Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH THUẬN
Số: 779 /KL-UBND
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bình Thuận, ngày 04 tháng 3 năm 2020
KẾT LUẬN THANH TRA
Về việc làm rõ những sai phạm xảy ra tại Khoa dược Bệnh viện Đa khoa
khu vực Bắc Bình Thuận, giai đoạn 2006 - 2011
Thực hiện Quyết định số 2612/QĐ-UBND ngày 11/10/2019 của Chủ
tịch UBND tỉnh Bình Thuận về việc thanh tra làm rõ những sai phạm xảy ra
tại khoa Dược Bệnh viện Đa khoa khu vực Bắc Bình Thuận, giai đoạn 2006 -
2011.
Xét Báo cáo kết quả thanh tra ngày 16/01/2020 của Đoàn thanh tra và
Công văn số 13/TTBT-PNV2 ngày 19 tháng 02 năm 2020 của Chánh Thanh
tra tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận kết luận như sau:
A. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
Bệnh viện Đa khoa khu vực Bắc Bình Thuận (gọi tắt là Bệnh viện)
được thành lập từ ngày 29/11/2002 theo Quyết định số 3442/QĐ-CT.UBBT
của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận và chính thức đi vào hoạt động từ tháng
3/2005, là bệnh viện hạng II với quy mô 200 giường bệnh, đến năm 2011 tăng
lên 240 gường bệnh, có nhiệm vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân khu vực phía bắc của tỉnh.
Tổng số cán bộ, công chức, viên chức đến ngày 31/12/2011 là 248 người
(năm 2006 là 212 người). Trong đó: Sau đại học: 27; Đại học: 49 (Bác sỹ: 26,
Dược sỹ ĐH: 04, CN: 19); Cao đẳng: 02; Trung cấp: 128 (69 Điều Dưỡng, 21
Nữ hộ sinh, 05 Y sỹ, 09 Dược sỹ, 08 Kỹ thuật viên, 16 trung cấp khác); Sơ
cấp: 06; Cán bộ khác: 36. Bệnh viện gồm có 05 phòng nghiệp vụ, 11 khoa
lâm sàng và 04 khoa cận lâm sàng.
* Chức năng nhiệm vụ của Khoa dược: Giai đoạn 2006 - 2011, hoạt
động của khoa dược thực hiện chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức theo
Quyết định 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
việc ban hành quy chế bệnh viện (sau đây gọi tắt là Quyết định
1895/1997QĐ-BYT).
B. KẾT QUẢ THANH TRA
I. Tổ chức, hoạt động Hội đồng Thuốc và Điều trị:
2
1. Về việc thành lập Hội đồng Thuốc và điều trị: Bệnh viện đã ban
hành quyết định thành lập Hội đồng Thuốc và điều trị. Qua kiểm tra cho thấy
thành phần của Hội đồng thuốc và điều trị của Bệnh viện đúng theo Điểm b,
Khoản 3 Mục II Phần III Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT.
1.1. Việc tổ chức họp Hội đồng Thuốc và điều trị: Kiểm tra sổ họp
Hội đồng thuốc và Điều trị cho thấy nội dung chủ yếu được thể hiện trong
Biên bản họp là: Báo cáo, đánh giá kết quả hoạt động của Hội đồng và tình
hình sử dụng thuốc trong thời gian qua; Góp ý, xây dựng, bổ sung Danh mục
thuốc, VTYT tiêu hao của bệnh viện cho phù hợp với nhu cầu điều trị; Thông
báo các kết quả đã đấu thầu; Thảo luận của các thành viên Hội đồng; Kết luận
và phân công nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng.
Thời gian từ năm 2006 đến năm 2011 việc tổ chức họp Hội đồng thuốc
và Điều trị được tổ chức định kỳ hàng quý, cụ thể như sau: Năm 2006: đã tổ
chức họp 03 lần, theo quý I, II, III1; Năm 2007: đã tổ chức họp 10 lần2; Năm
2008: đã tổ chức họp 03 lần3; Năm 2009: đã tổ chức họp 04 lần4; Năm 2010:
đã tổ chức họp 04 lần5; Năm 2011: đã tổ chức họp 02 lần6. Nội dung thể hiện
tại sổ họp Hội đồng Thuốc và điều trị cơ bản đúng với quy định tại Thông tư
số 08/BYT-TT ngày 04 tháng 7 năm 1997 của Bộ Y tế hướng dẫn việc tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng thuốc và điều trị ở bệnh viện và
Mục 9 Phần III trong Quy chế bệnh viện ban hành kèm theo Quyết định số
1895/1997/QĐ-BYT.
Tuy nhiên, về lề lối làm việc của Hội đồng Thuốc và điều trị chưa đúng
với quy định: Chưa tổ chức họp đủ kỳ theo quy định tại Khoản a và Khoản c7,
Điểm 4, Mục 9, Phần III Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT.
1.2. Về việc ban hành Danh mục thuốc:
Kết quả kiểm tra cho thấy: Tại Mục 27 Phần V trong Quy chế Bệnh
viện ban hành kèm theo Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT không có quy
định việc xây dựng Danh mục thuốc sử dụng tại bệnh viện hàng năm (theo
giải trình của ông Thạch Ngọc Trình thì Danh mục thuốc Bệnh viện chỉ ban
hành lại khi có Danh mục mới của Bộ Y tế). Việc xây dựng Danh mục thuốc
1 (Biên bản họp quý I/2006 vào ngày 13/3/2006; Biên bản họp quý II/2006 vào ngày 23/5/2006;
Biên bản họp quý III/2006 vào ngày 06/9/2006).
2 (Biên bản họp vào các ngày 19/01/2007, 10/02/2007, 23/3/2007, 13/4/2007, 20/5/2007, 11/6/2007,
21/7/2007, 09/8/2007, 20/9/2007, 31/12/2007).
3 (Biên bản họp vào các ngày 13/3/2008, 14/5/2008, 18/9/2008).
4 (Biên bản họp vào các ngày 15/01/2009, 01/4/2009, 24/7/2009, 19/11/2009).
5 (Biên bản họp vào các ngày 17/3/2010, 16/6/2010, 30/9/2010, 30/11/2010).
6 (Biên bản họp vào các ngày 05/4/2011, 25/7/2011).
7 (Hội đồng thuốc và điều trị họp định kỳ mỗi tháng một lần. Họp bất thường do giám đốc bệnh viện
yêu cầu, chủ tịch hội đồng triệu tập; Thực hiện sơ kết, tổng kết và báo cáo định kỳ 3- 6- 9 và 12 tháng).
3
sử dụng tại bệnh viện hàng năm chỉ mới được quy định tại Thông tư
22/2011/TT-BYT ngày 10/6/2011 của Bộ Y tế Quy định tổ chức và hoạt động
của khoa Dược bệnh viện (Điểm a, Khoản 1, Điều 14, Chương III Thông tư
22/2011/TT-BYT).
- Năm 2008, Bệnh viện đã ban hành Quyết định số 105/QĐ-BVĐK
ngày 17/6/2008 của Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình Thuận v/v Ban hành Danh
mục thuốc chủ yếu áp dụng khám chữa bệnh tại Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình
Thuận và Trạm Y tế là phù hợp với Quyết định số 05/2008/QĐ-BYT ngày
01/02/2008 của Bộ Y tế về việc ban hành Danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu
sử dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
- Năm 2010, Bệnh viện đã ban hành Quyết định số 150/QĐ-BVĐK
ngày 10/9/2010 của Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình Thuận v/v Ban hành Danh
mục thuốc y học cổ truyền chủ yếu sử dụng tại Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình
Thuận và Trạm Y tế là phù hợp với Thông tư 12/2010/TT-BYT ngày
29/4/2010 của Bộ Y tế ban hành Danh mục thuốc y học cổ truyền chủ yếu sử
dụng tại các cơ sở khám chữa bệnh.
