HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM NGỌC ĐẠI
ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM NGỌC ĐẠI
ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. TRẦN THỊ THU HƯƠNG
2. TS. NGUYỄN THẮNG LỢI
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Phạm Ngọc Đại
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 7
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7
1.2. Kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan và những nội
dung luận án tập trung nghiên cứu 20
Chương 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2010 22
2.1. Những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện chính sách dân tộc
ở tỉnh Đắk Lắk 22
2.2. Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc
trong điều kiện lịch sử mới (2003-2010) 38
Chương 3: ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2015 76
3.1. Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk về thực
hiện chính sách dân tộc 76
3.2. Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc trên
các lĩnh vực cụ thể 88
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 112
4.1. Một số nhận xét 112
4.2. Một số kinh nghiệm 134
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 171
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
BCH Ban Chấp hành
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CSDT Chính sách dân tộc
DCTD Di cư tự do
DTTS Dân tộc thiểu số
HĐND Hội đồng Nhân dân
HTCT Hệ thống chính trị
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
UBND Ủy ban Nhân dân
XĐGN Xóa đói, giảm nghèo
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ các nhóm dân cư tỉnh Đắk Lắk năm 2005 25
Biểu số 3.1: Tốc độ gia tăng dân số tỉnh Đắk Lắk 79
Biểu số 3.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Đắk Lắk 81
Biểu số 4.1: Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tỉnh
Đắk Lắk 122
Biểu số 4.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tỉnh Đắk Lắk 127
Biểu số 4.3: Tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số tại chỗ so với tỷ lệ hộ
nghèo chung tỉnh Đắk Lắk 129
Biểu số 4.4: Số hộ có nhu cầu đất ở, đất sản xuất và nhà ở tỉnh Đắk Lắk 130
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc (tộc người). Dân tộc Kinh là dân tộc đa số, các
dân tộc thiểu số (DTTS) còn lại cư trú trên diện tích rộng lớn tới ¾ lãnh thổ, thường ở
khu vực miền núi, biên giới. Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các dân tộc
đã luôn đoàn kết, sát cánh bên nhau với truyền thống: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Thấy rõ đặc điểm ấy, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng đối
với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân.
Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân
tộc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng và không ngừng phát triển, hoàn
thiện chính sách dân tộc (CSDT). Chính sách dân tộc là bộ phận cấu thành chính sách
chung của Đảng và Nhà nước, vạch ra những nguyên tắc, biện pháp đối xử và giải
quyết vấn đề dân tộc. CSDT thể hiện quan điểm chính trị của Đảng trong việc giải
quyết mối quan hệ dân tộc, bao gồm những chính sách tác động trực tiếp đến các dân
tộc và quan hệ giữa các dân tộc, nhằm mục đích phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số; xây dựng khối
đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất
quán trong mọi thời kỳ. Qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, CSDT của Đảng luôn được
bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Khi
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, CSDT của Đảng được triển
khai ngày càng hiệu quả ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều đồng bào các dân tộc
sinh sống. Trong đó tỉnh Đắk Lắk là một trong những vùng có tính đặc thù.
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng về kinh tế, quốc phòng - an ninh và môi trường sinh thái của vùng Tây
Nguyên và cả nước. Ngay sau ngày giải phóng (3-1975), xác định công tác dân tộc là
nhiệm vụ chiến lược, lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk đã chú trọng và quan tâm đến CSDT:
Vấn đề kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên luôn gắn chặt với vấn đề dân tộc, nếu không
2
nói là vấn đề dân tộc có tính chất quyết định đối với các nội dung kinh tế - xã hội trên
địa bàn này... Có thể trong xu thế phát triển chung, tỉ lệ đồng bào dân tộc thiểu số
giảm đi trong tổng số dân, nhưng tầm vóc của việc thực hiện CSDT không hề giảm
nhẹ, ngược lại ngày càng phải được đề cao [146, tr.50-51].
Để thực hiện mục tiêu “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát
triển" giữa các dân tộc, Đảng và Nhà nước đã đề ra các chủ trương, CSDT, đặc biệt là
được thể hiện tập trung toàn diện tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
(BCH) Trung ương Đảng (khóa IX, năm 2003) về công tác dân tộc. Triển khai nghị
quyết, nhiều chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương và
của tỉnh Đắk Lắk đã được thực hiện nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các
dân tộc, giữa các khu vực dân cư. Thực hiện hệ thống CSDT khá toàn diện, với
nguồn lực thực hiện lớn, đã tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội; cơ sở hạ
tầng từng bước tăng cường; giảm tỉ lệ hộ nghèo; đời sống vật chất và tinh thần của
người dân được nâng lên. Diện mạo vùng DTTS, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn đã có những thay đổi căn bản.
Tuy nhiên, cho đến năm 2015, vùng DTTS tỉnh Đắk Lắk vẫn là một trong
những nơi khó khăn nhất. Nhiều vấn đề quan hệ dân tộc bức xúc ở Đắk Lắk chưa
được giải quyết tốt, như mức sống, trình độ phát triển giữa vùng đồng bào DTTS so
với vùng đồng bào Kinh ngày càng cách xa; tác động tiêu cực của di cư tự do
(DCTD) và mâu thuẫn về quyền sở hữu - sử dụng đất, rừng diễn biến phức tạp; lĩnh
vực an ninh chính trị luôn tiềm ẩn những yếu tố bạo loạn; hệ thống chính trị (HTCT)
ở cơ sở hiệu quả hoạt động còn thấp. Các chính sách được ban hành nhiều, nhưng
hiệu lực, hiệu quả chưa cao, nhiều đầu mối quản lý. Phương thức hỗ trợ của một số
chính sách còn chưa phù hợp. Nguồn lực đầu tư chính sách chưa bảo đảm thực hiện
các mục tiêu; cơ chế phối hợp tổ chức thực hiện chính sách có mặt chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá quá trình lãnh đạo thực hiện CSDT trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết lần thứ 7 BCH Trung ương
Đảng (khóa IX) và cũng là hơn 10 năm đầu chia tách tỉnh (2003-2015) là việc làm
cần thiết, để từ đó rút ra những kinh nghiệm thành công và chưa thành công, góp
phần thực hiện tốt hơn CSDT của Đảng.
3
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh
đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 2003 đến năm 2015 làm đề tài luận án tiến
sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ quá trình lãnh đạo thực hiện CSDT của Đảng bộ tỉnh Đắk
Lắk trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2015, từ đó rút ra một số kinh nghiệm chủ
yếu để thực hiện CSDT ở tỉnh nói riêng, cả nước nói chung, trong thời gian tới đạt
hiệu quả cao hơn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận án hệ thống hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk về chính sách dân tộc từ năm 2003 đến
năm 2015.
- Luận án đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của quá trình chỉ đạo thực
hiện các chính sách dân tộc, từ đó chỉ ra nguyên nhân của sự lãnh đạo và kết quả
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh.
- Luận án rút ra 5 kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk thực
hiện chính sách dân tộc sau hơn 10 năm chia tách tỉnh (2003 - 2015).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng về CSDT và quá trình
Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo thực hiện CSDT từ năm 2003 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Lấy mốc thời gian nghiên cứu từ năm 2003 đến năm
2015 với hai lý do: Một là, nhằm tổng kết Chương trình số 18/TU, ngày 14 tháng 05
năm 2003 của Tỉnh ủy Đắk Lắk, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
của BCH Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc. Hai là, ngày 26-11-2003,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đã thông qua Nghị
quyết số 22/2003/QH11 về việc chia tách tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và
Đắk Nông. Thực hiện Nghị quyết trên, ngày 01-01-2004, tỉnh Đắk Lắk (mới) được
chính thức thành lập.
4
Không gian nghiên cứu: Đề tài luận án chủ yếu khảo sát tại địa bàn tỉnh Đắk
Lắk sau khi chia tách tỉnh (năm 2004 có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, năm 2015
có 15 đơn vị hành chính cấp huyện).
Nội dung nghiên cứu:
- Chính sách là cách thức tác động có chủ đích của một nhóm, tập đoàn xã hội
này vào những nhóm, tập đoàn xã hội khác thông qua các thiết chế khác nhau của
HTCT nhằm thực hiện các mục tiêu đã được xác định trước.
- Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tổng hợp các quan
điểm, nguyên tắc, chủ trương, giải pháp tác động đến các dân tộc, vùng dân tộc, nhằm
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa các dân tộc theo hướng bảo đảm khối đại đoàn kết
thống nhất giữa các dân tộc và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam [14, tr.8].
CSDT là toàn bộ những chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước tác động vào
tất cả các lĩnh vực đời sống của các DTTS, các vùng dân tộc và có thể đối với từng
dân tộc riêng biệt, nhằm thay đổi tình trạng lạc hậu, biệt lập, phân biệt, bất bình đẳng
giữa các dân tộc, hướng tới sự đoàn kết, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau cùng phát
triển [90, tr.52-53].
Biểu hiện của CSDT là ở nhiều cấp độ khác nhau, trong nhiều loại hình văn
bản khác nhau: Như các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị do Đảng Cộng sản ban hành
ban hành; Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh, các loại văn bản quy phạm pháp luật
khác do Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước các cấp ban hành
theo thẩm quyền.
- Chính sách dân tộc có nội dung rất rộng, thể hiện trên tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh,... Tuy nhiên, luận án giới hạn ở
năm nhóm chính sách chủ yếu: Phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS; Bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa các DTTS; Xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS và nâng
cao chất lượng HTCT cơ sở; Chính sách quốc phòng - an ninh và một số chính
sách đặc thù khác.
- Thực hiện CSDT là quá trình đưa chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc
sống, đến với người dân. Các ý tưởng của Đảng, mong muốn của người dân đã được
thể hiện trong các văn bản tài liệu, nghị quyết sẽ phải cụ thể hóa thành lợi ích vật chất
xã hội. Công tác tổ chức thực hiện chính sách không chỉ có tác dụng một chiều là đưa
5
chính sách vào cuộc sống mà còn thông qua thực tiễn cuộc sống để điều chỉnh và hoàn
thiện chính sách. Tổ chức thực hiện CSDT của Đảng ở tỉnh Đắk Lắk có sự tham gia
của nhiều lực lượng, cấp quản lý gồm cả cấp trung ương, địa phương (tỉnh, huyện, xã),
cộng đồng (buôn/làng), doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và CSDT, đặc biệt là chủ
trương của Đảng về CSDT trong thời kỳ đổi mới.
4.2. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu của luận án chủ yếu dựa vào số liệu khảo sát ở một số địa phương
thuộc tỉnh Đắk Lắk, đồng thời luận án tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên
cứu của các công trình có liên quan đã được công bố; các văn kiện của BCH Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, các văn bản pháp luật của Quốc hội, các văn bản điều hành của
Chính phủ, các báo cáo của Uỷ ban Dân tộc, Ban chỉ đạo Tây Nguyên; những văn kiện
của tỉnh Đắk Lắk.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic.
Ngoài ra, tác giả đã vận dụng một số phương pháp khác như: phương pháp tiếp cận
liên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn; phân tích, tổng hợp, so sánh đối
chiếu, phương pháp chuyên gia, phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn các đối
tượng như nhà quản lý, cán bộ thực hiện CSDT, phỏng vấn người dân - đối tượng thụ
hưởng chính sách.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Trên cơ sở phân tích đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa tín ngưỡng;
luận án làm sáng rõ tính đặc thù, sự khó khăn phức tạp của điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội, dân cư, tộc người, các nhân tố bên ngoài tác động đến quá trình thực hiện
CSDT ở tỉnh Đắk Lắk.
- Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk về CSDT
từ năm 2003 đến năm 2015.
6
- Đánh giá một cách khách quan những thành tựu, hạn chế; lý giải nguyên
nhân của những thành tựu, hạn chế; rút ra một số nhận xét về ưu, khuyết điểm, những
kinh nghiệm chủ yếu về thực hiện CSDT của Đảng ở tỉnh Đắk Lắk từ năm 2003 đến
năm 2015.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện CSDT và thực hiện CSDT của Đảng ở Đắk Lắk, các tỉnh
Tây Nguyên và cả nước.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cấp, các ngành của tỉnh
Đắk Lắk và các tỉnh khu vực Tây Nguyên trong việc thực hiện CSDT. Ở một mức độ
nhất định, kết quả đạt được trong luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy về vấn đề có liên quan đến CSDT và thực hiện CSDT của
Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4
chương, 8 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Trong quá trình khảo sát tư liệu, tác giả luận án nhận thấy vấn đề “Đảng bộ tỉnh
Đắk Lắk lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 2003 đến năm 2015” được đề
cập đến nhiều trong các công trình, bài viết, có thể chia theo 3 nhóm như sau:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung về vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc ở Việt Nam
Cuốn sách 50 năm các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1995) của Bế Viết
Đẳng [38] đã tập trung nghiên cứu khá đầy đủ về các DTTS Việt Nam trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng
cuộc sống mới trên các lĩnh vực: xây dựng và phát triển kinh tế; thực hiện định
canh, định cư; xây dựng quan hệ xã hội mới; xây dựng văn hóa và phát triển y tế.
Cuốn sách cung cấp những luận cứ thực tiễn nhằm đổi mới CSDT phù hợp với yêu
cầu và nhiệm vụ mới của cách mạng, nhất là khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Cuốn sách Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội
ở miền núi của Bế Viết Đẳng [39] đã đánh giá vấn đề dân tộc và việc thực hiện
CSDT ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng kinh tế - xã hội và những vấn
đề cấp bách đối với CSDT, tác giả đã đưa ra những nhận định và nêu một số nhận
xét về CSDT trong thời kỳ mới. Trong đó khẳng định: Phát triển kinh tế - xã hội là
cơ sở để thực hiện CSDT.
Công trình Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ
dân tộc hiện nay của Phan Hữu Dật [23] và Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam
của Đặng Nghiêm Vạn [192] đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về quan
hệ tộc người ở Việt Nam, trong đó dành một phần đáng kể đề cập đến quan hệ tộc
người ở Tây Nguyên.
Viện nghiên cứu Chính sách Dân tộc và Miền núi có báo cáo Vấn đề dân tộc và
định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
[193]. Công trình nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về CSDT của Đảng và những
8
định hướng cơ bản trong quy hoạch dân cư, đẩy mạnh nhịp độ phát triển kinh tế hàng
hoá phù hợp với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn. Kiến nghị những giải pháp nhằm sớm ổn định và cải thiện
đời sống đồng bào dân tộc.
Cuốn Miền núi Việt Nam thành tựu và phát triển những năm đổi mới của Trần
Văn Thuật và các cộng sự [100], trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát về sự đa dạng của
điều kiện tự nhiên - môi trường, văn hóa và kinh tế miền núi Việt Nam, các tác giả đã
nêu định hướng và nguyên tắc phát triển miền núi và vùng DTTS của Đảng. Đánh giá
thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội và đặt ra những vấn đề về phát triển miền núi
trong giai đoạn mới. Nhóm tác giả đã dành một chương bàn về xóa đói, giảm nghèo
(XĐGN), đề ra những giải pháp thực hiện mục tiêu XĐGN. Về vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa các dân tộc, vấn đề môi trường tự nhiên - quá trình khai thác,
bảo vệ và biến đổi cũng được nghiên cứu khá đầy đủ.
Cuốn Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay của
Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng [90] đã nêu rõ những vấn đề cơ bản về dân tộc
và CSDT của Đảng qua các thời kỳ cách mạng; phân tích những vấn đề đang đặt
ra trong việc thực hiện CSDT và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện
tốt CSDT ở Việt Nam hiện nay. Cuốn sách trình bày những nhận thức cơ bản về
dân tộc và CSDT của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ từ 1930 đến 2006. Cuốn
sách có những đánh giá tổng kết và phân tích sâu sắc đối với những vấn đề đang
đặt ra cho việc thực hiện CSDT ở Việt Nam, như sự tranh chấp nguồn lợi và sự
xung đột dân tộc, vấn đề nghèo đói, hoạt động của các thế lực thù địch. Đồng thời
tác giả bước đầu đưa ra những quan điểm, giải pháp góp phần thực hiện tốt CSDT
hiện nay ở Việt Nam.
Cuốn sách Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay của Hoàng Chí Bảo [12] đã đánh giá
thực trạng công bằng bình đẳng và hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế
- xã hội tại vùng đa dân tộc, cũng như quá trình thực hiện CSDT hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững. Tác giả đã đưa ra 4 giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm công
bằng, bình đẳng trong phát triển kinh tế, xã hội giữa các dân tộc ở miền núi. Cùng
9
với đổi mới nhận thức về dân tộc, xây dựng HTCT và đào tạo nguồn nhân lực thì
thực hiện tốt CSDT trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội được xem là giải pháp
cơ bản để thực hiện công bằng, bình đẳng trong phát triển vùng đa tộc người ở Việt
Nam hiện nay.
Cuốn sách Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc sau 5 năm thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX của Ủy ban Dân tộc - Viện
Dân tộc [140] đã cung cấp những thông tin đa chiều nhằm làm rõ kết quả, hạn chế,
yếu kém, đề xuất các giải pháp, góp phần đổi mới và thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) về công tác dân tộc của Đảng.
Cuốn sách Một số vấn đề về đổi mới xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc
của Hoàng Hữu Bình, Phan Văn Hùng [14] đã tổng kết, đánh giá về công tác dân tộc
và xây dựng, thực hiện CSDT, nhất là vấn đề đổi mới xây dựng và thực hiện CSDT.
Cuốn sách Một số vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc ở
nước ta hiện nay của Phan Văn Hùng [75] đã làm rõ những vấn đề về CSDT ở Việt
Nam hiện nay trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài "Những vấn đề mới trong
quan hệ dân tộc và định hướng hoàn thiện chính sách dân tộc ở nước ta", mã số KX
04.18/2011-2015 do Ủy ban Dân tộc chủ trì. Đó là những vấn đề cơ bản về quan hệ
dân tộc, các yếu tố chủ yếu tác động đến quan hệ dân tộc, nguồn gốc bất bình đẳng và
xung đột dân tộc; chủ trương, CSDT của Đảng và Nhà nước Việt Nam và một số
định hướng CSDT trong thời gian tới; vấn đề nghèo, khoảng cách giàu nghèo giữa
các dân tộc, các vùng dân tộc; vấn đề thiếu đất sản xuất, đất ở và tranh chấp đất đai
trong vùng đồng bào DTTS. Cuốn sách có những đánh giá, luận chứng có giá trị tham
khảo tốt cho đề tài luận án.
Bên cạnh đó, còn có những công trình nghiên cứu về thực hiện CSDT ở các địa
phương trong cả nước:
Cuốn sách Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các vùng đa dân
tộc ở các tỉnh miền núi trong những năm gần đây. Hiện trạng, vấn đề các bài học
kinh nghiệm trong xử lý tình huống của Lưu Văn Sùng [91] đã khảo sát đánh giá
về điểm nóng chính trị - xã hội và xử lý điểm nóng trên địa bàn Tây Bắc, Tây
10
Nguyên, Tây Nam Bộ từ đó đề ra một số giải pháp và bài học kinh nghiệm trong
xử lý điểm nóng nhằm giải quyết quan hệ dân tộc trong một quốc gia đa tộc người.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở một số
tỉnh Tây Bắc từ năm 1996 đến năm 2006 của Trần Thị Mỹ Hường [77] đã đánh giá
thành tựu và hạn chế của quá trình đổi mới, lãnh đạo của Đảng thực hiện CSDT ở
Tây Bắc từ năm 1996 đến 2006, đúc kết 4 kinh nghiệm lãnh đạo của các đảng bộ
tỉnh khu vực Tây Bắc: Một là, phát triển toàn diện, đồng bộ về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng; Hai là, lựa chọn đầu tư có trọng điểm. Đồng
thời, phát huy nội lực, tiềm năng, thế mạnh cũng như tính chủ động sáng tạo của
địa phương; Ba là, thực hiện tốt định canh, định cư, bảo đảm ổn định đời sống
Nhân dân; Bốn là, chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ người DTTS.
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh miền núi
Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010 của Hoàng Thu Thủy [101] đã
làm sáng tỏ nhận thức khoa học về chính sách dân tộc của Đảng và quá trình tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc của
Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010; đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá
trình tổ chức thực hiện CSDT của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc Việt Nam từ
năm 1996 đến năm 2010; tổng kết 5 kinh nghiệm chủ yếu về tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc từ năm 1996 đến năm
2010: Một là, bám sát đặc điểm cấu trúc xã hội tộc người ở vùng miền núi Đông
Bắc để cụ thể hoá, vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng cho phù hợp với
thực tiễn; Hai là, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm để đầu tư các nguồn lực, tạo
ra các bước phát triển đột phá; Ba là, gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm
an ninh, quốc phòng vùng đồng bào DTTS là chủ trương nhất quán, xuyên suốt
trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện CSDT; Bốn là, coi trọng nâng cao vai trò của
HTCT địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện CSDT; Năm là, phải tạo mọi
điều kiện để thu hút sự tham gia của đồng bào DTTS tại chỗ trong quá trình hoạch
định và thực thi CSDT.
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
đồng bào Khơ-me ở đồng bằng sông Cửu Long của Nguyễn Thanh Thủy [103], đã
11
tập trung nghiên cứu CSDT của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đồng bào Khơ-
me cũng như quá trình thực hiện chính sách. Từ những kết quả về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội đạt được trong quá trình thực hiện CSDT, tác giả đã mạnh dạn đưa
ra một số kiến nghị và giải pháp để thực hiện có hiệu quả CSDT vùng đồng bào dân
tộc Khơ-me...
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về khu vực Tây Nguyên
1.1.2.1. Công trình của các tác giả nước ngoài
Do vị trí và tầm quan trọng về địa lý - dân tộc học nên Tây Nguyên đã thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội trong và ngoài nước.
Đầu thế kỷ XX, H. Bernard với công trình Les populations Moi du Darlac
(Những cư dân Mọi ở Đắk Lắk) [13] đã mang đến cho người đọc một cái nhìn tổng
thể về cư dân các DTTS ở Đắk Lắk nói chung và tộc người Ê-đê nói riêng.
Henri Maitre, Les jung les Moi - Rừng người Mọi [80] đã phân chia vùng đất
Tây Nguyên và Nam Trường Sơn theo địa lý vùng, chia cư dân thành những nhóm
theo ngôn ngữ - dân tộc một cách khoa học. Đây là công trình lịch sử tộc người đầu
tiên viết về cao nguyên nằm giữa Việt Nam, Campuchia và Lào.
Công trình Monographie de province du Darlac, Extrême-Orient (Chuyên khảo
về tỉnh Đắk Lắk, vùng Viễn Đông) của Mus P. [81]; “Bài ca Đam San” do Sabatier L.
sưu tầm, công bố năm 1934; công trình “L’habitation Rhade” (Nhà ở của người Ra-
đê) của M. Ner [82] nghiên cứu về nhà ở, kiến trúc của người Ê-đê.
Jacques Dournes là một trong những nhà Tây Nguyên học say mê nhất. Ông
sống ở Tây Nguyên gần ba mươi năm, am hiểu sâu sắc các DTTS ở đây, nói thành
thạo ngôn ngữ của họ và đã viết hàng chục công trình có thể coi là những nghiên
cứu cơ bản nhất về Tây Nguyên.
Dam Bo (Jacques Dournes), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam
Đông Dương) [22], đã mô tả một hệ thống thần linh khá giàu có, người dân tộc Tây
Nguyên được hít thở trong một môi trường tâm linh phong phú, định hướng cho
những gì tốt đẹp trong tâm hồn. Những giá trị tâm hồn ấy toả sáng, nhưng mong
manh và đang đương đầu với những thử thách trước cái văn minh và hiện đại đầy
thực dụng đang tràn vào.
12
Tác giả đã phác thảo các cộng đồng với những chuyện kể thú vị: người Ra-glai
ở Đông - Nam Tây Nguyên sống hiếu khách và thuận hoà, thích giao lưu; người Srê ở
cao nguyên Kon Tum hướng ngoại và dễ bị nền văn minh tác động, người Cil ở cao
nguyên Lang Biang nghèo đói cam phận, người Ê-đê ở vùng Ðồng Nai Thượng và
cao nguyên Đắk Lắk thì đầy ý chí học hỏi, v.v. Nó như những đoạn phim tài liệu quý
đầy tính gợi tả trên nền khảo cứu khoa học tinh tế, nhạy cảm được khảo sát trên các
bình diện nhân chủng, văn hoá, đời sống…
Dam Bo viết: Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể
hiểu. Bài toán về sự phát triển của các dân tộc Tây Nguyên không hề là một bài toán
đơn giản, dễ dàng. Cần phải yêu, một tình yêu đầy kính trọng và cả ưu tư như Dam
Bo đã yêu đối với đất nước và con người Tây Nguyên để có thể hiểu nó một cách
thấu đáo, từ đó có thể xử lý những câu hỏi không hề dễ dàng đặt ra vừa bức bách vừa
lâu dài, cơ bản.
Georges Condominas, Chúng tôi ăn rừng [20] đã khắc họa lại một bức tranh
chân thực về cuộc sống của người Mnông Gar. Cuộc sống của người Mnông Gar luôn
tuân thủ chặt chẽ theo vô số nghi lễ từ nhỏ đến lớn: lễ kết nghĩa, hội cúng đất, lễ buộc
thóc, v.v.. Cuốn sách trình bày những tư liệu thu thập được trong diễn biến của một
chu kỳ nông nghiệp trọn vẹn trong một năm, là cơ sở thực tiễn đề xuất các giải pháp
phát triển, trên nhiều lĩnh vực đối với đồng bào Mnông Gar cũng như các nhóm dân
tộc thiểu số tại chỗ khác ở Đắk Lắk.
Anne de Hautecloque Howe, Người Ê Đê, một xã hội mẫu quyền [1] đi sâu
nghiên cứu và giới thiệu về cơ cấu tổ chức, các quan hệ xã hội của dân tộc Ê-đê, đặc
biệt xã hội Ê-đê là xã hội mẫu quyền điển hình nhất ở Tây Nguyên. Những hiểu biết
sâu sắc về dân tộc Ê-đê giúp cho các nhà nghiên cứu dân tộc học, xã hội học, văn
hóa học, là tài liệu tham khảo tốt cho những người làm công tác thực tiễn và quản lý
địa phương hiện nay. Tác giả đã gợi mở những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu: đó là
vị trí của người đàn ông trong xã hội Ê-đê; vấn đề đất đai và tái định cư người Việt
tác động đến mọi mặt cấu trúc xã hội truyền thống, đặc biệt là phạm trù sở hữu mới.
Công trình của G. Hickey, Tự do trong rừng thẳm (Lịch sử các sắc tộc vùng Tây
Nguyên Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1976) [79], cuốn sách phản ánh chính sách
13
đồng hóa người Tây Nguyên của Ngô Đình Diệm, như: bãi bỏ chế độ Hoàng triều
cương thổ, di cư người Việt từ các tỉnh ven biển lên Tây Nguyên, thành lập Bộ Sắc
tộc, xây dựng lại nền hành chính, thực hiện chính sách cải cách ruộng đất tại cao
nguyên miền Nam… gây ra làn sóng bất mãn, dẫn đến sự ra đời của tổ chức bí mật
Mặt trận giải phóng Tây Nguyên (Le Front pour la Libération des Montagnards) năm
1955 và sau đó đổi tên thành Bajaraka năm 1958…
Nhìn chung, tuy mỗi công trình không giống nhau về chính kiến và mục đích
nghiên cứu cũng như cách tiếp cận, nhưng đây là những công trình đi sâu nghiên cứu
tộc người, đóng góp những giá trị khoa học nhất định khi tìm hiểu tất cả các vấn đề
văn hóa, kinh tế, xã hội của các tộc người ở Tây Nguyên. Đặc biệt, nhiều vấn đề có
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị ở Tây Nguyên vẫn còn
mang tính thời sự nóng hổi.
1.1.2.2. Công trình của các tác giả trong nước
Thời kỳ thuộc Pháp, có công trình Mọi Kon Tum của Nguyễn Kinh Chi,
Nguyễn Đổng Chi [17]. Cuốn sách Mọi Kontum đã cho người đọc những hiểu biết
tương đối cụ thể về Kon Tum nói riêng, Bắc Tây Nguyên nói chung. Cuốn sách đã
bước đầu nghiên cứu đặc điểm dân tộc, đời sống vật chất và văn hoá của các DTTS
ở Kon Tum.
Trong thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975, ở miền Nam có một số công trình
nghiên cứu về các tộc người Tây Nguyên. Đáng chú ý là cuốn sách Đường lên xứ
Thượng của Bùi Đình [59]; các công trình: Tìm hiểu phong trào tranh đấu FULRO
(1958-1969) của Bộ Phát triển sắc tộc [15]; Đồng bào các sắc tộc thiểu số ở Việt
Nam, nguồn gốc và phong tục của Nguyễn Trắc Dĩ [24]; Cao nguyên miền Thượng
của Cửu Long Giang, Toan Ánh [61]. Các công trình này chủ yếu đi sâu khảo sát và
mô tả địa bàn cư trú, nguồn gốc, nếp sống cá nhân, đời sống xã hội, tinh thần của các
tộc người ở Tây Nguyên nói riêng và miền Nam nói chung.
Ở miền Bắc có một số công trình của Y Điêng, Ngọc Anh, Lê Bá Thảo... giới
thiệu về vùng đất, văn hóa và con người Tây Nguyên, trong đó có các tộc người ở
Đắk Lắk.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc nghiên cứu về Tây Nguyên
nhằm đưa ra những luận cứ khoa học để khai thác tiềm năng thế mạnh về điều kiện
14
tự nhiên, những đặc điểm về văn hóa - xã hội của quá trình xây dựng cuộc sống mới
ấm no, hạnh phúc cho đồng bào các DTTS, thực hiện mục tiêu bình đẳng, đoàn kết
dân tộc được Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm. Trong đó thành tựu
nổi bật nhất là việc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam) thực hiện thành công hai chương trình nghiên cứu khoa học
cấp nhà nước: Chương trình Tây Nguyên 1 (1978-1983) và Chương trình Tây
Nguyên 2 (1984-1988). Hai Chương trình này đã điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên,
đặc điểm con người và xã hội các dân tộc, cung cấp những cơ sở khoa học cho việc
hoạch định các chủ trương, chính sách của nhà nước. Kết quả phần khoa học xã hội
được tập hợp và xuất bản trong hai cuốn sách Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã
hội Tây Nguyên [145] và Tây Nguyên trên đường phát triển [146], trong đó đã làm
sáng tỏ thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, quản lý và sử dụng đất đai, khai thác
tài nguyên rừng, DCTD, quan hệ tộc người. Cùng với đó còn có những thành tựu
khác về dân tộc học, văn hóa học, xã hội học đã điều tra, xác định thành phần dân
tộc, giới thiệu đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa các dân tộc, góp phần thực hiện
CSDT của Đảng.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng quan tâm chỉ đạo quá trình đưa Tây Nguyên
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), trong đó chú ý đặc điểm dân tộc, dân cư và có
chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên phù hợp với
đặc điểm địa lý, dân tộc, dân cư ở vùng này. Lê Duẩn trong bài Tây Nguyên đoàn kết
tiến lên [30]; Trường Chinh trong bài Đưa đồng bào các dân tộc Đắk Lắk lên chủ
nghĩa xã hội [18] đã phân tích những đặc thù về tộc người, dân cư và chỉ đạo các
đảng bộ tỉnh khu vực Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương,
giải pháp cho phù hợp.
Trong điều kiện khó khăn về kinh tế, tình hình an ninh chưa ổn định do hoạt
động của lực lượng phản động FULRO (Front unifine pour la liberation des races
opprimees (Mặt trận thống nhất giải phóng các dân tộc bị áp bức), đặc biệt là thiếu
tư liệu, nhưng nhiều nhà khoa học quan tâm đến nghiên cứu lịch sử, văn hoá tộc
người, đặc biệt tham gia tích cực vào công tác xác định thành phần dân tộc ở các tỉnh
vùng Tây Nguyên. Một số công trình chuyên khảo về lịch sử, văn hoá và dân tộc học
15
đã giúp người đọc hiểu rõ nguồn gốc tộc người, lịch sử, văn hoá và đặc điểm kinh tế,
văn hoá, xã hội của các DTTS ở Tây Nguyên.
Sau hơn 20 năm kể từ chương trình Tây Nguyên 2, Chương trình khoa học và
công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước TN3/11-15 (gọi tắt là Chương trình Tây Nguyên
3) được triển khai. Chương trình tập trung đánh giá tổng thể các mặt kinh tế, văn hóa,
xã hội, tài nguyên, môi trường, địa lý, quốc phòng và an ninh mang tính đặc thù để có
cơ sở xây dựng định hướng phát triển bền vững vùng Tây Nguyên giai đoạn 2010-
2020 và tầm nhìn 2030. Trong Chương trình Tây Nguyên 3, lĩnh vực khoa học xã hội
và nhân văn được phân thành 21 đề tài theo hướng chuyên môn sâu từng lĩnh vực,
như vấn đề quyền sử dụng đất, quan hệ tộc người, tình hình tôn giáo, tiềm năng du
lịch,… ở Tây Nguyên.
Đáng chú ý là Quan hệ tộc người và chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc trong phát triển bền vững Tây Nguyên của Phạm Quang Hoan [69]. Trên cơ sở
phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ dân tộc và các yếu tố tác động đến quan hệ dân
tộc và đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên, đề tài đúc rút những bài học kinh nghiệm,
đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp đối với CSDT nhằm xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên. Kết quả của đề tài
là cơ sở khoa học để đổi mới quan điểm trong xây dựng và thực hiện CSDT, đẩy
mạnh sự phát triển các dân tộc và quản lý các mối quan hệ dân tộc, củng cố khối đại
đoàn kết các dân tộc trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, có các công trình, đề tài nghiên cứu các cấp khác đề cập đến
CSDT ở Tây Nguyên:
Cuốn sách Sở hữu và sử dụng đất đai ở Tây Nguyên của Vũ Đình Lợi, Bùi Minh
Đạo và Vũ Thị Hồng [78], sau khi đã trình bày các dữ liệu, phân tích toàn diện, tỉ mỉ
tình hình đất và rừng ở Tây Nguyên từ sau năm 1975, chỉ ra những thành công, đồng
thời đã vạch ra những thiếu sót, đưa ra những giải pháp có tính nguyên tắc. Các tác
giả đã nghiêm túc đưa ra lời cảnh báo rằng, nếu không kịp thời có giải pháp khắc
phục những khiếm khuyết của quá trình khai thác và sử dụng đất đai thì “vấn đề dân
tộc” sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế nay mai ở Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định,
nghiêm trọng là máu lại đổ, với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắng trợn của kẻ thù
dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo.
16
Các công trình chuyên khảo: Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế -
xã hội ở miền núi của Bế Viết Đẳng [39]; Thực trạng đói nghèo và một số giải pháp
xoá đói giảm nghèo đối với các các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên của Bùi
Minh Đạo [52]; Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển bền
vững của Bùi Minh Đạo [56]… đã đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội của các tộc
người Tây Nguyên dưới tác động của các chính sách kinh tế - xã hội; đánh giá những
thành công và hạn chế của chính sách, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện CSDT
của Đảng và Nhà nước.
Đề tài Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện người
các dân tộc ở Tây Nguyên của Lê Hữu Nghĩa [83]; Một số vấn đề về xây dựng hệ
thống chính trị ở Tây Nguyên của Phạm Hảo, Trương Minh Dục [62]... Các công
trình này đã trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng HTCT và
việc hình thành đội ngũ cán bộ các DTTS; đánh giá thực trạng HTCT, đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý người các DTTS trong HTCT ở Tây Nguyên; đề xuất các giải
pháp để xây dựng HTCT, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
giai đoạn hiện nay.
Khía cạnh quan hệ tộc người, công trình Xu hướng phát triển và những giải
pháp giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền ở Tây Nguyên của Nguyễn
Quốc Phẩm [85], đã đánh giá thực trạng quá trình nhận thức và thực hiện CSDT, tôn
giáo và nhân quyền của Đảng, Nhà nước ở Tây Nguyên thời gian qua, từ đó đề xuất
các giải pháp giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền phù hợp với điều kiện
lịch sử ở Tây Nguyên.
Cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở
Tây Nguyên của Trương Minh Dục [31], trình bày đặc điểm kinh tế - xã hội của các
DTTS ở Tây Nguyên và những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế -
xã hội vùng DTTS; những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình thực hiện
CSDT của Đảng ở Tây Nguyên như: vấn đề sở hữu và sử dụng đất đai và phát triển
các hình thức kinh tế; phát triển văn hoá, giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức các
DTTS; vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; vấn đề xây dựng HTCT và đào tạo đội ngũ cán
bộ các DTTS; vấn đề xây dựng khối đoàn kết dân tộc.
17
Trương Minh Dục có chuyên khảo Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc ở Tây Nguyên [32]. Nội dung cuốn sách trình bày truyền thống đoàn kết của các
tộc người qua các thời kỳ lịch sử; quá trình xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc ở Tây Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ cách mạng, đặc
biệt là trong thời kỳ đổi mới.
Tổng kết thực tiễn đổi mới ở Tây Nguyên cũng được đề cập trong các cuốn
sách như Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở miền Trung, Tây Nguyên trong
thời kỳ đổi mới [33], Miền Trung và Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới của Trương
Minh Dục [34] đã khái quát quá trình nhận thức của Đảng về vấn đề dân tộc và
quá trình thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này. Tuy
nhiên, tác giả chưa phân tích sâu vào thực trạng quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk, những
hạn chế của chính sách và thực hiện các chính sách ở khu vực người DTTS.
Nguyễn Văn Tiệp đã công bố cuốn Chính sách dân tộc của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa và vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên (1954-1975)
[107], đã bổ sung khoảng trống trong nghiên cứu tổng kết về CSDT của chính
quyền Việt Nam Cộng hòa đối với Tây Nguyên. Trong lịch sử Việt Nam thời kỳ
1954-1975 là một giai đoạn hết sức phức tạp trong bối cảnh đất nước bị chia làm hai
miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Ở miền Nam, do tầm quan trọng
của vấn đề dân tộc, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã ban hành CSDT, trong đó
có chính sách Thượng vụ dành riêng cho các dân tộc ở Tây Nguyên.
Cuốn sách trình bày những nội dung cơ bản của chính sách Thượng vụ và đánh
giá những tác động nhiều mặt đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của
các DTTS Tây Nguyên. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng rút ra những bài học
kinh nghiệm lịch sử cho việc xây dựng và thực thi CSDT của Đảng và Nhà nước Việt
Nam hiện nay.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu về đồng bào các DTTS Tây Nguyên,
bởi nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau:
Dưới góc độ nghiên cứu lịch sử có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp
phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 1996 đến
năm 2006 của Lê Nhị Hoà [65], Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính
sách xã hội ở Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006 của Phạm Văn Hồ [64]...
18
Chuyên khảo của Nguyễn Duy Thụy, Di cư của người dân tộc thiểu số đến Tây
Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015 [105] đã làm rõ thực trạng di dân, các nguồn di
dân, nguyên nhân, mục đích của việc di dân; vai trò của Nhà nước và chính quyền địa
phương; quan hệ giữa dân di cư với các DTTS tại chỗ; tác động của bộ phận dân di
cư đối với sự phát triển kinh tế, xã hội vùng Tây Nguyên.
Dưới góc độ xây dựng Đảng có Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh
trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay của Phan Sỹ Thanh [95], phân tích những điểm đặc
thù về HTCT cơ sở và tổng kết một số kinh nghiệm xây dựng HTCT cơ sở ở Tây
Nguyên, đồng thời đề xuất các giải pháp xây dựng trong thời gian tới.
Các công trình khoa học trên đây đã đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau như
kinh tế, chính trị, văn hoá, tôn giáo, quan hệ tộc người... ở Tây Nguyên trong quá
trình thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an
ninh vùng Tây Nguyên nói chung và CSDT của Đảng ở Tây Nguyên nói riêng.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách dân tộc ở tỉnh
Đắk Lắk
Bên cạnh những công trình, đề tài nghiên cứu về CSDT bao quát toàn vùng Tây
Nguyên và phụ cận, đã có những công trình nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Đắk Lắk
với những cách tiếp cận khác nhau.
Bế Viết Đẳng và các cộng sự có cuốn Đại cương về các dân tộc Ê-đê, Mnông
ở Đắk Lắk [37]. Cuốn sách là kết quả của hoạt động điền dã trong tất cả các
huyện, trong hầu hết các nhóm người của hai dân tộc Ê-đê và Mnông ở Đắk Lắk.
Đây là kết quả quá trình làm việc nghiêm túc của tập thể nhà khoa học của Viện
Dân tộc học trong những năm 1976-1979, ngay sau ngày miền Nam được giải
phóng, trong những điều kiện khó khăn. Nội dung của cuốn sách là những tư liệu
quý giới thiệu về đặc điểm tự nhiên và dân cư, kinh tế và xã hội, văn hóa, đặc biệt
là những biến đổi về kinh tế - xã hội và văn hóa của các DTTS ở Đắk Lắk, phục
vụ cho công tác lý luận và thực tiễn về dân tộc và CSDT.
Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk Lắk đã xuất bản
cuốn Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk [147]. Cuốn
sách là kết quả hợp tác nghiên cứu giữa Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam với Tỉnh
19
ủy Đắk Lắk. Trong 2 năm 1987-1988, đề tài đã tổ chức nhiều đợt điều tra nghiên cứu
ở các buôn làng Ê-đê, Mnông; trao đổi với lãnh đạo các cấp huyện, xã; đã tổ chức
nhiều hội thảo khoa học theo từng đề tài, nhiều vấn đề khoa học và thực tiễn được
đưa ra thảo luận, tranh luận rộng rãi và dân chủ.
Cuốn sách tập trung làm sáng tỏ thực trạng các dân tộc sau 15 năm giải phóng
(1975-1990) góp phần cung cấp cơ sở khoa học để tìm ra phương hướng phát triển
hợp quy luật trong giai đoạn đầu thời kỳ quá độ lên CNXH; đề xuất những nhiệm vụ
và giải pháp cấp bách, đồng bộ với cơ quan Đảng, chính quyền về những vấn đề kinh
tế, xã hội đang đặt ra ở Đắk Lắk. Mặc dù là những nghiên cứu ban đầu, nhưng những
kết luận trong cuốn sách là những gợi ý quý báu cho những nhà quản lý, lãnh đạo ở
địa phương; đồng thời là những chỉ dẫn tiếp tục nghiên cứu làm sáng rõ và cụ thể hơn
về vấn đề dân tộc và CSDT.
Tác giả Nguyễn Văn Tiệp và các cộng sự công bố cuốn sách Một số vấn đề về
kinh tế - xã hội và quan hệ dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk [106]. Nội dung cuốn sách gồm 6
chương, chuyển tải nội dung khoa học về hiện trạng, dự báo xu hướng phát triển kinh
tế - xã hội, đánh giá chính sách phát triển kinh tế - xã hội và CSDT được thực hiện tại
địa phương trong thời gian từ sau năm 1986 đến năm 2006, từ đó đề xuất một số kiến
nghị và giải pháp giúp cho các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương phát
triển kinh tế - xã hội, giải quyết mối quan hệ trong vùng.
Ngoài ra, có nhiều luận án tiến sỹ đã nghiên cứu về Đắk Lắk dưới nhiều góc độ:
Nguyễn Bá Thủy, Di dân tự do của các dân tộc Tày, Nùng, Hmông, Dao từ Cao
Bằng, Lạng Sơn vào Đắk Lắk giai đoạn 1986-2000 [102] đã đánh giá thực trạng,
nguyên nhân di dân tự do và tác động của quá trình di dân tự do của người Tày,
Nùng, Hmông, Dao, từ Cao Bằng, Lạng Sơn vào Đắk Lắk. Đề xuất một số biện pháp
và khuyến nghị nhằm góp phần hoạch định chính sách di dân, điều tiết việc di dân tự
do; Các luận án tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Duy Thụy, Chuyển biến kinh tế - xã hội
Đắk Lắk từ năm 1975 đến năm 2003 [104], Lương Thy Cân, Chuyển biến kinh tế - xã
hội thành phố Buôn Ma Thuột từ năm 1975 đến 2010 [16] và Nguyễn Khắc Trinh,
Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 2004 đến năm 2013
[137] đã đề cập đến một số khía cạnh của quan hệ dân tộc và CSDT ở Đắk Lắk, với
20
tư cách vừa là nhân tố tác động đến hoạch định chủ trương, chính sách, vừa là kết quả
thực hiện chủ trương, chính sách.
Có thể nói, nội dung của các công trình trên đã giúp tác giả luận án có được cái
nhìn bao quát để đối chiếu, so sánh quá trình thực hiện CSDT của Đảng trên phạm vi
cả nước, để thấy được tính thống nhất và đặc thù mỗi vùng miền trong quá trình thực
hiện CSDT của Đảng Cộng sản Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN VÀ
NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
1.2.1. Kết quả nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến đề tài luận án
Những công trình nghiên cứu trên đây đã ít nhiều đề cập các vấn đề liên quan
đến nội dung của Luận án:
Thứ nhất, hệ thống lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và thực hiện CSDT, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
Thứ hai, tính đặc thù về tự nhiên, dân cư, phương thức sản xuất, văn hóa, tôn
giáo - tín ngưỡng, thiết chế xã hội truyền thống của các dân tộc ở Tây Nguyên nói
chung và Đắk Lắk nói riêng;
Thứ ba, quá trình lịch sử hình thành vùng đất, lịch sử cai trị của các thế lực
ngoại xâm và lịch sử đấu tranh cách mạng của các dân tộc Tây Nguyên trước
năm 1975;
Thứ tư, quá trình nhận thức của Đảng về vấn đề dân tộc và thực hiện CSDT ở
Việt Nam từ năm 1930, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay;
Thứ năm, một số vấn đề mới về quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và
Đắk Lắk nói riêng;
Thứ sáu, một số kết quả thực hiện các CSDT trên địa bàn Tây Nguyên, trong đó
có tỉnh Đắk Lắk.
Thứ bảy, những thách thức, rào cản trong thực hiện CSDT ở Đắk Lắk.
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã cung cấp những tư liệu, những
luận cứ quan trọng để luận án kế thừa giải quyết những nhiệm vụ đặt ra. Như vậy, đã
có nhiều công trình khoa học thuộc nhiều thể loại khác nhau: Sách chuyên khảo, đề
tài, bài viết tạp chí, luận văn, luận án, ngoài ra còn có hệ thống văn bản, chỉ thị, nghị
21
quyết của Đảng về vấn đề dân tộc và CSDT. Một số công trình nghiên cứu về quá
trình thực hiện CSDT ở các địa phương, vùng và cả nước, được tiếp cận dưới nhiều
góc độ khoa học khác nhau.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống
quá trình Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo thực hiện CSDT theo tinh thần và nội dung
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc,
từ năm 2003 đến năm 2015.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận án, tác giả tập trung nghiên cứu giải quyết một số
vấn đề sau:
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình nhận thức, hoàn thiện quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc.
- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk vận dụng chủ trương của Trung
ương Đảng về CSDT vào thực tiễn địa phương từ năm 2003 đến năm 2015.
- Nêu lên những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong nhận thức và thực
hiện CSDT ở Đắk Lắk giai đoạn 2003-2015.
- Đúc kết một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk trong quá trình lãnh
đạo thực hiện CSDT giai đoạn 2003-2015.
22
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK
TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2010
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC Ở TỈNH ĐẮK LẮK
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk tác động đến
việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Ngày 26-11-2003, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã thông qua
Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia tách tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk
và Đắk Nông.
Đắk Lắk sau khi chia tách tỉnh có diện tích tự nhiên 1.302.620 ha, với dân số là
1.666.854 người, mật độ dân số 124,61 người/km2, có 42 dân tộc cùng sinh sống.
Người Kinh chiếm 70,5%; các DTTS chiếm 29,5% [10, tr.176]. Có đường biên giới
dài 73 km giáp tỉnh Mondulkiri (Campuchia). Tỉnh có 13 đơn vị hành chính cấp
huyện, gồm thành phố Buôn Ma Thuột, huyện Krông Búk, Ea Kar, Krông Ana, Ea
Súp, Buôn Đôn, Lắk, M'Đrắk, Krông Pắk, Ea H'Leo, Krông Bông, Cư M'Gar, Krông
Năng (sau đó chia tách thêm 2 đơn vị: Huyện Cư Kuin thành lập theo Nghị định
137/2007/NĐ-CP và Thị xã Buôn Hồ thành lập theo Nghị định 07/2008/NĐ-CP của Chính
phủ), với 165 đơn vị hành chính cấp xã, 2.129 thôn, buôn, tổ dân phố [4, tr.358-359],
[Phụ lục 1].
Đắk Lắk có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị và an ninh quốc
phòng không chỉ đối với Tây Nguyên mà đối với cả nước. Đắk Lắk có hệ thống giao
thông tương đối phát triển, gồm nhiều tuyến đường bộ quan trọng. Từ Đắk Lắk có thể
kiểm soát và khống chế toàn bộ Tây Nguyên, án ngữ các tuyến đường xuyên Việt từ
Kon Tum - Plei Ku qua Đắk Lắk xuống miền Tây Nam Bộ (Quốc lộ 14), từ cao
nguyên Đắk Lắk xuống dải đất ven biển Nam Trung Bộ, từ ven biển Trung Bộ qua
Đắk Lắk sang các nước Lào và Campuchia (Quốc lộ 26, 27). Với vị trí và hệ thống
đường giao thông trên, Đắk Lắk không quá cách xa các thành phố lớn và cảng biển để
phát triển kinh tế - xã hội.
23
Đắk Lắk có địa hình đa dạng, tài nguyên đất, rừng phong phú. Độ cao trung bình từ
500-800 m so với mặt biển, địa hình tương đối bằng phẳng, có hướng thấp dần từ Đông
Nam sang Tây Bắc. Ở giữa tỉnh có cao nguyên Buôn Ma Thuột trải dài từ Bắc xuống
Nam trên 90 km, từ Đông sang Tây khoảng 70 km, bề mặt có dạng đồi lượn sóng, nhưng
khá bằng phẳng, độ dốc từ 3-15o. Bề mặt cao nguyên Buôn Ma Thuột là kết quả của
phun trào núi lửa phủ lên bề mặt lớp phiến thạch mi-ca và sa phiến thạch bị phong hóa,
tạo nên một lớp đất màu mỡ, rất thích hợp cho việc phát triển cây công nghiệp. Phía Nam
có nhiều đồng trũng và đầm hồ dọc theo các con sông chính như Krông Ana, Krông Nô.
Phía Đông Bắc và Đông Nam bao gồm các dãy núi cao trên 1.000m, tạo nên biên giới
khí hậu giữa duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Trong đó lớn nhất là vùng núi Chư
Yang Sin nằm ở phía Đông Nam, ngăn cách giữa cao nguyên Buôn Ma Thuột với cao
nguyên Lâm Viên, có đỉnh Chư Yang Sin cao 2.445 m.
Địa hình phức tạp cùng với khác biệt về khí hậu tạo ra nhiều vùng sinh thái
khác nhau ở Đắk Lắk, có điều kiện để đa dạng hóa nông nghiệp và lâm nghiệp; song
cũng có nhiều hiện tượng bất lợi như xói mòn đất, rửa trôi, sụt lở đất đá…
Đất đai tự nhiên của tỉnh Đắk Lắk, được chia thành 11 nhóm chính và 84 đơn vị
đất đai, tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp (dễ khai thác, chi phí đầu tư cải tạo
thấp, độ an toàn sinh thái cao). Đặc biệt, Đắk Lắk có nhóm đất đỏ bazan với diện tích
324.679 ha, chiếm 24,81% diện tích tự nhiên, phần lớn nằm trên địa hình tương đối
bằng phẳng phù hợp cho phát triển cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao
như cà phê, ca cao, cao su, tiêu… Ngoài ra còn có nhiều loại đất khác thích hợp với
các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, một số cây lâu năm và lúa nước.
Tỉnh Đắk Lắk gồm nhiều tiểu vùng khí hậu, vừa mang tính chất cao nguyên
nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Khí hậu chia
thành hai mùa rõ rệt: Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, khí hậu
mát và lạnh, độ ẩm thấp, thường có gió cao nguyên từ cấp 4 đến cấp 6; Mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hằng năm, khí hậu ẩm và dịu mát,
hầu như không có bão nên không gây ảnh hưởng đối với các cây trồng lâu năm và
hoa màu ngắn ngày.
Khí hậu Đắk Lắk có nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt trời và tổng nhiệt độ cao, là
điều kiện hình thành và phát triển một nền nông nghiệp với năng suất và chất lượng
cao với các sản phẩm đặc trưng như cà phê, cao su, hồ tiêu, bông và nhiều cây lương
24
thực, thực phẩm có giá trị khác. Tuy nhiên, do phân hóa hai mùa khắc nghiệt nên
luôn phải chú ý đến việc giữ nước chống hạn vào mùa khô. Đặc biệt, trong những
năm gần đây, do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi biến đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt là
hiện tượng El Nino, mùa khô ở Đắk Lắk có xu hướng kéo dài, mùa mưa kết thúc
sớm, lượng mưa giảm nên xảy ra khô hạn, số giờ nắng và nhiệt độ trung bình trong
năm cũng có xu hướng tăng; thiên tai do lũ, ngập úng, sạt lở đất, hạn hán, giông lốc
diễn biến ngày càng phức tạp và nghiêm trọng.
Tài nguyên rừng: Tính đến năm 2005, diện tích đất lâm nghiệp của Đắk Lắk
có khoảng 618,2 nghìn ha. Tổng trữ lượng rừng khoảng 59 - 60 triệu m3 [149,
tr.11]. Rừng Đắk Lắk có nhiều loại gỗ, cây dược liệu, trong đó có một số loại gỗ
quý như cẩm lai, trắc, lim, sến, táu… và nhiều loại lâm thổ sản khác; nhiều loài
động vật quý hiếm, phân bố chủ yếu ở vườn quốc gia Yok Đôn, khu bảo tồn Nam
Kar, Chư Yang Sin. Rừng Đắk Lắk nằm ở thượng lưu các sông suối lớn nên có vai
trò quan trọng phòng hộ và bảo vệ nguồn sinh thủy không những cho tỉnh mà còn
cho cả khu vực.
Đắk Lắk là địa phương có diện tích rừng rộng lớn và phong phú nhất cả nước
với thảm thực vật đa dạng, chất đất màu mỡ, có nguồn lợi kinh tế cao.
Diện tích rừng ở Đắk Lắk có xu hướng giảm mạnh cả về số lượng và chất
lượng. Trong vòng 9 năm (1995-2004), diện tích rừng giảm 77,9 nghìn ha, trung bình
mỗi năm giảm 8,7 nghìn ha. Nguyên nhân chủ yếu là sự gia tăng dân số tự nhiên và
đặc biệt là tình trạng di dân ngoài kế hoạch vào Đắk Lắk hằng năm rất lớn, dẫn đến
nhu cầu về đất sản xuất tăng cao.
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Đắk Lắk là địa bàn có sự đa dạng về thành phần dân cư và dân tộc nhất cả nước
Sau năm 1975, Đắk Lắk là một trong những vùng trọng điểm phân bổ lực
lượng lao động và dân cư trong cả nước. Ngoài việc tiếp nhận hàng chục nghìn hộ
dân đến xây dựng kinh tế theo kế hoạch, Đắk Lắk là nơi thu hút mạnh mẽ luồng
DCTD đến, chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc. Từ năm 1976 đến 2004, có 57.995 hộ,
282.230 khẩu đã DCTD đến Đắk Lắk [60, tr.1-2], [Phụ lục 6].
Năm 2005, dân số Đắk Lắk là 1.710.000 người (chiếm 36,3% dân số vùng Tây
Nguyên), với 44 dân tộc, tăng gần gấp 5 lần so với năm 1975, bao gồm ba bộ phận
dân cư: Dân tộc Kinh, DTTS tại chỗ và DTTS khác.
25
72
11,2
16,6
Dân tộc Kinh
DTTS khác
DTTS tại chỗ
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ các nhóm dân cư tỉnh Đắk Lắk năm 2005
Nguồn: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk [60]
Ba khối dân cư có trình độ phát triển kinh tế - xã hội tự thân khác nhau. Dân tộc
Kinh chiếm đông nhất, 72% dân số (năm 2005). Người Kinh có truyền thống thâm
canh, định canh, trình độ phát triển kinh tế, xã hội cao, đời sống từ ổn định đến khá
giả, tỉ lệ hộ nghèo đói thấp, khoảng 5%, là lực lượng quyết định sự phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh.
Khối DTTS khác từ các tỉnh phía Bắc đến có 180.644 người, chiếm khoảng
11,2% dân số, chủ yếu là dân tộc Tày, Nùng, Hmông… di cư đến từ sau năm 1980.
Do có trình độ phát triển kinh tế xã hội tự thân tương đối cao, lại có truyền thống
thâm canh lâu đời nên phần lớn người dân đã có cuộc sống ổn định từ đủ ăn đến khá
giả, một bộ phận nhỏ do di cư vào sau, không có đất canh tác nên cuộc sống còn khó
khăn, tỉ lệ hộ nghèo đói khoảng 20%. Tuy nhiên, họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất
nông nghiệp, có tư duy kinh tế hàng hóa khá phát triển.
Tỉnh Đắk Lắk có 10 DTTS tại chỗ thuộc 2 hệ ngôn ngữ Môn - Khơ-me (Nam
Á) và Malayo - Polinesien (Nam Đảo). Người DTTS tại chỗ, chiếm khoảng 18,9%
dân số, cư trú ở hầu khắp các huyện và thành phố Buôn Ma Thuột.
