nơi đậu của các con thuyền độc mộc.

Theo truyền thuyết, khi bị quân Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy đánh thua ở phía Bạch Hạc, vua Lý đưa triều đình và quân sĩ chạy lên Lập Thạch. Nhà vua thấy vùng này có thế đất tốt, ngũ phù chầu về thành Lĩnh là Phù Én, Phù Trưng, Phù Lánh, Phù Gâm, Phù Giai, nên vua định đóng đô lâu dài ở đây. Không ngờ nhân một trận lũ to nước tràn vào đồng, quân Trần Bá Tiên vượt thuyền vào đánh. Hai

98

Page 99: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

bên giết nhau không biết bao nhiêu mà kể ở chỗ Đè Thác. Quân ta thua, vua chạy sang động Khuất Liêu. Về tình hình thờ tự, ở Tứ Yên cả bốn thôn (Yên Lập, Yên Lương, Yên Phú, Yên Kiều) đều có đền thờ Lý Bôn, Lý Phật Tử và Lý Thiên Bảo.

Như vậy là trận thủy chiến mùa thu năm Bính dần (546) không xảy ra ở Đầm Vạc Vĩnh Yên, mà ở hồ Điển Triệt thuộc xã Tứ Yên huyện Lập Thạch.

Nhận định của chúng tôi xuất phát từ những căn cứ sau đây:- Một là ở Tứ Yên có đích danh tên hồ Điển Triệt. Địa thế hồ này rất phù hợp

với tình huống xẩy ra chiến trận, có truyền thuyết dân gian hèm tục cầu cúng rõ ràng.

- Thứ hai là hoàn cảnh dẫn đến sự thất bại của Lý Nam Đế theo sử sách là nước sông lên cao chảy vào hồ, nhờ đó Trần Bá Tiên mới đưa thuyền ở ngoài sông vào được. Trước đó quân Lương trông thấy thuyền độc mộc của quân ta đầy hồ sợ sệt không dám đánh vào.

Xét địa thế Đầm Vạc ta thấy không phù hợp với tình huống này. Bởi vì đầm Vạc thông với sông Hồng nhờ sông Nguyệt Đức. Quãng sông Nguyệt Đức này dài 40km, nếu tính theo đường chim bay cũng phải hơn 20km. Vậy thì quân Lương không thể đứng ở thuyền của chúng trên sông Hồng mà nhìn vào đầm Vạc được. Sông Nguyệt Đức vừa nhỏ như con ngòi vừa dài không thể tạo ra cái thế nước sông Hồng chảy ào ạt vào đầm, và quân Lương cũng không cần đợi nước dâng to để đưa thuyền vào đầm Vạc, mà chúng có thể tiến theo đường bộ rất thuận tiện.

- Thứ ba là, chỉ có hồ Điển Triệt ở Tứ Yên, Lập Thạch mới phù hợp với hành trình của Lý Nam Đế là từ Gia Ninh phía Bạch Hạc rút lên hồ Điển Triệt, rồi từ hồ Điển Triệt chạy sang động Khuất Liêu, Cổ Tuyết Tam Nông Phú Thọ.

Có một tư liệu quan trọng giúp ta giải thích tại sao Lý Nam Đế không chạy vào Tam Đảo đất liền, mà lại vượt sông Lô sang hữu ngạn. Theo các cụ phụ lão Tứ Yên thì Đè Thác là chỗ quân hai bên dồn cả đến đấy, diễn ra trận đánh vô cùng ác liệt. Đè Thác là tràn ruộng mùa, được đắp thành con đường đi vào xã Đồng Thịnh. Đó là cổ đất duy nhất thông về phía Tam Đảo. Trần Bá Tiên là viên tướng giỏi dùng binh và hết sức hiểm độc.Y cố tình đánh chặn mặt rút vào đất liền nhằm dồn quân ta xuống dòng sông Lô mênh mông nước lũ. Lý Nam Đế cho mở nhiều đợt phản công ở Đè Thác nhưng không thắng được quân Lương, bởi vậy buộc lòng phải xuống thuyền sang hữu ngạn và khi sang dược hữu ngạn rồi, để tránh sự truy khích của giặc, ông lại tính kế vượt sông Thao sang động Khuất Liêu. Nơi đây vốn là địa bàn của người Việt Cổ sinh tụ, có hàng chục động (đơn vị hành chính cổ) như Khuất Liêu, Hoàng Nham, Mai Sơn, Quán Khống…Họ không chịu phục tùng các chính quyền đô hộ phương Bắc. Các bài Trâm của Dương Hùng đời Hán, sớ của Triết Tổng đời Ngô, sử của nhà Tề đều viết, dân cậy hiểm xa thường hay phản loạn, rất khó cai trị.

Lý Nam Đế định tổ chức lực lượng tiếp tục kháng chiến, nhưng bất ngờ bị bệnh nặng, bèn giao binh quyền cho Triệu Quang Phục, rồi ông mất tại Khuất Liêu.

II- Phát hiện vị trí động Khuất Lão (Liêu).Căn cứ vào lời chú thích của giáo sư Đào Duy Anh trong sách Đại Việt sử ký

toàn thư là: “Người ta truyền rằng động Khuất Lão chỗ lý Nam Đế rút là chỗ làng Đào Xá thuộc huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ ở hữu ngạn sông Hồng. Ở đấy hiện có đền thờ Lý Bôn”. Chúng tôi đã về Đào Xá huyện Thanh Thủy( giáo sư Đào Duy

99

Page 100: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Anh nhầm là huyện Tam Nông), trà đi sát lại kĩ càng nhưng không tìm thấy dấu vết gì của Lý Nam Đế, đền thờ cũng không có. Song lại may mắn phát hiện được bản thảo bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt chép trong ngọc phả đền Đào Thôn.

Việc tìm căn cứ động Khuất Lão chúng tôi đặt trọng tâm ở Danh Hựu, vì hồ sơ kiểm kê di tích năm 1962 ghi tại đây có đền thờ Lý Nam Đế. Chúng tôi đề nghị Ủy ban hành chính xã Cổ Tiết triệu tập một cuộc họp các cụ phụ lão có biết ít nhiều về chuyện vua Lý. Ủy ban hành chính xã đã yêu cầu các cụ trong Ban Mặt trận Tổ quốc giúp đỡ.

Sáng ngày 22-11-1973 cụ Nguyễn Văn Cán tổ trưởng Mặt trận thôn Danh Hựu dẫn chúng tôi đến động Khuất Liêu quan sát. Cụ cho biết, quả gò này trước kia nằm một phần trên địa giới xã Văn Lang. Hồi cụ 12 tuổi làng đem đổi 11 mẫu ruộng xứ đồng Nhà Lời cho Văn Lang để lấy 11 mẫu đồi có mộ và đền thờ Lý Nam Đế.

Động Khuất Liêu là một quả đồi đất đỏ xám pha sỏi, hình chiếc hoa sen 3 cánh xòe, cao hơn mặt ruộng chừng 10m, rộng 11 mẫu Bắc Bộ. Ba mặt đông, nam, bắc bao bọc bởi 115 mẫu ruộng chiêm. Tương truyền xốc ruộng này nguyên gọi là vụng Xưa hay vụng Ba Triệu, sau sông Hồng bồi đắp lên thành ruộng, nay còn khá sâu và mang các tên xứ Chằm, Hố Náp, Hố Ao. Phía tây động là dãy rừng cấm thuộc xã Văn Lang.Động Khuất Liêu có 5 tên là Khuất Liêu, Tam Khu, Liên Hoa, Gò Cổ Bồng, Trên Động( tức quả đồi) có một nền cũ của ngôi đền thờ 5 vị: Lí Bí, Lí Thiên Bảo, Lí Phật Tử, và 2 vị thần có công giúp vua qua sông là Long Hải Vương và Lân Hải Vương.

Trước động Khuất Liêu về phía đông khoảng 1 km là làng Danh Hựu. Làng ở bên bờ sông Hồng có đường 11A đi qua. Giữa làng có đền thờ 5 vị trên. Đình đã bị đỏ mất 3 gian đại bái còn lại 4 gian. Đồ khí tế đã bị gãy vụn cả. Các câu đối bị lở và mờ nét mực rất khó đọc.Ví dụ:

- Thiên khải thánh ninh phù thế đạo Địa lưu thần tính hộ phương dân.- Lý triều thánh đế lưu linh tích Nam quốc sơn hà đại kiến công.- Thiên đức vạn niên minh nhật nguyệt Thái bình thiên cổ tráng sơn hà- Lý diệp thiên khai vi cổ lục Liên hoa địa quyết hiển linh thanh- Nam thiên cộng ngưỡng thái bình quốc Đế đức quân chiêm Phú Thọ nhân - Thái dân an lưu đại huốngKhang vật phụ hạ dư linh.

Cũng có đôi chỉ còn đọc được một vế như:- Sơn kì thủy tụ thần từ tráng lệ vạn xuân giang.

Có hai bức hoành phi là:- Nam thiên chính khí - Thái bình lính huống

Buổi chiều ngày 22-11 chúng tôi họp với 7 cụ phụ lão là: 100

Page 101: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Nguyễn Văn Cán 62 tuổi, Nguyễn Văn Tuyên 70 tuổi, Phạm Hữu Mục 63 tuổi, Nguyễn Văn Soan 70 tuổi, Đỗ Văn Viên 58 tuổi, Nguyễn Văn Phụ 60 tuổi, Nguyễn Ngọc Chương 61 tuổi.

Về tình hình thờ tự các cụ cho biết:Từ xưa để lại có ngôi đền lợp lá trên động Khuất Liêu thờ 5 vị nói trên. Phía

trước, bên phải đền có lăng vua xây gạch dưới gốc cây bàng như nấm mộ thường. ngoài làng có đình xây gạch lợp ngói. Cách đây 40 năm vì đi lại trở ngại, mỗi lần làm lễ phải lội qua đồng chiêm hoặc bơi thuyền vất vả nên dân dỡ đền ra lấy gạch làm đấu vào với đình và rước bài vị, nồi hương về đình thờ. Năm 1955 cải cách ruộng đất, ban nông hội Danh Hựu nhường quả đồi cho nhân dân Văn Lang trồng sắn nên lăng không được bảo vệ đã bị mất dấu tích. Ruộng dùng vào việc cúng tế cũng bị đem chia luôn.

Ngọc Phả của đình bị giặc Pháp lấy mất. Các cụ còn thuộc lòng vài đoạn như: “Tam Khu chi lăng miếu do truyền, sơn hà như tráng đế, Nhi ấp như Kiền Lê phụng sự mạnh tức Duy Hinh …”. Nghĩa là: Ở Tam Khu (động Khuất Liêu) có lăng và miếu thờ từ trước để lại.