- Năm 2011, Bệnh viện đã ban Quyết định số 130/QĐ-BVĐK ngày
19/9/2011 của Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình Thuận v/v Ban hành Danh mục
thuốc chủ yếu áp dụng khám chữa bệnh tại Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình
Thuận và Trạm Y tế là phù hợp với Thông tư số 31/2011/TT-BYT ngày
11/7/2011 của Bộ Y tế ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc chữa bệnh chủ
yếu sử dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y tế
thanh toán.
- Năm 2011, Bệnh viện đã ban hành tiếp Quyết định số 163/QĐ-BVĐK
ngày 28/10/2011 của Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình Thuận v/v Ban hành Danh
mục thuốc chủ yếu áp dụng khám chữa bệnh tại Trạm Y tế xã là phù hợp với
Công văn số 2054/SYT-QLD ngày 21/10/2011 của Sở Y tế Bình Thuận về
việc xây dựng danh mục thuốc sử dụng đối với Trạm Y tế xã .
II. Công tác cung ứng và quản lý thuốc, VTYT tiêu hao:
1. Việc lập kế hoạch sử dụng:
- Ông Thạch Ngọc Trình - nguyên Trưởng khoa dược tình bày: Khoa
dược tổng hợp, xây dựng kế hoạch sử dụng và mua thuốc, VTYT tiêu hao
hàng năm dựa trên kết quả sử dụng thuốc năm trước liền kề để làm cơ sở cho
kế hoạch sử dụng thuốc, VTYT tiêu hao cho năm tới. Hàng năm, các khoa
không gửi dự trù năm cho khoa dược để tổng hợp chung mà chỉ có một số
khoa có gửi dự trù sử dụng thuốc hàng tháng cho khoa dược; trên cơ sở đó,
khoa dược tổng hợp số lượng, lập dự trù trình lãnh đạo duyệt mua hàng tháng,
4
quý. Việc lập kế hoạch sử dụng để mua sắm thuốc, VTYT tiêu hao hàng năm
như sau:
+ Năm 2006: Khoa dược chưa tổng hợp dự trù thuốc sử dụng trong
năm của các khoa lâm sàng để làm kế hoạch sử dụng cả năm cho bệnh viện
(các khoa lâm sàng không có dự trù kế hoạch sử dụng thuốc năm 2006 cho
khoa dược). Bệnh viện thực hiện theo Thông báo số 136/TB-STC ngày
16/02/2006 của Sở Tài chính thông báo kết quả cuộc họp ngày 13/02/2006 về
hướng dẫn thủ tục công tác đấu thầu mua sắm thuốc, hóa chất, dịch tuyền và
vật tư y tế năm 2006. Trong năm, chủ yếu mua theo kết quả trúng thầu của
các bệnh viện công trong tỉnh đã đấu thầu rộng rãi.
+ Năm 2007: Khoa dược đã tổng hợp kế hoạch dự kiến sử dụng trong
năm 2007 để tổ chức đấu thầu. Một số mặt hàng thuốc, VTYT tiêu hao không
lựa chọn được đơn vị trúng thầu thì Bệnh viện có Tờ trình số 148/TT-BVĐK
ngày 23/5/2007 gửi Sở Tài chính xin mua theo thuốc, VTYT tiêu hao theo
danh mục đã có quyết định phê duyệt kết quả trúng thầu của UBND tỉnh đối
với các bệnh viện trong tỉnh như Trung tâm Y tế Đức Linh, Bệnh viện thị xã
Lagi (gói thầu số 03) và ngày 01/6/2007, Sở Tài chính có Công văn số
2751/STC-TTBĐG thống nhất theo tờ trình của Bệnh viện.
+ Từ năm 2008-2011: Bênh viện tổng hợp kế hoạch sử dụng thuốc gửi
Sở Y tế để tổng hợp, tổ chức đấu thầu tập trung.
* Kết quả kiểm tra hồ sơ thể hiện:
- Năm 2006: Bệnh viện không thực hiện việc Lập kế hoạch thuốc, hóa
chất, vật dụng y tế tiêu hao theo Quy chế công tác của Khoa dược được ban
hành kèm theo Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/09/1997 của Bộ Y
tế về việc ban hành Quy chế Bệnh viện. Bệnh viện tiến hành mua thuốc theo
các công ty trúng thầu cung cấp cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Thuận và
Bệnh viện Y học cổ truyền theo hướng dẫn của liên Sở Tài chính - Sở Y tế tại
Công văn số 7456/LS/TC-YT hướng dẫn thực hiện Thông tư số
20/2005/TTLT-BYT-BTC ngày 27/7/2005 của Liên tịch Bộ Tài chính - Bộ Y
tế về việc đấu thầu cung ứng thuốc trong các cơ sở y tế công lập.
- Năm 2007: Bệnh viện thực hiện mua thuốc theo danh mục và giá kết
quả đấu thầu được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 378/QĐ-
UBND ngày 07/02/2007. Mua theo kết quả đấu thầu của Trung tâm Y tế
huyện Đức Linh (gói số 1) được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt (tại Quyết
định số 298/QĐ-UBND ngày 01/02/2007); Mua theo kết quả đấu thầu của
Bệnh viện Đa khoa tỉnh được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt (tại Quyết định
số 604/QĐ-UBND ngày 05/3/2007, Quyết định số 605/QĐ-UBND ngày
05/3/2007, Quyết định số 504/QĐ-UBND ngày 15/02/2007, Quyết định số
5
504/QĐ-UBND ngày 15/02/2007, Quyết định số 580/QĐ-UBND ngày
01/3/2007, Quyết định số 506/QĐ-UBND ngày 15/02/2007, Quyết định số
556/QĐ-UBND ngày 27/02/2007). Mua theo kết quả đấu thầu của Bệnh viện
ĐKKV La Gi được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 907/QĐ-
UBND ngày 05/4/2007.
Bệnh viện mua vật tư y tế tiêu hao theo danh mục và giá kết quả đấu
thầu được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt (tại Quyết định số 328/QĐ-UBND
ngày 05/2/2007, Quyết định số 959/QĐ-UBND ngày 11/4/2007, Quyết định
số 1449/QĐ-UBND ngày 06/6/2007, Quyết định số 960/QĐ-UBND ngày
11/4/2007, Quyết định số 378/QĐ-UBND ngày 07/02/2007, Quyết định số
1937/QĐ-UBND ngày 01/8/2007). Mua theo kết quả đấu thầu của Bệnh viện
Đa khoa tỉnh được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt (tại Quyết định số
503/QĐ-UBND ngày 15/02/2007, Quyết định số 505/QĐ-UBND ngày
15/2/2007, Quyết định số 507/QĐ-UBND ngày 15/2/2007, Quyết định số
532/QĐ-UBND ngày 26/2/2007, Quyết định số 609/QĐ-UBND ngày
05/3/2007).
Việc mua thuốc năm 2006-2007, VTYT tiêu hao theo kết quả đấu thầu
của các Bệnh viện trong tỉnh nêu trên, Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình Thuận có
tờ trình xin ý kiến và được Sở Tài chính thống nhất sau đó mới tiến hành mua.
- Năm 2008 - 2011:Khoa dược tổng hợp, xây dựng kế hoạch sử dụng và
mua thuốc, VTYT tiêu hao hàng năm dựa trên kết quả sử dụng thuốc năm
trước liền kề để làm cơ sở cho kế hoạch sử dụng thuốc, VTYT tiêu hao cho
năm tới, trình Giám đốc Bệnh viện xây dựng kế hoạch đấu thầu gửi về Sở Y
tế để tổng hợp và xây dựng kế hoạch đấu thầu tập trung cho toàn ngành theo
chỉ đạo của Giám đốc sở Y tế. Cụ thể:
+ Năm 2008: Thuốc mua trong thầu được mua theo kết quả đấu thầu
chung trong toàn tỉnh, được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số
582/QĐ-UBND ngày 04/3/2008 và tại Quyết định số 3296/QĐ-UBND ngày
01/12/2008.
