HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN MINH CHÍNH
SINH HO¹T V¡N HãA QUAN Hä LµNG (QUA TRƯỜNG HỢP LÀNG QUAN HỌ VIÊM XÁ)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC Mã số: 62 31 06 04
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS PHẠM DUY ĐỨC
2. GS. TSKH PHAN ĐĂNG NHẬT
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định.
Tác giả
Trần Minh Chính
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 5 1.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 22
Chương 2: SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ LÀNG CỔ TRUYỀN Ở LÀNG VIÊM XÁ 37
2.1. Làng Viêm Xá - không gian sinh hoạt văn hóa Quan họ tiêu biểu 37 2.2. Xã hội Quan họ làng 46 2.3. Kết bạn Quan họ 48 2.4. Diễn xướng Quan họ 52 2.5. Văn hóa giao tiếp, ứng xử và tục kiêng hèm 61 2.6. Tạo nguồn nghệ nhân Quan họ 68
Chương 3: SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ LÀNG Ở LÀNG VIÊM XÁ HIỆN NAY 72
3.1. Không gian sinh hoạt văn hóa Quan họ làng 72 3.2. Xã hội Quan họ làng 81 3.3. Kết bạn Quan họ 89 3.4. Diễn xướng Quan họ 91 3.5. Văn hóa giao tiếp, ứng xử và tục kiêng hèm 101 3.6. Tạo nguồn nghệ nhân Quan họ 108
Chương 4: BẢO TỒN, PHÁT HUY SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ LÀNG HIỆN NAY 112
4.1. Những nhân tố cơ bản tác động đến sinh hoạt văn hóa Quan họ làng 112 4.2. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra trong sinh hoạt văn hóa Quan
họ làng hiện nay 121 4.3. Phương hướng bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng 126 4.4. Một số giải pháp cơ bản 134
KẾT LUẬN 139 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 143 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 144 PHỤ LỤC 153
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CLBQH : Câu lạc bộ Quan họ
CCTT : Cơ chế thị trường
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DSVHPVT : Di sản văn hóa phi vật thể
DSVHVT : Di sản văn hóa vật thể
DCQH : Dân ca Quan họ
ĐQH : Đội Quan họ
ĐTH : Đô thị hóa
KT-XH : Kinh tế - xã hội
KTTT : Kinh tế thị trường
NXB : Nhà xuất bản
SHVHQHL : Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng
TCH : Toàn cầu hóa
TG : Tác giả luận án
UBND : Ủy ban nhân dân
VHQHL : Văn hóa Quan họ làng
VHTT : Văn hóa thông tin
VHTT&DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch
XHQHL : Xã hội Quan họ làng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Nguồn gốc của Quan họ 43
Bảng 3.1: So sánh đội Quan họ và bọn Quan họ 88
Bảng 3.2: Bảng so sánh giữa bài hát Quan họ hát "đủ" và một bài Quan họ
hát tắt". 93
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân ca Quan họ là một trong những di sản văn hóa phi vật thể có giá trị to lớn
không chỉ đối với nhân dân vùng Kinh Bắc - nơi đã sản sinh và nuôi dưỡng Quan họ -
mà còn đối với cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam và toàn thể nhân loại. Vào lúc
16h55' ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại thủ đô Abu Đhabi của các Tiểu Vương quốc Ả
Rập thống nhất, Ủy ban UNESCO của Liên hợp quốc đã công nhận Quan họ Bắc Ninh
là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại dựa trên các giá trị văn hóa, giá trị
lưu trữ tập quán xã hội, nghệ thuật trình diễn, phong cách ứng xử văn hóa, ca từ và
trang phục. Đó thực sự là một viên ngọc quý đã tỏa sáng nhiều thế kỉ trong dòng chảy
văn hóa đa sắc màu của các loại hình dân ca Việt Nam. Trải qua thời gian, dân ca Quan
họ phát triển rực rỡ đến mức, đã tạo nên quanh nó cả một bản sắc văn hóa riêng - đó là
Văn hóa Quan họ, với những biểu hiện sinh hoạt phong phú, từ đời sống tâm linh, tín
ngưỡng đến những phong tục tập quán, trang phục và lề lối giao tiếp ứng xử, ca hát…
vừa độc đáo, vừa thấm đượm tính chất cộng đồng. Và đến lượt mình, các sinh hoạt văn
hóa Quan họ đã nuôi dưỡng để dân ca Quan họ tồn tại và phát triển. Nhìn nhận từ mối
quan hệ biện chứng, hữu cơ ấy, có thể thấy, khi sinh hoạt văn hóa Quan họ đổi thay và
phát triển thì dân ca Quan họ cũng đổi thay và phát triển. Do đó, muốn bảo tồn, phát
huy dân ca Quan họ, trước hết phải nghiên cứu thực trạng của sinh hoạt văn hóa Quan
họ trong sự kế thừa, tiếp nối liên tục của nó với sinh hoạt Quan họ cổ truyền. Ở đây là
sinh hoạt văn hóa Quan họ làng. Nghiên cứu sinh hoạt văn hóa Quan họ làng chính là
nghiên cứu môi trường sống, môi trường phát triển của dân ca Quan họ gắn với hạt
nhân cốt lõi của nó là bản thân các sinh hoạt ca xướng.
Mặt khác, có thể nói, từ nửa cuối thế kỷ XX cho đến nay, đất nước ta có
nhiều biến động lớn và sâu sắc cả về kinh tế, chính trị và xã hội, đặc biệt là thời kì
đổi mới, đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập. Văn hóa
truyền thống, trong đó có dân ca Quan họ đã đứng trước những thử thách, va đập
mạnh mẽ với văn hóa ngoại nhập, với những biến đổi về lối sống, nếp sống và đặc
biệt là xu hướng đô thị hóa làm thay đổi không chỉ những vùng ven đô thị mà cả
2
những vùng nông thôn rộng lớn, trong đó vùng Quan họ không phải là một ngoại
lệ. Rõ ràng, nguy cơ mai một hoặc biến dạng của Quan họ là một sự thật hiện
hữu. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi sinh hoạt văn hóa Quan họ làng cần phải được
bảo tồn như thế nào để vừa bảo lưu tối đa những giá trị truyền thống căn cốt; vừa
phát huy, phát triển để đáp ứng nhu cầu của con người hiện đại và môi trường
văn hóa hiện nay.
Như vậy, đặt vấn đề nghiên cứu sinh hoạt văn hóa Quan họ làng là hết sức
cần thiết.
Tuy nhiên, điểm lại tình hình nghiên cứu dân ca Quan họ từ thế kỷ XX đến
nay, mặc dù đã có nhiều thành tựu; trong đó có một số công trình in thành sách, các
bài nghiên cứu riêng đã có đề cập tới sinh hoạt văn hóa Quan họ làng cổ truyền
nhưng chưa có công trình nào chuyên tâm nghiên cứu về sinh hoạt văn hóa Quan họ
làng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Đây chính là giai đoạn lịch sử đầy biến động
và cũng giàu thành tựu của sự bảo tồn, phát triển dân ca Quan họ vùng Kinh Bắc.
Xuất phát từ những lí do kể trên, tôi lựa chọn đề tài: Sinh hoạt văn hóa
Quan họ làng (qua trường hợp làng Quan họ Viêm Xá) làm đề tài Luận án tiến sĩ
của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sinh hoạt văn hóa Quan họ làng.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung:
Nghiên cứu sinh hoạt văn hóa Quan họ làng và xu hướng phát triển của sinh
hoạt văn hóa Quan họ làng trong tương lai.
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Làng thủy tổ Quan họ Viêm Xá và mối quan hệ
liên làng trong vùng Quan họ Kinh Bắc. Khi xác định cách tiếp cận trường hợp để thực
hiện đề tài, chúng tôi đã lựa chọn làng Quan họ Viêm Xá bởi một số điểm sau:
+ Đây là làng Quan họ gốc và được dân gian vùng Quan họ tôn vinh là làng
Thủy tổ của Quan họ, nơi duy nhất có đền thờ Vua Bà - vị nữ thần được dân gian
truyền tụng là người đã sáng tạo ra dân ca Quan họ, gây dựng nên làng Viêm Xá xưa.
3
+ Làng Viêm Xá là làng Quan họ điển hình với một không gian văn hóa
Quan họ tiêu biểu cho 49 làng Quan họ. Người ta có thể tìm thấy ở đây một diện
mạo toàn vẹn của các sinh hoạt Quan họ từ lề lối, giao tiếp - ứng xử, các hình thức
diễn xướng, phong tục tập quán và điều quan trọng là khả năng giữ gìn văn hóa
truyền thống của người dân nơi đây. Viêm Xá còn là làng Quan họ có mối quan hệ
kết nghĩa với các làng Quan họ cổ điển hình khác là Bịu Xim, Bịu Trung Đống Cao
trên cơ sở của quan hệ Kết chạ - một phong tục rất cổ trong vùng.
+ Viêm Xá là một trong hai trung tâm hội hát Quan họ lớn nhất vùng Quan
họ (cùng với Lim thuộc huyện Tiên Du) cho đến ngày nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu, nhận diện các nội dung văn hóa của sinh hoạt văn hóa Quan họ
làng và vai trò của nó đối với đời sống dân ca Quan họ vùng Kinh Bắc, từ đó đề
xuất phương hướng và khuyến nghị bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của sinh hoạt
văn hóa Quan họ làng trong bối cảnh đất nước đổi mới, mở cửa và hội nhập.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu về sinh hoạt văn hóa
Quan họ làng vùng Kinh Bắc hiện nay.
- Khảo sát, nghiên cứu đánh giá thực trạng của sinh hoạt văn hóa Quan họ
làng hiện nay trong mối quan hệ hữu cơ với sinh hoạt văn hóa Quan họ làng cổ
truyền và tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội vùng Kinh Bắc thông qua nghiên cứu
trường hợp Làng thủy tổ Quan họ Viêm Xá cùng mối quan hệ, giao lưu Quan họ
giữa làng Quan họ tiêu biểu này với các làng kết nghĩa, các làng Quan họ khác
trong vùng.
- Nghiên cứu, đề xuất những quan điểm, phương hướng, cơ chế chính sách
và các khuyến nghị cụ thể nhằm bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng
trong tình hình hiện nay.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
4.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp phần nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn những vấn đề lý luận chung
về bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng. Phát hiện những vấn đề mới về
4
phương diện lý luận của sinh hoạt văn hóa Quan họ làng và vai trò của sinh hoạt văn
hóa Quan họ làng trong giai đoạn hiện nay.
4.2 Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp nhận diện sinh hoạt văn hóa Quan
họ làng và việc bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng nói riêng, sinh
hoạt văn hóa truyền thống nói chung, trước hết là trên chính quê hương của loại
hình dân ca này.
- Nội dung, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu nghiên
cứu, giảng dạy trong hệ thống các trường văn hóa nghệ thuật, khoa học xã hội và
nhân văn và làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý văn hóa, đặc biệt là
quản lý văn hóa cơ sở vùng Quan họ Kinh Bắc.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 04 chương, 18 tiết.
5
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài , trong phần Tổng quan
tình hình nghiên cứu, chúng tôi tập trung vào những kết quả tiếp cận theo hướng bàn
về Văn hóa Quan họ, về các thành tố (các mặt) của sinh hoạt văn hóa Quan họ. Từ
những thành quả chung đó của giới nghiên cứu, chúng tôi kế thừa và chọn cho đề tài
của mình một nội dung nghiên cứu mới theo hướng tổng thể và chuyên sâu hơn. Ở
đây là sinh hoạt văn hóa Quan họ làng (SHVHQHL).
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Cho đến nay đã có 2 luận án tiến sĩ về Quan họ và liên quan đến Quan họ
được bảo vệ tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Đó là các luận án:
- Hát Quan họ ở miền Bắc Việt Nam: "Khao khát khám phá nghệ thuật Quan
họ" của Lê Ngọc Chân [22] đã chỉ rõ mối quan hệ giữa quan họ với các môn nghệ
thuật Chèo, Chầu văn và các sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã. Luận án cũng
quan tâm ảnh hưởng của văn hóa Chăm đến một số tập tục văn hóa ở làng Viêm Xá
như tục cưới, vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng như quan hệ tính giao
trong giao du kết bạn Quan họ.
- "Sự chuyển tải âm nhạc: âm nhạc dân gian, sự điều chỉnh và quá trình hiện
đaị hóa ở miền Bắc Việt Nam" của L.Meeker [69] đã dụng công nghiên cứu về các
chính sách của nhà nước Việt Nam đối với việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa
dân tộc. Nội dung luận án của Bà cũng đề cập sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với việc giữ gìn truyền thống. Bà cho rằng ở Việt Nam, việc bảo
tồn di sản văn hóa được nhà nước hóa.
Cả hai luận án trên đều là luận án triết học và bàn về Quan họ chủ yếu từ góc
độ âm nhạc, dân ca.
- Hội thảo khoa học quốc tế: "Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội đương
đại (qua trường hợp Quan họ Bắc Ninh ở Việt Nam)" của Bộ Văn hóa Thông tin
6
phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh [20] với sự tham gia của trên 100 nhà
khoa học, trong đó có các nhà khoa học đến từ Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản,
Đức, Lào, Malayxia.
Tại hội thảo này, trong tham luận của các học giả nước ngoài, có một số
tham luận đề cập trực tiếp tới dân ca Quan họ, tiêu biểu là:
GS.TS Tokumaru Yosihito, Đại học Không gian, Nhật Bản trong tham luận:
Mục đích của Hội nghị đã đánh giá cao việc Việt Nam chọn Di sản phi vật thể Quan
họ để ưu tiên bảo tồn, phát triển bên cạnh Di sản phi vật thể Âm nhạc Cung đình
Huế và Cồng chiêng Tây Nguyên. Ông khẳng định: bằng việc quan tâm đến "truyền
thống nhỏ" (chỉ Quan họ) chúng ta có thể quan tâm đến tương lai âm nhạc trên toàn
thế giới.
GS.TS Gisa Jahnichen, Đại học Frankfurt, Cộng hòa liên bang Đức trong
bài tham luận: Truyền thống hát thi và triết học thông tin hiện nay tại Việt Nam
đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc về dân ca Việt Nam của ông khi đưa vào bài viết
của mình các loại dân ca nổi tiếng của Việt Nam như Ví giặm, Trống quân, Bài
chòi, hát Đúm, hò Đối đáp, Quan họ để đối chiếu, so sánh và lập luận. Ông nhấn
mạnh đặc điểm "ứng tác, ứng ca" của Quan họ theo những qui tắc đặc biệt riêng.
Ông kết luận: cuộc sống của chúng ta được bảo vệ bằng chính những thể loại âm
nhạc truyền thống phù hợp, ngay cả khi xung quanh chúng ta có những phương
tiện thông tin hiện đại. Theo ông, "hát Quan họ là một kiểu thức cuộc sống rất
độc đáo, vì nó có ý nghĩa trong việc duy trì một nền âm nhạc bản địa vào đầu thế
kỷ XXI".
TS. Lauren Meecker, Đại học Columbia, Hoa Kỳ trong bài tham luận Từ bài
hát ra đến sân khấu: Sinh hoạt Quan họ ở Việt Nam hiện nay, bà bàn về quan hệ
giữa Quan họ và nghệ thuật diễn xuất đã thay đổi như thế nào; về sân khấu trung
gian giữa loại Quan họ cổ và Quan họ mới như thế nào. Đây cũng là một trong
những nội dung chính được nghiên cứu trong Luận án tiến sĩ của bà, như chúng tôi
đã nêu ở trên. Đáng chú ý là bà đặt "Quan họ cổ" gắn với "Làng" - sinh hoạt văn
hóa Quan họ làng, "Quan họ mới" gắn với "hiện đại". Đặc biệt, bà đặt khái niệm
"sinh hoạt Quan họ" tương ứng với khái niệm "chơi Quan họ" và "biểu diễn Quan
7
họ" tương ứng với "hát Quan họ". Theo bà , "chơi Quan họ" gắn với một hệ thống
quy ước và hành động xã hội và cuộc chơi Quan họ không có khán giả như "hát
Quan họ" trên sân khấu. Như thế, "chơi quan họ" là một hiện tượng văn hóa tổng
thể - là văn hóa Quan họ. Bà nhận định "Sinh hoạt xã hội rất quan trọng đối với
cách chơi Quan họ". Ở đây, trong tham luận này, bà cũng sử dụng khái niệm "Quan
họ làng" gắn với xã hội làng.
GS. Deborah Wong, Đại học California, Riverside, Hoa Kỳ trong tham luận:
Sự biến mất của văn hóa dân gian: một cách tiếp cận từ thế giới thứ nhất, sau khi
đưa ra hai ví dụ về âm nhạc dân gian đang tồn tại ở miền Nam nước Mỹ, ông đã liên
hệ trở lại để suy nghĩ về tương lai của Quan họ như thế nào? Ông đề cập đến 04 vấn
đề liên quan đến Quan họ:
+ "Ra quyết định": Trả lời cho câu hỏi ai quyết định lưu trữ quá khứ và quyết
định tương lai Quan họ. Họ sẽ là chính quyền, các nghệ nhân và toàn thể cộng đồng
sở tại nhập cuộc với một tinh thần "lôi kéo tích cực".
+ "Bối cảnh diễn xướng" (thực chất là không gian văn hóa Quan họ - cơ bản
là văn hóa Quan họ làng - TG): bối cảnh diễn xướng thường thay đổi theo thời gian
đối với bất kỳ truyền thống nào… Đó là một thực tế có tính qui luật - không tốt,
cũng không xấu, không tích cực cũng không tiêu cực. Ông cho rằng, từ thế kỷ XIII
Quan họ đã qua nhiều bối cảnh. Ở đây, trong trường hợp này GS. Deborah Wong
nói về sự đổi thay (của dân ca) theo thời gian và đó là quy luật.
+ "Chuyển giao và phương pháp giáo dục": Quan họ cần phải được "truyền
lại" để tiếp tục sự tồn tại. Ở đây có vai trò nghệ nhân và phương thức trao truyền
giữa các thế hệ.
+ "Lưu trữ và sự ủng hộ tích cực": Sưu tầm tư liệu về Quan họ là quí giá và
vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, lưu trữ để làm gì lại là một việc khác. Quan họ cần
phải được hoạt động. Đặc điểm chủ yếu của di sản văn hóa phi vật thể là nó "được
các cộng đồng và các nhóm tái tạo không ngừng". Ông khẳng định Quan họ tồn tại
trong sự thay đổi có tính đương đại.
TS. Bountheng Souksaratd, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa Lào
trong tham luận: Giá trị nghệ thuật trong dân ca Lào và trong hát Quan họ Việt Nam
8
nét tương đồng và dị biệt đã đưa ra một cách rất cụ thể các tương đồng và dị biệt giữa
dân ca Lào (Khắp Lăm) và Quan họ trên các mặt: Môi trường, kỹ thuật hát, làn điệu,
nghệ thuật trình diễn, phương pháp truyền dạy, hệ thống bài bản, lịch sử lưu truyền.
Tuy nhiên, trên các mặt kể trên, ông cho rằng nét tương đồng nhiều hơn dị biệt.
Như vậy, có thể thấy, tuy nghiên cứu về Quan họ của các tác giả nước
ngoài chưa nhiều nhưng các kết quả cũng cho thấy Quan họ độc đáo ở chỗ nó là
"một kiểu thức cuộc sống" mà dường như là một "tiểu văn hóa" chứ không chỉ là
một loại hình dân ca thuần túy. Nó "chứa đựng" cuộc sống và những sinh hoạt văn
hóa làng xã.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trước năm 1945
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi nhận biết được là trong khoảng nửa
đầu thế kỷ XX tính đến trước Cách mạng Tháng Tám (1945), mảng đề tài Quan họ,
về cơ bản, chưa thật sự được giới khoa học xã hội quan tâm nghiên cứu. Một số bài
báo đăng tải trong thời kỳ này của các tác giả như Chu Ngọc Chi, Vũ Bằng, Dương
Quảng Hàm, Việt Sinh, Toan Ánh, Minh Trúc v.v… thường chỉ tập trung vào việc
giới thiệu một cách khái lược về loại hình hoặc bản thân một sinh hoạt cụ thể nào
đó của Quan họ. Có thể lấy ví dụ:
- “Hát Quan họ” của Chu Ngọc Chi [23].
- “Nghe hát Quan họ một đêm ở Lũng Giang” của Việt Sinh [87].
- “Hát quan họ”, Minh Trúc [109].
- “Hội Lim” của Nguyễn Duy Kiện [61].
Trong số ít các tác giả kể trên, có phóng sự đăng nhiều kỳ của Minh Trúc
viết khá kỹ về địa bàn và lề lối hát Quan họ trong hát canh, hát hội. Đáng chú ý, tác
giả nêu, ngoài các giọng thông thường của Quan họ như Bỉ, Sổng, Vặt còn có các
giọng "Trên" mà theo ông biết các tài tử đặt tên là Giọng Đường bạn, Tình tang, Hừ
la, Xuống sông, Lên núi… các giọng "Trên" được sử dụng trong hát đối, khó hát
nhưng lại không hay bằng giọng Vặt. Nhận xét quan trọng này khi ứng vào tình
hình phát triển Quan họ hiện nay ta thấy rất rõ là các bài Quan họ giọng Vặt được
truyền dạy và sử dụng nhiều hơn hẳn các bài Quan họ lề lối.
9
Đặc biệt, đáng chú ý hơn cả có Luận án tiến sĩ “Hát đối đáp nam nữ thanh
niên” của Nguyễn Văn Huyên được công bố vào năm 1934. Trong công trình rất có
giá trị này, Nguyễn Văn Huyên đã đề cập khá sâu sắc đến dân ca Quan họ nhất là
hình thức hát đối và sinh hoạt Hội Lim - một lễ hội Quan họ lớn và tiêu biểu vào
bậc nhất của vùng Quan họ.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu sau 1945 đến nay
Có thể thấy, từ 1945 đến 1954 là giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Trong
thời gian khoảng 10 năm này, do chiến tranh, tình hình nghiên cứu không có dấu ấn
gì đáng kể.
Từ hòa bình lập lại trên miền Bắc (1954) đến đầu thế kỷ XXI, công tác
nghiên cứu Quan họ đã được tiến hành liên tục và có bước phát triển đáng kể. Trên
thực tế đã có những công trình nghiên cứu công phu, dày dặn được in thành sách,
thành giáo trình dạy học một cách khá toàn diện.
Trong giai đoạn từ 1955 đến trước 1965 có các công trình nghiên cứu quan
trọng: "Tìm hiểu dân ca Quan họ" của Trần Linh Quý, Hồng Thao [84]; "Tìm hiểu
nguồn gốc Quan họ Bắc Ninh" của Nguyễn Tiến Chiêu [25]; "Dân ca Quan họ Bắc
Ninh" của Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc [82]; "Quan
họ Bắc Ninh" của Nguyễn Viêm [120]. Ngoại trừ tập nhạc của Nguyễn Viêm chủ
yếu ghi âm lại các bài Quan họ (60 bài), các công trình nghiên cứu còn lại đã đề cập
đến nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển của dân ca Quan họ. Tuy nhiên, do
phần lớn là các nhạc sỹ làm nghiên cứu nên chủ yếu sản phẩm nghiên cứu vẫn thiên
về âm nhạc, sưu tầm các bài bản... Hướng nghiên cứu liên ngành về Quan họ nói
riêng và văn nghệ dân gian nói chung giai đoạn này vẫn chưa được áp dụng mà chủ
yếu là nghiên cứu đơn ngành. Vì vậy, Quan họ chưa thật sự được quan tâm nghiên
cứu một cách toàn diện với tư cách là một hiện tượng văn hóa tổng thể.
Đáng chú ý, trong các năm từ 1965 đến 1973, Ty Văn hóa Hà Bắc đã lần
lượt tổ chức 5 hội nghị về Quan họ (vào các năm 1965,1967, 1969, 1971, 1973) để
đánh giá tình hình nghiên cứu và phát triển Quan họ với sự tham gia của nhiều nhà
nghiên cứu, quản lý văn hóa trung ương và địa phương. Kết quả là năm 1972 cuốn
kỷ yếu về một số hội nghị nói trên đã được xuất bản đánh dấu một bước tiến triển
10
quan trọng của công tác nghiên cứu Quan họ. Cuốn kỷ yếu có tên: Một số vấn đề về
dân ca Quan họ (286 trang) đã trở thành tài liệu có tính chất công cụ của nhiều thế
hệ các nhà nghiên cứu Quan họ sau này.
Từ năm 1975 sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất cho đến nay, công tác nghiên cứu Quan họ đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp
phần hình dung một cách khá toàn diện về dân ca Quan họ Kinh Bắc cả về nghệ thuật
ca hát và các sinh hoạt văn hóa phong phú của loại hình dân ca này.
Năm 1978, nhóm tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý đã
công bố cuốn: Quan họ, nguồn gốc và quá trình phát triển [65], đây là một công trình
nghiên cứu đồ sộ với 527 trang, gồm 6 phần, 12 chương. Công trình đã được viết chủ
yếu trên một kho tàng tư liệu điền dã công phu, rất có giá trị. Trong số 3 tác giả của
cuốn sách thì Trần Linh Quý và Hồng Thao là các nhà nghiên cứu công tác tại Sở
Văn hóa Thông tin (VHTT) Hà Bắc. Họ sống ngay trên mảnh đất của quê hương
Quan họ và gắn bó cả đời với sự nghiệp nghiên cứu loại hình dân ca này. Cuốn sách
đã đề cập tương đối toàn diện đến dân ca Quan họ từ nguồn gốc đến quá trình phát
triển. Có thể nói, đây là công trình đầu tiên cho thấy xu hướng nghiên cứu đa ngành,
liên ngành về Quan họ với tư cách là hiện tượng văn hóa tổng thể mà trong đó bản
thân sinh hoạt ca hát là một thành tố cốt lõi. Về xu hướng này, mở đầu chương I: Sinh
hoạt Quan họ của nhân dân Hà Bắc, các tác giả viết:
Khi nói đến dân ca, người ta thường nghĩ ngay đến những làn điệu và
những lời ca quen thuộc của dân ca đó. Điều đó đúng nhưng chưa đủ, cần
phải bổ sung những lối chơi cụ thể của từng làng. "Lối chơi" là tiếng các
nghệ nhân Quan họ thường dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt văn nghệ Quan
họ mà mình tham gia. Nói cách khác lối chơi là toàn bộ những mối quan hệ
giữa người và người trong sinh hoạt văn nghệ Quan họ, và toàn bộ những gì
làm nên, những gì góp phần vào mối quan hệ ấy. Quan hệ ấy một phần thể
hiện trong âm nhạc, trong lời ca; mặt khác, không kém phần quan trọng, còn
thể hiện ở những quy ước về lề lối sinh hoạt (ví dụ lề lối hát, lề lối kết bạn, sự
giao tiếp giữa các Quan họ), thể hiện ở ngay cử chỉ, trang phục, những tập tục
khi ăn nói, lúc đứng ngồi… của các Quan họ [65, tr.19].
11
Có một điểm đáng chú ý là về sau này, các tác giả của công trình này, và hầu
hết các nhà nghiên cứu khác đều gọi "sinh hoạt văn hóa Quan họ" mà không gọi "sinh
hoạt văn nghệ Quan họ". Như vậy, Quan họ không bó hẹp trong một hiện tượng văn
nghệ mà là một hiện tượng văn hóa tổng thể bao gồm trong nó nhiều sinh hoạt khác.
Đặc biệt, trong công trình này có tới 3 chương trong tổng số 12 chương được dành để
nghiên cứu về người nghệ sỹ Quan họ. Đây là một kết quả nghiên cứu khá toàn diện
và đầy đủ về người nghệ sỹ - nghệ nhân Quan họ từ đời sống tình cảm cho đến đời
sống sáng tạo, ca hát của họ.
Tác giả Trần Chính công bố công trình nghiên cứu: "Nghệ nhân Quan họ
làng Viêm Xá" [27]. Đây là công trình nghiên cứu cho ta hình dung một cách cụ thể
về diện mạo sinh hoạt của đội ngũ nghệ nhân Quan họ Làng Viêm Xá trong thế kỷ
XX, và đây cũng là cuốn sách đầu tiên của một tác giả nghiên cứu về một làng
Quan họ gốc. Nội dung của công trình nghiên cứu này cũng nhìn nhận Quan họ
không chỉ là một loại hình dân ca thuần túy về mặt âm nhạc và ca hát.
Trung tâm Văn hóa Quan họ Bắc Ninh công bố công trình nghiên cứu:
"Dân ca Quan họ lời ca và bình giải" của Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh [56]
đã công bố một hệ thống hơn 400 lời ca Quan họ để rồi từ đó các tác giả đã dày
công phân tích, đối sánh, phân loại đi tới xác định Quan họ có tới 213 làn điệu (dân
ca Quan họ gọi là "Giọng"). Đây là nguồn tư liệu đáng quí cho việc tiếp tục quá
trình nghiên cứu dân ca Quan họ. Ở phần 2 - phần Bình giải lời ca tác giả Lê Danh
Khiêm là người lần đầu tiên đưa ra một cách lý thú và có tính thuyết phục những lời
bình giải, các điển cố, điển tích và các thuật ngữ trong hệ thống phong phú các lời
ca Quan họ mà trước đấy chưa có nhà nghiên cứu nào dụng tâm tìm hiểu kỹ. Công
trình Dân ca Quan họ lời ca và bình giải đã giúp hiểu biết rõ hơn, sâu sắc hơn giá trị
văn chương, nghệ thuật vốn đã rất độc đáo của Dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Trung tâm Văn hóa Quan họ Bắc Ninh xuất bản công trình: "Một số vấn đề
về văn hóa Quan họ" [112] gồm nhiều bài nghiên cứu tiếp cận từ nhiều góc độ khác
nhau của sinh hoạt văn hóa Quan họ như lối chơi, nghệ thuật âm nhạc, lời ca…
Trong công trình naỳ có bài viết của tác giả Lê Danh Khiêm đã bàn thêm và làm rõ
hơn những tiêu chí về các làng Quan họ gốc mà trước đấy nhiều tác giả đã đề cập và
12
công bố kết quả nghiên cứu. Đặc biệt, đến công trình nghiên cứu tập thể này, hầu
hết các nhà nghiên cứu đã xử dụng khái niệm "Văn hóa Quan họ" như một sự mặc
nhiên, khẳng định Quan họ là một hiện tượng văn hóa tổng thể chứ không đơn
thuần chỉ là nghệ thuật ca hát.
Nhạc sỹ Hồng Thao là một trong số ít các nhà nghiên cứu chuyên sâu về
Quan họ và cũng là tác giả để lại các công trình có giá trị nhiều mặt về dân ca Quan
họ, không chỉ về phương diện âm nhạc. Ngoài các công trình viết chung, ông đã có
những công trình nghiên cứu riêng: "Dân ca Quan họ" của Hồng Thao [98] đã đi sâu
giải quyết nhiều vấn đề cơ bản về học thuật âm nhạc có tính chất chuyên sâu như
thang âm - điệu thức, tiết tấu, bố cục và vấn đề lời ca Quan họ. Không giống như
nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc khác khi nghiên cứu Quan họ, Hồng Thao đã vượt ra
khỏi những vấn đề âm nhạc thuần túy để nghiên cứu cả những vấn đề văn hóa Quan
họ như nguồn gốc, tên gọi, lề lối, phong tục tập quán, ứng xử, giao tiếp… Ông phân
tích những biến đổi, mối quan hệ giữa "Quan họ cổ" và "Quan họ kim". Ông nhất
quán quan điểm cần nghiên cứu Quan họ với tư cách là một hiện tượng văn hóa dân
gian, do vậy ông luôn tìm cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng các phương pháp
đa ngành, liên ngành. Trong công trình 300 bài Quan họ ông đã dành tới 20 năm để
sưu tầm, ký âm, sắp xếp, chú giải kỹ lưỡng một hệ thống làn điệu và lời ca đồ sộ nhất
từ trước đến nay. Đây là một kho tàng tư liệu có nhiều giá trị khoa học và thực tiễn
đối với công tác nghiên cứu và bảo tồn, phát huy, phát triển Quan họ không phải chỉ
cho ngày hôm nay.
Năm 2006, năm bản lề của quá trình chuẩn bị hồ sơ khoa học về Không
gian văn hóa Quan họ để tiến tới trình UNESCO công nhận Quan họ là Di sản văn
hóa phi vật thể (DSVHPVT) đại diện của nhân loại, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phối
hợp với Bộ Văn hóa thông tin (VHTT) tiến hành thu thập, lựa chọn một số công
trình nghiên cứu về Quan họ từ trước tới nay (trong khoảng 100 năm, gối giữa thế
kỷ XX và XXI) để xuất bản thành sách. Kết quả là tháng 4 năm 2006 cuốn sách
Vùng văn hóa Quan họ Bắc Ninh đã được Viện VHTT và Sở VHTT Bắc Ninh phối
hợp công bố đến bạn đọc. Mục đích của cuốn sách, ngoài việc góp phần hoàn thiện
hồ sơ về Quan họ để trình Ủy ban UNESCO, còn cung cấp cho bạn đọc một "cách
13
nhìn toàn diện hơn khi tiếp cận với không gian Văn hóa Quan họ" [127, tr.10].
Cuốn sách gồm 3 phần: (1169 trang):
- Phần I: Vùng Văn hóa Kinh Bắc;
- Phần II: Văn hóa Quan họ;
- Phần III: Âm nhạc Quan họ.
Do không thể in tất cả các công trình nghiên cứu về Quan họ trong suốt gần
100 năm qua nên các nhà biên soạn đã tổ chức xây dựng một Thư mục không gian
Văn hóa Quan họ rất công phu để phục vụ cho công tác tra cứu tìm hiểu về văn hóa
Quan họ và vùng văn hóa Bắc Ninh - cái nôi của dân ca Quan họ. Thư mục này
được bố cục trong cuốn sách như một nội dung quan trọng, gồm 2 phần:
- Phần: Quan họ (gồm 579 công trình và bài viết).
- Phần: Vùng Văn hóa Bắc Ninh (gồm 319 công trình và bài viết).
Cũng trong năm 2006, để chuẩn bị hồ sơ cho việc trình UNESCO công
nhận Dân ca Quan họ Bắc Ninh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại,
Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch) đã phối hợp với Ủy
ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội thảo Quốc tế: Bảo tồn và phát
huy dân ca trong xã hội đương đại (qua trường hợp Quan họ Bắc Ninh ở Việt Nam)
[20] có sự tham gia của gần 100 nhà khoa học, nhà quản lý văn hóa trong nước và
quốc tế. Với số lượng 64 bài tham luận (53 tham luận của các nhà khoa học trong
nước, 11 tham luận của các nhà khoa học quốc tế) và với một chủ đề như tên của
Hội thảo, đã cho thấy đây là một Hội thảo lớn nhất từ trước đến nay về Quan họ Bắc
Ninh (tính từ 1965 đến nay đã có khoảng 10 hội nghị, hội thảo về Quan họ được tổ
chức). Kết quả Hội thảo là cuốn kỷ yếu dày 867 trang được Viện VHTT (nay là
Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam) và Sở VHTT (nay là Sở VHTTDL)
Bắc Ninh xuất bản năm 2006. Nội dung của Hội thảo tập trung vào các vấn đề: Bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa Quan họ trong xã hội hiện đại; tác động của quá trình
đô thị hóa, hiện đại hóa; công tác trao truyền, bảo lưu, tuyên truyền các giá trị văn
hóa Quan họ; cơ chế chính sách tôn vinh nghệ nhân - báu vật sống của dân ca Quan
họ; chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý v.v… Có một điểm đáng chú ý là cuốn sách
của nhiều tác giả này được lấy tên: Không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh - Bảo
14
tồn và phát huy. Đây là lần đầu tiên, khái niệm Không gian văn hóa Quan họ được
sử dụng rộng rãi trong một diễn đàn khoa học lớn là hội thảo lần này. Quan niệm
"Không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh" được thể hiện trong bài Tổng kết Hội thảo
do PGS.TS Nguyễn Chí Bền trình bày:
Các nhà khoa học cả trong nước lẫn nước ngoài đã phác họa, trình bày về
không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh một cách thấu đáo và căn kẽ. Đó
là những vấn đề về không gian tồn tại và phát triển văn hóa Quan họ: sự
hình thành, lịch sử phát triển…, về các giá trị văn chương, nghệ thuật, về
quan hệ giữa dân ca và các hình thức văn hóa khác như tín ngưỡng, lễ
hội… Tất cả những luận điểm ấy đều hướng tới sự khẳng định tầm kiệt
tác nhân loại của không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh [90, tr.823].
Ở một phương diện khác có liên quan đến không gian văn hóa Quan họ,
trong bài phát biểu đề dẫn Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Tri Nguyên sau khi dẫn ra
một loạt các công trình nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu có uy tín như: Trần
Linh Quý, Hồng Thao, Đặng văn Lung, Nguyễn Tiến Chiêu, Nguyễn Đình Bưu
v.v…đã viết: "các công trình nghiên cứu kể trên đã phân tích một cách sâu sắc và
minh chứng một cách khá đầy đủ về tính tổng thể của văn hóa Quan họ: đó là những
giá trị về phong tục, tập quán, về đức tin tín ngưỡng, về thế ứng xử và lối ứng xử
của người dân Quan họ, về sự kế thừa và phát triển"…[90, tr.32]. Cũng trong bài đề
dẫn này, tác giả Nguyễn Tri Nguyên đã đặt khái niệm Văn hóa Quan họ liền kề với
khái niệm Dân ca Quan họ [90, tr.25,35]. Và theo cách lý giải của ông thì Văn hóa
Quan họ bao gồm trong nó Dân ca Quan họ và các sinh hoạt văn hóa liên quan trực
tiếp khác. Rõ ràng, kết quả nghiên cứu đã cho thấy các sinh hoạt văn hóa Quan họ
trong đó có dân ca Quan họ không chỉ góp phần chủ yếu tạo nên không gian văn
hóa Quan họ mà còn là phần lớn bản thân không gian văn hóa ấy.
Cuốn kỷ yếu còn một mảng tham luận rất quan trọng khác của các học giả
nước ngoài, chúng tôi đã tổng hợp, phân tích ở mục 1.1.1 Nghiên cứu của các tác
giả nước ngoài.
Tiếp theo Hội thảo quốc tế về Quan họ, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh tổ
chức Hội thảo: "Quan họ Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp bảo tồn" [91] đã nhận
15
được gần 30 bản tham luận của các nhà nghiên cứu ở Trung ương và địa phương.
Đặc biệt Hội thảo có sự tham gia của nhiều nhà chuyên môn, nhà quản lý ở Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch sở tại và đông đảo các nghệ nhân, các đại diện các làng,
các đội Quan họ, các nghệ sĩ Đoàn dân ca Quan họ Bắc Ninh. Ngay sau đó, cuốn kỷ
yếu: Quan họ Bắc Ninh, thực trạng và giải pháp bảo tồn đã được xuất bản. Trong
nội dung cuốn sách, một số các tham luận có liên quan đã được trình bày trong các
hội thảo trước đấy (Hội thảo: định hướng xây dựng chương trình biểu diễn nghệ
thuật của Đoàn dân ca Quan họ Bắc Ninh (1997); Hội thảo: 35 năm hoạt động và
trưởng thành của Đoàn dân ca Quan họ Bắc Ninh (1969 - 2004) do Sở Văn hóa
Thông tin tổ chức 2004) đã được bổ sung, công bố. Đáng chú ý, trong cuốn sách,
khi phát biểu về tầm ảnh hưởng của hiện tượng văn hóa Quan họ, nhà nghiên cứu
Nguyễn Tri Nguyên đã viết:
Văn hóa Quan họ và dân ca Quan họ được xem xét và tranh luận không
chỉ trong bối cảnh và quá trình lịch sử phát triển cộng đồng của cư dân
Bắc Ninh và cư dân ở Châu thổ Sông Hồng mà còn được xem xét và luận
bàn trong bối cảnh thế giới hiện đại. Có thể nói, Văn hóa Quan họ ở Bắc
Ninh đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc và văn
hóa từ nhiều châu lục khác nhau. Nó là một hiện tượng có tính điển hình
để xem xét xu hướng âm nhạc dân gian trong bối cảnh liên văn hóa trên
thế giới hiện nay [80, tr.244].
Ở một khía cạnh khác, khi bàn về định hướng xây dựng chương trình cho
Đoàn dân ca Quan họ, nhà nghiên cứu Nguyễn Thụy Loan đã phân tích: nếu như
chúng ta đòi hỏi Đoàn dân ca Quan họ phải đồng thời "vừa đảm bảo giữ gìn, giới
thiệu truyền thống, vừa đảm bảo tính chất sân khấu chuyên nghiệp, hấp dẫn người
xem" thì thật lúng túng, vì:
nếu hiểu việc "bảo đảm, giữ gìn truyền thống" theo nghĩa sát hẹp thì cần
giữ lại lề lối, phong cách hát và hệ bài bản Quan họ cổ truyền ở mức tối
đa như nó vốn có mà các nghệ nhân cao tuổi còn giữ lại tới nay. Nhưng
nếu muốn "đảm bảo tính sân khấu chuyên nghiệp, hấp dẫn người xem"
thì chắc chắn không thể chỉ đưa nguyên xi lối hát cổ của các cụ lên sân
16
khấu mà không có những thay đổi, thêm bớt. Giữ gìn truyền thống và
phát triển lên sân khấu chuyên nghiệp là hai nhiệm vụ rất khác biệt, khó
có thể giao cả hai cho một đơn vị nghệ thuật, nhất là khi nó lại đảm
nhiệm nhiệm vụ hoạt động như một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp với
những chỉ tiêu phải thực hiện theo kế hoạch nhà nước về số buổi biểu
diễn và doanh thu [80, tr.84-85].
Và tác giả đã đề xuất việc bảo tồn, giữ gìn Quan họ truyền thống phải được
trao cho Trung tâm Văn hóa Quan họ (Tại thời điểm ra đời của bài tham luận này,
Bắc Ninh có Trung tâm Văn hóa Quan họ. Trung tâm này, ngoài các nhiệm vụ khác
có nhiệm vụ nghiên cứu dân ca Quan họ) đảm nhiệm với các hoạt động nhằm phát
động, khuyến khích người dân khôi phục các lề lối, tập tục, nếp sinh hoạt Quan họ
cổ truyền ở các thôn làng vùng Quan họ. Ý kiến của GS. Nguyễn Thụy Loan đã gợi
nên những suy nghĩ có tính chất đường hướng, xu hướng liên quan đến vấn đề bảo
tồn, phát huy dân ca Quan họ cả trước mắt và lâu dài.
Trong bài tham luận Suy nghĩ về thực trạng và một số kiến nghị về bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa Quan họ khi nhận xét về phương hướng và mục đích của Hội
thảo, tác giả Trần Minh Chính đã viết:
…các nhà tổ chức lại đặt ra yêu cầu rất hay là bàn về "Văn hóa Quan họ",
chứ không chỉ bó hẹp loại hình dân ca này trong khuôn khổ một sự ca hát
thuần túy. Như vậy, đây thực sự là một Hội thảo đòi hỏi những đóng góp
liên ngành để bàn về một NỀN VĂN HÓA mà bản thân sự ca hát chỉ là một
thành tố hạt nhân, cốt lõi. Quan họ lớn và có thể sẽ trường tồn chính là ở chỗ
này. Dân ca Quan họ vùng Kinh Bắc đã đem lại cho chúng ta không chỉ
những bài ca, những làn điệu mà là cả một nền văn hóa với biết bao khía
cạnh hấp dẫn của nó: từ môi trường tự nhiên và văn hóa đến phong tục tập
quán, văn hóa ứng xử, giao tiếp, ngôn ngữ và cả cách cảm, cách nghĩ thấm
đẫm tinh thần nhân văn, nhân bản của con người nơi đây [80, tr.90-91].
Như vậy, tác giả đã khẳng định, Quan họ có một nền văn hóa riêng có - một
hiện tượng văn hóa tổng thể được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ hữu cơ của
rất nhiều sinh hoạt văn hóa khác cùng với sinh hoạt ca hát Quan họ. Về ý kiến này
17
có thể có nhà nghiên cứu sẽ cảm thấy băn khoăn về cụm từ "nền văn hóa", nhưng
chắc chắn là phần lớn giới nghiên cứu sẽ không phải băn khoăn khi thừa nhận về
một hình thái văn hóa Quan họ gắn liền với dân ca Quan họ mà nhờ đó Quan họ đã
bộc lộ sự đặc sắc có một không hai của nó.
Năm 2009 Trung tâm nghiên cứu, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc đã
công bố công trình: "Tìm về cội nguồn Quan họ" [110] đã chỉ rõ các vấn đề về:
không gian văn hóa Kinh Bắc, nguồn gốc Quan họ, âm nhạc Quan họ, sinh hoạt
Quan họ, trang phục Quan họ v.v… đều đã được đề cập đến trong một vài công
trình nghiên cứu trước đó. Đáng chú ý, chương 7: Thực trạng và giải pháp bảo tồn
phát triển Quan họ có một số kiến giải, đề xuất như đưa ra phê phán về hai sự ngộ
nhận lớn: Một là: ngộ nhận về sự triệt tiêu không gian tinh thần, động lực tinh thần
của sinh hoạt văn hóa Quan họ khi cho rằng toàn cầu hóa, giao lưu hội nhập quốc tế
sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự bảo tồn, phát triển dân ca Quan họ mà không thấy
rằng toàn cầu hóa, giao lưu hội nhập quốc tế sẽ thức tỉnh mạnh mẽ ý thức về bản sắc
văn hóa dân tộc [108, tr.225-333]. Hai là: ngộ nhận về việc cải biên, nâng cao dân
ca Quan họ theo những tiêu chuẩn hiện đại của âm nhạc học thế giới. Ở khía cạnh
này, cuốn sách viện dẫn ý kiến của một số các nhà nghiên cứu danh tiếng như Mịch
Quang, Trần Văn Khê, Nguyễn Thuyết Phong cho rằng âm nhạc học Phương Đông
là rất khác âm nhạc học Phương Tây, nếu cách tân không phù hợp sẽ là lố bịch,
không thể chấp nhận...Và, các tác giả đề xuất xây dựng một chiến lược đồng bộ,
toàn diện để phát triển Quan họ [108, tr.233-245].
Trong khoảng thời gian cuối của thế kỷ trước đến thập niên đầu của thế kỷ
XXI, một số công trình là luận án tiến sĩ về Quan họ của các tác giả trong nước đã
được công bố như luận án: Quan họ - nguồn gốc và quá trình phát triển của Đặng
Văn Lung [66]; luận án: Những giá trị âm nhạc trong hát Quan họ của Nguyễn
Trọng Ánh; luận án: "Tương đồng và khác biệt giữa hát Xoan, hát Ghẹo và Quan họ
Bắc Ninh" của Phạm Trọng Toàn [108] đều là những công trình đã được các tác giả
công bố từng phần trong một số công trình in chung hoặc trên các tạp chí chuyên
ngành trước và sau khi công bố luận án.