Các dân tộc tại chỗ có trình độ phát triển kinh tế - xã hội tự thân thấp, sản xuất
mang tính tự nhiên, tự cung tự cấp, dựa trên một nền sản xuất nông nghiệp nương
rẫy. Trình độ dân trí thấp nên khả năng tiếp thu khoa học, kỹ thuật, tiếp thu cái mới
còn nhiều hạn chế. Phong tục tập quán lạc hậu còn phổ biến. Các tập tục cổ hủ
mang yếu tố tự ti, biệt lập, khép kín của các công xã thị tộc và có giá trị như luật
pháp của từng buôn làng… đã kìm hãm trí tuệ con người, không thích thay đổi,
chậm tiếp thu cái mới.
26
Đắk Lắk - Tây Nguyên là vùng đất đa dân tộc, đa văn hóa với nhiều nét văn
hóa đặc trưng, mang sắc thái của nhiều vùng miền khác nhau trong cả nước. Các
DTTS ở Đắk Lắk có bản sắc văn hóa phong phú và độc đáo, là nơi lưu giữ được
nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, có giá trị lịch sử và thẩm mỹ độc đáo như
nhà rông, nhà dài, đàn đá, tượng nhà mồ, các lễ hội văn hóa và một kho tàng văn học
dân gian được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Một trong những di sản nổi tiếng là
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO (2005), công nhận
là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Một số dân tộc như Ê-đê,
Mnông, Gia-rai có bộ chữ viết khá sớm.
Cộng đồng các dân tộc ở Đắk Lắk cũng như cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
có truyền thống đoàn kết đấu tranh chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống. Số
dân và trình độ phát triển kinh tế - văn hóa giữa các dân tộc có sự chênh lệch nhau.
Các dân tộc ở Đắk Lắk cũng có những quan hệ thân tộc, thích tộc và những quan hệ
xuyên biên giới khác. Những đặc điểm nói trên phản ánh tính chất quan trọng và
phức tạp của vấn đề dân tộc ở Đắk Lắk.
Những tác động của di cư tự do
Một trong những vấn đề lớn của Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng là
tăng dân số tự nhiên và cơ học rất cao. Do có điều kiện thuận lợi về đất đai và khí hậu
nên Đắk Lắk đã thu hút một lượng lớn dân di cư đến làm ăn, sinh sống. Số dân
DCTD đến một cách ồ ạt không thể kiểm soát, nhiều nhất là giai đoạn từ 1990-2002.
Dân DCTD chủ yếu là đồng bào DTTS như Tày, Nùng, Mường, Dao... thuộc các tỉnh
trung du và miền núi phía Bắc. Theo thống kê của UBND tỉnh Đắk Lắk, từ năm 1976
đến 2014, số dân di cư ngoài kế hoạch đến là 59.524 hộ, với 289.915 khẩu của 63
tỉnh thành trong cả nước đến cư trú [60, tr.1].
Trong đó, từ năm 2004 đến năm 2014, có 1.529 hộ, với 7.685 khẩu của 38
tỉnh, thành di cư đến Đắk Lắk; trong đó người DTTS có 1.463 hộ, 7.484 khẩu
(riêng dân tộc Hmông chiếm 81%, với 1.230 hộ, 6.408 khẩu) [60, tr.2-3].
Về tác động tích cực: DCTD đã bổ sung cho tỉnh lực lượng lao động đáng kể
nhằm khai thác tiềm năng đất đai, phát triển sản xuất nông nghiệp; tạo thuận lợi cho
các DTTS tại chỗ trao đổi kinh nghiệm sản xuất, phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa;
tạo thuận lợi cho nhiệm vụ phân bố lại dân cư vùng biên giới, góp phần củng cố
HTCT cơ sở, bảo vệ an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
27
Về tác động tiêu cực: DCTD làm phá vỡ quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội chung của tỉnh và địa phương; nảy sinh nạn phá rừng, lấn chiếm, sang
nhượng đất đai trái pháp luật. Tình trạng mất an ninh trật tự thường xuyên xảy ra; do
thiếu đất sản xuất nên tỉ lệ hộ nghèo không giảm mà có xu hướng tăng; số trẻ trong
độ tuổi không được đến trường tăng; các chỉ tiêu đầu tư phát triển hằng năm của tỉnh
và các địa phương có dân DCTD đến không đạt kế hoạch. Áp lực gánh nặng về ngân
sách đối với tỉnh nghèo như Đắk Lắk để bố trí đầu tư hạ tầng cơ sở, cũng như xây
dựng HTCT ở cơ sở [170, tr.7].
Dân DCTD đến Đắk Lắk tập trung sinh sống tại địa bàn vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn, đã làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và gây khó khăn cho
công tác quản lý, sắp xếp dân cư tại địa phương.
Dân số tăng nhanh đã làm cho diện tích canh tác bị thu hẹp, sản lượng trên một
đơn vị diện tích lúa rẫy bị suy giảm dẫn đến tình trạng thiếu lương thực. Ở Đắk Lắk,
các DTTS tại chỗ có truyền thống canh tác nương rẫy. Chu trình luân chuyển đất
canh tác kéo dài từ 20-25 năm. Hiện nay, do di dân đến quá lớn, thiếu đất sản xuất,
thời gian hưu canh bị rút ngắn chỉ còn khoảng 3-5 năm. Vì vậy, năng suất lúa nương
giảm từ 2,5 tấn/ha (năm 1976) xuống còn khoảng 1,5 tấn/ha năm 2003. Do đó, để duy
trì sản lượng lương thực, bảo đảm cuộc sống (cho cả việc duy trì năng suất và bù vào
diện tích canh tác giảm đi), đồng bào phải phát đốt rừng một diện tích gieo trồng gấp
10 lần so với trước [86, tr. 71].
Phân hóa xã hội diễn ra sâu sắc
Trong 3 bộ phận dân cư, người Kinh và các DTTS miền núi phía Bắc tuy đến
Tây Nguyên muộn hơn nhưng đời sống đã ổn định và khá giả, trong khi đó đời sống
của các dân tộc tại chỗ vẫn khó khăn.
Năm 2004, toàn tỉnh Đắk Lắk có 1.428 thôn, 525 buôn, 43.646 hộ đồng bào
DTTS tại chỗ, với hơn 322 nghìn khẩu, chiếm 19% dân số toàn tỉnh. Diện tích đất sản
xuất ổn định là 72.395 ha, bằng 16% diện tích đất nông nghiệp toàn tỉnh, bình quân
đất sản xuất một khẩu là 0,22 ha. Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2 triệu
đồng; tỉ lệ hộ đói nghèo chiếm 30% so với tổng số hộ DTTS tại chỗ. Hệ thống thủy
lợi mới chỉ đáp ứng 40% diện tích cây trồng được tưới nước; giao thông đi lại khó
khăn; có 365 buôn thuộc 72 xã chưa có điện; tỉ lệ hộ dùng nước sạch hợp vệ sinh mới
đạt 70%. Số hộ thiếu đất ở, đất sản xuất là 24.161 hộ (chiếm 55,3% số hộ DTTS tại
28
chỗ); có 17% hộ chưa có nhà ở. Tỉ lệ hộ dùng điện mới đạt 48%; mạng lưới y tế thôn,
buôn còn nhiều khó khăn [121, tr.1].
Theo tiêu chí nghèo mới năm 2005 (Hộ nghèo nông thôn có mức thu nhập từ
200.000 VND/tháng trở xuống (theo Chuẩn nghèo giai đoạn 2005-2010), toàn tỉnh có
90.247 hộ nghèo, chiếm 27,5% tổng số hộ, trong đó, hộ nghèo DTTS 47.300 hộ,
chiếm 53% tổng số hộ nghèo và 56% tổng số hộ DTTS tại chỗ. Các huyện có tỉ lệ hộ
nghèo cao là Ea Súp 50%, Lắk 49,5%, Buôn Đôn 47%. Năm 2005, toàn tỉnh có
51.500 hộ thiếu lượng thực, chủ yếu là hộ đồng bào DTTS tại chỗ.
Tuy tốc độ phát triển kinh tế và kết quả giảm nghèo nhanh, nhưng Đắk Lắk vẫn là
tỉnh nghèo. Nghèo đói tập trung chủ yếu ở các hộ DTTS, nhất là DTTS tại chỗ, trong
mọi thời điểm, tỉ lệ hộ nghèo DTTS đều cao gấp hơn hai lần so với tỉ lệ hộ nghèo
chung toàn vùng và cao hơn 3 lần so với tỉ lệ hộ nghèo chung cả nước [69, tr.50].
Những số liệu thống kê của tỉnh Đắk Lắk cho thấy tình hình đói nghèo vẫn
ở mức cao, tốc độ giảm không có sự đồng đều giữa các huyện trên địa bàn. Câu
hỏi đặt ra ở đây: Ai là người nghèo của tỉnh Đắk Lắk? Nghiên cứu của Nguyễn
Đình Hòa, Đặng Hoàng Giang (2013) tính toán từ các số liệu Điều tra mức sống
dân cư năm 2010 cho thấy thu nhập của nhóm dân tộc Kinh là 1324,98 nghìn
đồng/tháng; nhóm dân tộc mới đến là 794,17 nghìn đồng. Thu nhập trung bình
của nhóm dân tộc mới đến và nhóm dân tộc tại chỗ chỉ bằng 73% và 48% so với
dân tộc Kinh. Do thu nhập thấp và có sự chênh lệch giữa các nhóm dân tộc nên
dẫn đến sự chênh lệch trong mức chi tiêu. Chi tiêu của nhóm dân tộc Kinh đạt
1.193,4 nghìn đồng/người/tháng, cao hơn 1,6 lần so với nhóm dân tộc mới đến
(721,9 nghìn đồng) và gần 3 lần so với nhóm dân tộc tại chỗ (425,5 nghìn đồng).
Như vậy, dựa trên tiêu chí thu nhập cho thấy, nhóm DTTS, nhất là nhóm dân
tộc tại chỗ, dường như là những đối tượng nghèo của Đắk Lắk nói riêng, vùng Tây
Nguyên nói chung. Theo Bùi Quang Tuấn (2015), tỉ lệ hộ nghèo của dân tộc Kinh,
nhóm các dân tộc mới đến, nhóm các dân tộc tại chỗ lần lượt là 7,51%; 24,58% và
37,02%; theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, tỉ lệ nghèo của các nhóm tương ứng
như sau: 11,5%; 32,44% và 52,08%. Độ sâu nghèo đói biểu thị tổng thể các nguồn
lực cần thiết để nâng các hộ nghèo lên mức chuẩn nghèo; nhóm dân tộc tại chỗ có độ
sâu nghèo đói (theo chuẩn nghèo năm 2010) với 0,078; tiếp theo là nhóm dân tộc mới
đến (0,06) và thấp nhất là dân tộc Kinh (0,015).
29
Rõ ràng, đói nghèo đã và đang là một trong những thách thức đối với quá trình
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Tây Nguyên. Để giải quyết đói nghèo
cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ và sự tham gia của nhiều chủ thể, tuy nhiên, vấn
đề này vẫn còn nhiều hạn chế.
Vấn đề đất đai
Việc chưa thận thức đầy đủ khác biệt giữa sở hữu, quản lý đất đai toàn dân với sở
hữu, quản lý đất đai tập thể của buôn làng dân tộc tại chỗ đã dẫn đến một số bất cập,
mâu thuẫn về quản lý, sở hữu đất đai ở Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng.
Thứ nhất, phổ biến tình trạng nông - lâm trường dựa vào quyền sở hữu toàn
dân, trưng dụng đất sản xuất hưu canh thuộc quyền quản lý của các DTTS tại chỗ.
Chính sách di dân và phát triển nông - lâm trường với tốc độ nhanh và trên quy mô
lớn, một mặt thúc đẩy kinh tế Đắk Lắk phát triển, nhưng mặt khác nảy sinh mâu
thuẫn với truyền thống sở hữu, quản lý và sử dụng của các DTTS tại chỗ, làm phát
sinh tình trạng mất đất, mất rừng, mất không gian sinh tồn, mất không gian xã hội
buôn làng, thiếu đất sản xuất nảy sinh tình trạng mua bán, tranh chấp, khiếu kiện đất
đai, đoàn kết Kinh - Thượng rạn nứt, niềm tin với chế độ suy giảm, là nguyên nhân
chính yếu làm cho các mối quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk phức tạp và xấu đi.
Thứ hai, quá trình công nhân hóa, rồi lại đưa đồng bào ra khỏi nông lâm trường,
cũng như quá trình hợp tác hóa nông nghiệp rồi lại giải thể hợp tác xã nông nghiệp
(người vào - đất vào, người ra - đất ở lại) đã dẫn đến người dân mất đi phần đất rẫy
hưu canh hoặc đất ruộng nước quan trọng vốn có của mình;
Thứ ba, trong khi người DTTS tại chỗ thiếu đất sản xuất, các nông trường lại
giao đất cho hộ công nhân người Kinh trồng cây công nghiệp lâu năm để thu sản
phẩm nông nghiệp khiến người dân tại chỗ bất bình;
Thứ tư, do thiếu hiểu biết về phương cách sử dụng đất rừng truyền thống, lại do
lợi dụng tính cách chân thật và chưa biết tính toán của người dân Đắk Lắk, một bộ
phận người Kinh đã tìm cách mua rẻ, hoặc lừa gạt lấn chiếm đất đai của người dân
tộc tại chỗ; tình trạng cán bộ người Kinh lợi dụng chức quyền, mượn danh luật đất
đai, mượn danh dự án để hợp thức hóa cho mình quyền sử dụng đất canh tác của
người DTTS tại chỗ;
Thứ năm, sự phát triển của hàng chục dự án thủy điện, dự án nông - lâm nghiệp
trên khắp Đắk Lắk (Đến tháng 4-2012, tỉnh Đắk Lắk đã thu hồi 28 dự án, với gần
30
20.000 ha đất rừng) do quy hoạch không hợp lý, mượn danh nhà nước, mượn danh
luật đất đai khiến hàng nghìn hộ dân tộc tại chỗ mất đất, mất sinh kế và mai một nền
văn hóa. Đầu năm 2004, tổng số hộ người DTTS ở tỉnh Đắk Lắk thiếu đất ở và đất
sản xuất là 28.523, với nhu cầu là 13.770,89 ha [Phụ lục 5].
Tất cả những mâu thuẫn, bất cập nói trên đã dẫn đến tình trạng tranh chấp và
khiếu kiện đất đai ngày càng nhiều và kéo dài, lên đến hàng nghìn vụ giữa các cộng
đồng tại chỗ với nông - lâm trường, với chính quyền địa phương, giữa cá nhân người
DTTS với cá nhân người dân tộc Kinh.
Sự mai một, đứt gãy và khủng hoảng văn hóa truyền thống
Văn hóa các tộc người thiểu số ở Đắk Lắk và văn hóa của người Kinh có sự
giao thoa mạnh mẽ trên nhiều bình diện: ngôn ngữ, trang phục, kiến trúc, lối sống…
Đồng thời, đó cũng là quá trình các tộc người Tây Nguyên và người Kinh có sự hiểu
biết lẫn nhau ngày càng sâu sắc hơn. Tuy nhiên hiện nay, vấn đề bảo tồn, phát huy
bản sắc văn hóa các dân tộc ở Đắk Lắk trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu. Sự tiếp xúc với văn hóa của người Kinh và
văn hóa quốc tế thông qua người Kinh hoặc trực tiếp, trong nhiều thập kỷ qua đã
làm cho nhiều giá trị văn hóa cổ truyền của các DTTS tại chỗ ở Đắk Lắk đứng trước
những thách thức lớn, bị mai một và có nguy cơ mất đi bản sắc của mình. Nhà dài
truyền thống bị mất dần, thay vào đó là những ngôi nhà xây kiên cố; lễ hội truyền
thống không được tổ chức như trước, do phương thức canh tác thay đổi (từ làm lúa
nương rẫy luân khoảnh, hưu canh chuyển sang trồng cây công nghiệp tập trung).
Không gian buôn làng bị thu hẹp dần làm ảnh hưởng đến không gian lễ hội và
không gian văn hóa cồng chiêng. Nhiều hộ đã bán đi những bộ chiêng quý, ché cổ,
kpan… để mua công cụ sản xuất và phương tiện sinh hoạt; lớp trẻ lớn lên chưa thực
sự yêu thích nền văn hóa truyền thống của ông cha, đua đòi chạy theo văn hóa của
nước ngoài mới du nhập; nghệ nhân - trí thức dân gian ngày càng ít trong khi chưa
kịp truyền dạy vốn văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ. Một số nghề thủ công
truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát, gốm, tạc tượng không còn phù hợp với xã hội
hiện đại, và ít được quan tâm đầu tư để bảo tồn. Văn hóa kể (sử thi, truyện kể dân
gian, dân vũ…) ngày càng thưa vắng trong các buôn làng. Bến nước cộng đồng bị
bỏ quên; vai trò già làng, chủ bến nước, luật tục bị phai mờ trong đời sống văn hóa
buôn làng ở Đắk Lắk.
31
Mất rừng, mất nương rẫy, cơ cấu dân cư bị đảo lộn do DCTD làm cho người
DTTS "ngơ ngác" giữa quê hương mình, và hệ quả tất yếu là văn hóa “đứt gãy” và đổ
vỡ. Hiện nay, văn hóa truyền thống đích thực Tây Nguyên hầu như không còn tồn tại.
Văn hóa cũ mất đi, nhưng văn hóa mới chưa phù hợp hoặc chưa đủ mạnh để
thay thế, dẫn đến hai hệ quả đáng báo động: Một là, hình thành trong thanh thiếu niên
những biểu hiện văn hóa lai căng phản cảm; Hai là, sự du nhập và phát triển ngày
càng mạnh mẽ, phổ biến của các tôn giáo mới, đặc biệt là đạo Tin lành, trong đó có
"Tin lành Đề Ga".
Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng
Tác động của hội nhập và toàn cầu hóa làm cho mối quan hệ dân tộc trong
những quốc gia đa dân tộc tiếp tục phức tạp và căng thẳng. Hiện tượng “hồi sinh ý
thức tộc người” xuất hiện từ những thập niên cuối thế kỷ XX tiếp tục gia tăng mà
khẩu hiệu là đòi quyền tự quyết dân tộc, quyền tự do tôn giáo và quyền làm chủ với
lãnh thổ cư trú. Xung đột dân tộc và tôn giáo tiếp tục diễn ra mạnh mẽ ở các quốc gia
đa dân tộc trên thế giới và trong khu vực, điển hình là ở Cộng hòa Liên bang Nga,
Nam Tư, Ấn Độ, Pakistan, Myanma, Anbani, Inđônêxia, Philippin, Thái Lan… [69].
Tỉnh Đắk Lắk có 4 tôn giáo là Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài; với
273 cơ sở thờ tự, 567 chức sắc, 332 tu sỹ phục vụ khoảng 530.000 tín đồ (Công giáo:
210.628; Phật giáo: 155.000; Tin lành: 159.000; Cao đài: 5.200), chiếm 26% dân số
toàn tỉnh. Riêng tín đồ là đồng bào DTTS có khoảng 217.500 người [149, tr.3]. Hoạt
động lợi dụng tôn giáo của thế lực thù địch đã ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định và
phát triển của tỉnh Đắk Lắk - Tây Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung, làm
suy giảm lòng tin và niềm tin của người dân tại chỗ với Đảng và Nhà nước, gây tâm
lý bất an, thụ động trong xây dựng cuộc sống mới của người dân.
Tại Đắk Lắk - Tây Nguyên, lực lượng FULRO Thượng là tổ chức chính trị phản
động đã bị xóa bỏ, nhưng trong thực tế, tàn dư và ảnh hưởng của tổ chức này vẫn
còn. Từ sau năm 1990, một số tàn quân FULRO tiếp tục sống lưu vong trên đất
Campuchia và Mỹ. Được sự cổ vũ của phong trào đòi ly khai dân tộc đang diễn ra
trên thế giới, lực lượng FULRO lưu vong ráo riết hoạt động tích cực trở lại. Đặc biệt
từ năm 2000, một số tàn quân FULRO tại Mỹ là người DTTS tại chỗ Tây Nguyên đã
thành lập cái gọi là "Nhà nước Đề Ga" và hệ phái "Tin lành Đề Ga", tiếp tục giương
32
chiêu bài "Tây Nguyên độc lập" và "Tây Nguyên tự trị" để thực hiện âm mưu diễn
biến hòa bình, chống phá cách mạng Việt Nam, chia rẽ Kinh - Thượng.
Hoạt động của thiết chế tổ chức Tin lành cùng các sinh hoạt của các giáo đoàn
thanh niên, phụ nữ, người già và thiếu niên đã tác động đến hoạt động của các đoàn
thể chính trị tương ứng, vô hình chung dẫn đến tình trạng "hai chính quyền" ở các
buôn làng có đạo. Có tình trạng các giáo đoàn ngấm ngầm tranh giành ảnh hưởng với
các đoàn thể chính trị - xã hội. Sinh hoạt của các giáo đoàn thu hút Nhân dân hơn so
với sinh hoạt của các đoàn thể chính trị - xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
của HTCT tại địa phương. Nếu không có những biện pháp phù hợp kịp thời, dù tự
giác hay tự phát, tổ chức và sinh hoạt của đạo Tin lành sẽ cản trở hoạt động của các
đoàn thể chính trị - xã hội, là môi trường thuận lợi để "Tin lành Đề Ga" được củng cố,
tiếp tục chia rẽ đoàn kết dân tộc.
Trong những năm 2001-2005, trên địa bàn Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk
Lắk nói tiêng, tình hình an ninh chính trị diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch và
bọn phản động đẩy mạnh các hoạt động chống phá trên nhiều lĩnh vực. Ngay từ cuối
năm 2000, được các thế lực phản động, thù địch bên ngoài trợ giúp, hậu thuẫn, các
phần tử cầm đầu FULRO lưu vong tăng cường hoạt động móc nối, lôi kéo, tập hợp
lực lượng, phục hồi tổ chức FULRO với ý đồ thành lập “Nhà nước Đề Ga tự trị” ở
Tây Nguyên do Ksor Kơk cầm đầu. Chúng liên tục kích động Nhân dân, tổ chức lôi
kéo quần chúng theo Tin lành Đề Ga, chúng đã mua chuộc, dụ dỗ, đe dọa và kích
động một số đồng bào DTTS gây ra cuộc bạo loạn chính trị vào đầu tháng 2-2001 và
tháng 4-2004 tại thành phố Buôn Ma Thuột.
Khai thác những mâu thuẫn trong quan hệ dân tộc, tổ chức phản động FULRO
trong và ngoài nước có sự hỗ trợ từ bên ngoài đã lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc,
vấn đề nhân quyền, ra sức tuyên truyền lôi kéo quần chúng các DTTS tại chỗ đòi ly
khai khỏi Việt Nam, đòi thành lập cái gọi là "Nhà nước Đề Ga" của người Tây
Nguyên", làm cho an ninh chính trị ở Đắk Lắk - Tây Nguyên diễn biến phức tạp.
Hệ thống chính trị cơ sở còn nhiều hạn chế, yếu kém
Hệ thống chính trị nhiều nơi ở cơ sở còn yếu, không làm tròn chức năng nhiệm vụ,
không nắm được tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, không quản lý và xử lý được các
hoạt động trái luật, nhất là hoạt động tôn giáo trái phép ở các buôn. Việc giải quyết các
vấn đề có liên quan đến đồng bào DTTS ở một số ngành, một số địa phương chưa sâu
sắc, do đó trong phương pháp giải quyết có vấn đề chưa thỏa đáng, nhất là các vụ tranh
33
chấp, khiếu kiện có liên quan đến đồng bào DTTS, gây nên tâm lý không tốt trong đồng
bào, đó cũng là kẽ hở để các phần tử phản động lợi dụng kích động [4, tr.341].
Công tác dân vận trong một thời gian dài chưa được quan tâm đúng mức, tác
phong làm việc và cả trong lối sống của một bộ phận cán bộ còn quan liêu, xa dân,
không nắm được tâm tư nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Công tác giáo dục
chính trị tư tưởng trong Nhân dân còn yếu, ít được quan tâm, nhất là vận động xây
dựng khối đoàn kết dân tộc, tương trợ cùng phát triển kinh tế gia đình và xã hội;
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với dân, người dân thiếu
kiến thức, lại thiếu thông tin, thiếu sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, hướng dẫn
của chính quyền… Việc kiểm tra, giám sát, chưa thường xuyên, thiếu liên tục nên
hiệu quả chính sách không cao.
…việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể
Nhân dân các cấp từ Trung ương đến cơ sở đã có một thời gian dài chủ quan,
mất cảnh giác, quan liêu, xa dân; chưa thấy hết những mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng này, nhất là những vấn đề
liên quan đến đất đai; chưa quan tâm giải quyết kịp thời chính sách đối với
đồng bào các dân tộc thiểu số [44, tr.2].
2.1.2. Thực trạng tỉnh Đắk Lắk thực hiện chính sách dân tộc trước khi
tách tỉnh
2.1.2.1. Chủ trương và quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở Đắk Lắk từ
năm 1986 đến năm 2003
Phát huy truyền thống đoàn kết của Nhân dân các DTTS qua hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi
mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đề ra đường lối chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng XHCN. Đảng xác định, CSDT luôn là
một bộ phận trọng yếu trong chính sách xã hội của Đảng và chỉ rõ con đường phát
triển các dân tộc cùng với mối quan hệ giữa các dân tộc.
Việc thực hiện CSDT phải gắn với sự phát triển tổng thể nền kinh tế - xã hội của
đất nước, với kế hoạch 5 năm cũng như kế hoạch hàng năm là một cách nhìn nhận mới,
34
một tư duy mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội VI của Đảng chỉ rõ, việc phát
triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đông đồng bào các DTTS, cần thể hiện đầy đủ
CSDT, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết,
bình đẳng, giúp đỡ nhau, cùng làm chủ tập thể. Về chính sách, phải "kết hợp phát triển
kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm lo đời sống con người, kể cả
những người từ nơi khác đến và người dân tại chỗ" và "Thực hành những hình thức,
biện pháp thích hợp thu hút đồng bào các dân tộc tại chỗ tham gia vào quá trình phát
triển kinh tế với tư cách là người làm chủ thực sự bình đẳng" [40, tr.97-98].
Đại hội VI đã mở ra bước ngoặt lịch sử phát triển đất nước nói chung, vùng
DTTS nói riêng. Trong đó, việc đổi mới và thực hiện CSDT đáp ứng với tình hình lúc
bấy giờ là vô cùng cấp bách đối với vùng DTTS, trong đó có đồng bào các dân tộc tại
tỉnh Đắk Lắk.
Nghị quyết số 10/NQ-TW, ngày 05-04-1988 của Trung ương Đảng đã thừa
nhận kinh tế hộ gia đình và chính sách khoán trong sản xuất nông nghiệp. Nghị quyết
10 đã thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển năng động, chuyển đổi dần cơ cấu sản
xuất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng dần chất lượng
và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi phương thức
hoạt động của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất lại vấp phải những khó khăn, cản trở do
cơ chế kinh tế chưa đồng bộ. Do đó, phần lớn hợp tác xã tan rã và ở tình trạng yếu
kém, để lại nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội, trong đó tranh chấp đất đai ngày càng
phức tạp, là vấn đề nổi cộm của CSDT.
Việc định canh, định cư được tiến hành bằng phương thức đưa đồng bào tại chỗ
tham gia vào lao động sản xuất trong các nông lâm trường. Năm 1988, tại Đắk Lắk đã
có 43 buôn được chuyển vào tham gia lao động sản xuất trong các nông - lâm trường
quốc doanh.
Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi với
những kết quả và hạn chế, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 27-11-
1989, Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Đắk Lắk cho đến trước khi chia tỉnh (2003) là một tỉnh có diện tích lớn nhất
Việt Nam, thuộc khu vực miền núi Tây Nam vùng Tây Nguyên với diện tích 19.599
km2. Khi bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và
chính sách nhằm nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên nói chung, Đắk
35
Lắk nói riêng, đặc biệt các chính sách, chương trình Mục tiêu Quốc gia về xoá đói
giảm nghèo.
Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Đắk Lắk lấy việc phát triển kinh
tế vườn làm cơ sở cho công cuộc định canh, định cư ở vùng dân tộc. Nhằm phát huy
những kinh nghiệm sản xuất truyền thống nương rẫy, tỉnh đã chủ trương giúp đỡ về
mọi mặt cho các dân tộc tại chỗ phát triển kinh tế vườn, khuyến khích và hướng dẫn
trồng các cây công nghiệp như cao su, rừng, cà phê, hồ tiêu…, cây thực phẩm và cây
dược liệu quý. Nhiều chính sách tập trung giải quyết các vấn đề xác định quyền làm
chủ đất đai gắn liền với môi trường sống của người DTTS thông qua giao đất giao
rừng, khắc phục tranh chấp đất đai, định canh, định cư…, từng bước chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy trao đổi hàng
hoá giữa các vùng…
Đặc biệt, từ năm 1996, với hàng loạt các chính sách quan tâm của Đảng và Nhà
nước, vùng DTTS ở Đắk Lắk đã có những bước chuyển mạnh mẽ và toàn diện. Từ
năm 1999, UBND tỉnh Đắk Lắk đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo Chương trình
135. Các dự án cụ thể thuộc Chương trình này như: Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng các
xã đặc biệt khó khăn, Dự án xây dựng trung tâm cụm xã, Dự án quy hoạch dân cư ở
những nơi cần thiết, Dự án phát triển nông, lâm nghiệp, Dự án đào tạo cán bộ xã,
thôn/buôn, Dự án hỗ trợ DTTS đặc biệt khó khăn, Dự án tăng cường cán bộ về cơ
sở... Với tổng số 38 xã thuộc 12 huyện được đầu tư nguồn vốn của các dự án thuộc
chương trình 135 của tỉnh (Đắk Lắk cũ) đã thực sự tác động lớn đến đời sống kinh tế
- xã hội của đồng bào DTTS tại chỗ.
Quyết định 168/QĐ-TTg, ngày 30-10-2001, về định hướng dài hạn, kế hoạch 5
năm 2001-2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây
Nguyên. Trong đó thực hiện các chính sách đối với đồng bào DTTS như: cấp sách vở
miễn phí cho học sinh, hỗ trợ học bổng, cấp thuốc chữa bệnh và miễn tiền viện phí,
cấp muối và dầu hoả, kéo điện thắp sáng,…
Quyết định 132/2002/QĐ-TTg, ngày 08-10-2002, về việc giải quyết đất sản
xuất và đất ở cho đồng bào DTTS tại chỗ khó khăn ở Tây Nguyên; Quyết định
139/QĐ-TTg, ngày 15-10-2002, về việc khám chữa bệnh cho người nghèo và đồng
bào DTTS, nâng cao hệ thống y tế cơ sở. Quyết định 1637/QĐ-TTg, ngày 31-12-
36
2001, về việc cấp miễn phí các loại báo, tạp chí cho vùng dân tộc và miền núi, đáp
ứng nhu cầu thông tin báo chí đến vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, nhiều dự án, chương trình của địa phương trong gần 10 năm
(1996-2003) nhằm phát triển kinh tế - xã hội và hỗ trợ trực tiếp xoá đói giảm nghèo
tại các cộng đồng nghèo, cộng đồng DTTS đã được triển khai, như: Dự án khuyến
lâm, khuyến nông; Dự án phát triển các ngành nghề; Dự án tín dụng cho hộ nghèo
vay; Dự án định canh, định cư ở các xã nghèo; Dự án đào tạo cán bộ cơ sở; Chương
trình phát triển kinh tế - xã hội thôn/buôn,…
2.1.2.2. Kết quả thực hiện chính sách dân tộc
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986-2003), nhất là từ
khi có Nghị quyết 22/NQ-TW, ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ
trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi và Quyết định số 72-
HĐBT, ngày 13-3-1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về một số chủ
trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi; Đảng bộ và Nhân dân
các dân tộc trong tỉnh Đắk Lắk đã phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết
các dân tộc, tập trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc, cố gắng vươn lên giành nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng, xây dựng HTCT, đã tạo ra bước chuyển
biến quan trọng về nhận thức và hành động trong vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết
giữa các dân tộc. Sự bình đẳng cơ bản giữa các dân tộc được thể hiện và phát huy trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, các dân tộc trong tỉnh đoàn kết gắn bó xây dựng
cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc. Nền kinh tế nhiều thành phần từng bước hình
thành và phát triển đã xoá bỏ dần cung cách làm ăn tự cung, tự cấp, chuyển dần sang
sản xuất hàng hoá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá phục vụ
cho xuất khẩu và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, quy mô sản xuất ngày càng
lớn, các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, hạ tầng thiết yếu được quan tâm đầu
tư xây dựng nhiều hơn trong vùng DTTS đã làm cho đời sống vật chất, tinh thần của
đồng bào các dân tộc được cải thiện và nâng cao hơn trước.
Công tác xoá đói giảm nghèo và thực hiện, chính sách đối với DTTS tại chỗ
được quan tâm thường xuyên. Số con em đồng bào các dân tộc đi học ngày càng
nhiều, mặt bằng dân trí, chất lượng giáo dục - đào tạo trong đồng bào các dân tộc
được nâng lên. Điều kiện, chất lượng khám chữa bệnh có nhiều tiến bộ, các xã vùng
37
sâu, vùng xa đã có bác sĩ và bảo đảm số thuốc để chữa các bệnh thông thường, các
loại dịch bệnh được đẩy lùi. Đời sống văn hoá được cải thiện đáng kể, các phương
tiện thông tin đại chúng, sóng phát thanh, truyền hình đã phủ sóng hầu hết vùng sâu,
vùng xa, vùng lõm.
Hệ thống chính trị ở cơ sở từng bước được củng cố và tăng cường, năng lực cán
bộ, đảng viên được nâng cao, phát huy được vai trò đảng viên, cựu chiến binh, già
làng, trưởng buôn, người có uy tín ở vùng dân tộc. Tình hình chính trị, trật tự an toàn
xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững [120, tr.5].
Bên cạnh đó còn tồn tại những hạn chế, yếu kém chưa được khắc phục: Nền
kinh tế của tỉnh vẫn còn trong tình trạng chậm phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế chậm, còn phụ thuộc vào nông nghiệp; tập quán canh tác của đồng bào vùng
sâu, vùng xa còn lạc hậu, gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc chọn cây
trồng, vật nuôi; chậm triển khai việc giao đất, giao rừng cho đồng bào các dân tộc.
Dân DCTD đến tỉnh ngày càng tăng dẫn đến tình trạng một bộ phận DTTS
tại chỗ thiếu đất ở và đất sản xuất. Tỉ lệ nghèo đói lên tới 23,49% so với tổng số
dân của tỉnh, trong đó đồng bào các DTTS tại chỗ chiếm tới 56% so với tổng số
hộ đói nghèo toàn tỉnh. Sự phân hoá giàu nghèo và chênh lệch về mức sống giữa
các vùng và tầng lớp dân cư ngày càng rộng; giáo dục đào tạo, dạy nghề, giải
quyết việc làm cho đồng bào DTTS chưa được quan tâm đúng mức; công tác
chăm sóc sức khoẻ chưa thật chu đáo, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cao, cuối năm
2002 chiếm 39,5%; mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào ở vùng sâu, vùng xa còn
thấp. Hoạt động của HTCT ở cơ sở còn yếu, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ
ở cơ sở còn hạn chế, công tác phát triển đảng viên chậm; cấp uỷ, chính quyền và
các đoàn thể Nhân dân ở một số nơi hoạt động chưa hiệu quả, không sát cơ sở,
không tập hợp được quần chúng.
Những hạn chế đó có nguyên nhân cơ bản là:
Về khách quan, do địa bàn sinh sống của các DTTS phân bố trên diện rộng, phần
lớn ở vùng sâu, vùng xa, rừng núi hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn; khó khăn trong
tiếp cận với các dịch vụ thông tin, y tế, giáo dục, tiến bộ khoa học kỹ thuật...
Điểm xuất phát kinh tế - văn hoá - xã hội rất thấp, kết cấu hạ tầng còn yếu kém,
kinh tế chưa phát triển, còn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp. Các thế lực thù địch
luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống, dân trí thấp và những thiếu sót
38
trong thực hiện CSDT để kích động, lôi kéo, chia rẽ phá hoại sự đoàn kết dân tộc, gây
mất ổn định về an ninh chính trị [120, tr.7].
Về chủ quan, nhận thức của nhiều cấp uỷ, chính quyền về vai trò, vị trí của công
tác dân tộc, về vấn đề dân tộc chưa đầy đủ và hạn chế; Việc tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vùng DTTS còn nhiều hạn chế; Việc
cụ thể hoá và tổ chức thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết
định 72-HĐBT chưa tốt; kết quả còn hạn chế. Một số chương trình, dự án hiệu quả
chưa cao, chưa thật sự đáp ứng nguyện vọng của đồng bào.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào
cấp trên và Nhà nước; một số địa phương chưa phát huy được ý chí tự lực, tự cường,
tự vươn lên của đồng bào, chưa khơi dậy, huy động tối đa mọi nguồn lực hiện có để
đầu tư cho phát triển.
Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, trong đó có cán bộ làm công tác dân tộc
còn nhiều hạn chế, chưa được đào tạo và bồi dưỡng kịp thời; công tác đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực người DTTS chưa nhiều; giải quyết việc làm cho con em DTTS có
trình độ còn chậm; bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể một số nơi còn quan liêu
chưa sâu sát, chưa nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của dân, có nơi vi phạm
CSDT của Đảng, Nhà nước làm giảm lòng tin của Nhân dân các dân tộc. Cơ quan
làm công tác tham mưu và thực hiện CSDT từ tỉnh đến huyện chưa thật sự ngang tầm
nhiệm vụ.
2.2. ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC TRONG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ MỚI (2003-2010)
2.2.1. Chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh đổi mới và hội nhập
quốc tế
Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định sự nhất quán trong CSDT; chỉ ra
phương hướng, mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các
DTTS. Đảng chỉ rõ vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp cách mạng. Đại hội IX xác định nhiệm vụ "Thực hiện tốt chính
sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển” [43, tr.128].
Sau sự kiện bạo loạn chính trị tháng 02 năm 2001, để khắc phục những mâu
thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là những vấn đề liên
quan đến đất đai, chính sách với đồng bào DTTS, ngày 18-1-2002, Bộ Chính trị ban
39
hành Nghị quyết số 10/NQ-TƯ về Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc
phòng an ninh ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010. Nghị quyết đã nêu quan
điểm phát triển: Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở Tây
Nguyên trong 10 năm tới cũng như lâu dài phải quán triệt sâu sắc CSDT của Đảng
và Nhà nước; kết hợp đồng bộ cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh
và xây dựng hệ thống chính trị.
Nghị quyết số 10 xác định các nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2010. Trong đó, về phát triển kinh tế: thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành và lĩnh vực gắn với chuyên
môn hóa sản xuất, từng bước đưa nông thôn Tây Nguyên ra khỏi tình trạng lạc hậu,
đi dần vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội các
vùng sâu, vùng xa; Về phát triển văn hóa - xã hội: Tạo bước chuyển căn bản về các
mặt văn hóa - xã hội: xóa xong đói, cơ bản xóa nghèo, bảo đảm đất sản xuất và việc
làm ổn định cho đồng bào, cơ bản đồng bào đều có nhà ở chắc chắn; phần lớn được
sử dụng nước sạch; nâng cao chất lượng dạy học vùng DTTS; học sinh DTTS được
học tiếng phổ thông và tiếng của dân tộc mình…
Cụ thể hóa công tác dân tộc của Đại hội IX, Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung
ương khóa IX (2003) ra Nghị quyết về công tác dân tộc, đề ra các chủ trương, CSDT
với những nội dung cơ bản là: Bình đẳng, đoàn kết, tượng trợ giúp nhau cùng phát
triển [45, tr.29-30].
Hội nghị Trung ương 7 đã chỉ rõ những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của
yếu kém, tồn tại trong việc thực hiện CSDT. Trên cơ sở đó đề ra những quan điểm cơ
bản, xác định những nhiệm vụ chủ yếu và những giải pháp về công tác dân tộc trong
tình hình mới.
Phát triển những quan điểm về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, Đại hội X
của Đảng (2006) khẳng định: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến
lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ" [47, tr.121].
Một số quan điểm chỉ đạo công tác dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng (khóa IX) là:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
40
Thứ hai, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương
yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu chia rẽ, phá hoại khối
đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các
vấn đề xã hội, thực hiện tốt CSDT; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS; giữ gìn và phát huy giá trị, bản sắc văn hóa truyền
thống các DTTS trong sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Thứ năm, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, XĐGN; khai thác có
hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường
sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng
thời tăng cường sự quan tâm, hỗ trợ của trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương
trong cả nước.
Thứ sáu, công tác dân tộc và thực hiện CSDT là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ HTCT [45, tr.30-35].
Nghị quyết cũng đề ra những mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế, XĐGN,
nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc; nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức
khỏe, mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào; Xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS tại
chỗ có phẩm chất và năng lực; củng cố HTCT cơ sở trong sạch, vững mạnh; giữ
vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi; kết hợp phát triển kinh tế -
xã hội với bảo đảm an ninh quốc phòng, ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo [45, tr.35-37].
Thực hiện mục tiêu trên, Trung ương Đảng xác định những nhiệm vụ chủ yếu
và cấp bách:
- Đẩy mạnh công tác XĐGN, nâng cao mức sống của đồng bào DTTS, trọng
tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất
sản xuất, đất ở và vấn đề tranh chấp đất đai.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới.
Làm tốt công tác định cạnh, định cư và di dân xây dựng vùng kinh tế mới; công tác
41
quy hoạch, sắp xếp, phân bố lại hợp lý dân cư, nguồn nhân lực theo hướng CNH,
HĐH và phát triển bền vững, gắn với bảo đảm an ninh quốc phòng.
- Tiếp tục thực hiện chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình; tăng cường
các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở; làm tốt công tác
nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc.
Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở (THCS) và các
chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo
nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp; đẩy mạnh việc tổ chức các
trường mẫu giáo công lập; mở rộng việc dạy chữ dân tộc. Đa dạng hóa, phát triển
nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc; đưa chương trình
dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú; tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu tiên, cử
tuyển dành cho con em các dân tộc vào học tại các trường đại học và cao đẳng; mở
thêm trường dự bị đại học dân tộc ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên.
Tăng cường cơ sở khám, chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, bản, thôn, ấp; nâng
cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS; khuyến
khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian.
Củng cố và nâng cao chất lượng HTCT cơ sở ở các vùng DTTS. Thực hiện tốt
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cơ sở; kiên quyết khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của một số cán bộ, thực hiện
tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển cán bộ.
Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc, khắc phục tình trạng
cơ sở không có tổ chức đảng và đảng viên.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh Nhân dân, phát huy
sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch,
tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, không để xảy
ra những “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi.
Tiếp tục xây dựng, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp quốc phòng ở vùng
sâu, vùng xa, biên giới. Thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân
tộc và miền núi; kiên quyết ngăn chặn việc lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tự do
tín ngưỡng để hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá sự
nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
42
Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện để Nhân dân tích
cực, chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chương trình,
chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương.
Thông qua các chính sách, biện pháp cụ thể, động viên đồng bào các dân tộc phát
huy nội lực, ý chí tự lực tự cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội, XĐGN, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc [45, tr.37-40].
Như vậy, nhận thức của Đảng về công tác dân tộc ngày càng được hoàn thiện,
phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn. Đảng luôn khẳng định công tác dân tộc là quan
trọng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Chủ trương của Đảng là thực hiện tốt
nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam; chống kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Tập trung phát triển
kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, XĐGN, nâng cao trình độ dân trí, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc. Nêu cao ý thức tự lực, tự cường của đồng bào các DTTS, đồng thời tăng
cường sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng. Thực hiện chính sách ưu tiên
trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân sĩ, trí thức các DTTS. Ðộng viên, phát huy vai
trò của mọi tầng lớp Nhân dân trong việc bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương (khóa IX)
về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo, Bộ Chính trị đưa ra Kết
luận số 57-KL/TW, ngày 3-11-2009. Về công tác dân tộc, Bộ Chính trị đã tổng kết
những thành tựu, đánh giá khuyết điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân; đồng thời
xác định 8 nhiệm vụ, giải pháp lớn về công tác dân tộc trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện đạt kết quả cao các nội dung
Nghị quyết; rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách đã triển khai; nghiên cứu xây dựng
chính sách mới, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng
đồng bào DTTS.
Thứ hai, tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội vùng DTTS, trước hết là hoàn thành việc xây dựng các tuyến đường
giao thông đến trung tâm các xã, đường điện, trường học, trạm y tế, chợ, các công
43
trình nước sạch… Đẩy mạnh công tác XĐGN, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho đồng bào, nhất là đồng bào ở các xã đặc biệt khó khăn trong các huyện nghèo
nhất hiện nay. Tập trung giải quyết tốt nhu cầu về đất sản xuất, đất ở, nhà ở; giải
quyết cơ bản tình trạng du canh, du cư, DCTD, nhà ở dột nát, thiếu lương thực, thiếu
nước sinh hoạt…
Thứ ba, phát huy tiềm năng và lợi thế của từng vùng, phát triển đa dạng các mô
hình kinh tế hộ gia đình theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với chế
biến và tiêu thụ sản phẩm, phát triển hàng hóa xuất khẩu; có chính sách ưu đãi các
doanh nghiệp đầu tư vào vùng DTTS; hỗ trợ đồng bào phát triển chăn nuôi, phát triển
kinh tế rừng v.v.
Thứ tư, chú trọng những chính sách phát triển nguồn nhân lực đối với
vùng DTTS.
Thứ năm, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào DTTS,
thực hiện chủ trương Nhà nước mua bảo hiểm y tế cho đồng bào DTTS sinh sống ở
những vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn. Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế
tại chỗ và cán bộ y tế thôn, bản người DTTS; thực hiện có hiệu quả các hoạt động văn
hóa, thông tin, tuyên truyền ở cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các
chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng DTTS; thực hiện tốt việc sưu tầm, giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Thứ sáu, tiếp tục tuyên truyền, giáo dục nâng cao kiến thức quốc phòng, an
ninh cho cán bộ và Nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng, an ninh. Chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo, dân chủ, nhân quyền nhằm gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội
ở vùng DTTS.
Thứ bảy, tập trung củng cố HTCT cơ sở. Xây dựng cơ sở đảng và chính quyền cơ
sở vững mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
(MTTQ) và các đoàn thể chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong
vùng DTTS. Bảo đảm các DTTS có tỉ lệ cán bộ hợp lý tham gia các cơ quan, tổ chức
trong HTCT.
Thứ tám, thường xuyên kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình
và kết quả thực hiện nghị quyết và các chủ trương.
44
Các văn kiện trên là cơ sở lý luận để Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk vận dụng vào quá
trình lãnh đạo thực hiện CSDT trên địa bàn.
2.2.2. Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk quán triệt và thực hiện chính sách dân tộc giai
đoạn 2003-2010
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIII đánh giá kết quả thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ khóa XII (nhiệm kỳ 1996-2000). Trong đó, nêu khái quát kết
quả thực hiện CSDT trong 5 năm:
Chính sách dân tộc của Đảng được thực hiện tương đối tốt. Trong những
năm gần đây, tỉnh đã tổ chức triển khai nhiều chương trình, dự án với
nguồn vốn lớn nhằm phát triển kết cấu hạ tầng như: điện, đường, trường,
trạm, trung tâm cụm xã, nước sạch…; các hoạt động khuyến nông, khuyến
lâm có kết quả đã góp phần nâng cao trình độ sản xuất và cải thiện đời
sống ở vùng đồng bào dân tộc [2, tr.24].
Chương trình định canh, định cư, XĐGN cho DTTS tại chỗ được triển khai
đồng bộ, rộng khắp nên đã có 77% số hộ được định canh, định cư và giảm được
51,5% số hộ đói nghèo (20.240 hộ); trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hóa và công
tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào có nhiều tiến bộ [2, tr.24].
Nhận thức rõ vấn đề dân tộc gắn với vấn đề tôn giáo, Đảng bộ đã, động viên
đồng bào có đạo các dân tộc đoàn kết hăng hái tham gia công cuộc đổi mới, chung
sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời đấu tranh với những âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, lợi dụng sinh hoạt tôn giáo để chống phá sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân [2, tr.25].
Bên cạnh đó, Đảng bộ cũng thẳng thắn chỉ rõ CSDT còn một số hạn chế cần
tập trung khắc phục:
Trình độ dân trí trong dân tộc thiểu số còn thấp so với mặt bằng chung;
tình trạng mua bán đất đai tràn lan dẫn đến một số hộ thiếu đất sản xuất;
đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, số hộ đói nghèo tập trung chủ
yếu ở các xã, buôn vùng III… là những vấn đề phải được Đảng bộ quan
tâm giải quyết tích cực hơn nữa [2, tr.25].
Quán triệt tinh thần Đại hội IX của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ
XIII nêu phương hướng nhiệm vụ (2001-2005):
45
Về quan điểm, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk tiếp tục khẳng định: "Chính sách dân tộc
là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội của đồng bào các dân tộc thiểu số, xây dựng khối đoàn kết toàn dân" [2, tr.25].
Đại hội xác định những nhiệm vụ trọng tâm về CSDT nhiệm kỳ 2001-2005 là:
Thứ nhất, cần tiếp tục đẩy mạnh các chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống, XĐGN;
Thứ hai, mở mang dân trí, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của
từng dân tộc;
Thứ ba, đối với các thôn buôn vùng III, hằng năm tỉnh cần dành một khoản
ngân sách nhất định để đầu tư nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng;
Thứ tư, tiến hành rà soát hiện trạng đất đai hiện nay, kể cả quỹ đất của các nông,
lâm trường hiện đang quản lý, để bố trí đất sản xuất ổn định cho DTTS tại chỗ;
Thứ năm, thực hiện tốt việc cung ứng các mặt hàng chính sách, tăng cường các
hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao công nghệ sản xuất để từng bước
nâng cao nhận thức và trình độ sản xuất cũng như phát hiện sớm và giải quyết kịp
thời những vấn đề mới nảy sinh ở vùng đồng bào dân tộc;
Thứ sáu, quan tâm việc đào tạo và bố trí công tác cho cán bộ là người DTTS;
trước mắt giải quyết việc làm cho những học sinh đã tốt nghiệp các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Tổ chức tốt việc giáo dục và nuôi dưỡng học sinh
dân tộc tại các trường nội trú và các trường dạy nghề.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCH Trung ương Đảng
(khoá IX) Về công tác dân tộc, trên cơ sở đánh giá đúng yêu cầu, nhiệm vụ công tác
dân tộc trong thời kỳ mới, Tỉnh uỷ Đắk Lắk đã xây dựng Chương trình số 18-
CTr/TU, ngày 14-5-2003, về Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCH
Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc [112] như sau:
Về quan điểm chỉ đạo: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc đối với tỉnh Đắk Lắk
vừa là vấn đề chiến lược cơ bản lâu dài vừa là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của tỉnh;
Các dân tộc trong tỉnh cùng với đại gia đình dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển; cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam
XHCN; kiên quyết đấu tranh chống âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc của các thế lực
thù địch; Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh
46
trên địa bàn vùng DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Gắn tăng trưởng kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt CSDT; quan tâm phát triển, bồi dưỡng
nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS, giải quyết việc làm; giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống các DTTS trong sự nghiệp chung của cộng
đồng các dân tộc trong tỉnh; Ưu tiên tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các
buôn, thôn, xã vùng đồng bào DTTS.
Trước hết tỉnh Đắk Lắk tập trung phát triển thuỷ lợi, giao thông và cơ sở hạ tầng
xã, thôn, buôn, xoá đói giảm nghèo, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh tại
chỗ đi đôi với việc bảo vệ môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự
cường không trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực và
sự giúp đỡ hỗ trợ của các ngành, các cấp trong HTCT, để tạo ra sự chuyển biến mạnh
mẽ trong công tác dân tộc và thực hiện CSDT; Công tác dân tộc và thực hiện CSDT
là nhiệm vụ của toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn
bộ HTCT trong tỉnh.
Mục tiêu đến năm 2010: Phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức
sống cho đồng bào DTTS, đặc biệt là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn. Giải quyết tháo gỡ những vấn đề bức xúc như: thiếu việc làm, thiếu lương
thực, nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, thiếu tư liệu sản xuất và dụng cụ sinh hoạt tối
thiểu; phấn đấu hết năm 2004 không còn hộ DTTS tại chỗ thiếu đất sản xuất, đất ở;
năm 2005 giải quyết cơ bản nhà ở cho các đối tượng chính sách và đồng bào DTTS
tại chỗ. Đến năm 2010, cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo trong đồng bào
DTTS xuống dưới 10%; giảm dần khoảng cách chênh lệch mức sống giữa các dân
tộc, các vùng trong tỉnh; tập trung đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đến
2010 có 100% hộ dân ở trong vùng qui hoạch định canh, định cư được sử dụng điện;
90% hộ dân được dùng nước sạch; hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư,
không còn xã đặc biệt khó khăn; chấm dứt tình trạng DCTD, ngăn chặn tình trạng suy
thoái môi trường sinh thái.
Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức hưởng thụ văn
hoá cho đồng bào; thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi trong con em
đồng bào DTTS tại chỗ, tiến tới hoàn thành phổ cập giáo dục THCS vào năm 2010;
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh việc dạy song ngữ
47
tiếng Việt - Ê-đê và Việt - Mnông. Phát triển mạng lưới y tế cơ sở, làm tốt công tác
chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng; đẩy lùi các dịch
bệnh, nhất là bệnh sốt rét, sốt xuất huyết trong vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng
xa. Bảo đảm 100% hộ nghe đài phát thanh và xem truyền hình; các giá trị, bản sắc
văn hoá truyền thống tốt đẹp của các DTTS được bảo tồn và phát triển.
Xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS tại chỗ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới; củng cố, kiện toàn HTCT cơ sở trong sạch, vững mạnh; nâng cao vị trí, vai
trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các đoàn thể Nhân dân trong việc
tham gia thực hiện tốt CSDT.
Giữ vững an ninh - quốc phòng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
vùng đồng bào theo đạo; gắn chặt nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với
bảo đảm quốc phòng - an ninh, chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn chặn việc lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc, làm mất ổn định
trên địa bàn.
Những nhiệm vụ chủ yếu:
Tập trung giải quyết nhà ở, đất sản xuất; giải quyết việc làm và đẩy mạnh công
tác xoá đói, giảm nghèo; nâng cao mức sống của đồng bào DTTS, trọng tâm là đồng
bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng cũ, thôn, buôn, xã đặc
biệt khó khăn:
Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động văn hoá, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ
Nhân dân, nhất là đồng bào DTTS, gìn giữ phát huy bản sắc văn hoá truyền thống tốt
đẹp của các dân tộc trong cộng đồng.
Củng cố và nâng cao chất lượng HTCT cơ sở, ở thôn buôn, nhất là công tác cán
bộ vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS và các cơ quan làm công tác quần chúng.
Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc cho phù hợp với nhiệm vụ
trong tình hình mới.
Để thực hiện được các nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách đến năm 2010, công tác
dân tộc của Tỉnh có những bước tiến vững chắc, ổn định trong thời kỳ mới, cần tập
trung một số giải pháp chủ yếu như sau:
Tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của HTCT, các cấp, các
ngành, các đơn vị và đoàn thể xã hội trong toàn tỉnh về vị trí, nhiệm vụ của công tác
48
dân tộc trong tình hình mới. Xem việc quán triệt và thực hiện tốt CSDT của Đảng là
nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể
Nhân dân; đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các chủ
trương, CSDT của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong tỉnh;
đặc biệt là tổ chức cho Nhân dân học tập, nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 7 về
vấn đề dân tộc và công tác dân tộc để mọi người hiểu và thực hiện tốt Nghị quyết và
CSDT; phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc của Đảng và Nhà nước cho đồng bào DTTS. Thường xuyên tìm hiểu, nắm
được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đồng bào, kịp thời giải quyết những khó
khăn, vướng mắc ở cơ sở.
Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, thực hiện tốt các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc, trên cơ sở đó rà soát, đánh giá điều
chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng đồng bào DTTS
bằng nguồn ngân sách của địa phương. Tranh thủ nguồn lực đầu tư của Nhà nước,
các ngành, các cấp cho vùng đồng bào dân tộc, nâng cao vai trò trách nhiệm của
UBND xã, các thôn, buôn và Nhân dân trong việc huy động nguồn lực tại chỗ để đầu
tư cho phát triển. Ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, điện
và các công trình văn hoá, giáo dục, y tế; đầu tư phát triển nông, lâm nghiệp, xoá đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm; giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc cho
đồng bào; thực hiện tốt quy chế dân chủ, công khai hoá các công trình, dự án, vốn
đầu tư... để cho đồng bào biết và tham gia tổ chức sản xuất, quản lý, giám sát trong
quá trình thực hiện. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất,
nâng cao đời sống trong vùng đồng bào DTTS. Tập trung đầu tư để nâng cao trình độ
dân trí trong vùng đồng bào DTTS, đào tạo giáo viên dạy song ngữ Việt - Ê-đê, Việt -
Mnông cho giáo viên tiểu học để dạy chữ cho con em đồng bào DTTS tại chỗ.
