Lorem Ipsum
HÀ NỘI, THÁNG 3 NĂM 2016
ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
BAN CHẤP HÀNH HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
NỘI SAN KỈ NIỆM 85 NĂM NGÀY THÀNH LẬP
ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
(26/3/1931 -26/3/2016) SỐ ĐẶC BIỆT
NỘI SAN KỈ NIỆM
MỤC LỤC 03- BÀI SỐ 01
Lịch sử ra đời và phát triển của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
15- BÀI SỐ 02 Đoàn Thanh niên Học viện Ngân hàng thi đua phấn đấu, rèn luyện hướng tới kỉ
niệm 85 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Lê Mạnh Dương- Chi Đoàn K16TCA
18- BÀI SỐ 03 Đoàn Thanh niên với mô hình đào tạo tín chỉ
Nguyễn Ngọc Hồng Nhung – Chi Đoàn K18TCG
29- BÀI SỐ 04 Mô hình phong trào thanh niên tại các trường Đại học trên Thế giới
Lưu Ngọc Hà –Chi Đoà K18KTK
40- BÀI SỐ 05 Ảnh hưởng của tâm lí nhà đầu tư tới thị trường chứng khoán
Nguyễn Thảo Quỳnh Trang –Chi Đoàn K16NHC
Ngô Phương Anh –Chi Đoàn K16NHC
56- BÀI SỐ 06 Tác động của tâm lí nhà đầu tư đến hiệu quả của chính sách điều hành tỉ giá ở
Việt Nam
Mai Hương –Chi Đoàn K17TCI
Đinh Thị Ngọc Anh –Chi Đoàn K16ATC
Số Đặc biệt
2016
BAN BIÊN TẬP NỘI SAN
Phòng 303- Hội sở chính Học viện Ngân hàng
ĐIỆN THOẠI (04) 35773028
eMAIL [email protected]
Ban biên tập
TS. Phạm Tiến Đạt
– Trưởng ban
Phạm Thanh Hải
ThS. Nguyễn Thị Thanh Mai
ThS. Nguyễn Tiến Hưng
ThS. Phan Anh
ThS. Lê Thị Minh Ngọc
Thiết kế
Phạm Tùng Dương
3
BÀI SỐ 01:
LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
(26/03/1931)
I. Sự ra đời của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Đảng đã thấy rõ tầm
quan trọng của việc xây dựng tổ chức Đoàn. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ hai dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú diễn ra tại Sài Gòn
từ ngày 20 đến 26/3/1931 đã dành một thời gian quan trọng để bàn về công tác
thanh niên và xây dựng tổ chức Đoàn. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ: cần kíp tổ
chức ra Thanh niên Cộng sản Đoàn; các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa
phương phải cử ngay các cấp ủy viên của Đảng phụ trách công tác Đoàn.
Xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt ấy, được Bộ Chính trị Trung ương Đảng và
Bác Hồ cho phép, theo đề nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh
niên Lao động Việt Nam, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ 3 (họp từ ngày 22 –
25/3/1961) đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 làm ngày thành lập Đoàn hàng
năm. Ngày 26/3 trở thành ngày vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam, của Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh quang vinh.
II. Chặng đường 85 năm xây dựng và trưởng thành
Ngay sau khi thành lập, Đoàn Thanh niên cộng sản Đông dương đã phát
triển được nhiều đoàn viên trong cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao
là Xô – Viết Nghệ Tĩnh. Từ phong trào cách mạng giai đoạn này đã xuất hiện
4
nhiều gương thanh niên đấu tranh oanh liệt, tiêu biểu là người đoàn viên thanh
niên cộng sản Lý Tự Trọng với câu nói nổi tiếng trước tòa án kẻ thù: “Con
đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào
khác”.
Hình ảnh: Phong trào thanh niên giai đoạn 1931
Tháng 7/1936, Hội nghị Trung ương Đảng đã định ra đường lối chuyển
hướng nhiệm vụ từ đấu tranh bí mật, bất hợp pháp sang đấu tranh công khai hợp
pháp và nửa hợp pháp. Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông dương tiếp nối truyền
thống của Đoàn TNCS Đông Dương tích cực vận động thanh niên đấu tranh
chống thực dân, đế quốc, phản động tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa
bình. Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, trong tình hình mới,
tổ chức Đoàn phải chuyển vào hoạt động bí mật và xây dựng tổ chức chặt chẽ
với tên mới là Đoàn Thanh niên Phản đế Đông dương.
Mùa xuân năm 1941, Bác Hồ trở về nước cùng Trung ương Đảng trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5 năm 1941, Người đã chủ trì Hội
nghị Trung ương VIII tại Pắc Bó, Cao Bằng. Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội
nghị Trung ương VIII, Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam ra đời tiếp nối sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của các tổ chức thanh niên trước đó do
Đảng, Bác Hồ tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Dưới ngọn cờ của Đảng và Bác
Hồ vĩ đại, Đoàn Thanh niên Cứu quốc và tuổi trẻ cả nước đã xung kích cùng
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vùng lên tiến hành thành công Cách mạng
tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc, thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam châu Á.
5
Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ cách
mạng, đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) là lực lượng hăng hái đi đầu trong phong
trào chống “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Thời gian độc lập không
được bao lâu, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, cả dân tộc lại
bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian khổ, hy sinh. Tiêu biểu cho
những ngày đầu kháng chiến là tuổi trẻ Sài Gòn – Chợ Lớn đã thành lập các đội
Thanh niên xung phong cảm tử, thanh niên tự vệ kiên quyết đánh trả kẻ thù. Tại
Thủ đô Hà Nội suốt 60 ngày đêm, nhiều chiến sỹ với tuổi đời còn rất trẻ đã ôm
bom ba càng chặn xe tăng giặc ngay trên đường phố.
Sau gần 20 năm hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đại hội Đoàn
toàn quốc lần thứ I được tổ chức tại Đại Từ, Thái Nguyên từ ngày 7 đến ngày
14/2/1950 với chủ đề “Chiến đấu và xây dựng tương lai”. Phát huy thành công
của Đại hội, hàng vạn nam nữ thanh niên hăng hái xung phong tham gia phục vụ
các chiến dịch, phong trào “Tòng quân giết giặc lập công” phát triển khắp mọi
nơi. Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, tháng 5/1954, quân và dân ta đã làm
nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến
ấy đã xuất hiện nhiều tấm gương tuổi trẻ kiên cường, dũng cảm như: Trần Văn
Ơn, Võ Thị Sáu, La Văn Cầu, Cù Chính Lan, Nguyễn Thị Chiên, Bế Văn Đàn,
Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện… Họ thật xứng đáng đại diện cho một lớp
trẻ“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
6
Ngày 19/10/1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết đổi tên
Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt
Nam. Tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II từ ngày 25/10 đến ngày
4/11/1956, Bác Hồ đã ân cần căn dặn: “Đảng và Chính phủ ta có thể tự hào đã
tạo nên một thế hệ thanh niên dũng cảm như các cháu, và mong các cháu tiếp
tục phấn đấu hăng hái cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nước nhà”. Từ
sau Đại hội, tuổi trẻ miền Bắc đã dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất để
khôi phục kinh tế, cải tạo và xây dựng xã hội mới. Hàng vạn thanh niên tham gia
xây dựng các công trình thủy lợi, khai hoang phục hóa đất đai; hàng triệu thanh
niên hăng hái theo học các lớp bổ túc văn hóa… Ở miền Nam, phong trào đấu
tranh chính trị của thanh niên, học sinh – sinh viên tuy bị đế quốc Mỹ và tay sai
đàn áp dã man song không hề nao núng. Trong những ngày đồng khởi, các
đội “Trung kiên”, “Xung phong” do thanh niên đảm nhận đã được thành lập ở
khắp mọi nơi, tiến hành vây đồn, lấy bốt, trừ gian, phá ấp chiến lược… Tiêu
biểu cho tinh thần ấy là chị Trần Thị Lý, người con gái anh hùng đất Quảng
nhiều lần bị địch bắt, mang trong mình nhiều vết thương nhưng không hề nhụt
chí trước quân thù.
Từ ngày 23 đến ngày 25/3/1961, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ
III được triệu tập tại Hà Nội, Đại hội đã phát động phong trào “Xung phong tình
nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”.
7
Tháng 8/1964, đế quốc Mỹ leo thang gây chiến tranh phá hoại bằng không
quân đối với miền Bắc, tuổi trẻ Thủ đô đã phát động phong trào “Ba sẵn sàng”.
Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đoàn, phong trào đã phát triển sâu
rộng trong cả nước. Ở miền Bắc, hàng triệu ĐVTN đăng ký tham gia phong
trào “Ba sẵn sàng” nêu cao quyết tâm chi viện cho chiến trường miền Nam với
tinh thần“Chưa thắng giặc Mỹ, chưa về quê hương”.
Thanh niên miền Nam hưởng ứng phong trào “Năm xung phong”
Tháng 2/1965, Đại hội Đoàn Thanh niên toàn miền Nam đã phát động
phong trào “Năm xung phong”, sau một thời gian ngắn, có hàng vạn ĐVTN
tham gia phong trào này. Từ phong trào “Ba sẵn sàng” và“Năm xung
phong” đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân với những chiến công xuất sắc
như: Bảy dũng sỹ Điện Ngọc, Quảng Nam anh dũng đánh trả một tiểu đoàn
địch; Tạ Thị Kiều tay không đoạt bốt giặc; Lê Thị Hồng Gấm chiến đấu đến hơi
8
thở cuối cùng không chịu đầu hàng giặc; Dũng sỹ diệt Mỹ – Anh hùng Lê Mã
Lương với lẽ sống “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù”; câu
nói bất hủ của người thợ điện trẻ tuổi Nguyễn Văn Trỗi “Còn giặc Mỹ thì không
có hạnh phúc” đã gây xúc động cho tuổi trẻ và nhân dân tiến bộ khắp 5 châu; lời
hô của Anh hùng liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân“Nhằm thẳng quân thù mà bắn!” đã
trở thành hiệu lệnh thúc giục quân và dân ta xông lên tiêu diệt quân thù.
Hình ảnh:Phong trào đấu tranh phản đối chính quyền tay sai Thiệu – Kỳ của nhân dân,
sinh viên học sinh Đà Nẵng 1966
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đảng, thể theo nguyện vọng của
cán bộ, ĐVTN cả nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra quyết định:
Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam được mang tên Đoàn Thanh niên Lao
động Hồ Chí Minh. Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã làm nên
một đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước thống nhất và đi lên xây dựng
CNXH. Trong chiến thắng vĩ đại ấy, có sự đóng góp to lớn của ĐVTN trên khắp
các mặt trận. Đảng ta, nhân dân ta, Đoàn ta đã giáo dục, rèn luyện một thế hệ
thanh niên Việt Nam vô cùng dũng cảm, thông minh, không sợ gian khổ, hy
sinh, quyết chiến – quyết thắng. Sau ngày thống nhất nước nhà, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IV (1976) đã ra quyết định Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí
Minh mang tên Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
9
Từ ngày 20 đến ngày 22/11/1980, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IV đã
được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hơn nữa
phong trào “Ba xung kích” thành cao trào thi đua hành động cách mạng của tuổi
trẻ thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Vào thời điểm này, hàng triệu lượt ĐVTN tham gia phong trào “Ba xung kích
làm chủ tập thể”; gần 9 triệu ĐVTN tham gia phong trào “Thanh niên xung kích
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “Hành quân theo bước chân những người anh
hùng”; “Hành quân theo chân Bác”
Hình ảnh: Thanh niên tỉnh Bến Tre trao lá cờ Đoàn trước khi lên đường nhập ngũ
Từ ngày 27 đến ngày 30/11/1987, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ V đã
phát động phong trào“Tuổi trẻ xung kích, sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VI diễn ra từ ngày 15 đến 18/10/1992.
Tháng 2 năm 1993, Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa
VI đã quyết định triển khai 2 phong trào lớn là “Thanh niên lập
10
nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”, được đông đảo đoàn viên thanh niên cả nước
hưởng ứng sôi nổi và nhiệt tình.
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII từ ngày 26 đến ngày 29/11/1997 đã
quyết định tiếp tục phát triển và nâng hai phong trào trên lên một tầm cao mới.
Năm 2000, Bộ Chính trị và Chính phủ quyết định là “Năm thanh niên Việt
Nam”. Từ thời điểm này phong trào “Thanh niên tình nguyện” có bước phát
triển mới, đi vào thực tiễn, được đông đảo các cấp bộ Đoàn và ĐVTN tham gia,
tạo nên ấn tượng tốt đẹp về lớp thanh niên Việt Nam của thời kỳ mới. Tổ chức
Đoàn các cấp đã chủ động đề xuất và đảm nhận hàng ngàn chương trình, dự án
kinh tế – xã hội quan trọng. Phong trào thi đua học tập, lao động sáng tạo để
chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức, khoa học công nghệ mới; sinh hoạt chính trị “Tuổi
trẻ Việt Nam tiến bước dưới cờ Đảng”, “Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh”
Với tinh thần “Đoàn kết, sáng tạo, xung kích, tình nguyện”, Đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ VIII từ ngày 08 đến ngày 11/12/2002 đã mở ra một
trang mới trong lịch sử phát triển của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Đại hội đã phát
động phong trào lớn “Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và kêu
gọi tuổi trẻ Việt Nam cùng siết chặt tay dưới lá cờ vinh quang của Đoàn, nguyện
đi theo con đường cách mạng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn,
nắm chắc thời cơ, vượt qua thách thức, góp phần to lớn vào sự nghiệp đổi mới
đất nước. Các cuộc vận động, phong trào mới được triển khai như: “Sáng tạo
trẻ”, “Bốn mới”(kỹ thuật mới, ngành nghề mới, thị trường mới, mô hình
11
mới), “Cán bộ công chức trẻ với cải cách hành chính”, “Học tập tốt, rèn luyện
tốt”, “Trí thức trẻ tình nguyện”… đã góp phần khơi sức thanh niên trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo từ
thực tiễn.
Đặc biệt sinh hoạt chính trị “Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Tiếp
lửa truyền thống – Mãi mãi tuổi hai mươi”, diễn đàn “Tuổi trẻ sống đẹp, sống
có ích”, cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” đã
được các cấp bộ Đoàn, ĐVTN triển khai thực hiện nghiêm túc, có sức lôi cuốn
và lan toả mạnh mẽ, tạo hiệu ứng xã hội sâu rộng góp phần quan trọng nâng cao
nhận thức, bồi đắp lý tưởng cách mạng và niềm tin cho thế hệ trẻ. Năm 2007,
hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” do Đảng ta phát động, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và tuổi trẻ cả nước đã
hưởng ứng tích cực, cụ thể hóa bằng cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập
và làm theo lời Bác”, thu được những thành quả tích cực.
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 17
đến 21/12/2007. Đại hội đã khẳng định: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tiếp tục đổi
mới toàn diện, phấn đấu thực sự trở thành người bạn thân thiết của thanh niên,
định hướng cho thanh niên đến với lý tưởng cách mạng và những giá trị cao đẹp,
đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp, xung kích trong phát triển kinh tế
– xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào, các cuộc vận động và các hoạt động
của Đoàn đều phải hướng tới mục tiêu tập hợp, đoàn kết, giáo dục thanh niên,
tạo môi trường lành mạnh, an toàn cho thanh niên rèn luyện và tự khẳng định, vì
sự tiến bộ của thanh niên và sự phát triển của đất nước.
12
Trong nhiệm kỳ 2007 – 2012, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tập trung triển khai hai
phong trào lớn là “5 xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ
quốc” và “4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”. Hai phong trào
trên vừa phát huy mạnh mẽ tiềm năng của thanh niên, vừa tạo môi trường giáo
dục, rèn luyện cho thanh niên, vì sự phát triển của thanh niên, của cộng đồng và
đất nước; đồng thời góp phần định hướng, bảo vệ, chăm lo lợi ích chính đáng
của thanh niên, khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng của thanh niên, huy động các
nguồn lực xã hội hỗ trợ thanh niên.
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X nhiệm kỳ 2012 – 2017 được tổ chức
từ ngày 11 đến ngày 14 tháng 12 năm 2012 tại Thủ đô Hà Nội đã nêu cao khẩu
hiệu “Tuổi trẻ Việt Nam xây hoài bão lớn, rèn đức, luyện tài, đoàn kết, sáng tạo,
xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội đã quyết định tiếp tục triển
khai 2 phong trào “Xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ
Tổ quốc” và “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” (có điều chỉnh, bổ
sung các nội dung của 02 phong trào để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới) nhằm tiếp tục phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích, tinh thần tình
nguyện, khơi dậy tiềm năng to lớn của thanh niên tham gia thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Đại hội X là Đại hội của khát vọng tuổi trẻ. Những quyết định của Đại hội
thể hiện ý chí và khát vọng cao đẹp của tuổi trẻ Việt Nam được đem tài năng,
sức trẻ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn
minh, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ kính yêu hằng mong
13
ước. Đại hội đặc biệt đề cao tính hành động, thiết thực, hiệu quả trong triển khai
chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi.
Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bài phát biểu quan trọng, khẳng định vai
trò to lớn của tuổi trẻ Việt Nam đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong các thời kỳ cách mạng và trong nhiệm kỳ qua. Tổng Bí thư nhấn
mạnh: “Thanh niên mạnh thì dân tộc mới mạnh” và “Công tác thanh niên là
vấn đề sống còn của dân tộc”.Trong nhiệm kỳ Đại hội, nhiều phong trào lớn của
Đoàn được triển khai mạnh mẽ, thu hút sự tham gia của đông đảo ĐVTN và tạo
được hiệu ứng tốt đẹp trong cộng đồng xã hội như phong trào “Tuổi trẻ chung
tay xây dựng nông thôn mới”, “TN tham gia xây dựng văn minh đô thị”, các
phong trào HS,SV như HS 3 rèn luyện, Khi tôi 18, SV 5 tốt; hay phong trào thi
đua “4 nhất”, “3 trách nhiệm”, “Sáng tạo trẻ”… Phong trào “Thanh niên tình
nguyện” có bước phát triển cả về chất lượng và số lượng với các hoạt động nổi
bật, ý nghĩa như Chiến dịch TNTN hè, Tiếp sức mùa thi, hiến máu nhân đạo, các
hoạt động tình nguyện mùa đông, xuân tình nguyện, các hoạt động tình nguyện
của y, bác sỹ trẻ, đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn… Nhiều chương
trình, cuộc vận động hướng về biển đảo thu hút sự quan tâm, tham gia của tuổi
trẻ cả nước như Hành trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương”, “Đồng hành với ngư
dân trẻ ra khơi”, “Góp đá xây Trường Sa”… với nội dung có nhiều đổi mới,
sáng tạo đã thu hút được đông đảo thanh niên tham gia, được xã hội ghi nhận,
ủng hộ và đánh giá cao.
Với sự đóng góp cho hoạt động chung của Đảng và Đất nước, trong đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XII vừa qua, nhiều các bộ Đoàn đã được tín nhiệm
bầu vào BCH Trung ương Đảng như đồng chí Nguyễn Đắc Vinh – Bí thư thứ
nhất Trung ương Đoàn, đồng chí Lê Quốc Phong – Bí thư Trung ương Đoàn TN
( ủy viên dự khuyết).
