TP.HCM MINH
1
Chuyên đề 1
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ NỀN
TẢNG TƢ TƢỞNG, CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
I. CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN LÀ HỌC THUYẾT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG
NHẤT TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin là thành tựu trí tuệ vĩ đại của loài ngƣời
a) Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là quy luật phát triển khách quan của xã hội
- Trong quá trình phát triển của xã hội loài ngƣời, nhất là từ khi xuất hiện các giai cấp
và đấu tranh giai cấp, quần chúng lao động luôn luôn mơ ƣớc đƣợc sống trong một xã
hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Những tƣ tƣởng
tiến bộ, nhân đạo đã hình thành và phát triển trong lịch sử nhân loại đều mong muốn
giải phóng các giai cấp cần lao khỏi ách áp bức, bất công.
- Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nhiều nƣớc Tây
Âu, nhất là ở nƣớc Anh, đã phát triển mạnh mẽ. Bƣớc lên vũ đài chính trị, giai cấp vô
sản cần có lý luận khoa học để hƣớng dẫn cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình
khỏi áp bức, bất công xã hội. Trên thế giới lúc đó cũng đã xuất hiện những tiền đề về
kinh tế - xã hội, khoa học và lý luận, v.v. dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
Về điều kiện kinh tế - xã hội: Với sự ra đời của nền sản xuất đại công nghiệp dựa trên
kĩ thuật cơ khí, trƣớc hết là ở nƣớc Anh, lực lƣợng sản xuất xã hội đạt tới trình độ xã
hội hóa ngày càng cao. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lƣợng sản xuất
với quan hệ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất trong xã hội tƣ bản ngày càng phát
triển, trở thành mâu thuẫn cơ bản của xã hội tƣ bản.
Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã sản sinh ra một giai cấp mới, đó là giai cấp
công nhân. Trong xã hội tƣ bản chủ nghĩa, đã xuất hiện hai giai cấp cơ bản, đối lập
nhau về lợi ích là giai cấp tƣ sản và giai cấp vô sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển từ tự phát
tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị, cần có lý luận khoa học và cách
mạng dẫn dắt, soi đƣờng. Chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng
lập đã đáp ứng những yêu cầu cấp thiết đó.
TP.HCM MINH
2
Về tiên đề khoa họ và lý luận: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã đạt đƣợc
nhiều thành tựu to lớn, trong đó có ba phát minh quan trọng: thuyết tiến hóa của
Đácuyn; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lƣợng của Lômônôxốp; Thuyết tế
bào. Các phƣơng pháp nhận thức khoa học nhƣ: quy nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng
hợp… đã thúc đẩy năng lực tƣ duy khoa học không ngừng phát triển.
Về lý luận, có những thành tựu của triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Cantơ, Hêghen
Phoiơbắc), kinh tế chính trị cổ điển Anh (tiêu biểu là Ađam Xmít và Đavít Ricácđô),
chủ nghĩa xã hội không tƣởng Pháp thế kỷ XIX (tiêu biểu là Xanh – Ximông, Rôbớc
Ôoen, Sáclơ Phuriê)…
- Dựa trên những tiền đề khoa học và lý luận, nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết
trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, C. Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen
(1820 – 1895) đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, phát triển, sáng tạo ra học thuyết khoa
học và cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa xã hội khoa học. C. Mác và Ph.
Ăngghen đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dƣ và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch
sử, chỉ rõ sự hình thành, phát triển diệt vong của chủ nghĩa tƣ bản và vai trò lịch sử
toàn thế giới của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ tƣ bản chủ nghĩa, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Chủ nghĩa Mác ra đời là thành tựu trí tuệ của loài ngƣời, phản ánh thực tiễn xã hội,
nhất là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách
mạng thế giới, là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển lịch sử của tƣ
tƣởng nhân loại.
b) Sự vận dụng và phát triển không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin trong các giai
đoạn lịch sử
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tƣ bản trên thế giới đã chuyển sang giai đoạn phát triển
mới, giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tƣ bản làm
cho mâu thuẫn giữa các nƣớc đế quốc không thể điều hòa đƣợc, dẫn tới chiến tranh đế
quốc. Đồng thời, với sự xâm chiếm và bóc lột thuộc địa tàn khốc của các nƣớc đế
quốc, trên thế giới đã xuất hiện phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
các nƣớc thuộc địa và phụ thuộc chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Yêu cầu của thực
tiễn cách mạng lúc đó là phải vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện
mới.
TP.HCM MINH
3
V.I. Lênin (1870 – 1924) đã vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện học thuyết Mác
để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong điều kiện đó. Ngƣời đã phân
tích sâu sắc chủ nghĩa tƣ bản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra những mâu
thuẩn nội tại không thể khắc phục đƣợc để khẳng định khả năng thắng lợi của cách
mạng vô sản và mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.
Sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mƣời Nga vĩ đại năm 1917, V.I.
Lênin đã phát triển một loạt vấn đề lý luận về xây dựng Chính quyền xôviết; phát triển
kinh tế, khoa học - kỹ thuật; tiến hành công nghiệp hóa, điện khí hóa toàn quốc; thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa…
Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin đấu tranh không ngoan nhƣợng với các quan
điểm tƣ sản, kịch liệt phê phán chủ nghĩa xét lại, cơ hội, “tả” khuynh, “hữu” khuynh,
giáo điều, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác.
Sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác của V.I. Lênin đã làm cho chủ nghĩa cộng sản
khoa học trở thành hệ thống lý luận thống nhất của giai cấp công nhân và các dân tộc
bị áp bức trên toàn thế giới. Giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác đã gắn liền
với tên tuổi của V.I. Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, hệ tƣ tƣởng của giai cấp
công nhân đƣợc gọi là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Với bản chất khoa học và cách mạng, ngày nay chủ nghĩa Mác – Lênin đã, đang tiếp
tục đƣợc vận dụng, bổ sung và phát triển trong thực tiễn đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội.
2. Chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất gồm ba bộ phận:
triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa
học
- Triết học Mác –Lênin (bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử), là khoa học về những quy luật chung của tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Triết học
Mác – Lênin đem lại cho con ngƣời thế giới qua khoa học và phƣơng pháp luận đúng
đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị Mác – Lênin nghiên cứu quan hệ giữa ngƣời với con ngƣời trong
quá trình sản xuất, tức quan hệ sản xuất. Với phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa,
TP.HCM MINH
4
kinh tế chính trị Mác-Lênin chỉ rõ bản chất, những quy luật chủ yếu hình thành, phát
triển và đƣa chủ nghĩa tƣ bản tới chỗ diệt vong.Với phƣơng thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa, kinh tế chính trị Mác-Lê nin nghiên cứu những quy luật phát triển của quan
hệ sản xuất mới, con đƣờng một xã hội không áp bức,bất công, vì tự do, ấm no, hạnh
phúc của mọi ngƣời.Giai đoạn đầu của phƣơng thức cộng sản chủ nghĩa là chủ nghĩa
xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tƣ
bản lên chủ nghĩa xã hội và phƣơng hƣớng xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội
khoa học đã chứng ming rằng, việc xã hội hóa lao động trong chủ nghĩa tƣ bản đã tạo
ra cơ sở vật chất cho sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.Cở sở lý luận của sự
chuyển biến đó là chủ nghĩa Mác-Lê nin và lực lƣợng xã hội thực hiện sự chuyển biến
đó là giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
3. Những nội dung chủ yếu thể hiện bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác – Lênin
a) Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu của trí tuệ nhân loại
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trên cơ sở những tri thức tiên tiến nhất về thời đại khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và những thành tựu về lý luận trong triết học, kinh tế
chính trị và tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa, tiếp thu và phát triển những thành tựu
trí tuệ của nhân loại, C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.ênin đã sáng tạo ra học thuyết khoa học
và cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, chủ nghĩa
Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ chung của nhân loại.
b) Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu chung là giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ ra lực lượng, con đường,
phương thức đạt mục tiêu đó
- Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ: quần chúng nhân dân là ngƣời sáng tạo ra lịch sử;
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Điều đó đã chỉ rõ ra cho xã hội, đặc biệt là
giai cấp công nhân , nhân dân lao động, phƣng pháp luận đúng đắn để nhận thức và
cải tạo thế giới.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin đã phân tích điều kiện kinh tế - xã hội và khẳng định giai
cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh xóa bỏ ách áp
bức, bất công và tình trạng ngƣời bóc lột ngƣời. Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tƣ
TP.HCM MINH
5
tƣởng của giai cấp công nhân, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, qua đó giải phóng xã hội và giải phóng con
ngƣời.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đƣờng, những
phƣơng tiện cải tạo thế giới. Đó là mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách
mạng và thực tiễn cách mạng. C. Mác viết: “… lý luận cũng sẽ trở thành lực lƣợng vật
chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
c) Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống lý luận toàn diện, học thuyết khoa học, cách
mạng hoàn chỉnh
- Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và pháp biện chứng trong triết học mácxít làm
cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội khác nhƣ một
quá trình lịch sử tự nhiên.
- Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng sản
xuất thể hiện sự vận động, thay thế các phƣơng thức sản xuất trong xã hội. Đó là cơ sở
để khẳng định sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tƣ bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ
nghĩa xã hội.
- Học thuyết giá trị thặng dƣ đã chỉ rõ mục đích và quy luật vận động của phƣơng thức
sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, từ đó vạch ra bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tƣ bản
chủ nghĩa.
- Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã chỉ rõ giai cấp công nhân là
ngƣời lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tƣ bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình, đồng thời giải phóng xã hội.
d) Chủ nghĩa Mác – Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan khoa học và
phương pháp luận mácxít
- Thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin giúp con ngƣời hiểu rõ
bản chất. Thế giới (tự nhiên, xã hội) và tƣ duy của con ngƣời vận động, biến đổi theo
những quy luật khách quan. Con ngƣời thông qua hoạt động thực tiễn có thể nhận
thức, giải thích và cải tạo thế giới.
- Phƣơng pháp luận mácxít giúp xem xét sự vật, hiện tƣợng một cách khách quan,
toàn diện, phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng.
TP.HCM MINH
6
Sự thống nhất giữa thế giới quan và phƣơng pháp luận đã đƣa chủ nghĩa Mác – Lênin
trở thành một hệ thống lý luận mang tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc.
đ) Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết mở, không ngừng đổi mới, phát triển cùng với
sự phát triển của trin thức nhân loại
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lê nin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông
không phải là cái đã xong xuôi hẳn, còn nhiều điều các ông chƣa có điều kiện, thời
gian, cơ hội nghiên cứu. Theo các ông, phát triển lý luận Mác – Lênin là trách nhiệm
của các thế hệ kế tiếp sau, của những ngƣời mácxít chân chính, nếu họ không muốn
trở nên lạc hậu với thời đại của họ. Trên thực tế, ngay trong quá trình hình thành và
phát triển hệ thống quan điểm lý luận của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
– Lênin cũng đã điều chỉnh một số luận điểm đã trở nên lạc hậu, phát triển, bổ sung
những quan điểm lý luận mới.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mở, không cứng nhắc và giáo điều; đồng
thời, có giá trị bền vững, xét trong tinh thần biện chứng, nhân đạo và hệ thống tƣ
tƣởng cốt lõi của nó. Kiên định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
ngày càng hoàn thiện và gắn liền với thực tiễn.
II- TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG
TẠO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM
1. Khái niệm “tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”
- Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc hình thành và phát triển trong quá trình lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam, lãnh
đạo Đảng và nhân dân ta đấu tranh giành và bảo vệ nên độc lập dân tộc, xây dựng xã
hội mới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt nam đã
vận dụng những nội dung của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nƣớc ta.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), trên cơ sở nghiên cứu lý
luận và tổng kết thực tiễn, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã đƣa ra khái niệm
về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và khẳng định: “cũng với chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng nêu
cao tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đến Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), khái
niệm và nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đã đƣợc xác định rõ hơn.
- Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của
TP.HCM MINH
7
chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nƣớc ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam và dân tộc
Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ ƣởng Hồ Chí Minh là nền tảng tƣ
tƣởng của Đảng ta. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh soi đƣờng cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
2. Nguồn gốc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Tƣ tƣởng chủ nghĩa yêu nƣớc, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu
bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Ngƣời đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lọi khác. Kết quả vận dụng sáng tạo và
phát triển đó là tƣ tƣởng Hồ Chi Minh, sự bổ sung vào kho tàng lý luận của nghĩa Mác
– Lênin.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nƣớc truyền thống, ý chí độc lập, tự cƣờng; đoàn kết, nhân ái, khoan
dung, tinh thần cộng đồng; lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo... của dân
tộc Việt Nam đƣợc Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển. Tƣ tƣởng của Ngƣời
là sự kết tinh những tinh hoa văn hóa, tinh thần, trí tuệ, đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, Đẳng ta đã khẳng định: Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nƣớc ta đã sinh
ra Hồ Chủ tịch, ngƣời anh hùng dân tộc vĩ đại. Và chính Ngƣời đã làm rạng rỡ dân tộc
ta, nhân dân ta, non sông đất nƣớc ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình tìm đƣờng cứu nƣớc, Hồ Chí Minh luôn
tìm tòi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán các quan điểm của các trƣờng
phái triết học, các trào lƣu tƣ tƣởng trên thế giới, cả phƣơng Đông và phƣơng Tây, vận
dụng thực tiễn Việt Nam, phát triển lên, trở thành tƣ tƣởng của mình.
TP.HCM MINH
8
Trong ba nguồn gốc trên, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt chủ nghĩa yêu
nƣớc là cơ sở ban đầu, là động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, làm cho chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam, có nội dung mới, có tầm cao mới, “độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc chủ
yếu của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hƣớng khoa học và
cách mạng đúng đắn. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm phong phú và sâu sắc thêm chủ
nghĩa yêu nƣớc và tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa ở Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của các nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất
cá nhân của Người.
Những điều kiện trên cũng đã đến với nhiều ngƣời cùng thời với Hồ Chí Minh, nhƣng
chỉ với Hồ Chí Minh những điều kiện đó mới đƣợc kết hợp lại, phát triển lên, trở
thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh bởi có sự tham gia của các phẩm chất cá nhân của
Ngƣời.
Thứ nhất, đó là khả năng tƣ duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với sự nhận xét, phê
phán tinh tƣờng, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu.
Thứ hai, là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân
loại, kinh nghiệm đấu tranh của nhân loại, kinh nghiệm đấu tranh của nhân loại, kinh
nghiệm đấu tranh của nhân dân thế giới trong phong trào công nhân quốc tế.
Thứ ba, trong quá trình đi đến chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã trải qua cuộc
sống của ngƣời công nhân lao động thực sự, luôn hòa mình với đời sống của giai cấp
cần lao. Chính đó là yếu tố chủ quan then chốt, quyết định bƣớc chuyển từ chủ nghĩa
yêu nƣớc đến chủ nghĩa Mác – Lênin, để ngƣời trở thành một chiến sĩ cách mạng
nhiệt thành; thƣơng yêu những ngƣời cùng khổ; sẵn sàng hy sinh vì độc lập Tổ quốc,
vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Cùng với những năng lực bẩm sinh, những phẩm chất cá nhân cao quyết trên đã giúp
Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc
và thời đại thành tƣ tƣởng đặc sắc của mình – tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
3. Những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu những nội dung cơ bản của tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh là:
TP.HCM MINH
9
- Tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời.
- Tƣ tƣởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
- Tƣ tƣởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Tƣ tƣởng về quyền và nghĩa vụ của nhân dân, xây dựng nhà nƣớc thật sự của dân, do
dân, vì dân.
- Tƣ tƣởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân.
- Tƣ tƣởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
- Tƣ tƣởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ.
- Tƣ tƣởng về chăm lo bồi dƣỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
- Tƣ tƣởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là ngƣời
lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ trung thành của nhân dân...
III- ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – SỰ LỰA CHỌN LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC
TA
1. Tính tất yếu khách quan của con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta
a) Sự lựa chọn khách quan của lịch sử dân tộc (điều kiện lịch sử của Việt Nam)
- Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lƣợc Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh
chống lại kẻ thù xâm lƣợc. Từ năm 1858 đến trƣớc năm 1930, đã có hàng trăm phong
trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dƣới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân sĩ, trí thức,
ngƣời yêu nƣớc,… theo nhiều khuynh hƣớng khác nhau, nhƣng đều bị thực dân Pháp
đàn áp táo bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do chƣa có đƣờng lối cứu nƣớc đúng
đắn theo một hệ tƣ tƣởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng
đƣờng lối cứu nƣớc. Đầu thế kỉ XX, toàn bộ trí lực của dân tộc hƣớng vào tìm kiếm
con đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc.
- Tháng 6-1911, ngƣời thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh) ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc. Bôn ba qua nhiều nƣớc trên thế giới, vừa lao động,
vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tƣ sản điển hình,
nhƣ Cách mạng tƣ sản Pháp, chiến tranh giành độc lập ở Mỹ; tham gia hoạt động
trong Đảng Xã Hội Pháp, sau đó trở thành một trong những ngƣời sáng lập Đảng
TP.HCM MINH
10
Cộng Sản Pháp, Ngƣời đã rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho lựa
chọn con đƣờng cách mạng của mình.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đƣợc đọc Sơ thảo lần thứ nhất hững luận cƣơng về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin. Ngƣời đã tìm thấy con đƣờng duy nhât
đúng đắn để cứu nƣớc, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đƣờng cách mạng vô sản; độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; gắn cách mạng giải phóng dân tộc trong nƣớc với
phong trào cách mạng thế giới.Ngƣời khẳng định:” Muốn cứu nƣớc và giải phóng dân
tộc không có con đƣờng nào khác con đƣờng cách mạng vô sản”. Từ đó, Ngƣời truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nƣớc ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và
nhân dân ta giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Đó là sự lựa chọn lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc
Việt Nam.
b) Sự lựa chọn khách quan của thời đại (điều kiện lịch sử thế giới)
- Cách mạng xã hội Chủ Nghĩa tháng 10 Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại
mới – Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc
đang còn lạc hậu giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và từng bƣớc
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới
mẻ và triệt để trong quan niệm, cũng nhƣ giải pháp giải quyết vấn đề về độc lập dân
tộc.
- Về lý luận và thực tiễn, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp công
nhân và nhân dân lao động thoát khỏi ách áp bức bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đƣa nhân dân lao động trở thành những
ngƣời làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững
chắc. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc
- Trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền tự quyết
dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đƣờng và mô hình phát triển;
xóa bỏ tình trạng dân tộc này áp bức, bóc lột, nô dịch dân tộc khác trên thế giới
TP.HCM MINH
11
- Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nƣớc dựa trên
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới
hòa bình, không có chiến tranh, bạo lực, bất công; bảo đảm cho con ngƣời sống trong
an ninh và hạnh phúc.
2. Thực tiễn cách mạng nƣớc ta từ khi thành lập Đảng
Trong hơn 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, cách mạng nƣớc ta đã giành
đƣợc những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại:
- Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, thành lập Nhà Nƣớc Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Đây là kết quả tổng hợp
của các cao trào cách mạng diễn ra liên tục từ ngày thành lập Đảng, từ Cao trào Xô
Viết Nghệ - Tĩnh 1930-1931, Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến cao trào vận
động giải phóng dân tộc 1939-1945. Thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám đã xóa bỏ
chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nƣớc ta, giành lại nền độc lập cho dân tộc, mở ra
một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của các cuộc cách mạng kháng chiến oanh liệt đánh thắng chủ nghĩa thực
thực dân cũ và mới để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc. thắng lợi đó tạo điều kiện đƣa cả
nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội và góp phần quan trọng vào cuộc dấu tranh của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội.
- Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “ dân giàu,
nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc,
từng bƣớc đƣa nƣớc ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Bài học lớn luôn luôn đƣợc đặt ở vị trí hàng đầu của cách mạng Việt Nam dƣới sự
lãnh đạo của Đảng, đặc biệt qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, là phải
“kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-
Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”.
3. Những nội dung cơ bản của con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta
Con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thƣợng tầng tƣ
bản chủ nghĩa.
TP.HCM MINH
12
Với điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế - xã hội rất thấp, quá trình đó tất yếu
đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đƣờng. Tổng kết một
số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã cụ thể hóa những phƣơng hƣớng trong Cƣơng
lĩnh 1991, chỉ ra 8 quá trình sau:
Một là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bƣớc phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh
tế thị trƣờng thể hiện qua bốn đặc trƣng cơ bản là:
- Mục tiêu phát triển kinh tế là “dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi ngƣời vƣơn lên làm giàu chính
đáng...
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sỡ hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nƣớc cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bƣớc và từng chính sách phát
triển; tăng trƣởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con ngƣời. Thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dƣới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải
tiến hành công nghiệp hóa. Trong thời đại bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ,
công nghiệp hóa phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế
tri thức.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần
của xã hội.
TP.HCM MINH
13
Văn hóa hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải lấy văn hóa làm nền tảng tinh thần. Đại hội
X khẳng định: “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lƣợng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển
kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là bản chất
của chế độ xã hội ở nƣớc ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển. Phát huy dân chủ gắn liền với phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Thực hiện đồng
bộ, có hiệu quả các hình thức thực hành dân chủ: dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở
cơ sở và tự quản trong các cộng đồng dân cƣ. Đại đoàn kết toàn dân tộc vừa làm
nguồn lực chủ yếu để xây dựng xã hội mới, vừa là nhân tố quyết định bảo đảm thắng
lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.
Năm là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Nhà nƣớc pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là bảo
đảm quyền tối cao của pháp luật. Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta là Nhà nƣớc của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ
yếu bằng Nhà nƣớc, thông qua Nhà nƣớc đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nƣớc là
công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hiện nay là xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nƣớc; xây dựng, hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền; tiếp tục đổi mới hoạt động lập
pháp, hành pháp và tƣ pháp; tích cực phòng ngừa kiên quyết chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí.
Sáu là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nƣớc ta. Trong điều
kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là “nhiệm vụ
then chốt” , có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Thƣờng xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Bảy là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.
TP.HCM MINH
14
Dựng nƣớc gắn liền với giữ nƣớc là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn: Các vua Hùng đã có công dựng nƣớc, bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nƣớc. Trong thời kỳ phát triển mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lƣợc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo
đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tƣ
tƣởng văn hóa, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là bảo vệ lãnh thổ,
biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ Đảng, Nhà nƣớc, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới...
Tám là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nƣớc tham gia.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phải chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế. Chủ động về đƣờng lối, chính sách, bƣớc đi trong hội nhập. Tích cực
chuẩn bị vƣơn lên tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn vào quá trình toàn cầu hóa kinh
tế vì lợi ích quốc gia.
Chuyên đề 2
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – NGƢỜI TỔ CHỨC , LÃNH ĐẠO VÀ
LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT
NAM
Đảng cộng sản Việt Nam là do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, xóa bỏ chế độ phong kiến, lập nên nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa (nay
là nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm
lƣợc. Hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nƣớc; tiến hành cuộc
đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nến độc lập dân tộc. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã khẳng định thắng lợi của cách Việt
Nam.
I - SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp của chủa nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân và yêu nƣớc.
TP.HCM MINH
15
- Phong trào yêu nƣớc của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân
tộc bắt đầu từ ngày thực dân Pháp nổ sung xâm lƣợc nƣớc ta. Từ năm 1858 đến trƣớc
năm 1930 đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào mục tiêu đấu tranh giành
độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân ta dƣới sự chỉ huy
của Trƣơng Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực… Đó là các cuộc khởi nghĩa
theo tiếng gọi “Cần Vƣơng” của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám…; các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân… Là cuộc khởi
nghĩa của tiểu tƣ sản, trí thức Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh
đạo… Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt của nhân dân ta chống thực dân Pháp
đầu bị đàn áp và thất bại. Nguyên nhân cơ bản là do đƣờng lối cứu nƣớc chƣa đúng.
Chƣa phản ánh đúng nhu cầu phát triển cùa xã hội Việt Nam đã dặt ra yêu cầu tìm con
đƣờng cứu nƣớc mới.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cùng với chính sách khai thác thuộc địa triệt để
của thực dân Pháp dầu thê kỷ XX, Xã hội Việt Nam đã có nhiều biến đổi lớn, hai giai
câp mới ra đời là gia cấp công nhân và giai cấp tƣ sản. Nƣớc ta từ chế độ phong kiến
chuyển sang chế độ nửa thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu
thuẫn cơ bản, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với thực dân Pháp xâm lƣợc và mâu
thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân , với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai.
Vì vậy nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lƣợc và chống địa chủ phong kiến tay sai
gắn bó vơi nhau không thể tách rời nhau.
- Sự ra đời ngày càng trƣởng thành của gia cấp công nhân Việt Nam mang trong mình
chủ nghĩa yêu nƣớc truyền thống cùng với ý thức gia cấp là cơ sở để tiếp thu chủ
nghỉa Mác – Lênin vào Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin
vào Việt Nam là sự kết hợp giữa dân tộc và thời đại. Ra nƣớc ngoài, tìm con đƣờng
cứu nƣớc mới, Nguyển Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yếu nƣớc đến với chủ nghĩa cộng
sản, trở thành chiến sĩ giải phóng dân tộc và chiến sĩ cộng sản quốc tế. Ngƣời đã hoạt
động tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản, phong trào
công nhân quốc tế, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin qua các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc đƣợc giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam trong nƣớc đón nhận. Nó lôi cuốn những ngƣời
TP.HCM MINH
16
yêu nƣớc đi theo con đƣờng cách mạng vô sản, làm dấy lên phong trào đấu tranh sôi
nổi khắp cả nƣớc, trong đó có giai cấp công nhân. Sự phát triển của phong trào công
nhân và phong trào yêu nƣớc của các tầng lớp nhân dân đòi hỏi phải có đảng chính trị
lãnh đạo. Vì vậy, đến cuối năm 20 của thế ky XX, các tổ chức cộng sản lần lƣợt đƣợc
thành lập.
Ngày 17-6-1929, Đông Dƣơng Cộng sản Đảng đƣợc thành lập ở Bắc Kỳ.
Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng đƣợc thành lập đƣợc thành lập ở Nam
kỳ.
Ngày 1-1-1930, Đông dƣơng cộng sản liên đoàn đƣợc thành lập ở trung kỳ.
Việc lãnh thụ Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa mác – Lê nin, truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin vào trong nƣớc và sự ra đời của ba tổ chức cộng sản Việt Nam phản ánh
xu thế tất yếu và bƣớc phát triển nhảy vọt của phong trào đấu tranh cách mạng Việt
Nam.
2. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ
dẫn đến chia rẽ trong phong trào công nhân, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản
duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt
Nam. Thay mặt cho quốc tế cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tâp hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ 6-1 đến ngày 7-2-1930, hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản tại bán đảo Cửu
Long (Hƣơng Cảng, Trung Quốc) dƣới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội
nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam;
thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, sách luợc vắn tắt của Đảng, chương trình
tóm tắt của Đảng, điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, điều lệ tóm tắt của
các hội quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc ở nƣớc ta trong những năm đầu thế kỷ XX. Đó là một mốc lớn, bƣớc
ngoặt trọng đại trong lịch sữ cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hỏang về
đƣờng lối cứu nƣớc. Sự thành lập đảng cộng sản Việt Nam với cƣơng lĩnh, đƣờng lối
TP.HCM MINH
17
cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trƣởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
– Hồ Chí Minh, ngƣời sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
II SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁC GIAI
ĐOẠN CÁCH MẠNG
1. Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập dân tộc
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền và bảo vệ quyền độc lập dân tộc
ta.
- Ngay khi vừa mới ra đời, với đuờng lối cứu nƣớc đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đòan
kết chung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp nhân dân yêu nƣớc, xây dựng
nên lực lƣợng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân pháp và bọn
phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, trải qua cuộc đấu tranh gian khổ, hy sinh, với ba cao
trào cách mạng lớn (1930–1931, 1936–1939, 1939–1945); khi thời cơ đến, Đảng ta đã
phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công đã giành lại nên độc lập của dân tộc ta hơn 80 năm bị đô hộ. Ngày 2-9-
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập,
khai sinh ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nƣớc dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông Nam châu Á. Dân tộc ta bƣớc sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập tự do,
dân chủ nhân dân,tiến lên chủ nghĩa xã hội.
b) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã phải đối mặt với ba
thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vận mệnh của đất nƣớc ta “trƣớc tình
thế ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề
ra những chủ trƣơng và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị,
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Đối với các thế lực thù địch, Đảng đã
thực hiện sách lƣợc mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, giành thời gian để
củng cố lực lƣợng. Với đƣờng lối chính trị sáng suốt, Đảng ta đã động viên đƣợc sức
mạnh đoàn kết dân tộc, củng cố, giữ vững chính quyền, đƣa cách mạng vƣợt qua tình
thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
TP.HCM MINH
18
c) Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược(1946-1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hòa bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc dù
chúng ta nhân nhƣợng, thực dân Pháp vẫn ngày càng lấn tới vì chúng có dã tâm cƣớp
nƣớc ta một lần một nữa. Dân tộc ta buộc phải chiến đấu để bảo vệ nền độc lập của
dân tộc ta cƣớp nƣớc ta một lần nữa. Dân tộc ta buộc phải chiên đấu để bảo vệ nền
độc lập của dân tộc.
Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến. Hƣởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nƣớc
đồng loạt đứng lên với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nƣớc, không chịu làm nô lệ”. Với đƣờng lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trƣờng
kỳ, vừa kiến quốc, đảng ta lãnh đạo nhân dân vƣợt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lƣợc bằng chiến thắng tiêu diệt toàn
bộ cứ điểm Điện Biên Phủ (7-5-1954).
Chiến thắng Điện Biên Phủ đƣợc ghi vào lịch sử dân tộc ta nhƣ một Bạch Đằng, một
Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX; góp phần phá vỡ hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân cũ, dẫn tới sụp đổ hoàn toàn chủ nghĩa thực dân.
d) Đảng lãnh đạo nhân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954-1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc đƣợc giải phóng,
thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã
xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ, hòng chia cắt lâu dài đất nƣớc ta. Đất nƣớc ta tạm thời bị
chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng xác định con
đƣờng phát triển tất yếu cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lƣợc:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành
căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nƣớc.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất nƣớc nhà.
Mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lƣợc khác nhau có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối
với toàn bộ sự nghiệp phát triển cách mạng Việt Nam, cách mạng dân tộc dân chủ
TP.HCM MINH
19
nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả nƣớc ta
tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc. Với tinh thần “Không có gí quý hơn
độc lập, tự do!”, “hễ còn một tên xâm lƣợc trên đất nƣớc ta thì ta còn phải chiến đấu
quét sạch nó đi”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, dƣới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta đã vƣợt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, lần lựơt đánh thắng các
chiến lƣợc chiến đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh về phá hoại bằng không
quân, hải quân miền Bắc. Bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
và thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc giải phóng miền Nam, mở ra kỷ nguyên mới – thời
kỳ độc lập thống nhất, cả nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc dƣới sự lãnh đạo
của Đảng đã làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc
dù nhỏ bé, dƣới sự lãnh đạo của chính đảng Mác – Lênin, đoàn kết đứng lên, kiên
quyết đấu tranh để giành độc lập và dân chủ, có thể chiến thắng mọi kẻ thù xâm luợc.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã hội mới ( từ năm 1975 đến nay ).
- Bƣớc vào thời kỳ cả nƣớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có
những thuận lợi cơ bản, nhƣng cũng gặp không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền
kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại.
Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài bao vây, cấm
vận.. luôn tìm cách phá hoại cách mạng nƣớc ta. Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ
XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp, đặc
biệt là sau sự sụp đổ của chế độ xã hôi chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình hình đó
đã tác động, ảnh huởng đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.
- Trong 10 năm đầu (1975-1985), cách mạng Việt Nam đã vƣợt qua những khó khăn,
trở ngại, thu đƣợc những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành
công việc thống nhất đất nƣớc về mọi mặt đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới
TP.HCM MINH
20
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã
hội, nhân dân ta đã cố gắng to lớn để khôi phục kinh tế, văn hóa – xã hội, nhân dân ta
đã có những cố gắng to lớn để khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thuơng chiến tranh, bƣớc
đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt đƣợc còn
thấp so với yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có mặt mất cân đối
nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nƣớc lâm vào khủng hỏang kinh tế - xã
hội.
- Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm,
khẳng định những mặt làm đƣợc, phân tích rõ ràng những sai lầm, khuyết điểm. Đặc
biệt là khuyêt điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đƣờng
lối đổi mới toàn diện, mở ra bƣớc ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nƣớc ta.
- Trong các nhiệm kỳ Đại hội VII (1991-1996), Đại hội VIII ( 1996-2001), Đại hội IX
(2001-2006), Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn thiện đƣờng
lối mới và lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần sáng tạo, thực hiện đổi mới toàn
diện đất nƣớc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng
định sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng, toàn dân, toàn quân, công
cuộc đổi mới ở nƣớc ta đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn và có ý chí lịch sử. Điều
đó thể hiện trên cả hai mặt: những thành tựu trong thực tiễn và trong nhận thức.
- Về mặt thực tiễn, đất nƣớc đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ
bản và toàn diện. Kinh tế tăng trƣởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc đẩy mạnh. Đời
sống nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc đƣợc củng cố và tăng cƣờng; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh
đƣợc giữ vững; vị thế nƣớc ta trên trừơng quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực cho đất nƣớc tiếp tục đi
lên với triển vọng tốt đẹp.
TP.HCM MINH
21
- Về mặt lý luận, Đảng đã nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên
chủ nghĩa xã hội. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
- Những thành tựu đó chứng tỏ đƣờng lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nƣớc ta, Đảng cũng có mặt, lĩnh vực còn yếu
kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa
đúng đắn, kịp thời. Đảng công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trƣớc nhân dân,
quyết tâm sửa chữa và sữa chữa kết quả. Vì vậy, Đảng ta đƣợc nhân dân tin cậy, thừa
nhận là ngƣời lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
III- SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân,
giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền nhân dân. Trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa, khi giai cấp tƣ sản vừa bóc lột giai cấp công nhân ở chính quốc và vừa bóc lột
nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi theo
con đƣờng cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Đảng của giai cấp vô sản ở các nƣớc thuộc địa nắm lấy và giƣơng cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, gắn phong trào giải phóng dân tộc với phong trào cách mạng thế giới.
Đảng cộng sản Việt Nam là ngƣời duy nhất có thể thực hiện đƣợc nhiệm vụ đó là vì
Đảng tập hợp đƣợc đông đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “cách mệnh trƣớc hết phải có cái gì? Trƣớc hết là phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng
nhƣ ngƣời cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Vì vậy, có thể cách mạng giải phóng dân tộc dặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Sự lãnh
TP.HCM MINH
22
đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 trƣớc hết là thắng lợi của đƣờng lối cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu bào vệ nền độc lập và phát triển đất
nƣớc
- V.I. Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn.
Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lƣợng duy nhất
có thể tập hợp đƣợc đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng.
có khả năng đó là do Đảng gồm những tiên tiến nhất của giai cấp và dân tộc, trung
thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập
dân tộc nên đƣợc nhân dân tin và đi theo.
- Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc, Đảng Cộng sản Việt Nam có khả
năng to lớn để lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đƣờng cách mạng do
Đảng lãnh đạo phù hợp với thời đại, quy luật phát triển của xã hội. Đảng không có
mục đích tự thân. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích
của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.
- Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính
trị nào có thể thay thế đƣơc vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế
trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, có những lực lƣợng chính trị tham
gia cùng với Đảng, nhƣng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bƣớc. Chỉ có
Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản của dân tộc,sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao Đảng viên và quần chúng của Đảng suốt
đời phấn đấu, hy sinh vì lý tƣởng cao cả, vì độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
IV- NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH
LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 9-1991) đã
tổng kết thực tiễn 60 năm cách mạng nƣớc ta, trong đó có 5 năm thực hiện đƣờng lối
đổi mới do đại hội VI đế ra, thông qua cƣơng lĩnh xây dựng dất nƣớc trong thời kỳ
TP.HCM MINH
23
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Cƣơng lĩnh đã nêu ra năm bài học lớn của Cách mạng
Việt Nam.
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nƣớc ta. Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững
chắc nên độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc đấu tranh
cách mạng, giành thắng lợi.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Lý luân Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng nƣớc ta đã khẳng định một chân lý. Nhân
dân là ngƣời làm nên thắng lợi. để phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân; sự lãnh đạo
và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân; đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
Sức mạnh của đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời
nhân dân là nguy cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và
làm cho sự nghiệp cách mạng bị tổn thất.
3. Không ngừng củng cố, tăng cƣờng đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng; đoàn kết
toàn dân đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bái học lịch sử to lớn, lâu dài của dân tộc ta đã
đƣợc Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh
to lớn để giành thắng lợi. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là động lực chủ yếu để đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, sớm đƣa nƣớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu
đến năm 2020 cơ bản trở thành bƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nƣớc với sức
mạnh quốc tế
Trong thời đại này, dƣới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu
hóa, quan hệ quốc tế ngày càng đƣợc mở rộng, các yếu tố bên trong và bên ngoài có
quan hệ biện chứng, tác đông lẫn nhau. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nƣớc là sức
mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực, trong đó đoàn kêt toàn dân tộc, phat huy dân chủ,
xây dựng nền văn hóa tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc vừa lã mục tiêu vừa là động
TP.HCM MINH
24
lực để phát triển đất nƣớc. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trƣớc hết là sức mạnh
của quy luật xà xu thế phát triển không thể đảo ngƣợc lại của lịch sử nhân loại, là sức
mạnh của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của các lƣc lƣợng cách mạng
tiến bộ trên toàn thế giới.
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh dân tộc, nguồn lực bên trong
yếu tố quyết định, đồng thời đƣợc bổ sung và nhân lên khi kết hợp đƣợc sức mạnh
thời đại và nguồn lực bên ngoài.