Năm 2012, Sở VHTT&DL Bắc Giang phối hợp với Nhà xuất bản (NXB)
Văn hóa dân tộc công bố cuốn sách: Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Quan họ
18
Bắc Giang. Đây là kết quả của Hội thảo khoa học: Khai thác phát huy các giá trị
di sản dân ca Quan họ Bắc Giang. Tại Hội thảo đã có 20 bài tham luận của các
nhà nghiên cứu, nhà quản lý văn hóa trong và ngoài tỉnh. Nội dung cuốn sách
cho thấy, trong những năm gần đây ở phía Bắc sông Cầu (thuộc địa phận tỉnh
Bắc Giang) ngoài 5 làng gốc Quan họ được nhà nghiên cứu Trần Linh Quý công
bố lần đầu tiên (1971) cùng với bản đồ 49 làng Quan họ [93, tr.10] thì Bắc Giang
có tới gần 20 làng Quan họ khác mới được phát hiện trải dọc sông Cầu và ngoại
vi gần của con sông này. Khi bàn về các làng Quan họ Bắc sông Cầu, đáng chú ý
có tham luận của PGS.TS Bùi Quang Thanh. Năm 2006 ông đã cùng nhóm
nghiên cứu khảo sát hàng tháng tại nhiều làng thuộc các huyện Việt Yên, Yên
Dũng, Hiệp Hòa tỉnh Bắc giang và kết quả thu nhận theo ông, có "nhiều mới lạ"
[93, tr23]. Ở các làng Bùi Kép, Bùi Bến thuộc xã Yên Lư huyên Yên Dũng; các
làng Đình Cả (Quảng Minh), Hạ Lát (tiên Sơn), Trung Đồng (Vân Trung), Thổ
Hà (Vân Hà), Quang Biểu (Quang Châu thuộc huyện Việt Yên; làng Cẩm Xuyên
(Xuân Cẩm) thuộc huyện Hiệp Hòa… có đội ngũ nghệ nhân cao niên ở độ tuổi từ
80 trở lên vẫn còn nhớ một thời hát Quan họ từ trước 1945. Có cụ còn nhớ tới
hàng chục bài Quan họ cổ. Và nhóm nghiên cứu này đã ghi âm được khoảng 50 bài
Quan họ cổ chưa từng được công bố trước đó [93, tr.23].
Trong bài tham luận: Quan họ cần được bảo tồn và phát huy trong thời đại
mới, tác giả Ngô Văn Trụ, với tư cách là một nhà quản lý văn hóa (ông nguyên là
Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) Bắc Giang) đã nhận
xét: Thực tế cho thấy rằng đến những năm 90 của thế kỷ XX Quan họ mới có sự
chuyển biến qua 5 năm liên tục các cuộc Hội thi Quan họ được ngành văn hóa Hà
Bắc tổ chức tại nhà văn hóa Bắc Ninh gắn với Hội Lim. Lúc ấy mới chủ yếu thi
giọng hát hay và hát đối nhằm tìm ra nhiều bài ca, làn điệu đối đáp là chính, còn về
văn hóa Quan họ, sinh hoạt văn hóa Quan họ ở làng chưa được quan tâm.
Cũng trong năm 2012, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phối hợp với NXB
Văn hóa Thông tin (VHTT) ấn hành cuốn sách Trên đường tìm về Quan họ của tác
giả Trần Linh Quý. Cuốn sách dày 638 trang là toàn bộ các công trình, bài viết trong
suốt cuộc đời nghiên cứu Quan họ của ông trên chính quê hương Kinh Bắc, nơi ông
19
đã sinh ra và lớn lên, trở thành một trong số không nhiều những nhà nghiên cứu nổi
tiếng về dân ca Quan họ. Cuốn sách được bố cục 6 phần:
Phần I: Không gian Văn hóa Quan họ, tác giả trình bày những nghiên cứu,
tìm hiểu về lề lối phong tục Quan họ, làng gốc Quan họ và những phát hiện gần đây
của ông về không gian văn hóa Quan họ gắn với một số làng Quan họ phía Bắc
sông Cầu.
Phần II: Phong tục, lề lối trong ca hát Quan họ, tác giả trình bày toàn cảnh
về quê hương Quan họ cùng những lề lối trong ca hát Quan họ và các giá trị tư
tưởng, văn chương của lời ca Quan họ.
Phần III: Người nghệ nhân Quan họ và người nghệ sĩ Quan họ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, tác giả dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu, nhận xét, đánh giá
về vai trò, tài năng và phẩm chất nghệ sĩ của đội ngũ nghệ nhân Quan họ vùng Kinh
Bắc. Ở phần này tác giả cũng thống kê một danh sách các nghệ nhân tiêu biểu đã có
công cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu Quan họ từ giữa thế kỷ XX.
Phần IV: Quan họ trên đường hồi phục, tác giả trình bày hai chặng đường
phát triển, hồi phục của Quan họ: chặng đường thứ nhất 1954 - 1964 là chặng
đường "Quan họ lời mới" và "các hình thức biểu diễn mới (trên sân khấu, trên đài
và hát đơn ca, song ca, tốp ca); chặng đường thứ hai từ 1969 đến nay (tức 2005 là
thời điểm Phần nghiên cứu này được công bố) là chặng đường "sưu tầm, nghiên cứu
tổng hợp di sản Quan họ" từng bước hồi sinh, phát triển Quan họ trong cuộc sống.
Phần V: Hệ thống bài bản Quan họ, tác giả đã thống kê được 189 bài ca do
Đoàn dân ca Quan họ học từ 1970 - 1975, 458 tên các bài ca được nhiều nghệ nhân
Quan họ biết và hát. Tác giả cũng công bố 35 bài chọn lọc trong số trên 400 bài ca,
xếp theo các chặng ca hát truyền thống của người Quan họ: từ những bài Giọng cổ
(lề lối) rồi đến Giọng vặt, Giã bạn và 42 bài ca của những giọng cổ nhất (tác giả
trích dẫn, theo ý kiến của nhóm tác giả cuốn "Dân ca Quan họ Bắc Ninh" - 1962 thì
những bài Quan họ cổ là những bài có từ cuối thế kỷ XIX trở về trước; còn những
bài đầu thế kỷ XX là những bài Kim).
Phần VI: Bảo tồn, phát huy di sản Văn hóa Quan họ trong cuộc sống đương
đại, tác giả đã khái lược những giá trị cơ bản của Văn hóa Quan họ truyền thống
20
như Đội ngũ nghệ nhân, hệ thống bài bản Quan họ cổ truyền, nghệ thuật ca hát độc
đáo, lề lối ca hát những bài Quan họ cổ truyền không nhạc đệm, môi trường của ca
hát Quan họ và đề xuất phương hướng bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Quan họ
(DSVHQH) trong xã hội đương đại.
Đặc biệt, từ quá trình nghiên cứu và trải nghiệm của mình, nhà nghiên cứu
Trần Linh Quý cho rằng: Quan họ là một hình thái sinh hoạt văn hóa, trong đó, sinh
hoạt vui hát Quan họ nổi bật và trung tâm. Cho nên, giá trị nhiều mặt của sinh hoạt
văn hóa Quan họ, trước hết ở âm nhạc và lời ca, nhưng phần khác, không kém phần
quan trọng, còn thể hiện ở những qui ước về lề lối sinh hoạt Quan họ, (ví dụ: lề lối
hát, lề lối kết bạn, sự giao tiếp giữa các Quan họ…), thể hiện ở ngay cử chỉ, ngôn
ngữ, trang phục, những tập tục khi ăn nói, đứng ngồi của các Quan họ.
Ngoài ra, Trung tâm UNESCO Văn hóa Quan họ phối hợp với NXB Văn
hóa ấn hành cuốn sách Lối chơi Quan họ [80] là tập hợp một số bài báo bàn về
lối chơi Quan họ có thể giúp người đọc tìm hiểu thêm về Quan họ, chủ yếu ở
phương diện diễn xướng.
Bên cạnh các công trình được viết thành sách kể trên còn có một số lượng
nhất định các bài tiểu luận khoa học, bài báo về Quan họ (khoảng trên 600 bài)
được đăng báo, tạp chí tham luận trong các đại hội, hội nghị, hội thảo của Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam, Viện VHTT, Ty Văn hóa Hà Bắc, Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch (VHTT&DL) Bắc Ninh, Sở VHTTDL Bắc Giang… và được
công bố rải rác trong thời gian từ những năm 1920 của thế kỷ XX đến đầu thế kỷ
XXI. Những bài tiểu luận và báo chí này tiếp cận dân ca Quan họ từ nhiều góc
độ, khía cạnh và thiên về phân tích những sinh hoạt có tính thời sự, cập nhật của
Quan họ, nhưng cũng đã cung cấp nguồn tư liệu, thông tin rất có giá trị góp phần
hình dung diện mạo của Quan họ trong suốt chiều dài gần một thế kỷ qua. Bên
cạnh các công trình, bài viết được xuất bản, công bố ở dạng tài liệu in như đã khái
quát ở trên cũng cần kể đến các nguồn tư liệu khác như phim ảnh, băng đĩa ghi âm,
các dự án nghiên cứu, bảo tồn, phát huy dân ca Quan họ đã được thực hiện trong
nhiều chục năm qua (chủ yếu là từ 1955 đến nay). Trong đó rất đáng chú ý có bộ
phim tài liệu màu 8 tập Hát Quan họ đã cung cấp những hình ảnh sống động và vô
21
giá về các sinh hoạt diễn xướng Quan họ dân gian (Bộ phim do Xí nghiệp phim tài
liệu khoa học Trung ương sản xuất. Kịch bản: Trần Linh Quý; Đạo diễn: Thanh An,
Phạm Hà).
Như vậy, qua tổng quan tình hình nghiên cứu về Dân ca Quan họ (DCQH)
trong suốt thời gian từ đầu thế kỷ XX đến thời điểm 2012 của thế kỷ XXI, với
khoảng trên 600 công trình và tài liệu nghiên cứu đã cho ta một cái nhìn khá sâu và
tổng thể về không gian văn hóa Quan họ, quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của
loại hình dân ca độc đáo này. Dân ca Quan họ Bắc Ninh có quá trình hình thành và
phát triển không nằm ngoài qui luật chung của sự hình thành phát triển của các loại
hình dân ca Việt Nam. Nhưng Quan họ Bắc Ninh có sự độc đáo mà bản thân sự độc
đáo này là một trong những nguyên nhân cốt lõi đã làm nên sức sống bền vững và khả
năng lan tỏa đáng kinh ngạc của nó - đó là cùng với sinh hoạt ca hát (diễn xướng) Quan
họ, người dân vùng Kinh Bắc, trải qua lịch sử dài lâu đã hình thành nên một cách rất
phong phú những sinh hoạt văn hóa liên quan khác để kết quả hôm nay các nhà khoa
học đã khẳng định rằng, Quan họ là một hình thái sinh hoạt văn hóa, một hiện tượng
văn hóa tổng thể được bắt nguồn từ các làng quê lâu đời vùng Kinh Bắc. Kết quả các
công trình nghiên cứu cũng cho thấy rằng, muốn bảo tồn, phát huy Dân ca Quan họ
trong xã hội đương đại thì không thể không quan tâm đến bảo tồn, phát huy các sinh
hoạt văn hóa Quan họ như phong tục tập quán, lề lối sinh hoạt, lễ hội, tín ngưỡng, hành
vi ứng xử, trang phục truyền thống v.v…các sinh hoạt này tạo nên môi trường sống,
tồn tại và phát triển của Dân ca Quan họ. Như thế, dân ca Quan họ, trong sự vận động
và lan tỏa của mình đã làm nên Văn hóa Quan họ và một không gian Văn hóa Quan họ
hòa quyện vào các sinh hoạt văn hóa làng xã vùng Kinh Bắc.
Tuy nhiên, trong hầu hết các công trình nghiên cứu đã công bố mà chúng
tôi phân tích khái lược ở trên, chưa có công trình nào nghiên cứu về SHVHQHL
một cách hệ thống và chuyên sâu, đặc biệt là sinh hoạt văn hóa Quan họ làng trong
thời kỳ đổi mới - thời kỳ mà văn hóa nghệ thuật truyền thống chịu sự tác động mạnh
mẽ bởi những đổi thay, phát triển quá nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội. Từ
thực tế đó, chúng tôi cho rằng cần phải có những công trình nghiên cứu sâu về sinh
hoạt văn hóa Quan họ làng, nhất là trong giai đoạn 1986 đến nay. Đây cũng là thời
22
kỳ mà những sinh hoạt văn hóa Quan họ có nhiều biến đổi sâu sắc nhất. Kết quả
nghiên cứu đó sẽ bổ sung cho sự toàn diện của việc nghiên cứu và bảo tồn, phát huy
di sản Văn hóa Quan họ truyền thống trong tương lai.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2.1. Cơ sở lý luận
1.2.1.1. Các khái niệm công cụ
* Sinh hoạt văn hóa Quan họ Làng Có thể nói lịch sử nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam từ đầu thế kỷ 20
đến nay đã trải qua 3 giai đoạn lớn và việc phân chia này chủ yếu trên cơ sở phạm
vi và đối tượng nghiên cứu của mỗi giai đoạn:
- Giai đoạn đầu thế kỷ XX việc khảo sát, nghiên cứu văn hóa dân gian còn
chưa được quan tâm nhiều và tập trung vào nghiên cứu văn học dân gian (ngữ văn)
bao gồm thơ ca, hò, vè, ca dao tục ngữ… là chủ yếu.
- Giai đoạn thứ 2 vào khoảng giữa thế kỷ XX việc khảo sát, nghiên cứu văn
hóa dân gian phát triển lên một phạm vi rộng hơn, bao quát hơn là nghiên cứu văn
nghệ dân gian bao gồm cả văn học và các loại hình nghệ thuật như nghệ thuật biểu
diễn - trình diễn, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật làng nghề thủ
công mỹ nghệ v.v...
- Giai đoạn thứ 3 là giai đoạn vào khoảng 1/3 của nửa cuối thế kỷ XX đến
nay, việc khảo sát nghiên cứu văn hóa dân gian đã đạt tới phạm vi rộng hơn, toàn
diện hơn là nghiên cứu văn hóa dân gian với đối tượng rất đa dạng và phong phú,
bao hàm nhiều lĩnh vực, nhiều hiện tượng văn hóa tổng thể, đòi hỏi vận dụng những
phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành để tiếp cận.
Lịch sử nghiên cứu DCQH từ thế kỷ XX đến nay cũng không nằm ngoài
diễn trình ấy. Có thể thấy trong những năm đầu thế kỷ XX chỉ có một số bài báo,
tạp chí, một vài chuyên khảo có tính chất nghiên cứu nhưng chủ yếu thiên về
chuyên ngành hẹp là nghệ thuật ca hát Quan họ (âm nhạc) mà chưa quan tâm đến
các yếu tố văn hóa khác của SHVHQH. Đến những năm sau 1954 cho tới thập niên
1980, do yêu cầu của sự phục hưng vốn cổ, việc nghiên cứu Quan họ đã bắt đầu
hướng tới phạm vi rộng hơn là nghiên cứu Quan họ với tư cách là một hiện tượng
23
văn hóa tổng thể mà tiêu biểu và cũng là khởi đầu cho hướng nghiên cứu này là
công trình Quan họ nguồn gốc và quá trình phát triển (1978) của các tác giả Đặng
Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý. Trong cuốn sách khi bàn về lối chơi quan
họ các tác giả viết: “Lối chơi là tiếng các nghệ nhân Quan họ thường dùng để chỉ
toàn bộ sinh hoạt văn nghệ Quan họ mà mình tham gia. Nói cách khác, lối chơi là
toàn bộ những mối quan hệ giữa người và người trong sinh hoạt văn nghệ Quan họ
và toàn bộ những gì làm nên,những gì góp phần vào mối quan hệ ấy. Lối chơi Quan
họ ấy thể hiện trong âm nhạc, trong lời ca; mặt khác không kém phần quan trọng,
còn thể hiện ở những quy ước về những lề lối sinh hoạt (ví dụ lề lối hát, lề lối kết
bạn, sự giao tiếp giữa các Quan họ). Thể hiện ở ngay cử chỉ, trang phục, những tập
tục khi ăn nói, lúc đứng ngồi ...của các Quan họ". Như vậy, tuy ở thời điểm ấy các
tác giả mới chỉ dùng cụm từ "Sinh hoạt văn nghệ Quan họ" nhưng nội hàm đã bao
gồm trong đó nhiều yếu tố của sinh hoạt văn hóa ngoài yếu tố ca hát (văn nghệ). Và
đặc biệt chỉ sau đó một vài năm, trong tác phẩm nghiên cứu của chính các tác giả
này đều không dùng cụm từ "Sinh hoạt văn nghệ Quan họ" nữa mà thay vào đó là
cụm từ "Sinh hoạt văn hóa Quan họ". Chẳng hạn, năm 2012, trong cuốn sách dày
638 trang có tựa đề: Trên đường tìm về Quan họ do Hội Văn nghệ Dân gian Việt
Nam và Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản, tác giả Trần Linh Quý đã sử
dụng cụm từ "Sinh hoạt văn hóa Quan họ" để thay thế cụm từ "Sinh hoạt văn nghệ
Quan họ", hoặc coi Quan họ là một "hình thái sinh hoạt văn hóa" bao hàm nhiều
sinh hoạt văn hóa gắn liền với sinh hoạt trọng tâm là ca hát Quan họ. Và cũng trong
cuốn sách này ông viết: “Giá trị nhiều mặt của sinh hoạt văn hóa quan họ trước hết
ở âm nhạc, lời ca nhưng không thể tách những giá trị ấy khỏi những giá trị của con
người trong mối quan hệ giữa người và người trong sinh hoạt văn hóa quan họ ở
một hoàn cảnh lịch sử nhất định”.
Trong lời nói đầu sách Không gian văn hóa quan họ của nhóm tác giả lê
Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh, Lê Thị Chung [56, tr.5] viết: “Quan họ là một
hiện tượng sinh hoạt văn hóa đặc biệt với một không gian rộng lớn bao gồm sự hợp
thành của 5 mặt hoạt động: Dân ca quan họ, tục kết bạn quan họ, văn hóa hành vi
quan họ, lễ hội quan họ và tín ngưỡng quan họ. Qua quá trình tồn tại và phát triển tự
24
thân các mặt này hòa hợp thành một chủ thể thống nhất: văn hóa quan họ”. Cũng
trong sách này, trong “Lời tựa" dành cho cuốn sách, Tiến sĩ sử học Trần Đình
Luyện đã nhận xét: “Bằng phương pháp nghiên cứu tổng hợp và tiếp cận nhiều
chiều của hiện tượng văn hóa Quan họ, tác giả đã xác định văn hóa Quan họ là hình
thái sinh hoạt văn hóa cộng đồng dân gian riêng có của vùng quê Bắc Ninh - Kinh
Bắc" [57, tr.8].
Trong bài Đề dẫn tại hội thảo quốc tế: Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội
đương đại (qua trường hợp Quan họ Bắc ninh ở Việt Nam) do Bộ Văn hóa Thông tin
(nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với UBND tỉnh Bắc Ninh tổ chức
năm 2006, tác giả Nguyễn Tri Nguyên sau khi dẫn ra một loạt các công trình nghiên
cứu của nhiều nhà nghiên cứu có uy tín như: Trần Linh Quý, Hồng Thao, Đặng Văn
lung, Nguyễn Tiến Chiêu, Nguyễn Đình Bưu đã viết: “Các công trình nghiên cứu kể
trên đã phân tích một cách sâu sắc và minh chứng đầy đủ về tính tổng thể của văn hóa
Quan họ: đó là những giá trị về phong tục tập quán, về đức tin tín ngưỡng, về thế ứng
xử và lối ứng xử của người Quan họ, về sự kế thừa và phát triển" [90, tr.283]. Cũng
trong bài này Nguyễn Tri nguyên lý giải văn hóa Quan họ bao gồm trong nó dân ca
Quan họ và các sinh hoạt văn hóa liên quan trực tiếp khác.
Về mối quan hệ giữa sinh hoạt văn hóa Quan họ với đơn vị làng vùng Kinh
Bắc. Trong “Lời tựa” của sách “Không gian văn hóa Quan họ”, tác giả Trần Đình
Luyện viết: “sinh hoạt văn hóa Quan họ và hoạt động lễ hội đã chứng tỏ Quan họ là
sản phẩm văn hóa làng xã ở một vùng quê tiêu biểu nhất của Bắc Ninh - Kinh Bắc.
Đó là 49 làng Quan họ mà trung tâm là thành phố Bắc Ninh ngày nay” [57].
Cũng liên quan đến làng, TS Lauren Meecker, đại học Columbia, Hoa Kỳ,
trong bài tham luận của mình tại Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy dân ca
trong xã hội đương đại (qua trường hợp Quan họ Bắc ninh ở Việt Nam) đã đặt
"Quan họ cổ” gắn với "làng" - sinh hoạt văn hóa làng, đặt khái niệm “sinh hoạt
Quan họ” tương ứng với khái niệm “chơi Quan họ”. Theo Bà, “chơi Quan họ”
gắn với một hệ thống quy ước và hành động xã hội và cuộc chơi Quan họ không
có khán giả như “hát Quan họ” trên sân khấu. Như thế, “chơi Quan họ” là một
hiện tượng văn hóa tổng thể - là văn hóa Quan họ. Bà nhận định sinh hoạt xã hội
25
rất quan trọng với cách chơi Quan họ. Bà cũng sử dụng khái niệm “Quan họ làng”
gắn với “xã hội làng” [90, tr.481-495]...
Từ những ý kiến như vậy của gần một thế kỷ nghiên cứu về Quan họ qua các
chặng đường khác nhau, các nhà nghiên cứu về cơ bản, đều thống nhất quan niệm
rằng, Quan họ không chỉ là sinh hoạt ca hát mà còn là các sinh hoạt văn hóa mang
tính tổng thể và là sản phẩm văn hóa của làng xã Việt Nam. Với việc tiếp thu những
thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học, kết hợp nhiều chục năm gắn bó với các
làng quê Quan họ mà điển hình trong đó là làng Thủy tổ Quan họ Viêm Xá, chúng
tôi cho rằng: Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng với tư cách là một hiện tượng văn hóa
tổng thể mang tính chất cộng đồng bao gồm các yếu tố (mặt) hợp thành cơ bản sau:
Không gian sinh hoạt văn hóa Quan họ; xã hội Quan họ làng; diễn xướng Quan họ; kết
bạn Quan họ; văn hóa giao tiếp - ứng xử Quan họ; tạo nguồn nghệ nhân Quan họ. Các
mặt sinh hoạt đó tồn tại, vận động và phát triển trong môi trường của làng xã truyền
thống, mà ở đó sinh hoạt ca xướng có vai trò trung tâm. Quan niệm về sinh hoạt văn
hóa Quan họ làng như vậy nên khi xem xét nó với tư cách là một đối tượng nghiên cứu
sẽ phải tiếp cận từ các yếu tố hợp thành của nó như đã liệt kê ở trên.
* Sinh hoạt văn hóa Quan họ cổ truyền
Về quan niệm "Văn hóa cổ truyền Việt Nam", cuốn: "Từ điển văn hóa cổ
truyền Việt Nam" do nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc chủ biên cùng các tác giả
là những nhà nghiên cứu có uy tín như: Hà Văn Tấn, Phan Huy Lê, Trần Lê Văn,
Chu Quang Trứ, Đỗ Văn Ninh, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Thụy Loan, v.v... đã viết:
Chúng tôi quan niệm văn hóa cổ truyền là nền văn hóa có từ lúc hình
thành dân tộc, qua nhiều bước phát triển nội tại và chịu sự ảnh hưởng
ngoại lai Châu Á cho đến khi ảnh hưởng của văn hóa phương Tây tác
động quan trọng đến một số lĩnh vực, tuy gốc dân tộc vẫn tồn tại. Như
vậy, khoảng thời gian kéo dài từ thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên
cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tuy quy ước mốc thời gian như
vậy, nhưng để giúp độc giả theo dõi sự tương tác giữa văn hóa cổ truyền
và hiện đại, chúng tôi không ngần ngại đưa thêm một số mục từ hoặc chi
tiết thuộc thời gian kéo dài đến tháng 8 năm 1945 [76, tr.5].
26
Tương tự, quan điểm và kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Quan họ
từ trước đến nay đều thống nhất rằng: Sinh hoạt văn hóa Quan họ cổ truyền là sinh
hoạt văn hóa Quan họ tồn tại và hoạt động chủ yếu là trước năm 1945 trong các
làng xã vùng Kinh Bắc, khi mà môi trường văn hóa - xã hội cổ truyền còn trong
trạng thái giữ được độ ổn định cao, chưa chịu tác động mạnh của hình thái kinh tế
tư bản chủ nghĩa và làn sóng đô thị hóa dâng cao như hiện nay. Lê Thị Nhâm Tuyết
trong bài: Mấy ý kiến về vấn đề tìm hiểu nguồn gốc dân ca Quan họ in trong sách:
Một số vấn đề về dân ca Quan họ do Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản 1972 khi bàn về
lối chơi Quan họ cổ truyền đã cho rằng: "Như các nhà nghiên cứu đã thống nhất:
Quan họ cổ truyền được " giới hạn" là " Quan họ của đầu thế kỷ 20" [78, tr.73].
Như vậy, cùng với những kết quả nghiên cứu kể trên, chúng tôi nhận thấy:
Quan họ về cơ bản được " tính" theo mốc thời gian là từ năm 1945 trở về trước được
coi là Quan họ cổ truyền.
* Xã hội Quan họ làng
Từ thực tiễn nghiên cứu và khảo sát, chúng tôi nhận thấy ở Viêm Xá th«ng
qua ®êi sèng sinh ho¹t Quan hä cña lµng mµ h×nh thµnh mét x· héi Quan hä lµng
mang tÝnh x· héi hãa réng r·i vµ toµn thÓ. "X· héi Quan hä lµng" lµ côm tõ do
chóng t«i ®Æt ra khi công bố cuốn sách "Nghệnhân Quan họ làng Viêm Xá" [27] ®Ó
chØ mèi quan hÖ gi÷a ngưêi víi ngưêi vÒ Quan hä (gåm c¶ nh÷ng quan hÖ, nh÷ng
sinh ho¹t cã liªn quan ®Õn Quan hä) t¹i mét ®¬n vÞ lµng, mµ ë ®©y lµ Viªm X¸. X·
héi Quan hä lµng tån t¹i vµ ph¸t triÓn song trïng víi v¨n hãa Quan hä mµ trong ®ã
næi bËt lµ c¸c sinh ho¹t ca h¸t Quan hä vµo nh÷ng "thêi ®iÓm m¹nh" cña sinh ho¹t
v¨n hãa céng ®ång.
Víi mét lµng Quan hä gèc như Viªm X¸ th× d©n cư trong lµng, hÇu như ë mäi
løa tuæi, ®Òu cã thÓ ®ưîc coi lµ thµnh viªn cña x· héi Quan hä lµng víi nh÷ng vai trß
nhÊt ®Þnh cña m×nh; thËm chÝ cã ngưêi chØ ®ãng vai trß ngưêi xem ®Ó cæ vò cho mét
sinh ho¹t Quan hä nµo ®ã còng lµ ®ñ, nÕu như n¨ng lùc Quan hä cña b¶n th©n ngưêi
®ã chØ dõng l¹i ë nh÷ng t×nh c¶m yªu thÝch.
* Nghệ nhân Quan họ
Người nghệ nhân, hay nói theo kiểu người Quan họ là anh Hai - chị Hai, anh
Ba - chị Ba...có những tiêu chí riêng để có thể được thừa nhận. Điều đặc biệt là
27
những tiêu chí đó không thành văn nhưng lại hết sức chặt chẽ, và về cơ bản là nhất
quán từ trong truyền thống. Các tiêu chí đó là: Người hát phải là thành viên chính
thức của một bọn chơi Quan họ (sau này là Đội Quan họ hoặc Câu lạc bộ Quan họ);
người hát phải đủ bản lĩnh và trình độ tham gia vào các cuộc hát ở mọi hình thức ca
hát Quan họ; người hát phải được chính dân làng và bạn hát vùng Quan họ gọi là
anh Hai - chị Hai, anh Ba - chị Ba, anh Tư - chị Tư, anh Năm - chị Năm... và phải
có khả năng truyền dạy Quan họ cho các thế hệ sau.
* Một số thuật ngữ Quan họ cổ truyền khác
- Lối chơi Quan họ là thuật ngữ dùng để chỉ toàn bộ những sinh hoạt văn
nghệ Quan họ do người Quan họ thực hiện theo một trình tự và niêm luật chặt
chẽ... Hay nói cách khác, có thể khuôn lối chơi Quan họ vào hai nội dung cơ
bản: thứ nhất là, các lề lối ca hát Quan họ bao gồm các hình thức đã trở nên rất
quy củ, niêm luật chặt chẽ như hát đối đáp, hát canh, hát hội, hát nghi lễ, hát
mừng, v.v...; thứ hai là, những phong tục tập quán giao du Quan họ như các tục
kết bạn, tục rủ bọn - ngủ bọn, các nét văn hóa giao tiếp - ứng xử, ẩm thực mang
đặc trưng chỉ Quan họ có.
- Bọn Quan họ là cụm từ để chỉ một nhóm người (có thể là từ 6 - 8 người
hoặc hơn nữa) chơi Quan họ. Chỉ có bọn Quan họ đồng giới - bọn Quan họ nam và
bọn Quan họ nữ. Mỗi làng Quan họ đều có các bọn Quan họ nam, nữ. Các bọn
Quan họ này kết bạn với các bọn Quan họ khác giới ở các làng Quan họ trong vùng
chứ không kết bạn với bọn Quan họ làng mình. Những người tham gia các bọn
Quan họ gọi là Liền anh, Liền chị và phân ngôi thứ bậc như anh Hai - chị Hai, anh
Ba - chị Ba, anh Tư - chị Tư. Ngày nay những người chơi Quan họ này gọi chung là
nghệ nhân Quan họ có liên quan đến các quy định của nhà nước về cơ chế, chính
sách tôn vinh họ. Trong hoạt động truyền dạy Quan họ để tạo nguồn cho bọn Quan
họ, dân gian gọi người dạy là "anh Nhớn, chị Nhớn", gọi người học nhỏ tuổi là các
"em Bé".
- Tục kết chạ là tục kết ước, kết nghĩa giữa các làng với nhau xuất phát từ
một lý do nào đó liên quan đến chuyện giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống như chống
hạn, chống lụt, dựng đình, dựng chùa, thờ chung Thành hoàng v.v... Các làng kết
28
chạ rất tôn trọng nhau, có quan hệ khăng khít và gọi nhau là "chạ anh, chạ em".
Không nhất thiết là các làng kết chạ phải kết nghĩa, kết bạn Quan họ với nhau,
nhưng khi hai làng kết nghĩa kết bạn với nhau trên cơ sở của kết chạ thì thường là
rất bền vững và hiếm thấynam nữ kết hôn với nhau. Ngày nay các hiện tượng kết
chạ không thấy nữa mà chỉ là sự tiếp nối, kế thừa (cũng đã mờ nhạt đi nhiều) các
quan hệ do cha ông để lại.
- Tục kết bạn Quan họ là một sinh hoạt có tính chất nền tảng để tạo nên sự
kết nối trong các sinh hoạt Quan họ khác trong lối chơi Quan họ. Kết bạn Quan họ
giữa bọn Quan họ làng này với bọn Quan họ làng kia theo nguyên tắc "âm dương
tương cầu" - nghĩa là kết bạn khác giới.
- Hát canh là một hình thức diễn xướng chủ đạo của các sinh hoạt ca xướng
Quan họ. Hát canh là cuộc hát giữa bọn Quan họ làng sở tại với bọn Quan họ làng
kết nghĩa, kết bạn tại nhà chứa trong những dịp hội, lệ của làng. Hát canh chia làm
03 chặng hát: chặng đầu hát những bài Quan họ giọng lề lối (giọng cổ) như Hừ la,
La rằng, Đường bạn, Tình tang, Cây gạo, Cái ả...; chặng giữa hát những bài giọng
Vặt là những bài chiếm đa số trong kho tàng dân ca Quan họ như: Tiên xa, Thiết
tha, Tuấn Khanh, Hạnh Nguyên, Tìm người trong hội v.v...; Chặng cuối còn gọi là
chặng "giã bạn" hát những bài thể hiện tình cảm lưu luyến, níu giữ trong phút chia
tay để Quan họ bạn ra về khi hết canh hát như: Rẽ phượng, Chia loan, Nhạn xanh,
Chia rẽ đôi nơi, Người ở đừng về v.v...
- Hát đối đáp Quan họ cũng như nhiều dân ca khác là đối đáp nam nữ. Bên
nam hát một bài, tiếp bên nữ hát một bài và cứ như thế lặp đi lặp lại cho đến hết
cuộc hát. Trong Quan họ chủ yếu là hát đối giọng, nghĩa là khi bên kia hát trước
một giọng (làn điệu) thì bên hát sau phải đối lại một bài cũng giọng ấy nhưng phải
có phần lời ca đối lại. Ví dụ như bài Đường bạn đối lại bài Kim lan, bài Tưởng nhớ
về người đối lại bài Gió mát giăng thanh v.v...
1.2.1.2. Cơ sở lý thuyết
* Lý thuyết hệ thống - chức năng
Lý truyết hệ thống - chức năng hướng vào việc nghiên cứu văn hóa như
một cơ chế toàn vẹn, hoàn chỉnh (chỉnh thể) được tạo ra từ các yếu tố, các bộ
29
phận làm nên sự toàn vẹn chỉnh thể ấy. Nhiệm vụ chính của lý thuyết này là
nghiên cứu các yếu tố, các bộ phận của chỉnh thể văn hóa, tìm ra những quan
hệ tương tác, phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng; nhưng đồng thời cũng nghiên cứu
những chức năng tổng quát của chỉnh thể văn hóa. Trong một chỉnh thể văn
hóa, các yếu tố, các bộ phận không chỉ có vai trò ở sự chứa đựng bản thân mà
còn có vai trò góp phần tạo nên sự toàn vẹn của chỉnh thể văn hóa đó. Theo nhà
nghiên cứu văn hóa B.Malinowski, văn hóa có nhiều chức năng, tuy nhiên để
phục vụ cho nghiên cứu Luận án, chúng tôi sẽ lựa chọn, vận dụng một số chức
năng liên quan nhất vào nghiên cứu các SHVHQHL với tư cách là một chỉnh
thể, gồm:
- Chức năng sinh tồn: Chức năng này đảm bảo duy trì và nối dài cuộc sống
của cộng đồng, trong đó có đời sống văn hóa, mà ở đây là đời sống của các
SHVHQHL;
- Chức năng thích nghi và thích ứng: Chức năng này đảm bảo duy trì sự hài hòa
giữa cộng đồng văn hóa và môi trường tự nhiên, xã hội. Sự thay đổi của môi trường tự
nhiên (đô thị hóa), sự chuyển đổi của môi trường xã hội trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi
các SHVHQHL phải thích nghi, thích ứng để tiếp tục tồn tại và phát triển.
- Chức năng thông tin: chức năng này đảm bảo cho sự giao tiếp, giao thoa
văn hóa. SHVHQHL luôn tồn tại và phát triển trong môi trường của sự đan xen và
đa dạng văn hóa. Quan họ vừa chia sẻ vừa tiếp thu làm đầy thêm bản thân trong mối
quan hệ nhiều chiều với các loại hình văn hóa nghệ thuật khác.
- Và chức năng quan trọng nhất - chức năng bảo tồn và tái sinh các giá trị di
sản truyền thống. Chức năng này giúp chúng tôi nghiên cứu về việc bảo tồn và phát
huy những SHVHQHL truyền thống trong xã hội đương đại. Các SHVHQHL được
bảo tồn, phát huy không phải là trong sự bất biến mà là trong quá trình vận động và
vừa tái tạo vừa bổ sung không ngừng để phát triển, để đáp ứng nhu cầu của xã hội
đương đại.
Như thế, bản thân văn hóa sẽ luôn là một hệ thống. Để tiếp cận văn hóa (ở
đây là Văn hóa Quan họ) như một hệ thống thì việc sử dụng lý thuyết hệ thống vào
nghiên cứu là hợp lý.
30
Theo sự phân tích của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm thì sau khi tham
khảo các công trình nghiên cứu của Blauberg (1969) và Sadovsky (1974) về lý
thuyết hệ thống ông cho rằng: các hệ thống đều bao gồm các yếu tố và các quan hệ
giữa chúng. Và mạng lưới các quan hệ sẽ thành cấu trúc -ở Luận án này là cấu trúc
văn hóa của các SHVHQHL.
Mặt khác, lý thuyết hệ thống - chức năng cũng chỉ ra rằng, ranh giới của các
thành tố (yếu tố) văn hóa không thể rạch ròi và bất biến mà nó có thể đan xen vào
nhau tác động tương hỗ với nhau để chuyển động và phát triển.
Như vậy, trong Luận án này chúng tôi sẽ vận dụng lý thuyết hệ thống - chức
năng để nhận diện các SHVHQHL và vai trò của nó trong một chỉnh thể văn hóa
Quan họ Làng với tư cách là một hệ thống, một tiểu văn hóa.
* Lý thuyết biến đổi văn hóa
Biến đổi văn hóa là một quá trình vận động của văn hóa, mà trong sự
vận động ấy có sự tiếp nối, kế thừa và cả những cái mới được phát sinh hình
thành. Trong thế giới rộng lớn của chúng ta, mọi xã hội đều chịu sự chi phối
của quy luật phát triển mà trong đó biến đổi văn hóa là một nội dung cốt lõi.
Nhưng có thể nói, từ những năm cuối thế kỷ XIX, khái niệm "biến đổi văn
hóa" mới được nêu ra bởi các nhà nghiên cứu uy tín như L.Morgan (1877),
E.Taylor (1891) -những người ủng hộ cho Thuyết tiến hóa văn hóa. Vào thời
gian này những cuộc tranh luận gay gắt xung quanh thuyết tiến hóa văn hóa
đã làm nẩy sinh những lý thuyết liên quan trực tiếp đến biến đổi văn hóa như:
thuyết Truyền bá văn hóa, thuyết Vùng văn hóa, thuyết Tiếp biến văn hóa,
thuyết Chức năng văn hóa...
Ngày nay, trước thực tiễn biến đổi không ngừng của đời sống, các nhà văn
hóa học đã bàn rất nhiều về sự biến đổi văn hóa trong đó có biến đổi về văn hóa
nghệ thuật và thường đặt nó trong sự ảnh hưởng to lớn của xu hướng TCH,
HĐH, ĐTH và quá trình chuyển đổi xã hội. Có thể thấy ở Việt Nam hiện nay, sự
biến đổi văn hóa, trong đó có sự biến đổi văn hóa nghệ thuật cũng chịu tác động
rất to lớn và mạnh mẽ của những xu hướng và quá trình chuyển đổi xã hội đó.
31
Sinh hoạt Văn hóa Quan họ làng - đối tượng nghiên cứu của Luận án cũng không
nằm ngoài sự biến đổi văn hóa đó khi mà vùng Quan họ Kinh Bắc đang chịu sự tác
động rất mạnh và liên tục của những xu hướng và quá trình chuyển đổi xã hội nói
trên. Dưới đây trong khuôn khổ của giới hạn nghiên cứu chúng tôi xin nêu phát biểu
của một số nhà nghiên cứu về sự biến đổi của văn hóa dân gian truyền thống.
- Năm 2010, trong một bài viết của mình, GS. Roger Janelli, nhà nghiên
cứu văn hóa dân gian, cố vấn của ủy ban UNESCO về bảo tồn di sản văn hóa phi
vật thể đã tóm lược quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu về tính liên tục của văn
hóa, trong đó cho rằng: Thay đổi là một thuộc tính cơ bản của văn hóa dân gian
truyền thống [50].
- Cùng có quan điểm như trên, GS Deborah Wong của Đại học California,
Riverside, trong tham luận tại Hội thảo: Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội
đương đại (qua trường hợp Quan họ Bắc Ninh) tại Hà Nội năm 2016 khi bàn về
Quan họ cho rằng: sự thay đổi của dân ca theo dòng thời gian là một quy luật. Quan
họ cần phải được lưu trữ, được trao truyền...Tuy nhiên, quan trọng nhất, cần thiết
nhất là nó phải được hoạt động, được vận hành trong đời sống xã hội để chứng tỏ sự
hiện diện của nó. Đặc điểm chủ yếu của DSVHPVT là nó "được các cộng đồng và
các nhóm tái tạo không ngừng" và ông khẳng định Quan họ tồn tại trong sự thay đổi
có tính đương đại.
Trong quá trình thực hiện Luận án, chúng tôi đã vận dụng lý thuyết về sự
biến đổi văn hóa cùng quan điểm của các nhà nghiên cứu văn hóa nói trên về biến
đổi văn hóa để nhận diện những thay đổi của SHVHQHL hiện nay khi đối chiếu với
SHVHQHL cổ truyền.
Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã
vận dụng các lý thuyết nói trên chủ yếu thông qua lăng kính của tư duy để định
hướng cho mục tiêu nghiên cứu chứ không phải sự thể hiện cụ thể như là các thao
tác kỹ thuật khi vận dụng các phương pháp nghiên cứu.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp lịch sử, phương
pháp thành tố văn hóa, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp liên ngành
32
và vận dụng một số phương pháp liên quan khác có tính chất thao tác nghiên cứu
như đối chiếu so sánh, điền giã thực địa, xử lý tài liệu, phỏng vấn sâu v.v...
* Phương pháp lịch sử Trong nghiên cứu văn hóa nói chung, phương pháp lịch sử là một trong số
các phương pháp thường được lựa chọn, đặc biệt là trong nghiên cứu văn hóa dân
gian. Trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người cùng với sự
hình thành và phát triển của văn hóa thì lịch sử là sự chứa đựng và phản chiếu các
quá trình đó và do vậy bản thân nó luôn là một phần quan trọng gắn với con người
và văn hóa.
Mặt khác, trong quá trình hình thành và phát triển các giá trị văn hóa nói
chung luôn có sự tác động của các yếu tố khác của lịch sử (cả nội tại và ngoại tại) lên
quá trình đó một cách liên tục và thường xuyên. Sự tác động đó có thể làm cho văn
hóa trong từng giai đoạn lịch sử nhất định phát triển mạnh mẽ hay phát triển cầm
chừng, hoặc trì trệ, thậm chí là đi vào một bước ngoặt nào đó. Chính vì thế ảnh hưởng
của lịch sử lên văn hóa không chỉ giới hạn trong bản thân quá khứ mà nó còn ảnh
hưởng đến hiện tại và tương lai. Thực tế cuộc sống đã cho ta thấy không có hiện tại
nào, không có dự định, dự báo nào của tương lai mà có thể thoát ly sự kế thừa và ảnh
hưởng của quá khứ lịch sử, thậm chí còn là sự ảnh hưởng trực tiếp mang tính trội.
Như vậy, nắm bắt và vận dụng những thành quả của lịch sử là để giải quyết tốt những
vấn đề của hiện tại và định hướng đúng đắn cho tương lai. Ở đây là hiện tại và tương
lai của con người và văn hóa trong một môi trường được kiến tạo trong lịch sử. Do
lịch sử có tầm quan trọng như vậy đối với văn hóa mà phương pháp tiếp cận lịch sử
luôn được quan tâm sử dụng trong các nghiên cứu về con người và văn hóa, trong đó
có SHVHQHL.
Cụ thể: phương pháp tiếp cận lịch sử giúp chúng tôi giải quyết những vấn đề
dưới đây:
- Như chúng ta đã biết, quá trình phát triển và hình thành các giá trị của
SHVHQH luôn là một quá trình của vận động trong diễn trình của thời gian. Trong
quá trình ấy SHVHQH có sự va đập, giao lưu, chuyển hóa và thay đổi về nội dung,
về hình thức, về cách thức biểu hiện để phù hợp với nhu cầu đương đại. Trong mỗi
giai đoạn của lịch sử, SHVHQH có sự ổn định tương đối và hình thành truyền thống
33
sau những chắt lọc, đào thải… Khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu như thế, phương
pháp lịch sử sẽ giúp chúng tôi nhận biết bản sắc của đối tượng nghiên cứu hay nói
cách khác là nhận biết bản sắc của SHVHQH.
- Việc nghiên cứu các yếu tố trực tiếp hoặc cả gián tiếp đóng góp vào quá
trình hình thành và phát triển SHVHQH đã thấy trong lịch sử cho ta khả năng nhận
diện các bộ phận cấu thành nên SHVHQH và cũng thấy được hoàn cảnh điều kiện
của sự hình thành các sinh hoạt văn hóa ấy. Mặt khác cũng nhận biết được đặc điểm
của các SHVHQH và những đặc điểm đó đã ảnh hưởng trở lại như thế nào đến điều
kiện hoàn cảnh đã tạo nên chúng.
- Phương pháp lịch sử còn giúp chúng tôi xác định được các nguyên nhân,
nguồn gốc của sự hình thành, phát triển văn hóa, đồng thời cũng có thể đối chiếu, so
sánh, sự hình thành phát triển ấy qua các giai đoạn, thời kỳ, từ đó có thể rút ra các
kinh nghiệm, đề xuất giải pháp, khuyến nghị cho việc bảo tồn, phát huy văn hóa.
Chẳng hạn như sự đối chiếu giữa SHVHQHL cổ truyền với SHVHQHL đương đại.
* Phương pháp nghiên cứu thành tố văn hóa
Trong lịch sử văn hóa học thì phương pháp tiếp cận thành tố văn hóa là một
phương pháp mới, hiện đại khi đặt cạnh các phương pháp khác như lịch sử, so sánh,
điền dã dân tộc học… phương pháp này được các nhà nghiên cứu sử dụng ngày
càng nhiều khi mà sự phát triển của văn hóa đang ngày càng đa dạng, phong phú và
trong một môi trường thế giới ngày một “phẳng” hơn. Các nhà nghiên cứu châu Âu
là những người tiên phong trong sử dụng phương pháp này vào nghiên cứu văn hóa.
Để nghiên cứu theo phương pháp này chúng tôi hệ thống hóa các yếu tố cấu
thành nên SHVHQHL, chọn ra những yếu tố cơ bản để không bị sa lầy vào dàn trải
và có thể mất phương hướng khi thực hiện mục tiêu nghiên cứu. Khi chúng tôi lựa
chọn đối tượng nghiên cứu trong Luận án là SHVHQHL với tư cách là một “tiểu
văn hóa” thì trước hết phải hệ thống được, chỉ ra được những yếu tố (những mặt) cơ
bản nhất, bản chất nhất, tiêu biểu và có tính trội nhất trong rất nhiều yếu tố hợp
thành SHVHQHL. Qua nghiên cứu, chúng tôi đã lựa chọn một số các mặt sinh hoạt
cơ bản đảm bảo cho thành công khi tiếp cận nghiên cứu SHVHQHL. Từ đó, chúng
tôi đi vào nghiên cứu và làm rõ các mặt sinh hoạt của SHVHQHL cùng sự vận
34
động, tương tác và mối dây liên hệ giữa chúng trong một tổng thể văn hóa là
SHVHQHL. Như vậy đồng thời với việc nhìn nhận các thành tố văn hóa là việc gắn
liền chúng với sự nhìn nhận cái tổng thể văn hóa để thấy được diện mạo và những
đặc điểm chung của đối tượng cần nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp
Chúng tôi tham khảo Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học của
Vũ Cao Đàm [36] và đồng thuận với ông khi ông đưa ra quan niệm về phương pháp
phân tích, tổng hợp - một phương pháp rất cần thiết cho nghiên cứu văn hóa, nhất là
văn hóa học trong quá trình biến đổi và phát triển. Về phương hướng này ông cho
rằng: phân tích một sự vật là sự phân chia sự vật thành những bộ phận có bản chất
khác biệt nhau. Còn tổng hợp là xác lập những liên hệ tất yếu giữa các bộ phận đã
được phân tích.