14
85 năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Bác Hồ, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các thế hệ thanh niên Việt Nam
đã nối tiếp nhau viết nên những truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước. Đó
là truyền thống yêu nước nồng nàn, trung thành tuyệt đối với Đảng, gắn bó chặt
chẽ với lợi ích dân tộc, với nhân dân và chế độ XHCN; truyền thống xung kích
cách mạng, xung phong tình nguyện, sẵn sàng đón nhận và hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao; truyền thống hiếu học, cần cù, sáng tạo; truyền thống
đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
Tiếp nối truyền thống vẻ vang, tự hào, tuổi trẻ Việt Nam hôm nay nguyện
vững bước dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, với “Tâm trong – Trí sáng –
Hoài bão lớn”, với ngọn lửa cách mạng rực cháy trong tim đang ngày đêm phấn
đấu, đem sức trẻ, nhiệt tình ra sức cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
15
BÀI SỐ 02:
ĐOÀN THANH NIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
THI ĐUA PHẤN ĐẤU, RÈN LUYỆN HƯỚNG TỚI KỈ NIỆM
85 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
Sinh viên Lê Mạnh Dương – K16TCA
Hướng tới kỉ niệm 85 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,
trong năm học 2015 – 2016 Đoàn thanh niên Học viện Ngân hàng đã phấn đấu,
rèn luyện không ngừng và đạt được những thành tích xuất sắc trong công tác
Đoàn và phong trào thanh niên của Học viện.
Đi đầu trong công tác Đoàn là các hoạt động do các câu lạc bộ, đội, các
liên chi Đoàn tổ chức. Ngày 04/10/2015, ngày hội tuyển CTV “UNION DAY”
đã diễn ra, đây là hoạt động thường niên thu hút sự quan tâm của các bạn sinh
viên trong toàn trường, tạo cơ hội cho tân sinh viên có thể tìm kiếm cho mình
một tổ chức phù hợp để sinh hoạt và rèn luyện, cũng như dịp để các đơn vị nâng
cao chất lượng nhân sự phục vụ công tác Đoàn ngày càng phát triển.
Cũng nằm trong chuỗi chương trình Chào mừng tân sinh viên, ngày
16/10/2015, đại nhạc hội Chào tân sinh viên “Live it up” đã diễn ra trong không
khí sôi động và náo nhiệt tại Hội trường lớn Học viện Ngân hàng. Chương trình
với sự dàn dựng công phu và các tiết mục văn nghệ đặc sắc đã thu hút sự quan
tâm của các bạn tân sinh viên,….
Học kì I năm học 2015 – 2016 trọng tâm các hoạt động đoàn thanh niên là
hướng về kỉ niệm 33 năm ngày nhà giáo Việt Nam. Tiêu biểu nhất là hội diễn
văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11. Với nhiều tiết mục được
tập luyện, dàn dựng công phu, đa dạng hình thức và trang phục đẹp, tạo bầu
không khí hào hứng và phấn khởi cho thầy cô giáo cùng các em sinh viên trong
toàn trường.
Bên cạnh đó các cuộc thi về học thuật của các LCĐ, các CLB như: nhà
ngân hàng tương lai, bản lĩnh nhà đầu tư… được đầu tư với quy mô lớn, chất
lượng cao, đem đến những sân chơi lành mạnh, đầy ý nghĩa và bổ ích, giúp sinh
viên tìm hiểu các kiến thức về ngành Tài chính, Ngân hàng, các kỹ năng của
nhân viên ngân hàng hiện đại, giúp cho các sinh viên có thêm nhiều trải nghiệm
16
và cũng là hành trang có thể mang theo cùng các bạn trên con đường tương lai
phía trước.
Các hoạt động tình nguyện quy mô trong và ngoài học viện cũng là điểm
nhấn đưa phong trào Đoàn TN Học viện Ngân hàng năm học 2015 – 2016 lên
một tầm cao mới. Từ hoạt động hỗ trợ thành đoàn như: Hỗ trợ duyệt binh kỉ
niệm 70 năm quốc khánh, hỗ trợ Đại hội Tài năng trẻ toàn quốc lần thứ 2, chào
mừng thành công của Đại hội Đảng lần thứ XII… cho đến các hoạt động tình
nguyện, Đoàn TN cùng các Đoàn viên sinh viên học viện Ngân hàng luôn tham
gia hết sức mình với mong muốn cống hiến vào các hoạt động chung của đất
nước. Ngày 30/10/2015, ngày hội hiến máu toàn trường Pink Storm với sự tham
gia của 2500 cán bộ giảng viên và sinh viên đã thu được 734 đơn vị máu, đem
lại ngàn giọt hy vọng cho sự sống của người bệnh. Không chỉ với hành động
hiến máu cứu người, hàng năm Đoàn TN Học viện Ngân hàng luôn tổ chức các
chương trình tình nguyện cho trẻ em và bà con vùng cao. Với chương trình “
Tình nguyện mùa đông “ chung tay góp sức tạo nên cuộc sống tốt đẹp hơn cho
những trẻ em và gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở huyện Sapa. Hay chương
trình “ Điều ước vùng cao” nhằm đem lại cái tết ấm áp và yêu thương cho các
em nhỏ tại xã Bản Mù, huyện Trạm Tấu,tỉnh Yên Bái. “ Ngày hội Bánh chưng”
đem lại những điều ý nghĩa cho trẻ em khuyết tật tại làng trẻ Hòa Bình.
Bên cạnh các hoạt động phong trào, các hoạt động tình nguyện thì các hội
thảo khoa học, các chương trình phát động sinh viên tham gia nghiên cứu khoa
học, các hội thảo tuyển dụng, hướng nghiệp cũng là mục tiêu quan trọng hàng
đầu của Đoàn TN Học viện Ngân hàng. Nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu
khoa học trong sinh viên, cũng như định hướng, trang bị cho các bạn sinh viên
những điều cần thiết trước trên con đường tương lai. Với các chương trình: Hội
thảo chinh phục nhà tuyển dụng, hội thảo tiếng anh, tọa đàm khoa học, trao đổi
thực tế,…
Trong tháng thanh niên chào mừng Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh 26/3, tại HVNH đã diễn ra hàng loạt các hoạt động nhằm hướng đến chào
mừng kỉ niệm 85 năm thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí và đã thu hút được hàng
nghìn lượt đoàn viên tham gia. Có thể kể đến:
Giải thể thao sinh viên của thành đoàn, trung ương đoàn phát động. Hội
thao của Đoàn TN Học viện Ngân hàng, giải bóng đá của LCĐ khoa Tài chính,
The banking day của LCĐ khoa Ngân hàng đã thể hiện sức trẻ và nhiệt huyết
của Đoàn viên thanh niên Học viện Ngân hàng. Bên cạnh đó là các chương
17
trình, cuộc thi giành cho các bạn sinh viên đam mê về học tập, nghiên cứu khoa
học, như các cuộc thi: A&A Arena - Đấu trường Kế Kiểm 2016, Vòng nguyệt
quế, Tọa đàm con đường hiện thực hóa những ước mơ, chìa khóa thành công,…
Cuối cùng để chào mừng kỉ niệm 85 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh (26/03/1931 – 26/03/2016) Đoàn TN Học viện Ngân hàng sẽ tổ chức
buổi lễ mít tinh vào lúc 19h00 thứ 5 ngày 24/03/2016 tại Hội trường lớn Học
viện Ngân hàng cùng với sự tham gia của lãnh đạo học viện, BCH Đoàn TN, các
LCĐ và các Đoàn viên sinh viên.
18
BÀI SỐ 03:
ĐOÀN THANH NIÊN VỚI MÔ HINH ĐÀO TAO TIN CHỈ
Sinh viên Nguyên Ngọc Hồng Nhung - K18 TCG
Hiện nay và trong thời gian tới, hình thức đào tạo học chế tín chỉ sẽ được
áp dụng rộng rãi tại nhiều trường học và dẫn tới sự thay đổi, biến động trong
tình hình đoàn viên, sinh viên. Đây là phương thức đào tạo tiên tiến, đã được áp
dụng thành công ở rất nhiều trường đại học lớn trên thế giới. Với quy trình đào
tạo có tính chất "mềm dẻo", lấy người học làm trung tâm, phát huy tính chủ
động, sáng tạo của sinh viên, giúp sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi
nhét kiến thức của người dạy, tạo cho sinh viên tính chủ động trong việc lựa
chọn kiến thức để trang bị cho bản thân và lựa chọn tiến trình học phù hợp với
khả năng và năng lực của mình. Tuy nhiên, nó lại đặt ra những thách thức
không nhỏ đối với mô hình tổ chức và hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng.
1. Vai trò của Đoàn thanh niên cộng san (TNCS) Hồ Chí Minh đối với phát
triển phong trào thanh niên tại các trường đại học
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (12/12/2012) đã thông qua Điều lệ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong đó đã khẳng định: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm
những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Khái niệm trên đã phản ánh đầy đủ Đoàn là một tổ chức
TNCS mang tính tiên tiến của giai cấp công nhân và tính quần chúng của thanh
niên Việt Nam, thông qua việc mở rộng các hoạt động có tính chất xã hội mỗi
đoàn viên và tổ chức cơ sở Đoàn thể hiện tính tiên tiến, vai trò nòng cốt của
mình trong các phong trào hoạt động thanh niên.
Bên cạnh đó, “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính
trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể
nhân dân, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ
19
thanh thiếu nhi; tổ chức cho đoàn viên thanh niên tích cực tham gia vào việc
quản lý nhà nước và xã hội”.
Mối quan hệ của Đoan thanh niên trong hệ thống chính trị được thể
hiện rõ ở các nội dung
Thứ nhất, đối với Đảng, Đoàn là đội dự bị tin cậy, là người kế tục trung
thành sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của Đảng, phấn đấu vì mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội tại Việt Nam. Mục tiêu, lý tưởng của Đoàn chính là phấn đấu, thực hiện
thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn.
Thứ hai, trong quan hệ với Nhà nước, Đoàn thanh niên (ĐTN) là chỗ dựa
vững chắc, tham gia đóng góp, xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân dân các cấp;
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đúng chính sách pháp luật của nhà
nước; vận động đoàn viên, thanh niên xung phong, tình nguyện đi đầu trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trực tiếp tham gia có hiệu quả vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, đối với đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đảng trực tiếp
giao cho ĐTN phụ trách, dìu dắt, giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Tại Chương X
Điều lệ Đoàn ghi rõ: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phụ trách Đội Thiến niên tiền
phong Hồ Chí Minh, hướng dẫn thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy và phấn
đấu trở thành đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, người công dân tốt của đất
nước. BCH Đoàn các cấp có trách nhiệm xây dựng tổ chức Đội, lựa chọn, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thiếu nhi, phối hợp với các cơ quan nhà
nước, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế- xã hội, chăm lo, tạo điều kiện về cơ
sở vật chất và tài chính cho hoạt động của Đội”.
Tại các trường Đại học vai trò của ĐTN thể hiện cụ thể như sau
Thứ nhất, tham mưu cho Đảng ủy - Ban Giám đốc trong phát triển toàn
diện sinh viên, Đoàn thanh niên tham mưu chi Đảng ủy –Ban giám đốc phát huy
kĩ năng mềm cho sinh viên. ĐTN là kênh truyền tải toàn bộ quan điểm, định
hướng của lãnh đạo nhà trường đối với sinh viên, yêu cầu của nhà trường đối
với sinh viên được phổ biến, truyền đạt cụ thể và chi tiết .
Thứ hai, tạo lớp kế cận cho tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam tại các
trường đại học. Điều lệ Đảng đã khẳng định: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội
dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh” Thông qua các
hoạt động tổ chức, phát hiện các Đoàn viên ưu tú, mở các lớp cảm tình Đảng
20
cho sinh viên, từ đó lựa chọn ra những Đoàn viên xuất sắc để đứng vào hàng
ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, định hướng chỉ đạo và hỗ trợ hoạt động hội sinh viên.
Đối với sinh viên, ĐTN là nơi giúp sinh viên phát triển toàn diện từ lúc
vào trường tới khi ra trường. Việc đẩy mạnh phong trào đoàn viên là rất quan
trọng vì những lí do sau:
(i) Đoàn trường có vai trò kết nối các đoàn viên nâng cao tính cộng đồng
(ii) Tham gia các hoạt động Đoàn giúp sinh viên phát triển toàn diện. Môi
trường đại học không đơn thuần chỉ để cho sinh viên học tập mà đó còn là nơi
rất tốt để sinh viên hình thành những kĩ năng căn bản trước khi ra trường đi làm
đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng.
(iii) Đoàn trường giúp sinh viên định hướng lập trường tư tưởng, đạo đức
lối sống.
(iv) Giúp sinh viên ưu tú trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Mô hình phát triển phong trào thanh niên và công tác đoàn tại các
trường đại học
(i) Về tổ chức Đoan cơ sở
Xét về truyền thống tổ chức ĐTN tại các trường đại học thường theo cơ
cấu: Đoàn trường - Liên chi đoàn – Chi đoàn tổ chức theo lớp sinh hoạt. Theo
mô hình tổ chức này, các đoàn viên học cùng một lớp niên chế sẽ sinh hoạt trong
cùng một Chi đoàn. Các đơn vị có từ ba chi đoàn trở lên thành lập Liên Chi
đoàn, các trường hợp còn lại không thể thành lập Liên Chi đoàn thì phân chia
các đoàn viên cùng một chuyên ngành đào tạo thành một số Chi đoàn sao cho đủ
ít nhất 03 Chi đoàn để thành lập Liên Chi đoàn theo Điều lệ Đoàn.
(ii) Về tổ chức hoạt động
Hình 1.1: Mô hình tổ chức hoạt động chung tại các trường Đại học
21
Đoàn trường trực tiếp tổ chức những hoạt động giáo dục chính trị tư
tưởng, các hoạt động hỗ trợ học tập, các hoạt động phong trào cho toàn thể đoàn
viên thanh niên; tổ chức phong trào thi đua giữa các Liên Chi đoàn, các ngành
học trong trường, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng uỷ phát triển Đảng viên
mới. Có một số trường đại học tiêu biểu làm rất tốt công tác này như: Đại học
Ngoại thương, Học viện Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân... Công tác đánh
giá ,thi đua phải diễn ra nghiêm túc.
Định hướng phát triển và đẩy mạnh hoạt động các CLB, Đội nhóm, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tham gia hoạt động của đoàn viên thanh niên.
Nhiều Chi đoàn, Liên Chi đoàn tại các trường Đại học đã chủ động trong việc tổ
chức các hoạt động cho đoàn viên thanh niên, đó được xem như tiêu chí quan
trong để đánh giá các Liên Chi đoàn, Chi đoàn.
2.1 Những vấn đề cơ ban về học chế tín chỉ tại các trường Đại học
Cuối tháng 7/2001, Bộ Giáo dục và Đào tạo có quyết định về việc thí
điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ
chính quy theo học chế tín chỉ và áp dụng đầu tiên tại các Trường Đại học Bách
Khoa thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Đà Lạt, Đại học Thăng Long… Quy
trình đào tạo lấy người học làm trung tâm, chương trình đào tạo tín chỉ tạo cho
sinh viên tính chủ động cao trong việc lựa chọn kiến thức để trang bị cho bản
thân và lựa chọn tiến trình học phù hợp khả năng của mỗi người.
2.2 Cơ hội và thách thức đối với phát triển hoạt động đoàn tại các trường
Đại học đào tạo theo học chế tín chỉ
(i) Cơ hội phát triển
Thứ nhất, với đặc điểm tạo sự chủ động, thuận lợi cho người học; phát
huy tính sáng tạo của sinh viên, góp phần tạo lớp sinh viên năng động trong
công tác đoàn đội.
Thứ hai, phương thức đào tạo tín chỉ đòi hỏi tổ chức Đoàn trong trường
đại học, cao đẳng cần đổi mới phương thức triển khai hoạt động, tập hợp thanh
niên, quản lý đoàn viên. Tạo động lực để sáng tạo hoạt động, nâng cao tính kế
hoạch trong xây dựng, triển khai phong trào; tăng cường khả năng tiếp cận với
nhu cầu đa dạng của sinh viên theo điều kiện học tập để tổ chức phong trào.
Thứ ba, sinh viên vẫn được đào tạo theo các khoa, tồn tại Liên chi Đoàn
cơ sở, ít có sự xáo trộn sinh viên giữa các năm học.
Thứ tư, đối với các sinh viên đang theo học tại các trường Đại học đào
tạo theo học chế tín chỉ thì đây là một cơ hội cho sự chủ động về thời gian, cơ
22
cấu thời gian cho bản thân. Vì vậy có rất nhiều thời gian và cơ hội để sắp xếp
học tập và tham gia các hoạt động ngoại khóa, việc tham gia các CLB trong và
ngoài trường, các hoạt động Đoàn, tham gia vào các khóa học kĩ năng cũng rất
thuận lợi.
(ii) Khó khăn va thách thức
Thứ nhất, việc chuyển đổi hoàn toàn sang học chế tín chỉ đã, đang và sẽ
tác động đến các chi đoàn, khi các thành viên không thể gắn bó với nhau do
việc đăng kí tín chỉ.
Thứ hai, việc tập hợp các đoàn viên gặp khó khăn, dẫn đến công tác tổ
chức sinh hoạt Đoàn định kỳ hàng tháng theo Điều lệ Đoàn khó thực hiện.
Thứ ba, cơ cấu chi đoàn theo lớp truyền thống bị phá vỡ, cơ cấu về cấp
bộ Đoàn trong mỗi trường cũng có thể thay đổi, việc thực hiện một số quy định
mang tính nguyên tắc của tổ chức Đoàn gặp khó khăn: sinh hoạt chi đoàn định
kỳ, thông tin triển khai hoạt động, công tác nắm bắt, quản lý, đánh giá chất
lượng của đoàn viên.
Thứ tư, việc theo dõi, đánh giá đoàn viên ở cấp Chi đoàn được thực hiện
sơ sài, nặng tính hình thức. Bởi lẽ các đoàn viên sinh viên không thường xuyên
học cùng nhau nên không hiểu biết nhau, việc đánh giá đoàn viên cuối năm chỉ
đánh giá chung chung, không thực hiện đánh giá, phân loại đoàn viên một cách
nghiêm túc. Hậu quả, triệt tiêu động lực phấn đấu của đoàn viên thanh niên.
Thứ năm, khó khăn cho cán bộ Chi đoàn trong việc tập hợp, huy động
đoàn viên thanh niên tham gia các hoạt động do Đoàn tổ chức. Việc truyền
thông từ Đoàn trường xuống các Chi Đoàn và từng đoàn viên trong Chi đoàn
theo phương pháp truyền thống nên đôi khi không kịp thời.
Thứ sáu, việc sinh viên tốt nghiệp nhiều đợt trong suốt khoá học cũng gây
xáo trộn đến hoạt động Chi đoàn, nhất là khi toàn bộ BCH Chi đoàn tốt nghiệp
sớm, số lượng đoàn viên Chi đoàn theo lớp sinh hoạt năm cuối quá ít, hoạt động
Chi đoàn gặp nhiều khó khăn.
Thứ bảy, cùng với việc chủ động về thời gian học tập, nhiều sinh viên sẽ
lựa chọn thêm những môn học bổ trợ hoặc rút ngắn thời gian khóa học. Tổ chức
Đoàn sẽ gặp khó khăn hơn trong việc thu hút tham gia các hoạt động do đoàn
viên tập trung hoạt động.
2.3 Tổ chức phong trào Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tại các trường Đại học
đào tạo theo học chế tín chỉ
2.3.1. Công tác lập kế hoạch trong phát triển phong trao Đoan TNCS Hồ Chí
23
Minh đao tạo theo học chế tín chỉ
Để phát triển phong trào Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong điều kiện đào
tạo theo học chế tín chỉ thì việc lập kế hoạch để phát triển phong trào là vô cùng
quan trọng. Muốn lập được kế hoạch tốt phải có cơ sở để lập kế hoạch và kinh
phí cho việc thực hiện kế hoạch đó
Thứ nhất, cơ sở lập kế hoạch
Dựa trên những thông tin từ chi Đoàn, Liên Chi đoàn, Đoàn trường tổng
hợp lại kế hoạch từ Liên chi Đoàn kết hợp với sự chỉ đạo từ phía Đảng ủy Ban
giám hiệu nhà trường lập ra kế hoạch hoạt động phù hợp với mong muốn của
sinh viên, của Ban Giám hiệu nhà trường và Trung ương Đoàn. Kế hoạch triển
khai trong năm học.