5. Sự đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Sự lãnh đạo của đảng là nhận tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng nƣớc ta. Để giữ vững tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, phải xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị,tƣ tƣởng. tổ chức, thuyền xuyên đổi mời hình thức lãnh
đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách
mạng đặt ra. Muốn vậy, Đảng cần quán triệt những nội dung cơ bản nhƣ sau:
- Nắm vững vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – lênin, tƣ tƣởng
Hồ chí Minh.
- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức thực tiển của
Đảng.
- Xây dựng đƣờng lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan, đáp ứng yếu cầu, lơi ích chính đáng của nhân dân.
- Phòng , chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầm về đƣờng lối chính trị, đạo
đức sống, lối sống của Đảng viên…
- Trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội X đã xác định nhiệm vụ : “ nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, để “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đƣa nƣớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”
phấn đấu năm 2020 nƣớc ta trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại, “ thực
hiên bằng đƣợc mục tiêu” dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng,dân chủ, văn minh”,
sánh vai cùng các nƣớc trên thế giới trong nhịp bƣớc khẩn trƣơng của thời đại”.
TP.HCM MINH
25
Chuyên đề 3
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ PHƢƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
I HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
1. Khái niệm “hệ thống chính trị”
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền đƣợc thực hiện bằng
một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao
gồm các đảng chính trị, nhà nƣớc và các tổ chức chính trị - xã hội đƣợc liên kết với
nhau trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã
hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm
quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, nhà nƣớc nhằm thực
hiện đƣờng lối chính sách của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống chính trị mang bản
chất giai cấp. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ
thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung
hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nứơc ta hiện nay bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Đòan Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức
chính trị- xã hội hợp pháp khác đựơc thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay:
a) Tính nhất nguyên chính trị
- Chế độ chính trị việt nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền. Trong
những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân
chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này đƣợc tổ chức và hoạt động nhƣ những
đồng minh chiến lựoc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là
thể chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
TP.HCM MINH
26
- Hệ thống chính trị đếu do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, vừa đóng vai trò hình
thức tố chức quyền lực của nhân dân (Nhà nƣớc), tổ chức tập hợp, đòan kết quần
chúng, đại diện cho ý chí và nguyên vọng quần chúng (Mặt trận tổ quốc và các Tổ
chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh
đạo chính trị đối với xã hội.
- Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị đƣợc thể hiện ở tính chất nhất
nguyên tƣ tƣởng. Tòan bộ hệ thống chính trị đều đƣợc tổ chức và hoạt động trên nền
tảng tƣ tửơng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
b) Tính thống nhất
- Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức
năng khác nhau, nhƣng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống
nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phƣơng thức
hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát sinh sức mạnh tổng hợp và
tạo ra sự cộng hƣởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
- Tính thống nhất của hệ thống chính trị nƣớc ta đƣợc xác định bởi các yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt
Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của tòan bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã
hội Việt Nam với nội dung: Dân giàu nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
+ sự thống nhất của hệ thống tổ chức ờ từng cấp, từ Trung ƣơng đến địa phƣơng, với
bộ phận hợp thành.
c) Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
- Đây là đặc diểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị Việt Nam. Đặc điểm này
đã khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn bó với chính trị, quyền lực
chính trị, mà còn gắn bó với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị
(nhƣ Đảng, Nhà nƣớc), các tổ chức vừa có tính tổ chức chính trị,vừa có tính xã hội
(nhƣ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính
trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (nhƣ những lực luợng chính trị áp bức xã
hội trong các xã hội bóc lột), mà là một bộ phận của xã hội. Cầu mối quan trọng giựa
TP.HCM MINH
27
hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội.
- Sự gắn bó mật thiết giữ hệ thống chính trị với nhân dân đƣợc thể hiện trên các yếu
tố:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng cầm
quyền.
+ Nhà nƣớc là Nhà nƣớc của nhân dân, do dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của
chính các tầng lớp nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trừơng học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị là phƣơng thức thực hiền quyền làm chủ của nhân nhân.
d) Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
- Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho
nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân đƣợc đại diện bởi
các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của các
giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị nƣớc ta mang bản chất giai cấp công
nhân và tính dân tộc sâu sắc.
- Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và bắt
đầu từ mục giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, các dân tộc
đòan kết đấu tranh giành và bảo vệ nềnn độc lập, hợp tác cùng nhau phát triển. Sự tồn
tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tƣ cách là thành viên quan trọng của hệ thống
chính trị là yếu tố quan trọng tăng cƣờng sự kết hợp giữa các giai cấp và dân tộc.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc đƣợc khẳng định trong bản chất của
từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng cộng sản việt nam đôi tiên phong của giai
cấp công nhân, cũng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc của nhân dân, do
dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp
của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tƣơng
đối và không có ranh giới rõ ràng.
TP.HCM MINH
28
3) Mục tiêu, quan điểm và chủ trƣơng, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị
trong giai đọan hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc là thứ X của Đảng ( tháng 4-2006 ) đã xác định mục tiêu,
quan điểm, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay.
a) Mục tiêu và quan điểm
- Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiên tốt hơn dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Tòan bộ tổ chức và hệ
thống chính trị ở nƣớc ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
- Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị gồm:
Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tƣ duy chính trị
thể hiện trong việc hoạch định đƣờng lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không
có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Trong những đầu Đảng tập trung
trƣớc hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc hoảng khủng
hỏang kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để giữ vững ổn định chính trị , xây dựng,củng cố
niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội,
đồng thời từng bƣớc đổi mới chính trị. Quá trình phát triển của sự nghiệp đổi mới đã
khẳng định sự kết hợp nhuần nhuyễn và bƣớc đi đúng đắn đó. Đến Đại hội X, đảng ta
đã xác định đổi mới toàn diện, bao gồm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo
những nguyên tắc xác định.
Hai là, đổi mới tổ chức và phƣơng thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng
cừơng vai trò lãnh đạo Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
Đó là quá trình làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động, co hiệu quả hơn, phù
hợp vời đƣờng lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nƣớc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay để phát triển nền kinh tế tri thức, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bƣớc đi,
hình thức và cách làm phù hợp.
TP.HCM MINH
29
Bốn là, đổi mới quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị với nhau và với
xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hƣớng tác động, thúc đẩy xã hội phát triển;
phát huy quỳên làm chủ của nhân dân.
b) Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị.
Một là, Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định rõ bản chất của đảng.
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đôi tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam; đai biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc”. Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cƣơng lĩnh năm
1991 xác định đã rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của
hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động rong khuôn khổ Hiến pháp và luật pháp”. Điều đó là cơ sở của sự gắn bó giữa
xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị.
- Nghị quyết Hội nghị trung ƣơng 5 khóa X “Về tiếp tục đổi mới phƣơng thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị” đã chỉ rõ các mục tiêu giữ
vững và tăng cƣờng vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiuệ quả
lãnh đọa của Đảng đối với nhà nƣớc và toàn bộ xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng
và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nƣớc, chất lƣơng hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm
chủ của nhân dân, tăng cƣờng kỷ luật, kỷ cƣơng trong Đảng và trong xã hội; làm cho
nhà nƣớc làm cho nƣớc ta phát triển nhanh và bền vững theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa.
- Đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
phải đƣợc đặt trong hệ thống chính trị phải đƣơc đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới
và chỉnh đốn Đảng. Tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng
Đảng; kiên định các nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong
Đảng và trong xã hội, đây nhanh phân cấp, tăng cừơng chế độ trách nhiệm cá nhân,
nhất là cá nhân ngƣời đứng đầu.
Hai là, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
TP.HCM MINH
30
- Chủ trƣơng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và
thừa nhận Nhà nƣớc pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm
riêng của xã hội tƣ bản xã hội loài ngƣời, của nền văn minh nhân loại.
- Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo đặc điểm sau đây:
+ Đó là Nhà nƣớc của nhân dân, do dân vì dân, tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về
nhân dân.
+ Quyền lực nhà nƣớc thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ
giữa cơ quan nhà nƣớc trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp.
+ Nhà nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm
cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tôi thƣợng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc
tất cả các lĩnh vực trong xã hội.
+ Nhà nƣớc tôn trọng và bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nƣớc và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cừơng
kỷ cƣơng, kỷ luật.
+ Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, co
sự giám sát của nhân dân, sự phản biên của xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
tổ chức thành viên cả Mặt trận.
- Để xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền cần hòan thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ
thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng hoàn thiên cơ chế
kiểm tra, giam sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các
cơ quan công quyền.
Ba là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng
hệ thống chính trị - xã hội có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đòan kết
rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân,
đế xuất các chủ trƣơng, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Nhà nƣớc ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiên tốt
vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Thực hiên tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Luật Thanh niên, Luật Công đoàn…,
quy chế dân chủ ở mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ
TP.HCM MINH
31
thống chính trị; thực hiện “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và dân thụ
hửơng, những thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận tổ quốc việt nam, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc
phục tình trạng hành chính hóa, nhà nƣớc hóa, phô trƣơng, hình thức để nâng cao chất
lƣợng hoạt động, làm công tác dân vận theo phong cách “ trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân và có trách nhiêm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”…
II- VAI TRÕ VÀ PHƢƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
- Trong hệ thống chính trị nƣớc ta. Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đó
là sự lựa chọn của dân tộc ta, là một yếu tố tất yếu lịch sử, tấ yếu khách quan. Sự lãnh
đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.
- Khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng duy nhất cầm
quyền, sự lãnh đạo của Đảng đƣợc thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhảy
cảm với cơ chế thực hiện quyền lực nhà nƣớc pháp quyển và trong các điều kiên xây
dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nƣớc,
mà biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nƣớc, đòi hỏi phải phân định sự lãnh đạo
của nhà nƣớc, đòi hỏi phải phân định sự lãnh đạo của Đảng đối với vai trò điều hành
của Nhà nƣớc.
- Trong tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng vừa là lực lƣợng lãnh đạo của toàn bộ hệ
thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Điều đó đòi hỏi phải xác định rõ vai
trò lãnh đạo của Đảng, tƣ cách thành viên của Đảng và khả năng độc lập của mỗi
thành viên thuộc hệ thống chính trị trong các quan hệ chính trị và sinh hoạt dân chủ.
- Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của đảng luôn luôn xác định trong từng mối
quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong từng hệ thống chính trị. Vai trò cầm
quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nƣớc khác với sự lãnh đạo của Đảng đói
với Mặt trận Tổ quốc hoặc đối với các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Sự mơ
hồ, thiếu cụ thể nào đó đều ảnh hƣởng tiêu cực đến đời sống chính trị của đất nƣớc,
hoặc là đảng sẽ bao biện làm thay thế tất cả, hình thức hóa Nhà nƣớc và hệ thống hóa
chính trị, hoặc làm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của
Đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
TP.HCM MINH
32
- Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy
mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Để dảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị,
đảng phải tự đổi mới nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng. Tăng cƣờng mối
quan hệ của Đảng đối với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan
trọng của đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của Đảng.
2) Nội dung lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị
- Vị trí cầm quyền của đảng thể hiên quyền hạn, trách nhiệm chung của Đảng và trách
nhiêm của các tổ chức đảng trong việc quyết định các vấn đề của đất nƣớc, cac lĩnh
vực cụ thể, từ chính trị kinh tế văn hóa, xã hội ở các cấp, các ngành; trong mối quan
hệ với nhà nƣớc, Mặt trân Tổ quốc; các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội.
- Sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện tập trung nhất là lãnh đạo về chính trị và tƣ tƣởng,
nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị đề nhà nƣớc. Mặt trận tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng
và vai trò của mình theo quy định của pháp luật, theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của
mỗi tổ chức.
- Nội dung lãnh đạo của đảng đƣợc thể hiện trong cƣơng lĩnh chính trị đƣờng lối, chủ
trƣơng chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hƣớng chính trị cho sự phát triển của
đất nƣớc, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt đồng của toàn bộ hệ thống chính trị xã hội
hƣớng tới mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3) Phƣơng thức lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị
- Phƣơng thức lãnh đạo của đảng cầm quyền là hệ thống những phƣơng pháp, hình
thức. biện pháp quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác của Đảng vận dụng để
tác động vào các lực lƣợng xã hội, các tổ chức, cá nhân nhằm biến đƣờng lối, chủ
trƣơng, chính sách của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tƣợng lãnh đạo
qua đó thực hiện đƣợc nhiệm vụ cách do Đảng đề ra.
- Nội dung cơ bản của phƣơng thức lãnh đạo của Đảng đã đƣợc xác định trong cƣơng
lĩnh 1991 của Đảng, gồm:
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra
bằng hành động gƣơng mẫu của Đảng viên.
TP.HCM MINH
33
+ Đảng giới thiệu những Đảng viên ƣu tú có đầy đủ năng lực và phẩm chất hoạt động
trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
+ Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
+ Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Ngoài những điểm nêu trên, Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã và nhân dân với uy tín của Đảng, từ sự đề cao và tôn trọng vai trỏ
của Nhà nƣớc, các tổ chức chính trị và toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ
thông qua các quyết định, các chỉ thị mà còn bằng uy tín, bằng khả năng thuyết phục
bằng lời nói, trong hành động, trong phong cách của tổ chức đảng và từng cá nhân cán
bộ lãnh đạo, đảng viên của Đảng.
- Giống nhƣ nội dung sự lãnh đạo của Đảng, phƣơng thức lãnh đạo của Đảng có sự
thay đổi phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, với đƣờng lối, chủ trƣơng, chính
của đảng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của Đảng
luôn là một yêu cầu có tính khách quan, một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây
dựng đảng và năng lực cầm quyền của Đảng. Yêu cầu khách quan này luôn đƣợc ta
quán triệt và nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội Đảng và hội nghị Ban Chấp hành
Trung ƣơng.
III- MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội
- Trong lịch sử cách mạng nƣớc ta, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
giữ vai trò quan trọng. Các tổ chức này đã động viên, tập hợp các tầng lớp nhân dân
trong đấu tranh giành chính quyền , trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm,
đấu tranh thống nhất đất nƣớc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tồ chức chính trị -
xã hội là thành viên đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và củng cố
Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân ở việt nam. Điều 9 hiến pháp nƣớc cộng hòa xã hội
chủ nghĩa việt nam năm 1992 khẳng định: “ Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tồ chức
thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền
TP.HCM MINH
34
thống đoàn kết toàn dân, tăng cƣờng sự nhất trí về chính trị và tinh thần nhân dân,
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nƣớc chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động cơ quan nhà nƣớc,
đại biểu dân cử, viên chức nhà nƣớc”.
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận cấu thành hệ
thống chính trị của nƣớc ta, đƣợc hình thành nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của
các thành viên, thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý công việc của nhà nƣớc,
công việc xã hội nhằm nâng cao tính tích cực của mỗi công dân. Trong xã hội ta ,
nhân dân thực hiền quyền chính trị của mình không chỉ bằng nhà nƣớc mà còn thông
qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Vì vậy mỗi tổ chức có vị trí, vai trò
khác nhau, nhƣng cùng tác động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm
bào quyền lực của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tồ chức chính trị - xã hội là những tổ chức hợp pháp đƣợc tổ
chức tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tham
gia vào hệ thống chính trị tùy theo tính chất, tôn chỉ mục đích của mình nhằm bảo vệ
lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị tùy theo tính chất, tôn chỉ mục
đích của mình nhằm bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nƣớc; phát huy dân
chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gín kỷ cƣơng
phép nƣớc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt quan hệ giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nƣớc.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng, phát huy khả năng tham gia
bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện
theo đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc; thực hiện vai trò giám sát của nhân
dân đối vai trò cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thẫu thuẫn nội bộ nhân
dân.
- Các tổ chức chính trị - xã hội có nhiêm vụ giáo dục chính trị tƣ tƣởng, động viên và
phát huy tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ
TP.HCM MINH
35
chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào
công viêc của nhà nƣớc, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cƣờng mối liên hệ mật thiết
giữa đảng và nhà nƣớc và nhân dân góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ
hóa và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, nhân dân
làm chủ.
Cùng với hình thức tổ chức của hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội đƣợc tổ chức theo một hệ thống từ Trung ƣơng đến cơ sở.
Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: tổ chức cơ sở đảng, Hội đồng nhân dân xã,
phƣờng ủy, các tổ chức chính trị - xã hội khác: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh ở xã, phƣờng, thị trấn...
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, tăng
cƣờng đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả
năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng nhân cƣ.
2. Nhiệm vụ chính trị của ngƣời cán bộ mặt trân tồ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội cơ sở
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng
trong hệ thống chính trị nƣớc ta. Vì vậy, nhiệm vụ chính trị của ngƣời cán bộ Mặt trân
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là rất to lớn, quan trọng, trực tiếp góp công,
góp sức xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.
Căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, có thể nêu những nhiệm
vụ cụ thể của mỗi cán bộ Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở là:
- Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng , xây dựng nhà nƣớc
thật sự trong sạch, vững mạnh.
- Thực hiện có hiện quả đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nƣớc.
- Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, mạnh
dạn đấu tranh với những hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và
chính đáng của nhân dân.
- Tích cực tham gia và thực hiện tốt Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị
trấn, hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực và công tác.
TP.HCM MINH
36
- Luôn luôn học tập, rèn luyện và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Tích cực hƣởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào do các tổ chức chính trị
- xã hội phát động; trực tiếp tham gia xây dựng tổ chức của mình ngày càng phát triển
mạnh và bền vững.
Chuyên đề 4
ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH-TRƢỜNG HỌC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA CỦA THANH NIÊN, NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM.
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH.
1. Nguyễn Ái Quốc và quá trình chuẩn bị thành lập tổ chức Đoàn Thanh niên
Cộng sản ở Việt Nam
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc. Sau 10 năm bôn ba
khắp các châu lục, Ngƣời đã tìm thấy ánh sáng chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ngƣời tham gia Đại hội Tua tháng 12-1920 và bỏ phiếu tán thành Quốc tế III do V.I.
Lênin sáng lập. Tháng 11-1924, Ngƣời từ Liên Xô trở về Trung Quốc hoạt động.
Trong thời gian tự tháng 12-1924 đến tháng 2-1925, Ngƣời đã tiếp xúc và làm việc
với nhóm thanh niên Việt Nam yêu nƣớc trong tổ chức Tân Việt Thanh niên Đoàn
(Tâm tâm xã) do Hồ Tùng Mậu và một số nhà yêu nƣớc Việt Nam thành lập từ năm
1923 tại Quảng Châu. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc
thành lập tổ chức “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên” gồm 9 hội viên, có nòng cốt
là Cộng sản Đoàn. Đây cũng là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau
này.
Cuối năm 1925, đầu năm 1926, với tầm nhìn xa trông rộng, chuẩn bị cho đội ngũ kế
cận cách mạng sau này, Nguyễn Ái Quốc đã cử đồng chí Hồ Tùng Mậu về Thái Lan
để củng cố cơ sở cách mạng của bà con Việt kiều trong đó có cơ sở “Trại cày” của cụ
Đặng Thúc Hứa (Tú Hứa) tại Bản Mạy, tỉnh Na Khon Phanom (Thái Lan) để tuyển
chọn một số thiếu niên là con em Việt kiều có tinh thần yêu nƣớc, đang học tại
Trƣờng Hoa – Anh học hiệu do một ngƣời yêu nƣớc Trung Quốc làm hiệu trƣởng.
TP.HCM MINH
37
Trong số thiếu niên đó có Lê Hữu Trọng ( còn có tên là Lê Văn Trọng), tức Lý Tự
Trọng, đã đƣợc bí mật đƣa sang Quảng Châu (Trung Quốc) đào tạo. Số còn lại đƣợc
bí mật tuyển chọn từ trong nƣớc sang, là con em những gia đình có truyền thống yêu
nƣớc, quê ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Nhƣ vậy, đến giữa năm 1926 tại Quảng Châu, ngoài 9 hội viên đầu tiên của tổ chức
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, còn có một tổ
chức khác là Nhóm thiếu nhi Việt Nam gồm 8 thiếu niên là con em Việt kiều và con
em những gia đình cách mạng. Khi sang Trung Quốc, để bảo đảm bí mật, cả 8 thiếu
niên đều đƣợc cải tên, đổi họ và mang họ Lý (với danh nghĩa là con cháu của đồng chí
Lý Thụy – một bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi đang hoạt động tại Quảng Châu), đó
là:
1. Lê Hữu Trọng (Lê Văn Trọng) đƣợc mang tên là Lý Tự Trọng.
2. Ngô Trí Thông đƣợc mang tên là Lý Trí Thông.
3. Ngô Hậu Đức đƣợc mang tên là Lý Phƣơng Đức.
4. Đinh Chƣơng Long đƣợc mang tên là Lý Văn Minh.
5. Nguyễn Thị Tích đƣợc mang tên là Lý Phƣơng Thuận.
6. Hoàng Anh Tự (Tợ) đƣợc mang tên là Lý Anh Tự.
7. Vƣơng Thúc Thoại (Toại) đƣợc mang tên là Lý Thúc Chất.
8. Nguyễn Sinh Thản đƣợc mang tên là Lý Nam Thanh.
Tại Quảng châu, nhóm thiếu niên này đƣợc học một lớp chính trị theo chƣơng trình
riêng và tiếp tục đƣợc tổ chức của Tổng bộ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên gửi
học văn hóa tại trƣờng Sơ trung – Tiểu học mang tên nhà cách mạng Tôn Trung Sơn.
2. Sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Chỉ trong một thời gian ngắn từ giữa năm 1925, tại Quảng Châu – Trung Quốc đã
hình thành tổ chức cách mạng Việt Nam đầu tiên có xu hƣớng cộng sản: Hội Việt
Nam cách mạng Thanh niên với 9 hội viên là những thanh niên Việt Nam đầu tiên
đƣợc Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giác ngộ, kết nạp đƣa vào tổ chức. Sự xuất hiện của
nhóm thanh niên cách mạng với 9 hội viên này tuy còn quá nhỏ bé trên con đƣờng dài
dựng Đảng, lập Đoàn, nhƣng đó là thời điểm khai sinh ra một thế hệ thanh niên mới,
một sự kiện quan trọng mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển các tổ chức
thanh niên cách mạng theo xu hƣớng Cộng sản chủ nghĩa ở việt Nam. Đồng thời với
TP.HCM MINH
38
sự ra đời của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đặt nền móng cho sự ra
đợi cảu Đảng vào năm 1930 sau này, thì sự xuất hiện của Nhóm thiếu nhi cộng sản
đầu tiên của Việt Nam vào năm 1926 với 8 thiếu niên đầu tiên là quá trình chuẩn bị cả
về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức, lực lƣợng để hình thành tổ chức Đoàn Thanh niên
cộng sản Đông Dƣơng vào tháng 3-1931 sau khi Đảng ra đời một năm.
Vào cuối năm 1929, ở Việt Nam xuất hiện ba tổ chức cộng sản, cùng với nó cũng
xuất hiện nguy cơ chia rẽ, mất đoàn kết, vì vậy để phong trào tiếp tục phát triển cần
phải tập hợp lực lƣợng và có một tổ chức cộng sản chân chính đủ sức lãnh đạo cách
mạng. Đầu tháng 1-1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tổ
chức Hội Nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản tại Hƣơng Cảng – Trung Quốc. Hội nghị
đã nhất trí thành lập một Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này, đánh
dấu bƣớc ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ dài khủng
hoảng về đƣờng lối lãnh đạo và giai cấp lãnh đạo ở nƣớc ta.
Tháng 10-1930 đã diễn ra một sự kiện hết sức quan trọng của cách mạng Việt Nam
và phong trào thanh niên nƣớc ta, đó là Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
lần thứ nhất thảo luận và thông qua nhiều văn kiện lớn có ý nghĩa lịch sử, trong đó có
Án Nghị quyết về Cộng sản Thanh niên vận động cả Trung ương toàn thể hội nghị, đã
nêu bật: “ … Đảng cộng sản cần kíp công tác trong quần chúng thanh niên; … phải
kéo họ ra khỏi ảnh hƣởng quốc gia, phong kiến, đế quốc. Muốn đƣợc nhƣ vậy thì chỉ
có tổ chức ra một đoàn thể của thanh niên mới đƣợc”. Đồng thời, Nghị quyết cũng
khẳng định: “Việc tổ chức ra Cộng sản Thanh niên Đoàn là một việc cần kíp của
Đảng… phải làm cho hết thày đảng viên hiểu rằng công việc Thanh niên Cộng sản
Đoàn là một việc cần kíp – quan trọng nhƣ việc của Đảng vậy”. Từ đó Đảng chỉ thị:
“…thanh niên phải có một đoàn thể độc lập, có cơ quan chỉ huy riêng…”
Thực hiện Án Nghị quyết tháng 10-1930 về công tác thanh niên của Hội nghị
Trung ƣơng Đảng lần thứ nhất, các cơ sở Đoàn đƣợc xây dựng trên khắp cả nƣớc, từ
Bắc vào Nam. Tuy nhiên, hệ thống tổ chức của Đoàn vẫn chƣa đƣợc thống nhất và
Đoàn chƣa có sinh hoạt riêng. Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ hai
tại Sài Gòn từ ngày 20 đến ngày 26-3-1931 dƣới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú –
Tổng Bí thƣ đầu tiên của Đảng – đã dành nhiều thời gian để bàn về công tác xây dựng
Đảng và xây dựng Đoàn. Trên cơ sở nghiên cứu bức thƣ của Ban Chấp hành Quốc tế
TP.HCM MINH
39
Thanh niên Cộng sản gửi cho Đảng ta, Hội nghị đã nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá
việc thực hiện Nghị quyết lần thứ nhất (tháng 10-1930) trong đó nêu rõ: “Tổ chức ra
Cộng sản Thanh niên Đoàn là một nhiệm vụ thâu phục một bộ phận quan trọng của vô
sản gia cấp là một vấn đề cần kíp mà Đảng phải giải quyết. Tuy nhiên hiện đến nay
không ở đâu tiến lên đƣợc bƣớc nào. Trái lại thái độ trong Đảng lại rất lãnh đạm hững
hờ về vấn đề Đoàn lắm”. Từ đó, trong Án Nghị quyết của Trung ƣơng toàn thể Hội
nghị lần thứ hai, phần Nhiệm vụ cần kíp đã ghi rõ: “Cần kíp tổ chức ra cộng sản
Thanh niên Đoàn, Đảng cần kíp đánh tan cái thái độ hững hờ lãnh đạm với vấn đề đó.
Lập tức các Đảng bộ địa phương phải mau mau tổ chức những ủy viên tổ chức ra
đoàn đốc xuất cho chi bộ tổ chức;… Đảng bộ các địa phương phải gây ra cơ sở của
Đoàn…”.
Là ngƣời theo dõi sát sao tình hình xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Đoàn,
trong thƣ gửi Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ngày 20-4-
1931 Nguyễn Ái Quốc đề nghị: “Đảng phải:… Trƣớc tiên phải thống nhất tổ chức
Thanh niên và Công hội và những tổ chức đó phải có sinh hoạt độc lập của mình”.
Đến tháng 3-1931, sau một quá trình chuẩn bị lâu dài, gian khổ đƣợc sự tổ
chức, lãnh đạo của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và của Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng cũng nhƣ sự trực tiếp đào tạo, bồi dƣỡng và tổ chức, lãnh đạo của Nguyễn Ái
quốc, tổ chức thanh niên cơ sở ở nƣớc ta “từ bƣớc đầu hiếm hoi” với một nhóm nhỏ 8
thiếu niên đầu tiên do Bác Hồ trục tiếp chăm sóc, dìu dắt, sau 5 năm đã phát triển và
trƣởng thành vƣợt bậc. Lúc này, trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam của nƣớc ta đã xuất
hiện nhiều tổ chức Đoàn cơ sở với hơn 1.500 đoàn viên, ở một số địa phƣơng đã hình
thành hệ thống tổ chức Đoàn từ xã, huyện lên đến tỉnh, dần trở thành một lực lƣợng
hùng hậu, là đội dự bị tin cậy của Đảng, cùng các tổ chức quần chúng khác cống hiến
hết mình trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc và xây dựng Tổ quốc Việt Nam vinh
quang.
Căn cứ những tƣ liệu, chứng cứ lịch sử, theo đề nghị của tuổi trẻ cả nƣớc và
Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đoàn, đƣợc sự đồng ý của Bộ chính trị và Bác Hồ kính yêu,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đoàn (tháng 3-1961) đã ra Nghị quyết lấy
ngày 26-3-1931, một trong những ngày cuối cùng của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng lần thứ hai họp tại Sài Gòn do Tổng Bí thƣ Trần Phú chủ trì bàn về công
TP.HCM MINH
40
tác xây dựng Đoàn làm ngày kỷ niệm thành lập Đoàn. Ngày 26-3 hằng năm đã đi vào
lịch sử vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và tuổi trẻ Việt Nam.
3. Khái quát quá trình phát triển của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ chí
Minh từ khi ra đời đến nay.
a) Các tên gọi của tổ chức Đoàn qua các thời kỳ:
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dƣơng (1931-1936);
- Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dƣơng (1936-1939);
- Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dƣơng (1939-1941);
- Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam (1941-1956);
- Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (1956-1970);
- Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh (1970-1976);
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1976 đến nay).
b) Các kỳ Đại hội của Đoàn:
- Đại hội I (từ ngày 7-2) đến ngày 14-2-1950) tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ,
tỉnh Thái Nguyên.
- Đại hội II (từ ngày 25-10 đến ngày 4-11-1956) tại Thủ đô Hà Nội.
- Đại hội III (từ ngày 23-3 đến ngày 25-3-1961) tại Thủ đô Hà Nội.
- Đại hội IV (từ ngày 20-11 đến ngày 22-11-1980) tại Thủ đô Hà Nội.
- Đại hội V (từ ngày 27-11 đến ngày 30-11-1987) tại Thủ đô Hà Nội.
- Đại hội VI (từ ngày 1-11 đến ngày 18-10-1992) tại Thủ đô Hà Nội.
- Đại hội VII (từ ngày 26-11 đến ngày 29-11-1997) tại Thủ đô Hà Nội.
- Đại hội VIII (từ ngày 7-12 đến ngày 11-12-2002) tại Thủ đô Hà Nội.
- Đại hội IX (từ ngày 7-12 đến ngày 21-12-2007) tại Thủ đô Hà Nội.
c) Các phong trào tiêu biểu qua các kỳ Đại Hội:
* Trong nhiệm kỳ Đại hội I (1950-1956):
-Phong trào tòng quân, giết giặc lập công, tham gia dân quân du kích.
-Phong trào chống địch bắt lính.
-Phong trào thi đua sản xuất trong nông nghiệp và ngành công nghiệp.
-Phong trào thi đua lập công trong các lực lƣợng vũ trang và thanh niên xung
phong.
*Trong nhiệm kỳ Đại hội II (1956-1961):
TP.HCM MINH
41
- Phong trào Đoàn tham gia công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: chi viện cho miên Nam, thống nhất Tổ quốc.
- Phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang của thanh niên miền Nam chống Mỹ,
ngụy và bè lũ tay sai.
*Trong nhiệm kỳ Đại hội III (1961-1980):
- Phong trào “Thi đua tình nguyện vƣợt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”
(1961-1965).
- Phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên miền Bắc (1965-1975).
- Phong trào “Năm xung phong” trong thanh niên miền Nam (1965-1975).
- Phong trào “Quyết thắng” trong lực lƣợng vũ trang (1965-1975 và 1975-
1980).
- Phong trào lao động tình nguyện xây dựng Tổ quốc và lao động tình nguyện
vƣợt mức kế hoạch trong khu vực sản xuất (1975-1980).
- Phong trào học tập trong các tâng lớp thanh niên. Riêng trong các trƣờng học
là xây dựng “Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa” (1975-1980).
- Phong trào “Ba xung kích làm chủ tập thể” (tháng 1-1978-1980).
- Cuộc vận động “Ba mũi tiến công chống tiêu cực” và “Toàn Đoàn tham gia
xây dựng Đảng” (1978-1980).
- Phong trào “Thanh niên xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (1979-
1980).
*Trong nhiệm kỳ Đại hội IV (1980-1987):
- Ba chương trình hành động cách mạng của Đoàn (5-1982-12-1983):
+ Chƣơng trình tuổi trẻ đẩy mạnh sản xuất lƣơng thực.
+ Chƣơng trình tuổi trẻ thực hành tiết kiệm.
+ Chƣơng trình tham gia giải quyết việc làm cho thanh niên.
- Năm chương trình hành động cách mạng của tuổi trẻ (tháng 1-1984 – tháng
11-1987).
+ Chƣơng trình học tập – rèn luyện xây dựng con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa.
+ Chƣơng trình tuổi trẻ xung kích đẩy mạn sản xuất lƣơng thực và phát triển
nông nghiệp toàn diện.
TP.HCM MINH
42
+ Chƣơng trình tuổi trẻ lao động sáng tạo, tiết kiệm và giải quyết việc làm cho
thanh niên.
+ Chƣơng trình tuổi trẻ xung kích trên mặt trận an ninh bảo vệ Tổ quốc.
+ Chƣơng trình tuổi trẻ xung kích trên mặt trận cải tạo xã hội chủ nghĩa và
phân phối lƣu thông.
+ Chƣơng trình tuổi tre xung kích trên mặt trận cải tạo xã hội chủ nghĩa và
phân phối lƣu thông.
*Trong nhiệm kỳ Đại hội V (1987-1992):
- Thực hiện bốn chƣơng trình hành động:
+ Chƣơng trình thanh niên làm kinh tế, tham gia giải quyết việc làm.
+ Chƣơng trình thanh niên tham gia bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội.
+ Chƣơng trình học tập, sáng tạo, tích cực tham gia phát triển văn hóa- xã hội.
+ Chƣơng trình xây dựng Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và chăm
sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng.
- Phát động hai phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nƣớc”
(tháng 2-1993).
*Trong nhiệm kỳ Đại hội VII (1997-2002): Tiếp tục duy trì và phát triển nâng
cao hai phong trào: “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nƣớc”.
*Trong nhiệm kỳ Đại hội VIII (2002-2007):
- Phát động phong trào thi đua “Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” với các nội dung:
+Thi đua học tập, tiến quân vào khoa học – công nghệ.
+Thi đua lập nghiệp, lao động sáng tạo.
+Tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.
+Xung kích bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trj, trật tự an toàn xã hội.
Từ Đại hội IX (2007) đến nay:
- Phát động 2 phong trào lớn: “5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo
vệ Tổ quốc” và “4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”.
+ 5 xung kích:
Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội.
TP.HCM MINH
43
Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.
Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
Xung kích thực hiện cải cách hành chính.
Xung kích trong hội nhập quốc tế.
+ 4 đồng hành:
Đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên
môn, nghiệp vụ.
Đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và việc làm.
Đồng hành với thanh niên trong nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống văn
hóa tinh thần.
Đồng hành với thanh niên trong phát triển kỹ năng xã hội.
d) Các đồng chí Bí thư thứ nhất của Đoàn qua các thời kỳ:
Đồng chí Nguyễn Lam
Tại Đại hội Xứ đoàn Thanh niên cứu quốc Bắc bộ ngày 25-11-1945, đồng chí
đƣợc bầu làm Bí thƣ Xứ đoàn. Tại Hội nghị Thanh vận cảu Đảng (tháng 6-1949) họp
tại Việt Bắc, đồng chí Nguyễn Lam đƣợc Đảng điều đồng về làm Trƣởng Tiểu ban
Thanh vận Trung ƣơng, đồng thời là Bí thƣ Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn. Đại hội
Đoàn toàn quốc lần tứ I (tháng 2-1950), đồng chí đƣợc bầu lại làm Bí thƣ Đoàn thanh
niên Cứu quốc Việt Nam. Đại hội II (tháng 11-1956), đồng chí đƣợc bầu làm Bí thƣ
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn. Sau Đại hội III (tháng 3-1961), đồng chí
đƣợc Đảng điều động đi làm nhiệm vụ mới.
Đồng chí Vũ Quang
Đồng chí Vũ Quang đƣợc cử làm Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đoàn, thay cho đồng chí Nguyễn Lam chuyển công tác, từ sau Đại hội Đoàn toàn
quốc lần thứ III (tháng 3-1961) đến Đại hội IV của Đoàn (tháng 11-1980).
Đồng chí Đặng Quốc Bảo
Đƣợc bầu làm Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ IV (tháng 11-1980). Thán 5-1982, đồng chí đƣợc Đảng phân
công nhận nhiệm vụ mới.
Đồng chí Vũ Mão
TP.HCM MINH
44
Đƣợc bầu làm Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Hội nghị
Ban Chấp hành lần thứ 4 khóa IV (tháng 5-1982) đến Đại hội V của Đoàn (tháng 11-
1987).
Đồng chí Hà Quang Dự
Đƣợc bầu làm Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Đại hội V
của Đoàn (tháng 11-1987) đến Đại hội VI của Đoàn (tháng 10-1992).
Đồng chí Hồ Đức Việt
Đƣợc bầu làm Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Đại hội VI
của Đoàn (tháng 10-1992). Tháng 12-1996, đồng chí đƣợc Đảng phân công nhận
nhiệm vụ mới.
Đồng chí Vũ Trọng Kim
Đƣợc bầu làm Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Hội nghị
Ban Chấp hành lần thứ 9 khóa VI (tháng 12-1996). Đầu năm 2001, đồng chí đƣợc
Đảng phân công nhận nhiệm vụ mới.
Đồng chí Hoàng Bình Quân
Đƣợc bầu làm Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Hội nghị
Ban Chấp hành lần thứ 9 khóa VII (tháng 6-2001), đƣợc bầu lại làm Bí thƣ thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Đại hội Đoàn lần thứ VIII (tháng 12-2002). Đầu
năm 2005, đồng chí đƣợc Đảng phân công nhận nhiệm vụ mới.