Khi nghiên cứu về SHVHQHL hiện nay không thể không phân tích, tổng
hợp, đánh giá nó trong sự so sánh, đối chiếu với SHVHQHL cổ truyền để qua đó
rút ra những kết luận cần thiết giúp làm cơ sở cho những khuyến nghị, đề xuất
nhằm tiếp tục bảo tồn và phát huy DCQH cả trước mắt và lâu dài. Do đó, việc xử
dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, kết hợp với phương pháp so sánh - đối
chiếu là phù hợp để góp phần giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra trong
Luận án.
* Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Như chúng ta đã biết, văn hóa học là môn khoa học nghiên cứu văn hóa trên
ba bình diện lớn:
- Văn hóa học nghiên cứu lý luận văn hóa, lý thuyết văn hóa, đó là các
nghiên cứu về khái niệm - quan niệm, bản chất, quy luật, chức năng, vai trò của văn
hóa trong sự so sánh với các hình thái thái ý thức khác.
- Văn hóa học nghiên cứu lịch sử văn hóa của các quốc gia, dân tộc, cộng
đồng, các vùng miền…
- Văn hóa học nghiên cứu ứng dụng văn hóa trong các hoạt động thực tiễn xã
hội như văn hóa sự kiện, văn hóa du lịch, văn hóa thể thao, quản lý văn hóa, bảo
tồn, bảo tàng v.v...
35
Để thực hiện các chức năng nhiệm vụ nghiên cứu đó, văn hóa học cần huy
động liên ngành để phối hợp nghiên cứu, chính vì thế văn hóa học được gọi là khoa
học liên ngành. Văn hóa học thường phối hợp với các ngành khoa học như dân tộc
học, sử học, ngôn ngữ học, xã hội học, tâm lý học, triết học, ký hiệu học… Văn hóa
học là môn khoa học tích hợp, vừa nghiên cứu các hiện tượng văn hóa riêng biệt vừa
nghiên cứu cái chung của văn hóa. Về phương diện lý thuyết, phương pháp tiếp cận
liên ngành là sự kết hợp và thống nhất của quy trình lý thuyết và phương pháp luận
của nhiều ngành khoa học để tập trung nghiên cứu một đối tượng nào đó thường là có
phạm vi rộng như văn hóa tộc người, văn hóa dân tộc, các hiện tượng văn hóa tổng
thể… Nghiên cứu SHVHQHL rất cần đến phương pháp liên ngành vì SHVHQHL
liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác như âm nhạc, ngôn ngữ, kinh tế, dân tộc học, xã
hội học, lịch sử, tôn giáo - tín ngưỡng, tâm lý học, triết học, phong tục tập quán… Để
nhận diện VHQHL như là một chỉnh thể, một hình thái ý thức xã hội thì không thể
không tiếp cận theo phương pháp nghiên cứu liên ngành với sự tham gia nhiều chiều
nhằm đạt tới một kết quả nghiên cứu toàn diện và sâu sắc.
Tiểu kết chương 1
Như vậy ở Chương 1, chúng tôi tập trung vào trình bày Tổng quan tình hình
nghiên cứu, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu SHVHQHL.
Về Tổng quan tình hình nghiên cứu, sau khi được trình bày và phân tích đã
cho thấy một bức tranh toàn cảnh về những kết qủa nghiên cứu trên phương diện
SHVHQHL - vấn đề mà chúng tôi đã giới hạn phạm vi trong nội dung Luận án.
Trong khoảng thời gian từ những năm 1920 của thế kỷ XX đến nay công tác nghiên
cứu văn hóa Quan họ đã đi được một chặng đường khá dài, từ những kết quả nghiên
cứu, điền dã chủ yếu về sinh hoạt diễn xướng Quan họ của các nhạc sĩ kiêm học giả
vào những năm từ 1920 đến trước năm 1954 cho đến việc từng bước mở rộng nghiên
cứu ra toàn bộ văn hóa Quan họ với tư cách là một hiện tượng văn hóa tổng thể trong
những năm 1954 đến nay theo phương pháp liên ngành có sự tham gia của các nhà
nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực từ sử học, dân gian học, xã hội học, âm nhạc học,
Việt Nam học…Kết quả nghiên cứu là rất đáng khích lệ và để lại một kho tàng tài
liệu đã được văn tự hóa vừa sâu vừa rộng, khá toàn diện về văn hóa Quan họ.
36
Kết quả của các công trình nghiên cứu trong suốt một thế kỷ qua đã cho ta
thấy Quan họ không chỉ là sự ca hát thuần túy như nhiều dân ca khác của Việt Nam
mà còn là một hiện tượng văn hóa tổng thể với nhiều sinh hoạt văn hóa khác mà bản
thân sinh hoạt diễn xướng chỉ là một thành tố dù là cốt lõi của loại hình dân ca độc
đáo này.
Tuy nhiên các nghiên cứu được công bố chủ yếu tập trung vào các SH
VHQHL cổ truyền và còn khá tản mạn, chưa có một công trình chuyên khảo nào về
vấn đề này, đặc biệt là nghiên cứu về SHVHQHL hiện nay trong mối quan hệ hữu
cơ, kế thừa với SHVHQHL cổ truyền. Đó là một khoảng trống nghiên cứu cần được
bổ sung để có một cái nhìn toàn diện đầy đủ và sâu sắc hơn về dân ca Quan họ cùng
các sinh hoạt văn hóa của nó.
Để thực hiện nhiệm vụ của Luận án, chúng tôi đã nghiên cứu và trình bày
một số khái niệm, thuật ngữ quan trọng nhất về Quan họ để làm công cụ tiếp cận
các nội dung, đối tượng nghiên cứu. Trong đó, chúng tôi phân tích kỹ khái niệm
"Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng" là khái niệm chiếm vị trí trung tâm của đề tài. Sở
dĩ chúng tôi dùng khái niệm "Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng" mà không dùng khái
niệm " Sinh hoạt văn hóa của làng Quan họ" là bởi chúng tôi đang giới hạn nghiên
cứu trong bản thân văn hóa Quan họ mà không nhiên cứu rộng về văn hóa làng.
Chương này của luận án còn trình bày việc vận dụng các lý thuyết như lý
thuyết hệ thống - chức năng, lý thuyết biến đổi văn hóa v.v…Để phục vụ công tác
nghiên cứu SHVHQHL, trong đó chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vận dụng lý thuyết
hệ thống - chức năng. Cùng với đó là việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như phương pháp lịch sử, phương pháp thành tố văn hóa, phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp nghiên cứu liên ngành... để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu
sao cho đạt những mục tiêu đã đặt ra cho Luận án.
37
Chương 2
SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ LÀNG CỔ TRUYỀN
Ở LÀNG VIÊM XÁ
2.1. LÀNG VIÊM XÁ - KHÔNG GIAN SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ
TIÊU BIỂU
2.1.1. Làng cổ Viêm Xá
Viêm Xá hay Viêm Ấp có tên nôm là làng Diềm, trước đây gọi xã Viêm Xá,
tổng Châm Khê, tỉnh Kinh Bắc [45], nay thuộc xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh,
tỉnh Bắc Ninh.
Viêm Xá nằm ở trung tâm vùng Quan họ; phía Đông Bắc giáp làng Hữu Chấp
(còn gọi làng Chắp), phía Tây Nam giáp hai làng Xuân Đồng (còn gọi làng Đồng
Mật) và làng Quả Cảm (còn gọi làng Xuân Quả), phía Tây Bắc và Đông Bắc là con
sông Ngũ Huyện chảy vòng như dải lụa rồi nhập với sông Cầu soi bóng núi Kim
Sơn đầu làng tạo nên một thế đất sơn thủy hữu tình.
Theo các nhà sử học, thì cho đến cuối thế kỷ XVIII vùng Kinh Bắc (bao gồm
cả Bắc Ninh, Bắc Giang, một phần Hà Nội ngày nay...) đã có tới gần một nghìn làng
và đến nay đều được coi là làng cổ. Trong số những làng cổ ấy lại được phân chia
thành ba loại làng:
+ Loại làng tối cổ có nguồn gốc từ thời nguyên thủy được khẳng định qua
những di tích và di vật khảo cổ, những tên đất, tên làng và cơ cấu kinh tế - ruộng đất.
+ Loại làng được hình thành muộn hơn, lấy khuôn mẫu từ loại làng thứ nhất,
được hình thành do một dòng họ hoặc một số dòng họ cùng đến khai hoang lập ấp
và tạo nên sự quần tụ của một cộng đồng sinh sống.
+ Loại làng ở thời kỳ phong kiến tập quyền do Nhà nước chủ trì việc khai
hoang lập ấp mà thành.
Nhưng điều quan trọng nhất được xác định là tương ứng với mỗi loại làng cổ ấy
(ở đây chỉ các làng có sinh hoạt Quan họ) là sự ra đời của sinh hoạt dân ca Quan họ
sở tại. Do đó người ta thấy tương ứng với loại làng thứ nhất là lớp Quan họ tối cổ,
với loại thứ hai là lớp Quan họ mới hơn, và với loại thứ ba là lớp Quan họ muộn (tất
38
nhiên ở đây không hàm ý là sự đồng thời). Làng Viêm Xá mà chúng tôi nghiên cứu
thuộc loại làng tối cổ, vì vậy cũng thuộc loại làng có sinh hoạt dân ca Quan họ
rất cổ. Những dấu tích mà các nhà khoa học căn cứ để khẳng định Viêm Xá là một
làng tối cổ có khá nhiều, nhưng ở đây chúng tôi chỉ xin nêu một số dấu tích cơ bản
có mối quan hệ trực tiếp với sinh hoạt Quan họ của làng.
Kết quả khảo cổ với việc tìm ra nhiều di chỉ quan trọng đã khẳng định độ tuổi
2000 năm có dư của làng Viêm Xá cổ kính. Người ta tìm thấy trong lòng đất những
lưỡi rìu, lưỡi dao găm có đốc cầm hình củ hành chế tác rất cầu kỳ tinh xảo... giống
với những hiện vật đã tìm thấy ở nhiều di chỉ khảo cổ học thời các vua Hùng. Tại
núi Quả Cảm cách làng không xa còn tìm thấy các đồ dùng sinh hoạt của con người
thời xa xưa như bát ăn, những khuyên tai màu xanh ngà, những chuỗi lưu ly màu
xanh ngọc chứng tỏ tài thủ công một thời của dân cư từng ở đây. Đặc biệt các nhà
khảo cổ đã tìm thấy tại đây ngôi mộ cổ của một viên quan Trung Quốc xâm lược
thời Hán cách đây gần 2000 năm bên trong có chứa nhiều đồ dùng như gươm đồng
có trang trí chim phượng, chiếc bát đồng còn ghi dòng chữ: "Vĩnh sơ, thất niên, thất
nhật, nhị thập nhật, Lý thị tác", tạm dịch là "Người họ Lý làm bát vào ngày 20 tháng
Bảy năm Vĩnh sơ thứ 7 (113)". Những chứng tích xa xưa được may mắn tìm thấy
tại Viêm Xá đã cho thấy từ buổi đầu Công nguyên nơi đây dường như là một nhiệm
sở của quan cai trị phương Bắc xâm lược (?) và là nơi tập trung đông đúc dân cư
Việt cổ với một nền văn minh khá rực rỡ [2].
Có thể nói việc phát hiện ra những di chỉ có niên đại khác nhau tập trung ở
một vùng đất như Viêm Xá và xung quanh đã cho thấy sự phát triển của các làng xã
vùng Kinh Bắc có lẽ không phá vỡ hoàn toàn các kết cấu nguyên thủy. Một trong
những biểu hiện của điều này là chế độ ruộng công được gọi là "lam điền", "ruộng
Bà Chúa", "ruộng Vua Bà". Với Viêm Xá, "ruộng Bà Chúa" và đặc biệt là "ruộng
Vua Bà", hẳn phải có liên quan đến đền Vua Bà, hay nói cụ thể hơn là liên quan đến
việc thờ phụng Vua Bà - một vị thánh mà dân gian vốn suy tôn không chỉ là Thủy tổ
của dân ca Quan họ mà còn là người gây dựng nên làng Viêm Xá xưa, tức Thành
hoàng làng. Như vậy hiện tượng văn hóa Quan họ Viêm Xá không chỉ có cơ sở bền
vững về mặt tinh thần (đất thủy tổ) mà còn có khả năng chu cấp vật chất cho các
sinh hoạt Quan họ (ruộng công).
39
Mặt khác, nghề nông - trồng lúa nước, một nghề ra đời từ thuở sơ khai của dân
làng và nghề trồng dâu nuôi tằm, canh cửi truyền đời đã chỉ ra nét đặc trưng vốn có
của những làng cổ ven sông vùng Kinh Bắc. Nhìn từ góc độ văn hóa cổ truyền thì
nghề trồng dâu nuôi tằm - canh cửi còn là nét đẹp mang tính mô típ đặc trưng kiểu
"tre trúc - đình làng", "cánh cò - đồng lúa" mà từ trong lịch sử đã luôn luôn là nguồn
cảm hứng sáng tạo của thơ ca, nghệ thuật dân gian. Trong sinh hoạt văn hóa Quan
họ dường như lúc nào cũng thấp thoáng một nương dâu, một "con tằm cái kén"
khiến cho tâm hồn người nghệ nhân rung cảm và say đắm... Có thể nói, Viêm Xá là
một làng quê với tất cả những nét đặc trưng vốn có của một làng quê thuần nông đã
nổi lên như là một làng cổ nhất trong những làng cổ vùng Quan họ.
2.1.2. Di tích, lễ hội và huyền thoại Viêm Xá còn là một làng cổ có quần thể di tích gắn với huyền thoại và lễ hội
dày đặc trong vùng Quan họ, nổi bật là các di tích dưới đây:
- Khu đền Cùng (gồm điện thờ và Giếng Tiên) nằm ngay đầu làng dưới chân
núi Kim Sơn. Tương truyền đều được xây dựng để thờ phụng Mẫu Thượng ngàn
(dân làng quen gọi là Mẫu Thị đế Thượng ngàn) và hai vị Chúa Bà là Ngọc Dung
công chúa và Thủy Tiên công chúa cách đây chín thế kỷ. Hội tát giếng Đền Cùng
diễn ra vào ngày mồng 3 tháng Ba âm lịch (trùng với tết bánh trôi) hằng năm là một
sinh hoạt dân gian - tín ngưỡng của dân làng Viêm Xá. Ngoài việc thờ phụng tôn
vinh các vị thánh mẫu như trên thì còn là việc liên quan đến nguồn nước sinh hoạt
và thờ cúng tổ tiên của dân làng. Trong trình tự và nội dung của lễ hội tát giếng có
một khâu quan trọng nhất là việc tát cạn giếng để thau, rửa và chăm sóc cho những
"ngài" cá chép vàng (mầu vàng) vốn được cho là những linh vật thiêng sống trong
lòng giếng... Rồi khi nước giếng đầy trở lại thì dân làng đến lấy về cho các cơ sở
thờ tự như đình, chùa, đền Vua Bà, nghè, miếu và gia đình để dùng vào việc cúng
bái thần, phật, tổ tiên. Nguồn nước giếng Đền Cùng được hiểu như một biểu tượng
của nguồn sống, sự linh thiêng, trong sạch mà dân làng sau một năm sinh sống làm
ăn dâng lên các đấng bề trên tâm linh của mình. Do là nước thiêng như truyền tụng
nên nhiều khi dân các làng xung quanh đến dự hội cũng xin nước đem về làng
mình, ngoài việc thờ cúng còn dùng để uống với mong muốn là nước thiêng sẽ giúp
cho nghệ nhân làng mình có giọng hát Quan họ hay hơn, ngọt hơn, giống như nghệ
40
nhân Quan họ Viêm Xá. Về sự linh thiêng và sức thu hút tín ngưỡng, lễ hội của đền
Cùng, dân gian có câu:
Dù ai đi lễ chín phương
Không bằng linh hiển thắp hương đền Cùng.
- Tiếp đến là di tích đình Viêm Xá nằm ở ngay trung tâm mặt tiền của làng,
phía trước là hồ nước thường được dùng làm nơi bơi thuyền hát Quan họ trong ngày
hội. Về ngôi đình này đã được nhà nghiên cứu mỹ thuật Phương Anh miêu tả:
Đi qua cổng làng có lời chào mừng "vãng du hữu lợi" ta vào ngay sân
đình rộng rãi lát gạch đỏ tươi. Ngôi đình hiện tại theo kiểu chữ công (I),
gồm đại bái 5 gian ngang dọc mỗi chiều 6 hàng cột, dài 17,5 mét và rộng
14,9 mét, chuôi vồ là hậu cung dài 6,8 mét và rộng 9,4 mét, còn ống
muống ăn lấn một phần vào đại đình và một phần vào hậu cung... Tòa đại
đình 4 mái, đao cong lòng rộng, tạo cho bên trong một không gian thoáng
đãng. Bốn cột cái cao to, chu vi có tới 2,24 mét, là những cây trụ chính
của cả khung nhà... Bụng của 2 chiếc câu đầu đều còn ghi rõ thời điểm
đặt nóc đình là vào giờ tốt ngày 25 tháng 6 năm Nhâm Thân (1692) [4].
Hằng năm hội đình Viêm Xá cũng là một hội to trong vùng. Thông thường hội
diễn ra ba ngày: ngày mồng 5 tháng Tám âm lịch là ngày vào đám, ngày mồng 6 tháng
Tám chính hội và chiều mồng 7 tháng Tám rã đám đóng cửa đình. Vào năm được mùa,
theo lời kể của các cụ có khi hội kéo dài tới 5 - 6 ngày mới hết. Ngày hội đình Viêm
Xá, dân làng và khách thập phương có dịp thưởng thức nhiều hình thức sinh hoạt dân
ca Quan họ và các trò chơi dân gian như đu, vật, đánh cờ, trọi gà... Trong đó ca Quan
họ vẫn là một hoạt động chủ đạo và cuốn hút người xem nhiều nhất.
- Chùa Viêm Xá cũng giống như ở nhiều làng cổ vùng Kinh Bắc là một kiến
trúc được xây dựng sớm hơn đình và đã được trùng tu nhiều lần. Chùa nằm trên
một dải đất cao ngay đầu làng hướng cổng ra Đền Cùng, cách đình khoảng 200 mét
và cách đền Vua Bà 100 mét tạo nên một quần thể di tích ở thế chân vạc rất thuận
lợi cho những hoạt động nghi lễ, văn nghệ trong các ngày hội. Hội chùa hằng năm
được tổ chức ngày 15 tháng Giêng và thường diễn ra trong một ngày. Theo lời cụ
Nguyễn Văn Thị (đã mất năm 2012, thọ 103 tuổi) vốn là cụ Thượng của làng thì
vào những năm đầu thế kỷ, hội Chùa vẫn có chạy đèn, diễn phướn, nhưng từ hòa
41
bình (1954) đến nay không còn nữa. Riêng Quan họ thì hội Chùa năm nào cũng có
và xen lẫn với diễn các tích Chèo như: "Quan Âm Thị Kính", "Trương Viên"; có
năm diễn cả Tuồng và Kể hạnh.
Trước năm 1954 làng Viêm Xá có hai phường Tuồng là phường Tuồng xóm Đông và phường Tuồng xóm Tây. Hằng năm cứ vào ngày 13 tháng Bảy âm lịch, nhiều gia đình trong làng thường thắp hương làm mâm cỗ có kẹo, bánh đa để cúng tổ Tuồng - TG
Bài vị có nội dung: "Đương cảnh Thành hoàng, Quốc vương thiên tử, Nhữ vương Nam Nữ, Nam Hải đại vương".
+ Sắc phong có nội dung: "Quốc vương thiên tử Nhữ vương Nam Nữ Nam Hải chiêu ứng diệu cảm cẩn tiết ôn hòa nhân hậu minh ngung thánh thuận đức trụ phúc phả phong huệ hiển ứng chân linh trợ thân an dân chiêm nhuận hoàng thâm quảng lợi vương nhuận khấp pháp khấp thượng đẳng thần. Dực bảo Trung hưng đại vương".
+ Câu đối có nội dung: - Vế phải: "Oanh liệt hiển Hồi hương, vạn cố vương thường hoành vũ trụ". - Vế trái: "Thần linh hưng Viêm Ấp, luỹ triều phong tặng đối càn khôn". Nghĩa
là: Vế phải: "Cái oanh liệt làm rạng rỡ làng Hồi, xưa nay vương thường ngang vũ trụ./ Vế trái: "Thần linh dựng nên làng Viêm Ấp, trải qua các triều đại đều phong tặng ngang trời đất".
- Đặc biệt là di tích đền Vua Bà, tức nơi thờ thủy tổ của dân ca Quan họ nằm cách đình làng vài trăm mét tuy không đồ sộ song lại là trung tâm của sự sùng kính, trân trọng không chỉ của nhân dân làng Viêm Xá mà còn của nhân dân cả vùng Quan họ. Đền Vua Bà là công trình kiến trúc cổ từ thời Lê có trang trí, kiến trúc đắp nổi và chạm khắc đơn giản, song lưu giữ nhiều hiện vật quý như tượng Vua Bà (nay được bảo quản trong tủ kính); bài vị, sắc phong, hoành phi câu đối1, đồ tế khí vẫn còn khá đủ. Hằng năm, cứ đến ngày mồng 6 tháng Hai âm lịch truyền rằng là ngày Đức Vua Bà giáng hạ xuống Viêm Xá, dân làng mở hội để tưởng niệm vị Thánh Mẫu, mời bạn Quan họ các làng về ca hát - đối đáp, mở nhiều trò vui truyền thống trong đó đặc biệt có trò chơi cướp cầu vốn tồn tại như một nghi lễ tín ngưỡng có liên quan trực tiếp đến sự may rủi của dân làng trong một năm sinh sống làm ăn.
Trước hết cần khẳng định cho đến nay, từ trong lịch sử và huyền thoại, làng Viêm
Xá có vinh hạnh lớn được nhân dân trong vùng tôn vinh là đất tổ của dân ca Quan họ
42
Bắc Ninh. Đối với người dân 49 làng Quan họ vốn rất có ý thức về việc đề cao vai trò
của làng mình, thôn mình trước cộng đồng, nhất lại là về tài ca hát Quan họ, hẳn không
dễ gì thừa nhận một làng khác (chứ không phải làng mình) là cái nôi, cái gốc của Quan
họ mà mình phải hướng tới, phải noi theo... Vậy thì hẳn phải có lý do "không thể chối
cãi" được để Viêm Xá có thể nhận lãnh cái vinh dự to lớn và hiếm hoi ấy. Đó là những
lý do được bắt nguồn từ lịch sử ca hát và huyền thoại.
Cho đến nay dân trong vùng còn bảo lưu khá nhiều truyền thuyết về Vua Bà, về vai trò thủy tổ Quan họ của Bà gắn với địa danh Viêm Xá mà chứng tích hiện tồn lại chẳng huyền thoại chút nào, đó là ngôi đền được dựng lên để thờ phụng vị Thánh mẫu này. Ngôi đền đến nay đã được chính thức xếp hạng cấp Quốc gia (Quyết định của Bộ Văn hóa - Thông tin đề ngày 12 tháng 12 năm 1984 do Thứ trưởng Lưu Trần Tiêu ký. Bằng chứng nhận đang được trưng bày tại đền Vua Bà). Trong số những truyền thuyết, huyền thoại đó có hai chuyện được lưu truyền hơn cả. Một trong hai chuyện đó kể rằng bà Nhữ Nương (tức Vua Bà) từ một vùng đất rất xa xôi nào đó đến Viêm Xá và lưu lại nơi đây. Ngày ngày bà thường xuống sông mò cua bắt ốc hoặc leo lên ngọn núi Kim Sơn đầu làng kiếm củi... Bà có một thói quen là hay hát ngay cả trong khi lao động rất lam lũ và cực nhọc. Một hôm trong lúc cặm cụi làm đồng bà đã hát:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang Muôn vàn cây cỏ lai hàng tay ta.
Đúng lúc đó, Vua Thủy tề đi tuần qua sông Cầu nghe tiếng hát, lại thấy trên trời có đám mây vàng rực rỡ che chở cho bà. Đức Vua vừa mê giọng hát lại thấy đây là một người con gái khác thường bèn xin lấy làm vợ đưa về thủy cung. Nhân dân trong làng tưởng nhớ con người đức hạnh và có tài ca hát đã rủ nhau học thuộc những bài hát của bà mà sau này chính là dân ca Quan họ...
Còn một huyền thoại khác được coi là có căn cứ từ những di tích và các nguồn sử liệu lưu giữ ở đền Vua Bà tại làng Viêm Xá kể rằng: Đức Vua Bà là con gái của Vua Hùng trong cuộc du ngoạn đã theo cơn phong vũ cuốn lên trời rồi sau đó giáng hạ xuống trang Viêm Xá. Ở đây Bà đã hướng dẫn nhân dân khai hoang, lập ấp, tiến hành cấy lúa trồng màu, dạy dân chăn tằm dệt lụa. Rồi Bà dạy dân lễ nghĩa, xây dựng cuộc sống của làng xóm có thuần phong mỹ tục. Đặc biệt Đức Vua Bà còn đặt ra những bài ca và mở hội cho mọi người vui chơi; những bài của Bà sáng tác khi ca lên không chỉ làm say mê lòng người, giúp trai gái yêu thương nhau mà còn làm
43
cho cây cỏ tốt tươi, đơm hoa kết trái. Đó là những lời ca về sinh hoạt Quan họ sau này... Nhớ ơn Bà, nhân dân Viêm Xá đã tôn vinh Bà là Đức Vương Mẫu và hằng năm mở hội cho dân trong vùng đến ca hát Quan họ, tưởng vọng về anh linh cao khiết của Bà.
Ngoµi viÖc t×m hiÓu c¸c truyÒn thuyÕt tiªu biÓu kÓ trªn chóng t«i cßn nhËn thÊy
tõ mét thèng kª mang tÝnh so s¸nh cña c¸c t¸c gia cuèn Quan hä, nguån gèc vµ qu¸
tr×nh ph¸t triÓn mµ chóng t«i s¾p xÕp l¹i dưới ®©y ®Ó lµm mét phÐp so s¸nh vµ thÊy
r»ng ®a sè c¸c cø liÖu, dï lµ truyÒn thuyÕt, huyÒn tho¹i ®Òu gÆp nhau ë mét ®iÓm:
Viªm X¸ lµ lµng Quan hä gèc vµ Thñy tæ cña d©n ca Êy lµ §øc Vua Bµ hiÖn ®ang
được thê phông t¹i ng«i ®Òn còng trªn ®Êt cña lµng Viªm X¸.
Bảng 2.1: Nguồn gốc của quan họ
STT Néi dung cña thuyÕt Sè lîng
1
2
3
4
Quan hä ra ®êi lµ do Vua Bµ s¸ng t¹o
Quan hä ra ®êi lµ do mét h×nh thøc h«n nh©n
Quan hä được ph¸t triÓn tõ h¸t §óm
Quan hä ra ®êi lµ do d©n h¸t ®Ó c¶n giÆc ®uæi theo Vua
Lý
9 thuyÕt
7 thuyÕt
2 thuyÕt
1 thuyÕt
Lµng gèc cña d©n ca Quan hä
1
2
3
4
5
Viªm X¸ (thuéc Yªn Phong) lµ lµng gèc
Lòng Giang (thuéc Tiªn S¬n) lµ lµng gèc
Håi Quan (thuéc Tiªn S¬n) lµ lµng gèc
§èng Cao (thuéc Yªn Phong) lµ lµng gèc
§×nh B¶ng (thuéc Tiªn S¬n) lµ lµng gèc
8 thuyÕt
3 thuyÕt
1 thuyÕt
1 thuyÕt
1 thuyÕt
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
Nh×n vµo b¶ng trªn cho thÊy ®a sè c¸c thuyÕt nghiªng vÒ phÝa cho r»ng Quan hä
ra ®êi lµ do Vua Bµ s¸ng t¹o vµ Viªm X¸ lµ lµng gèc cña d©n ca Quan hä B¾c Ninh.
Hội đền Vua Bà là hội lớn của làng Viêm Xá và cũng là hội làng thu hút nhiều
làng khác đến tham gia, nhất là những làng Quan họ, trong đó nổi lên có các làng
Quan họ kết nghĩa. Dịp Hội đền Vua Bà (thường diễn ra trong 2 - 3 ngày) chính là dịp
thể hiện rõ nhất tính chất một Trung tâm hội hát Quan họ của toàn vùng. Hầu hết các
44
hình thức sinh hoạt Quan họ như Hát thờ, Cầu đảo, hát canh (trong nhà chứa), hát hội
(trên núi, dưới thuyền, trong hội...); văn hóa ẩm thực, giao du kết bạn, hát thi v.v... đều
được tiến hành trong một khoảng thời gian đậm đặc, nói theo kiểu dân gian là "thâu
đêm suốt sáng" trong một không khí ân tình, quyến luyến giàu tính cộng đồng, như câu
ca Quan họ nổi tiếng từng bộc lộ: Hội tan rồi nhưng "Người ơi, người ở đừng về"...
- Ngoài những di tích và lễ hội chủ yếu trên, theo lời kể của cụ Ngô Thị Hoàn
(sinh năm 1900 - nay đã mất) thì trước năm 1950, mỗi xóm trong tổng số 9 xóm của
Viêm Xá đều có điếm và cúng "hậu" ở đây (Điếm là tòa nhà 3 hoặc 5 gian có sàn gỗ
và người ta cúng "hậu" ở đây: Viêm Xá có tục lệ là những người không có con trai
thì cúng ruộng vào điếm. Số ruộng này được xóm sử dụng canh tác, có trưởng xóm,
thủ quỹ chịu trách nhiệm cai quản. Khi gia chủ chết, xóm sẽ đứng ra làm ma cúng tế
cho và ghi tên người chết lên bảng gỗ (không phải bia). Rồi số ruộng cúng đó được
tiếp tục giao các nhà luân phiên canh tác và nộp thóc để hương khói cho người đã
khuất. Đến khoảng 1949 - 1950 khi Viêm Xá về tề thì các điếm đều bị phá).
- Ở ven đê, chếch phía Tây sau làng còn một ngôi nghè thờ Đức Thánh Tam Giang
- Thành hoàng của làng. Ngoài ra còn có nhiều ngôi miếu nhỏ thờ thần nằm rải rác khắp
9 xóm của làng. Hằng năm, trong tất cả 4 ngày hội lớn của làng, khách quanh vùng đến
đây đều khoan khoái cảm nhận cái không khí linh thiêng, huyền thoại cổ xưa xen lẫn sự
mộc mạc êm đềm, rất giàu tình cảm của những áng thơ Quan họ vùng đất thủy tổ.
2.1.3. Viêm Xá - một trung tâm hội hát của vùng Quan họ
Qua kết quả nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu DCQH và đã được khẳng
định cho thấy rằng, khi tìm dấu vết của những trung tâm sinh hoạt Quan họ cổ thì điều
trước tiên phải tìm đến những trung tâm hội hát của Quan họ. Theo chúng tôi, cho đến
nay vùng Bắc Ninh nếu tính từ thế kỷ XIX thì đã hình thành và vẫn được duy trì khoảng
8 trung tâm hội hát thuộc các làng: Lim, Đặng, Yên, Chắp (Hữu Chấp), Viêm Xá
(Diềm), Đống Cao, Thị Cầu, Bồ Sơn - Đọ Xá. Cũng cần lưu ý rằng sinh hoạt hội làng thì
hầu hết các làng vùng Quan họ đều có, thế nhưng để có thể được coi là trung tâm hội hát
Quan họ thì phải là những hội có hoạt động chủ yếu và xuyên suốt "thời điểm mạnh"
[129] là ca hát Quan họ với tất cả những hình thức cơ bản, vốn có của nó.
Thứ nhất là, làng Viêm Xá là một làng Quan họ cổ được xếp trong 49 làng
Quan họ Kinh Bắc và thỏa mãn hai tiêu chuẩn lớn, nổi bật:
45
- Có các bọn Quan họ đi kết bạn và hát với làng Quan họ khác liên tục từ 2, 3
thế hệ nghệ nhân trở lên. Cụ thể là kết bạn với các làng Bịu và Đống Cao.
- Được các Quan họ trong vùng thừa nhận một cách tự nhiên theo kiểu dân
gian - như ta thường nói: "Hữu xạ tự nhiên hương".
Thứ hai là, hiếm có một làng Quan họ nào trong số 49 làng Quan họ lại có tới
4 hội làng trong một năm và đến nay đều có hát Quan họ như ở Viêm Xá. Nhưng
còn đặc biệt hơn ở chỗ hội lớn nhất, thu hút đông nhất và dài ngày nhất lại không
phải là hội đình, hội chùa, hay hội tát giếng Đền Cùng mà lại là Hội Vua Bà (Trước
Cách mạng Tháng Tám 1945 Viêm Xá có hai hội to hơn cả là hội Vua Bà và hội
đình, nhưng từ 1945 đến 1994 hội đình lại nổi lên to hơn. Hiện nay khi Quan họ
phục hưng thì hội Vua Bà lại phục hồi quy mô vốn có). Trong hội Vua Bà ngoài
phần nghi lễ thì phần chủ yếu là sinh hoạt văn nghệ Quan họ với tất cả các hình
thức ca hát bài bản nhất, "lề lối" nhất. Ngay cả trong phần nghi lễ thì ca hát và vai
trò của các nghệ nhân Quan họ cũng chiếm phần đáng kể trong hát thờ, hát cầu
đảo... Ở Viêm Xá (trong ngày hội) xu hướng tôn vinh Quan họ và vì thế tôn vinh
các nghệ nhân Quan họ tới mức gần như đứng dưới các vị thánh được thờ phụng,
chứ không phải là các chức sắc trong làng, trong tổng như ta thường thấy ở nhiều
nơi khác, cho dù các liền anh liền chị Quan họ do bản chất khiêm nhường vốn có,
không bao giờ đòi hỏi điều đó.
Có lẽ do cái không khí Quan họ "thiêng" như vậy mà mặc dù không có những
thuận lợi về giao thông, địa thế như hội Lim nhưng hội hát Quan họ Viêm Xá hằng
năm vẫn duy trì sức hút tự nhiên đối với không chỉ các làng kết bạn truyền đời như
Bịu, Đống Cao mà còn là phần lớn các làng Quan họ có "vai vế" trong vùng đến vui
hát, thi hát như một nhu cầu tự thân đầy hứng khởi. Trong cuốn sách Trên đường tìm
về Quan họ nhà nghiên cứu Trần Linh Quý, sau khi đã đi từ những trung tâm hội hát
của Quan họ trong vùng Quan họ và dừng lại tìm hiểu sâu về 3 làng Quan họ Diềm,
Bịu Xim, Bịu Trung. Đặt 3 làng đó trong các làng Quan họ, so sánh, đối chiếu về
những tục lệ gắn liền với sự kết bạn Quan họ, về những hình thức ca xướng Quan họ
gắn liền với dân tộc, về những dấu vết kiêng hèm của Diềm, Bịu để lại trong Quan họ,
cuối cùng là ký ức phổ biến, lâu đời của người vùng Quan họ... Ông đi đến khẳng định:
Ba làng Diềm, Bịu Xim, Bịu Trung là 3 làng nông nghiệp lâu đời nên có sức bảo lưu
46
bền vững về phong tục tập quán. Riêng đối với phong tục tập quán, lề lối Quan họ thì
cho đến nay vẫn là những làng còn nhiều dấu vết đậm nhất của một thời kỳ Quan họ
(Quan họ cổ truyền). Mặt khác, người dân vùng Quan họ vẫn tôn vinh từ xưa: Quan họ
làng Diềm (và các làng kết nghĩa) là Quan họ cổ nhất trong các làng Quan họ cổ.
Như vậy, có thể nói Viêm Xá, với một không gian di tích và lễ hội đầy ắp
những huyền thoại về dân ca Quan họ sẽ còn là một trung tâm hội hát đáng tự hào
của vùng Quan họ Kinh Bắc.
2.2. XÃ HỘI QUAN HỌ LÀNG
XuÊt ph¸t tõ mét c¸i nh×n tæng thÓ th× x· héi Quan hä lµng (XHQHL) Viªm
X¸ lu«n lu«n tån t¹i ba thành phần ®an xen nhau. Ba thành phần ®ã lµ: thành phần
đa số các dân cư, thành phần hậu thuẫn trực tiếp và thành phần các nghệ nhân.
2.2.1. Thành phần đa số các cư dân trong làng
Thành phần đa số các cư dân trong làng là thành phần đông đảo nhất để tạo
nên một xã hội Quan họ, không phân biệt tuổi tác, giàu nghèo và địa vị xã hội. Có
thể thấy cái nét đẹp lạ lùng của Viêm Xá chính là sự bình đẳng đến hồn nhiên của
tất cả mọi người về quyền được yêu thích và hưởng thụ những giá trị tinh thần mà
các sinh hoạt Quan họ đem lại. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy từ trong lịch sử
và cả trong hiện tại khi một sinh hoạt Quan họ đợc tổ chức, dù trong ngày hội, trong
đám khao, trong một cuộc thi ca hát nào thì sinh hoạt này đều được dành cho tất cả
mọi người. Ở đây người ta có thể thấy những người có chức sắc, những ông chủ
giàu có, những cụ Thượng trong làng, những người dân bình thường nhất, những
em bé... cùng xem, cùng bình phẩm, cùng cổ vũ và cùng tham gia vào sinh hoạt, nếu
có thể. Cho nên từ trong tiềm thức người dân, Quan họ chính là tài sản tinh thần
chung của cả làng; Quan họ đem lại sự ngọt ngào ấm áp cho tình cảm con người,
củng cố sự gắn kết cộng đồng, mở rộng sự giao lưu với xã hội bên ngoài... Bởi thế
sự trân trọng dành cho Quan họ đã trở thành tình cảm ứng xử thường nhật của mỗi
người dân nơi đây và có lẽ cũng vì thế mà vô cùng bền chặt, sâu sắc.
Từ sự yêu thích, trân trọng hết sức tự nhiên, tự nguyện ấy, người dân Viêm Xá
luôn sẵn sàng vun đắp, nâng đỡ những hoạt động Quan họ của làng hay do làng
đăng cai mỗi khi có hội hè, đình đám... Sẽ là những nghĩa cử đã trở nên rất bình
thường ở Viêm Xá khi bạn thấy những người dân trong làng đem tặng cho những
47
liền anh liền chị Quan họ của mình từng gánh gạo, từng bọc tiền, những bộ quần áo
ngày hội, những chiếc nón quai thao duyên dáng được chế tác cầu kỳ; và ít hơn,
mộc mạc hơn lại có thể chỉ là một con gà, một mớ rau để làm cơm mời người kết
giao Quan họ. Như vậy rõ ràng đông đảo những người dân Viêm Xá đã đóng vai trò
chủ yếu trong việc nuôi dưỡng vật chất và nâng đỡ tinh thần để giữ gìn và phát triển
dân ca Quan họ. Mặt khác, toàn bộ cái phần cơ bản nhất của văn hóa làng xã hội tụ
ở đội ngũ này, trải qua thời gian và với tinh thần đam mê thật sự đã được chuyển
hóa vào một nền văn hóa dễ bộc lộ hơn, dễ thấy hơn và dường như lóng lánh hơn,
đó chính là Văn hóa Quan họ. Văn hóa đó sẽ là môi trường và nền móng không thể
thiếu của nghệ thuật ca hát Quan họ và sự thăng hoa của những tài năng nghệ nhân.
2.2.2. Thành phần giữ vị trí hậu thuẫn trực tiếp Ở Viêm Xá từ đầu thế kỷ XX đến nay luôn có một thành phần giữ vị trí hậu
thuẫn trực tiếp giữa một bên là đa số dân làng và một bên là đội ngũ nghệ nhân
Quan họ đích thực. Đội ngũ này không nhiều, theo kết quả điền dã và thống kê thực
địa của chúng tôi thì thường duy trì ở mức 6% dân số của làng vào những năm
trước Cách mạng Tháng Tám và khoảng 3% trong những năm gần đây. Như thế với
dân số Viêm Xá hiện nay là 4.000 người thì sẽ có khoảng trên 100 người thuộc đội
ngũ hậu thuẫn trực tiếp này. Chúng tôi gọi như thế là bởi vì họ đều có tham gia sinh
hoạt ca hát Quan họ, mỗi người thuộc khoảng vài ba chục bài trong số trên 200 bài
ca Quan họ truyền thống, hiểu biết về phong tục - lề lối Quan họ, biết thưởng thức
Quan họ một cách tinh tế, nhưng vì một lý do nào đó thuộc về khả năng phát triển,
hoàn cảnh gia đình nên "giữa đường đứt gánh" song không khỏi tiếc nuối và mang
theo một tâm lý buồn phiền. Chính tâm lý đó đã giúp cho một vài trường hợp trong
số họ phấn đấu để vượt lên hoàn cảnh, nhập trở lại đội ngũ những người nghệ nhân
Quan họ của làng. Cũng phải nói thêm rằng những liền anh liền chị "vượt khó" này
thường là những người ở vào thế o bế về hoàn cảnh như quá nghèo, quá neo đơn
chứ không thuộc những người do kém khả năng phát triển...
Mặc dù đây là đội ngũ có nhiều thiệt thòi trong đời sống Quan họ nhưng vẫn
giữ những vị trí đáng kể có liên quan đến quá trình phát triển của Quan họ Viêm Xá
mọi thời kỳ. Như chúng tôi đã giới thiệu, do có những phẩm chất nhất định về tài
năng và trình độ thẩm định ca hát, nhiều người trong số họ đã giúp cho Quan họ làng
48
phát hiện, bồi dưỡng những hạt nhân năng khiếu mới được lựa chọn từ rất nhiều trẻ
em trong làng. Họ còn là chỗ dựa chuyên môn và tinh thần của đội ngũ các nghệ nhân
trong các cuộc thi hát với các làng khác trong vùng. Thậm chí có người còn trở thành
chủ chứa (Tức là chủ của một nhà đăng cai làm nơi các liền anh liền chị thuộc bọn
Quan họ trong làng mời làng khác đến hát canh, dùng cơm, hoặc có thể còn ngủ lại
qua đêm để hôm sau hát tiếp. Chủ chứa ở đây không mang ý nghĩa xấu như vẫn
dùng ở ngoài vùng Quan họ) Quan họ, có người trở thành tác giả đặt lời "bẻ làn nắn
điệu" và góp phần cung cấp những bài Quan họ "độc" (Là bài đợc đặt lời mới thường
là trên cơ sở một giọng lề lối cổ mà khi hát lên đối phương bị bất ngờ, khó đối lại)
cho các nghệ nhân để cầm chắc phần thắng tại các cuộc thi hát đối đáp Quan họ trước
những đối thủ danh tiếng trong vùng.
2.2.3. Thành phần các nghệ nhân Quan họ Đây là thành phần tinh hoa của Quan họ - đội ngũ làm chủ trong các sinh
hoạt văn nghệ Quan họ của làng, có trình độ "chơi Quan họ" (sành điệu Quan họ) và nhận lãnh trọng trách "đem chuông đi đấm nước người" ở các làng Quan họ khác. Ngày nay chúng ta gọi những người thuộc đội ngũ này bằng cụm từ "Nghệ nhân Quan họ" dựa vào sự thừa nhận mặc nhiên của dân chúng trong làng, ngoài làng thông qua trình độ và sự đóng góp nghệ thuật của họ.
Như vậy, sự phân biệt giữa đội ngũ các nghệ nhân Quan họ với các lực lượng khác của xã hội Quan họ (cụ thể là các đội ngũ 1 và 2 đã trình bày ở trên) chính là sự phân biệt giữa một bên có trình độ chơi Quan họ và một bên ở trình độ hiểu biết Quan họ. Từ hiểu biết Quan họ để tiến tới chơi Quan họ là cả một chặng đường dài tôi luyện, học hỏi và vì vậy nhiều khi là cái ngưỡng khó có thể vượt qua nếu thiếu vắng yếu tố năng khiếu ở mỗi người; có lẽ tầm quan trọng của người nghệ nhân Quan họ và lý do để họ được yêu mến cũng còn là ở chỗ đó.
2.3. KẾT BẠN QUAN HỌ Quan họ, từ trong cội nguồn đã gắn liền với hát giao duyên, kết bạn. Một sinh hoạt Quan họ hoàn chỉnh, đích thực phải là một sinh hoạt diễn ra giữa hai bên (hai bọn, hai làng) đều là Quan họ trong vùng. Với Quan họ, sự kết bạn còn quan trọng tới mức nhiều khi nó quy định lối chơi, nội dung lời ca và cả nghệ thuật ca hát cùng các sinh hoạt mang tính tục lệ, quy ước bởi vì hai làng, hai bọn bao giờ cũng phải có sự thống nhất nào đó khi vào cuộc sinh hoạt.
49
Việc kết bạn giữa hai làng của Quan họ khác giới đều có ở 49 làng Quan họ nhưng ở mỗi làng mỗi khác. Có làng kết bạn Quan họ trên cơ sở của kết chạ, có làng chỉ thuần túy là kết bạn. Kết chạ hay còn gọi là kết ước, kết nghĩa giữa hai làng thường có nguyên nhân liên quan đến những nhân vật được thờ phụng ở đình như Thành hoàng, các nhân vật nổi tiếng, có danh vọng ở hai làng hoặc liên quan đến việc dân hai làng giúp đỡ nhau trong lúc gặp khó khăn, hoạn nạn hay trong lao động, sản xuất v.v... Theo tác giả Trần Linh Quý, các làng Quan họ như Bò Sơn, YNa thờ chung một Thành hoàng làng Hắc Quang Quý Minh nên kết nghĩa truyền đời; làng Khúc Toại kết ước với làng Me vì có năm lụt, sắc phong Thánh và bài vị của đình Me trôi về Khúc Toại được dân làng vớt lên thờ ở đình, do đó hai làng trở thành "dân anh, dân em" (từ dùng trong Quan họ kết chạ hai làng); hay làng Lũng Giang kết nghĩa với làng Tam Sơn vì dân Lũng Giang được dân Tam Sơn giúp việc kéo gỗ làm đình... " Nét chung của sự kết ước, kết chạ này là hai dân đối xử với nhau rất trọng vọng, quý mến và có sự gắn bó khăng khít tương trợ lẫn nhau". Trong xưng hô cũng rất trân trọng, lễ nghĩa: dân làng này gọi dân làng kia là "dân anh, chạ anh..." và xưng là "dân em, chạ em"; đến lượt mình dân làng kia cũng gọi dân làng này là "dân anh, chạ anh" và xưng em [82, tr.55-56].
