Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Chính sách quản lý hàng dệt may nhập khẩu của Nhật Bản:
Những điểm cần lưu ý và giải pháp cho Việt Nam
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam
1.1 Vai trò và vị trí của xuất khẩu hàng dệt may với nền kinh tế Việt Nam
Trong quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, ngành dệt may đứng
một vị trí hết sức quan trọng. Việt Nam vốn đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, thu nhập quốc dân tính theo đầu người rất thấp, dân cư sống dựa vào nông nghiệp là
chính. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, chúng ta cần phải thực hiện công cuộc CNH-
HĐH đất nước.
Ở giai đoạn đầu của công cuộc này, các nước đang phát triển, bao gồm cả Việt
Nam, sẽ tận dụng lợi thế tuyệt đối mà mình có sẵn, cụ thể là lợi thế về nhân công giá rẻ,
nguyên liệu dồi dào, để phát triển kinh tế và tập trung vào những ngành có khả năng tận
dụng tối đa lợi thế sẵn có. Các ngành này sẽ nhanh chóng tạo ra một tiềm lực công
nghiệp mới, tạo ra nhiều việc làm góp phần đẩy lùi tình trạng thất nghiệp cao,
nhanh chóng có thêm nguồn thu nhập và tích luỹ lớn hơn để chuẩn bị cho việc phát triển
các tiềm lực lớn hơn. Và ngành Dệt may là đại diện tiêu biểu cho điều này.
Ngành dệt may của Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể trong giai
đoạn vừa qua. Tăng trưởng xuất khẩu từ mức thấp đã tăng nhanh: năm 1989 chỉ đạt xấp
xỉ 100 triệu USD, sau 9 năm, con số này tăng 14 lần, và đạt trên 1,4 tỷ USD. Tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu trong thập kỷ 90 đạt trung bình tới trên 40%/năm. Hiện nay ngành này
đứng thứ hai, chỉ sau dầu lửa về mặt kim ngạch xuất khẩu của cả nước (tạo ra 20% tổng
kim ngạch xuất khẩu, và khoảng 44% kim ngạch xuất khẩu công nghiệp chế tác). Ngành
thu hút gần nửa triệu công nhân (trong đó 80% là lao động nữ) tức là khoảng 20% lực
lượng lao động làm việc trong ngành công nghiệp chế tác của Việt Nam.
Ở Việt nam, dệt may đã luôn là một ngành xuất khẩu quan trọng bên cạnh nông
sản và dầu thô. Xuất khẩu dệt may đã vượt qua dầu thô và trở thành mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu lớn nhất, với mức xuất khẩu trên 9 tỷ USD và đóng góp khoảng 15%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Tầm quan trọng của dệt may với tư cách là một ngành xuất
khẩu và một nguồn thu ngoại tệ cũng được thể hiện ở chỗ xuất khẩu dệt may không bị
giới hạn bởi nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, không bị ảnh hưởng nhiều bởi các điều
kiện tự nhiên và nguồn thu xuất khẩu ổn định hơn.
1.2 Những vấn đề về chính sách liên quan đến xuất khẩu hàng dệt may sau khi gia
nhập WTO
WTO là tổ chức thương mại thế giới có chức năng giám sát các hiệp định thương
mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Bởi vậy, mọi thành
viên tham gia WTO trong đó có Việt Nam phải tuân thủ những quy định về thương mại ở
các ngành nghề, lĩnh vực nói chung, và ngành dệt may cũng không phải trường hợp
ngoại lệ. Các quy định này liên quan đến nhiều lĩnh vực chính sách và luật pháp khác
nhau như các tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường, các quy định về thuế quan, quy định về
quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đối kháng và chống bán phá giá cũng như các quy
định về trợ cấp.
Ngành dệt may đối với Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn
đầu tiến hành CNH- HĐH đất nước, chính vì thế, việc tìm hiểu những quy định liên quan
tới xuất nhập khẩu hàng dệt may, môi trường chính sách trên các thị trường xuất khẩu là
hết sức cần thiết, từ đó mới có thể đưa ra những chính sách đúng đắn xuất khẩu hàng dệt
may hay khắc phục những tồn tại có trong mỗi chính sách.
1.2.1 Quy định của WTO liên quan đến ngành dệt may và xuất khẩu hàng dệt may
Về yêu cầu thuế quan: Theo quy định của WTO, các nước thành viên của WTO sẽ
đưa ra những nhân nhượng về thuế quan và cam kết mức thuế quan tối đa mà một nước
có thể được áp dụng (còn gọi là mức thuế trần - bound rate). Tuy nhiên mức thuế quan
đánh vào các sản phẩm dệt may khá là cao trong cả các nước công nghiệp phát triển cũng
như các nước đang phát triển.
Về các quy định trợ cấp: Theo định nghĩa của WTO, trợ cấp bao gồm các chính
sách của nhà nước được sử dụng để hỗ trợ sản xuất trong nước. Các chính sách hỗ trợ
này tạo ra điều kiện thuận lợi hơn các điều kiện phổ biến trên thị trường, và mang lại lợi
ích cho các doanh nghiệp hay các ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp chính sách
khác nhau có thể kể đến như là biện pháp ưu đãi về thuế và tín dụng, ưu đãi về tiền thuê
đất, các biện pháp bù lỗ, việc góp vốn của nhà nước hay các biện pháp quản lý giá. WTO
chia trợ cấp thành 2 loại: trợ cấp đặc thù và trợ cấp không đặc thù (specific and non-
specific subsidy):
- Quy định của WTO cho phép các nước thành viên được sử dụng trợ cấp không
đặc thù, tức là các khoản trợ cấp được áp dụng như nhau cho tất cả các ngành kinh tế và
doanh nghiệp. Các khoản trợ cấp này được phép sử dụng và không bị áp đặt các biện
pháp đối kháng từ các nước đối tác thương mại.
- Đối với các khoản trợ cấp đặc thù: là những khoản trợ cấp được áp dụng riêng
cho một số ngành sản xuất hay doanh nghiệp nhất định, WTO áp dụng các quy định khác
nhau phụ thuộc vào đặc điểm và tác động của mỗi biện pháp trợ cấp đến thương mại
quốc tế. Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO (SCM) phân chia trợ
cấp thành trợ cấp không thể bị kiện, trợ cấp có thể bị kiện và trợ cấp bị cấm:
- Trợ cấp bị cấm gồm có: trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế nhập khẩu. Trợ cấp
xuất khẩu là tất cả các biện pháp trợ cấp có gắn với điều kiện xuất khẩu. Trợ cấp thay thế
nhập khẩu tức là những khoản trợ cấp được sử dụng để khuyến khích việc sử dụng sản
phẩm và hàng hóa trong nước thay cho hàng hóa nhập khẩu.
- Trợ cấp không thể bị kiện bao gồm một số ít những biện pháp trợ cấp được sử
dụng trong các chương trình phát triển vùng, các hoạt động nghiên cứu triển khai hay các
biện pháp hỗ trợ dành cho các doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường. Các
nước thành viên WTO được phép sử dụng các biện pháp trợ cấp này nếu chúng không
gây ra tác động bất lợi nghiêm trọng tới các nước thành viên khác.
- Tất cả các hình thức trợ cấp đặc thù khác mà không phải là trợ cấp bị cấm và trợ
cấp không thể bị kiện có thể bị kiện, hoặc bị áp dụng các biện pháp đối kháng nếu chúng
gây ra tác động bất lợi tới các nước đối tác thương mại.
Về Hiệp định Dệt may của WTO (ATC): Hiệp định dệt may (ATC) đạt được trong
vòng đàm phán Uruguay là một bước tiến lớn hướng đến việc tự do hóa thương mại dệt
may và đưa thương mại dệt may quay trở lại với các nguyên tắc chung của WTO. Hiệp
định ATC đặt mục tiêu xóa bỏ các hạn chế định lượng áp dụng đối với hàng dệt may xuất
khẩu từ các nước đang phát triển. Theo đó, toàn bộ quota xuất khẩu đánh vào hàng dệt
may sẽ bị xóa bỏ trong vòng mười năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, tức là trước
năm 2005.
1.2.2 Môi trường chính sách trên các thị trường xuất khẩu
Chính sách thuế quan: dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ ở nhiều
nước công nghiệp phát triển, tức là những thị trường nhập khẩu dệt may chính trên thế
giới. Việc xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu trong khuôn khổ của Hiệp định ATC không gắn
liền với việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Vậy nên, thuế quan đánh
vào hàng dệt may của các nước công nghiệp phát triển vẫn được duy trì ở mức cao. Cụ
thể thuế quan đánh vào các sản phẩm quần áo và vải ở EU tương ứng là 12% và 8%.
Mức thuế quan đánh vào sản phẩm dệt may nhập khẩu ở Nhật, Mỹ lần lượt là 7.8% và
8.9% trong khi đó trên thị trường Canada là 12.4%.