Đồng chí Đào Ngọc Dung
Ngày 1-4-2005, Bộ chính trị Trung ƣơng Đảng ra Quyết định phân công đồng
chí Đào Ngọc Dung giữ trách nhiệm Quyền Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đoàn. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn lần thứ 10 khóa VIII (2-7-
2005), đồng chí Đào Ngọc Dung đƣợc bầu làm bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đoàn. Tháng 8-2006, đồng chí đƣợc Đảng phân công nhận nhiệm vụ mới.
Đồng chí Võ Văn Thưởng
Đƣợc bầu làm Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn lần thứ 11 khóa VIII (13-1-2007) và đƣợc bầu lại
làm Bí thƣ thƣ snhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đoàn tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần
thứ IX (tháng 12-2007).
TP.HCM MINH
45
II. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÕ VÀ TÍNH CHẤT CỦA ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
1.Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (thông qua tại Đại hội Đoàn
lần thứ IX, tháng 12-2007) nêu rõ: “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ
chức chính trị - xã hội của thanh niên việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên
tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tƣởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2.Vị trí, vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nƣớc, các đoàn thể nhân dân, các
tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh danh thiếu nhi;
tổ chức cho đoàn thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nƣớc và xã hội.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam; Nhà nƣớc
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn
thể chính trị-xã hội: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội Nông dân việt Nam, Hội Cựu chiến binh việt Nam, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là ngƣời lãnh đạo, định
hƣớng phát triển cho toàn xã hội. Nhà nƣớc giữ vai trò là ngƣời quản lý, điều hành xã
hội theo Hiến pháp và Pháp luật. Mối quan hệ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh trong hệ thống chính trị đƣợc thể hiện ở các nội dung cơ bản:
a) Thứ nhất, mối quan hệ của Đoàn đối với Đảng.
Đoàn là đội dự bị tin cậy của Đảng, là ngƣời kết tục trung thành sự nghiệp, lý
tƣởng cách mạng của Đảng, phấn đấu vì mục tiêu: dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ,
công bằng, văn mình và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Tổ chức
Đoàn đặt dƣới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Mục tiêu, lý
tưởng của Đoàn chính là phấn đấu, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
của Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Đảng định hƣớng chính trị cho mọi hoạt động,
TP.HCM MINH
46
nguyên tắc tổ chức của Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi. Đảng chăm lo, đào tạo,
bồi dƣỡng nguồn cán bộ trẻ có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho Đảng. Đoàn tham mƣu, đề xuất với Đảng về những vấn
đề liên quan đến thanh niên và công tác thanh thiếu nhi, tham gia xây dựng, bảo vệ và
tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng, đóng góp ý kiến cho đảng viên và sự
lãnh đạo của các cấp ủy Đảng.
Mối quan hệ giữa Đảng và Đoàn là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng có tác
động qua lại. Đảng có vững mạnh, kiên định mục tiêu, lý tƣởng cách mạng thì Đoàn
mới có điều kiện phát triển thuận lợi và ngƣợc lại, tổ chức Đoàn vững mạnh cả về
chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức sẽ đem lại sức sống, bổ sung lực lƣợng trẻ cho Đảng.
Phải coi công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn là bộ phận hữu cơ, tất yếu và đi
trƣớc một bƣớc trong công tác xây dựng Đảng theo đúng tinh thần Nghị quyết số 25-
NQ/TW ngày 25-7-2008 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là các cấp ủy đảng và đảng viên cần nhận thức đầy đủ và thực hiện quan
điểm của Đảng: “Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước”, là quá trình xây dựng và chuẩn
bị đội dự bị tin cậy bổ sung lực lƣợng cho Đảng.
b) Thứ hai, mối quan hệ của Đoàn với Nhà nước.
Tổ chức Đoàn chịu sự quản lý chung của Nhà nƣớc đối với toàn xã hội, mọi
hoạt động của Đoàn nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Nhà nƣớc
thông qua hệ thống tổ chức, bộ máy chính quyền các cấp ban hành, hƣớng dẫn và tổ
chức thực hiện Luật Thanh niên (đƣợc Quốc hội thông qua tháng 11-2005 và có hiệu
lực từ tháng 7-2006). Nhà nƣớc ban hành các cơ chế, chính sách liên quan đến thanh
niên, tạo điều kiện cho các tổ chức của thanh niên phát huy hết khả năng, năng lực của
tuổi trẻ để cống hiến, xây dựng đất nƣớc. Nhà nƣớc bảo đảm nguồn kinh phí , phƣơng
tiện làm viẹc và hoạt động cho Đoàn.
Đoàn Thanh niên là chỗ dựa vững chắc, tham gia đóng góp, xây dựng, bảo vệ
chính quyền nhân dân các cấp; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đúng chính
sách, pháp luật của Nhà nƣớc; vận động đoàn viên, thanh niên xung phong, tình
nguyện đi đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trực tiếp tham gia có hiệu
TP.HCM MINH
47
quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Đoàn tham gia quản lý nhà
nƣớc, quản lý xã hội trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, thông qua hệ thống tổ
chức Đoàn các cấp từ Trung ƣơng đến cơ sở để đề cử những đại biểu ƣu tú nhất đại
diện cho quyền lợi và tiếng nói của tuổi trẻ vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp.
Vận động, tuyên truyền, giáo dục đoàn viên trở thành những công dân tốt, gƣơng mẫu,
có ích cho xã hội; tích cực, tự giác thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ công dân; sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Đối với các ban, ngành tổ chức Đoàn phối hợp, liên kết hoạt động trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ của mình, dựa trên đƣờng lối, quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng về công tác thanh niên, tạo sức mạnh đồng bộ trong công tác Đoàn và phong
trào thanh thiếu niên.
c) Thứ ba, đối với các tổ chức là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đoàn tích cực, chủ động liên kết, phối hợp hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ
của mỗi tổ chức, nhằm quy tụ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống dứoi sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của của Nhà nƣớc, hoàn thành tốt nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết, giáo
dục thanh thiếu niên. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam – một liên minh chính trị rộng lớn, tập hợp, xây dựng lực
lƣợng đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn
phối hợp và thống nhất hành động với các tổ chức thành viên khác trong Mặt trận, góp
phần thực hiện chiến lƣợc đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
d) Thứ tư, đối với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
Đảng trực tiếp giao cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hụ trách, dìu
dắt, giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Tại Chƣơng IX, Điều lệ Đoàn ghi rõ: Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách Độ Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Mính, hƣớng
dẫn thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy và phấn đấu trở thành đoàn viên Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh, ngƣời công dân tốt của đất nƣớc. Ban Chấp hành
Đoàn các cấp có trách nhiệm xây dựng tổ chức Đội, lựa chọn, đào tạo, bồi dƣỡng cán
bộ làm công tác thiếu nhi, phối hợp với các cơ quan nhà nƣớc, các đoàn thể và tổ chức
kinh tế - xã hội, chăm lo, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt động
của Đội.
TP.HCM MINH
48
3. Tính chất cơ bản của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có các tính chất cơ bản sau:
a) Tính chính trị.
Tổ chức Đoàn do Đảng và Bác Hồ sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, do đó, Đoàn
lấy mục tiêu, lý tƣởng của Đảng làm mục tiêu phấn đấu của tổ chức mình. Mục tiêu
tổng quát đó đã đƣợc thông qua tại Đại hội X của Đảng (2006) là phấn đấu xây dựng
một nƣớc Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Là
thành viên trong hệ thống chính trị, trong quá trình xây dựng, phấn đấu và trƣởng
thành, mỗi bƣớc đi của Đoàn đều có sự lãnh đạo, dìu dắt của Đảng. Do đó, giữa tổ
chức Đoàn với Đảng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ, không thể tách rời: đó là sự
lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của Đảng cả trên phƣơng diện tƣ tƣởng,
chính trị và tổ chức đối với Đoàn Thanh niên.
Đảng đƣa ra cƣơng lĩnh, chủ trƣơng, chính sách, chiến lƣợc phát triển đất nƣớc
và hoạch định chiến lƣợc công tác cán bộ cho cả hệ thống chính trị, đƣợc cụ thể hóa
vào Hiến pháp và pháp luật thành những điều luật cụ thể để mọi công dân, mọi tổ
chức trong xã hội thực hiện dƣới sự chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nƣớc. Do
đó, Đoàn Thanh niên phải là lực lƣợng xung kích đi đầu thực hiện thắng lợi đƣờng lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ chí Minh là nền tảng tƣ tƣởng
và kim chỉ nam cho tổ chức và hành động; đồng thời đứng vững trên lập trƣờng, tƣ
tƣởng của giai cấp công nhân, lấy nguyên tắt tập trung dân chủ, phê bình và tự phê
bình những vấn đề cốt lõi, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Vì vậy,
tổ chức Đoàn với tƣ cách là tổ chức quần chúng gần Đảng nhất, là đội dự bị tin cậy
của Đảng cũng đứng vững trên những quan điểm, lập trƣờng, nguyên tắc cơ bản trên
trong quá trình tổ chức và hoạt động của tổ chức mình.
b) Tính tiên tiến.
Với tƣ cách là đội dự bị đáng tin cậy của Đảng, là ngƣời chủ tƣơng lai của
nƣớc nhà, mỗi đoàn viên của Đoàn là những hạt nhân nòng cốt trong mọi sinh hoạt,
công tác, hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt
Nam, Hội Sinh viên Việt Nam và phong trào thanh thiếu nhi. Tính tiên tiến thể hiện
TP.HCM MINH
49
trƣớc hết ở tinh thần: đâu Đảng, Tổ quốc cần thanh niên có; việc gì khó thanh niên
làm với quyết tâm và lòng hăng say của tuổi trẻ nguyện làm theo lời Bác dạy:
Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.
Tính tiên tiến thể hiện ở ngay mục tiêu lý tƣởng của Đoàn, ngay trong hành
động, việc làm của mỗi đoàn viên, thanh niên; nói đi đôi với làm, học đi đôi với hành;
đồng hành cùng thanh niên trong mọi lĩnh vự hoạt động, tiên tiến trong học tập vì
ngày mai lập thân, lập nghiệp. Tính tiên tiến còn là xung phong, xung kích, tình
nguyện, tự nguyện, tự giác trong tất cả các hoạt động của tổ chức Đoàn, Hội, tất cả vì
mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tính tiên tiến
còn thể hiện trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc và kế tục truyền
thống cách mạng của các thế hệ cha ông đi trƣớc; dám đƣơng đầu đấu tranh với các
quan điểm sai trái, đi ngƣợc lại lợi ích của Đảng, Nhà nƣớc và dân tộc; kiên quyết bảo
vệ Đảng, chính quyền và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; bênh vực, bảo vệ chân lý, chống lại
những thói hƣ, tật xấu trong xã hội, chống tiêu cực, tham những, lãng phí; đại diện và
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thanh thiếu nhi.
Mặt khác, tính tiên tiến còn phải đƣợc thể hiện rõ nét trong công tác tuyên
truyền, phổ biến và bảo vệ pháp luật, chấp hành nghiêm pháp luật, trong đó liên quan
trƣớc hết đến lĩnh vực: văn hóa giao thông, văn hóa công sở, văn hóa giao tiếp, ứng xử
và cải cách hành chính…
c) Tính quần chúng (xã hội)
Thanh niên là lực lƣợng to lớn trong xã hội, luôn chiếm tỷ lệ bình quan khoảng
1/3 dân số ( hiện nay dân số Việt Nam khoảng 86 triệu ngƣời), do đó tỷ lệ thanh niên
có mặt trong các giai tầng của xã hội là rất lớn. Song phải khẳng định rằng, thanh niên
có vị trí, vai trò qan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị, an ninh - quốc
phòng. Ở đâu có thanh niên, ở đó có sự định hƣớng chính trị, giúp đỡ, tƣ vấn, đồng
hành cùng thanh niên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam.
TP.HCM MINH
50
Tính quần chúng của tổ chức Đoàn thể hiện rất rõ ở những hoạt động của công
tác Đoàn, Hội và phong trào thanh thiếu niên. Những hoạt động đó không chỉ lan tỏa
đến những đoàn viên, hội viên mà còn ảnh hƣởng đến cả những thanh niên chƣa có
điều kiện trở thành đoàn viên, hội viên.
Tính quần chúng còn đƣợc thể hiện ở chỗ Đoàn là thành viên tập thể của Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, đóng vai trò nòng cốt, định hƣớng chính trị cho hoạt
động của Hội. Đoàn có mối quan hệ phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và xã hội nghề nghiệp… để tạo nguồn lực, điều kiện, góp phần cho các
hoạt động.
III. CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN VÀ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH.
1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy, đội quân
xung kích cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức do Đảng, Bác Hồ trực tiếp
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến tự nguyện
phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tƣởng của Đảng, đó là những đoàn viên cộng sản trẻ
tuổi, nguồn bổ sung quan trọng, bảo đảm cho Đảng phát triển không ngừng. Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên. Đảng
trực tiếp giao cho Đoàn giáo dục, giúp đỡ những thanh niên tiên tiến trở thành đoàn
viên, từ những đoàn viên ƣu tú trở thành đảng viên. Vì vậy, Đoàn Thanh niên là một
trong những tổ chức quần chúng gần Đảng nhất.
Đoàn tuyên truyền giáo dục, giới thiệu đẻ thanh niên nhận thức và hiểu sâu sắc
về Đảng, đóng góp ý kiến cho Đảng, phê bình cán bộ, đảng viên, tích cực tham gia
cuộc vận động xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đoàn bồi dƣỡng những cán bộ,
đoàn viền xuất sắc để bổ sung vào đội ngũ cán bộ cho Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đoàn Thanh niên là đội quân xung kích cách mạng của Đảng , đi đâu trong mọi
khó khăn trên mọi lĩnh vự kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội. Ngày nay, bƣớc vào
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, Đoàn càng thể hiện rõ chức
năng, nhiệm vụ của mình trong động viên đông đảo đoàn viên thanh niên phát huy vai
TP.HCM MINH
51
trò xung kích sáng tạo, đi đầu trong phát triển kinh tế, xã hội, phấn đấu vì sự nghiệp
đổi mới của Đảng, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, là đội quân xung kích
cách mạng, là nơi bổ sung nguồn sinh lực mới quan trọng cho Đảng.
2. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là trƣờng học xã hội chủ nghĩa
của thanh niên; là ngƣời đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính
đáng của tuổi trẻ.
Là tổ chức chính trị - xã hội, là trƣờng học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, vì
thanh niên, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục đổi mới toàn diện, phấn
đấu thực sự trở thành ngƣời bạn thân thiết của thanh niên, định hƣớng cho thanh niên
đến với lý tƣởng cách mạng và những giá trị cao đẹp, đồng hành với thanh niên lập
thân, lập nghiệp, xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Muốn làm
tốt chức năng là trƣờng học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, là ngƣời đại diện, chăm
lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của tuổi trẻ thì tổ chức Đoàn cần quan
tâm một số vấn đề sau:
Một là, tạo môi trƣờng giúp thanh niên phát huy vai trò xung kích trong các
lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; tổ chức các phong trào, các cuộc vận động và
các hoạt động hƣớng tới mục tiêu đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên, tạo môi
trƣờng lành mạnh, an toàn cho thanh niên rèn luyện và tự khẳng định, vì sự tiến bộ
của thanh niên đối với sự phát triển của đất nƣớc.
Hai là, đa dạng hóa các hình thức giáo dục, góp phần để mỗi bạn trẻ hƣớng đến
những giá trị cao đẹp, sống có ích và có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội; tổ chức
thực hiện hiệu quả các cuộc vận động: “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời
Bác”, gắn với triển khai sâu rộng chƣơng trình “Thắp sáng ƣớc mơ tuổi trẻ Việt Nam
vì dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tạo sự chuyển biến rõ
nét trong nhận thức và việc làm của mỗi đoàn viên, thanh niên; chú trọng phát hiện,
xây dựng, tuyên dƣơng các tập thẻ, cá nhân điển hình; tổ chức nhân rọng, để các điên
hình tỏa sáng tỏng các tập thể thanh niên, đem đến cho nhiều bạn trẻ niềm tin và hoài
bão vƣơn lên khẳng định bản thân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lƣợng các phong trào hành động cách mạng, góp
phần đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của thanh niên, vì sự tiến bộ của thanh niên,
TP.HCM MINH
52
vì sự phát triển của đất nƣớc; hỗ trợ thanh niên học tập , nâng cao trình độ học vấn
chuyên môn, nghiệp vụ; tƣ vấn hƣớng nghiệp, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống
văn hóa tinh thần; phát triển kỹ năng xã hội, đồng thời tạo môi trƣờng để thanh niên
phát huy tiềm năng của mình.
Bốn là, tổ chức cho thanh niên tích cực tham gia các chƣơng trình phát triển
kinh tế - xã hội; chủ động đảm nhận các việc khó, việc mới, các công trình, phần việc
thanh niên; đi đầu thực hiện các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
nông thôn, bảo vệ môi trƣờng, bảo đảm an toàn giao thông; cổ vũ trí thức trẻ tình
nguyện tham gia phát triển kinh tế nông thôn, miền núi.
3. Những truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh.
Một là, truyền thống yêu nước nồng nàn gắn bò thiết tha, trung thành tuyệt đối
với Đảng, với nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền thống quý báu này đã tạo
nên động lực tinh thần vô giá xuyên suốt các thời kỳ lịch sử đƣợc thể hiện trong các
hành động cách mạng, nhất là ở những bƣớc ngoặt lịch sử trong suốt gần 80 năm qua.
Hai là, truyền thống của đội quân xung kích cách mạng, dám đón lấy những
nhiệm vụ nặng nề, dám đi đến những nơi khó khăn gian khổ, dám suy nghĩ sáng tạo…
để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đâu cần thanh
niên có, việc gì khó thanh niên đi đầu”, thế hệ trẻ nƣớc ta luôn nêu cao tinh thần hăng
hái, sẵn sàng xung phong đến những nơi Tổ quốc cần, dù đó là biên cƣơng hay hải
đảo, dù công việc đó là mới mẻ hay khó khăn.
Ba là, truyền thống gắn bó đoàn kết trong lớp ngƣời cùng lứa tuổi, trong các tổ chức
Đoàn và Hội; đoàn kết gắn bó với nhân dân; thƣơng yêu giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn
nạn, đặc biệt là vào những thời điểm phải đối mặt với kẻ thù hoặc thiên tai. Đoàn kết
dân tộc và đoàn kết quốc tế luôn hòa quyện vào nhau, thông cảm và đồng tâm hiệp lực
vì những mục tiêu cao cả của dân tộc và thời đại.
Bốn là, truyền thống hiếu học, ham hiểu biết để tự mình nâng cao trình độ chính trị,
văn hóa, khoa học, kỹ thuật, quản lý và dân sự … say mê sáng tạo trong hoạt động
thực tiễn để cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc và của Đảng. Học ở nhà trƣờng, học
trong cuộc sống, học để làm ngƣời có ích cho xã hội, luôn đƣợc các thế hệ thanh niên
ta phấn đấu, thực hiện ngày càng tốt hơn.
TP.HCM MINH
53
Phát huy những truyền thống quý báu đó, các thế hệ đoàn viên, thanh niên Việt Nam
tiếp bƣớc cha anh góp phần xây dựng sự nghiệp cách mạng của nƣớc ta ngày càng
phát triển mạnh mẽ, vƣợt qua mọi khó khăn, thử thách, đạt đƣợc những thành tích vẻ
vang, vì một Việt Nam dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chuyên đề 5
ĐOÀN VIÊN PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH LỰC LƢỢNG XUNG KÍCH
CÁCH MẠNG, GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÀ BẢI VỆ TỔ QUỐC VIỆT
NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. VỊ TRÍ, VAI TRÕ, NIỆM VỤ CỦA ĐOÀN VIÊN
1. Đoàn viên
Đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thanh niên Việt Nam tiên
tiến, phấn đấu vì lý tƣởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, có
tinh thần yêu nƣớc, tự cƣờng dân tộc, có lối sống lành mạnh, cần kiệm, trung thực;
tích cực, gƣơng mẫu trong học tập, lao động, hoạt động xã hội và bảo vệ Tổ quốc, gắn
bó mật thiết vơi thanh niên; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nƣớc và Điều
lệ Đoàn.
1. Vị trí, vai trò của ngƣời đoàn viên
Đoàn viên là nhân vật trung tâm của tổ chức Đoàn. Danh hiệu đoàn viên Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi thanh niên khi gia
nhập Đoàn. Nâng cao chất lƣợng đoàn viên là bồi đắp, rèn luyện bản lĩnh chính trị,
tính tiền phong, gƣơng mẫu và sức quy tụ thanh thiếu nhi của ngƣời đoàn viên; là
nhiệm vụ của mỗi cấp bộ Đoàn và là trách nhiệm của từng đoàn viên.
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII xác định: Ngƣời đoàn viên của thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc là ngƣời công dân tốt, ngƣời bạn tốt của thanh niên,
có uy tín trong mỗi tập thể thanh niên và ở trong cộng đồng dân cƣ. Đại hội Đoàn toàn
quốc lần thứ IX khẳng định phƣơng châm cơ bản trong xây dựng tổ chức Đoàn là;
Mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên phải rộng rãi; Đoàn phải mạnh; đoàn viên phải
tiêu biểu trong mỗi tập thể thanh niên và ở cộng đồng dân cƣ.
Ngƣời đoàn viên là nhân vật trung tâm tạo nên sức mạnh của tổ chức Đoàn, là cầu
nối quan trọng giữa tổ chức Đoàn với thanh niên, là lực lƣợng chăm sóc và dìu dắt
TP.HCM MINH
54
thiếu niên, nhi đồng; là ngƣời có vai trò tiên phong trong triển khai thực hiện các
phong trào, các hoạt động của Đoàn; là hình mẫu cho thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng học tập và làm theo.
2. Nhiệm vụ của ngƣời đoàn viên
Vinh dự đƣợc đứng tên trong tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh – tổ
chức của những ngƣời cộng sản trẻ tuổi, của những thanh niên tiên tiến – mỗi đoàn
viên phải có trách nhiệm thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ theo chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức Đoàn.
Một là, phấn đấu theo mục tiêu, lý tƣởng của Đảng và Bác Hồ.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức do Đảng và Bác Hồ sáng lập và
rèn luyện, một lòng đi theo Đảng, do đó, trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, Đoàn
luôn lấy mục tiêu, lý tƣởng của Đảng và Bác Hồ làm mục tiêu phấn đấu của mình.
Mỗi đoàn viên luôn xác định mục tiêu lý tƣởng của mình là phấn đấu vì “ Độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội” và vì mục tiêu “Dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Tích cực học tập, lao động, rèn luyện, tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, phát huy chức năng Đoàn là trƣờng học xã hội chủ nghĩa của thanh niên.
Mỗi đoàn viên có trách nhiệm phát huy chức năng Đoàn là trƣờng học xã hội chủ
nghĩa của thanh niên, vì thanh niên. Có đóng góp cụ thể góp phần đổi mới hoạt động
của Đoàn, phấn đấu để tôt chức Đoàn thực sự trở thành ngƣời bạn thân thiết của thanh
niên, định hƣớng cho thanh niên đến với lý tƣởng cách mạng của Đảng và dân tộc,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ba là, tiên phong thực hiện các phong trào hành động cách mạng.
Tích cực triển khai và tham gia thực hiện các nội dung của phong trào thanh niên
xung kích trong phát triển kinh tế - xã hội và bào vệ Tổ quốc. Tạo điều kiện cho thanh
niên tham gia tốt nhất các phong trào; tạo môi trƣờng để thanh niên phát huy tài năng,
phát huy tinh thần trách nhiệm trong phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp tích cực cho
tập thể và cộng đồng.
Bốn là, chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của thanh niên.
TP.HCM MINH
55
Mỗi đoàn viên có trách nhiệm phát huy vai trò của tổ chức Đoàn trong đồng hành
với thanh niên lập than, lập nghiệp, góp phần chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp
pháp cho thanh niên, giúp thanh niên tự khẳng định mình trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tăng cƣờng đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên, tạo môi trƣờng lành
mạnh, an toàn cho thanh niên rèn luyện và tự khẳng định, vì sự tiến bộ của thanh niên.
Năm là, tích cực tham gia công tác xây dựng Đoàn.
Tăng cƣờng quan tâm, giúp đỡ thanh, thiếu niên rèn luyện, phấn đấu trở thành đoàn
viên. Tuyên truyền, giáo dục để mỗi thanh niên khi vào Đoàn đều có nhận thức và
hiểu biết cơ bản về Đoàn, đƣợc rèn luyện qua hoạt động của Đoàn, là thanh niên tiêu
biểu của tập thể thanh niên. Liên hệ mật thiết với thanh niên, tích cực xây dựng Hội
Liên hiệp Thanh niên tiền phong Hồ Chí Minh.
Sáu là, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân.
Mỗi đoàn viên gƣơng mẫu chấp hành và vận động thanh, thiếu nhi thực hiện đƣờng
lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc; tham gia xây dựng,
bảo vệ Đảng và chính quyền; chấp hành Điều lệ Đoàn và các nghị quyết của Đoàn;
tích cực tuyên truyền về tổ chức Đoàn trong thanh niên; sinh hoạt và đóng đoàn phí
đúng quy định. Đặc biệt, mỗi đoàn viên, thanh niên cần nổ lực học tập, rèn luyện để
tham gia hƣởng ứng tốt cuộc vận động “ Đoàn viên phấn đấu để trở thành đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam” góp phần quan trọng vào chủ trƣơng liên tục bổ sung lực
lƣợng trẻ có chất lƣợng cho Đảng.
3. Đoàn viên rèn luyện, phấn đấu theo chƣơng trình rèn luyện đoàn viên
Mỗi đoàn viên không ngừng học tập, tu dƣỡng, rèn luyện các nội dung của chƣơng
trình rèn luyện đoàn viên trong thời kì mới với 5 tiêu chí rèn luyện và 10 tiêu chí hành
động sau:
Phát huy cao nhất khả năng tự rèn luyện để có đƣợc những kiến thức, hiểu biết cơ
bản, có đạo đức cách mạng, phẩm chất chính trị vững vàng theo 5 tiêu chí rèn luyện,
bao gồm:
- Giàu lòng yêu nƣớc, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Đoàn kết, thân ái, vì cộng đồng.
- Sống văn hóa, tuân thủ pháp luật.
- Giàu tri thức, có sức khỏe, có kĩ năng.
TP.HCM MINH
56
- Tự tin, bản lĩnh trong hội nhập.
- Mỗi đoàn viên cần có những việc làm cụ thể, thiết thực, phù hợp khả năng, trình
độ, nghiệp vụ, để nâng cao năng lực, cống hiến hết mình trong học tập, sinh hoạt,
công tác và hoạt động xã hội… thực hiện tốt nhiệm vụ của ngƣời đoàn viên theo 10
tiêu chí hành động, đó là:
- Sẵn sàng giới thiệu về lịch sử, truyền thống của quê hƣơng, đất nƣớc Việt Nam với
bạn bè trong và ngoài nƣớc.
- Sẵn sàng đảm nhận những việc khó, việc mới.
- Sẵn sàng giúp đỡ ngƣời già, trẻ em, ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
- Xung kích tham gia các hoạt động tình nguyện
-Xung kích tham gia nếp sống lành mạnh, văn minh, phòng chống tệ nạn xã hội.
-Xung kích bảo vệ môi trƣờng sinh thái.
- Thƣờng xuyên chấp hành pháp luật.
- Thƣờng xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn.
- Thƣờng xuyên rèn luyện thể dục thể thao.
-Thƣờng xuyên vận động thanh thiếu nhi tham gia các hoạt động Đoàn, Hội, Đội: giới
thiệu đƣợc thanh niên vào Đoàn.
II. PHÁT HUY VAI TRÕ XUNG KÍCH CÁCH MẠNG CỦA ĐOÀN VIÊN
THANH NIÊN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX đã phát động phong trào “5 xung kích phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” nhằm phát huy mạnh mẽ tiềm năng của thanh
niên, đồng thời tạo môi trƣờng giáo dục, rèn luyện cho thanh niên, vì sự phát triển của
thanh niên, của cộng đồng và đất nƣớc. Việc phát huy vai trò của thanh niên tham gia
toàn diện và hiệu quả các nội dung của phong trào sẽ góp phần quan trọng thực hiên
mục tiêu “… phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đƣa đất nƣớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” nhƣ đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng đề ra. Thiết thực hƣởng ứng phong trào, mỗi đoàn viên cần phát
huy vai trò xung kích trong các lĩnh vực bằng những việc làm cụ thể.
1.Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội
Mục tiêu của phong trào nhằm phát huy tinh thần lao động sáng tạo và vai trò tiền
phong gƣơng mẫu của thanh niên trong lao động với năng suất cao hơn, chất lƣợng tốt
TP.HCM MINH
57
hơn và hiệu quả thiết thực hơn; động viên thanh niên tích cực tham gia các chƣơng
trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng và cả nƣớc.
Đoàn viên thanh niên tích cực hƣởng ứng phong trào “tuổi trẻ sáng tạo” với mục tiêu
ở đâu có đoàn viên và hoạt động Đoàn, ở đó có hoạt động sáng tạo. Đoàn viên thanh
niên trong trƣờng học, đề xuất ý tƣởng sáng tạo, sáng kiến đổi mới nội dung phƣơng
pháp dạy học, nâng cao năng lực nghiên cứu và thực hành; trong các cơ quan hành
chính, công sở, nhà máy, xí nghiệp, nghiên cứu sáng kiến trong quản lý, xây dựng
phong cách, tác phong công nghiệp, cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất lƣợng sản phẩm,
dịch vụ; trong đô thị, đề xuất sang kiến xây dựng và quản lý đô thị, xây dựng nếp sống
văn minh đô thị; trong nông nghiệp và nông thôn xung kích ứng ứng dụng tiến bộ
khoa học kĩ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống; trong lực lƣợng vũ trang,
phát huy sáng kiến trong huấn luyện, bảo quản, sử dụng trang thiết bị, đảm bảo các
điều kiện thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.
Đoàn viên thanh niên tích cực tham gia các chƣơng trình, dự án phát triển kinh tế -
xã hội của địa phƣơng, đơn vị; tham gia các chƣơng trình, dự án phát triển kinh tế - xã
hội do Đoàn thanh niên đảm nhiệm nhƣ: xây dựng các làng thanh niên lập nghiệp, dự
án nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, đảo thanh niên. Ở các địa phƣơng, thanh niên tham
gia các công trình xây dựng hạ tầng nông thôn, xây dựng và nâng rộng các mô hình tổ
hợp tác thanh niên; tham gia các hoạt động chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học -
kĩ thuật trong sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp.
Đoàn viên thanh niên tham gia đăng kí đảm nhận các công trình, phần việc thanh
niên, các đề tài khoa học, ứng dụng khoa học – kĩ thuật trong các lĩnh vực, chú trọng
nâng cao chất lƣợng và xây dựng thƣơng hiệu sản phẩm trong sản xuất kinh doanh và
thƣơng hiệu danh nghiệp.
2. Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng
Để thực hiện phong trào “thanh niên tình nguyện” theo hƣớng đa dạng về nội dung,
nâng cao về chất lƣợng phù hợp với đối tƣợng, góp phần tập hợp, giáo dục thanh niên
và tham gia giải quyết những vấn đề bức xúc của cộng đồng, mỗi đoàn viên thanh
niên cần có hành động cụ thể tham gia nội dung “Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống
cộng đồng “ nhƣ:
TP.HCM MINH
58
- Chủ động đăng kí tham gia các đội hình tình nguyện tập trung giải quyết những vấn
đề bức xúc của cộng đồng: công tác xóa đói, giảm nghèo, sức khỏe cộng đồng, nâng
cao dân trí, tình nguyện chi viện các công trình trọng điểm quốc gia; tham gia bảo vệ
môi trƣờng, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai; tham gia các hoạt động tình
nguyện tại chỗ, tình nguyện ngắn hạn ở cơ sở hoặc tham gia các hoạt động trung hạn
và dài hạn, các đội hình chuyên do Đoàn phát động tổ chức.
- Phát huy sở trƣờng và năng lực chuyên môn để tham gia các lĩnh vực hoạt động tình
nguyện bảo đảm tính hiệu quả, thiết thực đối với xã hội và cộng đồng. Lực lƣợng học
sinh, sinh viên tham gia xây dựng môi trƣờng giáo dục trong và ngoài nhà trƣờng và
tham gia các đội hình tình nguyện chuyên. Học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp giao tiến
bộ khoa học – kĩ thuật; tham gia dài hạn các chƣơng trình, dự án phát triển hạ tầng và
kinh tế - xã hội nông thôn. Thanh niên khối công nghiệp, dịch vụ và các cơ quan hành
chính tổ chức thƣờng xuyên các “ Ngày thứ bảy tình nguyện”, đảm nhận các nhiệm vụ
khó khăn, đột xuất, các việc mới, việc khó trong nhiệm vụ chuyên môn và sản xuất,
kinh doanh. Thanh niên khu vực đô thị đăng ký đảm nhận thƣờng xuyên các “ Tuyến
đƣờng an toàn giao thông thanh niên”, “Ngõ phố văn minh”. Tổ chức tốt các hoạt
động truyền thông về dân số - sức khỏe - môi trƣờng, các đội hình tình nguyện giữ gìn
an ninh trật tự, vì cuộc sống cộng đồng.
Khuyến khích đoàn viên thanh niên có điều kiện tham gia các chƣơng trình tình
nguyện quốc tế; phối hợp hỗ trợ các tình nguyện viên quốc tế đến hoạt động tình
nguyện tại Việt Nam.
Các cấp bộ Đoàn chú trọng làm tốt công tác chỉ đạo hƣớng dẫn hoạt động tình
nguyện của thanh niên; phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị, nhà trƣờng có lực lƣợng tình
nguyện và địa phƣơng, đơn vị nơi đến hoạt động tình nguyện để đảm bảo các điều
kiện tốt nhất cho các hoạt động tình nguyện của đoàn viên, thanh niên.
3. Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
Để góp phần tham gia bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc,
mỗi đoàn viên thanh niên cần hành động thiết thực tham gia nội dung “Xung kích bảo
vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội”.
TP.HCM MINH
59
Đòan viên thanh niên phải tích cực tham gia hƣởng ứng cuộc vận động “Nghĩa tình
biên giới, hải đảo”, cuộc vận động “Đền ơn đáp nghĩa” bằng những việc làm thiết
thực. Cùng với các tổ chức, đoàn thể ở địa phƣơng, đoàn viên phải tham gia làm tốt
công tác hậu phƣơng quân đội nhƣ chăm lo, giúp đỡ các gia đình chính sách, các gia
đình có con em đang làm nhiệm vụ nơi biên giới, hải đảo; tuyên truyền, giáo dục ý
thức nâng cao cảnh giác cách mạng, ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ trong tham gia các
hoạt động bảo vệ Tổ quốc; tham gia các hoạt động góp phần nâng cao dân trí, xóa đói
giảm nghèo, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân; tham gia các
hoạt động kết nghĩa, đỡ đầu, chi viện cho các đơn vị, địa phƣơng nơi biên giới, hải
đảo.
Thanh niên quân đội tích cực hƣởng ứng phong trào “ Thi đua rèn đức, luyện tài,
xung kích, sáng tạo, xứng danh bộ đội Cụ Hồ”; thanh niên công an hƣởng ứng phong
trào “Tuổi trẻ Công an nhân dân học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy – xung kích,
sáng tạo, tình nguyện lập công vì an ninh Tổ quốc”; phát huy vai trò nòng cốt của
thanh niên quân đội, công an trên mặt trận đấu tranh phòng chống tội phạm tệ nạn xã
hội, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; tích cực hƣởng ứng phong trào đoàn kết ba lực
lƣợng: thanh niên lực lƣợng vũ trang, thanh niên trong các trƣờng, thanh niên trên địa
bàn dân cƣ; phát huy vai trò nòng cốt, xung kích của thanh niên lực lƣợng vũ trang
trên địa bàn đóng quân và trên đƣờng hành quân dã ngoại thông qua các mô hình làm
công tác dân vận, tham gia xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, chăm sóc sức khỏe nhân
dân, tham gia củng cố tổ chức Đoàn, Hội trên địa bàn.
Hằng năm đoàn viên thanh niên phải tham gia động viên thanh niên lên đƣờng nhập
ngũ bảo đảm cho chỉ tiêu và chất lƣợng; có hình thức tham hỏi, động viên thanh niên
tại ngũ yên tâm rèn luyện, công tác; chủ động tham gia các hoạt động đón thanh niên
xuất ngũ trở về đại phƣơng; chia sẻ kinh nghiệm, thông tin và giới thiệu việc làm cho
bộ đội, công an xuất ngũ. Tổ chức Đoàn, Hội cơ sở chủ động thành lập cà phát huy
hoạt động của chi hội Cựu quân nhân, các câu lạc bộ Đồng đội trẻ tập hợp, giúp đỡ
thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự địa phƣơng trong các hoat động Đoàn, Hội.
Đoàn viên thanh niên phải tích cực tham gia đội hình thanh niên xung kích an ninh,
thanh niên tự quản ở nhà máy, công sở, trƣờng học, địa bàn dân cƣ, phòng chống cháy
nổ, tội phạm và tệ nạn xã hội, giáo dục và cảm hóa thanh thiếu niên chậm tiến; xây
TP.HCM MINH
60
dựng các mô hình “3 cùng” (cùng lao động – sinh hoạt – vui chơi) để góp phần phòng
chống ma túy. Đặc biệt, đoàn viên thanh niên cần coi trọng công tác tham gia giữ gìn
trật tự trị an, an toàn giao thông. Mỗi đoàn cơ sở coi việc chấp hành nghiêm chỉnh
Luật An toàn giao thông là một trong các tiêu chí rèn luyện của đoàn viên, tiêu chuẩn
đánh giá chất lƣợng hoạt động của cơ sở Đoàn.