Quan họ Viêm Xá có mối quan hệ kết bạn với Bịu, Đống Cao. Bịu là danh từ chỉ chung ba làng thuộc huyện Tiên Sơn (cách Viêm Xá chừng 11 km) gồm: Bịu Trung, Bịu Xim, Bịu Thượng, nhưng Quan họ Viêm Xá chỉ kết bạn với hai làng Bịu Trung và Bịu Xim, chúng tôi gọi gọn là Bịu. Còn Đống Cao thuộc Yên Phong (cách Viêm Xá chừng 6 km) vừa là làng Quan họ cổ vừa nổi tiếng về nghề làm giấy. Khi nghiên cứu về sự kết bạn Quan họ giữa các làng, nhiều nhà nghiên cứu nhất trí cho rằng có thể nhận thấy hai loại kết bạn: Một loại gọi là kết bạn truyền đời và một loại gọi là kết bạn không truyền đời. Tình bạn Quan họ giữa nghệ nhân các làng Viêm Xá - Bịu, Viêm Xá - Đống Cao là tình bạn tiếp nối liên tục của nhiều thế hệ, truyền đời từ đời này sang đời khác, luôn luôn bền vững và kéo dài từ hàng trăm năm, đến mức ngày nay ngay cả dân sở tại các làng này cũng không còn xác định được thời điểm kết bạn (Có một số truyền thuyết về tục kết bạn của Viêm Xá - Bịu - Đống Cao. Các truyền thuyết kể có nét khác nhưng đều với một cốt chung là hai người bạn khác làng chơi thân với nhau và đều thuộc nhiều bài hát. Mỗi người thường dạy cho con cháu ca hát để những khi họ gặp nhau con cháu hai làng lại ca hát để chúc
50
mừng). Sự liên tục, bền vững này chỉ có ở rất ít các làng Quan họ đã đóng vai trò to lớn để duy trì một nề nếp và độ ổn định của lối chơi Quan họ Viêm Xá - Bịu - Đống Cao.
Thông thường, như lưu truyền trong dân gian vùng Quan họ, tục kết bạn Quan
họ thường được thực hiện theo một qui trình như sau:
- Bọn Quan họ nam làng này đi chảy hội hoặc tham gia một sinh hoạt Quan
họ nào đó, qua tìm hiểu, gặp gỡ và để ý một bọn Quan họ nữ của làng khác cũng
tham gia vào các sự kiện Quan họ đó...
- Bọn Quan họ nam mời hát, thăm dò ý tứ, đường ăn nếp ở trong giao tiếp của
bọn Quan họ nữ mà mình đã để ý, lựa chọn và ngỏ lời muốn kết bạn. Tiếp nhận lời
ngỏ ý rất ý nhị ấy, bọn Quan họ nữ bàn bạc với nhau, nếu thấy ưng thì đồng ý và
hẹn thời gian để đặt vấn đề chính thức về ý muốn kết bạn.
- "Đến hẹn là lên", đại diện bọn Quan họ nam đến nhà đại diện bọn Quan họ nữ,
gặp cả cha mẹ và người đại diện Quan họ nữ để ngỏ lời xin được kết bạn Quan họ.
- Tiếp đến, bọn Quan họ nam chọn ngày đẹp, sửa cơi trầu, tuần hương đến làm
lễ tại đình làng bọn Quan họ nữ với ý tứ là công khai việc xin kết bạn và mong được
sự thừa nhận, ghi nhận một cách tự nhiên, vui vẻ của các vị chức sắc, người dân
trong làng dưới sự chứng kiến của thánh, thần.
- Đến đây, cả hai bọn Quan họ nam nữ sẽ hẹn ngày để bọn Quan họ nữ đến
làng bọn Quan họ nam. Tuy nhiên,bọn Quan họ nữ không phải làm các thủ tục nghi
lễ như khi bọn Quan họ nam đến làng bọn Quan họ nữ. Một canh hát được mở ra
đêm hôm đó với sự thân tình, ấm áp hàm chứa nhiều ý nghĩa của quan hệ tình người
thông qua lời ca tiếng hát theo một cách rất riêng của người Quan họ.
- Rồi đến ngày bọn Quan họ nam kéo sang làng bọn Quan họ nữ kết bạn và
cũng có một canh hát thâu đêm suốt sáng...
Như vậy, hai bọn Quan họ nam và nữ của hai làng đã trở thành bạn và từ đó
xuân thu nhị kỳ, trong các lễ hội, các việc làng, việc gia đình của nhau, các liền anh
liền chị kết bạn thường hay hát với nhau, cùng nhau hát với những bạn Quan họ
khác khi có dịp gặp gỡ, giao lưu. Theo chúng tôi tìm hiểu qua các Cụ thượng của
làng Viêm Xá là cụ Ngô Thị Hoàn, cụ Nguyễn Văn Thị (nay đều đã mất ở tuổi trên
100) thì được biết, như các cụ nói: "Tuần tự kết bạn ấy thì làng Quan họ nào trong
51
vùng cũng đều làm như thế cả thôi". Tuy nhiên, cũng mỗi làng mỗi vẻ nhưng có
khác cũng chỉ là tiểu tiết.
Quan họ Viêm Xá còn có tục đón bạn ở nhà chứa vào các dịp lễ - tết - hội, đặc
biệt là trong hội Vua Bà. "Nhà chứa" như chúng tôi đã có dịp trình bày là tên gọi của
nơi mà các nghệ nhân Viêm Xá chọn làm địa điểm đón tiếp các Quan họ bạn đến hát ở
làng mình. Những nhà đăng cai làm nhà chứa thường là những nhà rộng rãi, chắc chắn,
tiện lợi cho sinh hoạt đông người. Đặc biệt chủ nhà chứa phải là nghệ nhân hoặc người
rất yêu Quan họ, tính tình cởi mở, hiếu khách và am hiểu các sinh hoạt Quan họ. Mối
quan hệ giữa chủ nhà chứa và các nghệ nhân thường là rất tình cảm, thậm chí cha
truyền con nối như anh em ruột thịt. Hình thức "nhà chứa" còn thịnh hành ở chặng đầu
thế kỷ, điển hình như nhà cụ Lý Tỳ, sau đến con dâu là bà Khu. Mỗi bọn Quan họ
Viêm Xá thường có một, hai nhà chứa, nhà chứa của nam riêng, của nữ riêng. Trong
khi đó phần lớn các làng Quan họ khác đều đón bạn theo phân công hoặc đăng cai của
bản thân các nghệ nhân trong bọn, rồi cứ thế quay vòng hầu như ai cũng một lần tiếp
bạn tại nhà, vì thế địa điểm không cố định được như ở Viêm Xá.
Ở Viêm Xá, quy trình khép kín của một cuộc tiếp bạn Quan họ kết nghĩa có nhiều
điểm không giống các làng Quan họ khác và tuần tự như sau: - Quan họ Viêm Xá cử hai
đôi (một đôi nam, một đôi nữ) xuống Bịu hoặc Đống Cao để mời bạn và sau đó Quan họ
khách sẽ lên Quan họ chủ cũng với cặp đôi nghệ nhân như vậy. Còn ở các làng khác
vùng Quan họ chỉ cử một đôi nam hoặc một đôi nữ đi mời cũng một đôi nữ hoặc một đôi
nam của làng kết nghĩa, ví dụ như Khả Lễ - Bồ Sơn, Lũng Giang - Tam Sơn...
- Sau khi đưa Quan họ bạn đi hát chúc và lễ thờ ở đình làng mình, các liền anh
liền chị Quan họ Viêm Xá đưa bạn về nhà chứa làm các thủ tục chào, mời, tặng quà
(nếu có) và vào canh hát. Sau canh hát là mời cơm vào khoảng giờ ngọ hoặc 1, 2 giờ
sáng (Theo lời kể của cụ Các thì cơm Quan họ mời bạn kết nghĩa nấu bằng nồi đồng
và để nguyên không đánh tơi như cơm ăn bình thường. Sở dĩ như vậy là vì các nghệ
nhân cho rằng đánh tơi là Quan họ tan, là tình bạn không bền chặt. Người Quan họ
ăn rất ý tứ, khiêm nhường và phải tránh động bát động đũa, vì nếu động Quan họ sở
tại "tưởng thôi" sẽ dọn mâm đi. Bữa cơm Quan họ ăn khá lâu vì "bưng một bát,
hát ba câu"). Theo tác giả Trần Linh Quý thì Quan họ Viêm Xá gọi cơm chứ không
52
gọi cỗ vì trong bữa "tuyệt nhiên không có uống rượu". Nhưng kết quả điền dã của
chúng tôi lại cho thấy thực tế không khắt khe đến thế. Mặt khác, việc gọi cơm chứ
không gọi cỗ ở Viêm Xá có hai ý kiến khác nhau: một loại ý kiến cho rằng gọi cơm là
một kiểu "rún" (khiêm tốn) và một loại ý kiến trùng với nhận xét của tác giả Trần
Linh Quý kể trên. Về vấn đề này qua tìm hiểu ở một số làng Quan họ, chúng tôi thấy
cũng thường gọi ăn cơm chứ không gọi ăn cỗ. Gọi thế là do ảnh hưởng của Viêm Xá.
- Sau mời cơm, Quan họ hát thêm một hai giờ bằng giọng vặt rồi ăn tiệc nước,
tiệc ngọt, chuyện trò tới sáng.
- Ngày hôm sau, Quan họ hai làng đi thăm gia đình, cha mẹ của nhau rồi tiễn
nhau ra về. Những năm hội lớn có thể hát tiếp đến nửa đêm mới tan.
Như vậy một cuộc hát với bạn kết nghĩa Quan họ của Viêm Xá kéo dài tới hai
ngày hoặc hơn nữa.
Cuối cùng, còn một điểm nữa của sự kết bạn ở Viêm Xá là các liền anh liền
chị kết nghĩa không lấy nhau. Không lấy nhau là tục vốn có ở nhiều làng Quan họ,
nhưng kéo dài và bền vững cho đến gần đây thì chỉ Viêm Xá, Bịu, Đống Cao mới
có. Tục này nghiêm ngặt đến mức được coi là một tiêu chuẩn đạo đức hàng đầu.
Nếu ai vi phạm bị dân làng chê cười và gọi "Quan họ ngang, Quan họ tắt". Theo
chúng tôi được biết thì hiện nay dân Viêm Xá, Bịu, Đống Cao nếu không tham gia
Quan họ thì cũng có thể lấy nhau mà không bị chê cười, song việc kết hôn này
cũng thật hãn hữu.
2.4. DIỄN XƯỚNG QUAN HỌ
2.4.1. Thang bậc nghệ nhân Quan họ
Từ thực tế điền dã, chúng tôi nhận biết, trong bản thân đội ngũ nghệ nhân
Quan họ, tùy thuộc vào năng khiếu và quá trình hoạt động sáng tạo của họ đã hình
thành một số thang bậc về trình độ ca hát. Điều này được thể hiện rất rõ trong các
sinh hoạt ca hát Quan họ vào các dịp lễ - tết - hội và đặc biệt là tại các cuộc thi giật
giải. Theo tác giả Trần Linh Quý, nhà nghiên cứu có thâm niên về Quan họ thì có
thể chia trình độ ca hát này làm ba thang bậc:
- Một là, bộ phận chiếm đa số thường ở trình độ nói như người Quan họ là "ca
đủ lối, đủ câu" hoặc "không thua một lối, không kém một câu".
53
- Hai là, một số liền anh liền chị đạt đến mức "đặt câu, bẻ giọng" hoặc có
giọng hát "vang, rền, nền, nẩy" trở thành những con chim đầu đàn của một làng,
một cụm làng trong sinh hoạt Quan họ.
- Ba là, một số rất ít, vài ba bốn người có những cống hiến xuất sắc cho nghệ
thuật ca hát Quan họ, được toàn vùng Quan họ suy tôn, nổi tiếng một thời.
Về thang bậc thứ nhất "ca đủ lối, đủ câu" có nghĩa là người nghệ nhân đã ở
trình độ thuộc hết các lối giao du Quan họ (mà trong đó ca hát chỉ là một mặt cơ bản)
và có thể hát trên 200 bài ca Quan họ không những có phần lời khác nhau mà còn có
nhạc điệu khác nhau. Chẳng hạn trong số đó có 36 giọng lề lối (bài ca Quan họ cổ) và
còn lại là các bài ca giọng Vặt. Theo thống kê của giới nghiên cứu âm nhạc, cho đến
nay số lượng bài ca Quan họ theo các giọng đã ký âm được khoảng trên 200 bài thì
tương ứng với nó chỉ cần mỗi bài thêm một bản có phần lời ca đối lại thì kho tàng
Quan họ của toàn vùng đã lên tới trên 400 bài. Với khối lượng như vậy mà người
nghệ nhân đảm đương được 50% thì đã là một điều đáng khâm phục.
Về thang bậc thứ hai, đòi hỏi người nghệ nhân không chỉ có tài "đặt câu bẻ
giọng" mà còn phải có giọng hát đảm bảo "Vang, rền, nền, nẩy", tức là đã vươn tới
khả năng không chỉ hát rất hay, rất bài bản, có kỹ thuật (tất nhiên là theo tiêu chuẩn
dân gian chứ không phải là cách thức đánh giá theo tiêu chuẩn nhạc viện) mà còn
phải có khả năng sáng tác các bài ca mới, nghĩa là lao động nghệ thuật đã đạt trình
độ sáng tạo chứ không còn là sao chép, bảo tồn như vốn có. Vậy là đến một giai
đoạn nhất định của sự phát lộ tài năng ở người nghệ nhân đã hội đủ hai vai trò: vừa
là nghệ nhân biểu diễn thành thục vốn dân ca truyền thống vừa là người nghệ nhân
sáng tác. Hoạt động nghệ thuật của đội ngũ này bởi vậy chính là cơ sở đầy đủ nhất
cho quá trình vừa bảo lưu vừa phát triển dân ca Quan họ mọi thời kỳ. Đứng trong
hàng ngũ nghệ nhân tiêu biểu ở thế kỷ này của làng Viêm Xá và có tầm ảnh hưởng
toàn vùng phải kể đến các cụ như cụ Tước, cụ Hoạch, cụ Hừu, cụ Ruộng, cụ Tần, cụ
Tập (tức cụ Hới). Trong đó cặp các cụ nghệ nhân Hừu - Ruộng từng nổi tiếng khi
hát bài Hừ la được coi là cổ nhất trong các bài Quan họ cổ và cũng là khó hát bậc
nhất với nhiều hư từ phức tạp mà chỉ ở những bài Quan họ tối cổ mới có; hoặc cụ
Tập có thể hát rất hay những bài Quan họ đồng thời cũng có thể vừa đàn vừa hát rất
54
"ngọt" những bài Xẩm... Nhưng chúng tôi cũng được nghe các cụ Thượng trong
làng Viêm Xá nhận xét là các nghệ nhân hồi nửa đầu thế kỷ này nhớ nhiều, nhớ kỹ
và vận dụng rất nghiêm chỉnh (thậm chí máy móc) các bài bản Quan họ cổ do thế hệ
trước truyền lại.
Về thang bậc thứ ba dùng để chỉ những "Quan họ cựu" có trình độ xuất sắc,
nổi bật và vượt xa những nghệ nhân thông thường, sớm giữ vị trí có tính chất đầu
đàn, là tấm gương mẫu mực cho những lớp Quan họ sau. Ở Viêm Xá dễ nhận thấy
nét chênh lệch tài năng giữa đội ngũ nghệ nhân thông thường (thang bậc 1, 2) với
đội ngũ xuất sắc này. Nhìn vào thực tiễn hoạt động Quan họ, chúng tôi thấy nếu như
việc thể hiện tài năng của các nghệ nhân thông thường chủ yếu thông qua trình độ
ca hát và một số có thể sáng tác, thì ở nghệ nhân xuất sắc tài năng là rất toàn diện.
Với đội ngũ này có thể nói toàn bộ những tinh hoa của nền văn hóa Quan họ đều
hội tụ ở họ. Họ là kho tàng lưu giữ các bài ca Quan họ đồng thời là những tấm
gương mẫu mực, thuần thục trong các sinh hoạt văn hóa Quan họ, như giao tiếp, lề
lối, phong tục,... đặc biệt là nghệ thuật diễn xướng. Họ là những người biết và có
khả năng làm giàu cho ca hát Quan họ từ việc vận dụng những tinh hoa của các loại
hình dân ca dân gian khác vào Quan họ. Và cuối cùng là một phẩm chất quan trọng
nhất, ấy là tinh thần gắn bó suốt đời với Quan họ, đắm đuối và hết mình vì Quan họ.
Có thể nói với các nghệ nhân này, Quan họ là máu thịt của họ, là toàn bộ niềm
vui, nỗi buồn của cuộc đời họ. Có lẽ bởi thế, do tất cả những gì hội tụ ở họ đã góp
phần cơ bản làm nên và duy trì hẳn một phong cách, một lối sinh hoạt Quan họ
riêng cho làng cổ Viêm Xá. Mỗi làng Quan họ cổ (khoảng 27 làng trong tổng số 49
làng Quan họ) đều có một đội ngũ xuất sắc tinh hoa như vậy nên ngoài cái chung, ta
lại nhận thấy cái riêng của mỗi làng. Chẳng hạn như một nhận xét khá sắc sảo tinh
tế về cái riêng của các làng: người ta có thể tìm thấy sự bay bướm, tài hoa trong ca
hát của Quan họ Thị Cầu; sự mềm mại, ngọt ngào, thanh nhã trong ca hát của Quan
họ Đống Cao; sự mộc mạc, lề lối, mực thước trong ca hát của Quan họ Viêm Xá
v.v.. Nhưng đúng là tinh thì khó đa nên mỗi làng Quan họ cổ thường chỉ có được
vài ba người ở thang bậc thứ ba, thậm chí có làng lên tới năm bảy chục nghệ nhân
mà không có nổi một người. Theo thống kê thì cho đến thập kỷ 70 toàn vùng Quan
55
họ chỉ còn khoảng 100 nghệ nhân thuộc thang bậc trình độ ca xướng này. Ở Viêm
Xá trong thế kỷ XX cũng chỉ có vài ba người mà tiêu biểu trong số đó là cụ Bánh
(mẹ) và cụ Tập của thập niên nửa đầu thế kỷ XX. Về những năng lực văn nghệ đặc
biệt của các cụ, có tài liệu nghiên cứu đã viết: "Cụ Bánh (mẹ) không những thuộc
toàn bộ văn lời ca của những tích Chèo "Quan Âm Thị Kính", "Trương Viên", "Lưu
Bình Dương Lễ", thuộc tất cả các bài ca nhà tơ hát ở đình Diềm, mà còn thuộc hàng
nghìn câu về kể hạnh, về hát đưa tang, hát tích nhà Phật, đặc biệt là còn thuộc lòng
rất nhiều truyện Nôm "kể hàng tháng không hết". Với truyện Kiều cụ có thể đọc
xuôi đọc ngược..." và cụ cũng diễn rất tài những tích truyện ấy. Còn cụ Tập "có thể
hát nhiều điệu Xẩm, vừa hát vừa gõ nhịp bằng tay, vừa "kéo hồ, nhị đệm" bằng cách
phát âm miệng". Với một trí tuệ như vậy việc lĩnh hội và ghi nhớ một hai trăm câu
Quan họ là điều hoàn toàn không khó khăn.
2.4.2. Hát canh
Hát canh trong nhà chứa của Quan họ làng Viêm Xá và các làng kết bạn Bịu
Xim, Bịu Trung và Hát canh của các làng Quan họ còn lại trong 49 làng Quan họ
thường không có gì khác nhau về tổng thể vì đều là hát lề lối, theo những qui định
nghiêm ngặt của lối chơi chung toàn vùng Quan họ. Tuy nhiên, khi tìm hiểu một
canh hát Quan họ cổ truyền thì giới nghiên cứu và những người quan tâm tìm hiểu
quan họ cổ truyền đều tìm đến "cách hát" của người Viêm Xá - nơi được tôn vinh là
làng cổ của các làng cổ Quan họ và làng thủy tổ Quan họ của toàn vùng Quan họ
Bắc Ninh.
Như chúng tôi đã trình bày ở những phần liên quan khác nhau của Luận án,
khi làng Viêm Xá mở lễ hội, đám thứ trong năm, nhất là hai mùa xuân thu nhị kỳ thì
bao giờ cũng phải mời các làng Quan họ, trước hết là làng Quan họ kết nghĩa như
Bịu, Đống Cao đến dự Hội và giao lưu ca hát, có khi vài ba ngày vào những năm
được mùa mở hội to. Trong các hình thức hát Quan họ, bao giờ hình thức Hát canh
trong nhà chứa giữa các Quan họ kết nghĩa cũng là sinh hoạt trọng tâm và bài bản,
lề lối nhất của sinh hoạt diễn xướng Quan họ.
Ở Viêm Xá xưa, sau khi đón Quan họ bạn vào đình hoặc đền để làm lễ thờ
xong, Quan họ Viêm Xá thường mời Quan họ kết bạn đi dự hội, hát hội, rồi sau đó
56
mời về nhà chứa để Hát canh. Hát canh có thể được tổ chức vào ban ngày nhưng
thường là tổ chức vào ban đêm. Người Quan họ vẫn có câu: "Hát canh lần này diễn
ra thâu đêm suốt sáng" là vì thế. Hình thức của Hát canh là hát đối đáp từng cặp đôi
Quan họ nam, nữ (tức hai nam, hai nữ của hai Quan họ bạn) theo cách thức là hát
đối giọng. Đối giọng là bọn Quan họ hát sau lấy bài có cùng giai điệu với bài ra của
bọn Quan họ hát trước nhưng khác lời để đối lại.
Như ở trên đã trình bày, do tính lề lối cao nên trình tự của một canh hát diễn
ra ở Viêm Xá cũng như ở các làng Quan họ khác thường rất ổn định, ít thay đổi. Cụ
thể, khi chúng tôi đối chiếu kết quả điền dã của nhóm các nhà nghiên cứu như Hồng
Thao, Trần Linh Quý, Đặng Văn Lung từ những năm của thập kỷ 60, 70 thế kỷ XX
với kết quả điền dã của chúng tôi vào những năm của thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX
và cả sau này của những năm đầu thế kỷ XXI, thì kết quả cho thấy trình tự của một
canh hát Quan họ hầu như không có thay đổi mặc dù phong cách thể hiện của mỗi
làng mỗi khác do đặc thù làng xã và trình độ không giống nhau. Trình tự canh hát
đó được diễn ra như sau:
- Chặng mở đầu (có người gọi chặng đầu tiên). Ở chặng này các Quan họ
bao giờ cũng hát giọng lề lối (giọng cổ). Theo kết quả điền dã từ những năm cuối
thập niên 50, đầu thập niên 60 của nhóm tác giả Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú,
Nguyễn Viêm, Tú Ngọc thì những bài lề lối này thường là 05 giọng: Hừ la, La
rằng, Đường bạn, Tình tang, Cây gạo, Cái ả (trên tổng số khoảng 36 giọng như dân
gian truyền tụng). Các nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng các giọng Quan họ cổ
thường chậm dãi, nhiều tiếng đệm lót. Giọng La rằng trong chặng mở đầu này đóng
vai trò điều chỉnh trường độ, cao độ của cả canh hát, do vậy nếu hát không đạt sẽ có
thể dẫn đến phá hỏng canh hát. Đây cũng là chặng hát bắt buộc mà các liền anh liền
chị không thể bỏ qua khi muốn có một canh hát đầy đủ và hoàn chỉnh.
- Chặng thứ hai (có người gọi là chặng giữa). Ở chặng này thường chiếm
nhiều thời gian nhất do có nhiều bài nhất được ca xướng. Những bài hát ở chặng
này là giọng Vặt hay còn gọi là giọng Lá. Phải nói rằng những bài giọng này
thường hay và dễ đi vào lòng người về mặt chất lượng nghệ thuật âm nhạc. Về
nội dung các bài ca ở chặng này rất phong phú và đa dạng nhưng đều hướng về
57
ca ngợi tình yêu, tình bạn, tình con người với khả năng xử lý ngôn từ, âm nhạc
vừa tinh tế sâu lắng vừa bay bổng diệu kỳ, tạo nên một không gian âm nhạc vừa
chân mộc vừa say đắm.
- Chặng kết (có người gọi là chặng cuối). Ở chặng này, sau những phút nghỉ
để mời Quan họ khách xơi tiệc mặn, tiệc ngọt hoặc ăn trầu, uống nước, các Quan họ
bạn ca những bài ca giã bạn để xin phép ra về vì lúc này có thể là đã rất khuya về
sáng. Đáp lại Quan họ sở tại Viêm Xá cũng ca những bài ca giã bạn nhưng với nội
dung "dùng dằng" muốn níu giữ những người bạn hát. Và cứ như thế không khí
canh hát ở chặng cuối càng thấm đẫm tình người và vô cùng cảm động. Những bài
ca đem lại sự níu kéo ấy thường là những bài: Người ơi người ở đừng về, Chia rẽ
đôi nơi, Tạm biệt từ đây, Kẻ Bắc người Nam, Con nhện giăng mùng...
Sau canh hát, khi ấy thường là đã về sáng, Quan họ sở tại lưu luyến tiễn
Quan họ bạn ra tận đầu làng và nhiều khi còn đi xa hơn nữa trong niềm luyến tiếc
để rồi hẹn nhau ngày trở lại vào lễ hội, đình đám năm sau.
2.4.3. Hát Nghi lễ Quan họ (Cầu đảo, Lễ thờ, Hát mừng)
2.4.3.1. Hát Cầu đảo
Khi tìm hiểu nét đặc trưng cơ bản của hoạt động nghệ nhân Quan họ Viêm Xá
được thể hiện tại lễ hội Vua Bà, chúng tôi thấy vào những thời điểm thịnh hành
nhất, sinh hoạt Quan họ đều tham dự vào hai mảng cơ bản của lễ hội là phần nghi lễ
với hát Quan họ nghi lễ và phần hội với các hình thức hát hội, hát thi (hát giải), hát
canh..., giao tiếp kết bạn. Với phần hội, về tổng quát, các sinh hoạt Quan họ tuân
theo một quy trình chung của vùng Quan họ, còn phần nghi lễ trong đó có hát Quan
họ Cầu đảo (vào những năm thiên tai, hạn hán) đã nổi lên một số điểm đáng lưu ý:
- Dân làng Viêm Xá làm lễ cầu đảo giải hạn - cầu mưa tại đền Vua Bà chứ
không làm lễ tại đình là một điều không giống nhiều làng vùng Quan họ. Điều đó
cũng chứng tỏ vai trò đấng tối cao của Đức Vua Bà không chỉ đơn thuần trong lĩnh
vực Quan họ. Theo lời kể của cụ Ngô Thị Hoàn thì khi có hạn hán, làng thường mở
đền làm lễ tới ba ngày ba đêm.
- Khi hát cầu đảo (vào ban đêm), người ta tập hợp tất cả các bọn Quan họ
trong làng ra đền chứ không phải riêng một bọn nào có được vinh dự đó. Thường
58
thì đêm đó có mõ rao cùng làng cuối xóm rằng: "Trai gái 9 xóm đến đền ca thờ...".
Nội dung của các bài ca dùng cho hát cầu đảo tập trung vào mục đích cầu mưa, đề
cao công đức của Vua Bà. Những bài này được lưu truyền qua nhiều thế hệ, và
không có nội dung tình tứ, yêu đương như hát vui ngày hội. Ví dụ bài La rằng hát
vào lúc mở cửa đền:
Trước đền có một cây đa
Vương Mẫu hạ giới, thực bà chúa Tiên
Trăm năm hương hỏa lưu truyền
Dân vì hạn nắng mở đền cầu mưa.
Đặc biệt hát cầu đảo chỉ dùng các giọng lề lối như La rằng, Cây gạo, Hừ la...
chứ không dùng các bài giọng vặt, trong đó giọng La rằng được sử dụng nhiều nhất.
- Trong sinh hoạt cầu đảo, ngoài việc hát Quan họ cầu đảo như nói ở trên
Quan họ Viêm Xá còn có trò chơi Cướp cầu nước ở trước đền Vua Bà. Để chơi
người làng đào hai lỗ vuông ở phía Đông và phía Tây của sân đền. Quả cầu được
làm bằng gỗ mịn, bóng to hơn quả bòng được quét sơn đỏ tượng trưng cho mặt trời.
Người chủ lễ bước ra trước một chiếc bàn để ở giữa sân trên đặt quả cầu làm lễ
khấn Vua Bà rồi tung quả cầu về phía đám thanh niên. Đám thanh niên đều vận khố
cởi trần xông vào cướp cầu để bỏ vào lỗ. Ai cũng muốn thắng nên cuộc chơi rất
quyết liệt. Khi cuộc chơi kết thúc, quả cầu được thả vào lỗ ở phía Đông, nghĩa là
mặt trời đã vào với đất, âm dương hòa hợp, trời sẽ mưa. Trong cuộc chơi như vậy,
dân làng đến dự rất đông để tỏ lòng khát vọng mong trời đất, đức Vua Bà cho dân
làng được mưa thuận gió hòa.
2.4.3.2. Hát Lễ thờ
Vào ngày làng Quan họ có đám thì Quan họ làng kết bạn thường được mời
đến để gặp gỡ, giao lưu và hát Quan họ. Trước khi vào các cuộc hát có khi là ở hội,
có khi là hát canh trong nhà, các liền anh liền chị sắm lễ hương hoa trầu cau vào
đình sở tại làm lễ. Sau khi đặt lễ cúng thần có sự đón tiếp và chứng kiến của các bô
lão, chức sắc trong làng, các Quan họ thường hát đối đáp một số bài Quan họ theo
giọng La rằng để chúc cho dân làng phúc, lộc, thọ, bình an... Kết thúc phần nghi lễ
59
này, Quan họ hai làng chia nhau đi tham gia các sinh hoạt hội mà chủ yếu là ca hát,
hoặc đến nhà chứa bọn Quan họ sở tại để hát canh. Một nghi lễ như thế Quan họ gọi
là Hát lễ thờ hoặc Hát chúc.
Hát lễ thờ ở đình của Quan họ Viêm Xá có điểm tương đồng với hát cầu đảo
ở đền và đều là hát nghi lễ. Đáng chú ý là tục Hát lễ thờ khi đến hát Quan họ nơi kết
bạn có ở nhiều làng Quan họ nhưng chỉ Viêm Xá và các làng kết ước như Bịu,
Đống Cao mới có hát Quan họ lễ thờ dưới hình thức đối đáp nam nữ giữa nghệ
nhân sở tại và nghệ nhân Quan họ bạn. Khi hát ở đình các nghệ nhân cũng chỉ dùng
các giọng lề lối và chỉ quan tâm vào nội dung của bài hát chứ không chú trọng đến
tính chất mượt mà chải chuốt của lời ca.
2.4.3.3. Hát mừng Trong sinh hoạt của làng xã cổ truyền thường có nhiều sự kiện vui gắn
bó với làng xóm, gia đình, cá nhân như ngày cưới, ngày lên lão, đi thi đỗ đạt,
thăng quan tiến chức, sinh con trai... thì dân làng, các gia đình thường tổ chức
những nghi lễ cảm ơn trời đất, những bữa cơm linh đình vui vẻ để mời họ hàng,
bạn bè làng xóm đến ăn mừng. Ở Viêm Xá và phần lớn các làng Quan họ đều tổ
chức các canh Quan họ để hát mừng. Vì là vui và để tạo không khí thoải mái
cho những người tham dự các canh hát thường là không quá chặt chẽ theo lề lối
mà chủ yếu là những bài ca giọng Vặt có nội dung chúc mừng vui vẻ, hân hoan,
sâu nặng nghĩa tình làng trên xóm dưới. Tuy nhiên,ở Viêm Xá và các làng kết
bạn có điểm khác là tính chất lề lối vẫn rõ hơn. Chẳng hạn, trước khi hát bọn
Quan họ sắm lễ, sắm quà đến nhà gia chủ và kết hợp hát một vài câu La rằng
có nội dung chúc mừng, chúc những điều tốt đẹp phù hợp với nội dung sự kiện
đang được tổ chức. Ví dụ, trong đám cưới ở Viêm Xá thường có câu hát mừng
theo giọng La rằng:
Chúc mừng tổ ấm gia tiên
Mừng cho anh chị kết duyên Châu Trần
Hôm nay ngày tốt tháng lành
Mừng cho anh chị thật là đẹp đôi
Miễn là trong cuộc hát có sự tham gia của cả nam cả nữ, có hát đối đáp.
Quan họ Hát mừng cũng có thể kéo dài thâu đêm suốt sáng và tuyệt đối tránh việc
60
hát những bài Quan họ có tính chất buồn, ai oán, nhất là những bài có nội dung than
thân trách phận.
2.4.4. Hát hội
Như chúng tôi đã trình bày ở phần đầu chương này của Luận án. Vùng Quan
họ thì làng nào cũng có lễ hội, nhưng có tới 4 lễ hội trong 01 năm và kéo đủ cả xuân
thu nhị kỳ thì chỉ làng Quan họ Viêm Xá mới có. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân
gian thống nhất rằng lễ hội là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng chủ yếu của nông
thôn Việt Nam, một thời điểm mạnh của sự bộc lộ, thăng hoa những thành quả văn
hóa làng xã vun đắp từ nhiều đời bao gồm cả văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất
thì đối với Quan họ cũng vậy. Lễ hội chính là môi trường, là thời điểm mạnh để
Quan họ bộc lộ, phô diễn và đơm hoa kết trái. Đối với Viêm Xá, cũng như các làng
Quan họ khác, lễ hội chính là thời điểm, thời khắc để hội tụ đầy đủ nhất những hình
thức SHVHQHL vốn có. Mặt khác, cũng là dịp để các hình thức ca hát ấy được
chuẩn bị đầy đủ, chu đáo và háo hức phô diễn nhất, từ hát hội, hát canh, hát thờ, hát
mừng đến cả trang phục, giao tiếp-ứng xử. Mọi thứ đều được chuẩn bị với tất cả
những gì có thể theo đúng tinh thần rất riêng của người Quan họ. Tinh thần đấy hội
tụ đầy đủ trong câu giao đãi nổi tiếng “Đến hẹn lại lên” - Câu nói đã góp phần làm
nên sự độc đáo, làm nên "thương hiệu" văn hóa của một loại hình dân ca đặc sắc
của đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
Đối với Viêm Xá và các làng kết bạn với Viêm Xá, trong ngày hội tất cả các
hình thức ca hát Quan họ đều có dịp phô diễn trong mối quan hệ giao lưu kết bạn
với các bọn Quan họ, giao lưu với người dự hội, phục vụ các nghi lễ, nghi thức của
ngày hội theo yêu cầu của làng xã…, chẳng hạn:
- Hát chúc, Hát thờ trong các nghi lễ mở và đóng cửa đình, cửa chùa, cửa
đền, (trong ngày khai hội, kết hội); trong các cuộc đón bọn Quan họ, bạn vào đình,
đền, chùa… làm lễ, dâng hương thần, thánh sở tại trước khi dự hội, hát canh…
- Hát trong hội trên bộ mà địa điểm rất đa dạng khi thì trên núi (Viêm Xá có
núi Kim Sơn), khi thì giữa hội (sân đình, sân đền), khi thì đi dọc bờ sông trên triền đê
xanh biếc những nương dâu - hình ảnh đặc trưng của những làng quê có nghề canh
cửi, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa vùng Kinh Bắc xưa; khi thì từng cặp đứng hát dưới
61
bóng cậy cổ thụ trong làng… Tất cả đều là hát đối đáp giao duyên, tình cảm bằng
những bài giọng vặt mà không nệ vào lề lối, niêm luật. Như vậy, rất phù hợp với
không khí phóng khoáng, vui tươi của ngày hội, khác nhiều với hát canh trong nhà.
- Hát dưới thuyền ở sông Cầu (sau làng), ở ao đình (trước cửa đình)... có thể
là từ 2 đến 4 chiếc thuyền thúng mà trên mỗi thuyền chở 2 đôi Quan họ nam nữ.
Một đôi Quan họ sở tại, một đôi Quan họ bạn). Họ ngồi trên thang thuyền, đối diện
nhau, hát đối đáp rất vui và tình tứ…
- Sau khi hát và chơi ở trung tâm hội, Bọn Quan họ làng Viêm Xá mời Quan họ
bạn vào nhà chào hỏi cha mẹ, người thân rồi đến nhà chứa để chuẩn bị cho một canh
hát thường là “thâu đêm suốt sáng” như ở các nội dung phần trên chúng tôi đã đề cập,
nghĩa là rất lề lối, chặt chẽ (một quy trình khép kín mang đậm tính truyền thống).
Như vậy Quan họ hát hội có hình thức là hát để giao lưu với số đông người dân
đến chơi hội như hát đối đáp trên bộ, dưới thuyền mà địa điểm rất đa dạng, tùy thuộc vào
khung cảnh, bối cảnh của ngày hội và hát vào ban ngày. Còn hát thờ cũng là hát trong
ngày hội nhưng diện giao lưu thì hẹp hơn, trang trọng hơn, ít sôi nổi hơn vì gắn với tâm
linh nơi thờ tự. Riêng hát canh trong ngày hội cũng thường hát về ban đêm và là hình
thức diễn xướng chủ đạo, trung tâm của nghệ thuật diễn xướng Quan họ.
Ở Viêm Xá, giờ phút chia tay kết thúc lễ hội (dã đám, đóng cửa đình, cửa
đền) cũng được diễn ra thông qua những bài hát giã bạn, thể hiện sự lưu luyến,
những tình cảm sâu nặng của người Quan họ, của Quan họ bạn với nhau. Những
câu hát “người ơi người ở đừng về” ấy luôn đọng mãi trong tâm khảm của những
liền anh, liền chị Quan họ bạn kết nghĩa với Viêm Xá.
2.5. VĂN HÓA GIAO TIẾP, ỨNG XỬ VÀ TỤC KIÊNG HÈM
2.5.1. Văn hóa giao tiếp, ứng xử
Như chúng ta đều thấy, khi bàn đến văn hóa là bàn đến con người. Cũng như
vậy, bàn đến văn hóa Quan họ tức là bàn đến con người Quan họ. Vùng Quan họ có
một khái niệm đặc biệt hay, gắn liền với sinh hoạt ca hát Quan họ. Đó là khái niệm
“Người Quan họ”. Người vùng này, đặc biệt là Viêm Xá, thường mở đầu sự giao
tiếp với khách thập phương bằng câu nói: “Người Quan họ chúng em…". Khó có
thể thấy ngoài Quan họ, có bất cứ một loại hình dân ca nào có hiện tượng văn hóa xưng
62
hô độc đáo như vậy. Có thể thấy, từ một kiểu xưng hô cho ta hiểu và cảm nhận về một
sự định danh, định vị nào đó của con người Quan họ - về một “kiểu” người văn hóa có
tính bản sắc riêng. Bản sắc văn hóa đó là sự hội tụ muôn mặt của đời sống vật chất và
tinh thần mà con người nơi đây đã trải qua với thời gian hàng thế kỷ. Trong cái muôn
mặt của đời sống ấy có sự góp mặt quan trọng của văn hóa giao tiếp và ứng xử. Phong
cách, thái độ của người Quan họ được thể hiện qua các hành vi giao tiếp, ứng xử cả
trong đời thường lẫn trong ca hát Quan họ và đã trở thành thuần phong mỹ tục của một
vùng đất. Về vấn đề này nhà nghiên cứu Trần Linh Quý viết:
Nề nếp Quan họ đòi hỏi mọi người khi đã đến với Quan họ đều phải lịch
sự, trang nhã từ trang phục, cử chỉ, ngôn ngữ, khi ăn, nói, lúc đứng
ngồi… cho đến miếng trầu, chén nước. Cho nên giao tiếp trong ca hát
Quan họ là một mảng đẹp trong văn hóa lối sống, văn hóa giao tiếp của
một thời [82, tr.48].
Ở Viêm Xá cũng như phần lớn các làng Quan họ khác trong vùng, văn hóa
giao tiếp, ứng xử cổ truyền về cơ bản là giống nhau, dù đối với từng làng cũng có
điểm riêng nhưng không thật khác biệt. Cụ thể, có thể thấy:
- Người Quan họ luôn đề cao một cách rất tự nhiên nguyên tắc “tôn lẫn kính
chung” trong giao tiếp Quan họ. Có nghĩa là tôn trọng và bình đẳng trong giao tiếp,
cả sinh hoạt đời thường và trong ca hát. Chúng ta đều biết trong lề lối chơi Quan họ
bao giờ cũng là hát đôi và là đôi nam hát với đôi nữ; nam giao đãi với nữ và nữ
cũng giao đãi với nam. Ở các loại hình dân ca khác thì thường đã là nam là xưng
anh với nữ, còn nữ thì xưng em với nam như một lẽ tự nhiên không thể khác. Ví dụ:
Hôm qua anh đến chơi nhà
thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường
thấy em nằm đất anh thương
(Hát ví [90, tr.88])
hoặc:
Trăm năm em quyết đợi chờ
Cầm bằng tóc bạc như tơ cũng đành
(Trống quân [90, tr.88])
63
Nhưng trong cách xưng hô của người Quan họ, bao giờ các liền anh liền chị
cũng tôn vinh bạn chơi của mình là anh, là chị và xưng em hoặc chúng em, bất luận
tuổi tác, trình độ và dù còn sống trong một xã hội rất khắt khe trong quan niệm trọng
nam khinh nữ như xã hội phong kiến Việt Nam trước năm 1945. Ví dụ: tác giả Trần
Linh Quý đã ghi lại một đoạn đối thoại của các nghệ nhân Quan họ như sau:
- Đã lâu ngày Quan họ không về chơi, hôm nay chúng em mời Quan họ
đến chơi bên chúng em, trước là thầy mẹ chúng em mừng, sau là chúng
em được học đòi Quan họ đôi câu.
- Em đỡ lời anh Hai, anh Ba, anh Tư... (hoặc chị Hai, chị Ba, chị Tư...)
chúng em chỉ sợ nắng mưa thì tốt lúa đường, chúng em năng đi lại rồi
thầy mẹ lại coi thường chúng em.
- Dạ, anh Hai, anh Ba, anh Tư… (hoặc chị Hai, chị Ba, chị Tư…) cứ nói
thế, chứ nắng mưa thì càng tốt lúa soi, mà Quan họ năng đi lại thì thầy
mẹ chúng em coi như vàng đấy ạ [78, tr.88].
Về nghĩa cử giao tiếp này, nói như các nghệ nhân cao niên làng Viêm Xá
(như cụ Các, cụ Nhi) thì: “mình tôn trọng bạn mình là để bạn mình cũng tôn trọng
mình mà. Tôn lẫn kính chung là vậy”.
- Chơi Quan họ, dù là sinh hoạt thường nhật hay khi ca hát đều là chơi theo
tình bạn, theo sự kết nghĩa giữa Quan họ làng này với Quan họ làng kia theo một
tinh thần tri âm tri kỷ, thủy chung bền chặt, và vì vậy mang tính tập thể rất cao.
Quan họ kết bạn đến với nhau thấm đẫm tình người được thể hiện qua cử chỉ hành
vi, qua ánh mắt, nụ cười và qua những lời ca trữ tình lãng mạn nhưng tuyệt nhiên
không hàm chứa sự phong tình, ngang tắt hay lả lơi nam nữ… Quan họ chơi theo
bọn (bọn Quan họ), kết bạn theo bọn (tục rủ bọn) và đi ngủ để học Quan họ cũng là
ngủ bọn (tục ngủ bọn cùng giới). Vì thế trong lối chơi của Quan họ cổ truyền không
có hình thức hát đơn Quan họ hoặc hát đôi một nam một nữ. Hãn hữu, nếu có hát
đơn hay hát một nam một nữ là trong hát tập, hát truyền nghề, trong gia đình họ
hàng, trong làng xóm sở tại. Người ta nói chơi Quan họ là chơi thanh lịch là vì thế.
Không phải ngẫu nhiên mà ở vùng Quan họ xưa có nhiều làng (nhất là những làng
Quan họ có kết chạ) đã tồn tại khá lâu một phong tục: Quan họ không lấy nhau.
64
Thoạt nghe thì thấy tục này có vẻ nghiệt ngã và khô cứng, nhưng ngẫm ra ở cái thời
xưa ấy khi mà quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” còn được tôn vinh thì rõ ràng
trong một chừng mực nào đó, bản thân quy ước này đã góp phần làm cho tình bạn,
làm cho những cuộc chơi Quan họ thâu đêm suốt sáng được tự tin hơn, trong sáng
hơn, bền chặt hơn… Cũng với phong tục này, dường như cái thanh cao, tao nhã và
sự sáng trong của tình bạn Quan họ đã làm cho tình yêu nam nữ chỉ giới hạn trên
những trang thơ và những giai điệu ngọt ngào của âm nhạc(!).
- Đối với các dân ca khác người ta thường nói “đi hát”, còn với dân ca Quan
họ người ta nói “đi chơi Quan họ” hoặc “đi ca Quan họ” [90, tr.73] (sách Không
gian văn hóa Quan họ thống kê có tới 165 chữ “chơi” trong tổng số 213 giọng Quan
họ). Dùng từ “chơi” để chỉ sinh hoạt Quan họ là chỉ ra chất lượng và trạng thái tinh
thần của một hoạt động văn hóa nghệ thuật. Dân gian thường nói “nghề chơi cũng
lắm công phu". Chơi ca hát, lại là ca hát Quan họ, một loại hình dân ca trữ tình
không thể là thứ chơi bỗ bã, giản đơn và thô thiển. Do đó mọi hành vi, ứng xử trong
XHQHL và trong hoạt động của người nghệ nhân đều phải đạt đến trình độ của sự
mẫu mực và một bản sắc không thể trộn lẫn.
Trong XHQHL, người Quan họ đã chơi Quan họ là chơi từ sự kết bạn (có thể
là từ sự kết chạ hai làng nữa), chứ không thể có cuộc chơi Quan họ của những
người vô tình gặp gỡ, không quan hệ, không quen biết… Quan họ phải là thân thiết,
hiểu nhau như anh em, chị em một nhà và ở đó có sự gắn kết, cảm thông, trân trọng
và vì thế cũng vô cùng ý nhị, tinh tế. Chẳng hạn khi nói về bạn, người Quan họ
thường hay dùng cách nói gián tiếp, cách điệu hay ẩn dụ để diễn tả một cách trân
trọng bạn chơi của mình. Có thể lấy ví dụ:
"- Người khôn ai chả nâng niu
Hoa thơm ai chả chắt chiu trên cành"
(Nhất quế nhị lan)
"- Quan họ trở ra về có nhớ đến chúng em chăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này
Quan họ trở ra về khăn áo người gửi lại đây”
(Con nhện giăng mùng)
65
"- Thuyền thúng là thuyền thúng ơi
Có về Quan họ cho tôi về cùng”
(Thuyền thúng là thuyền thúng ơi)
Sự tao nhã, trang trọng và thái độ hiếu khách của người Quan họ còn được
thể hiện trong văn hóa ẩm thực. Điển hình như cách mời rượu của người Quan họ:
“Đôi tay nâng chén rượu đào
Đổ đi thì tiếc, uống vào thì say...
…Tay nâng đĩa muối, đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau…”
(Rót chén rượi đào)
Còn nước uống. Nước uống mời bạn Quan họ bao giờ cũng là nước trà ướp
các loại hương tự nhiên như hương bưởi, hương ngâu, hương sen, hương nhài… và
được pha, ủ rất cẩn thận. Nước trà khi đã được rót ra là hương thơm ngào ngạt gợi
lên cái không gian ấm áp, ân tình, tri kỷ của người Quan họ.
Và còn đặc biệt nữa, đó là miếng trầu của người Quan họ (dân gian vùng
Quan họ hay nói chệch thành miếng giầu hoặc khẩu giầu) mời bạn trong ngày hội,
trong hát canh, hát thờ luôn được quan tâm, và vì thế cũng phải chọn người khéo
nhất để têm trầu. Miếng trầu khi têm phải làm sao “bổ miếng cau, lạng miếng vỏ
cho mịn đường dao. Cau chọn loại vừa đến hạt - lá trầu tìm cho được lá trầu ngon,
vừa cay, vừa thơm. Vỏ ngon nhất vẫn là loại vỏ sen, mềm, mịn, dầy cùi, vị chát
ngọt. Nếu trời lạnh miếng trầu têm cánh phượng có cài thêm chút quế, chút hồi cho
thêm nồng, thêm đượm” [82, tr.50].