Trước cách mạng ở Danh Hựu có 4 kỳ cầu:- Từ mồng 2 đến 7 tháng giêng kỷ niệm ngày khởi nghĩa- Ngày 12 tháng 3 kỷ niệm ngày vua lên ngôi- Ngày 6 tháng 8 kỷ niệm ngày sinh- Ngày 12 tháng 9 kỷ niệm ngày hóaTrong kỳ cầu tháng giêng có các hèm như:+ Cướp vĩ: Trước dùng đuôi trâu sau dùng đuôi lợn. Một phe giữ đuôi, hai phe

cướp, một phe chữa (ngăn cản).+ Vật ngày 5 tháng giêng cho trẻ em từ 1 đến 10 tuổi vật nhau. Ngày 6 tháng

giêng người lớn vật vờn (không cho được thua). Ngày 7 người lớn vật lấy được thua.

+ Ném cầu: Chôn hai cột cao 30 thước ta, trên đỉnh cột treo một cái rọ đan bằng tre. Hai giáp tranh nhau bằng quả cầu gỗ sơn son ném vào rọ. Nếu ném trúng rọ là thắng kiểu như chơi bóng rổ. Phe nào thắng ngồi lọng tán vàng, phe thua ngồi lọng lá chuối. Các trò chơi này ý nói việc luyện tập quân sĩ của vua.

+ Ngày 7 kết thúc kỳ cầu có cướp kén.+ Về phẩm vật cúng vua thì phải có bánh dày, bánh rán, bánh mật bột tẻ, cam,

chuối, bưởi, bánh nẳng, bún, đậu, trứng, hành, dưa hoa cải là những món lúc sống đã dâng vua.

Cỗ bàn chia làm 3 nơi: Thượng cung đặt 5 mâm cho vua và 4 vị phối hưởng. Hạ đàn đặt 7 mâm cho các tướng, ngoài sân đặt 9, 10 mâm cho quân sĩ.

+Rước kiệu: Ngoài việc rước vua ở đền về đình còn phải đem kiệu ra bờ sông Hồng đón hai vị thủy thần. Theo truyền thuyết, khi vua thất trận ở Hồ Điển Triệt chạy đến bờ bên kia sông, hai vị thủy thần đã giúp vua bơi sang bên này; cho nên hai vị thủy thần đó được thờ cùng và ngày cầu phải đem kiệu ra sông đón. Ngày mồng 7 có dân nước nghĩa ở Phiên Quận (Cẩm Khê) về dự. Lý do là trên đó thờ Lý Công Uẩn. Hai nơi thờ Tiền Lý và Hậu Lý nước nghĩa với nhau.

Còn các kỳ cầu tháng 3, tháng 8, tháng 9 thì không có hèm tục gì, nghĩa là phẩm vật chay mặn tùy ý, không có rước kiệu và các trò chơi.

101

Page 102: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Nhân dân vùng này kiêng các tên húy là: Lý, Bí, Tử, Bảo, Long, Lân gọi chệch đi là Lới, Bầu, đỏ, Tải, Biểu, Lương, Liên.

Trên đây là những điều chúng tôi sưu tầm được nhờ sự giúp đỡ của Ủy ban hành chính và các cụ trong Ban Mặt trận Tổ quốc xã Cổ Tiết, hồi tháng 11/1973.Năm 2010 tôi đã cung cấp các tư liệu trên cho ông Đỗ Văn Mô nguyên là chủ tịch UBND huyện Phù Ninh, quê ở xã Cổ Tuyết, để ông giúp dân làng khôi phục đình Danh Hựu. Được biết đình đã xây dựng hoàn thành tốt đẹp.

III- Bàn về duyên do Lý Nam Đế chọn Triệu Quang Phục trao cho binh quyền.

Theo tư liệu điền dã chúng tôi thu thập được ở vùng Đạo Đức huyện Bình Xuyên (có đền thờ Lý Nam Đế và vợ con) và vùng Bì La huyện Lập Thạch (có đền thờ Triệu Quang Phục) dưới dạng truyền thuyết dân gian và thần tích, thì Lý Bôn và Triệu Quang Phục có mối liên hệ mật thiết khá sớm, lúc Triệu mới 14-15 tuổi.

Số là, thời gian chuẩn bị khởi nghĩa. Lý Bôn bị thứ sử Tiêu Tư do tướng Chu Năng rất tinh quái tham mưu có nghi ngờ, cho quân về quê ông lục soát. Bản thần tích ở Đạo Đức Bình Xuyên nói gia đình Lý Bôn ở gò Ất Lý Long Biên. Mưu sĩ Chu Năng xem thiên văn thấy Ất Lý là nơi phát tích hai đời vua, mới bàn với Thứ sử Tiêu Tư về truy tìm. Vì vậy Lý Bôn chạy trốn ngược mãi theo bờ sông Hồng, rồi tạm lánh vào ngôi chùa ở làng Táo Tuyến (xã Đạo Đức Bình Xuyên). Chùa này do sư Triệu Quang Hành anh trai Triệu Túc trụ trì, mà ông đã gửi Triệu Quang Phục ở đó với bác, để rảnh lo việc nước cùng với Lý Bôn. Triệu Quang Phục tuy nhỏ nhưng có chí lớn, ngấm ngầm tự mình lập một đội thân quân để mai sau đánh đuổi bọn đô hộ nhà Lương. Cậu chọn nhân tài bằng cách đặt chiếc ghế gỗ dưới bóng cây bồ đề tán mát bên đường để bẫy người ngồi. Người bình thường thì cậu kệ không hỏi đến. Nhưng nếu là trang nam nhi bảnh bao mà ngồi vào ghế, lập tức Quang Phục sinh sự đánh nhau ngay. Chàng nào nhút nhát yếu đuối thì tha cho đi. Chàng nào khoẻ mạnh gan dạ thì xin hoà kết làm bạn hữu, hàng ngày cùng nhau đi săn thú hoặc tập luyện võ nghệ. Lý Bôn biết chuyện tỏ ý khen ngợi Triệu Quang Phục và hẹn sau này khi cần sẽ dùng đến.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Lương trở lại xâm lược, Triệu Quang Phục đem đội thân binh của mình tham gia chiến đấu hết sức mưu trí dũng cảm, giỏi đánh địch bảo vệ mình, lập được nhiều công trạng, được Lý Nam Đế phong dần tới chức “Nguyên soái đốc tướng”.

Sau khi vỡ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) một số tướng tử trận, quân sĩ tan tác. Lý Nam Đế rút lên thành Gia Ninh (khoảng xã Thượng Trưng huyện Vĩnh Tường Vĩnh Phúc), sai Lý Thiên Bảo lên Lập Thạch mộ quân. Vài tháng sau Triệu Quang Phục vừa đánh địch dọc đường vừa tìm về với Lý Nam Đế. Chính Triệu Quang Phục khuyên Lý Nam Đế bỏ thành Gia Ninh bị vây hãm lên lập căn cứ hồ Điển Triệt, hàng ngày ra sức luyện tập.

Trận hồ Điển Triệt (Tứ Yên Lập Thạch) quân ta bị bất ngờ do nước sông Lô đột ngột lũ to tràn vào đồng, thuyền chiến của bọn Trần Bá Tiên nhờ có nước theo vào đánh tập hậu, buộcLý Nam Đế phải bỏ căn cứ vượt sông Lô rút sang động Khuất Lão (ở làng Cổ Tiết huyện Tam Nông). Quân ta tan vỡ mất nhiều, chỉ riêng đội thân binh của Triệu Quang Phục trong đó có mấy chục người làng Yên Lỗ Táo

102

Page 103: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Tuyến là theo đủ hộ giá trung thành. Lý Nam Đế ban cho đội quân này tên gọi là “Đội quân phụ tử”

Tại động Khuất Lão quân ta đang củng cố lại lực lượng thì Lý Nam Đế ốm nặng. Biết không thể qua khỏi, ông sai những nghĩa quân người Yên Lỗ Táo Tuyến đưa hoàng hậu Nam Hải và công chúa Phong Nương về quê họ nhờ các phụ lão và nhân dân trông nom hộ. (Ông lấy túi vàng chia cho Nam Hải và Phong Nương 20 lạng, cho người làng Đông Lỗ Táo Tuyến 20 lạng. Hoàng hậu đem nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa dạy cho dân. Các làng này đều lập đền thờ Lý Nam Đế, Đức Vua Bà và Đức Vua Cô).

Lý Nam Đế cân nhắc chọn người có thể đối địch nổi với Trần Bá Tiên, và tuyên bố giao binh quyền cho Triệu Quang Phục để tiếp tục chống giặc Lương. Trong khi đó các anh em ruột của ông là Lý Thiên Bảo, Lý Xuân, Lý Hùng và cháu là Lý Phật Tử(2) cũng tham gia chiến đấu bên cạnh ông, theo thói thường rất có thể được thừa kế. Là vì Lý Nam Đế lấy giang sơn làm trọng, căn cứ vào ý chí tài năng đức độ của Triệu Quang Phục, có thể đối thủ được với Trần Bá Tiên mà dùng. Quả nhiên Triệu Quang Phục đã tổ chức cuộc kháng chiến thành công giành độc lập, đúng như biệt nhãn của Lý Nam Đế.

Bởi vậy có thể xem Lý Nam Đế là nhà chiến lược luôn sáng suốt, người đặt nền móng cho sự nghiệp cứu nước của Triệu Việt Vương.

Tháng 11/1973Tháng 7/2013

Vũ Kim Biên

Chú thích.(1) Nhân đây chúng tôi xin đề nghị với các vị viết sách, viết báo đã và đang

sử dụng kết quả sưu tầm nghiên cứu của chúng tôi một cách rất tự nhiên như ở trên trời rơi xuống. Lại không hề nói tới tác giả tí nào, làm người đọc dễ nhầm các vị đó là tác giả. Kể từ đây xin đề nghị chấm dứt tình trạng đó.

(2) Có bản thần tích nói Lý Phật tử là anh họ Lý Nam Đế.

103

Page 104: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

HOÀNG HẬUĐỖ THỊ KHƯƠNG VỀ KHUẤT LÃO

NNC. Phan Dương

Vào đầu thế kỷ thứ VI, nước ta bị nhà Lương ở Trung Quốc đô hộ. Dưới ách thống trị của nhà Lương, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề, hàng trăm thứ thuế đổ lên đầu người dân. Lòng dân vô cùng căm phẫn và oán hận. Nhà Lương còn thi hành chính sách phân biệt đẳng cấp khắt khe, làm cho mâu thuẫn nội bộ quan lại đô hộ cũ và mới ở Giao Châu thêm sâu sắc, nhất là giữa chính quyền đô hộ nhà Lương với tầng lớp quý tộc người Việt. Sự phẫn uất của tầng lớp quý tộc người Việt với chính quyền đô hộ ngày càng cao, mâu thuẫn giữa nhân dân lao động với bọn đô hộ đã lên đến đỉnh điểm. Đây là thời cơ chín muồi cho sự bùng nổ cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo vào năm 542.