Các hàng rào phi thuế quan: Hàng dệt may xuất khẩu tới các nước công nghiệp
phát triển bao gồm cả Mỹ và EU phải chịu rất nhiều hàng rào phi thuế quan khác nhau,
như các tiêu chuẩn kỹ thuật, thủ tục hải quan, nguyên tắc gốc hay các tiêu chuẩn về xã
hội, môi trường và an ninh. Các hàng rào phi thuế quan này có thể làm gia tăng đáng kể
chi phí của các doanh nghiệp xuất khẩu, và một số trường hợp có thể ngăn cản các doanh
nghiệp xuất khẩu các sản phẩm dệt may. Những hàng rào kỹ thuật đang trở thành một
trong những trở ngại chính đối với hàng dệt may xuất khẩu. Ngoài các tiêu chuẩn và quy
định kỹ thuật, hàng dệt may xuất khẩu tới các thị trường Mỹ, EU và các nước công
nghiệp phát triển khác cũng bị áp đặt các hàng rào phi thuế quan khác dưới dạng các yêu
cầu về nhãn mác và đóng gói, yêu cầu cấp giấy phép nhập khẩu, yêu cầu thanh tra trước
khi chuyển hàng.
Các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và đối kháng: Trong bối cảnh quota xuất
khẩu bị bãi bỏ và thuế quan đánh vào hàng dệt may xuất khẩu có thể bị tiếp tục cắt giảm
trong vòng đàm phán Doha, các quốc gia càng ngày sử dụng nhiều các biện pháp để bảo
hộ ngành công nghiệp trong nước trước sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu giá rẻ bao
gồm: các biện pháp tự vệ, các biện pháp chống bán phá giá và các biện pháp chống trợ
cấp. Các biện pháp khắc phục thương mại này được Mỹ và EU áp dụng rất nhiều đối với
hàng dệt may nhập khẩu từ các nước đang phát triển.
- Luật của WTO cho phép một nước áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu
trong trường hợp có sự gia tăng nhanh chóng của hàng nhập khẩu và có dấu hiệu đe dọa
nghiêm trọng đến ngành công nghiệp của nước nhập khẩu. Tuy nhiên các biện pháp tự vệ
chỉ có tính chất tạm thời, nên được áp dụng với mục đích tạo thời gian cần thiết cho
ngành công nghiệp nội địa điều chỉnh trước áp lực cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu.
Các biện pháp tự vệ đã được sử dụng khá nhiều giữa các thành viên WTO, nhưng chúng
ít khi được áp dụng với hàng dệt may. Một trường hợp gần đây nhất là việc Mỹ và EU áp
dụng các biện pháp tự vệ đối hàng dệt may nhập khẩu từ Trung quốc.
- Chống bán phá giá là một biện pháp được thường xuyên sử dụng trong thương
mại dệt may. Hiệp định của WTO xác lập những quy định cụ thể về việc điều tra, điều
kiện và mức độ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, theo đó sản phẩm nhập khẩu
chỉ bị xem là bán phá giá nếu giá cả của sản phẩm nhập khẩu thấp hơn giá của sản phẩm
cùng loại trên thị trường của nước xuất khẩu hoặc thấp hơn chi phí sản xuất trong nước.
Trong khi Hiệp định của WTO về chống bán phá giá xác lập những quy định chung và
ràng buộc trong việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, thì luật chống bán phá giá
được xây dựng và thực thi trong phạm vi từng nước, tạo kẽ hở để một số nước thành viên
áp dụng thuế chống bán phá giá một cách không công bằng. Quy chế về nền kinh tế phi
thị trường (non-market status –NMS) cũng được nhiều nước thành viên WTO áp dụng
đối với Việt nam cũng như Trung quốc. Quy chế về nền kinh tế phi thị trường, và hệ quả
của nó là việc sử dụng nước thứ ba để tính chi phí sản xuất và so sánh giá, có thể dẫn đến
việc áp đặt các biện pháp chống bán phá giá hay các biện pháp đối kháng một cách
không công bằng. Hạn ngạch dệt may: Trước khi gia nhập WTO, hàng dệt may của Việt
nam xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, EU cũng như Canada và Nauy đều phải chịu hạn
ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch xuất khẩu vẫn được tiếp tục duy trì đối với hàng dệt may
của Việt nam ngay cả khi toàn bộ quota xuất khẩu bị xóa bỏ theo quy định của Hiệp đinh
dệt may vào năm 2005 do Việt nam vẫn chưa phải là thành viên của WTO và vẫn chưa
được hưởng các ưu đãi dành cho nước thành viên. Quota dệt may xuất khẩu sang EU
được bãi bỏ sau khi Việt nam và EU ký kết thỏa thuận song phương về việc Việt nam gia
nhập WTO. Hạn ngạch xuất khẩu sang các thị trường khác được xóa bỏ vào năm 2007
sau khi Việt nam chính thức trở thành thành viên WTO.
Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) và cơ chế giám sát hàng dệt
may Việt nam: Việc ban hành quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn diễn ra sau khi
Mỹ và Việt nam kết thúc đàm phán song phương về việc Việt nam gia nhập WTO đã
chấm dứt việc áp dụng điều khoản Jackson- Vanik cũng như chấm dứt việc xem xét và
gia hạn hàng năm quy chế MFN đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt nam trên thị trường
Mỹ. Việc trao cho Việt nam quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn có ý nghĩa quan
trọng đối với việc mở cửa thị trường Mỹ đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt nam. Với
việc thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn cho Việt nam, hàng hóa xuất
khẩu của Việt nam sẽ được đối xử bình đẳng như hàng hóa từ các nước khác và loại bỏ
những rủi ro từ việc xem xét và gia hạn hàng năm quy chế MFN. Tuy nhiên cùng với
việc thông qua quy chế PNTR, Hạ viện Mỹ cũng xác lập một cơ chế giám sát trợ cấp của
Việt nam trong ngành dệt may. Cơ chế này cho phép việc áp đặt hạn ngạch đối với hàng
dệt may xuất khẩu của Việt nam trong trường hợp Việt nam có sử dụng các khoản trợ cấp
bị cấm, tức là trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế nhập khẩu. Quy chế này xác lập quy
trình và thời gian biểu chặt chẽ đối với việc tư vấn, điều tra và áp đặt hạn ngạch trong
trường hợp Việt nam sử dụng các khoản trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO. Để đối
phó với cơ chế giám sát hàng dệt may của Mỹ cũng như nguy cơ Mỹ áp đặt các biện
pháp hạn chế không công bằng đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam, Bộ thương
mại và nay là Bộ Công thương đã áp dụng chế độ giám sát đối với hàng dệt may xuất
khẩu sang Mỹ, theo đó các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường Mỹ phải thông báo về
giá cả và khối lượng xuất khẩu sang thị trường, và giấy phép xuất khẩu sẽ được cấp cho
doanh nghiệp trên cơ sở cân nhắc về giá xuất khẩu cũng như khối lượng xuất khẩu.
1.2.3 Chính sách xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam khi gia nhập WTO
Việc gia nhập WTO đòi hỏi phải cải cách sâu rộng môi trường chính sách và luật
pháp trong nước. Cùng với việc gia nhập WTO, Việt nam đã đưa ra những cam kết tự do
hóa sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau từ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan,
các ưu đãi về thuế và tín dụng, các chương trình đầu tư của nhà nước, tự do hóa ngành
dịch vụ cũng như các chính sách liên quan đến sở hữu trí tuệ và các chính sách đầu tư
liên quan đến thương mại. Những thay đổi chính sách này tác động đến tất cả các lĩnh
vực của nền kinh tế, từ nông nghiệp, đến công nghiệp và dịch vụ. Việc cắt giảm thuế
quan làm gia tăng cạnh tranh trên thị trường trong nước. Việc xóa bỏ các khoản trợ cấp,
bao gồm cả cả trợ cấp nội địa và trợ cấp xuất khẩu, cũng thu hẹp đáng kể khả năng của
nhà nước trong việc hỗ trợ các ngành công nghiệp ưu tiên và các ngành công nghiệp mũi
nhọn trong đó có dệt may. Các cam kết về sở hữu trí tuệ đòi hỏi các doanh nghiệp dệt
may phải tuân thủ các quy định quốc tế về sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp dệt may xuất khẩu. Tất cả những thay đổi chính sách này, diễn ra ngay trước và
sau khi gia nhập WTO, có những tác động sâu rộng đến sự phát triển của ngành dệt may
Việt nam hiện tại cũng như trong những năm tới. Trong đoạn này, chúng tôi đề cập đến
hai thay đổi chính sách chủ yếu, đó là thay đổi trong chính sách thuế quan và chính sách
trợ cấp.