Đối với vật tư y tế trong năm 2008 chủ yếu được mua theo kết quả
trúng thầu của Bệnh viện ĐK tỉnh Bình Thuận. Đến tháng 10/2008, mua theo
kết quả đấu thầu chung trong toàn tỉnh, được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt
cùng ngày 07/10/2008 (tại Quyết định số 2701/QĐ-UBND; Quyết định số
2707/QĐ-UBND; Quyết định số 2706/QĐ-UBND; Quyết định số 2705/QĐ-
UBND; Quyết định số 2704/QĐ-UBND).
+ Năm 2009: Bệnh viện thực hiện mua thuốc theo kết quả đấu thầu
chung trong toàn tỉnh đã được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt (tại Quyết định
số 582/QĐ-UBND ngày 04/3/2008, Quyết định số 3296/QĐ-UBND ngày
6
01/12/2008, Quyết định số 648/QĐ-UBND và số 649/QĐ-UBND ngày
05/3/2009, Quyết định số 708/QĐ-UBND ngày 11/3/2009, Quyết định số
2033/QĐ-UBND, số 2031/QĐ-UBND và số 2032/QĐ-UBND ngày
27/7/2009).
Vật tư y tế được mua theo kết quả trúng thầu của Bệnh viện ĐK tỉnh
Bình Thuận trong năm 2008 và 2009.
+ Năm 2010: Thuốc mua trong thầu được mua theo kết quả đấu thầu
chung trong toàn tỉnh, được Giám đốc Sở Y tế phê duyệt tại các Quyết định
cùng ngày 25/5/2010 (Quyết định số 623/QĐ-SYT; Quyết định số 624/QĐ-
SYT; Quyết định số 625/QĐ-SYT; Quyết định số 626/QĐ-SYT).Tuy nhiên, với
kết quả trúng thầu được phê duyệt nêu trên vẫn chưa đáp ứng đủ thuốc để
phục vụ công tác khám chữa bệnh nên để giải quyết khó khăn, UBND tỉnh
Bình Thuận có Công văn số 3110/UBND-TH ngày 07/7/2010 về việc mua
thuốc không có trong kết quả trúng thầu lần 1 năm 2010; Công văn số
4737/UBND-TH ngày 07/10/2010 về việc gia hạn thời gian mua thuốc không
có kết quả trúng thầu lần 1 năm 2010.
Đối với vật tư y tế, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Thuận tổ chức đấu
thầu tập trung cho các cơ sở y tế công lập trong toàn tỉnh năm 2010, theo đó
bệnh viện ĐK tỉnh thông báo cho các cơ sở y tế biết và ký kết hợp đồng mua
sắm theo các Quyết định cùng ngày 03/3/2010 (Quyết định số 99/BVBT-QĐ;
Quyết định số 100/BVBT-QĐ; Quyết định số 101/BVBT-QĐ; Quyết định số
102/BVBT-QĐ; Quyết định số 103/BVBT-QĐ; Quyết định số 104/BVBT-QĐ.
Và các Quyết định cùng ngày 19/3/2010: Quyết định số 153/BVBT-QĐ;
Quyết định số 152/BVBT-QĐ).
Căn cứ các quyết định trên và thông báo của Bệnh viện ĐK tỉnh, Bệnh
viện ĐKKV Bắc Bình thuận ký kết hợp đồng mua sắm và cung ứng để bệnh
viện phục vụ khám chữa bệnh trong năm. Tuy nhiên, với kết quả trúng thầu
nêu trên vẫn chưa cung ứng đủ vật tư y tế tiêu hao để phụ vụ công tác khám
chữa bệnh nên UBND tỉnh Bình Thuận chỉ đạo tháo gỡ khó khăn tại Công
văn số 3556/UBND-TH ngày 30/7/2010 về việc mua hoá chất, vật tư tiêu hao
không có trong kết quả trúng thầu năm 2010.
+ Năm 2011: Thuốc mua trong thầu được mua theo kết quả đấu thầu
chung trong toàn tỉnh (Theo các Quyết định số 292/QĐ-SYT, 293/QĐ-SYT,
294/QĐ-SYT ngày 06/4/2011 của Sở Y tế tỉnh Bình Thuận; Quyết định số 472/
QĐ-SYT ngày 27/5/2011 của Sở Y tế tỉnh Bình Thuận, Quyết định số 941/QĐ-
SYT, 942/QĐ-SYT, 943/QĐ-SYT ngày 19/10/2011 của Sở Y tế tỉnh Bình
Thuận). Vật tư y tế được mua theo kết quả trúng thầu của Bệnh viện ĐK tỉnh
Bình Thuận.
7
* Như vậy, qua kiểm tra cho thấy:
- Về việc lập kế hoạch thuốc, VTYT tiêu hao hàng năm: Theo quy định
tại Tiết 1, Điểm a, Khoản 2 Mục II Phần V Quyết định 1895/1997/QĐ-BYT:
“Lập kế hoạch thuốc, hóa chất, vật dụng y tế tiêu hao hàng năm phải đúng
thời gian quy định; phải sát với nhu cầu và định mức của bệnh viện; phải làm
theo đúng mẫu quy định; trưởng khoa dược tổng hợp, giám đốc Bệnh viện ký
duyệt sau khi đã có ý kiến tư vấn của Hội đồng thuốc và điều trị”. Như vậy,
Khoa dược tổng hợp, xây dựng kế hoạch sử dụng và mua thuốc, VTYT tiêu
hao hàng năm dựa trên kết quả sử dụng thuốc năm trước liền kề để làm cơ sở
cho kế hoạch sử dụng thuốc, VTYT tiêu hao cho năm tới là phù hợp theo quy
định. Tuy nhiên, Khoa dược không cung cấp được tài liệu chứng minh việc
giám đốc bệnh viện ký duyệt ban hành kế hoạch sử dụng thuốc, VTYT tiêu
hao hàng năm sau khi đã có ý kiến tư vấn của Hội đồng thuốc và điều trị
thông qua như quy định nêu trên (không cung cấp được Biên bản họp Hội
đồng thuốc và điều trị).
- Về việc dự trù: Theo hồ sơ lưu trữ tại Khoa dược và báo cáo của các
Khoa về việc dự trù thuốc, VTYT tiêu hao thì chỉ có một số khoa có gửi dự
trù sử dụng cho Khoa dược và đây chỉ là dự trù sử dụng hàng tháng hoặc quý
của các khoa để Khoa dược tổng hợp mua theo đợt. Tại điểm a, khoản 2, mục
II của Mục 27 Phần V trong Quy chế bệnh viện ban hành kèm theo Quyết
định số 1895/1997/QĐ-BYT, không thấy quy định các khoa phải dự trù hàng
tháng, hàng năm. Tuy nhiên, việc Khoa dược không chứng minh được tài liệu
đã triển khai cho các khoa lập dự trù thuốc để tổng hợp nhu cầu sử dụng thuốc
chung trong bệnh viện ngay từ đầu năm để lập kế hoạch thuốc, hóa chất, vật
dụng y tế tiêu hao hàng năm là chưa đúng với yêu cầu “xây dựng danh mục
thuốc phù hợp với đặc thù bệnh tật và chi phí về thuốc, vật tư tiêu hao điều trị
của bệnh viện”; “chưa sát với nhu cầu và định mức của bệnh viện”.
- Bệnh viện thực hiện mua thuốc, VTYT theo đúng giá kết quả đấu thầu
đã được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt.
2. Tình hình nhập, thanh toán mua thuốc, VTYT tiêu hao hàng
năm:
- Tổng giá trị thuốc, VTYT tiêu hao, Oxy nhập trong năm (Theo Báo
cáo xuất, nhập, tồn của Bệnh viện từ năm 2006 - 2011): Chi tiết tại Biểu số 01
kèm theo.
- Tổng giá trị thuốc, VTYT tiêu hao, Oxy đã thanh toán trong năm do
Phòng Tài chính - kế toán của Bệnh viện cung cấp (Mua trong thầu và ngoài
thầu): Chi tiết tại Biểu số 02 kèm theo.
8
- Tình hình nhập, sử dụng và tồn thuốc, VTYT tiêu hao (Theo Báo cáo
xuất, nhập, tồn của Bệnh viện từ năm 2006 - 2011): Chi tiết tại Biểu số 03
kèm theo.