Thứ hai, dự trù kinh phí lập kế hoạch
Lập kế hoạch là công tác đầu tiên và quan trọng nhất trong việc phát triển
mạnh các hoạt đông Đoàn và phong trào thanh niên trong các trường Đại học.
Khi chuyển sang hình thức đào tạo tín chỉ công tác lập kế hoạch còn gặp nhiều
khó khăn do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ từ phía các cơ quan, phòng ban liên
quan và đặc biệt là sự hỗ trợ nhiệt tình hiệu quả từ phía các chi Đoàn cơ sở.
2.3.2. Công tác tổ chức và các mô hình trong phát triển phong trao Đoan
TNCS Hồ Chí Minh đao tạo theo học chế tín chỉ
(i) Về tổ chức Đoan cơ sở
Xét về lý thuyết mô hình tổ chức Đoàn hiện nay được triển khia theo 3
kênh là Đoàn trường – Liên Chi đoàn tổ chức theo Khoa – Chi đoàn tổ chức
theo lớp sinh hoạt. Trong điều kiện học chế tín chỉ hiện nay việc áp dụng cần
linh hoạt cho phù hợp với thực tế và mong muốn của Đoàn viên sinh viên.
(ii) Về tổ chức sinh hoạt
Thứ nhất, lựa chọn lịch sinh hoạt Chi đoàn hợp lý sao cho số đoàn viên
tham gia là đông nhất.
Thứ hai, ngoài các buổi sinh hoạt định kỳ tổ chức cho đoàn viên trong
Chi đoàn, các đoàn viên có thể tự lập thành các nhóm nhỏ linh hoạt, tổ chức
sinh hoạt thường xuyên hơn.
Thứ ba, để tăng thêm tình đoàn kết gắn bó của các đoàn viên.
(iii) Về tổ chức hoạt động
Thứ nhất, phải thay đổi phương thức, cơ chế hoạt động phù hợp.
Thứ hai, tiếp tục định hướng phát triển và đẩy mạnh hoạt động các CLB,
Đội nhóm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tham gia hoạt động của đoàn viên
24
thanh niên trong trường.
Thứ ba, tăng cường tính chủ động của các Chi đoàn, Liên Chi đoàn trong
việc tổ chức các hoạt động cho đoàn viên thanh niên,đó được xem như tiêu chí
quan trong để đánh giá các Liên Chi đoàn, các Chi đoàn.
Thứ tư, tiếp tục xây dựng kế hoạch hoạt động cho từng năm học.
Thứ năm, triển khai họp giao ban định kỳ giữa Đoàn trường với các Liên
Chi đoàn và các Chi đoàn để triển khai các hoạt động, nắm bắt thông tin phản
hồi từ các Chi đoàn để các hoạt động của Đoàn trường ngày càng thiết thực,
hiệu quả hơn.
Thứ sáu, xây dựng các tiêu chí rõ ràng, dễ định lượng để đánh giá Đoàn
viên và các đơn vị đoàn trực thuộc.
Thứ bảy, tăng cường công tác vận động tài trợ để tạo nguồn tài chính hỗ
trợ các hoạt động của Đoàn trường, tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động bên
ngoài phạm vi Nhà trường.
2.3.3. Công tác lãnh đạo và vai trò thủ lĩnh trong phát triển phong trao Đoan
TNCS Hồ Chí Minh đao tạo theo học chế tín chỉ
Ở bất cứ cơ quan, tổ chức nào công tác lãnh đạo và vai trò của thủ lĩnh
luôn đóng vai trò cực kì quan trọng quyết định sự thành bại của cơ quan tổ chức
đó. Trong đào tạo tín chỉ tính độc lập tự chủ của các cá nhân được nâng cao do
đó vai trò thủ lĩnh của Đoàn cần được thể hiện rõ. Đối với một thủ lĩnh thì cần
phải có các nhiệm vụ và vai trò sau:
(i) Kỹ năng tập hợp Đoan viên
Để có được kĩ năng tập hợp tốt, người lãnh đạo cần có các phẩm chất:
Thứ nhất, có khả năng lập kế hoạch, sử dụng người phù hợp, thuyết phục
tốt, tổ chức triển khai giám sát hiệu quả;
Thứ hai, có khả năng học tập, NCKH tốt. Vì trong môi trường Đại học uy
tín trong học tập là vô cùng quan trọng. Muốn lãnh đạo tốt phải học tốt, tư duy
tốt, suy nghĩ và nhìn nhận vấn đề dưới con mắt của nhà nghiên cứu;
Thứ ba, có kỹ năng về Đoàn, hiểu biết về cách thức tổ chức hoạt động
Đoàn, phương pháp tiếp cận vấn đề của Đoàn viên sinh viên;
Thứ tư, có lập trường chính trị tư tưởng vững vàng và khả năng truyền đạt
lập trường đó tới các Đoàn viên.
(ii) Lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các phong trào phát
triển Đoan TNCS Hồ Chí Minh đao tạo theo học chế tín chỉ;
(iii) Giáo dục, bồi dưỡng nâng cao kiến thức văn hoá, chính trị, chuyên
25
môn nghiệp vụ cho các Đoan viên, phát huy truyền thống yêu nước và ý thức
trách nhiệm của công dân, tinh thần làm chủ, ý thức cần kiệm và tinh thần đoàn
kết, hợp tác, tương trợ, giúp đỡ giữa các Đoàn viên. Đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi nói, viết
và làm trái với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước, những biểu hiện mất dân chủ, gia trưởng, độc đoán, thiếu ý thức tổ chức
kỷ luật; phòng chống sự suy thoái về đạo đức, lối sống của đoàn viên;
(iv) Lãnh đạo về công tác tổ chức, cán bộ, đảm bảo việc tuyển chọn,
quy hoạch, đao tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển,
khen thưởng, kỷ luật và chế độ, chính sách cho các Đoan viên; Xây dựng Chi
Đoan, Liên Chi Đoan trong sạch, vững mạnh; giữ vững nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đoàn, nguyên tắc tập trung dân chủ; không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu và vai trò tiên phong, gương mẫu của tổ chức cơ sở
đoàn và đội ngũ đoàn viên, nhất là việc đấu tranh ngăn ngừa và phòng chống có
hiệu quả các biểu hiện thoái hoá về đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm
trong công việc.
2.3.4. Công tác kiểm soát trong phát triển phong trao Đoan TNCS Hồ Chí
Minh đao tạo theo học chế tín chỉ
Điều 27 Điều lệ Đoàn khẳng định: "Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh
đạo của Đoàn. Tổ chức Đoàn phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ
chức Đoàn, đoàn viên và cán bộ Đoàn chịu sự kiểm tra, giám sát của Đoàn. Các
cấp bộ Đoàn lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức Đoàn và đoàn viên chấp hành Điều lệ Đoàn,
nghị quyết của Đoàn."
(i) Về mục tiêu
+ Xác lập/hỗ trợ thiết lập công cụ quản lý nghiệp vụ đối với tất cả các
hoạt động của từng cá nhân, phòng ban bộ phận trong các tổ chức chi đoàn, liên
chi đoàn
+ Là hướng dẫn, là căn cứ làm cơ sở cho việc xây dựng các tài
liệu phục vụ công tác quản lý điều hành các hoạt động Đoàn.
+ Xây dựng các công cụ để làm căn cứ để tiến hành các thủ tục
kiểm soát, căn cứ đánh giá tính tuân thủ, trung thực, đúng đắn trong quản lý
điều hành hoạt động Đoàn.
(ii) Về nội dung công việc
+ Kiểm tra, đánh giá đa chiều việc tham gia hoạt động của Đoàn
26
viên tại chi Đoàn nơi Đoàn viên sinh hoạt, Liên chi Đoàn và các CLB
phân theo chức năng mà Đoàn viên tham gia.
+ Xây dựng mẫu bảng khảo sát về mức độ tham gia các hoạt động đoàn
thể của sinh viên.
+ Kiểm tra đánh giá hoạt động của chi Đoàn, Liên Chi đoàn.
+ Xác nhận và báo cáo về chất lượng và độ tin cậy của thông tin
hoạt động do các cá nhân, phòng ban, bộ phận và Ban điều hành các chi
Đoàn, liên chi Đoàn báo cáo cho các liên Đội trưởng các chi Đoàn, cho Bí
thư Đoàn các khoa, trường.
+ Xác nhận việc tuân thủ các điều lệ của Đoàn đưa ra.
(iii) Về phương pháp
+ Tổ chức xây dựng, kiểm tra, đánh giá độ tin cậy, hiệu lực và hiệu quả
của các hoạt động đoàn, hệ thống quy trình thực hiện công tác điều hành, tiến
hành hoạt động của các hoạt động.
+ Tiếp nhận, thẩm định tính xác thực, độ tin cậy của các thông tin
trong công tác quản lý điều hành hoạt động.
+ Giám sát tính tuân thủ điều lệ và các quy định nội bộ.
+ Xem xét, quản lýcác sai phạm, rủi ro, đề xuấtcác biện pháp đảm
bảo hoạt động diễn ra tốt đẹp.
+ Kiến nghị giải pháp khắc phục các sai phạm, rủi ro.
(iv) Về giám sát, quản lý chất lượng công tác kiểm soát
Trưởng ban Kiểm soát phải thực hiện:
+ Phân công, chỉ đạo, điều hành công việc của các thành viên Nhóm kiểm
soát;
+ Giám sát tiến độ thực hiện công tác kiểm soát;
+ Xử lý các vấn đề phát sinh và rà soát các công việc trong quá trình kiểm
soát;
+ Tuân thủ kế hoạch công việc và đảm bảo chất lượng theo yêu cầu
của kế hoạch kiểm soát.
2.3.5. Vai trò của công nghệ thông tin trong phát triển phong trào thanh niên
tại các trường đại học đao tạo theo học chế tín chỉ
Việc học tập và rèn luyện theo học chế tín chỉ đã phá vỡ kết cấu lớp và chi
đoàn truyền thống, kéo theo việc tổ chức và tham gia các hoạt động Đoàn và
phong trào thanh niên, các hoạt động trong nhà trường sẽ khó khăn. Cùng
với sự phổ biến của mạng Internet nói riêng và công nghệ thông tin nói chung,
27
nếu áp dụng công nghệ thông tin vào trường học, đặc biệt trong việc quản lý
công tác Đoàn thể và tổ chức phong trào thanh niên:
Công tác truyền thông được cải thiện: Trong bối cảnh học chế tín chỉ,
các cán bộ Đoàn do không có điều kiện thường xuyên tiếp xúc với đoàn
viên trong chi đoàn, từ đó dẫn đến việc những phong trào do Đoàn
trường phát động không được truyền tải cụ thể và chi tiết đến từng
Đoàn viên trong chi Đoàn. Việc áp dụng công nghệ thông tin sẽ giúp
đoàn viên và các tổ chức đoàn trong nhà trường sẽ có được môi trường
thuận lợi để chia sẻ, trao đổi vào bất cứ lúc nào từ đó giải quyết được yếu tố
thông tin kịp thời, rõ ràng.
Triển khai và giám sát các thủ tục đoan vụ: Công tác đoàn vụ nhằm
soạn thảo, tập hợp, xử lý công văn, giấy tờ về Đoàn luôn là một trong
những nghiệp vụ quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động Đoàn nhằm đảm
bảo đúng quy trình, điều lệ của ĐTN. Đối với các hoạt động mang tính chất
quan trọng như bầu cử, đề cử xét khen thưởng, giới thiệu kết nạp Đảng… việc
kiểm soát các đơn vị trong quá trình đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về thủ tục, giấy
tờ theo Điều lệ Đoàn càng trở nên quan trọng. Các ứng dụng công nghệ
thông tin giúp đội ngũ cán sự Đoàn có thể theo dõi chính xác tình hình
thực hiện theo trình tự của các quy trình trong công tác Đoàn đảm bảo
đúng các nguyên tắc và điều lệ của ĐTN.
Thuận tiện trong triển khai sinh hoạt chi đoan: Đặc thù của học chế tín
chỉ là việc sinh viên không học tập theo chi đoàn mà học trải rộng tại nhiều lớp
học phần khác nhau. Từ đó các chi đoàn sẽ không có nhiều thời gian để tổ chức
các cuộc họp hoặc gặp mặt nhằm triển khai công tác Đoàn, đặc biệt
trong các hoạt động cần đến việc trưng cầu ý kiến của các đoàn viên như
bầu cử,biểu quyết… Tính chất kết nối từ mọi địa điểm tại mọi thời điểm của
các ứng dụng qua mạng Internet sẽ giúp từng đoàn viên có thể tham gia
đóng góp ý kiến vào các phong trào chung của đoàn trường, qua đó sẽ
giúp sức lan tỏa của phong trào thanh niên đến đƣợc rộng khắp với từng đoàn
viên trong nhà trường.
Tạo ra các tiện ích bổ trợ cho hoạt động đoan: Bên cạnh việc triển khai
các công tác đoàn truyền thống, công nghệ thông tin sẽ giúp tạo ra các
ứng dụng bổ trợ khác như các trò chơi trực tuyến bổ trợ, các kho tư liệu chia
sẻ bải viết, kinh nghiệm, tài liệu học tập... nhằm giúp đoàn viên sinh viên
có được công cụ tốt hơn trong quá trình học tập và rèn luyện tại nhà
28
trường.
Như vậy, bước đầu khi tiến hành đào tạo sinh viên theo học chế tín chỉ,
công tác Đoàn và phong trào thanh niên trường học sẽ gặp nhiều thuận lợi và
khó khăn nhất định. Nhưng Đoàn thanh niên đã thực hiện tốt vai trò và nhiệm vụ
của mình . Hơn thế nữa với sự uyển chuyển, linh động từ mặt tổ chức cơ sở vật
chất cho đến con người theo hướng vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm,
những lĩnh vực công tác này vẫn và sẽ phát huy tốt vai trò làm cầu nối giữa nội
dung chương trình đào tạo của nhà trường, giảng viên với sinh viên; luôn nỗ lực
tìm các phương thức hiệu quả, hợp lý nhất để khẳng định vai trò của mình trong
sinh viên, từ đó giúp đỡ và định hướng sinh viên chủ động trong học tập, rèn
luyện và nghiên cứu khoa học có kết quả tốt nhất và giúp sinh viên cảm thấy tự
tin, gắn bó hơn với nhà trường.
29
BÀI SỐ 04:
MÔ HÌNH PHONG TRÀO THANH NIÊN
TAI CÁC TRƯỜNG ĐAI HỌC TRÊN THẾ GIỚI
Sinh viên Lưu Ngọc Hà – K18KTK
Ngày nay, trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng phát
triển, thanh niên là lực lượng quan trọng và chủ yếu quyết định đến vận mệnh
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Vì vậy, phong trào thanh niên đóng vai trò vô
cùng lớn tại các trường đại học trên toàn thế giới. Phong trào thanh niên là một
trong những yếu tố tất yếu để hình thành nên tầng lớp thanh niên trẻ vừa có đức
vừa có tài giúp ích cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Chúng ta cùng tìm hiểu
một số mô hình phong trào thanh niên điển hình của các trường đại học danh
tiếng trên thế giới để xem cách họ tạo nên thế hệ công dân trẻ có ích cho toàn
nhân loại.
1. Mô hình phát triển của Học viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ)
Nước Mỹ luôn được coi là điểm đến số một của sinh viên quốc tế muốn
tìm kiếm cơ hội học tập bậc cao tại nước ngoài. Nơi đây có hệ thống giáo dục đa
dạng và năng động hàng đầu thế giới. Theo báo cáo của Viện Giáo dục quốc tế,
hàng năm có khoảng 623.000 sinh viên quốc tế (chiếm 30% số sinh viên quốc tế
trên thế giới) đã đăng ký nhập học tại các trường Đại học Mỹ.
Mỹ đã xây dựng thành công một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất
thế giới với nhiều chương trình xuất sắc trên các lĩnh vực. Bằng tốt nghiệp do
các trường đại học Mỹ cấp được công nhận trên toàn thế giới nhờ vào chất
lượng giảng dạy xuất sắc. Hệ thống giáo dục đại học và sau đại học của Mỹ
mang đến nhiều lựa chọn về khóa học trong một chuyên ngành, cho phép sinh
viên chuyển ngành hoặc theo học chương trình đa ngành. Sinh viên được tự sắp
xếp thời gian biểu học tập và hoàn tất các tín chỉ yêu cầu một cách linh hoạt
trong thời gian quy định.
Bên cạnh giáo dục, các trường đại học Mỹ mang đến nhiều lựa chọn đa
dạng trong các hoạt động văn hóa và thể thao dành cho sinh viên. Bên cạnh các
hội, nhóm và CLB, các trường đại học Mỹ còn thành lập một đội bóng riêng cho
các sinh viên tham gia. Quá trình học tập tại Mỹ sẽ giúp sinh viên phát triển sự
30
tự tin, xây dựng kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng thích nghi và giao tiếp trong
môi trường đa văn hóa. Tất cả những kỹ năng này đều được đánh giá rất cao bởi
các nhà tuyển dụng trên khắp thế giới.
Học viện Công nghệ Massachusetts (Massachusetts Institute of
Technology, MIT) vốn được biết đến là một trong số những ngôi trường tuyển
chọn đầu vào khó nhất thế giới (tỷ lệ chấp nhận tuyển sinh rất thấp, 9%). Hệ
thống đào tạo MIT bao gồm năm trường đại học thành viên (Khoa học; Công
nghệ; Kiến trúc và Kế hoạch; Quản lý và Xã hội Nhân văn) và một trường cao
đẳng (Cao đẳng Y khoa - Công nghệ Whitaker). Theo đánh giá của US News &
World Report và QS World University Rankings, trong suốt 5 năm qua, MIT
luôn nằm trong nhóm 5 trường đại học hàng đầu nước Mỹ (bên cạnh Havard,
Stanford, Yale và Princeton) và là một trong số 10 trường đại học được ưa
chuộng nhất thế giới (sánh ngang Cambridge và Oxford của Anh). Trường đặc
biệt có thế mạnh trong đào tạo khoa học công nghệ, bên cạnh các lĩnh vực khác
như quản lý, kinh tế, ngôn ngữ, khoa học chính trị và triết học. Nhiều cựu sinh
viên và giáo sư của MIT là chính trị gia, doanh nhân, nhà văn, nhà NCKH nổi
tiếng. Tính đến cuối năm 2012, MIT có tổng cộng 77 cựu sinh viên và giáo sư
đạt giải Nobel trên nhiều lĩnh vực.
Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên đại học MIT (MIT Undergraduate
Association),với tư cách là tổ chức chính quyền của sinh viên, hoạt động hướng
tới nâng cao chất lượng giáo dục, đấu tranh và bảo vệ quyền lợi chính đáng của
sinh viên, tăng cường tính gắn kết trong cộng đồng sinh viên, bày tỏ quan điểm
và đại diện cho toàn thể sinh viên MIT trong đàm phán, thỏa thuận và giao kết
với các tổ chức mà những quyết định của họ tác động tới sinh viên, phân bổ hợp
lý và có trách nhiệm mọi nguồn lực của tổ chức thanh niên để tài trợ cho các
chương trình, dự án và sự kiện dành cho sinh viên. Bên cạnh đó, tổ chức thanh
niên cũng hợp tác với chính quyền địa phương trên một số sáng kiến, đưa ra các
giải pháp nhằm hỗ trợ tối đa sinh viên đối với các vấn đề trong cuộc sống. Dưới
đây là một số điểm chính trong hoạt động của Tổ chức thanh niên quản lý sinh
viên MIT:
(i) Cơ chế hoạt động
Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên MIT tham gia giải quyết những vấn
đề khó khăn trong phạm vi nhà trường bằng cách thu thập ý kiến cũng như khai
thác kỹ năng giải quyết vấn đề nhằm tạo ra các giải pháp sáng tạo từ sinh viên.