Chính sách thuế quan: Cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác, mặc dù
là một nước xuất khẩu hàng dệt may nhưng Việt nam vẫn áp dụng mức bảo hộ tương đối
cao đối với sản phẩm dệt may cho đến trước khi gia nhập WTO. Khi gia nhập WTO, Việt
nam cũng phải đưa ra cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng dệt may cũng như đối với
nhiều mặt hàng công nghiệp và nông sản khác. Tuy nhiên mức cắt giảm thuế quan đối
với hàng dệt may là cao hơn hẳn so với cam kết cắt giảm thuế quan chung. Tính bình
quân, Việt nam cam kết cắt giảm hơn 60% thuế quan đánh vào các sản phẩm dệt may,
cao hơn gần ba lần so với cam kết cắt giảm thuế quan bình quân cho các sản phẩm công
nghiệp là 23%. Cam kết cắt giảm thuế quan thay đổi theo từng nhóm sản phẩm. Sợi là
nhóm hàng có mức cắt giảm thuế quan cao nhất, với thuế suất đánh vào các sản phẩm sợi
giảm từ 20% trước khi gia nhập WTO xuống còn 5% sau khi gia nhập WTO. Mức cắt
giảm thuế quan đối với vải và hàng may mặc cũng rất cao, tương ứng là 70% và
60%.Bên cạnh mức cắt giảm cao, các nước thành viên WTO cũng yêu cầu hoàn thành
cam kết cắt giảm thuế quan ngay tại thời điểm gia nhập WTO. Điều đó có nghĩa là,
không có thời gian để ngành công nghiệp dệt may trong nước điều chỉnh đối với sự cạnh
tranh của hàng nhập khẩu. Việc cắt giảm thuế quan rõ ràng sẽ làm gia tăng sự cạnh tranh
của hàng dệt may nhập khẩu trên thị trường trong nước. Tuy nhiên, tác động của việc cắt
giảm thuế quan đối với hàng dệt may xuất khẩu phức tạp hơn. Một mặt, việc cắt giảm
thuế quan đối với các sản phẩm sợi và dệt làm giảm giá nguyên phụ liệu dệt may nhập
khẩu, và qua đó làm giảm chi phí sản xuất và tăng tính cạnh tranh của hàng dệt may xuất
khẩu. Mặt khác, việc cắt giảm mạnh thuế quan đánh vào sợi và vải dệt gây khó khăn cho
việc phát triển nguyên phụ liệu dệt may trong nước. Về lâu dài, việc cắt giảm thuế quan
có thể hạn chế sự phát triển của ngành công nghiệp dệt và làm tăng sự phụ thuộc vào
nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, cũng như gây khó khăn cho việc thực hiện mục tiêu
nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong ngành dệt may.
Chính sách trợ cấp: Trong giai đoạn trước khi gia nhập WTO, Việt nam đã sử
dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau để hỗ trợ ngành dệt may cũng như các ngành sản
xuất khác. Các biện pháp hỗ trợ này thường được thực hiện thông qua các ưu đãi về thuế,
hỗ trợ về lãi suất cho các khoản đầu tư trung và dài hạn của các doanh nghiệp, hỗ trợ các
doanh nghiệp trong việc bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng đầu tư, cũng như hỗ trợ về thuế
đất và tiền thuê đất. Nhiều biện pháp hỗ trợ như vậy là được gắn với yêu cầu xuất khẩu
hàng hóa, trong đó doanh nghiệp được yêu cầu phải xuất khẩu một tỷ lệ nhất định hàng
hóa sản xuất ra để có thể được hưởng các ưu đãi về thuế và đầu tư. Các biện pháp trợ
cấp này hoàn toàn có thể xem như một biện pháp trợ cấp xuất khẩu theo quy định của
WTO. Bên cạnh đó, cũng có các ưu đãi về tín dụng đầu tư áp dụng cho các ngành sản
xuất được ưu tiên hay các vùng có điều kiện kinh tế- xã hội được ưu tiên phát triển. Các
biện pháp trợ cấp này được sử dụng để phát triển các ngành công nghiệp sản xuất nguyên
vật liệu, thường không gắn với các yêu cầu về xuất khẩu nhưng có thể cấu thành một
biện pháp trợ cấp có thể bị kiện. Trong quá trình gia nhập WTO, Việt nam cũng đưa ra
cam kết về việc điều chỉnh chính sách trợ cấp. Việt nam cam kết xóa bỏ hoàn toàn trợ
cấp xuất khẩu trong thời hạn là 5 năm sau khi gia nhập WTO. Tuy nhiên cũng tương tự
như trong vấn đề thuế quan, Việt nam đã đưa ra những cam kết cao hơn trong ngành dệt
may, theo đó trợ cấp xuất khẩu trong ngành dệt may sẽ được xóa bỏ ngay tại thời điểm
gia nhập WTO. Trên thực tế, rất nhiều biện pháp điều chỉnh chính sách trợ cấp đã được
thực hiện ngay trước và sau khi gia nhập WTO. Các yêu cầu về xuất khẩu gắn với ưu đãi
về thuế và tín dụng hoàn toàn bị bãi bỏ trong các chương trình tín dụng đầu tư của nhà
nước, trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như trong luật đầu tư. Tín dụng xuất
khẩu của nhà nước bị thu hẹp đáng kể cả về phạm vi cũng như mức độ hỗ trợ. Hàng dệt
may xuất khẩu không được tiếp tục hưởng tín dụng xuất khẩu từ Ngân hàng phát triển
Việt nam. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu cũng được cải cách về căn bản. Các khoản thưởng xuất
khẩu hay bù lỗ cho các doanh nghiệp xuất khẩu bị xóa bỏ. Nguồn vốn từ Quỹ hỗ trợ xuất
khẩu được sử dụng để tài trợ cho các chương trình xúc tiến thương mại của nhà nước.
Việc hỗ trợ cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu không còn được đề cập một cách
riêng rẽ trong chương trình tín dụng đầu tư của nhà nước. Mức độ ưu đãi về tín dụng và
phạm vi các ngành sản xuất được hưởng ưu đãi về tín dụng cũng được thu hẹp một cách
đáng kể so với các chương trình tín dụng đầu tư của nhà nước trong giai đoạn trước khi
gia nhập WTO. Dệt may cũng như các ngành công nghiệp ưu tiên khác không còn tiếp
tục hưởng tín dụng ưu đãi. Các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp không còn được áp
dụng cho ngành dệt may cũng như các ngành công nghiệp ưu tiên khác.
1.3 Thực trạng sản xuất và xuất khẩu dệt may của Việt Nam
1.3.2 Thực trạng sản xuất hàng dệt may của Việt Nam
Trong nội bộ ngành dệt may, ngành may mặc phát triển nhanh hơn so với ngành
dệt, đóng góp trên 60% giá trị sản lượng của toàn ngành. Đầu tư nước ngoài đóng góp
quan trọng vào sự phát triển của ngành dệt may trong những năm qua. Các doanh nghiệp
nước ngoài hiện chiếm hơn 40% giá trị sản lượng ngành dệt may. Hơn nữa, với những lợi
thế về công nghệ, quản lý cũng như hệ thống phân phối ở nước ngoài, các doanh nghiệp
nước ngoài cũng có khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu tốt hơn và có xu hướng xuất
khẩu cao hơn so với các doanh nghiệp Việt nam. Khoảng 60% sản lượng ngành dệt may
được tạo ra trong các doanh nghiệp trong nước, bao gồm các tổng công ty và doanh
nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân và các cơ sở kinh doanh cá thể. Hầu hết các
doanh nghiệp trong nước đều có quy mô tương đối nhỏ, tiềm lực tài chính và mức độ
trang bị công nghệ tương đối hạn chế.
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may của Việt nam đều tham gia vào việc gia công
xuất khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng nước ngoài,
thông thường là qua trung gian của các nhà thầu phụ ở Hàn quốc, Đài loan hay Hàn quốc.
Khách hàng nước ngoài cung cấp mẫu mã và nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp trong
nước. Các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp sản phẩm lại cho khách hàng. Do ngành
dệt nhuộm tương đối lạc hậu và ít được đầu tư, ngành may mặc phụ thuộc rất nhiều vào
nguyên phụ liệu nhập khẩu. Ngành dệt may có tính gia công lớn, công nghiệp phụ trợ
chậm phát triển, phụ thuộc khá lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Xuất khẩu của
ngành đạt mức tăng trưởng khá nhưng nhập khẩu cho sản xuất của ngành cũng tăng
mạnh (13,3%). Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may trong 4 tháng khá cao với
kim ngạch 4,286 tỷ USD, bằng 84,3% kim ngạch xuất khẩu dệt may. Cụ thể, vải (2,34 tỷ
USD), sợi dệt (471 triệu USD), bông (393 triệu USD).
Bản thân nội bộ ngành cũng có sự phân hóa rõ rệt về hiệu quả kinh doanh. Các
doanh nghiệp dệt may phân hóa khá rõ rệt về kết quả kinh doanh. Những doanh nghiệp
lớn nhất như Việt Tiến, Nhà Bè, Phong Phú, Sông Hồng, Việt Thắng có biên lợi nhuận
cao hơn hẳn các doanh nghiệp còn lại nhờ có lợi thế về quy mô, công nghệ, lao động
cũng như các mối quan hệ kinh doanh lâu năm. Mức trả cổ tức năm 2012 của các công ty
nói trên đều khá cao (khoảng 25%) và đang cam kết giữ mức cổ tức trên trong năm 2013.
