MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC THÂN THIỆN PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC QUẢN LÝ LỚP HỌC
MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC THÂN THIỆNPHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC QUẢN LÝ LỚP HỌC
Tác giả: TS. ĐẶNG HUỲNH MAI
Nhà giáo ưu tú, TS. Đặng Huỳnh Mai sinh ngày 15/10/1952 tại Đồng
Tháp. Bắt đầu sự nghiệp giáo dục từ năm 1968. Từ năm 1984 là Phó ty Giáo
dục kiêm Hiệu trưởng Trường Cán bộ Quản lý tỉnh Cửu Long. Từ năm 1989
đến 2001 là Giám đốc Sở GD-ĐT Vĩnh Long và từ năm 2001 là Thứ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
LỜI GIỚI THIỆU
Tổ chức và quản lý lớp học tưởng là vấn đề bình thường và đơn giản,
song thực chất lại là vấn đề rất quan trọng. "Lớp học" là môi trường hình
thành và phát triển nhân cách hài hòa cho thế hệ trẻ. Lớp học được tổ chức
quản lý tốt sẽ tạo ra hiệu quả to lớn cho sự phát triển giáo dục của đất nước.
Tổ chức và quản lý lớp học là vấn đề rất đáng được quan tâm. Trước
đây, đã có những nghiên cứu và đánh giá ban đầu. Tuy nhiên chưa có một
công trình nào mang tính hệ thống và toàn diện trên cả hai lãnh vực: tiếp thị
giáo dục học và quản lý giáo dục.
Cuốn sách này có thể coi là ấn phẩm đầu tiên có một cách nhìn tích
hợp cả lãnh vực nói trên. Tác giả khá tinh tế khi bắt đầu triển khai vấn đề toàn
cục từ khía cạnh xây dựng môi trường giáo dục thân thiện. Đây là vấn đề
mang tính nhân văn, là yếu tố sống còn để học sinh "học được là được học".
Từ điểm tựa quan trọng và nền tảng này, tác giả bàn đến các vấn đề
chi tiết cho việc tổ chức quản lý lớp học với các chỉ dẫn rất cụ thể: việc chuẩn
bị cho năm học mới, xây dựng không gian lớp học có tính thân thiện, sắp xếp
chỗ ngồi cho học sinh, kể cả cách trang phục của giáo viên... và nhiều vấn đề
cụ thể khác.
Là một nhà sư phạm từng gắn bó trực tiếp với bục giảng, lại sớm có
duyên với công tác quản lý, từ quản lý giáo dục tại địa phương đến trung
ương, tác giả đã có những trang viết rất sinh động và tâm huyết.
Cuốn sách được xem như cẩm nang dành cho các thầy cô giáo trẻ,
những người làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm trong trường phổ thông.
Đây còn là một tài liệu lý luận góp phần làm phong phú cho việc vận
dụng quản lý giáo dục vào một cấp độ đặc biệt trong quá trình giáo dục: cấp
độ lớp học (Giáo dục học đã từng đề cập tới. Bàn về "Bài học" là một ví dụ.
Song quản lý giáo dục như đã nói còn để lại nhiều khoảng trống).
Tôi rất hân hạnh được giới thiệu cuốn sách. Hy vọng đây là một tài liệu
hữu ích được dùng trong trường phổ thông, trường sư phạm, trường bồi
dưỡng đào tạo cán bộ quản lý giáo dục.
PGS.TS Đặng Quốc Bảo
(Nguyên Hiệu Trưởng trường Cán bộ quản lý
Giáo dục - Đào tạo Bộ Giáo dục & Đào tạo)
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói bất cứ một quốc gia nào, nơi nào trên thế giới người ta đều
dành nhiều tâm huyết, trí tuệ và sức lực tài lực cho lĩnh vực đào tạo con
người. Đó cũng là thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về Giáo dục. Ở nước ta,
Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ. Trong bản đi chúc
ngày 10 tháng 5 năm 1969 Người đã viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”
Nhìn chung, mỗi nước đều có một nền giáo dục riêng, nhưng xét về cơ
bản và ở một mức độ nào đó thì không có sự chênh lệch lớn về yêu cầu kiến
thức đối với lĩnh vực giáo dục phổ thông. Sự khác nhau chủ yếu thường được
thể hiện ở con đường hình thành kiến thức và cách thể hiện việc giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ ở mỗi lứa tuổi. Gần đây, ở Reggio Emilia, một thành phố
nhỏ phía bắc nước Ý đã tổ chức nhiều chương trình dành cho học sinh tiểu
học. Nội dung của chương trình này là tổ chức quá trình dạy học với mục tiêu
nhằm giúp học sinh phát triển tư duy độc lập, khả năng giải quyết các vấn đề
liên quan đến cuộc sống xung quanh. Các nhà giáo dục tham gia chương
trình, sau quá trình thực nghiệm đã đưa ra nhận định: Môi trường giáo dục là
một không gian, trong đó có thầy là người tổ chức, trò là người thực hiện với
công cụ là sách giáo khoa và thiết bị dạy học. Giáo dục muốn có hiệu quả thì
phải có một môi trường học tập mà trong đó người giáo viên khi thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy phải biết tìm cách thu hút để có được sự tham gia của
học sinh. Những người thực hiện chương trình cho rằng môi trường học tập
chính là “người thầy thứ hai" trong nhà trường. Điều này có nghĩa là chính
không gian, môi trường cùng điều kiện học tập là những yếu tố quyết định, cổ
vũ, thúc đẩy trẻ hình thành động cơ thái độ học tập đúng đắn. Ngoài ra, nó
còn giúp trẻ giảm bớt sự căng thẳng, lo sợ trong quá trình học. Một môi
trường giáo dục như vậy được gọi là người thầy thứ hai tham gia quá trình
dạy và học. Hay nói như cách mà nhiều người hiện nay đang sử dụng thì đó
là môi trường giáo dục thân thiện.
Như vậy, nếu nhìn từ góc độ môi trường giáo dục là người thầy thứ hai
trong quá trình dạy và học thì môi trường giáo dục thân thiện rất cần một hệ
thống Phương pháp tổ chức với nhiều lĩnh vực hoạt động phục vụ nhiệm vụ
giảng dạy và giáo dục. Hệ thống Phương pháp tổ chức này được giáo viên
phối hợp, thiết kế và triển khai thực hiện với mục tiêu dù là học sinh giỏi, khá,
trung bình hay yếu kém đều có thể học được và được học. Sự học được và
được học ở đây được hiểu trong khuôn khổ của môi trường giáo dục thân
thiện.
Với chùm sách viết về thôi trường giáo dục thân thiện, chúng tôi dự
kiến sẽ có 5 quyển:
Quyển l: Phương pháp tổ chức và quản lí lớp học
Quyển 2: Kiểm tra đánh giá - Yếu tố quyết định trong đổi mới phương
pháp dạy học
Quyển 3: Phương pháp tiếp cận học sinh tiểu học
Quyển 4: Phương pháp xây dựng mối quan hệ giáo viên - gia đình - xã
hội
Quyển 5: Phương pháp dạy học phát triển tư duy cho trẻ
Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi muốn giới thiệu đến
bạn đọc một phần cơ bản về lý luận cũng như những thực tiễn trong nước và
trên thế giới mà chúng tôi đã có dịp tiếp cận. Phương pháp tổ chức quản lí
lớp học từ lúc người giáo viên nhận quyết định phân công giảng dạy (đối với
giáo viên cũ) hoặc quyết định phân công về làm việc tại một ngôi trường nào
đó (đối với giáo viên mới ra trường) cho đến khi bắt đầu những ngày dạy học
chính thức của năm học mới.
Hy vọng những vấn đề được nêu ra trong quyển sách này là một sự gợi
ý cho giáo viên trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt, đối
với những giáo viên lần đầu tiên đứng lớp.
Tuy nhiên, vì là lần đầu tiên nghiên cứu nên chắc chắn không tránh
được các thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, chia sẻ của quí
độc giả. Các ý kiến xin gửi về hộp thư điện tử
Trân trọng cám ơn.
NGUT TS. Đặng Huỳnh Mai
PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC QUẢN LÝ LỚP HỌC
Hai học sinh đánh nhau trong lớp khi cô giáo đang giảng bài và nhiều
cán bộ, lãnh đạo đang dự giờ. Cô giáo sợ quá, giả vờ như không hay biết cố
gắng nói to hơn. Nhưng vô ích, hai đứa trẻ vẫn len lén đánh nhau. Cuối giờ,
đại biểu nào cũng nhận xét là cô giáo đã tổ chức quản lý lớp học chưa tốt. Từ
đó, với nhiều năm trôi qua trong cuộc đời dạy học, cô giáo luôn băn khoăn,
trăn trở và tự đặt ra cho mình câu hỏi: "Thế nào là tổ chức quản lý tốt cho một
lớp học?"
Có lẽ câu hỏi này không phải chỉ dành riêng cho cô giáo huyện Hà
Quảng mà nó còn là sự băn khoăn của rất nhiều thầy cô giáo tâm huyết với
nghề dạy học. Nhiệm vụ chính của người giáo viên là "dạy tốt và học tốt”,
nhưng để có một chất lượng thực sự thì vấn đề quan trọng là tổ chức quản lý
lớp học. Vậy làm thế nào để tổ chức quản lý tốt một lớp học?
Trong thực tế, đôi khi để trở thành một giáo viên giỏi chỉ cần có trình độ
chuyên môn vững và hết lòng thương yêu học sinh là có thể đạt được. Nhưng
để trở thành người giáo viên tổ chức và quản lí giỏi một lớp học là điều không
phải đơn giản. Nhiều nhà giáo dục học đã đưa ra định nghĩa: Tổ chức quản lý
tốt lớp học là những công việc mà các nhà giáo cần phải thực hiện sao cho
mỗi một học sinh đều được tiếp nhận kiến thức trong khuôn khổ thời gian và
nội dung quy định của chương trình nhằm đạt được mục tiêu giáo dục.
Như vậy, để tổ chức quản lý (TCQL) tốt lớp học, giáo viên cần phải làm
cho mỗi học sinh ham thích đến trường, muốn được học hỏi, được trang bị,
được giáo dục một cách toàn diện.
Để tổ chức quản lý tốt lớp học giáo viên có nhiều việc phải chuẩn bị.
Chuẩn bị cho ngày khai giảng năm học mới, sắp xếp không gian cho lớp học,
những công việc cần thiết cho việc dạy và học mỗi ngày, những hoạt động
ngoài giờ lên lớp... Để giúp cho giáo viên chuẩn bị tốt, trong khuôn khổ của
cuốn sách này, chúng tôi giới thiệu một số vấn đề cơ bản về phương pháp tổ
chức quản lý lớp học.
Phần 1. Tổ chức quản lý là gì?
Nhiều người cho rằng có hai yếu tố cần quan tâm trong khi tổ chức
hoạt động giáo dục: Một là yếu tố hoạt động quản lý và hai là yếu tố tổ chức.
1.1 Hoạt động quản lý
Ở góc độ lý luận, hoạt động quản lý là một hoạt động có định hướng, có
chủ đích của người lãnh đạo trong một tổ chức nhằm đạt được mục đích,
mục tiêu và có hiệu quả tốt. Có 4 chức năng quản lý:
1. Lập kế hoạch để thực hiện nhiệm vụ.
2. Tổ chức để mọi thành viên cùng tham gia thực hiện.
3. Điều hành quá trình thực hiện.
4. Kiểm tra và điều chỉnh.
1.2 Tổ chức
Về mặt lý luận, các nhà quản lý cho rằng tổ chức là chức năng thứ hai
của hoạt động quản lý, là quá trình hình thành, thiết kế cấu trúc các quan hệ
giữa các cá nhân, bộ phận trong một tổ chức, để tổ chức đó vận hành theo
đúng định hướng mà mục tiêu đã đặt ra.
Phần 2. Tổ chức quản lý lớp học
Từ lý luận đối chiếu vào thực tế, để tổ chức quản lý tốt lớp học chúng ta
cần chú ý một số công việc cơ bản:
2. 1 Chuẩn bị cho nhiệm vụ năm học mới
Bắt đầu năm học mới, người giáo viên cần chú ý một số nhiệm vụ cơ
bản:
1. Nhiệm vụ mới do Hiệu trưởng phân công.
2. Chuẩn bị phòng cửa lớp học mới.
3. Tiếp nhận sổ sách, hồ sơ học sinh của lớp mới.
4. Dự kiến việc xếp chỗ ngồi cho học sinh.
5. Phổ biến nội qui của lớp để hình thành thói quen tốt cho học sinh.
6. Khảo sát chất lượng học tập của học sinh.
7. Xây dựng kế hoạch dạy học.
8. Chuẩn bị giáo án dạy học:
a) Đánh dấu những chỗ cần điều chỉnh, những điểm mới về nội dung
trên giáo án cũ (nếu giáo viên được phân công dạy cùng cấp lớp của năm
học trước).
b) Xem lại những chỗ đã ghi chú là không thành công để chuẩn bị
những nội dung dự kiến thay đổi hoặc điều chỉnh.
c) Xem lại những chỗ được đánh dấu là thành công trong năm qua để
tiếp tục phát huy.
9. Phân nhóm học sinh để dạy học.
10. Phác họa sơ bộ kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi và phụ đạo học
sinh kém...
11 Xây dựng kế hoạch họp cha mẹ học sinh.
2.2 Tổ chức quản lý tốt lớp học
Tổ chức quản lý tốt lớp học cần bắt đầu từ những ngày đầu tiên của
năm học. Đó là thời điểm để giáo viên thiết kế, tổ chức và quản lí lớp học mới
của mình.
2.2.1 Nhận nhiệm vụ mới
a) Đối với giáo viên mới ra trường hoặc mới chuyển trường:
Trình diện Hiệu trưởng, nộp quyết định điều động và nhận quyết định
phân công nhiệm vụ.
Tiếp xúc với Tổ trưởng ngay sau khi được Hiệu trưởng giao nhiệm vụ.
Làm quen với nhân viên bảo vệ, nhân viên văn phòng, các đồng nghiệp và
nhân viên thư viện, những giáo viên bộ môn khác như giáo viên dạy các môn
năng khiếu, giáo viên nhạc, họa, giáo dục thể chất...
Nếu chưa có đủ thời gian để tiếp xúc trực tiếp với tất cả các đối tượng
trên trước khi bắt đầu nhận công việc thì hãy đề nghị xin danh sách các cán
bộ, giáo viên, công nhân viên của trường.
Cách xưng hô: Gọi bằng thầy hoặc cô, xưng em. Không nên xưng hô
với nhau bằng chú, cháu, cô, con... Cách xưng hô này dễ tạo thành rào cản
và sẽ gặp nhiều khó khăn trong khi làm việc sau này.
b) Đối với giáo viên cũ của trường
- Nên chủ động tiếp xúc với giáo viên mới để giúp họ bớt lo lắng.
- Giúp giáo viên mới tiếp xúc với đồng nghiệp khi có điều kiện.
- Hướng dẫn giáo viên mới một số công việc đơn giản, cần thiết của tập
thể sư phạm.
- Tạo thân thiện với đồng nghiệp mới thông qua những hoạt động đoàn
thể hoặc trao đổi chuyên môn.
c) Một số việc cần làm cho cả giáo viên mới và giáo viên cũ:
1. Tìm hiểu cơ cấu tổ chức của nhà trường.
2. Tìm hiểu những qui định mới của Sở Giáo dục và đào tạo các cấp
ban ngành giáo dục và của nhà trường.
3. Tìm hiểu kỹ những quy định về chương trình giảng dạy của năm học
mới.
4. Ngoài sách giáo khoa, sách giáo viên tìm thêm sách tham khảo có
liên quan đến nhiệm vụ và nội dung dạy học mà giáo viên vừa được phân
công.