Qua kiểm tra chứng từ cho thấy:
- Tất cả thuốc, VTYT, Ô xy đã thanh toán kèm theo chứng từ đều có
Phiếu nhập kho. Phiếu nhập kho ghi đúng theo tên thuốc, số lượng và đơn giá
ghi trên hóa đơn.
- Về hợp đồng mua thuốc, VTYT tiêu hao trong thầu: Phòng Tài chính
- Kế toán chỉ cung cấp được các Hợp đồng của năm 2009 kèm theo chứng từ.
Riêng hợp đồng của năm 2006, 2007, 2008, 2010 và 2011 không cung cấp
được. Theo trình bày của bà Đinh Thị Vinh - Trưởng phòng Tài chính - Kế
toán: Về chứng từ kế toán từ năm 2006 - 2011 là do bà Mai Thị Sơn - nguyên
Trưởng phòng Tài chính - Kế toán (đã nghỉ hưu) trực tiếp phụ trách và quản
lý. Nay Phòng Tài chính - Kế toán chỉ lục được các chứng từ nêu trên để cung
cấp cho Đoàn thanh tra. Trong quá trình Đoàn thanh tra làm việc có đề nghị
Phòng Tài chính - Kế toán liên hệ với bà Sơn để phối hợp lục hồ sơ (hợp
đồng) tuy nhiên đến nay Bệnh viện vẫn chưa cung cấp được.
- Từ năm 2006 - 2011: Bệnh viện có mua ngoài thầu (tự thực hiện mua
sắm) một số mặt hàng thuốc, VTYT tiêu hao và Oxy không có trong kết qủa
đấu thầu để đáp ứng nhu cầu sử dụng trong năm. Qua kiểm tra chứng từ thanh
toán cho thấy:
+ Thuốc, VTYT tiêu hao và Oxy mua ngoài thầu (tự thực hiện mua
sắm) đều có Biên bản họp của Hội đồng thuốc và Điều trị kèm theo từng đợt
mua và không có tồn đầu kỳ, phần lớn đều có nhu cầu sử dụng trong năm.
Tuy nhiên, chứng từ mua ngoài thầu năm 2007 chỉ có hóa đơn và Biên bản
họp Hội đồng thuốc và điều trị kèm theo, không có Phiếu báo giá của các đơn
vị cung cấp và hợp đồng theo quy định; một số biên bản họp của Hội đồng
thuốc và Điều trị (năm 2008) không thống nhất ngày họp và ngày ký, trong 1
biên bản họp mà ghi tới 02 mốc thời gian khác nhau, cụ thể: Họp ngày
05/01/2008 ký ngày 04/10/2008, họp ngày 14/5/2008 ký 20/5/2008, họp ngày
23/3/2008 ký 28/3/2008.
- Năm 2006, Bệnh viện tự thực hiện mua hóa chất và vật tư y tế tiêu
hao theo nhu cầu điều trị bệnh thực tế và Thông báo kết quả cuộc họp ngày
13/02/2006 tại Công văn số 136/TB-STC ngày 16/02/2006 của Sở Tài chính
về hướng dẫn thủ tục công tác đấu thầu mua sắm thuốc, hóa chất, dịch truyền
và vật tư y tế. Tuy nhiên, việc mua vật tư y tế tiêu hao không sát với nhu cầu
điều trị thực tế của Bệnh viện. Cụ thể: có 1.050 Test thử viêm gan C mua của
Công ty TNHH Nhật Đăng, năm 2006 sử dụng trong năm 400 test, tồn cuối
9
năm là 650 test; qua năm 2007 không mua và sử dụng trong năm 200 test, tồn
cuối năm 2007 là 450 Test với số tiền 8.549.888 đồng (Đến năm 2008 không
mua thêm và tiếp tục sử dụng hết trong năm 2008).
- Năm 2007, Bệnh viện xây dựng kế hoạch sử dụng thuốc Ampicilline
+ Sulbubactam (Grobacta) 1,5 g chưa sát với nhu cầu sử dụng thuốc thực tế
của Bệnh viện dẫn đến cuối năm tồn nhiều, cụ thể: Trong năm 2007, Bệnh
viện nhập 740 lọ, sử dụng trong năm 70 lọ, tồn cuối năm 670 lọ với số tiền là
21.440.000 đồng. Qua năm 2008, Bệnh viện không nhập và sử dụng trong
năm là 162 lọ, tồn cuối năm 2008 là 508 lọ số tiền là 16.256.000 đồng (Đến
năm 2009 không mua thêm và tiếp tục sử dụng hết trong năm 2009).
3. Công tác quản lý xuất, nhập, bảo quản và sử dụng thuốc trong
bệnh viện: Bệnh viện đã xây dựng và ban hành những quy định về công tác
quản lý, xuất nhập, bảo quản và sử dụng thuốc trong bệnh viện như: Quy chế
Xuất, nhập thuốc, hóa chất và vật tư y tế tại Bệnh viện (ngày 04/3/2005);
Quyết định số 65/QĐ-BVĐK ngày 01/6/2005 v/v giao nhiệm vụ cung ứng
thuốc đến tận các khoa lâm sàng bệnh viện; Quyết định số 182/QĐ-BVĐK
ngày 22/6/2006 v/v Ban hành quy trình cấp phát và theo dõi sử dụng thuốc,
hóa chất, vật tư y tế tiêu hao (Gồm 02 quy trình: “ Quy trình cấp phát và theo
dõi sử dụng thuốc, hóa chất, VTYT tiêu hao” và “Quy trình cấp phát và theo
dõi sử dụng thuốc, hóa chất, VTYT tiêu hao Bảo hiểm Y tế và Trẻ em dưới 6
tuổi”); Quyết định số 69/QĐ-BVĐK ngày 19/5/2008 v/v Phân công dược sỹ
trung học quản lý kho thuốc độc; Quyết định số 245/QĐ-BVĐKKV ngày
28/12/2010 v/v Thành lập đoàn kiểm kê tài sản; Quyết định số 129/QĐ-
BVĐKKV ngày 19/9/2011 v/v Thành lập đoàn kiểm kê thuốc tủ trực tại các
khoa HSCC, Sản, Liên chuyên khoa, Nhi và Gây mê hồi sức (3 tháng một
lần); Quyết định số 15/QĐ-BVĐK ngày 04/01/2011 v/v ủy quyền quản lý
thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần và tiền chất dùng làm thuốc và Quyết
định số 215/QĐ-BVĐK ngày 30/12/2011 v/v ủy quyền quản lý thuốc gây
nghiện, thuốc hướng tâm thần và tiền chất dùng làm thuốc tại khoa dược bệnh
viện theo đúng với điểm b, khoản 1, Điều 17 Thông tư số 10/2010/TT-BYT
ngày 29/4/2010 của Bộ Y tế hướng dẫn các hoạt động liên quan đến thuốc gây
nghiện; Quyết định số 68/BVĐK-QĐ ngày 27/5/2007 v/v Thành lập Hội đồng
kiểm nhập thuốc và Quyết định số 198 QĐ/BVĐK ngày 27/10/2010 v/v
Thành lập Hội đồng kiểm nhập thuốc, VTYT, hóa chất.
4. Công tác kho và công tác bảo quản; kiểm kê, kiểm nhập, báo
cáo:
4.1. Việc tổ chức Kho và bảo quản:
10
- Năm 2006: Tổ chức Kho được chia thành các kho đồng cấp: Kho
thuốc trẻ em dước 6 tuổi, kho cấp Bảo hiểm y tế…, không đúng quy định tại
điểm b, khoản 3, mục II của Mục 27 Phần V trong Quy chế bệnh viện ban
hành kèm theo Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997 của Bộ
trưởng Bộ Y tế.
- Từ năm 2007 đến năm 2011: Tổ chức Kho được chia thành kho chính
và các kho cấp lẻ, đúng với quy định tại điểm b, khoản 3, mục II của Mục 27
Phần V trong Quy chế bệnh viện ban hành kèm theo Quyết định số
1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
- Đối với thuốc độc, Bệnh viện có bố trí kho và thực hiện theo dõi xuất,
nhập riêng.