Quan tâm và cầu kỳ như thế trong việc têm trầu là vì người Quan họ luôn tâm
niệm rằng “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Miếng trầu là câu chuyện " trầu cau"- câu
chuyện của tình người, tình yêu sâu đậm. Miếng trầu thể hiện sự lịch lãm và tinh tế của
chủ nhà và cũng là để thể hiện sự ân cần, chu đáo, trân trọng những người bạn Quan họ
đến chơi làng mình vào những dịp hội, lệ.
Một trong những biểu hiện đặc biệt trong quan hệ, giao tiếp, ứng xử của
người Quan họ chính là chặng giã bạn của những canh hát thâu đêm suốt sáng, với
66
những lời ca giã bạn thể hiện tấm lòng thiết tha, những tình cảm thủy chung quyến
luyến giữa Quan họ làng sở tại và quan họ bạn. Những lời ca thật cảm động đã nói
lên tất cả trong giờ phút chia tay:
“Người về em vẫn khóc thầm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa
Người ơi!
Người ở đừng về!..."
Để rồi từ sự chia ly lại thắp lên ngọn lửa hy vọng cho một ngày gặp lại:
“Khăn áo người gửi lại đây
Nhớ thương xếp để dạ này bao quên
Quan họ về đến hẹn lại lên!”
Về vai trò của văn hóa giao tiếp Quan họ làng, cụ Nguyễn Văn Thị nói với
chúng tôi trong một chuyến điền dã về làng năm 1999:
Ở làng tôi từ lâu lắm rồi, các Em bé (người học hát Quan họ nhỏ tuổi - TG)
cùng với việc học hát là học ăn, học nói, học gói, học mở; tức là học giao
tiếp, ứng xử nữa. Không thế làm sao thành người Quan họ. Không thế làm
sao được bạn Quan họ chơi cùng [Nguồn: PVS của NCS, năm 1999].
2.5.2. Tục kiêng hèm
Về những đặc điểm kiêng hèm ở Viêm Xá, phải nói rằng văn hóa làng và tục
thờ Thành hoàng đã để lại nhiều dấu ấn trong đời sống dân làng Viêm Xá và cả sinh
hoạt Quan họ. Người Viêm Xá từ xa xưa đã kiêng nói "hát Quan họ" mà chỉ nói "ca
Quan họ" bởi Thành hoàng của làng có tên là Trương Hát. Nhưng Viêm Xá còn có
những kiêng hèm khác mà hiện nay chưa ai giải thích được, song được bảo lưu rất
bền vững. Chẳng hạn các nghệ nhân không bao giờ dùng từ "cả" trong sinh hoạt
Quan họ để chỉ thứ bậc mà thường nói lái sang thành "cở". Ví dụ, lẽ ra phải nói: "cả
làng" thì nói: "cở làng" hoặc lẽ ra nói: "tất cả các liền anh liền chị" thì nói: "tất cở
các liền anh liền chị". Về hiện tượng nói tránh chữ "cả" thành chữ "cở" này, nhà
nghiên cứu Trần Linh Quý - người đã gắn bó cả đời với tìm hiểu văn hóa Quan họ
dù còn rất băn khoăn với việc tìm ra lời giải cho hiện tượng này cũng đã đưa ra một
nhận xét có tính gợi mở như một câu hỏi là: "có dự đoán được rằng vì Diềm là một
67
trong những làng gốc gác nhất của Quan họ nên tiếng " cả" bị tước khỏi Quan họ
ngay từ thủa trong nôi không?" [82]. Ý diễn đạt là, vì làng Quan họ Viêm Xá với vị
thế là một làng thủy tổ Quan họ rồi thì đương nhiên họ là "cả" trong vùng Quan họ,
nên nếu dùng từ "cả" thì có nghĩa là phạm húy, điều mà người Quan họ rất kiêng.
Mà người Quan họ trong giao tiếp, ứng xử truyền thống thì rất coi trọng việc kiêng
tên kỵ, tên húy, nếu ai phạm vào thì sẽ là một hành vi bất nhã, bất kính khó có thể
tha thứ. Tuy nhiên cho tới nay, câu hỏi này vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng.
Cũng tương tự như vậy, Quan họ Viêm Xá không gọi: "đằng đông, phía
đông" mà gọi: "đằng đương, phía đương", hoặc lẽ ra gọi "đông Quan họ" thì gọi
thành "đương Quan họ"... Cách nói chệch này còn được áp dụng trong cả lời ca
Quan họ như trong một bài La rằng hát lễ ở đình Diềm:
Chúc mừng thượng đẳng tối linh
Phù trì dân xã hiển linh sang giàu
Trước đình lại có rồng chầu
Có đôi quy phượng tựa màu non tiên
...
Mừng làng nữ tú nam thanh
Chúc mừng các cụ nổi danh thọ tràng
Đương, tây chín xóm rành rành
Chúc mừng già cở ở đời con tiên.
Giải thích cho hiện tượng này, tác giả Lê Danh Khiêm cho rằng: "Thủy tổ
Quan họ là Nam Hải Đại Vương, như vậy được xem là anh em với Tứ hải long
vương, Đông hải đại vương, Tây hải đại vương, Bắc hải đại vương. Chính vì thế
người ta mới kiêng húy mà nói chệch " đông" thành "đương" [82, tr.84]. Ông phân
tích thêm về ý nghĩa của chữ "đông", rằng: các liền anh liền chị gọi nhau là "đông"
(đương) vì để thể hiện sự tôn quý phù hợp với bản sắc nội tại của văn hóa Quan họ
và khái niệm "Đông Quan họ" xuất phát từ quan niệm dân gian, cũng như triết học
phương Đông cổ đại. Đồng thời Ông đưa ra một số các khái niệm liên quan đến chữ
"đông" như "Đông phong" - tức gió xuân; "Đông quân" - tên một vị thần thống trị
mùa xuân; "Đông cung" - nơi ở của người đàn bà đẹp v.v... để khẳng định người
68
Quan họ gọi nhau là " Đương (Đông) Quan họ" để thể hiện sự quý trọng, tôn vinh.
Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng liệu Đông hải đại vương có thật sự liên quan gì
đến Nam hải đại vương (Thành hoàng làng Viêm Xá) trong tư duy mộc mạc, giản dị
của người dân Viêm Xá hay không?. Do đó, đây vẫn còn là một câu hỏi cần có lời
giải thỏa đáng dành cho giới nghiên cứu.
Theo tác giả Trần Linh Quý, ở các làng Bịu kết nghĩa với làng Viêm Xá
cũng có trường hợp nói chệch rất đáng lưu ý là gọi "Long" thành "Luông". Chẳng
hạn khi hát "Thi thư gặp hội long vân" thì thành " Thi thư gặp hội luông vân", hoặc
câu "nhớ ai con mắt long lanh" hát thành " nhớ ai con mắt luông lanh".... Chữ
"long" ở đây cũng có một câu hỏi được đặt ra là liệu có liên quan gì đến các thần
thánh được tôn sùng, thờ phụng ỏ vùng này hay không?. Nhưng có một điều chắc
chắn, đó là cách nói chệch, nói tránh liên quan đến tục kiêng hèm của Quan họ. Còn
ở làng Đống Cao thì do thờ thần có tên gọi Hai nên gọi anh Đôi, chị Đôi chứ không
gọi anh Hai, chị Hai như nơi khác. Điểm đáng lưu ý là tục kiêng hèm mà Viêm Xá
và các làng kết nghĩa (kết chạ) thực hiện thế nào thì ở phần lớn vùng Quan họ các
làng đều thực hiện theo thế dù ở làng mình không có lý do phải kiêng hèm như vậy.
Rõ ràng tầm ảnh hưởng của làng thủy tổ Viêm Xá và các làng kết nghĩa đối với sinh
hoạt văn hóa Quan họ toàn vùng là rất lớn, không chỉ là trong ca hát mà còn cả
trong văn hóa ứng xử, trong đời sống tâm linh của người Quan họ.
2.6. TẠO NGUỒN NGHỆ NHÂN QUAN HỌ
Việc nghiên cứu cả trên các tài liệu thành văn và từ thực tế khảo sát điền dã
ngay tại làng Viêm Xá cũng như một số làng khác để so sánh cho phép chúng tôi rút
ra những đặc điểm cơ bản từ quy trình tạo nguồn của các nghệ nhân Viêm Xá.
Ở Viêm Xá, khi các anh Hai, chị Hai của các Quan họ đã bắt đầu cảm thấy cần
có những lớp trẻ để thay thế mình trong các hoạt động Quan họ có tính chất "túc
trực" thì họ thực hiện việc lựa chọn trong rất nhiều các em nam, em nữ ở lứa tuổi 13
- 14, lấy một số em có năng khiếu và thật sự say mê Quan họ rồi tập hợp lại nhằm
kèm cặp hướng dẫn. Các em này theo tục lệ được gọi là "Em bé Quan họ". Những
Em bé này phần lớn đều là con em gia đình có truyền thống về ca hát Quan họ hoặc
chí ít cũng xuất thân từ những gia đình vốn say mê Quan họ. Cũng có những trường
69
hợp các em chủ động xin vào nhập bọn để "học đòi một vài đôi lối" theo cách nói
khiêm tốn của người Quan họ.
Những anh Hai, chị Hai chịu trách nhiệm dạy dỗ, kèm cặp các em bé được
Quan họ gọi là anh Nhớn, chị Nhớn (chứ không phải anh Cả, chị Cả). Các anh
nhớn, chị nhớn phải xin phép gia đình các em (thực ra thì các gia đình này thường
là rất mừng và tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình tham gia Quan họ) cho được
đi ngủ bọn để học hát và "học ăn, học nói, học gói, học mở". Ngủ bọn là tục lệ mà
theo đó các em bé được rủ đến nhà chứa hoặc đến nhà các nghệ nhân để học hát vào
buổi tối rồi sau đấy ngủ lại. Trong quá trình học đó, khi có hội làng hoặc trong các
chuyến đi kết bạn, bọn Quan họ thường cho các em bé đi theo và được giao tiếp,
được hát với các em bé của làng kết nghĩa (Bịu, Đống Cao). Dần dần trong khoảng
5 - 7 năm, các em trưởng thành về "mọi nhẽ" và có thể thay thế các anh nhớn, chị
nhớn trong sinh hoạt Quan họ. Điều quan trọng là quá trình đào tạo này được đặt
trong môi trường kết bạn với tất cả những biểu hiện văn hóa cụ thể của nó nên đến
khi "đủ lông đủ cánh" các em đã có bạn hát rất quen thuộc và gần gũi, các em đã có
điều kiện thừa hưởng những tinh hoa tốt đẹp nhất trong các mối quan hệ Viêm Xá -
Bịu, Viêm Xá - Đống Cao.
Trong khi đó ở các làng khác của vùng Quan họ, việc tạo nguồn hầu hết được
thực hiện một cách tự phát, không có bài bản như ở Viêm Xá. Các em bé tự đi tìm
thầy để học, tự đi tìm bọn để nhập và tự đi tìm bạn để kết. Nhưng có một thực tế là
mấy chục năm gần đây và ngay cả hiện nay, cách tạo nguồn ở Viêm Xá chưa thật sự
được khôi phục như trước năm 1945 mà có xu hướng tự phát như các làng khác.
Theo chúng tôi, nếu coi đây là một tục lệ đẹp, một cách đào tạo có hiệu quả và có ý
nghĩa thì trong tương lai lại cần phải quan tâm khôi phục.
Tiểu kết chương 2 Để làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đối chiếu với Chương 3 của
luận án về thực trạng SHVHQHL hiện nay chúng tôi đã tập trung vào nghiên cứu,
trình bày toàn bộ những SHVHQHL cổ truyền (qua trường hợp làng Quan họ Viêm
Xá) với những nội dung cơ bản: Không gian sinh hoạt văn hóa Quan họ làng; xã hội
Quan họ làng và người nghệ nhân; kết bạn Quan họ; diễn xướng Quan họ; văn hóa
70
giao tiếp, ứng xử Quan họ; tạo nguồn nghệ nhân Quan họ. Đây là những thành tố
(những mặt) có ý nghĩa then chốt chỉ ra diện mạo và bản chất của SHVHQHL được
tiếp nối hàng thế kỷ để góp phần quan trọng làm nên văn hóa Quan họ.
Trong phần về làng cổ Viêm Xá, chúng tôi đã phân tích làm rõ Viêm Xá
không chỉ là một “làng cổ của những làng cổ” mà còn là một làng được dân gian
trong vùng tôn vinh là làng thủy tổ Quan họ gắn liền với những sinh hoạt văn hóa
Quan họ và việc thờ cúng Vua Bà - một vị Thánh nữ mà trong ký ức dân gian chính
là Thủy tổ của những làn điệu dân ca Quan họ nổi tiếng.
Mặt khác, Làng cổ Viêm Xá còn là một không gian sinh hoạt văn hóa Quan
họ tiêu biểu với sự hội tụ của 3 yếu tố: làng quê tối cổ của vùng Kinh Bắc; làng quê
với dày đặc các di tích truyền thống, lễ hội và huyền thoại; làng quê với vai trò là
một Trung tâm hội hát của vùng Quan họ.
Khi trình bày về XHQHL cổ truyền của làng Viêm Xá chúng tôi chú trọng
vào thành phần nghệ nhân Quan họ - đội ngũ chính và là tinh hoa của XHQHL. Bên
cạnh đó chúng tôi cũng nêu đặc điểm và vai trò của các thành phần khác trong
XHQHL như thành phần "đa số các cư dân trong làng" và thành phần "hậu thuẫn
trực tiếp" cho các nghệ nhân Quan họ. Có thể thấy, cho đến trước năm 1945, khi mà
xã hội làng, cảnh quan thiên nhiên làng xã vùng Quan họ còn đậm dấu ấn nông
nghiệp lúa nước thuần túy và lối sống tĩnh lặng, nhịp sống chậm chạp đã ảnh hưởng
trực tiếp tới SHVHQHL làm cho Quan họ hầu như biến đổi không đáng kể theo thời
gian và vận hành trong đời sống cổ truyền vốn có của nó.
Về nội dung sinh hoạt kết bạn Quan họ trong chương này được chúng tôi
nhìn nhận là một tục chơi có tính chất khởi nguồn và nền tảng tinh thần của toàn bộ
lối chơi Quan họ với nhiều sinh hoạt văn hóa khác nhau. Có thể nói không có bất cứ
một sinh hoạt VHQH nào thuộc về cổ truyền mà không liên quan đến sự kết bạn
giữa các bọn Quan họ của các làng kết nghĩa, kết bạn. Tục kết bạn gắn liền với hai
điều kiện cơ bản là phải có bọn Quan họ các làng và Nhà chứa Quan họ. Kết bạn
chính là biểu hiện nổi bật nhất của tính chất cộng đồng đậm đặc vùng Quan họ vốn
luôn chi phối các SHVHQH mọi thời kỳ.
71
Trong phần nội dung về những sinh hoạt diễn xướng Quan họ đã tập chung
nghiên cứu về các thang bậc ca xướng của người nghệ nhân Quan họ và một số diễn
xướng chính gồm: Hát canh, Hát hội, Hát nghi lễ… trong đó, Hát canh là hình thức
diễn xướng chủ đạo của lối chơi Quan họ và cũng chỉ ra đầy đủ nhất những đặc
trưng cơ bản của lối chơi Quan họ. Quan họ lãng mạn nhưng là sự lãng mạn có lề
lối và trong sự mực thước của các quan hệ gắn chặt với đời sống tâm linh của con
người làng xã. Lịch sử tồn tại và phát triển của văn hóa nghệ thuật Việt Nam cho
thấy, khi văn hóa nghệ thuật thấm đượm trong đó đời sống tâm linh của con người
thì khả năng trường tồn là rất cao.
Phần nghiên cứu về văn hóa giao tiếp, ứng xử và tục kiêng hèm đã chỉ ra một
đặc điểm lớn, riêng có của bản sắc văn hóa Quan họ mà không một loại hình dân ca
nào có được thể hiện chủ nghĩa nhân văn và tính cách của con người Quan họ.
Người Quan họ thường danh xưng giản dị mà tự hào: "Người Quan họ chúng em".
Tự hào, kiêu hãnh mà khiêm nhường, kín đáo là phẩm chất đặc biệt của người Quan
họ. Phẩm chất đó có khả năng neo giữ những tình yêu vô bờ bến với loại hình dân
ca này, không chỉ là của những người dân sở tại.
Cuối cùng là phần nghiên cứu về sinh hoạt tạo nguồn nghệ nhân của Quan họ
Viêm Xá thể hiện phương thức chung của nghệ thuật dân gian là "truyền khẩu"
nhưng vẫn có những phương pháp truyền dạy độc đáo như tục ngủ bọn, rủ bọn mà
chỉ Quan họ có. Phương thức chung này là kết quả của đời sống dân gian, dân dã
của những chặng đường lịch sử mà khi đó văn hóa bác học còn xa vời đối với người
dân và khoa học công nghệ chưa phát triển.
72
Chương 3
SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ LÀNG
Ở LÀNG VIÊM XÁ HIỆN NAY
3.1. KHÔNG GIAN SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ LÀNG
3.1.1. Khái quát cảnh quan và đời sống xã hội Năm 2007 xã Hòa Long (trong đó có làng Viêm Xá) và 3 xã khác là Vạn An,
Khúc Xuyên, Phong Khê thuộc huyện Yên Phong đã được sáp nhập vào thành phố
Bắc Ninh theo Nghị định của Chính phủ về điều chỉnh địa giới hành chính. Đến nay
03 trong 04 xã này đã trở thành phường nội thành chỉ còn Hòa Long vẫn là xã. Đây
là thay đổi đã tác động rất mạnh đến quá trình đô thị hóa và những biến đổi nhanh
chóng về kinh tế - xã hội. Theo Báo cáo tổng kết năm 2014 của Ban lãnh đạo Thôn,
Viêm Xá hiện nay có 4000 khẩu (984 hộ) sống trên một diện tích cư trú là 12,5 ha.
Về cơ bản Viêm Xá vẫn là làng nông nghiệp với khoảng 250 ha diện tích canh tác
gồm lúa và mùa. Viêm Xá có địa hình khá đa dạng bao gồm cả đồi, núi, ao, hồ,
sông nước (sông Cầu) với diện tích khoảng 25 ha. Địa hình này xưa kia liên quan
chặt chẽ đến địa điểm hát hội của Quan họ làng. Quan họ hát trên núi, dưới thuyền,
bờ đê. Nay do dân số phát triển nhanh, thiếu đất làm nhà, dân Viêm Xá đã mở rộng
làng lên núi nên hát Quan họ trên núi đã không còn. Nghề chăn nuôi cũng đang bị
thu hẹp đáng kể do quá trình đô thị hóa làng không thể giải quyết được những vấn
đề chuồng trại, môi trường… Nghề trồng dâu nuôi tằm có từ lâu đời nay cũng
không còn do đầu vào và đầu ra sản phẩm dệt không thể cạnh tranh với các loại vải
dệt công nghiệp. Có thể nói nghề trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt lụa cùng với hình
ảnh truyền thống của làng quê Kinh Bắc cây đa, bến nước, sân đình… từ ngàn đời
đã đi vào thơ ca nhạc họa và dân ca Quan họ như những biểu tượng về quê hương
thanh bình, ấm áp của cuộc sống nơi thôn dã. Trong nền kinh tế thị trường, Viêm
Xá, cũng như nhiều làng khác vùng Quan họ đều phát triển các nghề dịch vụ như
mộc, nề, say sát, tuốt lúa bằng máy… Theo một thống kê của làng thì trong những
năm gần đây, bình quân thu nhập của làng là 45 tỷ đồng, tính ra khoảng 11 triệu
đồng trên một đầu người/năm.
73
Đặc biệt Viêm Xá cũng như hai làng Bịu kết nghĩa và phần lớn các làng
vùng Quan họ tỉ lệ người dân, nhất là thanh niên làm việc tại các khu công nghiệp
đang tăng lên hàng năm. Đội ngũ này với tác phong công nghiệp, điều kiện tiếp thu
cái mới của cuộc sống hiện đại và một tư duy hướng ngoại khi về làng đã ảnh
hưởng không nhỏ đến nếp sống, lối sống của dân làng vốn xưa nay chỉ khép kín
trong bốn lũy tre làng. Điều đó đã tác động đến XHQHL, làm một bộ phận dân
làng, nhất là lớp trẻ có suy nghĩ theo chiều hướng ít quan tâm đến các sinh hoạt dân
gian kể cả dân ca Quan họ. Ở Viêm Xá hiện nay chính quyền thôn và các đoàn thể
như thanh niên, phụ nữ, người cao tuổi, cựu chiến binh quan tâm nhiều đến sự học
thông qua quỹ khuyến học của làng. Trong khoảng 15 năm trở lại đây, bình quân
mỗi năm Viêm Xá có từ 15-20 học sinh thi đỗ đại học. Theo quy ước của làng, mỗi
em học sinh thi đỗ đại học thì được thưởng 300kg thóc. Do truyền thống rất đẹp này
mà dân trí trong làng được nâng cao đáng kể. Về mặt văn hóa có tới 98% hộ gia
đình được công nhận Gia đình văn hóa trong năm 2014. Kết quả này đã ảnh hưởng
tích cực đến sự bảo lưu, phát triển của Quan họ. Do kinh tế phát triển đa dạng, thu
nhập khá nên tỷ lệ hộ nghèo ở Viêm Xá rất thấp, dưới 4%. Người xưa nói “phú quý
sinh lễ nghĩa”, ở làng Viêm Xá cũng như các làng Quan họ trong vùng do kinh tế
phát triển, mức sống của người dân tăng nhanh cùng trình độ học vấn cao hơn đã
tạo điều kiện cho đời sống văn hóa phong phú, sôi động hơn, trong đó có các
SHVHQHL.
3.1.2. Thiết chế văn hóa và lễ hội
* Thiết chế văn hóa truyền thống và thiết chế văn hóa mới
Ở Viêm Xá và các làng Quan họ trong vùng trước năm 1945 chỉ tồn tại các
thiết chế văn hóa truyền thống (di tích) như đền, chùa, đình, miếu... Nhưng ngày
nay, dưới chế độ mới đã có thêm hệ thống thiết chế văn hóa mới như nhà văn hóa,
trụ sở thôn, câu lạc bộ, nhà truyền thống, sân chơi thể thao, v.v...
Các di tích của làng hiện nay đã được chính quyền và nhân dân sở tại
trùng tu, tôn tạo thậm chí là xây mới (như đền Vua Bà) tạo nên một quần thể
đình - đền - chùa khang trang rất thuận lợi cho các sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng. Riêng đối với đền Vua Bà trước kia quay hướng Bắc, đến năm 2011
74
được xây dựng lại quay hướng Nam. Sau năm 2009 thời điểm UNESCO vinh
danh Quan họ là di sản văn hóa thế giới, tục Cướp cầu được dân làng phục hồi và
hay diễn ra ở khu vực sân vận động ngay trước cửa đền. Đền Vua Bà còn được
đội Quan họ chọn làm địa điểm chính để mở lớp dạy Quan họ cho đội ngũ măng
non kế cận trong làng.
Xen vào giữa các di tích truyền thống là nhà trụ sở thôn, nhà văn hóa khá
khang trang cùng với chợ làng và hệ thống hàng quán dịch vụ tạo nên một quần thể
liên hoàn ôm lấy 3 mặt sân làng và hồ nước hình thành khu trung tâm văn hóa,
thương mại đông đúc và sầm uất của làng. Đường làng, ngõ xóm trước đây chỉ là
đường đất cỏ mọc nhưng đến nay được bê tông hóa có hệ thống thoát nước ngầm
như giao thông đô thị.
Ngày nay khi đến Viêm Xá, nhìn từ phía Đền Cùng vào làng người ta có cảm
giác như một khu phố và không còn bóng dáng của một làng quê điển hình mướt mát
cây xanh như trước đây nữa. Không gian và cảnh quan làng Viêm Xá trong cơ chế thị
trường đã biến đổi nhanh chóng làm cho cái khuôn mẫu, cái mô tuýp của làng Việt
xưa dường như đang lùi vào dĩ vãng để nhường chỗ cho một tương lai “phố hóa” và
một xã hội cư dân với phương thức sống đã mang màu sắc thị dân, kẻ chợ.
* Lễ hội hiện nay
Về lễ hội ở Viêm Xá và các làng Quan họ hiện nay, nhìn tổng thể thì vẫn giữ
được trình tự và quy trình truyền thống: có phần lễ, phần hội (tuy rằng hai phần này
về thực chất là đan xen, qua hệ hữu cơ với nhau - trong lễ có hội mà trong hội có
lễ). Tuy nhiên, do sự thay đổi về đời sống kinh tế - xã hội mà lễ hội gắn với Quan
họ cũng thay đổi. Những thay đổi đó bao gồm thay đổi về không gian sinh hoạt;
phương thức tổ chức; quy mô, thành phần, nội dung của lễ hội.
Về không gian của lễ hội. Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, do cảnh
quan làng quê thay đổi theo xu hướng tiện ích và hiện đại hóa (đô thị hóa) nhờ sự
tăng trưởng về kinh tế - xã hội nên không gian địa lý của lễ hội cũng thay đổi. Ở
Viêm Xá và các làng kết nghĩa với Viêm Xá có chung một hiện tượng là do sự nỗ
lực đầu tư nên làng nào cũng có một khu trung tâm với không gian thoáng đãng,
hoành tráng được quy hoạch rất hài hòa để phục vụ các sinh hoạt cộng đồng bao
75
gồm một quần thể các thiết chế văn hóa cả truyền thống và mới như đình, đền, chùa,
nhà văn hóa, trụ sở thôn, sân vận động, khu vui chơi trẻ em cùng một mạng lưới
đường giao thông được bê tông hóa sạch, đẹp, hết sức tiện lợi cho di chuyển đi lại,
nhất là trong các dịp hội hè. Tuy nhiên, không gian của những sinh hoạt lễ hội lại
dường như là thu hẹp lại so với truyền thống. Có thể thấy, không gian xưa của lễ hội
là không gian trải rộng và len sâu vào từng ngõ xóm, từng gia đình trong làng. Cùng
với các hoạt động ở khu trung tâm (đình, đền, chùa)…thì ở nội tại các xóm của
làng, của bọn Quan họ vẫn có những sinh hoạt như Hát canh trong nhà chứa, hát
trên núi, ngoài đường, trên sông, các cuộc giao lưu, thăm hỏi và thưởng thức văn
hóa ẩm thực, cả những trò chơi ngõ xóm như trọi gà, đánh quay, đánh khăng, nu na
nu nống, chơi ô ăn quan,… Tất cả những hoạt động đó bộc lộ cái chiều sâu của lễ
hội, tính phong phú và toàn thể về đời sống vật chất, tinh thần của người dân làng
xã. Từ già đến trẻ, ai ai cũng là thành viên tích cực của lễ hội. Không phải ngẫu
nhiên mà GS. Đinh Gia Khánh - một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đầu ngành
lúc sinh thời đã khẳng định: Lễ hội chính là thời điểm MẠNH của sinh hoạt cộng
đồng. Ông cũng chỉ ra tính nguyên hợp của lễ hội bởi nó là một hiện tượng văn
hóa tổng thể. Tại lễ hội, những sản phẩm vật chất và tinh thần được chắt lọc của
con người qua quá trình lao động sáng tạo có dịp được phô diễn, hòa quyện vào
nhau để thỏa mãn chính đời sống vật chất và tinh thần toàn thể của cộng đồng.
Do vậy không gian của lễ hội vừa phải là không gian của sự hội tụ (có một trung
tâm) nhưng đồng thời cũng phải là một không gian của sự lan tỏa (từ trung tâm
trở về ngõ xóm và gia đình). Còn lễ hội hiện nay hầu hết các hoạt động đều quy
tụ về khu vực trung tâm theo một kịch bản và quy trình khá chặt chẽ dưới sự chỉ
đạo của Ban lãnh đạo thôn và các đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, người cao
tuổi, cựu chiến binh, mặt trận tổ quốc v.v (mà thực chất vẫn là chính quyền). Ví
dụ quy trình truyền thống của lễ hội Đình Viêm Xá theo trình tự thời gian như
sau: Ngày mồng 5 là ngày vào đám tức mở cửa đình khai hội; ngày mồng 6 là
ngày chính hội tập trung các hoạt động tế lễ rước thánh, hát dân ca, vui chơi giải
trí; ngày mồng 7 dã đám đóng cửa đình hết hội. Nhưng hiện nay dù làng đã vào
đám khai hội ngày mồng 5 nhưng phải đợi đến sáng ngày mồng 6 khi chính
76
quyền thôn tổ chức lễ khai mạc có sự tham gia của lãnh đạo các cấp chính quyền
xã, huyện... thì lễ hội mới chính thức diễn ra. Và hầu hết các hoạt động lễ hội
đều tập trung ở khu trung tâm, từ khai mạc (trang trí lộng lẫy, rực rỡ cờ hoa) cho
đến lễ tế, biểu diễn nghệ thuật, các trò chơi, các dịch vụ du lịch, ẩm thực và ngay cả
hát canh Quan họ mà trước đây chỉ hát trong nhà chứa do các bọn Quan họ tổ chức
thì nay hát ở đình, ở đền là chính và do đội Quan họ làng chủ trì cùng với Quan họ
các làng kết nghĩa.
Do cách thức và chủ trương tổ chức lễ hội như vậy nên ngày nay chúng ta
chứng kiến những lễ hội ở hầu hết các làng, không riêng gì Viêm Xá cảnh hoành
tráng, rực rỡ, nhộn nhịp diễn ra ở khu trung tâm của làng nhưng trong các ngõ xóm
thì không khí khác hẳn, đặc biệt là vào ban đêm - khoảng thời gian mà trong lễ hội
xưa không im ắng như vậy. Trong ghi chép điền dã của chúng tôi năm 2010 còn ghi
lời cụ Thượng Nguyễn Văn Thị về không khí hội làng, cụ nói:
Bây giờ chính quyền thôn họ tổ chức lễ hội thế nào tôi chỉ thấy loa đài, cờ
quạt ầm ĩ, người thập phương nhiều lên nhưng toàn tập trung ở trước làng (ý
chỉ khu vực trung tâm làng) còn ở các xóm, trong nhà chả thấy làm gì, cứ
vắng lặng. Ngày xưa chúng tôi làm hội đâu cũng thấy vui, người trẻ đã đành,
đi đu đi chơi nhưng người già chúng tôi cũng khối việc để làm. Nhất là hát
canh, xóm nào cũng có, ít ồn ào nhưng say lắm, vui nữa! Bây giờ ở trước
làng mà ỉu trò thì trong làng cũng coi là hết hội. Cánh trẻ bây giờ người ta
chỉ thích mặt tiền thôi [Nguồn: PVS của NCS, năm 2014].
Về thành phần tham gia lễ hội (chủ thể và khách thể) có sự thay đổi cơ bản.
Chủ thể là người đứng ra tổ chức và điều hành lễ hội còn khách thể là người đến
chơi hội. Lễ hội dân gian xưa chủ thể chính là dân làng và được thực hiện theo
phương thức tự quản, phân công theo phe giáp, chòm xóm... Còn lễ hội hiện nay do
chính quyền thôn (làng) đứng ra tổ chức, có Ban tổ chức do Trưởng thôn làm
Trưởng ban được thành lập theo quy định đã trở thành luật lệ từ chính quyền cấp
trên đưa xuống. Thành phần của Ban tổ chức là các đoàn thể chính trị - xã hội như
Đảng, Đoàn, Mặt trận, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi v.v… Lễ hội được
thực hiện theo kế hoạch và theo một kịch bản có sẵn từ khâu khánh tiết, nghi lễ đến
77
khai mạc, bế mạc kể cả thành phần khách mời. Chi phí hậu cần cho lễ hội được
trích từ quỹ của thôn và đóng góp từ các nguồn xã hội hóa khác trong đó có tiền
công đức của khách thập phương và chính dân làng đến lễ tết quanh năm tại các cơ
sở thờ tự của làng. Nguồn thu công đức lớn nhất là đền Vua Bà. Ở Viêm Xá, để
khuyến khích, động viên dân làng tham gia một cách có trách nhiệm vào các lễ hội,
chính quyền thôn cho xây dựng quy ước hàng năm mỗi khẩu được chu cấp 30. 000đ
gọi là tiền “lễ hội”. Như vậy, nói theo ngôn ngữ hành chính nhà nước thì chủ thể lễ
hội và công tác tổ chức vận hành lễ hội đã theo chiều hướng “hành chính hóa”,
“chính quyền hóa”. Dân chủ làng xã - dân chủ toàn thể đã được chuyển sang dân
chủ đại diện - mọi quyết định đều do Ban tổ chức dựa trên các quy định của quy chế
(một kiểu hương ước mới) Làng và tùy theo yêu cầu của thực tế. Bản thân đội (có
lúc gọi là câu lạc bộ) Quan họ làng cũng là một bộ phận hợp thành của bộ máy
chính quyền đoàn thể thôn do đó mọi hoạt động cũng theo chỉ đạo của Ban tổ chức,
khác rất xa so với hoạt động lễ hội của các bọn Quan họ cổ truyền. Bọn Quan họ
chịu sự chi phối chủ yếu của lối chơi Quan họ và phong tục tập quán truyền thống,
còn đội Quan họ chịu sự chi phối bởi yều cầu của Ban tổ chức lễ hội.
Đối với khách thể là người đến chơi hội thì về quy mô thành phần đã rất
khác xưa. Thời kỳ của giao lưu, hội nhập, thông tin truyền thông hiện đại và điều
kiện phương tiện đi lại nhanh chóng thuận tiện đã mở rộng không ngừng thành phần
và số lượng khách đến với lễ hội Viêm Xá và các làng Quan họ. Họ không chỉ là
người sở tại, các địa phương vùng Kinh Bắc, trong nước mà cả khách quốc tế (chủ
yểu là khách du lịch) đến từ mọi châu lục trên thế giới. Theo các cụ Viêm Xá kể lại,
vai trò của Quan họ Viêm Xá với toàn vùng là rất to lớn, nhưng vào dịp hội lệ xưa
thì người đến dự chủ yếu vẫn là dân làng sở tại, dân các làng kết nghĩa và các làng
lân cận. Nói như cụ Hoạt thì: “đếm giỏi cũng được đôi trăm người”. Nhưng ngày
nay, nhất là kể từ khi Quan họ được vinh danh là di sản thế giới thì số lượng người
đến lễ hội Viêm Xá hàng năm có đến hàng vạn người, trong đó có người đến dự cho
đến hết thời gian lễ hội (thường là 2-3 ngày). Lễ hội thu hút đông người nhất vẫn là
lễ hội Quan họ đền Vua Bà. Số lượng người dự hội đông, mục đích đến lễ hội cũng
đa dạng hơn xưa. Người thì đến đơn giản là chơi hội, người đi lễ cầu tài cầu lộc,
78
người đi du lịch, người nghiên cứu văn hóa, người thì đến hội để thỏa mãn trí tò mò
(dạng người dự hội theo mục đích này thường chỉ đến hội một lần).
Về mối quan hệ chủ thể, khách thể trong lễ hội hiện nay cũng đã thay đổi.
Dưới cơ chế thị trường, văn hóa trong đó có lễ hội đã trở thành hàng hóa (dù là
hàng hóa đặc thù). Ở đây, chủ thể - người mở lễ hội phải đáp ứng mục đích của
khách thể - người dự lễ hội. Từ đó hình thành quan hệ dịch vụ, quan hệ của mua bán
và trao đổi hàng hóa. Sự thay đổi này chi phối mục đích của lễ hội. Lễ hội cổ truyền
xưa được người dân mở ra chỉ để hướng vào mục đích của tôn vinh văn hóa, vào sự
thỏa mãn đời sống tâm linh, vui chơi giải trí của con người và chủ yếu là để cho
mình, để tự thỏa mãn mình theo cái phương thức rất đặc trưng dân gian mà chúng ta
thường nói là: “tự sản tự tiêu”. Còn đối với lễ hội ngày nay, ngoài mục đích truyền
thống như đã nói thì còn có những mục đích khác như mục đích kinh tế, mục đích
làm du lịch, mục đích quảng bá văn hóa… và thậm chí còn có cả mục đích chính trị
liên quan đến tôn giáo, sắc tộc, dân quyền v.v… Đối với lễ hội Viêm Xá cũng nằm
trong xu hướng phát triển ấy, tính mục đích cũng đa dạng hơn xưa. Như vậy, nói
một cách đơn giản thì lễ hội của người Quan họ hôm nay không chỉ gánh vác cái
tâm thế của người thực hành các sinh hoạt văn hóa thuần túy như trước đây mà còn
phải gánh vác cái nhiệm vụ của người làm kinh tế và nhiều thứ khác nữa. Câu
chuyện có thật về việc hát Quan họ nhận tiền trong ngày hội ở các làng Quan họ,
trong đó có cả Viêm Xá, là một minh chứng sống động cho hiện thực ấy. Như vậy,
khi mục đích, quy mô, thành phần của lễ hội thay đổi dẫn tới cách thức tổ chức, các
sinh hoạt lễ hội và nhất là tâm thế (tinh thần) của người tham dự lễ hội thay đổi là
điều không thể tránh khỏi.
3.1.3. Về vai trò là trung tâm hội hát
Về vai trò là trung tâm hội hát ở vùng Quan họ xưa của Viêm Xá cũng có
những đổi thay theo sự đổi thay và phát triển của xã hội. Như chúng tôi đã trình bày
ở Chương II của Luận án, Viêm Xá là một trong tám trung tâm hội hát cổ truyền
của vùng Quan họ gồm các làng: Lim, Đặng, Yên, Chắp (Hữu Chấp), Viêm Xá,
Đống Cao, Thị Cầu, Bồ Sơn - Đọ Xá. Đến nay, qua khảo sát và tìm hiểu nhiều năm
chúng tôi nhận thấy chỉ còn hai trung tâm nổi bật, có sức ảnh hưởng và lan tỏa rộng,
79
không chỉ ở vùng Quan họ là Lim và Viêm Xá. Nhờ những thay đổi về kinh tế - xã
hội, Viêm Xá không chỉ duy trì được vai trò của một trung tâm hội hát truyền thống
mà còn có bước phát triển mạnh mẽ, cả về quy mô và khả năng thu hút khách thập
phương. Lễ hội Viêm Xá - cái lõi của trung tâm hội hát không chỉ còn là lễ hội làng
mà đã có tiếng vang, tầm vùng miền và quốc tế. Sở dĩ được như vậy là nhờ có
phương thức quảng cáo vừa nhanh, vừa hiệu quả bằng các phương tiện truyền thông
hiện đại thời cơ chế thị trường; sự hậu thuẫn khuyến khích mạnh mẽ của chính
quyền các cấp; và cuối cùng là nhờ mục đích tạo dựng điểm nhấn du lịch và dịch vụ
trên địa bàn mà lãnh đạo và cả người dân đều rất hăng hái, tích cực thực hiện.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của một trung tâm hội hát như đã
nói, đã xuất hiện những vấn đề dường như là những nghịch lý, những biểu hiện liên
quan trực tiếp đến bảo tồn dân ca Quan họ cần được lưu tâm nghiên cứu và đánh giá.
Thứ nhất, trong lễ hội Quan họ truyền thống ở Viêm Xá và cũng là ở các
làng Quan họ khác trong vùng thì các hình thức hát hội ngoài trời như hát dưới
thuyền, hát trên núi, hát trên đường làng - ngõ xóm thậm chí là cả hát thờ thường
được đông đảo người dự hội đến xem. Nhưng trong tâm thức người Quan họ xưa thì
hình thức hát canh tại nhà chứa (chỉ trong khuôn khổ ngôi nhà) lại mới là tâm điểm
của SHQHL trong ngày hội. Vì sao vậy? Như các nghệ nhân Quan họ luôn khẳng
định rằng: “muốn giữ Quan họ truyền thống thì trước hết phải giữ hát canh”. Vì hát
canh là nơi diễn ra hầu như tất cả những gì lề lối nhất, tinh túy nhất của Quan họ: từ
người hát (phải là những nghệ nhân đích thực) đến việc lựa chọn các bài hát (phải là
cổ nhất nếu có thể), và cả phong tục tập quán thể hiện trong văn hóa giao tiếp ứng
xử giữa người Quan họ lúc đứng ngồi, lúc ăn, lúc uống… và trên hết là một không
gian phù hợp cho những giai thanh, gái lịch, những liền anh, liền chị thể hiện cái tài
ca hát, cái tình cảm giao duyên độc nhất vô nhị của người Quan họ với bạn hát của
mình. Chỉ có không gian hát canh êm đềm trong nhà chứa mới đủ điều kiện tạo nên
tâm thế của người hát để sao cho phải vang -rền-nền-nẩy và cũng để phải tạo nên
cái tâm thế cho người nghe cảm nhận được cái nghệ thuật vang-rền-nền-nẩy ấy đã
đạt đến độ nào…Còn ngày nay đã khác nhiều. Người ta hầu như chỉ còn thấy hát
canh ở đình, ở đền trong ngày hội vì nhà chứa và sinh hoạt Quan họ theo phương
80
thức bọn Quan họ, hai yếu tố quan trọng nhất của canh hát cổ truyền đã từ lâu
không còn. Điều cần lưu ý ở đây là tâm thức Quan họ xưa của cả người hát và
người đến dự đối với hát canh và vì thế đối với Quan họ đều đã thay đổi. Con người
ngày nay, nhất là lớp trẻ đến hội thường quan tâm đến không khí vui nhộn và tính
giải trí của ca hát Quan họ nhiều hơn là sự thâm sâu, tinh tế vốn là thế mạnh của
Quan họ truyền thống. Do đó dễ hiểu khi nhận thấy trong lễ hội Quan họ làng ngày
nay chỗ thu hút đông người nhất và cũng là thích thú nhất là khu vực ca hát Quan
họ lời mới có nhạc đệm (ca nhạc Quan họ). Hát canh dường như chỉ dành cho người
già. Vậy là, lễ hội thì thật đông người, ồn ào và hoành tráng, nhưng cái độ đằm sâu
và một không gian truyền thống cho Quan họ với tất cả những tinh hoa của nó thì
dường như là chật chỗ. Quan họ truyền thống có còn giữ vai trò chủ đạo (về thực
chất) nữa hay không trong các trung tâm hội hát?
Thứ hai, về vai trò và vị thế của các nghệ nhân Quan họ. Ngày nay, những
liền anh, liền chị “gạo cội" vốn được gọi là anh Hai - chị Hai, anh Ba - chị Ba theo
những tiêu chí xưa đã “vắng” đi rất nhiều so với trước đây bởi nhiều lý do khác khau
của sự thay đổi trong một đời sống hiện đại. Có lẽ do vậy mà sự trân trọng đến "sùng
kính" của người dân Viêm Xá cũng như toàn vùng Quan họ đối với họ như xưa đã
không còn nữa. Người nghệ nhân hôm nay chỉ xuất hiện như một diễn viên của đội văn
nghệ trong hoạt động ca hát không chuyên theo quan niệm của đời sống văn hóa cơ sở
dưới chế độ mới. Sở dĩ có tình hình như vậy phải chăng là do mức độ rèn luyện, những
nỗ lực tinh thần và một bầu máu nóng đầy tâm huyết của những liền anh, liền chị hôm
nay với dân ca quê hương đã không còn được như xưa? Có lẽ cũng là bởi các liền anh,
liền chị đã chịu sự chi phối của một đời sống xã hội có quá nhiều những thay đổi cùng
những toan tính đời thường nghiệt ngã dưới ảnh hưởng của cơ chế thị trường. Họ
không còn được "sống chậm" như một thời mà các nghệ nhân danh tiếng xưa của làng
Viêm Xá từng sống. Phải chăng "sống chậm" chính là cái nôi tinh thần để tạo nên nhịp
sống và khả năng sáng tạo nên một dòng dân ca thấm đẫm tình yêu quê hương và tình
yêu con người như dân ca Quan họ (!). Có thể hôm nay và ngày mai, người ta đã và sẽ
còn được chứng kiến Viêm Xá như một trung tâm hội hát qui mô và hoành tráng hơn
xưa, nhưng chắc chắn họ sẽ khó có thể còn thấy một Viêm Xá Quan họ với tất cả sự
81
lắng sâu, đằm thắm thủa nào cùng những cây đa, bến nước, sân đình. Tuy nhiên, cùng
với thời gian, sự đổi thay luôn là qui luật không thể khác của cuộc sống.
3.2. XÃ HỘI QUAN HỌ LÀNG
Sau 30 năm đổi mới, dưới tác động của cơ chế thị trường cùng quá trình
mở cửa, hội nhập và sự phân công lại sản xuất, xã hội Việt Nam đã có sự chuyển
biến sâu sắc. Hiện thực đó đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Quan họ làng. Về kết
cấu của xã hội Quan họ làng thì không thay đổi, vẫn bao gồm ba thành phần:
thành phần đa số các cư dân trong làng, thành phần hậu thuẫn trực tiếp và thành
phần các nghệ nhân. Tuy nhiên, tính chất Quan họ của các thành phần xã hội này
đã có nhiều thay đổi. Điều đó liên quan trực tiếp đến sinh hoạt văn hóa Quan họ
làng vùng Quan họ.
3.2.1. Thành phần đa số các cư dân trong làng
Đây là thành phần đông đảo nhất trong các làng Quan họ, có vai trò nền tảng
trong các SHVHQHL. Họ không phải là tinh hoa nhưng là gốc rễ để sản sinh ra
những tinh hoa văn hóa Quan họ. Ngày nay, số đông dân cư này về mặt sinh sống
và nghề nghiệp không còn thuần nông nữa. Họ đã mở rộng kế sinh nhai sang các
ngành nghề thủ công, thương mại dịch vụ và nhất là khoác áo công nhân ở các khu
công nghiệp hiện đại đang mọc lên dày đặc trên địa bàn 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc
Giang - địa hạt của 49 làng Quan họ cổ truyền xưa.
Lớp người già (từ 55 tuổi trở lên) hiện nay vẫn vô cùng yêu quý Quan họ bởi
trong đời sống tinh thần của họ luôn giữ được hơi ấm dù không vẹn nguyên của dân
ca Quan họ truyền thống nửa đầu thế kỷ XX với tính chất chân mộc và lề lối của nó.
