25
BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG Chủ đề: Tài nguyên Biển Đôn NHÓM 6 I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1 LÝ DO CHỌN VẤN ĐỀ: Biển Đông là một vùng biển có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam nói riêng và các nước giáp Biển Đông nói chung. Biển Đông đối với những tài nguyên dồi dào đóng vai trò lớn trong phát triển kinh tế của các quốc gia, do đó việc nghiên cứu tài nguyên biển là rất cần thiết. I.2 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ: Việc nghiên cứu tài nguyên trên Biển Đông đã được tiến hành từ rất lâu, nhiều tác giả đã nghiên cứu. Nhóm thực hiện chỉ đưa ra những nội dung cơ bản nhất với tầm hiểu biết còn nhiều hạn chế. I.3 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU: I.3.1 Đối tượng: Bài tiểu luận nghiên cứu những loại tài nguyên chính trên Biển Đông. I.3.2 Nhiệm vụ: 1

BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

  • Upload
    lamnhi

  • View
    217

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG

Chủ đề: Tài nguyên Biển Đôn

NHÓM 6

I. PHẦN MỞ ĐẦU

I.1 LÝ DO CHỌN VẤN ĐỀ:

Biển Đông là một vùng biển có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam nói

riêng và các nước giáp Biển Đông nói chung. Biển Đông đối với những tài

nguyên dồi dào đóng vai trò lớn trong phát triển kinh tế của các quốc gia, do đó

việc nghiên cứu tài nguyên biển là rất cần thiết.

I.2 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:

Việc nghiên cứu tài nguyên trên Biển Đông đã được tiến hành từ rất lâu,

nhiều tác giả đã nghiên cứu. Nhóm thực hiện chỉ đưa ra những nội dung cơ bản

nhất với tầm hiểu biết còn nhiều hạn chế.

I.3 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

I.3.1 Đối tượng:

Bài tiểu luận nghiên cứu những loại tài nguyên chính trên Biển Đông.

I.3.2 Nhiệm vụ:

Khái quát một số loại tài nguyên chính, hiện trạng, vai trò của chúng đối với

sự phát triển kinh tế-xã hội.

I.3.3 Phạm vi nghiên cứu:

Bài tiểu luận bước đầu tìm hiểu những loại tài nguyên chính của Biển Đông

tiềm năng, hiện trạng và liên hệ với Việt Nam.

1.4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

- Bài tiểu luận sử dụng tài liệu bao gồm: cuốn “Địa lý nhiên Biển Đông” của

tác giả Nguyễn Văn Âu, các báo cáo khoa học, mạng Internet…

- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số

liệu, phương pháp phân tích và tổng hợp…

1

Page 2: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

1.5. CẤU TRÚC BÀI TIỂU LUẬN:

Cấu trúc bài tiểu luận gồm ba phần:

- Phần mở đầu

- Phần nội dung

- Phần kết luận

II. PHẦN NỘI DUNG

2.1 TÀI NGUYÊN SINH VẬT:

Vị trí, địa lý và khí hậu đặc biệt đã tạo cho vùng biển Đông sự đa dạng sinh

học cao so với các nước trên thế giới, cả về cấu trúc thành phần loài, hệ sinh thái

và nguồn gen. Khác biệt về điều kiện tự nhiên từ Bắc đến Nam như sự thay đổi

nhiệt độ theo vĩ tuyến, mức độ trao đổi môi trường với các vùng xung quanh,

hình thái thềm lục địa… đã tạo nên những nét đặc trưng của các hệ sinh thái giữa

các vùng biển ở Việt Nam.

Cho đến nay, trong vùng biển này đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh

vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Trong đó có khoảng 6.000

loài động vật đáy, 2.038 loài cá, trên 100 loài cá kinh tế, hơn 300 loài san hô

cứng, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94

loài thực vật ngập mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 12

loài thú biển và 5 loài rùa biển.

Nguồn tài nguyên sinh vật biển quan trọng đã mang đến những ưu thế cho

đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh. Trữ lượng hải sản

đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, cơ cấu hải sản rất phong phú, có giá trị kinh tế

cao có thể khai thác được hàng năm. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và

nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam,

Indonesia và Philippines.