Từ đó, các điều phối viên trong Hội sẽ trao đổi và chia sẻ các quan điểm do sinh
31
viên đề xuất tới lãnh đạo Học viện, hỗ trợ cho việc ra quyết định. Tổ chức thanh
niên quản lý sinh viên MIT tập trung giải quyết những thách thức hiện hữu ảnh
hưởng đến đại thể sinh viên trong trường, trên mọi khía cạnh từ hoạt động ngoại
khóa đến học tập, cũng như vấn đề phát triển bền vững Học viện (Đề án MIT
2030).
(ii) Thực hiện các dự án, chương trình phục vụ lợi ích sinh viên
Trên thực tế, vẫn còn rất nhiều nhu cầu chính đáng của sinh viên chưa thể
được Ban lãnh đạo Học viện đáp ứng. Khi đã có trong tay một vài ý tưởng giải
pháp đối với vấn đề này, Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên có thể tận dụng
nguồn nhân lực, tài chính cũng như các mối quan hệ của mình để triển khai các
chương trình thường xuyên hay dự án chuyên biệt nhằm đáp ứng một số nhu cầu
của sinh viên.
(iii) Tổ chức các sự kiện xã hội
Học viện MIT sẽ không thể phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành
tựu lớn lao như ngày hôm nay nếu không có sự ủng hộ, giúp sức từ cộng đồng
sinh viên MIT cũng như những cơ hội tiếp xúc, trao đổi ý tưởng với từng sinh
viên trong một lớp nhỏ hay một cộng đồng sinh viên. Hội sinh viên MIT thường
xuyên tổ chức các sự kiện có quy mô với những chủ đề khác nhau, mỗi sự kiện
được kỳ vọng sẽ mang lại cho sinh viên cơ hội giao lưu, mở rộng các mối quan
hệ, được vui chơi giải trí sau những giờ học tập căng thẳng, và đặc biệt, đó còn
là những khoảnh khắc, những kỷ niệm đáng nhớ đối với sinh viên trong quãng
thời gian gắn bó với MIT.
Bộ phận ban hành văn bản quản lý bầu ra các vị trí chủ chốt trong Bộ
phận thực hiện và các Chuyên ban, đồng thời chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên trước các sinh viên. Là cơ quan đại
diện cao nhất của tổ chức, Bộ phận ban hành văn bản quản lý có trách nhiệm thu
thập mọi ý kiến từ sinh viên, từ đó đưa ra các quyết định về các vấn đề trong
phạm vi Học viện. Bộ phận ban hành văn bản quản lý thực hiện những nỗ lực
nhằm bảo vệ quyền lợi sinh viên, thúc đẩy hợp tác và giao thiệp giữa các nhóm
cộng đồng sinh viên. Bộ phận ban hành văn bản quản lý họp định kỳ nửa tháng
một lần, thay mặt và đại diện cho Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên tại các
diễn đàn thảo luận.
Bộ phận thực hiện quản lý việc thực thi các văn bản pháp lý (Governing
Documents) trong phạm vi toàn Học viện. Đứng đầu Bộ phận thực hiện là Chủ
tịch Chính ủy, hỗ trợ Chủ tịch là Phó Chủ tịch, Trưởng ban Điều hành, Trưởng
32
ban Tài chính, Tổng thư ký và các Hội khóa. Chủ tịch Chính ủy giữ vai trò lãnh
đạo tối cao, đồng thời là phát ngôn viên của Tổ chức thanh niên quản lý sinh
viên MIT, có trách nhiệm thực thi mọi quyết định được tổ chức ban hành. Các
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ phận thực hiện được chia thành các
Chuyên ban (Committees), bao gồm: Hoạt động sinh viên (ASA); Ban Thể thao;
Ban Lãnh đạo chính sách (CPL); Ban Giáo dục; Ban Bầu cử; Ban Sự kiện; Ban
Tài chính; Ban An sinh; Ban Đề án MIT 2030; Ban Chuyển giao thế hệ (MITx);
Ban Đề cử; Ban Quan hệ công chúng; Ban Dự án đặc biệt; Ban Phúc lợi sinh
viên; Ban hệ thống thông tin và Ban Phát triển bền vững. Đứng đầu mỗi Chuyên
ban là Chủ nhiệm Chuyên ban, tham mưu và hỗ trợ cho Chủ nhiệm là các Phó
Chủ nhiệm. Trong quá trình tổ chức các sự kiện tầm cỡ, các Chuyên ban được
khuyến khích hợp tác cùng nhau, đồng thời họ vẫn có thể nhận được những lời
tư vấn, tham mưu từ các cán bộ chuyên trách giàu kinh nghiệm của Học viện.
Tóm lại, mọi hoạt động, phong trào của sinh viên MIT đều sẽ được tổ chức quản
lý theo mô hình phân nhiệm giữa các Chuyên ban - mỗi Chuyên ban có thể triển
khai hoạt động độc lập hoặc kết hợp cùng một số Chuyên ban khác. Dựa trên
các bản kế hoạch chi tiết tổ chức sự kiện của các Chuyên ban, trong vòng 15
ngày, Chủ tịch Bộ phận thực hiện và nhóm cộng sự sẽ xem xét thận trọng, đánh
giá sự phù hợp và tính logic của các chuỗi sự kiện, từ đó quyết định Chương
trình hành động tổng thể dành cho cộng đồng sinh viên MIT cho năm học mới.
Mục đích hoạt động của Bộ phận giám sát nhằm giải thích nội dung Điều
lệ hoạt động và các văn bản pháp lý của Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên
trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các cơ quan trực thuộc hoặc các thành
viên của tổ chức. Bên cạnh đó, Bộ phận giám sát cũng sẽ xem xét khiếu nại từ
các thành viên tổ chức liên quan đến hoạt động Bộ phận thực hiện và giải quyết
tình hình. Tính đến cuối năm 2012, MIT có tổng cộng hơn 380 nhóm hoạt động
sinh viên, trong đó bao gồm một kênh phát thanh radio, một tờ báo công nghệ
sinh viên và Ủy ban quản lý chuỗi sự kiện (Lecture Series Committee, LSC -
đơn vị chuyên tổ chức cuộc thi Khởi nghiệp và chương trình chiếu phim hàng
tuần miễn phí dành cho sinh viên). So với các trường đại học khác ở Mỹ, MIT tổ
chức tương đối ít các sự kiện chính thống; tuy nhiên, xét về các sự kiện không
chính thống, Học viện đã tạo ra được một bản sắc văn hóa rất riêng. Các sự kiện
tầm cỡ tại MIT không có nhiều (hàng năm, trường chỉ tổ chức long trọng hai
hoạt động lớn là Lễ Khai giảng và Lễ Tốt nghiệp); song, các sự kiện với quy mô
nhỏ hơn, được phân cấp đảm nhiệm bởi các Chuyên ban, các nhóm hoạt động
33
hay Ban tổ chức lâm thời của Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên, diễn ra khá
thường xuyên trong các năm học, hướng tới tình đoàn kết và những lợi ích
chung trong cộng đồng sinh viên MIT.
Nét đặc sắc nhất trong mô hình hoạt động của Bộ phận quản lý phong trào
sinh viên của MIT chính là Tam quyền phân lập. Sự rõ ràng trong quyền hành và
nhiệm vụ của các ban hạn chế được sự lạm quyền, theo đó sẽ không có cá nhân
hay bộ phận nào nắm được quyền quyết định tuyệt đối các hoạt động của tổ
chức. Bên cạnh đó mọi hoạt động, phong trào của sinh viên MIT đều sẽ được tổ
chức quản lý theo mô hình phân nhiệm giữa các Chuyên ban - mỗi Chuyên ban
có thể triển khai hoạt động độc lập hoặc kết hợp cùng một số Chuyên ban khác.
Căn cứ vào những hoạt động trên ta có thể thấy công tác lập kế hoạch rất
được chú trọng, theo đó Chương trình hành động tổng thể dành cho cộng đồng
sinh viên MIT cho năm học mới phải có bản kế hoạch chi tiết trước 6 tháng khi
năm học bắt đầu. Sự trau chuốt từ công tác lập kế hoạch tới việc tổ chức triển
khai thực hiện giám sát chính là điều tạo nên sự thành công trong công tác quản
lý và phát triển phong trào sinh viên tại trường MIT.
2. Mô hình phát triển của Đại học Ritsumeikan (Nhật Ban)
Nhật Bản không chỉ được biết đến là một cường quốc kinh tế hàng đầu,
đây còn là quốc gia có hệ thống giáo dục rất đa dạng và chất lượng. Một trong
những điểm nhấn trong mô hình giáo dục của Nhật Bản là việc đẩy mạnh sự
tương tác giữa nhà trường và người học thông qua các tổ chức trung gian, đặc
biệt là Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên. Tổ chức này được coi là cầu nối
giữa nhà trường và người học; vừa hỗ trợ công tác quản lý, truyền đạt những
chính sách, chỉ đạo tới sinh viên; vừa là đại diện đưa ra tiếng nói, nguyện vọng
của người học tới nhà trường. Với quan điểm trên, Nhât Bản đã mạnh dạn áp
dụng mô hình Tổ chức thanh niên quản lý từ ngay các trường học từ cấp tiểu
học, trung học khiến cho sinh viên Nhật ngay từ rất sớm đã có ý thức trong việc
tự quản lý lẫn nhau và trách nhiệm chung với cộng đồng.
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, nhóm nghiên cứu sẽ đi sâu vào tìm hiểu
mô hình tổ chức, hoạt động Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên của Đại học
Ritsumeikan Châu Á Thái Bình Dương (APU). APU được đánh giá là một trong
những trường đại học hiện đại nhất tại Nhật Bản. Điểm đặc biệt của ngôi trường
này là sự đa dạng về sắc tộc của không chỉ sinh viên mà cả đội ngũ giáo viên
giảng dạy tại trường. Tại APU, bạn có thể giao tiếp với sinh viên đến từ 84 quốc
34
gia và vùng lãnh thổ, chiếm tới phân nửa tổng số 5.734 sinh viên (nửa còn lại là
sinh viên Nhật Bản).
Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên APU
Một điểm khác biệt đối với Việt Nam, tại APU, họ không chỉ tạo điều
kiện để gắn kết các sinh viên đang theo học ở trường mà họ còn hướng tới một
mối liên kết lâu dài giữa các sinh viên với nhau, kể cả sau khi ra trường. Vì vậy,
một tổ chức đã được ra đời dung hòa được cả hai mục tiêu trên, đó chính là Tổ
chức thanh niên quản lý sinh viên và cựu sinh viên APU (được thành lập tháng
3/2003).
Về tôn chỉ hoạt động
Tổ chức hoạt động với tôn chỉ nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển của
tổ chức, đồng thời “kết nối sinh viên đã tốt nghiệp và sinh viên đang theo học
trên toàn thế giới thành một khối thống nhất”.
Về chức năng của tổ chức
Với mục tiêu hoạt động được đề ra, hội đã cụ thể hóa thành các chức năng
cụ thể được nêu trong điều lệ hoạt động của tổ chức, gồm:
- Tạo điều kiện cho các dự án, sáng kiến nhằm phát triển phong trào sinh
viên;
- Thúc đẩy, tăng cường gắn kết các thành viên, hướng tới phát triển tổ
chức;
- Thu thập và quản lý thông tin các thành viên, phục vụ cho hoạt động tổ
chức;
- Là cầu nối cho các dự án tài trợ cho sự phát triển của APU;
- Phối hợp với Đại học Ritsumeikan và các học sinh, hội học sinh ở đó;
- Thực hiện các hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu mà hội đề ra.
Về thành viên
Do tính đặc thù của tổ chức nên thành viên của Tổ chức thanh niên quản
lý sinh viên được mở rộng ra nhiều đối tượng ngoài sinh viên để phục vụ tốt
nhất cho mục tiêu hoạt động của mình. Theo điều 5 điều lệ hoạt đông của tổ
chức, thì các thành viên được chia làm 4 đối tượng chính sau:
- Thành viên: Các cựu học sinh đã tốt nghiệp của APU;
- Cộng tác viên: Thường là các sinh viên đang theo học tại APU hoặc là
các sinh viên đã có hồ sơ nhập học vào APU;
- Giảng viên và nhân viên
35
- Thành viên đề cử: là những thành viên có thành tích, có những đóng góp
lớn cho hoạt động của hội. Thành viên sẽ phải nộp phí hàng năm, thành viên nào
không nộp sẽ không được hưởng các tiện ích của tổ chức.
Về Ban chấp hành (BCH)
Do tính đặc thù phải hoạt động trên phạm vi rộng nên cơ cấu BCH của
Hội cũng gần tương tự như đối với một công ty cổ phần:
- Chủ tịch (1 người): chịu trách nhiệm điều hành chung hoạt động cho các
bộ phận, chi nhánh của Hội;
- Phó Chủ tịch (1 người): hỗ trợ công việc cho chủ tịch;
- Ban Quản trị (gồm 5 Giám đốc đảm nhiệm các mảng chức năng khác
nhau): phân công nhiệm vụ cho từng mảng, từng cá nhân thực hiện;
- Các lãnh đạo khu vực: phụ trách khu vực mà mình hoạt động;
- Kiểm toán viên: tiến hành kiểm toán các hoạt động tài chính của Hội;
- Ban thư ký: chịu trách nhiệm về các công việc văn phòng, giấy tờ, thủ
tục cho Hội;
- Chủ tịch danh dự (thường là Hiệu trưởng của APU): cố vấn cao cấp của
Hội. Mỗi BCH chỉ được hoạt động tối đa hai nhiệm kỳ. Kết thúc nhiệm kỳ, một
cuộc bỏ phiếu độc lập sẽ được tiến hành nhằm bầu ra tân Chủ nhiệm và Ban
điều hành mới.
Hoạt động của Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên và cựu sinh viên
APU
(i) Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
Nhật Bản với lợi thế là một nước có ngành khoa học công nghệ rất phát
triển, chính vì vâỵ, bên cạnh các phương thức hoạt động truyền thống, Tổ chức
thanh niên quản lý sinh viên của APU đã ứng dụng tối đa những tiến bộ về công
nghệ thông tin trong hoạt động của mình.
(ii) Phát triển phong trào CLB
Tạo sự hỗ trợ tối đa thông qua Văn phòng Tổ chức thanh niên quản lý
sinh viên. Theo đó, Văn phòng này hỗ trợ các CLB sinh viên theo nhiều cách
khác nhau, bao gồm cả chỉ đạo các CLB. Sinh viên muốn có một CLB mới điều
lệ phải nộp các tài liệu phù hợp với CLB và điều phối viên tổ chức trong Văn
phòng Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên.
Văn phòng cũng hỗ trợ các CLB trong nhiều vấn đề như:
- Đưa ra phương hướng, gợi ý các ý tưởng cho các sự kiện
36
- Cho phép CLB tiến hành truyền thông, quảng cáo trong khuôn viên
trường
- Hỗ trợ hoàn thiện sơ bộ các vấn đề trong kế hoạch tổ chức
- Tạo thuận lợi để các CLB hoàn thành các thủ tục theo quy định của
trường
- Thúc đẩy vai trò lãnh đạo và phát triển tổ chức
- Tìm kiếm các nguồn tài trợ
Mỗi học kỳ, Văn phòng Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên tiến hành tổ
chức các tuần lễ CLB trong khuôn viên trường, đồng thời hỗ trợ kinh phí, tạo
điều kiện cho các CLB có thể tiến hành tuyển thành viên. Không những thế, dựa
vào các kế hoạch, quy mô tổ chức các chương trình cụ thể (đặc biệt là các
chương trình phục vụ số lượng lớn sinh viên), Văn phòng Tổ chức thanh niên
quản lý sinh viên sẽ tiến hành xem xét để tài trợ một phần kinh phí cho các
CLB.
(iii) Đa dạng hóa loại hình CLB
Các CLB được hình thành phần lớn xuất phát từ nhu cầu của những sinh
viên có đam mê, sở thích giống nhau, muốn có môi trường để trao đổi, gặp gỡ.
Chính vì vậy, hình thức của các CLB tại trường là rất đa dạng. Nắm bắt được xu
hướng này, nhà trường cũng đã tạo điều kiện tối đa để các CLB đi vào hoạt
động, chủ yếu với mảng chính: CLB xã hội, CLB dịch vụ, CLB chuyên môn,
CLB thể thao.
Hỗ trợ sinh viên quốc tế
Như đã trình bày ở trên, APU là một trường đại học quốc tế đa sắc tộc với
số lượng lớn sinh viên không phải là người Nhật. Do đó, Nhà trường cũng đã có
những biện pháp để xử lý tính đặc thù này, giúp sinh viên quốc tế nhanh chóng
làm quen với cuộc sống tại Nhật, tập trung vào học tập và nghiên cứu.
(iv) Chương trình giáo dục song ngữ
Hệ thống giáo dục song ngữ tại APU cho phép sinh viên nhập học mà
không đòi hỏi khả năng tiếng Nhật. Đối với sinh viên quốc tế theo học bằng
tiếng Anh, tiếng Nhật được dạy như một môn ngoại ngữ bắt buộc để đảm bảo
cho sinh viên có đủ khả năng tiếng Nhật phục vụ cho cuộc sống và công việc
sau này.
(v) Hỗ trợ thành lập Hội cha mẹ học sinh cho từng quốc gia
Kể từ khi ra đời, APU tiến hành thành lập hiệp hội của cha mẹ trên khắp
Nhật Bản và trên thế giới. Các hiệp hội này thực hiện một loạt các sáng kiến để
37
đáp ứng nhu cầu của từng hiệp hội, bao gồm hỗ trợ sinh viên, hỗ trợ tìm việc, và
giao lưu xã hội để thúc đẩy sự tương tác giữa các thành viên và có cái nhìn cụ
thể hơn về APU. Hội cha mẹ hiện nay đã được thành lập tại các nước Hàn Quốc,
Indonesia, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và
Việt Nam. Thành viên Hội đồng quản trị APU và phụ huynh gặp gỡ, trao đổi
những suy nghĩ và ý kiến của họ, sự kết nối của các bậc cha mẹ và người giám
hộ trên toàn thế giới góp phần hỗ trợ cho APU trong việc quản lý sinh viên,
đồng thời cũng làm tăng sự quảng bá của trường tới nhiều nước trên thế giới, thu
hút thêm nhiều học sinh quốc tế theo học.
(vi) Thành lập các Tổ chức đa sắc tộc
Một điểm đáng lưu ý nữa, có khá nhiều tổ chức thuộc các sắc tộc khác
nhau được thành lập tại trường. Đây là một hướng đi khá hay giúp các sinh viên
quốc tế làm quen với cuộc sống mới khi cùng sinh hoạt với những người bạn
khác cũng có hoàn cảnh tương tự.