5. Tìm hiểu các loại sổ sách cần thiết mà giáo viên phải tham gia thực
hiện trong năm. Tham khảo cách đồng nghiệp đã tìm ra cách tốt nhất.
6. Cộng tác với các tổ chức xã hội, các tổ chức từ thiện có trong
trường.
2.2.2 Phác họa kế hoạch dạy học cơ bản bước đầu
Khi được Ban giám hiệu phân công và giao nhận lớp mới, giáo viên
không nên xin đổi lớp. Nếu gặp phải khó khăn giáo viên phải trình bày với
Ban giám hiệu. Sau khi nhận lớp, người giáo viên cần bắt tay vào việc xây
dựng kế hoạch dạy học. Có thể nghiên cứu các bước như:
1. Gặp Hiệu phó phụ trách cơ sở vật chất hoặc văn phòng để nhận bàn
giao phòng học cho lớp.
2. Xem lướt qua cách trang trí phòng học trong nhà trường, nhất là
những giáo viên trong cùng khối để phác họa ý tưởng trang trí cho lớp học
của mình.
3. Lập danh sách học sinh theo thứ tựa A, B,.C..., gạch chân hoặc có
ký hiệu riêng cho những học sinh cá biệt như học sinh xuất sắc, học sinh
kém, nghèo hoặc quậy phá...
4. Nghiên cứu kỹ kết quả học tập cuối năm học trước và hoàn cảnh gia
đình của từng học sinh.
5. Phác họa trong sổ tay những dự kiến về cách dạy sẽ thực hiện trong
năm học sắp đến.
6. Dự thảo kế hoạch phụ đạo cho học sinh kém và bồi dưỡng học sinh
giỏi.
7. Chuẩn bị kế hoạch ngoại khóa.
8. Suy nghĩ những điều cần trao đổi với cha mẹ học sinh về việc tạo
điều kiện học tập tốt hơn cho trẻ.
2.2.3 Xây dựng không gian lớp học thân thiện
Không gian lớp học bao gồm nhiệt độ, ánh sáng, hình ảnh, khăn trải
bàn, đồ dùng dạy học, chỗ ngồi của học sinh... Những yếu tố này ảnh hưởng
khá nhiều đến tinh thần học tập của học sinh.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, không gian lớp học càng ấm áp, thân thiện
thì trẻ sẽ càng học tốt hơn và hành vi cư xử của trẻ cũng tốt hơn. Vậy làm
cách nào để có thể xây dựng không gian lớp học thân thiện? Sau đây là một
số gợi ý:
1. Tạo ánh sáng tốt cho lớp học
Thiếu ánh sáng trong phòng học sẽ dẫn đến tình trạng làm cho trẻ bị tật
về mắt. Vì thế, người ta rất chú ý đến không gian lớp học, đặc biệt là vấn đề
ánh sáng. Ánh sáng cũng ảnh hưởng khá nhiều đến tính cách của trẻ. Trong
lớp có những khu vực cần được chiếu sáng tốt và những khu vực không cần
quá sáng. Với những khu vực quá sáng, giáo viên có thể trang trí để có ánh
sáng vừa phải bằng cách sử dụng rèm cửa, kệ sách, ti vi, computer, hoa giấy
hoặc những thứ khác.
Trong thực tế, một số học sinh có thể học tốt trong môi trường có ánh
sáng tối đa, nhưng cũng có những học sinh lại phù hợp với ánh sáng vừa
phải, thậm chí có thể có vài học sinh trong lớp thích khoảng không gian mờ.
Chẳng hạn, ánh sáng chói chang thường phù hợp với học sinh hiếu động.
Học sinh trầm tính thường cảm thấy thoải mái khi ngồi ở chỗ ánh sáng vừa
phải. Một số ít khác lại chọn chỗ thiếu ánh sáng. Vì thế, đôi khi giáo viên cũng
nên thay đổi bằng cách thử chuyển những học sinh hiếu động ngồi ở khu vực
ánh sáng mờ và những học sinh trầm tính ngồi ở khu vực ánh sáng tốt một
thời gian ngắn để quan sát phản ứng của trẻ, góp phần giúp trẻ điều chỉnh
hành vi, tính cách ngày càng tốt hơn.
2. Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh
* Quan niệm
Hầu hết các trường học ở Việt Nam đều cho rằng bàn ghế học sinh nên
xếp thành những hàng sát nhau và hướng về bàn giáo viên. Đặc biệt, chỗ
ngồi của trẻ thì gần như cố định.
Trong khi đó, ở nhiều nước trên thế giới, giáo viên thường sắp xếp bàn
ghế học sinh theo kiểu học nhóm, hoặc sắp xếp theo hình chữ U để tất cả học
sinh được đối diện với nhau và giáo viên có thể tiếp cận đến từng học sinh
của mình.
Việc sắp xếp bàn ghế cho từng học sinh trong một lớp học ở Việt Nam
chiếm một khoảng không gian khá lớn. Đặc biệt, ở một số trường, đôi khi có
đến 50, 60 học sinh trong một lớp thì việc sắp xếp bàn ghế sao cho giáo viên
quan sát được từng học sinh là quá khó khăn. Bàn ghế học sinh của chúng ta
nhìn chung là rất nặng, không tiện cho việc di chuyển. Những nơi sử dụng
bàn 4 chỗ ngồi thì lại càng khó khăn hơn cho việc sắp xếp. Vì vậy, nhiều nhà
giáo dục thường khuyên giáo viên nên tự đặt câu hỏi: Mục đích sắp xếp bàn
ghế của bạn là gì, có phải để tất cả học sinh của mình đều được ở trong tầm
chú ý của mình không? Có lẽ đây là câu hỏi rất hay mà mỗi nhà giáo đều cần
phải quan tâm ngay từ ngày đầu tiên khi được giao nhận lớp.
Ở bên Anh (bang Leeds), nơi mà chúng tôi đã có dịp đến tham quan,
ngày học sinh đến lớp đầu tiên của năm học mới, các em tự chọn chỗ ngồi
cho mình trong lớp bằng cách tự đặt bàn và ghế của mình bất cứ nơi nào
trong lớp mà bản thân các em cảm thấy thích (ở đây mỗi học sinh là một bàn,
một ghế). Trao đổi với chúng tôi, giáo viên cho biết là chỉ cần quan sát cách
chọn chỗ ngồi của học sinh là hiểu được phần nào tính cách của các em.
Chẳng hạn như đứa trẻ có tính cách mạnh mẽ thì ngồi đối diện với giáo viên,
trẻ có tâm hồn lãng mạn thì tìm chỗ ngồi bên cửa sổ để nhìn ra bên ngoài bầu
trời, trẻ nhút nhát thì thường chọn chỗ ngồi xa tầm nhìn của giáo viên...
Ở các nước càng tiên tiến thì bàn ghế học sinh hình như càng đơn
giản. Bàn ghế đa phần bằng nhựa. Các em quây quần như một bàn ăn. Học
sinh luôn có cảm giác như đang ở nhà. Nhưng dù xếp bàn ghế như thế nào đi
chăng nữa thì giáo viên cũng cần phải mạnh dạn chuyển đổi chỗ ngồi cho các
em thường xuyên. Bởi vì học sinh nào cũng muốn được thầy, cô giáo quan
tâm. Sắp xếp lại chỗ ngồi là để tạo điều kiện cho học sinh năng động trao đổi
với nhau, giúp đỡ nhau học tập. Đây là một công việc quan trọng và rất cần
thiết khi giáo viên tổ chức quản lý lớp học.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy khoảng 75% cân nặng cơ thể
được nâng đỡ khi người ta ngồi ngay ngắn trên ghế cứng. Điều này đã đưa
đến sự giải thích là vì sao cơ mông của con người dễ bị áp lực và dẫn đến sự
mệt mỏi không thoải mái khi phải ngồi nhiều. Vì thế, người ta khuyến cáo là
phải cho phép có sự thay đổi tư thế ngồi thường xuyên ở mỗi người trong khi
làm việc. Với trẻ em cũng thế. Từ những nghiên cứu trên đã giúp các nhà
giáo dục đưa ra ý niệm là cần chú ý hơn khi trang bị chỗ ngồi cho các em,
phải tạo cho các em luôn có cảm giác thoải mái khi học tập. Có nghĩa là lúc
thì ngồi, khi thì đứng lên quan sát, lúc khác lại ngồi ở sàn lớp học để cùng
nhau trao đổi.
* Một số nguyên tắc khi thiết kế chỗ ngồi cho học sinh
- Cho dù học sinh ngồi ở đâu trong lớp, trong lúc giảng bài giáo viên
phải luôn quan sát được học sinh của mình.
- Tất cả học sinh của lớp đều có thể nhìn thấy giáo viên, xem được đầy
đủ các động tác của giáo viên lúc hướng dẫn và giảng dạy kể cả trong lúc
đứng cũng như ngồi ở vị trí bàn giáo viên.
- Nên bố trí bàn hai chỗ ngồi hoặc một bàn một ghế riêng cho học sinh
thì càng tốt. Như vậy, sẽ có không gian trống để giáo viên có thể di chuyển
đến gần học sinh, học sinh nào cũng sẽ được giáo viên quan tâm, quan sát
và giúp đỡ trong khi học tập. Mặt khác, học sinh cũng có chỗ trống để đồ
dùng học tập cá nhân của mình.
- Trong trường hợp ở những vùng khó khăn vẫn phải sử dụng bàn bốn
chỗ ngồi thì giáo viên nên lần lượt chuyển đổi chỗ ngồi cho trẻ sao cho em
nào cũng được ra bên ngoài cùng, được tiếp cận với cô giáo, thầy giáo. Tất
nhiên vẫn có những trường hợp đặc biệt, trẻ rất sợ khi giáo viên tiếp cận. Khi
gặp trường hợp học sinh quá sợ thầy cô không dám đến gần thì giáo viên cần
phải đổi chỗ cho trẻ ra ngồi bên ngoài. Tuy nhiên điều cần thiết là phải giúp
đỡ những học sinh kiểu này từng bước từng bước một và thật tế nhị.
- Chỗ ngồi của học sinh phải xa các chỗ cắm điện. Mặt khác, các ổ cắm
điện trong phòng học phải thật an toàn, không nên sử dụng những dây điện
cũ hoặc bị mòn. Bảo vệ cẩn thận những thiết bị có khả năng gây nguy hiểm
cho học sinh.
- Khi xếp chỗ ngồi cho học sinh cần chú ý hệ thống cửa sổ để điều
chỉnh ánh sáng và gió, không nên để bị mưa hắt vào chỗ các em ngồi. Cũng
không nên vì ngại đóng mở cửa sổ mà mặc dù vẫn có hệ thống cửa sổ nhưng
luôn đóng kín. Tốt nhất là phân công học sinh luân phiên mở, đóng các cửa
sổ của lớp. Mặt khác giáo viên cũng nên dạy và hướng dẫn cho học sinh cách
thoát hiểm khi cần, hoặc khi có hỏa hoạn xảy ra.
- Nên tham khảo nguyên vọng học sinh khi xếp chỗ ngồi cho các em.
Làm được điều này là đã thể hiện được phần nào tính dân chủ mà giáo viên
đã bắt đầu luyện tập cho trẻ ngay khi còn trên ghế nhà trường. Trong những
tuần lễ đầu tiên, khi giáo viên chưa thể nhớ hết tên học sinh thì nên có bảng
nhỏ ghi tên các em vào vị trí ngồi của các em. Giáo viên sẽ gọi đúng tên từng
em một. Học sinh sẽ rất vui, tình cảm tốt đẹp ban đầu giữa giáo viên và học
sinh sẽ được thiết lập.
3. Tạo cơ hội cho học sinh được thường xuyên di chuyển.
Trước đây người Việt Nam chúng ta có quan niệm học sinh ngoan, học
sinh học tốt nhất là các em ngồi im một chỗ, luôn luôn vâng lời và nhất nhất
làm theo đúng với những gì giáo viên dạy bảo. Học sinh hay nghịch trong lớp
là học sinh cá biệt. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây đã chứng minh
rằng học sinh cần phải hoạt động trong quá trình tiếp thu kiến thức.
Sự hoạt động ở mức độ tối thiểu là trẻ phải được thường xuyên đi
chuyển ngay trong lớp học.
Việc di chuyển của học sinh có thể là đứng lên trả lời câu hỏi của giáo
viên, đi lên bảng làm bài tập, cho từng đôi học sinh lên bục giảng thực hành
hỏi đáp theo những nội dung đã được giáo viên giảng dạy hoặc minh họa một
nội dung nào đó trong khi giáo viên dạy bài học mới...
Khi giáo viên tổ chức cho học sinh di chuyển để được tham gia một
trong những hoạt động nhằm giúp các em tìm hiểu bài mới thì cũng chính là
giáo viên tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào quá trình dạy học của mình.
Khi trẻ được cùng tham gia thì giờ học sẽ trở nên sinh động, sự tiếp thu
kiến thức của trẻ sẽ tốt hơn. Nhiều nghiên cứu còn chứng minh rằng việc hình
thành động cơ học tập của trẻ sẽ tốt hơn nếu chúng được di chuyển từ chỗ từ
này đến chỗ khác ít nhất một lần / buổi học. Đặc biệt, với nhóm học sinh được
xem là hiếu động trong lớp thì số lần di chuyển trong một buổi nên nhiều hơn,
và chính các kiểu di chuyển đó người ta gọi là sự định hướng hoạt động của
trẻ một cách có tổ chức. Chẳng hạn, khi thì để cho học sinh ngồi chăm chú
nghe giáo viên giảng bài, khi thì xếp cho chúng được đứng quanh thầy, khi thì
cho cả lớp ngồi xuống đất tham gia một trò chơi, khi thì ra sân tập thể dục,
hoặc có khi lại tổ chức cho trẻ vào học trong nhà bảo tàng, thư viện tỉnh,
thành phố...
4. Sử dụng đúng lúc đồ dùng học tập mà giáo viên đã chuẩn bị
Giáo viên nên chuẩn bị sẵn một số đồ dùng dạy học đủ phục vụ cho
việc dạy học ở tuần lễ đầu tiên của năm học và sắp xếp thật hợp lý vào một
góc của lớp.
Tuy nhiên, khi ngày đầu tiên thầy, trò tiếp xúc giáo viên nên chọn đồ
dùng dạy học thật ấn tượng để thay cho lời chào hỏi đầy thân thiện. Ví dụ
như một bức tranh đẹp, bức tượng về một người mà nhân dân địa phương
kính trọng, một công cụ lao động hoặc một thứ gì đó có ý nghĩa với cuộc sống
gia đình các em, một cây đàn với bài hát mà trẻ thích, một điệu múa dân tộc
đặc trưng...
Ở Hawai, vào ngày đầu năm học, giáo viên thường cùng với học sinh
ăn khoai sọ. Trong khi ăn giáo viên nói với học sinh là tổ tiên mình những
ngày đầu tiên đến hòn đảo này đã sống với nguồn lương thực chính là khoai
sọ. Chúng ta ăn khoai là để luôn nhớ đến công lao đó. Các em phải nhớ rằng
nhiệm vụ của các em là phải học giỏi để không phụ lòng tổ tiên. Hay như ở
khu vực Tây Bắc, có những trường học có nhiều học sinh người dân tộc.
Ngày đầu đến lớp các em còn nhiều lúng lúng và lo sợ. Giáo viên cùng các
em hát múa một bài hát đơn giản và phổ biến của đồng bào dân tộc khi tết
đến hoặc được mùa. Sau khi được múa cùng giáo viên, các em học sinh dân
tộc cảm thấy tự tin hơn, bớt đi cảm giác lo sợ. Một ví dụ khác, có một lớp học
ở vùng sâu nơi có rừng ngập mặn thuộc đồng bằng sông Cửu Long, khi mà
trẻ chỉ quen với khái niệm di chuyển bằng thuyền, lần đầu tiên thầy giáo đưa
hình ảnh chiếc xe ô tô chạy trên đường, học sinh cả lớp reo hò:
A! Tàu chạy trên đường!