Trong khi đó nhiều doanh nghiệp trong ngành lại đang gặp rất nhiều khó khăn với vấn đề
chi phí sản xuất tăng đáng kể do giá xăng tăng, phí vận chuyển tăng, lương nhân công
tăng…. Trên thực tế, một số doanh nghiệp trong ngành đã phải chấp nhận không lợi
nhuận để duy trì sản xuất.
Do chịu ảnh hưởng từ đại suy thoái kinh tế toàn cầu, cộng với sự vươn lên của các
nước đang phát triển trong nội khối ASEAN nên áp lực cạnh tranh mặt màng dệt may
tương đối lớn, khiến xuất khẩu vào một số thị trường sụt giảm. Tuy đạt mức tăng trưởng
kim ngạch tương đối khá so với cùng kỳ nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp trong
ngành đang có nguy cơ giảm bởi sức tiêu thụ của thị trường thế giới chưa thực sự hồi
phục; doanh nghiệp ngành dệt may vẫn tập trung xuất khẩu những mặt hàng trung và
thấp cấp, sự cạnh tranh quyết liệt từ các nước xuất khẩu hàng dệt may khác… đã dẫn tới
tình trạng đơn giá giảm từ đầu năm tới nay.
Hình 1.1: Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam 2008 – 2013
(2013: dự báo dựa trên 6 tháng đầu năm)
2008 2009 2010 2011 2012 2013F0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Hình 1.2: Cơ cấu xuất khẩu dệt may theo thị trường
MỹNhật BảnHàn QuốcKhác
Nguồn: Tổng cục thống kê
1.3.3 Thực trạng xuất khẩu dệt may của Việt Nam
Sản xuất và xuất khẩu dệt may hơn ba mươi năm vừa qua đã phát triển và duy trì
một tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Sản xuất dệt may tăng trưởng tương đối nhanh vào
đầu những năm 1990, trước khi giảm xuống vào cuối những năm 1990 do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á. Sản xuất dệt may tăng trưởng nhanh trở lại
trong giai đoạn trước khi gia nhập WTO, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
18% trong giai đoạn 2000-2006.
Sau 5 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bất chấp tác động xấu
do 2 cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 và 2011), dệt may Việt Nam là một trong
những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10
quốc gia có kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của
mặt hàng này vẫn đạt 15,8 tỷ USD, duy trì mức tăng trưởng ấn tượng 25% so với năm
2010. Xét về thị phần, tính đến 2011 hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt tại
hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó thị truờng nhập khẩu Hoa Kỳ
đứng đầu với kim ngạch khoảng 6,872 tỷ USD (năm 2011), tăng trưởng hơn 12% so với
năm 2010, tiếp theo là EU đạt 2,5 tỷ USD, tăng 33% và con số này là 1,68 tỷ USD, tăng
45% tại thị trường Nhật Bản. Năm 2012 ngành dệt may Việt Nam đã về đích thành công
với 17,2 tỷ USD kim ngạch (chưa kể 65 triệu USD kim ngạch xuất khẩu nguyên phụ liệu
dệt may, da giày) đạt mức tăng trưởng 8,5% so với năm 2011, đây là lần thứ 4 liên tiếp
ngành dệt may đứng đầu trong nhóm ngành hàng xuất khẩu của cả nước.Mặc dù năm
2012 là năm có nhiều biến động bất lợi nhưng về cơ bản xuất khẩu sản phẩm dệt may của
Việt Nam sang các thị trường vẫn tăng trưởng ổn định. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu sang
thị trường Mỹ đạt 7,5 tỷ USD, tăng gần 9,2% so với cùng kỳ; Nhật Bản đạt 2 tỷ USD,
tăng 19,3%; Hàn Quốc đạt 1,3 tỷ USD tăng 9%; Các thị trường khác như Liên Xô cũ,
Châu Phi, Trung Đông… đạt 3,7 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ; Duy chỉ có kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường EU giảm từ 2,8 tỷ USD năm 2011 xuống 2,4 tỷ USD
năm 2012.
Theo báo cáo ngành dệt may, tính đến tháng 7/ 2013, xuất khẩu dệt may tăng
trưởng rất mạnh, 20.3%, trong 4 tháng đầu năm. Trong khi nhu cầu dệt may toàn thế giới
năm 2013 dự kiến sẽ tăng 2,32%, trị giá 713 tỷ USD, thì kim ngạch xuất khẩu dệt may 4
tháng đầu năm của Việt Nam đạt 5,087 tỷ USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ năm trước.
Riêng tháng 4 năm 2013 ngành dệt may đạt 1,3 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu. Nếu duy trì
được tốc độ tăng trưởng này trong các tháng và Quý còn lại của năm, xuất khẩu dệt may
cả năm 2013 ước vượt 18.5 tỷ USD (tăng 23% so với 2012).
Tăng trưởng mạnh tại các thị trường chính. Trong khi các thị trường lớn đều giảm
nhập khẩu nhưng xuất khẩu dệt may của Việt Nam lại tăng. Cụ thể, thị trường Mỹ giảm
nhập khẩu dệt may 5% nhưng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ lại tăng 12%. Thị trường
châu Âu giảm 5% nhưng xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường này vẫn tăng 3%.
Tương tự, thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc đều có tốc độ tăng trưởng 20%, trong đó, xuất
khẩu sang thị trường Hàn Quốc vượt mốc 1 tỷ USD. Hiện tại, Mỹ là thị trường lớn nhất,
chiếm 49,9% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may và chiếm 38,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vào Mỹ. Nhật Bản đứng thứ hai, chiếm 14% tổng kim ngạch xuất
khẩu dệt may và chiếm 17% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật Bản. Hàn
Quốc đứng thứ ba, chiếm 8,7% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may và chiếm 19,8% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hàn Quốc.
Chương 2: Chính sách quản lý hàng dệt may nhập khẩu của
Nhật Bản và thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang Nhật Bản
2.1 Đặc điểm thị trường hàng dệt may của Nhật Bản
2.1.1. Đặc điểm chung của thị trường dệt may Nhật Bản
Ngành dệt may là một ngành then chốt, công nghiệp dệt may từng là động lực cho
sự phát triển kinh tế của Nhật Bản. Nhưng giờ đây, sức cạnh tranh quốc tế ngày càng
tăng lên tại những nước châu Á có nguồn lao động giá rẻ như Thái Lan, Trung Quốc, Đài
Loan làm cho năng lực xuất khẩu của ngành dệt may Nhật Bản giảm so với trước đây.
Các hãng sản xuất chủ yếu không ngừng thay thế mặt hàng sản xuất kinh doanh chính
theo hướng chú trọng đến hàng gia công hơn là nguyên liệu như chuyển từ làm hàng sợi
sang hàng dệt, rồi sang hàng may mặc. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ trên 95 tỷ USD
hàng may mặc mỗi năm, luôn mở cửa với hàng may mặc nhập khẩu và không áp dụng
hàng rào thuế quan và phi thuế quan cụ thể nào đối với hàng may mặc nhập khẩu. Hiện
nay hàng dệt may nhập khẩu chiếm 60% về số lượng cũng như giá trị trên thị trường
Nhật. Các mặt hàng nhập khẩu chính của Nhật là suits, underwear, pyjamas, babies’
garment, sock,…
Gần đây, mối quan tâm đến vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng cao đã nâng ý
thức sinh thái và bảo vệ môi trường của người tiêu dùng. Các cửa hàng và các doanh
nghiệp đang loại bỏ việc đóng gói quá nhiều, các vỏ sản phẩm được thu hồi và tái chế,
các sản phẩm dùng một lần ngày càng ít được ưa chuộng.
Thị trường thời trang Nhật Bản có xu hướng phân thành 02 thái cực: hàng chất
lượng không cao được làm từ những loại vật liệu và phụ kiện cơ bản không đắt tiền; và
hàng chất lượng cao được làm bởi các hãng thời trang có thương hiệu từ những loại vật
liệu tốt và đắt tiền. Các hàng hóa thời trang nhập khẩu được ưa thích thường là các nhãn
hiệu nổi tiếng. Mặc dù đang chịu tác động suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng nhu cầu tiêu
hàng dệt may của người Nhật không hề giảm sút mà chỉ chuyển hướng từ hàng cao cấp
sang bình dân. Hiện nay, thanh niên Nhật ngày càng có xu hướng chọn hàng dựa trên
chất lượng và giá cả.
Người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu rất khắt khe đối với chất lượng sản phẩm.
Mức sống tại Nhật khá cao, nên người tiêu dùng cũng đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt
chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm cũng như chất
lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng sau khi mua sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn
để mua những sản phẩm có chất lượng tốt.
Các kênh phân phối hàng may mặc tại Nhật Bản thường là trực tiếp, nhưng đòi hỏi
các doanh nghiệp phải bỏ thời gian và công sức để phát triển. Người tiêu dùng Nhật Bản
cũng ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm. Những hàng hóa có mẫu mã đa dạng, phong
phú sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn trên thị trường Nhật.