Lý Bí còn gọi là Lý Bôn quê ở Long Hưng (Thái Bình)1, sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503), xuất thân từ một gia đình hào trưởng địa phương. Từ nhỏ Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí lên 5 tuổi thì cha mất, 7 tuổi mẹ mất, phải ở với chú ruột. Sau đó, được một vị thiền sư đưa về chùa nuôi dạy. Mười năm đèn sách chuyên cần, lại được vị Thiền sư hết lòng dạy bảo, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, văn võ kiêm toàn, được tôn làm thủ lĩnh địa phương.

Thời ấy ở khu Tây Để, trang An Để (nay là thôn Hữu Lộc, xã Xuân Hoà, Vũ Thư, Thái Bình) có người con gái nhà họ Đỗ, tên là Khương. Cha nàng là Đỗ Công Cẩn, mẹ nàng là Đào Thị Hoan gốc người Tây Để, gia đình làm nghề bốc thuốc. Đỗ Công Cẩn ngoài 50 tuổi vẫn chưa có con, thường đi cầu đền kia phủ nọ. Lần ấy sau khi vào cầu tự ở chùa Hương Tích về, vợ ông nằm mộng thấy một cụ già trao cho một chiếc gương tứ diện. Sau đó bà thụ thai. Mùa đông năm Đinh Sửu, ngày 10 tháng 11 bà sinh ra nàng Khương. Nàng Khương càng lớn càng đẹp, má phấn, môi son, mắt phượng, mày ngài. Cha mẹ rất yêu quý. Năm 16 tuổi, nàng nổi tiếng nhan sắc tuyệt trần.

Lúc ấy Lý Bí nghe đồn về tài sắc của nàng liền đưa tin cầu hôn. Đỗ Công Cẩn vui mừng nhận lời và cho chọn ngày làm lễ cưới. Lý Bí lập nàng là Đệ nhất cung phi và để nàng ở lại Tây Để nuôi dưỡng cha mẹ, chăn tằm, dệt lụa, lo việc hậu cần giúp binh sĩ có lương ăn đánh giặc.

Lý Bí đánh một trận lớn ở Long Biên. Thái thú Tiêu Tư đại bại, phải bỏ thành rút quân về nước. Lý Bí cho quân lính đóng giữ thành. Thời ấy còn có giặc Chiêm luôn quấy nhiễu. Lý Bí cho đại tướng quân Phạm Tu đem quân đi đánh, dẹp tan, đất nước trở lại thanh bình.

1 Hội thảo khoa học Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của Vua Lý Nam Đế do UBND tỉnh Thái Nguyên cùng Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử giám Hà Nội đã xác định được quê hương của Vua Lý Nam Đế. Quê hương gốc của Ông chính là vùng Thái Bình - Cổ Pháp xưa thuộc châu Giã Năng, xứ Kinh Bắc; ngày nay thuộc thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

104

Page 105: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Tháng 2 năm Giáp Tý (544), Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, lấy thành Long Biên làm kinh đô. Tiếp đó Lý Bí hạ chiếu phong bà Đỗ Thị Khương là Chính cung Hoàng hậu và cho vời bà về triều. Nhà vua hạ chiếu miễn cho dân Tây Để không phải binh nhung, tô thuế. Từ đó dân Tây Để được mang ơn phúc lành và mọi nhà đều được ấm no vinh hiển.

Bà Khương vâng theo chiếu chỉ về triều được 4 năm thì cha bà lâm bệnh qua đời. Nhận được tin, Lý Bí cử một tướng giỏi hộ tống bà về quê cử hành tang lễ cho cha. Chẳng bao lâu sau Mẹ bà lại lâm bệnh nặng và mất ngay trong năm đó. Bà viết biểu tâu vua cho phép bà ở lại chịu tang cha mẹ. Lý Bí bằng lòng và còn ban thêm 100 hốt bạc cùng tơ lụa, gạo, trâu, bò, lợn và cử người của triều đình về làm ma chay cho nhạc phụ, nhạc mẫu.

Đầu năm Ất Sửu (545), nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem đại quân sang báo thù. Sau một thời gian chống trả quyết liệt, không phân thắng bại nhưng quân giặc đông, thế giặc mạnh, Lý Bí phải cho rút quân về hồ Điển Triệt. Nơi đây địa thế hiểm trở, quân Lương không thể đến gần. Tình hình này trải qua hàng năm ròng rã. Mùa hè tháng 6, nước lũ dâng cao, sông lớn tràn đầy, đổ dồn vào hồ gây lụt úng khắp nơi. Lợi dụng khó khăn đó của ta, Trần Bá Tiên đã đem chiến thuyền theo thế nước tiến thẳng vào hồ. Sức vua đã yếu bèn trao quyền cho đại tướng Triệu Quang Phục là một tướng giỏi đầu triều, còn nhà vua thì rút về động Khuất Lão1 và mất ở đó (ngày 13 tháng 4 năm 548). Triệu Quang Phục lo an táng cho nhà vua xong thì trời đất tối tăm, mây đen kéo tới rồi mưa to, gió lớn 3 ngày. Sau trận mưa, phần mộ của Lý Nam Đế mối xông thành một gò đống cao.

Cũng thời gian này Hoàng hậu ở quê được tin nhà vua băng hà. Bà kêu khóc thảm thiết, song không biết làm sao vì nước đang còn có giặc và triều đình thì chỉ báo tang chứ chưa có điều kiện để đưa Hoàng hậu đến nơi nhà vua yên nghỉ. Tháng 2 năm sau giặc tan, Hoàng hậu chọn 6 thị tỳ cùng sứ giả về động Khuất Lão viếng mộ.

Trước khi đi Hoàng hậu truyền cho dân lập đền thờ Lý Bí ngay cạnh bờ suối xưa rồi viết thần hiệu là Tiền Lý Nam Đế để dân biết mà thờ phụng. Bà ban cho dân 10 hốt vàng bạc, mua ruộng đất làm của công chi vào việc lễ nghĩa. Hoàng hậu còn dặn thêm: "Ta với dân đã thành cố nghĩa. Ơn nặng nghĩa dày từ xưa chứ đâu phải một ngày. Vậy chớ quên lời ta dặn. Sau này ta có trăm tuổi dân cũng viết tên thần hiệu ta mà thờ cùng nhà vua tại quê hương này". Dân làng lạy tạ vâng mệnh. Ngày 10 tháng 2, Hoàng hậu cùng 6 thị nữ và các vị bô lão đại diện cho dân cùng sứ giả triều đình về động Khuất Lão viếng mộ.

Ngày 16 tháng 2 vào giờ Ngọ, Hoàng hậu tới mộ làm lễ dâng hương. Vừa viếng xong thì trời đất đổi màu, mây đen phủ kín, gió thổi mạnh, sấm sét vang trời. Sau khoảnh khắc mây tan, trời tạnh và Hoàng hậu biến mất. Cùng lúc ấy, bên phần mộ Lý Bí lại có thêm một gò đống cao to. Những người đi theo thấy vậy hết thẩy đều kinh sợ. Cũng thời gian trưa 16 tháng 2, các cụ bô lão và số đông dân làng đã trông thấy một chòm sao lạ lớn giống như dải lụa đào bay ngang trời từ phía Bắc tới, đến cửa đền (miếu thờ ngày nay) thì chòm sao hạ xuống, bay vào trong đền rồi biến mất. Cả làng đều lo sợ chưa rõ Hoàng hậu về Khuất Lão lành dữ

1 Động Khuất Lão, nay thuộc xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.105

Page 106: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

thế nào mà lại có sự lạ vậy. Khi nghe 6 thị nữ và bô lão từ Khuất Lão về kể lại, mọi người mới biết là Hoàng hậu đã hoá ở Khuất Lão. Sau đó dân trong làng theo đúng lời dặn của Hoàng hậu tu sửa đền thờ và viết thần hiệu của Hoàng hậu để thờ cùng nhà vua.

Sau khi Lý Bí mất, Triệu Quang Phục đem quân về giữ đầm Dạ Trạch. Đại tướng lập đàn cầu đảo trời đất ba ngày. Sau ba ngày có một ông già cưỡi rồng vàng từ trên trời bay xuống, tháo móng rồng trao cho đại tướng và dặn "Đây là Long trảo Thần nỏ, phàm khi nguy cấp đem dùng, ắt là vô địch". Triệu Quang Phục biết đó là Lý Bí đã về đàn trao cho vật báu. Sau đó nhờ có Long trảo Thần nỏ, Triệu Quang Phục dẹp được giặc Lương và lên ngôi, lấy hiệu là Triệu Việt Vương.

Lúc bấy giờ, người anh trong họ của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử cùng con là Lý Nhã Lang dấy binh với ý đồ khôi phục nghiệp Lý. Nhưng vì Triệu Việt Vương có nỏ thần nên đánh trận nào nhà vua cũng thắng. Thấy vậy Lý Phật Tử dùng kế giảng hoà xin cầu hôn cho con trai là Nhã Lang được kết duyên với con gái Triệu Việt vương là Cảo Nương. Triệu Việt vương bằng lòng (mặc dù triều đình đã can gián). Lấy được Cảo Nương, Nhã Lang xin được ở rể, lại được vua tin yêu cho được tự do ra vào nơi cung cấm. Một hôm cùng Cảo Nương uống trà Nhã Lang dò biết được vật báu của Triệu Việt vương. Nhã Lang đã đem nỏ giả vào đánh tráo, lấy nỏ thật giấu đi rồi xin phép Triệu Việt Vương cho về thăm cha mẹ, đem chuyện nỏ thần tâu cha. Lý Phật Tử bèn cất quân đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương đem nỏ thần ra dùng thì nỏ đã bị tráo, thua to, không chống cự nổi phải bỏ thành chạy về cửa biển Đại Nha rồi mất ở đó. Diệt được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử lên ngôi vua xưng Hậu Lý Nam Đế, ban thưởng thứ bậc cho người có công và truy tặng, truy phong bách thần cho cả nước.

Sắc phong cho Tiền Lý Nam Đế là Thượng đẳng thần và bà Đỗ Thị Khương là Linh Nhân Lý Hoàng Thái hậu. Hạ chiếu chỉ truyền cho dân Tây Để, nơi Tiền Lý lập đồn trang được thờ phụng, đồng thời nơi sở tại cử người lai kinh rước sắc phong về thờ. Nhân dân Tây Để đã vâng chiếu, cử một số bô lão lai kinh làm lễ và rước sắc phong về đền.

Lần theo huyền tích, nước Việt trải qua bốn đời Đinh, Lê, Lý, Trần luôn luôn được Nhị vị Thánh đế hiện lên giúp đỡ. Đời Lê Chiêu Tông quyền thần họ Mạc cướp ngôi, khi ấy đại thần Nguyễn Kim đem quân đánh dẹp.

Một hôm Nguyễn Kim dẫn quân qua Tây Để vào đền thờ nhị vị làm lễ khấn cầu xin âm phù cho dẹp tan giặc. Sau đó Nguyễn Kim đem quân đánh Mạc thắng lợi.