Cả lớp vây quanh thầy và hỏi rất nhiều về việc làm sao mà tàu lại chạy
được trên đường phố. Thế là lớp học đã có một sự khởi đầu tốt đẹp.
5. Giáo viên cần chú ý trang phục chuẩn mực ngay ngày đầu tiên đến lớp.
Việc lựa chọn trang phục trong ngày đầu tiên đến lớp cần chuẩn mực,
phù hợp với mức sống của dân cư và văn hóa ở vùng miền nơi trường đóng
trên địa bàn, đủ để thể hiện phong cách một nhà giáo. Chính điều này cũng
sẽ là một cách giáo dục gián tiếp để giúp học sinh ý thức và tự ý thức được
cách ăn mặc phù hợp với các em. Giáo viên cũng nên nhắc nhở học sinh của
mình về cách ăn mặc "đói cho sạch, rách cho thơm” như ông cha chúng ta đã
từng dạy bảo. Đồng thời giáo viên cũng nên thường xuyên nhắc nhở và yêu
cầu học sinh mang theo áo ấm vào những ngày đông giá lạnh.
Khi chú ý đến trang phục của mình, giáo viên sẽ quan tâm những học
sinh áo rách, áo chưa đủ ấm. Từ đó, tạo động lực để tìm cách vận động mọi
người giúp đỡ cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn ăn mặc sạch sẽ, đủ ấm. Đó
cũng chính là cách để giáo viên giáo dục cho trẻ biết quí trọng và bảo vệ thân
thể của mình.
6. Xây dựng ý tưởng thiết lập góc đồ dùng dạy học (ĐDDH) dùng chung của lớp
Giáo viên cần chú ý dành một chút không gian để đưa một số đồ dùng
dạy học cần thiết, một số chỗ để đồ dùng cá nhân cho học sinh của lớp mình,
có thể gọi đó là góc học tập. Góc học tập của lớp có thể ở bất cứ chỗ nào
trong phòng học miễn sao nó được thiết kế tiện ích, làm cho phòng học đẹp
hơn, hỗ trợ cho các hoạt động dạy và học của giáo viên hoặc để dành cho
học sinh lúc tự học. Ví dụ:
- Một cái gương dành cho trẻ ngắm trang phục,
- Một chỗ dành cho học sinh để mũ bảo hiểm hoặc một vài thứ đồ dùng
cá nhân phục vụ cho việc học tập. Vấn đề cốt yếu ở đây là giáo viên dạy cho
học sinh biết cách sắp đặt để sao cho ngăn nắp, gọn gàng, không làm xấu đi
không gian lớp học. Từ đó, mỗi học sinh xem như đã được giáo dục một phần
về môi trường, các em có cơ hội để học hỏi từ kinh nghiệm từ giáo viên, từ
các bạn cùng lớp bằng cách được thường xuyên quan sát, được tạo thói
quen tự sắp xếp cho ngăn nắp.
- Một chỗ để tủ đựng đồ dùng dạy học dùng chung (có thể do nhà
trường cấp hoặc do phụ huynh học sinh trang bị), giáo viên cùng với học sinh
của mình sắp xếp sao cho thật ngăn nắp, gọn gàng nhưng phải dễ lấy để khi
cần sử dụng là có thể tìm thấy ngay. Có thể xếp theo thứ tự thời gian dạy
học, theo từng chủ đề giáo dục hoặc theo những chủ điểm nào đó do nhà
trường phát động.
Một số quyển sách đọc thêm, sách tham khảo cá nhân dành cho giáo
viên và học sinh, những con rối, tranh, truyện, truyện cười bằng tranh, bút
màu… Những thứ này là những thứ có liên quan đến chương trình dạy học
mà giáo viên dạy trong năm học.
- Có thể có một góc dành cho học sinh giỏi Toán, Tiếng Việt, nơi mà
các em tìm thấy những trò chơi hay hoạt động Toán học được cất giữ trong
một góc nhỏ. Có thể có một góc văn chương với nhiều loại sách khác nhau,
những câu truyện hấp dẫn. Những góc học tập này rất cần để giúp các em
khám phá, bắt chước hoặc áp dụng những kỹ năng học tập mới, các em sẽ
cảm thấy được tự do tư duy, sáng tạo. Ở một vài nước tiên tiến trên thế giới
giáo viên còn dành một góc để giáo viên có thể tiếp xúc riêng với nhóm học
sinh tự kỷ, nhóm học sinh năng khiếu làm việc riêng với một nhóm bạn bè do
các em tự chọn.
- Góc học tập còn giúp giáo viên làm việc với những nhóm nhỏ hay
từng em một. Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng góc học tập này như là nơi
giúp đỡ hay rèn luyện thêm cho các đối tượng học sinh khác nhau.
- Giáo viên cũng có thể sử dụng góc học tập để rèn luyện cho học sinh
biết cách hợp tác trong học tập hoặc biết cách làm việc riêng lẻ.
- Giáo viên có thể phối hợp với cha mẹ học sinh của trường khi đưa ra
ý tưởng thiết kế góc học tập, tạo điều kiện cho các nhóm phụ huynh học sinh
thường xuyên gặp nhau để góp phần quản lí các góc học tập này.
- Nhà giáo dục học Bonnie Murry cho rằng, dù chúng ta sử dụng những
góc học tập theo cách nào đi nữa thì điều quan trọng nhất là phải tận dụng
cho hết công năng của chúng. Những góc học tập này có thể giúp các em
củng cố, nắm vững kiến thức, rèn luyện kỹ năng cần có, tạo cơ hội cho các
em tự tìm ra những ý tưởng mới, đồng thời cho phép các em tiếp xúc với
những học sinh khác và tìm kiếm tài liệu học tập.
7. Duy trì hiệu quả của góc ĐDDH dùng chung
Việc thiết lập góc ĐDDH dùng chung phục vụ nhiệm vụ dạy và học
không phải là quá khó khăn đối với các nhà giáo. Nhưng để duy trì được
những hiệu quả của nó mới là điều khó, là điều đòi hỏi giáo viên phải đầu tư
khá nhiều công sức. Muốn duy trì hiệu quả, giáo viên có thể quan tâm một số
yếu tố sau dây:
- Hãy bắt đầu với một góc không cần nhiều hiện vật, nhưng khá đặc
biệt và có sức cuốn hút học sinh chẳng hạn như giáo viên dạy lớp một đặt
vào góc học tập của lớp một chiếc hộp có các chữ số hoặc chữ cái xinh xắn,
bên trong được dấu kín một túi kẹo nhỏ. Khi học sinh tò mò muốn tìm hiểu,
giáo viên đưa ra và chia cho mỗi học sinh một viên kẹo. Khi học sinh đưa tay
nhận các em cần phải nói: “Em cám ơn (cô hoặc thầy) ạ”. Sự ấn tượng bao
giờ cũng phải kèm theo ít nhất một bài học nhỏ, cho dù chỉ là một câu hoặc
một lời nói đúng, chuẩn mực.
- Giáo viên phải biết kết hợp chặt chẽ ĐDDH với nội dung của từng bài
dạy theo chương trình và sách giáo khoa.
- Tạo một góc chứa ĐDDH không cần nhiều, nhưng phải là những thứ
thật cần thiết. Nên dán tên môn học hoặc bài học vào tất cả những tài liệu để
khi cần tìm là thấy ngay.
- Khuyến khích học sinh làm phong phú thêm góc ĐDDH bằng những
bộ sưu tập cá nhân và dụng cụ học tập liên quan đến những bài học đầu tiên.
Từ đó học sinh có thể dễ dàng nhận ra sự chuẩn bị chu đáo của thầy cô, rèn
luyện dần thói quen tham gia chuẩn bị bài học, tham gia quá trình giảng dạy
cùng với giáo viên.
- Ở các nước tiên tiến và ngay cả một số nước trong khu vực giáo viên
luôn chú ý để trưng bày những "tác phẩm”, những thành quả lao động do
chính học sinh đã làm ra hơn là ĐDDH của giáo viên. Hầu như xung quanh
lớp học chỉ có sản phẩm của học sinh, còn ĐDDH chỉ để làm mẫu ở một vị trí
khiêm tốn của góc ĐDDH của lớp mà thôi. Như vậy thật ra giáo viên chỉ cố
gắng chọn lựa một vài ĐDDH thật có ý nghĩa để lôi cuốn học sinh vào tiết học
đầu tiên, còn về sau học sinh sẽ bổ sung dần. Đây chính là cách tốt nhất để
giáo viên duy trì hiệu quả thiết thực góc ĐDDH của lớp mình.
- Cũng nên khuyến khích sự hỗ trợ từ gia đình học sinh để cha mẹ các
em vừa được tham gia, vừa gắn bó với quá trình giảng dạy của thầy cô giáo,
vừa góp phần duy trì góc ĐDDH một cách hiệu quả. Ở một trường tiểu học
của Bắc Kinh, bên cạnh cửa vào lớp có một tấm bảng khoảng 1sm x O,8m
dành cho mỗi trẻ được tự giới thiệu về mình một lần trong năm học, với thời
gian một tuần lễ. Nội dung trình bày do cha mẹ học sinh thiết kế, phần lớn
bằng hình ảnh hoạt động của trẻ cùng một số hình ảnh của ông bà cha mẹ và
các thành viên trong gia đình các em.
2.2.4 Giáo viên tổ chức lớp học đã được phân công
1. Cử lớp trưởng, tổ trưởng học tập
- Đối với lớp một, giáo viên nghiên cứu và tạm cử lớp trưởng, lớp phó,
tổ trưởng, tổ phó trong ngày đầu tổ chức lớp.
- Đối với các lớp khác giáo viên có thể vừa tham khảo danh sách cán
bộ lớp của năm học trước vừa cho học sinh tự bầu chọn lớp trưởng, lớp phó,
tổ trưởng, tổ phó.
- Ngày nay, nhiều nước trên thế giới cũng đã nghiên cứu để cải tiến các
cách chọn lớp trưởng. Chẳng hạn mỗi tuần lễ hoặc mỗi tháng giáo viên chọn
một lớp trưởng. Mục đích của việc làm này là luyện tập và đào tạo học sinh,
cho làm quen với công tác quản lý ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. Với
quan niệm mới, người ta cho rằng không nên chỉ có một lớp trưởng trong suốt
một hoặc nhiều năm học. Làm như vậy là tạo sự chủ quan cho một trẻ và
không đào tạo được nhiều trẻ khác. Một học sinh nhiều năm làm lớp trưởng
khi vào đời chắc chắn sẽ gặp nhiều thuận lợi, nhưng chắc chắn cũng sẽ gặp
không ít khó khăn bởi vì các em quen chỉ huy, ra lệnh và đôi khi cũng quen áp
đặt người khác. Ở Việt Nam, trường quốc tế á Châu cũng đã áp dụng hình
thức cho học sinh luân phiên làm lớp trưởng trong nhiều năm qua. Đa phần
những đứa trẻ sau một thời gian được giao làm lớp trưởng thường linh hoạt
nhanh nhẹn và năng động hơn.
- Việc cử tổ trưởng cũng tương tự như cử lớp trưởng. Tùy theo số
lượng học sinh của lớp, mỗi tổ có thể có từ 6 đến 10 học sinh. Một tổ thường
bao gồm từ học sinh khá giỏi đến học sinh yếu kém. Các thành viên của tổ
thường ngồi theo từng cụm hoặc theo dãy từ bàn trên xuống tận bàn dưới
cùng. Giáo viên nên tạo thói quen cho tổ trưởng, tổ phó biết quan tâm đến sự
khó khăn của các bạn trong tổ. Theo dõi và ghi lại sự tiến bộ của tổ viên trong
học tập là chính không nên quá chú trọng vào việc theo dõi và chú trọng đến
lỗi lầm của các bạn. Có được sự giáo dục như vậy thì mới thật sự là xây
dựng môi trường thân thiện cho trẻ trong suốt những năm tháng học tập ở
nhà trường.
2. Cách chia nhóm học sinh
Chia học sinh thành các nhóm để dạy học phần nào chứng tỏ khả năng
tổ chức và quản lí của một nhà giáo. Nhóm linh hoạt hơn tổ. Tổ giống như
một đơn vị hành chính của lớp trong suốt một năm học. Trong khi đó nhóm có
thể thay đổi theo từng tiết, từng buổi học. Mục đích chia tổ là để thực hiện
nhiệm vụ quản lý học sinh, còn mục đích chia nhóm là để dạy học, để giáo
viên đưa ra phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh. Phương
pháp dạy học quyết định chất lượng và hiệu quả giảng dạy và học tập. Hay
nói cách khác, hiệu quả giáo dục phụ thuộc phần lớn vào phương pháp dạy
học cụ thể, phương pháp tiếp cận và tác động trực tiếp lên từng đối tượng
học sinh.
Vì vậy việc phân chia học sinh thành từng nhóm để các em học tập vừa
sức, tiến bộ dần, học tốt hơn là một việc làm có ý nghĩa về chiều sâu của quá
trình dạy học. Việc thành lập các nhóm học tập thường được thực hiện sau
khi giáo viên đã phân công tổ trướng, tổ phó, lớp trưởng, lớp phó. Tức là xuất
hiện sau khi giáo viên đã thực hiện nhiệm vụ dạy học và hiểu phần nào khả
năng tiếp thu của trẻ. Sự hình thành các nhóm học tập luôn kèm theo sự
quyết định đổi mới phương pháp giảng ấy của các nhà giáo khi thực hiện
chương trình dạy học trên lớp. Nhóm học tập có cách phân chia khác với sự
phân chia thành các tổ. Có một số cách chia nhóm như:
a) Phân nhóm theo số lượng
* Nhóm lớn:
Nói chung, một tập thể lớp cũng được xem là một nhóm lớn trong các
nhóm của học sinh. Giáo viên có thể có nhiều cách chia nhóm theo các mục
đích giáo dục và giảng dạy đối với các môn học khác nhau. Ví dụ như khi giáo
viên tổ chức cho học sinh sinh hoạt tập thể lớp hoặc trao đổi về một nội dung
nào đó như giới thiệu nội qui, dạy hát, dạy vẽ, dạy trò chơi, hay dạy về bổn
phận của con cái đối với cha mẹ... giáo viên có thể sử dụng hình thức nhóm
lớn (cả lớp).
Khi giáo viên được giao nhiệm vụ giảng dạy với một lớp học bao gồm
các đối tượng đồng nhất như: tất cả học sinh là yếu hoặc tất cả học sinh đều
là giỏi. Giáo viên có thể xếp cả lớp thành một nhóm lớn. Tuy nhiên, điều đáng
nói ở đây là việc chia nhóm lớn kiểu này chỉ có thể tồn tại trong một vài tháng
đầu năm học, thậm chí có thể chỉ một tháng mà thôi.
Nhóm nhỏ:
Giáo viên có thể chia lớp học thành nhiều nhóm, mỗi nhóm từ 4 đến 8
em có cùng sở thích. Có thể chia nhóm các môn năng khiếu, tự chọn, nhóm
các môn cơ bản, nhóm học sinh khá giỏi kèm cặp giúp đỡ học sinh yếu kém...
Những học sinh cùng làm việc chung trong các nhóm này phải hoàn thành bài
tập hoặc một hoạt động nào đó mà giáo viên đã giao. Trong lúc trẻ hoạt động
theo nhóm, giáo viên cố gắng để các em cùng hoạt động, không học sinh nào
được ỷ lại nhóm trưởng hoặc các thành viên của nhóm. Tất cả phải cùng lao
động thực sự và cùng tham gia. Giáo viên luôn phải nhớ rằng trẻ rất cần có
cơ hội để làm việc chung với các bạn khác trong lớp và trong nhiều tình
huống khác nhau. Đó cũng là lý do tại sao khá nhiều giáo viên thay đổi chỗ
ngồi của nhóm vào mỗi buổi hoặc mỗi tiết học.
b) Phân nhóm theo tính chất giáo dục
Để hoàn thành sứ mệnh "dạy người" bên cạnh nhiệm vụ "dạy chữ" hay
nói theo cách khác là để thực hiện trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ trong quá
trình dạy học, giáo viên có thể sử dụng một số cách chia nhóm mang tính
chất giáo dục học sinh như sau:
* Chia nhóm theo khả năng là trình độ của học sinh.