Đặc biệt, trong văn hóa Nhật Bản, chú ý đến hình thức là phép lịch sự thể hiện
việc giữ gìn phẩm chất con người. Chính vì thế, trên thị trường Nhật Bản yêu cầu rất
nhiều loại trang phục khác nhau tùy theo ngành nghề, công việc. Đặc biệt ở Nhật sử dụng
rất phổ biến comple và cravat, từ những người làm văn phòng cho đến những người lao
động không làm việc trong văn phòng. Khi đến chỗ làm, họ thay trang phục lao động hay
đồng phục làm việc, đến lúc về họ lại mặc comple.
Bảng 2.1: Các hãng sản xuất quần áo có doanh số dẫn đầu tại Nhật năm 2009
(Đơn vị: 1 triệu ¥/ 1 triệu US$1; 1 US$ = 93,68 ¥)
Tổng doanh số
(triệu)
% tăng trưởng so với
2008Loại quần áo
World ¥285.880 £3.052 -8,80% Các loại quần áo
dành cho nữ
Onward Holdings ¥234.181 £2.500 -4,60%
Các loại quần áo
dành cho nữ
Wacoal Holdings ¥163.297 £1.743 -5,20% Đồ lót dành cho nữ
Five Foxes ¥143.213 £1.529 n/a
Các loại quần áo
dành cho nữ
Renown ¥123.451 £1.318 -17,60%
Các loại quần áo
dành cho nữ
Sanei International ¥111.738 £1.193 -7,00%
Các loại quần áo
dành cho nữ
Sanyo Shokai ¥111.663 £1.192 -11,80%
Các loại quần áo
dành cho nữ
Itokin ¥99.764 £1.065 -11,8
Các loại quần áo
dành cho nữ
Gunze ¥79.278 £846 -9,20%
Đồ lót/ Đồ dệt kim
dành cho nữ
Cross Plus ¥77.896 £832 -9,10%
Các loại quần áo
dành cho nữ
(Nguồn: Senken Shinbun, 29 tháng 7 năm 2010)
2.1.2. Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản
Về quy mô thị trường:
Viện Nghiên cứu Yano cho biết thị trường bán lẻ hàng dệt may và phụ kiện thời
trang Nhật Bản năm 2008 đạt 9.828 tỷ ¥ (tương đương 95,1 tỷ USD) và năm 2009 8.845
tỷ ¥ (tương đương 94,4 tỷ USD), giảm 10% so với cùng kỳ năm trước. Theo thống kế của
Viện, doanh số bán lẻ hàng quần áo mặc hàng ngày năm 2009 đạt 5.954 tỷ ¥ (tương
đương 63,6 tỷ USD), giảm 10,2% so với cùng kỳ năm trước.
Về kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may:
Theo số liệu hải quan Nhật Bản về xuất nhập khẩu hàng hóa của Nhật Bản theo
nước/vùng lãnh thổ, năm 2009 Nhật Bản nhập khẩu khoảng 2.300 tỷ ¥ (tương đương
24,6 tỷ USD) hàng dệt may, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong 6 tháng đầu
năm 2010, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của nước này khoảng 903,3 tỷ ¥ (tương
đương 10 tỷ USD), giảm 6,0% so với cùng kỳ năm 2009.
Thị trường nhập khẩu sản phẩm dệt may của Nhật Bản rất lớn. Đứng đầu là Trung
Quốc với tỷ trọng 73,6%, tiếp đến là EU 8,1%, Mỹ 2,5%, Đài Loan 1,3%, ASEAN chiếm
7,5% và Việt Nam hiện là đối tác lớn nhất của Nhật Bản trong khối ASEAN với lượng
hàng dệt may xuất khẩu chiếm 34,4% trong khối.
Sản phẩm nhập khẩu từ các nước vào Nhật Bản được phân loại như sau:
Cấp độ sản phẩm Đặc điểm Nước xuất khẩu
Sản phẩm thông
thường
Nguyên liệu dồi dào, chủ yếu là
hàng gia công
Trung Quốc, các nước
Asean
Sản phẩm có chất
lượng khá tốt
Các lô hàng nhỏ, thời gian giao
hàng ngắn, phù hợp nhu cầu thị
trường Nhật Bản
Trung Quốc, Hàn Quốc,
Hong Kong và các nước
Asean
Sản phẩm có chất
lượng cao
Các lô hàng nhỏ, chủng loại
phong phú với các thương hiệu
EU, Mỹ
nổi tiếng. Chủ yếu là hàng thời
trang cao cấp, đắt tiền.
Hiện nay, thị hiếu của người Nhật Bản đang nghiêng về hướng mưu cầu sức khoẻ
và trật tự khiến nhóm sản phẩm như dệt may, da giày, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ và
thậm chí là bao bì sản phẩm đều bị ảnh hưởng bởi xu hướng này.
Cũng theo Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, tới đây sẽ không còn khái niệm
“Trung Quốc + 1” (tức 90% sản xuất tại Trung Quốc, 10% còn lại sản xuất ở các nước),
khả năng dịch chuyển sản xuất dệt may khỏi Trung Quốc sang Việt Nam sẽ tăng lên 20-
30% về thị phần.
Khi đó, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Nhật Bản sẽ vượt qua cả thị
trường EU hiện đang chiếm khoảng 16% thị phần hàng dệt may Việt Nam.
Về sản xuất hàng dệt may trong nước:
Trong hơn 1 thập kỷ qua, hoạt động sản xuất hàng dệt may nội địa Nhật Bản có sự
sụt giảm mạnh. Chỉ tính riêng năm 2009, tỷ lệ nhập khẩu hàng may mặc đã tăng lên hơn
95%. Các công ty dệt may trong nước tồn tại được là nhờ việc sản xuất các mẫu mã cao
cấp, chất lượng cao.
Bảng 2.2: Sản xuất trong nước và tỷ lệ nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản
Năm Sản xuất
trong nước
Nhập khẩu Xuất khẩu Tổng lượng hàng dệt
may cung cấp cho thị
trường
Tỷ lệ nhập
khẩu
Số lượng Số lượng Số lượng Số lượng
(1.000 cái) (1.000 cái) (1.000 cái) (1.000 cái)
2007 814.995 1.935.698 10.338 2.740.355 70,6%
2009 233.476 3.716.516 10.757 3.939.235 94,3%
2012 188.070 3.747.920 5.670 3.930.320 95,4%
Nguồn: Báo cáo “Thị trường dệt may Nhật Bản và hàng nhập khẩu năm 2012” của
JTIA, Danh mục hàng XNK Nhật Bản của Hiệp hội thuế quan Nhật Bản; “Thống kê hàng
dệt may và hàng tiêu dùng” của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp
2.2. Các chính sách quản lý của Nhật Bản với hàng may mặc
2.2.1 Quy định và quy trình nhập khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản
Thủ tục chung về khai quan nhập khẩu
Mọi tổ chức muốn nhập khẩu hàng hóa vào Nhật Bản cần phải trình với Cục
trưởng Hải quan và chỉ được phép nhập sau khi hoàn tất các thủ tục liên quan, từ việc mở
tờ khai đến việc hoàn tất các thủ tục về thanh toán thuế và các chi phí khác.
Khai báo Hải quan:
_ Điền form và nộp hồ sơ khai quan.
_ Người khai quan.
_ Các chứng từ yêu cầu.
_ Hệ thống giám sát trước khi hàng đến.
Hệ thống kiểm soát hải quan nhập khẩu ở Nhật khá chặt chẽ và được hệ thống hóa
bằng vi tính nên việc thông quan rất nhanh và thuận lợi cho các nhà nhập khẩu.
2.2.2 Thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ
Biểu thuế nhập khẩu của Nhật Bản cho hàng dệt may, may mặc.
Nghĩa vụ thuế được đánh giá dựa trên giá CIF tại giá trị theo giá trên danh mục
hoặc tỷ lệ cụ thể, trong một vài trường hợp là tính theo cả hai. Thuế nhập khẩu được
quản lý bởi Hải quan và Cục thuế của Bộ tài chính Nhật Bản.
Bảng 2.3: Biểu thuế nhập khẩu của Nhật Bản cho hàng dệt may, may mặc
Mặt hàng Mã HS/ Phân nhóm Thuế suất (%)
Sợi:
-Tơ 5003-5006 0-6,9
-Len 5105-5110 0-2,7
-Bông 5204-5207 3-5,6*
-Sợi thực vật khác 5306-5308 0-7,9
-Từ sợi 5401-5406/5501-5511 0-6,6
Vải dệt thoi:
-Tơ 5007 8-12,5
-Len 5111-5113 3,5-6,6*
-Bông 5208-5212 5,6-7,4*
-Sợi thực vật khác 5309-5311 2,5-10
-Từ sợi 5407-5408/5512-5516 4-10
Vải dệt kim 60 4-9,8
Vải không dệt 5603 0-4,3
Vải công nghiệp 59 2,8-6,6
May mặc 61-62 4,4-12,8
* Một số sản phẩm có thể bị áp dụng thuế theo mỗi đơn vị cụ thể.