Nguyễn Kim cùng vua Lê Chiêu Tông về lễ cầu xin ở miếu Tây Để, truyền lệnh cho dân sửa sang lại đền (bằng tiền vua ban) để thờ phụng lâu dài. Sắc phong cho Tiền Lý Nam Đế là Thượng đẳng thần, Hoàng hậu là Chính cung Linh Nhân Lý Hoàng Thái hậu, sắc cho dân khu Tây Để phải kiêng mấy chữ huý là Bí, Bôn và Khương. Cũng từ đó cho đến nay ở Tây Để (nay là Hữu Lộc) không ai gọi bí ngô, bí đao mà bọi là bầu ngô, bầu đao.

(Theo Đặng Văn Thuỷ và Đặng Thành Trung)

106

Page 107: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN VÀ NHÂN DÂN XÃ VĂN LƯƠNG VỚI VIỆC BẢO VỆ, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA

TẠI ĐỊA PHƯƠNG

Cù Minh Loan Chủ tịch UBND xã Văn Lương, huyện Tam Nông

Văn Lương là một xã trung du miền núi, nằm ở phía Bắc của huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Với diện tích tự nhiên 801,29 ha, có chiều dài 6km, chiều rộng 3km, cách hữu ngạn sông Hồng 1km, Văn Lương có ranh giới phía Đông giáp xã Tam Cường, phía Tây giáp xã Tứ Mỹ, phía Nam giáp xã Cổ Tiết, phía Bắc giáp xã Xuân Quang và xã Thanh Uyên; cách trung tâm huyện 12km về phía Nam. Địa bàn xã sớm có con người đến định cư và sinh sống. Những chứng tích lịch sử qua các đình, chùa, đền, miếu cùng những truyền thuyết, thần tích hiện còn lưu lại đã chứng minh điều đó.

Văn Lương là xã có truyền thống văn hoá lâu đời và đặc sắc của huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ, gắn liền với lịch sử mấy ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Để ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân, có công đánh giặc bảo vệ quê hương, đất nước nhân dân Văn Lương đã dựng các đền thờ tưởng nhớ các vị Anh hùng dân tộc như: Đền thờ Vua Lý Nam Đế, đền Phú Đỉnh, đền Liên Trì, đền Vũ Lang thờ vua Hùng Vương thứ 18, Tản Viên Sơn Thánh và Thiều Hoa Công chúa.

Trong hệ thống di tích đó, tiêu biểu nhất là động Khuất Lão và đền thờ vua Lý Nam Đế được xây dựng tại gò Cổ Bồng thuộc khu 02 xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Với truyền thống dân tộc uống nước nhớ nguồn, truyền thuyết của địa phương về gò Cổ Bồng có đền thờ Vua Lý Nam Đế, với địa danh “Ao Quan, Đính Trại, Rừng Cấm,..." là những dấu tích người xưa để lại chỉ là những ao hồ hoang phế, những viên gạch, ngói nằm yên trong lòng đất.

Động Khuất Lão (hay Khuất Liêu, trước kia thuộc xã Cổ Tiết) nay thuộc xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Đây là một vùng đất cổ huyền thoại và lịch sử. Nơi đây hiện còn lưu giữ các sự tích, truyền thuyết ngay từ thuở Vua Hùng dựng nước và tồn tại rất nhiều chứng tích, như Ao Quan, Đính Trại, Rừng Cấm, những sự kiện đó gắn liền với truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Lý Bí (còn có tên gọi là Lý Bôn) sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (tức ngày 17 tháng 10 năm 503). Từ nhỏ Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé rất thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất; 7 tuổi thì mẹ mất, Ông đến ở với chú ruột. Một hôm có vị Pháp tổ thiền sư đi ngang qua trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về Chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm đèn sách chuyên cần, Lý Bí đã trở thành một người học rộng, hiểu sâu. Nhờ có tài văn võ kiêm toàn Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh của địa phương. Ông được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức Châu (huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh ngày nay). Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng người, lại

107

Page 108: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác, Lý Bí đã bỏ quan, về quê, chiêu binh, mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.

Căm thù giặc Lương tàn bạo, ông đã hiệu triệu nhân dân cùng các hào kiệt nổi dậy chống lại quân Lương từ năm 541 đến cuối năm 542. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược, đến tháng giêng năm 544 Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế (nhà Tiền Lý), lên ngôi đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước ta là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến muôn đời, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Hà Nội). Ông dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội, thành lập triều đình với hai ban văn, võ. Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ. Nhà nước Vạn Xuân xây dựng chưa được bao lâu thì vào khoảng tháng 6 năm 545, nhà Lương lại đem đại binh tấn công sang nước ta. Sau nhiều lần kịch chiến với quân Lương ở Chu Diên (Hải Dương), Tô Lịch (Hà Nội), Gia Ninh (Bạch Hạc). Đầu năm 546, Lý Nam Đế đưa quân vào động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) để củng cố lực lượng. Tháng 8 năm 546, ông kéo 2 vạn quân ra hồ Điển Triệt (Lập Thạch, Vĩnh Phúc) lập thuỷ trại. Tại đây sau 1 đêm nước sông dâng lên cao 7 thước tràn vào hồ, quân của Trần Bá Tiên theo dòng chảy tiến vào, quân của Lý Nam Đế không phòng bị kịp thời đã bị tan vỡ buộc phải vượt sông Thao chạy về động Khuất Lão. Tại đây, ông trao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục. Năm 548 Lý Nam Đế ốm nặng rồi mất tại động Khuất Lão.

Về Kỷ nhà Tiền Lý (541-547) và về cuộc kháng chiến chống quân Lương do Lý Bí lãnh đạo, sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Bính Dần năm thứ ba, tháng giêng bọn Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Vua chạy vào đất người Lão ở Tân Xương. Quân nước Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Mùa thu tháng 8, Vua đem lại 2 vạn quân từ trong đất người Lão ra đóng ở hồ Điển Triệt. Đóng rất nhiều thuyền chật cả trong hồ. Quân Lương đóng ở cửa hồ, ngại không dám vào. Đêm hôm ấy, nước sông dâng mạnh, cao bảy thước rót vào hồ. Quân Lương đánh trống reo hò mà tiến, Vua không phòng bị kịp nên bị tan vỡ, lui ở trong động Khuất Lão. Mậu Thìn năm thứ 5 (548), mùa xuân tháng Ba, ngày Tân Hợi, Lý Nam Đế ốm nặng rồi mất tại động Khuất Lão”.

Trong cuốn sách Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X (Nxb ĐHSPHN, 2003, tr. 119, 120) có ghi chép về cuộc khởi nghĩa Lý Bí như sau: “Trong một lần đánh nhau với quân Lương, Lý Bí lại phải lui quân về thành Gia Ninh (Bạch Hạc). Được sự phối hợp của quân Dương Phiêu, Trần Bá Tiên đã đánh chiếm được thành. Đầu năm 546, Lý Nam Đế chạy vào động Khuất Lão ở Phú Thọ củng cố lực lượng. Sau thời gian bổ sung quân số, tháng 8 năm 546, Lý Nam Đế kéo 2 vạn quân ra đóng quân ở hồ Điển Triệt (xã Yên Lập, Lập Thạch, Vĩnh Phúc). Tại đây, quân nhà Tiền Lý lại bại trận trước một cuộc tấn công lớn, một lực lượng áp đảo của quân Lương, Lý Nam Đế phải vượt sông Thao, chạy về động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) và giao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục là một tướng trẻ có tài năng”.

Động Khuất Liêu và thôn Danh Hựu. Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ thứ XIX (Nxb KHXH, Hà Nội, 1981) thì thôn Danh Hựu tên cũ là Danh Viên thuộc tổng Văn gồm 9 xã là Văn Lang, Tự Cương, Phụ Cường, Phú Cường, Xuân Dung, Long Tuyền, Cổ Tiết, Nam Cường, Danh Viên. Sau Cách mạng

108

Page 109: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Tháng 8-1945 hợp nhất 3 xã Văn Lang, Cổ Tiết, Tự Cường thành xã Tam Vạn Yên. Lúc đó, Danh Viên là thôn nằm trong xã Tam Vạn Yên. Năm 1955 tách thành 3 xã Yên Thế (Văn Lang), Vạn Xuân (Cổ Tiết), Tự Cường. Lúc này, thôn Danh Hựu đã chuyển động “Khuất Liêu” về cho xã Văn Lang và từ năm 1955 thuộc địa giới hành chính xã Văn Lang (Văn Lương, Tam Nông, Phú Thọ hiện nay). Với nhiều tên gọi: động Khuất Lão, Khuất Liêu, Tam Khu, Liên Hoa, gò Cổ Bồng, Gò Cấm, tương truyền nơi đây là chôn cất thi hài vua Lý Nam Đế cho nên cũng gọi là khu Lăng… Động Khuất Lão nằm ở hữu ngạn sông Hồng, cách sông khoảng 500m, là khu đồi nhỏ hình đài sen ba cánh xoè ra. Cánh thứ nhất hướng bắc, cánh thứ hai hướng Đông, cánh thứ ba hướng Nam, cuống hoa cắm vào dải rừng Cấm. Ba mặt Bắc, Đông, nam được bao bởi 115 mẫu ruộng chiêm quanh năm ngập nước, nguyên trước đây vẫn gọi là Vụng xưa hay Vụng Ba Triệu. Về sau do phù sa sông Thao bồi đắp, tạo thành xứ đồng Chằm, hồ Náp, hố Ao, hố Ấu…

Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, Lý Nam Đế đã 2 lần lui quân về động Khuất Lão. Lần thứ nhất cuối tháng 2 năm 546, sau khi thành Gia Ninh bị vỡ, Vua lui về đây để củng cố, xây dựng lực lượng. Nơi này địa thế hiểm yếu, dân cư khá đông, có điều kiện để cung cấp nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến, nên chỉ sau một thời gian lực lượng nghĩa quân đã tập hợp đông đảo. Đến tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế đem 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt, lập thuỷ trại để kháng chiến chống quân xâm lược. Điều đó làm cho quân Lương sợ hãi, dao động không dám tiến vào. Lần thứ hai khi thế trận ở hồ Điển Triệt bị vỡ trước sự tấn công ồ ạt của của Bá Tiên, Lý Nam Đế rút quân về động Khuất Lão, trao binh quyền cho Triệu Quang Phục - một tướng trẻ tài năng cầm quân, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến. Lý Nam Đế sống những ngày cuối đời ở đây.