Theo The literacy Dictionary (The Vocabulary of Reading and Writing),
Theodore Harris và Richard Hodges đã đề xuất những cách chia nhóm theo
tính chất giáo dục như sau:
- Nhóm học sinh có cùng khả năng học tập: Với cách phân chia này
giáo viên thường dựa vào kết quả học tập mà học sinh đã đạt được trong
từng môn học mà xếp các học sinh thành từng nhóm. Ví dụ, học sinh đạt kết
quả trung bình (từ 5,00 đến 6,00 điểm) thành một nhóm, học sinh khá giỏi (có
điểm trung bình từ 8,00 trở lên) thành một nhóm, số học sinh còn lại vào một
nhóm. Ngoài ra, dựa theo mức độ thông minh hoặc điểm mà các em đã đạt
được trong từng môn học vào thời điểm đó, giáo viên có thể chia thành một
nhóm chỉ có học sinh giỏi. Các nhóm được thành lập kiểu này thường thích
hợp để dạy môn toán, hoặc các môn học mà giáo viên cần phải giao bài tập
cho phù hợp với trình độ của học sinh.
Nhìn chung, học sinh được chia nhóm theo từng khả năng sẽ giúp các
em dễ dàng phản ánh được toàn bộ năng lực thực của mình. Những học sinh
có cùng trình độ sẽ được xếp chung vào một trong bốn nhóm: giỏi, khả, trung
bình và yếu. Chia nhóm như vậy sẽ giúp giáo viên có điều kiện hướng dẫn
tận tình, nhất là đối với nhóm học sinh yếu kém. Trong khi nhóm học sinh giỏi
có thể hoạt động độc lập.
- Nhóm học sinh có nhiều trình độ khác nhau.Tùy vào mục đích của tiết
dạy, buổi dạy mà giáo viên có thể sắp xếp học sinh làm việc theo các nhóm
với nhiều trình độ, khả năng khác nhau. Điều quan trọng là giáo viên nên giải
thích với học sinh khi lập nhóm kiểu này.
- Nhóm học sinh theo sở thích riêng. Cách chia nhóm học sinh theo
kiểu này thường được thực hiện vào những ngày đầu của năm học. Ví dụ
nhóm học sinh có cùng sở thích đọc sách, nhóm cùng chơi thể thao, bơi lội,
nhóm hát, múa... các em có thể tự tạo nhóm cho mình tuỳ theo sự lựa chọn
của chính các em. Với cách chia nhóm như thế này, học sinh sẽ cảm thấy
mình được tôn trọng, chắc chắn các em sẽ thoải mái trong khi cùng học tập
với nhau.
- Chia nhóm một cách ngẫu nhiên. Giáo viên có thể nhóm các em một
cách ngẫu nhiên khi tổ chức sinh hoạt lớp hoặc một hoạt động ngoài giờ lên
lớp. Mục tiêu của việc tổ chức nhóm kiểu này là nhằm giúp đỡ các em phát
triển những kỹ năng giao tiếp xã hội thông qua quá trình làm việc với những
người bạn chưa thân quen hoặc chưa từng được tiếp xúc trong quá trình học
tập.
- Chia nhóm theo yêu cầu dạy học của giáo liên. Chỉ có chính nhà giáo
mới biết mình cần gì ở các em và các em đang cần gì ở thầy cô giáo của
mình. Nhóm thành lập kiểu này là theo yêu cầu dạy học, vì sự phát triển của
học sinh. Ví dụ khi thấy có một số trẻ có khả năng xuất sắc trong khi học môn
Toán, giáo viên nhóm các em lại với nhau để hướng dẫn cách học kết hợp
nghiên cứu để phát triển tư duy độc lập.
Mặt khác khi cần giúp đỡ cho một số học sinh yếu kém học tốt hơn,
giáo viên có thể nhóm một học sinh giỏi với một hoặc vài học sinh yếu kém để
các em tự giúp nhau. Giáo viên cũng có thể thành lập một nhóm học sinh yếu
kém do mình trực tiếp phụ trách một thời gian, nếu thấy các em tiến bộ thì có
thể chuyển sang thành lập nhóm cùng trình độ. Có một trường hợp, khi cô
giáo chủ nhiệm một lớp bảy phát hiện trong lớp học của mình có hai học sinh
đọc không trôi chảy, viết cũng không được giáo viên đã kêu ầm lên cho mọi
người biết là “có hai học sinh ngồi nhầm lớp” báo chí cũng vào cuộc, thế là bố
mẹ xấu hổ với bà con thôn xóm đánh mắng trẻ và kết quả là hai em này đã bỏ
học, bỏ nhà ra đi. Trong khi đó ở một lớp học khác, khi giáo viên phát hiện lớp
học của mình cũng có tình trạng như thế, cô giáo đã không hề phàn nàn, kêu
ca, âm thầm bồi dưỡng, cứ đến giờ học Tiếng Việt và Toán là cô giáo nhóm
hai em này lại với nhau để giáo viên dạy riêng, còn những giờ học khác thì
giáo viên xác định với hai em rằng đó cũng là giờ mà các em phải rèn luyện
và trao dồi ngôn ngữ. Sau 6 tháng, với cách nhóm học sinh để dạy kiểu này
hai em học sinh đó đã theo kịp các bạn. Kết quả kiểm tra cuối năm của hai
học sinh này đã đạt vừa đủ số điểm cần thiết để được khẳng định là lên lớp.
Có lẽ với cách làm này suốt đời hai em học sinh kia không bao giờ quên được
cô giáo chủ nhiệm của mình, một nhà giáo thật sự chân chính.
Hay như cô giáo Nguyễn Thị Dân, với hơn 40 năm dạy lớp một trường
Tiểu học An Tịch, Đồng Tháp, cô đã có cách chia nhóm như sau: Sau mỗi
buổi dạy học, cô luôn dành một tiết để ôn tập cho tất cả học sinh của lớp. Quy
định của cô là ai đọc trôi chảy phần tổng kết mỗi ngày học thì được phép ra
về, ai chưa đọc được thì quay về chỗ cuối lớp ngồi học lại, khi nào đọc trôi
chảy thì mới được ra về.
Thế nhưng chỉ sau một tuần đầu tiên là cô đã phát hiện ra một số học
sinh xuất sắc, học sinh giỏi.
Cô đã yêu cầu học sinh giỏi, xuất sắc không được ra về sau khi hoàn
thành nhiệm vụ mà phải nhóm lại cùng với một, hai học sinh chưa đọc được,
hoặc đọc không trôi chảy để giúp các bạn cho đến khi các bạn đọc được trôi
chảy thì cả nhóm mới ra về.
Nhìn chung, việc chia nhóm học sinh để giáo viên dạy tốt và trẻ ham
thích học hỏi là một việc làm thường xuyên, linh hoạt, không cần cố định và
cũng không cứng nhắc. Nó cần thay đổi theo yêu cầu của mỗi môn học, tiết
học, theo từng ngày, từng buổi và từng chủ đề giáo dục. Khi giáo viên làm
được việc này tức là giáo viên đã thể hiện được những nỗ lực để tạo ra sự
cân bằng về khả năng học tập, giới tính và kể cả đặc điểm dân tộc trong một
lớp. Ngoài ra, khi thực hiện chia nhóm linh hoạt, theo mục đích giáo dục như
thế còn có thể giúp cho học sinh hình thành ý thức cộng đồng, giúp các em
quen biết và hiểu rõ nhau hơn mặc dù đã từng chung sống trong một xóm
thôn hay bản làng. Mặt khác, nó còn giúp cho từng học sinh của lớp luôn cảm
thấy mình được tham gia nào quá trình dạy của giáo viên và được học thật sự
cùng với một nhóm hoặc cùng cả lớp. Quá trình làm việc chung với các bạn
khác trong lớp, sẽ giúp học sinh càng ngày trở nên năng động hơn, và tránh
được sự mặc cảm của học sinh yếu kém khi đứng trước các học sinh giỏi.
Vậy đối với những học sinh thông minh thì xử lý bằng cách nào? Có
nhiều người cũng cho rằng trong một nhóm không đồng nhất gồm những học
sinh giỏi và học sinh yếu thì học sinh giỏi dễ có cảm giác cảm thấy bực bội
hay chán nản vì các em thường hoàn thành sớm các công việc của nhóm. Từ
đó dẫn đến tình trạng các em giỏi vào nhóm yếu thường kiêu căng, thể hiện
sự bực tức và có thể xảy ra những hậu quả tiêu cực trong nhóm mà giáo viên
có thể không phát hiện được. Tuy nhiên, nhiều nhà giáo có kinh nghiệm lại
cho rằng học sinh yếu kém cần học hỏi nhiều ở học sinh thông minh, học sinh
giỏi và ngược lại, học sinh thông minh, học sinh giỏi cũng phải có trách nhiệm
dẫn dắt các bạn, đôi khi cũng phải học tập ở các bạn về một lĩnh vực nào đó.
Sự thành lập nhóm cần linh hoạt và các em cần có cơ hội làm việc với nhiều
bạn học khác nhau, học sinh giỏi, thông minh sẽ giảm tính kiêu căng và sẽ
biết chia sẻ cùng các bạn.
Từ đó, chúng ta thấy rằng vẫn phải có nhóm giỏi để các em thi thố tài
năng với nhau trong những giờ học; môn học cần thiết. Với nhóm học sinh
thông minh xếp chung với đối tượng khác thì giáo viên phải giao nhiệm vụ cụ
thể để các em có việc làm. Ở Hawai người ta rất chú ý đến hình thức làm việc
theo nhóm đa dạng. Họ cho rằng đây này là hình thức tốt nhất để đào tạo
người chỉ huy, người hướng dẫn, người lãnh đạo và người giáo viên trong
tương lai. Do đó sự thành lập nhóm là phải luôn thay đổi, vẫn có thể tồn tại
một số loại hình nhóm mà sau khi đạt được mục đích dạy học trong một tiết,
một buổi hoặc một ngày hay một tuần thì có thể tự tan rã để chuyển sang loại
hình nhóm khác.
3. Kỹ thuật thành lập nhóm
Thành
lập
nhóm
Cách thực hiện Mục đích Ví dụ
Ngẫu
nhiên
Hoàn toàn ngẫu
nhiên; học sinh tự
nhóm với nhau theo
sở thích, sở trường
riêng
Khi giáo viên
muốn quản lý các
nhóm có số
lượng bằng
nhau, hoặc vì
muốn các em
làm quen với
nhau một cách
ngẫu nhiên.
Giáo viên chuyền cho
học sinh một cái hộp có
24 tên tất cả các em
trong lớp. Giáo viên yêu
cầu học sinh tự chia
thành 6 nhóm. Như vậy,
giáo viên đã thành lập
được 6 nhóm bằng nhau
về số lượng.
Thành
tích học
tập
Sử dụng kết quả
kiểm tra đánh giá
trình độ học tập của
học sinh; xếp
những học sinh
cùng trình độ như
giỏi, khá, trung
Khi giáo viên cần
dạy học theo
đúng đối tượng,
theo trình độ học
sinh ở các môn
học. Nhất là đối
với các bài tập
Khi giáo viên dạy học
sinh viết chính tả, viết
bằng tiếng nước ngoài.
Các nhóm được giáo viết
1, 2 câu, có nhóm được
giao viết 9, 10 câu tùy
theo trình độ chung của
bình, yếu kém vào
cùng một nhóm
toán, tập làm
văn, chính tả
các em. Như vậy em nào
cũng cảm thấy hoàn
thành nhiệm vụ ít nhất là
trong một tiết học. Đó
cũng là cách xây dựng
động cơ học tập cho trẻ
và nâng dần năng lực
học tập cho học sinh.
Kỹ năng
hoạt
động xã
hội
Nhóm các em theo
những kỹ năng xã
hội tùy theo năng
khiếu của trẻ như:
trẻ hát giỏi, vẽ tốt,
múa hay, có năng
khiếu hoạt động xã
hội, thích làm nhà
lãnh đạo…
Nhằm phát huy
năng khiếu cho
trẻ, tham gia
hướng nghiệp
cho trẻ. Học sinh
cũng cần biết
nhiều công việc
khác nhau để
học hỏi kinh
nghiệm từ khi
còn ở ghế nhà
trường
Học sinh tập trình diễn
văn nghệ; tập thuyết trình
về một chủ đề gần gũi
với trẻ như giới thiệu.
Học sinh tập trình diễn
văn nghệ; tập thuyết trình
về một chủ đề gần gũi
với trẻ như giới thiệu
Sở thích Phân nhóm theo sở
thích của các em
hoặc cho các em tự
chọn bạn để lập
nhóm dựa trên sở
thích hay môn học.
Giúp các em biết
phát huy khả
năng của chính
mình. Sở thích
chính là động lực
để thúc đẩy các
em cùng tham
gia
Khi giáo viên dạy học
sinh những nội dung giáo
dục ngoài giờ lên lớp,
những buổi sinh hoạt
Đoàn, Đội, sao nhi đồng,
giờ học thể dục, mỹ
thuật, học hát...
Bài tập Xếp những học sinh
có cùng năng khiếu
Giáo viên muốn
kiểm tra kết quả
Những học sinh nào
thích vẽ thì được nhóm
trình độ, sở thích
với nhau thành một
nhóm. Bài tập phải
được giao đúng với
năng lực, sở trường
của trẻ để các em
hoàn thành tốt
nhiệm vụ.
học tập của học
sinh đối với từng
môn học cụ thể
bằng sự thể hiện
của học sinh là
hiểu và làm được
bài.
với nhau để có một bài
tập vẽ thay một bài tập
khác mà học sinh không
làm được ở một môn học
không phải là môn toán
hoặc tiếng Việt (đối với
Tiểu học). Ngay cả với
môn Toán, khi học sinh
không làm được bài tập
này, giáo viên có thể giao
một kiểu bài tập
Bài tập Tạo cho trẻ sự tự
tin vào khả năng
của chính mình. Từ
đó các em sẽ giảm
bớt sự sợ hãi mỗi
khi làm bài tập hoặc
thực hiện một hoạt
động mà nhóm trẻ
này được giáo viên
giao cho.
khác mà học sinh có thể
làm được, rồi nâng dần
theo yêu cầu giảng dạy
của giáo viên đối với các
em.
Hiểu
biết phát
triển tư
duy
Xếp các em có hiểu
biết và năng lực
học tập xuất sắc
trong cùng một môn
học hoặc các em ít
hiểu biết về một
môn học nào đó
thành một nhóm
Khi giáo viên
muốn các em mở
rộng tầm hiểu
biết, cho dù đó là
học sinh giỏi
hoặc yếu kém
trong cùng một
môn học. Có thể
tập cho học sinh
Với học sinh giỏi thì giúp
trẻ phát triển tư duy,
nghiên cứu bản chất vấn
đề, chia sẻ với nhóm
những thông tin về kiến
thức tối thiểu mà học
sinh phải học. Với học
sinh yếu kém các em
cũng cần giáo viên nâng
khá giỏi bộc lộ
khả năng làm
giáo viên ngay
khi đang học
cao dần dần sự hiểu biết.
Năng
khiếu
Nhóm những em có
năng khiếu thật sự
được đào tạo để
phát triển nhân tài
cho đất nước.