Thuế tiêu thụ:
Thuế tiêu thụ 5% được áp dụng đối với tất cả hàng hóa bán tại Nhật Bản. Thuế
tiêu thụ được đánh giá dựa trên giá trị CIF của sản phẩm cộng với thuế nhập khẩu. Nếu
sản phẩm nhập khẩu được vận chuyển trực tiếp cho người dùng cuối cùng, thuế được áp
dụng trên giá trị CIF.
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)
Các mức thuế ưu đãi đối với hàng may mặc được quản lý: Các mức thuế trần ưu
đãi được xác định cho mỗi năm tài chính và các mức thuế ưu đãi được phân bổ trước
thông qua việc nộp đơn xin. Người nhập khẩu xin được phân bổ thuế ưu đãi trần bằng
cách nộp đơn xin liên hệ phòng thuế quan, vụ kinh tế quốc tế, bộ công thương hoặc văn
phòng thương mại quốc tế và công nghiệp khu vực. Người nhập khẩu sẽ nộp giấy chứng
nhận phân bổ cùng với giấy chứng nhận ưu đãi cho cơ quan chính thức của nước xuất xứ
cấp cho hải quan tại cảng đến.
2.2.3 Chế độ cấp giấy phép nhập khẩu
Hàng nhập khẩu được quy định bởi lệnh kiểm soát nhập khẩu theo mục 6 điều 15
của Luật Kiểm soát ngoại thương và ngoại hối. Các loại hàng hóa này bao gồm tất cả các
loại động sản, kim loại quý, chứng khaosn, giấy chứng nhận tài sản vô hình,… không
thuộc sự điều tiết của lệnh kiểm soát nhập khẩu mà do lệnh kiểm soát ngoại hối quy định.
2.2.4 Quản lý chất lượng và ghi nhãn
Hàng hóa lưu thông trên thị trường phải có nhãn mác đúng tiêu chuẩn và nhãn
mác phải thể hiện đúng xuất xứ hàng hóa sao cho người tiêu dùng không nhầm lẫn sản
phẩm do Nhật Bản sản xuất với sản phẩm sản xuất ở nước ngoài và họ có thể nhanh
chóng xác định được xuất xứ của hàng hóa. Cấm nhập khẩu các sản phẩm có nhãn mác
mập mờ, giả mạo về xuất xứ.
Theo tiêu chuẩn JIS (Japan Industrial Standards):
JIS – một trong những dấu chất lượng được sử dụng rộng rãi ở Nhật – là hệ thống
tiêu chuẩn chất lượng áp dụng cho hàng hoá công nghiệp. Tiêu chuẩn chất lượng này dựa
trên “Luật tiêu chuẩn hàng hoá công nghiệp” được ban hành vào tháng 6 - 1949 và
thường được biết đến dưới cái tên “Dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản”
hay JIS.
Dấu JIS được áp dụng cho rất nhiều loại sản phẩm khác nhau như: vải, quần áo,
các thiết bị điện, giày dép, bàn ghế và các loại sản phẩm khác đòi hỏi phải tiêu chuẩn hoá
về chất lượng và kích cỡ hay các quy cách phẩm chất khác. Nói chung, các tiêu chuẩn
JIS được sửa đổi bổ sung theo định kỳ để phù hợp với các tiến bộ của công nghệ. Tuy
nhiên tất cả các tiêu chuẩn JIS đều được bổ sung ít nhất là 5 năm một lần kể từ ngày ban
hành, ngày sửa đổi hay ngày xác nhận lại của tiêu chuẩn. Mục đích của việc sửa đổi bổ
sung là nhằm đảm bảo cho các tiêu chuẩn chất lượng luôn hợp lý và phù hợp với thực tế.
Tuy nhiên điều này gây ra một số khó khăn cho các nước đang phát triển khi cố gắng đáp
ứng thay đổi của tiêu chuẩn do Nhật bản là nước công nghệ nguồn.
Theo luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp được sửa đổi tháng 4 năm 1980, các nhà sản
xuất nước ngoài cũng có thể được cấp giấy phép đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS
trên sản phẩm của họ nếu như sản phẩm đó cũng thoả mãn các yêu cầu về chất lượng của
JIS. Đây là kết quả của việc Nhật Bản tham gia ký kết hiệp định “Bộ tiêu chuẩn” (trước
kia là hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại) của GATT (General
Agreement on Trade and Tariff) – Hiệp định chung về thương mại và thuế quan. Các sản
phẩm được đóng dấu theo cách này được gọi là “Các sản phẩm đóng dấu JIS” và có thể
dễ dàng xâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
Theo Luật nhãn hiệu chất lượng hàng hóa gia dụng:
Luật này đòi hỏi tất cả các sản phẩm quần áo đều phải dán nhãn trên nhãn ghi rõ
thành phẩm của vải và các biện pháp bảo vệ sản phẩm thích hợp.
Theo Luật kiểm tra các sản phẩm gia dụng có chứa các chất độc hại:
Luật này quy định tất cả các sản phẩm gia dụng phải tuân thủ các tiêu chuẩn về
mức độ cho phép đối với các chất gây nguy hiểm cho da. Các sản phẩm may mặc có mức
độ độc hại cao hơn mức cho phép sẽ bị cấm bán ở thị trường Nhật Bản.
Theo Luật thuế hải quan:
Luật này quy định cấm nhập khẩu các sản phẩm mang nhãn mác giả mạo vi phạm
nhãn mác thương mại hoặc quyền sáng chế.
Nếu quần áo tơ lụa có các bộ phận được làm từ da hoặc lông thú thì sản phẩm này
sẽ phải tuân theo các điều khoản của hiệp ước WASHINGTON.
Các chính sách của Nhật Bản về nhập khẩu hàng dệt may là tương đối khắt khe,
nhất là với các nước đang phát triển bởi các nước này ít kinh doanh dựa trên nhãn mác
của mình, chất lượng sản phẩm chưa cao, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm thấp.
2.2.5 Một số quy định đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam
Với việc Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) được ký kết vào
tháng 12/2008, rất nhiều dòng thuế đối với hàng hóa xuất khẩu nói chung và hàng dệt
may xuất khẩu nói riêng của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản cũng được miễn thuế.
Đồng thời, Nhật Bản vẫn dành cho Việt Nam quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP).
Chính vì vậy, thuế nhập khẩu của Nhật Bản đối với hàng dệt may của Việt Nam là kết
hợp của các biểu thuế ưu đãi theo VJEPA, GSP, và WTO.
Bảng 2.4: Thuế suất (kết hợp)1 của Nhật Bản đối với hàng dệt may nhập khẩu
từ Việt Nam
Đơn vị tính: %
Mã HSSố
dòng
Trung
bìnhThuế suất nhỏ nhất Thuế suất lớn nhất
50 50 1,5 0 14,0
51 47 0 0 0,0
52 84 0,7 0 2,3
53 39 0,2 0 7,9
54 259 0,9 0 7,0
55 65 0,0 0 0,0
56 107 0,1 0 3,0
57 46 0,8 0 7,9
58 113 0,6 0 6,4
59 45 0,1 0 3,9
60 124 0,6 0 7,9
61 349 0,4 0 0,9
62 264 0,2 0 9,0
63 117 0,6 0 6,4
(Nguồn: Báo cáo tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO và các hiệp định
thương mại tự do (FTA) đối với hàng dệt may.)
Để được hưởng ưu đãi thuế GSP của Nhật Bản, hàng dệt may của Việt Nam phải
đáp ứng các yêu cầu của GSP về xuất xứ. Quy định thứ nhất là về vận tải, theo đó hàng
hóa phải giữ nguyên xuất xứ, không được thay đổi hoặc xử lý thêm trong quá trình vận
chuyển. Cụ thể, sản phẩm phải được vận chuyển trực tiếp đến Nhật Bản, không qua một
1 Bảng thuế này áp dụng từ 01/06/2009, với kết hợp của các mức thuế WTO, GSP và VJEPA.
vùng lãnh thổ nào khác (trừ khi chỉ được chuyển tàu hoặc cất trữ tạm thời theo yêu cầu
vận chuyển ở một khu vực được bao bọc, có sự giám sát của cơ quan hải quan bản xứ).
Hàng dệt may được coi là xuất xứ ở Việt Nam nếu được sản xuất hoàn toàn tại
Việt Nam, hoặc sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên phụ liệu từ nhập khẩu nhưng sản
phẩm cuối cùng được phân loại (theo HS ở cấp độ 4 chữ số) khác so với các nguyên liệu
nhập khẩu. Trong trường hợp hàng dệt may sử dụng nguyên phụ liệu nhập khẩu hoàn
toàn từ Nhật Bản hoặc sử dụng nguyên phụ liệu của Việt Nam và Nhật Bản thì sẽ được
coi là có xuất xứ từ Việt Nam. Ngoài ra, hàng dệt may có thể được coi là có xuất xứ từ
Việt Nam nếu đáp ứng quy định về xuất xứ gộp.