Mặt khác, lớp người này cũng ít bị chi phối hơn bởi những “ luồng gió mới” của đời
sống văn hóa nghệ thuật thời đổi mới. Tuy nhiên, trước sự sâm lấn của các hình
thức văn hóa nghệ thuật mới, sự trao truyền và thay đổi của những giá trị văn hóa
nhuốm màu pha tạp đã làm cho họ bị sốc và thường xuyên phải sống với một trạng
thái tình cảm, hành vi là cố gắng bảo vệ giữ gìn những giá trị truyền thống trong sự
lo lắng đã trở thành thường nhật về những gì thiêng liêng nhất mà cha ông để lại có
thể mai một hoặc mất đi trong một tương lai không xa (!). Sống trong tâm trạng ấy
lớp người già một mặt ra sức bảo vệ vốn cổ, mặt khác không ngần ngại bài xích cái
82
mới. Trong đó việc bảo vệ vốn cổ dù cơ bản là tốt nhưng có thể dẫn tới sự bảo thủ
trì trệ; và việc bài xích cái mới, dù ở một khía cạnh nào đó là cần thiết nhưng có thể
làm ngáng trở sự tiếp thu, sự phát triển…
Lớp người trung niên (khoảng từ 40 đến 55 tuổi) là lớp người có một cái
nhìn thận trọng về truyền thống và hiện đại, về cái mới và cái cũ. Họ thuộc lớp
người về cơ bản được đào luyện dưới mái trường xã hội chủ nghĩa có mặt bằng dân
trí khá cao so với lớp cũ. Họ tiếp cận các sinh hoạt văn hóa Quan họ với một tinh
thần kế thừa, tiếp thu truyền thống trong sự đánh giá, chọn lọc. Họ dụng công tìm
hiểu truyền thống; mặt khác, đồng thời họ lại thừa nhận sức hút, chấp nhận sức hút
của cái mới; thực hiện tiếp biến văn hóa giữa những giá trị mới và cũ với một trạng
thái tinh thần của sự bao dung và tỉnh táo…Vì thế, trong xã hội Quan họ làng của
thời hiện đại, họ đã và sẽ đóng vai trò thăng bằng lại sự “đối chọi văn hóa” giữa lớp
già và lớp trẻ để giữ gìn và phát triển văn hóa Quan họ. Qua tìm hiểu, trực tiếp đối
thoại với nhiều người dân ở Viêm Xá, Bịu chúng tôi được biết lớp người trung niên
trong làng khi tham gia vào các sinh hoạt văn hóa Quan họ thường quan tâm chỉ bảo
lớp trẻ về những gì mà lớp trước còn lưu giữ được của lối chơi Quan họ cổ truyền,
nhất là trong mối quan hệ kết nghĩa với các làng Quan họ bạn như Bịu, Đống Cao.
Ở Viêm Xá người ta có thể thấy trong ngày hội ở các điểm hát Quan họ có nhạc
đệm (dân gọi là Quan họ mới) trước cửa đền Vua Bà hoặc trên sân khấu thường có
đông người xem là lớp trẻ, lớp trung niên, khách thập phương, còn rất ít người già
có mặt. Trường hợp ai đó trong số người già có mặt thì cũng thể hiện một thái độ
chừng mực và dò xét, khác hẳn thái độ bình thản của lớp trung niên và thái độ háo
hức của lớp trẻ. Người già ở Viêm Xá còn quan tâm và phê phán ngay cả cách trang
phục quá thoải mái, dễ dãi của lớp trẻ khi họ tham gia các cuộc hát Quan họ trước
công chúng. Ở các làng Quan họ khác trong vùng hiện tượng này cũng tương tự như
ở Viêm Xá trong mối quan hệ giữa lớp người cao tuổi và lớp trẻ.
Lớp người trẻ tuổi (khoảng từ 40 tuổi trở xuống) là lớp người đông đảo nhất
của làng, họ có mặt bằng học vấn đồng đều và khá cao so với các lớp trước. Hiện
nay về mặt nghề nghiệp của những người đã trưởng thành trong lớp người này đang
có xu hướng xa rời nghề nông truyền thống để tiếp cận nhiều hơn với các nghề gắn
83
với đô thị và hiện đại như công nhân, dịch vụ, thương mại, các nghề thủ công
nghiệp có thu nhập nhanh và cao hơn. Họ cho rằng những nghề này (khác với nghề
nông) giúp họ có đời sống văn minh hơn bên cạnh sự sung túc và vị thế xã hội đáng
kể hơn. Do đặc điểm của những nghề mới là gắn với các mối quan hệ xã hội rộng
mở, điều kiện tiếp cận với cái mới cả trong nước và quốc tế tốt hơn làm cho tư duy,
nếp sống, lối sống của họ có nhiều thay đổi theo một xu thế chung là hướng ngoại,
luôn háo hức tìm đến cái mới, cái lạ… Ngay cả một bộ phận trong giới trẻ này do
năng lực, khả năng trí tuệ vì những lý do này khác phải tiếp tục nghề nông thì họ
cũng tìm cách kết hợp vừa làm nông vừa làm thêm những dịch vụ khác để kiếm tiền
khi có cơ hội. Do vậy, dù là không may mắn thoát ly nông nghiệp nhưng họ vẫn có
chí hướng chung của lớp trẻ là hướng mạnh đến cái mới với một tinh thần rất thực
tế (cho dù là chưa tới mức thực dụng rõ ràng như ở các đô thị). Trở lại vai trò và vị
thế của lớp người này với tư cách là một bộ phận quan trọng của đội ngũ đa số các
cư dân trong xã hội Quan họ làng chúng tôi nhận thấy, do tác động của những thay
đổi như đã phân tích ở trên, lớp người này có đặc điểm là trân trọng những giá trị
truyền thống của Quan họ cổ truyền nhưng không háo hức, bằng hành vi và sinh
hoạt thực tế để tham gia vào giữ gìn, phát huy những giá trị đó. Thực dễ thấy là mỗi
khi làng đến dịp chuẩn bị cho những lễ hội và nhất là chuẩn bị cho những sinh hoạt
Quan họ truyền thống thì lớp người tích cực nhất thường là lớp trung niên, thậm chí
là lớp già (lớp người thường quan tâm nhiều đến các sinh hoạt tâm linh) mà không
phải là lớp trẻ. Còn nếu quan tâm thì họ quan tâm đến những hoạt động có tính chất
mới như sân khấu ca nhạc (mà trong đó Quan họ chỉ là một bộ phận), các hoạt động thể
thao, du lịch hiện đại…Mặt khác, điều này cũng chỉ ra một hiện tượng là những năm
gần đây, đội ngũ các nghệ nhân Quan họ của các làng Quan họ có đủ tiêu chí để tham
gia đầy đủ các hình thức sinh hoạt Quan họ nhất là Quan họ hát canh thường là rơi vào
những người đã ở tuổi trung niên, thậm chí người già. Bởi lẽ người nghệ nhân xưa và
nay đều phải lấy từ lớp người trẻ tuổi nhưng thực tế tỷ lệ người trẻ háo hức nhập cuộc
với Quan họ truyền thống đã vơi đi rất nhiều so với trước đây. Không phải ngẫu nhiên
mà ngày nay người ta chỉ có thể tìm thấy những người hát Quan họ trẻ tuổi trên những
sâu khấu biểu diễn, trên làn sóng của đài phát thanh, trên truyền hình chứ không phải
84
trong các hình thức sinh hoạt truyền thống của lối chơi Quan họ xưa, nhất lại là những
sinh hoạt chỉ khép kín trong khuôn khổ của bốn lũy tre làng.
3.2.2. Thành phần giữ vị trí hậu thuẫn trực tiếp
Đội ngũ này nằm giữa một bên là đội ngũ đa số dân làng và một bên là đội
ngũ nghệ nhân Quan họ đích thực cũng đã khác so với ngay cả những năm 1990-
2000 là giai đoạn sự nghiệp đổi mới đã đi được một chặng đường trên dưới 10 năm.
Theo kết quả điền dã của chúng tôi đã được công bố trong năm 2000 thì số lượng
đội ngũ này ở mức 6% dân số của làngtrước cách mạng tháng Tám và khoảng 3%
những năm cuối 1990 của thế kỷ XX. Theo thống kê trên cơ sở số liệu do Ban lãnh
đạo làng Viêm Xá cung cấp mới đây thì nếu số lượng đội ngũ này đạt khoảng 100
người/3038 nhân khẩu của làng (khoảng 3%) vào năm 2000 thì hiện nay số lượng
này cũng chỉ đạt trên 100 người/4.000 nhân khẩu của làng (khoảng 2,5%). Đội ngũ
này hiện nay lại tập trung vào lớp người trung niên và người già. Vẫn như trước
đây, đội ngũ này là những người có hiểu biết khá sâu về Quan họ và đặc biệt họ có
một tình yêu Quan họ thật sự, một khát vọng giữ gìn vốn cổ. Hiện nay trong những
người già của đội ngũ này có tỷ lệ là bộ đội phục viên, cán bộ về hưu ở độ tuổi trên
60 khá đông, là những người rất đáng chú ý. Những người này từng trải, có kiến
thức và có uy tín trong làng, thường hay góp nhiều ý kiến hay dung hòa giữa hai xu
hướng bảo tồn, cách tân Quan họ. Điều này rất quan trọng đối với việc duy trì và
phát triển dân ca Quan họ hiện nay. Không ít người trong số họ thuộc nhiều bài hát,
am hiểu phong tục tập quán, chịu khó tìm tòi trong sách vở nhất là các sách nghiên
cứu về Quan họ cổ truyền để phổ biến, nhắc nhở các thế hệ liền anh, liền chị trẻ của
làng giữ gìn vốn cổ và cách tân làm sao để “đổi mới” Quan họ mà không làm mất đi
truyền thống. Đặc biệt là đội ngũ này thường có ý kiến sát sao, thẳng thắn với cấp
chính quyền thôn, chính quyền các cấp và hệ thống truyền thông báo chí về việc cần
phải làm sao để Quan họ mãi mãi là di sản của cả nước và tài sản văn hóa quí báu
cần gìn giữ của người dân sở tại.
Ở một phía cạnh khác, do hiện nay thành phần đội ngũ hậu thuẫn trực tiếp
này được trẻ hóa và có kiến thức trình độ so với trước đây nên mặc dù không tham
gia đội ngũ nghệ nhân Quan họ nhưng họ có ý thức cao về việc truyền bá, tôn vinh
85
Quan họ với rộng rãi công chúng. Ở Viêm Xá vào dịp lễ hội, khách thập phương kể
cả giới nghiên cứu nhiều khi không thể tiếp cận các anh Hai chị Hai do họ quá bận
nên khách thường được tìm hiểu về các sinh hoạt Quan họ qua đội ngũ này vì họ rất
sẵn lòng, nhiệt tâm trao đổi khi được yêu cầu. Đội ngũ này cũng có nhiều ý tưởng,
đóng góp hay, thiết thực cho việc phát huy vai trò kinh tế của sinh hoạt Quan họ
trong cơ chế thị trường (CCTT). Nhiều người trong số họ như ông Nguyễn Đức
Thúc, Nguyễn Văn Tin, Trần Minh Đoàn đều đã từng là cán bộ lãnh đạo thôn Viêm
Xá khi nghỉ công tác vẫn là những nhân tố tích cực trong việc trăn trở làm thế nào
để Quan họ trở thành một động lực chính phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của
quê hương mình. Trong nhiều lần về Viêm Xá, mỗi lần gặp nhau, ông Nguyễn Đức
Tin, nguyên là chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp của làng thường nói với chúng tôi
câu nói cửa miệng:
Phi thương thì bất phú. Bây giờ Quan họ phải vừa làm văn hóa vừa làm kinh
tế các anh ạ. Người làng tôi vào Hội An, thấy họ hát Bài Chòi thu rất nhiều
tiền mà lại vui. Mình ở đây, giao thông thuận tiện, đất lề quê thói, lại sát
nách thủ đô Hà Nội, sao mình không làm được như họ. Để xem [Nguồn:
PVS của NCS, năm 2014].
Điểm đáng lưu ý là suy nghĩ của ông Tin ngày nay đã trở thành suy nghĩ
thường trực trong tư duy của người dân vùng Quan họ.
3.2.3. Thành phần nghệ nhân Quan họ
Đây là đội ngũ tinh hoa, cốt lõi của các sinh hoạt văn hóa Quan họ làng. Thời
kỳ dưới chế độ phong kiến, dân gian làng xã gọi họ là những liền Anh, liền Chị; anh
Hai - chị Hai, anh Ba - chị Ba, anh Tư - chị Tư, anh Năm - chị Năm. Đến chế độ ta,
nhà nước chính thức vinh danh họ là những nghệ nhân dân gian. Nhiều năm qua
Hội văn nghệ dân gian Việt Nam đã tích cực quan tâm đến những “báu vật nhân văn
sống” (từ dùng của UNESCO) này và hàng năm xét công nhận ở cấp Hội nghề
nghiệp, đến nay đã được hàng trăm người trong phạm vi cả nước. Cho đến gần đây,
với đề nghị của Bộ VHTT&DL, Chính phủ đã có nghị định hướng dẫn về việc nhà
nước chính thức phong tặng danh hiệu "Nghệ nhân nhân dân ", “Nghệ nhân ưu tú”,
theo Luật Di sản văn hóa cho những người có tài năng và đóng góp xứng đáng vào
86
sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, trong đó có các nghệ nhân
Quan họ.
Ở Chương 1 của Luận án, chúng tôi đã có dịp trình bày về quan niệm người
nghệ nhân quan họ cổ truyền với 3 tiêu chí cơ bản. Về những tiêu chí này ngày nay
vẫn có giá trị, tuy nhiên, nhiều thay đổi đã diễn ra.
Về tiêu chí thứ nhất, "Người hát phải là thành viên chính thức của một bọn
chơi Quan họ", ngày nay không còn cơ sở để áp dụng cho việc ghi nhận nghệ nhân vì
hình thức tổ chức sinh hoạt bọn về cơ bản đã chấm dứt từ những năm 50 của thế kỷ
trước, khi mà hoạt động Quan họ được xếp vào hoạt động của phong trào văn nghệ
quần chúng và hình thức đội văn nghệ quần chúng, hoặc câu lạc bộ Quan họ
(CLBQH) ra đời. Ở Viêm Xá, trước những năm 1990 các bọn Quan họ đã được
chuyển hóa vào sinh hoạt ở đội văn nghệ quần chúng và đến sau 1990, do nhu cầu tập
trung vào việc khôi phục, phát triển phong trào ca hát Quan họ ở cơ sở thì đội Quan
họ được thành lập tách ra khỏi đội văn nghệ tổng hợp của làng, nhưng sau khi đội
Quan họ được tái lập thì thực chất đội văn nghệ tổng hợp (khi đó gồm cả hát chèo,
tuồng ca nhạc mới….) cũng không còn hoạt động. Xuất phát từ thực tiễn của sự thay
đổi tổ chức sinh hoạt, tiêu chí thành viên của một bọn hát Quan họ nay chuyển hóa
thành đội viên của đội Quan họ làng (hoặc thành viên CLBQH).
Về tiêu chí thứ hai, thứ ba "Người hát phải có khả năng tham gia tất cả các
hình thức ca hát Quan họ và được vùng Quan họ gọi là anh Hai, chị Hai, anh Ba, chị
Ba..." của nghệ nhân Quan họ cổ truyền thì cơ bản vẫn được duy trì. Tuy nhiên tính
niêm luật, khắc khe cũng giảm bớt bởi lẽ những năm gần đây do việc duy trì lề lối
ca hát, khả năng thuộc nhiều bài hát Quan họ cổ truyền, những hiểu biết về lối chơi
Quan họ cổ truyền cũng bị mai một đi nhiều do tác động của những biến đổi xã hội,
thời kỳ đổi mới như chúng tôi đã có dịp trình bày ở phần trên của Luận án. Còn
ngay cả tiêu chí về sự thừa nhận tự nhiên của dân gian đối với cá nhân mỗi liền anh,
liền chị thì đến nay do thời thế và sự thay đổi của những quy định về giá trị, Nhà
nước mới là người phong tặng danh hiệu nghệ nhân cho các liền anh, liền chị với
những tiêu chí rất cụ thể được ghi trong luật pháp, công dân nào cũng phải chấp
hành. Hơn nữa, người nghệ nhân Quan họ hiện nay cũng cảm thấy phấn khởi, tự
87
hào khi được Nhà nước ghi nhận công lao của mình trong việc bảo tồn, phát huy,
phát triển dân ca Quan họ.
Về tiêu chí phải có khả năng dìu dắt, tạo nguồn lớp Quan họ măng non (xưa
ở Viêm Xá gọi là “em Bé”) thì hầu hết các thành viên của đội Quan họ, theo sự
phân công của lãnh đạo thường rất nhiệt tình trong việc chỉ bảo, đào luyện cho các
em. Ở điểm này chúng tôi sẽ có dịp đề cập ở phần sau của Luận án.
3.2.4. Tổ chức đội Quan họ, câu lạc bộ Quan họ hiện nay
Có thể thấy, sau 1954 khi miền Bắc được giải phóng, Nhà nước chủ trương
xây dựng một nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, trong đó có việc xây
dựng cơ chế chính sách và các mô hình tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ quần
chúng ở cơ sở (xã, thôn). Mô hình sinh hoạt "Bọn Quan họ" không còn nữa mà
chuyển sang mô hình tổ chức "Đội Quan họ” (ĐQH) và gần đây là CLBQH đặt
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền cơ sở. Các liền anh liền chị đều là thành
viên của ĐQH hoặc CLBQH hoạt động theo kế hoạch và phân công nhiệm vụ nhằm
đáp ứng yêu cầu về chính trị và văn hóa của địa phương, cả đối nội và đối ngoại. Ở
Viêm Xá năm 1991, do yêu cầu tập trung cho bảo lưu, phát triển dân ca Quan họ,
ĐQH đã tách ra khỏi đội văn nghệ tổng hợp của làng và chỉ chuyên hoạt động Quan
họ. Về tên gọi hiện nay ở Viêm Xá và nhiều làng Quan họ khác khi thì là ĐQH, khi
là CLBQH và phương thức hoạt động không có gì khác nhau. ĐQH hoạt động mạnh
dưới thời các Đội trưởng là ông Trung, ông Ba, bà Bàn và đến nay là bà Nguyễn
Thị Sang. Hiện nay ban chủ nhiệm câu lạc bộ có 3 người, bà Nguyễn Thị Sang làm
Chủ nhiệm phụ trách chung, bà Nguyễn Thị Hài làm Phó chủ nhiệm phụ trách
chuyên môn, bà Nguyễn Thị Lộ làm Phó chủ nhiệm phụ trách hậu cần. Số lượng
thành viên Câu lạc bộ hiện nay là 39 người, có độ tuổi từ 18 đến trên 90 tuổi.Về quỹ
Câu lạc bộ do các thành viên câu lạc bộ đóng (50.000 đ/người) và nguồn thu từ các
hoạt động ca hát Quan họ có thu của các nhóm trong câu lạc bộ. Câu lạc bộ khuyến
khích thành viên có thể vay tiền quỹ với lãi xuất 0,1%. Chính quyền thôn và câu lạc
bộ luôn khuyến khích hoan nghênh các thành viên có nhiều đóng góp phần trăm tiền
đi hát “dịch vụ” ở các nơi như đám cưới, đám khao thượng thọ, nhà mới, liên hoan
tổng kết các cơ quan đoàn thể v.v…cho câu lạc bộ.
88
Nhiệm vụ chuyên môn của CLBQH chủ yếu là đóng vai trò hạt nhân để tổ
chức các sinh hoạt Quan họ và các lớp dạy Quan họ cho "lớp Măng non” (xưa gọi là
“Em bé”). Đặc biệt CLBQH còn cử các nghệ nhân có chuyên môn cao tham gia dạy
hát Quan họ truyền thống cho các lớp học sinh của Khoa dân ca Quan họ thuộc
Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Bắc Ninh và cả Trường trung cấp Văn hóa
nghệ thuật Bắc Giang.
Hiện nay ở các làng Bịu kết nghĩa với Viêm Xá cũng tổ chức theo hình thức
câu lạc bộ và có khoảng trên 40 thành viên. Dưới đây là Bảng so sánh sự khác nhau
(bao gồm một số điểm cơ bản) của Đội Quan họ hiện nay và Bọn Quan họ xưa.
Bảng 3.1: So sánh đội Quan họ và bọn Quan họ
ĐỘI QUAN HỌ BỌN QUAN HỌ
- Đội Quan họ do chính quyền thành lập. - Bọn Quan họ tự phát nhóm lại với nhau từ những quan hệ cá nhân giữa các liền Anh, liền Chị trong làng.
- Có ban lãnh đạo gồm Đội trưởng, Đội
phó.
- Chỉ có một ông Trùm hoặc bà Trùm.
- Có nguồn kinh phí hoạt động từ hỗ trợ
của chính quyền và tự thu từ các hoạt
động Quan họ.
- Chỉ do đóng góp của thành viên trong
bọn.
- Hoạt động theo chương trình, kế hoạch
hoặc nhiệm vụ do chính quyền chỉ đạo,
định hướng và các hoạt động giao lưu
văn hóa giữa các đội Quan họ với các
làng Quan họ kết nghĩa, kết bạn khác.
- Hoạt động tự phát, chủ yếu là trong các
mối quan hệ kết bạn giữa các bọn. Nội
dung hoạt động của bọn gắn liền với
phong tục tập quán, bản sắc văn hóa làng
và chịu sự chi phối của Hương ước làng.
- Hoạt động trong các thiết chế văn hóa
truyền thống và mới (nhà văn hóa, trụ sở
thôn…) và tại các địa điểm giao lưu văn
hóa trong phạm vi cả nước và thậm trí cả
nước ngoài (khi được chính quyền giao
nhiệm vụ).
- Hoạt động chủ yếu trong các thiết chế
văn hóa truyền thống (đình, đền,
chùa…) và nhà chứa Quan họ trong mối
quan hệ liên làng.
89
ĐỘI QUAN HỌ BỌN QUAN HỌ
- Đội Quan tập hợp những tinh hoa Quan họ nhiều lứa tuổi từ thiếu niên đến người già. Số lượng vào khoảng 30-60 người.
- Bọn Quan họ chỉ gồm những người được thừa nhận là nghệ nhân ở các trình độ khác nhau và không có độ tuổi thiếu niên. Số lượng vào khoảng 6-10 người.
- Đội Quan họ làng là đại diện cho Quan họ làng.
- Bọn Quan họ chỉ là một phần của Quan họ làng, là một bọn Quan họ trong nhiều bọn Quan họ của làng.
- Bản sắc Quan họ làng hội tụ ở Đội Quan họ
- Bọn Quan họ thì ngoài bản sắc chung của Quan họ làng họ còn có những nét riêng chỉ bọn Quan họ đó có.
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
3.3. KẾT BẠN QUAN HỌ
Mối quan hệ kết bạn xưa thông qua sinh hoạt Bọn Quan họ giữa Viêm Xá
với Bịu ngày nay đã được thay thế bằng các sinh hoạt của hai đội Quan họ (CLB)
dưới sự chỉ đạo và bảo trợ của chính quyền hai làng và các tổ chức đoàn thể. Hàng
năm Quan họ Viêm Xá thường chỉ xuống chính thức giao lưu Quan họ bạn với
Quan họ Bịu một lần vào dịp lễ hội đình. Còn Quan họ Bịu thường lên giao lưu với
Quan họ Viêm Xá 2 lần là dịp lễ hội Vua Bà và lễ hội Đình. Ngoài ra cũng còn
những giao lưu mang tính chất cá nhân, nhóm (nhưng không phải là bọn) giữa các
nghệ nhân hai làng do mời riêng khi có cưới, khao, dựng nhà mới…tùy thuộc vào
mối quan hệ thâm giao giữa các liền anh, liền chị của hai làng với nhau. Hiện nay
do cả hai làng đều không còn Bọn Quan họ và nhà Chứa nên các hình thức hát canh,
hát hội các nghi lễ phần lớn đều diễn ra ở đình, đền, nhà văn hóa và ngoài trời. Ví
dụ, năm 2014 trình tự một cuộc đón bạn Viêm Xá chính thức của Bịu Xim như sau:
khoảng 6 giờ sáng các liền anh, liền chị Bịu đã tề tựu ở đình làng để chuẩn bị đón
bạn. 8 giờ sáng Quan họ Viêm Xá xuống đến nhà nghệ nhân Phạm Thị Lành chào
hỏi, thay trang phục sau đó đại diện Quan họ Bịu mời Quan họ Viêm Xá (có sắp sẵn
cơi trầu) ra đình để hai Quan họ cùng làm lễ thờ (gồm nghi lễ và hát). Hai Quan họ
chào hỏi, giao tiếp, phân ngôi nam - nữ (nữ hai làng ngồi chung một bên, nam hai
làng ngồi một bên). Khác xưa, ngày nay ngoài phần lễ cúng Thành hoàng theo nếp
90
cũ có phần lễ mới là Chủ nhiệm câu lạc bộ Quan họ Bịu giới thiệu quan khách hai
bên bằng micro điện tử và tặng phong bì (tiền hỗ trợ Quan họ tự nguyện của quan
khách, người dự). Các cụ nam Quan họ Bịu hát mời nước, mời trầu theo điệu La
rằng, sau đến các cụ nữ Viêm Xá hát Nhẽ ra (cũng La rằng)… và cứ thế canh hát
Quan họ diễn ra qua loa phóng thanh. Về cơ bản là theo lề lối truyền thống, tuy
nhiên, do còn hát tiếp buổi chiều nên canh hát dừng ở “chặng giữa” là hát các bài
Quan họ giọng Vặt. Buổi trưa Quan họ nghỉ để ăn cơm tại đình. Không khí bữa ăn
vui vẻ, ấm cúng và khi có chén rượu đôi khi các liền anh, liền chị còn ồn ào bởi các
câu chuyện phiếm vui vẻ, thập chí có tính chất chọc ghẹo, khôi hài. Bữa ăn không
còn cảnh Quan họ bạn thì ăn, Quan họ chủ thì hát trong một không khí lịch lãm, e
dè như ở nhà chứa trước đây.
Buổi chiều, sau bữa cơm Quan họ hai làng kéo nhau về nhà cụ Quỳnh
(nguyên là đội trưởng Quan họ Bịu những năm 90) hát tiếp khoảng từ 13 giờ 30 đến
15 giờ chiều thì kết lại chia tay, Quan họ Viêm Xá ra về. Thời gian buổi chiều Quan
họ hai làng hát tiếp “chặng giữa” và kết bằng “chặng giã bạn” với bài cuối cùng là
“Con nhện giăng mùng”. Còn khi Quan họ Viêm Xá đón Quan họ Bịu lên làng
mình về cơ bản cũng có những tình tiết sinh hoạt kết bạn như vậy. Tuy nhiên, ở
Viêm Xá những sinh hoạt phức tạp hơn vì ở Bịu Quan họ hai làng có không gian
sinh hoạt hẹp hơn, chủ yếu là ở đình; còn ở Viêm xá không gian rộng gồm cả sinh
hoạt Quan họ ở đình, đền, chùa và thường là hát nhiều vì số ngày Quan họ bạn lưu
lại Viêm Xá dài hơn. Những năm gần đây, thường Quan họ Bịu lên Viêm Xá có ngủ
qua đêm nhưng Viêm Xá thì hãn hữu mới ngủ qua đêm ở Bịu. Trong khi đó, những
năm trước kia Quan họ bạn chơi và hát cứ hai, ba ngày là chuyện bình thường, nhất
là vào dịp lễ hội và thời điểm “ nông nhàn” của hai làng.
Còn một biểu hiện mới nữa của Quan họ kết bạn hiện nay là Câu lạc bộ
Quan họ của Viêm Xá và các làng Quan họ nói chung đã mở rộng quan hệ ca hát và
các sinh hoạt Quan họ khác ra khỏi các mối quan hệ khá khép kín của bọn Quan họ
xưa là chỉ trong khuôn khổ hai làng kết nghĩa, kết bạn. Theo lời kể của nghệ nhân
Nguyễn Thị Sang thì những năm gây đây, ngoài việc giao lưu với Quan họ kết
nghĩa Bịu thì Viêm Xá còn mở rộng giao lưu với các làng Quan họ như Chọi, Bồ
91
Sơn, Thị Cầu, Thị Chung, Yên Mẫn, Yna... Lý do giao lưu kết bạn là hát hội, hát
mừng cưới, khao thọ, nhà mới, đầy tháng con vv… Tuy nhiên, các làng này khi mời
Quan họ Viêm Xá giao lưu tại các sự kiện của làng phần đông là mời các liền anh,
liền chị trẻ tuổi có xu hướng hát Quan họ trẻ và cách tân, không câu nệ lề lối và
mục đích để mua vui, giải trí là chính.
3.4. DIỄN XƯỚNG QUAN HỌ
Ở Chương 2 của Luận án chúng tôi đã trình bày về thang bậc, trình độ của
người nghệ nhân và diễn xướng Quan họ của nghệ nhân Làng Viêm Xá xưa - một
làng Quan họ tiêu biểu với tư cách là Thủy tổ của 49 làng Quan họ trong vùng Kinh
Bắc. Ở chương này, chúng tôi tìm hiểu các sinh hoạt ca xướng mà cho đến nay vẫn
hiện tồn nhưng đã có nhiều đổi thay với tư cách là những sinh hoạt cơ bản của diễn
xướng Quan họ ở Viêm Xá và cũng là ở các làng Quan họ hiện tại gồm: Hát canh,
Hát nghi lễ, Hát hội và những biểu hiện đổi thay của thang bậc, trình độ người nghệ
nhân Quan họ.
3.4.1. Thang bậc nghệ nhân Quan họ
Về các thang bậc trình độ của người nghệ nhân Quan họ truyền thống đến
nay cũng có thay đổi, chẳng hạn, đối với trình độ “ca đủ lối, đủ câu” (hoặc nói như
một số làng Quan họ “không thua một lối, không kém một câu:” thì hiện nay ở
Viêm Xá và các làng kết nghĩa với Viêm Xá đã thưa hơn rất nhiều so với trước
Cách mạng tháng Tám và ngay cả những người được xếp vào hàng ngũ này như các
liền chị Nguyễn Thị Trạch (83 tuổi), Nguyễn Thị Thềm (55 tuổi, Nguyễn Thị Sang
(60tuổi), Nguyễn Thị Lộ (56 tuổi)vv… thì về đại thể cũng là trên danh nghĩa lý
thuyết, vì có tình trạng nhiều bài nghệ nhân chỉ nhớ khi có ai nhắc lại hoặc hát “mào
đầu” vài câu. Điều đáng chú ý ở đây là nếu với trình độ “thuộc” như vậy thì khi vận
dụng vào cuộc hát, nhất lại là hát thi sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Có lẽ vì vậy
mà một trong những tiêu chuẩn rất quan trọng luôn đặt ra cho người nghệ nhân là
phải “chóng thuộc, nhớ lâu, bắt chước giỏi”. Mặt khác, về thời gian, để có thể đạt
trình độ “đủ lối, đủ câu", người nghệ nhân Viêm Xá thường rèn luyện ít nhất
khoảng 10 năm (từ 13-14 tuổi đến 23-24 tuổi). Ví dụ: cụ Thị - một cụ Thượng của
làng kể rằng cụ học hát từ năm 14-15 tuổi đến ngoài 30 tuổi vẫn không thuộc được
92
trên 100 bài. Cụ nói: “Thuộc là một chuyện nhưng lúc hát còn ngân nga, nhấn nhá
nữa chứ, phải thuộc lắm mới thế được”.
Với trình độ “đặt câu bẻ giọng” và có giọng hát “vang - rền - nền - nảy”
thì nghĩa là vừa phải có trình độ sáng tác các bài ca mới, (kể cả bài “độc”) vừa
phải có trình độ ca hát đạt tiêu chuẩn theo những yêu cầu của âm nhạc dù là âm
nhạc dân gian. Đạt đến trình độ này vào những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI ở Viêm Xá có các nghệ nhân Nguyễn Thị Các, Ngô Thị Lịch, Nguyễn Thị
Nhi, Ngô Thị Trạch... Còn các nghệ nhân trong khoảng 10 năm trở lại đây đang
bộc lộ xu hướng ngại học các bài Quan họ quá cổ vốn có tiết tấu, giai điệu chậm,
dài dòng lại khó thuộc (các bài Quan họ cổ rất nhiều hư từ, luyến láy). Các nghệ
nhân ở tuổi đang sung sức, hát nhiều như Nguyễn Thị Sang, Nguyễn Thị Thềm,
Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Đức Nhận vv… đã ở trình độ ngấp nghé “đặt câu, bẻ
giọng” thì thường có tâm lý là vừa muốn giữ gìn học hỏi vốn cổ vừa muốn cách
tân thật nhiều để có thể phù hợp với các đối tượng thưởng thức trẻ và thỏa mãn
ngay chính sở thích của mình. Cho nên trong những năm gần đây trong các cuộc
thi do Trung tâm văn hóa tỉnh Bắc Ninh tổ chức có hiện tượng nghệ nhân Viêm
Xá tham gia hát thi cả hai hình thức: Hát đối đáp (truyền thống) và hát Quan họ
mới (lời mới có nhạc đệm). Nhìn chung xu hướng đẩy nhanh tiết tấu, giảm bớt
hư từ, luyến láy khi hát có thể dẫn tới khả năng mai một nhanh các làn điệu
Quan họ cổ. Ví dụ, ông Nguyễn Đức Ba là người sáng tác Quan họ của đội Quan
họ Viêm Xá nói, chỉ một câu thơ theo điệu Còn duyên: "đến hôm mồng sáu
tháng hai thì về" người ta có hai cách hát. Cách thứ nhất, với người giỏi hát vẫn
biết luyến láy thì hát: "đến hôm là hôm mồng sáu........tháng hai chứ hai thì về".
Người hát sẽ luyến láy ở khoảng giữa chữ "sáu" với chữ "tháng". Cách thứ hai là
người hát không biết hoặc ngại luyến láy thì thay bằng lời là: "đến hôm là hôm
mồng sáu sáu tháng hai chứ hai thì về". Cách hai sẽ hát với tiết tấu nhanh hơn, là
một dạng hát "tắt". Dưới đây, chúng tôi đã thiết kế một bảng so sánh giữa một
bài Quan họ hát "đủ" và một bài Quan họ hát " tắt" để góp phần minh hoạ cho
thực trạng này:
93
Bảng 3.2: Bảng so sánh giữa một bài hát Quan họ hát "đủ"
và một bài hát Quan họ hát "tắt"
KIM LAN ĐƯỜNG BẠN
(Giọng lề lối)
Hát đủ Hát tắt
...Thì Kim í i a la lan ơi a em bên hội là
thì em ới hừ nhớ bạn í i a ha này a há hối
hà ố ô là này ô ố ô ố là ố này rằng ô ơ ô
ố như ới hư đấy ơi.
La mấy em bên hội là la hối hạ hối hừ
này lan ối hừ...
…Thì kim í i a la Lan ơi a em
bên hội là, thì em ới hừ
nhớ bạn - có la mấy kim nay ối à la lan
ơi này còn á a không la ố xong tình bằng
không hay đã ư hư la mấy để hối hà là đã
có nơi hự hừ la…
NHẤT NGON LÀ MÍA LAM ĐIỀN
(Giọng vặt)
Nhất ngon la ấy ngon la bên rằng là tình
rằng là mía song cái hời ả là hời song
cái ả cái ả ới à hời ha song cái ả có a
lam điền ì nhất ngon em mà làm mía
song cái ả có a lam điền cái hưng a cái
hừng à thì dâu í í ngoan a cái hừ thì dâu í
í ngoan
Nhất ngon là mía lam điền nhất ngon la
bên rằng là tình rằng là mía í ơ ơ qua hời
là hời cái ả, cái ả ới à hời ha, cái ả có a
lam điền ì, nhất ngon em mà là mía cái ả
có ả lam điền ấy hư hư ấy hừ thì dâu í í
ngoan, ấy hừ thì dâu í í ngoan
Nguồn: Nghệ nhân Nguyễn Thị Sang, 61 tuổi hát mẫu Viêm Xá, ngày
05/02/2014 Âm lịch [phụ lục 4].
Ghi chú: Đoạn in nghiêng là đoạn mà khi hát tắt người hát đã thay bằng cách hát khác. Về nghệ thuật sáng tác dân ca lâu nay giới nghiên cứu thường quan tâm đến
phương thức ứng tác ngay trong quá trình diễn xướng của dân ca và coi đây là
phương thức sáng tạo chủ đạo của mọi loại dân ca. Theo kết quả nghiên cứu mà tác
giả Trần Linh Quý công bố trong sách “Quan họ nguồn gốc và quá trình phát triển”
thì không hẳn là như vậy khi ông lập bảng đối chiếu so sánh giữa hát đối trong ví,
trống quân, ghẹo… là những dân ca mà quá trình sáng tác chủ yếu là nghệ thuật ứng
94
tác. Với hát đối Quan họ là loại hình dân ca mà phương thức sáng tác không phải
chỉ sử dụng nghệ thuật ứng tác và kết quả là Quan họ còn sử dụng phương thức
sáng tác ngoài quá trình diễn xướng, tức là không sáng tác ngay trong cuộc hát (diễn
xướng). Bằng phương thức sáng tác này, sau mỗi mùa hội thi Quan họ, nghệ nhân
các làng Quan họ vùng kinh Bắc lại bổ sung vào kho tàng dân ca của mình nhiều ca
khúc Quan họ mới. Và để minh chứng cho điều đó, tác giả Trần Linh Quý đã nêu
một ví dụ điển hình về nghệ nhân danh tiếng một thời vùng Quan họ là cụ Tư La
làng Thị Cầu (đã mất). Nhiều bài hát của cụ Tư La (có bài hát sáng tác trước năm
1945) như: Lỡ duyên Chức Nữ - Ngưu Lang, Gọi đò, Con chim thước, Chè mạn
hảo, Còn giời (trời) còn nước còn non vv… và đến nay đã được các làng xếp vào
hàng những bài Quan họ cổ truyền mẫu mực. Những bài hát Quan họ này đã được
nhạc sĩ Hồng Thao ký âm cả nhạc và lời để công bố rộng rãi. Cùng với cụ Tư La
còn nhiều nghệ nhân khác như cụ Cả Vịnh (làng Y Na) sáng tác bài Bốn mùa, cụ
Sáu Tương (làng Y Na) sáng tác bài Đêm qua nhớ bạn… đều theo phương thức
sáng tác ngoài quá trình diễn xướng. Và sau khi phân tích, chứng minh tác giả Trần
Linh Quý đi đến nhận định rằng:
sự xuất hiện của phương thức sáng tác ngoài quá trình diễn xướng trong
Quan họ là sản phẩm tất yếu ở giai đoạn cao của dân ca, là sự xuất hiện
một cách hoàn chỉnh nhất, có giá trị, mở đầu cho sự xuất hiện một
phương thức sáng tác tự do trong dân ca, rất gần với phương thức sáng
tác của những người sáng tác ca khúc hiện đại trong những liên hệ tiếp
nối, phát triển [65, tr.414-415].
Trở lại, đối chiếu với vấn đề sáng tác nghệ thuật của các nghệ nhân Quan họ
hiện nay, chúng tôi nhận thấy những kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Linh Quý
và nhóm tác giả sách: “Quan họ - Nguồn gốc và quá trình phát triển” là chính xác vì
ở Viêm Xá cũng như hầu hết các làng Quan họ hiệu nay phần lớn các sáng tác Quan
họ mới được ra đời từ phương thức sáng tác ngoài quá trình diễn xướng và sau đó
được đưa trở lại các hoạt động diễn xướng như một sự bổ xung, làm mới nội dung
và nghệ thuật Quan họ. Sở dĩ hiện nay có xu hướng sáng tác thiên mạnh về phương
thức này, theo chúng tôi còn là do sự ảnh hưởng của âm nhạc Tây phương hiện đại
95
và cũng do trình độ học vấn của người sáng tác đã cao hơn rất nhiều so với các nghệ
nhân xưa. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng cùng với phương thức sáng tác ngoài
quá trình diễn xướng thì phương thức ứng tác ngay tại chỗ rất cần thiết cho việc gìn
giữ một truyền thống, giữ gìn một năng lực “xuất khẩu thành thơ” của mỗi cuộc
chơi Quan họ đối đáp. Hơn thế nữa ứng tác còn tạo nên sự ganh đua về tài năng và
tăng tính hấp dẫn của cuộc chơi Quan họ. Như vậy, câu chuyện về trình độ “đặt câu,
bẻ giọng” của những sáng tạo Quan họ truyền thống đã và sẽ còn nhắc nhở người
chơi Quan họ hôm nay về sự cần thiết phải kết hợp hài hòa giữa hai phương thức
sáng tác Quan họ để làm sao vừa đưa Quan họ lên một trình độ mới mà vẫn giữ
được chất dân ca - dân gian ngàn đời của nó. Về hoạt động sáng tác hiện nay ở
Viêm Xá không có nhiều. Trong đội Quan họ có nghệ nhân Nguyễn Đức Ba là
người có những sáng tác đặt lời cho Quan họ trong khoảng từ 1995 trở lại đây dựa
vào những làn điệu Quan họ đã có sẵn từ trong truyền thống. Các nghệ nhân khác,
có một vài người trong quá trình chơi Quan họ, chủ yếu là trong hát canh, hát đối
cũng có “tu chỉnh” lời của những bài Quan họ có sẵn. Phần lớn những bài ca Quan
họ hiện nay hát ở vùng Quan họ đều được lấy từ những công trình sưu tầm Quan họ
của các nhà nghiên cứu, các nhạc sĩ như Hồng Thao, Trần Linh Quý, Lưu Hữu
Phước, Đức Miêng, Trần Chính, Lê Danh Khiêm, vv… Trong đó có nhiều bài được
sưu tầm từ chính các nghệ nhân thế hệ trước 1945 đến khoảng những năm cuối thế
kỷ XX ở Viêm Xá, các làng kết nghĩa với Viêm Xá như Bịu, Đống Cao và ở các
làng Quan họ khác trong vùng. Như vậy, cũng có thể thấy hoạt động sáng tạo Quan
họ của các nghệ nhân từ đầu thế kỷ XX đến nay dường như đã “động chạm” đến
một đặc trưng quan trọng của sáng tác dân gian là sự khuyết danh khi mà dần dần
các sáng tác Quan họ có tên tác giả là những cá nhân cụ thể đã tăng lên rõ rệt.
Còn ở thang bậc trình độ xuất sắc nổi bật vượt xa các nghệ nhân truyền
thống và được dân gian gọi là “Quan họ cựu” thì qua khảo sát, điều tra chúng tôi
nhận thấy trong khoảng 30 năm trở lại đây, kể cả giai đoạn đỉnh điểm phục hưng
Quan họ (từ 1990 đến nay) ở Viêm Xá chưa thấy có thêm một nghệ nhân nào đạt
trình độ như các cụ Bánh, cụ Tập, cụ Hừu, cụ Ruộng của những năm đầu thế kỷ XX
mà chúng tôi đã có dịp trình bày ở Chương 2 của Luận án. Trong số các nghệ nhân
96
và cũng là thành viên đội Quan họ làng thì cho đến nay chỉ còn cụ Ngô Thị Nhi (93
tuổi) là người duy nhất thuộc trên 100 bài hát Quan họ cổ. Hiện cụ Nhi là một trong
7 nghệ nhân của làng đã được tỉnh công nhận là nghệ nhân cấp tỉnh và là một trong
4 người (gồm các nghệ nhân: Ngô Thị Nhi, Nguyễn Thị Bàn, Trần Thị Phụng, Ngô
Thị Lịch) đã làm hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xét phong tặng danh
hiệu “Nghệ nhân ưu tú” cấp Nhà nước. Hiện nay ở các làng Quan họ, kể cả Viêm
Xá đang có một xu hướng có thể dẫn tới sự mai một nhanh những làm điệu Quan họ
ở chỗ: các liền anh, hiền chị lớp trẻ rất ngại học hát những bài Quan họ cổ, nhất là
những giọng lề lối. Họ có chung một sở thích là chọn học những bài có giai điệu
đẹp, dễ hát, dễ hấp dẫn người nghe như: Người ơi người ở đừng về, Cây trúc xinh,
Trái núi thiên thai, Vào chùa; Con ếch, Ngồi tựa song đào, Còn duyên kẻ đón người
đưa vv… tình hình như vậy thì việc bảo lưu, duy trì các tiêu chí, thang bậc trình độ
của các nghệ nhân trong tương lai sẽ là một công việc không dễ ràng đối với cả các
cơ quan chức năng và bản thân người trong cuộc ở các làng Quan họ.
3.4.2. Hát canh
Như đã được trình bày ở Chương 2, đây là sinh hoạt chủ đạo của diễn xướng
Quan họ xưa và được diễn ra trong không gian nhà chứa do các bọn Quan họ kết nghĩa
hoặc kết bạn thực hiện. Kèm theo đó là các sinh hoạt cũng tại nhà chứa như ăn uống,
giao tiếp, ứng xử giữa các bạn Quan họ và một phần nào đó là giữa chủ nhân nhà chứa
và các Quan họ. Nhưng hát canh Quan họ hiện nay đã khác xưa khá nhiều:
Thứ nhất, khác về không gian diễn xướng. Từ nhiều chục năm nay nhà chứa
đã không còn mà thay vào đó là hát ở đình, đền, nhà văn hóa (có thể bên trong nhà
và có thể cả ở ngoài sân). Cho đến một vài năm lại đây dưới tác động của nhiều ý
kiến cho rằng cần phải khôi phục nhà chứa thì ở Viêm Xá, các làng Bịu kết nghĩa
với Viêm Xá khi hát canh đã chọn lại mỗi làng có một nhà để hát canh. Cụ thể ở
Viêm Xá là nhà cụ Khu (vốn là nhà chứa trước đây) và ở Bịu là nhà cụ Quỳnh. Tuy
nhiên không phải thường xuyên và cố định như trước đây.
Thứ hai, khác về chủ thể thực hiện (xét cả phương diện tổ chức và con
người). Hiện nay thực hiện là CLBQH chứ không còn là bọn Quan họ như trước
đây. CLBQH thì có tới 40 - 50 người, còn bọn Quan họ thì chỉ có 10-12 người
97
(gồm cả Quan họ chủ và Quan họ bạn). Xưa ở Viêm Xá thường là mỗi bọn Quan
họ đều có một nhà chứa và nhà chứa khi đó rất rộng rãi phù hợp với số lượng
người của mỗi bọn, nay nhà chứa không còn nữa. Chính vì thế mà hiện nay sinh
hoạt hát canh chỉ có thể là ở đình, đền, nhà văn hóa để phù hợp. Còn một khía
cạnh khác nữa về chủ thể là người nghệ nhân của ngày hôm nay như chúng tôi
đã phân tích khá kỹ ở các phần trên, họ đã rất khác xưa cả về trình độ, sở thích
và tâm thế vào cuộc chơi so với các liền anh, liền chị xưa. Nghệ thuật ca hát mà
họ thể hiện đã nghiêng về xu hướng cách tân với cường độ và nhịp điệu âm nhạc
nhanh hơn, ca từ bớt luyến láy hơn. Đặc biệt, việc sử dụng micro điện tử và tăng
âm đã gần như phá hỏng các tiêu chí truyền thống quan trọng của giọng ca là
vang - rền - nền - nẩy.
Thứ ba, khác về mục đích diễn xướng. Có thể nói do nhiều lý do như chúng
tôi đã trình bày ở các phần trên, mục đích của hát canh xưa mang tính chất sinh hoạt
nghệ thuật dân gian, đó là sinh hoạt để tự thỏa mãn, để giao duyên “xum vầy bè
bạn”, còn hiện nay mục đích này đã mờ nhạt đi rất nhiều bởi sự lấn át của xu hướng
sinh hoạt mang tính chất biểu diễn cho người khác nghe mà ở đó, các liền anh, liền
chị đã trở thành diễn viên. Cảm xúc và tâm thế tình cảm, nghệ thuật của người hát
đã có sự dịch chuyển đáng kể.