Khi giáo viên
muốn tạo điều
kiện để nâng kỹ
năng thành kỹ
xảo, giúp trẻ định
hướng "nhất
nghệ tinh, nhất
thân vinh"
Ví dụ như chuẩn bị cầu
thủ bóng đá, ca sĩ, diễn
viên múa, vận động viên
chuyên nghiệp tương lai
cho đất nước...
Thân
thiện
Trong những
trường hợp giáo
viên tổ chức cho
học sinh đi tham
quan, hoặc trong
quá trình sinh hoạt
nhóm các em được
Phép xin chuyển
nhóm.
Giúp các em có
một môi trường
giáo dục thân
thiện thật sự, môi
trường thân thiện
đôi khi cũng giúp
trẻ tạo được
động cơ cho một
hoạt động nào
đó.
Ví dụ như có học sinh A
thường hay bắt nạt bạn
trong nhóm, vài học sinh
yếu đuối hoặc trầm tính
xin giáo viên cho được
chuyển nhóm. Giáo viên
nên đồng ý cho một hoặc
hai em chuyển theo yêu
cầu của các em.
Thân
thiện
Lý do chuyển nhóm
có thể hoàn toàn do
tình cảm thân thiện
giữa các em với
nhau
Nhưng điều quan trọng là
phải giáo dục tốt em A,
theo dõi, giúp đỡ để học
sinh thân thiện trở lại. Vì
nói chung, các em đều là
trẻ con.
2.3 Những ngày dạy học đầu tiên của năm học mới
Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu "Vạn sự khởi đầu nan”, tổ tiên
chúng ta muốn khuyên nhủ mỗi người hãy chuẩn bị thật tốt cho sự bắt đầu
một công việc nào đó. Một sự chuẩn bị tốt bao giờ cũng thường mang lại kết
quả tốt. Vì vậy cho dù là giáo viên mới ra trường hay là giáo viên đã dày dạn
kinh nghiệm thì vẫn phải chuẩn bị thật tốt cho buổi lên lớp đầu tiên của năm
học mới. Khi đã chuẩn bị xong các bước như ở phần trên, giáo viên có thể
sẵn sàng thực hiện kế hoạch buổi lên lớp đầu tiên của mình. Giáo viên chỉ
cần dành từ một đến hai ngày để chuẩn bị cho các bài giảng dạy đầu tiên của
mình trong năm học mới. Tất cả các nhà giáo đều thật sự cần dạy tốt ngay từ
đầu, không được có thái độ chần chừ. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa
nhiệm vụ dạy học với những nhiệm vụ khác của xã hội. Có một số điểm
chúng ta cần chú ý như sau:
2.3.1 Ngày đầu tiên, tuần đầu tiên là thời điểm quan trọng nhất trong suốt một năm học của trẻ
1. Đối với trẻ em trong lần đầu tiên khi tiếp xúc, các em luôn thích quan
sát, nhận xét, đôi lúc còn cố gắng nhớ lại những động tác của cô giáo để về
nhà báo cáo với gia đình và bố mẹ nữa. Hình ảnh, cử chỉ đẹp của giáo viên
mà các em được nhìn thấy ở lần đầu sẽ in đậm trong nhận thức của các em
trong suốt năm học đó.
2. Học sinh luôn chờ đợi để được nhận sự ân cần, ánh mắt trìu mến
của cô giáo, thầy giáo trong những buổi đầu tiên tiếp xúc. Như vậy, thái độ và
cách ứng xử của giáo viên vào thời điểm này là cực kỳ quan trọng đối với trẻ
cũng như đối với chính sự thành công của mình.
3. Tính kỹ luật, trật tự ở bước khởi đầu của các hoạt động cũng là một
điều quan trọng không kém. Bất cứ một sự lúng túng nào xảy ra trong thời
điểm này đều là sự không mong đợi của giáo viên. Mặc dù chỉ là trong vòng
vài tiết, nhưng nếu một số hoạt động của lớp diễn ra trôi chảy thì học sinh sẽ
nghĩ rằng đó là cô thầy giáo tốt và mọi công việc tiếp theo cũng sẽ tiến triển
thuận lợi. Ngược lại, nếu những hoạt động ở thời điểm này mà thể hiện sự
lúng túng, thiếu tính tổ chức, thì các em sẽ dễ dàng mất tập trung, sự thiết lập
trật tự của quá trình giáo dục sau đó chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn.
4. Lời chào đầu tiên: Từ những giây phút gặp nhau của ngày đầu, chắc
chắn rằng giữa giáo viên và các em sẽ phải có một lời chào với nhiều hình
thức như:
* Giáo viên tự giới thiệu về mình trước, không nên quá nhiều lời, những
gì học sinh đã biết rõ thì có thể không cần nói. Tuy nhiên, có những trường
hợp cho dù học sinh đã biết, nhưng nếu giáo viên giới thiệu mà làm cho cả
lớp vui vẻ thì cũng là một điều tốt.
* Điều mà cả xã hội chúng ta hiện nay đang mong đợi là làm cách nào
để có thể ngay từ buổi đầu giáo viên cần phải tập cho học sinh biết nói: “Em
chào cô hoặc em chào thầy ạ" khi các em gặp chính thầy, cô của mình hoặc
các thầy, cô khác, kể cả cán bộ công nhân viên của trường. Để từ đó, khi gặp
bất cứ một người lớn nào đến trường hoặc đến nhà học sinh sẽ tự động nói:
Cháu chào ông, bà, cô, chú ạ!
* Cho học sinh tự giới thiệu:
- Mục tiêu quan trọng của việc xây dựng môi trường giáo dục thân thiện
là phải cố gắng để có được tham gia một cách có hiệu quả của học sinh trong
suốt từng ngày, từng giờ lên lớp. Vì vậy ngay ngày đầu tiên, giáo viên cho tất
cả học sinh được tham gia bằng cách tự giới thiệu về mình.
- Đối với học sinh bán trú (2 buổi trong một ngày), giáo viên dành thời
gian để thông báo cho học sinh biết lúc nào là ăn cơm trưa, nghỉ ngơi theo
thời gian đã quy định. Ví dụ, vào ngày đầu tiên giáo viên có thể giúp các em
đến tìm hiểu phòng ăn cơm, khu vệ sinh, chỗ đặt đệm ngủ trưa..
- Giáo viên có thể nhóm học sinh thành từng cặp yêu cầu các em tìm
hiểu về nhau. Học sinh này có thể giới thiệu thay cho học sinh kia, thay vì học
sinh phải tự giới thiệu về mình. Những cặp học sinh này nếu có năng khiếu thì
cho các em tập trình bày thêm những nội dung cao hơn như: thử nêu những
đặc điểm khác nhau hoặc giống nhau của mỗi em trong một cặp hoặc giữa
hai cặp.
- Để không làm cho trẻ lúng túng ở phút ban đầu giáo viên nên chọn
một hình thức làm mẫu trước. Làm mẫu là thể hiện cách tổ chức, sự chuẩn bị
của chính giáo viên cũng như sự mong đợi của giáo viên về một cách thức
như vậy từ phía các em. Thật ra những lời trong chào buổi ban đầu là hết sức
quan trọng. Giáo viên muốn lớp học của mình nghiêm túc học tập ngay từ đầu
thì hãy chú tâm vào công việc này.
2.3.2 Kinh nghiệm cho ngày đầu tiên của giáo viên Nhiều giáo viên đã tổng kết thành những kinh nghiệm như sau:
1. Đi đến trường và vào lớp sớm hơn những ngày bình thường.
2. Miệng cười thật tươi và nói "Cô chào các em” hoặc “thầy chào các
em" ngay khi bước vào lớp.
3. Giới thiệu và viết tên của mình lên bảng thật đẹp để các em dễ thấy
và nhớ ngay.
4. Thử tổ chức một hoạt động đơn giản, ví dụ như vẽ hoặc viết một vài
tên học sinh lên bảng và để các em tham gia tìm giúp các bạn đó. Sau đó,
giáo viên cho các em lần lượt tự giới thiệu tên họ của mình.
5. Nhắc học sinh ngồi vào chỗ có ghi tên sẵn (nếu giáo viên đã chuẩn bị
trước) khi các em vào lớp. Trong khi chờ đến giờ học, giáo viên có thể gợi ý
cho học sinh kể với nhau theo từng đôi về một chuyện gì đó với bạn như là
chuyện nghỉ hè cùng gia đình, hay là hỏi thăm người bạn ngồi bên cạnh về
những ngày ở quê thăm ông bà trong kì nghỉ hè, về cha mẹ bạn... Chính điều
này sẽ giúp cho giáo viên tạo một không khí thân thiện ngay từ buổi ban đầu
cho lớp học.
6. Giáo viên có thể bắt đầu học sinh với những việc làm hết sức quen
thuộc như điểm danh, cho các em viết lên bảng con tên họ, chiều cao, cân
nặng, thích ăn gì nhất hay người mà trẻ yêu thương nhất.. Với học sinh lớp
một thì giáo viên có thể cho các em hát chung bài hát mầm non quen thuộc
như là bài Tạm biệt búp bê thân yêu...
7. Giáo viên có thể kể một câu chuyện vui đơn giản và cùng cười với
các em để tạo nên một không khí thoải mái, chân tình, học sinh sẽ mất đi cảm
giác hồi hộp và lo sợ. Đặc biệt, đối với những lớp học mà phần lớn là học sinh
dân tộc, giáo viên cho các em múa tập thể một điệu của chính dân tộc mình
sẽ tạo được một không khí thân thiện.
8. Giáo viên có thể nói ngay những yêu cầu quan trọng của cả thầy lẫn
trò để có thể tổ chức quản lý tốt lớp học như sau:
(a) Khi thầy vào lớp tất cả học sinh đứng lên.
(b) Sau khi thầy gật đầu chào lại hoặc đưa tay ra hiệu thì cả lớp ngồi
xuống.
(c) Khi thầy có việc ra khỏi lớp thì lớp trưởng giữ lớp theo lời dặn của
thầy cô.
(d) Nếu học sinh có nhu cầu ra ngoài thì giơ tay xin phép. Đặc biệt, nhu
cầu đi vệ sinh là cực kỳ quan trọng, các em không được ngại, cần mạnh dạn
xin thầy, cô ra ngoài.
(e) Giáo viên hướng dẫn học sinh con đường đến nhà ăn và khu vệ
sinh khi thời tiết tốt hoặc lúc trời mưa (nếu có).
9. Giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện một số công việc trong quá
trình dạy học để chuẩn bị cho việc hình thành những thói quen chung của cả
thầy và trò mỗi khi vào lớp học như sau:
(a) Khi giáo viên đang giảng dạy thì học sinh cần im lặng, lắng nghe,
chưa nên hỏi gì vội chỉ được chuẩn bị câu hỏi mà thôi (Tuyệt đối không được
bắt trẻ ngồi khoanh tay, im lặng và chỉ có biết lắng nghe giáo viên).
(b) Khi giáo viên giảng xong, học sinh được quyền hỏi thầy. Học sinh
giơ tay phải và chờ thầy gọi thì đứng lên và nói: Thưa thầy, cô, tại sao lại như
thế hoặc Thưa thầy, cô, em chưa hiểu chỗ này... Nhìn chung, việc cho các em
rèn luyện những công việc như kiểu này mỗi ngày, sẽ giúp ích rất nhiều cho
việc hình thành thói quen tốt cũng như nuôi dưỡng sự tự tin lớn dần trong mỗi
đứa trẻ.
(c) Thống nhất một số quy định riêng giữa thầy và trò (nếu có). Ví dụ
như khi học sinh đến lớp muộn thì đứng ngay chỗ cánh cửa đi vào lớp, nhìn
thầy, cúi đầu chào và xin phép đi vào chỗ ngồi.
10. Hình thành nội qui cho lớp. Nội qui được hình thành bằng cách giáo
viên cùng với học sinh ghi lại (đối với học sinh lớp lớn), cùng nhắc đi nhắc lại
(đối với học sinh lớp nhỏ), thậm chí có nhiều giáo viên còn mô tả bằng hình
vẽ đủ sức hấp dẫn trẻ những nội dung ở mục 8 và 9. Đây chính là nội quy của
lớp học. Thật ra, để trở thành nội quy thì giáo viên phải bổ sung thêm phần
những hậu quả mà học sinh phải gánh chịu do hành vi vi phạm của các em.
Tuy nhiên ở cấp tiểu học hoặc những năm đầu của cấp THCS khi học sinh vi
phạm nội qui, giáo viên thường yêu cầu học sinh phải học đi học lại nhiều lần
một bài học, làm nhiều bài tập gần giống nhau. Học nhiều chính là sự điều
chỉnh các hành vi của trẻ tốt hơn. Khi phổ biến nội qui giáo viên cần chú ý:
(a) Viết với cỡ chữ to, trang trí đẹp bảng nội quy và dán ở một góc mà
các em dễ nhìn thấy mỗi khi vào lớp.
(b) Có thể copy bảng nội quy cho học sinh mang về nhà để cha mẹ các
em được biết.
(c) Không được yêu cầu học sinh học thuộc lòng hoặc phải nhớ những
gì có trong bảng nội quy. Nội qui chẳng qua chỉ là những bài học giáo dục đạo
đức để giúp học sinh có những thói quen tốt. Ở một trường Tiểu học ở Thụy
Điển, Hiệu trưởng còn yêu cầu giáo viên sân khấu hóa nội quy như là một bài
giảng về những hành vi tốt cần có trong môi trường giáo dục để học sinh nhớ
về những điều xấu không nên làm và những điều tốt cần làm.
11. Giáo viên đưa ra thời khoá biểu chung cho tuần đầu (có thể điều
chỉnh ở các tuần sau cho phù hợp hoàn cảnh hoặc tâm sinh lý của nhiều trẻ
trong lớp) gồm: các tiết học bắt buộc, tiết học tự chọn, giờ ăn trưa, giờ học
hát, thể dục, nghỉ giải lao và những hoạt động ngoài giờ lên lớp.
12. Lập thời khoá biểu dự kiến hoạt động trong một tuần cho chính
mình và học sinh. Điều chỉnh cho ngày mai sau khi rút kinh nghiệm về việc tổ
chức quản lý lớp học hôm nay. Chú ý đưa ra những mục tiêu giáo dục,
phương pháp dạy học, yêu cầu nội dung kiến thức mà giáo viên cần dạy và
học sinh cần học từng ngày một.
13. Phải bắt đầu với những hoạt động học tập đơn giản và mục tiêu
thấp nhất, tức là khi muốn giảng bài mới thì nên bắt đầu từ những điều,
những sự việc mà học sinh đã biết. Giáo viên phải chuẩn bị khá nhiều câu hỏi
dễ để không có một học sinh nào bị giáo viên cho ngồi xuống vì không trả lời
được câu hỏi của mình. Những hoạt động như vậy sẽ giúp các em tự tin hơn
và giảm sự lo sợ trong những ngày đầu thầy trò giao tiếp với nhau và dễ
mang lại sự thành công cho các nhà giáo.
14. Giáo viên nên kiểm soát và giữ đến lạc với học sinh bằng ánh mắt
thân thiện. Không nên bỏ thời gian vào những việc văn phòng ngay từ ngày
đầu. Và đừng bao giờ để học sinh cảm nhận sự vắng mặt của thầy cô. Trong
trường hợp bất khả kháng thì phải nhờ một giáo viên khác dạy thay hoặc
quản lý học sinh.
15. Phải luôn giữ bình tĩnh trước những vấn đề về thái độ chưa tốt của
học sinh. Tuyệt đối không đưa học sinh ra trước lớp để nêu gương xấu. Ví dụ
có trường hợp học sinh đã bắn giấy vào lưng một thầy giáo trong lúc cả lớp
đang chăm chú chép bài, thầy giáo đã quay lại và nói với cả lớp cho thầy
mượn tấm bảng con và vẽ vào đó một vòng tròn, rồi nói tiếp, ai bắn đúng vào
vòng tròn này sẽ được thưởng 10 viên phấn. Cả lớp im lặng. Thầy lại nói:
Thôi, chúng ta học tiếp, hôm nào thầy sẽ thi bắn với các em. Lớp học trở lại
bình thường, đến giờ giải lao thầy giáo đã xoa đầu một bạn. Từ đó về sau
bạn này luôn tỏ ra thân thiện với thầy.