Động Khuất Lão với vị trí hiểm yếu, tiện lợi, nó không chỉ là căn cứ của vua Lý Nam Đế trong cuộc kháng chiến chống quân Lương, mà qua các truyền thuyết dân gian thì nơi đây còn là nơi trung chuyển lương thảo giữa ba vùng thượng nguồn sông Lô, hạ nguồn sông Chảy và Kinh đô Văn Lang trong cuộc chiến tranh Hùng - Thục. Trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, động Khuất Lão vừa là kho quân lương, vừa là kho lương thảo vừa là nơi chiêu binh và huấn luyện quân sĩ. Mảnh đất Văn Lang gắn liền với tên tuổi các tướng của Hai Bà Trưng như: Xuân Nương Công chúa, Thiều Hoa Công chúa. Hai vị nữ tướng này thường cùng Thi Bằng em trai Thi Sách (sau này là chồng của Xuân Nương) đưa voi từ miền núi rừng Thanh Sơn ra đây thuần dưỡng và huấn luyện, phục vụ cho cuộc đấu tranh chống chính quyền đô hộ giành độc lập của dân tộc đầu thế kỷ I. Các tên làng Tự Cường, Nam Cường, Phú Cường, Phụ Cường, Thanh Uyên… đều gắn với kì tích của nghĩa quân. Những tên đất, tên làng ở đây cũng thể hiện tinh thần, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, linh hồn của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và của Vua Lý Nam Đế.

Với tấm lòng kính ngưỡng và biết ơn những người có công với dân với nước, từ xưa nhân dân đã dựng ngôi Đình và một Đền, Điện mộ trên gò Cổ Bồng và động Khuất Lão để thờ Lý Nam Đế, Lý Thiên Bảo (anh ruột của Lý Bí), Lý Phật Tử (người trong dòng họ), những người cùng Lý Bí khởi nghiệp và hai thuỷ thần

109

Page 110: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

là Long Hải Vương và Lân Hải Vương đã có công giúp ông và tướng sĩ vượt sông Thao1.

Phía bên phải Đền khi xưa có Lăng vua dưới gốc cây xương rồng bà, được xây bằng gạch như mộ thường. Trước đây mọi nghi lễ cầu cúng đều được tiến hành ở Đình, Đền và Lăng trên gò Cổ Bồng. Vào những năm 40 (thế kỷ XX) vì việc đi lại thờ cúng khó khăn nhân dân Danh Hựu dỡ đền và đưa các bài vị các Ngài về thờ tại Đình nằm ở thôn Danh Hựu, còn Lăng Vua vẫn giữ nguyên vị trí trên động Khuất Lão. Sau này nhân dân Văn Lang canh tác đã làm mất dấu vết, nhưng theo người dân thì Lăng Vua chỉ là ngôi mộ đắp đất, trên Lăng có một phiến đá mầu nâu hình chữ nhật trên có hình mui rùa. Khi nghiên cứu về đền thờ Lý Nam Đế trên động Khuất Lão một điều đáng lưu ý là: trước những năm 40 khi nhân dân làng Danh Hựu dỡ đền về làng, mỗi lần mở cửa đền người được phân công đọc văn tế là Chánh tổng - tổng Văn, là người xã Văn Lang. Người đọc Văn tế cuối cùng của xã Văn Lang là cụ Tổng Bì tên thật là Hán Văn Huy (đã qua đời năm 1979). Đền chuyển về làng Danh Hựu thì cụ Tổng Bì giao việc đọc văn tế cho làng Danh Hựu. Ngọc phả của đình Danh Hựu cũng đã bị thất lạc.

Hiện nay, tại trung tâm động Khuất Lão còn rất nhiều dấu tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Vua Lý Nam Đế. Năm 2010 được sự đồng ý của UBND tỉnh Phú Thọ, UBND huyện Tam Nông đã tiến hành phục hồi xây dựng lại Đền thờ Vua Lý Nam Đế cùng Điện mộ của Vua tại gò Cổ Bồng xã Văn Lương, nhằm tôn vinh vị Hoàng đế đầu tiên của dân tộc, cho xứng tầm với di tích vốn có của nó, đồng thời cũng đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân xã Văn Lương, nhân dân trong huyện và nhân dân khắp mọi miền đất nước, tỏ lòng thành kính đối với Đức Vua Lý Nam Đế, người đã có công với dân với nước.

Với tấm lòng yêu mến quê hương, biết ơn các anh hùng, trong thời gian tới Đảng bộ và chính quyền xã Văn Lương sẽ tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu các tư liệu lịch sử, đề nghị UBND tỉnh cho phép khôi phục lại lễ hội truyền thống đáp ứng với nguyện vọng của nhân dân địa phương, đồng thời cũng là để tri ân công đức đối với công lao dựng nước của Vua Lý Nam Đế. Chúng tôi cũng đã sưu tầm và tổng hợp một số tư liệu về Lý Nam Đế và Đền thờ, Lăng tẩm của ông trên động Khuất Lão thuộc xã Văn Lương nói riêng, huyện Tam Nông nói chung. Chúng tôi rất tự hào về truyền thống của quê hương, đồng thời cũng rất mong được các cơ quan chức năng, các cấp, các ngành, các nhà nghiên cứu quan tâm giúp đỡ, để Đền thờ của vị anh hùng dân tộc trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia./.

C.M.L

CÁC TƯ LIỆU VĂN HÓA DÂN GIAN VỀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN LƯƠNG CỦA VUA LÝ NAM ĐẾ (544 - 548)

1 Theo truyền thuyết, khi Lý Nam Đế chạy đến tả ngạn sông Thao gặp nước lớn, không có thuyền mảng vượt sông, phía sau là quân Lương truy đuổi tình thế vô cùng nguy khốn. Giữa lúc nguy hiểm đó, thuỷ thần xuất hiện và giúp vua Lý Nam đế cùng tướng sĩ vượt qua sông lớn, thoát khỏi sự truy đuổi của quân giặc.

110

Page 111: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Dương Huy Thiện

I . Lý Nam Đế trong sử Việt thời kỳ ở động Khuất Liêu-Vạn XuânNăm Tân Dậu (541) là năm Đại Đồng thứ 7 đời vua Vũ Đế nhà Lương, ở

huyện Thái Bình (theo Khâm định Việt sử thông giám Cương mục thì huyện Thái Bình thuộc Phong Châu ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng không rõ là nơi nào) có một người tên là Lý Bôn, tài kiêm văn võ, thấy nước mình trong thì quân Tầu làm khổ, ngoài thì người Lâm Ấp cướp phá bèn cùng với những người nghĩa dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tầu, rồi chiếm giữ thành Long Biên.

Lý Bôn còn gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tầu, tổ tiên ở đời Tây Hán, tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến bấy giờ đã bảy đời (theo Văn minh Đại Việt của Nguyễn Duy Hinh là thế hệ thứ 11), thành người bản xứ, ông sửa sang mọi việc, định lập nghiệp lâu dài.

Năm Giáp Tí (544), Lý Bôn tự xưng là Nam Việt đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức.

Năm Ất Sửu (545) vua nhà Lương lại sai quân sang đánh Nam Việt. Lý Nam Đế thua phải bỏ Long Biên, chạy về giữ thành Gia Ninh, bị vây, đành bỏ Gia Ninh, về giữ thành Tân Châu, đất Phong Châu cũ (tỉnh Vĩnh Yên bây giờ).

Quân nhà Lương nhân thế thắng, tiến lên đuổi đánh tiếp, Lý Nam Đế thấy thế yếu, chống không nổi, mới rút quân lên đóng ở động Khuất Liêu thuộc đất Hưng Hoá, đợi thu xếp được quân sĩ lại ra đánh. Được non một năm Lý Nam Đế đem hai vạn quân ra đánh nhau với Trần Bá Tiên ở hồ Điền Triệt(?) (có sách ghi Điền Triệt thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), lại thua, Lý Nam Đế bèn giao binh quyền lại cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục chống nhau với quân nhà Lương rồi trở về động Khuất Liêu.

Lý Nam Đế nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.

II. Tư liệu dân gian về vua Lý Nam Đế1. Động Khuất Liêu (Khuất Lão):Những năm 60, 70 của thế kỷ XX (1966 - 1976) là giáo viên trường cấp III

Tam Nông, tôi cùng thầy giáo Phạm Hữu Mục và ông Hoàng Trúc - Trưởng phòng Văn hoá huyện Tam Nông đã dành nhiều thời gian cho việc sưu tầm những tư liệu về vua Lý Nam Đế và động Khuất Liêu nhưng chỉ là tìm kim đáy bể. Di tích đình Danh Hựu - Bức hoành phi đình Danh Hựu còn đó với 4 chữ Thái bình linh huống (Thần linh ban cho dân được hưởng thái bình, Mùa thu năm Khải Định 6 - 1921) và Nam thiên chính khí (Chính khí trời Nam, Mùa đông năm Bảo Đại 8 - 1933) còn đó, nhưng động Khuất Liêu là đâu? Tìm mãi mà chẳng thấy động chỉ thấy làng. Cuối cùng thì cũng tìm ra bài giải: Động là làng; Khuất là không chịu nhục, không chịu khuất trước bạo lực của kẻ thù; người có tiết tháo không bao giờ chịu khuất tất (luồn lọt quỳ luỵ); Liêu là khoảng trống, thoáng đãng. Theo các cụ cao tuổi biết chút ít Nho học thì động Khuất Liêu là làng Danh Hựu, xã Vạn Xuân, nơi vua Lý nương náu, nghỉ quân chờ thời cơ đánh giặc.

111

Page 112: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Động Khuất Liêu chỉ là địa điểm tạo ra, nó là làng của những người không chịu khuất phục, thoáng đãng, dễ tiến, lại dễ thoát.

Cách giải thích về động Khuất Liêu của các cụ cũng chỉ là những suy luận có lý khi trên đất Vạn Xuân không còn dấu tích của động Khuất Liêu.

2. Những câu tục ngữ, ca dao, vè về Lý Nam Đế.2.1. Những câu tục ngữ nói về tâm trạng của vua Lý Nam Đế.- Lo bạc râu, sầu bạc tóc - Lo ngẩn lo ngơ, lo mờ con mắt (Theo truyền thuyết thì vì lao tâm, vì

nhiễm lam chướng, Lý Nam Đế bị mù hai mắt)- Khi nắng còn có khi mưa- Khi kiến ăn cá, khi cá ăn kiến- Khi nên vung phá cũng nên, khi suy dù khéo giữ gìn cũng suy- Giữ đóm trong mưa- Khôn ngoan vì gạo, mạnh bạo vì tiền- Không tình cũng nghĩa tâm giao- Vật ba keo trèo ba mái- Vật đến keo, trèo đến mái- Vất vả có lúc thanh nhàn, không dưng ai dễ cầm tàn che cho.2.2. Ca dao, vè nói về tấm lòng của dân đối với Lý Nam Đế.

Bắc quốc cậy có quân đôngKhuất Liêu có bãi có rừng nương thân

Tụ quân tụ nghĩa thật đôngTheo vua nhà Lý lập công đất này

Một thân một phận âm thầmVai thì tải gạo, tay cầm đòn tre

Đi ra sông cạn đá mònĐi ra thương nhớ vợ con ở nhà

Việc nước anh phải trẩy raKhi ở miền ngược khi lại miền xuôi

Nói ra đau đớn trong lòngVợ con nào biết chốn này là đâu

Việc vua như lửa đốt đầuCho nên anh dặn trước sau mọi lời.