Thứ tư, khác về thời gian diễn xướng, Trước đây các bọn Quan họ ở Viêm
Xá khi đã hát canh với bạn thường là phải từ 2 ngày đến 3 ngày tùy vào những năm
hội tổ chức to hay nhỏ, tức là dài ngày hay ngắn ngày. Do đó một cuộc hát canh có
thể là nhiều canh hát diễn ra “thâu đêm suốt sáng”. Còn hiện nay hát canh thường
tối đa là một ngày (khi thì từ chiều hôm trước đến chiều hôm sau hoặc trong ngày).
Sự thay đổi này cũng làm cho mật độ hát và do đó cũng làm cho độ “say” của người
hát giảm đi đáng kể. Cụ Họa ở Viêm Xá lúc sinh thời thường nói: “Quan họ đã hát
là phải thâu đêm suốt sáng ngày này sang ngày khác cho bõ cái công gặp nhau".
3.4.3. Hát nghi lễ (cầu đảo, lễ thờ, hát mừng)
- Hát Quan họ cầu đảo ở Viêm Xá hiện nay đơn giản, ngắn gọn hơn nhiều so
với trước đây và cũng vẫn thực hiện vào những năm làng gặp hạn, cây cối, đồng
ruộng khô nẻ. Cụ thể, vào tối ngày 5 tháng 2 âm lịch (trước hội đền Vua Bà một
98
ngày) Bọn Quan họ hai làng kết nghĩa Viêm Xá- Bịu vào Đền làm lễ thờ thần và
chia hai bên ngồi chiếu trước bàn thờ, Quan họ sở tại mở màn bằng bài Quan họ cổ
theo điệu La rằng với nội dung cầu đảo:
Em ngồi em bấm lá Sen
Cơn mưa kéo đến đã đen cả giời (trời)
Cầu cho mưa thuận gió hòa
Cầu cho dân xã mọi nhà ấm no.
Bài thơ được hát khoảng 4-5 phút, sau đó Quan họ vào hát thờ. Liên quan
đến nội dung hát cầu đảo (cầu mưa), sáng ngày 6 tháng 2 âm lịch, trên sâu khấu
được dựng lên ở sân vận động, dân làng cùng chính quyền thôn tổ chức khai mạc lễ
hội. Trong màn lễ hội này hoạt cảnh sân khấu về trò chơi cướp cầu được thực hiện,
có cả diễn viên đóng vai Vua Bà. Sau khi quả cầu được đưa vào lỗ dân làng hò reo
vui mừng vì như vậy sẽ có mưa để đồng ruộng tốt tươi, được mùa.
Như vậy trò chơi cướp cầu như một sự tiếp nối và hiện thực hóa lòng mong
ước của dân làng về việc cầu mưa mà trong phần lễ các liền anh liền chị đã cầu đảo.
Điểm khác ở đây là tục cướp cầu đã được nghệ thuật hóa trên sân khấu chứ không
còn là một trò chơi dân dã trên mặt đất như xưa nữa (gần đây trò chơi đã được phục
dựng nhưng ít được người dân quan tâm). Người dân đến đây để xem chứ không
còn để tham gia cuộc chơi nữa.
- Hát thờ, như chúng tôi đã đề cập ở Chương 2 là sinh hoạt diễn xướng trong
đền hoặc đình thường là vào lễ hội mùa xuân hoặc mùa thu do Quan họ hai làng kết
nghĩa, kết bạn thực hiện, Ở Viêm Xá hát thờ ở đền Vua Bà ngày 6 tháng 2 âm lịch
gọi “Quan họ ca sự tại đền” và ở đình vào ngày 6 tháng 8 âm lịch gọi “Quan họ ca
sự tại đình". Ở Viêm Xá cơ bản ngày nay vẫn giữ lề lối là hát thờ phải hát đối đáp
nam nữ giữa hai Bọn. Quan họ bạn hát trước, Quan họ chủ hát sau và đều hát giọng
Lề lối không hát giọng Vặt hoặc Giã bạn. Tuy nhiên, ngày nay khi hát thờ nhiều khi
Quan họ dùng micro điện tử với mục đích là cho mọi người cả trong nhà lẫn ngoài
sân, ngoài hội cùng nghe được. Như vậy việc hành lễ đậm chất linh thiêng thành
kính đã đượm mầu giao lưu, biểu diễn; đồng thời với việc giao lưu cùng trời đất,
thần thánh là giao lưu với người dự hội và bạn hát. Qua nhiều lần chứng kiến chúng
99
tôi nhận thấy, về mặt tâm thức của các liền chị, liền anh ngày nay khi thực hiện việc
hát thờ nhiều khi chỉ như một thủ tục cần phải làm nặng về hình thức mà nhẹ về tâm
linh. Mặt khác, chủ thể việc hành lễ hát thờ hiện nay do CLBQH của hai làng kết
nghĩa phối hợp tiến hành chứ không phải là hai bọn Quan họ như trước kia. Vì
thành viên mỗi CLBQH đông người nên thành phần tham gia hát cũng có phân
công, sắp đặt trước. Đồ lễ cũng giản dị gồm hoa quả, trầu cau nhưng được bày đặt
đẹp đẽ, trang trọng. Hiện nay nhiều làng Quan họ khi sinh hoạt hát thờ tại đình
thường hát tập thể mà không hát đối, riêng Quan họ Viêm Xá do dùng hình thức hát
đối nên nhiều khi khách thập phương cảm nhận như một canh hát Quan họ đang
được thực hiện. Thực chất thì thời gian hát thờ ngắn hơn hát canh rất nhiều. Tuy
nhiên, do không còn sinh hoạt nhà chứa mà trong một số trường hợp của những
năm gần đây Quan họ hát thờ xong là nối vào hát canh luôn. Khi đã hát canh thì
không thể thiếu những bài ca giọng Vặt mà trước đây không thể có trong sinh hoạt
hát thờ. Hiện tượng thay đổi này cho thấy tính chất tâm linh trong hát thờ đã giảm
đi và tính chất giải trí, thế tục đã tăng lên.
- Hát mừng ngày nay vẫn là sự tiếp nối của sinh hoạt hát mừng trước đây ở
tính phóng khoáng không quá chặt chẽ của lề lối và phần lớn là hát những bài giọng
Vặt có giai điệu mượt mà, dìu dặt và vui vẻ để tôn vinh không khí tưng bừng của
những sự kiện như đám cưới, đám khao, lên nhà mới, sinh con trai, đỗ đạt, thăng
quan tiến chức …Ở Viêm Xá có đặc điểm là Quan họ hát mừng rất ít có dịp thể hiện
ở các sự kiện vui của các gia đình trong làng và thường thì ít gia đình mời Quan họ
đến hát. Nghệ nhân Nguyễn Thị Sang (Đội trưởng ĐQH) nhận xét khi được hỏi về
hiện tượng này:
Từ bé em đã thấy ở làng Viêm Xá khi các nhà có việc vui ít thấy mời
người đến hát Quan họ. Lúc đó em cũng không biết vì sao. Khi lớn lên
em nhận ra rằng, có lẽ do cả làng là Quan họ rồi nên rất ít nhà mời Quan
họ đến hát mà thường được các làng khác mời đi hát thì nhiều [Nguồn:
PVS của NCS, năm 2015].
Việc các gia đình ở làng khác mời Quan họ đến hát ở nhà mình thường
không thông qua các ĐQH mà trực tiếp với các liền anh liền chị khi họ thấy phù
100
hợp với tính chất cuộc vui. Chẳng hạn mời Quan họ hát mừng đám cưới thì thường
mời Quan họ trẻ đến hát kiểu ca nhạc Quan họ (có nhạc đệm, thường là dùng đàn
organ hoặc đĩa nhạc) hầu hết là những bài giọng vặt như: Song đào, Ngồi tựa mạn
thuyền, Nguyệt gác mái đình, Buôn bấc buôn dầu, Mười nhớ, Cây trúc xinh... và
thậm chí còn xen kẽ cả những tiết mục hát mới gồm những bài có âm hưởng dân ca
như: Làng Quan họ quê tôi, Gặp em trong chiều hội Lim, Trên quê hươg Quan
họ…còn hát trong đám khao, thượng thọ thì lại mời Quan họ bậc trung niên đến hát
canh, hát đối…Làng nào là làng Quan họ thì có thể mời Quan họ khách hát cùng
anh Hai, chị Hai làng sở tại. Vùng Quan họ gọi nôm hát kiểu này là “hát chiếu” (tức
là đến đám rồi rải chiếu ngồi hát). Với hát mừng ở dạng truyền thống này thì nói
chung vẫn mang dáng dấp của hát canh, hát đối nhưng lề lối đã thoáng hơn rất nhiều
so với hát trong các hội vì chủ yếu là để “mua vui cho gia chủ là chính”. Như vậy
có thể thấy trong hát mừng hiện nay, màu sắc của Quan họ cổ truyền đã nhạt phai đi
rất nhiều.
3.4.4. Hát hội
Hát hội của Quan họ thì từ trước đến nay người ta quan niệm chủ yếu gồm
hát trên bộ và hát dưới thuyền. Tuy nhiên, như chúng tôi đã có dịp trình bày thì hát
trong ngày hội còn có hát nghi lễ, hát canh. Hiện nay các hình thức ca hát trong
ngày hội ở Viêm Xá, các làng kết nghĩa với Viêm Xá và vùng Quan họ nói chung
đã phong phú lên nhiều. Trong ngày hội thì ngoài các hình thức diễn xướng truyền
thống như nói ở trên còn thấy sự hiện diện của ca nhạc Quan họ (hát có nhạc đệm) trên
sân khấu, ca nhạc tổng hợp, trong đó có hát Quan họ và hệ thống loa phóng thanh phát
đi những bài hát, chương trình Quan họ từ băng, đĩa…Nhìn chung là không khí của
Hát hội ngày nay khá ồn ào và tạp hơn so với không khí của hát hội xưa.
Trong ngày hội đền Vua Bà hiện nay đã thấy ở trong đền thì hát canh, hát
đối; còn ở sân đền, cổng đền thì hát ca nhạc Quan họ. Người ta đã bắt đầu quen dần
với các hình thức biểu diễn như hát đơn, hát đôi, hát tốp ca Quan họ kiểu âm nhạc
Tây phương hiện đại. Trong số họ có người mặc trang phục Quan họ, có người mặc
quần áo thường ngày, đủ màu sắc. Một kiểu ca hát rất “phong trào” cho dù các bài
ca Quan họ vẫn là chủ đạo. Nếu tinh ý người ta có thể nhận ra một điều: những ca
101
khúc Quan họ truyền thống đã bị cuốn theo những ca khúc mới về mặt cường độ và
tiết tấu âm nhạc.
Một điểm khác nữa là các dạng hát trên bộ như trên đồi, dưới gốc cây, đầu
ngõ xóm của các đôi Quan họ liền anh liền chị ngày nay đã giảm đi rất nhiều. Còn
hát Quan họ thuyền thì ở Viêm Xá không còn hát trên sông mà chỉ còn hát trên hồ
trước sân vận động. Thường là có từ 2 đến 4 thuyền nối đuôi nhau lướt chậm vòng
quanh hồ. Người xem khá đông. Các liền anh liền chị hát bằng micro (dàn âm thanh
mini được để ngay trên thuyền ). Âm hưởng chủ đạo của hát hội vẫn là các bài ca
Quan họ giọng Vặt nhưng đã được đẩy tiết tấu lên rất khác với tiết tấu nhấn nhá,
chậm rãi của Quan họ xưa để phù hợp với nhạc đệm.
Về mặt sở thích có thể thấy rất rõ. Ở khu vực hát Quan họ mới - ca nhạc
Quan họ có số lượng người xem rất đông , đặc biệt là giới trẻ, còn ngược lại ở khu
vực hát Quan họ lề lối - tức hát canh, hát đối người xem rất ít và phần lớn là người
cao tuổi. Như vậy có thể thấy, lễ hội Quan họ và hát hội Quan họ hàng năm ở các
làng Quan họ kể cả ở Viêm Xá và các làng kết nghĩa là một hiện thực sống động đã
phản ánh khá rõ xu hướng phát triển của Quan họ trong tương lai. Con người hiện
đại với một xã hội biến đổi hàng ngày như hiện nay rõ ràng có nhu cầu về mặt thị
hiếu nghệ thuật mới mà ở đó vẫn có chỗ cho nghệ thuật và lề lối truyền thống
nhưng phải là trong sự cách tân không ngừng, bởi vì có một chân lý giản dị và
không thể khác là “con người nào thì nghệ thuật ấy”.
Mặt khác, không gian lễ hội hiện nay hay nói rộng ra là không gian làng quê
hiện nay - cái nôi truyền thống của lễ hội đã biến đổi rất nhiều. Sự biến đổi của
không gian bao gồm cả không gian vật lý và không gian tinh thần theo xu hướng đô
thị hóa, thị dân hóa, rõ ràng đã làm cho hát hội truyền thống trở nên “ khó thở” hơn
nếu không nhanh chóng thích nghi với không gian, môi trường mới.
3.5. VĂN HÓA GIAO TIẾP, ỨNG XỬ VÀ TỤC KIÊNG HÈM
3.5.1. Văn hóa giao tiếp, ứng xử
Về văn hóa giao tiếp, ứng xử của Quan họ, có thể nói trong mấy chục năm
đổi mới, dưới tác động của CCTT, nếp sống, lối sống của cộng đồng và cá nhân đều
có nhiều thay đổi. Trong sự thay đổi ấy có sự thay đổi về văn hóa giao tiếp, ứng xử
102
của người Quan họ ở các làng quê vùng Kinh Bắc. Sự thay đổi đó được biểu hiện rõ
ở một số khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, qua các cuộc điền dã, đối thoại trực tiếp với các cụ ở Viêm Xá,
Bịu, Sen Hồ, Đống Cao, Bồ Sơn…. Chúng tôi nhận thấy rằng, lâu nay, thậm chí cả
một số nhà nghiên cứu trong các công trình của mình thường chỉ quan tâm đến văn
hóa giao tiếp, ứng xử của các nghệ nhân Quan họ và lại là trong các cuộc hát, cuộc
đón bạn, đặc biệt là trong các canh hát tại nhà chứa hoặc sau này là tại đình, đền,
nhà văn hóa…mà không hề biết rằng văn hóa giao tiếp, ứng xử Quan họ là văn hóa
giao tiếp, ứng xử của cả xã hội Quan họ làng. Có lẽ cũng vì sự hướng dẫn của sách
vở và truyền thông đại chúng theo cách hiểu như vậy mà lâu nay trong dân gian
ngoài vùng Quan họ vẫn nghĩ rằng sự giao tiếp, ứng xử đã trở thành "thương hiệu"
về những giá trị chân - thiện - mỹ ấy chỉ là sự giao tiếp, ứng xử trong những cuộc
chơi của các liền anh, liền chị. Tại lễ hội Vua Bà năm 2014 khi trao đổi với nghệ
nhân Ngô Thị Nhi về vấn đề này, cụ nói: "Ngày xưa đường ăn, ý ở của các anh Hai,
chị Hai với bạn hát chẳng qua cũng vẫn là đường ăn, ý ở của cả làng. Có chăng là
khi hát, khi đón bạn người ta nắn nót hơn mà thôi" [phụ lục 4].
Và khi được hỏi chỉ riêng Viêm Xá thế hay các làng khác cũng vậy, cụ Nhi nói:
"Người Quan họ chúng tôi thì ở làng nào cũng thế. Đã không nói thì thôi, nói là
phải đắn đo, nhu mì, không bỗ bã được. Bỗ bã, suồng xã Quan họ bạn chê cười, dấu
mặt vào đâu" [phụ lục 4].
Tuy nhiên, ngày nay những nét đẹp truyền thống trong giao tiếp, ứng xử của
Quan họ làng vì nhiều lý do đã bị mai một và biến dạng rất nhiều. Người dân các
làng Quan họ hiện nay sống trong đời sống hiện đại, sô bồ hơn xưa, quan hệ giao
tiếp, ứng xử của tuyệt đại đa số người dân cũng không cần kiêng cữ, hành vi thoải
mái, đơn giản đi rất nhiều. Cái ý thức về “người Quan họ thanh lịch", không còn
biểu hiện thường trực trong nếp nghĩ và hành vi như xưa. Dường như những nề nếp,
tập tục giao tiếp, ứng xử nền nã, ý nhị xưa đã bị cuốn trôi trong cái nhịp sống công
nghiệp gấp gáp và luôn biến động của xã hội hiện đại. Đấy là đối với đa số người
dân trong xã hội Quan họ làng. Còn đối với các nghệ nhân thì sao? Họ cũng vậy -
giao tiếp, ứng xử xưa chỉ còn tồn tại trong không gian hát Quan họ là chủ yếu
103
(lúc đón bạn, thực hiện nghi lễ, hát canh…). Còn ngoài không gian ấy, trong đời
thường họ cũng thoái mái, không câu nệ vào những lề lối truyền thống xưa. Có
lẽ cái nhịp sống của thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đòi hỏi một văn
hóa giao tiếp, ứng xử tương ứng để phù hợp với hiện tại (!). Ngày nay trong xã
hội đã và đang tồn tại song hành khái niệm sống nhanh và sống chậm. Cái may
mắn của hiện thực đời sống con người hôm nay là người ta vẫn cảm thấy rất cần
sự hài hòa giữa sống nhanh và sống chậm. Văn hóa giao tiếp, ứng xử của Quan
họ đương đại dù có điều này điều khác cần phải kê chỉnh nhưng vẫn đã và đang
là một phần của hiện thực đó.
Thứ hai, văn hóa giao tiếp, ứng xử Quan họ truyền thống được diễn ra một
cách niêm luật, lề lối trong các canh hát, nhà chứa xưa nay đã biến mất hoặc biến
dạng bởi nhà chứa và không gian của canh hát nhà chứa đã không còn nữa. Ngày
này văn hóa giao tiếp, ứng xử Quan họ được thực hành như những hành vi “biểu
diễn”. Các cụ già trong làng đã có một nhận xét xác đáng: "Họ (chỉ các nghệ nhân)
giả vờ lịch sự, giả vờ ý tứ”. Ý của các cụ là: cái văn hóa giao tiếp, ứng xử ấy chẳng
ăn nhập gì với giao tiếp, ứng xử ở đời thường mà các nghệ nhân đang sống. Tức là
sự lịch lãm, ý tứ trong lời ca tiếng hát khác rất xa với đời thường mà lẽ ra nó phải là
sự phản ánh cái vốn có ở đời thường.
Thứ ba, trong văn hóa ẩm thực nay khác xưa rất nhiều. Người Quan họ ngày
nay không quá quan tâm vào việc ở mâm cỗ dứt khoát phải có những món gì mà thay
vào đó là một quan niệm thoái mái hơn về mâm cỗ Quan họ. Chẳng hạn không nhất
thiết trong mâm cỗ là phải 8 hay 12 món, không nhất thiết là đĩa giò phải hai tầng
hoặc là cỗ Quan họ ngày nay đã mời khách là dứt khoát phải có rượu, có bia. Còn
cách thức mời Quan họ bạn ăn cơm ngày nay thì cũng khác xưa ở chỗ Quan họ xưa
khi bạn ăn cơm thì Quan họ chủ hát và thường là trong nhà chứa.Còn ngày nay Quan
họ chủ mời Quan họ bạn và quan khách cùng ăn, còn địa điểm ăn khá đa dạng khi ở
nhà văn hóa khi ở đình hoặc đền, cũng là không câu nệ, ý tứ kiểu “tay tiên chúc chén
rượu đào” hoặc “bưng một bát, hát ba câu” của người Quan họ xưa. Còn việc têm
trầu, ăn trầu thì ngày nay, ý nghĩa văn hóa của miếng trầu vẫn là vừa có ý nghĩa của
sự ăn (ăn trầu) vừa mang ý nghĩa của biểu tượng văn hóa - trầu têm cánh phượng.
104
Miếng trầu thể hiện sự hiếu khách và một tình thân bạn hữu đậm đà của người Quan
họ, kiểu “gừng cay, muốn mặn ta đừng quên nhau”. Tuy nhiên ngày nay người ăn
trầu thực sự không nhiều và do vậy, trong nhiều trường hợp trầu cau được têm chủ
yếu là mang tính thủ tục. Và trong các sinh hoạt Quan họ mới kiểu “ca nhạc Quan
họ” khi có quan khách, khán giả dự thì miếng trầu trở thành như một đạo cụ để dùng
trong một màn “mời trầu” mở đầu cho chương trình biểu diễn Quan họ sâu khấu nào
đó trong ngày lễ hội hay phục vụ một đoàn khách du lịch đến thăm làng.
Thứ tư, về chặng hát giã bạn để kết thúc một lễ hội, một cuộc chia ly của
đêm hát canh xưa thường để lại trạng thái cảm xúc mãnh liệt, lưu luyến đến khó có
thể dứt ra được của hai Quan họ thì ngày nay, do tính chất trình diễn hóa của Quan
họ sân khấu, Quan họ hoạt cảnh mà những cảm xúc tự thân mang đậm tình người
đó đã giảm đi rất nhiều. Bởi người nghệ nhân đã ở một trạng thái “minh họa” cảm
xúc, “diễn” cảm xúc trước đối tượng người xem mà không còn là sự tự biểu hiện cái
tình cảm thật trong thời khắc chia ly của mình với bạn hát nữa. Ở đây, cái tính chất
“tự sản, tự tiêu” của nghệ thuật dân gian làng xã cổ truyền đã bị “nhạt đi” và
nhường chỗ cho tính chất phục vụ người tiêu dùng (người xem) trong một xã hội
hiện đại với cơ chế KTTT hàng hóa.
3.5.2. Trang phục của nghệ nhân Quan họ
Có thể nói trang phục của Quan họ Viêm Xá không có gì đặc biệt so với trang
phục của các liền anh liền chị vùng Kinh Bắc. Thực chất trang phục ngày hội hát
của Quan họ cũng chỉ là những trang phục thường nhật của người dân đồng bằng
Bắc Bộ, có chăng là được cất giữ hoặc may mới cẩn thận chỉ dùng riêng cho đi hát
chứ không dùng lẫn với trang phục khi lao động, làm đồng. Trong những năm 70,
khi phong trào Quan họ chưa thật sự mạnh trở lại, ta có thể nhận biết những bộ
trang phục Quan họ hồi đầu thế kỷ này qua trang phục của Đoàn dân ca Quan họ
Bắc Ninh. Song do đòi hỏi của đặc trưng sân khấu nên những trang phục này ngày
càng được cách điệu hơn, đặc biệt là màu sắc nghiêng về xu hướng "rực rỡ" nhằm
đạt hiệu quả hấp dẫn cho diễn viên. Mấy năm lại đây ở Viêm Xá không chỉ các liền
anh liền chị trong đội Quan họ của làng, mỗi người có một hai bộ trang phục đẹp
được cố gắng may đúng như trang phục truyền thống mà ngay cả nhiều người trong
105
làng cũng may để mặc trong ngày hội, trong các đám rước, đám tế... Viêm Xá vốn
là một làng canh cửi nên dân chúng rất sành chọn vải để may trang phục: lụa tơ tằm
vừa bền, vừa đẹp lại là chất liệu truyền thống của trang phục Việt Nam từ hàng
ngàn đời nay luôn được dân làng Viêm Xá lựa chọn.
* Về trang phục nữ Quan họ
+ Áo "mớ ba, mớ bẩy", nghĩa là ba hoặc bẩy áo dài lồng vào nhau, nhưng phổ
biến ngày nay là mớ ba vừa giản tiện mà vẫn đẹp. Áo dài bên ngoài thường may
năm thân kín đáo và không thắt vạt, màu nền tối, nhã như cánh gián, nâu..., áo mặc
bên trong màu sáng hơn để khỏi lẫn. Bên trong mớ áo dài là áo cánh, may bằng lụa
màu trắng hoặc hoa hiên, vàng cốm; trong nữa là yếm màu trắng, hoặc mỡ gà.
Những người tuổi trung niên thường dùng yếm cổ xẻ, còn các thiếu nữ thường dùng
yếm có cổ viền khác màu với thân yếm. Căn cứ vào kiểu dáng của viền cổ yếm,
người ta phân loại yếm: yếm cổ tròn, yếm cổ xây, yếm cổ thìa. Các cô gái khi dùng
yếm cổ xây, cổ tròn là để làm tôn lên vẻ đẹp đoan trang, tươi trẻ của khuôn ngực và
gương mặt người nữ Quan họ trong những dịp du xuân, hội, lệ...
Cùng với dải yếm, bao trượng, bao thắt lưng đều được thắt ra phía trước theo
một kiểu cách riêng tạo nên búi hoa rực rỡ phía trước, tăng thêm sự duyên dáng và
kín đáo cho người nữ Quan họ. Khăn thắt lưng có thể có nhiều màu nhưng thường
là tươi sáng rực rỡ và có độ dài đủ để cuốn hai vòng quanh thắt lưng. Trong ngày
hội, để làm đẹp, người nữ Quan họ còn đeo vào thắt lưng bộ xà tích làm bằng bạc
óng ánh, điệu đà mỗi khi đi lại...
+ Váy của nghệ nhân Quan họ cũng may bằng chất liệu tơ tằm sao cho khi
mặc vào gấu váy vừa trùm kín mu bàn chân và hơi hớt nhẹ về phía sau.
+ Dép của nghệ nhân nữ làm bằng da thuộc kỹ, đế mỏng, cong ở phía mũi đầu
ngón chân, có một quai lỗ nhỏ để xỏ ngón chân trước khi đi.
+ Khăn đội đầu làm bằng vải the đen hoặc láng đen. Trước khi đội khăn ngoài,
bên trong vấn một vòng khăn dài hết một vòng đầu được quấn lên để tạo gờ và thu
gọn tóc. Đặc biệt theo lời kể của cụ Các, cụ Lịch, cụ Bàn thì Quan họ nữ Viêm Xá
trước đây không đội khăn mỏ quạ mà chỉ đội bình thường, trong khi đó ở các Quan
họ khác, đây là một tiêu chuẩn làm đẹp rất được chú trọng.
106
+ Nón đội của các nghệ nhân nữ là nón ba tầm như ta thấy hiện nay. Quai nón
làm bằng tơ có tua hai bên gọi là quai thao, vậy nên còn gọi nón quai thao. Vì là nón
của các thanh nữ nên ken mỏng, dùng loại lá bánh tẻ vàng óng hoặc ánh phớt hồng,
khi đội hoặc khi cầm tay đều giúp tôn vinh vẻ đẹp thanh tao, mền mại và kín đáo
của người con gái Quan họ. Hình ảnh người con gái Kinh Bắc với chiếc nón quai
thao từ bao đời đã đi vào thơ ca nhạc họa và làm nên một biểu tượng văn hóa độc
đáo một khi đã thấy, đã cảm, không dễ gì quên được.
* Về trang phục nam Quan họ
+ Áo cánh trắng mặc bên trong, bên ngoài là áo dài kiểu năm thân may bằng vải
trúc bâu, vải phin hoặc sồi, lụa. Nếu sang, áo dài có thể bằng the, đoạn màu đen. Mùa
đông có thể mặc thêm áo đoạn lót sa tanh dài dưới đầu gối.
+ Quần thường màu trắng, vải trúc bâu hoặc lụa truội, rộng ống và dài phủ mu
bàn chân.
+ Khăn xếp đội đầu của nghệ nhân Quan họ nam xưa kia là một dải khăn
lụa hoặc nhiễu màu đen được cuốn lên đầu tết hình chữ Nhân tạo cho khuôn
mặt sáng, khỏe, đĩnh đạc. Khăn xếp của nghệ nhân Quan họ nam đến đầu thế
kỷ XX thường được may bằng nhiễu hoặc khăn lượt đen, vải phin, "đóng sẵn"
chỉ việc đội.
+ Nón dứa đàn ông đan như nón Huế nhưng nhỏ hơn, đỉnh chóp nếu cầu kỳ thì
bịt bạc nhọn có "bông bèo bạc" rất đẹp. Về sau này, các nghệ nhân nam thường
dùng ô đen "ngoắc" cổ tay cho tiện và cũng điệu hơn.
+ Nghệ nhân nam ít đi dép như nữ mà đi guốc mộc hoặc giày Gia Định mũi
bọc vải láng bóng trông rất sang trọng, đĩnh đạc.
Theo cụ Thị thì hồi đầu thế kỷ các liền anh liền chị giữ gìn bộ "cánh" của
mình rất cẩn thận và chỉ mặc khi đi hát hội Quan họ. Mặc xong các nghệ nhân
thường giặt ngay, phơi "nỏ", xếp nếp, lót băng phiến rồi cất kỹ.
Như vậy, trang phục Quan họ thực chất vẫn là những bộ trang phục thường
nhật nhưng được may đẹp, thậm chí còn cầu kỳ, nhất là bộ xà tích bằng bạc chế tác
rất công phu của người nữ Quan họ để dùng cho ngày tết, ngày hội... Tuy nhiên,
107
như các cụ cao niên làng Viêm Xá kể, vào ngày hội, bên cạnh những bộ trang phục
đẹp ấy vẫn còn nhận thấy đâu đó không ít những liền anh liền chị mặc những bộ
quần áo cũ kỹ, nâu sồng như đang đi cấy đi cày. Nhưng có một điều đáng trân trọng
là những bộ trang phục ấy tuy cũ, nhưng luôn được gấp nếp, phẳng phiu, sạch sẽ khi
được mặc trong những ngày hội, lệ...
Có thể thấy, cho đến nay trang phục của người Quan họ đã và đang cố gắng
giữ lại những "đường nét" cơ bản của trang phục truyền thống để thể hiện cái cốt
cách đĩnh đạc, đoan trang, nền nã của người Quan họ. Tuy nhiên trong không ít
trường hợp, do ảnh hưởng của yêu cầu biểu diễn trên sân khấu, về mặt lựa chọn
mầu sắc trang phục có biểu hiện lạm dụng yếu tố "rực rỡ" đã làm giảm đi chất "dân
gian - bình dị và kín đáo" của người Quan họ.
3.5.3. Tục kiêng hèm
Tục kiêng kèm trong xã hội Quan họ làng xưa như đã được trình bày ở
Chương 2 của Luận án nay đã mờ nhạt đi rất nhiều. Dường như tục lệ này chỉ còn
nằm trong ký ức của những người già và trên những trang ghi chép sưu tầm của các
nhà nghiên cứu. Qua tìm hiểu và trao đổi trực tiếp với người dân Viêm Xá và hai
làng Bịu kết nghĩa với Viêm Xá chúng tôi được biết ngày nay vẫn còn một số dân
làng nói theo kiểu kiêng hèm nhưng gần như hoàn toàn vô thức. Họ chỉ nói như một
thói quen đã được nhiễm vào ngôn ngữ của họ tự khi nào mà không biết nữa. Năm
2013 trong cuộc tiếp xúc với một nghệ nhân trẻ ở Viêm Xá và một nghệ nhân tuổi
trung niên ở làng Bịu chúng tôi được trả lời: "Chúng em nói theo truyền thống ở
làng. Dân làng nói thế nào chúng em nói thế". Còn ở làng Đống Cao khi chúng tôi
hỏi một người dân đi “xem” hát Quan họ ở đình là tại sao anh lại nói “anh Đôi, chị
Đôi” mà không nói “anh Hai, chị Hai” thì anh trả lời: “không biết, chỉ là nói theo
làng vẫn nói thôi”. Người dân đó không biết rằng nói như vậy là để tránh tên Thành
Hoàng làng theo tục kiêng hèm từ xa xưa của làng. Một dẫn chứng nữa là ở làng
Bịu xưa người dân nói chệch “long” thành “luông” để tránh chữ "long" nhưng ngày
nay số người nói chệch như thế không nhiều mà phần đông vẫn nói là “long”. Như
vậy là, trong tâm thức của người Quan họ trong xã hội Quan họ làng hiện đại đã
108
không còn nặng nề niêm luật về cách thể hiện sự tôn kính các bậc thần linh kiểu
kiêng hèm nữa. Có lẽ cũng do vậy mà hiện nay ảnh hưởng của tục kiêng hèm ở
Viêm Xá - làng thủy tổ Quan họ với các làng trong vùng nhất là với các làng Bịu
kết nghĩa đã không còn đậm nét như trước đây nữa. Ngày nay người các làng Quan
họ cũng không quan tâm đến việc người Viêm Xá nói thế nào mặc dù hàng năm họ
đến Viêm Xá hát hội, chơi hội dường như là ngày một nhiều hơn, đông hơn. Đương
nhiên là người đến lễ hội hôm nay không chỉ với mục đích sinh hoạt tâm linh và
nhu cầu ca hát mà có thêm nhiều mục đích khác đã phong phú và đa dạng hơn xưa
rất nhiều.
3.6. TẠO NGUỒN NGHỆ NHÂN QUAN HỌ
Tạo nguồn nghệ nhân Quan họ để kế tục, bổ sung cho lực lượng các nghệ
nhân cao tuổi từ xưa đã trở thành một công việc, một sinh hoạt văn hóa quan trọng
của các làng Quan họ trong vùng. Cách mà Quan họ truyền thống truyền dạy, nuôi
dưỡng các “Em bé” để trở thành các liền anh liền chị như chúng tôi đã đề cập ở
Chương 2 của Luận án về cơ bản là truyền khẩu, đó cũng là một đặc điểm chung
của các loại hình nghệ thuật dân gian trước năm 1945. Tuy nhiên ngày nay, do trình
độ dân trí, học vấn và do sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ, việc tạo
nguồn nghệ nhân ở Viêm Xá và các làng Quan họ đã có những thay đổi rất đáng
chú ý cả về mặt tổ chức, cách thức truyền dạy cũng như các phương tiện kỹ thuật
phục vụ cho việc truyền dạy, mặc dù cách truyền dạy truyền thống vẫn được duy trì
như một bộ phận không thể tách rời.
Trước hết, có thể nói việc tổ chức truyền dạy Quan họ ngày nay không còn
tự phát như một “thói quen” của các bọn Quan họ xưa nữa mà đã được Nhà nước,
chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương quan tâm chỉ đạo và thực hiện
theo kế hoạch.Trong những năm 1990 và đầu thế kỷ XXI tỉnh Hà Bắc (sau đó là
tỉnh Bắc Ninh. Bắc Giang) được Bộ VHTT cho chủ trương và cấp kinh phí để tổ
chức các lớp học Quan họ cho các em đang ở lứa tuổi thiếu niên gọi là “Lớp Quan
họ măng non” theo phương thức truyền khẩu cổ truyền. Sau mỗi lớp như vậy đều tổ
chức thi hát và trao giải. Năm 1996 ở một lớp như thế cháu Nguyễn Thị Trang (con
109
gái nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm) của Viêm Xá đã đoạt giải A cùng các cháu Trần
Thị Thu, Nguyễn Công Luận, nay đều đã trở thành nghệ nhân của ĐQH làng.
Huyện Yên Phong còn tổ chức lớp cho các học viên có độ tuổi từ 30 đến 40 học
Quan họ truyền thống. Sở dĩ lấy học viên trong độ tuổi nói trên là vì ở lứa tuổi này
mọi người đã yên bề gia thất, cũng không thoát ly được nữa nên địa phương có thể
yên tâm không sợ "mất người". Các lớp này được Phòng VHTT triệu tập ở các làng
lên huyện học tập trung trong thời gian 20 ngày (sáng đi tối về). Làng Viêm Xá có
vinh dự cử hai liền chị là chị Hai Nguyễn Thị Sang và chị Hai Nguyễn Thị Thềm
(Hai nghệ nhân này là chị em ruột và là con của nghệ nhân rất nổi tiếng Nguyễn Thị
Các, đã mất) trực tiếp dạy truyền khẩu tất cả các loại giọng Quan họ cơ bản như La
rằng, giọng Vặt (giọng Lá), Giã bạn… Những lớp học do tỉnh, huyện tổ chức đã
định hướng và khuyến khích cho các làng Quan họ, CLBQH và vùng Quan họ quan
tâm hơn đến việc tạo nguồn nghệ nhân tại chỗ.
Ở Viêm Xá trong những năm gần đây, chính quyền thôn giao CLBQH mở
hai loại lớp học Quan họ hàng năm là loại lớp mở cho đối tượng rộng rãi trong dịp
nghỉ hè và loại lớp học quanh năm. Loại lớp quanh năm học vào thứ bảy, chủ nhật
hàng tuần. Lớp học được tổ chức theo lứa tuổi. Có loại lớp tuổi từ 8 - 16 tuổi, có
loại lớp từ 18 đến 45 tuổi. Học viên khi đến học hát mang theo giấy bút (để ghi
chép), điện thoại di động (để ghi âm) và được kết hợp với dạy truyền khẩu trực tiếp
do các nghệ nhân của ĐQH đảm nhiệm. Riêng đối với lớp Quan họ thể nghiệm các
em được học cả 3 chặng hát của hát canh là: La rằng, giọng Vặt, Giã bạn. Đến nay
nhiều em đã được tuyển vào lớp diễn viên Quan họ của Trường VHNT Bắc Ninh để
học tập như Nguyễn Thị Huyền, Nguyễn Thị Thu, Nguyễn Thị Vi, Nguyễn Thị
Vân…Theo lời nghệ nhân Nguyễn Thị Lộ thì ngoài các lớp kể trên ở Viêm Xá còn
có dạng “học tắt” là một số người ở tuổi trung niên hoặc tuổi già đến thẳng nhà các
nghệ nhân để xin được học tại gia với những mục đích khác nhau. Viêm Xá ngày
nay còn một đặc điểm nữa là số lượng người học là nam giới rất ít so với nữ giới.
Với Viêm Xá, hiện tượng Quan họ nữ đông hơn, hát hay hơn Quan họ nam đã là
hiện tượng có từ lâu đời. Hiện tượng này cũng có ở nhiều làng Quan họ như: Thị
Cầu (Quan họ nam mạnh hơn), Sen Hồ, Thổ Hà (Quan họ nam cũng mạnh
110
hơn)…Khi được chúng tôi hỏi về hiện tượng này ở Viêm Xá, cụ Ngô Thị Nhi nói
một câu rất hóm hỉnh nửa như đùa, nửa như thật: “Vì ở Viêm Xá Vua Bà sinh ra
Quan họ mà”. Hiện nay còn một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng cần
lưu ý là nội dung học vẫn chủ yếu là học hát, còn học giao tiếp, ứng xử trong lối
chơi của người Quan họ thì chưa thật sự được quan tâm. Nhìn từ góc độ văn hóa,
nhất là VHQHL thì đây là một khoảng trống cần được quan tâm để khắc phục vì
liên quan trực tiếp đến việc bảo tồn, phát huy bền vững Quan họ làng truyền thống.
Về địa điểm học hát thì ngày nay do không còn nhà Chứa nên lớp học được
tổ chức khi thì ở đền Vua Bà khi thì ở đình và một vài địa điểm công cộng khác. Do
đó việc ngủ bọn để học hát dường như cũng không còn.
Tiểu kết chương 3 Trong chương này của luận án, chúng tôi trình bày các biểu hiện của
SHVHQHL hiện nay trong sự kế thừa, tiếp nối, đối chiếu với SHVHQHL cổ truyền
(về cơ bản là trước năm 1945). Sự thay đổi của SHVHQHL từ sau 1945 đến nay là
đáng kể, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, hội nhập.
Thời kỳ đổi mới với tác động của công cuộc CNH, HĐH đã làm cho các làng
quê thay đổi mạnh về mặt địa lí - hành chính, mô hình thiết chế xã hội, cảnh quan,
kể cả các di tích gắn liền với các hoạt động văn hóa Quan họ. Đặc biệt, sự thay đổi
theo xu hướng ĐTH ở vùng Quan họ đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự thay đổi cả nội
dung và hình thức của SHVHQHL.
Sinh hoạt văn hóa quan họ làng hiện nay với các nội dung: không gian
SHVHQHL; XHQHL; Văn hóa kết bạn Quan họ; Diễn xướng Quan họ (bao gồm
Hát canh, Hát nghi lễ, Hát hội); Văn hóa giao tiếp, ứng xử Quan họ; Tạo nguồn
nghệ nhân Quan họ. Mặc dù đã được kế thừa các SHVHQHL truyền thống nhưng
dưới tác động của nhiều đổi thay mạnh mẽ của tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội
thời kỳ đổi mới cũng đã thay đổi có thể nói là khá toàn diện. Sự thay đổi về tư duy,
cách nhìn nhận các giá trị của văn hóa có sự dịch chuyển đã làm cho người dân các
làng Quan họ mà hạt nhân của nó là thành phần các nghệ nhân đã có những thay đổi
về hành vi và cách thức sinh hoạt; cách thức sáng tạo các nội dung nghệ thuật khi tổ
chức và tham gia các sinh hoạt văn hóa Quan họ. Mức sống, trình độ sống, chất
111
lượng sống ngày càng cao cùng với nhịp sống công nghiệp, hiện đại... đã đem đến
cho con người những nhu cầu mới, đòi hỏi mới cả với quá khứ (truyền thống), hiện
tại và tương lai. Kết quả là, vẫn với những mặt sinh hoạt VHQHL ấy nhưng đã được
chuyển tải bằng những cách thức và chất lượng khác để phù hợp. Trong những đổi
thay đó, tất yếu có mặt phát huy, phát triển nhưng cũng có mặt tiêu cực khó tránh
khỏi khi đối chiếu với truyền thống - một cuộc sống "nhanh" không thể không có
nhiều điểm đối nghịch với cuộc sống "chậm". Những cái đó đòi hỏi con người phải
thích nghi, thức ứng để tồn tại và tiếp tục tiến lên. SHVHQHL, bằng vào hiện thực
và hiện tại cũng không thể đứng ngoài lề của qui luật biến đổi và phát triển đó.
Ngày nay nếp sống, lối sống thay đổi theo xu hướng của một xã hội hiện đại,
hội nhập mạnh với thế giới bên ngoài đã làm cho con người Quan họ cảm nhận rõ
ràng về một sự cần thiết phải đổi thay các sinh hoạt văn hóa trong đó có SHVHQHL
để phù hợp với nhu cầu tinh thần đã rất khác của con người hôm nay. Tuy nhiên,
bên cạnh nhu cầu cách tân, phát triển thì phần lớn người Quan họ vẫn coi trọng
những giá trị cổ truyền - truyền thống và tìm cách kế thừa nó để giữ lấy cốt cách,
bản chất của loại hình dân ca độc đáo này. Đương nhiên là để giải quyết được yêu
cầu về sự hài hòa, hợp lí giữa bảo lưu - kế thừa và cách tân - phát triển là một công
việc không dễ dàng cả về phương diện lí luận và thực tiễn nhưng lại là một công
việc không thể không làm để phù hợp với quy luật của sự phát triển và để phục vụ
nhu cầu chính đáng của con người đương đại.
112
Chương 4
BẢO TỒN, PHÁT HUY SINH HOẠT
VĂN HÓA QUAN HỌ LÀNG HIỆN NAY
4.1. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN SINH HOẠT VĂN
HÓA QUAN HỌ LÀNG Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) Đảng ta khởi xướng
công cuộc đổi mới đất nước. Nội dung của công cuộc đổi mới bao gồm chuyển đổi
nền kinh tế quan liêu bao cấp của thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc sang nền
kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước và giao lưu hội nhập quốc tế. Kết quả 30 năm
qua của sự thay đổi to lớn đó đã đem lại những thành tựu kỳ diệu. Đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt, trong đó có sự thay da đổi thịt của các
làng quê Việt Nam vốn ngàn đời lam lũ. Trong quá trình đổi mới đi lên đó, đất nước
luôn đứng trước những vận hội to lớn nhưng cũng đồng thời phải giải quyết những
thách thức không nhỏ. Cùng với đời sống xã hội nói chung, đời sống văn hóa của
đất nước cũng chịu sự chi phối đồng thời của cả những nhân tố tích cực và những
nhân tố tiêu cực của quá trình đổi mới. Đối với đời sống Quan họ cũng vậy, cùng
với những sinh hoạt khác của đời sống văn hóa ở các làng quê Việt nam,
SHVHQHL đã chịu sự tác động mạnh mẽ của những nhân tố cơ bản dưới đây:
4.1.1. Tác động của nền kinh tế thị trường
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (năm
1998), khi bàn về tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường (CCTT) đến sự phát triển của văn hóa, Đảng ta đã khẳng định CCTT là
thành tựu, là sản phẩm của nhân loại. Tuy nhiên bên cạnh những "tác động tích cực
và to lớn" của nó là mặt trái, mặt tiêu cực rất cần được nhận diện để có giải pháp
khắc phục.
Về tác động tích cực của CCTT đối với bảo tồn phát huy văn hóa và dân ca
Quan họ. Có thể thấy mấy chục năm qua do vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị
trường đất nước ta đã phát triển toàn diện và vượt bậc, đời sống vật chất và tinh
113
thần của nhân dân được cải thiện đáng kể, mức đầu tư cho phát triển văn hóa và
mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng cao cả về số lượng và chất lượng,
các hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc biệt là văn hóa nghệ thuật truyền thống cả ở
thanh thị và các vùng nông thôn được coi trọng, tôn vinh và phát triển. Dân ca Quan
họ vùng Kinh Bắc cũng là một loại hình nghệ thuật được hưởng lợi từ sự tăng
trưởng và phát triển đó.
Nhờ có tăng trưởng kinh tế, hầu hết trong 49 làng Quan họ hiện nay đều có
những thay đổi lớn, trước hết là cảnh quan, môi trường, cơ sở hạ tầng (điện, đường,
trường, trạm) và đặc biệt là các thiết chế văn hóa, bao gồm cả thiết chế mới như nhà
văn hóa, nhà truyền thống, câu lạc bộ, sân chơi,… và các thiết chế truyền thống gắn
với lễ hội, sinh hoạt văn hóa cổ truyền như đình, đền, chùa, miếu đều được đầu tư
xây dựng mới hoặc trùng tu, tôn tạo làm cho bộ mặt nông thôn ở các làng quê Quan
họ thay da, đổi thịt. Nhờ có cơ sở vật chất, hạ tầng như vậy, tôn giáo, tín ngưỡng
truyền thống, các nội dung và hình thức hoạt động văn hóa, nghệ thuật có điều kiện
bảo tồn và phát triển; các hoạt động văn hóa nghệ thuật mới cũng xuất hiện và có vị
trí nhất định trong đời sống văn hóa làng quê. Sự nghiệp giáo dục phát triển cùng
bầu không khí dân chủ cởi mở và lối sống văn minh hiện đại do cơ chế thị trường
mang lại cũng góp phần quan trọng nâng cao dân trí, khơi dậy trong nhân dân
những tiềm năng sáng tạo và khả năng tham gia tích cực, hiệu quả vào những hoạt
động văn hóa nghệ thuật ở cơ sở. Mặt khác, CCTT và các quy luật của nó cũng tác
động mạnh làm thay đổi tư duy con người, hình thành cách nhìn nhận mới về văn
hóa và các sản phẩm văn hóa với tư cách là hàng hóa để tham gia vào thị trường,
nhất là thị trường du lịch - một ngành kinh tế đặc thù luôn gắn bó chặt chẽ với các
sản phẩm, các sáng tạo văn hóa. Ngày nay có thể khẳng định dân ca Quan họ đã và
đang trở thành nhân tố kinh tế - văn hóa quan trọng làm nên thương hiệu văn hóa và
thương hiệu du lịch cho các làng quê vùng Kinh Bắc cả trong hiện tại và tương lai.