16. Tạo ra hứng thú và nhiệt tình bằng cách gợi ý những đề tài mà giáo
viên dự định dạy hôm sau để học sinh về nhà chuẩn bị, có thể nhờ sự trợ
giúp của cha mẹ như tìm một câu ca dao tục ngữ nói về công cha nghĩa mẹ...
17. Giáo viên đưa ra một số quyển sách và cùng thảo luận với học sinh
về cách giữ sách vở trong năm học. Ví dụ như dạy cho học sinh cách bao bìa
tập, bìa sách cho đẹp. Đây cũng là một hoạt động rất hữu ích vào những ngày
đầu đến trường của trẻ.
18. Giáo viên có thể tổ chức một chuyến tham quan nhỏ với mục tiêu là
có thể đưa học sinh ra khỏi bốn bức tường của phòng học. Ví dụ như tham
quan nhà văn hóa, bảo tàng hoặc đình làng ở ngay địa phương. Trong trường
hợp không thể đưa học sinh ra khỏi trường thì cũng có thể tổ chức cho học
sinh tham quan những khu vực ngay trong khuôn viên nhà trường như thư
viện, góc học tập mà giáo viên đã chuẩn bị và chỉ dẫn các em cách sử dụng
chúng.
Nói chung, một khi giáo viên tạo được bầu không khí thân thiện ban
đầu, tạo được ấn tượng tốt để học sinh nhiệt tình với những hoạt động vào
những ngày đầu tiên đến lớp thì điều đó chắc chắn sẽ dẫn đến thành công
sau này. Việc tạo ra một môi trường thân thiện để dạy và học tốt chính là một
phần của sự tổ chức quản lý tốt lớp học. Đó là điều mà mỗi nhà giáo mong
đợi.
Vài cách làm để giáo viên tự nhắc nhở mình khi tiến hành việc dạy học trong những tuần đầu tiên:
1. Lên danh sách những quy định quan trọng và những việc cần nhắc
nhở học sinh hàng ngày như chào cờ đầu tuần phải đi sớm hơn 5 phút, trước
khi nghỉ giải lao giữa giờ là tập thể dục sân trường và chỗ tập trung các em là
ở đâu...
2. Lập danh sách học sinh cả lớp thật đẹp, gây sự chú ý và đảm bảo
rằng mỗi gia đình học sinh đều có một bản.
3. Phải linh hoạt, bình tĩnh, công bằng và dự đoán trước được những
hành động nghịch phá của học sinh.
4. Nên cho học sinh biết trước những hậu quả của việc vi phạm nội quy
nhà trường, vi phạm luật (ví dụ như luật giao thông đường bộ...).
5. Nên có sẵn đồ chơi và những kế hoạch hoạt động dành cho học sinh
cá biệt.
6. Khuyến khích những cư xử tốt của trẻ bằng cách thừa nhận và tuyên
dương các em trước lớp.
7. Tìm sự hỗ trợ từ những học sinh biết giúp đỡ bạn để giúp mình.
8. Quản lý chặt chẽ học sinh trong những tuần đầu, tuyệt đối không để
xảy ra dù là một sơ suất nhỏ. Đưa ra những chỉ dẫn thật dễ hiểu để các em
dễ làm theo.
9. Hãy luôn luôn bình tĩnh.
10. Bảo đảm học sinh biết cần đem những gì vào lớp hằng ngày.
11. Dạy học sinh những thói quen học tập. Chú ý giúp trẻ biết được
những thói quen ở nhà cần được duy trì, những thói quen ở nhà cần được
thay đổi khi đến lớp.
12. Làm cho học sinh có trách nhiệm với việc học của các em.
13. Theo dõi bữa ăn trưa của học sinh, đặc biệt là trong những tuần
đầu đối với lớp học bán trú.
14. Đừng để học sinh không có ai trông chừng. Nếu bạn phải ra khỏi
lớp mà học sinh vẫn còn ở đó, bạn hãy nhờ một đồng nghiệp trông lớp giúp.
15. Đưa ra những mục tiêu giảng dạy với những tiêu chuẩn thấp nhất
theo yêu cầu giảng dạy trong những ngày đầu để tạo sự phấn khởi và củng
cố dần sự tự tin cho trẻ.
16. Nên cho cha mẹ học sinh biết được mục đích dạy học và giáo dục
trẻ của bạn đối với lớp do mình chịu trách nhiệm.
2.4 Hình thành những thói quen cần thiết
Hình thành thói quen cho trẻ cũng chính là một nhiệm vụ quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục học sinh. Thật ra, trong tiến trình giáo dục, việc hình
thành thói quen cho học sinh cũng là một thành tố trong nhiệm vụ dạy học của
thầy. Đó cũng là lý do tại sao không bao giờ xã hội xem người thầy như là
một "người thợ dạy". Thói quen mà học sinh được hình thành từng ngày, từng
ngày một dưới sự dẫn dắt của thầy cô giáo nhằm tạo thuận lợi cho cả việc
dạy của giáo viên và việc học của trò. Kinh nghiệm cho thấy thói quen không
những giúp cho chúng ta xử lý các vấn đề cuộc sống dễ dàng hơn mà còn
giúp cho trẻ có thể học tốt và ứng xử với nhau tốt hơn. Nhiều nhà nghiên cứu
về giáo dục đã nhận ra rằng tiêu chuẩn để phân biệt giữa những chuyên gia
giáo dục với học sinh hoặc giữa giáo viên giỏi với giáo viên mới vào nghề là ở
chỗ khả năng hình thành số lượng nhiều hay ít các thói quen có ích cho học
sinh.
2.4.1 Hình thành thói quen có ích cho học sinh
1. Có rất nhiều thói quen có ích mà giáo viên cần phải hình thành cho
học sinh của mình trong suốt quá trình dạy học. Thói quen tốt, thói quen có
hiệu quả sẽ giúp học sinh học và hiểu được nhiều hơn bài học và cả cách học
nữa. Có người cho rằng nguyên lý dạy học của giáo viên có thể là: thầy thiết
kế, trò thi công. Trò thi công bằng vốn tối thiểu là những thói quen đã được
giáo viên tạo ra trong ngày hôm qua.
Nhà giáo Jane Kelling ở Texas đã đưa ra nhận định: "Những đứa trẻ
nào thường gặp khó khăn trong việc sắp xếp thời gian của mình, khi được
giáo viên dạy và lập được những thói quen thì đứa trẻ đó được lợi rất lớn”.
Còn nhà giáo Pamela Shannon ở San Diego thì cho rằng: "Tạo ra được thói
quen thì sẽ rất tốt cho cả giáo niên lẫn học sinh. Trẻ con sẽ luôn cảm thấy an
toàn hơn khi chúng có được thói quen”.
2. Những thói quen giáo viên có thể hình thành cho học sinh.
(a) Thói quen truyền thống
- Đến lớp hàng ngày.
- Cả lớp đứng dậy chào khi giáo viên bước vào lớp khi giáo viên chào
kết thúc và bước ra khỏi lớp.
- Đến lớp sớm ít nhất 10 phút để xem lại bài học cũ, chuẩn bị cho bài
học mới.
- Im lặng trong khi giáo viên đang giảng bài.
- Muốn phát biểu phải giơ tay.
- Muốn ra khỏi lớp vì có việc cần hoặc đi vệ sinh phải xin phép giáo
viên.
- Gặp thầy cô trong nhà trường phải cúi đầu chào.
- Khi có khách vào lớp để tham quan, dự giờ, lớp trưởng chờ giáo viên
cho phép thì mới hô to: Học sinh nghiêm! Chào! Cả lớp đứng dậy, chờ giáo
viên cho phép thì mới ngôi xuống.
- Làm đầy đủ các bài tập về nhà ít nhất là các bài tập vừa sức của các
em. Đây là một thói quen có thể nói là cực kỳ quan trọng, giúp trẻ thành công
sau này.
- Thói quen sửa lại bài tập cho đúng một cách cẩn thận. Đây là một thói
quen rất quan trọng mà đôi khi có khá nhiều giáo viên ít chú trọng để hình
thành cho học sinh. Có không ít giáo viên chỉ gạch chân những chỗ sai bằng
bút đỏ, còn học sinh thì mang điểm xấu về nhà, phụ huynh nhìn thấy điểm xấu
thì tặng cho trẻ một roi nhưng cũng không thể biết phải sửa chỗ sai như thế
nào là đúng.
- Xem lướt qua bài học của ngày mai, sau khi đã học xong bài cũ.
- Đọc sách theo yêu cầu của giáo viên để hình thành cho trẻ thói quen
tự đọc sách. Thói quen này cũng rất quan trọng không những cho học sinh
mà còn có thể giúp giáo viên phát hiện ra những học sinh có khả năng hoạt
động trong lĩnh vực nghiên cứu sau này. Đó cũng là một cách bồi dưỡng
nhân tài trong tương lại cho đất nước.
(b) Thói quen trong môi trường giáo dục thân thiện.
Thật ra, việc hình thành những thói quen kiểu này có khi cũng không
phải là điều mới mẻ đối với một số giáo viên. Tuy nhiên, trong quả trình đổi
mới, các nhà giáo dục học rất chú trọng đến việc hình thành những thói quen
để giúp trẻ tự tin, năng động trong tư duy độc lập, dám nghĩ, dám làm và dám
chịu trách nhiệm. Các thói quen này cần thực hiện từng bước một, và cũng
phải trải qua một chặng đường dài với sự tham gia của nhiều nhà giáo kế tiếp
nhau trong suốt 12 năm của giáo dục phổ thông. Một số thói quen cần xây
dựng cho học sinh đáp ứng môi trường giáo dục thân thiện như sau:
i. Khi thấy có khách bước vào lớp, không cần đợi giáo viên cho phép,
lớp trưởng tự động đúng lên hô to: Cả lớp đứng lên, kính chào quý thầy cô ạ.
Thói quen rất cần được chú ý ở đây là trong trường hợp kể cả lớp trưởng
cũng không kịp nhìn thấy người khách, thì bất cứ học sinh nào nhìn thấy cũng
có thể ra hiệu cho cả lớp cùng chào. Rất nhiều trường hợp, đại biểu đã vào
trong lớp học rồi mà giáo viên đang bận, chưa nhìn thấy hoặc không thấy, khi
giáo viên chưa yêu cầu thì cả lớp vẫn ngồi im. Mãi một lúc sau thì giáo viên
mới phát hiện và nói: Các em chào quý thầy cô đi, lúc bấy giờ thì mới có khẩu
lệnh từ lớp trưởng.
* Khi gặp thầy, cô hoặc người lớn trong sân trường, học sinh không nên
chỉ biết im lặng và cúi đầu chào mà cần phải kèm theo lời nói: Em chào thầy
cô ạ hay là Dạ, con chào bác ạ... Nói chung, là có nhiều cách, nhưng điều
quan trọng muốn đặt ra ở đây là sự nói thình tiếng và rõ ràng. Ở một số nước,
học sinh luôn sẵn sàng chào chúng ta: Good morning hoặc Boniour và chắc
chắn một điều là ai cũng được chào lại. Ở nước ta đôi khi người lớn than
phiền là trẻ con ngày nay gặp người lớn phần lớn là không biết chào. Thật ra,
điều này do một số nguyên nhân như sau:
- Với trẻ: Trong lúc các em gật đầu mà không kèm theo lời chào, đôi khi
người lớn không nghe thấy. Một khi người lớn không nghe thấy thì sẽ không,
đáp lại. Nếu gặp vài trường hợp như thế trẻ sẽ tìm cách lẫn tránh để không
phải chào người lớn nữa. Đây là một trở ngại tâm lý mà rất nhiều thầy cô giáo
và người lớn ít cảm nhận được để thông cảm và chia sẻ với trẻ. Vì vậy việc
hình thành thói quen này cho trẻ là rất cần thiết trong quá trình đổi mới giáo
dục phổ thông.
- Với người lớn: Khi không nghe thấy lời chào từ phía trẻ, ở góc độ
truyền thống và tâm lý xã hội thì người lớn không thể lên tiếng chào các em
trước và luôn trách trẻ và trách các nhà giáo dục. Đó cũng là một khó khăn từ
hai phía mà muốn khắc phục phải bằng cách hình thành thói quen mới làm
nền tảng cho việc hình thành phong cách sau này của trẻ.
ii. Chuẩn bị một câu chuyện vui và thật ngắn để kể cho lớp trước khi bắt
đầu mỗi buổi học, một bài hát, một trò chơi hay vài câu thơ cũng được.
iii. Xem qua bài học ngày mai ở SGK, đánh dấu những chỗ chưa biết
hoặc khó hiểu để hỏi thêm học sinh. Thật ra để hình thành thói quen này rất
cần sự trợ giúp của cha mẹ học sinh.
iv. Khi giáo viên đặt câu hỏi thì phải nhẩm câu trả lời xong mới giơ tay,
chờ giáo viên gọi là đứng lên và trả lời: Thưa thầy (cô), rồi nói ngay nội dung,
không cần nói là Thưa thầy em xin trả lời rồi mới đi vào nội dung. Đây là thói
quen tham gia có trách nhiệm, trả lời thẳng vào vấn đề, ngắn gọn không lòng
vòng và tuyệt đối không giơ tay vì phong trào và khi chưa chuẩn bị được câu
trả lời.
v. Khi sinh hoạt nhóm là phải có ý kiến hoặc nêu chính kiến. Thói quen
có ý kiến sẽ giúp trẻ mạnh dạn tham gia trong mọi hoàn cảnh và cũng là cơ
sở để trẻ rèn luyện kỹ năng giao tiếp. Còn thói quen nêu chính kiến sẽ góp
phần đào tạo lớp người dám nghĩ và dám chịu trách nhiệm.
vi. Trẻ phải mạnh dạn xin phép giáo viên khi có nhu cầu đi vệ sinh. Giáo
viên không nên xem thường điều này vì đây là thói quen rất cần xây dựng cho
trẻ. Chính sự e ngại trong lĩnh vực này dễ làm cho trẻ chịu nhiều áp lực tâm lý
và mắc nhiều chứng bệnh lý sau này.
vii. Thói quen sẵn sàng giúp đỡ bạn và người cao tuổi khi cần. Học tập
cách làm và biết làm từ thiện.
viii. Bỏ rác đúng nơi qui định (Lớp học nên có thùng rác sạch đẹp đặt ở
một góc không cần phải là quá kín nhưng thuận tiện cho trẻ).
ix. Phải kèm theo một nụ cười khi muốn gửi đến người lớn một thông
điệp nào đó. Ví dụ như khi chúng ta muốn trẻ tỏ thái độ không đồng tình với
người hút thuốc lá thì phải dạy trẻ không được nhăn mặt, cau có mà phải có
nụ cười kèm theo. Chính nụ cười đó sẽ đặt nền móng cho nhân cách sau này
của đứa trẻ.