Tiếp tục kiện toàn, củng cố HTCT các cấp, nhất là HTCT ở cơ sở; kiện toàn và
củng cố cơ quan làm công tác quần chúng và tăng cường sự lãnh đạo ở thôn, buôn,
tổ dân phố. Củng cố HTCT các cấp, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở,
thông qua phong trào quần chúng lựa chọn cốt cán, đào tạo cán bộ lâu dài cho cơ
sở. Bảo đảm cán bộ có trình độ, năng lực trong việc vận dụng cụ thể hoá các chủ
trương, CSDT của Đảng vào cuộc sống. Mỗi cán bộ, đảng viên phải có kế hoạch,
chương trình học tiếng dân tộc nơi công tác, tích cực bám sát cơ sở, tiếp cận các hộ
49
nghèo, thôn buôn gặp khó khăn, nơi xảy ra tranh chấp, khiếu kiện để tháo gỡ, giải
quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, không để xảy ra “điểm nóng”, phức tạp gây
mất an ninh trật tự ở địa phương. Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng cán bộ là người DTTS, trước mắt phải thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 19-
CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán
bộ DTTS, ưu tiên đào tạo cho con em là người dân tộc tại chỗ, nhất là ưu tiên đào
tạo, bồi dưỡng số thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự để làm nguồn cán
bộ cho cơ sở.
Kiện toàn và chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác dân tộc từ tỉnh đến cơ sở để làm tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ,
chính quyền địa phương trong việc thực hiện CSDT; sớm quy định chức năng, nhiệm
vụ, quy chế làm việc của cơ quan làm công tác dân tộc cấp tỉnh; quan tâm đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm thực hiện tốt
CSDT trong giai đoạn cách mạng hiện nay; Trên cơ sở phối kết hợp giữa Ban Dân
tộc với các đoàn thể Nhân dân; tập trung tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật,
tuyên truyền đường lối, CSDT của Đảng có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của
đồng bào dân tộc. Tranh thủ vận động các già làng, chức sắc tôn giáo, người có uy tín
trong đồng bào DTTS để làm nòng cốt trong việc thực hiện CSDT.
Đổi mới nội dung và phương pháp công tác vận động quần chúng vùng dân tộc
theo phương châm, phương pháp đó là: Thiết thực, dễ hiểu, kiên trì, thận trọng, tỉ mỉ.
Xây dựng tác phong công tác luôn sát dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, hướng dẫn cặn
kẽ những vấn đề mà dân chưa hiểu; giáo dục, cảm hoá những người bị dụ dỗ, lôi kéo,
mắc mưu theo các thế lực thù địch. Cùng với dân tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc, khiếu kiện của dân thông qua đó mà củng cố lòng tin của đồng bào đối với
CSDT của Đảng.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và 2 năm sau
ngày chia tách tỉnh, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIV (01-2006) đánh giá
kết quả thực hiện CSDT giai đoạn 2001-2005, đã đề ra chủ trương đẩy mạnh thực
hiện các chính sách phát triển vùng DTTS như sau:
Về phương hướng lãnh đạo thực hiện CSDT giai đoạn 2006-2010: Thực hiện
tốt CSDT và các chính sách xã hội khác, bảo đảm công bằng xã hội. Tăng cường
50
công tác chỉ đạo và tập trung triển khai kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả các chương
trình kinh tế - xã hội, ưu tiên thực hiện tại các vùng khó khăn và vùng đồng bào dân
tộc thiểu số [3, tr.71].
Về nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện CSDT:
Thứ nhất, đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình 132, 134 của Thủ tướng
Chính phủ nhằm giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước
sạch cho DTTS tại chỗ, gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn, phấn đấu hoàn
thành trong năm 2006.
Thứ hai, tiếp tục có những chính sách hỗ trợ thỏa đáng qua chương trình xóa đói
giảm nghèo, cho vay tín dụng với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ giống sản xuất, chăn nuôi,
phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống, tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ
đa dạng đến tận thôn, buôn.
Thứ ba, tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao công
nghệ sản xuất để từng bước nâng cao nhận thức và trình độ sản xuất cho đồng bào.
Thứ tư, quan tâm đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ người DTTS, phấn đấu tăng tỉ
lệ cán bộ người DTTS đạt 15% trong tổng biên chế.
Thứ năm, tổ chức tốt việc giáo dục và nuôi dưỡng học sinh DTTS tại các trường
nội trú, trường dạy nghề.
Thứ sáu, huy động sự giúp đỡ của cộng đồng đối với DTTS tại chỗ bằng nhiều
hình thức thích hợp để có những điều kiện sống thiết yếu, nâng cao dần mức hưởng
thụ văn hóa tinh thần và vật chất cho đồng bào ở các vùng khó khăn [3, tr.72].
Để tổ chức thực hiện các chủ trương, giải pháp trên, Tỉnh uỷ đã nhận rõ yếu tố
có tính quyết định và chỉ đạo các cấp ủy đảng tỉnh Đắk Lắk tập trung chỉ đạo khâu
đầu tiên, then chốt: đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở.
Trong nhiệm kỳ 2005-2010, các cấp ủy đảng cơ sở đã thực hiện có hiệu quả Kế
hoạch số 11a-KH/TU, ngày 17-7-2006 của Tỉnh ủy Về xây dựng HTCT xã, phường,
thị trấn năm 2006-2007 và định hướng đến năm 2010; Kế hoạch 12-KH/TU, ngày
21-7-2006, Về phát triển đảng viên ở những thôn, buôn chưa có đảng viên là người
tại chỗ từ nay đến năm 2007; Kế hoạch 14- KH/TU, ngày 16-10-2006 của Tỉnh ủy Về
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên và công tác
phát triển đảng viên trong trường học từ nay đến năm 2009.
51
Thực hiện các kế hoạch đã đề ra, hoạt động đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạt động của HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã đạt những kết quả nhất địn. Trên
cơ sở đó, Tỉnh uỷ Đắk Lắk ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 5-5-2008, Về
tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng của HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn trên địa
bàn tỉnh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015.
Nghị quyết đề ra những quan điểm về xây dựng HTCT cơ sở trong tình hình
mới và xác định các mục tiêu chính đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015:
Một là, tập trung củng cố các tổ chức cơ sở đảng, hạn chế thấp nhất số tổ chức
cơ sở đảng yếu kém; 100% thôn, buôn, tổ dân phố có chi bộ đảng; trên 75% số tổ
chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh; có từ 90% trở lên đảng viên
đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thường xuyên chăm lo phát triển đảng viên
mới, coi trọng chất lượng, gắn việc phát triển đảng viên với xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức xã, phường, thị trấn; đặc biệt chú trọng phát triển đảng viên vùng
đồng bào DTTS.
Hai là, phát huy hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HĐND và UBND, thực
hiện tốt cải cách hành chính. Phấn đấu từ 70-80% chính quyền cấp xã vững mạnh,
hạn chế thấp nhất chính quyền cấp xã yếu kém.
Ba là, xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của MTTQ và các đoàn thể Nhân dân ở cơ sở.
Bốn là, thường xuyên chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở để đáp ứng yêu
cầu của giai đoạn phát triển mới.
Để đạt được những mục tiêu trên, Tỉnh ủy đã nêu ra một số nhóm giải pháp về
công tác xây dựng Đảng, công tác xây dựng chính quyền và xây dựng khối dân vận,
Mặt trận và các đoàn thể. Các huyện ủy, thành ủy chỉ đạo tổ chức xây dựng chương
trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy về tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 và định
hướng tới năm 2015.
2.2.3. Quá trình Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính
sách dân tộc (2003-2010)
Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng về vấn đề dân tộc và thực hiện
CSDT, bám sát tình hình dân tộc, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk đã tăng cường chỉ đạo thực
hiện CSDT trên những lĩnh vực cơ bản.
52
2.2.3.1. Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Thực hiện chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn,
miền núi và vùng sâu, vùng xa. Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31-7-1998 và
Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10 -01-2006 phê duyệt Chương trình Phát triển
kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng DTTS và miền núi (Chương trình 135
giai đoạn I và Chương trình 135 giai đoạn II) đạt được kết quả:
Giai đoạn I (1999-2005): số kinh phí đầu tư là gần 123,8 tỷ đồng cho 38 xã
diện đặc biệt khó khăn thuộc 12 huyện; xây dựng 267 công trình hạ tầng thiết yếu ở
các xã và 77 công trình hạ tầng thuộc 13 trung tâm cụm xã... Kết thúc giai đoạn I,
toàn tỉnh Đắk Lắk có 15/38 xã thuộc 8 huyện hoàn thành cơ bản các mục tiêu của
chương trình và ra khỏi diện đầu tư Chương trình 135 [162, tr.6].
Giai đoạn II (2006-2010): toàn tỉnh có 35 xã và 85 buôn, thôn đặc biệt khó khăn
ở 36 xã khu vực II thuộc diện đầu tư Chương trình 135. Tổng số kinh phí Trung ương
đã đầu tư trong 5 năm 2006-2010 hơn 508,209 tỷ cho 4 nội dung gồm: Dự án hỗ trợ
phát triển sản xuất, số kinh phí thực hiện hơn 45,017 tỷ, cho 11.884 hộ, trong đó đầu
tư giống bò cái sinh sản, giống cây trồng, vật tư nông nghiệp, hỗ trợ máy móc phục
vụ sản xuất, chế biến nông sản; Dự án phát triển hạ tầng thiết yếu: tổng kinh phí được
đầu tư hơn 183.674 tỷ, xây dựng được 440 công trình hạ tầng thiết yếu (đường giao
thông, trường học, cầu, thủy lợi, nhà sinh hoạt cộng đồng, điện và nước sinh hoạt);
Dự án đào tạo cán bộ xã, buôn thôn và cộng đồng, tổng số kinh phí 13,164 tỷ đồng.
Đã hoàn thành 08 lớp đào tạo kiến thức cho 417 cán bộ các xã, buôn thôn đặc biệt
khó khăn; 161 lớp đào tạo nhóm cộng đồng cho 9.345 lượt người; 13 lớp tham quan
mô hình XĐGN cho 536 người; 02 lớp học tập, trao đổi kinh nghiệm Chương trình
135 tại một số tỉnh cho 30 người; Chính sách hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng cao
đời sống Nhân dân: số kinh phí hơn 199,415 tỷ đồng. Trong đó hỗ trợ con hộ nghèo
đi học từ tháng 1 đến tháng 5 là 19.520 học sinh, hỗ trợ từ tháng 9 đến tháng 12 là
28.885 học sinh; hỗ trợ hộ nghèo cải thiện vệ sinh môi trường, hỗ trợ hộ nghèo làm
mới chuồng trại chăn nuôi, và xây dựng công trình vệ sinh; hỗ trợ hoạt động văn hóa
thông tin và trợ giúp pháp lý.
Bên cạnh đó, Chương trình 135 giai đoạn II còn đầu tư bổ sung 30,6 tỷ đồng
cho 7 trung tâm cụm xã; duy tu bảo dưỡng các công trình gần 5,09 tỷ đồng. Tỉnh đã
53
đầu tư duy tu bảo dưỡng 28 công trình (05 trường học, 18 đường giao thông, 01 chợ
nông thôn, 04 thủy lợi).
Đã có 5 xã hoàn thành Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010), gồm xã Cư
Pơng, huyện Krông Búk; xã Ea Tam, huyện Krông Năng; xã Ea Bung, huyện Ea Súp,
Cư Yang và Ea Sar huyện Ea Kar [158, tr.2].
Bố trí, sắp xếp ổn định đời sống dân di cư tự do
Thực hiện nghiêm túc quyền cư trú của người dân theo quy định của pháp luật,
tỉnh Đắk Lắk coi việc ổn định dân DCTD là vấn đề cấp bách trong chiến lược ổn định
và phát triển bền vững, đã tham gia hỗ trợ kinh phí kịp thời.
Hầu hết các hộ dân DCTD đến tỉnh Đắk Lắk đều có cuộc sống khó khăn, đa số
là hộ nghèo. UBND tỉnh đã tích cực bố trí, sắp xếp dân DCTD trên địa bàn tỉnh, với
những văn bản như: Công văn số 2199/CV-UBND, ngày 8-9-2004, về việc lập Dự án
quy hoạch bố trí dân cư trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2004-2010; Quyết định
số 2541/QĐ-UBND, ngày 28-12-2006, về Phê duyệt dự án quy hoạch, bố trí dân cư
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015; Chỉ thị
số 09/2008/CT-UBND, ngày 4-7-2008, về Tiếp tục ổn định đồng bào di cư từ các
tỉnh đến cư trú tại tỉnh Đắk Lắk. Tỉnh Đắk Lắk căn cứ vào vốn phân bổ hằng năm
thuộc Chương trình bố trí dân cư để đưa vào kế hoạch bố trí, sắp xếp trong vùng dự
án; đồng thời huy động các nguồn lực khác để xây dựng, hoàn thiện dự án, bảo đảm
cho các hộ sớm ổn định đời sống, tập trung sản xuất.
Tuy nhiên, từ khi triển khai Chương trình 134/2004, tỉnh Đắk Lắk đã không còn
quỹ đất sản xuất để bố trí cho các hộ di cư đến, nhất là những hộ đến sau khi lập dự án
sắp xếp, bố trí dân cư (tức là ngoài kế hoạch). Đối với số dân DCTD, UBND tỉnh đã
chủ động làm việc với các tỉnh có dân đi để phối hợp giải quyết, vận động các hộ dân
trở về quê cũ; đồng thời đề nghị chính quyền địa phương các tỉnh tăng cường tuyên
truyền đến thôn bản, vận động bà con không nên di cư vào Đắk Lắk, Tây Nguyên. Trên
cơ sở rà soát, địa phương nào có dân tự nguyện di cư, phải lập phương án báo cáo bộ,
ngành Trung ương và Chính phủ để bố trí, sắp xếp theo kế hoạch hằng năm.
Mặt khác, tỉnh Đắk Lắk chú trọng công tác xây dựng, củng cố HTCT cơ sở, tập
trung tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đến với Nhân dân, nhất là vùng người DTTS, vùng sâu vùng xa, vùng kinh
tế đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều dân DCTD.
54
Thực hiện Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, ngày 05-3-2007, về Chính sách hỗ
trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn
2007-2010, trong năm 2009, tỉnh Đắk Lắk được Trung ương giao vốn đầu tư là 2 tỷ
đồng, tỉnh đã thực hiện hỗ trợ di dân cho 66 hộ (kinh phí là 1,116 tỷ đồng) và lập 03
dự án định canh, định cư theo hình thức tập trung tại huyện Lắk và huyện Krông Pắk.
Kế hoạch vốn đầu tư năm 2010 là 6 tỷ đồng. Kết quả đã thực hiện hỗ trợ di dân cho 6
hộ, 96 triệu đồng và hoàn thành 0,45 km đường giao thông nội vùng buôn Dang Kang
(thuộc Dự án định canh, định cư xen ghép xã Dang Kang, huyện Krông Bông).
Công tác sắp xếp, ổn định dân DCTD: Tổng số vốn được đầu tư từ năm 2006-
2010 là 35,8 tỷ đồng. Có 10 dự án hoàn thành mục tiêu, 7 dự án tiếp tục đầu tư. Tỉnh
đã tổ chức sắp xếp, ổn định dân cư cho 450/2.054 hộ, bằng 21,9% tổng số hộ có nhu
cầu sắp xếp [162, tr.7]. Số hộ trên đã được nhập khẩu, được giải quyết đất sản xuất và
đất ở. Số dự án ổn định dân DCTD đã và đang thực hiện là 17 dự án. Nhìn chung tại
các vùng dự án đã thực hiện, các hộ người DTTS đã ổn định đời sống.
Công tác sắp xếp, ổn định dân cư chưa đạt mục tiêu đề ra do nguồn vốn từ
Trung ương bố trí thiếu kịp thời. Trong khi dân di cư của các tỉnh tiếp tục đến Đắk
Lắk với số lượng lớn, diễn biến phức tạp, các dự án lại thường kéo dài.
Chính sách hỗ trợ trực tiếp
Thực hiện các Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg, ngày 08-10-2002 và Quyết
định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20-7-2004 của Thủ tướng Chính phủ Về một số
chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS
nghèo, đời sống khó khăn, tỉnh Đắk Lắk đã hoàn thành cả 4 mục tiêu. Cụ thể, về nhà
ở, đã xây dựng được 15.535 căn; về đất ở, đã giải quyết cho 5.531 hộ, diện tích
144,51 ha, bình quân 260m2/hộ; về đất sản xuất, đã giải quyết cho 7.737 hộ; về nước
sinh hoạt, đã hỗ trợ cho 16.059 hộ. Tổng kinh phí thực hiện là 222 tỷ đồng [162, tr.3].
Thực hiện Quyết định số 1592/QĐ-TTg, ngày 12-10-2009 của Thủ tướng Chính
phủ Về việc tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và
nước sinh hoạt đến năm 2010 cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn, tỉnh Đắk Lắk đã xây dựng đề á. Theo đó, số hộ cần được giải quyết đất sản xuất
là 8.994 hộ (hỗ trợ đất sản xuất; hỗ trợ về nông cụ, máy móc làm dịch vụ; hỗ trợ học
nghề, chuyển đổi ngành nghề; xuất khẩu lao động); số hộ cần được giải quyết nước
sinh hoạt là 12.488 hộ.
55
Thực hiện chính sách hỗ trợ theo Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg, về định
hướng dài hạn kế hoạch 5 năm 2001-2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh
tế - xã hội vùng Tây Nguyên: tổng số kinh phí được Trung ương hỗ trợ từ năm 2003-
2010 là 1.422,3 tỷ đồng. Tỉnh Đắk Lắk đã dành để hỗ trợ cấp sách giáo khoa, vở học
sinh, vải mặc, muối iốt, cấp dầu lửa và kéo lưới điện, hỗ trợ tiền điện, cấp thuốc chữa
bệnh, viện phí cho đồng bào DTTS; hỗ trợ nhà cho giáo viên, cán bộ, học bổng cho học
sinh DTTS; cấp thiết bị, đồ dùng dạy học và hỗ trợ đóng góp tiền xây dựng trường…
Chính sách hỗ trợ nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, kết quả thực hiện năm 2009, đã hỗ trợ xây dựng 3.410 căn, năm 2010 đã
hỗ trợ cho 9.141 căn, đạt 97,4% kế hoạch của cả Chương trình.
Chính sách trợ giá, trợ cước: Trước năm 2006, tỉnh Đắk Lắk thực hiện trợ giá
trợ cước thông qua các doanh nghiệp. Từ năm 2006, tỉnh chủ trương dùng kinh phí
trợ cước, trợ giá đầu tư trực tiếp giống cây trồng, vật nuôi cho các hộ DTTS nghèo tại
các xã, buôn thôn đặc biệt khó khăn. Tính đến năm 2010, số hộ nghèo được đầu tư là
35.010 hộ, 129.4976 khẩu, với số kinh phí là 61,911 tỷ đồng.
Cuối năm 2010, căn cứ số khẩu của các hộ diện nghèo trên địa bàn các xã khu
vực II và khu vực III, tổng nhu cầu kinh phí thực hiện là 15,473 tỷ đồng, Trung ương
đã hỗ trợ 12,115 tỷ đồng.
Thực hiện Chương trình hỗ trợ hộ đồng bào DTTS đặc biệt khó khăn, từ năm
2001-2006, đã hỗ trợ cho 2.704 hộ thuộc 59 buôn, thôn đặc biệt khó khăn của 13
huyện, thành phố; tổng số vốn là 4,18 tỷ đồng,.
Thực hiện Chương trình cho vay vốn sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc
thiểu số đặc biệt khó khăn, từ năm 2007 đến 2010, toàn tỉnh có 8.228 hộ được vay
33,955 tỷ đồng. Các hộ được vay đều đúng đối tượng, sử dụng vốn vay đúng mục
đích, chủ yếu đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, trong đó đầu tư chăn nuôi gia súc,
gia cầm chiếm hơn 57%. Chính sách này đã giúp các hộ DTTS nghèo có vốn để
phát triển sản xuất, tăng thu nhập [162, tr.8]; [158, tr.4].
Chính sách hỗ trợ tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là người DTTS theo Quyết
định số 231/2005/QĐ-TTg, ngày 22-9-2005 của Thủ tướng Chính phủ. Đến năm
2010, có 02 doanh nghiệp nhà nước đã được hỗ trợ để thực hiện chính sách cho lao
động, đó là: Công ty cà phê Ea Pốk và Công ty cao su Đắk Lắk. Cụ thể như sau:
56
Kinh phí đã hỗ trợ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội là 4,432 tỷ đồng, trong đó: Số
lao động được hỗ trợ bảo hiểm y tế đến năm 2010 là 2.931 người, với tổng kinh phí
được hỗ trợ 521 triệu đồng; số lao động được hưởng trợ cấp BHXH là 2.931 người
với kinh phí 3,9 tỷ đồng [171, tr.18-19].
Từ năm 2003 đến cuối năm 2010, tỉnh đã giao cho Sở Công thương chủ trì, từ
nguồn vốn đầu tư của Chương trình 168/2001/QĐ-TTg của Chính phủ để kéo điện
vào nhà cho các hộ đồng bào DTTS tại chỗ. UBND các huyện, thị xã và thành phố
Buôn Ma Thuột đã triển khai thực hiện cấp điện cho 78 thôn, buôn căn cứ cách mạng,
315 thôn, buôn chưa có điện và kéo điện sinh hoạt cho 62.288 hộ đồng bào DTTS.
Năm 2010, có 100% số xã có lưới điện quốc gia và 95% số hộ được dùng điện [168,
tr.2]. Từ nguồn điện được đầu tư, nhiều hộ dân đã biết đưa điện vào phục vụ sản xuất
như: chăn nuôi, tưới tiêu, xay sát, đời sống kinh tế của các hộ đồng bào từng bước
được cải thiện.
Chương trình nước sinh hoạt, toàn tỉnh có 102 công trình cấp nước sinh hoạt tập
trung, 204.560 giếng đào, 182.000 giếng khơi, 9.322 giếng khoan, 18.846 bể chứa,
2.300 bể lu; cấp nước đô thị đạt định mức 80 lít/người/ngày cho 54% người dân; cấp
nước hợp vệ sinh ở nông thôn được 72,4% dân số.
Hạ tầng bưu chính viễn thông từng bước được hiện đại hoá, bảo đảm thông tin
liên lạc nhanh chóng, thuận tiện. Đến năm 2010, 100% xã, phường, thị trấn của tỉnh
Đắk Lắk có hệ thống điện thoại và mạng internet. Mật độ thuê bao điện thoại đạt 94,8
máy/100 người dân, 5,31 thuê bao internet/100 người dân [162, tr.8]. Trong đó, nhiều
hộ đồng bào DTTS đã có điện thoại và thuê bao sử dụng internet. Hệ thống bưu chính
bảo đảm chuyển, phát thư, báo trong ngày đến tất cả các xã.
Từ sau khi tách tỉnh đến năm 2010, toàn tỉnh có 8.348 phòng học được xây
dựng mới và kiên cố hóa, nâng tỉ lệ phòng học kiên cố đạt 58,4% và 22% trường học
được xây dựng cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia; 142 trạm y tế xã được xây dựng đủ
tiêu chuẩn quốc gia, nâng tỉ lệ trạm y tế được xây dựng chuẩn quốc gia đạt 90%; đã
đầu tư được 533 nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng; có 100% xã được đầu tư hệ thống
truyền thanh…
Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho đồng bào DTTS được chú
trọng, vệ sinh phòng dịch được triển khai kịp thời; công tác truyên truyền, hướng dẫn
57
đồng bào thực hiện dân số và kế hoạch hoá gia đình được thực hiện đồng bộ, thường
xuyên. Toàn tỉnh có 180 trạm y tế kiên cố trên tổng 184 xã, có 75,5% số xã đạt chuẩn
quốc gia về y tế. Mạng lưới y tế thôn, buôn được củng cố và tăng cường, đến 2010 có
2.300 thôn, buôn có nhân viên y tế. Số lượng cán bộ y tế người DTTS là 593 người.
Thực hiện Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg, ngày 15-10-2002 của Thủ tướng
Chính phủ Về việc khám chữa bệnh cho người nghèo, đến năm 2010 toàn tỉnh đã cấp
2.854.061 lượt thẻ bảo hiểm y tế cho người DTTS, với kinh phí hơn 513 tỷ đồng; số
lượt người là DTTS được khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế là 1.614.837 lượt
người, kinh phí thực hiện hơn 97 tỷ đồng.
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk triển khai thực hiện chính sách giáo dục
vùng DTTS có hiệu quả, chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên. Bằng nhiều
nguồn kinh phí, tỉnh đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất; Năm 2010, ở các vùng DTTS
không còn tình trạng học ca 3, số lớp học tạm bợ còn rất ít. Toàn tỉnh có 01 trường
dân tộc nội trú cấp tỉnh, 13 trường dân tộc nội trú cấp huyện và thành phố Buôn Ma
Thuột với tổng số học sinh học hằng năm từ 2.100 đến 2.500 học sinh, tỉ lệ học sinh
tốt nghiệp hằng năm đạt trên 90%. Công tác dạy và học từng bước được cải tiến,
ngoài giảng dạy bằng tiếng phổ thông, từ năm học 2004-2005 tỉnh đã đưa vào dạy
song ngữ Việt - Ê-đê cho học sinh tiểu học và dạy thực nghiệm cho học sinh THCS ở
các trường dân tộc nội trú. Đến năm 2010, số học sinh học song ngữ Việt - Ê-đê bậc
tiểu học là 10.914 học sinh, bậc THCS mỗi năm từ 800 đến 1.000 học sinh.
Công tác xét và cử tuyển học sinh đi học tại các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp theo chỉ tiêu được giao được thực hiện hiệu quả, khoa học, đủ số
lượng, tiêu chuẩn, đúng đối tượng. Riêng trong 3 năm (2006-2008), có 491 học sinh
được cử tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
Thực hiện tốt các chế độ hỗ trợ cho học sinh các trường dân tộc nội trú: cấp
không thu tiền sách giáo khoa, vở viết, học bổng; hỗ trợ 50% cho học sinh bán trú, hỗ
trợ kinh phí mua thẻ bảo hiểm thân thể cho học sinh v.v..
Công tác đào tạo nghề cho lao động DTTS được chú trọng. Từ năm 2006-2010,
toàn tỉnh đã đào tạo nghề cho 56.682 học sinh, sinh viên (trong đó có 19.653 người
DTTS), đạt 156,36% kế hoạch [159, tr.1].
Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện, học sinh học nghề có nhiều cơ hội
tìm việc làm và làm việc có hiệu quả hơn. Dạy nghề đã giải quyết việc làm, tự tạo
58
việc làm, nâng cao năng suất lao động và thu nhập cho khoảng 85,7% số học sinh tốt
nghiệp (học sinh DTTS khoảng 50%). Làm tốt công tác dạy nghề đã góp phần nâng
cao mặt bằng dân trí, thúc đẩy sự phát triển đa dạng các ngành nghề ở nông thôn,
vùng đồng bào DTTS, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; khơi dậy tính chủ
động tích cực vươn lên trong xoá đói giảm nghèo và phát huy được thế mạnh sẵn có
của địa phương.
Nhìn chung, kết quả lãnh đạo phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc còn nhiều
hạn chế, chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất hàng hoá còn chậm. Chất lượng sản
phẩm thấp nên gặp khó khăn trong tiêu thụ. Kết cấu hạ tầng ở một số vùng sâu, vùng
căn cứ cách mạng còn yếu kém. Tỉ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS còn cao so với
bình quân chung, công tác xoá đói giảm nghèo còn thiếu bền vững; khoảng cách
chênh lệch về mức sống giữa người DTTS so với người Kinh trên cùng địa bàn cư trú
có chiều hướng tăng. Năm 2004, tỉ lệ đói nghèo chiếm 30% số hộ người DTTS tại
chỗ theo tiêu chí cũ (với 43.646 hộ, hơn 322.000 khẩu). Giai đoạn 2006-2010, đã tập
trung ưu tiên nhiều nguồn lực cho các vùng có tỉ lệ hộ nghèo cao, nhiều chính sách
ưu tiên đối với người DTTS, từ đó tỉ lệ hộ nghèo ở các vùng này đã giảm; nhưng đến
cuối năm 2010, theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 vẫn còn 2 huyện có tỉ lệ hộ
nghèo trên 25%; 9 xã có tỉ lệ trên 40%. Tỉ lệ hộ nghèo là người DTTS giảm nhanh từ
48,26% năm 2005 xuống còn 14,98% năm 2010, nhưng tốc độ giảm nghèo của người
DTTS còn chậm hơn so với hộ người Kinh, nên tỷ trọng hộ nghèo DTTS trong tổng
số hộ nghèo ngày càng tăng lên (từ 52,35% đầu năm 2006 lên khoảng 61,75% cuối
năm 2010) [160, tr.13].
Số hộ nghèo phát sinh mới, tái nghèo vẫn còn cao (bình quân hằng năm trên
6.000 hộ), tập trung ở các vùng khó khăn, hộ DTTS. Nguyên nhân chủ yếu là chưa
biết cách sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa
phát huy tính tự giác, thế mạnh, các nguồn lực sẵn có, chưa quyết tâm làm ăn thoát
nghèo; một số hộ nghèo chưa được tiếp cận các chính sách của Nhà nước hoặc được
tiếp cận chưa kịp thời.
Thực hiện Chương trình 135 còn thiếu sót, chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc
“Xã có công trình dân có việc làm. Tăng thêm thu nhập từ việc tham gia lao động
công trình tại xã”. Một số địa phương thực hiện quy trình xây dựng và tổng hợp kế
hoạch vẫn còn tư tưởng bao cấp phân bổ từ trên xuống, chưa tạo điều kiện thuận lợi
59
cho người dân tham gia từ khâu quy hoạch, lựa chọn danh mục công trình đầu tư…
Đa số các công trình xây dựng: Giao thông, thuỷ lợi, điện, trường học các địa phương
giao cho các doanh nghiệp làm, rất ít nơi huy động Nhân dân tham gia. Việc lựa chọn
công trình đầu tư còn mang tính hình thức, chưa được sự bàn bạc thống nhất trong
Nhân dân, thiếu khảo sát thực tế nên nhiều công trình đầu tư không hợp lý, kém hiệu
quả thể hiện như công trình chợ trung tâm cụm xã Quảng Khê, huyện Krông Ana,
chợ Krông Nô huyện Lắk [139, tr.5]. Nhiều huyện, xã chưa thực hiện kịp thời hỗ trợ
cho học sinh con hộ nghèo đi học. Với Chương trình 134, Đắk Lắk thiếu quỹ đất để
bố trí cho hộ dân thiếu đất.
Về nhà ở, trước khi có Chương trình 134, tỉnh Đắk Lắk đã tập trung thực hiện
xoá nhà tạm, nhà dột nát, cấp tôn chống dột cho trên 11.000 hộ. Thực hiện Chương
trình 134, tỉnh Đắk Lắk đã chủ động hoàn thiện phương án, quy định rõ mức đóng
góp của tỉnh, huyện, đồng thời tuyên truyền, vận động Nhân dân cùng đầu tư vật tư,
nhân công. Một số huyện như Ea Kar đã hỗ trợ 4 triệu đồng cho một căn nhà, (quy
định là 1 triệu đồng), nâng mức hỗ trợ lên 12 triệu đồng/ căn nhà (trung ương: 5 triệu,
tỉnh: 3 triệu, huyện: 4 triệu); Krông Búk hỗ trợ 1.6 triệu, nâng giá trị một căn nhà lên
9,6 triệu đồng [171, tr.7].
Thực hiện Chương trình hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo theo Quyết định số
102/2009/QĐ-TTg dàn trải, chưa tạo được đủ nguồn lực để thoát nghèo. Theo quy
định đối với người dân thuộc hộ nghèo ở xã khu vực II, xã biên giới, vùng khó khăn
là 150.000 đồng/người/năm; hộ nghèo ở xã khu vực III vùng khó khăn là 200.000
đồng/người/năm là quá thấp.
2.2.3.2. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
Đắk Lắk là tỉnh đa dân tộc, đa văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, các dân tộc tỉnh Đắk Lắk đã tạo dựng nên những nét văn hóa hóa đa dạng,
phong phú, với những nét đặc trưng, tiêu biểu, vừa thể hiện bản sắc tộc người
vừa để phân biệt với các tộc người, các nhóm người khác. Tỉnh Đắk Lắk hiện
nay đã hội tụ 3 ba bộ phận văn hóa vùng miền: văn hóa các DTTS tại chỗ (các
dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên), văn hóa các DTTS phía Bắc và văn hóa của
dân tộc Kinh (gồm 3 ba miền Bắc - Trung - Nam). Các DTTS tại chỗ là một bộ
phận của dân tộc Việt Nam. Lịch sử phát triển văn hóa của các DTTS tại chỗ đã
60
góp phần làm phong phú hơn kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung,
tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
Tháng 11-2005, Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc
(UNESCO) công nhận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác
truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Ngày 13-7-2007, HĐND tỉnh thông qua
Nghị quyết số 10/NQ-HĐND, về Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng tỉnh
Đắk Lắk, giai đoạn 2007-2010. Từ năm 2007 đến năm 2010, UBND tỉnh chỉ đạo giao
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các Sở, ngành, địa phương triển khai
thực hiện, tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật truyền thống liên quan đến
không gian văn hóa cồng chiêng, góp phần tích cực trong việc gìn giữ, phát huy
những giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc tại chỗ ở Đắk Lắk.
Tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức 8 lớp truyền dạy cách đánh cồng chiêng cho 200
người các dân tộc tại chỗ từ độ tuổi 7 đến 16. Các huyện, thị xã, thành phố như thành
phố Buôn Ma Thuột mỗi năm tổ chức được 12 lớp, huyện Krông Pắk 5 lớp, huyện
Cư Kuin 5 lớp, huyện Krông Năng 5 lớp, huyện Buôn Đôn 3 lớp v.v. đưa số đội cồng
chiêng trẻ tăng từ 250 đội lên 330 đội, góp phần giáo dục ý thức bảo tồn văn hóa
truyền cho người đồng bào các dân tộc.
Với sự quan tâm đầu tư, quản lý, năm 2011, toàn tỉnh có 2.307 bộ chiêng đủ. Số
nghệ nhân biết diễn tấu cồng chiêng có 3.855 người; biết chỉnh chiêng có 393 người;
biết dạy đánh cồng chiêng có 635 người; biết sử dụng nhạc cụ tre nứa có 1.270 người;
có 2.608 nhà dài truyền thống; có 220 bến nước truyền thống; có 155 nghi lễ - lễ hội
truyền thống; thầy cúng các nghi lễ liên quan đến cồng chiêng có 734 người; số nghệ
nhân biết chế tác nhạc cụ tre nứa, gỗ, đá có 568 người… [166, tr.3].
Ngành văn hóa đã phục dựng một số lễ hội truyền thống, như: lễ cúng bến nước,
lễ kết nghĩa anh em, lễ cúng sức khỏe, lễ cúng vào nhà mới, lễ cúng lúa mới, lễ
cưới… Tỉnh tổ chức 2 cuộc liên hoan văn hóa cồng chiêng cấp tỉnh, 3 cuộc liên hoan
văn hóa cồng chiêng, nhạc cụ dân gian cấp cơ sở, góp phần tôn vinh văn hóa cồng
chiêng, tôn vinh các nghệ nhân diễn xướng cồng chiêng.
Tỉnh đã trang bị 128 bộ cồng chiêng cho các nhà sinh hoạt cộng đồng.
Những bộ chiêng này đã phát huy hiệu quả trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở
các buôn, làng.
61
Nhìn chung, việc triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa
cồng chiêng Đắk Lắk, giai đoạn 2007-2010 đã bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
cồng chiêng của đồng bào các dân tộc tại chỗ Đắk Lắk trong không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên; góp phần giáo dục ý thức trách nhiệm cho các thành viên
trong cộng đồng và toàn xã hội về việc gìn giữ có hiệu quả không gian văn hóa cồng
chiêng Đắk Lắk - Tây Nguyên [166, tr.4].
Đến năm 2010, hầu hết các xã trên địa bàn tỉnh đã có hệ thống loa truyền thanh
không dây tiếp sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và đài phát thanh tỉnh, đài truyền thanh
huyện… Triển khai thực hiện Quyết định 975/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện cấp không thu tiền 12 loại báo, tạp chí cho vùng
DTTS với tổng số 24.936 số báo mỗi kỳ phát hành; Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi
được dịch ra tiếng Ê-đê với số lượng 4.000 cuốn/số/tháng. Ngoài ra, tỉnh đã phát hành
17 số báo Thông tin Đắk Lắk bằng song ngữ Kinh - Ê-đê với 42.500 bản đến tận các
thôn, buôn trong toàn tỉnh. Việc phát hành báo, tạp chí cho vùng DTTS đã thực hiện
đúng quy định.
Tuy vậy, công tác quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa cồng chiêng nhằm
ngăn chặn tình trạng chảy máu cồng chiêng còn nhiều hạn chế. So với số liệu thống
kê năm 1993, năm 2011, ở Đắk Lắk đã thất thoát khoảng 2.000 bộ cồng chiêng. Việc
chỉ đạo công tác bảo tồn phát huy di sản Không gian văn hóa cồng chiêng, việc ban
hành các văn bản hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện ở các địa phương
chưa được chú trọng. Việc thực hiện đề án Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng
chiêng Đắk Lắk, giai đoạn 2007-2010 mới thực hiện được 50% nội dung [166, tr.5].
2.2.3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở tỉnh Đắk Lắk, đội ngũ cán bộ
người DTTS cùng với cán bộ người Kinh trong tỉnh có những đóng góp to lớn. Tuy
nhiên, đội ngũ cán bộ DTTS còn ít về số lượng, chất lượng còn nhiều hạn chế so với
yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TU, ngày 26-7-1999, về việc đào tạo và sử
dụng cán bộ dân tộc, tỉnh Đắk Lắk đã quan tâm đào tạo học sinh dân tộc ở các trường
dân tộc nội trú, các trường trung học chuyên nghiệp; thực hiện tốt chế độ đối với giáo
viên dạy các trường nội trú và học sinh, sinh viên dân tộc; tiếp nhận và phân công
công tác đối với số học sinh tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp và đại
62
học, đồng thời quan tâm bồi dưỡng những người có triển vọng, ưu tiên bố trí vào các
chức danh lãnh đạo, quản lý phù hợp với năng lực và sở trường công tác.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII tiếp tục xác định, công tác cán bộ
DTTS là một nhiệm vụ quan trọng:
Quan tâm việc đào tạo và bố trí công tác cho cán bộ là người dân tộc thiểu số;
trước mắt giải quyết việc làm cho những học sinh đã tốt nghiệp các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Tổ chức tốt việc giáo dục và nuôi dưỡng học
sinh dân tộc tại các trường nội trú và các trường dạy nghề [2, tr.74].
Thực hiện các chủ trương trên, công tác cán bộ DTTS đã có những chuyển biến
tích cực, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết tốt, lúng túng khi triển khai
cụ thể. Trước yêu cầu mới về đội ngũ cán bộ DTTS, Tỉnh ủy Đắk Lắk đã ra Nghị quyết
chuyên đề số 05-NQ/TU, ngày 14-01-2005, Về lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số từ nay đến năm 2010. Nghị quyết đã đưa ra 4 quan điểm chỉ đạo và phấn
đấu đến năm 2010 nâng tỉ lệ cán bộ DTTS trong đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức
đạt 15% trở lên, trong đó, chú trọng cán bộ DTTS tại chỗ. Tỉ lệ cán bộ DTTS tham gia
các chức danh chủ chốt: cấp tỉnh, huyện từ 20% trở lên, cấp ủy cơ sở đạt 15% trở lên,
cấp ủy xã, phường, thị trấn đạt 23% trở lên; HĐND cấp tỉnh đạt 35% trở lên, cấp
huyện, thành phố đạt 27% trở lên, cấp xã, phường, thị trấn đạt 30% trở lên; Trong đội
ngũ cán bộ chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở phải có cán bộ DTTS, lãnh đạo sở, ban, ngành,
Mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh phải có tỉ lệ cán bộ DTTS thích hợp, đặc biệt là cán bộ
DTTS tại chỗ. Cán bộ cấp phòng của tỉnh, huyện phải ưu tiên bố trí cán bộ DTTS.
Nghị quyết cũng xác định 5 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:
Một là, tập trung nâng cao nhận thức cho các cấp ủy đảng, các tổ chức và cán
bộ, đảng viên trong HTCT từ tỉnh đến cơ sở về ý nghĩa và tầm quan trọng của công
tác cán bộ DTTS;
Hai là, tiến hành đồng bộ việc khảo sát đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào
tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ DTTS đương chức;
Ba là, tiếp tục tăng cường đào tạo nguồn cán bộ DTTS;
Bốn là, làm tốt hơn nữa việc bố trí, sử dụng số học sinh, sinh viên DTTS đã tốt
nghiệp PTTH trở lên;
Năm là, nghiên cứu ban hành các chế độ, chính sách đối với học sinh và cán
bộ DTTS.
63
Thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã xây dựng Quy
định về tiêu chuẩn, chức danh cho cán bộ, trong đó có cán bộ DTTS, nhằm từng bước
bảo đảm được tỉ lệ cán bộ DTTS hợp lý trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các
ngành, các cấp. Cùng với việc xây dựng tiêu chuẩn, chức danh riêng cho cán bộ
DTTS, tỉnh đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để động viên đội ngũ cán bộ DTTS
nâng cao trình độ về chuyên môn và lý luận chính trị.
Để thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30-11-2004 của Bộ Chính trị Về
công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 34/2006/QĐ-TTg ngày 8-2-2006, Phê duyệt đề
án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số
giai đoạn 2006-2010. Quán triệt quan điểm của Đảng và cụ thể hóa Đề án của Chính
phủ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch số 21-KH/TU, ngày 02-7-2007,
Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh và cán bộ xã, phường,
thị trấn giai đoạn 2007-2010. Trong đó, xác định mục tiêu, đối tượng cán bộ xã,
phường, thị trấn người DTTS theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức.
Ủy ban Nhân dân tỉnh, Sở Nội vụ đã chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên
quan xây dựng đề án nâng cấp các cơ sở đào tạo cán bộ của tỉnh; sửa đổi bổ sung, ban
hành và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh và
cán bộ cấp xã, phường, thị trấn người DTTS khi tham gia các khóa đào tạo, bồi
dưỡng trong và ngoài tỉnh.
Với sự quan tâm của các cấp, các ngành, thực hiện nhiều chương trình, giải
pháp công tác, đội ngũ cán bộ DTTS (từ tỉnh đến cơ sở), đã đạt những kết quả quan
trọng, tăng lên đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ cán bộ DTTS đã từng
bước đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước;
cơ bản đạt được tỉ lệ cán bộ dân tộc tại chỗ hợp lý ở các cấp, các ngành trong tỉnh.
Tổng số cán bộ, công chức, viên chức trong toàn tỉnh năm 2010 là 39.799
người (khối đảng, đoàn thể có 1.523 người; khối hành chính, sự nghiệp có 38.276
người). Trong đó, cán bộ DTTS có 4.635 người, chiếm 11,62%, tăng 0,39% so với
năm 2005 (cấp tỉnh: các ban Đảng và đoàn thể của tỉnh có tỉ lệ cán bộ dân tộc đạt
9,12%, khối sở, ban, ngành của tỉnh đạt 9,47%, cấp huyện, thị xã, thành phố đạt
9,56%) [121, tr.2].
64
Tuy vậy, so với yêu cầu thực tế, số cán bộ DTTS được tuyển dụng vào công tác
ở các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị có tăng nhưng không nhiều so với tỉ lệ
chung (năm 2000 tỉ lệ cán bộ DTTS là 10,8% thì năm 2005 là 11,23%, đến 2010 đạt
11,62%). Sự phân bố cán bộ không đều, cán bộ DTTS ở các cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp có tỉ lệ thấp hơn so với cơ quan đảng, đoàn thể. Một số cấp uỷ, cơ quan, đơn
vị đã thực hiện tốt công tác quy hoạch, bố trí, tiếp nhận, sử dụng, bổ nhiệm, nên đội
ngũ cán bộ DTTS đã đạt tỉ lệ cao như: Ban Dân tộc 40%, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
27,27%, huyện Lắk 25,96%, Ủy ban MTTQ tỉnh 19,23%, Đoàn đại biểu Quốc hội và
HĐND tỉnh 18%, Ban Tổ chức Tỉnh uỷ 17%... Tuy nhiên, tỉ lệ cán bộ DTTS tham gia
vào công tác quản lý kinh tế, quản lý nhà nước còn ít [121, tr.3].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ DTTS, nhất là cán bộ nguồn được Tỉnh uỷ,
HĐND, UBND các cấp tỉnh Đắk Lắk đặc biệt quan tâm. Số lượng học sinh DTTS
được cử tuyển đi học văn hoá, chuyên môn ngày càng tăng. Tỉnh đã gửi nhiều con em
của cán bộ, gia đình cách mạng là người DTTS đi đào tạo tại các trường, các ngành
kinh tế, quân đội, công an...
Trình độ của cán bộ DTTS đã được nâng lên rõ rệt. Năm 2010, ở cấp tỉnh cán
bộ có trình độ đại học trở lên là 69% tăng 25,5% so với năm 2005; Cấp huyện có
61% tăng 18% so với năm 2005; Ở cấp xã đã có 60% cán bộ có trình độ học vấn tốt
nghiệp trung học phổ thông (THPT). Trình độ lý luận chính trị cao cấp và cử nhân
chính trị, cấp tỉnh có 13,17% tăng 4,4% so năm 2005, cấp huyện có 15,38% tăng
11,4% so với năm 2005; cấp xã là 3,5% tăng 1,5% so với năm 2005. Năng lực công
tác của đội ngũ cán bộ DTTS, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng so với mặt bằng chung
của tỉnh, có mặt vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Giai đoạn 2005-2010, có hơn 4.000 học sinh DTTS theo học tại các trường dân
tộc nội trú, trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, đại học. Tỉ lệ học sinh
trúng tuyển các trường cao đẳng, đại học ngày càng tăng. Trong số 769 học sinh của
trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh tốt nghiệp, có 186 học sinh trúng tuyển đại học,
đạt 24,16%; 27 học sinh trúng tuyển cao đẳng đạt 3,1%; trung cấp 25 học sinh, đạt
3,0% [121, tr.3].
Trong 5 năm, Trường Công nhân kỹ thuật Cơ điện đã đào tạo 750 học sinh là
DTTS, đã có 419 học sinh có việc làm. Trường Trung học Y tế đào tạo được hơn 300
học sinh, hầu hết đã bố trí công tác tại các trạm, trung tâm y tế tuyến cơ sở.
65
Trường Đại học Tây Nguyên đã tiếp nhận 803 học sinh DTTS vào học; Trường
Cao đẳng sư phạm Đắk Lắk tiếp nhận 250 học sinh; Trường Đại học dự bị Nha Trang
tiếp nhận 75 học sinh; Trường Văn hóa 3 Bộ Công an tiếp nhận 241 học sinh; các
trường đại học khác ngoài tỉnh đào tạo khoảng hơn 200 học sinh.
Các cấp uỷ quan tâm giáo dục lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức quản lý
hành chính và nghiệp vụ của các đoàn thể, nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ
cán bộ DTTS và bảo đảm tiêu chuẩn chức danh cán bộ theo quy định.
Ban Tổ chức Tỉnh uỷ đã phối hợp với Sở nội vụ, Trường Đại học Tây Nguyên
tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tuyển sinh hình thức cử tuyển 01 lớp đại học
chuyên ngành Kinh tế nông lâm cho 50 sinh viên người DTTS và đã tốt nghiệp ra
trường năm 2008; đồng thời, tuyển chọn và cử 28 học sinh là người DTTS gửi đi học
các trường đại học tại Hà Nội. Phối hợp với trường Quân sự địa phương tuyển sinh 2
lớp Trung cấp quân sự cho 232 học viên, sau khi tốt nghiệp ra trường, bố trí làm công
tác quân sự tại các xã, phường, thị trấn.
Năm 2005, Công an tỉnh đã phối hợp với các sở, ban ngành tham mưu cho Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ, Bộ Công an mở 01 lớp sơ cấp công an, đối tượng là con em
người DTTS đã tốt nghiệp từ THCS trở lên.
Để động viên cho học sinh, sinh viên con em người DTTS, tỉnh đã bổ sung mức
sinh hoạt phí cho học sinh DTTS học ở các trường dân tộc nội trú 50.000 đồng/học
sinh/tháng, đưa mức sinh hoạt phí từ 120.000 đồng lên 170.000 đồng/tháng; đồng
thời hằng năm tổ chức gặp mặt, tặng quà, khen thưởng cho học sinh có thành tích cao
trong học tập.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS còn
một số hạn chế: Tỉ lệ học sinh bỏ học còn cao; tỉ lệ học sinh DTTS, không tốt nghiệp
THPT còn lớn. Tỉ lệ cán bộ là người DTTS đang công tác tại các cơ quan, đơn vị, địa
phương còn thấp, mới đạt 11,6% (mục tiêu đến năm 2010 là 15% trở lên). Ở một số
địa phương, đơn vị còn thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý là người DTTS; tính kế thừa
giữa các thế hệ cán bộ DTTS chưa bảo đảm, còn có tình trạng hụt hẫng. Một số cấp
uỷ, địa phương chưa mạnh dạn bố trí, sử dụng cán bộ là người DTTS trẻ, có trình độ
về chuyên môn. Cá biệt có một số đơn vị chưa bố trí được cán bộ người DTTS như:
Ban Dân vận Tỉnh uỷ, Báo Đắk Lắk, Đảng uỷ khối các cơ quan tỉnh, Sở Thông tin -
Truyền thông… [121, tr.6].
66
Việc quản lý, sử dụng học sinh DTTS sau khi tốt nghiệp ở các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp còn khó khăn và lúng túng. Số học sinh, sinh viên
DTTS hiện chưa được bố trí sử dụng còn nhiều, nhất là học sinh tốt nghiệp THPT.
Việc nắm bắt thông tin về số học sinh, sinh viên theo học ở từng ngành nghề, từng
trường chưa được thực hiện một cách có hệ thống, vì vậy chưa có kế hoạch để bố trí
sử dụng.
2.2.3.4. Công tác quốc phòng - an ninh vùng dân tộc thiểu số
Tình hình an ninh chính trị tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng, địa bàn Tây Nguyên nói
chung diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch và phản động tiếp tục gia tăng các
hoạt động chống phá trên nhiều lĩnh vực. Các phần tử FULRO lưu vong tăng cường
hoạt động móc nối, lôi kéo, tập hợp lực lượng, phục hồi tổ chức với ý đồ thành lập
"Nhà nước Đề Ga tự trị” ở vùng Tây Nguyên do Ksor Kơk cầm đầu. Chúng liên tục
kích động người thân và số đối tượng cầm đầu, tổ chức lôi kéo, mua chuộc, tụ tập
một số quần chúng theo "Tin lành Đề Ga", chỉ đạo tiến hành các hoạt động tuyên
truyền, phát tán các tài liệu phản động dưới nhiều hình thức. Đặc biệt, chúng đã
mua chuộc, dụ dỗ, đe dọa và kích động lôi kéo một số đồng bào DTTS gây ra cuộc
bạo loạn chính trị vào tháng 2-2001 và tháng 4-2004 tại thành phố Buôn Ma Thuột.
Sau đó, chúng kích động lôi kéo người DTTS vượt biên trái phép sang Campuchia
nhằm thực hiện chiêu bài tị nạn chính trị, tố cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn
áp tôn giáo, chiếm đất của người DTTS, đồng thời xây dựng lực lượng để tiếp tục
chống phá cách mạng.
Tỉnh Đắk Lắk có 04 xã biên giới, thuộc 02 huyện Buôn Đôn (xã Krông Na), và
huyện Ea Súp (xã Ea Bung, Ia Lốp và Ia R’Vê), tiếp giáp với tỉnh Mônđunkiri, Vương
quốc Campuchia. Các xã này đều nằm ở vùng sâu, diện xung yếu về an ninh, quốc
phòng với tổng chiều dài đường biên là 73 km. 4 xã có 51 thôn, buôn. Trong đó có 36
thôn người Kinh và 15 thôn, buôn người DTTS; tổng số 5.677 hộ, 21.275 người thuộc
26 dân tộc, chủ yếu là dân tộc Kinh, chiếm 59,98%; người DTTS chiếm 40,02%, trong
đó người DTTS tại chỗ (Ê-đê; Mnông; Gia-rai) chiếm 16,61% [131, tr.1].
Nhận thức rõ mối quan hệ dân tộc, tôn giáo và quốc phòng - an ninh, nhằm lãnh
đạo, chỉ đạo đồng bộ công tác quốc phòng - an ninh, phát động quần chúng, giải quyết
triệt để vấn đề FULRO, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành nhiều văn bản
chỉ đạo: Chỉ thị 05-CT/TU, ngày 16-5-2001 của Thường vụ Tỉnh ủy, Về tăng cường
67
công tác vận động quần chúng và nhiệm vụ bảo vệ biên giới trong tình hình mới; Chỉ
thị số 12-CT/TU ngày 26-3-2001 của Thường vụ Tỉnh ủy Về việc đẩy mạnh công tác
phát động quần chúng và đấu tranh ngăn chặn, chống biểu tình, bạo loạn, vượt biên,
Nghị quyết 12-NQ/TU, ngày 28-6-2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Về thực hiện chủ
trương của Trung ương đối với đạo Tin lành; Kế hoạch 01-KH/TU, ngày 22-6-2011
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Về đấu tranh xóa bỏ "Tin lành Đề Ga"…
Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các huyện ủy, thành ủy, Đảng ủy trực thuộc, các Ban
cán sự Đảng, Đảng đoàn, các cơ quan ban ngành quan tâm tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ công tác trọng tâm [110, tr.2-3]:
Công tác phát động quần chúng, giữ vững ổn định an ninh trật tự ở cơ sở:
Đảng bộ tập trung tuyên truyền, giáo dục quần chúng hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch và phản động; khơi dậy truyền thống cách mạng, tinh thần
đoàn kết của Nhân dân các dân tộc; khẳng định những chủ trương, chính sách đúng
đắn của Đảng và Nhà nước đồng thời quan tâm giải quyết những đề nghị chính đáng,
bức xúc của đồng bào DTTS theo đúng chính sách và phù hợp với điều kiện kinh tế
của địa phương.
Đảng bộ đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công tác vận động quần
chúng, xác định rõ trách nhiệm của cấp huyện và cơ sở trong việc chủ động thực
hiện, tăng cường cán bộ xuống các thôn, buôn vùng DTTS trọng điểm; huyện cử cán
bộ xuống tăng cường cho cơ sở, số cán bộ này sẽ tham gia vào bộ máy cấp ủy, chính
quyền và các đoàn thể ở xã thôn buôn. Cùng với làm tốt công tác vận động quần
chúng, củng cố kiện toàn HTCT bảo đảm chất lượng. Các cấp ủy nắm chắc tình hình
và chủ động ứng phó khi tình hình xảy ra, chú trọng xây dựng cốt cán ở thôn, buôn;
giác ngộ cho quần chúng, không để địch kích động lôi kéo trốn ra rừng; đẩy mạnh sản
xuất, nâng cao đời sống; xây dựng HTCT cơ sở vững mạnh.
Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể các cấp, lực lượng công an,
quân sự, biên phòng làm tốt công tác vận động quần chúng, chủ động nắm tình hình,
thực hiện các biện pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu lôi kéo người trốn vượt biên
ra nước ngoài. Triển khai các phương án chốt chặn biên giới, nhằm ngăn chặn có hiệu
quả tình hình vượt biên trái phép.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng tăng cường chế độ đi công tác ở
cơ sở, xây dựng phong cách làm việc sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng; thực hiện
68
phương châm "trực tiếp nghe dân nói, nói cho dân nghe và làm cho dân thấy"; thật sự
chuyển mạnh về cơ sở để giúp cho cơ sở tháo gỡ những khó khăn, khắc phục yếu
kém vươn lên hoạt động có hiệu quả thiết thực.
Các cơ quan hành chính - sự nghiệp, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và các
doanh nghiệp nhà nước nhận kết nghĩa với các xã vùng sâu, vùng xa, các xã DTTS
còn nhiều khó khăn, để tạo điều kiện cho các xã này phát triển toàn diện.
Thực hiện đường lối đổi mới, đời sống vùng đồng bào DTTS khu vực biên giới
từng bước được cải thiện một bước. Tuy vậy, kinh tế chủ yếu vẫn thuần nông, khí hậu
khắc nghiệt, dân cư biến động phức tạp, trình độ dân trí thấp, chủ yếu là dân tộc ít
người và di dân từ nhiều vùng đến, mặt khác một số dự án đầu tư kém hiệu quả dẫn
đến đời sống của Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo bình quân của 4
xã biên giới vẫn là 50,5%, riêng đồng bào DTTS chiếm hơn 65% [131, tr.3].
Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn các xã biên giới
cơ bản ổn định; an ninh - quốc phòng được giữ vững; HTCT tiếp tục được củng cố,
kiện toàn; hiệu lực điều hành của chính quyền các cấp ngày càng được nâng lên. Tuy
nhiên, tình trạng khiếu kiện vẫn kéo dài, nổi cộm là vấn đề đòi đất sản xuất ở một số
địa phương thuộc huyện Ea Súp. Tư tưởng, tâm trạng của đồng bào DTTS khu vực
biên giới ổn định. Đồng bào tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành
của chính quyền và hoạt động của HTCT.