2

Page 3: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

Biển Việt Nam với dải bờ chạy dài trên 3260 km, diện tích trên 1 triệu km2,

hàng năm đem lại nguồn lợi trên 2 triệu tấn trong số hơn 90 triệu tấn hải sản của

thế giới, đồng thời cũng là hệ sinh thái rất đặc thù và được đánh giá là một trong

16 trung tâm đa dạng sinh học cao của thế giới. Đây là một điều kiện thuận lợi để

nước ta phát triển đa dạng các ngành kinh tế biển và ven biển trong hơn 50 năm

qua. Hiện nay, trong xu thế cả thế giới đang vươn mạnh ra biển để khai thác tiềm

năng sẵn có của đại dương, việc điều tra nghiên cứu môi trường và tài nguyên

sinh vật biển Đông ngày càng khẳng định những ý nghĩa quan trọng với đất nước

trong giai đoạn mới.

Các nghiên cứu đã chứng minh nguồn lợi hải sản Việt Nam phong phú đa

dạng bao gồm khoảng trên 2.000 loài cá, gần 6.000 loài động vật đáy, 653 loài

tảo, 5 loài rùa, 12 loài rắn biển... Trong đó, có một số nhóm sinh vật biển có giá

trị kinh tế quan trọng như cá, tôm, mực… đã được xác định khu vực phân bố, trữ

lượng và khả năng khai thác. Trữ lượng cá đáy và cá nổi khoảng 3,0-3,5 triệu tấn

(chưa kể cá nổi di cư xa, cá sống ở ven các đảo...), với khả năng khai thác

(exploitation potential) khoảng 1,5 – 1,7 triệu tấn. Bên cạnh đó, nghiên cứu đa

dạng hóa về sản phẩm biển đang là hướng đi rất tích cực, nhằm giảm bớt áp lực

lên các đối tượng khai thác truyền thống. Các loài thân mềm (ngao, nghêu, tu hài,

hàu, vẹm, ốc hương…) đang được coi là đối tượng khai thác, nuôi trồng chỉ đứng

sau cá. Đặc biệt trong một số năm gần đây, các nhà khoa học Viện KHCN VN đã

tìm được nhiều chất có giá trị dược liệu quý từ các loài hải miên, da gai, san hô,

sứa biển… Đây là hướng đi rất tích cực trong nghiên cứu, sử dụng hợp lý nguồn

lợi sinh vật biển. Ngoài ra, việc thường xuyên nghiên cứu, biên tập Sách Đỏ Việt

Nam cũng góp phần đáng kể vào việc bảo vệ nguồn lợi sinh vật biển

3

Page 4: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

2.2 TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN

2.2.1 Tài nguyên khoáng sản dầu mỏ và khí đốt

Biển Đông nằm trên 2 khu vực vành đai sinh khoáng lớn: Thái Bình Dương

và Địa Trung Hải là nơi hội tụ của những mỏ khoáng sản đặc biệt là dầu mỏ.

Nguồn gốc của sự phát sinh dầu mỏ là từ những xác chết của các sinh vật ở đáy

biển,đặc biệt từ các thực vật bị chôn dưới đất. Các mỏ dầu khí Tập trung chủ yếu

trong khu vực phía Nam biển Đông hơn vùng phía Bắc như ở các vùng duyên hải

Hoa Nam,trong vịnh Bắc Việt, ngoài khơi Việt Nam,duyên hải Mã Lai-Brunei-

Palawan,vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa.

Biển Đông được coi là một trong 5 bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới.

Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney -

Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mêkông, sông Hồng, cửa

sông Châu Giang. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã

được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu

thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông

khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên

tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5

triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. Ba mỏ dầu khí được thăm

dò và có trữ lượng lớn là: Bạch Hổ ( 175-300 triệu thùng ), Đại Hùng ( 300-600

triệu thùng ), Rồng ( 100-150 triệu thùng ). Trữ lượng và sản lượng dầu khí của

Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và

Malaysia. 