- Tất cả các thuốc, VTYT, oxy nhập, xuất đều có phiếu xuất, nhập kho
theo quy định.
- Có thẻ kho theo dõi xuất, nhập tồn từng loại thuốc, VTYT tiêu hao,
oxy. Tuy nhiên, trên thẻ kho không ghi đầy đủ thông tin hạn dùng và nước
sản xuất theo Biểu mẫu quy định.
- Khoa dược cung cấp không đầy đủ các báo cáo 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng và báo cáo đột xuất khi cần thiết theo quy định tại Tiết 3, Điểm d,
Khoản 2 Mục II Phần V Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997
của Bộ trưởng Bộ Y tế. Cuối năm có thực hiện Báo cáo xuất nhập tồn nhưng
năm 2006 tại Báo cáo xuất - nhập - tồn cuối năm của kho thuốc độc và kho
vật tư y tế tiêu hao không có chữ ký của lãnh đạo, trưởng khoa dược và kế
toán trưởng.
- Năm 2007 và 2008 có lập bảng theo dõi hạn sử dụng của thuốc. Các
năm 2006, 2009, 2010, 2011 không cung cấp được bảng theo dõi hạn sử dụng
thuốc.
4.2. Việc kiểm nhập:
- Về việc thành lập Hội đồng kiểm nhập: Từ năm 2006 - 2011, Bệnh
viện có thành lập Hội đồng kiểm nhập (Quyết định số 68/YT-QĐ ngày
30/5/2005, Quyết định số 68/BVĐK-QĐ ngày 27/5/2007, Quyết định số
198/QĐ-BVĐKKV ngày 27/10/2010, Quyết định 128/QĐ-BVĐKKV ngày
19/9/2011).
- Về việc thực hiện kiểm nhập: Khoa dược chỉ cung cấp được một số
Biên bản kiểm nhập thuốc và VTYT tiêu hao từ năm 2007 - 2011.
* Qua kiểm tra cho thấy: Từ năm 2007 - 2011, Bệnh viện có thành lập
Hội đồng kiểm nhập theo quy định và có thực hiện kiểm nhập, riêng năm
2006 không cung cấp được Biên bản kiểm nhập trong năm.
11
Kiểm tra các biên bản kiểm nhập Khoa dược cung cấp cho thấy: Chưa
đầy đủ theo số lượng, giá trị nhập kho trong năm và Hội đồng kiểm nhập lập
biên bản kiểm nhập theo giá trị chưa có thuế VAT là không đúng với giá trị
ghi trên hóa đơn, Phiếu nhập kho và Báo cáo xuất nhập tồn của Khoa dược và
chứng từ thanh toán. Cụ thể:
- Năm 2007:
+ Thuốc: 1.833.661.581 đồng (theo Biên bản kiểm nhập, giá chưa có
thuế VAT)/ 5.125.870.394,45 đồng (theo Báo cáo tổng nhập trong năm - có
thuế VAT).
+ Vật tư y tế tiêu hao, oxy: 73.363.166 đồng (theo Biên bản kiểm nhập,
Giá chưa có thuế VAT)/ 1.476.367.337,19 đồng (theo Báo cáo tổng nhập
trong năm - có thuế VAT).
- Năm 2008:
+ Thuốc: 3.232.070.026,29 đồng (theo Biên bản kiểm nhập, Giá chưa
có thuế VAT)/ 6.384.221.621 đồng (theo Báo cáo Tổng nhập trong năm - có
thuế VAT).
+ Vật tư y tế tiêu hao, oxy: Không cung cấp được Biên bản kiểm nhập.
- Năm 2009:
+ Thuốc: 3.629.437.215,91 đồng (theo Biên bản kiểm nhập, Giá chưa
có thuế VAT)/12.009.353.834 đồng (theo Báo cáo tổng nhập trong năm - có
thuế VAT).
+ Vật tư y tế tiêu hao, oxy: 253.991.779,812 đồng (Giá chưa có thuế
VAT)/2.623.397.279 đồng (theo Báo cáo tổng nhập trong năm - có thuế
VAT).
- Năm 2010:
+ Thuốc: 7.705.721.212,18 đồng (theo Biên bản kiểm nhập, Giá chưa
có thuế VAT)/13.953.583.728 đồng (theo Báo cáo tổng nhập trong năm - có
thuế VAT).
+ Vật tư y tế tiêu hao, oxy: 1.750.772.392,2118 đồng (theo Biên bản
kiểm nhập, Giá chưa có thuế VAT)/3.535.006.674 đồng (theo Báo cáo tổng
nhập trong năm - có thuế VAT).
- Năm 2011:
+ Thuốc: 14.048.574.510,6 đồng (theo Biên bản kiểm nhập, Giá chưa
có thuế VAT)/16.780.801.674 đồng (theo Báo cáo tổng nhập trong năm - có
thuế VAT).
12
+ Vật tư y tế tiêu hao, oxy: 1.1691.981.043,9 đồng (theo Biên bản kiểm
nhập, Giá chưa có thuế VAT)/4.763.533.306 đồng (theo Báo cáo tổng nhập
trong năm - có thuế VAT).
* Ông Thạch Ngọc Trình, nguyên Trưởng Khoa trình bày về việc
không có hồ sơ và không thực hiện kiểm nhập được nêu tại Kết luận số
2633/KL-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh: Trong giai đoạn
Thanh tra tại khoa dược vào năm 2018, hồ sơ giai đoạn 2006 - 2011 do ông
Cương (đã nghỉ việc) quản lý cất giữ, các nhân viên trong khoa không tìm
được và chưa thật sự quyết tâm tìm nên không có để chứng minh cho đoàn
Thanh tra. Nay khi Đoàn thanh tra yêu cầu giải trình, bản thân ông Trình xác
định có kiểm nhập và ký vào biên bản kiểm nhập nên đã cùng các nhân viên
trong khoa lục tìm thì thấy nhưng không đầy đủ, do lâu năm bị thất lạc.
4.3. Việc kiểm kê:
* Về việc thành lập Hội đồng kiểm kê tháng, cuối năm và thực hiện
kiểm kê tháng, cuối năm: Ông Thạch Ngọc Trình thừa nhận trong giai đoạn
2006 - 2010 có thành lập Hội đồng kiểm kê nhưng việc thực hiện kiểm kê
không thường xuyên. Lý do: người ít, việc nhiều và bận tham gia học tập
nâng cao nhận thức và chuyên môn nghiệp vụ. Việc này bản thân ông Trình
đã nhận khuyết điểm và đã được tổ chức kiểm điểm về phần sai sót này theo
Kết luận số 2633/KL-UBND. Tuy nhiên, qua làm việc Khoa dược cũng
không cung cấp được Quyết định thành lập Hội đồng kiểm kê tháng, cuối năm
và Biên bản kiểm kê tháng, cuối năm giai đoạn 2006 - 2010.
Đến ngày 19/9/2011, Bệnh viện mới thành lập Hội đồng kiểm kê hàng
tháng và Hội đồng Kiểm kê cuối năm (Quyết định số 126/QĐ-BVĐKKV và
Quyết định số 125/QĐ-BVĐKKV). Tuy nhiên, từ khi thành lập Hội đồng kiểm
kê, tại khoa Dược không tiến hành kiểm kê thuốc và VTYT tiêu hao hàng
tháng cũng như kiểm kê thuốc cuối năm theo quy định, chỉ thực hiện việc
kiểm kê VTYT tiêu hao cuối năm 2011 nhưng thành phần kiểm kê không đầy
đủ theo quyết định thành lập.
* Về việc thành lập Tổ kiểm kê thuốc tại các khoa điều trị, khoa cận
lâm sàng: Từ năm 2006 - 2010, Bệnh viện không thành lập Tổ kiểm kê thuốc
tại các khoa điều trị, khoa cận lâm sàng.