Doanh nghiệp cần có: bằng chứng liên quan đến xuất xứ của hàng hóa như các
văn bản cần thiết để được hưởng ưu đãi theo GSP (bao gồm cả Giấy chứng nhận xuất xứ
Mẫu A nộp cho cơ quan hải quan của Nhật Bản), văn bản chứng nhận nguyên phụ liệu từ
Nhật Bản, hoặc văn bản chứng nhận đáp ứng yêu cầu xuất xứ gộp; các bằng chứng liên
quan đến vận chuyển như hóa đơn chất hàng lên tàu, giấy chứng nhận của cơ quan hải
quan hoặc cơ quan chính phủ khác ở nơi hàng hóa quá cảnh và các văn bản quan trọng
khác.
2.3 Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản
2.3.1 Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam vào Nhật
Nhật Bản là thị trường tiêu thụ rất lớn và nhiều tiềm năng đối với hàng hóa XK
của Việt Nam đặc biệt là mặt hàng dệt may.
Việt Nam đang là một trong những nước xuất khẩu hàng dệt may lớn trên thị
trường Nhật Bản. Việc gia nhập WTO cũng như việc ký kết các hiệp định thương mại tự
do giữa Việt Nam và Nhật Bản cũng như giữa ASEAN và Nhật Bản đã gia tăng đáng kể
cơ hội xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản đang tăng lên cả về chất lượng và số lượng. Qua thống kê
7 tháng đầu năm 2013, Nhật Bản là thị trường nhập khẩu các sản phẩm dệt may lớn thứ
hai sau Mỹ của Việt Nam, chiếm trên 12.9% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam, đạt 16,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản từ Việt Nam.
Bảng 2.5: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường
Mỹ, EU, Nhật Bản giai đoạn 2006 – 2012
(Đơn vị: tỷ USD)
Năm Hoa Kỳ EU Nhật Bản
2006 3.045 1.253 0.628
2007 4.465 1.499 0.705
2008 5.106 1.704 0.92
2009 4.995 1.651 0.954
2010 6.00 1.8 1.2
2011 6.9 2.6 1.7
2012 7.5 2.5 2
Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2012
Hình 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường
Mỹ, EU, Nhật Bản giai đoạn 2006 – 2012
(Đơn vị tính: tỷ USD)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 20120
1
2
3
4
5
6
7
8
Hoa Kỳ EU Nhật Bản
Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2012
Trong suốt giai đoạn từ năm 2007 tới nay, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản có xu hướng tăng qua các năm. Trong 2
năm 2007 và 2008 xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản đã tăng mạnh trở
lại. Tính bình quân, tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản là
15,4% trong giai đoạn 2007-2008, cao hơn nhiều so với mức 2% trong giai đoạn từ năm
2000 đến năm 2006. Bất chấp sự ảnh hưởng to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 2008 và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu xảy ra năm 2010, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản vẫn tăng và có xu hướng tăng cao
trong năm 2013.
Các doanh nghiệp đã tăng cường hoạt động xúc tiến hợp tác đầu tư, thương mại
với đối tác Nhật Bản. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này không ngừng tăng
trưởng (năm 2008 tăng 12% và 9 tháng đầu năm 2009 tăng 15,3 %). Đây là kết quả đáng
ghi nhận trong điều kiện nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm nghiêm trọng. Năm
2010 kim ngạch hàng dệt may vào quốc gia này đạt 1,2 tỷ, tăng 20% so với năm 2009,
chiếm khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam. Từ năm 2011 tới nay, kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản vẫn luôn tăng và
có thể tăng mạnh hơn vào năm 2013.
Nguyên nhân của sự việc này, một phần nhờ Việt Nam và Nhật Bản đã ký kết
hiệp định đối tác kinh tế (gọi tắt là JVEPA) vào ngày 25/12/2008, nhằm tự do hóa thương
mại, dịch vụ, bảo hộ đầu tư và hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nhân lực giữa hai nước.
Hiệp định này khi ký kết đã đem lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam đặc biệt là việc rất
nhiều mặt hàng Việt Nam khi vào Nhật thuế suất đã được giảm còn 0%. Năm 2013 hàng
dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản đang được hưởng mức thuế 0%. Điều này
đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường khó
tính này để từ đó gia tăng lượng hàng xuất khẩu.
2.3.2 Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
Xét về cơ cấu mặt hàng, Việt Nam chủ yếu xuất sang Nhật Bản sản phẩm dệt thoi,
chiếm khoảng 65% trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Nhật; tập trung ở một
số mặt hàng chủ yếu như coats, underwear, pyjamas, swimwear. Trong đó đặc biệt mặt
hàng gloves chiếm đến 13.5%; đứng thứ hai sau Trung Quốc trong kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng này vào Nhật.
Đối với hàng dệt kim, mặt hàng chiếm kim ngạch lớn là underwear (đứng thứ hai
4.3%); coats (đứng thứ ba 4.5%) và tracks suits swimwear (đứng thứ ba 5.8%).
2.4 Đánh giá khái quát về thực trạng và những điểm cần lưu ý khi xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam sang Nhật Bản
2.4.1 Đánh giá khái quát về thực trạng
2.4.1.1 Thành tựu
Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), ngành dệt may
Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với công nghệ, thông tin, các dịch vụ cũng như có
kinh nghiệm quản lý tốt hơn và được bình đẳng về thuế quan giữa các nước thành viên.
Với những lợi thế riêng như ổn định về chính trị, năng suất, chi phí nhân công thấp, đáp
ứng được sự đa dạng về các chủng loại hàng may mặc… dệt may Việt Nam ngày càng
khẳng định được uy tín trên thị trường thế giới cũng như Nhật Bản và trở thành top các
nước xuất khẩu cao.
2.4.1.2 Hạn chế
Ngành dệt may vẫn còn những điểm yếu nhất định. May xuất khẩu phần lớn theo
phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo
phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp.
Ngành dệt và công nghiệp phụ trợ còn yếu, phát triển chưa tương xứng với ngành
may, không đủ nguồn nguyên phụ liệu đạt chất lượng xuất khẩu để cung cấp cho ngành
may, do đó giá trị gia tăng không cao.
Do còn phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên khi gặp khó
khăn trong việc nhập khẩu bông do thuế suất tăng từ 0 – 10% khiến các doanh nghiệp
phải tăng giá sản phẩm làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản.
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn đầu tư
thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã khiến các
doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung ứng cho
một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ
gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường hoặc chuyển đổi
sang thị trường khác.
Mặt khác, kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài bản,
năng suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng. Năng lực tiếp thị còn hạn chế,
phần lớn các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được thương hiệu của mình, chưa xây
dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp.
2.4.2 Những điểm cần lưu ý khi xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản
Thị trường dệt may Nhật Bản là một trong những thị trường nhập khẩu khó tính,
do đó các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu các sản phẩm dệt may sang thị trường
này cũng cần có nhiều điểm lưu ý.
Thứ nhất, xét về mặt chất lượng, người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu khắt khe
nhất. Sống trong môi trường có mức sống cao nên người tiêu dùng Nhật Bản đặt ra
những tiêu chuẩn đặc biệt chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của
sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm có chất lượng tốt. Yêu cầu
này còn bao gồm các dịch vụ hậu mãi như sự phân phối kịp thời của nhà sản xuất một khi
một sản phẩm bị trục trặc, khả năng và thời gian hoàn đổi các sản phẩm đó. Rất nhiều sản
phẩm được cấp giấy chứng nhận chất lượng ở nước xuất khẩu nhưng lại không đạt yêu
cầu khắt khe khi vào thị trường Nhật. Tiêu chuẩn chất lượng Châu Âu và Mỹ đều chú ý
vào hình thức bên ngoài mà không đi sâu vào chi tiết bên trong, chủ yếu liên quan tới tay
nghề công nhân. Nhưng người tiêu dùng Nhật lại luôn có xu hướng đòi hỏi sự hoàn hảo
trong toàn bộ sản phẩm họ mua. Họ chú ý đến cả những khuyết tật nhỏ nhất trên sản
phẩm, ngay cả những tỳ vết này là đặc điểm cố hữu trên nguyên liệu sử dụng.
Thứ hai, về mặt mẫu mã, Nhật Bản có 4 mùa rõ rệt xuân, hạ, thu, đông; mùa hè
nóng và ẩm ướt; mùa đông lạnh và khô. Đặc điểm khí hậu ảnh hưởng đến khuynh hướng
tiêu dùng. Hàng dệt may là mặt hàng có ảnh hưởng theo mùa. Việc đóng gói sản phẩm
cũng phải được đảm bảo bảo vệ được sản phẩm trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất.
Cùng với tác động của khí hậu, yếu tố tập quán tiêu dùng cũng cần phải được nghiên cứu
và tham khảo trong kế hoạch khuyếch trương thị trường tại Nhật Bản.
Thứ ba, về việc giao hàng, các đối tác Nhật ngày càng đưa ra các yêu cầu gấp gáp
hơn về thời hạn giao hàng. Nếu như trước đây, thời gian tính từ khi ký kết hợp đồng sản
xuất xuất khẩu (FOB) đến lúc giao hàng có thể lên tới 4-6 tháng, sau giảm còn 3 tháng,
thì nay chỉ còn 2 tháng rưỡi tới 3 tháng; vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam bị rơi vào thế
bị động. Hơn nữa thời gian vận chuyển đến Nhật trung bình từ 6-8 ngày; trong trường
hợp khách hàng xác nhận mẫu chậm hoặc phải sửa chữa tài liệu kỹ thuật thì thời gian sản
xuất càng bị rút ngắn, các doanh nghiệp Việt Nam càng phải đối mặt với vấn đề hạn hẹp
về thời gian sản xuất và giao hàng.