4. Xung kích thực hiện cải cách hành chính
Việc tham gia thực hiện cải cách hành chính là môi trƣờng, điều kiện tốt để mỗi
cán bộ, công chức phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, nâng cao trình độ chuyên môn,
rèn luyện đạo đức cách mạng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính. Để phát
huy vai trò trong xây dựng nền hành chính trong sạch, hiện đại, xây dựng ngƣời công
chức trẻ giỏi, tận tụy với nhân dân, mỗi xông chức trẻ cần có hành động thiết thực
tham gia nội dung “Xung kích thực hiện cải cách hành chính” ở cơ quan, đơn vị:
- Tuyên truyền, phổ biến trong thanh niên và nhân dân về nội cung và ý nghĩa của
chƣơng trình tổng thể cải cách hành chính; tham gia các cuộc thi tìm hiểu về nội dung
cải cách hành chính do các cấp, các ngành tổ chức; xât dựng mẫu hình ngƣời cán bộ
công chức trẻ ”Năng động, sáng tạo, giỏi nghề, tận tụy, cần kiệm”; trong học tập, công
tác và phục vụ nhân dân, cần hƣởng ứng và vận dụng thiết thực nộ dung của phong
trào “Ba trách nhiệm”, gồm: trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với cơ quan, trách
nhiệm với nhân dân.
- Tiên phong đi đầu và vận động đoàn viên, thanh niên học tập và ứng dụng công
nghệ thông tin vào công tác chuyên môn, đề xuất các giải pháp cải cách hành chính,
các mô hình quản lý hành chính và bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả; tạo điều
kiện cho thanh niên và nhân dân có cơ hội tiếp cận, tìm hiểu hệ thống hành chính nhà
nƣớc.
- Tiên phong và vận động đoàn viên, thanh niên xung kích, sáng tạo trong xây dựng
văn minh công sở, đề xuất sáng kiến cải tiến quy trình quản lý và xử lý công việc,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tình nguyện làm thêm ngày, thêm giờ; tình
nguyện tƣ vấn, hƣớng dẫn, giúp đỡ nhân dân giải quyết các thủ tục hành chính; trong
cơ quan hành chính tập trung xây dựng mô hình “Công sở văn minh”; cán bộ công
chức trẻ đăng ký đảm nhận và tham mƣu cải tiến các khâu trong quá trình giải quyết
thủ tục hành chính theo phƣơng châm nhanh, gọn, hiệu quả. Trong các doanh nghiệp,
TP.HCM MINH
61
đoàn viên, thanh niên tham gia xây dựng “Văn hóa doanh nghiệp”, “Văn minh thƣơng
mại”, “Doanh nghiệp thân thiện”.
- Phát huy vai trò xung kích của đoàn viên,thanh niên công tác trong đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí; thông qua tổ chức Đoàn, tham gia xây dựng và giám sát
việc thực hiện các chính sách của Nhà nƣớc; đề xuất sửa đổi, bổ sung những chính
sách pháp luật bất cập, không còn phù hợp; xây dựng các chuyên đè cải cách hành
chính trong tổ chức Đoàn các cấp về lề lối làm việc; về sắp xếp tổ chức bộ máy tinh
gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ; về phƣơng pháp đi cơ sở và tiếp xúc với đoàn viên,
thanh niên; về ban hành văn bản, văn hóa hội họp; đảm nhận các công trình thanh
niên, đề tài, sáng kiến cải cách hành chính; tuyên truyền, tôn vinh cán bộ, công chức
trẻ giỏi, những tập thể , cá nhân có sáng kiến trong cải cách hành chính.
5. Xung kích trong hội nhập kinh tế quốc tế
Để phát huy vai trò năng động, sáng tạo của thanh niên, nắm bắt cơ hội, vƣợt qua
thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tếtheo chủ trƣơng của Đảng, mỗi đoàn viên,
thanh niên cần có hành động thiết thực trong tham gia nội dung “Xung kích trong hội
nhập kinh tế quốc tế”.
Đoàn viên, thanh niên tích cực tự tìm tòi, học tập, nghiên cứu để không ngừng nâng
cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, luật pháp quốc tế…
góp phần đáp ứng yêu cầu, chủ động, tự tin, tham gia các hoạt động, các quá trình của
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; tham gia tuyên truyền, định hƣớng,
hƣớng dẫn thanh niên về kiến thức, kỹ năng, bản lĩnh chính trị, bản lĩnh văn hóa khi
tham gia hội nhập.
Các cấp độ Đoàn tham mƣu xây dựng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích thanh
niên tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; vận động, hỗ trợ các doanh nghiệp trẻ đi đầu
trong hội nhập kinh tế quốc tế; hỗ trợ xây dựng và quảng bá thƣơng hiệu, sản phẩm
của doanh nghiệp trẻ; hỗ trợ đoàn viên, thanh niên “Khởi sự doanh nghiệp”, cung cấp
thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế, về cơ hội và thách thức, kinh nghiệm trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua hệ thống báo chí của Đoàn, thông qua sinh
hoạt chuyên đề; tham mƣu cho Đảng, Nhà nƣớc chính sách hỗ trợ, khuyến khích thanh
niên hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thu hút và sử dụng tài năng trẻ trong và
ngoài nƣớc; chính sách đào tạo lãnh đạo trẻ.
TP.HCM MINH
62
Các doanh nhân trẻ tiên phong trong hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các hợp tác
doanh nghiệp, xây dựng và quảng bá thƣơng hiệu, trao đổi thông tin thị trƣờng… qua
đó cung cấp thông tin, định hƣớng và tạo điều kiện cho đoàn viên, thanh niên có cơ
hội sản xuất kinh doanh, lập thân, lập nghiệp.
Chuyên đề 6
THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC VÀ HỘI NHẬP QUỐC
TẾ
I. VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
1. Thanh niên Việt Nam
Thanh niên Việt Nam (có độ tuổi từ 16 đến 30, theo qui định của luật Thanh niên) là
một tầng lớp xã hội đặc thù, chiếm số đông trong dân số cả nƣớc. Thanh niên Việt
Nam không phải là một giai cấp nhƣng có mặt ở cả giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức; thanh niên không phải là một tầng lớ xã hội độc lập mà có
quan hệ gắn bó mật thiết với các tầng lớp khác trong xã hội; thanh niên có mặt ở tất cả
các địa phƣơng, các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nƣớc.
Thanh niên Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử dựng nƣớc và giữ
nƣớc, trong sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đời sống chính trị và nền văn hóa của
đất nƣớc. Thanh niên đang là lực lƣợng xã hội to lớn của hiện tại và là chủ thể sáng
tạo của tƣơng lai, họ không phải là một lực lƣợng quan trọng của xã hội, mà họ là
ngày mai của xã hội.
2. Vị trí, vai trò của thanh niên Việt Nam
Thanh niên Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử luôn giữ vai trò quan trọng, luôn thể
hiện tinh thần xã thần trong các cuộc chiến tranh giữ nƣớc và luôn là lực lƣợng quan
trọng trong thời kì kiến thiết đất nƣớc. Thanh niên Việt Nam trong cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ; trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nƣớc; trong thời kỳ kiến thiết đất nƣớc sau chiến tranh; trong thời kỳ
đổi mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệ hóa, hiện đại hóa đất nƣớc luôn phát huy truyền
thống của dân tộc, luôn nêu cao tinh thần xung phong, tình nguyện, xung kích, đi đầu
để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, nhà nƣớc và nhân dân giao phó.
TP.HCM MINH
63
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò và vị trí của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, ngƣời biểu lộ niềm tin vững chắc vào thế
hệ trẻ, là lớp ngƣời “xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “trong mọi công việc, thanh niên thi đua
thực hiện khẩu hiệu “Đâu cần, thanh niên có; việc gì khó, thanh niên làm”. Ngƣời
động viên khích lệ: “Thanh niên phải xung phong đến những nơi khó khăn gian khổ
nhất, nơi nào ngƣời làm ít kết quả, thanh niên xung phong đều làm cho tốt”.
Đảng xác định thanh niên giữ vị trí trung tâm trong chiến lƣợc phát huy nhân tố và
nguồn lực con ngƣời: “Đảng đặt niềm tin sâu sắc vào thanh niên, phát huy vai trò làm
chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên để thanh niên thực hiện đƣợc sứ mệnh lịch sử,
đi đầu trong cuộc đấu tranh chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ đất
nƣớc giàu mạnh, xã hội văn minh”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tƣ Ban Chấp hành
Trung ƣơng khóa VII nêu rõ: “ sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nƣớc
bƣớc vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách
mạng Việt Nam có vững bƣớc theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn
tùy thuộc vào lực lƣợng thanh niên”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp Hành
Trung ƣơng khóa X về “Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã khẳng định: “Thanh niên là
rƣờng cột của nƣớc nhà, chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc, là lực lƣợng xung kích
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, hội nhập quốc tế và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Thanh niên đƣợc đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lƣợc bồi dƣỡng,
phát huy nhân tố và nguồn lực con ngƣời. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục
tiêu, vừa là động lực đảm bảo cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nƣớc”.
Trƣớc sự quan tâm, chăm lo và kỳ vọng lớn lao của Đảng và Nhà nƣớc, hơn bao giờ
hết, mỗi thanh niên cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm để không ngừng học tập,
tu dƣỡng, rèn luyện, phấn đấu trở thành lực lƣợng xung kích thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
II. BỐI CẢNH, TÁC ĐỘNG, THỜI CƠ, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THANH NIÊN
VIỆT NAM
TP.HCM MINH
64
1. Bối cảnh trong nƣớc và quốc tế tác động đến thanh niên Việt Nam
Hiện nay, đất nƣớc ta đang trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới (từ năm
1986); tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện kinh tế tri thức;
tham gia sâu rộng vào hội nhập quốc tế và quá trình toàn cầu hóa; mở rộng quan hệ
đối ngoại theo phƣơng châm đa phƣơng hoa và đa dạng hóa, làm cho thế và lực của
nƣớc ta đƣợc củng cố vững chắc hơn, kinh tế có sự phát triển và tƣơng đối bền vững,
đời sống vầ vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng đƣợc cải thiện, quốc
phòng và an ninh, trật tự an toàn xã hội đƣợc bảo đảm.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh đạo đã thu đƣợc
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đƣa nƣớc ta ra khỏi khu vực kém phát
triển, tạo tiền đề quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp hiện đại vào những
năm tiếp theo. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội nƣớc ta trong những năm tới
còn gặp những khó khăn, thách thức. Thách thức chung lớn nhất mà Đảng ta đã xác
định đó là phải vƣợt qua nguy cơ tục hậu về kinh tế
Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, tạo điều kiện cho
các nƣớc phát triển kinh tế. Kinh tế của các nƣớc trên thế giới dần dần phục hồi sau
cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, nhƣng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất
trắc khó lƣờng. Hợp tác quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế là xu thế tất yếu, tạo ra nhiều
cơ hội phát triển nhƣng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đảng, gây ra những
thách thức không nhỏ cho các quốc gia, nhất là các nƣớc đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Cạnh tranh kinh tế - thƣơng mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng
lƣợng, thị trƣờng, nguồn vốn, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông
tin, công nghệ nano sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ có những bƣớc nhảy vọt, thời gian từ
phát minh đến ứng dụng ngày càng thu hẹp. Kinh tế tri thức sẽ đƣợc nhiều nƣớc, trong
đó có Việt Nam, ứng dụng và thực hiện.
Khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nƣớc giàu và nƣớc nghèo ngày càng lớn, sự
gia tăng dân số và cùng với việc di cƣ tự do, khủng hoảng lƣơng thực, bảo vệ môi
trƣờng và biến đổi khí hậu toàn cầu, các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia
và khủng bố quốc tế đòi hỏi phải có sự hợp tác các nƣớc trong khu vực và trên thế giới
cùng tham gia giải quyết.
TP.HCM MINH
65
2. Thời cơ đối với thanh niên Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đảng xác định thanh niên là ngƣời
chủ hiện tại và tƣơng lai của đát nƣớc, là đội quân xung kích cách mạng trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng, Nhà nƣớc,
các cấp, các ngành và toàn xã hội luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt đối với
thanh niên và tổ chức Đoàn, nhất là trong thời kì phát triển đất nƣớc hội nhập kinh tế
quốc tế.
Nhà nƣớc tăng cƣờng quản lý công tác thanh niên thông qua việc triển khai, thực hiện
Luật Thanh niên, Chiến lƣợc phát triển thanh niên đến năm 2010 và nhiều chính sách
thích hợp khác nhằm bồi dƣỡng, phát huy thanh niên và tạo điều kiện về cơ sở vật
chất phƣơng tiện cho công tác thanh niên; quá trình xã hội hóa công tác thanh niên
ngày càng đƣợc triển khai rộng rãi, tạo môi trƣờng, điều kiện thuận lợi để bồi dƣỡng
và phát huy thanh niên.
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu
đƣa nƣớc ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để Việt Nam cơ bản
trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại vào năm 2020 là điều kiện, môi
trƣờng thuận lợi để thanh niên thể hiện tài năng, sức trẻ, cống hiến cho đất nƣớc. Với
đƣờng lối đúng đắn của Đảng, đất nƣớc tiếp tục ổn định, vị trí không ngừng tăng lên
đã tạo cơ hội lớn cho thanh niên học tập, tiếp cận văn minh nhân loại, nâng cao tri
thức, nhất là những thành tựu khoa học – công nghệ. Sự quan tâm của mỗi gia đình
đối với lớp trẻ không ngừng tăng lên là cơ sở, nguồn lực, điều kiện quan trọng để
chăm lo tốt hơn cho thanh niên những năm tới đây.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không ngừng lớn mạnh, các hoạt động của
Đoàn bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nƣớc, phù hợp với từng đối tƣợng thanh niên,
phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ Tổ quốc. Đoàn từng bƣớc quan tâm, chăm lo tốt hơn các nhu cầu, nguyện vọng
chính đáng của thanh niên, trở thành ngƣời bạn gần gũi của thanh niên.
3. Thách thức đối với thanh niên Việt Nam
TP.HCM MINH
66
Tình hình thế giới và trong nƣớc đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó lƣờng, những
nguy cơ chung của đất nƣớc mà Đảng ta chỉ ra là những thách thức lớn đối với tuổi
trẻ:
- Kinh tế đất nƣớc vẫn còn nhiều khó khăn, chƣa đủ điều kiện để đáp ứng tốt cho các
nhu cầu của thanh niên cũng nhƣ của nhân dân trong các lĩnh vực học tập, nghề
nghiệp, việc làm, thu nhập, sức khỏe, nhu cầu vui chơi, giải trí, hôn nhân, gia đình…
Sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, quá
trình phát triển kinh tế thị trƣờng sẽ tạo ra những thách thức đối với thanh niên về
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, bản lĩnh và tác động sâu sắc đến
tƣ tƣởng, tình cảm, lối sống của thanh niên. Mặt khác, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
kéo theo sự chuyển dịch lao động trẻ, cơ cấu xã hội, nghề nghiệp của thanh niên. Số
thanh niên từ nông thôn ra thành phố, các khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế;
thanh niên lao dộng tự do, thanh niên thiếu việc làm, thu nhập không ổn định vẫn
ngày càng có chiều hƣớng gia tăng.
- Sự chống phá của các thế lực bên ngoài, các âm mƣu xóa bỏ những thành quả của
chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ những thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của đảng và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu của các
thế lực thù địch là luôn nhằm vào thanh niên, coi đây là đối tƣợng dễ lung lạc để dung
các thủ đoạn kinh tế, chính trị và văn hóa tác động làm biến chất, tạo mầm móng
chống đối chế độ; ra sức lôi kéo, tha hóa thanh niên, kích động thanh niên tham gia
các hoạt động gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị đất nƣớc.
- Dƣới sự tác động của toàn cầu hóa, những sản phẩm độc hại phi văn hóa bằng nhiều
con đƣờng, nhất là qua internet, các phƣơng tiện truyền thông sẽ tác động trực tiếp,
liên tục với cƣờng độ cao đến lối sống, nếp sống của thanh niên, tạo sức ép, gây nhiều
khó khăn, phức tạp cho việc bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc trong giới trẻ.
Sự gia tăng của các tệ nạn xã hội nhƣ ma túy, mại dâm, tội phạm nguy hiểm, côn đồ,
hung hãn, băng nhóm… chƣa đƣợc ngăn chặn hiệu quả; môi trƣờng xã hội chƣa lành
mạnh; sức khỏe sinh sản, tỉ lệ nhiễm HIV trong thanh niên sẽ còn diễn biến phức tạp,
ở mức báo động… đã, đang và sẽ tác động xấu đến thanh niên.
Bối cảnh trong nƣớc và quốc tế không chỉ đem đến cơ hội, thuận lợi và thời cơ mà còn
đem đến nhiều khó khăn và thách thức đối với thanh niên.Điều cơ bản là mỗi thanh
TP.HCM MINH
67
niên cần có đủ bản lĩnh, ý chí, trình độ để phát huy thuận lợi, tận dụng thời cơ, khắc
phục khó khăn, vƣợt qua thử thách. Điều đó chỉ có đƣợc khi mỗi thanh niên phát huy
tinh thần tự học, tự rèn luyện, có đủ tâm, đủ tầm để tham gia vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, chủ động tham gia vào nền kinh tế tri thức và quá
trình hội nhập quốc tế.
III. NHỮNG DỰ BÁO VỀ TÌNH HÌNH THANH NIÊN VIỆT NAM
1. Về nguồn nhân lực trong độ tuổi thanh niên
Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFA) đã nhận xét: “Việt Nam đang là nƣớc ở khu vực
bƣớc vào giai đoạn có lƣợng dân số trẻ đông chƣa từng có…, trên 60% dân số dƣới 25
tuổi. Đây là một nguồn nhân lực lớn, dồi dào cho sự phát triển, mở ra cho Việt Nam
một “của sổ vận hội”do có “dƣ lợi dân số”. Song, UNFA cùng cảnh báo: “Sự thành
công còn phụ thuộc vào việc đầu tƣ thích đáng cho giáo dục, đào tạo, y tế, việc làm…
biến lực lƣợng này thành lực lƣợng thúc đẩy tăng trƣởng nền kinh tế - xã hội. Nhƣng
ngƣợc lại, nếu không có đầu tƣ và để nạn thất nghiệp tồn tại thì chính lực lƣợng này sẽ
là gánh nặng cho sự phát triển quốc gia gây bất ổn xã hội”.
Dự kiến đến năm 2015, dân số cả nƣớc là 92.308.000 ngƣời, dân số thanh niên là
24.701.354 ngƣời, chiếm 26,8% dân số cả nƣớc. Giai đoạn 2010 – 2015 sẽ có sự cân
bằng tỷ lệ nam và nữ thanh niên.Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa tác động đén
sự biến động về cơ cấu dân số thanh niên ở đô thị và nông thôn có xu hƣớng: giảm số
lƣợng thanh niên sống ở nông thôn và tăng nhanh số lƣợng thanh niên sống ở đô thị.
2. Về trình độ học vấn của thanh niên
Thực hiện cuộc vận động xây dựng xã hội học tập và chủ trƣơng khuyến học nên quy
mô giáo dục và đào tạo của nƣớc ta ngày càng đƣợc mở rộng. Thanh niên nƣớc ta có
nhiều cơ hội học tập để nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp. Với việc
mở rộng phổ cập tin học và sự phổ biến của máy tính, với kết quả cải cách giáo dục,
trình độ ngoại ngữ và tin học của thanh niên đƣợc nâng cao hơn.
Giao đoạn 2010 – 2015, tỷ lệ thanh niên vào học trong các trƣờng ngoài công lập sẽ
tăng về số lƣợng và chất lƣợng sẽ đƣợc cải thiện đáng kể. Thanh niên có ý thức hơn về
quyền và nghĩa vụ học tập, sẽ vào học các ngành nghề đáp ứng dần với thị trƣờng lao
động trong nƣớc và quốc tế. Thanh niên có quan điểm thực tế hơn đối với việc chọn
bậc học. Từ đó dẫn tới tỷ lệ thanh niên đăng ký theo học các trƣờng nghề và các
TP.HCM MINH
68
trƣờng trung học chuyên nghiệp tăng lên đáng kể. Song, thanh niên mong muốn đƣợc
học theo hình thức liên thông (từ trƣờng nghề và trung học chuyên nghiệp học liên
thông lên cao đẳng, đại học).
Thanh niên ý thức đầy đủ hơn và tích cực tham gia vào xây dựng xã hội học tập; nhiều
thanh niên sẽ thực hiện phƣơng châm: ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng học, học tập
thƣờng xuyên, suốt đời. Số thanh niên đi du học nƣớc ngoài tăng nhanh, nhất là thanh
niên đi du học tự túc, số thanh niên tự tìm kiếm học bổng đi du học nƣớc ngoài tăng
lên đáng kể. Thanh niên mong muốn Nhà nƣớc có các chính sách khuyến khích thanh
niên học tập nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề; mong muốn đƣợc đào tạo
trong môi trƣờng học tập thân thiện và chất lƣợng đào tạo cao.
Khả năng trí tuệ của thanh niên, năng lực tự chủ và tính năng động của thanh niên có
bƣớc phát triển đáng kể. Nhìn chung, khả năng thích ứng của thanh niên đối với đòi
hỏi của sự cạnh tranh về nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trƣờng tốt hơn. Một bộ
phận thanh niên có năng lực, phẩm chất sẽ có điều kiện vƣơn lên trƣớc. Những tài
năng trẻ sẽ xuất hiện nhiều hơn, đặc biệt trong các ngành khoa học, công nghệ mũi
nhọn của nền kinh tế, trong kinh doanh và quản lý. Trình độ học vấn, khoa học, công
nghệ, chuyên môn, nghề nghiệp của thanh niên đƣợc nâng lên là một yếu tố quan
trọng giúp cho thanh niên đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trƣờng lao động trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, không ít thanh niên, học sinh còn yếu về phƣơng pháp tự học, tự nghiên
cứu, khả năng thực hành, kỹ năng nghề nghiệp; trình độ ngoại ngữ, công nghệ thông
tin (cụ thể là khả năng sử dụng máy vi tính) nhìn chung còn thấp và giữa các vùng
miền còn có sự chênh lệch lớn; do sự phân hóa giàu nghèo diễn ra cùng với quá trình
phát triển kinh tế thị trƣờng, bộ phận thanh niên thuộc các hộ gia đình nghèo vẫn gặp
khó khăn về điều kiện học tập.
3. Về lao động, việc làm của thanh niên
Theo các dự báo phát triển nguồn nhân lực, lực lƣợng lao động tăng thêm bình quân
hằng năm trong giai đoạn 2011 – 2015 là 1,25 triệu ngƣời và giai đoạn 2016 – 2020 là
1,27 triệu ngƣời, trong đó chủ yếu là thanh niên. Theo mục tiêu về giải quyết việc làm
cho thanh niên trong chiến lƣợc phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010, phấn
đấu giải quyết việc làm cho thanh niên đạt 75% tổng số lao động đƣợc giải quyết việc
TP.HCM MINH
69
làm. Những năm sau 2010, mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,2 triệu thanh niên, tăng
tỷ lệ thời gian lao động trong năm của thanh niên khu vực nông thôn lên 85% vào năm
2010 và những năm sau đó.
Cơ cấu lao động trẻ sẽ có sự chuyển dịch mạnh cùng sự chuyển dịch của cơ cấu nền
kinh tế theo hƣớng tăng tròng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm bớt
trong nông nghiệp. Sẽ có 4,8 – 5 triệu lao động trẻ đƣợc thu hút vào công nghiệp và
xây dựng; 2,8 – 3 triệu lao động vào khu vực dịch vụ. Lao động thanh niên sẽ chiếm
tỷ lệ cao trong một số ngành nghề lao động áp dụng công nghệ mới, công nghệ mũi
nhọn.
Thanh niên Việt Nam sẽ làm quen dần với thị trƣờng lao động trong nƣớc và quốc tế,
nhƣng chƣa thích ứng cao với cạnh tranh lao động, việc làm.
Thanh niên nƣớc ta trong giai đoạn 2010 – 2015 về kiến thức chuyên môn và tay nghề
đƣợc nâng lên đáng kể, những kỷ luật lao động và kỹ năng làm việc, nhất là kỹ năng
làm việc nhóm chƣa phát triển tƣơng xứng. Giai đoạn 2016-2020, do làm quen với
môi trƣờng lao động công nghiệp nên kỷ luật lao động và kỹ năng làm việc của thanh
niên sẽ đƣợc cải thiện đáng kể. Giai đoạn 2010-2015, thanh niên nƣớc ta sẽ có ý thức
đúng đắn hơn về việc làm. Sẽ có nhiều hình thanh niên tự nguyện, yên tâm làm việc
trong các doanh nghệp ngoài quốc doanh.
Do quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, nên số thanh niên nông thôn trở thành thanh
niên đô thị tăng lên, số thanh niên ở vùng nông thôn di dân vào các khu đô thị tăng lên
đáng kể. Điều đó dẫn đến những vấn đề bức xúc nổi lên trong thanh niên nhƣ: tệ nạn
xã hội, an toàn giao thông, trật tự đô thị, tập hợp thanh niên di dân tự do… Xu hƣớng
giải quyết việc làm cho thanh niên đƣợc cải thiện tốt hơn, cơ cấu lao động trẻ phù hợp
hơn với cơ cấu kinh tế. Vai trò của thanh niên trong lao động, xây dựng đất nƣớc và
thực hiện xóa đói, giảm nghèo ngày càng phát huy tốt hơn.
Tuy vậy, vấn đề giảm thiểu tình trạng thất nghiệp trong thanh niên khu vực đô
thị, tăng tỷ lệ thời gian lao động trong năm của thanh niên khu vực nông thôn, chuyển
dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động thanh niên, nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống cho thanh niên và nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực trẻ nƣớc ta
vẫn là những vấn đề bức xúc cần đƣợc quan tâm giải quyết.
4. Về sức khỏe thể chất và tâm thần của thanh niên.
TP.HCM MINH
70
Sức khỏe của nhân dân nói chung và thanh niên nói riêng phụ thuộc vào sáu
yếu tố tự nhiên và xã hội: di truyền, chế độ dinh dƣỡng, chế độ chăm sóc y tế, chế độ
luyện tập thể dục thể thao, môi trƣờng xã hội và môi trƣờng thiên nhiên. Trong sáu
yếu tố trên, trừ yếu tố di truyền, còn lại năm yếu tố đều do con ngƣời quyết định.
Tầm vóc và thể trạng của thanh niên đƣợc cải thiện tốt hơn. Trong bối cảnh
đời sống của nhân dân và thanh niên đƣợc nâng cao, chế độ dinh dƣỡng đƣợc cải
thiện, điều kiện chăm sóc y tế và rèn luyện thân thể tốt hơn, thanh niên nƣớc ta có sức
khỏe thể chất tốt hơn. Tầm vóc cơ thể (mà hai chỉ số quan trọng nhất là chiều cao và
cân nặng) của thanh niên đƣợc tăng thêm. Theo chỉ số của Chiến lƣợc phát triển thanh
niên Việt Nam năm 2010, chiều cao trung bình của thanh niên tăng thêm 3 cm, cân
nặng trung bình tăng thêm 3 – 4 kg. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng ở nƣớc ta liên tục
giảm trong nhiều năm qua là một yếu tố đảm bảo cho sự phát triển thể lực tốt hơn của
thanh niên.
Các bệnh tật do điều kiện môi trƣờng, dinh dƣỡng, bệnh truyền nhiễm, bệnh
nghề nghiệp tronh thanh niên sẽ giảm dần. Đa số thanh niên có hiểu biết cần thiết và
có thái độ, hành vi tích cực đối với việc phòng ngừa bệnh tật, đặc biệt là phòng chống
HIV/AIDS. Thanh niên có hoàn cảnh khó khăn nhƣ thanh niên khuyết tật, chất độc da
cam, mắc nguyện ma túy sẽ nhận đƣợc sự quan tâm, giúp đỡ nhều hơn của xã hội. Số
thanh niên đƣợc cai nghiện tập trung và dạy nghề, giải quyết việc làm sau khi cai
nghiện tăng lên góp phần giải quyết các vấn đề xã hội của thanh niên vả cải thiện tình
hình sức khỏe của thanh niên.
Do điều kiện học tập, lao động, vui chơi giải trí, cùng với những áp lực lên tâm
lý của thanh niên làm cho tỷ lệ thanh niên mắc các bệnh về tâm thần nhƣ: stress, trầm
cảm, tự kỷ, thần kinh có xu hƣớng tăng cao.
Do biến đổi khí hậu nên thanh niên mắc nhiều các bệnh về tim mạch, hô hấp,
ung thƣ da… Số thanh niên có HIV/AIDS có xu hƣớng giảm, nhƣng thanh niên vẫn
chiểm tỷ lệ cao trong những ngƣời nhiễm HIV/AIDS. Do chế độ bảo hiểm lao động
không tốt và do tai nạn giao thông không giảm nên số thanh niên tàn tật có xu hƣớng
tăng, nhất là tàn tật vận động.
5. Về nhận thức chính trị, tính tích cực xã hội và lối sống của thanh niên.
TP.HCM MINH
71
Nhận thức chính trị, tính tích cực xã hội, lối sống của thanh niên có chuyển biến tích
cực. Những thành tựu to lớn, toàn diện của đất nƣớc trong công cuộc đổi mới và đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho thanh niên thêm tin tƣởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, vào con đƣờng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta. Thanh niên nhận thức rõ
hơn về bối cảnh, tình hình, nhiệm vụ cách mạng của nƣớc ta. Bộ phận thanh niên tiên
tiến có quyết tâm cao, hoài bão lớn và luôn phấn đấu cống hiến cho đất nƣớc sẽ ngày
càng đông đảo. Nhận thức chính trị của thanh niên đƣợc tăng cƣờng, là lao động tinh
thần quan trọng để phát huy tính xung kích, tinh thần tình nguyện của đa số thanh niên
Việt Nam trong thời gian tới. Tỷ lệ thanh niên tích cực phấn đấu gia nhập tổ chức
Đoàn, Đảng có xu hƣớng tăng.
Tính tích cực xã hội của thanh niên đƣợc tăng thêm và thể hiện rõ trong các phong
trào thanh niên do Đoàn phát động. Tham niên tiếp tục tham gia ngày càng đông đảo
vào các hoạt động tình nguyện đến những nơi khó khăn, gian khổ, những vùng xa xôi,
các hoạt động xã hội nhân đạo giúp đỡ những ngƣời có hoàn cảnh khó khăn...
Lối sống của thanh niên tiếp tục đƣợc cải thiện theo hƣớng hiện đại và phù hợp với tác
phong lao động công nghiệp, văn minh đô thị. Phần đông thanh niên vẫn giữ đƣợc
những nét tốt đẹp trong lối sống, nếp sống, quan tâm và phát huy các giá trị truyền
thống tốt đẹp, bản sắc dân tộc. Thanh niên trong những năm tới có nhu cầu cao về
thông tin, giao lƣu, hội nhập,du lịch, vui chơi giải trí. Thanh niên hƣớng tới và đòi hỏi
cao về dân chủ và công bằng xã hội, việc làm, các chính sách xã hội, ý thức công dân
và việc thực hiện pháp luật của thanh niên đƣợc nâng cao hơn. Tinh thần xung phong,
tình nguyện, tính tích cực xã hội của thanh niên tiếp tục đƣợc phát huy. Thanh niên có
tƣ duy mới, phù hợp và thích nghi hơn với cơ chế kinh tế thị trƣờng đinh hƣớng xã hội
chủ nghĩa.
Thanh niên có hiểu biết về các nội dung hội nhập kinh tế tốt hơn và có khả năng vân
dụng cơ hội này. Thanh niên có điều kiện thuận lợi để tham gia nhiều hơn vào các
hoạt động quốc tế thanh niên trong khu vực và trên thế giới. Vị thế của thanh niên
nƣớc ta trong khu vực và trên thế giới đƣợc nâng cao.
Nhìn chung, thanh niên ngày càng vững vàng đảm đƣơng đƣợc nhiệm vụ nặng nề và
vẻ vang mà Tổ quốc giao phó trong thời kì mới.
TP.HCM MINH
72
Tuy nhiên, còn một bộ phận thanh niên sẽ không cƣỡng lại sức cám dỗ của đồng tiền,
chạy theo hƣởng thụ vật chất, bị tác động của lối sống thực dụng, ít quan tâm đến các
vấn đề chính trị - xã hội, dễ mắc phải những sai phạm về đạo đức, tiêu cực và tệ nạn
xã hội, có thể bị lợi dụng, kích động, lôi kéo vào các hành vi gây rối, vi phạm pháp
luật.
6. Thanh niên trong hội nhập quốc tế và bối cảnh toàn cầu hóa
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là xu thế tất yếu. Xu thế này sẽ tạo ra thị trƣờng lao
động toàn cầu... Những năm trƣớc năm 2010, thanh niên nƣớc ta đƣợc đánh giá tụt
hậu hơn về học vấn và tay nghề, ngoại ngữ và tin học, khả năng thích ứng sức khỏe...
Đến giai đoạn 2010 – 2015 và những năm tiếp theo, thanh niên nƣớc ta sẽ tiếp cận dần
với trình độ, sức khỏe của thanh niên khu vực và thanh niên thế giới. Thanh niên Việt
Nam sẽ có trình độ văn hóa, chuyên môn và tay nghề, ý chí và nghị lục không thua
kém thanh niên các nƣớc tiên tiến về kỷ luật lao động, kỷ năng làm việc nhóm, kỷ
năng tham gia các hoạt động quốc tế...
Dự báo trên cho thấy những mặt mạnh và yếu của thanh niên nƣớc ta. Để giúp thanh
niên tự tin tham gia có hiệu quả vào hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, đòi hỏi Đoàn và
Hội phải có các hoạt động hỗ trợ thanh niên có kỹ năng, kỷ luật, có tác phong lao
động công nghiệp và nếp sống văn minh.
IV. THANH NIÊN PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH NGUỒN NHÂN LỰC CÓ CHẤT
LƢỢNG CAO TRONG THỜI LỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA ĐẤT NƢỚC
Thế hệ thanh niên ngày nay đƣợc sống, học tập, lao động trong môi trƣờng hòa bình;
đƣợc thừa hƣởng những thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
công cuộc đổi mới đất nƣớc; đƣợc cống hiến và trƣởng thành trong sự ổn định về
chính trị, sự phát triển vũng chắc của kinh tế - xã hội và đời sống vật chất, tinh thần
của ngƣời dân không ngừng đƣợc cải thiện; đƣợc gia đình và xã hội dành cho nhiều cơ
hội học tập để có trình độ văn hóa, chuyên môn cao hơn các lớp thanh niên đi trƣớc.
Những lợi thế đó là hành trang giúp thanh niên vững bƣớc tham gia vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thanh niên đã và đang cùng toàn Đảng, toàn dân, phấn đấu cho lý tƣởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu: dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn
TP.HCM MINH
73
minh. Thanh niên Việt nam ngày mai mang trên vai trọng trách lịch sử, đó là phải trở
thành lực lƣợng lao động có trí tuệ và có tay nghề cao, có đạo đức và lối sống trong
sáng, có sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cƣờng tráng để đƣa Việt Nam “sánh
vai với các cường quốc nam châu” nhƣ mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thanh niên đang tự khẳng định mình là thế hệ vƣợt lên hơn so với các thế hệ thanh
niên đi trƣớc và đang dần dần xóa bỏ ranh giới tụt hậu để sánh vai nganh bằng với
thanh niên các nƣớc trên thế giới.
Thanh niên Việt Nam cần có ba nhóm phẩm chất là: Trình độ chuyên môn và tay nghề
cao, đạo đức và lối sống trong sáng, sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường
tráng mới đáp ứng đƣợc yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá,
thời kỳ kinh tế tri thức, thời kỳ hội nhập quốc tê. Để đạt đƣợc những tiêu chí và các
phẩm chất trên đòi hỏi, bản thân thanh niên phải tự học, tự rèn luyện, tự tu dƣỡng, tự
tin, tự chịu trách nhiệm để trở thành nguồn lao động chất lƣợng cao, trở thành ngƣời
thừa kế trung thành sự nghiệp của Đảng và dân tộc.
- Thứ nhất, thanh niên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính
trị, bồi đắp lý tƣởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh trong nƣớc và quốc tế đang tác
động lên tất cả đối tƣợng thanh niên, tác động một cách toàn diện lên tƣ tƣởng, tình
cảm, lối sống, nhu cầu của từng thanh niên. Do đó, thanh niên phải rèn luyện để có lập
trƣờng tƣ tƣởng vững vàng. Có lòng yêu nƣớc, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng
và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh;
tích cực tham gia vào các cuộc đấu trang bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc và bảo vệ cƣơng
lĩnh, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc; đấu tranh chống lại âm
mƣu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham
nhũng...
- Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập và tự học để nâng cao trình độ văn hóa,
chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội
trong nƣớc và hội nhập quốc tế, thanh niên nƣớc ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay
nghề, khả năng thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trƣờng lao động quốc tế.
Thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phƣơng châm: ngƣời
thanh niên nào cũng phải học, ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học; ngƣời thanh
TP.HCM MINH
74
niên nào cũng phải xác định tham gia học tập thƣờng xuyên, suốt đời là quyền và
nghĩa vụ của bản thân.
- Thứ ba, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Thanh niên phải tích cực tham gia bảo vệ và
xây dựng hệ thống chính trị ở các cấp vững mạnh và tham gia xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vững chắc. Các đối tƣợng thanh niên tự nguyện, tự giác tham gia vào
các Hội của thanh niên phấn đấu trở thanh đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên
của các tổ chức quần chúng nhân dân.
- Thứ tư, thanh niên phải tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trƣờng xã hội lành
mạnh và môi trƣờng sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia phòng chống ô
nhiễm môi trƣờng, suy thoái môi trƣờng và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Thứ năm, thanh niên phải xung kích, đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Tích cực tham gia các chƣơng trình, dự án của địa
phƣơng; tự nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt
đông bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Thứ sáu, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia
giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng
tầm ảnh hƣởng của Việt Nam trên trƣờng quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả
vào giải quyết các vấn đề toàn cầu nhƣ: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh,
chống khủng bố, bảo vệ môi trƣờng và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế
sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo...