- Năm 2011, đã ban hành quyết định thành lập Tổ kiểm kê các Khoa
Hồi sức cấp cứu, Sản, Liên chuyên khoa, Nhi, Gây mê hồi sức, Nội, Ngoại, Y
học cổ truyền, Khám, Xét nghiệm. Nhưng việc kiểm kê chưa đảm bảo, chưa
được thường xuyên, chưa thể hiện thành phần kèm theo quyết định để thực
hiện kiểm kê; Khoa dược cung cấp sổ sách, biên bản kiểm kê cho Đoàn thanh
tra không đầy đủ.
13
Như vậy, giai đoạn 2006 - 2010, Bệnh viện không thành lập Hội đồng
kiểm kê và không thực hiện kiểm kê thuốc, hoá chất, vật tư y tế tiêu hao hàng
tháng và cuối năm đối với Khoa dược và 02 lần trong năm đối với các khoa là
không thực hiện quy định tại Điểm c, Khoản 2, Mục II, Phần V Quyết định số
1895/1997/QĐ-BYT. Do đó, hàng tháng, hàng quý, 6 tháng, 9 tháng và cuối
năm không xác định được số lượng, chất lượng thuốc, VTYT tiêu hao thừa,
thiếu, hư hỏng, hết hạn sử dụng để tìm nguyên nhân chênh lệch, hư hao, xác
định trách nhiệm và đề nghị xử lý. Việc này tồn tại, kéo dài nhiều năm, đến
khi tiến hành kiểm kê bàn giao (vào tháng 4/2014 đối với thuốc và tháng
10/2010 đối với VTYT tiêu hao) giữa thủ kho cũ và thủ kho mới thì mới phát
hiện thừa, thiếu thuốc, VTYT tiêu hao và hết hạn sử dụng đã được xác định
tại Kết luận số 2633/KL-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh.
5. Công tác pha chế và sắc thuốc:
Trong khoản thời gian từ 2006 đến 2011, Bệnh viện không tổ chức thực
hiện việc pha chế và sản xuất chế biến thuốc cũng như các loại dịch truyền để
sử dụng tại bệnh viện.
6. Công tác thông tin và tư vấn thuốc:
Theo trình bày của Bệnh viện tại Báo cáo số 602/BC-BVĐKKV ngày
25/10/2016: Thực hiện thông tin thuốc và tư vấn sử dụng thuốc trong thời
gian này chưa được rõ nét. Lý do là nhân lực trình độ dược sỹ đại học ít (02
DsĐH). Khoa dược thực hiện thông tin thuốc khi có yêu cầu từ bác sỹ điều trị,
tra cứu tài liệu rồi trả lời bằng văn bản. Tuy nhiên, Khoa dược không cung
cấp được hồ sơ chứng minh kết quả thực hiện công tác thông tin và tư vấn
thuốc. Như vậy, việc thông tin thuốc, tư vấn sử dụng thuốc chưa thực hiện
đúng theo quy định tại Khoản 5, Mục II Phần 5 Quyết định số 1895/1997/QĐ-
BYT.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Giai đoạn năm 2006 - 2011, Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình Thuận bắt đầu
chính thức đi vào hoạt động với quy mô hoạt động là bệnh viện hạng II của
tỉnh, thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
khu vực phía bắc của Tỉnh. Nhìn chung, giai đoạn này đội ngũ cán bộ y tế của
bệnh viện còn thiếu và năng lực quản lý, chuyên môn còn hạn chế, nhất là
lãnh đạo tại các khoa, phòng chưa theo kịp nhiệm vụ trong tình hình mới (do
mới được nâng cấp lên từ Trung tâm y tế huyện Bắc Bình cũ (hạng III) và Sở
Y tế phải điều động bổ nhiệm lãnh đạo bệnh viện từ nơi khác đến). Trong khi
nguồn nhân lực chưa đầy đủ, nhưng bệnh viện đã có nhiều cố gắng, từng bước
khắc phục khó khăn, đảm bảo cơ bản công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
14
khu vực phía bắc với quy mô hoạt động là bệnh viện hạng II. Các hoạt động
về cung ứng thuốc, vật tư y tế tiêu hao, hóa chất xét nghiệm, … đáp ứng
tương đối kịp thời nhu cầu điều trị phục vụ cho người bệnh tại Bệnh viện và
các trạm y tế xã. Công tác quản lý chuyên môn nghiệp vụ, Bệnh viện đã có
quan tâm triển khai thực hiện theo quy định như: Thành lập Hội đồng Thuốc
và Điều trị; Ban hành Danh mục sử dụng thuốc hàng năm; Ban hành quy định
về công tác quản lý, xuất nhập, bảo quản và sử dụng thuốc trong bệnh viện;
Xây dựng kế hoạch sử dụng thuốc, VTYT tiêu hao hàng năm để tổ chức thực
hiện đấu thầu và trình Sở Y tế tổng hợp đấu thầu chung toàn tỉnh; Thực hiện
mua thuốc, VTYT tiêu hao theo đúng giá kết quả đấu thầu đã được Chủ tịch
UBND tỉnh phê duyệt; Thành lập Hội đồng kiểm nhập thuốc; Hàng năm có
thực hiện việc báo cáo xuất nhập tồn thuốc, VTYT tiêu hao; Tất cả thuốc,
VTYT tiêu hao nhập, xuất đều có Phiếu nhập kho, Phiếu xuất kho và Thẻ kho
theo dõi từng loại thuốc, VTYT tiêu hao; Đối với thuốc độc, Bệnh viện có bố
trí kho và thực hiện theo dõi xuất nhập riêng theo đúng quy định hiện hành.
Tuy nhiên, bên cạnh đó trong quá trình thực hiện tổ chức hoạt động
Khoa dược có một số tồn tại, sai phạm, thực hiện chưa đúng quy định tại
Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT, cụ thể:
- Chưa tổ chức họp Hội đồng Thuốc và Điều trị đủ kỳ theo quy định tại
khoản a và khoản c, điểm 4, Mục 9, Phần III.
- Năm 2006, Bệnh viện không thực hiện lập kế hoạch sử dụng thuốc,
hóa chất, vật dụng y tế tiêu hao trong năm để làm cơ sở thực hiện mua sắm sử
dụng trong năm.
- Xây dựng Kế hoạch thuốc, VTYT tiêu hao hàng năm không thông qua
và chưa có ý kiến của Hội đồng thuốc và điều trị (đơn vị không cung cấp
được Biên bản họp Hội đồng Thuốc và Điều trị).
- Việc Khoa dược không chứng minh được tài liệu đã triển khai cho các
khoa lập dự trù thuốc để tổng hợp nhu cầu sử dụng thuốc chung trong bệnh
viện ngay từ đầu năm để lập kế hoạch thuốc, hóa chất, vật dụng y tế tiêu hao
hàng năm là chưa đúng với yêu cầu “xây dựng danh mục thuốc phù hợp với
đặc thù bệnh tật và chi phí về thuốc, vật tư tiêu hao điều trị của bệnh viện”;
“chưa sát với nhu cầu và định mức của bệnh viện”.
- Mua Test thử viêm gan C và thuốc Ampicilline + Sulbubactam
(Grobacta) 1,5g không sát với nhu cầu điều trị thực tế của Bệnh viện, cuối
năm còn tồn nhiều, cụ thể: Trong năm 2006, mua Test thử viêm gan C là
1.050 test, sử dụng 400 test, tồn cuối năm là 650 test; qua năm 2007 không
mua và sử dụng trong năm 200 test, tồn cuối năm 2007 là 450 Test với số tiền
8.549.888 đồng (Đến cuối năm 2008, không mua thêm và tiếp tục sử dụng hết
15
trong năm 2008). Trong năm 2007, mua 740 lọ, sử dụng trong năm 70 lọ, tồn
cuối năm 670 lọ; qua năm 2008, Bệnh viện không nhập và sử dụng trong năm
là 162 lọ, tồn cuối năm 2008 là 508 lọ số tiền là 16.256.000 đồng (Đến cuối
năm 2009, không mua thêm và tiếp tục sử dụng hết trong năm 2009).
- Năm 2006: Tổ chức Kho tại Khoa dược không đúng quy định tại điểm
b, khoản 3, mục II Mục 27 Phần V.