Thứ tư, Hiệp định Đối tác kinh tế với Việt Nam – EPA là hàng dệt may Việt Nam
xuất sang Nhật Bản phải đạt tiêu chí xuất xứ “hai công đoạn”. Hàng dệt may xuất sang
Nhật phải được sản xuất từ nguyên phụ liệu trong nước, hoặc của Nhật hoặc của các
nước ASEAN. Hiện nay, Nhận Bản đã đạt được tiêu chí xuất xứ “hai công đoạn” đối với
mặt hàng dệt may trong EPA ở cả 6 nước ASEAN (Singapore, Malaysia, Philippines,
Brunei, Indonesia, Thái Lan) và các nước này đều đã được hạ thuế suất thuế xuất khẩu
xuống 0%, Việt Nam không thể cạnh tranh được với các nước này. Hành trình để được
hưởng ưu đãi từ EPA của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại không đơn giản, bởi
ngành phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, nhất là khi trên 80% nguồn
nguyên phụ liệu được nhập khẩu này lại không được nhập từ Nhật và ASEAN.
Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đến năm 2020
3.1 Định hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản đến năm 2020
Ngày 10/3/2008, Thủ Tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phê duyệt chiến
lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020. Theo đó, sẽ tạo điều kiện tối đa phát triển ngành này trở thành một trong
những trọng điểm công nghiệp mũi nhọn về xuất khẩu. Các mục tiêu khác là: thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả
năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
Chỉ tiêu phát triển ngành dệt may là đưa kim ngạch xuất khẩu đạt 12 tỷ USD vào
năm 20010, 18 tỷ USD vào năm 2015 đến năm 2020 là 25 tỷ USD; thu hút 2,5 triệu đến
2,7 triệu và 3 triệu lao động vào các năm tương ứng. Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến
lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 như
sau:
Bảng 3.1: Chỉ tiêu chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam
giai đoạn 2005 - 2020
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Thực
hiện
2006
Mục tiêu toàn ngành đến
2010 2015 2020
1. Doanh thu triệu USD 7.800 14.800 22.500 31.000
2. Xuất khẩu triệu USD 5.834 12.000 18.000 25.000
3. Sử dụng lao động nghìn
người
2.150 2.500 2.750 3.000
4. Tỷ lệ nội địa hóa % 32 50 60 70
5. Sản phẩm chính:
- Bông xơ
- Xơ, sợi tổng hợp
- Sợi các loại
- Vải
- Sản phẩm may
1000 tấn
1000 tấn
1000 tấn
triệu m2
triệu SP
8
-
265
575
1.212
20
120
350
1.000
1.800
40
210
500
1.500
2.850
60
300
650
2.000
4.000
Để tăng tốc thực hiện chiến lược phát triển, ngành dệt may tập trung đổi mới
nhanh hệ thống quản lý, dây chuyền sản xuất và tay nghề người lao động, giải quyết
những mặt yếu kém về đầu tư, thị trường, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mẫu mã,
thương hiệu, công nghiệp phụ trợ. Từng doanh nghiệp thành viên sẽ xây dựng các dự án
đầu tư, huy động các nguồn vốn đầu tư từ các thành phần trong và ngoài nước thông qua
các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hóa các
doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích các doanh
nghiệp huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán (phát hành trái phiếu, cổ phiếu,
trái phiếu quốc tế), vay thương mại với điều kiện có hoặc không có sự bảo lãnh của
Chính phủ. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho các Viện
nghiên cứu, các trường đào tạo trong ngành Dệt May Việt Nam để tăng cường cơ sở vật
chất và thực hiện các hoạt động nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt
May theo nguyên tắc phù hợp với cam kết quốc tế Việt Nam đã tham gia.
Đồng thời Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách trong việc giảm thuế,
đấu tranh chống nạn buôn lậu, khuyến khích xuất khẩu.
3.2 Các giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
những năm tới
3.2.1 Các giải pháp mở rộng thị trường
3.2.1.1 Về phía nhà nước
Thứ nhất, tăng cường thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều tỉnh, thành phố và
những vùng của Nhật Bản mà trước nay chưa từng đặt quan hệ để tìm ra những thị
trường tiềm năng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhà nước cũng nên thành lập các
thương vụ ở mỗi tỉnh thành phố này nhằm thu thập thông tin về thị hiếu, thói quen tiêu
dùng cũng như khả năng tiêu thụ của thị trường để cung cấp cho các doanh nghiệp dệt
may trong nước.
Thứ hai, tăng cường các buổi triển lãm, hội chợ hay giao lưu hữu nghị dưới danh
nghĩa của hai bên chính phủ hoặc các cơ quan có thẩm quyền. Thông qua đó giới thiệu về
ngành dệt may Việt Nam cũng như những sản phẩm dệt may tốt , đã có thương hiệu cũng
như những sản phẩm mới tiềm năng, an toàn cho người sư dụng trên thị trường hiện nay.
3.2.1.2 Về phía doanh nghiệp
Thứ nhất, đối với những thị trường tiềm năng mới xâm nhập, cần thực hiện những
buổi PR để cho khách hàng thấy được những tính năng nổi trội của sản phẩm đồng thời
có thể tổ chức một cuộc điều tra nhỏ về ý kiến của khách hàng về sản phẩm ở những thị
trường đã có thương hiệu như Tokyo, hay Ohio để khách hàng có thể tin dùng những sản
phẩm của Việt Nam bởi lẽ Nhật Bản là một thị trường lớn, tương đối khó tính và để thay
đổi tập quán tiêu dùng của họ thì rất khó là lâu dài. Vì thế, dùng biện pháp khách hàng
giới thiệu khách hàng là vô cùng hợp lí.
Thứ hai, với những thị trường mới, trước khi đưa sản phẩm vào thị trường này,
cần phải có quá trình nghiên cứu về thị hiếu, phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng của
những khu vực này để có thể thiết kế và đưa ra những sản phẩm có mẫu mã, chất liệu,
kiểu dáng cũng như giá cả phù hợp với thị trường đó.
Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể liên kết với những doanh nghiệp
Nhật trong lĩnh vực quảng bá và giới thiệu sản phẩm để nâng cao lòng tin về sản phẩm
mới cho khách hàng.
3.2.2 Các giải pháp về nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
3.2.2.1 Về phía nhà nước
Thứ nhất, ban hành những quy cách, tiêu chuẩn về hàng dệt may xuất khẩu sang
Nhật Bản dựa trên những thông tin về thị trường và những chính sách quản lí nhập khẩu
hàng dệt may của Nhật Bản mà thương vụ cung cấp và tiến hành áp dụng cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi muốn xuất khẩu sang Nhật Bản. Ví dụ như triển khai Chương trình
sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu
chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao
động theo tiêu chuẩn SA 8000. Biện pháp này sẽ giúp cho sản phẩm của Việt Nam trở
nên gần gũi với người tiêu dùng Nhật Bản cũng như tránh gặp phải những khó khăn về
kiểm duyệt hàng khi vào Nhật Bản.
Thứ hai, chú ý xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt
May theo hướng thân thiện với môi trường. Đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu
bằng cách giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị dây chuyền hiện đại nhập khẩu về Việt
Nam để khuyến khích doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm..
3.2.2.2 Về phía doanh nghiệp
Thứ nhất, thường xuyên cập nhật thông tin về thị trường, biến động về giá cả cũng
như thị hiếu của người tiêu dùng để có thể đưa ra những sản phẩm mới hoặc những sản
phẩm cải tiến của những sản phẩm trước để kéo dài chu kì sống của một sản phẩm nhằn
tận dụng được nguồn lực và tiết kiệm chi phí trước mắt.
Thứ hai, đầu tư vào cải tiến máy móc, dây chuyền hiện đại từ các nước tiên tiến để
nâng cao năng suất cũng như chất lượng của sản phẩm.
Thứ ba, cần thực hiện quá trình sản xuất theo đúng những tiêu chuẩn về môi
trường, tiêu chuẩn về bảo hộ lao động, tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm bởi lẽ người
tiêu dùng Nhật cực kì khó tính, họ sẵn sàn tẩy chay những sản phẩm, doanh nghiệp có
dấu hiệu vi phạm nhưng tiêu chuẩn đặc biệt là tiêu chuẩn về môi trường và chất lượng.
Thứ tư, Mỗi doanh nghiệp nên đào tạo những chuyên viên có khả năng giao tiếp
tiếng Nhật thành thạo để đi giao dịch và giới thiệu sản phẩm vì người Nhật rất đánh giá
cao những người tôn trọng ngôn ngữ cũng như quan tâm đến ngôn ngữ của họ.