Trên đây là phần nghiên cứu mô hình phát triển phong trào thanh niên
trong điều kiện đào tạo theo học chế tín chỉ tại các trường Đại học danh tiếng
hàng đầu trên thế giới. Dù là trường đại hộc ở phương Tây hay phương Đông thì
sinh viên đều được thể hiện tiếng nói của mình thông qua một tổ chức được gọi
là Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên. Tổ chức này không chỉ là nơi hỗ trợ
việc học mà còn là nơi đấu tranh và bảo vệ quyền lợi chính đáng của sinh viên,
tăng cường tính gắn kết trong cộng đồng sinh viên. Thành viên không chỉ là sinh
viên trong trường mà còn có rất nhiều cựu sinh viên đã tốt nghiệp đang làm việc
tại các cơ quan tổ chức khác nhau. Việc gắn kết giữa các thế hệ sinh viên tạo cơ
hội cho sinh viên đang theo học được giao lưu học hỏi kinh nghiệm học tập, làm
việc từ các anh chị khóa trên. Bên cạnh đó với việc phân quyền và trách nhiệm
rõ ràng giữa các ban, các bộ phận trong tổ chức tạo ra sự “chuyên môn hóa”
trong việc xử lý từ khâu lên kế hoạch, triển khai đến giám sát hoạt động, nâng
cao hiệu quả công việc. Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên tại các trường Đại
học này thường tổ chức buổi họp tranh luận giữa các sinh viên hàng tuần làm
giúp triển khai hiệu quả các hoạt động đã và đang diễn ra trong trường. Thường
xuyên tổ chức các hoạt động thiết thực, liên quan đến quyền lợi của sinh viên là
lí do mà Tổ chức thanh niên quản lý sinh viên tại các trường trên phát triển
mạnh mẽ, nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ các sinh viên.
3. Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học tại Việt Nam
38
Từ việc nghiên cứu mô hình phát triển tiên tiến tại hai trường đại học
hàng đầu thế giới là Học viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ) và Đại học
Ritsumeikan (Nhật Bản), đề tài rút ra một số bài học kinh nghiệm dành cho các
trường đại học - cao đẳng Việt Nam về phát triển phong trào thanh niên trong
bối cảnh đào tạo theo học chế tín chỉ:
Thứ nhất, Đoàn thanh niên cần thực hiện cân đối và có hiệu quả hai vai
trò của mình: (i) giám sát hoạt động học tập, phát triển của sinh viên theo đường
lối của Đảng và chủ trương của Nhà nước; (ii) đại diện cho tiếng nói của sinh
viên. Nhìn từ kinh nghiệm hoạt động của các trường trên thế giới, có thể thấy
rằng các tổ chức thanh niên quản lý sinh viên trường nào càng thể hiện tốt ý chí,
nguyện vọng của sinh viên, tổ chức thanh niên trường đó càng thu hút đông đảo
sự tham gia và ủng hộ từ sinh viên. Do đó, việc thực hiện tốt vai trò thứ hai sẽ
giúp sinh viên tình nguyện tham gia nhiều hơn vào các hoạt động của hội và nhờ
đó mà chức năng giám sát cũng được thực hiện tốt hơn.
Thứ hai, tổ chức thanh niên tại các trường đại học cần được công nhận
nhiều quyền lợi hơn, trong đó: những hoạt động liên quan trực tiếp đến sinh viên
như giám sát chấp hành nội quy, giải đáp các thắc mắc của sinh viên, điều tiết
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, hoạt động của CLB, hội nhóm... đều
do tổ chức thanh niên quản lý; Nhà trường chỉ đóng vai trò tư vấn và hỗ trợ
trong các hoạt động sinh viên. Khi được công nhận nhiều quyền lợi hơn, tổ chức
thanh niên cần thiết được chia ra làm các Chuyên ban phụ trách các mảng cụ
thể.
Thứ ba, tổ chức thanh niên cần phải thường xuyên giữ liên lạc và phát
triển mối quan hệ bền chặt với cựu sinh viên trường và các công ty đối tác.
Thực trạng hiện nay là những sinh viên năm cuối thường xao nhãng hơn đối với
hoạt động của trường, trong khi nhiều sinh viên khác lại cảm thấy việc tham gia
vào tổ chức thanh niên không có nhiều ý nghĩa. Vấn đề này có thể giải quyết
bằng việc thường xuyên tổ chức các buổi hướng nghiệp, tư vấn, giao lưu giữa
sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường với các cựu sinh viên và nhà tuyển dụng
hay tìm nguồn việc làm từ các công ty có uy tín, môi trường làm việc năng
động, chuyên nghiệp, phù hợp với điều kiện và thời gian học tập của sinh viên.
Thứ tư, cần phát triển mạnh mẽ hơn nữa hoạt động của các CLB, hội
nhóm sinh viên trên tất cả các lĩnh vực: thể thao, tình nguyện, văn hóa, văn
nghệ, truyền thông, phát triển sinh viên... Kinh nghiệm phát triển từ các trường
đại học quốc tế đã chỉ ra rằng:đối với mỗi mảng nội dung lớn, trường đại học đó
39
thường phân nhiệm cho nhiều CLB khác nhau, mỗi CLB sẽ phụ trách một lĩnh
vực cụ thể. Quá trình "phân công lao động" như trên sẽ mang lại hiệu quả phong
trào cao hơn. Nâng cao sự cạnh tranh giữa các CLB cũng đồng nghĩa nâng cao
chất lượng hoạt động CLB: Để có thể tồn tại và phát triển bền vững, các CLB
luôn phải cố gắng, nỗ lực nhằm tổ chức được thêm nhiều chương trình thiết thực
và có ích đối với cộng đồng sinh viên, bên cạnh việc phối hợp tổ chức sự kiện
với các CLB khác. Qua mỗi chương trình, kỹ năng tổ chức và hòa nhập của sinh
viên được cải thiện đáng kể, đặc biệt là những sinh viên năng động, trực tiếp
tham gia vào quá trình tổ chức. Đoàn thanh niên cũng cần định hướng, hỗ trợ
các CLB về mặt chuyên môn, kinh phí... đồng thời đảm bảo phân bổ thời gian
sao cho các chương trình diễn ra một cách phù hợp nhất. Làm được như vậy, có
thể kỳ vọng sinh viên sẽ tham gia các hoạt động, phong trào thường xuyên và
tích cực hơn.
Cuối cùng, để phong trào Đoàn phát triển mạnh mẽ, Đoàn trường phải
thực sự là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của sinh viên, là nơi gắn kết giữa sinh
viên với các cựu sinh viên trường cũng như với các công ty đối tác. Sự phân
chia thành các chuyên ban phụ trách các mảng cụ thể sẽ nâng cao hiệu quả hoạt
động của Đoàn. Những bài học trên là tiền đề quan trọng trong việc hoàn thiện
mô hình phát triển hoạt động Đoàn và phong trào thanh niên tại các trường Đại
học và Cao đẳng tại Việt Nam.
40
BÀI SỐ 05:
ẢNH HƯỞNG CỦA TÂM LÝ NHÀ ĐẦU TƯ
TỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Nguyên Thảo Quỳnh Trang – K16NHC
Ngô Phương Anh - K16NHC
Thị trường chứng khoán đang dần phát triển và đóng một vai trò quan
trọng trong việc huy động vốn trung và dài hạn, góp phần thúc đẩy quá trình tái
cấu trúc nền kinh Việt Nam. Trên thị trường chứng khoán, nhân tố tâm lý ảnh
hưởng trực tiếp tới các quyết định và hành vi giao dịch của nhà đầu tư. Tâm lý
bầy đàn xuất hiện ở hầu hết các thị trường mới nổi thậm chí ngay cả ở các thị
trường phát triển thì vẫn có những giai đoạn tồn tại tâm lý bầy đàn. Các nhà
đầu tư có thể tham gia mua và bán cổ phiếu với khối lượng và tần suất lớn, tạo
ra những bong bóng kinh tế và làm sụp đổ thị trường chứng khoán.
Bài viết của nhóm nghiên cứu sẽ tập trung phân tích ảnh hưởng của tâm
lý nhà đầu tư đến thị trường chứng khoán và đưa ra một số giải pháp nhằm ổn
định tâm lý nhà đầu tư và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Theo Sở GDCK Tp.HCM, thị trường chứng khoán đã và đang trở thành
kênh dẫn vốn trung và dài hạn ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, góp phần
tích cực vào tái cơ cấu và đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, qua
đó thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Quy mô và phạm vi của thị trường
đang từng ngày lớn mạnh, đến nay đã có gần 700 doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán và 147 doanh nghiệp đăng ký giao dịch trên UPCom, tăng
140 lần so với năm 2000.
1.1. Những thay đổi của các chỉ số trên thị trường chứng khoán
Trong năm 2013, VN-Index được liệt kê là một trong 10 chỉ số có tốc độ
tăng trưởng mạnh nhất thế giới. Mức tăng lần lượt của VN-Index và HNX-Index
trong năm 2013 là 21,97% và 18,83%. VN-Index kết thúc phiên giao dịch cuối
cùng của năm 2013 ở mức 504,63 điểm, HNX-Index chốt năm 2013 ở mức
67,84 điểm. Sự gia tăng của các chỉ số này đã đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10
nước có mức độ phục hồi mạnh nhất thế giới.
41
Hình 1.1.1. Tác động của tâm lý nha đầu tư trước những thông tin lên TTCK
Nguồn: cafef.vn
Mức vốn hoá thị trường năm 2013 là 949.000 tỷ đồng (tăng 184.000 tỷ
đồng so với cuối năm 2012), tương đương mức 31% GDP. Trong khi đó, khối
lượng giao dịch bình quân 1 phiên của năm 2013 là 107.630.000 cổ phiếu, giá trị
giao dịch bình quân trên hai sàn đạt 1.380 tỷ đồng/phiên, tăng 6% so với năm
2012. Đồng thời, giá trị giao dịch bình quân trái phiếu Chính phủ là 1.257 tỷ
đồng/phiên (tăng 90% năm 2012). Mức huy động vốn qua kênh đấu thầu trái
phiếu Chính phủ năm 2013 là 194.800 tỷ đồng, tăng 10% so với năm trước và
đạt mức tăng trưởng cao nhất khu vực. Huy động vốn qua cổ phiếu và cổ phần
hóa là 17,5 nghìn tỷ đồng, tăng 5% so với năm 2012. Quy mô huy động vốn qua
phát hành riêng lẻ cũng tăng mạnh, đạt khoảng trên 24 nghìn tỷ đồng (gấp 5 lần
so với cả năm 2012).
Khối ngoại mua ròng gần 7.667 tỷ đồng trên thị trường chứng khoán Việt
Nam (365 triệu USD), trong đó mua ròng gần 6.330 tỷ trên sàn HoSE và 1.337
tỷ đồng trên sàn Hà Nội, tổng khối lượng cổ phiếu mua vào hơn 220 triệu cổ
phiếu, tương đương hơn 300 triệu USD.
42
Hình 1.1.2. Dòng vốn nước ngoai đổ vao các nước Đông Nam Á kể từ năm
2007
Nguồn: cafef.vn
Điều này nhờ hai quỹ ETF đặc biệt là quỹ Market Vector liên tục huy
động được vốn mới trong năm 2013. Một điểm khác biệt so với các năm trước là
năm nay TTCK Việt Nam đón dòng vốn từ các quỹ đầu tư vào cổ phiếu midcap
như Mutual Elite Fund hay Asia Small Cap Fund. Asia Frontier Capital thành
lập quỹ mở 50 triệu USD đầu tư vào TTCK Việt Nam. Tổng dòng vốn nước
ngoài luân chuyển trong năm 2013 vẫn tăng 54% và giá trị danh mục tăng
khoảng3,8 tỷ USD so với cuối năm 2012. Số lượng tài khoản nhà đầu tư đạt
khoảng 1,27 triệu tài khoản, trong đó số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài
tăng 55%.
1.2. Các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán
Dựa trên cơ sở báo cáo tỷ lệ vốn khả dụng của các công ty chứng khoán,
UBCK đã phân loại các công ty chứng khoán thành 4 nhóm, trong đó 79 CTCK
hoạt động lành mạnh, 8 CTCK hoạt động bình thường, 5 CTCK bị kiểm soát và
9 CTCK bị kiểm soát đặc biệt. Hiện có 15 CTCK không còn hoạt động.
43
Hình 1.2. Tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán
Nguồn:cafef.vn
Năm 2013, 4 CTCK thông qua việc giải thể là Sao Việt, Chợ Lớn, Âu
Việt và Sen Vàng trong đó duy nhất SVS đã được UBCK chính thức cấp giấy
chấp thuận giải thể theo Luật Doanh nghiệp. Cổ phiếu của 4 CTCK Sao Việt,
SBS, GBS, Tràng An đều bị hủy niêm yết trên hai Sở giao dịch. Hai công ty
GBS, SME bị UBCK yêu cầu tạm ngừng hoạt động, 3 công ty Delta, Hà Nội,
Trường Sơn bị chấm dứt hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên việc MBS hợp nhất
VITS là trường hợp đầu tiên trong lịch sử mà hai công ti chứng khoán hợp nhất
thành công, SBS đã nâng tỷ lệ an toàn vốn lên trên 180%. Số công ty chứng
khoán lỗ trong năm 2013 là 63% (58/94 công ty chứng khoán có lỗ lũy kế với số
lỗ là (-5.267) tỷ đồng, giảm so với con số hơn 70% công ty lỗ năm 2012. Một số
CTCK đã vượt kế hoạch năm như Bảo Việt, VNDS, VCBS, các công ty lãi lớn
có HSC, SSI, VPBS, TechcomSC, KLS.
Năm 2013, UBCK đã cấp phép cho 10 quỹ mở ra đời bao gồm quỹ của
Vina Wealth, quỹ trái phiếu MBBF, quỹ của Bảo Việt BVFED, quỹ VCBF của
Vietcombank, quỹ VFMVFA, VFMVF1 và VFMVF4 chuyển thành quỹ mở.
Quỹ mở ra đời thay thế mô hình quỹ đóng, thay vì nhà đầu tư phải mua bán theo
thị giá trên sàn (chênh lệch giữa thị giá và NAV - giá trị tài sản ròng của chứng
chỉ quỹ có lúc lên tới 25-30%) thì nay nhà đầu tư có thể góp thêm vốn và quỹ
hoặc rút tiền ra với giá trị đúng bằng NAV. Năm 2013 có 3 quỹ giải thể là quỹ
đầu tư Bảo Việt, PruBF1, quản lý quỹ Sabeco. Tính đến hết quý 3/2013, có
41/47 công ty quản lý quỹ còn hoạt động, trong đó chỉ có 22 công ty hoạt động
có lãi. 6 công ty đã được xử lý bằng nhiều giải pháp, rút khỏi thị trường, trong
đó: giải thể 1 công ty, tạm ngừng hoạt động 2 công ty để tự tái cơ cấu; đình chỉ
44
hoạt động 1 công ty do không duy trì điều kiện cấp phép và đặt 2 công ty vào
tình trạng kiểm soát đặc biệt do không duy trì được tỷ lệ an toàn tài chính theo
quy định.
Hiện tại có khoảng 300 DNNY trên Sở GDCK Tp. Hồ Chí Minh (HOSE),
chiếm khoảng 89% lượng vốn hóa toàn thị trường. Trong năm 2013, có 11 công
ty bị hủy niêm yết trên HOSE và 26 DN hủy niêm yết trên sàn Hà Nội (16 DN
hủy niêm yết bắt buộc) trong đó có các "tên tuổi" như cổ phiếu PVF của Tài
chính dầu khí hủy niêm yết do hợp nhất với Westernbank, cổ phiếu SBS của
chứng khoán Sacombank... Trong khi đó năm 2013 chỉ có 4 DN niêm yết mới
trên HoSE (HAR, NLG, FCM và FLC) và 11 DN niêm yết mới trên sàn Hà Nội
(KSQ, KLF, PVB, FIT, DHP, HLD, NDX, PSD, SHA, THS, TTZ).
Thông tư liên tịch số 10 giữa Bộ Tư pháp- Công an- Tòa án Nhân dân tối
cao- Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao- Bộ Tài chính đã hướng dẫn việc xử lý
hình sự đối với 3 tội gồm: Cố ý thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong
hoạt động chứng khoán; tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
và tội thao túng giá chứng khoán. Nghị định 108 áp dụng từ 15/11/2013 tăng
mức phạt trên TTCK lên cao nhất 2 tỷ đồng, phạt 100-150 triệu đồng nếu không
đưa cổ phiếu chào bán lên niêm yết trong vòng 1 năm.
Năm 2013 Cơ quan điều tra đã khởi tố là ông Phan Huy Chí, Nguyên Chủ
tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc SME, và Phạm Minh Tuấn, Phó chủ tịch
HĐQT SME cùng với 2 nhân viên khác, về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
lên tới 380 tỷ đồng. Ngoài ra, Chủ tịch Công ty chứng khoán Tràng An cũng bị
bắt do chỉ đạo nhân viên dưới quyền xác nhận khống các mã chứng khoán, hợp
thức hồ sơ nhận uỷ thác đầu tư của khách hàng để vay rồi chiếm đoạt tiền của
Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội.
Cũng trong năm 2013, UBCKNN đã ban hành 102 quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với
các tổ chức và cá nhân, với tổng số tiền phạt là hơn 7,7 tỷ đồng. Như vậy, so với
năm trước (2012) số tiền phạt của năm nay có giảm nhẹ (năm 2012 UBCK Nhà
nước đã ban hành 146 quyết định xử phạt, với tổng số tiền phạt là trên 8,5 tỷ
đồng). Trong đó 5 cá nhân bị phạt 250 triệu đồng vì làm giá cổ phiếu.
Tiếp đó hàng loạt chính sách phát triển TTCK được ra đời. Trong đó, việc
nới tỷ lệ margin lên 50-50 được áp dụng từ 1/2/2013; tăng biên độ sàn HoSE lên
7% và sàn Hà Nội lên 10% cũng được thông qua và chính thức áp dụng từ ngày
15/1/2013, việc miễn giảm phí lưu ký, kéo dài thời gian giao dịch đến 15h để
45
tăng thanh khoản cho thị trường... Tác động mạnh mẽ nhất là việc giảm thời
gian thanh toán từ T+4 sang T+3, tức là nhà đầu tư mua cổ phiếu sau 2 ngày có
thể bán vào sáng ngày thứ ba. Điều này đã khiến dòng vốn được luân chuẩn
nhanh hơn, nhà đầu tư cũng chủ động hơn trong việc mua bán cổ phiếu. Những
kỳ vọng về T+1, T+2 được đề xuất nhưng chưa được đáp ứng giai đoạn này.
SCIC sẽ phải thoái vốn tại 66 DN niêm yết trong đó có nhiều tên tuổi lớn
như Bảo Việt, FPT, Nhựa Bình Minh, Nhựa Tiền Phong. Theo đề án tái cơ cấu
được Chính phủ thông qua, SCIC được giữ lại và đầu tư lâu dài 4 công ty là
CTCP Sữa Việt Nam (VNM), CTCP Viễn thông FPT, CTCP Dược Hậu Giang
(DHG) và CTCP Tổng công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam và thoái vốn tại
376 doanh nghiệp. Hoạt động cổ phần hóa năm 2013 rất chậm, không có doanh
nghiệp lớn nào IPO, chờ đợi IPO Viglacera cuối năm, Vinatex lùi sang 2014.
BIVD chưa niêm yết.
Bảng 1.2.Danh mục cổ phiếu niêm yết SCIC nắm giữ nhiều nhất
Nguồn: cafef.vn
2. Tâm lý bầy đàn ở thị trường chứng khoán
2.1. Sự xuất hiện của tâm lý bầy đàn trong thị trường chứng khoán
Ý tưởng về một “suy nghĩ theo nhóm” hoặc “hành vi đám đông” lần đầu
tiên được hai nhà tâm lý học xã hội Pháp Gabriel tarde và Gustave Le Bon đưa
ra vào thế kỷ 19: “Tâm lý bầy đàn hay tâm lý đám đông là sự mô tả cách một số
người bị ảnh hưởng bởi các người thân cận của họ thông qua những hành vi nhất
định, theo xu hướng, và/hoặc theo những điểm tựa”.