Nước ta có thềm lục địa rộng lớn rộng khoảng 1 triệu km2 là nơi có nhiều bể

trầm tích chứa dầu khí và có nhiều triển vọng để khai thác. Tại vùng biển và thềm

lục địa Việt Nam xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các

bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn

4

Page 5: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về

dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ

lượng khai thác khoảng 2 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ m3.

Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa

ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung Việt Nam.

Các mỏ dầu và khí đốt tập trung trong các miền vong,với các bể trầm tích

như: bể trầm tích sông Hồng, Hoàng Sa, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Mã Lay-Thổ

Chu, Phù Khánh và Trường SaHiện trạng khai thái dầu khí ở Việt Nam

Lợi thế của một quốc gia biển và một vùng thềm lục địa rộng lớn tiếp nối

với hai đồng bằng ven biển (châu thổ sông Hồng và Cửu Long) rộng lớn, đã tạo

ra cho Việt Nam những triển vọng và tiềm năng đa dạng về khoáng sản biển, đặc

biệt là dầu khí ở thềm lục địa. Việc khai thác dầu khí vừa qua đã đóng góp to lớn

cho nền kinh tế quốc dân với GDP xuất khẩu đứng đầu trong nhiều năm, nên luôn

được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn. Dầu khí đã được phát hiện ở Việt Nam

từ những năm 1970, nhưng chỉ sau năm 1984, ngành công nghiệp dầu khí mới

thực sự có bước đi vững chắc... Dầu khí được tập trung ở các bể trầm tích Sông

Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay, Thổ Chu, Phú Khánh, Tư Chính, Vũng

Mây, Trường Sa. Khoáng sản dầu khí đang được thăm dò với cường độ cao.

Trữ lượng dầu đã được phát hiện vào khoảng 1.7 tỷ tấn và khí đốt vào

khoảng 835 tỷ m3. Trữ lượng dầu được dự báo vào khoảng 6 tỷ tấn và trữ lượng

khí vào khoảng 4,000 tỷ m3. Sản lượng khai thác dầu thô ở Việt Nam hằng năm

tăng 30%. Năm 1994, sản lượng khai thác đạt 7 triệu tấn và giá trị xuất khẩu

khoảng 1 tỉ USD, năm 2001 sản lượng khai thác 17,01 triệu tấn đạt giá trị xuất

khẩu 3,139 tỉ USD.

Hiện nay, ngành dầu khí nước ta đang khai thác chủ yếu tại các mỏ: Bạch

Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rubi, Rạng Đông, Bunga Kekwa. Ngành dầu khí Việt Nam

5

Page 6: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

đang trở thành một trong những lĩnh vực đầu tư nước ngoài sôi động.Có nhiều

tập đoàn dầu khí lớn đang có kế hoạch đầu tư và mở rộng hoạt động tại Việt Nam

như tổng công ty dầu khí Việt Nam . Hoạt động kinh doanh dầu khí cũng từng

bước phát triển theo hướng hiện đại hóa: hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật và dịch

vụ kĩ thuật như các dịch vụ căn cứ, tàu thuyền, sữa chữa thiết bị dầu khí, gia công

chế tạo, xây lắp các đường ống dân dầu, bảo hiểm dầu khí, cung cấp lao động và

dịch vụ sinh hoạt. Tuy nhiên hoạt động thăm dò, khai thác ở vùng biển nước sâu

gặp rất nhiều khó khăn, kể cả khách quan và chủ quan. Trở ngại lớn nhất là về

thiên nhiên như sóng to, gió lớn, nhất là hiện nay thời tiết có những diễn biến khó

lường. Hơn nữa, hoạt động ở vùng nước sâu đòi hỏi phải có những máy móc thiết

bị hiện đại, đủ khả năng đáp ứng với công việc tương ứng..

2.2.2 Khoáng sản kim loại và phi kim loại

Biển Đông nằm gọn trong phần phía Tây của vành đai quặng thiếc Thái

Bình Dương, tập trung các sa khoáng biển kim loại hiếm, chủ yếu là thiếc,titan,

ziricon, vonfaram, brom, sắt, đồng….Một số khoáng sản hòa tan khác với nồng

độ thấp hơn : bạc , Uran , và Iot. Hiện nay biển Đông còn có nhiều kim loại nằm

ngay trên đáy biển dưới dạng hạt đa kim. Thành phần chủ yếu là magan và sắt.