2.4.2 Giáo viên tự hình thành thói quen giúp ích cho quá trình dạy học
Không phải chỉ có học sinh là cần phải hình thành thói quen mà chính
giáo viên mới là người luôn phải xây dựng những thói quen cần thiết. Giáo sư
David Berliner của đại học bang Arizona American cho rằng nhà giáo là
những người mà mỗi ngày phải đưa ra nhiều quyết định quan trọng ảnh
hưởng đến cuộc sống và tương lai của rất nhiều đứa trẻ. Vì vậy, cách duy
nhất mà giáo viên có thể làm tốt nhiệm vụ dạy học là phải tổ chức, quản lý tốt
lớp học. Mà để tổ chức quản lý tốt lớp học là phải hình thành và xây dựng các
thói quen cho mình và cho trẻ. Nhiều quyết định và yêu cầu của giáo viên có
thể trở nên tự động, nhanh chóng và nhẹ nhàng đối với học sinh khi giáo viên
chuyển hoá được nhiều kiểu hoạt động trở thành những thói quen hàng ngày
cho học sinh của mình. Mặt khác, để có thể hình thành được những thói quen
tốt cho học sinh thì phải xuất phát từ ý tưởng hoặc cao hơn nữa là từ thói
quen vốn đã được tôi luyện của chính bản thân giáo viên. Hay nói cách khác,
thói quen mà trẻ có được chính là sự chuyển hóa từ thói quen của giáo viên
đến học sinh. Những thói quen cần có đối với giáo viên như sau:
a) Thói quen xem lại, kiểm tra lại việc giảng dạy sau một ngày lao động để biết:
- Học sinh nào có biểu hiện tốt hơn những ngày trước đó.
- Học sinh nào có biểu hiện một điều gì đó khác thường một chút, nhất
là về mặt hành vi, cách ứng xử.
- Chất lượng của hoạt động dạy và học ngày hôm nay có gì cần phải
thay đổi, phải điều chỉnh ở ngày hôm sau.
- Yêu cầu học sinh đứng dậy ngay sau khi các em đã làm xong phần
bài tập mà giáo viên đã giao tại lớp. Với thói quen này, giáo viên sẽ biết được
học sinh nào làm tốt, học sinh nào cần sự giúp đỡ để quyết định nên giao bài
tập gì tiếp theo hoặc không nên giao thêm nữa.
- Học sinh nào chưa làm được bài tập về nhà thì nên thưa thật với giáo
viên để giáo viên tìm cách giúp đỡ các em ngay hôm đó. Đây là một thói quen
rất khó để rèn luyện. Tuy nhiên khi hình thành được thì giáo viên sẽ tìm thấy
được niềm vui và hạnh phúc với nghề nghiệp của mình.
b) Thói quen luôn đặt câu hỏi Tại sao:
- Tại sao hôm nay học sinh A đến muộn?
- Tại sao em B đánh bạn?
- Tại sao hôm nay em C nghỉ học?
- Tại sao em D hôm qua không về nhà?
- Tại sao em E nhiều lần không làm bài tập ở nhà?
- Tại sao hôm nay không khí lớp học sôi nổi hơn hôm qua?...
Nếu như sau mỗi ngày lên lớp, giáo viên có thể trả lời những câu hỏi
dạng như thế tức là đã giải quyết được một phần cơ bản của nội dung tổ
chức quản lý lớp học.
c) Thói quen chia sẻ với học sinh của mình.
Ở việt Nam chúng ta, do ảnh hưởng của truyền thống "Quân, Sư, Phụ”,
nên đôi khi vai trò của người thầy thường chiếm một vị trí như là một người
lãnh đạo tuyệt đối. Khoảng cách giữa thầy trò nhiều lúc quá xa nên sự chia sẻ
có phần bị hạn chế. Muốn có một không khí lớp học thân thiện nhất định giáo
viên phải tự xây dựng cho mình thói quen chia sẻ với học sinh. Sự chia sẻ với
học sinh thường được xuất phát từ tấm lòng của các nhà giáo. Chẳng hạn:
- Tìm trong lớp một vài học sinh biết giúp đỡ người khác để làm cầu nối
giữa thầy và trò. Có thể là lớp trưởng, tổ trưởng, hay những học sinh có thói
quen giúp đỡ bạn. Qua đó giáo viên có được nguồn cung cấp thông tin đáng
tin cậy về những học sinh cần sự trợ giúp từ phía người lớn hoặc nhà trường.
- Sự chia sẻ thực chất là cách giáo viên tiếp cận với trẻ, hiểu trẻ để giáo
viên trả lời trả lời câu hỏi tại sao trẻ có các hành vi ứng xử không đúng trong
lúc giáo viên giảng dạy. Ví dụ tại sao trẻ hay đánh nhau? - Do bố mẹ vừa bỏ
nhau; Tại sao trẻ thường ngủ gật trên lớp? - Do học sinh đó phải thức đêm
chăm sóc bà đang ốm. Tại sao có 2 học sinh không đăng ký học hai buổi /
ngày? Do gia đình quá nghèo không thể nộp được học phí các môn năng
khiếu và tiền ăn trưa…
- Sự chia sẻ còn thể hiện ở thái độ ứng xử của giáo viên trong quá trình
dạy học. Ví dụ: Trong một lớp học, có lần giáo viên viết sai trên bảng, học
sinh giơ tay và chỉ cho giáo viên chỗ sai. Giáo viên này luôn bỏ qua lời góp ý
của học sinh, thế là suốt cả năm học không học sinh nào dám gửi thông tin
phản hồi đến cô giáo. Một hôm, khi có đoàn thanh tra đến dự giờ, cô giáo đã
viết sai từ 120 x 3/5 thành 120: 3/5 và đã không có một sinh nào có ý kiến trên
lớp. Đoàn thanh tra đã không thể đánh giá là cô giáo nhầm hay là sai kiến
thức cơ bản. Trong khi đó ở một lớp học khác giáo viên luôn có sự chia sẻ với
học sinh. Khi giáo viên nói và viết nhầm lên bảng, học sinh giơ tay xin góp ý.
Cô giáo đã nói: A! Cho cô xin lỗi. Vậy cái đúng là gì? Có vài học sinh đã trả lời
đúng, nhiều em chưa hiểu (vì là bài học mới), nhân dịp này giáo viên giảng
giải cẩn thận cho cả lớp. Qua đó, những người dự giờ đã dễ dàng nhận ra
năng lực giảng dạy và khả năng tổ chức quản lý lớp học của cô giáo.
d) Thói quen chuyển tiếp giữa hai hoạt động
- Một trong những ưu điểm khi giáo viên hình thành thói quen này cho
mình và cho học sinh là "sự chuyển tiếp nhẹ nhàng". Có được những thói
quen này học sinh sẽ di chuyển nhanh chóng và có hiệu quả từ một hoạt
động này hay bài học này sang hoạt động và bài học khác, tiết kiệm và hạn
chế được khoảng thời gian chết. Ví dụ như giáo viên có thể nói: Các em còn
5 phút nữa để hoàn tất bài kiểm tra này, hoặc là còn 5 phút nữa là đến giờ
các em phải nộp bài kiểm tra. Hay giáo viên có thể thông báo cho học sinh
bằng cách nhẹ nhàng viết lên bảng: "15 phút”, khi học sinh nhìn thấy thông
báo là biết ngay rằng mình phải chuẩn bị kết thúc bài làm.; Khi giáo viên viết
"5 phút" thì học sinh biết rằng phải chuẩn bị bỏ bút xuống, nhìn lên giáo viên
để cho thấy các em đã sẵn sàng.
- Sự chuyển tiếp có hiệu quả là những thói quen có hiệu quả. Ví dụ khi
đã tập được thói quen, học sinh biết ngay sau nghỉ giải lao là sẽ đền giờ tập
đọc thì các em đã chuẩn bị sách và biết mình cần phải làm gì tiếp theo cho
một bài tập đọc.
Nhìn chung, nhiều nhà giáo dục đã cho rằng "Mọi thứ cư xử đều là thói
quen, có nhiều thói quen tốt được xem là phẩm chất đạo đức tốt”. Việc hình
thành thói quen tốt cho chính giáo viên và học sinh là cả một quá trình, có khi
còn là kinh nghiệm một đời dạy học của các nhà giáo. Sự khác nhau là ở chỗ
nó tùy vào từng giáo viên và từng lớp học. Thói quen là một thứ gì đó thuộc
về cá nhân. Giáo viên nên biết dùng cái nào tốt nhất cho mình và học sinh.
Thói quen đôi khi cũng bị giới hạn khi tập luyện. Ví dụ như thói quen tự
đọc sách không dễ gì mà tạo được cho mọi đứa trẻ hay với việc muốn hình
thành thói quen để khi học sinh cần có sự giúp đỡ của giáo viên thì giơ tay và
mạnh dạn nói lên nhu cầu của mình. Tuy nhiên lời yêu cầu giúp đỡ trước lớp
đôi khi không những làm cho các em lúng túng mà còn lo sợ các bạn khác
cười, sợ ảnh hưởng và làm gián đoạn giờ học của lớp. Đây là một thói quen
tưởng chừng như đơn giản nhưng rất khó luyện tập. Nhiều người luyện suốt
đời vẫn không dám nói yêu cầu trước đám đông. Trong các thói quen mà giáo
viên muốn hình thành cho trẻ thì những thói quen được rèn vào buổi sáng là
đặc biệt quan trọng và dễ tạo thành hơn hết. Những giáo viên có kinh nghiệm
thường thông báo cho học sinh những hoạt động nào cần phải chuẩn bị trước
khi bước vào lớp học. Cứ như thế, ngày qua ngày, khi các em đã được dạy
lặp đi lặp lại nhiều lần thì không phải mất thời gian cho việc phải hướng dẫn
cái nào cần phải làm vào buổi sáng trước và trong khi trẻ đến trường. Thói
quen buổi sáng không những tạo ra một bầu không khí đầy phấn khích mà
còn làm cho các em học cách chịu trách nhiệm về những việc mình làm trong
từng ngày. Ví dụ như khi biết ngày hôm nay có bài kiểm tra, học sinh phải biết
chuẩn bị giấy làm bài, học kỹ bài cũ, cho áo mưa vào cặp khi biết thời tiết xấu,
cho áo khoác vào cặp trong những ngày giá rét...
2.5 Công việc sổ sách
Rất nhiều giáo viên đã tâm sự: Khi tôi học ở trường sư phạm, không có
ai chỉ bảo cho tôi biết là phải làm các loại sổ sách và vô điểm nhiều như thế
nào. Khi đi thực tập, tôi chỉ soạn giáo án và giáo viên hướng dẫn làm hết tất
cả việc này. Tuy nhiên, nếu như công việc sổ sách mà không hoàn tất nó mỗi
ngày thì sẽ làm không kịp và dễ bị phê bình. Có những giáo viên đầy kinh
nghiệm cũng thường than phiền nhưng họ cho rằng việc lập đầy đủ các loại
sổ sách và vô điểm cho học sinh luôn là những việc quan trọng của nghề
giáo.
Và không phải chỉ riêng giáo viên có kinh nghiệm, những giáo viên trẻ
và những giáo viên hưu trí cũng cho rằng mình luôn bị bao vây bởi những
công việc sổ sách không bao giờ hết. Nào là sổ điểm danh hàng ngày, giáo
án, kiểm tra chuyên môn, báo cáo, bài tập về nhà, để kiểm tra, cập nhật
những thông tin khẩn cấp, họp phụ huynh học sinh, theo dõi những học sinh
tham gia vào các chương trình phụ đạo, nâng cao, bồi dưỡng học sinh giỏi,
và nhiều hơn nữa...
Tuy nhiên đây là những nhiệm vụ mà một nhà giáo không thể không
làm, nhưng không thể thuê một thư ký, càng không thể làm việc 24 giờ một
ngày. Vậy giáo viên có thể làm gì để giải quyết tình trạng thực tế này? Có
những lời khuyên từ các nhà giáo dục và giáo viên đầy kinh nghiệm như sau:
1. Các giáo viên mới ra trường nên gặp những giáo viên có quá trình
dạy học nhiều năm cũng như có kinh nghiệm để tìm ra những cách làm sổ
sách tốt nhất. Những kinh nghiệm có thể giúp giáo viên mới tiết kiệm thời
gian.
2. Những nhà giáo dục học trong đó có nhà giáo dục Madeline Hunter
nói rằng giáo viên nên làm việc một cách thông minh hơn, sử dụng thói quen
có ích chứ không nên bỏ ra quá nhiều thời gian cho việc này bằng cách:
- Khi soạn giáo án với những bài học đơn giản giáo viên có thể giao
cho học sinh tự tìm hiểu bài học giúp mình để giáo án không phải viết dài.
Chẳng hạn như giáo viên dạy bài học về những danh từ chỉ sự vật xung
quanh các em, giáo viên nên cho học sinh tự tìm trước trong SGK xem có bao
nhiêu danh từ nói về những đồ vật ví dụ em bé, quả bóng...
- Cách tốt nhất là bắt chước cách làm của những giáo viên có nhiều
kinh nghiệm, làm việc nghiêm túc và không bảo thủ, luôn có cách cải tiến.
Điều quan trọng là phải bắt tay làm ngay những điều có thể, từ những ngày
đầu năm học, không chần chừ để thời gian trôi đi. Có thể một số việc tranh
thủ làm trên lớp khi giáo viên cho học sinh làm bài tập, bài kiểm tra mà vẫn
quản lý được học sinh của mình.
- Tận dụng công cụ máy tính để chép hoặc tạo ra các mẫu thống kê để
giảm bớt cường độ lao động.
- Riêng đối với những qui định về biểu mẩu mới thì nên cùng tham gia
với mọi người trong các cuộc họp tổ, khối để tìm cách làm tốt nhất.
2.6. Xây dựng mối quan hệ với phụ huynh ngay từ đầu năm học mới
Những ấn tượng đầu tiên với gia đình học sinh để có được sự ủng hộ
từ phía xã hội là điều khá quan trọng trong quá trình dạy học. Những giáo
viên có nhiều kinh nghiệm thường xây dựng mối quan hệ với phụ huynh học
sinh trước và trong khi năm học bắt đầu với một số cách như sau:
- Gửi thư chào mừng năm học mới đến tất cả phụ huynh hay những
người đỡ đầu của học sinh. Qua đó giáo viên có thể biết được em nào còn đủ
cha mẹ, em nào chỉ có cha hoặc mẹ, em nào mồ côi cả cha lẫn mẹ và chỉ có
người đỡ đầu. Để biết được thông tin này, giáo viên hướng dẫn học sinh cách
ghi vào phong bì. Riêng với học sinh lớp một thì giáo viên gửi thư chúc mừng
kèm một mẫu để gia đình các em tự điền vào các chi tiết.
- Thông báo cho gia đình học sinh biết kế hoạch họp đầu năm, kế
hoạch đại hội (hoặc dự kiến) bầu BCH hội cha mẹ học sinh của lớp, của
trường để có sự chuẩn bị trước.
- Thông báo thời gian cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm để giáo viên
phản ảnh tình hình học tập chung của lớp. Tuy nhiên, những vấn đề của học
sinh cá biệt thì sẽ họp riêng, tuyệt đối không phổ biến trước cuộc họp cha mẹ
học sinh.
- Thông báo và đề nghị gia đình đưa các em đi khám sức khỏe nếu nhà
trường có điều kiện tổ chức.
- Một thông báo để lập danh sách các số điện thoại của gia đình học
sinh và danh sách điện thoại nhà trường để khi cần là có thể liên lạc.
- Đề nghị cha mẹ viết chi tiết những điểm mạnh hay bất cứ thành tích
nào của con em mình hoặc những thông tin nào cần chú ý để giáo viên tổ
chức quản lý lớp học tốt hơn vào năm học mới.
- Giáo viên gửi danh sách những đồ dùng học tập, đồ dùng cá nhân mà
gia đình cần giúp các em chuẩn bị mang theo hoặc được phép đưa đến
trường. Điều này giúp cho phụ huynh và học sinh có một ý thức tốt khi bắt
đầu vào năm mới. Một vài nơi trên thế giới, giáo viên lớp một cho các em
được mang theo những món đồ cá nhân quá quen thuộc đối với trẻ. Chăng
hạn như con búp bê, cún con, một chú gấu bông hay con chuột Mickey, thậm
chí một chiếc khăn nhỏ cũng được. Người ta cho rằng đó là một thứ "đồ dùng
an toàn” giúp những học sinh mới cảm thấy tự tin hơn khi vào lớp học đầu
tiên. Giáo viên lớp một không nên đưa ra lời "cấm” đầu tiên với trẻ.