Trên địa bàn 4 xã biên giới có 3 tôn giáo đang hoạt động, trong đó Công giáo có
451 tín đồ; Tin lành có 331 tín đồ; Phật giáo có 185 tín đồ. Nhà nước mới công nhận
1 điểm nhóm Tin lành tại xã Ia R'vê, số còn lại chủ yếu sinh hoạt tại nhà. Đồng bào
các tôn giáo chấp hành tốt mọi chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
những quy định của địa phương [131, tr.9].
Các ngành, các cấp tổ chức tuyên truyền cho Nhân dân hai bên biên giới về
quan điểm đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nắm vững và chấp hành
Luật biên giới quốc gia, các hiệp định, hiệp nghị, quy chế quản lý biên giới..., góp
phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, láng giềng thân thiện, hợp tác
cùng phát triển.
Công tác phối hợp của bộ đội biên phòng với cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương về xây dựng HTCT, phát triển kinh tế văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh quốc
phòng các xã biên giới thường xuyên được quan tâm.
69
Tỉnh ủy lãnh đạo Đảng đoàn Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh thực hiện tốt công
tác đối ngoại Nhân dân. Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Đắk Lắk đã ký cam kết “Xây
dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị” với Mặt trận đoàn kết phát triển Tổ quốc
tỉnh Mônđulkiri (Campuchia). Trong quá trình triển khai thực hiện cam kết, Ban
Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã phối hợp chặt chẽ với Bộ đội Biên
phòng tỉnh và các đơn vị vũ trang đóng trên địa bàn tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền địa phương triển khai kế hoạch, cụ thể hóa nội dung cam kết đã ký trên địa bàn
04 xã của hai huyện biên giới, gắn nội dung thực hiện phong trào “Quần chúng bảo
vệ an ninh biên giới” với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa". Trong đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho Nhân dân hiểu về truyền thống
đoàn kết, gắn bó, mối quan hệ hữu nghị giữa Nhân dân hai nước Việt Nam -
Campuchia; tầm quan trọng việc “Xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị”
giữa Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Đắk Lắk (Việt Nam) với Mặt trận đoàn kết phát
triển Tổ quốc tỉnh Mônđulkiri (Campuchia), tạo sự ổn định cho quan hệ lâu dài láng
giềng, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Mặt trận huyện, xã biên giới đã thực hiện tốt quy chế biên giới; phối hợp với
chính quyền, các đồn biên phòng đóng trên địa bàn tổ chức các hoạt động giao lưu,
tặng quà cho các tổ chức đoàn thể, và các đồn biên phòng tỉnh bạn; hai bên phối hợp
cùng tuần tra, kiểm soát vùng biên giới; phối hợp phòng chống các loại tội phạm;
thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp hành động trong việc tạo lập vùng biên
giới bình yên, góp phần tăng cường, củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa Nhân dân
hai nước Việt Nam - Campuchia.
Mặc dù đã được quan tâm và đạt nhiều kết quả, nhưng so với yêu cầu công tác
vận động đồng bào DTTS, còn một số hạn chế, đó là: Công tác dân vận vùng đồng
bào DTTS chưa thường xuyên liên tục; chưa xây dựng nghị quyết chuyên đề về công
tác dân vận vùng đồng bào DTTS; công tác tổng kết chưa được quan tâm đúng mức,
thường gắn với các nội dung tổng kết công tác dân vận.
2.2.3.5. Thực hiện các chính sách đặc thù khác
- Phát triển kinh tế - xã hội thôn, buôn đồng bào DTTS tại chỗ
Tỉnh Đắk Lắk đã quan tâm đầu tư xây dựng phát triển kinh tế - xã hội buôn,
thôn, trọng tâm ưu tiên là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo thuận lợi
cho sản xuất, lưu thông hàng hóa và cuộc sống của Nhân dân. Năm 2004, toàn tỉnh có
70
164/165 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 100% số xã có điện sinh hoạt. Cuộc sống
của người DTTS tại chỗ được cải thiện, số hộ nghèo giảm, số hộ khá và giàu chiếm
13,36%. Công tác định canh, định cư cơ bản hoàn thành, 86% số hộ ổn định về đất ở,
đất sản xuất [123, tr.2].
Tuy vậy, trong năm đầu chia tách, nền kinh tế của tỉnh Đắk Lắk vẫn trong tình
trạng có điểm xuất phát thấp, hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém. Việc áp dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật chưa được đẩy mạnh; đầu tư phát triển kinh tế - xã hội còn dàn
trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, nhiều khâu trung gian; đầu tư trực tiếp đến người
dân còn ít.
Từ thực tế trên, Tỉnh ủy Đắk Lắk đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày
17-11-2004, về phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào DTTS tại chỗ đến năm
2010, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào DTTS tại chỗ
gắn với định canh, định cư, XĐGN, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng
bào DTTS tại chỗ. Tỉnh ủy xác định mục tiêu đến năm 2010: Số hộ nghèo DTTS tại
chỗ còn dưới 10%; đào tạo, bồi dưỡng nghề cho 30-40% lao động; trên 95% số hộ
dùng điện. Trước mắt đến năm 2005, 100% đồng bào DTTS tại chỗ không còn du
canh du cư.
Đến năm 2010, giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên khu vực đồng bào DTTS tại chỗ
xuống còn 1,27% (năm 2004 là 1,61%); thu hút 100% số trẻ em trong độ tuổi mầm
non và tiểu học đến trường, thực hiện phổ cập giáo dục THCS vào năm 2009. Đến
năm 2010, tất cả các buôn có nhà giữ trẻ, lớp mẫu giáo, 100% buôn có nhà sinh hoạt
văn hóa cộng đồng, 100% số buôn có cán bộ y tế, có tủ thuốc sơ cấp cứu ban đầu.
Tập trung thực hiện Quyết định 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, hoàn
thành vào năm 2006. Xây dựng các khu giãn dân, tách hộ; lập các khu dân cư mới nội
vùng đối với đồng bào DTTS tại chỗ.
Nhiệm vụ và giải pháp về kinh tế: Thực hiện nhanh tiến độ giải quyết đất ở, đất
sản xuất cho đồng bào DTTS tại chỗ, phấn đấu hoàn thành vào năm 2006. Đưa tiến
bộ khoa học - kỹ thuật, giống mới vào sản xuất, chăn nuôi. Hằng năm hỗ trợ đầu tư
sản xuất mô hình tiên tiến (tối thiểu từ 1-2 mô hình/xã, quy mô từ 3 - 5 ha đối với mô
hình trồng trọt). Đối với hộ khó khăn buôn vùng III: Năm đầu tiên không thu tiền,
năm thứ 2 hỗ trợ 70%, năm thứ 3 hỗ trợ 50%. Đối với các hộ buôn vùng II: Đầu tư 2
năm, mỗi năm hỗ trợ 50%. Riêng về chăn nuôi trâu bò, đầu tư cho vay 1 con bò đối
71
với các hộ khó khăn. Sau 3 năm hộ được vay phải trả lại 1 con bò để tiếp tục cho hộ
khác vay, ngân sách tỉnh hỗ trợ phần lãi suất.
Có chủ trương và chính sách cụ thể để xây dựng đội ngũ khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến công ở các buôn. Phấn đấu mỗi buôn đồng bào DTTS tại chỗ
có 1 cán bộ.
Có phương án giao đất, giao rừng cho hộ, nhóm hộ hoặc từng buôn để quản lý
bảo vệ và hưởng lợi từ rừng. Mỗi hộ ít nhất được nhận 10 ha trở lên; nhóm hộ, hoặc
từng buôn, thôn giao theo khả năng quản lý và số lượng diện tích rừng ở từng vùng
với mức khoán hợp lý. Đối với rừng sản xuất, được giao khoán ổn định lâu dài. Tỉnh
bố trí một phần ngân sách để hỗ trợ cây giống trồng phân tán trong vườn, rẫy. Đối với
đất trống lâm nghiệp, cần xác định rõ nguồn gốc, giao cho các lâm trường liên kết
giao khoán trồng rừng với đồng bào.
Phấn đấu thực hiện mục tiêu nhựa hóa, bê tông hóa đường liên buôn, đường
nội bộ buôn. Đầu tư mới và nâng cấp sửa chữa các công trình thủy lợi thiết yếu
phục vụ cho sản xuất và đời sống của đồng bào. Số hộ đồng bào DTTS tại chỗ năm
2004 chưa có điện ở 365 buôn, thuộc 72 xã phải đầu tư đường dây trung áp 702 km,
đường hạ áp 962 km và trạm biến áp để kéo điện vào hộ đồng bào. Từng bước xây
dựng một số làng nghề để thu hút lao động, góp phần giải quyết đời sống cho đồng
bào DTTS tại chỗ.
Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, các điểm đại lý mua bán theo quy hoạch của
ngành thương mại để thu mua, cung ứng các loại hàng hóa nhu yếu phẩm tiêu dùng
đến Nhân dân ở các buôn, thôn; khắc phục tình trạng để tư thương ép cấp, ép giá đối
với đồng bào. Các ngân hàng kinh doanh, nhất là ngân hàng chính sách xã hội, có kế
hoạch giúp dân vay đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm…
Nhiệm vụ và giải pháp về xã hội: Tỉnh ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm là nâng
cao dân trí, chú ý lực lượng thanh thiếu niên. Đào tạo xây dựng đội ngũ giáo viên là
người DTTS tại chỗ, nâng cao chất lượng dạy và học trong vùng đồng bào DTTS.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, phấn đấu đến 2010, có
thêm 417 nhà. Động viên các đơn vị kết nghĩa, các đơn vị kinh tế để giúp các buôn
trang bị các dụng cụ, thiết bị phục vụ sinh hoạt của đồng bào trong nhà sinh hoạt văn
hóa cộng đồng.
72
Ưu tiên đầu tư những công trình phục vụ sản xuất trước, các công trình phúc lợi
xã hội sau; ưu tiên đầu tư trực tiếp cho từng hộ, kết hợp với đầu tư gián tiếp. Đầu tư
phát triển phải thực hiện lồng ghép các dự án với các chương trình mục tiêu; các
chương trình dự án đầu tư có liên quan trực tiếp đến người dân phải được sự giám sát,
quản lý của Nhân dân.
Huy động các nguồn lực phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội buôn,
thôn; tranh thủ tối đa nguồn ngoại lực, huy động tốt nội lực và sự đóng góp của toàn
xã hội theo phương châm: Nhà nước hỗ trợ, các thành phần kinh tế và Nhân dân các
dân tộc cùng chia sẻ, giúp đỡ đối với đồng bào DTTS tại chỗ. Động viên tinh thần tự
chủ, tự lực tự cường của từng hộ, từng buôn, thôn để phát triển kinh tế hộ, coi kinh tế
hộ là nhiệm vụ trọng tâm, phát triển kinh tế hộ trong đồng bào DTTS tại chỗ để làm
cơ sở phát triển toàn diện kinh tế buôn, thôn.
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn là một chương trình tổng
thể bao gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực; có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế - xã hội và
quốc phòng - an ninh. Ưu tiên đầu tư các dự án có trọng tâm, trọng điểm và nhu cầu
bức thiết.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk
Lắk đã ban hành Quyết định số 1769/QĐ-UBND, ngày 23-9-2005 về bố trí vốn đầu
tư trực tiếp cho 13 buôn tại 13 huyện, thành phố để thí điểm các mô hình đầu tư nhằm
thực hiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn. Sau đó, ngày 27-6-
2008, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình số 2463/CT-UBND, về phát triển kinh
tế - xã hội buôn, thôn đồng bào DTTS tại chỗ. Chương trình 2463/CT-UBND đã đạt
nhiều kết quả quan trọng:
Về kinh tế, để huy động vốn đầu tư, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành
tập trung khai thác mọi nguồn lực trong xã hội, lồng ghép các Chương trình đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội thôn, buôn đồng bào DTTS tại chỗ. Trong đó chủ yếu là
vốn ngân sách địa phương, vốn các Chương trình Mục tiêu Quốc gia, Chương trình
hỗ trợ có mục tiêu (như Chương trình 135, 132, 134, 139, 661, 168, 304, 33…) với
tổng số vốn trên 1.400 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 2,89 triệu
đồng/người/năm (năm 2005) lên 5,9 triệu đồng/người/năm (năm 2010). Giá trị sản
xuất đất nông nghiệp tăng từ 7,2 triệu đồng/ha (năm 2005) lên 29,5 triệu đồng/ha
(năm 2010). Tỉ lệ đồng bào dùng điện tăng từ 48% lên 91,4%.
73
Về xã hội, tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 48,26% năm 2005 xuống còn 14,98% năm
2010 (theo chuẩn nghèo 2005). Đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn hướng dẫn kỹ thuật,
nghiệp vụ ngành nghề cho lao động phổ thông trong khu vực đồng bào DTTS tăng từ
15% năm 2008 lên 41,1% năm 2010. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên trong khu vực đồng
bào DTTS giảm từ 2,14% năm 2005 xuống còn 1,61% năm 2010. Tỉ lệ trẻ đi mẫu
giáo trong độ tuổi đạt 64,21%. Năm 2009, toàn tỉnh đã đạt chuẩn phổ cập THCS. Tỉ
lệ thôn, buôn có điểm trường hoặc lớp mẫu giáo tăng từ 35% (năm 2008) lên 79,13%
(năm 2010). Tỉnh Đắk Lắk cơ bản hoàn thành việc xây dựng nhà sinh hoạt văn hóa
cộng đồng tại các buôn; có 100% buôn, thôn đồng bào DTTS có cán bộ y tế, được
trang bị túi thuốc, tủ thuốc sơ cấp cứu [160, tr.2].
- Tăng cường kết nghĩa với các buôn dân tộc thiểu số tại chỗ
Thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TU, ngày 3-3-2003 của Tỉnh ủy về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng ở thôn, buôn, tổ dân phố, các huyện, thành phố trong tỉnh đã triển
khai nhiều biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, xây
dựng, củng cố HTCT ở cơ sở, nhất là đối với vùng đồng bào DTTS. Trong đó, một số
huyện và thành phố Buôn Ma Thuột đã phân công các cơ quan, đơn vị hành chính sự
nghiệp; các xã, phường, thị trấn không có buôn đồng bào DTTS, kết nghĩa với các
buôn đồng bào DTTS tại chỗ.
Đầu năm 2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành Công văn số 75-CV/TU,
ngày 22-03-2004, chỉ đạo Ban cán sự Đảng UBND tỉnh, Ban Thường vụ các huyện
ủy, Thành ủy, Ban Dân vận tỉnh ủy đẩy nhanh hơn nữa công tác tổ chức các cơ quan,
đơn vị kết nghĩa với các buôn, thôn đồng bào DTTS nhằm giúp cho các buôn, thôn
đồng bào DTTS sớm ổn định tình hình và phát triển toàn diện về mọi mặt.
Thực hiện Công văn số 75-CV/TU, ngày 26-09-2006, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã
xây dựng Hướng dẫn số 07- HD/DVTU, về việc triển khai kết nghĩa giữa các thôn
người Kinh với các buôn đồng bào DTTS, giữa các tổ chức đoàn thể vùng người
Kinh với các tổ chức đoàn thể vùng đồng bào DTTS trên toàn tỉnh.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các huyện, thị, thành ủy đã tổ chức hội nghị
quán triệt triển khai đến tất cả các tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên và Nhân
dân. Đến năm 2010, Tỉnh ủy đã phân công 1.001 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,
trường học do huyện, thị, thành phố quản lý kết nghĩa với 598 buôn trên tổng số 598
buôn; có 663 thôn, tổ dân phố vùng người Kinh kết nghĩa với 430 buôn đồng bào
74
DTTS; có 43 xã, đoàn thể cấp xã kết nghĩa với buôn, 686 chi hội phụ nữ người Kinh
kết nghĩa với 472/557 chi hội phụ nữ buôn đồng bào DTTS (đạt 84,74%); có 488 chi
hội nông dân người Kinh kết nghĩa với 536 buôn đồng bào DTTS (đạt 91%); có 449
Hội, chi hội Cựu chiến binh người kinh các cấp kết nghĩa với 391/516 hội, chi hội
đồng bào DTTS (đạt 75,8%); có 523 tổ chức đoàn các cấp kết nghĩa với 319/532 chi
đoàn buôn đồng bào DTTS (đạt 60%). Có 11.323 hộ gia đình phụ nữ người kinh kết
nghĩa với 8.009 hộ gia đình phụ nữ DTTS [119, tr.3].
Trong 6 năm (2004-2010), các cơ quan đơn vị cử hơn 30 nghìn lượt cán bộ về
buôn công tác và hàng chục nghìn ngày công lao động; tổ chức hàng nghìn buổi
tuyên truyền, sinh hoạt, với hàng trăm nghìn lượt người tham dự. Công tác kết nghĩa
đã khơi dậy tinh thần đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương; tạo sự chuyển
biến tích cực cho công tác lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ
quan, đơn vị, củng cố sức mạnh đoàn kết các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc; góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT cơ sở, hơn 81,4%
buôn có chi bộ, hơn 99,8% buôn có đảng viên; Ban tự quản, Mặt trận, các tổ chức
đoàn thể được củng cố, kiện toàn và hoạt động hiệu quả cao hơn.
Đây là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo, hợp lòng dân của Tỉnh ủy Đắk Lắk,
mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc; được các cấp ủy, chính quyền,
MTTQ và các đoàn thể Nhân dân, cán bộ, đảng viên, các lực lượng vũ trang, các
ngành, các cấp và đồng bào các dân tộc tích cực hưởng ứng thực hiện.
Tiểu kết chương 2
Như vậy, từ sau khi tách tỉnh và thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
BCH Trung ương Đảng (khóa IX, 2003), với những đặc điểm tự nhiên và kinh tế -
xã hội tiêu biểu, trong hoàn cảnh có nhiều những thuận lợi và khó khăn đan xen,
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức thực hiện đồng bộ các chính
sách phát triển vùng DTTS và miền núi trên địa bàn, đã chủ động ban hành và tổ
chức thực hiện nhiều chủ trương sáng tạo trên cơ sở bám sát tính đặc thù của tỉnh,
như: về công tác vận động quần chúng và nhiệm vụ bảo vệ biên giới, chống biểu
75
tình bạo loạn; xây dựng HTCT cơ sở; chương trình phát triển kinh tế - xã hội thôn,
buôn người DTTS tại chỗ; công tác cán bộ người DTTS; công tác kết nghĩa với
buôn người DTTS tại chỗ,…
Kết quả thực hiện CSDT đã tạo sự chuyển biến quan trọng về nhận thức, trách
nhiệm của cả HTCT và sự đồng thuận của xã hội về công tác dân tộc. Kinh tế - xã hội
vùng người DTTS đã có sự phát triển; đời sống vật chất, tinh thần vùng người DTTS
được cải thiện; kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng; nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước
sinh hoạt được quan tâm giải quyết; sự nghiệp giáo dục, văn hóa và chăm sóc sức
khỏe Nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; HTCT ở cơ sở được củng cố, đội ngũ
cán bộ người DTTS được quan tâm đào tạo bồi dưỡng, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác dân tộc.
Tuy nhiên, trong vùng người DTTS, tình trạng thiếu đất sản xuất chưa có giải
pháp hiệu quả; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm, sức cạnh tranh
kém, quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, đời sống Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỉ
lệ hộ nghèo người DTTS tại chỗ ngày càng cao; trình độ dân trí còn thấp, trình độ
phát triển giữa các dân tộc chưa đồng đều; chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo và
chăm sóc sức khỏe còn hạn chế; một số bản sắc văn hóa của các DTTS đang bị mai
một; mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào nhìn chung còn thấp, hạ tầng chưa đồng
bộ; tỉ lệ cán bộ người DTTS trong HTCT chưa tương xứng; một số nơi tình hình an
ninh chính trị, an ninh nông thôn và trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp.
76
Chương 3
ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2015
3.1. YÊU CẦU MỚI VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK VỀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
3.1.1. Những yêu cầu mới đặt ra đối với việc thực hiện chính sách dân tộc
3.1.1.1. Những tác động của tình hình thế giới và trong nước
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, tình hình thế giới biến đổi nhanh,
phức tạp và khó lường. Trong đó, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn,
nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ, nạn khủng bố
và tội phạm gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh,
biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên [50, tr.97]. Vấn đề dân tộc vẫn là "điểm
nóng" ở nhiều khu vực, nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là những quốc gia có đặc
điểm đa tộc người, đa tôn giáo, có vấn đề phức tạp, nhạy cảm về lịch sử, quan hệ tộc
người… Các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc và tôn giáo vẫn còn tiếp diễn ở
một số nơi, dưới nhiều hình thức.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á nói riêng đứng trước những
vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm, như tranh chấp chủ quyền về biên giới, lãnh thổ, lãnh
hải; tư tưởng tự trị, ly khai, mâu thuẫn, xung đột dân tộc và tôn giáo đã nổ ra và vẫn tiềm
ẩn những nhân tố bất ổn như ở Tây Tạng, Tân Cương (Trung Quốc), miền Nam Thái
Lan, Philippin, Inđônêxia…, có ảnh hưởng đáng kể đến sự ổn định và phát triển của mỗi
quốc gia và sự hợp tác giữa các quốc gia. Đặc điểm chung của các phong trào ly khai là
đòi quy chế tự trị, đòi quyền tự trị hoặc đòi tách ra thành lập một quốc gia riêng.
Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và tôn giáo trên thế giới ngày càng chặt chẽ, gia
tăng mối quan hệ cố kết giữa yếu tố dân tộc và yếu tố tôn giáo trong phạm vi một quốc
gia và giữa các quốc gia, dẫn đến việc hình thành các cộng đồng tộc người - tôn giáo
liên/xuyên quốc gia, có thể là một trong những nguyên nhân tạo ra tranh chấp, xung đột
giữa các tộc người, giữa các quốc gia.
Trong chiến lược "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, những vấn đề
nguồn gốc, lịch sử tộc người, lịch sử vùng đất được chúng triệt để lợi dụng gắn với vấn
77
đề nhân quyền để kích động các tộc người đòi lại quyền về lãnh thổ, quyền tự trị. Các
thế lực thù địch thường lợi dụng các Điều 10, 25, 26, 28, 29, 30 trong "Tuyên ngôn về
quyền của các dân tộc bản địa" đã được Liên Hợp quốc thông qua (Nghị quyết số
61/295, ngày 13-9-2007) [88], nhằm phục vụ cho các toan tính riêng của chúng.
Trong bối cảnh đó, vấn đề dân tộc ở Việt Nam nói chung, tại các địa bàn chiến
lược có đặc điểm đa tộc người, nhiều tôn giáo, có những vấn đề phức tạp, nhạy cảm về
lịch sử vùng đất và quan hệ tộc người nói riêng, đã và đang bị tác động bởi những yếu
tố nêu trên với các mức độ khác nhau, xuất hiện những vấn đề mới, diễn biến theo xu
hướng mới hoặc tiềm ẩn, khó lường, có tác động trực tiếp đến công tác dân tộc, nhất là
trong lĩnh vực ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh, quốc
phòng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
3.1.1.2. Tình hình Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Lắk nói riêng
Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với cả nước, Tây Nguyên cũng
đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, diện mạo kinh tế - xã hội có
những thay đổi căn bản, đặc biệt đối với đời sống của đồng bào DTTS. Tuy nhiên, so
với các khu vực khác trong cả nước Tây Nguyên vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp
tục giải quyết:
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất vùng nông thôn miền núi
vẫn còn nhiều yếu kém, không đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất
và đời sống của người dân. Hạ tầng xã hội chưa đáp ứng nhu cầu học tập, khám
chữa bệnh, vui chơi giải trí của nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới. Việc tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục cũng như cơ hội việc làm cho lao động
nông thôn còn thấp, nhất là đồng bào DTTS.
Thứ hai, chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm tại chỗ: kết quả tuyển
sinh dạy nghề cho lao động nông thôn chất lượng còn hạn chế, ít phát huy tác dụng,
chưa gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, quy hoạch nông thôn mới, nhất
là quy hoạch sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thị trường.
Thứ ba, công tác xóa đói giảm nghèo tuy đã đạt được những kết quả nhất định,
song tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên đến nay vẫn còn cao, đến cuối
năm 2013 tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng là 13,64%, trong đó, hộ nghèo đồng bào DTTS
chiếm 27,26%. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm DTTS với người kinh còn
chênh lệch khá cao. Đây là vấn đề cần quan tâm giải quyết [141, tr.32].
78
Thứ tư, tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở vẫn chưa được giải quyết:
năm 2013, cả vùng Tây Nguyên còn khoảng 31.069 hộ đồng bào DTTS thiếu
17.516 ha đất sản xuất. Đây cũng là một trong những khó khăn gây nên tình trạng
tranh chấp đất đai, phá rừng làm nương rẫy.
Thứ năm, việc ổn định dân DCTD tuy đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo
quyết liệt trong những năm qua. Song, đến nay vẫn còn nhiều bất cập chưa được
giải quyết: tình trạng di dân ngoài kế hoạch đã gây không ít khó khăn cho việc triển
khai thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Tây
Nguyên, nhất là ở hai tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông. Dân di cư tự do đã làm gia tăng tình
trạng phá rừng làm rẫy, sang nhượng đất đai trái phép, gây sức ép và khó khăn cho
các địa phương trong việc quản lý nhân hộ khẩu (Tỉnh Đắk Lắk hiện còn 3.845
hộ/19.682 khẩu chưa được đăng ký thường trú; Đăk Nông còn khoảng 3.000 hộ
chưa được đăng ký thường trú, đa số là người Hmông), giải quyết nhu cầu giáo dục,
y tế… Tây Nguyên hiện nay còn khoảng hơn 23.566 hộ chưa đưa vào dự án sắp xếp
ổn định, do nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương không đáp ứng được nhu cầu của dự
án, bên cạnh đó thì tình trạng dân DCTD từ các tỉnh miền núi phía Bắc vẫn tiếp tục
diễn ra, gây khó khăn cho các địa phương trong công tác quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của khu vực.
Thứ sáu, HTCT cơ sở còn nhiều vấn đề bất cập, hạn chế: Nhiều buôn làng có
chi bộ, tổ đảng nhưng chất lượng sinh hoạt thấp, nặng về hình thức, vai trò nòng cốt
của đảng viên chưa cao. Trình độ, năng lực thực tiễn của một bộ phận cán bộ, đảng
viên còn hạn chế và chưa đồng đều. Cán bộ chuyên trách cấp xã chưa qua các
chương trình đào tạo còn nhiều (khoảng 62,1%). Công tác quy hoạch, tạo nguồn, sử
dụng đội ngũ cán bộ người DTTS nhiều nơi vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trước
mắt và xây dựng đội ngũ kế cận lâu dài.
Thứ bảy, Đắk Lắk nói riêng, Tây Nguyên nói chung vẫn là địa bàn trọng điểm
chống phá của các thế lực thù địch. Được sự chỉ đạo, hỗ trợ từ bên ngoài, bọn phản
động FULRO tiếp tục tìm mọi cách hoạt động để phát triển lực lượng, phục hồi tổ
chức nhằm thực hiện mục tiêu lâu dài là chia rẽ đoàn kết dân tộc, kích động ly khai,
lập "Nhà nước Đề Ga". Chúng chưa từ bỏ âm mưu thành lập "Nhà nước Đề Ga"; tiếp
tục lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, tuyên truyền xuyên tạc sự thống nhất, toàn vẹn
79
lãnh thổ của đất nước; kích thích tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cực đoan, kích động
những vấn đề liên quan đất đai, đời sống, tự do tôn giáo để lôi kéo quần chúng, phục
hồi lực lượng, tổ chức biểu tình bạo loạn gây mất ổn định chính trị. Bên trong vẫn
còn tồn tại tư tưởng ly khai và ý thức về “Nhà nước Đề Ga”; hoạt động của các tôn
giáo, nhất là đạo Tin lành tiếp tục bị bọn phản động lợi dụng, lôi kéo, đẩy mạnh phát
triển "Tin lành Đề Ga". Vấn đề đất đai, không gian sinh sống của các buôn làng và
nhiều vấn đề khác nếu không giải quyết tốt sẽ tác động đến khối đoàn kết dân tộc và
ổn định xã hội.
Đối với tỉnh Đắk Lắk, tình hình chung ít thay đổi so với giai đoạn trước. Toàn
tỉnh có 15 đơn vị hành chính cấp huyện (13 huyện, 01 thành phố và 01 thị xã); 184 xã,
phường, thị trấn; 2.463 buôn, thôn, tổ dân phố; trong đó có 608 buôn người DTTS tại
chỗ. Dân số tỉnh Đắk Lắk năm 2010 là 1.754.390 người [133, tr.20]; đến năm 2015
tăng lên hơn 1,876 triệu người, có 47 dân tộc cùng sinh sống (tăng 3 dân tộc so với
năm 2004), trong đó các DTTS có 133.091 hộ, chiếm khoảng 33% dân số của tỉnh,
phân bố trên 184 xã, phường, thị trấn trong tỉnh [179, tr.1].
1550000
1600000
1650000
1700000
1750000
1800000
1850000
1900000
2004 2010 2015
người
Biểu số 3.1: Tốc độ gia tăng dân số tỉnh Đắk Lắk
Nguồn: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk [3; 5; 6]
Ở tỉnh Đắk Lắk, ngoài đồng bào các DTTS tại chỗ như Ê-đê, Mnông, Gia-rai
còn có đông các DTTS khác di cư đến lập nghiệp. Giai đoạn 2011-2015, cả tỉnh Đắk
Lắk có 272 hộ với 1.199 khẩu di cư đến. Dân di cư đến Đắk Lắk giai đoạn này chủ
80
yếu là dân tộc Hmông, với 206 hộ, 974 khẩu, còn lại là các dân tộc thiểu số khác như
Sán Chỉ, Tày, Nùng, Mường, Mán. Nhìn chung, tình hình dân DCTD đi và đến trên
địa bàn tỉnh trong giai đoạn này còn diễn biến khá phức tạp. Dân DCTD chủ yếu tập
trung vào địa bàn một số huyện vùng sâu, vùng xa như huyện M'Đrắk, Ea Súp, Krông
Bông, Cư M'gar... [179, tr.1].
Dân DCTD đã tác động nhiều mặt tới kinh tế - xã hội Đắk Lắk (năm 2014, toàn
vùng Tây Nguyên còn 23.566 hộ, trong đó: Đắk Nông 10.947 hộ, Đắk Lắk 5.541
hộ, Lâm Đồng 3.695 hộ, Gia Lai 2.300 hộ; Kon Tum 1.083 hộ) [141, tr.14], làm phá
vỡ quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh; các vấn đề quan hệ
dân tộc tiếp tục nảy sinh mới và gay gắt như phá rừng làm nương rẫy, lấn chiếm, buôn
bán sang nhượng đất trái phép, khó kiểm soát làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi
trường sinh thái; tình trạng tranh chấp đất đai, mất an ninh trật tự trên những địa bàn;
Tình trạng thiếu đất sản xuất, tỉ lệ hộ nghèo tiếp tục gia tăng, số trẻ em trong độ tuổi
không có điều kiện đến trường tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả thực hiện các chỉ
tiêu kinh tế - xã hội hằng năm. Dân DCTD gây áp lực về ngân sách đối với một tỉnh
nghèo cho bộ máy hành chính, HTCT cơ sở, đầu tư xây dựng hạ tầng phục vụ các dự
án sắp xếp, ổn định dân DCTD.
Điều đặc biệt ở người Hmông di cư đến là 100% theo đạo Tin lành hoặc có xu
hướng theo đạo Tin lành. Cộng đồng người Hmông sống khá tách biệt với các dân tộc
khác, có hiện tượng hồi sinh ý thức tộc người, về "Vương quốc Mông" xa xưa; một
số nhóm hộ có tư tưởng vượt biên sang Lào, Thái Lan hay về huyện Mường Nhé, tỉnh
Điện Biên. Người Hmông ở Đắk Lắk không ổn định về nơi cư trú, dễ dao động, dễ bị
lợi dụng theo kẻ xấu [163, tr.2-3]. Tại xã Ea Dăh, huyện Krông Năng, năm 2011 có 7
hộ bỏ về Mường Nhé; các hộ DCTD người Hmông sống rải rác tại các tiểu khu gây
khó khăn cho việc quản lý, và tiềm ẩn nguy cơ lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng, tệ nạn
ma túy… Theo kết quả khảo sát của tác giả (2015), tại xã Cư Pui, huyện Krông Bông,
cộng đồng người Hmông ở đây ít có mối liên hệ với chính quyền. Các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước được triển khai phải thông qua các mục sư Tin
lành. Vai trò của tôn giáo đã có phần lấn át và làm thay vai trò của Đảng, chính
quyền, đoàn thể.
81
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tỉnh Đắk Lắk nhiệm kỳ 2011-2015 đạt
8,2%; tổng giá trị sản phẩm tăng bình quân 8%/năm, quy mô nền kinh tế tăng 1,5 lần,
thu nhập bình quân hằng năm đạt 34,9 triệu đồng, gấp 2,2 lần so với đầu nhiệm kỳ năm
2006 và tăng gấp 2,62 lần so với năm 2000. Nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ lực và
luôn chiếm tỷ trọng cao trong GDP của tỉnh. Năm 2000, ngành này chiếm trên 77,5%,
trong khi đó công nghiệp và dịch vụ chỉ chiếm lần lượt là 7,27% và 15,18%. Giai đoạn
2011-2015, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, đến năm
2015, kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ còn chiếm khoảng 47%, công
nghiệp - xây dựng chiếm 16,2%, tăng 0,5%; dịch vụ đã tăng lên 36,7%, tăng 2,7% so
với năm 2010 [6, tr.13].
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
2000 2006 2010 2015
Nông, Lâm, thủy sản
Công nghiệp - xâydựng Dịch vụ
Biểu số 3.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Đắk Lắk
Nguồn: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk [3; 5; 6]
Như vậy, tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011-2015 có xu hướng
chậm dần [134, tr.34], thấp hơn so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên và thấp hơn
so với giai đoạn 2005-2010. Chất lượng tăng trưởng chung chậm được cải thiện,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa nhanh [6, tr.35]. Trong bối cảnh tình hình kinh tế
trong nước vẫn tiếp tục khó khăn, hoạt động của nhiều doanh nghiệp kém hiệu quả, sản
xuất, kinh doanh bị đình trệ. Nền kinh tế còn phụ thuộc lớn vào khu vực nông nghiệp
với điều kiện thời tiết không thuận lợi..., do đó tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh, đời
82
sống của người DTTS cũng gặp không ít khó khăn, ngân sách tỉnh phụ thuộc chủ yếu
vào ngân sách Trung ương.
Sự phát triển của tỉnh Đắk Lắk có nhiều yếu tố không bền vững, đặc biệt là tỉ lệ
đói nghèo trong số hộ người DTTS tại chỗ. Trong 5 năm (2005-2010), tỉ lệ hộ nghèo
giảm từ 27,55% xuống còn 7,45%, bình quân mỗi năm giảm 4,02% (kế hoạch là
2,5%/năm). Nhưng tỉ lệ hộ nghèo DTTS giảm từ 48,26% năm 2005 xuống còn 14,98%
năm 2010 so với tổng số hộ DTTS, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra; nhưng đối với
DTTS tại chỗ lại tăng từ 52,35% năm 2005 lên 61,75% năm 2010 so với tổng số hộ
nghèo [160, tr.11]. Điều này đặt ra bài toán về quản lý phát triển xã hội tỉnh Đắk Lắk
trong giai đoạn mới.
Thực trạng trên sẽ tạo ra những thời cơ và thách thức đan xen, tác động trực tiếp
đến quá trình tổ chức thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk, Tây Nguyên trong giai đoạn 2011-2015 và các năm tiếp theo.
Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị, ngày 24-10-2011, về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ
2011-2020, tiếp tục khẳng định Đắk Lắk, Tây Nguyên là địa bàn giữ vị trí chiến lược
đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái của
đất nước. Phát triển vùng Tây Nguyên phải kết hợp đồng bộ cả về kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng HTCT vững mạnh; vừa phát huy ý chí tự lực tự
cường, khai thác nội lực tại chỗ, vừa phải có sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và đầu tư
tương xứng của Nhà nước về chính sách, nguồn lực và sự liên kết, hỗ trợ kịp thời của
các tỉnh, thành phố trong khu vực và cả nước.
3.1.1.3. Đảng tiếp tục hoàn thiện chủ trương về công tác dân tộc và chính sách
dân tộc giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
Tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận số 57-KL/TW, ngày 3-11-2009 của Bộ
Chính trị, hệ thống CSDT từ năm 2011 đến 2015 được thể chế hóa bằng các nghị
định, nghị quyết, chỉ thị của Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ với
181 chính sách được thể hiện qua 264 văn bản [142, tr.2]. Hệ thống chính sách được
phân chia thành 3 nhóm:
- Nhóm chính sách theo dân tộc và nhóm dân tộc mang tính đặc thù từng dân
tộc và nhóm dân tộc. Được thể hiện qua các Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ưong
83
Đảng và Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm an ninh trật tự đối với vùng đồng bào Chăm, Hoa, Khơ-me, Hmông và Quyết
định số 1672/QĐ-TTg về Đề án "Phát triển kinh tế - xã hội vùng các dân tộc: Mảng,
La Hủ, Cống, Cờ Lao". Nhóm chính sách này mang tính đặc thù từng dân tộc và
nhóm dân tộc; giúp giải quyết những khó khăn bức xúc về kinh tế - xã hội của các
nhóm DTTS rất ít người và một số dân tộc có khó khăn do tính lịch sử hoặc ảnh
hưởng của các vấn đề nóng qua từng thời điểm cụ thể.
- Nhóm chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo vùng, theo địa bàn (35 chính
sách): Nhóm chính sách này đã có nội dung sát với tình hình thực tế của địa
phương; góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất chung của vùng; giải
quyết điểm nóng và bức xúc đặt ra theo yêu cầu thực tế (ảnh hưởng thiên tai, biến
đổi khí hậu, khai thác khoáng sản...).
- Nhóm chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo lĩnh vực, theo ngành (145
chính sách). Nhóm chính sách này được phân thành 8 lĩnh vực về: hỗ trợ phát triển
sản xuất; giảm nghèo, đào tạo nghề và giải quyết việc làm; nước sạch, bảo vệ môi
trường sinh thái; phát triển giáo dục và đào tạo; bảo tồn và phát triển văn hóa, du
lịch, thông tin tuyên truyền; y tế, dân số, chăm sóc sức khỏe; củng cố hệ thống
chính trị vùng DTTS và phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý.
So với giai đoạn 2003-2010, số lượng CSDT giai đoạn 2011-2015 nhiều hơn,
tập trung hơn vào 3 khâu đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước. Các vấn đề về bảo vệ môi trường, đào tạo - phát triển cán bộ DTTS và giáo
dục pháp luật đã được quan tâm lớn hơn. Điều này chứng tỏ hệ thống chính sách đã
có sự đổi mới để theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội tại vùng DTTS, cũng như
nhu cầu, nguyện vọng của người dân.
Các chính sách và văn bản chỉ đạo thực hiện chính sách do Chính phủ ban
hành gồm 58 nghị định, nghị quyết, chỉ thị, trong đó có những chính sách (văn bản)
nổi bật như: Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14-01-2011, Về công tác dân tộc;
Nghị định 84/2012/NĐ-CP ngày 12-10-2012, Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc; Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19-05-2011,
Về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020; Nghị
quyết 70/NQ-CP ngày 01-11-2012 ban hành Chương trình hành động của Chính
84
phủ thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01-06-2012, Về một số vấn đề về
chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020... Đây là những chính sách quan trọng tạo
nền tảng cho việc thực thi công tác dân tộc cũng như giải quyết những vấn đề khó
khăn bức xúc của người dân và vùng DTTS.
3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk về thực hiện chính sách dân
tộc đáp ứng tình hình mới
Thực hiện chủ trương của Đảng về công tác dân tộc, các cấp ủy Đảng, chính
quyền, đoàn thể trong tỉnh Đắk Lắk tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện,
đạt nhiều kết quả quan trọng. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV đánh
giá về công tác dân tộc, trong đó nêu rõ kết quả thực hiện CSDT giai đoạn 2005-2010:
“Lao động, việc làm, CSDT và một số vấn đề xã hội có nhiều chuyển biến tích cực.
Bằng các biện pháp phát triển sản xuất, cho vay vốn, đưa lao động làm việc ngoài tỉnh
và xuất khẩu đạt kết quả khá" [5, tr.15]. Trong 5 năm đã giải quyết việc làm cho hơn 12
vạn lao động; tỉ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn xuống còn 7,5% (mục tiêu là
8%); tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn 2,98%; tỉ lệ hộ nghèo còn 10% [5, tr.15]. Các
chính sách về kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào DTTS được thực hiện đồng bộ và
phát huy hiệu quả, đặc biệt đã hoàn thành chương trình 132, 134.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV nhiệm kỳ từ 2011 đến 2015 xác định
các giải pháp chỉ đạo thực hiện tốt CSDT:
Một là, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với đồng bào DTTS, đi đôi triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế - xã
hội nhằm nâng cao dân trí, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào;
Hai là, quan tâm đào tạo đội ngũ trí thức người DTTS; tạo việc làm cho sinh viên
là người DTTS đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp;
Ba là, mở rộng quy mô trường dân tộc nội trú tỉnh và huyện, tăng chế độ đối với
học sinh dân tộc nội trú.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác dân tộc, huy động cao nhất mọi nguồn
lực toàn xã hội nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng nhanh, bền vững
và ổn định, nâng cao mức sống của đồng bào DTTS thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập,
UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 07/CT-UBND, ngày 31-12-2010, về tăng cường công
85
tác dân tộc thời kỳ CNH, HĐH đất nước, chỉ thị các sở, ban, ngành của tỉnh và UBND
các huyện, thị xã, thành phố triển khai các nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
của BCH Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc thể hiện trong Kết luận số
57-KL/TW, ngày 3-11-2009 của Bộ Chính trị về công tác dân tộc.
Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chính sách, chương trình, dự án ở các
vùng dân tộc; tổng kết các chính sách, chương trình, dự án kết thúc năm 2010, trên cơ
sở đó nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ đầu tư cho
vùng DTTS và đối tượng là người DTTS phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; đồng thời tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, dự án; chủ động huy
động lồng ghép các nguồn lực để thực hiện các chương trình, dự án trên địa bàn, nhất là
các vùng đặc biệt khó khăn.
Thứ ba, UBND các huyện, thị xã, thành phố tiến hành rà soát, điều chỉnh bổ sung
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các vùng có đông đồng bào DTTS sinh sống. Phát
triển sản xuất, chế biến gắn với quy hoạch dân cư và quy hoạch kết cấu hạ tầng kỹ
thuật; đồng thời đẩy mạnh công tác chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới hình thức tổ chức sản xuất (hợp
tác xã, tổ hợp tác…) cho phù hợp với từng địa bàn vùng đồng bào DTTS; xây dựng các
giải pháp cần thiết để tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và kinh tế
tập thể vùng đồng bào DTTS phát triển.
Tập trung phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trong HTCT cơ
sở, cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học cho các chức danh chủ chốt cấp xã vùng
DTTS. Tạo điều kiện về nhà ở, điều kiện làm việc cho cán bộ và sinh viên, học sinh tốt
nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đến công tác tại vùng
DTTS và các vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là đối với con em là người DTTS tốt nghiệp
và cán bộ có trình độ cao về chuyên môn; nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho vùng đồng bào DTTS.
Cùng với việc hỗ trợ của Trung ương và của tỉnh, chủ động huy động các nguồn
lực hợp pháp và tổ chức lồng ghép các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, các
86
chương trình, dự án, chính sách trên địa bàn để thực hiện đầu tư hiệu quả, nâng cao đời
sống Nhân dân; tăng cường chỉ đạo phối hợp giữa các ngành, các cấp, bám sát thực
tiễn, giải quyết những vấn đề bức xúc của đồng bào ngay từ cơ sở, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, nhất là các địa bàn xung yếu, vùng
sâu, vùng biên giới.
Thứ tư, UBND tỉnh giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ban, ngành và các cơ quan
chức năng của tỉnh tham mưu và vận dụng triển khai các mảng công tác để thực hiện
tốt CSDT.
Thứ năm, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh chủ trì, phối hợp với Ban Dân tộc và
các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội tăng cường công tác vận động đồng bào các
dân tộc đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, nêu cao ý thức tự lực tự cường,
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và các tầng lớp Nhân dân trên địa bàn; chăm lo, bồi
dưỡng và phát huy vai trò của những người tiêu biểu, người có uy tín trong vùng
đồng bào DTTS.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 10/2002/NQ-BCT, của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-
2010, BCH Trung ương ra Kết luận số 12-KL/TW, ngày 24-10-2011, Về tiếp tục thực
hiện nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ chính trị (khóa IX) về phát triển vùng Tây
Nguyên giai đoạn 2011-2020. Trong đó, mục tiêu của giai đoạn 2011-2015 và thời kỳ
2015-2020 là xây dựng Tây Nguyên thành vùng kinh tế trọng điểm, có lực lượng sản
xuất phát triển ở mức trung bình của cả nước, có tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế vững chắc. Nâng cao đời sống văn hóa, trình độ dân trí của đồng bào các
dân tộc; bảo đảm an sinh xã hội; sớm đưa nông thôn Đắk Lắk, Tây Nguyên thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, phát triển bền vững [49, tr.4].
Trung ương Đảng đã yêu cầu thực hiện một số mục tiêu nhiệm vụ cụ thể trong
vùng đồng bào DTTS như: Tổ chức lại sản xuất, đời sống ở vùng đồng bào DTTS
theo hướng phát triển kinh tế hàng hóa trên nền tảng kinh tế nông hộ. Tập trung giải
quyết căn bản vấn đề đất đai, tiếp tục ưu tiên giải quyết đủ đất sản xuất cho các hộ
đồng bào DTTS thiếu đất, bảo đảm cho đồng bào sống được và làm chủ được trên
mảnh đất của mình, từng bước giải quyết sự bất bình đẳng về sử dụng đất nông
nghiệp giữa các bộ phận dân cư và giải quyết hài hoà giữa nhu cầu phát triển kinh tế
87
của địa phương với bảo đảm đất đai, ổn định sản xuất của dân cư tại chỗ. Nâng cao
chất lượng công tác định canh định cư cho đồng bào DTTS tại chỗ và ổn định dân
DCTD, thúc đẩy phát triển kinh tế, XĐGN, giảm áp lực của di dịch cư tự do đối với
tài nguyên rừng và đất đai. Giải quyết đủ vốn cho các dự án tái định cư để đến năm
2015 ổn định các thôn làng, cụm dân cư, đưa các vùng dân DCTD hòa nhập với sự
phát triển của Tây Nguyên.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, Trung ương Đảng chỉ đạo các Đảng bộ tỉnh ở Tây
Nguyên cần tập trung vào các giải pháp mang tính đột phá về kinh tế; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực; tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường; tiếp tục
thực hiện các chính sách đặc thù ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS đến
2020, đồng thời huy động tối đa nguồn lực của cộng đồng xã hội đầu tư cho vùng
DTTS; Phát triển văn hóa, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định
chính trị; Thực hiện đúng đắn, nhất quán chính sách tôn giáo; Xây dựng HTCT cơ sở,
từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức.
Ngay sau đó, Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Chương trình số 10-CTr/TU, ngày 11-
01-2012, về việc thực hiện Kết luận số 12-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
10-NQ/TW của Bộ Chính trị Về phát triển vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2020.
Trong đó, mục tiêu đến năm 2020 là xây dựng Đắk Lắk trở thành tỉnh có lực lượng
sản xuất phát triển ở mức trung bình của cả nước, có tốc độ tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế vững chắc. Nâng cao đời sống văn hoá, trình độ dân trí của đồng
bào các dân tộc, bảo đảm an sinh xã hội, sớm đưa nông thôn Đắk Lắk thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, phát triển bền vững. Tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; ngăn chặn, chủ động, kịp thời làm thất bại
âm mưu phục hồi tổ chức, phát triển lực lượng FULRO, “Tin lành Đề Ga” và thành
lập “Nhà nước Đề Ga” [126, tr.2].
Đảng bộ tỉnh xác định nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục quán triệt và tổ chức thực
hiện tốt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, trong đó tập trung vào
các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể về kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh,
xây dựng Đảng, chính quyền.
Ngoài những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CSDT, Đảng bộ
tỉnh Đắk Lắk đã căn cứ vào đặc thù dân tộc của tỉnh, ban hành một số chính sách phù
88
hợp với tình hình thực tế để thực hiện CSDT có hiệu quả. Đó là: Chương trình phát
triển kinh tế thôn, buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ; Công tác kết nghĩa với các
buôn đồng bào DTTS; Triển khai dạy tiếng Ê-đê trong trường tiểu học và trung học cơ
sở, thí điểm dạy tiếng Mnông trong trường tiểu học; Đẩy mạnh phát động quần chúng
vùng đồng bào dân tộc Hmông; Tăng cường công tác đối với người Hoa trong tình
hình mới…
3.2. ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN
TỘC TRÊN CÁC LĨNH VỰC CỤ THỂ
Quán triệt và thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về vấn đề dân tộc và
thực hiện CSDT tại Kết luận số 57/2009/KL-TW, triển khai Nghị định số 05/2011/NĐ-
CP về công tác dân tộc, Chương trình số 10-CTr/TU, ngày 11-01-2012, về việc thực
hiện Kết luận số 12-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính
trị giai đoạn 2011-2020; đồng thời bám sát tình hình đặc điểm quan hệ dân tộc và yêu
cầu nhiệm vụ mới về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh, Đảng
bộ tỉnh, UBND tỉnh Đắk Lắk nhiệm kỳ 2011-2015 đã chỉ đạo thực hiện các chính sách
cụ thể:
3.2.1. Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
- Chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc
biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu,các thôn bản đặc biệt khó khăn (Chương
trình 135)
Triển khai thực hiện Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10-01-2006, Quyết
định số 551/QĐ-TTg, ngày 04-4-2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đặc biệt khó khăn; toàn tỉnh Đắk Lắk có 44 xã khu
vực III, 128 thôn, buôn đặc biệt khó khăn của 52 xã khu vực II và 01 buôn đặc biệt khó
khăn của xã khu vực I. Từ 2011 đến năm 2015 tổng kinh phí được đầu tư là 344,552 tỷ
đồng, xây dựng được 640 công trình hạ tầng thiết yếu; duy tu, bảo dưỡng được 72 công
trình hạ tầng; hỗ trợ phát triển sản xuất cho 13.259 hộ nghèo [179, tr.2]. Ngoài ra, từ
nguồn vốn hỗ trợ của EU, tỉnh đã đầu tư xây dựng 3 km đường giao thông nông thôn
tại 3 xã đặc biệt khó khăn.
Sau 5 năm thực hiện, Chương trình đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần làm
thay đổi đời sống của người dân vùng nông thôn nói chung và vùng DTTS nói riêng;
89
giúp cho các xã, thôn buôn đặc biệt khó khăn xây dựng, sửa chữa nhiều công trình hạ
tầng thiết yếu, cải thiện điều kiện sinh hoạt và sức khoẻ cho người dân. Các phòng học
xây mới đã cơ bản bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập, thu hút học
sinh đến trường; công trình nhà sinh hoạt cộng đồng vừa là nơi người dân hội họp, sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ và cũng là địa điểm để tuyên truyền các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước; công tác tập huấn đã góp phần nâng cao nhận thức,
năng lực công tác của cán bộ cơ sở và cộng đồng người dân.
Chương trình đã đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, được
Nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực hưởng ứng. Hiện nay trên địa bàn các xã, buôn
thôn đặc biệt khó khăn của tỉnh cơ bản không còn tình trạng đói giáp hạt, tỉ lệ hộ nghèo
giảm đáng kể.
- Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào DTTS theo
Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
Căn cứ Quyết định số 1342/QĐ-TTg ngày 25-8-2009 của Thủ tướng Chính phủ,
tỉnh Đắk Lắk thực hiện 03 dự án định canh, định cư tập trung và 03 dự án định canh,
định cư xen ghép để định canh, định cư cho 492 hộ. Trong 5 năm (2011-2015), tổng số
kinh phí được trung ương đầu tư là 42,830 tỷ đồng; số công trình hạ tầng được đầu tư
là 04 công trình; Số hộ được tổ chức định canh, định cư là 270 hộ, chủ yếu định canh,
định cư bằng hình thức phân tán [179, tr.4].
Ngoài ra, tỉnh Đắk Lắk đã lập 2 dự án định canh, định cư tập trung tại xã Cư
Klông, huyện Krông Năng và xã Vụ Bổn, huyện Krông Pắk nhằm định canh, định cư
cho 483 hộ, nhưng đến hết năm 2015, chưa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và
đầu tư kinh phí.
Triển khai đầu tư các dự án định canh, định cư đã góp phần ổn định tình hình sản
xuất và đời sống của đồng bào DTTS; giải quyết được một phần tình hình thiếu đất ở,
đất sản xuất của Nhân dân địa phương trong vùng hưởng lợi; góp phần ổn định tình
hình an ninh chính trị, trật tự xã hội các địa phương.
Tuy nhiên, quá trình lập một số dự án định canh, định cư, chủ đầu tư và các đơn
vị tư vấn không điều tra đầy đủ, chính xác, do đó đã gây trở ngại trong quá trình thực
hiện dự án; toàn bộ các dự án định canh, định cư tập trung của huyện Lắk và huyện
Krông Pắk đều vướng thủ tục, thiếu kinh phí đền bù nên phải điều chỉnh, bổ sung dự án
90
nhiều lần; Việc chuyển đổi, thu hồi đất rừng triển khai rất chậm làm ảnh hưởng đến
công tác cấp đất cho dân. Một số huyện thiếu quan tâm, không tập trung chỉ đạo kiên
quyết, do vậy đến nay các dự án định canh, định cư vẫn chưa hoàn thành, làm chậm trễ
tiến độ thực hiện dự án, nguồn vốn sự nghiệp không thể giải ngân đến dân...
- Quy hoạch bố trí ổn định dân di cư theo Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày
24-8-2006 và Quyết định số 1776/QĐ-TTg, ngày 21-11-2012 của Thủ tướng Chính phủ
Trong giai đoạn 2011-2015, kế hoạch giao để bố trí, ổn định dân cư là 232,538 tỷ
đồng. UBND tỉnh đã triển khai thực hiện 22 dự án (14 dự án ổn định dân DCTD, 05 dự
án bố trí ổn định dân di cư vùng ngập lụt, 03 dự án bố trí ổn định dân di cư vùng biên
giới) bố trí, sắp xếp, ổn định cho 836 hộ. Do nguồn kinh phí được đầu tư quá thấp so
với nhu cầu nên đến hết năm 2015, chưa có dự án nào hoàn thành. Hầu hết các dự án
chỉ mới đầu tư được một số công trình thiết yếu tại các điểm nóng.
- Chính sách cho vay vốn theo Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg, ngày 04-12-2012
của Thủ tướng Chính phủ: Sau 03 năm (2012-2015), toàn tỉnh có 2.153 hộ DTTS đặc
biệt khó khăn được vay vốn phát triển sản xuất. Việc bình xét cho vay đã được thực
hiện công khai, minh bạch. Tuy mức cho vay thấp nhưng đã giúp các hộ dân có ý thức
đầu tư vốn, sức lao động vào sản xuất, tăng nguồn sinh kế. Nhiều hộ vay đã thoát được
đói, giảm được nghèo. Hộ vay đã biết tích lũy, tiết kiệm để trả nợ ngân hàng khi đến
hạn. Tuy nhiên, do số vốn được phân bổ hằng năm thấp, không đáp ứng được nhu cầu
vay vốn. Mức cho vay thấp nên không thể làm thay đổi năng suất cây trồng, vật nuôi.
- Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt theo Quyết định số
1592/QĐ-TTg và Quyết định số 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
Thực hiện Quyết định 1592/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh đã rà
soát đối tượng thực hiện là 6.222 hộ, hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là 138 công trình,
phục vụ cho 9.421 hộ; hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán 10.930 hộ; nhu cầu kinh phí thực
hiện là 200 tỷ đồng. Đến năm 2012 mới được phân bổ được 31 tỷ đồng, đầu tư xây
dựng 36 công trình nước tập trung và cho 8.500 hộ nước phân tán.
Triển khai Quyết định số 755/QĐ-TTg, ngày 20-5-2013 của Thủ tướng Chính
phủ; UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2371/QĐ-UBND, ngày 09-10-2014, Về
phê duyệt Đề án thực hiện Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho
hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở các xã, thôn, buôn đặc biệt khó
91
khăn trên địa bàn tỉnh. Tổng nhu cầu vốn để thực hiện của Đề án là 743,687 tỷ đồng.
Trong 2 năm 2014-2015, ngân sách Trung ương hỗ trợ cho tỉnh để thực hiện Chương
trình này là là 60 tỷ đồng. Kết quả thực hiện như sau:
Năm 2014, thanh toán trả nợ cho 18 công trình nước sinh hoạt tập trung thuộc
Quyết định 1592/QĐ-TTg còn thiếu vốn để thanh toán, với tổng kinh phí thanh toán trả
nợ là 7,023 tỷ đồng; đầu tư xây dựng mới 01 công trình nước sinh hoạt tập trung tại
huyện Lắk, với tổng kinh phí là 977 triệu đồng.