Ngoài ra còn có niken, coban, nguyên tố phóng xạ uran, radi và các nguyên tố

khác.

- Muối :

Biển Đông là biển nằm trong khu vực gần xích đạo nên có giờ nắng nhiều

cán câu bức xạ mặt trời lớn thuận lợi cho sản xuất muối. Độ muối trên Biển Đông

khá cao nên có thể nói rằng tài nguyên muối trên Biển Đông là rất lớn. Hàng năm

các nước trong khu vực Biển Đông đều nhận được một nguồn lợi lớn từ muối

biển không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn phục vụ xuất

khẩu, Trung Quốc là một điển hình.

6

Page 7: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

Ở Việt Nam, có khả năng khai thác 900 nghìn tấn muối/năm (tập trung ở

tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận).Sản lượng muối tháng 1/2012 đạt khoảng

23.931 tấn. Theo thông tin từ Bộ NN và PTNT, lượng muối tồn trong diêm dân

và một số doanh nghiệp sản xuất tính tới thời điểm 20/01 khoảng gần 93 nghìn

tấn, bằng 42% so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, miền Bắc tồn hơn 15 nghìn

tấn, Miền Trung tồn hơn 38 nghìn tấn, ĐBSCL tồn hơn 39 nghìn tấn.

Tháng đầu năm 2012, diện tích sản xuất muối cả nước ước đạt 14.602 ha,

trong đó diện tích muối thủ công đạt 11.638 ha; diện tích muối công nghiệp đạt

2.964 ha. Sản lượng muối tính đến 20/1 đạt khoảng 23.931 tấn (tăng 334% so với

cùng kỳ năm 2011). Trong đó, muối sản xuất thủ công đạt 12.250 tấn, muối sản

xuất công nghiệp đạt 11.681 tấn.

Nước ta với 3260 km bờ biển, tiềm năng về muối là vô cùng lớn nhưng nước

ta lại đang phải nhập khẩu hàng trăm ngàn tấn muối mỗi năm phục vụ nhu cầu

tiêu dùng và sản xuất trong nước, nguyên nhân gây ra nghịch lý trên là bởi ngành

muối trong nước thiếu quy hoạch, đầu tư một cách bài bản. Sản xuất muối cho

đến nay vân dựa vào thủ công, chưa áp dụng khoa học kỹ thuật, máy móc hiện

đại, thiếu sản xuất tập trung…Theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, lượng cung muối trong năm 2012 sẽ vượt cầu. Vì vậy, trước mắt Bộ

Công Thương nên công bố hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối năm 2012 là

102.000 tấn.Trong buổi đối thoại trực tuyến đầu năm 2012, Bộ trưởng Công

Thương Vũ Huy Hoàng cho biết nhập khẩu muối là việc buộc phải làm vì lượng

muối sản xuất trong nước dù nhiều nhưng chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt bình

thường. Theo ông, muối trong nước có tạp chất cao, hàm lượng hóa chất chưa thể

đáp ứng cho các ngành công nghiệp, y tế, hóa chất.

Trước năm 2000, chúng ta là nước xuất khẩu muối, nhưng những năm gần

đây do nhu cầu tiêu dùng và sản xuất cần đến muối chất lượng cao, mà muối

7

Page 8: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

trong nước không đáp ứng được. Nói cách khác là thị trường trong nước khát

muối, và chúng ta đã phải nhập khẩu muối.

- Cát :

Cát trắng là một trong những khoáng sản chính ven biển Việt Nam, phân bố

rải rác dọc bờ biển từ Bắc đến Nam. Hầu hết các mỏ cỡ lớn tập trung ở ven biển.

Ước tính có 20 mỏ đã được tìm kiếm, thăm dò với trữ lượng lớn. Đa số các mỏ

là cát thủy tinh. Một số mỏ cát có chất lượng tốt như  Vân Hải, Cam Ranh có chất

lượng cao để sản xuất pha lê và dụng cụ quang học. 