- Trao đổi với gia đình học sinh có điều kiện về những thiết bị mà nhà
trường chưa có khả năng đầu tư từ quạt máy, máy điều hòa, bảng thông
minh, computer... những thứ mà phụ huynh có thể hỗ trợ trong tầm tay.
Những sự trao đổi này cốt để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học hoặc
tạo đà phát triển theo hướng tầm cao từng bước, phù hợp với khả năng gia
đình học sinh và mang đến hiệu quả thiết thực.
Phần 3. Kết luận
Phương pháp tổ chức quản lý lớp học bao gồm khá nhiều lĩnh vực,
nhiều công đoạn, nhiều nhiệm vụ mà các nhà giáo phải làm, đôi khi còn lập đi
lập lại nhiều lần trong suốt cuộc đời dạy học của mình. Tuy nhiên trong khuôn
khổ cuốn sách này chúng tôi chỉ giới thiệu phương pháp tổ chức quản lý lớp
học ở công đoạn khi mà giáo viên được phân công và giao nhận lớp cho đến
thời điểm bắt đầu giảng dạy cho năm học mới: Cho dù đó là những giáo viên
vừa tốt nghiệp ra trường hay là những nhà giáo có nhiều năm giảng dạy thì
vẫn cần phải có một sự khởi động với nhiều công phu đầu tư.
Đã có rất nhiều giáo viên dạy thành công trong suốt một năm học nhờ
vào sự chuẩn bị, sự bắt đầu, sự kế hoạch hóa việc tổ chức quản lý trước khi
học sinh đặt chân vào lớp học. Đối với những giáo viên này, nhìn chung
người ta cho rằng đã biết được những phương pháp tổ chức quản lý tác động
lên các yếu tố cụ thể cho sự bắt đầu của nhiệm vụ dạy học của mình bao gồm
từ việc cái tiến cách trang trí phòng học đến việc hình thành những thói quen;
những phương pháp tổ chức quản lý dự kiến sẽ đưa ra, những góc học tập
được chuẩn bị, các bước đi để bảo đảm học sinh được học tập một cách
thoải mái, tự tin, tích cực. Bên cạnh việc giáo viên phải cố gắng tổ chức cho
học sinh học tốt, học sinh được tham gia vào quá trình giảng dạy của mình,
các nhà giáo còn phải tổ chức cho cả cha mẹ học sinh cũng được tham gia
bằng cách xây dựng các kế hoạch dành cho cá nhân học sinh cần sự trợ giúp
của gia đình. Đồng thời, giáo viên cũng phải xây dựng cho mình những yêu
cầu cần phải học tập từ những đồng nghiệp.
Tổ chức quản lý tốt một lớp học sẽ tạo được nền tảng căn bản cho việc
giảng dạy và học tập tốt. Một môi trường giáo dục tốt thực chất phải là người
thầy thứ hai của trẻ. Vậy thì người thầy thứ hai của trẻ cũng phải tốt. Cả hai
người thầy cùng tốt tức là đã có một môi trường giáo dục thân thiện thực sự.
Có được điều này chúng ta sẽ góp phần khuyến khích học sinh hình thành
được động cơ, thái độ học tập, cải thiện môi trường dạy và học, định hướng
được những vấn đề về cách ứng xử của cả thầy lẫn trò thông qua việc hình
thành thói quen cần thiết và có ích. Như vậy chúng ta đã tạo ra môi trường
học tập đầy sự kích thích để học sinh tham gia ngày càng tích cực và năng
động. Chính những điều này sẽ giúp cho nhiều giáo viên thoát khỏi những
băn khoăn, trăn trớ, đồng thời có thể tự lý giải là làm thế nào để có thể tạo
được ấn tượng tốt với học sinh của mình và làm thế nào để có thể yên tâm
với công tác tổ chức quản lý lớp học do mình phụ trách.
Vấn đề còn lại có lẽ là làm thế nào để có một chất lượng giáo dục trẻ
thực sự và chất lượng dạy học thực chất phụ thuộc vào yếu tố nào? Xin mời
bạn đọc xem tiếp quyển "Kiểm tra đánh giá – yếu tố quyết định trong đổi mới
phương pháp dạy học". Với nội dung cuốn sách này chúng tôi muốn quan tâm
đến vấn đề vai trò giáo dục của giáo viên khi lên lớp trong thời đại công nghệ
thông tin. Chẳng hạn, chúng ta có thể đầu tư nhiều trang thiết bị hiện đại để
phục vụ đổi mới phương pháp giảng dạy. Nhưng nếu chỉ cần một nhận xét
đánh giá kết quả học tập của học sinh từ giáo viên đưa ra: "sao mà ngu dốt
thế" kèm theo điểm 1 / 10 thì lúc bấy giờ thiết bị hiện đại cũng trở thành con
số 0 (không), và chắc chắn đứa trẻ cũng chẳng nhận được gì từ sự đổi mới
đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Dự án phát triển giáo viên tiểu học - Bộ Giáo dục & Đào tạo (2004)
Tài liệu tập huấn phương pháp dạy học hiện đại trong trường tiểu học, Hà Nội
10 /2004.
2. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa lớp 2 chương trình
tiếu học mới, Đặng Huỳnh Mai, NXB GD, Hà Nội 2002.
3. Quan niệm và xu thế phát triển phương pháp dạy học trên thế giới,
Đặng Thành Hưng (1994), Viện Khoa học Giáo dục Hà Nội.
4. Tám nguyên tắc cần tuân thủ để dạy tốt ở bậc tiểu học, Elaine Firniss
(Australian), (1994), Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (số 6 / 1994).
5. Oxfam Anh - Việt Nam, Phương pháp dạy lấy học sinh làm trung tâm
(tài liệu hướng dẫn giáo viên tiểu học), Hà Nội 2002.
6. Mấy vấn đề về khoa học giáo dục, Võ Nguyên Giáp (1986), NXB
Chính trị quốc gia.
7. Báo cáo của các Sở, phòng GDGT Điện Biên, Lạng Sơn, Nghệ An,
Quảng Ngãi, Đắc Lắc, Bình Thuận, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Sóc Trăng
các Trường Tiểu học tham gia thử nghiệm các giải pháp.
8. Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực
phát triển nhà trường, Xavier Roegiers do Đào Trọng Quang và Nguyễn Ngọc
Nhị dịch, NXB GD, 1986.
9. Đánh giá lớp học, những nguyên tắc và thực tiễn để giảng dạy hiệu
quả, Jame H.Mc Millan, 1997, 2006, Đại học Sư Phạm Hà Nội dịch.
II. Tiếng Anh
1. Effective Teaching Effective Learning, Alice M Fairhurst, Lisa
L.Fairhurst, Davies Black Publishing, Mountain View, California first printing
1995.
2. Introductionto the Theory of Mental and Social Measurement,
Thondirke, E.L, Newyork, Teaching Coilege Colombia University, 1994.
3. Mind and Body, Mark Johnson, Chicago Univerity, 1990.
BẢN NHẬN XÉT VỀ BỘ SÁCH MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC THÂN THIỆN
PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC QUẢN LÝ LỚP HỌC
Tác giả: TS. Đặng Huỳnh Mai,
Nguyên Thứ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nội dung nhận xét của PGS.TS Vũ Quốc Chung
Tuy rằng chưa được biết đến các cuốn sách tiếp theo của bộ sách
nhưng tôi đã thấy sự cuốn hút thực sự ngay từ quyển 1. Có thể nói, tác giả -
nhà giáo, nhà quản lý giáo dục Đặng Huỳnh Mai đã dành hết tâm huyết của
mình cho sự phát triển giáo dục đất nước ngay khi còn đương chức và hôm
nay chị đã nghỉ hưu. Tất cả những điều đó đã được phản ánh đầy đủ và trung
thành trong mỗi câu, mỗi chữ.
a. Trước hết nói về ý tưởng của tác giả, tôi bày tỏ sự khâm phục
chân thành tới chị. Có lẽ ở đây chị đã trăn trở nhiều năm tháng để muốn tìm
ra những cái gì người học sinh, người cán bộ quản lý giáo dục cần thiết nhất.
Tác giả không chỉ dành quà tặng là bộ sách quý mà còn muốn chia sẻ với bạn
đọc những triết lý nghề dạy học, nhưng thực giản dị và dễ hiểu.
b. Về cấu trúc cuốn sách.
Tôi cho rằng tác giả thiết kế cuốn sách rất gọn, chặt chẽ và phù hợp
trong khoảng 100 trang chia làm 3 phần và các mục nhỏ. Số lượng trang và
cách phân chia đề mục giúp người đọc dễ sử dụng, tránh được tâm lý đọc
các bộ sách dài, không đủ thời gian và kiên trì theo dõi các diễn biến.
c. Về nội dung:
Tác giả đã chọn rất đúng, rất trúng nội dung đầu tiên mà các giáo viên
trẻ và các giáo viên có thâm niên cũng rất cần: Quản lý và tổ chức lớp học.
Theo tôi đây là cuốn cẩm nang về bí quyết nghề nghiệp mà tác giả sẵn sàng
chia sẻ với mọi người. Quản lý và tổ chức lớp học là yếu tố đầu tiên và quan
trọng nhất tạo ra môi trường giáo dục thân thiện. Chính vì vậy thầy và trò phải
hợp tác với nhau cùng tạo ra môi trường đó.
Những nội dung chi tiết và cách trình bày theo kiểu các màn kịch được
mở dần ra đã lôi cuốn và nhập tâm người đọc. Đặc biệt những giáo viên đã
sẵn sàng có trong mình những tâm tư nghề nghiệp sẽ nhận được ở quyển
sách này những lời tư vấn, những chỉ bao rất gần gũi có thể tham khảo được
nhiều, tự tìm ra cho mình cách ứng xử phù hợp với các tình huống giáo dục
khác nhau. Tôi đánh giá rất cao cách phân tích và lập luận của tác giả khi đề
xuất các giải pháp cụ thể cho kỹ năng nghề nghiệp của giáo viên. Tác giả đã
thuyết phục người đọc từ kinh nghiệm thực tiễn dày dạn, sinh động; từ bài
học quốc tế đến thực tế dạy học xa xưa của Việt Nam - thông qua các ví dụ
phong phú. Tác giả đã đề cập cách nhìn nhận mới trong quá trình dạy học
hằng ngày mà đa số giáo viên không phát hiện được, đó là học sinh học được
và được học. Thật mới mẻ và đầy ý nghĩa. Từ đây mỗi giáo viên có thể lãnh
hội để tự đổi mới quá trình dạy học.
d. Tính khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
Có thể chúng ta hoàn toàn thấy rõ cơ sở lí luận và giá trị thực tiễn của
cuốn sách nói riêng và bộ sách nói chung. Tôi tin chắc rằng bộ sách sẽ được
công chúng giáo dục và bạn đọc chào đón nồng nhiệt.
e. Về một số góp ý để hoàn thiện cuốn sách.
Tôi xin đề nghị với tác giả nếu được chấp nhận:
- Các ví dụ về giáo dục trong nước nên lựa chọn đầy đủ ở các khu vực
của đất nước (thành thị, nông thôn, vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, …).
- Các ảnh minh họa và cuốn sách nói chung nên in màu (nhiều màu,
đẹp).
- Có lời giới thiệu đầy đủ cho cả bộ sách (tên các cuốn sách tiếp theo...)
Kết luận:
Đề nghị tác giả và các cơ quan thẩm định cuốn sách sớm cho in, xuất
bản để bạn đọc nhận được món quà đầy ý nghĩa này (nếu có thể được vào
dịp khai giảng năm học 2009 - 2010 thì rất tốt).
Hà Nội ngày 25 tháng 6 năm 2009
Người nhận xét PGS.TS Vũ Quốc Chung
(Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Nội dung nhận xét của ThS Lê Tiến Thành
Nhà giáo ưu tú, tiến sĩ Đặng Huỳnh Mai đã một đời gắn bó với sự
nghiệp giáo dục của nước nhà. Ở cương vị nhà giáo, TS Đặng Huỳnh Mai
luôn là người tâm huyết, đầy sáng tạo, dám đương đầu với mọi thử thách. Với
tấm lòng khoan dung của một nhà giáo và bản lĩnh của một nhà quản lý,
nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã góp công rất
lớn cho giáo dục tiểu học ổn định và phát triển như hiện nay, đáp ứng được
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của đất nước.
Với nhãn quan đổi mới và vốn thực tế phong phú của một nhà quản lý
giáo dục cao cấp trưởng thành từ cấp cơ sở, Tiến sĩ Đặng Huỳnh Mai đã để
lại nhiều bài viết sâu sắc định hướng chiến lược cho giáo dục tiểu học, cùng
với nhiều chính sách bàn về đổi mới công tác quản lý, đổi mới tổ chức và
phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra và đánh giá ở tiểu học.
Tiến sĩ Đặng Huỳnh Mai xuất bản bộ sách bàn về những vấn đề đổi
mới của giáo dục tiểu học để giúp cho giáo viên tiểu học, các nhà quản lý giáo
dục ở tiểu học hiểu rõ những cơ sở lý luận, kiến thức sư phạm, năng lực tổ
chức và phương pháp dạy học ở tiểu học đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Những tác phẩm của nhà giáo ưu tú, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo Đặng Huỳnh Mai luôn gần gũi với giáo viên tiểu học bởi tính thực
tiễn đầy thuyết phục. Đó là những tài liệu bồi dưỡng giáo viên cần thiết, không
những đối với giáo viên mới ra trường mà còn rất bổ ích cho những giáo viên
lâu năm.
Tháng 7 năm 2009
Vụ Trưởng Vụ Giáo dục tiểu học
ThS. Lê Tiến Thành
MỤC LỤC
Lời giới thiệu
1. Tổ chức quản lý là gì?
1.1. Hoạt động quản lý
1.2. Tổ chức
2. Tổ chức quản lý lớp học
2.1. Chuẩn bị cho nhiệm vụ năm học mới
2.2. Tổ chức quản lý tốt lớp học
2.3. Những ngày dạy học đầu tiên của năm học mới
2.4. Hình thành những thói quen cần thiết
2.5. Công việc sổ sách
2.6. Xây dựng mối quan hệ với phụ huynh ngay từ đầu năm học
mới
3. Kết luận
---//---
MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC THÂN THIỆNPHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC QUẢN LÝ LỚP HỌC
Tác giả: TS. ĐẶNG HUỲNH MAI
Nhà Giáo Ưu Tú
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
280 An Dương Vương, Quận 5, TP Hồ Chí Minh
Điện thoại: (08) 6651 5869 - Fax: (08) 3938 1382
Chịu trách nhiệm xuất bản:
TS NGUYỄN THÁI SƠN
Giám đốc - Tổng biên tập
Chịu trách nhiệm nội dung: TS. ĐẶNG HUỲNH MAI
Nhận xét:
PGS TS. VŨ QUỐC CHUNG - THS. LÊ TIẾN THÀNH
Biên tập nội dung: ThS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN
Trình bày bìa: LÊ MINH TRIẾT
Sắp chữ bằng LATEX: TRẦN HỮU QUỐC HUY
Sửa bản in: BÙI VĂN HẢI
In 2.000 cuốn khổ 14,5 x 20,5cm tại Công ty Cổ Phần In và Thương mại
VINA. 34 Trần Quý Khoách, Phường Tân Định, Quận 1, TPHCM. Số đăng ký
kế hoạch xuất bản 34-2010/CXB/01-02/ĐHSPTPHCM. Quyết định xuất bản
số 73/QĐ-NXBĐHSPTPHCM cấp ngày 02 tháng 08 năm 2010. In xong và nộp
lưu chiểu quý 03 năm 2010.