- Khoa dược không cung cấp đầy đủ các báo cáo 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng và báo cáo đột xuất khi cần thiết theo quy định tại Tiết 3, Điểm d,
Khoản 2 Mục II Phần V. Báo cáo xuất - nhập - tồn cuối năm 2006 của Kho
thuốc độc và Kho vật tư y tế tiêu hao không có chữ ký của lãnh đạo, trưởng
khoa dược và kế toán trưởng.
- Khoa dược không cung cấp được Quyết định thành lập Hội đồng kiểm
kê tháng, cuối năm và Biên bản kiểm kê tháng, cuối năm giai đoạn 2006 -
2010. Đến ngày 19/9/2011, Bệnh viện mới thành lập Hội đồng kiểm kê hàng
tháng và Hội đồng Kiểm kê cuối năm. Tuy nhiên, từ khi thành lập Hội đồng
kiểm kê, tại khoa Dược không tiến hành kiểm kê thuốc và VTYT tiêu hao
hàng tháng cũng như kiểm kê thuốc cuối năm theo quy định, chỉ thực hiện
việc kiểm kê VTYT tiêu hao cuối năm 2011 nhưng thành phần kiểm kê không
đầy đủ theo quyết định thành lập.
Từ năm 2006 - 2010, Bệnh viện không thành lập Tổ kiểm kê thuốc tại
các khoa điều trị, khoa cận lâm sàng. Năm 2011 có ban hành quyết định thành
lập Tổ kiểm kê các Khoa Hồi sức cấp cứu, Sản, Liên chuyên khoa, Nhi, Gây
mê hồi sức, Nội, Ngoại, Y học cổ truyền, Khám, Xét nghiệm. Tuy nhiên, việc
kiểm kê chưa đảm bảo, chưa được thường xuyên, chưa thể hiện thành phần
kèm theo quyết định để thực hiện kiểm kê; Khoa dược cung cấp sổ sách, biên
bản kiểm kê cho Đoàn thanh tra không đầy đủ.
Như vậy, giai đoạn 2006 - 2010, Bệnh viện không thành lập Hội đồng
kiểm kê và không thực hiện kiểm kê thuốc, hoá chất, vật tư y tế tiêu hao hàng
tháng và cuối năm đối với Khoa dược và 02 lần trong năm đối với các khoa là
không thực hiện quy định tại Điểm c, Khoản 2, Mục II, Phần V Quyết định số
1895/1997/QĐ-BYT. Do đó, hàng tháng, hàng quý, 6 tháng, 9 tháng và cuối
năm không xác định được số lượng, chất lượng thuốc, VTYT tiêu hao thừa,
thiếu, hư hỏng, hết hạn sử dụng để tìm nguyên nhân chênh lệch, hư hao, xác
định trách nhiệm và đề nghị xử lý. Việc này tồn tại, kéo dài nhiều năm, đến
khi tiến hành kiểm kê bàn giao (vào tháng 4/2014 đối với thuốc và tháng
10/2010 đối với VTYT tiêu hao) giữa thủ kho cũ và thủ kho mới thì mới phát
hiện thừa, thiếu thuốc, VTYT tiêu hao và hết hạn sử dụng như đã được xác
16
định tại Kết luận số 2633/KL-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND
tỉnh.
- Việc thông tin thuốc, tư vấn sử dụng thuốc chưa thực hiện đúng theo
quy định tại Khoản 5, Mục II Phần 5.
- Công tác kiểm nhập thuốc, VTYT tiêu hao: Khoa dược chỉ cung cấp
được một số Biên bản kiểm nhập thuốc và VTYT tiêu hao từ năm 2007 -
2011, qua đó cho thấy: Chưa đầy đủ theo số lượng, giá trị nhập kho trong năm
và Hội đồng kiểm nhập lập biên bản kiểm nhập theo giá trị chưa có thuế VAT
là không đúng với giá trị ghi trên hóa đơn, Phiếu nhập kho và Báo cáo xuất
nhập tồn của Khoa dược và chứng từ thanh toán.
- Một số biên bản họp của Hội đồng thuốc và Điều trị (năm 2008)
không thống nhất ngày họp và ngày ký.
- Thẻ kho không ghi đầy đủ thông tin hạn dùng và nước sản xuất theo
Biểu mẫu quy định.
- Công tác theo dõi hạn sử dụng của thuốc chưa thường xuyên, cụ thể
Khoa dược chỉ cung cấp bảng theo dõi hạn sử dụng của thuốc năm 2007 và
2008.
Trách nhiệm chính của những tồn tại, sai sót trong việc tham mưu và
tổ chức hoạt động khoa dược bệnh viện (giai đoạn năm 2006 đến năm 2011)
nêu trên thuộc về ông Thạch Ngọc Trình - nguyên Trưởng Khoa dược. Ông
Trần Văn Cường - nguyên Giám đốc Bệnh viện (giai đoạn năm 2006 đến năm
2011) chịu trách nhiệm với vai trò là người đứng đầu đối với tồn tại, sai sót
nêu trên của Khoa dược.
- Về chứng từ thanh toán mua thuốc, VTYT tiêu hao: Chưa cung cấp
được hợp đồng các năm 2006, 2007, 2008, 2010 và 2011 và các phiếu báo giá
(đối với mua thuốc, CTYT tiêu hao mua lẻ - ngoài thầu của năm 2007) kèm
theo chứng từ thanh toán. Công tác lưu trữ hồ sơ tại Phòng Tài chính - Kế
toán và Khoa dược thiếu chặt chẽ và khoa học dẫn đến thất lạc hồ sơ, gây khó
khăn trong việc truy lục. Trách nhiệm chính của tồn tại thiếu sót này thuộc về
bà Mai Thị Sơn - nguyên Trưởng phòng Tài chính - Kế toán và trách nhiệm
người đứng đầu thuộc về ông Trần Văn Cường - nguyên Giám đốc Bệnh viện.
* Nguyên nhân của những tồn tại, sai sót nêu trên là do: Trưởng Khoa
dược chưa nghiên cứu đầy đủ, sâu kỹ các quy định của pháp luật về công tác
quản lý dược dẫn đến thực hiện tham mưu cho Lãnh đạo Bệnh viện chưa đúng
quy định; công tác tổ chức, quản lý tại Khoa thiếu chặt chẽ, sâu sát nên dẫn
đến các sai sót nêu trên. Phòng Tài chính - kế toán tổ chức lưu trữ chứng từ
17
lỏng lẽo nên không cung cấp được hợp đồng mua thuốc kèm theo chứng từ
chi.
Giám đốc Bệnh viện thiếu kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo chấn chỉnh kịp
thời tồn tại, sai sót của cấp dưới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của cấp
dưới (cả Khoa dược và Phòng Tài chính - kế toán).
Những tồn tại, sai sót nêu trên, có 09 nội dung8 đã được Chủ tịch
UBND tỉnh kết luận tại Kết luận 2633/KL-UBND ngày 28/6/2018 cùng với
những tồn tại, sai sót giai đoạn 2012 - 2017. Theo đó, đã tiến hành kỷ luật với
hình thức “Giáng chức” và thu hồi các danh hiệu thi đua kèm tiền thưởng đối
với ông Trần Văn Cường - nguyên Giám đốc Bệnh viện và hiện nay ông
Cường đã nghỉ hưu theo chế độ; đã tiến hành kỷ luật với hình thức “Cách
chức” và thu hồi các danh hiệu thi đua kèm tiền thưởng đối với ông Thạch
Ngọc Trình - nguyên Trưởng khoa dược. Bà Mai Thị Sơn - nguyên Trưởng
phòng Tài chính - Kế toán cũng đã nghỉ hưu theo chế độ.
Qua thanh tra lần này đã phát hiện thêm những tồn tại, sai sót sau:
- Về chứng từ thanh toán mua thuốc, VTYT tiêu hao: Chưa cung cấp
được hợp đồng các năm 2006, 2007, 2008, 2010 và 2011 và các phiếu báo giá
(đối với mua thuốc, VTYT tiêu hao mua lẻ - ngoài thầu của năm 2007) kèm
theo chứng từ thanh toán. Một số biên bản họp của Hội đồng thuốc và Điều trị
(năm 2008) không thống nhất ngày họp và ngày ký.