Cát ở Việt Nam chủ yếu có ở duyên hải miền Trung (1,1 tỉ tấn) với 6 mỏ

lớn là Cửa Tùng (Quảng Trị), Quảng Ngãi, Tuy Hoà, Nha Trang, Phan Rang,

Phan Thiết. Cát ở Cam Ranh nổi tiếng có chất lượng tốt để sản xuất pha lê. Ở

phía Bắc có quy mô nhỏ hơn (6 triệu tấn). Trong đó, cát ở Vân Hải (Quảng Ninh)

nổi tiếng có chất lượng tốt.

Cát thủy tinh đã được khai thác phục vụ cho sản xuất trong nước nhưng một

lượng lớn phục vụ xuất khẩu. Với trữ lượng rất lớn, việc khai thác hiện nay là

chưa đáng kể.

2.2.3. Băng cháy:

 Người ta đã tìm thấy băng cháy ở nhiều đáy biển khắp các đại dương thế

giới và cả ở những vùng băng tuyết phủ quanh năm (như Siberi của Nga) với trữ

lượng đủ cung cấp cho toàn thế giới trong hàng trăm năm. Về hình dạng hydrat

metan trông như tuyết hay băng nên có mang cái tên là “băng cháy”. Băng cháy

hình thành trong điều kiện áp suất cao và nhiệt độ thấp, nó được hình thành từ

xác sinh vật biển trầm tích. Ở những vùng biển tích tụ hydrat metan thường ở độ

sâu dưới 500m. Ngoài ra, độ muối là một tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự

tích tụ và giữ sự ổn định của hiđrat metan. Người ta nói “hidrat metan” là nguồn

nhiên liệu khổng lồ cho tương lai vì tiềm năng tài nguyên này rất lớn. Người ta

dự báo trữ lượng hydrat metan khoảng 11.200 triệu tỷ m3. Những nghiên cứu gần

8

Page 9: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

đây đã khoanh vùng những khu vực có triển vọng về băng cháy là những vùng

đáy biển có độ sâu trên 500m, và Biển Đông là vùng biển nhiều tiềm năng vì độ

sâu trung bình và độ muối đáp ứng được. Nếu khai thác hidrat metan thì đó sẽ là

nguồn năng lượng cho thế giới trong tương lai.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nước nào khai thác hidrat metan ở quy mô

công nghiệp. Nhưng triển vọng khoảng một vài chục năm tới khai thác công

nghiệp không phải là dự báo thiếu cơ sở. Ở  Việt Nam chưa có công trình nghiên

cứu về hidrat metan. Nhưng đây là vấn đề lớn và Chính phủ hết sức quan tâm về

sự có mặt băng cháy trong vùng biển nước ta. Báo Đà Nẵng ngày 6/6/2011 dân

thông tin, các chuyên gia Nga đánh giá, khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường

Sa còn chứa đựng tài nguyên băng cháy. Trên trang wed của Bộ Tài nguyên và

Môi trường đưa tin ngày 13 tháng 3 năm 2012 cho biết tiềm năng khí hydrat của

Việt Nam nằm thứ 4 trong nhóm có tiềm năng trung bình của châu Á, sau

Philippines, Srilanka, Malaysia. Hiện chúng ta mới chỉ dừng ở việc “nghiên cứu,

điều tra” mà chưa đi vào khai thác. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là

thiếu nhân lực chuyên sâu.

 Trong khi than, dầu khí ngày càng cạn kiệt, người ta bắt đầu hướng sự chú ý

đến băng cháy, nguồn năng lượng khổng lồ còn đang nằm sâu dưới đáy biển.

Theo tính toán, toàn khu vực biển Đông sẽ đứng thứ 5 châu Á về băng cháy.

Tại Việt Nam, các nghiên cứu cũng cho thấy, ở độ sâu từ 500m tính từ đáy biển

là nơi có tiềm năng về băng cháy. Từ năm 2008, nước ta cũng có những nghiên

cứu, đánh giá trữ lượng băng cháy. Tuy nhiên, việc nghiên cứu biển sâu từ 500 -

2.000m đang còn tương đối kém do chưa được trang bị đầy đủ thiết bị, công nghệ

và còn thiếu nguồn nhân lực phục vụ nghiên cứu, điều tra cơ bản và thăm dò.