Năm 2015, vốn được cấp là 17 tỷ đồng, tỉnh Đắk Lắk ưu tiên tập trung chủ yếu
đầu tư khai hoang đất sản xuất để cấp cho 1.058 hộ thiếu đất sản xuất; hỗ trợ đầu tư
nước sinh hoạt phân tán cho 769 hộ; hỗ trợ nông cụ, máy móc làm dịch vụ sản xuất
nông nghiệp cho 27 hộ.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện việc cấp đất sản xuất cho các hộ
thuộc đối tượng thụ hưởng Quyết định 755/QĐ-TTg gặp nhiều khó khăn. Quỹ đất sản
xuất để thực hiện hỗ trợ cấp đất sản xuất không còn; mua, bán sang nhượng giữa các hộ
dân không thực hiện được do định mức hỗ trợ thấp (15 triệu đồng/hộ); thời gian thực
hiện ngắn (đến 31-12-2015). Nên một số địa phương trong tỉnh đã đề nghị UBND tỉnh
cho chuyển sang nội dung hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán.
Đến hết năm 2015, các huyện đã hoàn thành 100% nội dung hỗ trợ nước sinh
hoạt phân tán. Về khai hoang, cấp đất sản xuất: huyện Krông Pắk đã thực hiện xong
khai hoang, cấp đất sản xuất lúa nước 01 vụ cho 281 hộ thuộc đối tượng thụ hưởng tại
xã Vụ Bổn, hoàn thành 100% khối lượng và kế hoạch vốn được giao; Huyện Buôn
Đôn, do vùng đất dự kiến khai hoang, cấp đất sản xuất cho 283 hộ đã bị xâm chiếm,
canh tác trái phép tại Tiểu khu 439 thuộc lâm phần của Ban Quản lý rừng phòng hộ
Buôn Đôn. Huyện đã thành lập Ban Vận động, tích cực triển khai công tác tuyên
truyền, vận động đối với 85 hộ dân trả lại đất để thực hiện Quyết định 755/QĐ-TTg.
Dự kiến sẽ hoàn thành kế hoạch trong Quý IV/2016.
- Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân theo Quyết định số 102/2009/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ: Kế hoạch vốn đầu tư từ năm 2011-2015 là 113,487
tỷ đồng. Đã hỗ trợ cho 240.256 hộ, 1.059.487 khẩu, tổng kinh phí thực hiện là
95,950 tỷ đồng, đạt 85% kế hoạch về kinh phí và đạt 100% về số khẩu cần hỗ trợ.
Trong đó, hỗ trợ bằng hiện vật cho 812.544 khẩu; hỗ trợ bằng tiền mặt cho 386.087
92
khẩu. Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo đã giúp các hộ nghèo chủ động một
phần về giống để phát triển sản xuất. Tuy nhiên, do mức hỗ trợ thấp, được thực hiện
hằng năm nên hiệu quả không cao, tạo tư tưởng trông chờ sự hỗ trợ của nhà nước
trong một bộ phận dân cư.
- Chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào DTTS theo Quyết định số
18/2011/QĐ-TTg, ngày 18-3-2011 của Thủ tướng Chính phủ. Vai trò của người có uy
tín là cầu nối giữa các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể với Nhân dân. Công tác rà
soát, lập danh sách người có uy tín được tiến hành công khai tại các thôn buôn, tổ dân
phố, hằng năm được UBND tỉnh ban hành quyết định công nhận (đến năm 2015, Lâm
Đồng đã tổ chức 9 lớp bồi dưỡng, 5 lớp quán triệt và tuyên truyền chính sách).
Trong 5 năm đã tổ chức được 36 hội nghị bàn về các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, các CSDT đang thực hiện và tình hình phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội tại địa phương cho 1.983 lượt người có
uy tín; tổ chức 25 lớp bồi dưỡng kiến thức công tác dân tộc, công tác tôn giáo, thông tin
tình hình kinh tế - xã hội, an ninh cho 1.278 người có uy tín; cấp cho người có uy tín
được 321.854 tờ báo Đắk Lắk và 219.965 tờ báo Dân tộc và phát triển; tổ chức 01 đoàn
20 người có uy tín tiêu biểu đi gặp mặt, báo cáo thành tích với lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, tham quan học tập kinh nghiệm các địa phương [179, tr.6].
Công tác hỗ trợ về vật chất và tinh thần đối với người có uy tín được chú trọng
thực hiện. Trong 5 năm, tổng kinh phí thực hiện chế độ chính sách đối với người có uy
tín trên địa bàn tỉnh gần 6,3 tỷ đồng. Nhân dịp Tết Nguyên đán, Tết của các DTTS tỉnh
đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho 3.947 người có uy tín; hỗ trợ vật chất khi ốm đau cho
298 người; biểu dương, khen thưởng cho 298 người có thành tích xuất sắc.
- Chính sách về nước sạch và bảo vệ môi trường sinh thái
Thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn, song song với công tác tuyên truyền vận động Nhân dân chủ động đầu tư
xây dựng các công trình nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho gia đình, tỉnh Đắk Lắk đã huy
động nhiều nguồn lực để đầu tư xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho Nhân
dân. Đến hết năm 2015, số người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh là
1.137.282 người, chiếm 85,33%, (trong đó đồng bào DTTS có 420.682 người, chiếm
75,9%), tăng 16% so với cuối năm 2010.
93
Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đồng bào DTTS: tính đến
ngày 30-7-2013, diện tích đất đã cấp giấy chứng nhận cho đồng bào DTTS trên địa bàn
tỉnh 78.825 ha, đạt tỉ lệ 66.46%. Các đơn vị có tỉ lệ cấp giấy chứng nhận cho đồng bào
DTTS cao như: Huyện Cư Kuin, huyện Cư M’gar, thị xã Buôn Hồ, thành phố Buôn
Ma Thuột [179, tr.10].
- Xây dựng mô hình giảm nghèo (Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo):
Triển khai Thông tư liên tịch số 68/2013/TTLT-BTC-BLĐTBXH, ngày 21-5-2013 của
Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức xây
dựng các mô hình giảm nghèo cho khoảng 350 hộ nghèo, kinh phí thực hiện là 3 tỷ
đồng; tổ chức dự án nâng cao năng lực, truyền thông và giám sát đánh giá bằng nhiều
hình thức như tuyên truyền thông qua báo, đài phát thanh - truyền hình, pa-nô, áp
phích... tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo cấp
huyện, cấp xã, lãnh đạo UBND các xã có tỉ lệ hộ nghèo cao; tổ chức các cuộc đối thoại
trực tiếp với người nghèo; khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện một số chính sách, dự
án giảm nghèo tại các địa bàn trong tỉnh [186].
Hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo theo Quyết định số 28/QĐ-TTg, ngày 07-4-
2014 của Thủ tướng Chính phủ: Toàn tỉnh đã hỗ trợ cho khoảng 420.000 lượt hộ
nghèo [179, tr.7].
Thực hiện hỗ trợ nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định số
67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Đã hỗ trợ cho 367 hộ nghèo, với kinh
phí là 11,9 tỷ đồng. So với đề án được phê duyệt, tỉnh Đắk Lắk đã hoàn thành 100%
kế hoạch.
Công tác dạy nghề và giải quyết việc làm: Thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg, ngày 27-11-2009
của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh đã tổ chức đào tạo nghề cho 15.655 người lao động,
trong đó DTTS có 11.542 người, chiếm 73,72%. Kinh phí thực hiện 33,825 tỷ đồng.
Sau đào tạo nghề có 8.714 người có việc làm, đạt 75,5% số người tham gia học nghề
được hỗ trợ từ Đề án.
Toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho khoảng 130,3 nghìn người (tăng thêm 69,5
nghìn người) trong đó, nữ 62,9 nghìn người, người DTTS 41,8 nghìn người. Kết quả
giải quyết việc làm đã góp phần giảm tỉ lệ thấp nghiệp khu vực thành thị giảm từ
94
2,97% năm 2011 xuống còn 2,94% năm 2015; khu vực nông thôn từ 7% năm 2011
xuống 5,5% năm 2015 (công nghiệp, xây dựng 35,1 nghìn người (DTTS: 8,7 nghìn
người); nông, lâm, ngư nghiệp 51,8 nghìn người (DTTS: 19,8 nghìn người); thương
mại và dịch vụ 43,4 nghìn người (DTTS: 13,3 nghìn người). Số lao động tham gia
xuất khẩu lao động 2.450 lao động) [179, tr.8].
Hỗ trợ tổ chức, đơn vị sử dụng lao động DTTS tại khu vực miền núi, vùng khó
khăn theo Quyết định số 42/2012/QĐ-TTg ngày 08-10-2012: đã hỗ trợ cho 2.017
người, kinh phí thực hiện là 8,200 tỷ đồng.
Những chính sách hỗ trợ, tạo việc làm cho người DTTS nghèo trên đây mang
ý nghĩa nhân văn sâu sắc, giúp cho đồng bào nghèo trong cả nước nói chung và
người DTTS tỉnh Đắk Lắk nói riêng có sinh kế ổn định, yên tâm lao động sản xuất,
phát triển kinh tế, từng bước nâng cao mức sống, vươn lên thoát nghèo, góp phần
thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội.
- Chính sách về y tế, dân số và chăm sóc sức khoẻ
Đến năm 2015, toàn tỉnh có 01 bệnh viện đa khoa, 04 bệnh viện chuyên khoa, 01
bệnh viện đa khoa khu vực, 15 trung tâm y tế huyện/thị xã/thành phố, có 184/184 xã có
trạm y tế kiên cố. Có 184/184 trạm y tế xã/phường/trị trấn có bác sỹ, đạt tỉ lệ 100%; có
2.463/2.463 thôn, buôn, tổ dân phố có nhân viên y tế hoạt động, đạt tỉ lệ 100%. Đã cấp
thẻ bảo hiểm y tế cho 2.448.000 lượt người nghèo, cận nghèo và người DTTS. Xây
dựng được 695 nhà tiêu hợp vệ sinh với kinh phí 1,520 tỷ đồng. Kinh phí mua thẻ bảo
hiểm y tế là 1,285 tỷ đồng [179, tr.9]. Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh,
tuyên truyền vận động kế hoạch hóa gia đình… cho đồng bào DTTS được chú trọng,
công tác vệ sinh phòng dịch vùng DTTS đã được triển khai kịp thời, có hiệu quả.
Trong lĩnh vực y tế, chất lượng công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa còn thấp, trang thiết bị cho các trung tâm, trạm y tế xã chưa đồng bộ.
Ðội ngũ cán bộ y tế, đặc biệt là người dân tộc tại chỗ còn thiếu. Chất lượng dịch vụ y tế
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của đồng bào.
- Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý
Triển khai thực hiện có hiệu quả việc các chính sách pháp luật đến vùng đồng bào
DTTS bằng nhiều hình thức thông qua công tác tuyên truyền trên phương tiện thông tin
đại chúng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, biên soạn, phát hành tài liệu tuyên
95
truyền pháp luật cấp phát đến tận cơ sở nhằm tuyên truyền đến Nhân dân, đồng bào
DTTS những quy định mới của pháp luật; quản lý, khai thác tủ sách pháp luật; tổ chức
cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí tại chỗ và lưu động cho vùng đồng bào DTTS.
Về kinh tế, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế vùng DTTS của tỉnh Đắk Lắk còn
chậm và không ổn định. Tỉ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS còn cao so với bình
quân chung, công tác XĐGN còn thiếu bền vững; khoảng cách chênh lệch về mức
sống giữa người DTTS so với người Kinh trên cùng địa bàn cư trú có chiều hướng
tăng. Kết quả giảm nghèo chung toàn tỉnh tương đối nhanh, tỉ lệ hộ nghèo giảm bình
quân khoảng 2,76%/năm; tỉ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS giảm bình quân
khoảng 4,7%/năm. Tuy nhiên kết quả giảm nghèo chưa đạt chỉ tiêu của HĐND và
UBND tỉnh đề ra (chỉ tiêu giảm 3%/năm). Kết quả giảm nghèo chưa vững chắc,
chênh lệch giàu, nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp; tốc độ giảm
nghèo của người DTTS còn chậm hơn người Kinh nên đến cuối năm 2015 số hộ
nghèo người DTTS vẫn còn chiếm 62,88% trong tổng số hộ nghèo, chiếm 19,65% so
tổng số hộ là DTTS. Hộ cận nghèo có 31.724 hộ, chiếm 7,64%; trong đó hộ cận
nghèo là DTTS có 14.896 hộ, chiếm 74,57% tổng số hộ cận nghèo, chiếm 11,19%
tổng số hộ là DTTS [179, tr.1].
3.2.2. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
- Chính sách bảo tồn, phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, tỉnh Đắk Lắk đã hội tụ 3 bộ phận văn
hóa vùng miền: Văn hóa các DTTS tại chỗ (các dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên),
văn hóa các DTTS phía Bắc và văn hóa của dân tộc Kinh (gồm 3 miền Bắc - Trung -
Nam). Lịch sử phát triển văn hóa của các DTTS tại chỗ đã góp phần làm phong phú
hơn kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung, tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
Các DTTS tại chỗ hình thành từ lâu đời và có đời sống văn hóa phong phú với
những hình tượng cao đẹp đã hình thành nên nền văn hóa mang giá trị nhân văn sâu
sắc. Trước sự vận động và biến đổi không ngừng của thế giới, sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, xu thế hội nhập hiện nay đã ảnh hưởng lớn đến văn hóa của các dân
tộc nói chung và ảnh hưởng tới giá trị văn hóa truyền thống của các DTTS tại chỗ nói
riêng. Do sự tác động của nền kinh tế thị trường, do ảnh hưởng mạnh mẽ của các giá trị
văn hóa từ các cộng đồng dân cư khác mang tới; ảnh hưởng của tôn giáo mới và âm
96
mưu lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch …, những giá trị văn hóa truyền
thống của các DTTS tại chỗ có nguy cơ mai một, thậm chí bị xóa sổ, một sự "đứt gãy"
trong quá trình hòa nhập từ xã hội "huyền ảo" sang thế giới "văn minh".
Văn hóa có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại sự phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay đã tác động mạnh đến sự phát
triển văn hóa, trong đó có sự tác động ngược chiều, phản giá trị văn hóa. Thực trạng đó,
đòi hỏi xác định lại phương hướng và giải pháp nhằm sưu tầm, bảo tồn và phát huy,
phát triển một cách bền vững những giá trị trong điều kiện mới hiện nay.
Triển khai thực hiện Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27-7-2011 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam; Nghị quyết số 63/2012/NQ-HĐND, ngày 06-7-2012 của HĐND tỉnh, về
Bảo tồn, phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk, giai đoạn 2012-
2015; Chỉ thị số 06/2012/CT-UBND, ngày 28-12-2012 của UBND về việc Bảo tồn,
phát huy Di sản văn hóa các dân tộc ở Đắk Lắk trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hoá và hội nhập quốc tế… Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã xây dựng Đề án
Bảo tồn, phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk giai đoạn
2012-2015.
Đến năm 2015, tỉnh Đắk Lắk đã xây dựng chuyên mục Bảo tồn phát huy bản sắc
văn hóa; phát hành Thông tin Đắk Lắk song ngữ Ê-đê - Việt; 500 cuốn sách Lời nói vần
của dân tộc Ê-đê; 500 cuốn sách ảnh Nghi lễ cưới truyền thống của dân tộc Mnông
Gar; cấp phát 680 cuốn Sử thi các dân tộc Tây Nguyên cho các xã, thôn, buôn... Tổ
chức các hoạt động như liên hoan văn hóa cồng chiêng, ngày hội văn hóa các dân tộc,
hội diễn văn nghệ quần chúng... Triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn phát huy di sản
văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk giai đoạn 2007-2010 và giai đoạn 2011-2015; ngành văn
hóa đã sưu tầm truyện cổ người Ê-đê, tổ chức lớp truyền dạy cồng chiêng cho thanh
niên đồng bào DTTS... Định kỳ hằng năm, tỉnh tổ chức Hội thi thể thao các DTTS; tổ
chức đoàn tham gia Hội thi Thể thao các dân tộc toàn quốc. Tổ chức các giải thể thao
truyền thống của đồng bào DTTS vào dịp Tết Nguyên đán hằng năm, nhằm tạo điều
kiện phát triển và duy trì lễ hội truyền thống mang bản sắc văn hóa dân tộc trên địa bàn
tỉnh. Có 585/608 buôn được đầu tư xây dựng nhà văn hóa cộng đồng; có 295/585 nhà
văn hóa cộng đồng được cấp trang thiết bị, phương tiện để hoạt động. Việc bảo tồn,
97
phát huy di sản văn hóa dân tộc đã góp phần tích cực trong giữ gìn và làm giàu những
nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
đẩy lùi các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh - trật tự trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, việc xây dựng các quy ước văn hóa ở thôn, bản còn mang tính khuôn
mẫu. Hệ thống các nhà sinh hoạt cộng đồng còn đơn điệu cả về kiểu dáng và nội dung
hoạt động. Các đội văn hóa, văn nghệ địa phương được thành lập, tổ chức còn nặng về
trình diễn hơn là để nâng cao trình độ và mức hưởng thụ các giá trị truyền thống của
người dân các dân tộc.
- Chính sách thông tin truyền thông
Hạ tầng viễn thông được đầu tư và phát triển rộng khắp các buôn, thôn của tỉnh,
giúp cho đồng bào vùng DTTS được trao đổi thông tin, giao lưu tình cảm, góp phần
nâng cao đời sống tinh thần cho người dân. Các ấn phẩm báo chí phong phú, phản ánh
nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, đã thực sự trở thành kênh thông tin hữu ích đối
với đồng bào. Hệ thống in ấn, phát hành, xuất bản của tỉnh đã tham gia tích cực vào
hoạt động phát hành sách - văn hóa phẩm đến địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, vùng đồng bào DTTS của tỉnh. Số xã có báo đọc trong ngày là 154/154 xã. Hệ
thống phát thanh truyền hình trong toàn tỉnh có sự phát triển nhanh cả về nội dung, chất
lượng chương trình, hạ tầng, kỹ thuật và phương thức truyền dẫn, phát sóng. Ngoài
phương thức truyền hình cơ bản là truyền hình tương tự mặt đất, các loại hình dịch vụ
phát thanh, truyền hình công nghệ hiện đại ngày càng phong phú đa dạng. Đến năm
2015, toàn tỉnh có tỷ lệ phủ sóng phát thanh tương tự mặt đất đạt 100% và phủ sóng
truyền hình tương tự mặt đất đạt 98% hộ dân [183, tr.5].
- Chính sách cấp một số loại báo, tạp chí cho vùng DTTS và miền núi, vùng đặc
biệt khó khăn theo Quyết định số 2472/QĐ-TTg, ngày 28-12-2011 của Thủ tướng
Chính phủ: Hệ thống bưu điện toàn tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện cấp phát 3.132.851 tờ
báo, tạp chí thuộc 24 đầu báo, tạp chí đến đối tượng thụ hưởng trên địa bàn 15 huyện,
thị xã, thành phố. Việc cấp miễn phí các loại báo, tạp chí cơ bản được cấp phát đến
các đối tượng, bảo đảm đúng đối tượng, số lượng, địa chỉ và kịp thời gian quy định.
Kết quả thực hiện cho thấy các báo, tạp chí phong phú, đa dạng, dễ hiểu, phù hợp với
đối tượng, đã góp phần hỗ trợ về thông tin cho các đối tượng thụ hưởng.
98
- Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo
Năm học 2010-2011, toàn tỉnh Đắk Lắk có 912 trường, 15.287 lớp với 461.457 học
sinh (trong đó có 145.437 học sinh DTTS, chiếm 31.52%). Năm học 2014-2015, có 987
trường, 16.613 lớp với 447.028 học sinh (trong đó có 156.254 học sinh DTTS, chiếm
34.98%), so với năm học 2010-2011, tăng 75 trường, 1.326 lớp, 10.917 học sinh DTTS.
Về việc học song ngữ Việt - Ê-đê, đến năm 2015, toàn tỉnh có 92 trường tiểu học,
với 13.225 học sinh và 14 trường phổ thông dân tộc nội trú, có 36 lớp và 1.386 học
sinh THCS, có 144 giáo viên dạy tiếng Ê-đê.
Tỉnh quan tâm thực hiện các chế độ cho học sinh DTTS. Học sinh DTTS được
khám bệnh và lập sổ sức khỏe; hưởng mức học bổng là 920.000 đồng/tháng, được cấp
01 bộ chăn chiếu màn/cấp học, 01 bộ áo quần/năm học; nghỉ hè, nghỉ tết được thanh
toán tiền xe, có thêm chế độ tiền tết cho học sinh ở lại trường ăn tết; cấp phát gạo cho
có 9.885 học sinh, với hơn 939 tấn cho học sinh vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn. Ngoài ra, học sinh các DTTS đều được cấp phát sách giáo khoa, học sinh học
tiếng Ê-đê được cung cấp thêm sách tham khảo và vở viết.
Tỉnh thực hiện tốt chế độ cử tuyển học sinh DTTS, trong 5 năm đã tuyển 940 học
sinh vào lớp 10 và 2.770 học sinh vào lớp 6; có 1.838 học sinh trúng tuyển vào Trường
dự bị Đại học Dân tộc trung ương Nha Trang, bình quân hằng năm có trên 360 học
sinh trúng tuyển, chiếm hơn 40% chỉ tiêu tuyển sinh hằng năm của Trường. Đã cử 200
học sinh DTTS học tại các trường đại học, cao đẳng, chuyên nghiệp trong cả nước theo
Nghị định số 134/NĐ-CP, ngày 14-11-2006 của Chính phủ; phối hợp với Học viện
Hành chính Phân viện khu vực Tây Nguyên đào tạo 02 lớp Đại học Hành chính cho
172 sinh viên chuyên ngành quản lý hành chính công.
Song nhìn chung, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển, trình độ
học vấn của người dân đồng bào DTTS, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn thấp. Tình
trạng mù chữ hoặc tái mù chữ ở một số dân tộc còn chiếm tỉ lệ khá cao. Công tác đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và phát triển
bền vững ở vùng DTTS.
3.2.3. Tiếp tục lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
Sau khi đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết số 05- NQ/TU, ngày 14-01-
2005, Về xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số [121, tr.1-8], Tỉnh ủy Đắk
99
Lắk chỉ đạo tiếp tục thực hiện công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ DTTS giai đoạn 2011-2015 như sau [121, tr.8-12]:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức cho các cấp ủy đảng, các tổ chức và cán bộ,
đảng viên trong HTCT từ tỉnh đến cơ sở về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cán
bộ DTTS cho cả trước mắt và lâu dài.
Hai là, tiến hành đồng bộ việc đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi
dưỡng và bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ DTTS đương chức.
Ba là, tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ công tác quy hoạch, đào tạo, bổ sung
nguồn cán bộ người DTTS.
Bốn là, các cấp uỷ, các địa phương, cơ quan đơn vị cần làm tốt hơn nữa việc bố
trí, sử dụng số học sinh, sinh viên DTTS đã tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên.
Năm là, nghiên cứu ban hành, bổ sung các chế độ, chính sách đối với học sinh và
cán bộ DTTS.
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đề nghị các đảng đoàn, ban cán sự đảng, Ban Thường vụ
các huyện uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị cần
tiếp tục tổ chức thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 14-01-2005 của Tỉnh uỷ về
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS trên địa bàn tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV.
Sau 5 năm thực hiện, chính sách cán bộ người DTTS đạt một số kết quả khả
quan. Tổng số cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện trở lên trên địa bàn tỉnh tính đến
ngày 31-12-2013 là 44.769 người, trong đó cán bộ công chức là 3.321 người (DTTS có
375 người), viên chức là 41.448 người (DTTS có 4.852 người). Số lượng cán bộ, công
chức cấp xã là người DTTS trong biên chế nhà nước là 848/4.254 người, chiếm tỉ lệ
19,93%. Trong đó, cán bộ 531/2.178 người, chiếm tỉ lệ 24.38%; Thường trực HĐND
và thành viên UBND cấp xã có 236/854 người, chiếm 27,63%; công chức cấp xã có
317/2.076 người, chiếm tỉ lệ 15,27% [179, tr.10].
Về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ người DTTS: Từ năm 2010 đến năm
2015, tỉnh đã cử 19 trường hợp là cán bộ, công chức, viên chức người DTTS đi học sau
đại học (02 tiến sỹ, 14 thạc sỹ, 02 chuyên khoa cấp 1, 01 chuyên khoa cấp 2). Tỉnh đã
bố trí việc làm cho 30 sinh viên người DTTS tốt nghiệp lớp cử tuyển ngành kinh tế -
100
nông lâm, 18 sinh viên tốt nghiệp ngành bác sỹ hệ cử tuyển, 37 sinh viên cử tuyển và
ký hợp đồng cho 02 trường hợp khác [179, tr.10].
Thực hiện theo Quyết định số 1951/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và
Quyết định số 985/QĐ-UBND, ngày 18-4-2011 của UBND tỉnh về việc nâng mức hỗ
trợ sinh hoạt phí cho học sinh sinh viên trường Cao đẳng nghề Thanh niên dân tộc Tây
Nguyên từ mức 70.000 đồng /người /tháng lên 200.000 đồng /người /tháng. Sau 5 năm
số lượng học sinh sinh viên được hưởng các chính sách trên là 17.190 người với tổng
kinh phí 2,922 tỷ đồng.
Thực hiện Chương trình việc làm và dạy nghề theo Nghị quyết 81/2012/NQ-
HĐND của HĐND tỉnh, đã cho 6.000 lao động vay vốn để giải quyết việc làm, trong
đó có trên 80% là lao động DTTS và lao động thuộc hộ nghèo, kinh phí thực hiện là
16,800 tỷ đồng.
Trong hơn 10 năm từ khi chia tách tỉnh, nhất là nhiệm kỳ 2011-2015, việc tham
chính của người DTTS luôn được Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk chú trọng. Bầu cử HĐND 3
cấp (2004-2011) và đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2011-2015 tỉ lệ cán bộ DTTS
đều tăng hơn trước. Tỉ lệ Tỉnh ủy viên nhiệm kỳ 2011-2015 là người DTTS chiếm
32,7% tăng 13,2% so với nhiệm kỳ 2005-2010; Huyện ủy viên và tương đương nhiệm
kỳ 2011-2015 là 16,4%, giảm so nhiệm kỳ 2005-2010 là 0,71%; Cấp ủy cơ sở nhiệm
kỳ 2011-2015 là 13,91%, tăng so nhiệm kỳ 2005-2010 là 2,26%. Tỉ lệ đại biểu HĐND
người DTTS ở cấp tỉnh chiếm 34,7%; huyện, thị xã, thành phố là 25,8%; xã, phường,
thị trấn 31,2% [121, tr.5]. Tỉ lệ cán bộ DTTS đang công tác tại các cơ quan, đơn vị, địa
phương đạt tỉ lệ 11,6% năm 2010 và 13% năm 2015. Tổng số cán bộ, công chức, viên
chức cấp huyện trở lên trên địa bàn tỉnh tính đến ngày 31-11-2015 là 41.209 người,
trong đó: cán bộ công chức là 4.031 người (DTTS có 390 người), viên chức là 37.178
người (DTTS có 4.548 người). Số lượng cán bộ công chức cấp xã là người DTTS là
851/4.143 người [182, tr.11].
Đến năm 2015, tỉ lệ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS vẫn thấp hơn
nhiều so với tỉ lệ dân số là người DTTS. Sau nhiều năm thực hiện công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ DTTS, trong đó có những biện pháp quyết liệt của Tỉnh ủy, nhưng tỉ lệ
cán bộ, công chức, viên chức người DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chỉ đạt 13%
101
(trong khi tỉ lệ dân số là người DTTS chiếm 33%). Tỷ lệ này ở tỉnh Đắk Nông là 9%,
Lâm Đồng là 5,63%, Gia Lai là 13,46%.
3.2.4. Chính sách quốc phòng - an ninh
Từ năm 2011 đến năm 2015, tình hình trật tự an ninh tiếp tục được giữ vững,
khối đại đoàn kết được củng cố và nâng cao; các tệ nạn xã hội ngày càng được đẩy lùi
tạo điều kiện cho việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy
nhiên, vẫn phát hiện những âm mưu, thủ đoạn hoạt động gây mất trật tự an ninh, chính
trị. Phát hiện đấu tranh xử lý 1.294 lượt đối tượng liên quan đến các hoạt động cơ sở
ngầm bên trong, liên lạc nhận chỉ đạo của FULRO lưu vong, vượt biên trái phép, hoạt
động Tinh lành Đề Ga… Công an tỉnh Đắk Lắk đã tập trung chỉ đạo đồng bộ các biện
pháp nghiệp vụ, nắm bắt tình hình an ninh vùng đồng bào DTTS, đồng thời tổ chức
phát động đấu tranh tội phạm ở xã và buôn, thôn. Tổng số lượt đã phát động ở buôn,
thôn là 271 lượt buôn; ở xã là 134 lượt, của 15/15 huyện, thị xã, thành phố; tổng số có
34.768 lượt người tham gia. Đã đưa ra kiểm điểm trước quần chúng hàng trăm đối
tượng FULRO, góp phần nâng cao chất lượng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an
ninh Tổ quốc tại cơ sở.
Tình hình người dân đi khỏi địa phương, vượt biên trái phép ra nước ngoài vẫn
xảy ra, cụ thể trong 05 năm (2011- 2015) có 446 người, nhiều nhất là đi Trung Quốc
(227 người), trong các nước thứ 3 nhiều nhất là đi Thái Lan, sau đó có một phần quay
lại sang Campuchia. Trong năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015, các đối tượng vượt
biên sang Campuchia là 26 đợt, có 55 hộ, 125 khẩu (48 nữ, 35 trẻ em) của 20 buôn
thuộc 09 xã, thuộc 03 huyện, 01 thị xã và 01 thành phố, trong đó: huyện Ea H’Leo
(72 người), Krông Búk (38 người), Krông Năng (03 người), thị xã Buôn Hồ (08
người) và thành phố Buôn Ma Thuột (04 người) [131, tr.9-10].
Công tác tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh: tổ chức đào
tạo được 52 cán bộ chỉ huy trưởng xã, phường, thị trấn là người DTTS; xây dựng, củng
cố nâng chất lượng sinh hoạt 45 chi bộ thôn (buôn), bồi dưỡng, giới thiệu 52 cán bộ
nòng cốt vào ban tự quản thôn (buôn), cùng địa phương tham gia củng cố, nâng cao
chất lượng hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ở các buôn đồng bào
DTTS; Tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho 743 các già làng, trưởng buôn,
102
người có uy tín trong đồng bào DTTS. Trong thời gian cao điểm và các ngày lễ tết tổ
chức hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ về các buôn trên địa bàn các xã biên giới thăm,
tặng quà cho các già làng, trưởng buôn, các gia đình chính sách, gia đình nghèo người
DTTS trị giá trên 500 triệu đồng; khám bệnh, cấp thuốc miễn phí trên 5.750 lượt người,
trị giá 155 triệu đồng [179, tr.12].
Từ năm 2011 đến 2015, các đồn biên phòng đã tham mưu và tham gia củng cố
72 chi bộ, phát triển 174 đảng viên mới; cán bộ Đảng viên là người dân tộc công tác
tại 4 xã biên giới là 230 đồng chí; trong đó có 01 đảng viên là người dân tộc Dao theo
đạo Tin lành tại xã Ia R'vê. Bộ đội biên phòng tỉnh Đắk Lắk đã lựa chọn, giới thiệu
07 đồng chí cán bộ tham gia bầu cử và được bầu làm đại biểu HĐND các cấp nhiệm
kỳ 2011-2016 (01 đồng chí cấp tỉnh; 02 đồng chí cấp huyện và 04 đồng chí cấp xã);
cử 04 đồng chí cán bộ tăng cường cho 04 xã biên giới; giới thiệu đảng viên các đội
công tác địa bàn về tham gia sinh hoạt đảng tạm thời ở tất cả các chi bộ thôn, buôn
trên địa bàn các xã biên giới để góp phần xây dựng HTCT ở cơ sở.
Công tác an ninh biên giới: tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện tốt công tác tuần tra, kiểm
soát, mật phục, ngăn chặn trên biên giới không để xảy ra các hoạt động vi phạm chủ
quyền an ninh biên giới, xâm nhập, vượt biên trái phép. Thực hiện tốt công tác tuyên
truyền vận động nên phần lớn những người nghe theo kẻ xấu xúi giục vượt biên trái pháp
đã quay trở về làm ăn sinh sống. Công tác phân giới cắm mốc được triển khai theo đúng
kế hoạch, đã cắm 5/7 mốc quốc giới với 39,5/73 km. Tình hình đồng bào DTTS vùng
biên giới cơ bản ổn định, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền và các
tổ chức đoàn thể tiến hành công tác tuyên truyền vận động đồng bào DTTS nâng cao
nhận thức về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Các lực lượng quản lý địa bàn biên giới đã phối hợp với phía Campuchia vận
động 05 đối tượng về Việt Nam theo 02 đợt; còn lại 48 đối tượng ở nước thứ 3 - Thái
Lan, 72 đối tượng ở Campuchia. Trong số các đối tượng trên có 05 đối tượng là Fulro
mãn hạn tù, 03 đối tượng là cốt cán Fulro, 02 đối tượng tham gia tung tin bịa đặt và
chống chế độ trên mạng facebook, 04 đối tượng tham gia chặt phá rừng tại xã Ea
Dah, huyện Krông Năng và một đối tượng cầm đầu khiếu kiện đất đai. Các đối tượng
được các cơ quan liên quan điều tra, theo dõi và vận động trở về nước.
103
3.2.5. Một số chính sách đặc thù khác
- Tiếp tục thực hiện chương trình phát triển kinh tế thôn, buôn đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ
Sau 6 năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 17-11-2004 của Tỉnh ủy
khóa XIII về phát triển kinh tế thôn, buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, Tỉnh ủy đã
có Kết luận số 19-KL/TU, ngày 27-2-2011 chỉ đạo tiếp tục thực hiện chương trình phát
triển kinh tế thôn, buôn đồng bào DTTS tại chỗ trong giai đoạn 2011-2015 và định
hướng đến năm 2020, trong đó có mục tiêu đầu tư cho vùng đồng bào DTTS để đẩy
nhanh sự phát triển toàn diện cả kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh
và xây dựng HTCT đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của đồng bào DTTS.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Chương trình
số 655/CTr-UBND, ngày 16-02-2012, về phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn vùng
đồng bào DTTS tại chỗ của tỉnh đến năm 2015. Mục tiêu của Chương trình 655 là tiếp
tục tập trung phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào DTTS tại chỗ bền vững,
thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các địa phương, giữa các dân tộc; bảo đảm phát
triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng gia đình, buôn, thôn văn
hóa gắn với gữ gìn bản sắc dân tộc; không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh và trật
tự an toàn xã hội.
Cụ thể, phấn đấu đến năm 2015, về kinh tế: tỉ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào
DTTS tại chỗ từ 39% năm 2011 (theo chuẩn nghèo mới) giảm xuống dưới 27% vào
năm 2015; Tỉ lệ hộ đồng bào DTTS đã được kéo điện phục vụ sinh hoạt đạt từ 95% trở
lên. Về xã hội, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên trong khu vực đồng bào DTTS tại chỗ dưới
1,3%; Năm học 2014-2015, tỉ lệ trẻ em đi mẫu giáo trong độ tuổi vùng đồng bào DTTS
đạt 100%, trẻ em 6 tuổi vùng đồng bào DTTS vào lớp 1 đạt 100%; dạy song ngữ Ê-đê -
Việt cho học sinh DTTS bậc tiểu học đạt 100%; tỉ lệ thôn, buôn có điểm trường hoặc
lớp mẫu giáo đạt 100% [177, tr. 3].
Để thực hiện Chương trình 655, UBND tỉnh phân công trách nhiệm cụ thể cho
từng sở ngành theo lĩnh vực quản lý nhà nước. Trong đó giao Ban Dân tộc chịu trách
nhiệm phối hợp với Sở Nội vụ, tham mưu UBND tỉnh sớm thành lập ban Chỉ đạo của
tỉnh giai đoạn đến năm 2015.
104
Kết quả, kế hoạch vốn đầu tư 91,892 tỷ đồng, trong đó Chương trình 655 là
89 tỷ đồng, lồng ghép vốn là 2,892 tỷ đồng. Đã đầu tư xây dựng 45 công trình hạ
tầng và hỗ trợ phân bón, giống cây trồng, vật nuôi cho 80 hộ nghèo đồng bào
DTTS tại chỗ.
- Tỉnh ủy Đắk Lắk chỉ đạo tiếp tục thực hiện công tác kết nghĩa với thôn, buôn
đồng bào dân tộc thiểu số
Sau 6 năm triển khai công tác kết nghĩa với các buôn đồng bào DTTS theo tinh
thần Công văn số 75-CV/TU, ngày 22-3-2004 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc
phân công các cơ quan, đơn vị doanh nghiệp trong tỉnh kết nghĩa với các buôn đồng
bào DTTS, ngày 17-2-2011, tại Hội nghị tổng kết 6 năm thực hiện công tác kết nghĩa
với các buôn đồng bào DTTS, Thường vụ Tỉnh ủy đã khẳng định những thành tựu và
hạn chế, đồng thời đề ra nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện tốt chính sách này trong
giai đoạn 2011-2015. Sau đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kết luận số 07-
KL/TU, ngày 22-02-2011, về việc tiếp tục triển khai, thực hiện công tác kết nghĩa với
các buôn đồng bào DTTS. Trong đó chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và thủ trưởng các cơ
quan, đơn vị đối với công tác kết nghĩa. Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, quán
triệt nâng cao nhận thức trong cơ quan, đơn vị về việc thực hiện công tác kết nghĩa, xác
định đây là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, lâu dài của cơ quan, đơn vị, các
cấp, các ngành, các địa phương.
Hai là, đổi mới việc tổ chức các hoạt động kết nghĩa theo hướng thiết thực, hiệu
quả. Trên cơ sở các văn bản của Tỉnh ủy về công tác kết nghĩa, các cấp ủy đảng, chính
quyền, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tiến hành rà soát công tác kết nghĩa của cơ quan
đơn vị mình để đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao hiệu
quả công tác kết nghĩa; thường xuyên cử cán bộ xuống buôn phối hợp với cấp ủy,
chính quyền, các đoàn thể, ban tự quản buôn theo dõi, chủ động nắm chắc tình hình
đơn vị kêt nghĩa.
Ba là, đẩy mạnh các biện pháp giúp đỡ buôn kết nghĩa phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng - an ninh. Tiến hành khảo sát năm tình hình đời sống, đói nghèo
của từng gia đình trong buôn để có kế hoạch hằng năm triển khai lồng ghép các biện
105
pháp giúp đỡ đồng bào tích cực tham gia sản xuất, vươn lên làm giàu chính đáng cho
bản thân và gia đình...
Bốn là, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị được phân công kết
nghĩa với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể của xã, với cấp ủy, ban tự quản và các đoàn
thể trong buôn, các lực lượng làm công tác phát động quần chúng tại địa phương, giữa
các đơn vị cùng kết nghĩa với một buôn nhằm nâng cao hiệu quả công tác kết nghĩa.
Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, phương pháp công tác với các ban tự quản, ban
công tác Mặt trận, tổ chức đoàn thể buôn và thường trực đảng ủy các xã, phường (nơi
có buôn kết nghĩa). Hằng năm tổ chức giao ước thi đua giữa các cơ quan, đơn vị với
các buôn, cùng nhau phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Năm là, các cấp ủy đảng, chính quyền tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện công tác kết nghĩa; lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị xây dựng
chương trình phối hợp triển khai công tác kết nghĩa với buôn theo nội dung mà các bên
đã cam kết, thường xuyên đôn đốc các đơn vị được phân công kết nghĩa thực hiện
những nhiệm vụ đã đề ra.
Sáu là, Ban Dân vận Tỉnh ủy chủ động tham mưu với Ban Thường vụ Tỉnh ủy
tiếp tục chỉ đạo công tác kết nghĩa trên địa bàn tỉnh, tăng cường kiểm tra đôn đốc,
hướng dẫn và tiếp tục rà soát, điều chỉnh và phân công những đơn vị chưa được phân
công kết nghĩa.
Thực hiện công tác kết nghĩa theo Kết luận số 07-KL/TU của Tỉnh ủy Đắk Lắk,
HTCT từ tỉnh đến thôn, buôn đã khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm túc và chủ
động triển khai thực hiện đạt kết quả thiết thực, được cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức, người lao động và đồng bào các dân tộc nhiệt tình hưởng ứng. Tính đến
ngày 15-7-2014 đã có 1.438/1.443 cơ quan, đơn vị của tỉnh và huyện đã phân công tổ
chức kết nghĩa đạt 99,65% [129, tr.6].
Chủ trương kết nghĩa đã góp phần tăng cường đoàn kết giúp thôn buôn phát triển
kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân từng bước nâng
cao; Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai thực hiện, tăng cường khối đại đoàn kết,
giữ vững kỷ cương, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, theo hương ước,
quy ước của cộng đồng; làm tốt công tác hoà giải, phòng chống tệ nạn xã hội…
106
Công tác kết nghĩa góp phần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân
đoàn kết, phát huy dân chủ, nâng cao tư tưởng, nhận thức, trách nhiệm, tinh thần đoàn
kết gắn bó, tương thân, tương ái giữa cán bộ công chức, viên chức ở các cơ quan, đơn
vi, doanh nghiệp với đồng bào các buôn, giữa đồng bào Kinh với đồng bào DTTS. Các
đơn vị kết nghĩa đã giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần để đồng bào vươn lên xoá đói
giảm nghèo, xây dựng gia đình, buôn làng văn hoá, tạo động lực mới, quyết tâm mới,
cùng phấn đấu xây dựng buôn làng ngày càng phát triển.
Việc triển khai công tác kết nghĩa giữa các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp với
buôn đồng bào DTTS góp phần quan trọng giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội ở từng buôn làng. Từ đó, củng cố lòng tự hào và biết ơn đối với Đảng và chế độ;
kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc của các lực
lượng phản động.
- Thực hiện dạy tiếng Ê-đê trong trường tiểu học và trung học cơ sở, thí điểm dạy
tiếng Mnông trong trường tiểu học
Trong điều kiện một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, Đảng và Nhà nước Việt
Nam luôn coi trọng vấn đề ngôn ngữ và mối quan hệ dân tộc trong quá trình phát
triển. Nghị định 05/2011/NĐ-CP đã nhấn mạnh: Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ
viết của các dân tộc có chữ viết. Các DTTS có trách nhiệm giữ gìn văn hóa truyền
thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình phù hợp với qui định của pháp
luật. Hiến pháp năm 2013 sửa đổi, Điều 5 ghi rõ: Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy
phong tục tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện
chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng
phát triển với đất nước.
Tiếng nói và chữ viết của các DTTS đang suy giảm cùng với quá trình phát
triển và du nhập văn hóa mới. Các DTTS tại chỗ ở Đắk Lắk gặp nhiều khó khăn,
trong đó khó khăn trước hết là tư duy và ngôn ngữ. Bên cạnh việc tổ chức tốt chính
sách giáo dục ngôn ngữ vùng DTTS của ngành Giáo dục và Đào tạo, ngành Văn
hóa - Thông tin, các cấp quản lý ở tỉnh Đắk Lắk rất chú trọng đào tạo, bồi dưỡng
107
tiếng DTTS cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức công tác tại vùng có đông
đồng bào DTTS.
Thực hiện Nghị định 82/2010/NĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Quy định việc
dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ
thông và trung tâm giáo dục thường xuyên; HĐND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Nghị
quyết số 03/2010/NQ-HĐND, ngày 9-7-2010 về việc dạy tiếng Ê-đê trong trường
Tiểu học và THCS, giai đoạn 2010-2015; UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số
1803/QĐ-UBND, ngày 21-7-2010 để triển khai Nghị quyết của HĐND tỉnh. Trên cơ
sở nhu cầu, nguyện vọng và quyền của người dân về việc học tiếng mẹ đẻ; căn cứ
điều kiện tỉnh Đắk Lắk, người Ê-đê là dân tộc tại chỗ có dân số đông nhất, UBND
tỉnh đã đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình sách giáo khoa tiếng
Ê-đê cấp tiểu học; triển khai dạy tiếng Ê-đê theo chương trình, nội dung sách giáo
khoa do Bộ ban hành năm 2007.
Từ nguồn ngân sách của tỉnh, đã hỗ trợ cho giáo viên dạy tiếng Ê-đê ở khu vực I,
II, cán bộ quản lý ở trường, cán bộ nghiên cứu giáo dục dân tộc được phân công chỉ đạo
dạy tiếng Ê-đê với mức hỗ trợ 0,3 hệ số lương tối thiểu; học sinh học tiếng Ê-đê được
cấp phát đủ sách giáo khoa, sách tham khảo, vở viết, cấp gạo, được xem xét khen
thưởng. Thực hiện đầy đủ chế độ chính sách đối với học sinh dân tộc nội trú theo Quyết
định 82/2006/QĐ-TTg ngày 14-4-2006, mỗi học sinh nhận mức học bổng 920 nghìn
đồng/ tháng, được cấp một bộ quần áo/năm học, một bộ chăn, chiếu, màn… Thực hiện
Quyết định số 12/2013/QĐ-TTg, ngày 24-01-2013 và Quyết định 36/2013/QĐ-TTg,
ngày 18-6-2013 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ học sinh THPT ở vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, năm học 2014-2015, tỉnh Đắk Lắk đã hỗ trợ định mức
15kg gạo/ 01 học sinh/ 01 tháng (tổng số học sinh được hỗ trợ là 3.689 học sinh, với
498.015 kg gạo). Đối với các học sinh DTTS học bán trú dân nuôi, học trung cấp, cao
đẳng, đại học, ngoài chế độ của Chính phủ, tỉnh Đắk Lắk có nhiều hình thức hỗ trợ, động
viên khác như: khen thưởng học tập, trao học bổng, đào tạo theo địa chỉ.
Về công tác quản lý, Sở Giáo dục và Đào tạo coi công tác dạy học tiếng Ê-đê là
nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục dân tộc. Sở thành lập ban chỉ đạo giáo dục dân tộc để
tham mưu cho UBND và Tỉnh ủy. Sở Giáo dục và Đào tạo giao cho Ban Nghiên cứu
giáo dục học sinh dân tộc trực tiếp tham mưu, chỉ đạo thực hiện công tác dạy và học
108
tiếng Ê-đê. Các phòng Giáo dục và Đào tạo cử một lãnh đạo và một chuyên viên phụ
trách dạy học tiếng Ê-đê. Cấp trường cử một thành viên ban giám hiệu chỉ đạo trực
tiếp, một tổ trưởng chuyên môn dạy tiếng Ê-đê.
Việc thực hiện đề án dạy tiếng Ê-đê trong nhà trường phổ thông giai đoạn 2010-
2015 và thực hiện chương trình thí điểm dạy tiếng Mnông bậc tiểu học ở 3 trường tiểu
học (huyện Lắk) giai đoạn 2010-2015, làm cho chất lượng học sinh DTTS tỉnh Đắk
Lắk có nhiều chuyển biến tích cực. Chủ trương đưa môn Tiếng Ê-đê vào trường học đã
khẳng định vai trò quan trọng đối với chất lượng giáo dục vùng dân tộc (cụ thể là vùng
có đông đồng bào Ê-đê).
- Chính sách đối với từng tộc người
Đối với người Hmông:
Trước tình hình người Hmông di cư vào Đắk Lắk chiếm tỉ lệ cao, tính từ năm
2008 đến 2011, có hơn 28 nghìn người, chủ yếu sinh sống tại các xã vùng sâu, vùng
xa, đời sống kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn. Một số đối tượng phản động tuyên
truyền, lôi kéo đồng bào Hmông ở Tây Nguyên về lại Mường Nhé (tỉnh Điện Biên)
để tham gia thành lập cái gọi là "Vương quốc Mông". Do nhẹ dạ, một số người
Hmông tại tỉnh Đắk Lắk đã bán nhà, tài sản, đất đai để về lại Điện Biên, Lào Cai. Sau
khi quay lại Đắk Lắk, số này gặp rất nhiều khó khăn, thiếu đất ở, đất sản xuất, tư
tưởng hoang mang, có nơi bị phân biệt đối xử. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng
Kế hoạch số 16-KH/TU, ngày 29-9-2011, Kế hoạch công tác phát động quần chúng
vùng đồng bào dân tộc Hmông. Mục đích của Kế hoạch là nhằm nâng cao nhận thức
của cấp ủy, chính quyền, Nhân dân những nơi có đồng bào dân tộc Hmông rời khỏi
địa phương trở về, tạo điều kiện, giúp đỡ họ nhận thức rõ âm mưu của bọn phản
động, không làm những điều sai trái, yên tâm lao động sản xuất, phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống; xây dựng và củng cố HTCT ở vùng người Hmông đủ mạnh đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần ổn định tình hình an ninh, chính
trị, trật tự an toàn xã hội.
Đối với người Hoa:
Người Hoa ở Đắk Lắk có gần 600 hộ, với trên 3.470 khẩu (số liệu năm 2011).
Trong đó, một bộ phận người Hoa chưa nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ công
109
dân, một số ít gặp khó khăn về đời sống; việc xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín
tộc người Hoa chưa được chú trọng; một số địa phương lúng túng khi xử lý tình huống
cụ thể liên quan đến công tác người Hoa. Thực hiện Kết luận 07-KL/TW, ngày 20-6-
2011 của Ban Bí thư Trung ương, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 62-CT/TW, ngày 8-
11-1995 của Ban Bí thư Trung ưởng Đảng (khóa VII) về tăng cường công tác đối với
người Hoa trong tình hình mới, Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 10-CT/TU, ngày 24-10-
2011, Về việc tiếp tục tăng cường công tác đối với người Hoa trong tình hình mới.
Tỉnh ủy Đắk Lắk yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể coi vấn đề người Hoa
là nhiệm vụ thường xuyên của đơn vị, địa phương; tăng cường đoàn kết trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, nâng cao ý thức công dân Việt Nam cho người Hoa, cảnh
giác với những âm mưu lợi dụng người Hoa; tạo điều kiện thuận lợi để người Hoa đẩy
mạnh sản xuất, kinh doanh bình đẳng trên địa bàn tỉnh; tạo điều kiện tổ chức các hoạt
động văn hóa, văn nghệ truyền thống trên địa bàn có đông người Hoa sinh sống; công
tác người Hoa nằm trong công tác dân tộc, không tổ chức bộ máy công tác người Hoa
riêng, cần bồi dưỡng cán bộ làm công tác người Hoa; vận động người Hoa tham gia
vào MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, đồng thời quản lý tốt việc lập và tổ chức
hoạt động của các hội quần chúng người Hoa.
Trong công tác người Hoa, một số cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ và tổ chức
chính trị - xã hội có nhận thức và thể hiện sự quan tâm đến công tác bồi dưỡng, xây
dựng cốt cán và phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng người Hoa chưa đúng
mức, chưa đầy đủ và thống nhất; công tác phát triển đảng viên, đào tạo, bố trí cán bộ,
bồi dưỡng cốt cán và người có uy tín trong cộng đồng người Hoa còn nhiều hạn chế;
việc thực hiện chính sách đối với cốt cán và người có uy tín trong cộng đồng người
Hoa chưa được thực hiện một cách thỏa đáng, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tỉnh ủy
Đắk Lắk đã xây dựng Kế hoạch số 77-KH/TU, ngày 26-11-2013, Thực hiện Kết luận
số 68-KL/TW, ngày 10-9-2013 của Ban Bí thư về xây dựng lực lượng cốt cán và phát
huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng người Hoa. Nội dung Kế hoạch số 77-
KH/TU, Tỉnh ủy đã nêu rõ những quan điểm, định hướng, mục đích, yêu cầu, nội dung
và phương thức triển khai nhằm bồi dưỡng, xây dựng cốt cán và phát huy vai trò người
có uy tín trong cộng đồng người Hoa trong thời gian tới.
110
Tiểu kết chương 3
Trong giai đoạn 2011-2015, mặc dù có nhiều điều kiện bất lợi của tình hình thế
giới và trong nước làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; nhưng với sự
chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh và các
cấp, các ngành trong tỉnh, sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân, toàn quân, cộng đồng
doanh nghiệp và cả HTCT, trong đó có phần quan trọng của cộng đồng các DTTS tỉnh
Đắk Lắk, nên kinh tế - xã hội trong tỉnh tiếp tục phát triển ổn định, an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt và vượt so với
kế hoạch đề ra, như: Tổng sản phẩm xã hội tăng hơn 50%, ước đạt 37.700 tỷ đồng; thu
nhập bình quân đầu người tăng gấp hai lần đạt 31,4 triệu đồng; huy động vốn đầu tư
toàn xã hội tăng trên 30%; thu ngân sách nhà nước tăng 12%...
Giai đoạn 2011-2015, công tác dân tộc và việc thực hiện CSDT trên địa bàn tỉnh
được triển khai khá đồng bộ, có hiệu quả và đạt được nhiều kết quả quan trọng. 13
nhóm chính sách trong Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân
tộc đều được triển khai đồng bộ. Trong đó, nổi bật là nhóm chính sách đầu tư xây dựng
hạ tầng cơ sở thiết yếu, chính sách hỗ trợ giải quyết đất sản xuất, dạy nghề và tạo việc
làm, nhóm chính sách thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia XĐGN, chính sách sắp
xếp, ổn định dân DCTD và các chính sách về văn hóa, y tế, giáo dục khác.
Các chính sách riêng của tỉnh Đắk Lắk đã hướng vào những đối tượng khó khăn
nhất trong cộng đồng, đó là nhóm các DTTS tại chỗ, như chính sách đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội buôn thôn, chính sách cán bộ, chính sách kết nghĩa thôn buôn, chính
sách hỗ trợ dạy nghề, chính sách dạy tiếng dân tộc… là những cỗ gắng rất lớn của tỉnh
Đắk Lắk trong điều kiện nguồn ngân sách eo hẹp, huy động toàn bộ nguồn lực từ
HTCT trong tỉnh chung tay thực hiện CSDT. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy đã có những chỉ
đạo nhằm ổn định đời sống, ổn định tư tưởng, phát huy vai trò của một số cộng đồng
tộc người cụ thể, như người Hmông, người Hoa.
Việc thực hiện các chính sách đã có nhiều tác động tích cực làm thay đổi diện
mạo vùng DTTS; sản xuất và đời sống của đồng bào từng bước được cải thiện và nâng
lên đáng kể.
111
Thông qua các chương trình, CSDT triển khai thực hiện, đến nay cơ sở hạ tầng
thiết yếu trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn đã được đầu tư tương đối đồng bộ.
Người dân được hỗ trợ để phát triển sản xuất, được phổ biến, chuyển giao khoa học kỹ
thuật trong sản xuất. Kết cấu hạ tầng được tăng cường đầu tư, 100% xã có đường ô tô
đến trung tâm, 100% xã có điện lưới quốc gia,… Các CSDT, an sinh xã hội được triển
khai đồng bộ đã mang lại hiệu quả cao. Kết quả, tỉ lệ hộ nghèo trên địa bàn toàn tỉnh
trong hơn 10 năm gần đây giảm trung bình gần 3%/năm.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện các CSDT thời gian qua vẫn
còn nhiều tồn tại, hạn chế như: có quá nhiều chính sách được ban hành bởi nhiều bộ
ngành, nhiều chính sách manh mún gây lãng phí, các chính sách đầu tư thiếu nguồn lực
tập trung, do đó có tình trạng chồng chéo trong nội dung và đối tượng thụ hưởng; có
nhiều chính sách được ban hành thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều cơ quan và cấp
quản lý nên khó thực hiện sự liên kết, hỗ trợ (lồng nghép) giữa các chính sách.
112
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT
4.1.1. Nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk thực hiện chính
sách dân tộc
4.1.1.1. Về ưu điểm
- Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk đã quán triệt đúng đắn, kịp thời và vận dụng sáng tạo
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ban hành nhiều chính sách phù hợp
với đặc thù của một tỉnh đa dân tộc.
Vào những năm đầu thế kỷ XXI, khu vực Tây Nguyên (đặc biệt là tỉnh Đắk
Lắk) tình hình an ninh chính trị có những diễn biến vô cùng phức tạp. Đây là địa bàn
trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch, chúng luôn tìm cách lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo để tuyên truyền chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
mưu đồ kích động ly khai, thành lập “nhà nước Đề Ga” ở Tây Nguyên. Trước bối
cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các
CSDT nói chung và CSDT vùng Tây Nguyên nói riêng thông qua việc ban hành
những chính sách, quyết sách hợp lý trong từng thời kỳ.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã cụ thể hóa các chương trình, nghị quyết
của Đảng, Nhà nước bằng các nghị định, quyết định, chỉ thị, chỉ đạo toàn diện vùng
Tây Nguyên với cơ chế, chính sách đặc thù, huy động nguồn lực xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của đồng bào
các dân tộc, ổn định an ninh chính trị trên địa bàn Tây Nguyên.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng đã tăng cường công tác kiểm tra đôn đốc các bộ,
ngành, địa phương triển khai thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị và các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với Tây Nguyên; phối hợp với các bộ,
ban, ngành nghiên cứu, tham mưu đề xuất với Đảng, Chính phủ nhiều chủ trương
quan trọng liên quan đến CSDT, giải quyết những vấn đề bức xúc về đất đai, nhà ở,
việc làm, giao đất rừng cho các hộ đồng bào DTTS. Các tỉnh ở khu vực Tây Nguyên
đã kịp thời xây dựng chương trình hành động thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, các chương trình, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước; ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn triển khai thực hiện theo chức
113
năng nhiệm vụ của ngành; tăng cường lực lượng, cán bộ cho Đắk Lắk - Tây Nguyên,
giải quyết kịp thời những vấn đề bức thiết của đồng bào các DTTS. Các địa phương
trong khu vực và cả nước đã quan tâm liên kết, hỗ trợ về phát triển kinh tế, xã hội,
nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng đã tăng cường công tác kiểm tra đôn đốc các
bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị và các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với Tây Nguyên; phối hợp với các
bộ, ban, ngành nghiên cứu, tham mưu đề xuất với Đảng, Chính phủ nhiều chủ trương
quan trọng liên quan đến CSDT, giải quyết những vấn đề bức xúc về đất đai, nhà ở,
việc làm, giao đất rừng cho các hộ đồng bào DTTS.