Do luôn bị chi phối bởi các phản ứng cảm xúc như lòng tham và sợ hãi,
các nhà đầu tư có thể tham gia mua và bán cổ phiếu với số lượng lớn, tạo ra
46
những bong bóng kinh tế và làm sụp đổ thị trường chứng khoán. Tâm lý bầy đàn
xuất hiện ở hầu hết các thị trường mới nổi thậm chí ngay cả ở các thị trường
phát triển thì vẫn có những giai đoạn tồn tại tâm lý bầy đàn. Lịch sử kinh tế thế
giới đã chứng kiến nhiều vụ nổ bong bóng và khủng hoảng như khủng hoảng bất
động sản Florida- Mỹ (1920-1922), đại suy thoái thế giới 1929, khủng hoảng
1987, Khủng hoảng tài chính châu Á 1997, khủng hoảng dotcom,… tất cả đều
do tâm lý bầy đàn gây nên. Do đó việc nghiên cứu tâm lý bầy đàn có tác dụng
tích cực nhằm nhận biết và hạn chế những rủi ro trong các hoạt động kinh tế nói
chung và chứng khoán nói riêng.
Tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán được nhắc đến qua
câu nói của Sir.John Templeton: “Thị trường đầu cơ sinh ra trong sự ảm đạm,
lớn lên bằng sự hoài nghi, phát triển nhờ sự lạc quan và chết bởi sự thỏa mãn”.
Hơn nữa, qua những khảo nghiệm thực thế, tác giả Trịnh Xuân Sơn -
Giám đốc Chiến lược thị trường của Công ty chứng khoán MB - cho rằng
tâm lý bầy đàn của thị trường được thể hiện qua 16 cung bậc cảm xúc, chi phối
hành động của giới đầu tư.
Hình 2.1. 16 cung bậc cảm xúc của tâm lý bầy đan trên thị trường chứng
khoán
Nguồn: http://www.stockchart.com.vn/
47
Các nhà đầu tư không nhất thiết phải là một nhà kinh tế hoặc nhà phân
tích thị trường chứng khoán thực thụ mới có thể cảm nhận ra những gì đang và
sẽ xảy ra do tâm lý bầy đàn gây nên. Nhưng, họ cần hiểu rằng, trong ngắn hạn,
nền kinh tế và thị trường chứng khoán là hai phạm trù lực lượng khác biệt. Thị
trường chứng khoán vẫn có thể sẽ tăng điểm mạnh mẽ bất chấp tin tức nền kinh
tế đang ngày càng bất ổn, bởi vì các nhà đầu tư lớn thường đánh cược ở tương
lai. Họ tin rằng đó chỉ là tâm lý bầy đàn nên họ sẽ thực hiện mua vào làm tăng
giá cổ phiếu, khiến nhiều người đã lỡ bán ra lại cảm thấy tiếc rẻ.
Thị trường chứng khoán có thể di chuyển nhanh chóng theo hai hướng
tăng hoặc giảm là phụ thuộc đến nhiều yếu tố, yếu tố điển hình là cung và cầu
giữa người mua và người bán. Không như các nhà đầu tư dài hạn, ngắn hạn
thường đánh cược vào sự thay đổi giá bằng cách nhìn vào các biểu đồ phân tích
kỹ thuật biến động giá hàng ngày (daily price swings).
Tuy nhiên, các biện pháp phân tích kỹ thuât gần như là không có tác dụng
gì khi thị trường chứng khoán gặp phải các trường hợp có tâm lý bầy đàn. Phân
tích cơ bản sẽ giúp các nhà đầu tư dài hạn đạt lợi nhuận cao khi từ tâm lý bầy
đàn mà bán tháo cổ phiếu chuyển sang tâm lý hưng phấn tột cùng khi họ đã
thành công trong việc tóm được "đáy” của thị trường (market bottom), khi giá
cổ phiếu đi xuống thấp nhất rồi quay lại phục hồi để xác lập một mức đỉnh cao
hơn. Những nhà đầu tư lớn nhất thường không sử dụng các phân tích kỹ thuật để
đánh cược vào tâm lý bầy đàn.
Thế nhưng, tâm lý bầy đàn đã đẩy mạnh đà bán tháo và tính thanh khoản
sụt giảm, nhưng lại thu về một mối lợi về trung hạn hay dài hạn chính là sự tích
lũy vốn để bắt đáy của các nhà đầu tư dài hạn, giới đầu cơ và các quỹ đầu tư đối
xung (Hedge Fund). Giới đầu tư tài chính này sẽ phải chịu rủi ro lớn nếu đoán
sai nhưng bù lại sẽ lãi cao nếu đoán đúng, họ sẽ là tác nhân để đẩy giá cổ phiếu
tăng vọt lên. Họ đầu tư theo cách đóng chốt theo hai cửa ngược nhau (đối xung)
để nếu có nhóm cổ phiếu nào sụt giá thì sẽ giúp họ bớt rủi ro, hoặc nếu hai cửa
đều tăng giá thì họ sẽ kiếm lời lại lớn. Bởi họ rót vốn lớn nên sẽ đẩy sự phấn
khích khiến giá cổ phiếu tăng vọt lên đỉnh mới. Nếu tin tức vĩ mô cho thấy nền
kinh tế phục hồi khả quan, các đối xung này ở Mỹ có thể sẽ vào thị trường
chứng khoán Việt Nam ở tương lai không xa. Đó là “ưu điểm” của tâm lý bầy
đàn trên thị trường chứng khoán khi nó kích động lòng tham không đáy của giới
đầu tư.
48
2.2. Tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng trải qua một chu kỳ tâm lý
hoàn chỉnh trong giai đoạn từ 2005-2009. Sai lầm của nhà đầu tư luôn lặp lại và
năm 2013 là năm manh nha bắt đầu một vòng tuần hoàn, thị trường đang trong
quá trình biểu hiện giai đoạn đầu của một chu kỳ tâm lý mới.
Nền kinh tế Việt Nam qua hai năm 2012 – 2013 đã bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Tổng sản phẩm quốc dân năm
2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012, chủ yếu nhờ tăng trưởng trong khu
vực công nghiệp xây dựng và khu vực dịch vụ. Mặc dù mức tăng GDP năm
2013 chưa đạt mục tiêu đặt ra đầu năm (5,5%) nhưng vẫn cao hơn mức tăng
5,25% năm 2012. Đây là một dấu hiệu tích cực, cho thấy nền kinh tế đang phục
hồi dần, thoát khỏi tình trạng suy thoái.
Tỷ lệ lạm phát hai năm qua được kiểm soát tốt, xu hướng lạm phát dài
hạn giảm dần và ổn định quanh 7%. Tới tháng 9 năm 2013, lạm phát tăng 4,63%
so với đầu năm. Chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 12 năm 2013, do sự tăng giá của
nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng, tăng 0,51% so với tháng 11 và tăng 6,04% so
với tháng 12/2012, thấp nhất trong 10 năm gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng bình
quân năm 2013 tăng 6,6% so với năm 2012.
Thị trường bất động sản năm 2012 chưa có nhiều dấu hiệu chuyển biến
nhưng sang năm 2013 đã có phần khởi sắc hơn, đặc biệt ở phân khúc nhà ở cho
người có thu nhập thấp và trung bình. Năm 2013, NHNN đã ban hành gói
30.000 tỉ đồng hỗ trợ cho vay mua nhà ở với thời hạn cho vay có thể kéo dài đến
10 năm và mức lãi suất là 4,5%/năm. Kết quả là tới cuối tháng 11/2013, các
NHTM đã giải ngân cho 1236 khách hàng với tổng dư nợ là 470,8 tỉ đồng.
Cán cân thương mại thặng dư sau một thời gian dài liên tục thâm hụt. Dự
trữ ngoại hối năm 2013 tăng gấp đôi so với năm 2011. Điều đó là nhờ tỷ giá
USD/VND ổn định và mức chênh lệch lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoaị tệ hấp
dẫn đã giúp giữ được giá trị của đồng nội tệ, khiến người dân và doanh nghiệp
hạn chế giữ ngoại tệ mà chuyển sang giữ nội tệ và bán ngoại tệ cho Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế còn gặp phải một số
khó khăn do tổng cầu và sức mua còn yếu khiến sản xuất khó tăng trưởng mạnh,
thể hiện qua số lượng doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động năm
2013 tăng 11,9% so với năm 2012 (60737 doanh nghiệp); GDP còn phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu (cầu bên ngoài) là yếu tố nhiều rủi ro, ảnh hưởng tới sự
49
phát triển bền vững của nền kinh tế; dòng vốn tín dụng chưa được sử dụng tốt;
lạm phát tiềm ẩn nguy cơ tăng trở lại.
Dựa trên bối cảnh của nền kinh tế, tâm lý của các nhà đầu tư trên Thị
trường chứng khoán Việt Nam năm 2013 dao động ở mức Nghi ngờ đến Hy
vọng, biểu hiện của hai giai đoạn đó như sau:
Hình 2.2 Diễn biến tâm lý nha đầu tư chứng khoán trong giai đoạn 2005-2013
Nguồn: http://www.stockchart.com.vn/
- Giai đoạn nghi ngờ: Đây là giai đoạn manh nha của thị trường và hầu hết nhà
đầu tư vẫn hoài nghi về khả năng hồi phục của thị trường trong ngắn hạn. Nhà
đầu tư có tín hiệu quan tâm trở lại thị trường nhưng tâm lý thận trọng bao trùm.
Dòng tiền mang tính chất thăm dò do thị trường chưa được củng cố bởi những
yếu tố tích cực từ kinh tế.
Biểu hiện:
+ Kinh tế vĩ mô chưa có nhiều cải thiện
+ Nợ xấu hệ thống ngân hàng gia tăng và chưa có giải pháp rõ ràng
+ Thị trường bất động sản trầm lắng và giảm giá
+ Lãi suất còn duy trì ở mức tương đối cao và tiếp cận vẫn còn khó khăn
+ Các chính sách định hướng vĩ mô chưa rõ ràng và cụ thể.
+ Thông tin về giải thể, thất nghiệp, vỡ nợ,…
50
Do đó mà thị trường thanh khoản dần được cải thiện và bắt đầu tín hiệu tăng
trong nghi ngờ.
- Giai đoạn Hy vọng: Đây là giai đoạn tâm lý kỳ vọng sự phục hồi của thị
trường vừa qua sẽ còn tiếp diễn. Sự quan tâm bắt đầu dần trở lại ở một số bộ
phận nhà đầu tư. Tâm lý thị trường trở nên tích cực hơn khi đón nhận nhiều
thông tin hỗ trợ.
Biểu hiện:
+ Kinh tế vĩ mô có những chuyển biến về chính sách tích cực hơn
+ Lợi nhuận của doanh nghiệp bắt đầu cải thiện/hồi phục
+ Thị trường chứng khoán bắt đầu có nhịp hồi phục tốt về cả điểm số và thanh
khoản.
+ Tâm lý thị trường được cải thiện và bắt đầu có kỳ vọng cho sự hồi phục tiếp
theo.
Một ví dụ về tâm lý bầy đàn do "tai nạn ngoài ý muốn" thường thấy trên
thị trường chứng khoán: Vụ “scandal” sữa nhiễm khuẩn trước kia của Tập đoàn
sữa Fonterra (New Zealand), đến lúc này các nhà đầu tư sẽ phải tự đặt câu hỏi là
tại Việt Nam liệu sẽ có công ty sản xuất sữa nào có thể dính dáng tới sản phẩm
sữa của New Zealand hay không. Dù các công ty tại Việt Nam không hề dính
dáng gì với Tập đoàn sữa Fonterra, nhưng chắc chắn rằng các cổ phiếu của
những công ty sản xuất sữa tại Việt Nam, như Vinamilk (HOSE: VNM) sẽ sụt
giá, mà sụt giá khá nặng, vì tâm lý hay hốt hoảng của giới đầu tư. Đó thực ra là
cơ hội cho các nhà đầu tư chứng khoán kiếm mối lợi lớn. Họ sẽ lập tức bán
nhanh cổ phiếu của các công ty sữa có nhà sản xuất tại Việt Nam, dù lúc ấy nó
vẫn đang tăng điểm nhẹ, vì chắc chắn là vài phiên sau nó sẽ sụt giá thảm hại.
Khi cổ phiếu đó sụt giảm đến mức mà họ thấy hợp lý thì lập tức họ sẽ
mua lại trước khi nó kịp tăng vọt trở lại sau khi người ta đã chứng minh được
các công ty sữa của Việt Nam hoàn toàn an toàn, thậm chí các sản phẩm sữa
Vinamilk của Việt Nam sẽ trở lên khan hiếm bởi người tiêu dùng sẽ quay sang
săn lùng và đẩy mức doanh thu gia tăng. Và nếu biết khôn khéo quảng cáo sản
phẩm trên phương tiện truyền thông ở thời điểm đó thì cổ phiếu của công ty sản
xuất sữa này sẽ tăng vọt rất mạnh mẽ và kiếm lãi bạc tỷ bởi trò chơi cá cược ly
kỳ do tâm lý bầy đàn gây ra.
Tâm lý bầy đàn sẽ lên đến mức cao trào khi các nhà đầu tư bị nhiễu thông
tin, kể cả "tin vịt" không chính thống bởi các ảnh hưởng đến kinh tế như mức tỷ
giá biến động, thị trường bất động sản đóng băng, nợ xấu ngân hàng vẫn ở mức
51
cao, lạm phát tăng trở lại, hay căng thẳng ngoài biển Đông cũng gia tăng,... như
đã thấy trong quá khứ có thể dẫn đến tính thanh khoản đang tăng đột biến rồi lại
co trở lại, vì các nhà đầu tư sẽ rút tiền về.
Do vậy, các nhà đầu tư trong nước cần nhìn vào xu hướng dài hạn
(thường hơn 52 tuần) và xem các chỉ số có dấu hiệu thay đổi xu hướng hoặc
thay đổi tốc độ tăng trưởng của cổ phiếu. Một thị trường chứng khoán non trẻ,
chưa đủ sâu rộng về vốn hóa như tại Việt Nam, có thể sẽ khiến cho việc bán
tháo hay việc thoái vốn của các quỹ đầu tư lớn do tâm lý bầy đàn sẽ trở nên khó
khăn hơn nếu không đến mức bất khả thi. Nguyên nhân là do, nếu họ bán tháo
hay thoái vốn quá nhanh thì họ sẽ không thể tìm đâu ra được người mua. Còn
nếu họ liều lĩnh bán tháo trực tiếp trên sàn giao dịch chứng khoán với quy mô
cực lớn thì tất nhiên sẽ làm giá cổ phiếu của họ đang nắm giữ sụt giảm thảm hại
mà vẫn không thể tạo ra lực hấp dẫn và đương nhiên kết quả là bị lỗ nặng. Do
đó, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ không thể có biến động về tâm lý bầy
đàn thái quá được.
Tiếp theo, mấu chốt vấn đề ở đây vẫn là các nhà đầu tư Việt Nam phải có
trình độ và bản lĩnh. Nếu các nhà đầu tư Việt Nam thiếu bản lĩnh mà cũng hùa
theo tâm lý bầy đàn, cùng đầu tư vào cửa bán thì chỉ góp phần làm giá cổ phiếu
sụt giảm nặng hơn nữa mà thôi.
3. Giai pháp ổn định tâm lý và phát triển thị trường
Để có được giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam, trước hết,
cần chấp nhận một thực tế là "tâm lý bầy đàn" vẫn có chỗ đứng trên thị trường.
Đây là hình thức đầu tư lành mạnh, tồn tại khắp nơi trên thế giới. Một ví dụ điển
hình là Chicago (thị trường tiền tệ lớn nhất thế giới với lượng giao dịch 1.500 tỷ
USD/ngày), Solomon Brothers là “điểm neo” cho 40% số nhà đầu tư - quyết
định của nhà tư vấn này sẽ được copy trong nháy mắt. Vì vậy, điều cần thiết cho
thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là thu hút những nhà đầu tư giỏi, có
kinh nghiệm với các quyết định kịp thời để có thể vực dậy thị trường.
Việc tuyên truyền kiến thức về chứng khoán cho người dân cần được đẩy
nhanh. Chỉ khi họ ý thức được sự phát triển lâu dài của thị trường, vốn mới được
đổ vào thay vì chuyển đổi sang tích trữ vàng hoặc gửi tiết kiệm như hiện nay.
Nhiều người tham gia cũng đồng nghĩa với việc rủi ro được chia nhỏ, thị trường
sẽ ít chịu biến động. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng
khoán cần nâng cao trình độ, tránh quyết định sai lầm do ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý. Các nhà đầu tư cần am hiểu về luật chứng khoán, nắm rõ các khái niệm
52
chứng khoán, có kiến thức nền tảng cơ sở về tài chính ngân hàng để có thể phân
tích, đọc hiểu các báo cáo tài chính và thường xuyên cập nhập thông tin.
Trên thị trường chứng khoán, tính minh bạch tác động trực tiếp đến tâm lý
và hành vi nhà đầu tư. Việc các thông tin vĩ mô của nền kinh tế, ngành và thông
tin vi mô liên quan đến các công ty niêm yết được công bố chính xác, kịp thời,
công bằng sẽ tạo điều kiện để nhà đầu tư phân tích số liệu, đưa ra được các
quyết định đầu tư hợp lý, hiệu quả, tạo môi trường bình đẳng. Chính thực tế này
đã và đang đòi hỏi một hệ thống công bố thông tin có hiệu quả hơn, đảm bảo
cung cấp đủ dữ liệu, củng cố niềm của nhà đầu tư vào thị trường.
Trước tình trạng thông tin không chính xác tác động tiêu cực đến tâm lý
của các nhà đầu tư trên thị trường, qua đó ảnh hưởng đến diễn biến thị trường
chứng khoán, Chính phủ và cơ quan ban ngành chức năng đã ban hành một số
chính sách nhằm ổn định tâm lý nhà đầu tư và các giải pháp để phát triển thị
trường trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Cụ thể:
+ Ban hành Nghị định số 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 58/2012/ NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Chứng khoán. Nghị định số 60/2015/NĐ-CP cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam theo tinh thần của
Luật Đầu tư (mới) và các cam kết, điều ước quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho
nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu tối đa 100% vốn trong các doanh nghiệp đại
chúng không thuộc diện hạn chế sở hữu.
Theo đó, ngoại trừ một số lĩnh vực, ngành nghề hạn chế đầu tư theo cam
kết tại các điều ước quốc tế, các ngành nghề hạn chế tỷ lệ sở hữu nước ngoài
theo quy định của pháp luật chuyên ngành và ngành nghề kinh doanh có điều
kiện (267 ngành nghề theo Phụ lục của Luật Đầu tư), thì các lĩnh vực ngành
nghề, kinh doanh khác không bị hạn chế sở hữu nước ngoài, ngoại trừ điều lệ
công ty có quy định khác. Quy định này đã bước đầu cho phép nhà đầu tư nước
ngoài được nắm giữ không hạn chế các doanh nghiệp trong nước, qua đó thu hút
dòng vốn nước ngoài, góp phần cải thiện quản trị công ty và tính minh bạch
trong công bố thông tin.
+ Trên cơ sở Đề án xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái
sinh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 42/2015/NĐ-CP về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái
53
sinh, tạo nền tảng pháp lý đầu tiên triển khai thị trường chứng khoán phái sinh
vào cuối năm 2016.
Đây là cơ sở và là nền tảng cho việc thiết lập các sản phẩm phòng vệ rủi
ro và gia tăng lợi tức đầu tư cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Dự
kiến các sản phẩm ban đầu sẽ được xác lập là Hợp đồng tương lai dựa trên trái
phiếu chính phủ và chỉ số chứng khoán sẽ được thiết lập và đưa vào hoạt động
đầu tiên vào cuối năm 2016.