2.2.4. Sa khoáng:

9

Page 10: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

Có nhiều ở Biển Đông. Titan là loại sa khoáng quý, được dùng trong trên 30

ngành công nghiệp khác nhau. Kim loại titan không độc, khó bị ăn mòn, hợp kim

titan có độ bền vững gấp 3 lần so với hợp kim nhôm, khả năng chống rỉ sét cao

không thua bạch kim nhưng lại nhẹ bằng một nửa thép. Vì vậy kim loại này được

dùng nhiều trong lĩnh vực chế tạo máy bay, hàng không vũ trụ, công nghiệp quốc

phòng, đóng tàu, chế biến thực phẩm, vận tải đường sắt, kỹ thuật điện, sản xuất

sơn, que hàn, sơn, men, y tế… Riêng trong thân vỏ ở một số loại máy bay, titan

chiếm từ 25% đến 27%. Nhận thấy giá trị quý hiếm của kim loại này như vậy nên

những năm sau này, các quốc gia gần Biển Đông không những không khai thác

titan mà còn tích cực mua để dự trữ. Gần đây nhất là Trung Quốc tăng cường

mua dự trữ lớn kim loại này.

Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, việc khai thác quặng sa khoáng

ven biển phát triển khá mạnh mẽ và có hiệu quả cao ở rất nhiều khu vực ven biển

Việt Nam. Tuy vậy, việc khai thác quặng sa khoáng ven biển hầu như chỉ tiến

hành ở các diện tích lộ quặng tại các bãi bồi sát biển, việc điều tra đánh giá quặng

sa khoáng chôn vùi hầu như chưa được tiến hành Theo số liệu của Hiệp hội Titan

Thế giới, Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên này chiếm tỷ lệ 1/5 trữ

lượng thế giới. Loại khoáng sản này tập trung dọc bờ biển duyên hải miền Trung,

còn được gọi là “cát đen”. Theo Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam, riêng tại

Bình Thuận, khoáng sản này chiếm 20% trữ lượng cả nước. Đây là nguồn tài sản

vô giá mà thiên nhiên đã ban cho Bình Thuận. Mặc dù được xem là nguồn tài

nguyên quý giá, nhưng loại sa khoáng này đang được bán với một giá rẻ như cát.

Nhiều năm qua nạn đào đãi, mua bán trái phép loại sa khoáng này diễn ra ồ ạt.

Trong khi đó, hàng năm Việt Nam phải nhập lại các sản phẩm được tinh chế từ sa

khoáng này để sử dụng với một lượng lớn. 

10

Page 11: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

Dọc dải bờ biển nước ta có nhiều sa khoáng kim loại, đáng kể nhất là các sa

khoáng ilmenit tập trung các vùng biển Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định,

Phú Yên, Ninh Thuận với tổng trữ lượng khoảng 10 triệu tấn. Các khoáng vật đi

kèm ilmenit là zircon, monaxit có giá trị kinh tế cao. Những năm gần đây, công

tác khai thác đã được phát triển mạnh ở Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định

và Bình Thuận với sản lượng khai thác khoảng 100 ngàn tấn/năm phục vụ cho

nhu cầu trong nước và xuất khẩu

Ngoài ra, biển Việt Nam còn có nhiều loại khoáng sản khác như: đất hiếm,

bùn đỏ, đất sét biển và nhiều loại kim loại quý hiếm khác.

2.3 TÀI NGUYÊN DU LỊCH BIỂN

Biển Đông có nhiều vùng du lịch hấp dân không những đối với nhu cầu nghỉ

dưỡng của khách hàng trong khu vực, mà còn thu hút nhiều khách quốc tế trên

thế giới. Địa lý bờ biển Đông đã tạo điều kiện kết hợp hài hòa các cảnh quan tự

nhiên với cảnh quan xã hội. Tài nguyên du lịch Biển Đông đa dạng, giàu bản sắc

cả về mặt thiên nhiên cũng như về mặt nhân văn. Du lịch vân được xem là giấy

thông hành của hoà bình. Các quốc gia giáp biển như: Việt Nam, Malaysia,

Inđônêxia, Philippin... đã tận dụng ưu thế này nhằm phát triển một dịch vụ đem

lại nguồn lợi khổng lồ và trở thành một trong những điểm đến hàng đầu về du

lịch biển, đảo.