Từ năm 2003 đến năm 2015, cùng với các chương trình, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước đầu tư trong vùng đồng bào DTTS cả nước nói chung, Tỉnh ủy và
UBND tỉnh Đắk Lắk căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương đã xây dựng những
chính sách đặc thù nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại vùng DTTS. Chẳng hạn,
ngay sau khi chia tách tỉnh, với đặc thù của tỉnh có nhiều đồng bào DTTS tại chỗ, sự
chênh lệch về mức sống và trình độ dân trí... giữa các nhóm dân tộc còn quá chênh
lệch, Đảng bộ tỉnh đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 17-11-2004,
về phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào DTTS tại chỗ đến năm 2010. Tỉnh
đã thực hiện đầu tư cho 13 buôn trên địa bàn 13 huyện (mỗi buôn 500 triệu đồng) để
xây dựng mô hình chăn nuôi bò theo hộ hoặc nhóm hộ, nuôi cá, trồng cỏ chăn nuôi,
trồng cây công nghiệp, cây ăn quả giống mới, ngô lai, cải tạo vườn tạp...; đầu tư kết
cấu hạ tầng cho các buôn phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhìn chung,
tình hình kinh tế - xã hội thôn, buôn trên địa bàn tỉnh được triển khai thực hiện đã
mang lại những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân dần được nâng cao.
Ngày 16-02-2012, UBND tỉnh ban hành Chương trình 655/CTr-UBND, về phát
triển kinh tế - xã hội buôn đồng bào DTTS tại chỗ của tỉnh đến năm 2015. Trong 02
năm 2013, 2014, ngân sách tỉnh đã bổ sung 30 tỷ đồng (bình quân mỗi huyện 1 tỷ
đồng/năm) cho các huyện, thị xã, thành phố để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội buôn
đồng bào DTTS tại chỗ. Kết quả thực hiện năm 2013, đã xây dựng được 02 nhà sinh
hoạt cộng đồng, 01 trường tiểu học, 18 công trình đường giao thông nông thôn, 02
công trình thủy lợi. Mua và cấp phân bón, giống cây trồng, vật nuôi cho 80 hộ nghèo.
114
Công tác kết nghĩa với các buôn đồng bào DTTS theo Công văn số 75-CV/TU,
ngày 22-3-2004 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về việc phân công các cơ quan, đơn vị
kết nghĩa với các buôn đồng bào DTTS. Đây là chủ trương quan trọng, đúng đắn,
hợp lòng dân của Tỉnh ủy, mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc; được
các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, cán bộ, đảng
viên, các lực lượng vũ trang, các ngành, các cấp và đồng bào các dân tộc hết sức
phấn khởi, tin tưởng và tích cực hưởng ứng.
Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện, tính đến nay, đã có 176 cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp cấp tỉnh và các đơn vị Trung ương đóng trên địa bàn thành phố Buôn
Ma Thuột kết nghĩa với 150 buôn đồng bào DTTS, trong đó có 65 buôn trọng điểm
về an ninh chính trị được phân công các đơn vị kết nghĩa. Các huyện, thị, thành uỷ
đã phân công 1.262 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học do huyện, thị, thành
phố quản lý kết nghĩa với 607 buôn đồng bào DTTS. Hàng năm, các cơ quan đơn vị
đều đã trích một phần kinh phí và vận động cán bộ, công chức, viên chức và người
lao động đóng góp để giúp đỡ, hỗ trợ đồng bào các buôn kết nghĩa về vật chất lẫn
tinh thần v.v.
- Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk luôn bám sát thực tiễn, chỉ đạo triển khai các chủ
trương, chính sách thành các chương trình, kế hoạch, đề án và kiểm tra, giám sát, đôn
đốc quá trình thực hiện.
Trên cơ sở các chương trình, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ban
hành; sự chỉ đạo, hướng dẫn của các bộ, ngành về thực hiện các chính sách dân tộc.
Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Đắk Lắk không chỉ đã kịp thời ban hành nhiều nghị
quyết, quyết định, chỉ thị, chương trình hành động, mà đã xây dựng nhiều kế hoạch
thực hiện công tác dân tộc tại địa phương; Thành lập ban chỉ đạo, cơ quan thường
trực, cơ quan chuyên môn để tuyên truyền hướng dẫn triển khai thực hiện công tác
quản lý, cũng như kiểm tra, giám sát và đôn đốc các đơn vị triển khai thực hiện các
chương trình, chính sách từ tỉnh đến cơ sở (huyện, xã).
Đối với cấp tỉnh, thực hiện Nghị định 13/2008/NĐ-CP ngày 4-02-2008 của
Chính phủ "Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương", vẫn giữ nguyên Ban Dân tộc trực thuộc UBND tỉnh. Ban Dân
tộc tỉnh Đắk Lắk đã thể hiện tốt vai trò là cơ quan thường trực tham mưu cho UBND
tỉnh quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc ở địa phương.
115
Đối với cấp huyện, thực hiện Nghị định 14/2008/NĐ-CP, ngày 4-02-2008 của
Chính phủ "Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh", giải thể phòng Dân tộc - Tôn giáo và đồng thời chuyển
chức năng, nhiệm vụ công tác dân tộc về cho phòng Nội vụ và Văn phòng HĐND và
UBND cấp huyện. Bộ phận công tác dân tộc trực thuộc Văn phòng HĐND và UBND
huyện, được bố trí từ 2-3 cán bộ trong đó có 01 phó chánh văn phòng phụ trách về
công tác dân tộc theo chế độ kiêm nhiệm, cá biệt có nơi bố trí 01 cán bộ; một số
huyện chuyển cán bộ từ phòng Dân tộc - Tôn giáo sang nhưng cũng có huyện bố trí
cán bộ hoàn toàn mới. Đối với cấp huyện, không thống nhất trong việc giao thực hiện
CSDT nên cùng một chính sách nhưng mỗi huyện lại giao cho các phòng ban khác
nhau thực hiện; biên chế ít, số cán bộ mới lại chưa cập nhật CSDT kịp thời nên chưa
thực hiện tốt được chức năng tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương trong
công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện CSDT. Đặc biệt là công tác tổng hợp
thông tin báo cáo hết sức chậm trễ, nhiều huyện không thực hiện chế độ báo cáo kịp
thời, Ban Dân tộc tỉnh rất khó khăn trong việc tổng hợp báo cáo theo định kỳ.
Ngày 26-02-2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2010/NĐ-CP, "Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 4-02-2008 của
Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh". Đối với các tỉnh có đông đồng bào DTTS, thực hiện phân
cấp quản lý, nâng cao vai trò của cơ quan làm công tác dân tộc cấp huyện. Sau khi rà
soát thực tế các địa phương và đối chiếu các tiêu chí quy định tại Nghị định số
53/2004/NĐ-CP, ngày 18-02-2004 của Chính phủ Về kiện toàn tổ chức bộ máy làm
công tác dân tộc thuộc UBND các cấp, tỉnh Đắk Lắk có 15/15 đơn vị hành chính cấp
huyện đủ điều kiện để thành lập phòng dân tộc.
Đến tháng 12-2010, HĐND và UBND tỉnh Đắk Lắk đã thông qua và phê duyệt
Đề án thành lập 15 phòng dân tộc thuộc UBND cấp huyện, thành phố, thị xã thuộc
tỉnh. Đến nay có 15 phòng đã đi vào hoạt động (Đắk Nông, 8/8 phòng thuộc huyện
đã hoạt động, biên chế bố trí 4-6 người/phòng; Kon Tum, có 9/9 phòng, biên chế
được bố trí từ 5-7 người/phòng; Gia Lai, 16/17 phòng thuộc huyện đã hoạt động,
biên chế bố trí 4-6 người; Lâm Đồng, có 11/12 phòng đã hoạt động, biên chế 4-6
người) [141, tr.9].
116
Nhìn chung, các cấp ủy, chính quyền địa phương tỉnh Đắk Lắk đã quan tâm chỉ
đạo việc kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc UBND cấp tỉnh, cấp
huyện trên địa bàn quản lý bảo đảm đúng quy trình, quy định và kịp thời đưa vào hoạt
động theo quy định của pháp luật; việc bố trí biên chế mỗi phòng từ 4-6 cán bộ, công
chức cơ bản phù hợp với tình hình và công tác dân tộc. Việc kiện toàn tổ chức bộ
máy làm công tác dân tộc thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện là cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng trong giai đoạn hiện nay, góp phần thực hiện có hiệu quả các chương
trình, chính sách kinh tế - xã hội trong vùng nói chung và chương trình, CSDT của
Đảng và Nhà nước nói riêng, giúp cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, quản lý và
tổ chức thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn tốt hơn.
Ví dụ, việc tổ chức thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2011-2015: Trong quá
trình triển khai thực hiện, UBND tỉnh đã bám sát các văn bản hướng dẫn của Trung
ương, như Quyết định số 551/QĐ-TTg, ngày 4-4-2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho
các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó
khăn; Thông tư Liên tịch số 05/2013/TTLT-UBDT-NNPTNT-KHĐT-TC-XD, ngày
18-11-2013 của Liên Bộ về việc Hướng dẫn thực hiện Chương trình 135 về hỗ trợ
đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên
giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn; Thông tư số 46/2014/TT-BNN-
PTNT ngày 05-12-2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; công văn số
1550/KBNN-KSC, ngày 27/6/2014 của Kho bạc Nhà nước; Quyết định 2405/QĐ-
TTg ngày 10-12-2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó
khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của Chương trình 135; Quyết định
582/QĐ-UBDT ngày 18-12-2013 của Uỷ ban Dân tộc phê duyệt danh sách thôn đặc
biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi vào diện đầu tư của Chương trình 135...
Về phía tỉnh có các văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể. Để phân bổ vốn hỗ trợ
hằng năm cho các xã theo mức độ khó khăn, chỉ đạo thực hiện vốn hỗ trợ phát triển
sản xuất mang lại hiệu quả cao, đồng thời chỉ đạo triển khai thực hiện tốt Chương
trình 135, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản. Cụ thể như: Quyết định
21/2014/QĐ-UBND, ngày 10-7-2014 về quy định tiêu chí phân bổ vốn Chương trình
135; Công văn số 4237/UBND-VHXH, ngày 20-6-2014 về Quy định, định mức hỗ
trợ cho từng nội dung của dự án và hướng dẫn thực hiện dự án hỗ trợ phát triển sản
117
xuất thuộc Chương trình 135; Công văn số 9350/UBND-VHXH, ngày 25-12-2013 về
thực hiện đầu tư Chương trình 135; Công văn số 3778/UBND-VHXH về điều chỉnh
một số nội dung của Công văn số 4237/UBND-VHXH; Quyết định số 1263/QĐ-
UBND, ngày 25-5-2015 về công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện, phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là bộ phận hướng dẫn cơ sở xây dựng và thẩm
định dự án, tham mưu UBND huyện phê duyệt dự án hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc
Chương trình 135. Ngoài ra, Ban Dân tộc phối hợp với các sở, ngành liên quan ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn và chỉ đạo đến UBND các huyện, thị xã triển khai
thực hiện như sau: Công văn số 181a/2014/BDT-KHĐT-TC-XD-KBNN, ngày 16-4-
2015 của Liên sở: Ban Dân tộc, Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Tài chính, Sở Xây dựng;
Kho bạc Nhà nước về hướng dẫn công tác duy tu bảo dưỡng Chương trình 135; Công
văn số 401/BDT-KH, ngày 25-8-2014, hướng dẫn các chủ đầu tư triển khai thực hiện
chuẩn bị đầu tư kế hoạch vốn phát triển cơ sở hạ tầng Chương trình 135 năm 2015, và
Công văn số 102/BDT-KH, ngày 17-3-2015, hướng dẫn triển khai nguồn vốn hỗ trợ
đầu tư cơ sở hạ tầng Chương trình 135 gửi các sở, ban, ngành và UBND các huyện,
thị xã để các địa phương làm căn cứ tổ chức triển khai thực hiện. Từ quý III hằng
năm Ban Dân tộc ban hành công văn hướng dẫn các huyện, thị xã triển khai thực hiện
công tác chuẩn bị đầu tư kế hoạch năm sau.
Về cơ cấu bộ máy quản lý, chỉ đạo điều hành: Ở cấp tỉnh, UBND tỉnh giao cho
Ban Dân tộc làm cơ quan thường trực, phối hợp với các sở, ngành liên quan và
UBND các huyện tham mưu cho UBND tỉnh quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
Chương trình. Ở cấp huyện, UBND huyện giao phòng Dân tộc là cơ quan thường trực
giúp UBND huyện chỉ đạo, triển khai theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện Chương
trình 135 trên địa bàn huyện. Phân cấp quản lý thực hiện: UBND huyện giao cho các
phòng chức năng tham mưu cho UBND giao kế hoạch vốn đầu tư, quyết định đầu tư,
phê duyệt dự án đầu tư xây dựng, phê duyệt báo cáo kinh tế - kỹ thuật, hồ sơ mời
thầu, kết quả đấu thầu, quyết định chỉ định thầu và phê duyệt quyết toán.
Về phân bổ vốn: Trên cơ sở tổng kinh phí được Trung ương đầu tư, Ban Dân
tộc phối hợp các sở, ngành chức năng tham mưu cho UBND tỉnh phân bổ vốn đầu tư
cho từng xã theo tiêu chí đã ban hành tại Quyết định 21/2014/QĐ-UBND, ngày 10-7-
2014 của UBND tỉnh, không bình quân chia đều.
118
Thực hiện nguyên tắc dân chủ, công khai trong xây dựng kế hoạch tổng thể và
kế hoạch hằng năm thực hiện Chương trình 135 được UBND các xã đưa ra dân bàn
bạc. Các công trình hạ tầng được lựa chọn thứ tự ưu tiên cấp thiết. Việc bình chọn tên
hộ nghèo được hỗ trợ phát triển sản xuất được thực hiện công khai, dân chủ từ các
thôn, buôn. Sau khi tổng hợp, UBND xã đề nghị thường trực HĐND xã thông qua,
lập tờ trình đề nghị UBND huyện quyết định phân bổ kế hoạch vốn và triển khai thực
hiện. Sau khi được UBND huyện phê duyệt, UBND các xã thông báo công khai trên
hệ thống đài FM cơ sở và niêm yết tai trụ sở làm việc của UBND xã, nhà sinh hoạt
thôn, buôn.
Ở các xã được thụ hưởng Chương trình đều thành lập Ban Giám sát cộng đồng.
Việc hoạt động có hiệu quả của các Ban Giám sát đã góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả đầu tư các công. Tuy nhiên còn một số xã ở huyện Lắk và huyện M’Đrắk
chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm của mình, giám sát còn mang tính hình thức,
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
Thực hiện nguyên tắc xã có công trình, dân có việc làm tăng thêm thu nhập:
Trên địa bàn toàn tỉnh việc thi công các công trình hạ tầng đều do các nhà thầu đảm
nhiệm, một số công việc nhà thầu hợp đồng với nhiều lao động là người dân tại chỗ,
từ đó góp phần tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên số lao động này còn ít vì
phần lớn là thủ công, năng suất lao động thấp, lại không chuyên nghiệp nên các nhà
thầu ít sử dụng lao động tại chỗ.
Cơ chế quản lý, khai thác sau khi hoàn thành: Tất cả các công trình thuộc
Chương trình 135 trên địa bàn các xã đến nay đã được bàn giao đưa vào sử dụng, đều
có sự quản lý của huyện, sự giám sát chặt chẽ của cộng đồng người dân, nên đến nay
các công trình đều phát huy hiệu quả sử dụng.
Cùng với các chương trình, chính sách của Đảng và Nhà nước dành riêng cho
vùng Tây Nguyên và các chương trình, chính sách của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ giao cho các bộ, ngành quản lý theo từng lĩnh vực. Trong hơn 10 năm sau khi
chia tách, Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Đắk Lắk cũng đã kịp thời ban hành các
Nghị quyết, Quyết định, triển khai thực hiện nhiều chương trình, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước và chính sách đặc thù của tỉnh đối với đồng bào DTTS trên
địa bàn. Trên cơ sở điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng đời sống kinh tế - xã hội
của đồng bào DTTS, các chính sách đặc thù của địa phương đã được các ngành, các
119
cấp từ tỉnh đến cơ sở tham mưu tổ chức triển khai thực hiện đạt được nhiều kết quả
quan trọng và được đồng bào các DTTS đồng tình ủng hộ: như chính sách cán bộ
DTTS, chính sách phát triển kinh tế - xã hội thôn buôn đồng bào DTTS tại chỗ, chính
sách kết nghĩa, chính sách hỗ trợ học sinh DTTS, chính sách ngôn ngữ dân tộc v.v.
Việc triển khai thực hiện tốt các chính sách đặc thù ở từng địa phương góp phần nâng
cao đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng được giữ vững.
Tuy nhiên, do những khó khăn về nguồn lực tài chính nên công tác triển khai các
chương trình, chính sách của các địa phương còn những hạn chế, chưa kịp thời và
chưa đáp ứng được yêu cầu đối tượng thụ hưởng chính sách.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện các
chương trình, chính sách dân tộc trong vùng đồng bào DTTS của tỉnh Đắk Lắk luôn
được các cấp, các ngành quan tâm. Định kỳ 6 tháng và hằng năm, Hội đồng dân tộc
Quốc hội, Thanh tra liên bộ, Thanh tra Uỷ Ban Dân tộc, các Bộ ngành trung ương và
địa phương đều tổ chức các chương trình giám sát, thanh tra, kiểm tra chuyên đề,
kiểm tra việc thực hiện các chính sách trong vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh.
Qua đó, kịp thời giúp các địa phương tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về cơ chế
chính sách, khắc phục những khiếm khuyết, tồn tại trong quá trình tổ chức thực hiện.
Qua các đợt thanh tra, kiểm tra đã kịp thời nhắc nhở, hướng dẫn các đơn vị, khắc
phục những sai phạm để thực hiện tốt hơn các chương trình, CSDT. Xử lý, thu hồi
nguồn vốn chi không đúng theo quy định nộp vào ngân sách nhà nước. Trong đó
Chương trình 134, Chương trình 135 giai đoạn II, định canh, định cư, chính sách hỗ trợ
cho học sinh các địa phương... Từ năm 2007 đến năm 2015, tỉnh Đắk Lắk không phải
xử lý sai phạm nào; trong khi đó các tỉnh khác trong khu vực Tây Nguyên đã xử lý
nhiều sai phạm và thu hồi hơn 598 triệu đồng (tỉnh Kon Tum thu hồi 190,666 triệu
đồng; Gia Lai 199,624 triệu đồng; Đắk Nông 192,8 triệu đồng; Lâm Đồng 15,73 triệu
đồng) [141, tr.10].
Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các chương
trình, CSDT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chưa được thường xuyên; vai trò, trách nhiệm
và năng lực giám sát của một số ban giám sát ở các địa phương, nhất là ở cơ sở còn
yếu, công tác quản lý, giám sát xây dựng của một số chủ đầu tư thiếu sâu sát; việc
quản lý, khai thác sử dụng và bảo dưỡng các công trình đã được đầu tư xây dựng tại
các địa phương còn hạn chế, yếu kém nên hiệu quả các chương trình, chính sách
mang lại chưa cao, gây lãng phí.
120
Như vậy, nhìn lại từ năm 2003 đến 2015, với hai giai đoạn lãnh đạo thực hiện
CSDT của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk: 2003-2010 và 2011-2015, qua các nhiệm kỳ Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2001-2005), XIV (nhiệm kỳ 2006-2010),
XV (nhiệm kỳ 2010-2015), đã thể hiện sự phát triển về nhận thức trong hoạch định
chủ trương cũng như trong chỉ đạo thực hiện CSDT.
Tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện tất cả các chính sách do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ ban hành: Chính sách hỗ trợ phát triến sản xuất; Chính sách giảm nghèo,
đào tạo nghề và giải quyết việc làm; Chính sách nước sạch, bảo vệ môi trường sinh
thái; Chính sách giáo dục đào tạo; Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa, du lịch,
thông tin tuyên truyền vùng DTTS&Mnông; Chính sách về y tế, chăm sóc sức khỏe;
Chính sách củng cố hệ thống chính trị vùng DTTS&MN (Chính sách cán bộ, Chính
sách đối với người có uy tín trong đồng bào DTTS; Phổ biến giáo dục pháp luật và
trợ giúp pháp lý tại vùng DTTS&MN.
Bên cạnh kết quả đạt được từ thực hiện chính sách do Chính phủ và các Bộ,
ngành ban hành, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk Lắk cũng xây dựng, triển khai thực hiện
các chính sách đặc thù theo yêu cầu thực tế của địa phương [xem thêm Phụ lục 8].
Giai đoạn 2003-2010, trong bối cảnh bất ổn về an ninh chính trị, chủ trương
của Tỉnh Đắk Lắk tập trung giữ vững ổn định chính trị, từng bước cải thiện đời
sống người dân các DTTS. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX)
về công tác dân tộc, với phương châm công tác dân tộc là nhiệm vụ của cả HTCT,
tỉnh Đắk Lắk đã ban hành một số chính sách cấp bách về công tác cán bộ DTTS,
công tác vận động quần chúng, bảo vệ biên giới, công tác kết nghĩa với 65 buôn
có điểm nóng về an ninh chính trị, công tác phát triển kinh tế - xã hội thôn buôn
DTTS tại chỗ…
Giai đoạn 2011-2015, với tình hình kinh tế - xã hội tương đối ổn định, tỉnh
Đắk Lắk tiếp tục thực hiện những chính sách của giai đoạn trước, đồng thời tập
trung nguồn lực giải quyết dứt điểm các vấn đề bức xúc trong giai đoạn mới (như
đất sản xuất, cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, xóa đói
giảm nghèo bền vững…). Bên cạnh đó, giai đoạn này, tỉnh có những chủ trương
thiết thực để củng cố quyền bình đẳng của người DTTS tại chỗ về kinh tế, văn hóa
và chính trị với các nhóm dân tộc còn lại bằng việc ban hành và thực thi chính sách
về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; thực hiện tốt
121
chính sách giáo dục dân tộc, trong đó chú trọng chính sách ngôn ngữ dân tộc, hỗ trợ
thêm tiền ăn, học phí từ ngân sách địa phương cho học sinh nghèo, học sinh người
DTTS; chính sách cán bộ DTTS nhằm tăng tỷ lệ cán bộ người DTTS trong bộ máy
công quyền, tạo điều kiện cho họ tham gia trực tiếp vào việc hoạch định chủ trương,
chính sách và quản lý xã hội.
Trong giai đoạn 2011-2015, Tỉnh ủy Đắk Lắk đã bước đầu có những chủ
trương, chính sách đối với từng tộc người (người Hmông, người Hoa trên địa bàn)
nhằm tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng - an ninh.
4.1.1.2. Về hạn chế, khiếm khuyết
Nhìn lại quá trình lãnh đạo thực hiện CSDT của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk giai
đoạn 2003-2015, hệ thống chính sách trong vùng đồng bào DTTS đã có nhiều ưu
điểm so với giai đoạn trước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Trước
hết cần phải chỉ ra rằng: Nhiều chính sách còn mang tính nhiệm kỳ, thời gian thực
hiện ngắn, thiếu tính chiến lược lâu dài. Trình tự thủ tục xây dựng và phê duyệt một
số đề án chương trình, chính sách mất nhiều thời gian nên khi chính sách được ban
hành thì thời gian thực hiện còn lại rất ngắn, không đảm bảo cho việc triển khai thực
hiện. Một số chính sách còn chồng chéo về đối tượng, địa bàn thụ hưởng. Hầu hết các
chính sách đều mang tính hỗ trợ, chính sách đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu cơ
bản, do vậy hiệu quả của chính sách chưa thật sự bền vững.
Nhiều chính sách khi hết hiệu lực nhưng các mục tiêu không đạt do nguồn vốn
Trung ương cấp không đủ, không bảo đảm cho việc thực hiện như: chính sách theo
Quyết định 33, 1592… các chính sách đã phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến
định mức không còn phù hợp với thực tế.
Việc xây dựng một số chính sách chưa thật sự dựa trên cơ sở khoa học, thiếu
điều tra thực tế, không phù hợp với địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Có chính sách
định mức hỗ trợ thấp không thực hiện được hoặc kém hiệu quả nhưng chậm được sửa
đổi bổ sung như: chính sách theo Quyết định 102, 1592, 33…
Việc tổ chức thực hiện các chính sách còn nhiều yếu kém, có chính sách chậm
ban hành văn bản hướng dẫn; việc phân công chủ trì, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một
số chính sách chưa hợp lý; công tác phối hợp giữa các bộ ngành về lĩnh vực liên quan
chưa chặt chẽ. Việc lồng ghép các chương trình, chính sách trên địa bàn vùng dân tộc
122
còn bất cập. Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách ở một số địa phương còn
lúng túng. Việc lập kế hoạch, rà soát đối tượng thụ hưởng chưa sát với thực tế dẫn
đến việc rà soát lại nhiều lần gây ảnh hưởng đến thời gian thực hiện và hiệu quả
chính sách không cao. Công tác kiểm tra, giám sát, chỉ đạo và hướng dẫn của các Bộ,
ngành Trung ương chưa được thường xuyên.
Hệ thống chính trị cơ sở còn nhiều vấn đề bất cập, hạn chế: Nhiều buôn làng có
chi bộ, tổ đảng nhưng chất lượng sinh hoạt thấp, nặng về hình thức, vai trò nồng cốt
của đảng viên chưa cao. Trình độ, năng lực thực tiễn của một bộ phận cán bộ, đảng
viên còn hạn chế và chưa đồng đều. Cán bộ chuyên trách cấp xã chưa qua các chương
trình đào tạo còn nhiều (khoảng 62%). Công tác quy hoạch, tạo nguồn, sử dụng đội
ngũ cán bộ người DTTS nhiều nơi vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và xây
dựng đội ngũ kế cận lâu dài.
Công tác quy hoạch, tạo nguồn, bố trí và sử dụng cán bộ cơ sở của tỉnh Đắk
Lắk hơn 10 năm qua đã góp phần khắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ và công chức
xã, từng bước dần chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức xã, phát huy được năng lực,
sở trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, công tác quy hoạch, tạo
nguồn và bố trí sử dụng cán bộ cơ sở vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự, an toàn
xã hội của địa phương; đặc biệt vấn đề tạo nguồn cán bộ, công chức là người DTTS
vẫn còn nhiều khó khăn.
0
2
4
6
8
10
12
14
2000 2005 2010 2015
%
Biểu số 4.1: Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk
Nguồn: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk [3; 5; 6]
123
Việc kiện toàn bộ máy thực hiện công tác dân tộc của một số địa phương vẫn
còn chậm; cán bộ, công chức được bố trí làm công tác dân tộc còn hạn chế về
chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực và tâm lý trong công tác. Việc Nghị định
14/2008/NĐ-CP ra đời đã làm cho bộ máy làm công tác dân tộc cấp huyện bị xáo
trộn, ảnh hưởng nhiều đến kết quả thực hiện các nhiệm vụ công tác dân tộc trên
địa bàn.
4.1.2. Nhận xét về kết quả thực hiện chính sách dân tộc trên các lĩnh vực
cụ thể
4.1.2.1. Thành quả đạt được trên các lĩnh vực chủ yếu
Trong hơn 10 năm, kể từ khi có Nghị quyết chuyên đề của Đảng về công tác
dân tộc (từ năm 2003 đến năm 2015), với nhiều chủ trương, chính sách, chương trình,
dự án của Đảng và Nhà nước đầu tư cho đồng bào DTTS tỉnh Đắk Lắk, nhất là vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, khó khăn về phát triển kinh tế - xã hội từ đó đời
sống kinh tế - xã hội ở vùng DTTS đã được thay đổi rõ rệt. Đoàn kết giữa các dân tộc
tiếp tục được củng cố, nền kinh tế nhiều thành phần bắt đầu được hình thành và phát
triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Công tác xoá đói
giảm nghèo đạt được những kết quả to lớn.
Công tác tổ chức thực hiện CSDT của cơ sở, ban, ngành các địa phương đã có
nhiều chuyển biến tích cực và có hiệu quả, nhiều địa phương đã năng động sáng tạo
trong việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, tạo nên sự thay
đổi rõ rệt về cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoá - xã hội vùng DTTS.
Việc triển khai thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án đầu tư đã làm
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống Nhân dân ở vùng đồng bào DTTS được
cải thiện rõ rệt. Đến năm 2015, có 100% số xã của tỉnh Đắk Lắk có đường ô tô đến
trung tâm xã, đa số xã đã có điện lưới quốc gia, 90% xã và 70% số hộ được dùng điện
sinh hoạt, hơn 95% số xã có điện thoại 100% số xã có trạm y tế. Thể hiện trên các
lĩnh vực như sau:
Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội: CSDT đã góp phần quan trọng trong việc từng
bước tháo gỡ những khó khăn, thách thức, ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa
lạm phát và đã đạt được những kết quả tích cực; thực hiện khá toàn diện các mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhiều phong trào thi đua yêu nước đã
được phát động và được sự hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp Nhân dân. Cơ cấu
124
kinh tế, cơ cấu đầu tư chuyển dịch tích cực; năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội tiếp tục được nâng cao. Những nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại, học
hành, phương tiện sinh hoạt được cải thiện rõ rệt, dịch vụ phát triển, hàng hóa dồi
dào, phong phú. Đời sống tinh thần, trình độ dân trí được nâng lên đáng kể. Giáo dục,
đào tạo đạt được nhiều kết quả quan trọng; chất lượng giáo dục được nâng lên. Công
tác chăm sóc sức khỏe và phòng chống dịch bệnh cho Nhân dân đạt một số kết qủa
tích cực; hệ thống y tế được củng cố.
Trên lĩnh vực văn hóa: Giá trị văn hóa các dân tộc được tỉnh Đắk Lắk tiếp
tục quan tâm bảo tồn và phát triển như: các lễ hội truyền thống, ngày hội văn hóa
các dân tộc..., phát huy văn hoá truyền thống, kế thừa có chọn lọc những giá trị tiêu
biểu, loại bỏ dần những hủ tục lạc hậu, hình thành nếp sống văn minh, gia đình văn
hoá, buôn, làng văn hóa. Các đài phát thanh, truyền hình địa phương đã phát ổn
định với thời lượng khá lớn nhiều thứ tiếng DTTS (Ê-đê, Ba-na, Gia-rai, Xơ-đăng,
Cơ-ho, Mnông); Tỉnh thực hiện chủ trương cấp không thu tiền các loại ấn phẩm báo,
tạp chí, tặng máy thu hình, thu thanh cho các buôn làng. Nhà nước đã đầu tư hàng
chục tỷ đồng nghiên cứu, sưu tầm văn hóa dân gian; phục hồi di sản văn hoá cồng
chiêng, tổ chức biên soạn luật tục của các dân tộc; khuyến khích bảo tồn các buôn
làng cổ truyền, phát triển nghề thủ công và khôi phục các lễ hội văn hoá.
Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: Công tác vận động quần chúng và nhiều
phong trào thi đua đã thu hút đông đảo cán bộ, chiến sỹ và các tầng lớp Nhân dân tham
gia. Qua đó, tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của HTCT trong nhiệm vụ xây dựng,
củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân dân; góp phần tích cực trong
việc đấu tranh xoá bỏ tổ chức FULRO và hoạt động thành lập "Vương quốc Mông";
phòng, chống bạo loạn; giải quyết những mâu thuẫn, bức xúc trong dân, bảo đảm an
ninh chính trị, tạo điều kiện phát triển kinh tế, chăm lo đời sống Nhân dân; củng cố,
xây dựng HTCT cơ sở; tăng cường bảo vệ an ninh biên giới, chống xâm nhập, móc nối
của địch, làm thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; kiềm chế sự gia
tăng của các loại tội phạm, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, góp phần giữ vững an ninh
nông thôn, an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
Từ năm 2004 đến 2015, Công an tỉnh Đắk Lắk đã tập trung chỉ đạo các lực
lượng triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ nắm bắt tình hình an ninh vùng
đồng bào DTTS. Trật tự an ninh tiếp tục được giữ vững, khối đại đoàn kết được củng
125
cố và nâng cao, hoạt động của các đối tượng, các tai nạn, tệ nạn xã hội ngày càng
được đẩy lùi tạo điều kiện cho việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội. Thực hiện tốt công tác đấu tranh, phát hiện và xử lý các trường hợp gây
mất trật tự an ninh, chính trị trên địa bàn.
Công tác quốc phòng: Tỉnh đã tổ chức đào tạo được 52 cán bộ chỉ huy
trưởng xã, phường, thị trấn là người DTTS; xây dựng, củng cố nâng chất lượng
sinh hoạt 45 chi bộ thôn (buôn), bồi dưỡng, giới thiệu 52 nòng cốt vào ban tự quản
thôn (buôn), tích cực cùng địa phương tham gia củng cố, nâng cao chất lượng hoạt
động của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ở các buôn đồng bào DTTS. Tổ
chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho 743 các già làng, trưởng buôn, người có
uy tín trong đồng bào DTTS; biểu dương, khen thưởng những già làng, trưởng
buôn, người có uy tín có thành tích tiêu biểu trong lao động sản xuất và vận động
đồng bào dân tộc, tôn giáo thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, tham gia phòng
chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự ở địa phương. Năm 2009 đã lựa chọn 66
già làng, trưởng buôn tiêu biểu dự gặp mặt do Bộ Quốc phòng và Quân khu V tổ
chức. Từ năm 2004 đến năm 2015, có 99 quân nhân là người DTTS được tuyển
sinh vào các trường cao đẳng, đại học trong quân đội, tạo nguồn cán bộ phục vụ
trong quân đội lâu dài; kết nạp đảng cho 270 quân nhân là người DTTS trong thời
gian tại ngũ tạo nguồn cho cơ sở. Lực lượng vũ trang đã tổ chức hơn 2.200 lượt
cán bộ, chiến sĩ về các buôn kết nghĩa trong thời gian cao điểm và các ngày lễ tết,
thăm, tặng quà 504 già làng, trưởng buôn, trị giá hơn 166 triệu đồng, tặng 4.720
suất quà đến các gia đình chính sách, gia đình nghèo DTTS với tổng trị giá hơn
1,540 tỷ đồng; khám bệnh, cấp thuốc miễn phí trên 3.950 lượt người, kinh phí 141
triệu đồng [182, tr.10].
Công tác an ninh biên giới: Lực lượng vũ trang của tỉnh thực hiện tốt công tác
tuần tra, kiểm soát, mật phục, ngăn chặn trên biên giới không để xảy ra các hoạt động
vi phạm chủ quyền an ninh biên giới, xâm nhập, vượt biên trái phép xảy ra. Công tác
phân giới cắm mốc được triển khai theo đúng kế hoạch đã đề ra. Tình hình đồng bào
DTTS vùng biên giới cơ bản ổn định, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ,
chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tiến hành công tác tuyên truyền
126
vận động đồng bào DTTS, nâng cao nhận thức về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
Trên lĩnh vực xây dựng HTCT, các cấp ủy Đảng đã coi trọng gắn công tác
dân tộc với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Việc đổi mới, xây dựng chỉnh đốn
Đảng thu được kết quả quan trọng. Số tổ chức cơ sở đảng đạt “Trong sạch vững
mạnh” tăng, số cơ sở yếu kém giảm. Tổ chức bộ máy và hoạt động của cơ quan
làm công tác Dân tộc từ tỉnh xuống cơ sở từng bước được củng cố, kiện toàn; hiệu
lực, hiệu quả quản lý, có nhiều chuyển biến tích cực. Hoạt động của MTTQ và các
đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng hiệu quả, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
được tăng cường.
Tóm lại, từ việc thực hiện CSDT đã có tác động lớn đến đời sống xã hội của
tỉnh Đắk Lắk. Nhờ thực hiện chính sách đổi mới và CSDT đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta trong những năm qua vùng DTTS tỉnh Đắk Lắk đã có sự thay đổi sâu
sắc trong đời sống xã hội. Trước hết, quyền bình đẳng giữa các dân tộc trong tỉnh đã
được thực hiện đầy đủ trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Đoàn kết giữa các dân
tộc tiếp tục được củng cố. Hai là, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích
cực, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp giảm dần; ngành công nghiệp - xây dựng và
dịch vụ ngày càng tăng. Năm 2015, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản toàn tỉnh
Đắk Lắk chiếm 47,1%, công nghiệp - xây dựng chiếm 16,2%; dịch vụ đã tăng lên
36,7%; tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm giai đoạn 2003-2015 của tỉnh đạt khá;
thu nhập bình quân đầu người từ 23-25 triệu đồng/người/năm. Ba là, kết cấu hạ tầng
vùng DTTS được cải thiện rõ rệt, góp phần đắc lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc nói chung và đồng
bào DTTS của tỉnh nói riêng. Bốn là, công tác XĐGN đạt được kết quả khá; hàng
năm tỉ lệ đói nghèo giảm từ 3-4%; đời sống của đồng bào được cải thiện đáng kể.
Năm là, mặt bằng dân trí được nâng cao. Vùng DTTS đã hoàn thành phổ cập giáo
dục tiểu học và xoá mù chữ. Hệ thống trường PTDTNT được hình thành và phát triển
từ tỉnh đến huyện có đồng bào DTTS sinh sống, tạo nguồn đào tạo đội ngũ cán bộ
DTTS trên địa bàn. Sáu là, đời sống văn hoá của đồng bào DTTS được nâng lên một
bước, văn hoá truyền thống của các DTTS được tôn trọng, bảo tồn và phát huy. Hệ
thống phát thanh truyền hình ở vùng DTTS không ngừng phát triển. Bảy là, các loại
dịch bệnh cơ bản được ngăn chặn. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo vùng sâu,
127
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngày càng được quan tâm. Tám là, HTCT được tăng
cường và củng cố, nhất là ở cấp cơ sở. Công tác phát triển Đảng trong vùng đồng bào
dân tộc được chú trọng. Chín là, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
vùng DTTS cơ bản ổn định; Quốc phòng - an ninh được giữ vững.
8,20% 8,20%
12,10%
0,00%
2,00%
4,00%
6,00%
8,00%
10,00%
12,00%
14,00%
2001-2005 2006-2010 2011-2015
Biểu số 4.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tỉnh Đắk Lắk
Nguồn: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk [3; 5; 6]
4.1.2.2. Những hạn chế, yếu kém
Quá trình thực hiện CSDT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2003-2015, mặc
dù đạt được những tiến bộ so với giai đoạn trước, song sản xuất và đời sống vùng
đồng bào DTTS và DTTS tại chỗ vẫn còn nhiều khó khăn.
Việc triển khai các chương trình, dự án trong vùng đồng bào DTTS vẫn còn
những thiếu sót chậm được khắc phục. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm,
chất lượng thụ hưởng các dịch vụ văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục… trong vùng đồng
bào DTTS còn nhiều hạn chế.
Cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất vùng nông thôn miền núi vẫn còn
nhiều yếu kém, không đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống
của người dân. Hạ tầng xã hội chưa đáp ứng nhu cầu học tập, khám chữa bệnh, vui
chơi giải trí của Nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Việc tiếp
cận các dịch vụ y tế, giáo dục cũng như cơ hội việc làm cho lao động nông thôn còn
thấp, nhất là đồng bào DTTS.
128
Công tác giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân trong vùng đồng bào
DTTS vẫn còn nhiều bất cập: Về giáo dục, mạng lưới trường, lớp học mầm non
chưa đáp ứng yêu cầu, toàn vùng còn nhiều xã chưa có trường mầm non độc lập,
còn tình trạng học ghép, học nhờ, thiếu khu vệ sinh, nguồn nước sạch; tỷ lệ trường
đạt chuẩn quốc gia còn thấp (mục tiêu về tỷ lệ trường học các cấp đạt chuẩn quốc
gia đến năm 2015 của tỉnh: nhà trẻ, trường mầm non đạt 24%; trường tiểu học đạt
53%; trường THCS đạt 25%; trường trung học phổ thông đạt 20%). Năng lực và
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên
còn hạn chế so với yêu cầu; tỷ lệ học sinh vào các trường phổ thông dân tộc nội trú
và phổ thông dân tộc bán trú của tỉnh còn thấp; quy mô các trường phổ thông dân
tộc nội trú tỉnh, huyện còn nhỏ. Tỉ lệ học sinh DTTS học THPT còn hạn chế, chưa
đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn cán bộ người DTTS tại chỗ. Chưa gắn đào tạo nghề
với tạo việc làm để thu hút người DTTS tham gia học nghề. Giáo viên dạy tiếng dân
tộc chưa được đào tạo một cách chính quy, chưa được bồi dưỡng thường xuyên;
giáo viên người DTTS tại chỗ chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là giáo viên mầm
non và tiểu học.
Về y tế, cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho công tác khám chữa bệnh tại một
số xã còn thiếu, năng lực quản lý và trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ y
tế chưa đáp ứng yêu cầu; chưa chú trọng công tác tuyên truyền, vận động bà con
đồng bào DTTS chăm sóc sức khỏe, nhất là chăm sóc sức khỏe sinh sản. Nhiều cô
đỡ thôn buôn được đào tạo nhưng chưa phát huy được hiệu quả do thiếu chế độ phụ
cấp; tình trạng sinh đẻ tại nhà, không đưa trẻ đi tiêm chủng vẫn còn phổ biến ở
nhiều nơi.
Chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm tại chỗ: kết quả tuyển sinh dạy
nghề cho lao động nông thôn chất lượng còn hạn chế, ít phát huy tác dụng, chưa gắn
với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, quy hoạch nông thôn mới, nhất là quy
hoạch sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thị trường. Tình trạng
một số cơ sở dạy nghề còn chạy theo số lượng, chất lượng thấp, chưa phù hợp với
nhu cầu của người học và người sử dụng lao động; mạng lưới cơ sở dạy nghề còn bất
cập, cơ sở vật chất, thiết bị còn nghèo nàn, lạc hậu; đội ngũ quản lý nhà nước về dạy
nghề còn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn…
129
Công tác XĐGN tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song tỉ lệ hộ nghèo
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến cuối năm 2015 là 10,02%, trong đó, hộ nghèo đồng
bào DTTS chiếm 62,88%. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm DTTS với người
kinh còn chênh lệch khá cao. Đây là vấn đề cần quan tâm giải quyết.
0
10
20
30
40
50
60
70
2003 2005 2010 2015
DTTS tại chỗ
Nghèo chung
Biểu số 4.3: Tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số tại chỗ
so với tỷ lệ hộ nghèo chung tỉnh Đắk Lắk
Nguồn: Tổng hợp từ [116; 148; 160; 188]
Tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở vẫn chưa được giải quyết: đến năm
2015, tỉnh Đắk Lắk còn 9.142 hộ DTTS thiếu đất sản xuất với nhu cầu diện tích 6.072
ha (cả Tây Nguyên là 31.069 hộ đồng bào DTTS thiếu 17.516 ha đất sản xuất). Đây
cũng là một trong những khó khăn gây nên tình trạng tranh chấp đất đai, phá rừng
làm nương rẫy. Nguyên nhân của tình trạng thiếu đất là do khi lập đề án các địa
phương rà soát chưa kỹ, kê khai thiếu sót, một số do tách hộ…; riêng về chính sách
tiếp tục hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167 giai đoạn 2 đối với tỉnh Đắk
Lắk là 20.637 hộ.
130
15.450
28.523
16.516
5.5317.737
15.535
4.979
15.896
20.637
0
5.000
10.000
15.000
20.000
25.000
30.000
2004 2010 2015
Đất ở
Đất sản xuất
Nhà ở
Biểu số 4.4: Số hộ có nhu cầu đất ở, đất sản xuất và nhà ở tỉnh Đắk Lắk
Nguồn: Tổng hợp từ [116; 148; 160; 188]
Công tác đền bù, tái định cư tại một số công trình thủy điện trên địa bàn còn
nhiều thiếu sót, tồn tại chưa được chủ đầu tư quan tâm giải quyết. Quỹ đất của các địa
phương hạn chế; tại một số dự án, người dân tái định cư được đền bù với diện tích
hẹp hơn và chất lượng đất xấu hơn so với nơi sản xuất cũ; tại một số dự án do khó
khăn trong việc tìm quỹ đất sản xuất nên chủ đầu tư đã đền bù chủ yếu bằng tiền mặt,
sau khi tiêu xài hết tiền người dân lại tiếp tục phá rừng làm nương rẫy. Mặc khác,
công tác quy hoạch, bồi thường, hỗ trợ, di dân, tái định cư tại các dự án thủy điện trên
địa bàn thường chậm và thiếu đồng bộ, gây ảnh hưởng đáng kể đến đời sống của
người dân, phát sinh nhiều vấn đề phức tạp liên quan cần giải quyết.
Việc ổn định dân DCTD tuy đã được Thủ tướng Chính phủ và UBND tỉnh chỉ
đạo quyết liệt trong những năm qua. Song, đến năm 2015 vẫn còn nhiều bất cập chưa
được giải quyết: tình trạng di dân ngoài kế hoạch đã gây không ít khó khăn cho việc
triển khai thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk
Lắk. Dân DCTD đã làm gia tăng tình trạng phá rừng làm rẫy, sang nhượng đất đai
trái phép, gây sức ép và khó khăn cho các địa phương trong việc quản lý nhân hộ
khẩu, giải quyết nhu cầu giáo dục, y tế… Đắk Lắk hiện nay còn khoảng 3.845
hộ/19.682 khẩu chưa đưa vào dự án sắp xếp ổn định, do nguồn vốn hỗ trợ của Trung
ương không đáp ứng được nhu cầu của dự án, bên cạnh đó, tình trạng dân DCTD từ
131
các tỉnh miền núi phía Bắc vẫn tiếp tục diễn ra, gây khó khăn cho các địa phương
trong công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Quốc phòng - an ninh cơ bản giữ vững, ổn định. Tuy nhiên, các thế lực thù địch
vẫn chưa từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, biểu tình. Một số thôn, buôn
ở tỉnh Đắk Lắk còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ có thể gây mất ổn định. Ở một số nơi vùng
DTTS, tình hình tôn giáo phát triển không bình thường, trái pháp luật. Có nơi đồng
bào bị kẻ xấu lợi dụng, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; xâm nhập, vượt biên
trái pháp luật...
4.1.3. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế, khiếm khuyết
4.1.3.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình lãnh đạo thực hiện
CSDTcủa Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 2003 đến 2015 xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân chủ yếu là:
Về khách quan, các quyết sách lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Trung ương
Đảng và sự điều hành kiên quyết, linh hoạt của Chính phủ đã đưa đất nước nói chung,
vùng Tây Nguyên và tỉnh Đắk Lắk nói riêng từng bước vượt qua khó khăn, phục hồi
tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội và bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ.
Chủ trương, chính sách của Đảng về công tác dân tộc nói chung và CSDT nói
riêng ngày càng đúng đắn, các chính sách ngày càng cụ thể và thiết thực đối với từng
khu vực, từng nhóm tộc người, thậm chí đến từng tộc người cụ thể.
Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh Đắk Lắk luôn nhận được sự quan
tâm, hỗ trợ của Trung ương trên nhiều lĩnh vực, nguồn lực đầu tư ngày càng lớn;
cùng với tình hình an ninh chính trị tiếp tục ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình phát triển nói chung và thực hiện CSDT nói riêng tại địa phương.
Về chủ quan, đối với một tỉnh miền núi, biên giới, có tới 47 tộc người từ nhiều
tỉnh thành của cả nước cùng chung sống như Đắk Lắk, thực hiện CSDT có vị trí hết
sức quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong hơn 40 năm kể từ sau ngày
giải phóng, hơn 30 năm kể từ khi có đường lối đổi mới, và nhất là hơn 10 năm sau
khi chia tách tỉnh (2003-2015), Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
của tỉnh đã hết sức coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện CSDT, đã đạt được những
thành tựu quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo
132
đảm quốc phòng, an ninh cũng như thực hiện mục tiêu đoàn kết, bình đẳng, cùng phát
triển giữa các dân tộc trên địa bàn tỉnh và cả nước.
Đắk Lắk là một tỉnh đa dân tộc, đa tôn giáo, luôn luôn bị các thế lực thù địch
triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, khai thác những sơ hở, thiếu sót trong
quản lý, điều hành kinh tế - xã hội, thực hiện CSDT, chính sách tôn giáo, trong thực
hiện các quyền tự do, dân chủ của HTCT để chống phá, xuyên tạc, chống phá sự
nghiệp cách mạng. Do đó, mọi chủ trương, chính sách, nhiệm vụ của Đảng bộ và
chính quyền, nhất là trong tổ chức thực hiện ở các cấp đã biết xuất phát từ lợi ích của
Nhân dân, thực sự coi trọng quyền bình đẳng, quyền tự do, dân chủ chính đáng của
Nhân dân, chống thái độ phân biệt, định kiến dân tộc. Đảng bộ và chính quyền tỉnh
Đắk Lắk luôn khai thác, phát huy những mặt tích cực, những điểm tương đồng để tập
hợp đoàn kết đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, kiên quyết chống lại âm mưu, thủ
đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk vốn có truyền thống đoàn kết một lòng theo
Đảng, theo cách mạng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các dân tộc đã
phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng tiến công, đoàn kết, tương
thân, tương ái vượt qua những khó khăn thử thách, XĐGN, xây dựng cuộc sống mới.
Bước sang thời kỳ cách mạng mới, nhất là giai đoạn đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, phát huy truyền thống cách mạng của Nhân dân các dân tộc,
trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh luôn kiên định quan điểm "cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng", coi trọng kết hợp mục tiêu chính trị với chăm lo lợi ích cụ
thể của đồng bào DTTS, kết hợp giáo dục nâng cao nhận thức giác ngộ chủ trương,
chính sách với hướng dẫn, tổ chức Nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách. Đảng
bộ tỉnh đã quan tâm đầy đủ mọi mặt, giải quyết thiết thực yêu cầu sản xuất và đời
sống, động viên sức dân và bồi dưỡng sức dân. Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã tập
trung lãnh đạo 4 trụ cột chính là phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa, xây dựng và củng cố HTCT và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng DTTS.
Đảng bộ và chính quyền các cấp trong tỉnh đã nắm vững và thực hiện đúng CSDT
của Đảng, từ chủ trương đến phương thức, hình thức vận động phù hợp với lòng dân.
Đồng thời kiên quyết chống lại tư tưởng bảo thủ, cục bộ địa phương, tự ti dân tộc,
phấn đấu cho sự bình đẳng và tiến bộ của từng tộc người, nhóm tộc người.
133
Đạt được thắng lợi trên đây cũng là nhờ đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đồng cam
cộng khổ với Nhân dân các tộc người thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn, biên giới để hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của dân, triển khai thực hiện
CSDT của Đảng và Nhà nước đến người dân, đến đúng đối tượng thụ hưởng các
chính sách, đồng thời cũng là người bổ sung, hoàn thiện chính sách.
4.1.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, khiếm khuyết
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khiếm khuyết trong quá trình
lãnh đạo thực hiện CSDT của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk.
Về nguyên nhân khách quan: Xuất phát điểm của vùng DTTS, nhất là chất
lượng giáo dục và nguồn nhân lực thấp, biến đổi khí hậu gia tăng, khả năng thích ứng
của đồng bào với xu thế phát triển, hội nhập của đất nước còn chậm; các thế lực thù
địch vẫn còn tiếp tục lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để tuyên truyền, xuyên tạc chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là những khó khăn về kinh tế của đất
nước, an ninh chính trị vùng biên giới. Vùng DTTS của tỉnh Đắk Lắk phát triển
chậm, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng xu thế phát triển; một số nơi vẫn còn tiềm ẩn nguy
cơ bất ổn về an ninh chính trị.
Về nguyên nhân chủ quan:
Năng lực xây dựng và ban hành chính sách của các cấp, các ngành còn yếu,
định mức kinh phí để xây dựng chính sách thấp, việc điều tra, khảo sát một số
chính sách của sở, ngành địa phương chưa bảo đảm, dẫn đến chất lượng chính
sách ban hành chưa cao.
Các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào
DTTS, vùng đặc biệt khó khăn hầu hết đều mang tính hỗ trợ, chưa có chính sách
đầu tư trọng điểm, nên hiệu quả chưa cao, chưa bền vững.
Nhiều chính sách mục tiêu kỳ vọng cao, song nguồn vốn không đáp ứng nên
kéo dài thời gian thực hiện, hiệu quả thấp, gây lãng phí.
Đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc và cán bộ trong hệ thống cơ quan làm
công tác dân tộc nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu.
Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong xây dựng và phân bổ nguồn lực,
kiểm tra đánh giá của một số chính sách chưa chặt chẽ.
Tính ưu tiên cho địa bàn vùng DTTS, vùng đặc biệt khó khăn chưa được thể
hiện rõ trong từng chương trình, chính sách.
134
Văn bản hướng dẫn của một số cấp, ngành về địa bàn thực hiện chính sách có
điểm chưa thống nhất, chưa phù hợp với tình hình thực tế.
Có nhiều đầu mối ban hành chính sách, vai trò và trách nhiệm cơ quan thẩm
định về mặt nội dung chưa rõ ràng. Chưa có cơ chế để bảo đảm chủ động nguồn lực
thực hiện chính sách. Tính chủ động của cấp ủy, chính quyền một số địa phương
trong xây dựng và tổ chức thực hiện CSDT trên địa bàn chưa được đề cao.
Một số chính sách riêng của tỉnh thực hiện trong vùng DTTS tại chỗ có ý nghĩa,
nhưng nguồn lực đầu tư thấp, bị gián đoạn, hiệu quả thấp (chính sách phát triển kinh
tế - xã hội thôn buôn đồng bào DTTS tại chỗ, chính sách cử tuyển dự bị đại học v.v.).
Một nguyên nhân nữa phải đề cập đến đối tượng thụ hưởng các chính sách là
đồng bào DTTS. Trên thực tế, một bộ phận đồng bào DTTS chưa thực sự được tham
gia sâu trong quá trình tham vấn, xây dựng, giám sát chương trình, chính sách. Tại
nhiều địa phương, người dân không hề biết tới chính sách, "cho bao nhiêu thì hưởng
bấy nhiêu thôi".
Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết đánh giá chính sách của các cấp ủy Đảng và
chính quyền nhiều nơi chưa được chú trọng đúng mức, chưa thật sự giải quyết kịp
thời, dứt điểm những vấn đề nổi cộm, những bức xúc trong xã hội, trong dư luận, đặc
biệt là vấn đề chênh lệch mức sống, vấn đề nhu cầu đất sản xuất, nhu cầu phát triển
văn hóa v.v.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Từ thành công và hạn chế, khiếm khuyết trong quá trình lãnh đạo thực hiện
CSDT của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
4.2.1. Luôn coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của công tác dân tộc
và thực hiện chính sách dân tộc
Đắk Lắk là tỉnh đa dạng về thành phần dân cư, dân tộc và tôn giáo. Giữa các
nhóm dân tộc có những lợi ích khác nhau. Bảo đảm lợi ích riêng của từng nhóm dân
tộc là rất khó khăn trong khi phải bảo đảm sự phát triển chung giữa các dân tộc và
toàn xã hội. Giải quyết vấn đề dân tộc là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa lâu dài,
phức tạp, cần phải nhận thức đúng, không chủ quan, nóng vội, phải mềm dẻo, đặc
biệt coi trọng giải quyết toàn diện các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng - an ninh ở vùng DTTS, vùng căn cứ, biên giới, đồng thời kiên quyết sử dụng
135
sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân để nghiêm trị những hoạt động lợi
dụng vấn đề dân tộc.
Trước hết, các cấp, các ngành trong tỉnh nhận thức đầy đủ tính đặc thù của từng
địa phương, từ đó cần tạo sự nhận thức đúng đắn trong Đảng, chính quyền về tầm
quan trọng của vấn đề dân tộc và CSDT trong hoạch định chủ trương cũng như tổ
chức chỉ đạo thực hiện. Đồng thời không được chủ quan trong xử lý các tình huống
cụ thể do thực tiễn đặt ra; phát huy tốt sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân gắn
với giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, bảo đảm xử lý tình hình đúng theo chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tỉnh ủy, UBND tỉnh, tổ chức đảng và chính quyền các cấp phải cụ thể hóa chủ
trương thành những chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, đồng bộ và thống nhất.
Trong quá trình tổ chức thực hiện cần có sự phân công, phân cấp, làm rõ trách nhiệm
của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
Nơi nào mà cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương nhận thức đúng vị trí, tầm
quan trọng về công tác dân tộc và thực hiện CSDT, xác định là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của địa phương và có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, phân công
trách nhiệm cụ thể cho từng đơn vị, từng ngành; có chương trình kế hoạch cụ thể, biết
sử dụng nguồn lực hỗ trợ của cấp trên cộng với sự tự thân vận động và huy động sức
dân thể hiện rõ tinh thần tự lực, tự cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động,
thuyết phục đồng bào thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước, khắc phục được tư
tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước của một bộ phận đồng bào dân tộc; đội ngũ cán
bộ làm công tác dân tộc có tâm huyết, có trình độ năng lực, am hiểu thực tiễn thì ở đó
công tác dân tộc và thực hiện CSDT ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả, đời
sống của Nhân dân sớm được ổn định và phát triển.