Cách mạng nƣớc ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với mục tiêu sớm đƣa đất nƣớc thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển,
phấn đấu đến năm 2020 nƣớc ta cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện
đại. Mục tiêu đó đã và đang đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn lao đối với thế hệ trẻ
hôm nay. Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta,
mỗi thanh niên Việt nam hãy ra sức học tập, trau dồi lý tƣởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động và rèn luyện để hình thành một thế hệ thanh niên
tân tiến, xứng tầm đòi hỏi của đất nƣớc và thời đại.
TP.HCM MINH
75
PHẦN II: 10 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
Chuyên đề 1
Khái niệm, Nguồn gốc, Quá trình hình thành Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) đến nay, Đảng ta luôn
luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đƣờng lối chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức,
phƣơng pháp, phong cách... Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trân trọng
ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4 – 2001) một lần nữa khẳng định lại điều
này. Đây là một sự tổng kết sâu sắc, bƣớc phát triển mới trong nhận thức và tƣ duy lý
luận của Đảng ta và là một quyết định quan trọng có ý nghĩa lịch sử, đáp ứng yêu cầu
phát triển của sự nghiệp cách mạng nƣớc ta, tình cảm nguyện vọng của toàn Đảng
toàn quân, toàn dân ta.
I. Khái niệm tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nƣớc ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
...Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh soi đƣờng cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(1)
.
Định nghĩa về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nhƣ trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu
sau:
- Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nƣớc ta.
- Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời.
- Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đƣờng chúng ta tiến lên xây dựng một
nƣớc Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dƣới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Nguồn gốc của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh:
1. Điều kiện lịch sử- xã hội, gia đình, thời đại: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do
yêu cầu khách quan, đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra
từ đầu thế kỷ XX đến nay.
a. Điều kiện lịch sử.
TP.HCM MINH
76
- Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nƣớc ta bị đế quốc Pháp xâm lƣợc. Các
phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp liên tục nổi lên, dâng cao và lan rộng
trong cả nƣớc: từ Trƣơng Định, Nguyễn Trung Trực,... ở Nam bộ; Trần Tấn, Đặng
Nhƣ Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện
Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Tuy nhiên, do chƣa có một đƣờng lối kháng
chiến rõ ràng, dựa trên ý thức hệ phong kiến, nên đều thất bại.
- Bƣớc sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và
phân hóa, tầng lớp tiểu tƣ sản và mầm mống của giai cấp tƣ bản bắt đầu xuất hiện, ảnh
hƣởng của cuộc vận động cải cách của của Khang Hữu Vi, Lƣơng Khải Siêu ở Trung
Quốc tác động vào Việt Nam. Phong trào yêu nƣớc chống Pháp của nhân dân ta
chuyển dần sang xu hƣớng dân chủ tƣ sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông
Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... do các sĩ phu
phong kiến có tƣ tƣởng duy tân truyền bá và dẫn dắt, nhƣng do bất cập trƣớc lịch sử,
nên không tránh khỏi thật bại.
- Những năm đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào
yêu nƣớc của nhân dân ta. Trƣờng Đông Kinh Nghĩa thục bị đóng cửa (tháng 12-
1907; cuộc biểu tình chống sƣu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn áp (tháng 4
– 1908); vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và bị tàn sát (tháng 6-1908); căn cứ nghĩa
quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá (tháng 01 – 1909); phong trào Đông Du bị tan
rã, Phan bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nƣớc Nhật (tháng 02-
1909); các lãnh tụ của phong trào Duy Tân trung kỳ, ngƣời bị lên máy chém (Trần
Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi..), ngƣời bị đày ra Côn Đảo (Phan Chu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn...). Tình hình đó cho thấy, phong trào
cứu nƣớc của nhân dân ta muốn giành đƣợc thắng lợi phải đi theo một con đƣờng cách
mạng mới.
b. Quê hương, gia đình.
- Quê hương.
Nghệ Tĩnh, quê hƣơng của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nƣớc, chống ngoại xâm. Nơi đây đã nuôi dƣỡng nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử
Việt Nam nhƣ Mai thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu nƣớc cận đại
nhƣ Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp,
bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hƣơng. Những tội ác
của bọn thực dân và thái độ ƣơn hèn, bạc nhƣợc của bọn quan lại Nam triều đã thôi
thúc Ngƣời ra đi tìm một con đƣờng cách mạng mới để cứu dân, cứu nƣớc.
- Gia đình.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nƣớc, gần gũi với nhân
dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Ngƣời là một nhà nho giàu lòng yêu
nƣớc, thƣơng dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên cƣờng vƣợt qua gian khổ,
khó khăn để đạt đƣợc mục tiêu, chí hƣớng. Chủ trƣơng lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi
cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng Sắc đã có ảnh hƣởng sâu sắc đối với sự
hình thành tƣ tƣởng chính trị và nhân cách của Hồ Chí Minh.
c. Thời đại.
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tƣ bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã trở thành một hệ thống thế giới. Các nƣớc đế quốc
TP.HCM MINH
77
vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ
yếu trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng.
- Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX đã không còn là hành động
riêng rẽ của mỗi nƣớc chống lại sự xâm lƣợc và thống trị của chủ nghĩa đế quốc, mà
trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa gắn với cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tƣ sản ở chính quốc.
- Khi còn ở trong nƣớc, Hồ Chí Minh tuy chƣa nhận thức đƣợc đặc điểm của
thời đại, nhƣng từ thực tế lịch sử của đất nƣớc mình Ngƣời đã thấy rõ con đƣờng của
các bậc cha anh không đem lại kết quả, phải đi tìm một con đƣờng mới. Trong khoảng
10 năm, Hồ Chí Minh đã vƣợt ba đại dƣơng, bốn châu lục, đặt chân lên khoảng gần 30
nƣớc. Nhờ đó, Ngƣời đã hiểu đƣợc bản chất chung của chủ nghĩa đế quốc và hoàn
cảnh chung của các nƣớc thuộc địa trên thế giới.
- Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng trong phong trào công
nhân châu Âu diễn ra ngày càng thêm sâu sắc, dẫn đến sự phân liệt trong nội bộ các
đảng xã hội Dân chủ thuộc Quốc tế II. Một số đảng bị phân hóa. Phái tả trong các
đảng tách ra, thành lập các Đảng cộng sản. Tháng 3 – 1919, Lênin thành lập Quốc tế
III- Quốc tế cộng sản, đƣa phong trào cộng sản thoát khỏi chủ nghĩa cải lƣơng, theo
đuôi các chính quyền tƣ sản của các đảng xã hội. Tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin và các văn kiện Đại
hội II Quốc tế Cộng sản đánh dấu sự khẳng định về mặt lý luận việc thực hiện mối
quan hệ hữu cơ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nƣớc
thuộc địa, có ảnh hƣởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên tế giới.
2. Nguồn gốc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. a. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc đã tạo
lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống
tốt đẹp và cao quý.
- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nƣớc và ý chí kiên cƣờng trong đấu tranh dựng
nƣớc và giữ nƣớc. Chủ nghĩa yêu nƣớc là dòng chủ lƣu chảy xuyên suốt trƣờng kỳ
lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa – tinh thần việt
Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nƣớc ngoài du nhập vào Việt Nam đều
đƣợc tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tƣ tƣởng yêu nƣớc đó.
- Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tƣơng thân, tƣơng ái.
Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và
nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bƣớc sang thế kỷ
XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội,
nhƣng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh
của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tƣơng thân tƣơng ái thể hiện tập trung trong
bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời.
Tinh thầ lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự
tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của truyền thống lạc
quan đó.
- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo,
ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Ngƣời việt
Nam từ xƣa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ
TP.HCM MINH
78
sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những
cái hay, cái tốt, cái đẹp của ngƣời thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là
hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Ngƣời đã đƣợc hấp
thụ môt nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nƣớc ngoài, Ngƣời có thể
viết văn Anh, văn Pháp sắc sảo nhƣ một nhà báo phƣơng Tây thực thụ, nhƣng khi có
nhu cầu “tự bạch” thì Ngƣời làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó tạo điều kiện cho
Ngƣời tiếp thu đƣợc tinh hoa văn hóa nhân loại và làm nên nét đặc sắc ở Hồ Chí
Minh, một con ngƣời biểu tƣợng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông – Tây.
- Tư tưởng văn hóa phương Đông.
+ Nho giáo. Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhƣng nho giáo cũng
có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hƣởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là triết lý
hành động, tƣ tƣởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý tƣởng về một xã hội bình trị; triết
lý nhân sinh: tu thân dƣỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao tinh thần
hiếu học.
Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp
để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Ngƣời dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người
cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời
trước để lại” (2)
.
+ Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá
sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tƣ duy,
hành động, cách ứng xử của con ngƣời Việt Nam.
Phật giáo có tƣ tƣởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thƣơng ngƣời nhƣ
thể thƣơng thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều
thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt
đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lƣời biếng.
Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nƣớc, ý chí độc lập, tự chủ đã hình
thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ trƣơng không xa đời mà sống gắn bó
với nhân dân, với đất nƣớc, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân
chống kẻ thù dân tộc.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động,
để lại dấu ấn sâu sắc trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
+ Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư tưởng
phương Đông nhƣ Lão tử, Mặc tử, Quản tử... Khi đã trở thành ngƣời mácxít, Hồ Chí
Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã
biết khai thác những yếu tố tích cực của tƣ tƣởng và văn hóa phƣơng Đông để phục vụ
cho sự nghiệp cách mạng của Ngƣời.
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây.
+ Ngay từ khi còn học ở Trƣờng tiểu học Đông Ba rồi vào Trƣờng Quốc học
Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Ngƣời rất ham mê môn
lịch sử, và say sƣa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
+ Khi xuất dƣơng, Ngƣời đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê ở
Bruclin và thƣờng đến thăm khu Haclem của ngƣời da đen. Ngƣời thƣờng suy nghĩ về
tự do, độc lập, quyền sống của con ngƣời... đƣợc ghi trong Tuyên ngôn độc lập 1776
của nƣớc Mỹ.
TP.HCM MINH
79
+ Đến Pháp, Hồ Chí Minh đƣợc tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tƣ
tƣởng khai sáng nhƣ tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ, khế ƣớc xã hội của Rútxô...
Tƣ tƣởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hƣởng lớn tới tƣ tƣởng của Ngƣời.
+ Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống
thực tiễn. Ngƣời học đƣợc cách làm việc dân chủ trong cách sinh hoạt khoa học ở Câu
lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt chính trị của Đảng xã hội Pháp.
Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và đƣợc rèn luyện trong
phong trào công nhân Pháp, trên hành trình cứu nƣớc Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí
tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hóa Đông, Tây, từ tầm cao củ tri
thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
c. Chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời đại đã
đƣa Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ ngƣời yêu tƣớc trở thành ngƣời
cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ
Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa đƣợc những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền
thống dân tộc cũng nhƣ của tƣ tƣởng – văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tƣ tƣởng
của mình. Vì vậy, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tƣ tƣởng Mác – Lênin, những phạm
trù cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận
mác – Lênin.
- Sở dĩ Hồ Chí Minh đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên một loạt luận điểm
cơ bản hình thành nên tƣ tƣởng Hồ Chí Minh có nguyên nhân sâu xa là:
+ Khi đi tìm đƣờng cứu nƣớc, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn
chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Ngƣời quan sát, phân tích, tổng kết
một cách độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn;
tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đƣờng cứu nƣớc, giải
phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.Chính Ngƣời đã
viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi tin theo Lênin ,tin theo Quốc tế III”(3)
. Nhờ Lênin, ngƣời đã tìm thấy “Con
đường giải phóng chúng ta” và từ Lênin, Ngƣời đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc
hơn.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phƣơng pháp nhận thức
mácxít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ
ngôn từ. Ngƣời vận dụng lập trƣờng, quan điểm và phƣơng pháp của chủ nghĩa Mác –
Lênin để tự tìm ra những chủ trƣơng, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh
cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận
có sẵn trong sách vở kinh điển.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
- Trƣớc hết, đó là tƣ duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán
tinh tƣờng, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu.
- Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời
đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công
nhân quốc tế.
TP.HCM MINH
80
- Đó là ý chí của một nhà yêu nƣớc, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách
mạng, một trái tim yêu nƣớc, thƣơng dân, thƣơng yêu những ngƣời cùng khổ sẵn sàng
chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của
đồng bào.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh
tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại
thành tƣ tƣởng đặc sắc của mình.
3. Quá trình hình thành và phát triển của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá
trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách
mạng phong phú của ngƣời.
a. Giai đạon hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (từ 1890-
1911).
Trong thời trẻ, với những đặc điểm quê hương, gia đình và môi trường sống,
Hồ Chí Minh đã tích lũy được những hiểu biết và phẩm chất tiêu biểu sau:
- Truyền thống yêu nƣớc và nhân nghĩa của dân tộc.
- Vốn văn hóa dân tộc và bƣớc đầu tiếp xúc với văn hóa phƣơng Tây.
- Hình thành hoài bão cứu dân, cứu nƣớc khi chứng kiến cuộc sống khổ cực,
điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh.
b. Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (1911-1920).
Đây là giai đoạn bôn ba tìm đƣờng cứu nƣớc, Hồ Chí Minh đã:
- Tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của
nhân dân các dân tộc bị áp bức.
- Tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa,
Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đƣờng chân chính cho sự nghiệp cứu nƣớc, giải phóng
dân tộc.
- Đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
Sự kiện đó đánh dấu bƣớc chuyển biến về chất trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, từ
chủ nghĩa yêu nƣớc đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ
ngƣời yêu nƣớc thành ngƣời cộng sản.
c. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam
(1921 – 1930).
- Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng
cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le Paria nhằm
tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nƣớc thuộc địa.
- Hồ Chí Minh sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và đƣợc bầu vào
Đoàn chủ tịch của Hội giữa năm 1923. Sau đó, Ngƣời tiếp tục tham dự đại hội V Quốc
tế Cộng sản và Đại hội các đoàn thể quần chúng khác: Quốc tế thanh niên, Quốc tế
Cứu tế đỏ, Quốc tế công hội đỏ...
- Hồ Chí Minh về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, ra Báo thanh niên, mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đƣa họ
về nƣớc hoạt động cuối năm 1924.
Tháng 02- 1930, Ngƣời chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong
nƣớc, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chánh
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
TP.HCM MINH
81
Các văn kiện này, cùng với hai tác phẩm Ngƣời hoàn thành và xuất bản trƣớc
đó là Bản án chế độc thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927), đã đánh
dấu sự hình thành cơ bản tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con đƣờng cách mạng của Việt
Nam.
d. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định của cách
mạng Việt Nam (1930-1941).
- Do không nắm đƣợc tình hình thực tế các thuộc địa ở phƣơng Đông và Việt
Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả” khuynh, tại Đại hội VI (năm 1928), Quốc tế
Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đƣờng lối của Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội nghị
hợp nhất thành lập Đảng. Hội nghị Trung ƣơng tháng 10 – 1930 của Đảng ta, theo chỉ
đạo của Quốc tế Cộng sản, cũng ra “Án nghị quyết” thu hồi chánh cương vắn tắt và
sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng. Trong thời gian đó Hồ Chí Minh tiếp tục tham gia các hoạt động trong Quốc
tế Cộng sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên
định quan điểm của mình.
- Đại hội VII Quốc tế cộng sản (năm 1935) đã có sự tự phê bình về khuynh
hƣớng “tả”, cô độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ trong phong trào
cộng sản. Để cho các đảng tƣ sản, tiểu tƣ sản và phát xít nắm lấy mà chống phá cách
mạng. Đại hội có sự chuyển hƣớng về sách lƣợc, chủ trƣơng thành lập Mặt trận dân
chủ chống phát xít.
- Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán những biểu hiện “tả”
khuynh, cô độc, biệt phái trƣớc đây. Trên thực tế, từ đây đảng đã trở lại với Chánh
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Hồ Chí Minh.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng tháng 11 – 1939 khẳng định rõ: “đứng trên
lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề
của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải
quyết”(4)
.
Những diễn biến của quá trình này đã phản ánh quy luật của cách mạng Việt
Nam, giá trị và sức sống của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
đ. Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 – 1969).
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nƣớc, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung ƣơng
8 (tháng 5 – 1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm thời gác khẩu
hiệu cách mạng điền địa, xóa bỏ vấn đề Liên bang Đông Dƣơng, lập ra mặt trận Việt
Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở công nông liên minh. Nhờ đƣờng lối
đúng đắn đó, sau bốn năm, Đảng lãnh đạo cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đó cũng là
thắng lợi đầu tiên của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
- Sau khi giành đƣợc chính quyền, Đảng ta và nhân dân ta phải tiến hành hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đây là thời kỳ tƣ tƣởng Hồ chí Minh đƣợc bổ sung, phát triển và hoàn thiện
trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đƣờng lối chiến tranh nhân
dân “toàn dân, toàn diện, trƣờng kỳ, dựa vào sức mình là chính”, về xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở một nƣớc vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội không trải qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa, trong điều kiện đất nƣớc bị chia cắt và có
chiến tranh; về xây dựng Đảng với tƣ cách là Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nƣớc
TP.HCM MINH
82
kiểu mới - của dân, do dân, vì dân; về củng cố và tăng cƣờng sự đoàn kết nhất trí
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế...
- Trƣớc khi qua đời (ngày 02-9-1969), Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng liêng
gửi gắm trong đó những tinh hoa của tƣ tƣởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ
nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. Di chúc đã tổng
kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời
cũng vạch ra những định hƣớng mang tính cƣơng lĩnh cho sự phát triển của đất nƣớc
và dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
- Đảng ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản tinh
thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tƣ tƣởng và kim chỉ nam cho hành động. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới
phát triển.
Những biến động chính trị to lớn trên thế giới diễn ra trong hơn mƣời năm qua
vừa kiểm chứng, vừa khẳng định tính khoa học, đúng đắn, tính cách mạng, sáng tạo,
giá trị dân tộc và ý nghĩa quốc tế của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Chuyên đề 2
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
ngƣời
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nƣớc, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do
của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, ông cha ta đã
nhiều lần phải đƣơng đầu với kẻ thù xâm lƣợc mạnh hơn mình gấp bội và từ thực tiễn
đấu tranh chống ngoại xâm, đã đúc kết đƣợc nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu.
Trí tuệ đánh giặc, giữ nƣớc là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
Ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền thống,
bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Ngƣời đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm hiểu
thêm tƣ tƣởng của một số nhà yêu nƣớc lỗi lạc trên thế giới, nâng lên tầm cao mới của
thời đại, gắn quyện thành tƣ tƣởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con ngƣời.
I. Sự thống nhất trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con ngƣời.
1. Không có gì quý hơn độc lập, tự do. - Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những hình
thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng đồng dân
tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tƣ bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nƣớc đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm
lƣợc, cƣớp bóc, nô dịch các dân tộc nhƣợc tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó
xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở thành vấn đề
thời đại.
- Nội dung cốt lõi của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập, tự
do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
TP.HCM MINH
83
Thấm đƣợm tinh thần yêu nƣớc truyền thống Việt Nam, trong tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Hồ Chí Minh
nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc
lập...”(1)
. Trên đƣờng tiếp cận chân lý cứu nƣớc, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn
độc lập 1776 của nƣớc Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách
mạng Pháp, Ngƣời hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc:
Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống quyền sung sướng và quyền tự do.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã đƣợc các
đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt cho
những ngƣời Việt Nam yêu nƣớc, Ngƣời gửi đến Hội nghị hòa bình Vécxây một bản
yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách
đã không đƣợc dƣ luận chú ý đến. Ngƣời rút ra bài học: “Muốn được giải phóng, các
dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(2)
.
- Trong Chánh cƣơng vắn tắt cũng nhƣ trong Lời kêu gọi sau khi thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”(3)
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nƣớc, chủ trì Hội nghị Trung ƣơng 8 của
Đảng, viết thƣ Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải
phóng cao hơn hết thảy”(4)
. Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do
của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải quyết giành cho được độc lập!”....
- Cách mạng Tháng Tám thành công, ngƣời thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trƣớc quốc dân đồng bào và thế giới:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4)
.
- Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ
quyền dân tộc, Ngƣời ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “... thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(2)
.
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, mở
rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ,
có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tƣ tƣởng mà còn là lẽ sống,
là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Ngƣời không chỉ đƣợc tôn vinh là
“anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn đƣợc thừa nhận là “Người khởi
xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
2. Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa quốc tế. - Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần đƣợc
tiến hành dƣới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn
to lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Ngƣời, chỉ
đứng trên lập trƣờng của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết đƣợc
đúng đắn vấn đề dân tộc.
TP.HCM MINH
84
- Ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh tìm
thấy con đƣờng giải phóng cho dân tộc mình theo con đƣờng của cách mạng vô sản.
Ngƣời viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản
toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước
nào đó,... thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”(5)
.
- Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng cộng
sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí cũng nhƣ tƣơng lai của
cách mạng thuộc địa. Ngƣời đƣa ra dƣ luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào
sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động thế giới để trƣớc hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân
tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc thể
hiện ở những luận điểm sau đây:
+ Chủ nghĩa yêu nƣớc và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nƣớc.
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nƣớc phƣơng
Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phƣơng Đông: “Chủ
nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(6)
; “Người ta sẽ không thể làm gì được
cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống
xã hội của họ”(7)
. Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế
Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Khi
chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ
nghĩa quốc tế”(8)
.
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp đƣợc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc
địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu
những năm 20 của thế kỷ XX, nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”(4)
.
Năm 1930, trong Chánh cƣơng vắn tắt, Sách lƣợc vắn tắt, Hồ Chí Minh xác
định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tƣ sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản (tức
cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Ngƣời khẳng định lại rõ hơn: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng đƣợc các dân tộc bị áp bức và những ngƣời lao động
trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”(5)
.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong
thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm
của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở
TP.HCM MINH
85
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nƣớc chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng.
Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Ngƣời nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự
do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Ngƣời đã
nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là tự
giúp mình”, và chủ trƣơng phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nƣớc mà đóng góp
vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con
ngƣời.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nƣớc, từ thƣơng nƣớc, thƣơng nòi, Hồ Chí Minh
luôn luôn gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho nhân
dân.
Ngƣời lựa chọn con đƣờng giải phóng dân tộc trên lập trƣờng vô sản chính vì
cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn giải phóng mọi
giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Ngƣời nói: giành độc
lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “làm cho dân giàu, nước
mạnh”,... “làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.
Quan điểm giải phóng con ngƣời của Hồ Chí Minh đƣợc nâng lên, trở thành
tâm điểm của hoạt động cách mạng của Ngƣời. Khi chƣa giành đƣợc độc lập, Ngƣời
thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết
giành cho được tự do, độc lập”. Nhƣng sau đó Ngƣời nói: “Nếu nước độc lập mà dân
khôn được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(9)
. Do đó
theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp,
giải phóng con ngƣời. Hồ Chí minh viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc,... đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng đƣợc học hành”(2)
.
Nhƣ vậy, tƣ tƣởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
ngƣời luôn luôn gắn chặt, hòa quyện với nhau trong ttƣ tƣởng Hồ Chí minh.
II. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể
tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm nhƣ sau:
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con đƣờng
của cách mạng vô sản. - Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực
tiễnViệt Nam qua các chặng đƣờng gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng
định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác là cách mạng vô sản.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế
quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa.
Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là
phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa nhƣ là “một trong những cái cánh của cách
mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
TP.HCM MINH
86
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành
công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành
công”(10)
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhƣng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”(2)
.
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp
công nhân phải đƣợc xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên
cơ sở liên minh công – nông. Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải
việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Ngƣời khẳng định
cái cốt của nó là công – nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là
gốc cách mệnh”(11)
.
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trƣơng cần vận động,
tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nƣớc, đang bị làm nô lệ
trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn
dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trƣơng, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân
dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Ngƣời viết: “Đảng phải hết sức liên
lạc với tiểu tƣ sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe
vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tƣ bản An Nam mà chƣa
rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung...(12)
- Trong khi chủ trƣơng đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lƣợng dân tộc chống
đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “công nông là
gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tƣ bản áp bức, song
không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông
thôi”(13)
. Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhƣợng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đƣờng thỏa hiệp”(14)
.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần đƣợc tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trƣớc cách mạng vô sản ở chính quốc. - Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm
xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách
mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động,
sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế
cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản
thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa
gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”(15)
; “nọc độc và sức
sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”(16)
, nếu khinh
thƣờng cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”(6)
.
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là
sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm:
“Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được
bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”(6)
.
TP.HCM MINH
87
- Do nhận thức đƣợc thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa
đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nƣớc và tinh thần dân
tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối
quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tƣ bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những ngƣời anh em mình ở phƣơng Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn”(17)
.
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và
thực tiễn rất to lớn và đã đƣợc thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
cũng nhƣ trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải đƣợc thực hiện bằng con đƣờng bạo
lực, kết hợp lực lƣợng chính trị của quần chúng với lực lƣợng vũ trang trong
nhân dân. Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí
Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dƣơng. Theo Ngƣời,
cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ
không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự
phân tích vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền thực
dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ sự
thất bại của các phong trào yêu nƣớc đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ƣơng 8 do Ngƣời chủ trì đã đƣa ra nhận
định: Cuộc cách mạng Đông Dƣơng kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở
đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phƣơng.. mà mở
đƣờng cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ƣơng
Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức
chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp
thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành
đƣợc chính quyền trong cả nƣớc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin
về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả
đƣờng lối chiến lƣợc, sách lƣợc và phƣơng pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới
ở nƣớc ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về con đƣờng cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con ngƣời.
Chuyên đề 3
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
TP.HCM MINH
88
I. Quá trình hình thành tƣ tƣởng yêu nƣớc, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
1. Vƣợt qua tƣ tƣởng yêu nƣớc, độc lập dân tộc theo lập trƣờng phong
kiến, tƣ sản. - Ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự bất cập của tƣ tƣởng
yêu nƣớc trong khuôn khổ ý thức hệ phong kiến: “trung quân, ái quốc”, chống Pháp
giúp vua (cần vƣơng), để đi đến quan niệm mới: dân là dân nƣớc, nƣớc là nƣớc dân.
- Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức đƣợc nguyên nhân hất bại của chủ trƣơng cứu
nƣớc dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhật Bản, những nƣớc “cùng máu đỏ da
vàng”, do Phan bội Châu và các chí sĩ yêu nƣớc trong “Phong trào Đông Du” tiến
hành.
Đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản của
Trung Quốc trong Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), tập trung ở chủ nghĩa Tam dân
(dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn. Ngƣời đã
rất kính trọng Tôn Dật Tiên, sau này ngƣời đã chắt lọc những nhân tố hợp lý, những
quan điểm tiến bộ của Tôn Trung Sơn. Nhƣng qua việc quyết định ra đi tìm đƣờng
cứu nƣớc bằng cách đến nƣớc Pháp, đến phƣơng Tây, cái nôi của chủ nghĩa tƣ bản,
chứng tỏ Ngƣời chƣa tin vào tƣ tƣởng yêu nƣớc và con đƣờng cứu nƣớc đó.
2. Bƣớc ngoặt lớn khi Hồ Chí Minh đọc sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cƣơng về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lê. Từ đây Ngƣời nhận thức đƣợc sâu sắc vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc
trong thời đại mới đƣợc mở ra sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mƣời: thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải
đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô sản. Ngƣời đã chỉ ra: muốn cứu nƣớc và giải
phóng dân tộc phải tiến hành cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đƣờng duy nhất đúng đắn để cứu nƣớc, cứu dân.
Đó là con đƣờng cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp,
độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩ xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải
phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng bƣớc với phong trào cách mạng vô sản thế
giới....
3. Từ “Muốn cứu nƣớc và giải phóng dân tộc không có con đƣờng nào
khác con đƣờng cách mạng vô sản” đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. - Nghiên cứu Cƣơng lĩnh dân tộc của V.I.Lênin: bình đẳng, tự quyết, đoàn kết
giai cấp công nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đƣờng cứu nƣớc đúng
đắn nhất là dựa trên lập trƣờng cách mạng vô sản. Sau khi cách mạng giải phóng dân
tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập dân tộc đòi hỏi trƣớc hết phải bảo đảm cho dân tộc đó quyền tự
quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đƣờng và mô hình phát
triển độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.
- Độc lập dân tộc phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con ngƣời đƣợc phát triển toàn diện, có năng
lực làm chủ.
TP.HCM MINH
89
- Độc lập dân tộc đói hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch của
dân tộc này với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần.
- Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nƣớc dựa trên nguyên tắc tôn
trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới không có chiến
tranh, không có sự hoành hành cái ác, của những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho
con ngƣời sống trong an ninh và hạnh phúc.
Nhƣ vậy, theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự phải tiến lên
chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng khát vọng gàn đời của nhân dân
ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
II. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
a. Cơ sở hình thành tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
- Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa
yêu nƣớc, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã từng biết đến tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phƣơng đông qua “thuyết
đại đồng” của Nho giáo... Sau khi ra nƣớc ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế
giới, Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong chủ nghĩa Mác – Lênin lý tƣởng về một xã hội
nhân đạo trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả mọi
người”. Khi đến nƣớc Nga, Ngƣời đã thấy “Chính sách kinh tế mới” của Lênin và
những thành tựu bƣớc đầu của nhân dân Xô Viết trên con đƣờng xây dựng một chế độ
xã hội mới.
Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần hình thành nên tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trƣờng yêu nƣớc và khát vọng
giải phóng dân tộc. Ngƣời đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng của
Mác con đƣờng chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng loài
ngƣời. Ngƣời đã viết: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế gíơi”(1)
.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phƣơng diện đạo đức. Theo Hồ Chí
Minh “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”(2)
. Từ đó,
Ngƣời tin tƣởng cổ vũ “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng
để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài
người”(3)
.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử, văn hóa và
con ngƣời Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan
dung, hòa mục để hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng trí thức, hiến tài.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản chất nhân
văn và văn hóa; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tƣ bản về
mặt văn hóa và giải phóng con ngƣời.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.
TP.HCM MINH
90
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nƣớc phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân để huy động đƣợc tính tích cực và sáng tạo của nhân dân
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lƣợng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tƣ liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trƣớc hết là nhân dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó
ngƣời với ngƣời là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con ngƣời đƣợc giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, đƣợc tạo điều kiện để phát
triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hƣởng nhiều,
làm ít hƣởng ít, không làm thì không đƣợc hƣởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền
núi đƣợc giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng
lấy dƣới sự lãnh đạo của Đảng.
c. Về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh rất phong
phú, trong đó bao trùm lên tất cả là độg lực con ngƣời, trên cả hai bình diện: cộng
đồng và cá nhân.
- Phát huy sức mạnh đoàn kêt của cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để
phát triển đất nƣớc.
- Phát huy sức mạnh của con ngƣời đƣợc giải phóng, đƣợc làm chủ. Để phát
huy sức mạnh này phải tác động vào nhu cầu và lợi ích của con ngƣời; phát huy động
lực chính trị, tinh thần, đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của ngƣời lao động,
thực hiện công bằng xã hội...
- Khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
+ Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh đẻ ra trăm thứ bệnh nguy
hiểm. Ngƣời nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã
hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”.
+ Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, “bạn đồng minh của thực
dân phong kiến”, vì “Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ
ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”(3)
.
+ Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lƣời biếng không chịu học tập cái
mới,.... Đó là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con đƣờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Trƣớc hết, Hồ Chí Minh đã lƣu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật
chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nƣớc khi bƣớc vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội: “Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau... Có nước
thì đi thẳng lên con đường chủ nghĩa xã hội,... có nước thì phải kinh qua chế độ dân
chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội”(4)
. Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai phƣơng thức quá
độ chủ yếu: phƣơng thức quá độ trực tiếp (từ chủ nghĩa tƣ bản phát triển lên chủ nghĩa
xã hội) và phƣơng thức quá độ gián tiếp (từ nghèo nàn, lạc hậu, tiền tƣ bản chủ nghĩa,
qua dân chủ nhân dân đi lên chủ nghĩa xã hội).
TP.HCM MINH
91
- Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhƣng bao trùm, “to nhất” là đặc điểm “từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đạon
phát triển tư bản chủ nghĩa”(5)
.
- Về độ dài và thời kỳ quá độ, Ngƣời nói “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một
cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”(6)
.
- Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Ngƣời chỉ rõ: “...phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội..., có công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng
là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(7)
.
- Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh chỉ rõ phải:
+ Giữ vững và tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nƣớc.
+ Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
- Về bƣớc đi của thời kỳ quá độ, Ngƣời đã chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã
hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”(8)
, “phải làm dần
dần”, “không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tƣ
tƣởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bƣớc đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua
nhiều bƣớc, “bƣớc ngắn, bƣớc dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhƣng “chớ ham làm mau,
ham rầm rộ... đi bƣớc vững chắc bƣớc ấy, cứ tiến dần dần”.
- Về phƣơng pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Ngƣời luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo,
chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nƣớc ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra
cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
III. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
1. Bối cảnh thời đại và sự hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. a. Bối cảnh thời đại.
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tƣ bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển
sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, làm nảy sinh một trong những mâu thuẫn cơ bản
của thời đại: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa.
- Thắng lợi của cách mạng Tháng Mƣời Nga năm 1917 và sự ra đời của Nhà
nƣớc công nông đầu tiên trên thế giới tạo ra mâi thuẫn cơ bản mới của thời đại: giữa
chủ nghĩa tƣ bản và chủ nghĩa xã hội và mở đầu cho thời đại mới, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc đã làm sâu sắc thêm mâu
thuẫn giữa các nƣớc đế quốc, bùng nổ các cuộc chiến tranh đế quốc.
- Chủ nghĩa tƣ bản tăng cƣờng bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân chính
quốc, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tƣ sản và giai cấp vô sản ngày càng tăng lên
trên thế giới.
TP.HCM MINH
92
- Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bƣớc phát
triển mới trong sự nghiệp phát triển của kinh tế, chính trị, xã hội, đặt ra nhiều vấn đề
mới trong quan hệ quốc tế. Nói về khoa học kỹ thuật, từ năm 1951 Hồ Chí Minh đã
nói “Năm mƣơi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hợn
nhiều thế kỷ trƣớc cộng lại về khoa học kỹ thuật”(9)
.
b. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại.
- Điểm xuất phát để ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc của Hồ Chí Minh là nhận thức rõ
và có niềm tin mạnh liệt vào sức mạnh của dân tộc. Đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nƣớc; tinh thần đoàn kết; ý chí độc lập, tự lực, tƣ cƣờng, truyền thống đấu tranh anh
dũng, bất khuất cho độc lập, tự do.
+ Hồ Chí Minh là ngƣời đã nói công khai về chủ nghĩa dân tộc. Ngƣời viết
“Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nƣớc. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy
chống thuế năm 1908, nó dạy cho những ngƣời culi biết phản đối... Cũng chủ nghĩa
dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với ngƣời Pháp và
ngƣời Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa làm cho những nhà cách mạng
trốn sang Nhật bản và làm vua Duy Tân mƣu tính khởi nghĩa năm 1971”(10)
.
+ Chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nƣớc và tinh thần dân
tộc chân chính của nhân dân ta, đồng thời cũng là của nhân dân các nƣớc thuộc địa
đấu tranh với chủ nghĩa thực dân giảnh độc lập, tự do cho dân tộc.
- Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh của thời đại đƣợc hình thành từng
bƣớc, thông qua hoạt động thực tiễn và đƣợc tổng kết thành lý luận.
+ Ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc với thân phận ngƣời lao động, Hồ Chí Minh đã
phát hiện ra mối tƣơng đồng giữa các dân tộc bị áp bức: “Dù màu da có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai giống ngƣời: giống ngƣời bóc lột và giống ngƣời bị bóc lột”(11)
.
Vì vậy từ rất sớm, ngƣời đã kêu gọi: “Vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no,
những ngƣời bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”(2)
.
+ Kảo sát chủ nghĩa đế quốc ngay tại sào huyệt của nó, Hồ Chí Minh đã phát
hiện và chỉ ra rằng: “cả công nhân ở chính quốc lẫn binh lính ở thuộc địa,... họ đều là
anh em cùng một giai cấp và khi tới lúc phải chiến đấu, thì cả hai bên đều phải cùng
đánh bọn chủ chung của mình...”(3)
+ Sau khi tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó
“một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng
mà Người hằng nung nấu”. Đó là bƣớc chuyển lịch sử, từ ngƣời yêu nƣớc thành
ngƣời cộng sản, nâng cao nhận thức của Ngƣời về sức mạnh của thời đại: đó là sức
mạnh của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản, sức mạnh kết hợp giữa chủ nghĩa yêu
nƣớc chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sức mạnh đoàn kết quốc tế.
+ Từ nhận thức trên, Hồ Chí Minh đi vào tổ chức và hoạt động. Ngƣời thành
lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pháp, viết báo Le Paria; tích cực tham gia thành lập Hội
liên hiệp các dân tộc bị áp bức; sát cách chiến đấu cùng những ngƣời cộng sản và
nhân dân Trung Quốc, coi “giúp bạn là tự giúp mình”....
+ Cùng với sự phát triển của lịch sử và thời đại, Hồ Chí Minh bổ sung thêm sức
mạnh của thời đại những nhân tố mới, đó là: sự hình thành và phát triển và sức mạnh
đoàn kết trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; là cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một nhân tố mới trong sức mạnh
của thời đại.
TP.HCM MINH
93
2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại. a. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó cách mạng vô
sản trên thế giới.
- Gặp Luận cƣơng của Lênin, theo Quốc tế II (Quốc tế cộng sản), Hồ Chí Minh
viết: “Công cuộc giải phóng các nƣớc và của các dân tộc bị áp bức là một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản.
Do đó mà trƣớc hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu
chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nƣớc đế quốc để thắng
kẻ thù chung”(12)
.
- Về cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Cách
mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong
thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”(13)
.