Ở Việt Nam, du lịch biển cũng là một ưu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai

thác tổng hợp để phát triển mạnh. Các bãi biển của Việt Nam phân bố trải đều từ

Bắc vào Nam. Dọc bờ biển Việt Nam có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc

phát triển du lịch, với bãi thoải, nước trong xanh, khí hậu ôn hòa, và cảnh quan

thiên nhiên kỳ thú. Trên 30 bãi biển đã được đầu tư và khai thác. Một số địa danh

du lịch biển của Việt Nam đã được biết đến trên phạm vi toàn cầu như vịnh Hạ

11

Page 12: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

Long – hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, đang nằm

trong danh sách đề cử kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Vịnh Nha Trang được coi

là một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh, bãi biển Đà Nẵng được tạp chí

Forbes bầu chọn là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh.

Theo các chuyên gia du lịch, biển Việt Nam rất đẹp và thích hợp cho du

lịch tắm biển. Suốt từ Móng Cái (Quảng Ninh) cho đến mũi Cà Mau vòng lên

Kiên Giang có tới hàng ngàn cây số bờ biển, hấp dân du khách bởi bãi biển tuyệt

đẹp, cát trắng, cát vàng sạch sẽ, nước biển trong xanh, cảnh đẹp hữu tình. Trong

đó, những khu vực biển có tiềm năng lớn đã đầu tư phát triển là Trà Cổ-vịnh Hạ

Long- Hải Phòng- Cát Bà; Sầm Sơn- Cửa Lò; Nhật Lệ- Cửa Tùng- Cửa Việt;

Huế- Đà Nẵng- Quảng Nam; Quảng Ngãi- Quy Nhơn; Vân Phong- Đại Lãnh-

Nha Trang…Sự có mặt của các tập đoàn quản lý khách sạn, khu nghỉ dưỡng lớn

nổi tiếng trên thế giới tại Việt Nam như Furama, General, Accor, Starwood...

càng làm tăng thêm sức hấp dân của du lịch biển Việt Nam. Đó là chưa kể đến

các hình thức du lịch mới trong điều kiện hiện nay như lướt sóng, đua thuyền

buồm, du lịch lặn biển…trong thời gian gần đây đã đem lại nhiều triển vọng cho

du lịch văn hoá biển.

Theo số liệu thống kê trong vòng 10 năm trở lại đây, vùng ven biển là lãnh

thổ thu hút hàng năm trên 73% số lượt khách du lịch quốc tế đến các địa phương

trong lãnh thổ Việt Nam với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 31%/năm.

Năm 1997 số lượt khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển đạt 2.127 ngàn, năm

2002 gần 5,3 triệu lượt và năm 2008 các tỉnh ven biển đón khoảng 9 triệu lượt

khách quốc tế. Cùng với tỉ lệ cao số lượng khách du lịch, thu nhập xã hội từ du

lịch của các địa phương ven biển luôn chiếm tỉ lệ lớn (trên 70%) trong tổng thu

nhập xã hội từ du lịch của cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và

ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước.

12

Page 13: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

Tuy nhiên du lịch biển Việt Nam vân còn những hạn chế nhất định, dọc bờ

biển Việt Nam có khoảng 125 bãi biển lớn nhỏ thuận lợi cho phát triển du lịch

nhưng số lượng bãi tắm được đầu tư với qui mô lớn chưa nhiều. Nhiều bãi tắm ở

tình trạng: “nhiều nắng, nhiều biển, nhiều cát nhưng không có người”. Nhiều bãi

biển ô nhiễm nặng, nhiều điểm du lịch chưa đưa vào sử dụng...

2.4 GIAO THÔNG VẬN TẢI BIỂN

Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái

Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á. Đây được

coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có

khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là

tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên.

Trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào

loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại

và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực.Biển Đông được coi là

con đường chiến lược về giao lưu quốc tế và thương mại quốc tế.

Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con

đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung

Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên

thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và

Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng

đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông.

Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn

gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực biển Đông có

những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến

lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt eo biển Malacca là

eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới. Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu

13

Page 14: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được

vận chuyển qua biển Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và

khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được

vận chuyển bằng đường biển qua biển Đông.

Việt Nam hiện có 73 cảng biển lớn nhỏ và 8 thương cảng lớn do TW quản lý

(Cái Lân, Hải Phòng, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần

Thơ). Trong đó, 3 cảng lớn là Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Hiện nay, đang tập

trung xây dựng một số cảng nước sâu cho tàu trọng tải lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong – Khánh Hòa; cảng cửa ngo

quốc tế tại Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu.Vận tải biển quốc tế được phát triển

mạnh mẽ sau năm 1976. Các tuyến đường biển quốc tế chủ yếu xuất phát từ các

cảng biển quốc tế của nước ta đã đi tớii nhiều nước trong khu vực và thế giới

(Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Campuchia, Singapo, Malayxia,

Hồng Kông, ...)

Tuy nhiên, việc phát triển tổng hợp kinh tế biển ở nước ta vân chưa tương

xứng với tiềm năng hiện có. Có nhiều cảng biển nhưng tốc độ phát triển còn

chậm, thiếu sức cạnh tranh, thiết bị dỡ xếp lạc hậu, thiếu cảng nước sâu, cảng

Contenner, cảng tổng hợp đều nằm sâu trong đất liền (Hải Phòng sâu 30 km, Sài

Gòn sâu 90 km).

Việt Nam là nước có tính biển lớn nhất so với các nước trên bán đảo Trung

- Ấn. Mục tiêu đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về

biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia

trên biển, đảo. Xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực và khu

kinh tế mạnh ở ven biển.Tiềm năng biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự

hào của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong xu thế

hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tiềm năng đó vân chỉ là tiềm

14

Page 15: BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG · Web view- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp

năng, nếu thiếu đi một chiến lược tổng thể, cùng những mục tiêu, biện pháp cụ

thể.

III. KẾT LUẬN:

Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy những bước đột phá phát triển mang

tầm thế giới cho đến nay hầu như đều bắt nguồn từ những quốc gia - biển (đại

dương). Đó là Italia, Anh, Nhật Bản, Xingapo, Trung Quốc...Ngày nay, thế giới

đang bước vào giai đoạn bùng nổ phát triển mới với xu hướng ngày càng khẳng

định tầm quan trọng to lớn của biển và đại dương. Các nước giáp Biển Đông, nhờ

nguồn tài nguyên biển phong phú, đã không ngừng phát triển kinh tế và ngày

càng phát huy tốt hơn thế mạnh biển.

Tình trạng khan hiếm nguyên liệu, năng lượng trở nên gay gắt hơn bao giờ

hết, dân tới cạnh tranh thị trường, tranh chấp lãnh thổ và xung đột quốc gia

thường xuyên và gay gắt. Vươn ra biển, khai thác đại dương đã trở thành khẩu

hiệu hành động mang tính chiến lược của toàn thế giới. Chính vì lẽ đó mà không

phải ngâu nhiên luận điểm “Thế  kỷ XXI là thế kỷ của đại dương” xuất hiện và

được nhất trí cao trên toàn thế giới . Tuy nhiên, trong vấn đề phát triển kinh tế

biển có nhiều thách thức đang được đặt ra.

Khu vực Biển Đông đang có tranh chấp gay gắt, nên việc hợp tác và hội

nhập quốc tế  để phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp không ít khó khăn.

Việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, những vi phạm trong quá trình

sử dụng, khai thác tài nguyên biển chưa có các quy định cụ thể mang tính pháp

quy như trong quản lý sử dụng đất  trên đất liền và còn nhiều bất cập. Ngoài ra,

khu vưc Biển Đông còn có nhiều vấn đề quan trọng về giao thông biển, môi

trường biển… cần sự chung tay đối thoại và giải quyết của các quốc gia trong

thời gian tới nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế.

15