Em đừng trách số oán trờiQuân Thương là bọn giết người cướp cơm

Giáo gươm cờ quạt tưng bừngNhác trông uy vũ tưởng chừng năm xưa

Anh hùng trí dũng có thừaSử vàng bia đá bây giờ là đâyNon xanh nước biếc sánh tầy

Danh thơm Lý Bí xưa nay tiếng truyềnGiáo gươm cờ xí trùng trùng

Hàng năm mở hội tưng bừng vui thayNhớ xưa Lý Bí đức rày

Uy phong rạng rỡ đến nay còn truyền112

Page 113: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Người đời vẫn bảo vua loàVua loà nhưng sáng như là gương trong

Vua hiền gặp phải gian nanKẻ gian võng lọng nghênh ngang đi về

Bao giờ gió thổi bốn bềXua tan cái cảnh nặng nề bất công

Lý đi rồi Lý lại vềGiặc đến làng Vạn giặc nào cũng tan.

Mẹ cho năm quả bầu vàng Mười quả bầu bạc1 ra đàng nuôi quân

Cơm ăn rượu uống cho sayTay dao tay giáo đánh tan tành giặc này

Bầu là bầu, bí là bíNhưng sao bí lại có tên là bầu

Thưa rằng: tên vua là BíTrọng vua, kiêng huý nên bí thành bầu

Sông Thao có lúc vơi đầyMối thù phương Bắc có ngày nào quên.

Trên đây là một số tư liệu dân gian về vua Lý Nam Đế mà chúng tôi đã sưu tầm được ở xã Văn Lang (Lương), Cổ Tiết và vùng lân cận. Những câu tục ngữ, ca dao, vè này do nhân dân cung cấp, ngày nay họ đã về với tổ tiên. Nhân dịp huyện Tam Nông tổ chức Hội thảo khoa học "Vua Lý Nam Đế với căn cứ động Khuất Lão xã Văn Lương, huyện Tam Nông", tôi xin được gửi đến Hội thảo một số tư liệu văn học dân gian về vua Lý Nam Đế và tấm lòng của nhân dân Tam Nông với nhà vua họ Lý./.

Tháng 7-2013 D.H.T

BÀI KẾT LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC "VUA LÝ NAM ĐẾ VỚI CĂN CỨ ĐỘNG KHUẤT LÃO, XÃ VĂN LƯƠNG,

1 Nhân dân xã Vạn Xuân gọi bí là bầu. Bí đỏ gọi là bầu vàng, bầu thì gọi là bầu trắng vì kiêng huý Lý Bí.

113

Page 114: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

HUYỆN TAM NÔNG".

Nhà sử học Dương Trung Quốc Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

Kính thưa các vị đại biểu khách quý.Thưa toàn thể các đồng chí và các bạn.Trước hết thay mặt Ban tổ chức chúng tôi muốn phát biểu một đôi điều về

mục tiêu của cuộc Hội thảo chúng ta đặt ra gắn liền với một giai đoạn lịch sử trong sự nghiệp của nhân vật lịch sử Lý Nam Đế. Thời đại cuối cùng có thể nói kết lại toàn bộ sự nghiệp của nhân vật đã được chính sử quốc gia qua các thời kỳ lịch sử khẳng định như một cái mốc trên tiến trình xây dựng và bảo vệ nền tự chủ của dân tộc Việt Nam kể từ khi Vua Hùng khai mở nước. Có thể nói sự đánh giá về nhân vật Lý Nam Đế cho dù còn có không ít những vấn đề chưa được sáng tỏ đã được khẳng định từ lâu trong các bộ chính sử, trong các lời bình nghị của các thế hệ khác nhau, từ Lịch chiều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho đến lời của vua Tự Đức của triều đại nhà Nguyễn và chúng ta biết tới những đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ diễn ca lịch sử nước ta về nhân vật Lý Bí trên tiến trình giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên nhìn nhận vào sự nghiệp của một nhân vật lịch sử có thực trong lịch sử còn có rất nhiều những vấn đề mà trách nhiệm của thế hệ các nhà sử học qua các thời phải tiếp tục vun đắp và quan trọng hơn nữa là để phát huy cái vị trí nhân vật lịch sử ấy trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của ông cha chúng ta cho đến ngày hôm nay. Vì thế mà cuộc Hội thảo trên mảnh đất Tam Nông ngày hôm nay cũng là tiếp nối một quá trình và nhận thức lịch sử và trong một thời đại lịch sử cụ thể của chúng ta ngày hôm nay. Cũng có thể nói rằng trong vòng vài năm nay nhận thức về nhân vật lịch sử Lý Nam Đế đã có những bước được thúc đẩy hết sức mạnh mẽ nhằm làm sáng tỏ hơn nhân vật lịch sử này trên phương diện tiểu sử hành trạng và đặc biệt là ý nghĩa và phát huy cái vị thế nhân vật lịch sử này trong thời đại ngày hôm nay.

Từ năm 2012 Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam đã tổ chức với mối quan tâm của những địa phương có liên quan, đặc biệt là khởi động phải nói đến huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên của cuộc Hội thảo có tính chất tổng quan đánh giá về nhân vật Lý Nam Đế nhân kỷ niệm 1470 năm cuộc khởi nghĩa. Và trên cơ sở sự đánh giá tổng quan ấy các cuộc hội thảo tiếp theo mà cách đây không lâu là cuộc hội thảo ở ngay trên đất Cổ Pháp, huyện Phổ Yên để khẳng định một giai đoạn lịch sử rất quan trọng đó là về quê hương của Đức Lý Nam Đế và chúng tôi ghi nhận một sự kiện có thể nói là rất hy hữu trong các hoạt động sử học đó là ngay trong quá trình nghiên cứu lịch sử chúng ta đã thấy mối liên kết giữa những địa phương có liên quan để cùng nhau hợp tác, cùng nhau thúc đẩy việc nghiên cứu và đặc biệt là để cùng nhau phát huy nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử ấy vào trong đời sống hiện tại. Cuộc ký kết cách đây không lâu trên đất Phổ Yên giữa Lãnh đạo của huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) - Tam Nông (Phú Thọ) và của Hoài Đức (Hà Nội). Có thể nói đấy là một việc làm mà chúng tôi thấy hết sức là đáng khích lệ và ngày hôm nay chúng ta thấy sự có mặt của lãnh đạo UBND tỉnh Phú Thọ, của các cơ quan trách nhiệm của tỉnh Phú Thọ hỗ trợ cùng

114

Page 115: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

với huyện Tam Nông để tổ chức cuộc Hội thảo này đó là một điều hết sức đáng ghi nhận, thể hiện rõ nhận thức của chúng ta gắn kết những vấn đề quá khứ với vấn đề hiện tại như thế nào?. Với cuộc Hội thảo như tiêu đề của nó là nhấn mạnh đến việc nghiên cứu và khẳng định căn cứ Khuất Lão gắn liền với giai đoạn lịch sử có thể nói là cuối cùng, kết thúc về sự nghiệp của Đức Lý Nam Đế trên mảnh đất Tam Nông. Chúng ta đã có những bài tham luận khoa học tiếp tục kế thừa những nhận thức của những lớp người đi trước để chúng ta khẳng định về vị trí địa lý, vị thế lịch sử và giá trị của Khuất Lão, một căn cứ địa đồng thời cũng là nơi băng hà của Đức Lý Nam Đế. Cái sự khẳng định này nó không chỉ mang lại niềm tự hào cho địa phương mà nó cũng mở ra những trách nhiệm ngày càng nặng nề hơn đối với nhân vật lịch sử mang tầm cỡ quốc gia như Đức Lý Nam Đế điều mà cách đây không lâu Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong tờ trình đối với Bộ Chính trị, với Chính phủ đã xác lập 14 nhân vật lịch sử là những người anh hùng dân tộc mà ở đó trên tiến trình của lịch sử dân tộc Lý Nam Đế là người đứng ở vị trí thứ 03, gắn kết Vua Hùng và thời đại Vua Hùng có công dựng nước chính trên vùng đất Tổ này. Với Hai Bà Trưng là biểu tượng cho tinh thần quật khởi, ý chí dân chủ của dân tộc ta và Lý Nam Đế là người đã biến ý chí tự chủ ấy thành một Nhà nước với lý tưởng mong ước Vạn Xuân, mang lại sự phát triển cho đất nước lâu dài. Với việc khởi động cho việc xác lập vị thế của vùng đất sau này là Thăng Long, ngày nay là Hà Nội là Kinh đô xưa và Thủ đô là vùng đất có thể nói là Thượng sư của muôn đời như trong chiếu dời đô của Đức Lý Công Uẩn. Và đặc biệt chúng ta có thể khẳng định rằng trong giới sử học thuật ngữ trước kia hay sử dụng là thời đại Bắc thuộc kéo dài gần 11 thể kỷ, ngày nay chúng ta có thể khẳng định bằng một khái niệm đầy đủ hơn, bản chất hơn đó là thời đại chống Bắc thuộc. Với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và với gần 60 năm gần một hoa hội tự chủ của Nhà nước Vạn Xuân nằm ở giữa thiên niên kỷ mà chúng ta đấu tranh giành tự chủ ấy để cho đến thời kỳ mà Ngô Vương Quyền mở ra nền Trung Hưng lâu dài cho đất nước. Chúng tôi nghĩ kể cả mặt thời gian và không gian sự nghiệp của Lý Nam Đế trên một vùng đất có thể nói hết sức quan trọng của đất nước chúng ta, nó gắn kết nhiều địa phương theo đơn vị hành chính hiện tại như Thái Nguyên như Phú Thọ như Hà Nội, như Vĩnh Phú như Thái Bình. Có thể nói nhìn lên bản đồ của đất nước chúng ta cũng đủ thấy cái vị thế nó quan trong như thế nào? Nó gắn kết vùng đất Tổ và gắn kết với cả một vùng động lực, cái nôi phát triển của dân tộc chúng ta ở trong lưu vực sông Hồng. Vì thế mà việc chúng ta nghiên cứu về đại đề tài này chúng tôi cũng thấy chúng ta cần có thể đi sâu hơn nữa để giải thích một vài hiện tượng vì sao ở trong một thời kỳ quyết liệt nhất của sự nghiệp bảo vệ nền độc lập còn non trẻ của mình Đức Lý Nam Đế lại chọn vùng đất là mảnh đất gắn liền với đất Tổ Hùng Vương. Trong một tham luận của các vị phát biểu ở đây có đặt câu hỏi tại sao Ngài không rút lên Tam Đảo? một vùng đất có một địa hình rất hiểm trở, có thể gìn giữ lâu dài sự nghiệp đấu tranh vũ trang chống xâm lược mà Ngài lại vượt sông để trở về vùng đất Tổ? Có lẽ bên cạnh những ý nghĩa thuần túy về mặt quân sự phải chăng có cả ý nghĩa về mặt tâm linh để mà trở lại với cội nguồn, để tìm sức mạnh của dân tộc và ngay cả cái địa danh Tam Nông nữa, có lẽ nhân cái gợi ý của PGS-TS Nguyễn Minh Tường nghiên cứu về cái địa danh ngôn ngữ cổ này chúng ta khơi gợi lại vị trí của Tam Nông. Tam Nông và trước đó