+ Ngƣời đã kiến nghị với ban phƣơng Đông quuốc tế Cộng sản: “Làm cho các
dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn
kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ
là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”(3)
.
b. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
- Hồ Chí Minh nói: “Đảng lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh rằng
chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản”.
Ngƣời nhắc nhở: “Tinh thần yêu nƣớc chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc”
của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế(14)
.
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn luôn giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ sự khác nhau giữa bọn thực dân, đế quốc
với nhân dân lao động, yêu công lý và hòa bình ở các nƣớc đế quốc.
- Kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Ngƣời vẫn yêu mến và đề
cao văn hóa Pháp, ca ngợi truyền thống đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân Mỹ.
- Sau khi giành đƣợc độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, nội
dung mới của kết hợp lòng yêu nƣớc với tinh thần quốc tế là phải phát triển chủ nghĩa
yêu nƣớc truyền thống thành chủ nghĩa yêu nƣớc xã hội chủ nghĩa, kết hợp lòng yêu
nƣớc với yêu chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa các nƣớc xã
hội chủ nghĩa. Ngƣời chăm lo bảo vệ sự đoàn kết thống nhất giữa các nƣớc xã hội chủ
nghĩa, giữa các đảng cộng sản anh em. Khi trong phong trào có sự chia rẽ, Hồ Chí
Minh đã hoạt động không mệt mỏi để khôi phục sự đoàn kết quốc tế trên cơ sở những
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
c. Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên
nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
- Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh
coi nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, nó
chỉ phát huy sức mạnh thông qua nguồn lực bên trong. Ngƣời nêu cao khẩu hiệu “tự
lực cánh sinh, dựa vào sức mạnh là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết
mình phải tự giúp lấy mình”; “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(15)
.
TP.HCM MINH
94
- Muốn tranh thủ sức mạnh của thời đại phải có đƣờng lối đúng đắn, phát huy
độc lập tự chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân
tộc mình với mục tiêu của thời đại: hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.
- Hồ Chí Minh đã thực hiện nhất quán đƣờng lối độc lập tự chủ, vì vậy mà đã
tranh thủ đƣợc sự giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, khi hai nƣớc có bất đồng
sâu sắc, góp phần vào sự hàn gắn sự rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nƣớc với chủ nghĩa quốc tế trong tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh còn là tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, “Phải coi cuộc đấu
tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta..., giúp bạn là tự giúp mình”.
d. Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàg làm bạn với tất cả các
nước dân chủ.
- Trên con đƣờng đi tìm đƣờng cứu nƣớc, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho
tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân và cách mạng Việt Nam với nhân dân và cách
mạng thế giới.
- Sau khi giành đƣợc độc lập, Ngƣời đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại
giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nƣớc dân chủ
trên thế giới để giữ gìn hòa bình”(16)
; “Thái độ nƣớc Việt Nam đối với những nƣớc Á
châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cƣờng là một thái độ bạn bè”(3)
.
- Đối với nƣớc Pháp, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân
thiện với nhân dân Pháp. Những ngƣời Pháp tƣ bản hay công nhân, thƣơng gia hay trí
thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ đƣợc nhân dân việt Nam hoan
nghênh họ nhƣ anh em bầu bạn”(17)
.
- Với các nhà tƣ bản, Ngƣời nói: Bất kỳ nƣớc nào (gồm cả nƣớc Pháp) thật thà
muốn đƣa tƣ bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả hai bên thì
Việt Nam sẽ rất hoan nghênh, còn nếu mong đƣa tƣ bản đến để ràng buộc, áp chế Việt
Nam thì Việt Nam cƣơng quyết cự tuyệt.
- Hồ Chí Minh đã dành ƣu tiên cho mối quan hệ với các nƣớc láng giềng gần
gũi trong khu vực, nhất là các nƣớc Lào, Campuchia cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù
chung.
- Đối với Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã bằng những hoạt động liên tục, không
mệt mỏi để xây đắp mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
- Hồ Chí Minh coi trọng thiết lập mối quan hệ hữu nghị với các nƣớc trong khu
vực và trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau. Ngƣời đã đi thăm Ấn Độ, Mianma,
Inđônêxia, nhiều nƣớc khác nhau, góp phần xây dựng và phát triển sự đoàn kết các
nƣớc thuộc thế giới thứ ba, nâng cao uy tín, vị thế của nƣớc ta trên trƣờng quốc tế.
Nhƣ vậy, từ chủ nghĩa yêu nƣớc đến chủ nghĩa quốc tế, từ niềm tin vào sức
mạnh của dân tộc đi đến nhận thức đầy đủ về sức mạnh của thời đại, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của nhân
dân Việt Nam mà còn là chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản quốc tế, lãnh tụ của
phong trào giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới.
Chuyên đề 4
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối Đại đoàn kết dân
tộc
TP.HCM MINH
95
I. Cơ sở của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối
đại đoàn kết dân tộc.
1. Quan niệm của Hồ Chí minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết dân tộc. - Nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: “...Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1)
.
+ Đầu thế kỷ XX, nƣớc ta đang dƣới chế độ tàn bạo của thực dân Pháp, “hơn
hai mƣơi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa”(2)
, Hồ Chí Minh chỉ ra: cách mệnh
thì sống, không cách mệnh thì chết...; “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ
không phải việc một hai ngƣời”(2)
.
- Tập hợp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân chính của mọi
thắng lợi của cách mạng.
+ Khi nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh nói: “Nhất là
vì lực lƣợng của cuộc toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa
phƣơng, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho
Tổ quốc.
Lực lƣợng toàn dâ là lực lƣợng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng đƣợc lực
lƣợng đó”(3)
.
+ Khi nói về công việc “Kháng chiến kiến quốc”, Ngƣời hỏi: Ai thực hiện
“Kháng chiến kiến quốc”? Và trả lời: “Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực
lượng chính là ở dân”(4)
.
- Sức mạnh của dâ tộc được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Về nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh viết:
“Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa
bình ở Đông Dƣơng, hoàn toàn giải phóng miền Bắc”(5)
.
+ Năm 1955, Ngƣời viết: “.... với sự đoàn kết nhất trí của tất cả những ngƣời
xứng đáng là con Lạc cháu Hồng - Mặt trận nhất định sẽ thành công trong việc đánh
tan âm mƣu của Mỹ và bè lũ tay sai của chúng và thực hiện hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ trong cả nƣớc Việt Nam yêu quý của chúng ta”(6)
.
- Trong thời đại mới, Hồ Chí Minh đặt sự đoàn kết toàn dân tộc trong mối
quan hệ với đoàn kết quốc tế.
Ngƣời đã đƣa ra câu nói nổi tiếng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công” (7)
Ba từ “đoàn kết” đó là sự thể hiện: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong dân,
đoàn kết quốc tế.
2. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của
khối đại đoàn kết dân tộc. - Truyền thống dân tộc.
+ Chủ nghĩa yêu nƣớc gắn liền với ý thức cộng đồng, cố kết dân tộc, đoàn kết
dân tộc của dân tộc Việt Nam đã đƣợc hình thành và củng cố qua hàng ngàn năm lịch
sử..., tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tƣ tƣởng, tình cảm, tâm hồn
mỗi con ngƣời Việt Nam.
TP.HCM MINH
96
+ Truyền thống đó đã trở thành tình cảm tự nhiên, là triết lý nhân sinh, phép
ứng xử và tƣ duy chính trị, cấu trúc xã hội: nhà – làng - nƣớc, thành phép đánh giặc
giữ nƣớc: “trên dƣới đồng lòng, cả nƣớc chung sức”, “tƣớng sĩ một lòng phụ tử”,
“khoan thƣ sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân”.
+ Hấp thụ truyền thống của dân tộc Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Từ xƣa đế
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy (yêu nƣớc) lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn (đoàn kết), nó lƣớt qua mọi sự nguy hiểu, khó
khăn, nó nhất chìm tất cả lũ bán nƣớc và lũ cƣớp nƣớc”(8)
.
- Từ tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhận thấy các phong trào yêu nƣớc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX đều thất bại do chƣa có đƣờng lối đúng, chƣa tập hợp đƣợc quần chúng. Bởi vậy,
Hồ Chí Minh xác dịnh: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nƣớc Pháp và các nƣớc khác. Sau
khi xem xét họ làm nhƣ thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”(9)
.
- Nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm của cách mạng thế giới.
+ Hồ Chí Minh nghiên cứu cách mạng tƣ sản, đặc biệt cách mạng Mỹ và cách
mạng Pháp; do tính chất không triệt để của nó mà gƣời cho rằng đó là các cuộc cách
mạng “không đến nơi”.
+ Nghiên cứu thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa cho tới lúc đó,
Ngƣời thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn ở họ, và cả những hạn chế ở họ: chƣa có sự
lãnh đạo đúng đắn, chƣa biết đoàn kết, chƣa có tổ chức và chƣa biết tổ chức.
+ Nghiên cứu Cách mạng Tháng Mƣời Nga, Hồ Chí Minh rút ra nhiều bài học,
đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp lực lƣợng công nông giành và giữ chính
quyền cách mạng..., xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Hồ Chí Minh cũng chú ý nghiên cứu cách mạng Trung Quốc, Ấn Độ, tìm
hiểu con đƣờng giải phóng dân tộc của Tôn Dật Tiên, Găngđi...
- Chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Hồ Chí Minh tiếp thu những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về
vai trò của quần chúng, nhân dân là ngƣời sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản lãnh đạo
cách mạng thắng lợi trƣớc hết phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở to
lớn để xây dựng lực lƣợng cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc
tế....
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ yêu cầu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, chủ yếu qua hoạt động cách mạng thực tiễn. Nhờ vậy, Ngƣời đã nắm
đƣợc linh hồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam
và trong thời đại mới để hình thành và hoàn chỉnh tƣ tƣởng của Ngƣời về sức mạnh
của quần chúng nhân dân và đại đoàn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân,
của khối đại đoàn kết dân tộc.
1. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công. Trong tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh có tới trên 405 bài nói và viết về đoàn
kết, nổi bật là:
- Đoàn kết làm ra sức mạnh, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”(10)
.
- “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”(11)
.
- “Đoàn kết” là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt”(3)
.
TP.HCM MINH
97
- “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
- Thành công, thành công, đại thành công”.
Đặt trong một nƣớc thuộc địa, nghèo nàn, lạc hậu, tƣ tƣởng đoàn kết làm nên
sức mạnh của Ngƣời có ý nghĩa chiến lƣợc, không chỉ trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc mà cả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng. - Đại đoàn kết dân tộc phải đƣợc quán triệt trong mọi đƣờng lối, chủ trƣơng,
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc.
Ngày 3-3-1951, trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam,
Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trƣớc toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng
Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
“ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”.(12)
- Đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng.
Ngày 31-8-1963, nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Trƣớc cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn
là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu đƣợc mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm
cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích
tuyên truyền huấn luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba
là đấu tranh thống nhất nƣớc nhà”(13)
.
- Đại đoàn kết dân tộc còn là mục tiêu, mục đích nhiệm vụ hàng đầu của cả dân
tộc.
Nhƣ vậy đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do
quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hƣớng dẫn, chuyển
những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành đòi hỏi tự giác, thành hiện
thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do
hạnh phúc cho nhân dân.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. - Khái niệm dân, nhân dân trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng,
vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con ngƣời Việt Nam cụ thể, cả
hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Đó là “Mọi con dân nƣớc Việt”, “Mỗi một
con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín ngƣỡng, “già, trẻ gái trai, giàu
nghèo, quý tiện”.
- Đại đoàn kết dân tộc là tập hợp đƣợc mọi ngƣời dân vào cuộc đấu tranh
chung.
Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và
độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nƣớc nhà. Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”(14)
.
- Muốn đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nƣớc – nhân
nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, đại độ với con ngƣời.
Hồ Chí Minh tha thiết kêu gọi tất cả những ngƣời thật thà yêu nƣớc, không
phân biệt tầng lớp nào, tín ngƣỡng nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nƣớc.
Ngƣời căn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
TP.HCM MINH
98
- Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”(15)
.
Sau này Hồ Chí Minh nêu rõ, nền tảng đại đoàn kết dân tộc là liên minh công - nông –
lao động trí óc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất. - Ngay từ đầu Hồ Chí Minh tập hợp mọi ngƣời vào các hội, nghiệp đoàn.
Ngƣời sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Đông Dƣơng, quy tụ ngƣời Việt Nam
yêu nƣớc cả trong và ngoài nƣớc.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải đƣợc xây dựng theo những nguyên tắc:
+ Trên nền tảng liên minh công nông (sau thêm lao động trí óc) dƣới sự lãnh
đạo của Đảng.
+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thƣơng dân chủ, lấy việc thống nhất
lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố
và không ngừng mở rộng.
+ Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
- Phƣơng châm đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là
“cầu đồng tồn dị”.
Năm 1962, tại lớp bồi dƣỡng cán bộ về công tác Mặt trận, Ngƣời nói: “Chúng
ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân... Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các
đoàn thể, các nhân sĩ trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp
đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây
dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn
giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”(16)
.
- Tƣ tƣởng đoàn kết của Hồ Chí Minh là đoàn kết phải bao gồm đấu tranh, đấu
tranh để đoàn kết tốt hơn.
Ngƣời viết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trƣờng
cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những
cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trƣờng thân ái,
vì nƣớc, vì dân”(17)
.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất,
Đảng ta luôn luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hƣớng cô độc, hẹp hòi,
coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lƣợng có thể tranh thủ đƣợc; đồng thời chống
khuynh hƣớng đoàn kết một chiều đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong
nội bộ Mặt trận.
5. Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa
là lực lƣợng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng
vững chắc. - Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công
nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, “đại đoàn kết dân tộc...
thành vấ đề máu thịt của Đảng”.
- Muốn quy tụ đƣợc cả dân tộc, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải: “Vừa là đạo
đức, vừa là văn minh”; “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lƣơng tâm
của dân tộc và thời đại”; “Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí”; “đƣợc nhân dân thừa
nhận”.
TP.HCM MINH
99
Ngƣời viết: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của
mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận tập trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thành
nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận
chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành đƣợc địa vị
lãnh đạo”(18)
.
- Đảng lãnh đạo Mặt trận, trƣớc hết bằng việc xác định chính sách mặt trận
đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan
trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách
mạng”(19)
.
- Đảng lãnh đạo Mặt trận - thực hiện theo nguyên tắc Mặt trận: hiệp thương
dân chủ, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy
lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện....
Ngƣời viết: “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của ngƣời ngoài Đảng. Cán bộ
và đảng viên không đƣợc tự cao tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi ngƣời; trái lại
phải học hỏi điều hay, điều tốt của mọi ngƣời....Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm
nhƣ thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”(3)
.
6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. - Hồ Chí Minh khẳng định: yêu nƣớc chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
- Chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh xác định: “phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và
vô sản giai cấp mọi nơi”(20)
.
- Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới”, “Cách mạng Việt Nam chỉ giành đƣợc thắng lợi khi đoàn kết
chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới”. Ngƣời là hình mẫu của những hoạt động
không mệt mỏi vì sự đoàn kết giai cấp công nhân, Đảng cộng sản và các dân tộc trên
thế giới.
Nêu cao tƣ tƣởng đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh không
những đƣợc cả nƣớc tôn vinh là lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam
mà còn đƣợc thừa nhận là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách mạng thế giới, danh
nhân văn hóa nhân loại.
Chuyên đề 5
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nƣớc
thật sự của dân, do dân, vì dân
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nƣớc
của dân, do dân, vì dân có liên quan đến phạm trù dân chủ. Dân chủ là một phạm trù
chính trị - xã hội rộng lớn, nhƣng nội dung cơ bản là quyền lực thuộc về nhân dân. Hồ
Chí Minh quan niệm dân chủ nghĩa là chủ và dân làm chủ.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là dân làm chủ nhà nƣớc.
Nhà nƣớc là của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện dân chủ
với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số phản động, chống lại nhân dân. Bởi
vậy, để hiểu đƣợc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân phải tìm
TP.HCM MINH
100
hiểu tƣ tƣởng về nhà nƣớc của Ngƣời - thực thể chính trị đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân.
I. Cơ sở và quá trình hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc.
1. Nghiên cứu lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm xây dựng
Nhà nƣớc trong lịch sử Việt Nam. - Tƣ tƣởng xây dựng Nhà nƣớc Việt Nam đƣợc phản ánh trong các bộ sử lớn
của dân tộc: Đại Việt sử ký toàn thƣ, Lịch triều hiến chƣơng loại chí...; trong những
bộ luật nổi tiến nhƣ Bộ luật Hồng Đức (đời Lê)....Các bộ luật sách nói trên phản ánh
những tƣ tƣởng pháp quyền.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu sắc lịch sử Việt Nam, Ngƣời viết Việt Nam
quốc sử diễn ca để giáo dục và vận động nhân dân, trong đó có nói đến các triểu đại
Việt Nam trong lịch sử.
2. Hồ Chí Minh nghiên cứu các kiểu Nhà nƣớc trong lịch sử. - Nhà nước thực dân phong kiến.
+ Hồ Chí Minh vạch trần bản chất vô nhân đạo, chỉ rõ bản chất cái gọi là “công
lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở các xứ “bảo hộ”.
+ Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân
dân An Nam đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý
đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của dân tộc với quyền tƣ do,
dân chủ của nhân dân.
- Nhà nước dân chủ tư sản.
Ngƣời coi Nhà nƣớc tƣ sản Mỹ, Pháp là sản phẩm của “những cuộc cách mạng
không đến nơi”, vì ở đó chính quyền vẫn trong tay một số ít ngƣời - một xã hội bất
bình đẳng.
- Nhà nƣớc Xô viết.
Ngƣời gọi Nhà nƣớc Xôviết là kết quả của cuộc cách mạng Tháng Mƣời Nga
năm 1917 - cuộc cách mạng “đến nơi”, đã “phát đất ruộng cho dân cày, giao công
xƣởng cho thợ thuyền... ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới
đại đồng”(1)
.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu vấn đề Nhà nước trong chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề nhà nƣớc, bản
chất của nhà nƣớc chuyên chính vô sản, nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa.
II. Những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc.
1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về một Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân. Sau cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nƣớc cách mạng ra đời, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nƣớc ta là nƣớc dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân.... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ƣơng do dân
cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lƣợng đều ở nơi dân”(2)
. Đó là điểm khác nhau
về bản chất giữa nhà nƣớc dân chủ nhân dân với các nhà nƣớc của giai cấp bóc lột đã
từng tồi tại trong lịch sử.
- Nhà nước của dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng và ngay từ đầu là: “Nƣớc Việt Nam là một
nƣớc dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nƣớc là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1,
Hiến pháp năm 1946).
TP.HCM MINH
101
+ Quyền quyết định của nhân dân về các vấ đề liên quan đến vận mệnh quốc
gia.
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đƣa ra nhân dân phúc quyết”
(Điều thứ 32 - Hiến pháp năm 1946). Thực chất đó là chế độ trƣng cầu dân ý, một
hình thức dân chủ trực tiếp đƣợc đề ra khá sớm ở nƣớc ta.
+ “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân(3)
.
+ Ngƣời dân đƣợc hƣởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì pháp
luật không cấm, và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ Nhà nƣớc của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để
thực thi quyền làm chủ của ngƣời dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là
“công bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê hán những “vị đại diện” lầm lẫn sự uy quyền
đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền, cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này
ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao đƣợc vậy, coi khinh dƣ luận, không
nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy
thế với dân”(4)
.
- Nhà nước do dân.
+ Nhà nƣớc do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình.
+ Nhà nƣớc đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nƣớc chi tiêu, hoạt
động.
+ Nhà nƣớc do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu: Tất cả
các cơ quan nhà nƣớc là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và sự kiểm soát của nhân dân.
- Nhà nước vì dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có Nhà nƣớc thực sự của dân, do dân tổ chức,
xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nƣớc vì dân.
+ Nhà nƣớc vì dân là nhà nƣớc phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh yêu
cầu: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh...”(5)
.
+ Cán bộ Nhà nƣớc phải là đầy tớ của dân, đồng thời là ngƣời lãnh đạo hƣớng
dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô
tƣ, lo trƣớc thiên hạ, vui sau thiên hạ. Ngƣời lãnh đạo phải trí tuệ hơn ngƣời, minh
mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Nhƣ vậy,
“Ngƣời thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.
2. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và
tính dân tộc của Nhà nƣớc trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. - Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị, luôn mang bản chất
giai cấp.
+ Trả lời câu hỏi: Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân có phải nhà nƣớc siêu giai
cấp không?, Hồ Chí Minh trả lời: “Tính chất nhà nƣớc là vấn đề cơ bản của Hiến
pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục
vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nƣớc
của ta là Nhà nƣớc của nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo”(6)
.
TP.HCM MINH
102
+ Bản chật giai cấp của Nhàa nƣớc ta là bản chất giai cấp công nhân và đƣợc
biểu hiện ở những nội dung:
* Do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
* Định hƣớng đƣa đất nƣớc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát
triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu
thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến”(2)
.
* Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Nhà nƣớc là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hồ Chí Minh viết: “Nhà nƣớc ta phát huy dân chủ đến cao độ... Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên đƣợc tất cả lực lƣợng của nhân dân đƣa cách
mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân
xây dựng chủ nghĩa xã hội”(7)
.
- Sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân,
tính dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: giai cấp công nhân không có lợi ích nào khác
ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng đƣợc giai cấp
công nhân một cách triệt để.
+ Sự thống nhất này đƣợc thể hiện:
* Nhà nƣớc dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng: là hoa, là quả của bao
nhêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những con ngƣời con anh dũng
của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy
chém, trên chiến trƣờng.
* Nhà nƣớc ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng.
Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn là Chính phủ đại đoàn kết dân tộc.
* Nhà nƣớc ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc
kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng.
3. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về một nhà nƣớc pháp quyền có hiệu lực pháp
lý mạnh mẽ. - Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước
hợp hiến.
+ Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết và tuyên đọc trong cuộc mít tinh
lớn tại thủ đô Hà Nội ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra Nhà nƣớc Việt Nam mới, đồng
thời đảm bảo địa vị hợp pháp của Chính phủ lâm thời.
+ Ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra với Chính phủ một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách là “Cúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ
tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”(8)
để
sớm có m65t nhà nƣớc hợp hiến do nhân dân bầu ra.
+ Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh là Chủ tịch
Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của
nhân dân bầu ra, có đầy đủ tƣ cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề nội trị
và ngoại giao của Nhà nƣớc Việt Nam mới.
- Một nhà nƣớc pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nƣớc quản lý đất nƣớc
bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
TP.HCM MINH
103
+ Nhà nƣớc dân chủ, thì dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau,
nƣơng tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Pháp luật là bà
đỡ của dân chủ. Hồ Chí Minh viết: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(9)
.
+ Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đƣa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo
đảm cho pháp luật đƣợc thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các
cơ quan nhà nƣớc và trong nhân dân. Theo Ngƣời, công bố luật chƣa phải là mọi việc
đã xong, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện đƣợc tốt.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dƣỡng ý thức làm chủ,
phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia
vào các công việc của Nhà nƣớc, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải lo “Làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(10)
. “Lúc dân
biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã
đến mức dân chủ hóa khá cao”.
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình,
giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải
gƣơng mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trƣớc hết là các cán bộ thuộc ngành hành
pháp và tƣ pháp. Ngƣời viết: “Các bạn là những ngƣời phụ trách thi hành pháp luật.
Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gƣơng “Phụng công, thủ pháp chí công, vô tư”,
cho nhân dân noi theo”(11)
.
- Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ có hiệu lực, phải nhanh
chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là
phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ Nhà nƣớc phải biết quản lý nhà nƣớc.
Ngƣời ký Sắc lệnh số 197 thành lập Khoa pháp lý học tại Trường đại học Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh mạnh dạn sử dụng những viên chức, quan lại đã đƣợc đào tạo
nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính....
+ Hồ Chí Minh đăng báo “Tìm người tài đức”, Ngƣời viết: công việc kiến thiết
ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục..., rất cần nhân
tài. “Nhân tài nƣớc ta dù chƣa có nhiều lắm nhƣng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo
phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều(12)
. Hồ Chí
Minh quan tâm tới công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ.
+ Trong việc dùng cán bộ, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải tẩy sạch óc bè phái.
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76, ban hành Quy chế công chức – chú trọng chế
độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính - thể hiện tầm nhìn xa, tính
chính quy, hiện đại, tinh thần công bằng, dân chủ... của Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng một Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam.
+ Trong vấn đề cán bộ, đặc biệt là với cán bộ quản lý nhà nƣớc, điều quan tâm
thƣờng xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần phục
vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều này thì dù giỏi mấy cũng không dùng
đƣợc.
Phát biểu trƣớc cử tri Hà Nội (ngày 5-01-1946), Hồ Chí Minh nói: “Làm việc
nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai
muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu”(13)
. Sau khi trúng cử Quốc
TP.HCM MINH
104
hội, Hồ Chí Minh hứa với đồng bào: Trƣớc sự nguy hiểm khó khăn của nƣớc nhà,
chúng tôi đi trƣớc. Với việc giữ vững nền độc lập, chúng tôi xin đi trƣớc.
+ Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính
quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải “thân dân,
gần dân, trọng dân, không được lên mặt “quan cách mạng” với dân, lắng nghe ý kiến
và chịu sự kiểm soát của dân”.
4. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nƣớc trong sạch, vững mạnh,
hiệu quả. - Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
+ Theo Hồ Chí Minh, từ kinh tế tiểu nông đi tới xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền, trƣớc hết phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, khẩn trƣơng xây dựng đồng bộ
hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân...,
đồng thời phải đặc biệt coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức. Hai hình thái ý thức xã hội
này có thể kết hợp, bổ sung cho nhau trong thực tế trị nƣớc. Không bao giờ đƣợc tuyệt
đối hóa địa vị độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào.
+ Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luô luôn
chú trọng giáo dục đạo đức nhƣng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của
pháp luật và thi hành pháp luật nghiêm minh.
* Chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức; và đạo đức cao nhất,
theo Hồ Chí Minh là “Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gƣơng mẫu trong mọi việc”(14)
.
* Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh nhấn mạnh kịp thời ban hành pháp
luật.
Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đƣa
và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền
nhận hối lộ.
Ngày 26-01-1946, Ngƣời ký “Quốc lệnh” khép tội tham ô, trậm cắp của công
vào tội tử hình.
+ Để đƣa luật vào cuộc sống, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy tham gia
giám sát công việc của Chính phủ. Hồ Chí Minh viết: Từ ngày thành lập Chính phủ
trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có ngƣời làm quan cách mạng, chợ đen,
chợ đỏ, mƣu vinh thân, phì gia.... Xin đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc của
Chính phủ. Ngƣời đòi hỏi pháp luật của ta “phải thẳng tay trừng trị những kẻ
bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(15)
.
- Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của Nhà nƣớc là dựa vào tính
nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự gƣơng mẫu, trong sạch về đạo đức của
ngƣời cầm quyền. Ngƣời đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trƣớc, để làm kiểu
mẫu cho dân”(16)
.
+ Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”. Ngƣời
nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh
của thực dân và phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của
cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy
cũng nặng nhƣ tội lỗi Vệt gian, mật thám”(17)
.
TP.HCM MINH
105
+ Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp nhƣ việc
đánh giặc trên trên mặt trận. “Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm
mà quên chống giặc nội xâm, nhƣ thế là chƣa làm tròn nhiệm vụ của mình”(4)
.
+ Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên
nhân quan trọng là bệnh quan liêu.
Ngƣời viết: “Vì những ngƣời và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp
dƣới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi
quần chúng. Đối với công việc thì thật trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi
mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ
không kiểm tra đến nơi, đến chốn... thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà
không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Thế
là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn
trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trƣớc mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”(5)
.
Chuyên đề 6
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Quốc phòng toàn dân, xây dựng Lực lƣợng vũ trang
nhân dân
Sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra trong một thời kỳ lịch sử
mà cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân, đế
quốc đang phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Chính bối cảnh lịch sử đó khiến Hồ Chí
Minh dành nhiều thời gian, tâm lực nghiên cứu về quân sự. Ngƣời đã làm việc, suy
nghĩ, tìm kiếm không mệt mỏi để chuẩn bị về lý luận và tổ chức cho khởi nghia vũ
trang và chiến tranh cách mạng. Ngƣời đã trực tiếp biên soạn nhiều tác phẩm quân sự
có giá trị lý luận và thực tiễn, bồi dƣỡng kiến thức quân sự cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta ngay trong buổi đầu cách mạng.
Trong khởi nghĩa và chiến tranh, Ngƣời vạch chiến lƣợc quân sự xây dựng lực
lƣợng chính trị quần chúng, sáng lập lực lƣợng vũ trang cách mạng, kết hợp tài tình
các phƣơng pháp và hình thức đấu tranh, bồi dƣỡng các nhân tố cơ bản đảm bảo giành
thắng lợi. Sự nghiệp quân sự của Hồ Chí Minh là cống hiến to lớn đối với cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới.
Tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh bao gồm những quan điểm của Ngƣời về bạo
lực, về khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân, về xây dựng lực
lƣợng vũ trang, xây dựng hậu phƣơng và nền quốc phòng toàn dân, về chỉ đạo chiến
tranh và nghệ thuật quân sự ở một nƣớc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Tƣ tƣởng quân sự ấy phản ánh quy luật phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc trong điều kiện Việt Nam, là sự kết hợp hài hòa và khoa học truyền thống quân sự
của dân tộc ta với tinh hoa quân sự cổ, kim, Đông, Tây của loài ngƣời.Nội dung cơ
bản của tƣ tƣởng Quân sự Hồ Chí Minh là tƣ tƣởng quốc phòng toàn dân, xây dựng
lực lƣợng vũ trang nhân dân và chiến tranh nhân dân Việt Nnam trong thời đại mới.
1. Tƣ tƣởng dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Tƣ tƣởng bạo lực cách mạng theo quan điểm Mác – Lênin là một nội dung cơ
bản của tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh. Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực
phản cách mạng và tƣ tƣởng về bạo lực cách mạng thống nhất biện chứng với tƣ
TP.HCM MINH
106
tƣởng nhân văn và hòa bình, nó cũng hoàn toàn xa lạ với các xu hƣớng phiêu lƣu,
manh động và khủng bố cá nhân.
Chủ nghĩa thực dân, tự bản thân nó, đã là “một hành động bạo lực của kẻ
mạnh đối với kẻ yếu rồi”(1)
, từ đó Ngƣời khẳng định, độc lập, tự do thật sự của các dân
tộc thuộc địa chỉ có thế giành lại bằng cuộc đấu tranh của cả dân tộc, không thể cầu
xin mà có đƣợc, “muốn đƣợc giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình”
và “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng
bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền”(2)
.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực bao giờ cũng phải dựa
vào hai lực lƣợng: chính trị của toàn dân và vũ trang nhân dân, trong đó lực lƣợng
chính trị là cơ sở để xây dựng lực lƣợng vũ trang.
Tƣ tƣởng cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh hoàn toà xa lạ, đối lập với tƣ
tƣởng hiếu chiến của những kẻ xâm lƣợc. Ngƣời tìm mọi cách ngăn chặn các cuộc
xung đột vũ trang, tìm mọi cách đẩy lùi chiến tranh, có khi phải chấp nhận những
nhân nhƣợng cần thiết, có nguyên tắc, bởi vì Ngƣời yêu nƣớc, thƣơng dân, quý trọng
sinh mệnh con ngƣời. Ngay cả khi đang tiến hành kháng chiến, Ngƣời cũng không bỏ
lỡ cơ hội tìm kiếm hòa bình, sớm kết thúc chiến tranh. Nhƣng khi không có cách nào
khác để tránh khỏi chiến tranh, kẻ thù độc ác và ngoan cố gây chiến tranh xâm lƣợc,
Ngƣời kiên quyết kêu gọi toàn dân tộc, toàn quân nhất tề đứng dậy chiến đấu đến
thắng lợi hoàn toàn. “Đồngbào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình... Tôi biết là nhân
dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng
đủ mọi cách... Nƣớc Việt Nam cần kiến thiết, nƣớc Việt Nam không muốn là nơi chôn
vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhƣng cuộc chiến tranh ấy, nếu ngƣời ta buộc chúng
tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm”(3)
.
Do chúng ta phải phát động và tiến hành một cuộc chiến tranh chính nghĩa
chống xâm lƣợc và bạo tàn nên Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh vai trò quyết định
của chính trị trong việc vạch ra đƣờng lối chiến lƣợc, phát động và tập hợp quần
chúng tham gia kháng chiến, xây dựng và sử dụng lực lƣợng, củng cố hậu phƣơng,
nâng cao trạng thái chính trị - tinh thần của nhân dân và lực lƣợng vũ trang. Đó là tƣ
tƣởng có tính nguyên tắc, đồng thời là một đặc trƣng nổi bật trong hệ thống tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về quân sự.
2. Tƣ tƣởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang toàn dân là một đóng góp to lớn
và mang tính sáng tạo sâu sắc của Hồ Chí Minh, trong đó có những nội dung chủ yếu
sau:
- Khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam là khởi nghĩa vũ trang toàn dân do toàn thể
dân tộc tiến hành, đó là điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của khởi nghĩa giành chính
quyền. Với tƣ tƣởng đó, Ngƣời luôn luôn kêu gọi cả dân tộc, bất cứ ai là ngƣời Vịêt
Nam có lòng yêu nƣớc phải tham gia vào việc cứu nƣớc, vào khởi nghĩa vũ trang để
giành cho đƣợc độc lập.
- Vận dụng tƣ tƣởng Lênin về tình thế cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ ra các điều
kiện của thời cơ khởi nghĩa, chỉ đạo tìm kiếm mọi cách tạo thời cơ và nắm vững thời
cơ để phát động khởi nghĩa toàn dân.
TP.HCM MINH
107
- Khởi nghĩa vũ trang là phải dùng vũ khí, phải chiến thắng bằng lực lƣợng vũ
trang, song đó lại là “cuộc chiến tranh to tát về chính trị và quân sự”, kết hợp hài hòa
hai lực lƣợng đó, “làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại”.
- Khởi nghĩa từng phần đi đến tổng khởi nghĩa và khi giành đƣợc chính quyền,
phải khẩn trƣơng xây dựng chính quyền cách mạng, và đó phải là chính quyền của
dân, do dân, vì dân.
3. Tƣ tƣởng kháng chiến toàn dân, toàn diện, trƣờng kỳ, dựa vào sức mình
là chính. Cuộc chiến tranh mà dân tộc chúng ta phải tiến hành vừa là chiến tranh giải
phóng, vừa là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống lại chiến tranh xâm lƣợc của chủ
nghĩa thực dân và đế quốc. Từ bản chất chính nghĩa sâu sắc ấy và từ lý tƣởng cao quý
của cuộc chiến đấu nên theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, cuộc chiến tranh ấy đƣợc thể hiện
bằng cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trƣờng kỳ và dựa vào sức mình là chính.
- Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc trong lịch sử giữ nƣớc
lâu dài của chúng ta, đồng thời vận dụng triệt để và sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, nhận thức sâu sắc tình yêu Tổ
quốc và khát vọng độc lập tự do của nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã khẳng định một
luận điểm cơ bản: kháng chiến là sự nghiệp của dân, có dân là có tất cả, khởi nghĩa
toàn dân để giành độc lập cho dân tộc và chỉ có tiến hành kháng chiến toàn dân mới
giữ vững đƣợc nền độc lập ấy. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân
Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự thể hiện hàm súc và đầy sức thuyết phục tƣ
tƣởng lớn của Ngƣời về quân sự, về kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đán bà,
bất kỳ ngƣời già, ngƣời trẻ, không chia tôn giáo đảng phái, dân tộc. Hễ là ngƣời Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”(4)
. Chính đƣờng lối, tƣ
tƣởng chính trị - quân sự đúng đắn đó đã tạo khả năng động viên to lớn toàn bộ sức
mạnh, nghị lực và tinh thần sáng tạo của nhân dân khi đi vào kháng chiến.
- Chiến tranh là một thách thức toàn diện đối với một đất nƣớc, một dân tộc,
một chế độ. Đối với một cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của một dân
tộc bị áp bức, nô lệ, theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, không dùng toàn lực của dân về đủ
mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi đƣợc. Phát huy cao nhất sức mạnh tổng
hợp của toàn dân đánh giặc trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh
tế, tƣ tƣởng, văn hóa... là nội dung chủ yếu của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về kháng chiến
toàn diện.
Đấu tranh quân sự là phƣơng thức chủ yếu nhất của chiến tranh. Đấu tranh
chính trị là một nội dung rất cơ bản trong chiến tranh nhân dân. Phối hợp chặt chẽ và
linh hoạt với hai phƣơng thức trên là đấu tranh ngoại giao nhằm phát huy cao nhất sức
mạnh của thời đại. Để tạo sức mạnh nội sinh của cuộc kháng chiến, nhiệm vụ đấu
tranh kinh tế, xây dựng hậu phƣơng vững mạnh và đấu tranh trên lĩnh vực tƣ tƣởng –
văn hóa nhằm đồng thời nâng cao, tăng cừơng sức mạnh vật chất và tinh thần cho
cuộc kháng chiến là yêu cầu cao của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng quố phòng
toàn dân, về kháng chiến toàn diện.
- Kẻ thù bao giờ cũng có âm mƣu tốc chiến, tốc thắng để đánh đổ chính quyền
cách mạng và chế độ mới của chúng ta. Để chống lại âm mƣu đó, Hồ Chí Minh khẳng
định: Kháng chiến phải trƣờng kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nƣớc ta nghèo, ta phải
chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân”(5)
. Kháng chiến
trƣờng kỳ để vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa bồi dƣỡng, phát triển lực lƣợng của ta,
TP.HCM MINH
108
càng đánh ta càng mạnh để đánh bại từng âm mƣu chiến lƣợc của địch, tiến lên giành
thắng lợi hoàn toàn.
“Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, dựa vào sức mình là chính” là một nội dung
rất quan trọng trong tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh. Theo ngƣời, một dân tộc mà
không biết tự lực cánh sinh, không biết dựa vào chính sức mình để giải phóng cho
mình thì không xứng đáng đƣợc độc lập, tự do. Ngay cả khi chúng ta đã tranh thủ
đƣợc sự đoàn kết quốc tế với sự giúp đỡ và ủng hộ về vật chất và tinh thần, thì tƣ
tƣởng trên của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa cực ký quan trọng của
nó.
4. Nghệ thuật quân sự theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Chiến tranh giải phóng của dân tộc thuộc địa chống thực dân, đế quốc lúc đầu
bao giờ cũng là cuộc chiến đấu của ngƣời yếu chống kẻ mạnh. Muốn giành thắng lợi
không thể chỉ dựa vào ý chí, mà phải có đƣờng lối chiến lƣợc đúng đắn, sáng tạo, biết
tạo ra sức mạnh, càng đánh phải càng mạnh, dám đánh, quyết đánh đồng thời phải biết
đánh. Biết đánh bằng nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân. Trong tƣ tƣởng
quân sự Hồ Chí Minh, vấn đề nghệ thuật quân sự chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Ngƣời đã viết hàng chục tác phẩm có giá trị về nghệ thuật quân sự. Trong lĩnh vực
này, Hồ Chí Minh đã học tập, vận dụng và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự
của cha ông ta “lấy yếu đánh mạnh”, “lấy ít đánh nhiều”, “lấy nhỏ đánh lớn””... lên
một tầm cao mới đáp ứng đƣợc những yêu cầu và thách thức mới trong một cuộc
chiến tranh thời kỳ hiện đại (thế kỷ XX).
Tƣ tƣởng trƣờng kỳ kháng chiến của Hồ Chí Minh không đối lập với tƣ tƣởng
chiến lƣợc tiến công, luôn giành thế chủ động, mà thống nhất biện chứng với nhau.
Toàn dân trƣờng kỳ kháng chiến, song trong nghệ thuật quân sự cụ thể lại phải luôn
chủ động giành thế tiến công, đồng thời tiến công phải chắc thắng, không phiêu lƣu,
mạo hiểm. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh còn là nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh
thời, biết đánh địch bằng mƣu, thắng địch bằng thế, lấy ít thắng nhiều, lấy chất lƣợng
cao thắng số lƣợng đông, biết tập trung ƣu thế vào thời cơ quyết định để luôn luôn
đánh địch trên thế mạnh. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh còn là biết đánh địch bằng
mọi lực lƣợng, mọi quy mô, mọi thứ vũ khí, trang bị, không chỉ đánh vào quân đội có
vũ khí, mà đánh thẳng vào lòng ngƣời kết hợp tác chiến với binh vận, địch vận. Và đó
cò là nghệ thuật biết khởi đầu chiến tranh và biết biết kết thúc chiến tranh vào thời
điểm có lợi nhất và thích hợp nhất.
5. Tƣ tƣởng về xây dựng lực lƣợng chính trị và lực lƣợng vũ trang nhân
dân. Theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, lực lƣợng chính trị quần chúng và lực lƣợng vũ
trang nhân dân là hai lực lƣợng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách
mạng. Sự phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau của hai lực lƣợng đó tạo nên sức
mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lƣợng chính trị quần chúng.
“Sự đồng tâm của đồng bào đúc nên bức tƣờng đồng xung quanh Tổ quốc”. Lực
lƣợng chính trị quần chúng là cơ sở cho đấu tranh quân sự, đồng thời đó còn là lực
lƣợng tiến công trực tiếp đánh địch theo các phƣơng thức và nội dung rất phong phú,
linh hoạt.
TP.HCM MINH
109
Xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân theo ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phƣơng và dân quân, du kích là một nội dung lớn và sáng tạo trong tƣ tƣởng quân
sự Hồ Chí Minh.
Trong tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh, việc xây dựng bản chất cách mạng, ý
thức và trình độ chính trị cho lực lƣợng vũ trang đƣợc đặc biệt quan tâm và tổ chức
thực hiện một cách chặt chẽ, hệ thống. “Quân sự mà không có chính trị như cây
không có gốc, vô dụng lại có hại”(6)
. Hồ Chí Minh đã đúc kết một truyền thống quý
báu, khái quát bản chất chính trị của lực lƣợng vũ trang nhân dân ta là trung với nước,
trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, và xác định quân đội ta có ba nhiệm vụ: đội quân chiến đấu,
đội quân công tác và đội quân sản xuất, từ đó Ngƣời khẳng định một nguyên tắc bất
dịch là sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lƣợng vũ trang
nhân dân (ba thứ quân) và lực lƣợng công an nhân dân.
Trong xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, Hồ Chí Minh đã nêu lên một
lụân điểm hết sức quan trọng và đƣợc diễn đạt vô cùng giản dị, cô đúc, đó là “người
trước, súng sau”, nghĩa là sự thống nhất giữa ngƣời cầm vũ khúi, trong đó ngƣời cầm
vũ khí đóng vai trò quyết định. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo bồi dƣỡng
cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh, trình độ chính trị, có phẩm chất, đạo đức, có trình độ văn
hóa, có tri thức và kỹ năng quân sự, có sức khỏe để đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ
của một đội quân chiến đấu, sản xuất và công tác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự, cả
chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật và hậu cần. “Tƣớng là kẻ giúp nƣớc. Tƣớng giỏi
(đủ cả: trí, tín, nhân, dũng, nghiêm) thì nƣớc mạnh. Tƣờng xoàng thì nƣớc hèn”(7)
.
Ngƣời nêu ra sáu yêu cầu cơ bản đối với ngƣời chỉ huy quân sự là “Trí - Dũng - Nhân
- Tín – Liêm – Trung”.
Dƣới ánh sáng của tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh, thực hiện một cách triệt để,
trung thành và sáng tạo tƣ tƣởng ấy với một niềm tin yêu vô hạn dành cho ngƣời Tổng
tƣ lệnh tối cao của mình, 60 năm qua, lực lƣợng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân
dân Việt Nam đã phát triển không ngừng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Có lẽ,
phần thƣởng cao quý nhất, độc đáo nhất dành cho lực lƣợng vũ trang nhân dân chính
là danh hiệu “Bộ đội cụ Hồ” mà nhân dân ta đã gọi, đã trao tặng cho những ngƣời con
thân yêu của mình.
6. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phƣơng,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Để kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân trong mặt trận dân tộc thống nhất,
động viên sức mạnh toàn dân vào công cuộc kháng chiến cứu nƣớc và bảo vệ Tổ
quốc. Hậu phƣơng vững chắc là một trong những nhân tố thƣờng xuyên quyết định
thắng lợi trong chiến tranh. Đối với Hồ Chí Minh, hậu phƣơng không chỉ là sức mạnh
vật chất, nguồn nhân lực mà còn là sức mạnh tinh thần, trong đó lòng dân lại là sức
mạnh đặc biệt to lớn. Một nền quốc phòng toàn dân hùng mạnh với sự tham gia của
tất cả các ngành, các giới... luôn luôn góp phần quyết định trong các cuộc kháng chiến
của chúng ta, từ chống Pháp, đuổi Nhật đến chống Mỹ xâm lƣợc. Nghệ thuật phát huy
cao độ sức mạnh toàn dân đánh giặc với lòng dũng cảm phi thƣờng và trí thông minh,
sáng tạo tuyệt vời là một thành tựu to lớn của tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh, dân khí
mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống nổi.
TP.HCM MINH
110
Trong những năm vận động cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang nhân dân
giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Trong kháng chiến chống Pháp, Ngƣời nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hậu phƣơng để
tạo tiềm lực cho cuộc kháng chiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Những tƣ tƣởng
và kinh nghiệm quý báu đó đã đƣợc Hồ Chí Minh nâng cao và hoàn chỉnh trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nƣớc và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân để bảo vệ Tổ
quốc. Nền quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với an ninh nhân dân mà chúng ta
đang xây dựng hiện nay là kết quả của sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây
dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phƣơng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân từ những
năm chuẩn bị khởi nghĩa và ngay sau khi nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tất
nhiên, trong một điều kiện mới và với một trình độ phát triển mới mẻ để đáp ứng yêu
cầu mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đất nƣớc chúng ta, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang bƣớc vào thời
kỳ phát triển mới với những cơ hội lớn và những thách thức gay gắt. Nhiệm vụ xây
dựng Tổ quốc gắn bó sâu sắc với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ thành
quả cách mạng mà nhân dân ta dày công đấu tranh, xây dựng nên.
Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, vận dụng sáng
tạo tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân
dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, trực tiếp tạo nên sức
mạnh vô địch vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì dân giàu, nƣớc mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chuyên đề 7
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân
Từ lúc ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc để giải phóng đồng bào, Hồ Chí Minh đã nghĩ
đến một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn
có cuộc sống mới đó, trƣớc tiên phải giành lại độc lập cho dân tộc, kế đó phải xây
dựng đất nƣớc vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Ngƣời chỉ rõ:
Nƣớc độc lập mà dân không đƣợc hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẵng có nghĩa
lý gì!
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại: “Đảng cần phải có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân”(1)
.
I. Phát triển kinh tế không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân
dân:
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
của nƣớc ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo sáng suốt, có
tính nguyên tắc. Đó là:
1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nƣớc ta là một nƣớc thuộc địa nữa phong kiến. Kinh tế rất lạc hậu và gồm
nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất chƣa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân thấp kém. Do vậy, Ngƣời đã chỉ rõ: “... nhiệm vụ quan trọng nhất của
TP.HCM MINH
111
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... có
công nghiệp và nông nghệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền
kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(2)
.
2. Về cơ cấu kinh tế. - Phát triển mạnh cả công công nghiệp và nông nghiệp. Ngƣời chỉ rõ: Nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều
nhau, không thể lớn mạnh đƣợc. Ngƣời giải thích rất rõ: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn
mạnh đƣợc. Ngƣời giải thích rất rõ:
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lƣơng thực cho nhân dân;
cung cấp đủ nguyên liệu (nhƣ bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản
(nhƣ lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy mới.
Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho
nhân dân, trƣớc hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nƣớc, phân hóa học, thuốc trừ
sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác
xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công
nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, nhƣ hai chân đi
khỏe và đi đều thì tiến bƣớc sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thực hiện liên
minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sƣớng
cho nhân dân.
- Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đƣờng
no ấm thực sự của nhân dân ta.
Trong bài viết Con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Ngƣời chỉ rõ nƣớc ta
vốn là một nƣớc nông nghiệp lạc hậu. Năm 1959, trong sản xuất của miền Bắc, công
nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn nông nghiệp và thủ công nghiệp
chiếm đến tám phần. Ngƣời đặt câu hỏi: Nhƣ vậy thì làm sao cho đời sống nhân dân
thật dồi dào đƣợc? Và Ngƣời đã trả lời: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào,
khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách hật rộng rãi: dùng máy móc trong
công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho ngƣời, làm cho sức
ngƣời tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp ngƣời làm những việc phi thƣờng.
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra
gang, thép, than, dầu.... Đó là con đƣờng phải đi của chúng ta, con đƣờng công
nghiệp hóa nƣớc nhà.
Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở
mang công nghiệp thì phải có đủ lƣơng thực, nguyên liệu. Nhƣng công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đƣờng no ấm thật sự của nhân
dân ta”(1)
.
3. Về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. - Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng
về tƣ liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn tồn tại bốn hình
thức sở hữu chính: “+Sở hữu nhà nước tức là của toàn dân.
+ Sở hữu hợp tác xã tức là sở hữ tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẽ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”(2)
.
TP.HCM MINH
112
Ngƣời chỉ rõ mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã
hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở thành một nền
kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữ tập thể.
- Về thành phần kinh tế: trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh
tế. Hồ Chí Minh xác định: “2) Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tề khác
nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân
dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tƣ bản của tƣ nhân.
E- Tƣ bản của Nhà nƣớc (nhƣ Nhà nƣớc hùn vốn với tƣ bản tƣ nhân để kinh
doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho
nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hƣớng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hƣớng chủ
nghĩa tƣ bản”(1)
.
Phải phát triển các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền
tảng cho kinh tế xã hội chủ nghĩa; khuyến khích kinh tế hợp tác xã với các hình thức
đa dạng, nhấn mạnh các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, Nhà
nƣớc bảo hộ quyền sở hữu về tƣ liệu sản xuất cho họ, hƣớng dẫn và giúp đỡ họ cải
tiến cách làm ăn. Đối với các nhà công thƣơng, họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân
tộc dân chủ thì sẵn sàng cải tạo, hƣớng họ hợp doanh với Nhà nƣớc để góp phần xây
dựng đất nƣớc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, không xóa bỏ quyền sở hữu về tƣ liệu sản
xuất và của cải khác của họ, hƣớng dẫn họ phục vụ cho quốc kế dân sinh phù hợp với
kế hoạch Nhà nƣớc.
4. Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong sản xuất,
trong tiêu dùng, tiết kiệm vật tƣ, thời gian, sức lao động. Đồng thời, phải chống
tham ô, lãng phí, quang liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại
xâm. Ngƣời chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đƣờng đi đến
xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là
tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(2)
.
II. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
1. Thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và
các giá trị văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng và
ý nghĩa lớn lao của văn hóa. Từ năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn
cũng nhƣ mục đích của cuộc sống, loài ngƣời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(1)
.
Cùng với việc chỉ rõ nội hàm của văn hóa, Ngƣời phân tích và luôn nhấn mạnh
mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa với kinh tế, chính trị,
TP.HCM MINH
113
xã hội: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có
kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”. Mặt khác, Ngƣời lại khẳng
định nhiều lần ý nghĩa, vai trò của văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế, phát
triển xã hội, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Từ cách nhìn nhận rất biện chứng rên, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong công
cuộc kiến thiết nƣớc nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng
ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, trong quan hệ của bốn
thành tố trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò quyết định của chính trị và kinh tế đối với sự
phát triển của văn hóa.
Khi dân tộc và đất nƣớc còn bị nô lệ thì văn hóa cùng chung số phận nô lệ đó,
vì vậy, theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính tị trƣớc để giải phóng
chính trị, giải phóng xã hội, từ đó, giải phóng văn hóa, mở đƣờng cho văn hóa phát
triển. “Xƣa kia chính trị bị áp bức, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh đƣợc”.
Khi đất nƣớc đã đƣợc giải phóng, bƣớc vào thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh chỉ
rõ kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, vì vậy phải xây dựng kinh tế làm cơ
sở hạ tầng cho sự phát triển văn hóa “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát
triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có
câu: Có thực mới vực đƣợc đạo; vì thế kinh tế phải đi trƣớc. Phát triển kinh tế và văn
hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(2)
.
Văn hóa thuộc kiến trúc thƣợng tầng, gắn bó hữu cơ với cơ sở hạ tầng, vì thế,
từ trong bản chất và tuân thủ quy luật chung, văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, văn
hóa không thể đứng ngoài, mà có nhiệm vụ góp phần thúc đẩy xây dựng và phát triển
kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, trở thành một động lực to lớn,
chủ động tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị. “Văn hóa, nghệ thuật
cũng nhƣ mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính
trị”(3)
. nguyên lý này hoàn toàn khôg phải là sự áp đặt đối với văn hóa – văn nghệ, mà
chính là bản chất xã hội của văn hóa, là một quy luật khách quan của mối quan hệ biện
chứng trên.
Từ luận điểm cơ bản trên, ngay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm định hƣớng
cho toàn bộ sự phát triển của văn hóa nƣớc ta: Tham gia cách mạng là con đƣờng duy
nhất, là nhu cầu tất yếu của văn hóa – văn nghệ và những ngƣời hoạt động, sáng tạo
trên lĩnh vực này. Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ
muốn đƣợc tự do thì phải tham gia cách mạng. Tham gia cách mạng không chỉ để
đóng góp tích cực vào tiến trình và thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc, mà còn vì nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân văn nghệ, vì
sự tự do chân chính của văn nghệ. Kết luận hiển nhiên, giản dị đó của Hồ Chí Minh
thực sự có ý nghĩa lớn lao đối với văn hóa, văn nghệ nƣớc ta gần 60 năm qua.
2. Tính chất, đặc trƣng, chức năng của nền văn hóa mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ xây dựng “một nền văn hóa mới”
và chỉ rõ tính chắt, đặc trƣng và chức năng chủ yếu của nền văn hóa đó.
a. Ngay sau ngày Quốc khánh 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thành
lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc bộ. Tại buổi tiếp đại biểu của Ủy ban này ngày 7-9-
1945, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tƣ tƣởng quốc dân, đấu
tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới. Từ đó, tùy theo nhiệm vụ của
từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhấn mạnh các tính chất, đặc
TP.HCM MINH
114
trƣng của nền văn hóa đó, và để phù hợp với tiến trình cách mạng, với kết quả tổng
kết thực tiễn, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng bƣớc điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh
các quan điểm cơ bản của mình. Song, tựu trung, đó là nền văn hóa bao hàm các tính
chất dân tộc, hiện đại và nhân văn để tạo nên một nền văn hóa mới đa dạng và thống
nhất - nền văn hóa Việt Nanm tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đƣợc Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng đúc kết và khẳng định.
Theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, yêu nƣớc là nấc thang giá trị cao nhất của dân tộc
Việt Nam và của nền văn hóa Việt Nam. Kế tục phẩm chất bền vững đó của văn hóa
dân tộc trong quá khứ, nền văn hóa mới phải tiếp tục phát triển với những đặc trƣng
mới. Theo Hồ Chí Minh, đó chính là sự gắn bó mật thiết và trở thành một bộ phận của
sự nghiệp cách mạng, là sự hài hòa giữa lý tƣởng độc lập dân tộc với lý tƣởng xã hội
chủ nghĩa trong nền văn hóa đó, trở thành nội dung cốt lõi của nó trong thời kỳ mới.
Nhƣ vậy, chứa đựng trong nền văn hóa mới của chúng ta, theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
là những giá trị bền vững, cao quý và những tinh hoa của văn hóa và truyền thống dân
tộc cùng với những giá trị mới đƣợc xây đắp và phát triển trong thời kỳ hiện đại của
dân tộc ta. Có nghĩa là, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hòa
quyện hữu cơ trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa mới.
Về phẩm chất dân tộc, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới, trƣớc hết
là nền văn hóa đó gốc rễ từ dân tộc, mang tâm hồn, diện mạo, đặc tính và cốt cách
dân tộc. Đó là những giá trị bền vững và những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam đƣợc vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc,
là lòng yêu nƣớc nồng nàn, ý chí tự lực tự cƣờng dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; dũg cảm, thông
minh trong chiến đấu, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống; tình nghĩa
thủy chung với ngƣời thân, bạn bè.
Trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc
nhở chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp ấy của
dân tộc. Ngƣời khẳng định, văn hóa phải “lột cho hết tinh thần dân tộc”, “phát huy cốt
cách dân tộc”... không chỉ ở chiều sâu của nội dung văn hóa mà còn thể hiện đậm đà
trong các hình thức, phƣơng thức biểu hiện nội dung đó.
Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nói giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc không đồng nghĩa với dân tộc hẹp hòi, đóng cửa, khép kín và cũng hoàn toàn xa lạ
với kiểu bắt chƣớc, học đòi, lai căng để đánh mất đi cái độc đáo, cái đặc trƣng của dân
tộc mình. Phải biết kế thừa, phát huy có chọn lọc những truyền thống văn hóa tốt đẹp
phù hợp với những điều kiện lịch sử mới, kiên quyết phê phán và loại bỏ những tập
tục lạc hậu, cổ hủ, đủ bản lĩnh để mở rộng giao lƣu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc
những cái hay, cái tốt đẹp, tiến bộ của văn hóa nhân loại, tỉnh táo chống lại sự xâm
nhập của mọi thứ văn hóa độc hại... “Tây phƣơng hay Đông phƣơng có cái gì tốt, ta
học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa
xƣa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt
Nam”.
b. Nền văn hóa mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phải là một nền văn hóa
thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ, “hợp với tinh thần dân chủ”, mà trƣớc hết là
sự tôn trọng và yêu thƣơng con ngƣời, góp phần cho sự phát triển toàn diện của con
ngƣời, đặc biệt là bồi dƣỡng nâng cao đời sống tinh thần, tƣ tƣởng, tình cảm phong
TP.HCM MINH
115
phú, cao đẹp của con ngƣời. Đây chính là sứ mệnh, là chức năng chủ yếu của văn hóa.
Trong quan niệm của mình về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng xuyên nhấn
mạnh một chức năng có vị trí đặc biệt của văn hóa là bám sát và thấu hiểu cuộc sống,
miêu tả và khám phá con ngƣời, bảo vệ và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng
con ngƣời mới đang hình thành trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại
vì sự ra đời và chiến thắng của xã hội mới. Thấu hiểu đặc trƣng và sức mạnh riêng của
văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có niềm tin sâu sắc về khả năng của văn hóa
có thể và cần phải nuôi dƣỡng, xây đắp cho con ngƣời nhữg lý tƣởng cao quý, những
tƣ tƣởng và tình cảm lớn, những phẩm chất tốt đẹp cho con ngƣời để giúp con ngƣời
vƣơn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và từ đó con ngƣời có năng lực và khát vọng
không ngừng hoàn thiện bản thân. Quá trình tự hoàn thiện ấy chính là quá trình con
ngƣời vƣơn lên cái tốt đẹp, cái tiến bộ và đấu tranh với cái xấu xa, đen tối, lạc hậu.
Vai trò cao quý của văn hóa, với tƣ cách là động lực của sự phát triển, trƣớc hết là
thông qua chức năng chủ yếu và đặc trƣng này của văn hóa. Hồ Chí Minh nhiều lần
nhấn mạnh: Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là
văn hóa phải sửa đổi đƣợc tham nhũng, đƣợc lƣời biếng, phù hoa, xa xỉ... văn hóa phải
làm thế nào cho ai cũng có lý tƣởng tự chủ, độc lập, tự do... làm thề nào cho mỗi
ngƣời dân Việt Nam từ trẻ đến già, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của
mình và biết hƣởng hạnh phúc của mình đáng đƣợc hƣởng.
Nói đến văn hóa là nói đến phẩm chất, đến giá trị, đồng thời cũng là nói đến
trình độ của con ngƣời. Nuôi dƣỡng các phẩm chất, xây đắp các giá trị tinh thần, tƣ
tƣởng, tình cảm và nâng cao trình độ dân trí là những chức năng không thể tách rời
của văn hóa. Theo yêu cầu của từng thời kỳ của cuộc đấu tranh cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thƣờng xuyên nhấn mạnh các nhiệm vụ lớn lao trên của văn hóa.
“Chúng ta phải biến một nƣớc dốt nát, cực khổ thành một nƣớc văn hóa cao và đời
sống tƣơi vui hạnh phúc”(1)
. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định nhƣ vậy ngay khi
đất nƣớc ta kết thúc cuộc chếin tranh chống thực dân Pháp và miền Bắc bắt đầu bƣớc
vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính từ quan điểm đó mà Ngƣời luôn
đòi hỏi rất cao đối với chất lƣợng của hoạt động văn hóa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng
của con ngƣời - nhận thức, tiếp nhận, hƣởng thụ văn hóa và nâng cao trình độ hiểu
biết toàn diện của mình thông qua văn hóa, bằng văn hóa. Ngƣời nhắc nhở: Phong
trào văn hóa có bề rộng, chưa có bề sâu, nặng về mặt giải trí mà còn nhẹ về mặt nâng
cao tri thức của quần chúng. Sự nhắc nhở đó cách đây đã gần 40 năm, nhƣng chúng ta
thấy đó nhƣ là sự phê bình trực tiếp những thiếu sót, khuyết điểm của công tác văn
hóa nƣớc ta trong những tháng ngày gần đây nhất.
Chính do tính chất, đặc trƣng và chức năng đặc biệt trên của văn hóa, theo lời
dạy và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải làm mọi cách để phát huy tối đa
sức mạnh của văn hóa làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, trong
mọi phƣơng diện chính rị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cƣơng... và mọi quan hệ của
con ngƣời với tự nhiên, xã hội và với chính mình..., biến văn hóa thành một nguồn
lực nội sinh quan trọng của phát triển.
3. Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú. Xét về đặc trƣng của lĩnh vực hoạt động tinh thần, văn hóa gồm có văn hóa
chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa gíao dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa pháp luật,
văn hóa lao động, đời sống văn hóa cụ thể, văn hóa lối sống... Hồ Chí Minh đã quan
tâm và có nhiều ý kiến sâu sắc về hầu hết các lĩnh vực đó của văn hóa. Xét về loại
TP.HCM MINH
116
hình hoạt động cụ thể, chúng ta còn thấy Ngƣời đã đề cập và cho ý kiến chỉ đạo cụ thể
từng loại hình, từ báo chí đến văn hóa nghệ thuật, từ khoa học đến giáo dục, từ đạo
đức đến lối sống nếp sống, xây dựng đời sống mới, từ các hoạt động văn hóa quần
chúng đến lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật chuyên nghiệp, từ truyền thống văn hóa quá
khứ đến văn hóa, nghệ thuật hiện đại, đƣơng đại, từ cách nói, cách viết đến ngôn ngữ
và chữ viết...
Điều đặc biệt quan trọng là, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất
xã hội và đặc trƣng của văn hóa nói chung, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất rõ ràng, sinh
động, đầy sức thuyết phục các đặc thù và sức mạnh riêng của mỗi lĩnh vực, mỗi loại
hình hoạt động văn hóa cụ thể, từ đó chỉ đạo chính xác, khoa học các quan điểm cơ
bản nđối với từg lĩnh vực và hoạt động đó.
Ở đây chỉ xin nêu vắn tắt một vài dẫn chứng về lĩnh vực văn nghệ (đƣợc hiểu là
văn học và các loại hình nghệ thuật).
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh
thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng văn nghệ Ngƣời đã khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng và chính Ngƣời là
ngọn cờ đầu, là ngƣời thầy, ngƣời chiến sĩ mở đƣờng, tiên phong trong sáng tạo văn
nghệ, cả thơ ca, truyện ký, kịch chính luận và lý luận văn nghệ.
Bằng cả cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã đúc kết và khẳng định một chân lý,
một quan điểm sâu sắc: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là
chiến sĩ trên mặt trận ấy”, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp đấu
tranh cách mạng, xây dựng con ngƣời mới và xã hội mới.
Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã có một ý nghĩa đặc biệt to lớn và sâu
sắc trong việc tập hợp, rèn luyện, xây dựng và phát triển một đội ngũ văn nghệ sĩ kiểu
mới, làm cho họ trở thành những nghệ sĩ, chiến sĩ, chiến sĩ, nghệ sĩ, tự nguyện tham
gia vào sự nghiệp cách mạng bằng tài năng và sự sáng tạo của mình. Để hoàn thành
xuất sắc sứ mệnh của mình chiến sĩ, nghệ sĩ - Hồ Chí Minh thƣờng xuyên căn dặn văn
nghệ sĩ phải bồi dƣỡng đồng thời cả phẩm chất và tài năng, hai nhân tố quyết định cho
thành công trong hoạt động sáng tạo của mình “Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân, trước hết là công, nông, binh”.
Văn nghệ “cần hiểu thấu liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân”, gắn
bó và am hiểu sâu thực tiễn đời sống lao động, sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt, học tập
và xây dựng cuộc sống mới để có thể phản ánh chân thật, sinh động thực tiễn ấy, “bày
tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát
triển và nâng cao cho tinh thần ấy”.
Thực tiễn phong phú trong lao động và đấu tranh của nhân dân luôn luôn là
nguồn sinh khí, nguồn nhựa sống vô tận cho sáng tạo văn học và nghệ thuật, chính vì
thế, Hồ Chí Minh nêu lên yêu cầu văn nghệ sĩ phải “thật hòa mình với quần chúng”,
gắn bó máu thịt với quà chúng, vì “chỉ có nhân dân mới nuôi dƣỡng cho sáng tác của
nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó – nhân dân
cũng sẽ quên anh ta”(1)
.
Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của dân tộc, của
đất nƣớc, và các tác phẩm đó phải phản ánh cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự
nghiệp cách mạng của nhân dân, đó là một đòi hỏi, đồng thời là một nguyện vọng,
mong chờ sâu xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp văn nghệ và đối với đội
ngũ văn nghệ sĩ cách mạng của chúng ta. Sáng tác cho hay, cho chân thật là những
TP.HCM MINH
117
yêu cầu tạo ra những giá trị về tƣ tƣởng và nghệ thuật đối với tác phẩm văn nghệ.
Theo Hồ Chí Minh, “ca tụng chân thật những ngƣời mới, việc mới” không đồng nghĩa
với việc tô hồng hiện thực, tạo ra những hình ảnh xa rời đời sống hoặc lẩn tránh việc
phê phán cái sai, cái tiêu cực, cái xấu trong xã hội. Ngƣời khẳng định: “Viết để nêu
những cái hay, cái tốt của dân tộc ta... đồng thời để phê bình nhữg khuyết điểm của
chúng ta, của cán bộ, của nhân dân ta, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu
cái xấu. Nhƣng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay,cái tốt thì phải chừng mực, chớ
phóng đại”.
Đồng thời với việc khẳng định văn nghệ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân,
tham gia cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến tính đa dạng, phong phú của
văn nghệ, coi đó là đặc trƣng, là một đòi hỏi nội tại của bản thân văn nghệ và cũng là
một đòi hỏi khách quan của công chúng đối với hình thái hoạt động đặc thù này: “...
cần làm cho món ăn tinh thần đƣợc phong phú, không nên bắt mọi ngƣời chỉ đƣợc ăn
một món thôi. Cũng nhƣ vào vƣờn hoa, cần cho mọi ngƣời đƣợc thấy nhiều loại hoa
đẹp”(2)
.
4. Một luận điểm cơ bản và rất quan trọng trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
văn hóa là: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, dƣới sự
lãnh đạo của Đảng. Toàn dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và đóng góp cho sự
phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời sống văn hóa của mình
và toàn dân đƣợc quyền hƣởng thụ, tiếp nhận, lƣu giữ và truyền bá văn hóa tốt đẹp,
lành mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ khi nào đƣợc mọi ngƣời dân, mọi tầng lớp nhân dân,
mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo... tham gia tự nguyện,
thƣờng xuyên, chủ động vào công tác văn hóa thì lúc đó, văn hóa mới phát triển bền
vững và mạnh mẽ. Đồng thời Ngƣời yêu cầu làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ
đời sống, vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của con ngƣời, lúc đó, văn hóa mới hoàn
thành đƣợc chức năng, nhiệm vụ của mình, trở thành động lực và sức mạnh nội sinh
của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng và phong phú của cộng đồng các
dân tộc anh em sống trên đất nƣớc ta. Vì vậy, phát triển văn hóa Việt Nam chính là
phát triển tính đa dạng, bản sắc dân tộc phong phú, đặc sắc của các dân tộc, đồng thời
l;à sự chung sức xây dựng nền văn hóa chung thống nhất trong đa dạng đó. Hồ Chí
Minh nhiều lần căn dặn: muốn phát triển văn hóa các dân tộc, phải tẩy trừ những
thành kiến, phải thƣơng yêu, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau nhƣ anh em ruột
thịt, một nhà.
Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, vì thế, trong suốt cuộc đời, đặc biệt từ ngay
sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến ngày qua đời (tháng 9 –
1969), Hồ Chí Minh thƣờng xuyên cổ vũ một cách kiên trì, đầy sáng tạo cho nhiệm vụ
xây dựng “đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp sống mới, lối sống mới, thuần
phong mỹ tục mới.... Cuộc vận động độc đáo này của Hồ Chí Minh trong suốt gần 60
năm qua, đã tạo nên những chuyển biến to lớn, sâu sắc trong đời sống văn hóa của
nhân dân ta.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là những định hƣớng lớ cho việc
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của
chúng ta hiện nay. Đó vừa là những tƣ tƣởng có ý nghĩa chiến lƣợc sâu sắc, vừa có tác
TP.HCM MINH
118
dụng chỉ đạo cụ thể trong hoạt động thực tiễn của chúng ta. Hồ Chí Minh là nhà lý
luận văn hóa, đồng thời chính Ngƣời là danh nhân văn hóa kiệt xuất. Ở Ngƣời, nói
thống nhất với làm, chính vì vậy, những chỉ bảo của Ngƣời có sức thuyết phục cao.
Đó cũng chính là niềm tự hào và hạnh phúc đối với sự nghiệp văn hóa cách mạng của
đất nƣớc và dân tộc ta.
Chuyên đề 8
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức Cách mạng,
Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tƣ
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Đƣờng Kách mệnh. Đây là cuốn
sách bồi dƣỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học thuyết Mác –
Lênin và cũng là cuốn sách đầu tiên trực tiếp tuyên truyền về chủ nghĩa Mác – Lênin
cho lớp thanh niên ƣu tú thời đó. Đặc biệt, mở đầu tác phẩm lại là bài nói về Tƣ cách
một ngƣời cách mệnh. Phải chăng, Hồ Chí Minh, ngay từ thời kỳ đó, đã bắt đầu chỉ tra
một quan điểm lớn của Ngƣời: cái đức là gốc của ngƣời cách mạng.
45 năm sau, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trƣớc lúc ra đi,
trƣớc hết, Ngƣời dặn dò về Đảng, và vấn đề đạo đức đã đƣợc đặc biệt nhấn mạnh:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tƣ. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là ngƣời lãnh đạo, là ngƣời đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”.
Rõ ràng, Hồ Chí Minh là một nhà tƣ tƣởng, một lãnh tụ cách mạng đã bàn
nhiều nhất, quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức. Bàn một cách sâu sắc, cô đọng,
thấm thía, đồng thời chính Ngƣời đã tự mình, trong cả cuộc đời, thực hiện một cách
hoàn chỉnh, trọn vẹn nhất những tƣ tƣởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra. Hồ
Chí Minh vừa là nhà lý luận về đạo đức, vừa là một tấm gƣơng đạo đức trong sáng,
gần gũi và độc đáo nhất.
1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới
và đã đƣợc chính Ngƣời gọi tên cho nó, đó là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xƣớng về lý luận và dày công xây đắp
trong thực tiễn là đạo đức mang bản chất và phẩm chất của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn và sinh động với những truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc ta và những tinh hoa đạo đức của loài ngƣời. “Đạo đức đó
không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì
danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài ngƣời”.
Khi bàn về đạo đức, Hồ Chí Minh rất hay sử dụng những khái niệm, phạm trù
đạo đức đã quen thuộc với dân tộc ta từ lâu đời, trong đó có đạo đức Nho giáo, Phật
giáo, nhƣng Ngƣời đã đƣa vào đó những nội dung mới, có khi hoàn toàn mới, đồng
thời Ngƣời bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì thế
mà có sự hòa nhập những giá trị đạo đức mới với những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, làm cho quan niệm và tƣ tƣởng đạo đức của Hồ Chí Minh luô luôn gần
gũi, dễ hiểu đối với nhân dân, với mọi ngƣời.
TP.HCM MINH
119
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức mới là nền tảng của ngƣời cách mạng bởi vì,
theo Ngƣời, sự nghiệp cách mạng tiêu diệt xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với những
lý tƣởng và khát vọng cao đẹp, là một “sự nghiệp khổng lồ”, đầy gian khổ, phức tạp,
cần một sự phấn đấu không mệt mỏi, sự kiên định, lòng dũng cảm và hy sinh lớn của
nhiều thế hệ cách mạng. Không chăm lo xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân, Đảng khó có thể thực hiện đƣợc đến cùng mục tiêu cao cả của cách
mạng. Theo cách diễn đạt bình dị của Ngƣời, đạo đức nhƣ gốc của cây, ngọn nguồn
của sông suối, sức mạnh của con ngƣời, sức có mạnh mới gánh đƣợc nặng và đi đƣợc
xa. Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, khi Đảng đang tiến hành
sự nghiệp vĩ đại giải phóng và thống nhất đất nƣớc, Hồ Chí Minh đã khái quát và cảnh
báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Chính
vì vậy mà Hồ Chí Minh thƣờng xuyên nhấn mạnh “Đảng phải là đạo đức, là văn
minh”, và yêu cầu việc rèn luyện, tu dƣỡng đạo đức phải là nhân tố có ý nghĩa quyết
định đối với phẩm chất nƣời cách mạng, ngƣời đảng viên.
Nhƣ vậy, Hồ Chí Minh, nền đạo đức mới của dân tộc ta bắt đầu hình thành và
phát triển mạnh mẽ, thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ phận hết sức quan trọng
khắc họa diện mạo và đặc trƣng của nền văn hóa Việt Nam, của Văn hiến Việt Nam
hiện đại. Nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của nhân dân ta trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” và vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân
tộc trên thế giới.
2. Hồ Chí Minh bàn về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con ngƣời
Việt Nam thời đại mới. Từ cuộc sống thực của nhân dân, cuộc đời thực của con ngƣời và xã hội Việt
Nam, từ sự từng trải sâu sắc và tu dƣỡng của chính mình, từ niềm tin lớn lao vào khát
vọng và sức vƣơn lên cái chân, cái thiện, cái mỹ của con ngƣời, Hồ Chí Minh đã dày
công xây đắp các phẩm chất đạo đức cho con ngƣời Việt Nam, cho mọi ngƣời, mọi
đối tƣợng (công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, bộ đội, công an, già trẻ, thanh
niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc, tôn giáo...) trong mọi lĩnh vực hoạt động và sinh sống
của con ngƣời, trong mọi phạm vi (cá nhân, gia đình, làng xóm, phố phƣờng, tập thể..)
và trong các quan hệ phong phú, phức tạp, tinh tế của con ngƣời.... Từ đó, Ngƣời khái
quát thành những phẩm chất cơ bản của con ngƣời Việt Nam, những chuẩn mực
chung của nền đạo đức cách mạng Việt Nam.