Là một địa bàn có tầm chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh của khu vực
Tây Nguyên, các thế lực thù địch luôn luôn tìm cách xuyên tạc CSDT của Đảng, do
vậy, để nâng cao nhận thức về CSDT đối với đồng bào các DTTS, các cấp ủy Đảng
luôn coi trọng công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc hiểu đúng CSDT
và nhận rõ âm mưu, sự xuyên tạc, chia rẽ đoàn kết dân tộc của các thế lực phản động.
Công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn có vai trò quan trọng đối với đồng
bào DTTS, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Giúp đồng bào hiểu biết, từ đó thực hiện
136
tốt các chính sách, các quy định và áp dụng các kiến thức tiên tiến cho gia đình. Phát
huy cao độ dân chủ, tham gia chủ động của người dân trong tất cả chính sách của
Đảng và Nhà nước, sáng tạo, tích cực sản xuất, chủ động phát triển kinh tế, thực hành
tiết kiệm, thực hiện thật hiệu quả các nguồn vốn được nhà nước hỗ trợ, quyết tâm cao
độ nội lực để xây dựng cuộc sống cho gia đình, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Phải coi người dân là chủ thể của phát triển. Quan điểm này đòi hỏi coi người
dân, chủ thể văn hoá, như là điểm xuất phát cho việc hoạch định các chương trình
phát triển xã hội, cũng như cho việc đề xuất các chủ trương, chính sách, coi người
dân là đối tượng hưởng lợi từ các chính sách, các chương trình phát triển. Chỉ khi
người dân được tôn trọng và được hưởng lợi thì mới tạo ra động lực phát triển và phát
triển bền vững. Người dân cũng cần được coi là đối tượng tham gia vào quá trình xây
dựng, hoạch định, tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá các chính sách và đề xuất các
nhu cầu cũng như các giải pháp phát triển. Đề xuất các chính sách phát triển xã hội
nói chung và các kiến nghị, giải pháp phát triển xã hội nói riêng đều cần trên cơ sở
thảo luận và tham vấn ý kiến của cộng đồng người dân, khắc phục cách nhìn từ trên
xuống, từ ngoài vào, tránh cách làm áp đặt, duy ý chí.
Mặc dù đang có những mâu thuẫn trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng trong
những năm qua, thực hiện CSDT, Nhà nước đã chú ý đầu tư lớn cho Đắk Lắk - Tây
Nguyên, đời sống mọi mặt của các DTTS được cải thiện. Tuy vậy, do sự tuyên truyền
xuyên tạc của các thế lực phản động, một bộ phận người dân vẫn chưa hiểu đúng và
hiểu hết CSDT và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, niềm tin và lòng tin của người
dân với chế độ, với Nhà nước bị suy giảm. Đó là nguy cơ cho an ninh chính trị và là
mầm mống dẫn đến biểu tình bạo loạn. Ở đây có vấn đề HTCT chưa làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động quần chúng. Vì thế, để góp phần thực hiện tốt CSDT, trong
những năm tới, bằng những hình thức và cách thức phù hợp và hiệu quả, các cơ quan
Đảng và Nhà nước, trước hết là hai ngành tuyên giáo và văn hoá cần đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, vận động để các dân tộc hiểu đúng CSDT và sự quan tâm đầu tư của
chế độ, của Nhà nước, hiểu rõ những thay đổi đi lên về kinh tế - xã hội trong vùng,
nhất là làm cho các dân tộc nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn và sự xuyên tạc, lợi
dụng, kích động nhằm chống phá chế độ, chia rẽ đoàn kết dân tộc của các thế lực
phản động. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền, giáo dục để người Kinh hiểu về vùng đất
137
và con người các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên, quán triệt và thực hiện tốt CSDT của
Đảng, Nhà nước với các DTTS.
4.2.2. Quán triệt, vận dụng đúng đắn quan điểm, chủ trương của Trung
ương Đảng vào đặc điểm thực tiễn địa phương để đề ra chủ trương chỉ đạo thực
hiện chính sách dân tộc sát hợp
Đắk Lắk là tỉnh có những đặc thù riêng về lịch sử và văn hóa, với ý thức quốc
gia - dân tộc còn mờ nhạt, với sự can thiệp của các thế lực thù địch và một số hạn chế
của quá trình thực hiện các chính sách bị kẻ thù lợi dụng. Thực tế những năm qua cho
thấy, ở Đắk Lắk, biểu tình, bạo loạn mang tính chất chính trị chứ không đơn thuần
mang tính chất xã hội. Tham gia biểu tình, bạo loạn thường là những người có đời
sống đủ ăn đến khá giả, giàu có chứ không phải là người nghèo khổ. Vì thế, nên
chăng, khác với ở các vùng dân tộc và miền núi khác trong cả nước - những nơi quan
điểm phù hợp thường là phát triển kinh tế - xã hội để củng cố an ninh chính trị; ở Đắk
Lắk (nói rộng ra, ở cả khu vực Tây Nguyên), do tính phức tạp của mối quan hệ dân
tộc, trong một số năm trước mắt, quan điểm phù hợp là củng cố an ninh chính trị để
phát triển kinh tế - xã hội.
Phải thường xuyên quan tâm nắm chắc diễn biến tâm tư, nguyện vọng của đồng
bào các dân tộc; thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào
chấp hành và thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước; phát huy dân chủ cơ sở, giải quyết tốt và kịp thời những vấn đề bức xúc
của người dân, nêu cao ý thức tự lực tự cường và tạo niềm tin, sự đồng thuận của
người dân. Thường xuyên tổ chức các chương trình truyền thông với hình thức và nội
dung đa dạng, phù hợp để góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các đối
tượng thụ hưởng chương trình nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư.
Các bộ, ngành cần phối kết hợp chặt chẽ trong việc lồng ghép các chương trình,
chính sách trên địa bàn vùng dân tộc; cần bổ sung, sửa đổi kịp thời một số chính sách
không phù hợp, tích cực rà soát loại bỏ các chính sách kém hiệu quả hoặc có các
chính sách trùng lặp giữa các bộ, ngành.
Các địa phương cần làm tốt công tác quy hoạch, bố trí sắp xếp dân cư, thực hiện
các giải pháp phát triển sản xuất bền vững; lồng ghép hiệu quả các nguồn vốn để đầu
tư có trọng điểm, xây dựng các mô hình về phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường.
138
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện và hiệu quả của các
chương trình, dự án đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc.
Công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các chương trình, chính sách cần
được tổ chức thường xuyên ở các cấp, các ngành, nhất là ở cấp cơ sở, từ việc xác định
đối tượng thụ hưởng đến việc tổ chức thực thi chính sách; thông qua đó để hạn chế
tiêu cực, lợi dụng chính sách, đồng thời phát hiện những hạn chế, bất hợp lý để kiến
nghị sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Xuất phát từ tính đặc thù của tỉnh Đắk Lắk là một tỉnh đa dân tộc, tỉnh biên giới,
trung tâm vùng Tây Nguyên, có nhân tố chống phá của các thế lực phản động trong
và ngoài nước… đã gây ra nhiều cuộc bạo loạn những năm 2001, 2004, tỉnh Đắk Lắk
đã ban hành và thực hiện một số chính sách sáng tạo và phù hợp với điều kiện của
tỉnh như:
Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 17-11-2004, về phát triển kinh tế - xã hội buôn,
thôn đồng bào DTTS tại chỗ đến năm 2010, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội buôn, thôn đồng bào DTTS tại chỗ gắn với định canh, định cư, XĐGN, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào DTTS tại chỗ; Nghị quyết 07-NQ/TU,
ngày 3-3-2003 của Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở thôn, buôn, tổ dân
phố, các huyện, thành phố trong tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp nhằm phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, xây dựng, củng cố HTCT ở cơ sở, nhất là
đối với vùng đồng bào DTTS;
Công văn số 75-CV/TU, ngày 22-03-2004, chỉ đạo Ban cán sự Đảng UBND
tỉnh, Ban Thường vụ các huyện ủy, Thành ủy, Ban Dân vận tỉnh ủy đẩy nhanh hơn
nữa công tác tổ chức các cơ quan, đơn vị kết nghĩa với các buôn, thôn đồng bào
DTTS nhằm giúp cho các buôn, thôn đồng bào DTTS sớm ổn định tình hình và phát
triển toàn diện về mọi mặt.
Thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TU, ngày 26-7-1999, về việc đào tạo và sử dụng
cán bộ dân tộc, tỉnh đã quan tâm đào tạo học sinh dân tộc ở các trường dân tộc nội
trú, các trường trung học chuyên nghiệp; thực hiện tốt chế độ đối với giáo viên dạy
các trường nội trú và học sinh, sinh viên dân tộc; tiếp nhận và phân công công tác đối
với số học sinh tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp và đại học, đồng thời
quan tâm bồi dưỡng những người có triển vọng, ưu tiên bố trí vào các chức danh lãnh
đạo, quản lý phù hợp với năng lực và sở trường công tác.
139
Đến năm 2005, trước yêu cầu mới về đội ngũ cán bộ DTTS trong HTCT, Tỉnh
ủy Đắk Lắk đã ra Nghị quyết chuyên đề số 05-NQ/TU, về lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ DTTS từ nay đến năm 2010. Nghị quyết đã đưa ra 4 quan điểm chỉ đạo và
phấn đấu đến năm 2010 nâng tỉ lệ cán bộ DTTS trong đội ngũ cán bộ, công nhân viên
chức đạt 15% trở lên, trong đó chú trọng cán bộ người DTTS tại chỗ.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) “Về xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tỉnh ủy Đắk Lắk đã xây dựng
Chương trình hành động số 70-CTr/TU, ngày 12-12-1998 cụ thể hóa thực hiện Nghị
quyết. Ngày 13-7-2007, HĐND tỉnh thông qua Nghị quyết số 10/NQ-HĐND, về Bảo
tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2007-2010…
Ngay khi bạo loạn diễn ra, Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị 05-CT/TU, ngày
16-5-2001, về tăng cường công tác vận động quần chúng và nhiệm vụ bảo vệ biên
giới trong tình hình mới; Chỉ thị số 12-CT/TU ngày 26-3-2001 của Thường vụ Tỉnh
ủy về việc đẩy mạnh công tác phát động quần chúng và đấu tranh ngăn chặn, chống
biểu tình, bạo loạn, vượt biên. Tỉnh chỉ đạo tiếp tục thực hiện Nghị quyết 12-NQ/TU,
ngày 28-6-2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện chủ trương của Trung ương
đối với đạo Tin lành; thực hiện Kế hoạch 01-KH/TU, ngày 22-6-2011 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về đấu tranh xóa bỏ "Tin lành Đề Ga".
Bên cạnh đó còn một số chính sách khác như chính sách giáo dục ngôn ngữ
DTTS, chính sách với tộc người Hmông, người Hoa v.v.
4.2.3. Triển khai thực hiện chính sách dân tộc đồng bộ, nhưng có trọng
tâm, trọng điểm, giải quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề gây bức xúc trong
đồng bào các dân tộc
Trước thực tế trong vùng DTTS, việc tổ chức lại sản xuất, bảo đảm không gian
sinh sống cho các thôn, buôn, nhất là giải quyết đất đai và nâng cao dân trí còn nhiều
vấn đề bất cập, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội và ảnh hưởng đến khối đoàn kết dân tộc
[9, tr.17], Đảng và Nhà nước đã quan tâm, có chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất
cho đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn, nhưng kết quả đạt được chưa cao. Ở
Đắk Lắk, sau khi tỉnh được tái lập, trên thực tế vẫn còn nhiều hộ (nhất là hộ DTTS tại
chỗ) thiếu hoặc không có đất ở, đất sản xuất. Theo thống kê của Ban Dân tộc tỉnh
Đắk Lắk, nhu cầu đất ở, đất ản xuất của người DTTS rất gay gắt. Năm 2004, có
15.450 hộ thiếu đất ở, nhu cầu là 521,14 ha; 28.523 hộ thiếu đất sản xuất với nhu cầu
140
là 13.770,89 ha; Năm 2010, con số tương ứng là 5.531 hộ (nhu cầu 144,51 ha đất ở)
và 7.737 hộ với nguồn kinh phí dự kiến tạo việc làm là 407,2 tỷ đồng; Năm 2015, có
4.979 hộ có nhu cầu 291 ha đất ở, 15.896 hộ có nhu cầu 6.072 ha đất sản xuất, nhu
cầu vốn là trên 485 tỷ đồng [Phụ lục 5].
Do vậy, trong chủ trương của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk từ năm 2003 đến 2015, qua
các nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh đã xác định trước hết là ưu tiên đầu tư kết cấu hạ
tầng, từng bước giải quyết những vấn đề bức xúc như đất ở, đất sản xuất, nước sinh
hoạt cho các địa bàn khó khăn; phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí gắn với
đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm cho đồng bào DTTS.
Tỉnh Đắk Lắk nói riêng, Tây Nguyên nói chung, cần tiếp tục tập trung giải
quyết dứt điểm vấn đề đất đai, bảo đảm để người dân các dân tộc tại chỗ có đủ đất
sản xuất, nơi nào không thể giải quyết nhu cầu đất sản xuất thì bảo đảm để người dân
có việc làm, đồng thời cố gắng khôi phục (ở những nơi có thể) không gian sinh tồn tự
nhiên của buôn làng, thực hiện khẩu hiệu của cách mạng dân tộc, dân chủ “người cày
có ruộng”. Thực hiện tốt chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong điều kiện cụ
thể của Đắk Lắk. Tập trung hoàn thành việc cấp đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước
sinh hoạt theo quyết định 132, 134, 159, 1592, 755; đào tạo ngành nghề mới và phù
hợp cho người dân, đồng thời có những hình thức, bước đi và mô hình phù hợp để
giao rừng cho người dân, gắn cuộc sống người dân Đắk Lắk với rừng.
Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn khoa học kỹ thuật
cho Nhân dân, xây dựng nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả phù hợp với điều kiện
của địa phương và khả năng tiếp thu của người dân, để đồng bào tận mắt nhìn thấy từ
đó chủ động áp dụng cho gia đình.
Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo bằng nhiều giải pháp, nhiều mô hình
phát triển sản xuất có hiệu quả, như: phát triển cao su tiểu điền, tăng cường khuyến
nông - lâm, đưa giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao vào sản xuất tại các buôn,
làng; thực hiện giao đất, giao rừng, giao khoán quản lý bảo vệ rừng; đào tạo nghề,
giải quyết việc làm ở nông thôn... Từ đó góp phần làm cho đời sống của đồng bào
DTTS từng buớc được cải thiện, trình độ dân trí từng bước được nâng lên, người dân
biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đưa năng suất, chất lượng cây trồng, vật
141
nuôi trở thành sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao (cà phê, hồ tiêu, điều, cao su,
bơ, sầu riêng, khoai lang...), tạo thu nhập ổn định cho gia đình và cộng đồng.
Đảng bộ tỉnh phải quan tâm công tác bồi dưỡng, đào tạo về chuyên môn, nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở, nhất là ở địa bàn đặc biệt khó khăn, giúp họ đủ năng
lực quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an
ninh. Thực tế, cán bộ ở các xã vùng sâu, vùng xa mặc dù trình độ đã được nâng lên
rất nhiều, nhưng vẫn chưa đáp ứng được so với yêu cầu của công tác nên việc thường
xuyên bồi dưỡng, đào tạo giúp cán bộ cấp xã nâng cao trình độ, tiếp cận kịp thời với
các kiến thức mới, các quy định mới sẽ giúp họ tự tin, chủ động trong việc lãnh đạo,
thực hiện nhiệm vụ của địa phương theo đúng quy định của pháp luật.
Huy động mọi nguồn lực, ưu tiên vốn ngân sách, lồng ghép các nguồn vốn của
các chương trình, dự án để tăng cường đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết yếu
phục sản xuất và văn hoá xã hội, hỗ trợ các hộ nghèo và cận nghèo về giống cây
trồng, giống vật nuôi để phát triển sản xuất. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, bố trí
sắp xếp dân cư, thực hiện phát triển sản xuất bền vững; đầu tư có trọng điểm, xây
dựng các mô hình sinh kế bền vững cho hộ dân và cộng đồng buôn thôn người DTTS
tại chỗ gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Cần tăng cường phối hợp, triển khai quy hoạch một cách hiệu quả, gắn kết các
tiềm năng, lợi thế, tạo tiếng nói chung để thu hút đầu tư, phát triển; chú trọng đào tạo
phát triển nguồn nhân lực có trình độ quản lý và tay nghề cao; có chính sách thích
hợp để khuyến khích ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ; đẩy mạnh cải
cách hành chính tạo môi trường thông thoáng cho đầu tư phát triển. Khẩn trương
chọn, đề xuất một số dự án đầu tư trọng điểm, có tính lan tỏa vào lĩnh vực nông
nghiệp, lâm nghiệp và đề xuất các ưu đãi đặc biệt để tập trung đầu tư và thu hút đầu
tư bằng nhiều hình thức, nguồn vốn khác nhau.
4.2.4. Xác định nhóm các dân tộc thiểu số tại chỗ là đối tượng ưu tiên của
công tác dân tộc nói chung và chính sách dân tộc nói riêng
Tỉnh Đắk Lắk có 10 DTTS tại chỗ thuộc 2 hệ ngôn ngữ Môn - Khơ-me (Nam
Á) và Malayo - Polinesien (Nam Đảo). Các dân tộc thuộc ngữ hệ Môn - Khơ-me là:
Ba-na, Xơ-đăng, Giẻ-Triêng, Mnông, Mạ, Cơ-ho; và các dân tộc thuộc ngữ hệ
Malayo - Polinesien là: Gia-rai, Ê-đê, Chu-ru, Ra-glai; Theo kết quả điều tra dân số
2009, tổng số có 322.031 người, chiếm khoảng 18,9% dân số trong tỉnh, đông nhất là
142
ba dân tộc Ê-đê (hơn 270.000 người), Mnông (35.000 người), Gia-rai (12.500
người)… cư trú ở hầu khắp các huyện và thành phố Buôn Ma Thuột.
Các dân tộc tại chỗ có trình độ phát triển kinh tế - xã hội tự thân thấp, kinh tế
nông nghiệp nương rẫy lạc hậu, sản xuất mang tính tự nhiên, tự cung tự cấp, dựa trên
một nền sản xuất nông nghiệp nương rẫy, hái lượm, săn bắn; lực lượng sản xuất thấp,
công cụ sản xuất thô sơ, kỹ thuật canh tác lạc hậu, lao động chân tay là chủ yếu. Năng
suất và hiệu quả lao động thấp và bấp bênh. Phân công lao động chưa phát triển,
mang tính chất tự nhiên theo giới tính. Chăn nuôi, thủ công nghiệp chưa trở thành
một nghề độc lập tách khỏi trồng trọt. Sản xuất hàng hóa nhỏ chưa xuất hiện. Quan
hệ hàng hóa - tiền tệ chưa phát triển. Trình độ dân trí thấp nên khả năng tiếp thu khoa
học, kỹ thuật, tiếp thu cái mới còn nhiều hạn chế. Phong tục tập quán lạc hậu còn phổ
biến. Các tập tục cổ hủ mang yếu tố tự ti, biệt lập, khép kín của các công xã thị tộc và
có giá trị như luật pháp của từng buôn làng. Các DTTS tại chỗ thường sống tập trung
ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện sống khó khăn có trình độ phát triển kinh tế -
xã hội tự thân đặc thù thấp, có truyền thống với bản sắc văn hóa riêng, có sức sống
lâu bền và có vai trò quan trọng trong cộng đồng các DTTS.
Các DTTS tại chỗ ở Đắk Lắk có xuất phát điểm xã hội rất thấp. Thiết chế xã hội
buôn làng ứng với thời kỳ nguyên thủy kéo dài (mạt kỳ nguyên thủy). Vì thế, trong
nhận thức và trong hành động thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở Đắk Lắk, cũng
như Tây Nguyên hiện nay, cần tôn trọng người dân như là chủ thể của sự nghiệp ổn
định và phát triển vùng Tây Nguyên. Trong đó đặc biệt chú ý nhóm 10 DTTS tại chỗ.
Thái độ tôn trọng người dân thể hiện trên hai chiều cạnh: Một là, tôn trọng tâm tư,
nguyện vọng của người dân, coi người dân là chủ thể của sự phát triển, mọi chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đều cần có sự trưng cầu, tham vấn ý kiến
của người dân; Hai là, tôn trọng và kế thừa các truyền thống tốt đẹp của các dân tộc,
trong đó, chú ý tôn trọng, kế thừa luật tục, các tri thức bản địa, các truyền thống kinh
tế, xã hội, văn hoá, các thể chế, thiết chế xã hội, tôn trọng và kế thừa vai trò tích cực
của những người có uy tín trong cộng đồng, cụ thể là các già làng, phụ nữ và trí thức
các DTTS, chức sắc tôn giáo vùng DTTS, những người có vai trò cầu nối giữa quá
khứ và hiện tại trong xã hội buôn làng.
Trong hơn 10 năm từ khi tách tỉnh Đắk Lắk (2003-2015), ngoài các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương, tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều chính sách
143
để phát triển vùng đồng bào DTTS tại chỗ: Chính phát triển kinh tế - xã hội thôn
buôn, chính sách kết nghĩa thôn buôn, chính sách cán bộ người DTTS tại chỗ, chính
sách giáo dục ngôn ngữ chữ viết… Nhưng những chính sách đó chưa tạo sức bật đối
với khu vực này. Cần tiếp tục nghiên cứu hướng và các giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, giải quyết thỏa đáng và hiệu quả vấn đề đất đai, bao gồm đất sản xuất
và đất ở, trên cơ sở xem xét truyền thống quản lý và sử dụng đất đai của các dân tộc
theo hai hướng: Một là, tiếp tục thu hồi đất sử dụng không hợp lý và không hiệu quả
của các nông lâm trường giao lại cho dân. Hai là mở rộng ngành nghề mới và đào tạo
ngành nghề mới phù hợp với trình độ và kỹ năng lao động của người dân. Giải quyết
dứt điểm các vụ tranh chấp đất đai còn tồn đọng theo nguyên tắc xem xét và chiếu cố
truyền thống quản lý và sử dụng đất rừng truyền thống của người dân, tránh máy móc
dập khuôn theo Luật đất đai của Nhà nước.
Thứ hai, đầu tư cho phát triển sản xuất nhiều hơn là đầu tư cho xây dựng kết cấu
hạ tầng, bao gồm khai hoang đồng ruộng, xây dựng công trình thuỷ lợi, khuyến nông
khuyến lâm, nâng cao năng lực sản xuất và xoá đói giảm nghèo nội tại của chính
người dân.
Thứ ba, ở những huyện còn rừng, cố gắng gắn sinh kế người dân với rừng bằng
các hình thức giao rừng khác nhau (giao cho hộ hoặc cộng đồng) nhằm phát triển
kinh tế và nhằm duy trì tâm thức và văn hoá rừng truyền thống, cũng là giảm áp lực
thiếu đất sản xuất hiện nay.
4.2.5. Chú trọng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, kết hợp chặt chẽ thực
hiện chính sách dân tộc với thực hiện chính sách tôn giáo
Thực tiễn đã chứng minh, mâu thuẫn dân tộc thường nổ ra thành “điểm nóng”
chính trị - xã hội ở những nơi mà HTCT yếu kém, đảng viên, cán bộ, tổ chức Đảng,
chính quyền, đoàn thể mất sức chiến đấu. Nhận thức rõ việc xây dựng HTCT cơ sở
vững mạnh ở vùng đồng bào DTTS là tiền đề để kiểm soát, quản lý và giải tỏa các
mâu thuẫn dân tộc, xung đột xã hội, là điều kiện cơ bản của sự ổn định chính trị bền
vững. Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk đã từng bước triển khai các giải pháp xây dựng lực
lượng cốt cán, phát huy vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng DTTS như
già làng, trưởng thôn, bản, trưởng dòng họ.
Đồng thời, Đảng bộ tỉnh cần nghiên cứu, ban hành các chính sách mở rộng đối
tượng cử tuyển và tiếp tục có chính sách ưu tiên đối với đồng bào DTTS trong việc
144
học tập, tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm. Chú trọng đào tạo lao động là người DTTS tại
chỗ. Hỗ trợ đào tạo nghề, hướng nghiệp, ngoại ngữ bồi dưỡng văn hoá để cung cấp
nguồn nhân lực có chất lượng cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn và tham gia
xuất khẩu lao động.
Xây dựng, ban hành các chính sách đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ cơ sở; tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho đội ngũ cán bộ thôn bản,
xã, huyện về kiến thức quản lý kinh tế, xã hội, xây dựng và quản lý chương trình, dự
án; kỹ năng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch.
Nghiên cứu ban hành chính sách thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật từ nơi khác
về công tác lâu dài ở Đắk Lắk, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS.
Tạo điều kiện về đất ở, nhà ở (đất sản xuất nếu người nhà đi theo làm nghề nông, lâm
nghiệp), chế độ tuyển dụng vào biên chế nhà nước; chính sách khuyến khích trí thức
trẻ về công tác ở các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Đẩy mạnh công tác giáo dục và dào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc theo cả
ba hướng: Xây dựng và cũng cố hệ thống trường nội trú và bán trú dân tộc, tổ chức
các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc bằng những khoá học và chương trình phù
hợp và tiến tới thành lập một trường đại học dành riêng cho người DTTS của cả nước
đặt tại Hà Nội, hoặc cho riêng người DTTS Tây Nguyên đặt tại Tây Nguyên, trong đó
có chương trình học tập và đào tạo riêng thích hợp với đối tượng con em và cán bộ
người DTTS.
Tình hình an ninh chính trị ở Đắk Lắk còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn. Đội
ngũ cán bộ làm công tác dân tộc ở thôn, buôn vùng DTTS vẫn còn thiếu và yếu, do
đó, những chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước chưa thực sự tác động tích
cực đến đời sống của người dân. Các cấp ủy Đảng cần quan tâm xây dựng HTCT cơ
sở vững mạnh, thích hợp, thực sự của dân, do dân và vì dân. Trong xây dựng
HTCT, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người DTTS có vai trò quan
trọng then chốt.
Giữ vững an ninh chính trị bằng chính an ninh Nhân dân và bằng cách giữ
lòng dân, thông qua xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, chủ động xây để chống
chứ không để phải chống khi đã vỡ. Muốn thế, trước hết phải trong sạch hoá đội
ngũ cán bộ, phải xây dựng cho được HTCT cơ sở vững mạnh, khắc phục tình trạng
trắng đảng viên, trắng cơ sở đảng ở các buôn thôn, đặc biệt tránh tình trạng mất dân
145
ở các buôn thôn. Tôn trọng truyên thống của người dân, tôn trọng tâm thức rừng,
văn hoá rừng và thiết chế tự quản buôn làng truyền thống. Kế thừa phong tục tập
quán và luật tục trong ổn định xã hội và ổn định an ninh chính trị. Tranh thủ sự hợp
tác và vai trò của tầng lớp già làng và những người có uy tín trong cộng đồng. Phát
huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng DTTS như già làng, trưởng bản,
thôn, buôn, trưởng dòng họ. Nâng cao vai trò tham mưu của hệ thống cơ quan làm
công tác dân tộc; coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống cơ
quan làm công tác dân tộc... là những giải pháp hữu hiệu thực hiện CSDT trong thời
gian tới ở Đắk Lắk.
Để thực hiện CSDT có hiệu quả, các cấp ủy Đảng đã triển khai các giải pháp
nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở địa phương. Đối với một tỉnh có đa
tôn giáo như tỉnh Đắk Lắk, thực hiện chính sách tôn giáo đúng theo phương châm tốt
đạo, đẹp đời, kính Chúa yêu nước là giải pháp quan trọng góp phần ổn định quan hệ
dân tộc ở Đắk Lắk. Sự phát triển của tôn giáo, nhất là của đạo Tin lành với sự tồn tại
của hệ phái “Tin lành Đề Ga”, xuất hiện nhiều đạo lạ, đang là vấn đề nóng ở Đắk Lắk
- Tây Nguyên. Giải quyết tốt vấn đề tôn giáo sẽ góp phần đáng kể vào việc thực hiện
tốt CSDT, góp phần ổn định an ninh chính trị.
Trong xu thế đổi mới và hội nhập hiện nay, thực tế ở Đắk Lắk - Tây Nguyên
cho thấy các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá,
tuyên truyền những khó khăn, thiếu sót của chính quyền các cấp trong việc thực hiện
chính sách ở cơ sở liên quan đến đất đai, cơ sở thờ tự, sinh hoạt của tín đồ để xuyên
tạc, vu cáo chính quyền vi phạm tự do tôn giáo.
Hoạt động truyền đạo trái pháp luật diễn ra khá phổ biến và có chiều hướng gia
tăng ở khu vực Tây Nguyên. Đối tượng trực tiếp được truyền đạo chủ yếu là người
DTTS, thông qua các chức sắc, nhà tu hành tại địa phương và một số người từ các nơi
khác đến (có cả người nước ngoài) hoặc thông qua du lịch, hoạt động từ thiện... Một
số tổ chức tôn giáo nước ngoài đến các tỉnh Tây Nguyên với danh nghĩa thăm viếng
và tổ chức một số hoạt động tôn giáo nhưng mục đích là muốn quảng bá và từng
bước truyền đạo.
Phần lớn các hoạt động truyền đạo trái pháp luật diễn ra nhưng chính quyền cơ
sở không phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, cũng có những vụ việc được
phát hiện, nhắc nhở nhưng chức sắc, tín đồ không chấp hành, cho rằng chính quyền
146
địa phương “chưa tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, đưa lên mạng Internet
phản ánh những thông tin sai sự thật về sinh hoạt tôn giáo tại địa phương, vu cáo
chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo, xuyên tạc chủ trương, chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Tình trạng các tổ chức, cá nhân vi phạm trong sửa chữa, cơi nới, xây dựng cơ
sở tôn giáo liên tục xảy ra, phần lớn là ở các điểm sinh hoạt tôn giáo chưa được
công nhận. Lợi dụng nhu cầu có nơi sinh hoạt tôn giáo đã xây dựng vào thời điểm
nhạy cảm như ngày lễ, cuối tuần; công khai hoặc lén lút (xây vào ban đêm)… sau
đó biến tướng thành nơi thờ tự, nơi sinh hoạt đạo tập trung. Đối với đạo Tin lành,
phần lớn các điểm nhóm đã cấp đăng ký sinh hoạt đều cơi nới nhà riêng (mượn
tạm để sinh hoạt) hoặc tự ý xây thêm, xây mới để phục vụ sinh hoạt tôn giáo (Kon
Tum 86 cơ sở, Đắk Lắk 20 cơ sở, Lâm Đồng 15 cơ sở). Hiện tượng chức sắc, tu sỹ
Phật giáo từ nơi khác đến mua đất, xây dựng nhà ở với danh nghĩa tu tại gia nhưng
thực chất là “cải gia vi tự” để sinh hoạt tôn giáo trái pháp luật diễn ra rất phức tạp.
Cùng với các hoạt động truyền giáo, hình thành các tổ chức, điểm nhóm, xây
dựng cơ sở thờ tự là việc chuyển nhượng, hiến tặng đất đai trái pháp luật được
thực hiện chủ yếu thông qua các hộ gia đình tín đồ hoặc nhận tiền hỗ trợ của tổ
chức tôn giáo để mua nhưng dưới danh nghĩa của công dân (không phải tu sỹ, tổ
chức tôn giáo) nên rất khó khăn cho địa phương trong công tác quản lý nhà nước
về đất đai và xây dựng. Theo số liệu thống kê của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên
(2013), tỉnh Đắk Lắk có 20 trường hợp mua bán, chuyển nhượng, hiến tặng đất đai
liên quan đến tôn giáo (Kon Tum 22, Gia Lai 05, Đắk Lắk 20, Đắk Nông 106, Lâm
Đồng 133, trong đó 167 trường hợp đã được chính quyền giải quyết, công nhận).
Việc thực hiện Chỉ thị 01/2005/CT-TTg, Về một số công tác đối với đạo Tin
lành của Thủ tướng Chính phủ, trong 10 năm qua đã góp phần ổn định tình hình tôn
giáo Tây Nguyên. Tuy vậy, quá trình thực hiện Chỉ thị 01 còn bộc lộ những bất cập.
Hiện còn khoảng 30% giáo dân Tin lành ở Đắk Lắk vẫn phải hành đạo lén lút do
chưa được cấp phép công nhận hoạt động bình thường. Việc quản lý các điểm nhóm
Tin lành đã được cấp phép hoạt động ở nhiều nơi vẫn còn nặng về hành chính và bị
hành chính hoá, gây tâm lý không yên tâm trong giáo dân. Công tác xoá bỏ “Tin lành
Đề Ga” vẫn chủ yếu do lực lượng công an đảm nhiệm, vẫn nặng về theo dõi, trấn áp,
chưa gắn với vận động quần chúng, chưa trên cơ sở tuyên truyền hướng dẫn để người
147
dân quay về với tín ngưỡng truyền thống hay chuyển sang Tin lành hợp pháp. Vì vậy,
tiếp tục giải quyết vấn đề tôn giáo, nhất là tôn giáo Tin lành theo đúng tinh thần của
Chỉ thị 01 để giáo dân yên tâm hành đạo đúng pháp luật, theo phương châm tốt đạo,
đẹp đời, kính Chúa yêu nước là giải pháp quan trọng góp phần ổn định mối quan hệ
dân tộc ở Đắk Lắk.
Tiểu kết chương 4
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tổng hợp các chính sách
về kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng trong vùng có đông đồng bào DTTS
cư trú, nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển. Đánh giá về chủ trương và kết quả trong quá trình thực hiện CSDT tại tỉnh
Đắk Lắk giai đoạn 2003-2015 của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tác giả luận án nhận
thấy: Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk đã có những chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc thực
hiện CSDT tại vùng đồng bào DTTS, coi đây là vấn đề mang tính “chiến lược, cơ bản,
lâu dài”, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng. Đảng
bộ tỉnh và UBND tỉnh Đắk Lắk đã có những chủ trương, chính sách, chương trình, đề
án công tác cụ thể nhằm tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội thôn buôn, xây dựng HTCT,
đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực người DTTS, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
các DTTS, giữ gìn an ninh, quốc phòng, phòng chống âm mưu diễn biến hòa bình của
các thế lực thù địch. Qua số liệu phân tích và chứng minh, quyền bình đẳng về kinh tế,
chính trị và văn hóa của các DTTS ở Đắk Lắk ngày càng được nâng lên rõ rệt, những
điểm nóng về an ninh chính trị giảm đi rõ rệt so với giai đoạn trước.
Đạt được thành quả trên là nhờ sự lãnh đạo sát sao, kiên quyết của Đảng bộ
tỉnh, UBND tỉnh, sự đồng lòng nhất trí của Nhân dân các dân tộc, trên cơ sở đường
lối dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, từ quá trình thực
hiện CSDT giai đoạn 2003-2015, đã tiếp tục nảy sinh nhiều vấn đề mới trong quan hệ
dân tộc, đòi hỏi Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Lắk tiếp tục làm tốt công tác tổng
kết thực tiễn để hoàn thiện quá trình hoạch định và thực hiện chính sách vùng DTTS.
Trong khuôn khổ những luận cứ đã phân tích, luận án đúc kết 5 kinh nghiệm từ quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện CSDT của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, có giá trị tham
khảo trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách trong thời gian tới.
148
KẾT LUẬN
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, vấn đề dân tộc có ý nghĩa chiến lược đối với
sự tồn vong và hưng thịnh của đất nước trong mọi thời kỳ lịch sử. Có chính sách
đúng đắn giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc sẽ đóng góp thiết thực vào việc mở rộng
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm
sự phát triển bền vững của đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các
dân tộc có vị trí chiến lược của cách mạng; đề ra các chủ trương, CSDT, với nguyên
tắc cơ bản là “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”; xác định rõ
những vấn đề cần ưu tiên để đảm bảo phát triển bền vững vùng DTTS và miền núi.
Để thực hiện chủ trương này, nhiều chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội đã được ban hành nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền. Nội
dung, hệ thống chính sách thực hiện khá toàn diện, tác động đến mọi mặt của đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Đối tượng, hệ
thống chính sách bao phủ cả địa bàn, khu vực đến hộ gia đình và một số dân tộc cụ
thể. Nguồn lực thực hiện chính sách đã tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã
hội; cơ sở hạ tầng từng bước được tăng cường; giảm tỷ lệ hộ nghèo; đời sống vật chất
và tinh thần của người dân được nâng lên. Nhờ vậy, diện mạo vùng DTTS và miền
núi đã có những thay đổi căn bản, nhất là vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Đắk Lắk là tỉnh đa thành phần dân tộc, chịu tác động mạnh mẽ bởi DCTD chủ
yếu từ các tỉnh miền núi phía Bắc; các DTTS lại có đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội
khác nhau, đa số họ có xuất phát điểm về kinh tế, xã hội thấp, nhất là nhóm các DTTS
tại chỗ và nhóm DCTD; hàng loạt những xung đột về quan hệ dân tộc, như sở hữu và
sử dụng đất đai, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, suy giảm nền văn hóa truyền thống
của người dân tại chỗ đã xảy ra... Tại tỉnh Đắk Lắk, từ sau khi chia tách tỉnh, đội ngũ
cán bộ Đảng, chính quyền bị giảm sút về số lượng do điều chuyển sang tỉnh mới Đắk
Nông; trong khi đó, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội diễn biến phức
tạp. Các thế lực thù địch ráo riết hoạt động chống phá, thành lập tổ chức "Tin Lành Đề
Ga" để lôi kéo quần chúng, thành lập bộ khung "Nhà nước Đề Ga Tây Nguyên", tiến
hành bạo loạn chính trị dưới chiêu bài tự trị cho các dân tộc Tây Nguyên.
Ngay sau khi có Nghị quyết số 24 Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng
(khóa IX, năm 2003) Về công tác dân tộc, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk đã quán triệt quan
149
điểm của Đảng về CSDT, bám sát đặc thù của địa phương, đề ra các nghị quyết, chỉ
thị, kế hoạch, chương trình hành động để lãnh đạo thực hiện CSDT. Giai đoạn 2003-
2010: Tập trung lãnh đạo ổn định tình hình an ninh chính trị tại 65 thôn buôn là điểm
nóng về an ninh chính trị; tập trung phát triển toàn diện kinh tế, văn hóa - xã hội
thôn buôn địa bàn vùng DTTS (xây dựng kết cấu hạ tầng, XĐGN); đẩy mạnh công
tác vận động quần chúng; bố trí, sắp xếp ổn định đời sống dân di cư tự do; củng cố
và xây dựng HTCT ở cơ sở (xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS); giữ vững an
ninh quốc phòng, kiểm soát biên giới, chống vượt biên trái phép, chủ động đấu
tranh làm thất bại âm mưu "Diễn biến hòa bình", ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc trong tỉnh. Giai đoạn
2011-2015: Tiếp tục chỉ đạo thực hiện các chủ trương của giai đoạn trước (đẩy
nhanh tiến độ thực hiện các chính sách, chương trình, dự án vùng DTTS, phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trong HTCT cơ sở); Giao nhiệm vụ cụ
thể cho các sở, ban, ngành và các cơ quan chức năng của tỉnh thực hiện CSDT; Chỉ
đạo lồng ghép các nguồn lực, các chương trình, dự án, chính sách để đầu tư hiệu
quả, tăng cường phối hợp giữa các ngành các cấp, bám sát thực tiễn, giải quyết
những vấn đề bức xúc của đồng bào DTTS ngay từ cơ sở; triển khai việc dạy ngôn
ngữ, chữ viết cho người DTTS tại chỗ; ổn định và phát triển vùng đồng bào Hmông,
phát huy vai trò của cộng đồng người Hoa v.v.
Qua hai giai đoạn lịch sử, có thể khẳng định: Một là, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk đã
quán triệt đúng đắn, kịp thời và vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, ban hành nhiều chính sách phù hợp với đặc thù của một tỉnh đa dân tộc.
Hai là, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk luôn bám sát thực tiễn, chỉ đạo triển khai các chủ
trương, chính sách thành các chương trình, kế hoạch, đề án và kiểm tra, giám sát, đôn
đốc quá trình thực hiện. Ba là, việc triển khai thực hiện các CSDT trên địa bàn tỉnh
qua hơn 10 năm (2003-2015), nhìn chung đã thực hiện đúng định hướng, quan điểm
đường lối của Đảng, đáp ứng được nguyện vọng của đồng bào các DTTS. Thực hiện
các chính sách vùng đồng bào DTTS đã góp phần quan trọng trong việc phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng trên địa bàn tỉnh, hệ thống cơ sở hạng
tầng được củng cố, bộ mặt nông thôn vùng dân tộc, vùng khó khăn thay đổi rõ nét,
đời sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo giảm dần theo từng
năm, an ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững.
150
Tuy nhiên, cho đến nay vùng DTTS vẫn là vùng khó khăn nhất của tỉnh Đắk Lắk,
đặc biệt là vùng các DTTS tại chỗ. Tỷ lệ đói nghèo bộ phận DTTS tại chỗ cao hơn mức
bình quân chung. Tỷ lệ đói nghèo chung giảm mạnh, nhưng khoảng cách giàu nghèo
giữa người Kinh với các DTTS tại chỗ có xu hướng tăng; một bộ phận dân cư vùng sâu,
vùng xa có dân trí thấp; văn hóa truyền thống của một số dân tộc bị mai một dần; có nơi
tình trạng tội phạm và các tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa ổn
định xã hội. Các chính sách được ban hành nhiều, nhưng hiệu lực, hiệu quả chưa cao,
còn tản mạn, nhiều đầu mối quản lý. Phương thức hỗ trợ của một số chính sách còn chưa
phù hợp. Nguồn lực thực hiện chính sách chưa đảm bảo thực hiện các mục tiêu, cơ chế
thực hiện tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng xu thế phát triển. Việc phối
hợp tổ chức thực hiện có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các chính sách
xây dựng và thực hiện giai đoạn 2003-2015 còn mang tính nhiệm kỳ, nhiều chính sách
kết thúc khi chưa đạt mục tiêu, nhu cầu còn lớn nhưng đã hết hiệu lực thực hiện (Chương
trình 132, 134), và khó có khả năng thực hiện do nguồn lực đầu tư thấp (Quyết định
193/2006 về bố trí dân cư, Quyết định 33/2007 về hỗ trợ di dân, chính sách kết nghĩa,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội thôn buôn đồng bào DTTS)…
Từ quá trình Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo thực hiện CSDT giai đoạn 2003-
2015, luận án đúc kết 5 kinh nghiệm chủ yếu, có giá trị tổng kết về lý luận và thực tiễn,
góp cơ sở lịch sử quan trọng cho việc thực hiện CSDT trong giai đoạn tới có hiệu quả
hơn. Một, luôn coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của công tác dân tộc và thực hiện
CSDT. Hai, quán triệt, vận dụng đúng đắn quan điểm, chủ trương của Trung ương
Đảng vào đặc điểm thực tiễn địa phương để đề ra chủ trương chỉ đạo thực hiện CSDT
sát hợp. Ba, triển khai thực hiện CSDT đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, giải
quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề gây bức xúc trong đồng bào các dân tộc. Bốn,
xác định nhóm các dân tộc thiểu số tại chỗ là đối tượng ưu tiên của công tác dân tộc nói
chung và CSDT nói riêng. Năm, chú trọng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, kết hợp
chặt chẽ thực hiện CSDT với thực hiện chính sách tôn giáo.
Những kinh nghiệm trên có giá trị tổng kết thực tiễn về thực hiện CSDT trên
một địa bàn vừa có nhiều điểm riêng biệt, vừa có những điểm tương đồng với các
vùng, miền có nhiều đồng bào DTTS, là những gợi mở quan trọng để bổ sung, hoàn
thiện CSDT của các cấp bộ đảng trong điều kiện lịch sử mới.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phạm Ngọc Đại (2008), "Các mô hình kết nghĩa với các buôn đồng bào dân tộc
thiểu số ở Đắk Lắk", Tạp chí Lịch sử Đảng, (9), tr.59-62.
2. Phạm Ngọc Đại (2014), "Phong trào kết nghĩa, phụ trách giữa các cơ quan với các
buôn đồng bào dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột", Tạp chí Mặt
trận, (128), tr.53-57.
3. Phạm Ngọc Đại (2015), "Một số vấn đề đặt ra đối với công tác nghiên cứu, đề xuất
chính sách dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, (9),
tr.71-75.
4. Phạm Ngọc Đại (2015), "Chính sách kết nghĩa dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay",
Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, (2), tr.70-80.
5. Phạm Ngọc Đại (2015), "Chủ trương và quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh
Đắk Lắk (2001-2014)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (300), tr.89-94.
6. Phạm Ngọc Đại (2016), "Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số tại
chỗ ở Đắk Lắk và một số vấn đề nảy sinh", Tạp chí Khoa học xã hội Tây
Nguyên, (2), tr.38-46.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anne de Hautecloque Howe (2004), Người Ê Đê, một xã hội mẫu quyền, Nguyên
Ngọc và Phùng Ngọc Cửu dịch, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (2001), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk
Lắk lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2001-2005, Đắk Lắk.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (2006), Văn kiện Đại hội đảng bộ tỉnh Đắk
Lắk lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2006-2010, Đắk Lắk.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk
(1975-2005), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ
tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010-2015, Đắk Lắk.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (2015), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk
Lắk lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015-2020, Đắk Lắk.
7. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2005), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 10-
NQ/TW, ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và
bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Đắk Lắk.
8. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2011), Báo cáo số 07-BC/BCĐTN, ngày 20-4-2011
Tổng kết Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời
kỳ 2001-2010, Đắk Lắk.
10. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2012), Ban Chỉ đạo Tây Nguyên - 10 năm hình thành và
phát triển (2002-2012), Đắk Lắk.
11. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung uơng (2010), Tổng điều tra dân
số và nhà ở năm 2009: Các kết quả chủ yếu, Hà Nội.
12. Hoàng Chí Bảo (2009), Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân
tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận Chính
trị, Hà Nội.
153
13. H. Bernard (1907), Les populations Moi du Darlac (Những cư dân Mọi ở Đắk
Lắk), Bullentin d’Ecole Francaises d`Extrème Orient, Hà Nội.
14. Hoàng Hữu Bình, Phan Văn Hùng (2013), Một số vấn đề về đổi mới xây dựng và
thực hiện chính sách dân tộc, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
15. Bộ Phát triển sắc tộc (1966), Tìm hiểu phong trào tranh đấu FULRO (1958-
1969), Sài Gòn.
16. Lương Thy Cân (2014), Chuyển biến kinh tế - xã hội thành phố Buôn Ma Thuột từ
năm 1975 đến 2010, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi (1937), Mọi Kon Tum, Nhà in Mirador, Huế.
18. Trường Chinh (1983), "Đưa đồng bào các dân tộc Đắk Lắk lên chủ nghĩa xã
hội", Tạp chí Cộng sản, (10), tr.3-7.
19. Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-01-2011, Về công tác
dân tộc, Hà Nội.
20. Georges Condominas (2003), Chúng tôi ăn rừng, Trần Thị Lan Anh dịch từ
nguyên bản Nous avons mangé la forêt - FLAMMARION, Paris, 1982; NXB
Thế giới, Hà Nội.
21. Trọng Cúc, Đào Trọng Hưng và Chu Hữu Quý (2002), Một vài vấn đề phát triển
kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
22. Dam Bo (Jacques Dournes) (2003), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi
Nam Đông Dương), Nguyên Ngọc dịch, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
23. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến
mối quan hệ dân tộc hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Trắc Dĩ (1970), Đồng bào các sắc tộc thiểu số ở Việt Nam, nguồn gốc
và phong tục, Sài Gòn.
25. Khổng Diễn (2002), Những vấn đề cấp bách về dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Khổng Diễn (2005), Những vấn đề bức xúc về dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Khổng Diễn, Bùi Văn Đạo và Nguyễn Văn Minh (2005), Thực trạng sử dụng
đất đai ở Tây Nguyên hiện nay và kiến nghị, giải pháp, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
154
28. Khổng Diễn (2012), "Tìm hiểu một số đặc điểm con người Tây Nguyên phục vụ cho
phát triển bền vững", Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 4 (8), tr.3-11.
29. Jacques Dousners (2002), Rừng, Đàn bà, Điên loạn (Nguyên Ngọc dịch), NXB
Hội nhà văn, Hà Nội.
30. Lê Duẩn (1978), "Tây Nguyên đoàn kết tiến lên", NXB Sự thật, Hà Nội.
31. Trương Minh Dục (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan
hệ dân tộc ở Tây Nguyên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Trương Minh Dục (2008), Xây dựng khối đại đoàn kết các các tộc người thiểu số
ở Tây Nguyên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Trương Minh Dục (2009), Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở miền
Trung, Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị - Hành chính
quốc gia, Hà Nội.
34. Trương Minh Dục (2010), Miền Trung và Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới,
NXB Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.
35. Trương Minh Dục (2011), "Phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên trong những
năm 2001-2010: Từ chính sách đến thực tiễn", Tạp chí Khoa học Xã hội Tây
Nguyên, số 3 (3), tr.15-21.
36. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa, xã hội, con người Tây Nguyên, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
37. Bế Viết Đẳng, Chu Thái Sơn, Vũ Thị Hồng và Vũ Đình Lợi (1982), Đại cương về
các dân tộc Ê-đê, Mnông ở Đắk Lắk, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
38. Bế Viết Đẳng (chủ biên, 1995), 50 năm các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-
1995), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội,
39. Bế Viết Đẳng (chủ biên, 1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế -
xã hội ở miền núi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
NXB Sự thật, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 10-NQ/TW, Nghị quyết của Bộ
Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng
Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Thông báo Kết luận số 148-TB/TW, ngày 16-7-
2004, của Bộ Chính trị “Về tình hình, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục phát
triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững”.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Kết luận số 57-KL/TW, ngày 3-11-2009 của Bộ
Chính trị, Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; về công
tác dân tộc, về công tác tôn giáo, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị, Về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) phát
triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
52. Bùi Minh Đạo (2001), Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát
triển bền vững, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
53. Bùi Minh Đạo (chủ biên, 2002), Thực trạng đói nghèo và một số giải pháp xoá
đói giảm nghèo đối với các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
156
54. Bùi Minh Đạo (chủ biên, 2005), Thực trạng đói nghèo và một số giải pháp xoá
đói, giảm nghèo đối với các các tộc người thiểu số tại chỗ Tây Nguyên,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Bùi Minh Đạo (2009), Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền vững
vùng Tây Nguyên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Bùi Minh Đạo (2011), Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát
triển bền vững, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
57. Bùi Minh Đạo (2012), Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát
triển bền vững, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Bùi Văn Đạo (2009), Một số vấn đề về quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Bùi Đình (1967), Đường lên xứ Thượng, Tủ sách Thanh niên Cộng hòa, Sài Gòn.
60. Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo số 18/BC-ĐĐBQH, Báo
cáo kết quả khảo sát “Tình hình dân di cư ngoài kế hoạch trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk”, Đắk Lắk.
61. Cửu Long Giang, Toan Ánh (1970), Cao nguyên miền Thượng, Sài Gòn.
62. Phạm Hảo, Trương Minh Dục (Đồng chủ biên) (2003), Một số vấn đề xây dựng
hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Phạm Hảo (Chủ biên) (2007), Một số giải pháp góp phần ổn định chính trị ở Tây
Nguyên hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Phạm Văn Hồ (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã
hội ở Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
65. Lê Nhị Hòa (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp phát triển kinh
tế với bảo đảm quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm
2006, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
66. Phạm Quang Hoan và cộng sự (2010), Những vấn đề cơ bản của các dân tộc ở
Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
67. Phạm Quang Hoan (2010), Quan hệ dân tộc ở nước ta thời kỳ đổi mới, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
157
68. Phạm Quang Hoan (2014), Các mối quan hệ tộc người cơ bản ở Tây Nguyên trong
bối cảnh hiện nay, in trong kỷ yếu Hội thảo Phát triển kinh tế - xã hội đặc thù
vùng Tây Nguyên: Những vấn đề cốt yếu và giải pháp, Buôn Ma Thuột.
69. Phạm Quang Hoan (2015), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài Quan hệ
tộc người và chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong phát triển
bền vững Tây Nguyên, Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp
Nhà nước TN3/11-15, mã số nhánh TN3/X05.
70. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X (2000), Chính sách và pháp luật của
Đảng, Nhà nước về dân tộc, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
71. Hội đồng Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2010), Nghị quyết số 03/2010/NQ-HĐND, Về
việc dạy tiếng Ê-đê trong trường Tiểu học và Trung học cơ sở, giai đoạn
2010-2015, Đắk Lắk.
72. Hội đồng Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012), Nghị quyết số 81/2012/NQ-HĐND Về
Chương trình Việc làm và Dạy nghề tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2015,
Đắk Lắk.
73. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2007), Từ điển
bách khoa Việt Nam, Quyển 1, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
74. Lưu Hùng (1996), Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
75. Phan Văn Hùng (2015), Một số vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và chính sách
dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Dương Thị Hướng (2010) (Chủ nhiệm), Những yếu tố văn hoá - xã hội tác động
đến sự ổn định và phát triển ở Tây Nguyên (Quan điểm và giải pháp), Đề tài
cấp nhà nước, mã số KX 03.01/06-10.
77. Trần Thị Mỹ Hường (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án tiến
sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
78. Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng (2000), Sở hữu và sử dụng đất đai
ở các tỉnh Tây Nguyên. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
79. Gerald Lormon Hickey, Tự do trong rừng thẳm (Lịch sử các sắc tộc vùng Tây
Nguyên Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1976), Bản dịch tư liệu Thư viện -
Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Ký hiệu TL0010 - TL0011.
158
80. Henri Maitre (1912), Les jung les Moi (1912) in bằng tiếng Pháp, Hà Nội. Lưu
Đình Tuấn dịch (2008), Rừng người Mọi, NXB Tri thức, Hà Nội.
81. Mus P. (1931), Monographie de province du Darlac, Extrême-Orient (Chuyên
khảo về tỉnh Đắk Lắk, vùng Viễn Đông), Hanoi.
82. M. Ner (1942), L’habitation Rhade (Nhà ở của người Ra-đê), Cahiers de l’Ecole
Francaise d’Etrême- Orient, Supplément 2, Hanoi.
83. Lê Hữu Nghĩa (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về
dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn Quốc Phẩm (Chủ nhiệm) (2007), Xu hướng phát triển và những giải
pháp giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền ở Tây Nguyên, Đề
tài cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Hoàng Ngọc Phong, Nguyễn Văn Phú (2006), Các giải pháp tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường vùng Tây Nguyên trong tình hình mới,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
87. Giàng Seo Phử (2013), Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
88. Quỹ Phát triển phụ nữ Liên Hợp Quốc (UNIFEM) (2007), Quyền của người thiểu
số và các dân tộc bản địa, Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA).
89. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk (2011), Báo cáo công tác bảo tồn,
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
90. Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng (Đồng chủ biên, 2006), Những vấn đề cơ bản về
chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
91. Lưu Văn Sùng (2010), trong cuốn sách Một số điểm nóng chính trị - xã hội
điển hình tại các vùng đa dân tộc ở các tỉnh miền núi trong những năm
gần đây. Hiện trạng, vấn đề các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình
huống, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Linh Tâm, Linh Nga Niê Kđăm (1996), Một số nét đặc trưng của phong tục các
dân tộc Tây Nguyên, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
159
93. Tạp chí Xưa và Nay (2007), Đất và người Tây Nguyên, NXB Văn hóa Sài Gòn.
94. Lê Ngọc Thắng (2005), Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
95. Phan Sỹ Thanh (2014), Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa
bàn Tây Nguyên hiện nay, Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính
trị Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
96. Ngô Đức Thịnh (2007), Những mảng màu văn hoá Tây Nguyên, NXB Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
97. Thủ tướng Chính phủ (2010), Nghị định 82/2010/NĐ-CP ngày 15-7-2010, Quy
định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở
giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên, Hà Nội.
98. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định 276/QĐ-TTg, ngày 18-02-2014 Về việc
triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW, ngày 24-10-2011 của Bộ Chính
trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX)
phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.
99. Niê Thuật (2010), "Đắk Lắk nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị
cơ sở", Tạp chí Cộng sản, (12), tr.21-25.
100. Trần Văn Thuật, Nguyễn Lâm Thành và Nguyễn Hữu Hải (chủ biên, 2002), Miền
núi Việt Nam thành tựu và phát triển những năm đổi mới, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
101. Hoàng Thu Thủy (2014), Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một
số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010, Luận án
tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
102. Nguyễn Bá Thủy (2003), Di dân tự do của các dân tộc Tày, Nùng, Hmông, Dao
từ Cao Bằng, Lạng Sơn vào Đắk Lắk giai đoạn 1986-2000, Luận án tiến sĩ
Dân tộc học, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
103. Nguyễn Thanh Thủy (2011), Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với đồng bào Khơ-me ở đồng bằng sông Cửu
Long, Luận án tiến sĩ lịch sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
104. Nguyễn Duy Thụy (2011), Chuyển biến kinh tế - xã hội Đắk Lắk từ năm 1975 đến
năm 2003, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
160
105. Nguyễn Duy Thụy (2016), Di cư của người dân tộc thiểu số đến Tây Nguyên từ
năm 1975 đến năm 2015, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
106. Nguyễn Văn Tiệp (2011), Một số vấn đề về kinh tế - xã hội và quan hệ dân tộc ở
tỉnh Đắk Lắk, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
107. Nguyễn Văn Tiệp (2015), Chính sách dân tộc của chính quyền Việt Nam Cộng
hòa và vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên (1954-1975), NXB
Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
108. Vương Xuân Tình (2014), Nghiên cứu về quan hệ dân tộc ở Việt Nam (từ năm
1980 đến nay), Website của Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
109. Tỉnh ủy Đắk Lắk (1999), Chỉ thị 19-CT/TU, ngày 26-7-1999, Chỉ thị về việc đào
tạo và sử dụng cán bộ dân tộc, Đắk Lắk.
110. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2001), Chỉ thị số 05-CT/TU (Mật), ngày 16-05-2001 Về tăng
cường công tác vận động quần chúng và nhiệm vụ bảo vệ biên giới trong
tình hình mới, Đắk Lắk.
111. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2002), Chương trình số 07-CTr/TU, ngày 2-5-2002 Thực hiện
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18/01/2002 của BCT (khóa IX), về phát triển
kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh thời kỳ 2001-2010, Đắk Lắk.
112. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2003), Chương trình số 18-CTr/TU, ngày 14-5-2003 Về thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) về công tác dân tộc, Đắk Lắk.
113. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2004), Công văn số 75-CV/TU, ngày 22-03-2004 Về việc phân
công các cơ quan, đơn vị kết nghĩa với các buôn đồng bào dân tộc thiểu số,
Đắk Lắk.
114. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2004), Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 17-11-2004 Về phát triển
kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào Đắk Lắk tại chỗ đến năm 2010, Đắk Lắk.
115. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2005), Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 14-01-2005 Nghị quyết
về lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ nay đến năm 2010,
Đắk Lắk.
116. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2007), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình số 18/CTr-
TU, ngày 14/5/2003, Đắk Lắk.
161
117. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2007), Kế hoạch số 21-KH/TU, ngày 02-7-2007 Kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh và cán bộ xã, phường,
thị trấn giai đoạn 2007-2010, Đắk Lắk.
118. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2008), Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 5-5-2008 Về tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015, Đắk Lắk.
119. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2010), Báo cáo công tác kết nghĩa với các buôn đồng bào dân
tộc thiểu số 2004-2010, Đắk Lắk.
120. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình số 18-CTr/TU,
ngày 14-5-2003 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc, Đắk Lắk.
121. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2010), Báo cáo số 16-BC/TU, ngày 24-12-2010 Báo cáo sơ kết
5 năm thực hiện công tác lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số, Đắk Lắk.
122. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2010), Các nghị quyết, chương trình, chỉ thị và kế hoạch của
Tỉnh ủy Đắk Lắk khóa XIV (2006-2010), (Lưu hành nội bộ), Tập 1 (2006-
2008), Tập 2 (2008-2010), Đắk Lắk.
123. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2011), Kết luận số 07-KL/TU, ngày 22-2-2011 Kết luận của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy tại Hội nghị tổng kết 6 năm thực hiện công tác kết
nghĩa với các buôn đồng bào dân tộc thiểu số, Đắk Lắk.
124. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2011), Báo cáo số 72-BC/TU, ngày 27-07-2011 Tổng kết hơn 6
năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU của tỉnh ủy (khóa VIII), về phát
triển kinh tế - xã hội buôn, thôn, đồng bào dân tộc thiểu số, Đắk Lắk.
125. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2011), Kết luận số 19-KL/TU, ngày 27-07-2011 Về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU của tỉnh ủy (khóa XIII) về phát triển
kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, Đắk Lắk.
126. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2012), Chương trình số 10-CTr/TU, ngày 11-01-2012 Về việc
thực hiện Kết luận số 12-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-
NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-
2020, Đắk Lắk.
162
127. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2013), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đắk Lắk.
128. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2014), Báo cáo công tác lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác
dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (từ năm 1986 đến nay), Đắk Lắk.
129. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2014), Báo cáo kết quả 10 năm thực hiện công tác kết nghĩa
với các buôn đồng bào dân tộc thiểu số (2004-2014), Đắk Lắk.
130. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2015), Báo cáo số 11-BC/TU, ngày 23-11-2015 Tổng kết 10
năm hoạt động của Đội công tác phát động quần chúng chuyên trách các
cấp (2004-2015), Đắk Lắk.
131. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2015), Báo cáo công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới, Đắk Lắk.
132. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2015), Các nghị quyết, chương trình, chỉ thị và kế hoạch của
Tỉnh ủy Đắk Lắk khóa XV (2010-2015), (Lưu hành nội bộ), Tập 1 (2010-
2012), Tập 2 (2012-2013), Tập 3 (2014-2015), Đắk Lắk.
133. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê tỉnh Đắk Lắk 2010, Đắk Lắk.
134. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê tỉnh Đắk Lắk 2015, Đắk Lắk.
135. Nguyễn Tuấn Triết (2000), Lịch sử phát triển các tộc người Mã Lai - Đa Đảo,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
136. Nguyễn Tuấn Triết (2007), Tây Nguyên - những chặng đường lịch sử văn hóa,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
137. Nguyễn Khắc Trinh (2016), Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo kinh tế nông nghiệp
từ năm 2004 đến năm 2013, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
138. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (2002), Một số vấn đề phát
triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
139. Ủy ban Dân tộc (2006), Báo cáo tình hình thực hiện một số chính sách lớn vùng
đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Nguyên, Hà Nội.
140. Ủy ban Dân tộc - Viện Dân tộc (2009), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc sau 5
năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương
khóa IX, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
163
141. Ủy ban Dân tộc (2014), Báo cáo chuyên đề số 119/BC-UBDT, ngày 17-11-2014
Đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc vùng Tây Nguyên sau
hơn 25 năm đổi mới, Hà Nội.
142. Ủy ban Dân tộc (2015), Báo cáo số 136/BC-UBDT, ngày 5-11-2015 Báo cáo kết
quả rà soát chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015 và đề xuất chính sách
trung hạn giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
143. Ủy ban Dân tộc (2015), Báo cáo số 149/BC-UBDT, ngày 19-11-2015 Báo cáo kết
quả tình hình triển khai nhiệm vụ thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.
144. Ủy ban Dân tộc (2016), Báo cáo số 143/BC-UBDT, ngày 24-2-2016 Báo cáo kết
quả thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015 và đề xuất khung
chính sách dân tộc giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
145. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1986), Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã
hội Tây Nguyên. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
146. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1989), Tây Nguyên trên đường phát triển,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
147. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk
(1990), Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
148. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân tộc (2005), Báo cáo 363/BDT-KH của
UBND tỉnh, ngày 9-12-2005, Tổng kết công tác dân tộc năm 2005 và
phương hướng, nhiệm vụ công tác dân tộc năm 2006, Đắk Lắk.
149. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2005), Báo cáo tổng hợp qui hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, Đắk Lắk.
150. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2005), Đề án giải quyết đất sản xuất, đất ở, hỗ
trợ nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đời sống khó
khăn theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
Đắk Lắk.
151. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2008), Chương trình số 2463/CT-UBND, ngày
27-06-2008 Về phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu
số tại chỗ của tỉnh đến năm 2015, Đắk Lắk.
164
152. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2008), Quyết định số 15/2008/QĐ-UBND, ngày
04-02-2008 Ban hành quy định về việc thực hiện chính sách kéo điện vào
nhà cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ theo Quyết định số
168/2001/QĐ-TTg, Đắk Lắk.
153. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2010), Chỉ thị số 07/CT-UBND, ngày 31-12-2010,
Về tăng cường công tác dân tộc thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Đắk Lắk.
154. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2010), Đề án dạy tiếng Ê-đê trong nhà trường
phổ thông giai đoạn 2010-2015, Đắk Lắk.
155. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2010), Phương án triển khai chương trình dạy
thí điểm tiếng Mnông bậc tiểu học cho học sinh người Mnông ở huyện Lắk
giai đoạn 2010-2015, Đắk Lắk.
156. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2010), Quyết định số 1803/QĐ-UBND, ngày 21-
7-2010 Về việc triển khai Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân tỉnh về dạy
tiếng Ê-đê trong trường tiểu học và trung học cơ sở, giai đoạn 2010-2015,
Đắk Lắk.
157. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân tộc (2010), Báo cáo kết quả thực hiện
các chương trình, dự án trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010,
Đắk Lắk.
158. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân tộc (2011), Báo cáo công tác dân tộc
năm 2010 và nhiệm vụ năm 2011, Đắk Lắk.
159. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2011), Báo cáo số 162/BC-LĐTBXH, ngày 22-
02-2011 Về công tác dạy nghề giai đoạn 2006-2010 và kế hoạch, phương
hướng giai đoạn 2011-2015, Đắk Lắk.
160. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2011), Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện
Chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh Đắk Lắk theo Chương trình 09-
CTr/TU ngày 07-11-2006 của tỉnh ủy và Nghị quyết số 57/2006/NQ-HĐND,
ngày 14-12-2006 của Hội đồng Nhân dân tỉnh, Đắk Lắk.
161. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2011), Quyết định số 985/QĐ-UBND, ngày 18-
4-2011 Về việc nâng mức hỗ trợ sinh hoạt phí cho học sinh, sinh viên
Trường cao đẳng nghề Thanh niên dân tộc Tây Nguyên, Đắk Lắk.
165
162. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2011), Tài liệu quán triệt và triển khai Đại hội
đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam và Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu
số tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
163. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012), Báo cáo số 147/BC-UBND, ngày 17-08-
2012 Đánh giá tình hình di cư và thực hiện các chủ trương, chính sách ổn
định kinh tế - xã hội đối với đồng bào Mông, Đắk Lắk.
164. Ủy ban Nhân dân Tinh Đắk Lắk (2012), Báo cáo số 288/BC-UBND, ngày 20-12-
2012 Báo cáo về việc “Rà soát thực trạng hạ tầng nông thôn, đánh giá tình
hình sử dụng đất, rừng; tình hình sản xuất, đời sống của đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ và dân di cư tự do, Đắk Lắk.
165. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012), Chương trình 655/CTr-UBND, ngày 16-
02-2012 Phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số tại
chỗ của tỉnh đến năm 2015, Đắk Lắk.
166. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012), Đề án bảo tồn, phát huy di sản Không
gian văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2015, Đắk Lắk.
167. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012), Quyết định số 1053/QĐ-UBND, ngày 14-
5-2012 Về việc ban hành chương trình hành động thực hiện Chương trình
số 10-CTr/TU, Đắk Lắk.
168. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Sở Công thương (2012), Báo cáo công tác kéo
điện vào cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk, Đắk Lắk.
169. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2014), Báo cáo xây dựng phương án sắp xếp bố
trí dân cư vào vùng dự án để ổn định sản xuất, đời sống của đồng bào, ngăn
ngừa, hạn chế dân chặt phá rừng, lấn chiếm đất rừng trái phép, Đắk Lắk.
170. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2014), Báo cáo số 88/BC-UBND, ngày 3-6-2014
Rà soát, đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn
tỉnh sau hơn 25 năm đổi mới, Đắk Lắk.
171. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2014), Báo cáo số 131/BC-SNNNT, ngày 13-6-
2014 Đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc vùng Tây Nguyên
sau 25 năm đổi mới.
166
172. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2014), Báo cáo số 377/BC-SNN, ngày 12-12-
2014 Kết quả thực hiện công tác dân tộc năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015,
Đắk Lắk.
173. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2014), Tài liệu Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu
số tỉnh Đắk Lắk lần thứ II - năm 2014, Đắk Lắk.
174. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân tộc (2014), Báo cáo công tác dân tộc
năm 2013 và nhiệm vụ năm 2014, Đắk Lắk.
175. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Quy
hoạch phát triển văn hóa tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, định hướng đến năm
2030, Đắk Lắk.
176. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo số 40/BC-SGDĐT-GDDT, ngày
10-2-2015 Báo cáo kết quả thực hiện chính sách giáo dục ngôn ngữ vùng
dân tộc thiểu số, Đắk Lắk.
177. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo số 128/BC-SGDĐT-GDDT, ngày
12-6-2015 Báo cáo và tự chấm điểm thi đua thuộc lĩnh vực giáo dục dân tộc
năm học 2014-2015, Đắk Lắk.
178. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo số 129/BC-SGDĐT-GDDT, ngày
12-6-2015 Báo cáo thực hiện nhiệm vụ năm học 2014-2015 đối với giáo dục
dân tộc, Đắk Lắk.
179. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo số 250-BC/UBND, ngày 28-10-
2015 Tổng kết các chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015 trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk, Đắk Lắk.
180. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo số 321/BC-SNN, ngày 28-12-
2015 Kết quả thực hiện công tác dân tộc năm 2015 và nhiệm vụ năm 2016,
Đắk Lắk.
181. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo số 322/BC-UBND, ngày 28-12-
2015 Tổng kết Chương trình 135 giai đoạn 2011-2015, Đắk Lắk.
182. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân tộc (2015), Báo cáo công tác dân tộc
năm 2015 và nhiệm vụ năm 2016, Đắk Lắk.
183. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2015), Báo
cáo chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015, Đắk Lắk.
167
184. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2015), Báo
cáo 2513/BC-SVHTTDL, ngày 17-12-2015 Về việc Bảo tồn, phát huy di sản
Không gian văn hoá cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2015,
Đắk Lắk.
185. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo công tác đào tạo nghề trên địa
bàn tỉnh năm 2015 và 5 năm (2011-2015) và kế hoạch năm 2016, Đắk Lắk.
186. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo số 10/BC-SLĐTBXH, ngày 05-
01-2016 Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện chương trình mục tiêu giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2011-2015, Đắk Lắk.
187. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo số 21/BC-UBND, ngày 2-2-2016
Tổng kết thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010-2015, Đắk Lắk.
188. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân tộc (2016), Báo cáo số 224/BC-BDT,
ngày 23-5-2016 Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 755/QĐ-TTg trên
địa bàn tỉnh, Đắk Lắk.
189. Văn phòng Ban chỉ đạo Tây Nguyên (2009), Số liệu kinh tế - xã hội và xóa đói
giảm nghèo Tây Nguyên, Đắk Lắk.
190. Đặng Nghiêm Vạn (1985), "Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về kinh tế - xã hội
Tây Nguyên trên chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội". In trong: Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
191. Đặng Nghiêm Vạn (1986), Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về kinh tế xã hội
Tây Nguyên trên chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
192. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, NXB Đại học
quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
193. Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), Vấn đề dân tộc và định
hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
168
NGUỒN CUNG CẤP TƯ LIỆU
(QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN)
Trong quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, tác giả đã trực tiếp làm việc với các
ban của Tỉnh ủy Đắk Lắk như: Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức, Ban Dân vận; Làm việc
với Văn phòng HĐND tỉnh Đắk Lắk; Làm việc với các sở, ban ngành của UBND tỉnh
Đắk Lắk như: Văn phòng UBND tỉnh, Ban Dân tộc, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Sở Lao động, Thương Binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Giáo
dục và Đào tạo, Sở Công thương, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nội vụ.
Tác giả cũng đã làm việc với Vụ Văn phòng, Vụ Dân tộc - Tôn giáo, Vụ Văn hóa -
Xã hội thuộc Ban Chỉ đạo Tây Nguyên; làm việc với Phòng Tổng hợp và Phòng Địa bàn
thuộc Vụ Địa phương II, Ủy ban Dân tộc.
Đồng thời tác giả tiến hành khảo sát các chương trình, dự án của Chính phủ và
Tỉnh Đắk Lắk đã và đang thực hiện trong vùng DTTS tại một số địa phương như:
- Khảo sát thực hiện chính sách xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm ở huyện
Cư Kuin.
- Khảo sát thực trạng phát huy truyền thống tốt đẹp của các DTTS, đoàn kết xây
dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc ở Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện Ea Kar.
- Khảo sát thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở xã Ea Siên, thị xã Buôn Hồ.
- Khảo sát kết quả tuyên truyền, vận động quần chúng Nhân dân tích cực phát triển
kinh tế - xã hội gắn liền với phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
vùng đồng bào DTTS ở xã Pơng Drang, huyện Krông Búk.
- Khảo sát phát triển kinh tế - xã hội ở xã đặc biệt khó khăn Cư Pơng, huyện
Krông Búk.
- Khảo sát công tác XĐGN gắn với xây dựng nông thôn mới ở thôn Lộc Thái, xã
Phú Lộc, huyện Krông Năng.
- Khảo sát kết quả công tác lãnh đạo của chi bộ trong bảo vệ an ninh nông thôn, an
ninh quốc phòng tại chi bộ Buôn Kuốp, xã Dray Sáp, huyện Krông Ana.
- Phỏng vấn ông Y Min Niê KDăm, Phó Hiệu trưởng trường phổ thông dân tộc nội
trú huyện M'Đrắk, về chất lượng giáo dục phổ thông dân tộc nội trú huyện.
- Phỏng vấn bà Trương Thị Hải Yến, người Sán Dìu, Bí thư chi bộ, Hiệu trưởng
Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và trung học cơ sở Bùi Thị Xuân, xã Pơng
Drang, huyện Krông Búk, về chất lượng giáo dục học sinh DTTS.
169
- Phỏng vấn ông Y Bhới Niê, là người có uy tín, người Ê-đê, buôn Ea Yông A, xã
Ea Yông, huyện Krông Pắk về chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào DTTS.
- Phỏng vấn bà H'Hương Byă (tên thường gọi là Ami Dzoan), người Ê-đê, theo
Công giáo, buôn Cuôr Dăng B, xã Cuôr Dăng, huyện Cư M'Gar về thực hiện các chính
sách phát triển kinh tế hộ gia đình, xây dựng đời sống văn hóa tại khu dân cư.
- Phỏng vấn bà H'Nhăm Êban, người Ê-đê, buôn Niêng 1, xã Ea Nuôl, huyện Buôn
Đôn, về tinh thần vượt khó khăn, xây dựng gia đình văn hóa, nuôi dạy con thành đạt.
- Phỏng vấn ông Y Smuel Byă, người có uy tín, buôn Cư Ko Emông, xã Dang
Kang, huyện Krông Bông, về vai trò của buôn trưởng với công tác bảo tồn, phát huy
không gian văn hóa cồng chiêng.
- Phỏng vấn ông Y Thi Mlô, người Ê-đê, ở buôn Choăh, xã Dliê Yang, huyện Ea
H'Leo, về tiếp cận các chính sách XĐGN và phát triển kinh tế hộ.
- Phỏng vấn bà H'Mai Niê (tên khác là Amí Út), người Ê-đê, ở buôn Cư Drăm, xã
Cư Drăm, huyện Krông Bông, về phát triển kinh tế hộ gia đình và tham gia xây dựng đời
sống văn hóa tại khu dân cư.
- Phỏng vấn ông Y Nem Mlô, người Ê-đê ở buôn Ea Ga, xã Cư Ni, huyện Ea Kar
về phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới.
- Phỏng vấn ông Quách Bình, người Mường, quê ở tỉnh Hòa Bình, trú tại thôn 2, xã
Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, là Bí thư Chi bộ buôn Kom Leo, về vai trò của
chi bộ Đảng trong vận động Nhân dân chấp hành chủ trương, chính sách và thực hiện
phong trào xây dựng nông thôn mới.
Ngoài ra, tác giả khảo sát thực tế tại các xã biên giới, như xã Krông Na, huyện
Buôn Đôn; xã Ea R'vê và xã Ia Lốp, huyện Ea Súp; khảo sát xã có tình hình nóng về di
cư ngoài kế hoạch, tranh chấp đất đai, như xã Cư Prông, huyện Ea Kar; xã Cư San,
huyện M'Đrắk; xã Ea Dăh, Krông Năng; xã Dliê Yang, huyện Ea H'Leo; thực trạng đói
nghèo ở xã Bông Krang, huyện Lắk; xã Cư Pui, huyện Krông Bông; xã Vụ Bổn, huyện
Krông Pắk.
Tác giả đã gặp gỡ và phỏng vấn, trao đổi, lấy ý kiến đánh giá của một số cán bộ,
công chức trực tiếp quản lý, thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk như:
- Ông Nguyễn An Vinh, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk giai đoạn 1999-2001.
- Ông Y Luyện Niê K'Dăm, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk giai đoạn 2001-2005.
- Ông Niê Thuật, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2005-2015.
170
- Ông Lê Xuân Hảo, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk giai đoạn 2005-2010.
- Ông Đinh Duy Linh, Phó Trưởng phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng, Ban
Tuyên Giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk.
- Ông Y Lia Tơr, Phó Trưởng Ban, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Đắk Lắk.
- Ông Vũ Hồng Nhật, Chánh Văn phòng, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Đắk Lắk.
- Ông Ama Phong, nguyên Trưởng ban, ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Lắk.
- Bà H’Ngoắt H'Mok, Phó Trưởng ban, ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Lắk.
- Ông Bùi Hồng Quý, Chánh Văn phòng, UBND tỉnh Đắk Lắk.
- Ông Nguyễn Như Quyền, Phó trưởng Ban, Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk.
- Bà Lê Thị Nhật Thanh, Phó Chánh Văn phòng, Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk.
- Ông Lê Ngọc Vinh, Trưởng phòng Chính sách dân tộc, Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk.
- Ông Nguyễn Văn Đàn, Phó Giám đốc, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh
Đắk Lắk.
- Ông Vũ Văn Đông, Phó Giám đốc, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Đắk Lắk.
- Ông Đặng Gia Duẩn, Phó Giám đốc, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk.
- Ông Nguyễn Văn Hà, Phó Giám đốc, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk.
- Ông Phạm Quốc Toản, Chánh Thanh tra, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Đắk Lắk.
- Ông Thái Văn Tài, Phó Giám đốc, sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk.
- Bà Lê Thị Ngọc Thơm, Phó Ban nghiên cứu học sinh dân tộc, sở Giáo dục và
Đào tạo tỉnh Đắk Lắk.
- Bà Lương Thanh Sơn, nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk.
- Bà H'Ngăm Niê K'Dăm, Phó Trưởng Ban, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.
- Ông Trịnh Dũng, Vụ trưởng Vụ Văn hóa - Xã hội, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.
- Ông Trương Văn Tỵ, Vụ trưởng Vụ Dân tộc - Tôn giáo, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.
- Ông Điểu Mưu, Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc - Tôn giáo, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.
- Ông Nguyễn Xuân Đức, Vụ trưởng Vụ Địa phương II, Ủy ban Dân tộc.
- Ông Y Der Ajun, Trưởng phòng Địa bàn, Vụ Địa phương II, Ủy ban Dân tộc.
- Ông Y Khúc HWing, chuyên viên phòng Tổng hợp, Vụ Địa phương II, Ủy ban
Dân tộc.
171
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐẮKLẮK NĂM 2004
Nguồn: Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk
172
Phụ lục 2
HỆ THỐNG CÁC CHÍNH SÁCH DÂN TỘC THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
I Các chương trình, chính sách của Đảng và Nhà nước dành riêng cho vùng Tây Nguyên
1 Nghị định 20/NĐ-CP 31-3-1998 Chính phủ Về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng
đồng bào dân tộc. Hết hiệu lực
2 Quyết định 135/QĐ-TTg 31-7-1998 Chính phủ Về việc phê duyệt phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc
biệt khó khăn, vùng núi và vùng sâu, vùng xa. Hết hiệu lực
3 Quyết định 168/QĐ-TTg 30-10-2001 Chính phủ
Về việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001 -
2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã
hội vùng Tây Nguyên
Hết hiệu lực
4 Nghị định 02/NĐ-CP 03-01-2002 Chính phủ
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
20/1998/NĐ-CP,ngày 31 tháng 3 năm 1998 của Chính
phủ về phát triển thương mại miền núi,hải đảo và vùng
đồng bào dân tộc
Hết hiệu lực
5 Nghị quyết 10-NQ/TW 18-01-2002 Bộ Chính trị Về phát triển vùng Tây Nguyên giai đoạn 2001-2010. Còn hiệu lực
6 Quyết định 154/QĐ-TTg 11-12-2002 Chính phủ
Về chính sách cho các hộ đồng bào DTTS tại chỗ và hộ
dân thuộc diện chính sách ở các tỉnh Tây Nguyên mua
trả chậm nhà ở
Hết hiệu lực
7 Quyết định 798/QĐ-NHNN 29-7-2002 Ngân hàng
Nhà nước
Về việc giảm 30% lãi suất cho vay của Ngân hàng
thương mại nhà nước đối với khách hàng vay thuộc
phạm vi Chương trình các xã đặc biệt khó khăn ở các
tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng.
Hết hiệu lực
173
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
8 Quyết định 132/QĐ-TTg 8-10-2002 Chính phủ Về việc giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào
DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên Hết hiệu lực
9 Quyết định 131/QĐ-TTg 07-01-2003 Chính phủ
Về việc điều chỉnh khoản 3 điều 4 Quyết định số
168/2001/QĐ-TTg ngày 30 tháng 10 năm 2001 về định
hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001-2005 và những
giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây
Nguyên
Còn hiệu lực
10 Quyết định 226/QĐ-TTg 11-06-2003 Chính phủ
Về việc thay hình thức hỗ trợ hộ nghèo, đói, già làng
trưởng bản có khó khăn, hộ gia đình có công với nước
ở Tây Nguyên quy định tại khoản 3 Điều 4 Quyết định
số 168/2001/QĐ-TTg ngày 30 tháng 10 năm 2001
Còn hiệu lực
11 Quyết định 253/QĐ-TTg 05-3-2003 Chính phủ
Về việc phê duyệt Đề án "Một số giải pháp củng cố,
kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên" giai
đoạn 2002-2010.
Hết hiệu lực
12 Quyết định 245/QĐ-TTg 18-11-2003 Chính phủ
Về việc ghi nợ lệ phí trước bạ nhà ở, đất ở đối với hộ
gia đình, cá nhân ở các xã thuộc Chương trình 135 và
hộ gia đình, cá nhân đồng bào DTTS ở Tây Nguyên
Hết hiệu lực
13 Quyết định 174/QĐ-TTg 10-01-2004 Chính phủ
Về việc hỗ trợ đầu tư trong kế hoạch năm 2005 cho
một số huyện miền núi thuộc các tỉnh giáp Tây
Nguyên, phía Tây Khu 4 cũ và miền núi phía Bắc
Còn hiệu lực
14 Quyết định 134/QĐ-TTg 20-7-2004 Chính phủ
Về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở
và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời
sống khó khăn.
Hết hiệu lực
174
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
15 Quyết định 25/QĐ-TTg 27-2-2004 Chính phủ Về việc phê duyệt Đề án "Phát triển hoạt động văn hóa
- thông tin vùng Tây Nguyên đến năm 2010" Còn hiệu lực
16 Quyết định 231/QĐ-TTg 22-9-2005 Chính phủ
Về việc hỗ trợ doanh nghiệp nông lâm nghiệp nhà
nước, Ban quản lý rừng đặc dụng, Ban quản lý rừng
phòng hộ sử dụng lao động là người đồng bào DTTS
cư trú hợp pháp tại các tỉnh Tây Nguyên.
Hết hiệu lực
17 Quyết định 304/QĐ-TTg 23-11-2005 Chính phủ
Về thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia
đình và cộng đồng trong buôn, làng là đồng bào DTTS
tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên.
Còn hiệu lực
18 Quyết định 25/QĐ-TTg 02-05-2008 Chính phủ
Về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên
đến năm 2010.
Hết hiệu lực
19 Quyết định 813/QĐ-TTg 07-06-2006 Chính phủ
Về việc phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án
phát triển lâm nghiệp để cải thiện đời sống vùng Tây
Nguyên.
Còn hiệu lực
20 Quyết định 164/QĐ-TTg 11-07-2006 Chính phủ
Về việc phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên
giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư chương trình phát triển
kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào
dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010.
Hết hiệu lực
21 Quyết định 193/QĐ-TTg 24-08-2006 Chính phủ
Về việc phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng:
thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự
do, xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ,
khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn
2006 - 2010 và định hướng đến năm 2015.
Hết hiệu lực
175
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
22 Quyết định 33/QĐ-TTg 03-05-2007 Chính phủ Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư
cho đồng bào DTTS giai đoạn 2007-2010. Còn hiệu lực
23 Quyết định 166/QĐ-TTg 30-10-2007 Chính phủ
Về việc ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư và hưởng lợi
đối với hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn và các tổ
chức tham gia dự án “Phát triển lâm nghiệp để cải thiện
đời sống vùng Tây Nguyên.
Còn hiệu lực
24 Quyết định 1544/QĐ-TTg 02-05-2008 Chính phủ
Về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên
đến năm 2010.
Hết hiệu lực
25 Quyết định 78/QĐ-TTg 07-10-2008 Chính phủ
Về một số chính sách thực hiện Chương trình bố trí
dân cư theo Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg, ngày
24/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ.
Hết hiệu lực
26 Quyết định 167/QĐ-TTg 12-12-2008 Chính phủ Về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở. Còn hiệu lực
27 Quyết định 102/QĐ-TTg 07-08-2009 Chính phủ Về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ
nghèo vùng khó khăn. Còn hiệu lực
28 Quyết định 1592/QĐ-TTg 12-10-2009 Chính phủ
Về việc tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất
sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt đến năm 2010
cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn.
Hết hiệu lực
29 Kết luận 57-KL/TW 3-11-2009 Bộ Chính trị Về công tác dân tộc Còn hiệu lực
30 Nghị định 49-NĐ-CP 14-05-2010 Chính phủ
Quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập
và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 -
2011 đến năm học 2014-2015.
Còn hiệu lực
176
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
31 Quyết định 1504-QĐ-TTg 18-08-2010 Chính phủ
Về việc sửa đổi một số nội dung tại Điều 3 Quyết định
số 166-2007-QĐ-TTg ngày 30 tháng 10 năm 2007 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ đầu
tư và hưởng lợi đối với hộ gia đình, cộng đồng dân cư
thôn và các tổ chức tham gia Dự án Phát triển lâm
nghiệp để cải thiện đời sống vùng Tây Nguyên.
Còn hiệu lực
32 Quyết định 67-QĐ-TTg 29-10-2010 Chính phủ
Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định
167-2008-QĐ-TTg ngày 12-12-2008 của Thủ tướng
Chính phủ, Về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở.
Còn hiệu lực
33 Quyết định 85-QĐ-TTg 21-12-2010 Chính phủ Ban hành một số chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và
trường phổ thông dân tộc bán trú. Còn hiệu lực
34 Quyết định 75-QĐ-TTg 29-11-2010 Chính phủ
Về việc hỗ trợ tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là
người dân tộc thiểu số cư trú hợp pháp tại các tỉnh Tây
Nguyên.
Hết hiệu lực
35 Quyết định 45-QĐ-TTg 07-01-2011 Chính phủ Về việc phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch xây dựng Vùng
Tây Nguyên đến năm 2030. Còn hiệu lực
36 Quyết định 1270-QĐ-TTg 27-07-2011 Chính phủ Phê duyệt đề án "Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020" Còn hiệu lực
37 Kết luận 12-KL-TW 24-10-2011 Bộ Chính trị
Về tiếp tục thực hiện nghị quyết số 10-NQ-TW của Bộ
chính trị (khóa IX) về phát triển vùng Tây Nguyên giai
đoạn 2011-2020.
Còn hiệu lực
38 Quyết định 1951-QĐ-TTg 02-11-2011 Chính phủ
Về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề các tỉnh
Tây Nguyên và các huyện miền núi của các tỉnh giáp
Tây Nguyên giai đoạn 2011-2015.
Còn hiệu lực
177
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
39 Quyết định 1640-QĐ-TTg 21-9-2011 Chính phủ Về phê duyệt Đề án “Củng cố và phát triển hệ thống
trường PTDTNT giai đoạn 2011-2015”. Còn hiệu lực
40 Quyết định 936-QĐ-TTg 18-07-2012 Chính phủ Về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020. Còn hiệu lực
41 Quyết định 54-QĐ-TTg 04-12-2012 Chính phủ Chính sách vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân
tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012-2015. Còn hiệu lực
42 Quyết định 1776-QĐ-TTg 21-11-2012 Chính phủ
Về việc phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng:
thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự
do, khu đặc dụng giai đoạn 2013 - 2015 và định hướng
đến năm 2020
Còn hiệu lực
43 Quyết định 449-QĐ-TTg 12-03-2013 Chính phủ Phê duyệt chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020. Còn hiệu lực
44 Quyết định 755-QĐ-TTg 20-05-2013 Chính phủ
Về phê duyệt chương trình hỗ trợ đất ở, đất sản xuất,
nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và
hộ nghèo ở xã, thôn bản đặc biệt khó khăn.
Còn hiệu lực
45 Quyết định 33-QĐ-TTg 04-06-2013 Chính phủ
Về việc tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ di dân thực
hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số
đến năm 2015.
Còn hiệu lực
46 Quyết định 36-QĐ-TTg 18-06-2013 Chính phủ Về chính sách hỗ trợ gạo cho học sinh các trường ở khu
vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Còn hiệu lực
47 Nghị định 74-NĐ-CP 15-07-2013 Chính phủ
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 49-
2010-NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ
quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập
và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 -
2011 đến năm học 2014 - 2015.
Còn hiệu lực
178
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
48 Quyết định 2356-QĐ-TTg 04-12-2013 Chính phủ Ban hành chương trình hành động thực hiện Chiến lược
công tác dân tộc đến năm 2020. Còn hiệu lực
49 Nghị định 210-NĐ-CP 19-12-2013 Chính phủ Về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn. Còn hiệu lực
50 Nghị định 134-NĐ-CP 14-11-2006 Chính phủ
Quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ
đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân” và Thông tư liên tịch số 13-2008-TTLT-BGDĐT-
BLĐTBXH-BTC-BNV-UBDT ngày 7-4-2008, Về việc
hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị định 134.
Còn hiệu lực
51 Nghi định 36-QĐ-TTg 18-6-2013 Chính phủ Chính sách hỗ trợ gạo cho học sinh tại các trường ở
khu vực có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Còn hiệu lực
52 Nghi định 74-NĐ-CP 15-7-2013 Chính phủ
Quy định về Sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định số 49-2010-NĐ-CP ngày 14-05-2010 của Chính
phủ, “Quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí
học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở
giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học
2010-2011 đến năm học 2014-2015”.
Còn hiệu lực
53 Quyết định 12-QĐ-TTg 24-01-2013 Chính phủ
Quy định chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ
thông ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn.
Còn hiệu lực
179
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
II Các chương trình, chính sách do tỉnh Đắk Lắk ban hành và thực hiện
1 Chương
trình 07-CTr-TU 05-02-2002 Tỉnh uỷ
Về việc thực hiện Nghị quyết 10-NQ-TW của Bộ
Chính trị và Quyết định số 168-2001-QĐ-TTg. Hết hiệu lực
2 Nghị quyết 04-NQ-TU 17-11-2004 Tỉnh uỷ Về Phát triển kinh tế- xã hội buôn, thôn đồng bào dân
tộc thiểu số tại chỗ đến năm 2010. Hết hiệu lực
3 Nghị quyết 05-NQ-TU 14-01-2005 Tỉnh uỷ Nghị quyết về lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số từ nay đến năm 2010. Còn hiệu lực
4 Công văn 75-CV-TU 22-03-2004 Tỉnh uỷ Về việc phân công các cơ quan, đơn vị kết nghĩa
với các buôn đồng bào dân tộc thiểu số. Còn hiệu lực
5 Quyết định 15-QĐ-UBND 04-02-2008 UBND tỉnh
Ban hành quy định về việc thực hiện chính sách kéo
điện vào nhà cho các hộ đồng bào DTTS tại chỗ theo
Quyết định số 168-2001-QĐ-TTg.
Hết hiệu lực
6 Chương trình 2463-CT-UBND 27-06-2008 UBND tỉnh Phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ của tỉnh đến năm 2015. Còn hiệu lực
7 Quyết định 1803-QĐ-UBND 21-7-2010 UBND tỉnh
Về việc triển khai nghị quyết Hội đồng Nhân dân tỉnh
Về việc dạy tiếng Êđê trong trường Tiểu học và Trung
học cơ sở, giai đoạn 2010-2015.
Còn hiệu lực
8 Nghị quyết 03-NQ-HĐND 07-09-2010 HĐND tỉnh Về việc dạy tiếng Ê-đê trong trường Tiểu học và Trung
học cơ sở, giai đoạn 2010-2015. Hết hiệu lực
9 Chỉ thị 07-CT-UBND 31-12-2010 UBND tỉnh Về tăng cường công tác dân tộc thời kỳ CNH,
HĐH đất nước. Còn hiệu lực
10 Kế hoạch 16-KH-TU 29-9-2011 Tỉnh ủy Công tác phát động quần chúng vùng đồng bào dân tộc
Mông. Còn hiệu lực
180
TT Loại
văn bản Số hiệu văn bản
Thời gian
ban hành
Cơ quan
ban hành Nội dung văn bản
Hiệu lực
thi hành
11 Chỉ thị 10-CT-TU 24-10-2011 Tỉnh ủy Về việc tiếp tục tăng cường công tác đối với người
Hoa trong tình hình mới. Còn hiệu lực
12 Chương
trình 10-CTr-TU 11-01-2012 Tỉnh ủy
Về việc thực hiện Kết luận số 12-KL-TW tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 10-NQ-TW của Bộ Chính trị về
phát triển vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2020.
Còn hiệu lực
13 Chương
trình 655-CTr-UBND 16-02-2012 UBND tỉnh
Về Phát triển kinh tế- xã hội buôn, thôn đồng bào dân
tộc thiểu số tại chỗ đến năm 2015. Còn hiệu lực
14 Quyết định 1053-QĐ-UBND 14-5-2012 UBND tỉnh Về việc ban hành chương trình hành động thực hiện
Chương trình số 10-CTr-TU. Còn hiệu lực
15 Quyết định 1355-QĐ-UBND 26-06-2012 UBND tỉnh
Về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án
“Củng cố và phát triển hệ thống trường PTDTNT tỉnh
Đắk Lắk, giai đoạn 2011-2015".
Còn hiệu lực
16 Kế hoạch 77-KH-TU 26-11-2013 Tỉnh ủy
Thực hiện Kết luận số 68-KL-TW, ngày 10-9-2013 của
Ban Bí thư về xây dựng lực lượng cốt cán và phát huy
vai trò người có uy tín trong cộng đồng người Hoa.
Còn hiệu lực
Nguồn: Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk [170]
181
Phụ lục 3
TỔNG HỢP CÁC NGUỒN VỐN THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
Vốn thực hiện các chính sách TT Ngành-Lĩnh vực
Tổng
cộng NSTW NSDDP Vay NH Huy động
Tổng số 4.040.299 1.827.959 2.007.467 105.720 99.153
1 Hỗ trợ nhà hộ nghèo 167 345.040 90.636 56.897 105.720 91.787
2 Đầu tư theo Quyết định 168 506.725 506.725
3
Quyết định số 25-2008-QĐ-TTg ngày 05-02-2008; số 60-
2010-QĐ-TTg ngày 30-9-2010 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển
kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên:
632.280 166.480 465.800
4 Chương trình 134 190.521 132.900 53.897 3.724
5 Chương trình 135 656.497 652.855 3.642
6 Quyết định số 33-2007-QĐ-TTg hỗ trợ di dân thực hiện
định canh, định cư cho đồng bào DTTS 24.033 23.360 673
7 Chương trình 193 224.203 224.003 200
8 Quyết định số 1592 31.000 31.000
9 Nghị quyết số 04-NQ-TU, ngày 17-11-2004 của Tỉnh ủy 1.400.000 1.400.000
10 Chương trình 655-CTr-UBND, ngày 16-02-2012 của UBND tỉnh 30.000 30.000
Nguồn: Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk [170]
182
Phụ lục 4
TỔNG HỢP CÔNG TÁC XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỈNH ĐẮK LẮK (2003-2015)
2003 2004 2005 2007 2010 2013 2015 Năm
Nội dung Số hộ
Tỉ lệ
% Số hộ Tỉ lệ % Số hộ
Tỉ lệ
% Số hộ
Tỉ lệ
% Số hộ
Tỉ lệ
% Số hộ
Tỉ lệ
% Số hộ
Tỉ lệ
%
Hộ nghèo chung -
tổng số hộ
53.798 14,6 36.213 11,07 90.247 27,55 79.716 23,28 28.922 7,45 50.334 12,26 41.593 10,02
Hộ nghèo DTTS -
hộ nghèo chung
30.181 56,1 19.499 53,84 47.243 52,35 42.569 53,40 17.905 61,90 30.716 61,02 26.155 62,88
Hộ cận nghèo 33.449 8,59 32.168 7,83 31.724 7,64
Hộ cận nghèo
DTTS
3.823 11,43 13.742 42,72 3.550 11,19
Nguồn: Tổng hợp từ [116; 148; 160; 188]
183
Phụ lục 5
SỐ HỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ THIẾU ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN XUẤT
2004 2010 2015 Năm
Nhu cầu
Số hộ Diện tích
(ha) Số hộ
Diện
tích
(ha)
Kinh phí
(triệu đồng) Số hộ
Diện
tích
(ha)
Kinh phí
(triệu đồng)
Đất ở 15.450 521,14 5.531 144,51 4.979 291 81.873,3
Đất sản xuất 28.523 13.770,89 7.737 407.206 15.896 6.072 403.184
Nhà ở 16.516 15.535 20.637
Nước sinh
hoạt 15.283 16.059 222.069,44 26894
Nguồn: Tổng hợp từ [116; 148; 160; 188]
Phụ lục 6
THỐNG KÊ SỐ DÂN DI CƯ TỚI ĐẮK LẮK
1976-2004 2005-2015
Kinh DTTS Kinh DTTS Tổng
số hộ
Tổng số
khẩu Số hộ Số khẩu Số hộ Số khẩu
Tổng
số hộ
Tổng
số
khẩu Số
hộ
Số
khẩu
Số
hộ
Số
khẩu
57.995 282.230 40.667 190.481 17.328 91.749 1.529 7.685 66 201 1.463 7.484
Nguồn: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk [60]
184
Phụ lục 7
DÂN SỐ CHIA THEO DÂN TỘC, GIỚI TÍNH TỈNH ĐẮK LẮK
Tính đến ngày 01-4-2009
Đơn vị tính: Người
Tổng số Thành thị Nông thôn TT Dân tộc
Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ (A) (B) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Tổng số 1.733.624 875.226 858.398 415.881 206.657 209.224 1.317.743 668.569 649.174 1 Kinh 1.161.532 590.553 570.979 365.405 182.330 183.075 796.127 408.223 387.904 2 Tày 51.285 25.845 25.440 2.825 1.281 1.544 48.460 24.564 23.896 3 Thái 17.135 8.578 8.557 693 288 405 16.442 8.290 8.152 4 Mường 15.510 7.893 7.617 2.178 1.085 1.093 13.332 6.808 6.524 5 Khơ-me 543 300 243 242 132 110 301 168 133 6 Hoa (Hán) 3.476 1.977 1.499 2.238 1.211 1.027 1.238 766 472 7 Nùng 71.461 36.153 35.308 2.274 1.080 1.194 69.187 35.073 34.114 8 Hmông 22.760 11.403 11.357 34 14 20 22.726 11.389 11.337 9 Dao 15.303 7.851 7.452 233 117 116 15.070 7.734 7.336
10 Gia-rai 16.129 8.053 8.076 3.713 1.871 1.842 12.416 6.182 6.234 11 Ê-đê 298.534 146.993 151.541 33.275 15.900 17.375 265.259 131.093 134.166 12 Ba Na 301 171 130 70 49 21 231 122 109 13 Sán Chay 5.220 2.681 2.539 102 49 53 5.118 2.632 2.486 14 Chăm 271 169 102 114 68 46 157 101 56 15 Cơ-ho 151 89 62 84 42 42 67 47 20 16 Xơ Đăng 8.041 4.015 4.026 158 72 86 7.883 3.943 3.940 17 Sán Dìu 236 118 118 55 27 28 181 91 90 18 Hrê 341 228 113 104 63 41 237 165 72 19 Ra-Glai 98 54 44 42 19 23 56 35 21 20 Mnông 40.344 19.523 20.821 1.709 793 916 38.635 18.730 19.905 21 Thổ 541 290 251 120 68 52 421 222 199 22 Xtiêng 15 8 7 2 1 1 13 7 6
185
Tổng số Thành thị Nông thôn TT Dân tộc
Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ 23 Khơ-mú 3 3 - - - - 3 3 - 24 Bru Vân Kiều 3.348 1.739 1.609 43 23 20 3.305 1.716 1.589 25 Cơ Tu 17 11 6 11 6 5 6 5 1 26 Giáy 11 5 6 5 4 1 6 1 5 27 Tà Ôi 5 4 1 5 4 1 - - - 28 Mạ 31 17 14 19 9 10 12 8 4 29 Gié Triêng 78 32 46 22 7 15 56 25 31 30 Co 19 11 8 7 4 3 12 7 5 31 Chơ Ro 25 15 10 1 1 - 24 14 10 32 Xinh Mun 1 - 1 - - - 1 - 1 33 Hà Nhì 4 2 2 4 2 2 - - - 34 Chu-ru 11 5 6 7 2 5 4 3 1 35 Lào 275 138 137 15 5 10 260 133 127 36 La Chí 22 14 8 1 - 1 21 14 7 37 Kháng 2 1 1 - - - 2 1 1 38 La Hủ 1 1 - 1 1 - - - - 39 La Ha 1 - 1 1 - 1 - - - 40 Pà Thẻn 4 1 3 - - - 4 1 3 41 Ngái 37 26 11 - - - 37 26 11 42 Chứt 435 224 211 38 17 21 397 207 190 43 Lô Lô 13 6 7 4 2 2 9 4 5 44 Mảng 15 7 8 5 1 4 10 6 4 45 Cơ Lao 14 8 6 4 3 1 10 5 5 46 Cống 1 - 1 1 - 1 - - - 47 Si La 1 - 1 1 - 1 - - - 48 Người nước ngoài 22 11 11 16 6 10 6 5 1 49 56. KXĐ 1 - 1 - - - 1 - 1
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Đắk Lắk [133].
186
Phụ lục 8
THỐNG KÊ CHÍNH SÁCH DO CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN
BAN HÀNH VÀ THỰC HIỆN
1. Kon Tum
1.1. Quyết định số 1469-QĐ-UBND, ngày 18-12-2006 phê duyệt kế hoạch hỗ trợ
đầu tư, phát triển cửa hàng thương mại xã khu vực III từ năm 2007-2010 (hết hiệu lực);
1.2. Nghị quyết 02-NQ-TU, ngày 20-4-2007 của Tỉnh ủy về phát triển Ba
Vùng kinh tế động lực (còn hiệu lực);
1.3. Quyết định số 906-QĐ-UBND, ngày 10-08-2009 của UBND tỉnh về Đề
án Phát triển kinh tế - xã hội nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững huyện Kon
Plông, tỉnh Kon Tum giai đoạn 2009-2020 (còn hiệu lực);
1.4. Quyết định số 907-QĐ-UBND, ngày 10-08-2009 của UBND tỉnh về Đề
án Phát triển kinh tế - xã hội nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững huyện Tu Mơ
Rông, tỉnh Kon Tum giai đoạn 2009-2020 (còn hiệu lực);
1.5. Nghị quyết số 38-2011-NQ-HĐND, ngày 5-12-2011 của HĐND tỉnh;
Quyết định số 01-2012-QĐ-UBND, ngày 6-01-2012 của UBND tỉnh về chính sách
đặc thù xã trọng điểm đặc biệt khó khăn;
1.6. Quyết định số 376-QĐ-UBND, ngày 14-8-2012 của UBND tỉnh về Đề
án nâng cao chất lượng và đẩy nhanh công tác giảm nghèo tỉnh Kon Tum đến năm
2015 (còn hiệu lực);
1.7. Quyết định số 07-2012-QĐ-UBND, ngày 01-02-2012 của UBND tỉnh Kon
Tum về Chính sách hỗ trợ phát triển cao su tiểu điền trên địa bàn tỉnh Kon Tum (còn
hiệu lực);
1.8. Quyết định 136-QĐ-UBND, ngày 6-3-2013 của UBND tỉnh Kon Tum
về Chương trình hành động vì trẻ em tỉnh Kon Tum (còn hiệu lực).
2. Gia Lai
2.1. Chỉ thị số 47-CT-TU, ngày 04-6-1998 của Tỉnh ủy Gia Lai về việc cơ cấu
cán bộ, công chức người dân tộc Bahnar, Jrai trong các cơ quan đợn vị thuộc tỉnh.
2.2. Nghị quyết số 08-NQ-TU, ngày 08-03-2007 của Tỉnh ủy Gia Lai về việc
tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, định canh định cư giai đoạn
2007-2010 và định hướng đến năm 2020.
2.3. Quyết định số 805-QĐ-UBND, ngày 04-7-2008 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Gia Lai về việc thành lập Hội đồng tuyển sinh theo chế độ cử tuyển vào học
viện Quân y thuộc Dự án đào tạo Bác sĩ cho khu vực Tây nguyên, năm 2008.
187
2.4. Quyết định số 96-QĐ-UBND, ngày 31-12-2008 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Gia Lai về việc phê duyệt Đề án nâng cao đời sống của vùng căn cứ cách mạng
Kbang, Kông Chro, Krông Pa giai đoạn 2009-2011.
2.5. Đề án 03-ĐA-TU, ngày 12-6-2009 của Tỉnh ủy Gia Lai Đề án tuyển
chọn sinh viên tốt nghiệp đại học bố trí về cơ sở công tác.
2.6. Quyết định số 25-2010-QĐ-UBND, ngày 5-11-2010 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Gia Lai về việc bổ sung đối tượng chính sách hỗ trợ đào tạo sau đại học và
thu hút người có trình độ cao theo Quyết định số 93-2005-QĐ-UB ngày 4-8-2005
của Ủy ban nhân dân tỉnh.
2.7. Quyết định số 837-QĐ-UBND, ngày 16-12-2011 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Gia Lai về việc ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh
Gia Lai giai đoạn 2011-2015
2.8. Quyết định số 79-QĐ-UBND, ngày 14-02-2014 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Gia Lai về việc Phê duyệt phương án trợ cước trợ giá và cấp không các mặt
hàng chính sách năm 2007.
3. Đăk Nông
4.1. Chỉ thị số 04-CT-TU, ngày 7-5-2004 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về kết
nghĩa giữa các cơ quan Đảng, Chính quyền, Đoàn thể, các tổ chức kinh tế, lực
lượng vũ trang đối với buôn, bon đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ;
4.2. Nghị Quyết số 155-2004-NQ-HĐND, ngày 12-8-2004 của HĐND tỉnh
Đăk Nông về việc phát triển bền vững 12 bon-buôn đồng bào dân tộc thiểu số khó
khăn, ngày 24-8-2004;
4.3. Nghị Quyết số 152-2004-NQ-HĐND, ngày 12-8-2004 của HĐND tỉnh
Đắk Nông, UBND tỉnh Đắk Nông về việc hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là
người dân tộc thiểu số tại chỗ từ năm 2004-2009;
4.4. Quyết định số 484-QĐ-UB, ngày 24-5-2004, về việc tổ chức kết nghĩa với các
bon, buôn đồng bào DTTS tại chỗ và Quyết định số: 67-2004-QĐ-UB, ngày 7-9-2004 của
UBND tỉnh, về việc ban hành quy chế kết nghĩa bon, buôn đồng bào DTTS;
4.5. Nghị quyết số 07-NQ-TU, ngày 27-4-2006 về công tác cán bộ dân tộc
thiểu số giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020;
4.6. Nghị Quyết số 16-2009-NQ-HĐND, ngày 25-12-2009 của HĐND tỉnh
Đắk Nông về chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu
số tỉnh Đắk Nông từ 2010-2015;
4.7. Thông báo số 1463-TB-TU, ngày 22-01-2010 của Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Đắk Nông về việc xây dựng, phát triển bon, buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số;
188
4.8. Quyết định số 526-QĐ-UBND, ngày 27-4-2010 về việc ban hành kế hoạch
tiếp tục xây dựng, phát triển bon, buôn, bản và thôn có đông đồng bào dân tộc thiểu số;
4.9. Chỉ thị số 26-CT-UBND, ngày 13-12-2010 của Chủ tịch UBND tỉnh về tuyển
dụng, bố trí sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số và nâng cao hiệu quả sử dụng biên chế;
4.10. Quyết định 168-QĐ-UBND, ngày 08-02-2011 và Quyết định 1141-
QĐ-UBND ngày 24-7-2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về chính sách hỗ
trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên từ năm học 2011-2012 đến năm học 2015-
2016;
4.11. Quyết định số 943-QĐ-UBND, ngày 08-7-2011 của UBND tỉnh Đắk
Nông về việc ban hành Kế hoạch tăng cường công tác dân tộc giai đoạn 2011-2016;
4.12. Chỉ thị số 08-CT-TU, ngày 17-12-2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về
việc đẩy mạng phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh vùng dân tộc Mông
trên địa bàn tỉnh;
4.13. Chương trình hành động số 04-CT-TU, ngày 18-4-2011 của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Đắk Nông về công tác dân tộc giai đoạn 2011-2016.
4.14. Nghị quyết số 37-2011-NQ-HĐND, ngày 09-12-2011 của HĐND tỉnh
Đắk Nông về chính sách hỗ trợ lãi xuất vay vốn sản xuất, kinh doanh đối với hộ
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ giai đoạn 2012-2013;
4.15. Nghị quyết số 38-2011-NQ-HĐND, ngày 09-12-2011 của HĐND tỉnh
Đắk Nông về chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh dân tộc thiểu số từ năm học
2011-2012 đến năm học 2015-2016;
4.16. Nghị quyết 41-2012-NQ-HĐND ngày 20-12-2012 của HĐND tỉnh Đắk
Nông về việc thông qua Đề án nâng cao chất lượng học sinh dân tộc thiểu số tỉnh
Đắk Nông từ năm học 2012-2013 đến năm học 2015-2016;
4.17. Quyết định số 10-2012-QĐ-UBND, ngày 01-6-2012 của UBND tỉnh
Đăk Nông về quy định chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn sản xuất, kinh doanh đối
với hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ giai đoạn 2012-2013.
4. Lâm Đồng
5.1. Chỉ thị số 25-CT-TU, ngày 5-9-1994 của Tỉnh uỷ, Về tiếp tục đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc;
5.2. Nghị quyết số 02-NQ-TU, ngày 20-11-2001 của Tỉnh uỷ, Hội nghị tỉnh
ủy lần V (khóa VII) về tiếp tục đầu tư phát triển vùng ĐBDT thời kỳ 2001 - 2005;
5.3. Kế hoạch số 552-KH-UB, ngày 5-3-2002 của UBND tỉnh về thực hiện
Nghị quyết 10 ngày 18-01-2002 của Bộ chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và
189
bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây nguyên thời kỳ 2001-2010 và Nghị quyết số
02-NQ-TU, ngày 20-11-2001 của Tỉnh ủy Lâm Đồng về tiếp tục đầu tư phát triển
vùng ĐBDT thời kỳ 2001-2005;
5.4. Quyết định số 163-2002-QĐ-UBND, ngày 29-11-2003 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt phương án giải quyết đất đai cho ĐBDTTS tại chỗ ở tỉnh Lâm Đồng;
5.5. Quyết định số 180-2004-QĐ-UBND, ngày 4-10-2004 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt đề án hỗ trợ làm nhà ở cho các hộ ĐBDTTS nghèo, đời sống khó khăn;
5.6. Quyết định số 179-2004-QĐ-UBND, ngày 4-10-2004 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt đề án giải quyết nước sinh hoạt cho hộ ĐBDTTS nghèo, đời sống
khó khăn tỉnh Lâm Đồng giai đọan 2005-2006;
5.7. Quyết định số 178-2004-QĐ-UBND, ngày 4-10-2004 của UBND tỉnh về
Giải quyết đất sản xuất, đất ở cho hộ ĐBDTTS nghèo, đời sống khó khăn trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng;
5.8. Quyết định số 184-2005-QĐ-UBND, ngày 12-10-2005 của UBND tỉnh
Quy định mức trợ cấp xã hội cho học sinh, sinh viên của tỉnh Lâm Đồng
đang học tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp (THCN) và
dạy nghề;
5.9. Nghị quyết 09-NQ-TU, ngày 31-10-2006 của Tỉnh ủy Tập trung nguồn
lực tiếp tục đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh vùng dân
tộc thiểu số giai đọan 2006-2010;
5.10. Quyết định số 510-QĐ-UBND, ngày 30-01-2007 của UBND tỉnh Ban
hành Chương trình thực hiện Nghị quyết 09-NQ-TU, ngày 31-10-2006 của Tỉnh ủy
Lâm Đồng về việc tập trung nguồn lực tiếp tục đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đảm
bảo quốc phòng an ninh vùng dân tộc thiểu số giai đọan 2006 - 2010;
5.11. Quyết định số 1066-QĐ-UBND, ngày 5-4-2007 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt đề án xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn buôn vùng đông bào
DTTS tỉnh Lâm Đồng 2007-2010;
5.12. Quyết định số 70-2001-QĐ-UB, ngày 4-8-2011 của UBND tỉnh về việc
hỗ trợ kinh phí làm nhà cho đồng bào DTTS tại chỗ thuộc khu vực đặc biệt khó khăn;
5.13. Quyết định 62-2012-QĐ-UBND, ngày 27-12-2012 UBND tỉnh Về trợ
cấp xã hội cho học sinh, sinh viên dân tộc đang học tại các trường cao đẳng, đại
học, THCN và dạy nghề.
Nguồn: Ủy ban Dân tộc [141]