115

Page 116: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

chúng ta còn nhắc đến chữ Cổ Nông, Cổ Nông là từ thời Trần trở về trước, Cổ Nông hay Tam Nông theo nhiều cách giải thích khác nhau nói cho cùng nó cũng gắn kết với Tam Nông ngày hôm nay, tức là những nhân tố cốt lõi nhất, cái nền tảng, cái hạ tầng cho sự phát triển quốc gia đó là cái nông nghiệp và phải chăng cái địa danh ấy từ xa xưa chúng ta có thể lấy từ trong cái điển tích của phương Bắc nhưng nó cũng phản ảnh một quan điểm về dân tộc chúng ta về nguồn lực phát triển của đất nước và khi Ngài trở về với vùng đất Tam Nông này có những ý tưởng gì không? và điều đó làm tôn vinh lên cái ý nghĩa của một địa danh lịch sử mà giờ đây nó đang mang một tính chất rất thời sự để chúng ta củng cố nền tảng quốc gia của chúng ta trên con đường phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày hôm nay. Cái điều thứ hai nữa cũng vừa là kết luận mà vừa mở ra một suy nghĩ, chúng tôi rất băn khoăn về cách đặt tên của những sinh hoạt gần đây liên quan đến Đức Lý Nam Đế vì cũng như cuộc Hội thảo ở Văn Miếu, cuộc Hội thảo ở Phổ Yên và cho đến cuộc Hội thảo này chúng ta chúng ta vẫn đưa ra khái niệm là Vua Lý Nam Đế. Lý Nam Đế được ghi trong lịch sử rằng ngài Lý Bí sau khi hoàn thành sự nghiệp chống giặc Lương giành lại tự chủ đã tự phong Đế cho mình, đương nhiên Vua là một thuật ngữ chỉ người đứng đầu của một quốc gia, nhưng Đế như cách giải thích của PGS-TS Nguyễn Minh Tường nó phản ánh một ý chí cao hơn cho nên cũng như sau này, nửa thiên niên kỷ sau, khi chúng ta đọc bài thơ gắn liền với sự nghiệp chống Tống của nhà Lý gắn liền với sự nghiệp của Lý Thường Kiệt - Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư thì càng ngày chúng ta càng thấy cái ý nghĩa sâu sắc hơn không phải là đất Nam có Vua Nam ở, mà chữ Đế ấy nó phản ánh một ý nghĩa nào đó trong sự nghiệp xây dựng nền tự chủ lâu dài ngay từ thời kỳ còn rất non trẻ, rất chữ Nước như thời kỳ của Đức Lý Nam Đế. Vì thế chúng ta có thể thấy từ Hai Bà Trưng cho đến Lý Nam Đế có một bước phát triển về nhận thức, về ý chí và sự trưởng thành của dân tộc. Tôi cũng muốn nhắc lại ở đây một câu phát biểu ý kiến của cố Giáo sư Trần Quốc Vượng khi ông viết trong bộ lịch sử Việt Nam rằng: "Lý Bí xưng Đế định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối chọi với Hoa", những điều đó đã nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc và khả năng tự mình vươn lên phát triển một cách độc lập đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm bá chủ thiên hạ của hoàng đế phương Bắc, vạch rõ sơn hà cương vực là sự khẳng định rứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình. Bởi thế cho nên chúng tôi nghĩ rằng tự thân ba chữ Lý Nam Đế là đã đủ rồi không cần thêm chữ Vua nữa, mặc dù cương vị là người đứng đầu của Quốc gia thì cái Vương hiệu Vua là điều xác đáng, nhưng chúng tôi rất muốn khẳng định ở một ý thức nhận thức cao hơn trong lịch sử, cũng như sau đó chúng ta biết và đây cũng là một vấn đề mà chúng tôi nghĩ chúng ta cần đi sâu hơn nữa trong thời gian rất ngắn ngủi và trong một vị thế có thể nói là đang chịu rất nhiều những thử thách cũng là những năm tháng cuối đời của mình vì sao Lý Nam Đế khi trao quyền lực không trao cho những người trong gia tộc của mình? trong đó có cả những nhân vật mà sau này vẫn tiếp tục sự nghiệp của Lý Nam Đế như Lý Thiên Bảo mà lại trao cho con của vị bộ tướng, mà có đủ phẩm chất mà Lý Nam Đế cho rằng có thể kế nghiệp sự nghiệp của mình đó là Triệu Việt Vương? Đây cũng là một cách để chúng ta suy

116

Page 117: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

nghĩ về quan điểm của người Việt Nam chúng ta trong khi tiếp thu những thể chế, những giá trị thượng đẳng của phương Bắc mà ứng xử trong một chừng mực nào đó nó cũng gợi cho chúng ta câu chuyện sau này gần nửa thiên niên kỷ là việc Dương Thái Hậu trao Áo bào cho Lê Hoàn Thập đạo tướng quân, vì đặt nghĩa lớn là sinh mệnh của dân tộc cao hơn cái nghĩa của dòng tộc mình. Đây cũng là một suy nghĩ mà chúng tôi sau khi được lắng nghe ý kiến của những nhà chuyên môn gợi ra cho chúng ta thấy ý nghĩa sâu sắc hơn vai trò, phẩm chất và những giá trị mà Đức Lý Nam Đế sẽ để lại cho chúng ta sau này là đặt đất nước lên cao hơn hết, Tổ quốc và dân tộc cao hơn cả dòng tộc mình.

Cái thứ ba chúng tôi muốn nêu lên một vấn đề từ trong kết quả của Hội thảo chúng ta về mối quan hệ giữa những yếu tố có thể là ngẫu nhiên mà liên quan đến thời đại của Lý Nam Đế và thời đại kế tiếp nửa thiên niên kỷ sau là thời đại của nhà Lý. Giữa Tiền Lý và Lý có mối liên hệ gì không? mà đều gắn với địa danh Cổ Pháp? một địa danh rất cổ, có liên hệ gì không? với vai trò của phật giáo ngay từ rất sớm gắn kết với sự thiết lập các Vương quyền tự chủ của Việt Nam?. Đây là vấn đề chúng tôi nghĩ là các nhà chuyên môn có đủ các hiểu biết về lịch sử dân tộc, lịch sử phật giáo Việt Nam mới có thể giải đáp được. Những suy nghĩ của chúng tôi về đạo phật của Việt Nam phải chăng đây là một yếu tố mà người Việt Nam chúng ta từ rất sớm đã gắn kết nó như một cách để ta hội nhập với thế giới còn lại sau khi chúng ta phải hội nhập một cách bắt buộc, một cách cưỡng bức với nền văn minh của phương Bắc? Đây là một vấn đề mà tôi nghĩ là những cuộc Hội thảo về Lý Nam Đế chúng ta tiếp tục suy nghĩ và phát triển. Vì thế những vấn đề mà chúng ta nêu ra trong cuộc Hội thảo này có thể nói đã phần nào về căn bản chúng ta đã giải đáp được cái không gian mà Lý Nam Đế đã kết thúc sự nghiệp vẻ vang của mình. Và đặc biệt là bên cạnh những giá trị về lịch sử trong thư tịch chúng ta rất trân trọng những giá trị trong đời sống của người dân qua các thế hệ thể hiện ở trong di sản vật thể và phi vật thể. Có thể nói cuộc Hội thảo của chúng ta hôm nay bàn về giai đoạn lịch sử này ở ngay trên mảnh đất Tam Nông, với tất cả những yếu tố, những bằng chứng hết sức thuyết phục từ trong di sản vật thể như Đền, Đình, Miếu, đặc biệt là ngôi mộ của Đức Lý Nam Đế và phi vật thể ở trong kho tàng văn hóa giân dan, lễ hội...vv. Cũng là những điều mà chúng ta hết sức ghi nhận và nó củng cố thêm, làm sáng tỏ thêm một thời kỳ lịch sử hết sức quan trọng của Lý Nam Đế. Vì thế mà chúng tôi nghĩ rằng cái kiến nghị của Hội thảo chúng ta là từ trên cơ sở khẳng định vai trò và vị thế của Đức Lý Nam Đế đối với lịch sử quốc gia, thì những di sản của Ngài để lại phải tiếp tục được phát huy và được tôn vinh tương xứng với vị thế ấy. Những kiến nghị về việc chúng ta tiếp tục bảo tồn và phát huy những giá trị vật thể. Đặc biệt là các khu di tích liên quan đến những cơ sở tín ngưỡng để thờ phụng Ngài và với Lăng Mộ của Ngài tôi nghĩ là điều đó hết sức xác đáng và nó cũng được phản ánh phần nào trong quan điểm của đại diện cho Cục Di sản văn hóa của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chúng tôi cũng rất muốn mong muốn rằng, cuộc Hội thảo của chúng ta không khép lại ở đây, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cùng với Viện Sử học Việt Nam và những người quan tâm đến lịch sử giai đoạn này cũng như các địa phương có liên quan trong thời gian tới nếu chúng ta làm tiếp được một giai đoạn lịch sử rất quan trọng đó là thời kỳ khởi nghiệp của Ngài và đặc biệt ở đây nó gắn liền với quá trình Ngài tu