Một là, trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng
nhất. Vận dụng khái niệm truyền thống về trung và hiếu, Hồ Chí Minh đã đƣa vào đó
nội dung hoàn toàn mới: trung với nƣớc là sự trung thành với sự nghiệp dựng nƣớc,
giữ nƣớc và xây dựng đất nƣớc của nhân dân. Nƣớc ở đây là nƣớc của dân, còn dân là
ngƣời làm chủ, chủ nhân của đất nƣớc, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao
nhiêu lợi ích đều vì dân”. Vì thế, theo Hồ Chí Minh, tƣ tƣởng mà Ngƣời đề xƣớng
“hiếu với dân”, không phải chỉ dừng lại ở chỗ thƣơng dân, mà là gần dân, gắn bó với
dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳng vào dân, lấy dân làm gốc.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh còn yêu cầu cao hơn: đó là “tận trung,
tận hiếu”, có nhƣ vậy mới xứng đáng là Đảng của đạo đức và văn minh, cán bộ vừa là
ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
TP.HCM MINH
120
“Trung với nƣớc, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội...” là chuẩn mực đạo đức bao trùm của con ngƣời Việt
Nnam, là định hƣớng chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi ngƣời, là khát vọng vƣơn
lên tự hoàn thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn cờ, tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí
Minh.
Hai là, yêu thƣơng con ngƣời là một trong những phẩm chất đạo đức đẹp đẽ à
cao cả nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu và khẳng định đối với con ngƣời Việt Nam và
chính Hồ Chí Minh đã chứng minh tuyệt vời phẩm chất đó bằng toàn bộ cuộc đời
mình.
“Đầu tiên là công việc đối với con người”, trong bản bổ sung cho Di chúc, Hồ
Chí Minh đã viết nhƣ vậy và toàn bộ sự nghiệp của Ngƣời cũng đã chứng minh cho tƣ
tƣởng nhân văn cao cả này.
Hồ Chí Minh yêu thƣơng đồng bào, đồng chí của Ngƣời, không phân biệt miền
xuôi hay miền ngƣợc, già hay trẻ, trai hay gái... hễ là ngƣời Việt Nam yêu nƣớc thì
đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Ngƣời, nhƣng trƣớc hết là dành cho những
ngƣời cùng khổ, những ngƣời lao động bị áp bức, bóc lột. Không có tình yêu thƣơng
đó, không có thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến lý tƣởng xã hội chủ
nghĩa. Tình yêu thƣơng đó gắn liền với thái độ tôn trọng con ngƣời, biết cách ngăn đỡ
con ngƣời, rộng lƣợng và khoan dung với ngƣời, đồng thời nghiêm khắc với mình.
Vì yêu thƣơng vô hạn đối với con ngƣời, Hồ Chí Minh coi đấu tranh giải phóng
dân tộc, giành độc lập tự do là con đƣờng để giải phóng con ngƣời, coi con ngƣời
đƣợc giải phóng và đƣợc sống trong độc lập, tự do là nguyện vọng sâu xa và hạnh
phúc lớn lao của chính con ngƣời.
Yêu thƣơng con ngƣời gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào khả năng tự giải
phóng của con ngƣời, vào năng lực và khát vọng vƣơn lên tự hoàn thiện mình theo lý
tƣởng chân, thiện, mỹ.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ là những phẩm chất đƣợc Hồ Chí
Minh đề cập nhiều nhất, thƣờng xuyên nhất trong các bài viết, bài nói về đạo đức cách
mạng.
Phẩm chất này gắn với hoạt động thực tiễn, đƣợc thể hiện cụ thể, hàng ngày
của mỗi con ngƣời, là cái nhìn thấy đƣợc của đạo đức, không thể che giấu, gắn chặt
giữa nói và làm, suy nghĩ và hành động....
Hồ chí Minh đã sử dụng những khái niệm truyền thống của đạo đức phƣơng
Đông, giữ lại những gì tốt đẹp, phù hợp, lọc bỏ những gì lạc hậu, lỗi thời và đƣa vào
những nội dung mới của thời đại mới.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, tự lực cánh sinh, có kế hoạch, sáng tạo
và có năng suất cao.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân, của nƣớc, của
bản thân, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không phô trƣơng, hình thức, xa xỉ, hoang
phí....
Liêm là “Luôn luôn tôn trọng của công, của dân”, liêm khiết trong mọi hoàn
cảnh “không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sƣớng. Không ham
ngƣời tâng bốc mình”.
Chính “nghĩa là không tà, thẳg thắn, đứng đắn” đối với mình đối với ngƣời và
đối với việc. “Việc thện thì dù nhỏ mấy cũg làm, việc ác thìdù nhỏ mấy cũng tránh”.
TP.HCM MINH
121
Về chí công vô tƣ, theo Hồ Chí Minh là “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”.
Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài nói, bài viết để phân tích, giải thích sinh động,
cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất trên, đồng thời chỉ ra quan hệ mật thiết giữa chúng
với nhau. cần, kiệm, liêm, chính tốt sẽ dẫn tới chí công vô tƣ, và chí công vô tƣ, một
lòng vì vì dân, vì nƣớc nhất định sẽ thực hiện đƣợc cần, kiệm, liêm, chính. ngƣời yêu
cầu mọi ngƣời dân Việt Nam đều phải rè luyện, tu dƣỡng theo tác phẩm chất trên,
trong đó đặc biệt là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền: “Trƣớc nhất là cán bộ các cơ
quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có
quyền mà thiếu lƣơng tâm là có dịp đục khoét,có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi
tƣ”.
Bốn là, tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu và phẩm chất đạo
đức mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm vào mối quan hệ rộng
lớn, vƣợt ra ngoài quốc gia, dân tộc, xây dựng tình đoàn kết “bốn hƣơng vô sản đều là
anh em”, tình đoàn kết với các dân tộc, với nhân dân các nƣớc, với tất cả những ngƣời
tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, hữu nghị, công lý và tiến bộ xã hội.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Để xây dựng nền đạo đức mới, cùng với việc đúc kết thành lý luận đạo đức
nhằm chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh đồng thời xác định những nguyên tắc và phƣơng
châm để định hƣớng cho sự lãnh đạo của Đảng và cho việc rèn luyện, tu dƣỡng đạo
đức của mỗi con ngƣời. Đây cũng là một đặc trƣng rất riêng, độc đáo của tƣ tƣởng đạo
đức Hồ Chí Minh.
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức là một yêu cầu, một
phƣơng châm lớn và sâu sắc để xây dựng đạo đức mà bằng cả cuộc đời mình, Hồ Chí
Minh đã thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc và trọn vẹn. Đối với Hồ Chí Minh,
nói phải luôn luôn đi đôi với làm và cao hơn, làm rồi mới nói, làm nhiều, nói ít và
thậm chí làm hết lòng, làm tận tụy mà không nói, không tự phô trƣơng mình.
Hồ Chí Minh rất gét những kẻ đạo đức giả, nói mà không làm, nói một đàng,
làm một nẻo và Ngƣời cho rằng, những kẻ đó làm giảm đi lòng tin của nhân dân đối
với Đảng. Đây là bài học thời sự sâu sắc đối với vấn đề đạo đức trong Đảng ta hiện
nay. Ngƣời chỉ ra một luận điểm rất quan trọng, có giá trị vô cùng thiết thực không chỉ
lúc đó, mà trực tiếp với hiện nay: “Trƣớc mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên
trán chữ “cộng sản” mà ta đƣợc họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những ngƣời
có tƣ cách, đạo đức. Muốn hƣớng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thƣớc cho ngƣời
ta bắt chƣớc”.
Chính luận điểm này đã thể hiện rõ một phƣơng châm xây dựng đạo đức là vấn
đề nêu gƣơng. Không gì thuyết phục hơn, có sức cảm hóa và lôi cuốn hơn trong lĩnh
vực đạo đức bằng việc nêu gƣơng, Hồ Chí Minh đã làm nhƣ vậy một cách cần mẫn,
tinh tế, sáng tạo và vì thế đã có tác dụng vô cùng to lớn, sâu sắc trong toàn bộ đời
sống đạo đức của xã hội ta, đất nƣớc ta. Ngƣời đã hai thác triệt để các tấm gƣơng
“ngƣời tốt, việc tốt”, gƣơng các anh hùng, liệt sĩ, gƣơng các vị tiền bối, cha ông trong
lịch sử, từ chung đến riêng, từ lớn đến nhỏ, từ xa tới gần, của thế hệ này đối với thế hệ
khác.... để dày công xây đắp nền tảng vững chắc và các đỉnh cao của đạo đức mới.
Hai là, xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây
là con đƣờng để xây dựng đạo đức mới, là nguyên tắc đƣợc Hồ Chí Minh khẳng định
TP.HCM MINH
122
và vận dụng thƣờng xuyên, linh hoạt, đầy sáng tạo trong chỉ đạo thực hiện. Xây dựng
đạo đức mới là một cuộc đấu tranh vô cùng phức tạp, gay gắt, tinh vi, diễn ra trong
mọi lúc, mọi nơi, trong từng tập thể và từng con ngƣời, vì thế nguyên tắc trên là một
đòi hỏi khách quan, cần vận dụng triệt để, không đƣợc né tránh, đặc iệt với cuộc chiến
đấu chống cái ác, cái xấu, sự thoái hóa, biến chất hiện nay trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên.
Xây dựng đạo đức mới, trƣớc hết là tuyên truyền, giáo dục các phẩm chất,
chuẩn mực đạo đức mới cho mỗi ngƣời, trong từng gia đình, từng giới, tập thể, cộng
đồng, làng xóm, trƣờng học và toàn xã hội. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công
việc này, đến việc tạo ra môi trƣờng đạo đức trong sáng, lành mạnh cho con ngƣời,
cho từng cộng đồng.
Xây dựng đạo đức cũng bằng việc khơi dậy ý thức vƣơn lên tự nguyện của con
ngƣời tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ đó tạo ra bằng đƣợc năng lực tự trau dồi đạo
đức trong mỗi con ngƣời, loại bỏ cái ác, cái xấu, cái vô đạo đức.
Cùng với xây, nhiệm vụ Chống giữ vị trí đặc biệt quan trọng để tạo môi trƣờng
cho cái tốt đẹp nảy nở, để bảo vệ và khẳng định đƣợc cái mới về đạo đức đang hình
thành và phát triển trong cuộc đấu tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu, cái phản động
và cái vô đạo đức.
Hồ chí Minh đã nhiều lần vạch ra rất cụ thể những khuyết điểm, những căn
bệnh đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhân dân và chỉ rõ tác hại ghê gớm của chúng đối
với Đảng và sự nghiệp cách mạng. Ngay từ năm 1952, Ngƣời đã quy những tệ nạn đó
vào ba loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu và Ngƣời coi đó là tội ác, là kẻ thù
nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội
xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Ngƣời khẳng định dứt khoát, phải
kiên quyết chống lại những tệ nạn đó. “Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra
để cho dƣ luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng.... Phải lập tức đề nghị một
đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ”.
Tạo ra đƣợc một phong trào quần chống rộng rãi tham gia trực tiếp vào quá
trình xây và chống là con đƣờng hiệu quả nhất trong các cuộc vận động xây dựng đạo
đức mới của chúng ta, đó cũng là kinh nghiệm lớn mà Hồ Chí Minh đã dày công chỉ
đạo và thực hiện.
Ba là, phải tu dƣỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày, bởi vì “Đạo
đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện, bề bỉ, hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng nhƣ ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện,
càng trong”. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra một hiện tƣợng mà đến nay, chúng ta càng
thấm thía vì tính thời sự của nó, đó là có những ngƣời trong lúc đấu tranh thì trung
thành, không sợ nguy hiểm, cực khổ... có công với cách mạng, song đến khi có “ít
quyền họn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quang
liêu... mà biến thành ngƣời có tội với cách mạng”.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đã là ngƣời thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, cái
xấu, cái tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong bản thân mình, trong lòng mình. Vì vậy,
cần có cách nhìn biện chứng và nhân văn để phát triển cái thiện, đẩy lùi cái ác trong
mỗi con ngƣời và đặc biệt quan trọng là từng ngƣời phải rèn luyện, tu dƣỡng, dám đấu
tranh với chính mình để làm cho “phần tốt ở trong mỗi ngƣời nảy nở nhƣ hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của ngƣời cách mạng.
4. Tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
TP.HCM MINH
123
Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta
một nhắn gửi cực kỳ sâu sắc về thời kỳ đất nƣớc ta bƣớc vào xây dựng và đổi mới sau
khi giành đƣợc độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Ngƣời cho rằng, đó là “một
cuộc chiến đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã củ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những
cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu khổng lồ ấy lại diễn ra trong những điều kiện
mới với những biến động to lớn, sâu sắc, phức tạp và khó lƣờng. Chúng ta đã có
đƣờng lối đổi mới đƣợc thực tiễn kiểm nghiệm 16 năm qua là đúng hƣớng và đúng
đắn. Mặc dầu vậy, chúng ta đang đứng trƣớc rất nhiều những vấn đề mới, thách thức
mới. Do tác động cực kỳ phức tạp, nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội,
nên vấn đề đạo đức đang trở thành ột trong những vấn đề bức xúc nhất của toàn Đảng
và toàn dân, có ảnh hƣởng trực tiếp đến uy tín, quyền lãnh đạo và niềm tin của nhân
dân đối với Đảng, tác động tiêu cực đến toàn bộ nền đạo đức xã hội mà chúng ta đã
dày công xây dựng nhiều thập kỷ qua.
Sự nghiệp cách mạng của chúng ta, cuộc sống của nhân dân ta đang đòi hỏi
phải kiên quyết làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức xã hội. LÀM
đƣợc hai hiệm vụ trên cũng chính là thực hiện trung thành với những khát vọng và di
huấn đạo đức của Chủ tịch hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta. Trở về và
thấu hiểu sâu hơn nữa cội nguồn Hồ Chí Minh, tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh sẽ giúp
chúng ta vững tâm, kiên định đi tới trong cuộc đấu tranh vì một nền đạo đức Việt Nam
ngang với tầm vóc của dân tộc và thời đại, thấm sâu những tƣ tƣởng lớn của Ngƣời về
đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Chuyên đề 9
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chăm lo, bồi dƣ ng thế hệ Cách mạng cho đời
sau
I/ Cơ sở của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vềchăm lo bồi dƣ ng thế hệ cách mạng
cho đời sau:
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ với cách mạng và sự phát
triển của dân tộc.
- Thế hệ trẻ là lực lƣợng quyết định sự phát triển của cách mạng, của dân tộc.
+ Năm 1925, trong bài Gửi thanh niên An Nam, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở:
“Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi
của Người không sớm hồi sinh” . Cũng năm 1925, khi truyền bá tƣ tƣởng cách mạng
cho dân tộc, Hồ Chí Minh chọn đối tƣợng đầu tiên là thanh niên và Ngƣời tập hợp họ
trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
+ Ngay ngày khai trừơng đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh căn
dặn thế hệ trẻ: “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các
em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tời đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc nam châu được hay không
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
+ Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh nói với thanh niên: “Người ta
thường nói, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”.
- Thế hệ trẻ phải vƣơn mình lên để hoàn thành trọng trách lịch sử đó.
TP.HCM MINH
124
+ Hồ Chí Minh nói: “Thanh niên muốn làm ngƣời chủ tƣơng lai cho xứng đáng
thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lƣợng của mình, phải ra sức làm việc
để chuẩn bị cái tƣơng lai đó”.
+ Với tuổi nhi đồng, Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày nay các cháu là nhi đồng.
Ngày sau, các cháu là ngƣời chủ của nƣớc nhà, của thế giới. Các cháu đoàn kết thì thế
giới hòa bìnhvà dân chủ, sẽ không có chiến tranh.
Các cháu phải thi đua, tuỳ theo sức của các cháu làm đƣợc việc gì có ích cho
kháng chiến thì thi đua làm việc ấy”
- Trách nhiệm bồi dƣỡng thế hệ trẻ của Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định, thế hệ trẻ xứng đáng với tƣơng lai thì thế hệ đi
trƣớng, những bậc cha anh phải có trách nhiệm bồi dƣỡng thế hệ trẻ. Đó cũng là trọng
trách lớn lao của cách mạng, của Đảng. Bởi vậy trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn:
“Bồi dƣỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
2. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dƣ ng thế hệ
cách mạng cho đời sau:
- Truyền thống dân tộc:
+ Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống hiếu học
và tôn sƣ trọng đạo. Dân ta vì trọng đạo làm ngƣời mà tôn sƣ và coi trọng giáo dục.
Mục tiêu là học để làm ngƣời, để trở thành tài. Phƣơng châm giáo dục truyền thống là
“Tiên học lễ, hậu học văn” và “cần khổ học”.
+ Hồ Chí Minh hấp thụ truyền thống hiếu học, tôn sƣ trọng đạo của dân tộc
ngay từ cái nôi gia đình và quê hƣơng. Xứ Nghệ tuy đời sống vất vả nhƣng rất hiếu
học, thời nào cũng sản sinh ngƣời hiền tài. Hồ Chí Minh ảnh hƣởng sâu sắc tấm
gƣơng kiên trì học tập của ngƣời cha, tấm gƣơng nhà giáo mẫu mực của ông ngoại.
- Sự khổ công học, khổ công luyện ngay từ nhỏ theo truyền thống dân tộc và
gia đình và trong suốt cuộc đời của Ngƣời.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa, những tri thức của giáo dục
phƣơng Đông từ nhỏ và không ngừng bồi đắp thêm cho mình. Sau khi đi khắp thế giới
trở về nƣớc, Hồ Chí Minh vẫn thƣờng nhắc nhở mọi ngƣời hãy nhớ lời Khổng Tử dạy
“Học không biết chán, dạy không biết mỏi”.
+ Hồ Chí Minh đi nhiều, học nhiều, tiếp xúc với văn minh và nền giáo dục
phƣơng Tây, thấy rõ mối quan hệ giữa học đi đôi với hành, lý luận kết hợp với thực
tiễn.
- Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa
Mác-LêNin về giáo dục bồi dƣỡng thế hệ trẻ.
+ Tiếp thu luận điểm của C.Mác: “Bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp công
nhân nhận thức rất rõ ràng tƣơng lai của họ và do đó tƣơng lai của cả loài ngƣời hoàn
toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn”, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Muốn thức tỉnh một dân tộc trƣớc hết phải thức tỉnh thanh niên”.
+ Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin: “Không học thì không trở thành ngƣời
cộng sản đƣợc”, Hồ Chí Minh nói: “Đốt nát cũng là kẻ địch”. “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”, và ngƣời cán bộ cách mạng Việt Nam phải nhớ: “cán bộ phải có văn hóa
làm gốc”, vì “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức”; và khi
“chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật” thì đó là “bảo
đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết cần
TP.HCM MINH
125
có những con người xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy “Vì lợi ích mƣời năm thì phải trồng
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng ngƣời”.
II. Những nội dung chính cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chăm lo
bồi dƣ ng thế hệ cách mạng cho đời sau:
1. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục thực dân.
- Tố cáo thực dân Pháp thực thi ở Việt Nam chính sách ngu dân.
+ Trong Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925), Hồ Chí Minh tố cáo: “Để có
thể đánh lừa dƣ luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thắm, bọn cá mập
của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rƣợu và thuốc phiện,
mà còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để”.
+ Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp cấu kết với phong kiến hạn chế giáo dục
và thực hiện giáo dục nhồi sọ làm hƣ hỏng các thế hệ trẻ Việt Nam. Ngƣời viết: Trong
mấy mƣơi năm nô lệ, đế quốc và phong kiến đã dùng giáo dục nô lệ để nhồi sọ thanh
niên ta, làm cho thanh niên ta hƣ hỏng.
- Hồ Chí Minh chủ trƣơng, khi cách mạng thành công sẽ thực hiện nền giáo
dục cách mạng. Nhƣng “trƣớc hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hƣởng của giáo dục thực
dân còn sót lại, nhƣ: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rồi đời sống lao động và đầu
tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp; học theo lối nhồi sọ”.
2. Hồ Chí Minh xác định vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc
chăm lo bồi dƣ ng thế hệ trẻ.
- Giáo dục là bƣớc đầu tiên.
+ Sau hơn một tháng đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh xác định: “Nay
chúng ta đã giành đƣợc quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp
tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí” 1, vì “Nuớc nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết
cần phải có nhân tài” 2.
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ
không làm đƣợc. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh
tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bƣớc đầu.” 3.
- Xây dựng nền giáo dục kháng chiến.
Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc,
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hóa giáo dục phải phát triển mạnh để phục vụ yêu cầu của
cách mạng. Văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nƣớc nhà”4.
- Trong hoàn cảnh nào cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nƣớc, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định rõ: “Trong hoàn cảnh cả nƣớc có chiến tranh, sự nghiệp giáo dục của chúng ta
vẫn phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết”1.
Nhƣ vậy, với Hồ Chí Minh, cách mạng càng phát triển càng đòi hỏi đông đảo
đội ngũ cán bộ các thế hệ, đòi hỏi dân trí phải đƣợc nâng cao, giáo dục phải phát triển
để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dƣỡng các thế hệ cách mạng, trong đó đặc biệt quan
trọng là thế hệ trẻ.
3. Mục đích của giáo dục là chăm lo bồi dƣ ng thế hệ cách mạng.
- Đào tạo cán bộ cho cách mạng.
Nói về mục đích của nền giáo dục cách mạng, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các thầy
giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần
TP.HCM MINH
126
nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”2. Cụ thể là nền giáo dục cách
mạng sẽ đào tạo con em những ngƣời lao động thành “những ngƣời công dân có ích
cho nƣớc Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lục sẵn só
của các em”.
- Trƣờng học là nơi đào tạo những ngƣời chủ tƣơng lai của đất nƣớc .
Về nhà trƣờng, Ngƣời nói: “Trƣờng học của chúng ta là trƣờng học của chế độ
dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những ngƣời
chủ tƣơng lai tốt của nƣớc nhà. Về mọi mặt, trƣờng học của chúng ta phải hơn hẳn
trƣờng học của thực dân và phong kiến.”1
- Giáo dục phải phù hợp với lứa tuổi.
+ Với các cháu thiếu nhi, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách dạy trẻ, cần làm cho
chúng biết: Yêu tổ quốc, thƣơng đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh,
học văn hoá”2. Đó chính là con đƣờng “làm cho con em chúng ta thành những trò giỏi,
con ngoan, bạn tốt và mai sau là những công dân dũng cảm, cán bộ gƣơng mẫu, ngƣời
chủ xứng đáng của chế độ xã hội chủ nghĩa”.
+ Với thanh niên phải giáo dục họ “luôn luôn nâng cao tinh thần yêu tổ quốc,
yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối
trung thành với sự ngiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn
sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”3.
+ Thƣờng xuyên giáo dục cán bộ trẻ, tiếp tục chăm sóc bồi dƣỡng giáo dục họ
để “làm việc, làm ngƣời,làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, “giai cấp và nhân dan,
Tổ quốc và nhân loại”. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tƣ”1.
4. Bồi dƣ ng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một cách toàn diện.
- Hồ Chí Minh xác định: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ
các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và
sản xuất”2; “thành những ngƣời thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa
“chuyên”3.
- Đạo đức và tài năng là cả hai nội dung không thể thiếu đƣợc trong bồi dƣỡng
giáo dục, trong đó đạo đức là yếu tố gốc. Năm 1964 Ngƣời nói: “Dạy cũng nhƣ học
phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, là rất
quan trọng”4; “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn
đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn
đề do cách mạng nƣớc ta và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của
khoa học và kỹ thuật”1.
- Bồi dƣỡng giáo dục phải trên tất cả các mặt “đức, trí, thể, mỹ”. Những nội
dung này gắn bó chặt chẽ với nhau.
- Giáo dục toàn diện, nhƣng phải vận dụng phù hợp ở mỗi đối tƣợng.
Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng (ngày
30/10/1955) Ngƣời đã chỉ ra: “Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình
trong lúc này”:
+ Đại học thì cấn kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận
và khoa học tiên tiến của các nƣớc bạn, kết hợp với thực tiễn của nƣớc ta, để thiết thực
giúp ích cho công cuộc xây dựng nƣớc nhà.
TP.HCM MINH
127
+ Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn,
thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nƣớc nhà, bỏ những phần nào
không cần thiết cho đời sống thực tế.
+ Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân,
yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ
gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của ngƣời lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của
các cháu.
5. Phƣơng châm giáo dục thế hệ trẻ của Hồ Chí Minh.
- Học đi đội với hành, giáo dục gắn liền với xã hội.
+ Tháng 9/1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh viết: “Đối riêng với
các em lớn, …Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cƣớp nƣớc, đấy là bổn phận của mỗi
công dân. Các em lớn chƣa hẳn đã đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhƣng
các em cũng nên, ngoài giờ học ở trƣờng, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện
thêm cho quen với đời sống chiến sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc
phòng thủ đất nƣớc”2.
Với các em nhỏ, Ngƣời khuyên cứ “Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội,
giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp đồng
bào”3.
+ Trong kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trƣơng: “Chúng ta cần phải có một nền
giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Vì vậy, chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chƣơng trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp kháng
chiến và kiến quốc.
2. Muốn nhƣ thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các
trƣờng”1.
+ Ngày 31/8/1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các
trường và các lớp bổ túc văn hóa, Ngƣời nhắc nhở: “Giáo dục phải phục vụ đƣờng lối
chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân”2.
- Phối hợp nhà trƣờng – xã hội – gia đình.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục trong nhà trƣờng chỉ là một phần, còn
cần có sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà
trƣờng đƣợc tốt hơn”.
Ngày 31/10/1955 khi miền Bắc đã giải phóng, Hồ Chí Minh viết: “Tôi cũng
mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trƣờng, giúp nhà trƣờng giáo dục và
khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích
nhân dân”3.
+ Các đoàn thể là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ, nhất là
Đoàn thanh niên. Vì vậy, Hồ Chí Minh viết: “Trƣờng học, gia đình và đoàn thể thanh
niên cần phải chú ý đến giáo dục tƣ tƣởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày
của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa. Trƣờng học, gia đình và
đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên”.
- Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục.
+ Hồ Chí Minh dạy: Trong trƣờng cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và
trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chƣa thông suốt
thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhƣng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ
không phải là “cá đối bằng đầu”. Đồng thời thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em
TP.HCM MINH
128
phục vụ cho nhà trƣờng. Các anh chị em nhân viên thì nên thi đua sao cho cơm lành
canh ngọt để cho học sinh ăn no, học tốt.
+ “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy,
giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trƣờng và nhân
dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó”1.
6. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phƣơng pháp giáo dục.
- Giáo dục phải xuất phát và bám chắc mục tiêu giáo dục.
Ngƣời dạy: “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc, thƣơng đồng
bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa”1; “Chúng ta phải sửa đổi
cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc”2.
- Giáo dục là một khoa học.
Ngƣời nói: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học” do vậy, cách dạy trẻ “phải giữ
toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng (chớ nên làm
cho chúng hóa ra những “ngƣời già sớm”. Nhiều thƣ các cháu gửi cho Bác Hồ, viết
nhƣ ngƣời lớn viết; đó là một triệu chứng già sớm nên tránh)”3; ở bậc tiểu học, “cách
dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của ngƣời lớn. Phải
đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”4.
Chuyên đề 10:
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
Cán bộ, Đảng viên vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ trung thành
của nhân dân
Hồ Chí Minh là ngƣời sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Trong lĩnh vực
xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã để lại những luận điểm rất quan trọng, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng trong công tác xây dựng Đảng
trong tình hình mới.
1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đƣa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi. - Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đƣợc giác ngộ,
đƣợc tổ chức, đƣợc lãnh đạo theo một đƣờng lối đúng đắn, Hồ Chí Minh đã đặt vấn
đề: “Cách mệnh trƣớc hết phải có cái gì? Trƣớc hết phải có đảng cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng nhƣ ngƣời cầm lái
có vững thì thuyền mới chạy”. 1
- Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
Việt Nam trên cơ sở phân tích đúng đắn tình hình kinh tế - xã hội và giai cấp ở Việt
Nam, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong Cách mạng Việt
Nam, tổ chức ra Đảng cộng sản Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai
cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn
kết “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng, bao giờ
Đảng cũng “tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối
TP.HCM MINH
129
với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của
nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. - Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết “Chủ nghĩa Mác-
Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc đã dẫn tới việc thành
lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. 2 Điều này thể hiện hai mặt gắn
bó với nhau rất chặt chẽ ở Hồ Chí Minh là phải nắm vững quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, để vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Ngƣời
khẳng định: không phải mọi ngƣời yêu nƣớc đều là cộng sản, nhƣng việc tiếp nhận
đƣờng lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần thiết để xác định đƣợc mục tiêu yêu
nƣớc đúng đắn; còn mỗi ngƣời cộng sản trƣớc hết phải là ngƣời yêu nƣớc, hơn nữa
phải là ngƣời yêu nƣớc tiêu biểu, lãnh đạo công nhân và quần chúng nhân dân thực
hiện thắng lợi đƣờng lối của Đảng.
- Thấm nhuần luận điểm của Mác-Ănghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân tộc”, Hồ Chí Minh khi thành lập Đảng
đã xác định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng nhƣ phong trào cách mạng
thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận điểm của Ngƣời về việc gắn Đảng với
phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc, gắn giai cấp với dân tộc là hoàn toàn
đúng đắn.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam – “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là
Đảng của dân tộc Việt Nam”. - Từ luận điểm phải kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nƣớc để hình thành Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh còn đi đến kết luận:
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân
tộc Việt Nam. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng (tháng 2 – 1951), Ngƣời đã khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao
động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải
là Đảng của dân tộc Việt Nam” 1. Năm 1961, luận điểm đó đƣợc Ngƣời nhắc lại:
“Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tƣ, thiên vị”. 2
- Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc, Ngƣời
đã hiều rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời phê phán
những quan điểm sai trái nhƣ không thấy rõ vai trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp
công nhân, hoặc chỉ thiên về công nông mà không thấy rõ vai trò của các tầng lớp,
giai cấp khác đi với công nông tạo thành sức mạnh to lón của khối đại đoàn kết toàn
dân.
- Theo Hồ Chí Minh, cái quyết định giai cấp công nhân của Đảng không phải
chỉ ở số lƣợng Đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là ở nền tảng tƣ tƣởng
của Đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin; ở mục tiêu, đƣờng lối của Đảng thực sự vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giái phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
TP.HCM MINH
130
phóng con ngƣời; ở vấn đề Đảng nghiêm túc tuân thủ những của Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”. - Trong cuốn Đƣờng Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng một câu của
Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…chỉ có theo
lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh
tiền phong”.1 Ngƣời cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng
cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng nhƣ ngƣời không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.2
- Ngƣời đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong ở chủ nghĩa Lênin: “Bây giờ
học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhƣng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.3
- Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nòng cốt” theo Hồ Chí Minh không có nghĩa
là giáo điều theo từng câu, từng chữ mà là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-
Lênin, nắm vững lập trƣờng, quan điểm và phƣơng pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin,
đồng thời thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc xây dựng theo những nguyên tác
của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. - V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới để phân biệt
với những Đảng cơ hội của Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý xây
dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra những nguyên tác xây dựng Đảng sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đây là nguyên tác cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không biến Đảng
thành một câu lạc bộ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của
Đảng.
- Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau
trong một nguyên tắc, dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung; tập trung
trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dƣới phục tùng
cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm
cho “Đảng ta tuy nhiều ngƣời nhƣng khi tiền đánh thì chỉ nhƣ một ngƣời”.4
- Về dân chủ, Ngƣời viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tƣ tƣởng phải đƣợc tự
do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi ngƣời tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của một
ngƣời.
Khi mọi ngƣời đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy, quyền tự do tƣ
tƣởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.” 5
- Ngƣời đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì
có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hƣớng cho
việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần dân chủ hơn chế độ tƣ bản chủ nghĩa.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Nhiều ngƣời thì
nhiều kiến thức, ngƣời thấy mặt này, ngƣời thấy mặt kia, do dó hiểu đƣợc mọi mặt,
mọi vấn đề. Việc gì đã đƣợc tập thể bàn bạc kỹ lƣỡng, kế hoạch đã đƣợc định rõ thì
cần giao cho một ngƣời phụ trách, nhƣ thế công việc mới chạy, nhƣ thế mới tránh
đƣợc thói dựa dẫm, ngƣời này ỷ vào ngƣời kia, ỷ lại vào tập thể. Không xác định rõ cá
nhân phụ trách, thì giống nhƣ “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
TP.HCM MINH
131
- Ngƣời kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc
đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ.
Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau” 1.
- Về vấn đề tập trung dân chủ, Ngƣời giải thích:
“Tập thể lãnh đạo là dân chủ
Cá nhân phụ trách là tập trung
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung” 2
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình:
- Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển
của Đảng. Ngƣời nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất
tƣ tƣởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. 3
- Ngƣời xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm
làm cho mỗi ngƣời tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cƣờng đoàn kết nội bộ hơn.
- Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ của Đảng, để Đảng
làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trƣớc giai cấp và dân tộc.
Ngƣời nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một
Đảng có gan từa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó… là một Đảng
tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” 4.
- Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách mạng,
mà còn là của nghệ thuật. Ngƣời lƣu ý cán bộ, đảng viên và các cấp bộ Đảng từ trên
xuống dƣới phải “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”.5 .
Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi ngƣời phải trung thực, chân thành với
bản thân mình cũng nhƣ với ngƣời khác, “phải có tình đồng chí thƣờng yêu lẫn nhau”.
Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở
tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.”
- Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là thuộc về
mỗi cá nhân cá bộ, đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này lá do lòng
tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”1
- Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trƣơng, nghị quyết
của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên
tắc xây dựng Đảng.
Mỗi đảng viên dù ở cƣơng vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải
nghiêm túc kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nƣớc, tuyệt đối không ai
đƣợc cho phép mình coi thƣờng, thậm chí đứng trên tất cả. Về vấn đề này, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng
những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan
chính quyền cách mạng” 2.
Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
- Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của Đảng là một nguyên tắc
quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân, xây
TP.HCM MINH
132
dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành đƣợc những thắng lợi
ngày càng to lớn hơn.
- Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ của
toàn Đảng. Trong di chúc, Ngƣời viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu
của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ƣơng đến các chi bộ cần phải giữ gìn
sự đoàn kết nhất trí của Đảng nhƣ giữ gìn con ngƣơi của mắt mình” 3
- Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đƣờng lối,
quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ xuất hiện những nguy
cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong.
- Củng cố và tăng cƣờng sự đoàn kết thống nhất đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh
hƣởng đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Về vấn
đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng
hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. 1
- Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Ngƣời yêu cầu: phải thực
hiện và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thƣờng xuyên thực hiện phê bình và tự phê
bình; phải thƣờng xuyên tu dƣỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với
bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra – tham ô, lãng phí, quan liêu, bè
cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức quyền, danh lợi.
6. Đảng vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Phải thƣờng xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân.
- Từ khi Đảng ra đời, do có đƣờng lối đúng đắn và có sự gắn bómáu thịt với
nhân dân, Đảng đã đƣợc nhân dân thừa nhân là Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến trình đi lên của cách mạng Việt Nam, Đảng ta
hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Năm 1960, Ngƣời nói: “Với tất cả sự khiêm
tốn của một ngƣời cộng sản, chúng ta có thể tự hào rằng, Đảng ta vĩ đại thật”.
- Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải vừa
là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh
đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau. Ngƣời nhấn mạnh: Lãnh đạo
có nghĩa là làm đầy tớ.
- Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân,
chứ không phải ngƣời chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà
nƣớc, trên pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc là nhằm xây dựng một Nhà nƣớc thực
sự của dân, do dân và vì dân.
- Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không có quyền lợi gì của riêng
mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Đảng không ở trên dân, cũng không ở
ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng dân. đảng cũng phải lấy dân làm gốc.
7. Đảng phải thƣờng xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
- Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh
cả về ba mặt chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không
ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trƣớc những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng.
- Hồ Chí Minh nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với danh
hiệu của mình, thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng…họ tự
cho mình có quyền sống xa hoa hƣởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí
sa vào tội lỗi” 1. Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm quan trọng: “Một dân tộc,
một Đảng và mỗi con ngƣời, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn đƣợc mọi ngƣời yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
TP.HCM MINH
133
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” 2. Vì vậy, phải chỉnh đốn để sửa
chữa những lỗi lầm, sai trái ấy.
- Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu những ảnh hƣởng của xã
hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy đƣợc cái tốt, cái hay,
lọc bỏ đƣợc đƣợc cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thƣờng xuyên của mỗi cán bộ,
đảng viên, thƣờng xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
- Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc
xây dựng đảng, chỉnh đốn Đảng là công việc thƣờng xuyên của Đảng. Ngƣời nhìn
thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lựx có sức mạnh rất to lớn để cải tạo
cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nếu biết sử
dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất ghê gớm vì con ngƣời
nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất rất nhanh chóng, nếu đi vào con đƣờng
tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, và khi đã có quyền
lực thì lợi dụng quyền lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi… Vì vậy, trong
điều kiện đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn
và đồi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá
biến chất gây ra.
- Trƣớc lúc đi xa, Ngƣời còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng:
“Việc cần phải làm trƣớc tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn
viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn
ý phục vụ nhân dân” 3
Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh thực
sự là một chân lý, phản ánh đúng thực tiễn và đã đƣợc thực tiễn kiểm nghiệm,
khôngphải chỉ từ thực tiễn nƣớc ta, mà còn ở nhiều nơi trên thế giới, có ý nghĩa rất sâu
xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng viên cộng sản. Nghị quyết Trung ƣơng 6
(lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng và Nghị quyết Đại hội IX đang đƣợc
toàn Đảng triển khai hiện nay là những việc làm thiết thực để thực hiện những di huấn
của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong tình hình mới.