+ Từng bước hoàn tất các điều kiện để nâng hạng cho thị trường chứng
khoán Việt Nam theo chuẩn mực của Morgan Stanley Capital International
(MSCI) từ thị trường cận biên lên mức thị trường mới nổi thông qua những thay
đổi về quản trị công ty và công bố thông tin minh bạch theo các thông lệ và
chuẩn mực quốc tế, qua đó, thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra,
việc đẩy mạnh xúc tiến đầu tư nước ngoài thông qua các diễn đàn đầu tư của cơ
quan quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế, các định chế tài chính nước ngoài
cũng góp phần giúp cho nhà đầu tư hiểu biết sâu hơn về thị trường chứng khoán
Việt Nam.
+ Hoàn thiện cơ chế, chính sách và sản phẩm mới cho thị trường thông
qua việc ứng dụng và đưa vào vận hành các nghiệp vụ mới như: (i) Cho phép
nhà đầu tư được mua và bán chứng khoán trong cùng ngày giao dịch; (ii) Bán
chứng khoán trên đường về tài khoản; (iii) Giao dịch mua bán trong ngày (day
trading); (iv) Cấp mã số giao dịch nhà đầu tư nước ngoài trưc tuyến; (v) Công
bố thông tin bằng ngôn ngữ tiếng Anh của Sở Giao dịch chứng khoán và Trung
tâm lưu ký chứng khoán; (vi) Rút ngắn chu kỳ thanh toán giao dịch chứng khoán
từ T+3 về T+2.
+ Đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán
thông qua hợp nhất, sáp nhập, mua lại, giải thể và cho phá sản các tổ chức kinh
doanh yếu kém dựa trên các chỉ tiêu an toàn tài chính. Hiện có 20% trong số
công ty chứng khoán đã hoàn tất tái cấu trúc, qua đó góp phần giảm thiểu đáng
kể số lượng các công ty chứng khoán so với trước đây. Việc cho phép các tổ
chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài được mua, nắm giữ lên đến 100% vốn
công ty chứng khoán trong nước cũng góp phần đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc
các công ty chứng khoán.
+ Quyết tâm của Chính phủ trong tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp nhà
nước; đẩy nhanh quá trình thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần
hóa thông qua các cơ chế đấu giá; chào bán cạnh tranh và đấu giá theo lô lớn
54
gắn với niêm yết; đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung trong
thời gian ngắn... cũng góp phần đẩy nhanh quá trình sắp xếp doanh nghiệp nhà
nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư của các nhà đầu tư lớn trong
nước gắn với tham gia, quản trị điều hành doanh nghiệp.
Bên cạnh ban hành, các văn bản quy phạm pháp luật này cần được
nghiêm chỉnh thực thi để đảm bảo tính hiệu quả trong việc điều chỉnh thị trường
chứng khoán.
Giống như các hoạt động tài chính khác, thị trường chứng khoán tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Một số trường hợp dẫn đến sự suy giảm hay sự sụp đổ của thị
trường này gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống tài chính và nền
kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả quản lý giám sát thị trường chứng khoán là
một trong những công tác quan trọng đối với sự ổn định của nền kinh tế. Các cơ
quan giám sát như Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các tổ chức tự quản như
Sở giao dịch Chứng khoán, Hiệp hội kinh doanh chứng khoán cần tập trung sự
quan tâm vào những rủi ro có thể dẫn đến việc làm mất lòng tin của công chúng
đầu tư, gây suy yếu hệ thống tài chính quốc gia.
Việt Nam được đánh giá là một quốc gia hàng đầu trong khu vực về thu hút
dòng vốn nước ngoài, và việc cho phép tăng sở hữu nước ngoài theo Nghị định
60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2012/ NĐ-CP
hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán vừa mới ban hành…là những giải pháp
kịp thời, để tranh thủ nguồn vốn dịch chuyển vào Việt Nam.
55
Tài liệu tham khao
1. Nguyễn Đức Thành, Ngô Quốc Thái, Vũ Minh Long, Hoàng Thị Chinh
Thon, Bài nghiên cứu NC – 30 VEPR, Tổng quan nền kinh tế Việt nam 2012
2. Thu Trang, baomoi.com, 16/12/2013, Kinh tế Việt Nam năm 2013 qua số
liệu của Ngân hàng Nhà nước.
3. Tổng cục Thống kê, 23/12/2013, Thông cáo báo chí Tình hình kinh tế - xã
hội năm 2013.
4. Tổng cục Thống kê, Báo cáo đánh giá tình hình kinh tế Việt Nam 9 tháng
năm 2013.
5. TS. Nguyễn Thanh Phương, Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB
Thống kê.
6. TS. Nguyễn Sơn, tapchitaichinh.vn, Giải pháp ổn định tâm lý và phát triển
thị trường chứng khoán Việt Nam.
7. http://www.stockchart.com.vn/
8. http://cafef.vn/
56
BÀI SỐ 06:
TÁC ĐỘNG CỦA TÂM LÝ NHÀ ĐẦU TƯ ĐẾN HIỆU QUẢ
CỦA CHINH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
Sinh viên Mai Hương - K17TCI
Sinh viên Đinh Thị Ngọc Anh - K16ACT
Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái là một bộ phận quan trọng của chính sách
kinh tế, tài chính – tiền tệ và có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát,
góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, bền vững. Bên cạnh sự tác động của các yếu
tố thực có thể đo lường được, chính sách điều hành tỷ giá còn phụ thuộc phần lớn vào
các yếu tố tâm lý, kỳ vọng. Để làm rõ hơn ảnh hưởng của tâm lý nhà đầu tư đến chính
sách điều hành tỷ giá như thế nào, bài viết sẽ phân tích thực trạng điều hành tỷ giá ở
Việt Nam giai đoạn 2011-2015, nêu những tác động của yếu tố tâm lý, từ đó đưa ra giải
pháp, khuyến nghị nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tỷ giá góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
1. Lý luận chung về tâm lý nhà đầu từ và chính sách điều hành tỷ giá
1.1. Tổng quan về tâm lý nhà đầu tư
1.1.1. Khái niệm nhà đầu tư
"Hoạt động đầu tư là một quá trình, thông qua phân tích kỹ lưỡng và cẩn trọng,
có thể đảm bảo an toàn vốn và thu lời thoả đáng. Tất cả những hoạt động không đáp
ứng những nhu cầu trên thì là đầu cơ" theo Benjamin Graham.
Nhà đầu tư là người tham gia vào một hay nhiều vụ đầu tư dưới các hình thức
khác nhau. Nhà đầu tư có thể là một cá nhân, một doanh nghiệp, một tổ chức. Phần lớn
các nhà đầu tư khi bỏ tiền ra đầu tư đều nhằm thu về lợi ích kinh tế, đó là hoạt động đầu
tư kinh doanh, sản xuất. Một số ít hơn, thường là đơn vị thuộc nhà nước, đầu tư công
cộng nhằm mang lại lợi ích cho xã hội, như việc xây dựng các công trình dân sinh, phúc
lợi. Cụm từ nhà đầu tư còn được dùng trong ngành tài chính nhằm miêu tả một nhóm
người hay công ty thường xuyên mua chứng khoán, cổ phiếu hay trái phiếu để có được
lãi tài chính đánh đổi cho việc cung cấp vốn để phát triển một công ty nào đấy. Cụm từ
này cũng thường áp dụng cho những cá nhân, tổ chức mua và nắm giữ các tài sản trong
một thời gian dài với phân tích và nhận định sẽ có được lãi vốn, không vì thu nhập ngắn
hạn.
1.1.2. Các khuynh hướng tâm lý nhà đầu tư
Thông thường, đối với một nhà đầu tư thì đối thủ nặng ký nhất chính là bản
thân họ. Nhiều nhà đầu tư tin rằng sẽ là lý tưởng nếu có thể tách bản thân ra khỏi
57
cảm xúc. Nhưng không may là điều này không thể. Sau đây, nhóm viết bài xin đưa ra
ba khuynh hướng tâm lý chủ đạo thường thấy trên thị trường và nguyên nhân của
những khuynh hướng đó:
Thứ nhất, khuynh hướng quá tự tin: “Trong hình thái cơ bản nhất này, quá tự
tin có thể được hiểu như là một lời cam kết không cần bảo đảm trong luận điểm về
trực giác, lời phán xét và khả năng nhận thức của mỗi người” (Pompian, 2006).
Những nhà tâm lý xác định rằng quá tự tin khiến mọi người đánh giá quá cao kiến
thức của họ, đánh giá thấp rủi ro và phóng đại khả năng của họ trong việc kiểm soát
các sự kiện. Khái niệm quá tự tin bắt nguồn từ một chuỗi các thí nghiệm tâm lý và
khảo sát trong đó các chủ thể đánh giá quá cao cả khả năng dự đoán cũng như độ
chính xác của thông tin mà họ có được. Một nét nổi bật của các nhà đầu tư là sự quá
tự tin về khả năng của họ khi lựa chọn cổ phiếu, và quyết định thời điểm gia nhập
hay thoát khỏi một vị thế. Những khuynh hướng này được nghiên cứu bởi Odean
(1998) và chỉ ra rằng các nhà giao dịch thực hiện phần lớn các giao dịch theo xu
hướng, theo mức trung bình, nhận được lợi nhuận thấp hơn đáng kể so với thị trường.
Thứ hai, khuynh hướng bầy đàn: Bầy đàn trong thị trường tài chính có thể
được định nghĩa như là một sự mô phỏng lẫn nhau dẫn tới sự hội tụ trong hành động
(Hirshleifer và Teoh, 2003). Đây là một sai lầm phổ biến trong đó các nhà đầu tư có
xu hướng đi theo quyết định đầu tư được thực hiện bởi số đông. Các nhà đầu tư cá
nhân có xu hướng bị tác động bởi sự giới thiệu của các nhà phân tích nổi tiếng. Hành
vi bầy đàn là một xu hướng của các cá nhân bắt chước hành động của một nhóm lớn
mà không xem liệu họ có thể ra quyết định cá nhân hay không. Một lý do nữa là con
người thì hòa đồng và có xu hướng tìm kiếm sự đồng thuận từ một nhóm hơn là trở
thành một nhân vật cá biệt. Một lý do khác là các nhà đầu tư có xu hướng suy nghĩ
rằng một nhóm lớn thì ít có khả năng sai lầm. Điều này có thể khiến một nhà đầu tư
tuân theo bầy đàn với ảo tưởng rằng mọi người có thể biết điều gì đó mà anh ta thì
không.
Thứ ba, khuynh hướng lạc quan quá mức: Sự quá tự tin liên quan đến việc
định giá một tỷ trọng quá cao đối với các thông tin riêng và tin tưởng quá mức vào
kỹ năng cá nhân. Sự lạc quan quá mức xuất phát từ sự quá tự tin và liên quan đến
niềm tin rằng các sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai sẽ tốt đẹp, tích cực hơn thực tế
diễn ra. Một nghiên cứu lý thuyết điển hình được thực hiện bởi Gervais, Heaton, và
Odean (2002) thấy rằng sự lạc quan quá mức thường gây ra tác động tích cực bởi vì
nó khuyến khích các nhà quản trị tiến hành đầu tư. Tác động này là tích cực bởi vì
tâm lý e ngại rủi ro thường gây tác động tiêu cực đến giá trị công ty. Tuy nhiên, lạc
quan quá mức lại gây ra tác động tiêu cực bởi vì nó có thể dẫn các công ty hay nhà
58
đầu tư đến việc chấp nhận đầu tư vào các cơ hội có NPV (giá trị hiện tại thuần) âm
hay các tài sản có rủi ro quá cao.
1.2. Chính sách điều hành tỷ giá và tác động của tâm lý nhà đầu tư đến hiệu quả của chính sách tỷ
giá
1.2.1. Chính sách điều hành tỷ giá
Tỷ giá hối đoái giữa hai tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này sẽ được trao
đổi cho một đồng tiền khác. Nó cũng được coi là giá cả đồng tiền của một quốc gia
được biểu hiện bởi một tiền tệ khác. Mỗi quốc gia thông qua một cơ chế khác nhau để
quản lý giá trị đồng tiền của mình. Như là một phần của chức năng này, nó quyết định
chặt chẽ độ tỷ giá hối đoái sẽ áp dụng cho đồng tiền của mình. Tiền có thể được thả nổi
tự do, bị cố định hoặc kết hợp cả hai. Nếu một đồng tiền được thả nổi tự do, tỷ giá hối
đoái được phép thay đổi so với các đồng tiền khác và được xác định bởi lực cung và cầu
thị trường. Tỷ giá hối đoái cho các đồng tiền như vậy có khả năng thay đổi gần như liên
tục như được báo giá trên các thị trường tài chính, chủ yếu là bởi các ngân hàng trên
toàn thế giới. Một số quốc gia khác áp dụng chính sách tỷ giá cố định tức là gắn đồng
bản tệ với đồng tiền khác có giá trị mạnh được công nhận trên toàn cầu, thường là đồng
đô-la Mỹ (như Việt Nam là neo tỷ giá theo USD). Biến động của tỷ giá hối đoái thường
bị ảnh hưởng bởi các nhân tố: Mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước; mức độ tăng,
giảm thu hhập quốc dân giữa hai nước; mức chênh lệch lãi suất giữa hai nước; những kỳ
vọng về tỷ giá hối đoái trong tương lai; sự can thiệp của chính phủ bằng các chính sách
tỷ giá cuả mỗi quốc gia.
1.2.2. Tác động của tâm lý nhà đầu tư đến hiệu quả của chính sách tỷ giá
Từ trên có thể thấy, kỳ vọng về tỷ giá của nhà đầu tư cũng chính là một trong
những nhân tố, tác động trực tiếp đến sự biến động tỷ giá. Tỷ giá hối đoái là giá quốc tế,
do đó, những sự kiện kinh tế, chính trị trên thế giới cũng sẽ gây ảnh hưởng rất nhạy bén
đến tỷ giá hối đoái. Chẳng hạn như sự kiện ở Mỹ xảy ra vào tháng 9/2001 hay chiến
tranh Iraq tháng 3 năm 2003 đã làm khuynh đảo thị trường hối đoái thế giới, giá USD đã
giảm đáng kể trong những giai đoạn kể trên. Thông tin và sự kiện có ý nghĩa quan trọng
đối với sự vận động của tỷ giá, đặc biệt trong ngắn hạn. Giao dịch hối đoái chủ yếu dựa
trên kỳ vọng về tỷ giá. Kỳ vọng thì dựa trên tập hợp thông tin liên quan.
Thông tin -> Kỳ vọng -> Giao dịch hối đoái -> Tỷ giá biến động
Trong thực tế, cùng một thông tin có thể có những kỳ vọng khác nhau, thậm chí
trái ngược. Vì mỗi người có cách lý giải khác nhau về ý nghĩa thông tin mà họ nhận
được nên kỳ vọng thị trường là sự tổng hợp số lượng các thành viên tham gia đầu tư trên
thị trường ngoại hối và cách họ tiếp nhận thông tin nên kỳ vọng thị trường này khiến tỷ
giá biến động hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên. Yếu tố tâm lý nhà đầu tư có ảnh hưởng
lớn đến hiệu quả của chính sách tỷ giá; là một yếu tố chủ yếu dựa vào sự phán đoán từ
59
các thông tin thu thập dược từ các sự kiện, tình hình chính trị-kinh tế của các nước và
thế giới có liên quan.
2. Thực trạng về tác động của tâm lý nhà đầu tư đến hiệu quả của chính sách tỷ giá V
2.1. Thực trạng chính sách điều hành tỷ giá Việt Nam giai đoạn 2011-2015
Tỷ giá kể từ năm 2011 tới nay là một trong những đối tượng trọng tâm trong định
hướng - chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) (gồm kiểm soát lạm phát,
ổn định tỷ giá...) nhằm xây dựng sự ổn định vĩ mô toàn diện.
Hình 1: Diễn biến tỷ giá và dollar-index từ 1/2011 đến 5/2015
Nguồn: BSC Research
Năm 2011 đánh dấu sự chuyển giao giữa hai nhiệm kỳ Thống đốc NHNN, đồng
thời ghi ấn thành công trong chính sách điều hành tỷ giá của NHNN, mở đầu cho thời
kỳ đi vào ổn định của thị trường ngoại hối. Quan sát biểu đồ, có thể thấy, sau khi NHNN
tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên tới 9,3% vào ngày 9/2/2011, mức tăng mạnh
nhất trong lịch sử của thị trường ngoại hối Việt Nam mở ra giai đoạn 2012-2014 ổn định
với 3 nền giá. Mỗi nền/chu kỳ tỷ giá được bắt đầu tại mức trần khi tỷ giá tự do có dấu
hiệu gia tăng mạnh và được điều chỉnh trong kỳ trước, sau đó đi vào ổn định và dao
động xung quanh mức giá bình quân liên ngân hàng mới. Chúng ta thấy được các quãng
thời gian tồn tại của các nền giá khá ổn định trong từng thời kỳ và thu ngắn dần. Cụ thể,
nền giá 20.803+/-1% được duy trì từ cuối năm 2011 đến cuối tháng 6/2013 (hơn 18
tháng). Nền giá 21.036+/-1% kéo dài 12 tháng từ tháng 7/2013 đến cuối tháng 6/2014.
Nền giá 21.246+/-1% kéo dài hơn 6 tháng từ cuối tháng 6/2014 đến đầu năm 2015.
Trong 5 năm trở lại đây, NHNN điều hành tỷ giá nhất quán theo các thông điệp
từ đầu năm và bổ sung, phối hợp các công cụ điều tiết mang tính kỹ thuật như: siết biên
độ từ +/-3% xuống còn +/-1%; áp trần lãi suất huy động USD của NHTM từ 6% về 2%;
kết hối và xử lý một loạt các giao dịch ngoại hối bất hợp pháp trên thị trường; điều chỉnh
đối tượng cho vay ngoại tệ; chống “vàng hóa” tổ chức chặt chẽ thị trường vàng, tính
minh bạch trên thị trường vàng được gia tăng và thất thu thuế cho ngân sách được giảm
thiểu
60
Cần phải thừa nhận những nỗ lực trong điều hành tỷ giá từ 2011 đến 2015 đã góp phần
giúp Việt Nam vượt qua giai đoạn khó khăn khi tăng trưởng kinh tế tạo đáy, chỉ số giá
tiêu dùng CPI từ phi mã giảm về dưới 2%; tạo nền tảng vĩ mô cho quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế và hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp trong nước được tiến hành.
2.2. Diễn biến tỷ giá và những tác động của yếu tố tâm lý nhà đầu tư giai đoạn 2011-
2015:
Ở Việt Nam, tỷ giá VND được lựa chọn neo vào đồng USD, bởi vậy tỷ giá bị tác
động nhiều bởi sức mạnh, tầm ảnh hưởng của đồng đô la Mĩ. Đặc biệt, USD có một vai
trò quan trọng trong phương tiện thanh toán, tích trữ của người dân đã từ lâu kể cả khi
đồng USB đã định hướng yếu đi từ năm 1999 để đẩy mạnh xuất khẩu hay khi có sự xuất
hiện của đồng EUR và giờ đây tầm ảnh hưởng của đồng Nhân dân tệ đã lớn hơn thì ở
Việt Nam, vị trí, vai trò của USD trong thanh toán, tích trữ ở dân cư vẫn không hề thay
đổi. Bởi vậy, trong điều hành tỷ giá của mình, cho dù đồng USD có giảm giá so với các
đồng tiền chủ chốt khác trên thế giới thì NHNN luôn có động thái tăng tỷ giá
VND/USD, chỉ tăng không giảm (với lý do kì vọng, tâm lý vào đồng USD cũng như hỗ
trợ xuất khẩu). Vậy biểu hiện cụ thể cho tác động của yếu tố tâm lý đến những lần điều
chỉnh tỷ giá của NHNN là như thế nào? Phân tích diễn biến các chính sách điều hành tỷ
giá giai đoạn 5 năm trở lại đây để làm rõ vấn đề này.
Trước hết, ở năm 2011, tiêu điểm là cú sốc điều hành tỷ giá: NHNN tăng tỷ giá
bình quân liên ngân hàng lên tới 9,3% vào ngày 9/2/2011.