117

Page 118: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

tập, Ngài tiếp thu và gắn kết với phật giáo ở Việt Nam ở trên mảnh đất Hoài Đức, một địa phương cũng rất quan tâm đến giai đoạn lịch sử này để hoàn thiện có thể nói là 03 giai đoạn lịch sử lớn trong cuộc đời của nhân vật Lý Nam Đế. Chúng ta có thể tiếp tục khai thác thêm kết hợp với tỉnh Vĩnh Phúc gắn liền với cái địa danh Điển Triệt, là nơi diễn ra những ý tưởng rất táo bạo và quyết liệt nhưng đồng thời cũng diễn ra cái bi kịch kết thúc cuộc chiến của Lý Nam Đế trước khi Ngài ra đi và Thái Bình cũng là nơi mà theo chúng tôi biết không phải là chỉ lẫn lộn về địa danh mà ngay Thái Bình hiện nay cũng có nhiều di tích lịch sử liên quan đến Lý Nam Đế. Và nếu trên một quá trình làm việc một cách toàn diện như thế chúng tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ có một bước tiến rất cơ bản trong việc nghiên cứu về Lý Nam Đế để đóng góp vào lịch sử quốc gia bộ quốc sử những cách nhìn nhận có thể đi thêm một bước so với các bậc tiền nhân của chúng ta trong những bộ sử cũ. Bởi vì trong những bộ sử cũ chúng ta thấy phần lớn những lời bình nghị rất ca ngợi ý chí của Ngài, nhưng nhấn mạnh nhiều đến thất bại của Ngài khi cuối đời và rõ ràng những gì chúng ta nghiên cứu về Lý Nam Đế càng ngày càng thấy vị thế nhân vật này vô cùng quan trọng như cố Giáo sư Trần Quốc Vượng khẳng định đó là bước phát triển trong nhận thức, trong sự trưởng thành của dân tộc Việt Nam trên tinh thần bảo vệ quyền tự chủ. Không phải chỉ đối với phương Bắc trong quá khứ mà tự chủ ngay trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày hôm nay. Với tất cả ý nghĩa ấy chúng tôi xin khép lại lời tổng kết của Hội thảo của chúng ta đánh giá cuộc Hội thảo trên mảnh đất Tam Nông về căn cứ Khuất Lão, về một giai đoạn quan trọng trong lịch sử của Đức Lý Nam Đế, là một thành tựu trong quá trình nhận thức một cách hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn một nhân vật đã được tôn vinh trong lịch sử. Nhưng chúng ta phải làm sao lấy nền tảng sự tôn vinh ấy dựa trên tinh thần khoa học và có cơ sở để nó bền vững lâu dài trong cái truyền thống của dân tộc chúng ta. Đặc biệt là trên tinh thần của sự nghiệp dựng nước, giữ nước, tinh thần tự chủ của dân tộc. Cuối cùng thay mặt Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam chúng tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo tỉnh Phú Thọ, huyện Tam Nông, của các bạn đồng nghiệp trên đất Tổ Hùng Vương, xin cảm ơn lãnh đạo và các giới quan tâm của 02 địa phương đã gắn kết với chúng ta trong một sự thỏa thuận là Hoài Đức - Hà Nội và Phổ Yên - Thái Nguyên để chúng ta đẩy tiếp các công cuộc nghiên cứu và phát huy vai trò của nhân vật lịch sử Lý Nam Đế đối với đời sống phát triển hiện đại ngày hôm nay và rất mong rằng dựa trên thành tựu này trong thời gian không xa bên cạnh việc chúng ta phục hồi lại, phát triển những di tích vật thể liên quan đến Ngài, đời sống tinh thần, giá trị văn hóa phi vật thể ngày càng phong phú trong đời sống. Mà chúng tôi rất mừng thấy các nhà Lãnh đạo của những địa phương có liên quan đều hết sức quan tâm, ngày hôm nay chúng ta đều biết rằng toàn bộ nội dung cuộc Hội thảo của chúng ta đã được truyền thanh trực tiếp để nhân dân Tam Nông có thể được lắng nghe và để tiếp thu những kết quả của Hội thảo chúng ta.

Cuối cùng một lần nữa xin kính chúc sức khỏe tất cả các quý vị đại biểu, hy vọng chúng ta sẽ gặp lại trong những cuộc Hội thảo sắp tới.

Xin trân thành cảm ơn!

118

Page 119: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

PHỤ LỤC ẢNH

119

Page 120: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Đồng chí Hoàng Dân Mạc - Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Thọ,các đồng chí lãnh đạo tỉnh cùng các đồng chí lãnh đạo huyện Tam Nông

dâng hương và thăm quan khu di tích Đền thờ - Lăng mộ Vua Lý Nam Đế

Đồng chí Hà Kế San - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnhPhát biểu chào mừng tại Hội thảo

120

Page 121: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Đồng chí Triệu Quang Kết - Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Tam NôngPhát biểu chào mừng tại Hội thảo

Đồng chí Hán Bình Hồng - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện, tuyên bố lý do và giới thiệu Đại biểu dự Hội thảo

121

Page 122: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

PGS.TS Nguyễn Văn Nhật - Viện Trưởng Viện Sử học Việt NamĐọc Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo

Đồng chí Phạm Bá Khiêm - Phó Giám đốc Thường trực Sở VH,TT&DL Phú ThọBáo cáo tham luận tại Hội thảo

122

Page 123: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ - Phó Viện Trưởng Viện Sử học Việt NamBáo cáo tham luận tại Hội thảo

PGS.TS Nguyễn Minh Tường - Viện Sử học Việt NamBáo cáo tham luận tại Hội thảo

123

Page 124: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

PGS.TS Đinh Khắc Thuân - Viện Nghiên cứu Hán NômBáo cáo tham luận tại Hội thảo

TS. Nguyễn Anh Tuấn - Giám đốc Bảo tàng Hùng Vương, Phú ThọBáo cáo tham luận tại Hội thảo

124

Page 125: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

ThS. Nguyễn Tiến Khôi - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Phú ThọBáo cáo tham luận tại Hội thảo

Đồng chí Hoàng Xuân Cừ - Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư ĐUKCQTƯ; nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh Phú Thọ, phát biểu ý kiến tại Hội thảo

125

Page 126: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Nhà sử học Dương Trung Quốc - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt NamPhát biểu Kết luận Hội thảo

Đoàn Chủ tịch, Thư ký Hội thảo

126

Page 127: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Các đồng chí Lãnh đạo Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông cùng các đồng chí Lãnh đạo Viện Sử học Việt Nam trao đổi nội dung chuẩn bị tổ chức Hội thảo

tại nhà Hữu mạc khu di tích Đền thờ Vua Lý Nam Đế

Các đồng chí Lãnh đạo Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông cùng các đồng chí Lãnh đạo Viện Sử học Việt Nam họp thống nhất các nội dung

chuẩn bị tổ chức Hội thảo, tại trụ sở UBND huyện

127

Page 128: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

Các đồng chí Lãnh đạo Huyện ủy, Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông cùng các đồng chí Lãnh đạo Viện Sử học Việt Nam dâng hương tại Đền thờ Vua Lý Nam Đế

Đền thờ Vua Lý Nam Đế tại Gò Cổ Bồng, khu 2 ,xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ

128

Page 129: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

MỤC LỤC Trang

* Huyện ủy - HĐND - UBND huyện Tam Nông: Lời giới thiệu: ……* Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ Hà Kế San: Phát biểu chỉ đạo

tại Hội thảo……………………………………………………………………………* Chủ tịch UBND huyện Tam Nông Triệu Quang Kết: Phát biểu

chào mừng Hội thảo……………………………………………………………* PGS. TS. Nguyễn Văn Nhật: Báo cáo đề dẫn ……………………* PGS.TS. Nguyễn Minh Tường: Lý Nam Đế và cuộc kháng chiến

chống quân xâm lược nhà Lương ở thế kỷ VI ………………………………..* PGS. TS. Nguyễn Đức Nhuệ: Quê hương và ngày mất

của Lý Nam Đế……………………………………………………………….* Phạm Bá Khiêm: Ý nghĩa khôi phục Đền thờ và Lăng mộ

Lý Nam Đế trong việc phát triển du lịch …………………………………......* Triệu Quang Kết: Vua Lý Nam Đế với căn cứ Động Khuất

Lão - Vị trí, quy mô phục hồi Đền thờ và Lăng Mộ …………………………* TS. Nguyễn Thế Hùng: Bảo tồn và phát huy giá trị căn cứ

Động Khuất Lão nhìn trong hệ thống di tích LSVH …………………………* PGS.TS Vũ Duy Mền: Giá trị bài học lịch sử từ cuộc khởi

nghĩa Lý Bí và sự thành lập Nhà nước Vạn Xuân …………………………..* ThS. Trần Nam Trung: Nhân dân Tam Nông cới cuộc khởi

nghĩa Lý Bí ………………………………………………………………….* PGS.TS Đinh Khắc Thuân: Tư liệu Hán Nôm về Động

Khuất Lão trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí thế kỷ VI …………………………..* PGS.TS Nguyễn Thị Phương Chi: Động Khuất Lão - nơi

an nghỉ cuối cùng của Vua Lý Nam Đế …………………………………….* TS. Hà Mạnh Khoa: Vài ý kiến về Động Khuất Lão …………….* TS. Nguyễn Anh Tuấn: Lý Nam Đế với căn cứ Động

Khuất Lão, xã Văn Lương, huyện Tam Nông ………………………………* ThS. Nguyễn Tiến Khôi: Những địa danh vùng đất

Tam Nông - Phú Thọ còn ghi dấu ấn cuộc khởi nghĩa ……………………...* Đặng Đình Thuận: Phục dựng Lễ hội truyền thống tưởng

niệm Vua Lý Nam Đế tại xã Văn Lương …………………………………..* Lê Thị Thoa: Vấn đề bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị

di tích, địa điểm lịch sử gắn liền với sự nghiệp Lý Nam Đế ……………….* Đỗ Văn Thúy: Tư liệu Hán Nôm về Lý Nam Đế

Đang được lưu giữ tại Đình, Đền, Chùa Giang Xá ………………………..* Vũ Kim Biên: Nghiên cứu về nguyên nhân thất bại

của Lý Nam Đế và việc trao binh quyền cho Triệu Quang Phục………….* Phan Dương: Hoàng Hậu Đỗ Thị Khương về Động

Khuất Lão ………………………………………………………………….* Cù Minh Loan: Đảng bộ, chính quyền và nhân dân

Xã Văn Lương với việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích ……………………* Dương Huy Thiện: Các tư liệu văn hóa dân gian về

cuộc kháng chiến chống quân Lương của Vua Lý Nam Đế ………………* Dương Trung Quốc: Kết luận Hội thảo …………………………* Phần phục lục ảnh: ……………………………………………..

129

Page 130: tamnong.phutho.gov.vntamnong.phutho.gov.vn/media/mconnect_uploadfiles/k/y/ky... · Web viewBan Tổ chức Hội thảo đã nhận được 20 bản tham luận của các nhà sử

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ - HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAMỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG - VIỆN SỬ HỌC

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC“Vua Lý Nam Đế với căn cứ Động Khuất Lão,

xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ”.

1. Chịu trách nhiệm xuất bản:Hán Bình Hồng - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó chủ tịch Thường

trực Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.2. Biên tập:Hán Bình Hồng - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó chủ tịch Thường

trực Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.PGS.TS Nguyễn Văn Nhật - Viện Trưởng, Viện sử học thuộc Viện Hàn lâm

khoa học xã hội Việt Nam.PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ - Phó Viện Trưởng, Viện sử học thuộc Viện

Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.ThS. Trần Nam Trung - Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính, Viện sử học

thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.Triệu Quang Kết - Nguyên Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện

Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.Phan Văn Ngọc - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Trưởng Ban Tuyên

giáo Huyện ủy.Hán Minh Hải - Ủy viên Ban chấp hàng Đảng bộ huyện, Trưởng phòng Văn

hóa và Thông tin huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.Nguyễn Hữu Thanh - Phó Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Tam

Nông, tỉnh Phú Thọ.3. Trình bày: Hán Minh Hải, Nguyễn Hữu Thanh4. Sửa bản in: Hán Bình Hồng, Hán Minh Hải, Nguyễn Hữu Thanh

In 150 bản, khổ 23,5cmx15,5cm, tại Công ty Cổ phần in Phú Thọ.

Giấy phép xuất bản số 146/GP-STTTTngày 22/12/2014 của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Phú Thọ. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01/2015.

130