81- Chưa tổ chức họp HĐ thuốc và điều trị đủ kỳ theo quy định.
2- Năm 2006, Bệnh viện không lập kế hoạch sử dụng thuốc, hoá chất, vật dụng y tế tiêu hao trong năm để làm cơ
sở thực hiện nhiệm vụ mua sắm sử dụng trong năm.
3- Xây dựng Kế hoạch thuốc, VTYT tiêu hao hàng năm không thông qua và chưa có ý kiến của Hội đồng thuốc và
điều trị (đơn vị không cung cấp được Biên bản họp HĐ thuốc và điều trị).
4- Việc Khoa dược không chứng minh được tài liệu đã triển khai cho các khoa lập dự trù thuốc để tổng hợp nhu cầu
sử dụng thuốc chung trong bệnh viện ngay từ đầu năm để lập kế hoạch thuốc, hoá chất, vật dụng y tế tiêu hao hàng năm
là chưa đúng với yêu cầu “xây dựng danh mục thuốc phù hợp với đặc thù bệnh tật và chi phí về thuốc, vật tư tiêu hao
điều trị của bệnh viện”, “chưa sát với nhu cầu và định mức của bệnh viện”.
5- Khoa dược không cung cấp được Quyết định thành lập Hội đồng kiểm kê tháng, cuối năm và Biên bản kiểm kê
tháng, cuối năm giai đoạn 2006 - 2010; Đến ngày 19/9/2011, Bệnh viện mới thành lập Hội đồng kiểm kê hàng tháng và
cuối năm; Tuy nhiên từ khi thành lập Hội đồng kiểm kê, tại Khoa dược không tiến hành kiểm kê thuốc và VTYT tiêu hao
hàng tháng cũng như kiểm kê thuốc cuối năm theo quy định, chỉ thực hiện việc kiểm kê VTYT tiêu hao cuối năm 2011
nhưng thành phần kiểm kê không đầy đủ theo quyết định thành lập. Từ năm 2006 - 2010, Bệnh viện không thành lập Tổ
kiểm kê thuốc tại các khoa điều trị, khoa cận lâm sàng. Năm 2011 có ban hành quyết định thành lập Tổ kiểm kê các Khoa
Hồi sức cấp cứu, Sản, Liên chuyên khoa, Nhi, Gây mê hồi sức, Nội, Ngoại, Y học cổ truyền, Khám, Xét nghiệm. Tuy
nhiên, việc kiểm kê chưa đảm bảo, chưa được thường xuyên, chưa thể hiện thành phần kèm theo quyết định để thực hiện
kiểm kê; Khoa dược cung cấp sổ sách, biên bản kiểm kê cho Đoàn thanh tra không đầy đủ.
6- Việc thông tin thuốc, tư vấn sử dụng thuốc chưa thực hiện đúng theo quy định.
7- Công tác kiểm nhập thuốc, VTYT tiêu hao: Khoa dược chỉ cung cấp được một số Biên bản kiểm nhập thuốc và
VTYT tiêu hao từ năm 2007 - 2011, qua đó cho thấy: Chưa đầy đủ theo số lượng, giá trị nhập kho trong năm và Hội đồng
kiểm nhập lập biên bản kiểm nhập theo giá trị chưa có thuế VAT là không đúng với giá trị ghi trên hóa đơn, Phiếu nhập
kho và Báo cáo xuất nhập tồn của Khoa dược và chứng từ thanh toán.
8- Thẻ kho không ghi đầy đủ thông tin hạn dùng và nước sản xuất theo Biểu mẫu quy định.
9- Công tác theo dõi hạn sử dụng của thuốc chưa thường xuyên.
18
- Công tác lưu trữ hồ sơ tại Phòng Tài chính - Kế toán và Khoa dược
thiếu chặt chẽ và khoa học dẫn đến thất lạc hồ sơ, gây khó khăn trong việc
truy lục.
- Mua Test thử viêm gan C và thuốc Ampicilline + Sulbubactam
(Grobacta) 1,5g không sát với nhu cầu điều trị thực tế của Bệnh viện cuối
năm còn tồn nhiều, cụ thể: Trong năm 2006, mua Test thử viêm gan C là
1.050 test, sử dụng 400 test, tồn cuối năm là 650 test; qua năm 2007 không
mua và sử dụng trong năm 200 test, tồn cuối năm 2007 là 450 Test với số tiền
8.549.888 đồng (Đến năm 2008 không mua thêm và tiếp tục sử dụng hết trong
năm 2008). Trong năm 2007, mua 740 lọ, sử dụng trong năm 70 lọ, tồn cuối
năm 670 lọ; qua năm 2008, Bệnh viện không nhập và sử dụng trong năm là
162 lọ, tồn cuối năm 2008 là 508 lọ số tiền là 16.256.000 đồng (Đến năm
2009 không mua thêm và tiếp tục sử dụng hết trong năm 2009).
- Năm 2006: Tổ chức Kho tại Khoa dược không đúng quy định tại điểm
b, khoản 3, mục II của Mục 27 Phần V.
- Khoa dược cung cấp không đầy đủ các báo cáo 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng và báo cáo đột xuất khi cần thiết theo quy định tại Tiết 3, Điểm d,
Khoản 2 Mục II Phần V. Báo cáo xuất - nhập - tồn cuối năm 2006 của Kho
thuốc độc và Kho vật tư y tế tiêu hao không có chữ ký của lãnh đạo, trưởng
khoa dược và kế toán trưởng.
II. KIẾN NGHỊ:
Từ những tồn tại, sai sót nêu trên, giao Giám đốc Sở Y tế chỉ đạo Giám
đốc Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình Thuận:
- Tổ chức kiểm điểm trách nhiệm theo quy định của pháp luật đối với
ông Thạch Ngọc Trình - nguyên Trưởng Khoa dược về những tồn tại, sai sót
đã phát hiện thêm nêu trên (Riêng ông Trần Văn Cường và bà Mai Thị Sơn đã
nghỉ hưu theo chế độ, tại thời điểm hiện nay Luật liên quan việc xử lý sai
phạm đối với người đã nghỉ hưu chưa có hiệu lực pháp luật và chưa được
Chính phủ hướng dẫn cụ thể).
- Chỉ đạo Khoa dược rà soát các quy định về công tác quản lý dược để
triển khai thực hiện và tham mưu Lãnh đạo Bệnh viện đầy đủ và đúng quy
định hiện hành.
- Chỉ đạo Khoa dược và Phòng Tài chính - Kế toán chấn chỉnh công tác
quản lý, lưu trữ hồ sơ, chứng từ theo đúng quy định.
- Tăng cường hơn nữa công tác quản lý, chỉ đạo, thường xuyên kiểm
tra, đôn đốc cấp dưới để kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, thiếu sót nhằm
tránh lặp lại sau này.
19
D. VIỆC CÔNG KHAI VÀ THỰC HIỆN KẾT LUẬN THANH
TRA
- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ban hành Kết luận thanh tra, giao
Trưởng Đoàn thanh tra thực hiện việc công khai kết luận thanh tra theo quy
định của Luật Thanh tra và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thanh tra.
- Giao Văn phòng UBND tỉnh chỉ đạo Trung tâm Thông tin tỉnh công
khai Kết luận thanh tra trên Cổng thông tin điện tử của UBND tỉnh theo quy
định.
- Giao Thanh tra tỉnh theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Kết
luận này theo quy định của pháp luật./.
Nơi nhận: KT. CHỦ TỊCH
- Thanh tra Chính phủ; PHÓ CHỦ TỊCH
- TT. Tỉnh ủy;
- TT. HĐND tỉnh;
- Thanh tra tỉnh;
- Sở Y tế;
- Sở Tài chính;
- Bệnh viện ĐKKV Bắc Bình Thuận;
- Trung tâm Thông tin tỉnh; Nguyễn Đức Hòa - Lưu: VT, NCKSTTHC(H b).