Hình 2: Biến động tỷ giá USD/VND đầu năm 2011
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Để lí giải cho đợt điều chỉnh tỷ giá này nên nhìn nhận từ bối cảnh kinh tế vĩ mô
Việt Nam cuối năm 2010 đầu năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng CPI cả năm 2010 lên đến
11,75%, xu hướng tăng vẫn tiếp tục trong tháng 1/2011 khi mà CPI ở mức 1,74%. Nhập
siêu năm 2010 là 12,4 tỉ USD và quý I/2011 là 3 tỉ USD, cán cân vãng lai thâm hụt
khoảng 10% so với GDP. Tình trạng nhập siêu này khiến cho nguồn dự trữ ngoại hối
61
quốc gia bị sụt giảm, tăng nợ quốc gia và kéo theo đó là sức ép giảm giá đồng nội tệ.
Thêm nữa, lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại thời điểm này tăng cao
(16-20%), các ngân hàng thương mại đua nhau vượt trần lãi suất bằng nhiều hình thức
làm cho VND tăng giá so với USD. Bên cạnh đó, sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu
khiến cho tâm lý găm giữ USD và vàng tăng lên ở khu vực dân cư. Đó là những cơ sở
hình thành nên kỳ vọng về việc giảm giá đồng tiền nội tệ và việc điều chỉnh tăng tỷ giá
đã giải thoát cho tâm lý đó.
Tháng 8/ 2011, ông Nguyên Văn Bình lên vị trí Thống đốc NHNN thay thế người
tiền nhiệm Nguyễn Văn Giàu, việc lựa chọn chính sách tỷ giá phù hợp để vừa kiềm chế
những áp lực biến động tỷ giá vừa gây dựng niềm tin của người dân vào giá trị đồng nội
tệ trở thành thách thức đối với nhà điều hành mới. Trước tình thế đó, thống đốc Nguyễn
Văn Bình đưa ra mục tiêu tỷ giá hàng năm (công bố biên độ dự kiến tăng tỷ giá) ngay từ
đầu năm để nhanh chóng ổn định được tỷ giá và cung - cầu ngoại tệ, định hướng thị
trường và giúp các doanh nghiệp có phương hướng, kế hoạch sản xuất phù hợp.
Bang 1: Biên độ điều chỉnh tỷ giá theo cam kết của NHNN và
thực tế điều chỉnh giai đoạn 2011-2015
Đơn vị:%
Năm Cuối 2011 2012 2013 2014 Đến T9/2015
Biên độ điều
chỉnh tỷ giá
cam kết
1% 2-3% 2-3% 2%
1% (đầu năm)
2% (12/8)
3% (19/8)
Biên độ điều
chỉnh tỷ giá
thực tế
1% 0% 1% 1% 2%
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước và báo điện tử cafef
Đây là lần đầu tiên nhà điều hành đưa ra những cam kết cụ thể trước về tỷ giá, lãi
suất, các chính sách quan trọng mà NHNN sẽ thực hiện trong năm. Cách điều hành này
cơ bản đã tạo được thông tin định hướng rõ ràng, hạn chế bớt những nhiễu động đồn
đoán, gây dựng niềm tin và thiết lập được trật tự cho thị trường. Tuy nhiên, để thực hiện
những cam kết đã đặt ra trước về vấn đề tỷ giá trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có
nhiều thay đổi, biến động khó lường, NHNN phải nhận rất nhiều áp lực, khó khăn, cả sự
đánh đổi nhất định giữa các mục tiêu và giá trị khác.
Lần lượt qua các năm 2012-2015, Thống đốc Nguyên Văn Bình đều đặn đưa ra
các tuyên bố trước về tỷ giá, lãi suất, hoặc các chính sách quan trọng mà NHNN sẽ thực
62
hiện. Việc giữ ổn định tỷ giá trong thời gian dài là thành công của NHNN trong điều
hành chính sách. Tính từ quý IV/2011, tỷ giá dần đi vào ổn định. Hằng năm, tỷ giá đều
được kiểm soát trong biên độ đề ra. Cụ thể, như trong bảng 1, cuối năm 2011, tỉ giá chỉ
điều chỉnh 1% đúng theo cam kết của thống đốc NHNN. Sang đến năm 2012 và 2013,
NHNN định hướng mức điều chỉnh tỷ giá không quá 2-3% nhưng trên thực tế, năm
2012 không cần phải điều chỉnh, năm 2013 chỉ điều chỉnh tăng 1%, năm 2014 điều
chỉnh 1% trong khi biên độ định hướng không quá 2%. Như vậy, NHNN đã điều hành
ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối, đảm bảo giá trị đồng Việt Nam trong một khoảng
thời gian dài.
Năm 2015, nhiệm vụ điều hành quản lí để ổn định tỷ giá vẫn được ngành ngân
hàng đặc biệt coi trọng. Nhưng trước những diên biến phức tạp của thị trường quốc tế,
NHNN đã có đến 3 lần điều chỉnh tăng tỷ giá đồng USD/VND, biên độ nới thêm 2 lần,
phá vỡ cam kết được đưa ra về điều chỉnh tỷ giá đầu năm 2015.
Sau hơn 6 tháng duy trì ổn định (từ 19/6/2014), từ ngày 7/1/2015, tỷ giá trên tăng
1%, từ mức 21.246 VND/USD lên 21.458 VND/USD. Với biên độ tỷ giá +/-1% so với tỷ
giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá trần tại các NHTM là 21.673 VND/USD, tỷ giá sàn
là 21.243 VND/USD. Động thái này được cho là phù hợp, bởi: Tỷ giá USD/VND đã
được giao dịch gần mức trần cho phép xuyên suốt tháng 12/2014, do đồng USD mạnh
hơn rất nhiều trong những tháng trước đó. Việc giảm thêm 1% giá trị tiền đồng so với
USD phù hợp với xu thế, không những vậy, mức giảm này còn cho thấy đồng VND vẫn
tốt hơn so với đa số các tiền tệ khác của châu Á kể từ bắt đầu quý IV/2014. Đây là biện
pháp điều chỉnh mà nhiều nước muốn làm nhưng không còn dư địa, trong khi Việt Nam
tuy dư địa còn ít nhưng vẫn rất quan trọng. Trong nước, dự báo cán cân vãng lai 2015
của Việt Nam thâm hụt nhiều so với 2014. Trong khoảng thời gian này, mặc dù không
có sự suy giảm các yếu tố cơ bản nào khiến NHNN phải giảm giá VND: cán cân thương
mại thặng dư đạt 2 tỷ USD trong năm 2014; dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vẫn còn mạnh, vốn FDI đăng ký đạt mức 2,3 tỷ USD trong tháng 12 (cả năm 2014 đạt
15,6 tỷ USD); thêm vào đó, lạm phát tiếp tục thấp, đẩy lãi suất thực về ngưỡng dương
góp phần hỗ trợ giảm bớt một số áp lực đối với nhu cầu về USD; thanh khoản tiền đồng
không quá khó khăn; và NHNN đã có thể sử dụng một lượng dự trữ ngoại hối trong thời
gian vừa qua để cung cấp tiền USD ra thị trường,… nhưng NHNN vẫn điều chỉnh tăng
tỷ giá. Điều này thể hiện tính dẫn dắt thị trường của NHNN. NHNN sẽ có thể thực hiện
đồng bộ các biện pháp và công cụ chính sách để ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ
trên mặt bằng giá mới, từ đó giúp chính sách ngoại hối cũng trở nên linh hoạt hơn trong
khả năng của NHNN để quản lý thị trường trong các thời điểm có nhu cầu USD cao,
nhằm đảm bảo không có một cú tăng đột biến về tỷ giá USD/VND trong những tháng
sắp tới. Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN đã trực tiếp tác động tốt lên hoạt động xuất
63
khẩu, giải ngân các nguồn vốn đầu tư nước ngoài; doanh nghiệp cũng loại bỏ tâm lý kỳ
vọng điều chỉnh tỷ giá để có các kế hoạch kinh doanh phù hợp. Mặc dù thời điểm điều
chỉnh tỷ giá có khác với những năm trước nhưng nguyên nhân điều chỉnh khá tương
đồng với các năm trước, nhất quán với mục tiêu chính sách điều hành tỷ giá của NHNN
trong năm vừa qua. Với mức tỷ giá mới, rõ ràng là một tín hiệu tốt hỗ trợ xuất khẩu,
gián tiếp làm tăng nguồn cung ngoại tệ. Mức tỷ giá mới tại mùa cao điểm kiều hối cũng
sẽ kích thích luồng kiều hối chuyển về nước. Việc điều chỉnh này cũng góp phần tăng
giải ngân cho nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.
Từ tháng 3/2015, trước diễn biến của đồng USD tăng trên thị trường thế giới, thị
trường phản ứng khá mạnh theo xu hướng đi lên theo hướng của đồng USD trên thị
trường thế giới. Có nhiều ý kiến phân tích, nhận định nhưng cũng có những luồng ý kiến
khác nhau. Có luồng ý kiến cho rằng cần nới biên độ điều chỉnh tỷ giá cho năm 2015 để
khuyến khích xuất khẩu; nhưng cũng có ý kiến cho rằng không nhất thiết phải nới rộng
biên độ điều chỉnh. Tuy nhiên, với thực tế thị trường tiền tệ quốc tế biến động hàng
ngày, thì việc theo dõi sát diễn biến của thị trường là việc cần thiết trước khi quyết định
chính sách. Và đáp ứng cho những kì vọng đó, ngày 7/5/2015, NHNN điều chỉnh tăng
thêm 1% tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Quyết định điều chỉnh tăng vào thời gian
đồng USD quay đầu giảm giá sau khi FED công bố thông tin về phiên họp ngày 18/3 và
ngày 27/4/2015 về vấn đề tăng lãi suất đồng USD giúp dẫn dắt thị trường, giúp các
doanh nghiệp yên tâm khi điều chỉnh kế hoạch kinh doanh của mình đến cuối năm 2015.
Ngày 11-12-13/08/2015, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) liên tục hạ
giá đồng nội tệ với các mức tương ứng 1,9%; 1,62%; 1,1%. Như vậy chỉ trong vòng 3
ngày, Bắc Kinh đã đưa đồng nội tệ của nước này giảm giá tới 4,62%. Kéo theo đó là
những tác động đến nền kinh tế thế giới và cả Việt Nam. Sau động thái điều chỉnh tỷ giá
của Trung Quốc, các đồng tiền của Australia, Hàn Quốc và Singapore giảm ít nhất 1%.
Đồng nhân dân tệ cũng giảm 1,6% trên thị trường Hồng Kông. Ở Việt Nam, sau khi
đồng nhân dân tệ phá giá đến 4,62%, nỗi lo về nhập siêu gia tăng khi mà giá cả hàng hóa
Trung Quốc sẽ trở nên rẻ hơn tương đối so với hàng nội địa, việc xuất khẩu sang thị
trường Trung Quốc cũng trở nên bất lợi vì vấn đề tỷ giá. Bởi vậy nên điều tất yếu là kì
vọng của thị trường về việc VND tiếp tục bị phá giá gia tăng, gây sức ép khiến NHNN
phải điều chỉnh tỷ giá cũng như nới biên độ điều chỉnh. Ngày 12/8/2015, NHNN đã điều
chỉnh tăng biên độ tỷ giá từ mức +/-1% lên +/-2%. Diễn biến thị trường trong nước,
quốc tế và ngay tại Trung Quốc những ngày sau đó cho thấy đây là một giải pháp kịp
thời, phù hợp với tình hình thực tế và được dư luận đánh giá tích cực. “Trung Quốc là
đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, do đó, việc Trung Quốc phá giá đồng nội tệ,
nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ gây sức ép lên tiền đồng và tỷ giá. NHNN nới biên độ là
động thái tương đối hợp lý trước áp lực đang gia tăng nhằm đảm bảo phần nào năng lực
64
cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam, tác động tích cực hơn tới kinh tế”, TS Võ Trí Thành
nói. Theo vị chuyên gia này, nới biên độ tỷ giá sẽ tạo điều kiện linh hoạt hơn cho thị
trường nhưng quan trọng hơn, đây còn là bước đệm cần thiết để thời gian tới tỷ giá phải
được điều hành linh hoạt hơn. Tuy nhiên, ông Thành cũng cho rằng, áp lực tăng tỷ giá
vẫn còn trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phục hồi khó khăn, nhiều nước theo đuổi
chính sách nới lỏng tiền tệ và làm yếu đồng tiền nội địa. Bên cạnh đó, khả năng Mỹ điều
chỉnh tăng lãi suất đồng USD cũng làm gia tăng áp lực tăng tỷ giá của cơ quan điều
hành.
Nhằm tiếp tục chủ động dẫn dắt thị trường, đón đầu các tác động bất lợi của khả
năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ điều chỉnh tăng lãi suất trong thời gian tới, NHNN điều
chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ từ mức 21.673
VND/USD lên 21.890 VND/USD áp dụng cho ngày 19/8/2015, đồng thời ban hành
Quyết định số 1636/QĐ-NHNN ngày 18/8/2015 quy định về tỷ giá giao ngay giữa đồng
Việt Nam với các ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép, theo đó, biên độ tỷ giá
giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ được điều chỉnh tăng từ +/-2% lên +/-3%.
Như vậy, với việc điều chỉnh tăng 1% tỷ giá bình quân liên ngân hàng và với
biên độ +/-3% sau hai lần điều chỉnh vừa qua, tỷ giá đồng Việt Nam có dư địa đủ lớn để
linh hoạt trước các diễn biến bất lợi trên thị trường quốc tế và trong nước không chỉ từ
nay đến cuối năm mà cả những tháng đầu năm 2016, tạo sự ổn định vững chắc cho thị
trường ngoại tệ và đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. NHNN sẽ thực
hiện đồng bộ các biện pháp và công cụ chính sách tiền tệ, sẵn sàng bán ngoại tệ khi cần
thiết để ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá trong biên độ cho phép.
3. Giải pháp và khuyến nghị nâng cao hiệu quả chính sách tỷ giá của Việt Nam trước
tác động của tâm lý nhà đầu tư
3.1. Giải pháp
Theo kết quả của một nghiên cứu, các quyết định điều hành trong công cụ chính
sách tiền tệ sẽ đươc dẫn truyền và tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô, các thị trường
với tốc độ và cường độ khác nhau. Trong đó có các kênh truyền dẫn lần lượt là: kênh tín
dụng, kênh lãi suất, kênh giá tài sản và kênh tỷ giá.
Bốn kênh truyền dẫn đều tác động đến tổng cầu, sản lượng và cuối cùng giúp tạo
ra thông số của sự ổn định tài chính. Riêng kênh tỷ giá có sự tác động đến hai biến số:
(i) tổng cầu, sản lượng; (ii) giá nhập khẩu. Và hai biến số này đều gây áp lực đến lạm
phát trong nước- một trong những yếu tố quan trọng đo lường sự ổn dịnh kinh tế vĩ mô.
Vậy, tỷ giá VND/USD cần phải làm gi?
Nhóm viết bài xin đưa ra một số biện pháp đã được nghiên cứu và chứng minh
tính hiệu quả: Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng bằng cơ chế
điều hành tỷ giá trung tâm; duy trì biên độ tỷ giá tương đối ổn định; phối hợp hiệu quả
65
giữa điều hành chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tiền tệ; sử dụng hiệu quả dự trữ
ngoại hối để can thiệp ổn định thị trường ngoại hối; hoàn thiện khung pháp lí quản lý và
phát triển thí trúờng ngoại hối; xây dựng cơ chế quản lý dòng vốn đầu tư núớc ngoài và
nợ nước ngoài; hoàn thiện hệ thống số liệu nắm bắt cung cầu ngoại tệ cuả nền kinh tế.
Bên cạnh những biện pháp trên, nhóm viết bài xin đưaa ra và phân tích biện pháp
liên quan đến yếu tố tâm lí:
Một trong những hạn chế của thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay là việc một
bộ phận lớn người dân và doanh nghiệp do thiếu thông tin và hiểu biết về chính sách
điều hành tỷ giá cuả nhà núớc nên đã hành động tự phát, tham gia vào các giao dịch bẳt
hợp pháp trên thị trường tự do. Thực trạng này gây ảnh gưởng không nhỏ tới việc thực
hiện các chính sách của nhà nước và dẫ tới những hạn chế của thị trường ngoại tệ Việt
Nam.
Do đó, NHNN cần tăng cường công tác tuyên truyền để người dân và doanh
nghiệp cũng như các thành phần kinh tế trong và ngoài nước hiểu rõ phương hướng,
mục tiêu và các biện pháp điều hành thị trường của NHNN, từ đó khuyến khích và định
hướng thành viên tham gia thị trường có các hành vi lành mạnh, tích cực, gây dựng lòng
tin vào chính sách cho người dân và thị trường, hạn chế tác động xấu do yếu tố tâm lý.
3.2. Khuyến nghị
Trong thời gian tới,cần tiếp tục xu hướng điều hành linh hoạt tỷ giá theo các tín
hiệu và nguyên tắc thị trường. Trong đó, lưu ý rằng, thực tế cho thấy cần tránh kì vọng
đầu cơ gắn với xu hướng chỉ có điều chỉnh tăng một chiều tỷ giá và tăng với giá sốc,
biên độ hẹp sau khi neo cố định tỉ giá kéo dài. Nói cách khác, việc điều chỉnh tỷ giá cần
phải có lúc lên, lúc xuống (chứ không chỉ một chiều lên), thời gian ngắn và nhanh hơn,
với mức điều chỉnh thấp hơn và biên độ giao dịch có thể rộng hơn… Có như vậy mới
giảm bớt các cú sốc tỉ giá và những hệ lụy không mong muốn của việc điều chỉnh tỷ
giá. Dưới đây là một số gợi ý trong việc điều hành chính sách tỷ giá:
Một là, không thể máy móc sao chép các mô hình kinh tế các nước khác trong
khi điều kiện mỗi nước hoàn toàn khác nhau.
Hai là, việc quyết định điều chỉnh tăng hay giảm giá tiền đồng so sánh với một
ngoại tệ nào đó, ở đây là USD – một ngoại tệ truyền thống mạnh nhất trên thế giới, phải
nhìn vào cấu trúc hiện tại của nền kinh tế đất nước.
Ba là, Nhà nước nên có một lộ trình rõ ràng giúp đồng tiền Việt Nam có khả
năng chuyển đổi tự do với các đồng tiền phổ biến khác trên thế giới.
Tài liệu tham khảo:
66
Tài liệu tham khao:
1. Báo cáo sức ép tỷ giá tháng 8/2015 – BSC
2. Điều hành chính sách tiền tệ Việt Nam: Những thách thức và yêu cầu, TS. Tô Ánh
Dương, Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lân KHXN Việt Nam
3. NHNN nới biên độ tỷ giá: Phù hợp và đúng thời điểm, Phương Dung, Dân trí, Ngày
12/08/2015
4. Các giải pháp điều hành tỷ giá, quản lí ngoại hối và kinh doanh vàng, Vụ trưởng Vụ
Quản lý ngoại hối Nguyễn Quang Huy
5. Tỷ giá và niềm tin, Hà Thành, Báo Đầu tư, Ngày 22/02/2015
6. Đánh giá chính sách điều hành tỷ giá tại Việt Nam, Trung tâm thông tin và dự báo
kinh tế-xã hội quốc gia, Tạp chí Tài chính, Ngày 06/05/2015
7. Các website NHNN (sbv.gov.vn); VnEconomy (vneconomy.vn); CafeF (cafef.vn);
taichitaichinh.vn; wikipedia.org; Tổng cụ thống kê gso.gov.vn
[Street Address] [City], [State][Postal Code]
[Web Address]
Recommended