Cơ chế thị trường trong quá trình vận động của nó đã và đang tạo ra một xã
hội công dân mới với những đặc điểm mới về thị hiếu văn hóa nghệ thuật. Họ luôn
có xu hướng tìm đến sự đổi mới, sự cách tân cả trong sáng tạo văn hóa nghệ thuật
cũng như hưởng thụ văn hóa nghệ thuật. Chính hiện trạng này đã và sẽ là nguyên
114
nhân, động lực để dân ca Quan họ và các sinh hoạt văn hóa xung quanh nó thay đổi
và phát triển. Vấn đề là thay đổi và phát triển thế nào để Quan họ mãi là Quan họ
nhưng lại phù hợp với thị hiếu của con người hôm nay - con người đương đại với tất
cả sự năng động và sáng tạo không ngừng…Đối với vùng Quan họ, những công dân
trẻ này chính là những anh Hai - chị Hai, anh Ba - chị Ba mà trong tâm thức của họ,
với tư cách là người trong cuộc, luôn mong muốn giữ gìn và phát triển loại hình dân
ca quê hương để đáp ứng con người hôm nay trên cơ sở của những di sản vô giá mà
cha ông họ đã để lại, trao truyền lại với tất cả tâm huyết của mình.
Cơ chế thị trường với sự thay đổi về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
cùng với việc đa dạng hóa các hình thức sản xuất và phân công lại lao động đã làm
cho các thành phần xã hội ở nông thôn thay đổi, không còn thuần nhất sau lũy tre
làng. Cuộc sống vật chất và tinh thần của con người không chỉ là hướng nội (giữ gìn
bản sắc) mà còn cả hướng ngoại (ảnh hưởng, tiếp thu từ bên ngoài) nữa. Văn hóa
truyền thống đã hướng mạnh đến giao lưu và tiếp thu những tinh hoa của các nền
văn hóa khác. Đó cũng là một qui luật của sự phát triển mà Quan họ không thể đứng
ngoài sự chi phối của nó.
Cơ chế thị trường với khả năng làm cho kinh tế tăng trưởng mạnh, mức sống
của người dân được nâng cao dẫn đến các điều kiện sống được cải thiện, đa dạng và
phong phú. Nếp sống và lối sống của con người bắt nguồn từ văn hóa lúa nước đã
tồn tại cũng bắt đầu thay đổi, hướng tới cuộc sống văn minh hiện đại. Nông thôn và
làng quê, dù ở các mức độ thay đổi khác nhau đều ảnh hưởng của trào lưu đô thị
hóa (ĐTH). Môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái nhân văn và môi
trường xã hội đều thay đổi dẫn đến không gian, môi trường của sinh hoạt Quan họ ở
các làng quê cũng thay đổi. Những thay đổi to lớn về cả xã hội và con người cùng
sự tăng trưởng kinh tế, về cơ bản là những thay đổi tiến bộ và tích cực.
Tuy nhiên, mặt trái của CCTT cũng đem lại những tác động tiêu cực đối với
bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc và dân ca Quan họ. Trong văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII Đảng ta đã nhận định:
Chúng ta không quy mọi xấu xa đều do kinh tế thị trường, nhưng không
thể không thấy rằng về khách quan mà nói kinh tế thị trường với sức
115
mạnh tự phát ghê gớm của nó đã khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, lối
sống thực dụng, làm cho người ta chỉ chú ý đến lợi ích vật chất mà coi
nhẹ giá trị tinh thần, chỉ chú ý đến lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích cộng
đồng, chỉ chú ý lợi ích trước mắt mà coi nhẹ lợi ích lâu dài, cơ bản...
Chúng ta nêu lên mặt trái của cơ chế thị trường không phải để phủ nhận
nó mà để có những giải pháp hữu hiệu…Phải hết sức quan tâm giáo dục
tư tưởng, đạo đức, lối sống… [38, tr.29-30].
Và Đảng ta yêu cầu phải có chính sách để phát triển hài hòa giữa kinh tế và
văn hóa.
Quả thật, nhìn từ thực tiễn mấy chục năm qua của thời kỳ đổi mới chúng ta
nhận thấy tác động của mặt trái CCTT lên sự nghiệp bảo tồn, phát triển văn hóa dân
tộc nói chung và các giá trị của dân ca Quan họ nói riêng là rất đáng kể.
Thứ nhất, nói về quan hệ cá nhân và cộng đồng. CCTT xuất phát từ tính chất
thực dụng và đề cao cá nhân, tư nhân, vô hình chung đã khuyến khích cho sự phát
triển của chủ nghĩa cá nhân, gắn liền với lợi ích cá nhân ích kỷ mà xem nhẹ lợi ích và
vai trò của cộng đồng, dân tộc và làng xóm,…Trong khi đó từ ngàn đời, lịch sử đất
nước đã chứng minh, nhờ có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và cộng đồng,
dân tộc ta đã tạo nên một sức mạnh đoàn kết và văn hóa để đứng vững trước mọi thử
thách của thiên tai, địch họa…Trong đời sống sinh hoạt Quan họ cũng vậy. Sở dĩ từ
bao đời nay chúng ta gìn giữ và phát huy, phát triển được một loại hình dân ca độc
đáo có một không hai là Quan họ, trước hết và trên hết là chúng ta đã giải quyết thấu
đáo, hài hoà mối quan hệ máu thịt giữa vai trò của người nghệ nhân Quan họ và vai
trò của cộng đồng Quan họ làng xã mà trong Luận án này chúng tôi gọi là “Xã hội
Quan họ làng”. Đối với người Quan họ, lối chơi ca hát xuất phát từ mối quan hệ “kết
bạn” và một nghĩa tình “làng trên xóm dưới”, “lá lành đùm lá rách”, “người ơi người
ở đừng về”... luôn là cơ sở, là nền móng cho sự đơm hoa kết trái để làm nên danh
tiếng đặc sắc của dân ca một vùng đất… Trong tất cả mọi sinh hoạt Quan họ truyền
thống, ở đâu trong vùng quê Kinh Bắc, người ta cũng nhận thấy sự hiện diện chủ đạo
của tinh thần tập thể, cộng đồng mà mỗi cá nhân tham gia vào đó dù là những nghệ
nhân danh tiếng cũng chỉ coi mình như một sự “đóng góp nhỏ bé" với ý thức khiêm
nhường được thể hiện ở mức độ cao nhất có thể.
116
Thứ hai, CCTT với biểu hiện tiêu cực là làm cho con người chỉ chú ý đến lợi
ích vật chất mà coi nhẹ giá trị tinh thần, chỉ chú ý đến lợi ích trước mắt mà quên đi
lợi ích lâu dài đã dẫn tới hiện tượng “thương mại hóa văn hóa”, “thương mại hóa
Quan họ”, biến Quan họ trở thành một thứ hàng hóa thô thiển để kinh doanh kiếm
tiền, vì lợi ích thiển cận trước mắt sẵn sàng bóp méo truyền thống để đáp ứng những
thị hiếu tầm thường, thiếu hiểu biết của một bộ phận đáng kể người “tiêu dùng”.
Trong khi đó người ta quên mất rằng, Quan họ trong CCTT cũng có thể là một loại
hàng hóa để đem lại lợi ích kinh tế nhưng là loại hàng hóa đặc thù có hàm lượng
văn hóa rất cao - loại hàng hóa chỉ có thể hướng tới những giá trị chân - thiện - mỹ.
Do đó, dưới ảnh hưởng của mặt trái CCTT, chỉ coi trọng lợi ích trước mắt mà quên
đi lợi ích lâu dài, lợi ích văn hóa của Quan họ như đã nói, thì rất có thể vào một thời
điểm nào đó của lịch sử, Quan họ sẽ không còn là Quan họ nữa và thậm chí là mãi
mãi không còn nữa trong kho tàng di sản văn hóa vô giá của dân tộc…
4.1.2. Tác động của khoa học công nghệ
Lịch sử phát triển khoa học công nghệ của nhân loại từ trước đến nay đã
chứng minh rằng, khoa học công nghệ luôn có vị trí tiên phong, đầu tầu trong sự
phát triển kinh tế-xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc. Có thể nói tất cả mọi quốc gia, dân
tộc chỉ có thể tạo những bước ngoặt, thậm chí là sự đột phá, nhẩy vọt trong quá
trình phát triển khi đạt được những tiến bộ, thành tựu về khoa học công nghệ. Lịch
sử phát triển của các quốc gia Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc… đã
chứng minh rất rõ điều đó. Như vậy khoa học công nghệ đã thể hiện vai trò to lớn
và không thể thiếu trong đời sống kinh tế-văn hóa-xã hội của nhân loại, của mỗi
quốc gia và đến cả từng địa hạt nhỏ nhất như làng xóm, gia đình. Khoa học công
nghệ cũng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của văn hóa trong đó có văn hóa
truyền thống và các sinh hoạt văn hóa Quan họ.
Khoa học công nghệ có thể làm thay đổi phương thức sống của con người,
trong đó có nếp sống và lối sống của cộng đồng và cá nhân. Nếp sống và lối sống
thay đổi thường kéo theo sự thay đổi về phong tục tập quán và những chuẩn
mực, giá trị liên quan trực tiếp đến đời sống văn hóa nghệ thuật của con người.
Rõ ràng, trong thời kỳ cổ trung đại con người sống ở trình độ thủ công nghiệp thì
117
nếp sống, lối sống khác; tiếp theo trong thời kỳ cận đại - hiện đại con người sống
ở trình độ công nghiệp thì nếp sống, lối sống phải có sự phát triển phù hợp; còn
hiện nay, khi con người sống ở trình độ hậu công nghiệp và tri thức thì nếp sống,
lối sống càng có nhiều thay đổi. Cùng với đó, do sự tác động của khoa học công
nghệ, đời sống văn hóa nghệ thuật của con người ở mỗi thời kỳ cũng có sự phát
triển rất khác nhau.
Hiện nay, SHVHQHL tồn tại và phát triển trong bối cảnh một xã hội đổi mới
đang trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế cũng chịu sự ảnh hưởng, tác
động của khoa học công nghệ trên nhiều phương diện.
Khoa học công nghệ cùng với CCTT đã góp phần quan trọng hình thành nếp
sống và lối sống văn minh hiện đại dựa trên sự ứng dụng những thành tựu, sản phẩm
của khoa học công nghệ vào đời sống con người. Một xã hội tiêu thụ, tiêu dùng có mức
sống ngày càng cao đòi hỏi sự hưởng thụ cũng cao hơn về đời sống tinh thần liên quan
chặt chẽ đến văn hóa nghệ thuật, trong đó có Quan họ..
Dưới tác động của khoa học công nghệ với sự ra đời của hệ thống truyền
thông hiện đại, như phát thanh - truyền hình, mạng Internet, máy vi tính, điện thoại
di động,… con người đã sống trong một “thế giới phẳng” hầu như không còn sự
ngăn cách về thông tin, về tri thức. Người ta đã bắt đầu nói nhiều về một “ngôi làng
toàn cầu” [99]. Sự ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa ngoại lai đến Quan họ
dường như đã diễn ra trực tiếp hàng ngày, hàng giờ.
Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa đã tới mức không nhất thiết phải có sự đi lại,
gặp gỡ theo phương thức truyền thống như trước đây. Người dân của một làng
Quan họ Việt Nam có thể ngồi ở nhà mà vẫn có thể biết được một loại hình dân ca
của một quốc gia xa xôi nào đó “gần giống” với dân ca Quan họ của quê hương
mình...để rồi có thể giao lưu, học hỏi được một điều gì đó để cải biên Quan họ, bồi
đắp, phát triển nó! Quả thật, hiện nay khoa học công nghệ đã đem lại cho cuộc sống
của con người nhiều điều kỳ diệu như thế hoặc có thể hơn thế.
Từ thành tựu của khoa học công nghệ, một ngành công nghiệp văn hóa đã
hình thành và đến nay đang phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới. Việt Nam cũng
đang xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa cho một giai đoạn
118
tương đối dài hơi từ nay đến năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết 33 của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Người ta có thể hình dung, với một bức ảnh chụp cảnh sinh hoạt
Quan họ trong ngày hội ở làng Viêm Xá chỉ cần đưa vào hệ thống máy in hoặc
mạng internet thì ít giây sau cả nhân loại đã có thể biết về Quan họ và ngày hội
Quan họ của dân tộc Việt Nam với hàng triệu phiên bản có chất lượng hình ảnh
“như thật” trên hiện trường… Điều đó sẽ liên quan đến sự ra đời của một phương
thức trao truyền, quảng bá hoàn toàn phi truyền thống mà vẫn rất hiệu quả. Tuy
nhiên, việc cảm nhận chân thật về cái hay, cái đẹp của Quan họ chỉ là qua “mặt
giấy” và màn hình như vậy có thỏa mãn được con người ở trên khắp hành tinh này
hay không thì lại là một chuyện khác.
Với tác động của khoa học công nghệ, dân ca Quan họ của làng quê hát không
nhạc điệu, không sân khấu đã được đưa thành ca nhạc chuyên nghiệp với đầy đủ ánh
sáng, âm thanh điện tử, phông màn tự động hóa và thậm chí cả sân khấu quay để biểu
diễn cho nhiều đối tượng khác nhau xem, trong đó đông đảo nhất là thanh thiếu niên -
một đối tượng phục vụ quan trọng của văn hóa nghệ thuật mọi thời đại. Vậy có phải
là dưới tác động của khoa học công nghệ hiện đại người ta đã có thể làm méo mó
Quan họ cổ truyền đi rồi không (?!).
Ở một khía cạnh khác, hơn nửa thế kỷ qua, khoảng từ những năm 1955 đến
nay, do sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước trong chủ trương phục hồi vốn
cổ, cùng với nhiều hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống khác,
hoạt động nghiên cứu khoa học về Quan họ đã đạt được thành tựu to lớn. Những kết
quả nghiên cứu này đã góp phần quan trọng để Quan họ được UNESCO vinh danh
là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Những kết quả nghiên cứu, những tài
liệu, băng đĩa, phim ảnh về Quan họ suốt gần một thế kỷ qua đã trở thành cơ sở
khoa học cả về mặt lý luận và trực quan để bảo tồn, phát huy, phát triển dân ca
Quan họ một cách khoa học, khắc phục và hạn chế được những khuynh hướng biến
đổi làm mất đi bản sắc và truyền thống của Quan họ.
Tuy nhiên, khoa học công nghệ phát triển và khả năng ứng dụng nhanh
chóng các thành tựu của nó vào cuộc sống đã và đang có những vấn đề được đặt ra
đối với sự cách tân và tiếp biến văn hóa. Xu hướng hiện đại hóa, tốc độ hóa và nhịp
119
sống công nghiệp, cùng sự "bội thực" về thông tin đã làm cho nhiều loại hình nghệ
thuật, nhất là những loại hình nghệ thuật truyền thống như Quan họ đứng trước
nhiều thử thách khi nhu cầu của sự đổi thay, cách tân đang tăng lên từ phía quảng
đại quần chúng. Về cơ bản, những di sản văn hóa đã tồn tại hàng thế kỷ không thể
và không bao giờ có thể hấp thu, tiêu thụ được nhanh chóng những sự xâm nhập và
đổi thay vội vã. Do vậy, sự vận dụng, áp dụng những thành tựu của khoa học công
nghệ vào đời sống văn hóa nghệ thuật cần có những bước đi thận trọng, sáng suốt
và hợp lý. Đối với đời sống của dân ca Quan họ, việc duy trì quan điểm nói trên
cũng vô cùng cần thiết và phù hợp.
4.1.3. Tác động của các loại hình nghệ thuật giải trí
Như ở phần trên chúng tôi đã trình bày, dưới tác động của cơ chế thị trường
và khoa học công nghệ, Việt Nam đã ngày càng hội nhập sâu hơn vào thế giới trong
một xu thế toàn cầu hóa không thể đảo ngược. Sự tăng trưởng kinh tế liên tục nhiều
năm qua cùng với đà tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ đã làm cho đời
sống nói chung và đời sống văn hóa nghệ thuật của đất nước có bước phát triển vừa
sâu vừa rộng. Một mặt chúng ta chủ trương bảo tồn, phát huy tối đa những loại hình
nghệ thuật vui chơi giải trí truyền thống của dân tộc, một mặt chúng ta đẩy mạnh
giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa nghệ thuật. Với hệ thống truyền thông toàn
cầu và việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao văn hóa với hầu hết các nước trên thế
giới có thể nói trong không gian văn hóa rộng mở của đất nước người dân ở mọi
miền, mọi địa phương, vùng sâu, vùng xa đều có thể được thưởng thức và tiếp nhận
thông tin về các loại hình văn hóa nghệ thuật hết sức phong phú và đa dạng của
nhân loại từ điện ảnh, sân khấu, ca nhạc, tạp kỹ, lễ hội, thời trang, phong tục tập
quán, các loại hình dân ca, dân vũ,… cho đến những hoạt động thể thao, du lịch đã
và đang diễn ra hàng ngày trên khắp hành tinh.
Những thông tin đa dạng, sống động về các hoạt động văn hóa nghệ thuật và
giải trí đến với người dân vùng Quan họ đã tác động mạnh mẽ đến đời sống tư
tưởng tình cảm của họ và cung cấp cho tư duy, kiến thức của họ sự hiểu biết và cảm
nhận về đời sống văn hóa nghệ thuật bên ngoài đời sống văn hóa nghệ thuật của quê
hương họ. Sự tác động, ảnh hưởng đó biểu hiện trên một số phương diện cơ bản:
120
- Trình độ dân trí về văn hóa nghệ thuật và các hoạt động giải trí của người
dân vùng Quan họ được nâng cao nhanh chóng.
- Từ quá trình tiếp xúc và nhận thức người ta có điều kiện so sánh đối chiếu
giữa các loại hình văn hóa nghệ thuật để thấy được cái hay, cái đẹp, cái có thể phê
phán và quan trọng hơn cả là có thể thẩm thấu, tiếp thu được gì để bổ xung, bồi đắp,
hoàn thiện cho dân ca Quan họ của mình.
- Việc tiếp nhận một cách dễ dàng và ồ ạt với mật độ thông tin rất cao về văn
hóa nghệ thuật và các dịch vụ giải trí của nhân loại đã dẫn đến hiện tượng một bộ
phận người dân vùng Quan họ do hướng tới cái mới, lạ mà sao nhãng tình yêu đối
với dân ca quê hương. Thậm chí có người còn cho rằng dân ca Quan họ chẳng có gì
hấp dẫn và nó là nghệ thuật của một thời đã xa cũ, lạc hậu còn nếu muốn nó tồn tại
thì cần phải đổi mới mạnh mẽ từ lối chơi, tiết tấu, cường độ đến không gian và môi
trường sinh hoạt. Sự nôn nóng, vội vã của những ý tưởng đổi thay hiện có phù hợp
với qui luật phát triển của văn hóa nghệ thuật truyền thống (?!).
- Mặt khác, dưới tác động có tính chất xâm nhập của các loại hình nghệ
thuật, các hình thức vui chơi giải trí ngoài Quan họ đã dẫn đến việc xuất hiện cùng
với sinh hoạt Quan họ truyền thống là những sinh hoạt của các loại hình văn hóa
nghệ thuật giải trí khác được du nhập vào các làng quê Quan họ, trong đó có làng
Viêm Xá. Đến nay, các loại hình văn hóa nghệ thuật này đang “chung sống hòa
bình” với các sinh hoạt văn hóa Quan họ làng. Tuy nhiên tình hình này đương nhiên
là ảnh hưởng đến không gian tinh thần và vai trò chủ đạo của dân ca Quan họ ngay
tại nguồn cội của nó (!).
Như vậy có thể thấy, văn hóa nghệ thuật cũng là một dòng chảy của đời sống
xã hội và khi xã hội có những thay đổi, biến động thì văn hóa nghệ thuật cũng có
những thay đổi và biến động. Nhìn vào lịch sử biến đổi và phát triển của Quan họ
trong khoảng thời gian từ nửa cuối thế kỷ XX cho tới nay thì có thể thấy vào
những năm từ 1955 đến trước 1986 trong bối cảnh đất nước ta thực hiện xây
dựng chủ nghĩa xã hội bằng cơ chế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung thì Quan họ
cũng đã có những biến đổi, phát triển, tuy nhiên không thật sâu sắc và toàn diện.
Còn giai đoạn đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, từ năm 1986 đến nay là
121
giai đoạn xã hội có những biến đổi và phát triển sâu sắc, mạnh mẽ nhất. Chính vì
vậy, đâycũng là giai đoạn mà Quan họ và các sinh hoạt văn hóa của nó có nhiều
thay đổi. Quan họ hiện nay - khi đặt trong sự đối chiếu với Quan họ cổ truyền
trước năm 1945 đã có nhiều biến động, thậm chí có những sinh hoạt đã mất đi cả
về nội dung và hình thức. Nhìn từ góc độ giá trị và chức năng văn hóa có thể
thấy, trong sự biến động ấy có nhiều yếu tố phát triển nhưng cũng có những yếu tố
làm sói mòn truyền thống và bản sắc.
4.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG SINH
HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ LÀNG HIỆN NAY
4.2.1. Đánh giá chung
Thứ nhất, từ những trình bày ở phần trên của Chương 3, có thể khẳng định rằng,
SHVHQHL hiện nay đã đổi thay rất nhiều so với SHVHQHL cổ truyền. Đó là một
qui luật khách quan của sự biến đổi xã hội. Hiện thực rộng lớn của 30 năm đổi mới
đất nước với việc chuyển đổi cơ chế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; việc đất nước hòa nhập vào xu thế toàn cầu hóa, công cuộc CNH, HĐH đất
nước đã dẫn đến những biến đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế-văn hóa-xã hội. Diện mạo của đất nước với những thay đổi to lớn về không gian
sống (bao gồm không gian vật chất và không gian tinh thần), thời gian sống (nhịp
điệu của cuộc sống), các thiết chế xã hội và con người, các biểu hiện phong phú
phức tạp của mục đích sống... đã ảnh hưởng, chi phối trực tiếp đến nếp sống, lối
sống của cộng đồng và cá nhân. Song hành với những biến đổi đó là sự biến đổi về
văn hóa, mà ở đó có đời sống văn hóa nghệ thuật.
Trong một bối cảnh như vậy, các SHVHQHL đã chịu sự tác động lớn và có
những biến đổi sâu sắc để tiếp tục tồn tại, phù hợp với đòi hỏi của con người đương đại.
Trong sự biến đổi này chúng tôi chú ý đến một phát biểu của GS Deborah
Wong (Hoa kỳ) tại Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội đương
đại (qua trường hợp dân ca Quan họ Bắc Ninh ở Việt Nam. Ông nói, đặc điểm chủ
yếu của di sản văn hóa phi vật thể là nó được cộng đồng và các nhóm tái tạo không
ngừng. Và ông cũng khẳng định, Quan họ cần phải được hoạt động, tồn tại trong sự
thay đổi có tính đương đại [90]. Như vậy, những gì đã và đang diễn ra trong hiện
122
thực của sinh hoạt văn hóa Quan họ làng hiện nay là những diễn tiến không nằm
ngoài quy luật của sự phát triển.
Thứ hai, có thể thấy trong cuộc "trăn trở, vật lộn" với sự thay đổi để thích
nghi và phát triển ấy, Quan họ đứng trước những lựa chọn không dễ dàng. Nhiệm
vụ đặt ra là rất nặng nề: làm thế nào để vừa phù hợp với xã hội hiện tại, đáp ứng
được nhu cầu của con người hôm nay mà vẫn giữ được những gì là căn cốt đã làm
nên Dân ca Quan họ Bắc Ninh - một di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc (!). Và
không phải ngẫu nhiên mà trong bản thân mỗi đổi thay của các SHVHQHL hôm
nay đều chứa đựng cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Vấn đề là làm sao để "gạn
đục, khơi trong" ngõ hầu tiến tới một xu hướng thay đổi và phát triển hợp lý, lành
mạnh. Về vấn đề này, cách đây gần 70 năm, trong báo cáo: Chủ nghĩa Mác và văn
hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh đã phát biểu: "Chúng ta tìm tòi, học hỏi
những tác phẩm văn học, nghệ thuật của cha ông ta để lại, nhưng chúng ta phê bình,
nhận xét những tác phẩm đó và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa
dân tộc". Và cụ thể hơn, đồng chí đề nghị: Chúng ta "đề xướng tiến bộ và đả phá
những gì ngăn cản bước tiến của dân tộc, nhưng tiến bộ mà không li dị với dĩ vẵng
của dân tộc, không lai căng, mất gốc, không a dua...". Quan họ trong khoảng thời
gian của thời kỳ đổi mới, với sự nỗ lực của nhà nước và nhân dân đã làm được
nhiều điều theo định hướng của Đảng. Hiện thực của những SHVHQHL hiện nay
đã cho thấy về cơ bản, Quan họ vẫn giữ gìn được những gì là truyền thống tốt
đẹp, những lề lối, phong tục, tập quán, những hệ thống bài bản ca hát quan trọng
nhất để nói lên bản sắc độc đáo có một không hai của Quan họ. Trong "chiến
công" gìn giữ vốn cổ ấy có vai trò rất quan trọng của Làng Thủy tổ Quan họ
Viêm Xá và những làng Quan họ kết nghĩa với Viêm Xá. Tuy nhiên, song hành
cùng những thành quả tốt đẹp là những nguy cơ to lớn có thể dẫn tới không chỉ
là sự mai một mà còn có thể là sự thoái hóa, biến mất của loại hình dân ca này
trong tương lai nếu thiếu đi một sự nhìn nhận khoa học và tỉnh táo, thiếu đi những
giải pháp kịp thời và khả thi.
Có thể nói, nhìn vào hiện thực của đời sống Quan họ hôm nay chúng ta thấy
hầu hết những điều kiện vật chất, tinh thần để tạo nên môi trường tồn tại của các
123
sinh hoạt văn hóa Quan họ truyền thống đều đã có thay đổi, thậm chí thay đổi rất
lớn. Cụ thể:
- Thay đổi về không gian (bao gồm không gian vật chất và không gian tinh
thần): cảnh quan làng xã đang trong xu thế đô thị hóa và ngày càng chật chội
hơn...xã hội Quan họ làng với những thay đổi về phương thức sống và thang bậc giá
trị đã có một cách nhìn nhận và tư duy về Quan họ đổi khác.
- Thay đổi về thời gian: Cuộc sống trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa
làm cho nhịp sống của con người thay đổi. Thời gian mà con người dành cho sinh hoạt
Quan họ được rút ngắn, ảnh hướng tới cả hình thức và chất lượng nghệ thuật của
những sinh hoạt diễn xướng. Câu chuyện về niềm đam mê "thâu đêm suốt sáng" với
Quan họ dường như đã vơi cạn ở nhiều người, nhiều làng Quan họ.
- Thay đổi về con người tham gia vào sinh hoạt Quan họ: Chủ thể của sinh hoạt
Quan họ ngày nay không chỉ còn là người nghệ nhân. Và khách thể đến tham dự sinh
hoạt Quan họ cũng không còn chỉ là dân làng như truyền thống. Mặt khác, tâm thế, thái
độ và hiểu biết của con người hiện nay về lề luật, lối chơi, cái hay cái đẹp của Quan họ
cổ truyền cũng không còn được như xưa. Thực trạng về Quan họ hiện nay còn cho thấy
một nghịch lý: quy mô về con người và thành phần xã hội " biết" về Quan họ thì tăng
lên, nhưng quy mô về con người và thành phần xã hội " hiểu" về Quan họ thì giảm đi,
thậm chí trong đó có cả những nghệ nhân Quan họ. Con người hôm nay dường như rất
ngại (hoặc không có thời gian) để quan tâm nhiều đến những gì là căn cốt, thẳm sâu và
sự tinh tế, kỹ càng của sinh hoạt văn hóa Quan họ cổ truyền.
- Thay đổi về mục đích tham gia sinh hoạt: Trước đây con người đến với
Quan họ là đến với một cuộc chơi về văn hóa. "Cuộc chơi" để tạo nên nhân cách và
tâm hồn con người với ý nghĩa hết sức thanh tao và cao cả. Nhưng ngày nay con
người đến với Quan họ còn thêm nhiều mục đích khác nữa mà trong đó nổi lên có
mục đích kinh tế. Và nếu người ta khai thác Quan họ để làm kinh tế bằng mọi giá
thì hệ lụy làm tầm thường hóa hoặc méo mó Quan họ đi là điều không tránh khỏi.
Như vậy, dù chúng ta đánh giá rất tích cực việc bảo tồn và phát huy những sinh
hoạt văn hóa Quan họ làng hiện nay thì với những thay đổi của môi trường sinh hoạt
như đã nói ở trên lại chỉ ra nguy cơ làm cho Quan họ có thể bị mai một nhanh hơn và
124
thậm chí biến mất, hoặc là một bộ phận hoặc là tất cả. Không phải ngẫu nhiên mà TS.
Trần Thị An trong bài viết: "Không gian diễn xướng Quan họ -sự đa dạng và sự biến
đổi [2] đã nhận định: "Ở đây tất cả đều đã thay đổi: không gian diễn xướng, người diễn
xướng, thời gian diễn xướng, mục đích diễn xướng và những quy tắc luật lệ đi kèm...
Tổng cộng tất cả những điều đó thành lối chơi Quan họ", từ sự phân tích đó Tiến sĩ An
cho rằng lối chơi Quan họ truyền thống không còn nữa (!?). Dẫn ra nhận định của nhà
khoa học này không phải để chúng tôi đồng ý với ý kiến đó, vì theo chúng tôi có thể
như thế là chưa thật thỏa đáng. Tuy nhiên chúng tôi cũng đánh giá là, nếu để những đổi
thay nói trên không được kiểm soát, rất có thể là loại hình dân ca này sẽ đứng trước
một nguy cơ khó tiên lượng.
Thứ ba, hiện thực của SHVHQHL hiện nay như trình bày ở chương này của
Luận án cũng chỉ ra rằng, trong quá trình bảo tồn và phát triển Quan họ, một số sinh
hoạt cũng như nội dung của loại hình dân ca này đã bị mai một, thậm chí là mất đi.
Chẳng hạn như sinh hoạt diễn xướng Quan họ trùm đầu, Nhà chứa Quan họ, sinh
hoạt bọn Quan họ, giọng hát tối cổ Hừ la vv... Điều đó chỉ ra rằng, đó có thể là một
sự đào thải tự nhiên có tính quy luật trong quá trình phát triển của hiện tượng sự vật.
Tuy nhiên, trong quá trình rà soát, nghiên cứu sâu hơn về vốn cổ Quan họ thì các
nhà quản lý và học giả văn hóa cho rằng cần và nên khôi phục lại một số sinh hoạt
và nội dung văn hóa của Quan họ cổ truyền như nhà chứa, sinh hoạt bọn Quan họ
vv... Xuất phát từ kết quả nghiên cứu khi đối chiếu sinh hoạt văn hóa cổ truyền đã
được trình bày ở Chương 2 với sinh hoạt văn hóa Quan họ hiện nay đã được trình
bày ở Chương 3 của Luận án, chúng tôi đánh giá quan điểm cần khôi phục một số
sinh hoạt và nội dung nghệ thuật của Quan họ cổ truyền là cần thiết. Nhưng khôi
phục cái gì lại là một việc khác, bởi nếu chọn "nhầm" thì dù có dụng công khôi
phục thì rồi cũng sẽ chết yểu với thời gian. Vấn đề còn là ở chỗ đời sống dân gian
có thể còn chấp nhận nó hay không? Bộ lọc của đời sống thường là đem lại những
kết quả chân xác nhất.
4.2.2. Những vấn đề đặt ra
Từ những đánh giá cơ bản về SHVHQHL hiện nay, kể cả những yếu tố tích cực
và hạn chế trong quá trình bảo tồn, phát huy Quan họ đã nảy sinh những vấn đề cần
125
phải đặt ra và giải quyết để trả lời cho câu hỏi: làm gì và làm thế nào để Quan họ tiếp
tục phát triển mà không làm mất đi bản sắc truyền thống của nó?
Một là, vào cuộc đổi mới, Việt Nam đón nhận một thế giới muôn màu từ
kinh tế, khoa học, công nghệ tiên tiến đến văn hóa nghệ thuật thông qua sự hội nhập
mở cửa. Người Việt Nam đã bắt đầu nghĩ đến việc "đi tắt, đón đầu" để tiến kịp thế
giới, để tăng trưởng và phát triển. Lợi ích càng nhiều thì thách thức càng lớn, đặc
biệt là thách thức về văn hóa. Con người của xã hội Quan họ làng, nhất là lớp trẻ bắt
đầu lúng túng với tình cảnh "bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước". Một mặt họ
muốn vẫn phải có cái gì đó của riêng mình, là Việt Nam mình, đó là bản sắc; một
mặt, họ lại muốn có một cái gì đó thật mới, thật hợp với họ và như vậy họ mơ hồ
cảm thấy nguy cơ là sẽ giống người khác, sẽ đánh mất mình. Họ thực sự lúng túng,
và SHVHQHL cũng là một thực thể đang trong "tâm trạng" như vậy. Quan họ
không nhạc đệm, Quan họ của mớ ba mớ bảy, áo the khăn xếp, Quan họ của những
bài Hừ la thâu đêm suốt sáng, Quan họ của những lời nguyền nghiệt ngã: "anh Hai,
chị Hai không lấy nhau" liệu có còn hấp dẫn con người đương đại (!?), nhưng nó lại
là truyền thống. Còn Quan họ đã trở thành ca nhạc (thậm chí là ca-múa-nhạc) với
không chỉ là nhạc cụ dân tộc mà còn là nhạc Tây và những bộ trang phục rất "model"
trên sân khấu; rồi chỉ còn khoảng 5% các làn điệu dân ca được lưu hành rộng rãi, số
còn lại rất lớn đang thiếu diễn đàn để phát huy, chỉ vì tiết tấu quá chậm và lời ca cổ hủ
vv... nhưng nó dường như lại là một hiện thực không thể chối bỏ (!). Vậy là vấn đề bảo
tồn, cách tân các SHVHQHL đã được đặt ra song hành và cấp bách. Nhưng bảo tồn
như thế nào, cách tân như thế nào, đó là một vấn đề lớn được đặt ra.
Hai là, sự thay đổi của môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa do xu thế
đô thị hóa đem lại. Những giá trị cổ truyền, truyền thống của môi trường tự nhiên,
môi trường văn hóa nói chung và văn hóa Quan họ nói riêng - môi trường sống
quen thuộc của SHVHQHL đang bị xâm lấn bởi văn hóa đô thị, văn hóa công
nghiệp, văn hóa Tây nhập khi bản đồ vùng Quan họ đang được vẽ lại với tốc độ
chóng mặt: các làng Quan họ, trong đó có Viêm Xá bị ép chặt từ hai đầu bởi một
thành phố đang lớn nhanh như Phù Đổng (Bắc Ninh) và một thị xã mới được nâng
cấp (thị trấn Từ Sơn). Hơn nữa, ở khoảng trống còn lại là những khu công nghiệp
126
công nghệ cao đang phình ra nhanh chóng và hết sức bài bản, và lại là một xu thế
không thể đảo ngược. Như vậy, rõ ràng một cuộc chiến về văn hóa ngay trong nội
bộ vùng Quan họ đang và sẽ diễn ra. Liệu sự tăng trưởng về kinh tế và sự thay đổi
tất yếu về lối sống, nếp sống có đem lại sự trường tồn của các SHVHQHL? Đây là
một bài toán rất khó giải đáp nhưng lại không thể không có đáp số nếu chúng ta
muốn Quan họ tiếp tục tồn tại và phát triển.
Ba là, một vấn đề không thể không tính đến đó là xu thế thương mại hóa các
sinh hoạt văn hóa Quan họ. Thực tế hiện nay mà Luận án đã dụng công phân tích chỉ ra
rằng không phải chỉ có ca hát Quan họ mới trở thành hàng hóa mà cả các sinh hoạt văn
hóa Quan họ khác cũng trở thành hàng hóa. Chúng ta hãy đến những lễ hội về Quan họ
hôm nay, chúng ta hãy đến những sân khấu ca nhạc (cả trong đám cưới, nhà hát, quầy
Bar và nhà hàng) để nghe Quan họ, cả chuyên nghiệp như Đoàn dân ca Quan họ Bắc
Ninh và dân gian như Viêm Xá, Bịu, Đống Cao... Tất cả đều thương mại. Vậy thương
mại có gì xấu ở đây khi mà thương mại đang nuôi sống Quan họ và còn cả truyền bá
Quan họ nữa? Đó cũng là một vấn đề lớn cần giải quyết, cần làm rõ.
Bốn là, còn về mặt khoa học và lý luận, do bắt đầu từ tất cả những vấn đề cơ
bản đã trình bày ở trên, chúng ta phải đối mặt với nhiều câu hỏi lớn. Nhưng có một
câu hỏi lớn bao trùm, đó là làm gì và làm thế nào để dân gian vùng Quan họ, làng
Quan họ bảo tồn, phát huy được các sinh hoạt văn hóa Quan họ làng trong tương
lai? Tính mục đích của nghiên cứu khoa học và khả năng ứng dụng của nó vào đời
sống thực tế để khôi phục - giữ gìn, phát huy Quan họ ở ngay trên quê hương của
loại hình dân ca Quan họ này có trở nên hữu dụng và thiết thực hay không, trong
nhiều trường hợp còn là vấn đề bỏ ngỏ. Đó cũng là một thực trạng cần có lời giải
đáp, nhưng rõ ràng là vô cùng khó khăn.
4.3. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO TỒN, PHÁT HUY SINH HOẠT VĂN HÓA
QUAN HỌ LÀNG
4.3.1. Bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng đáp ứng
yêu cầu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam Nghị quyết Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
(Nghị quyết 33) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
127
yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã nhận định: "Sau 15 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương năm khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng... Tuy nhiên, so
với các thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả
xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia
tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu... Môi trường
văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ
tục...". Do đó, văn hóa với vai trò, vị thế quan trọng trong đời sống KT-XH sẽ phải
tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa để phát triển bền vững đất nước. Trong sự nghiệp
chung ấy, cần quan tâm đến sự đóng góp của các sinh hoạt văn hóa Quan họ. Bản
thân Quan họ là một thành tố quan trọng của nền văn hóa Việt Nam, nó phải có sự
đóng góp xứng đáng vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, trong đó có nội dung quan trọng là xây dựng con người. Sự đóng góp
đó cần được thể hiện ở thế mạnh của Quan họ cả trong nội dung và hình thức của
các sinh hoạt văn hóa Quan họ. Đó là tính chất cộng đồng, gắn kết xã hội thể hiện ở
các quan hệ "làng trên xóm dưới", "sớm lửa, tối đèn có nhau", "lá lành đùm lá
rách"; đó là sự tôn vinh văn hóa làng xã - truyền thống đã làm nên sức mạnh Việt
Nam trong cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước của dân tộc; đó là kho tàng vô
giá của những làn điệu dân ca, cùng những sinh hoạt văn hóa Quan họ làm nên
truyền thống ứng xử trân trọng con người, làm nên bản sắc không thể trộn lẫn của
văn hóa Việt Nam truyền thống; đó là một loại hình dân ca mà ở đó, bằng vào đỉnh
cao của nghệ thuật ca hát và nội dung ca từ đã và đang góp phần quan trọng vào
việc vun đắp, xây dựng và nuôi dưỡng nhân cách, đạo đức, phẩm giá con người
Việt Nam hôm nay và mãi mãi về sau. Với văn hóa nói chung và với văn hóa
Quan họ nói riêng, con người phải là mục tiêu, mục đích và trung tâm để hướng
tới và xây dựng. Như vậy, các SHVHQHL Quan họ chỉ có thể được bảo tồn, phát
huy khi, bằng vào sức mạnh nội tại của nó như đã nói ở trên, đáp ứng được yêu
cầu của Đảng, của nhân dân, của thời đại là góp phần xây dựng một nền văn hóa
128
Việt Nam với con người Việt Nam lành mạnh, sáng tạo vì sự phát triển bền vững
của đất nước.
4.3.2. Bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng cần tôn trọng
sự đa dạng văn hóa Bảo tồn, phát huy các SHVHQHL cần phải đặt trong một không gian - môi
trường văn hóa chung là quê hương Kinh Bắc và rộng hơn là không gian - môi
trường của văn hóa Việt Nam nói chung. Thật vậy, nhìn vào lịch sử hình thành và
phát triển của dân ca nói chung và dân ca Quan họ nói riêng chúng ta nhận thức rất
rõ điều này: không có một loại hình dân ca nào và cả những biểu hiện sinh hoạt của
nó không chịu sự ảnh hưởng giao thoa, tiếp biến của các loại hình dân ca, các sinh
hoạt văn hóa khác nhau trong sự đa dạng - phong phú của không gian - môi trường
văn hóa mà nó đang tồn tại và phát triển. Vùng Kinh Bắc và rộng hơn là các vùng
văn hóa của đất nước đã và đang tồn tại nhiều loại hình nghệ thuật như Chèo,
Tuồng, Hát xoan, Hát ví, Trống quân, Ca trù... và nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa,
từ lễ hội, ẩm thực, giao tiếp, ứng xử, tâm linh v.v... cùng biết bao các tri thức văn
hóa dân gian khác... Các nghiên cứu và thực tiễn đã chứng minh rằng, Quan họ đã
chịu ảnh hưởng nhiều của các loại hình văn hóa. Rõ ràng, Quan họ không thể tồn tại
biệt lập dù bản thân nó đặc sắc tới mức đã được thế giới (UNESCO) công nhận là
Di sản văn hóa của nhân loại. Đơn giản là Quan họ không chỉ cần đến bản sắc riêng
mà còn cần đến bản sắc chung của văn hóa trong không gian - môi trường văn hóa
mà nó đang sinh sôi để được nuôi dưỡng và phát triển, để được làm "đầy lên" cái
bản sắc riêng vốn có của nó.
Bảo tồn, phát huy các SHVHQHL không chỉ cần đến sự đa dạng văn hóa của
không gian - môi trường chung của văn hóa vùng Quan họ, văn hóa quốc gia dân
tộc, mà nó còn cần phải quan tâm đến sự đa dạng văn hóa ở ngay trong bản thân nội
tại các sinh hoạt văn hóa của nó. Từ sự phân tích của các chương trong Luận án cho
thấy, sở dĩ Quan họ lớn và nổi tiếng, đạt đến trình độ cao của một loại hình văn hóa
nghệ thuật, thậm chí là một hình thái văn hóa nghệ thuật không phải chỉ nhờ sinh
hoạt ca xướng giống như nhiều loại hình dân ca khác, mà là nó còn bởi rất nhiều
sinh hoạt văn hóa khác đã làm nên cả một bản sắc riêng có của Quan họ, làm nên
129
VHQH mà không ít nhà nghiên cứu đã phải thốt lên: "Quan họ có cả một nền văn
hóa hiển hiện mà trong đó sự ca hát chỉ là một thành tố". Nhìn từ lý thuyết hệ thống
- chức năng sẽ thấy rõ là nếu như dân ca Quan họ chỉ quan tâm và chỉ bảo tồn, phát
huy bó hẹp trong sự ca hát như nhiều dân ca khác thì bản thân nó sẽ khó tồn tại, nó
sẽ trở nên vô cùng mong manh và có thể mất đi "danh tiếng" có tầm "nhân loại" của
nó. Vậy là cần phải có một quan điểm, định hướng rõ ràng về bảo tồn, phát huy một
cách tổng thể VHQH.
Một khía cạnh khác cũng rất quan trọng là trong quá trình bảo tồn, phát huy
của mình, dân ca Quan họ cũng cần phải tiếp thu, "chấp nhận" sự giao lưu, tiếp biến
các giá trị văn hóa tinh hoa từ thế giới bên ngoài, nhất là khi mà Quan họ đã được
vinh danh là Di sản văn hóa của nhân loại. Chính quan điểm, đường lối của Đảng ta,
cũng như các khuyến nghị của UNESCO đã luôn khẳng định: văn hóa dân tộc
không chỉ cần được giữ gìn bản sắc mà còn cần phải được làm giàu và phát triển
trong sự hội nhập. Vấn đề cần lưu ý trong quá trình hội nhập đó là phải chọn lọc,
phải "gạn đục khơi trong" - phải đi tìm sự tinh túy và phù hợp.
4.3.3. Bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng gắn với không
gian truyền thống của Quan họ
Trong lịch sử phát triển văn hóa, các giá trị văn hóa truyền thống chỉ có thể
được bảo tồn một cách bền vững trong chính cái không gian đã sản sinh ra nó.
Không gian ấy bao gồm không gian sinh thái tự nhiên và không gian tinh thần của
xã hội. Quan họ cũng không nằm ngoài quy luật đó. SHVHQHL chỉ có thể tồn tại,
phát huy, phát triển một cách bền vững trong không gian truyền thống của làng quê
Kinh Bắc mà trong đó XHQHL tồn tại, lớn lên và phát triển. Các SHVHQHL chính
là những đứa con tinh thần của XHQHL, do đó số phận của nó không thể không tùy
thuộc vào không gian truyền thống ấy. Quan họ cũng cần phải duy trì tối đa không
gian tinh thần của các SHVHQHL bởi vì cái không gian tinh thần ấy chính là tư
tưởng, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của người dân nơi đây trong đời sống dân
gian, dân dã của họ. Nếu tình yêu, niềm đam mê và sự nhiệt huyết với Quan họ bị
giảm sút, mai một, nhường chỗ cho những quan tâm khác, điều rất có thể sẽ xảy ra
trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, thì Quan họ sẽ mất đi nguồn lực,
130
nguồn sáng tạo quan trọng nhất để duy trì sự tồn tại và phát triển. Quan họ phải đi
tìm những phương cách, giải pháp để thực hiện hài hòa giữa truyền thống và hiện
đại, phải khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực có thể làm thay đổi, thậm chí là
thay đổi cơ bản không gian truyền thống của Quan họ do xu thế ĐTH, CNH, HĐH
hiện nay đem lại. Trên thực tế đã có ý kiến cho rằng trong xu thế mới hiện nay, rồi
một ngày nào đó, rất có thể, các làng quê sẽ ĐTH thì Quan họ làng sẽ ra sao? Đó là
một băn khoăn có thực. Nhưng rõ ràng sẽ không thể có một quốc gia nào, mà nhất
là đối với một quốc gia như Việt Nam lại có thể mất làng (!). Như Luận án đã phân
tích, làng có thể biến đổi trong xu thế ĐTH nhưng có một quy luật chúng ta đã biết:
không có sự biến đổi nào tách rời được mối liên hệ với truyền thống trong sự bảo
lưu và kế thừa. Sẽ có những làng Quan họ (không phải là số nhiều), thậm chí là
ĐTH hoàn toàn nhưng cộng đồng dân cư của làng dù biến đổi cũng không thể mất
đi cùng những bản sắc và truyền thống của họ. Mặt khác, sau nhiều năm phục hồi
và phát huy Quan họ, số lượng các làng có sinh hoạt Quan họ ở cả 2 tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang đã tăng lên đáng kể. Theo tính toán của nhiều nhà nghiên cứu Quan
họ thì số lượng 49 làng Quan họ như ta biết lâu nay sẽ không dừng ở đó, nhất là đối
với các làng quê dọc theo hai bờ tả ngạn sông Cầu - con sông đã không chỉ đi vào
lịch sử văn hóa của dân tộc mà còn là nguồn cảm hứng của biết bao sáng tác Quan
họ suốt nhiều thế kỷ [81].
4.3.4. Bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng cần đề cao vai
trò chủ thể của người dân Xuất phát từ thực tế phục hồi, phát huy DCQH suốt gần nửa thế qua đã cho
thấy bên cạnh SHVHQH của 49 làng Quan họ vùng Kinh Bắc - tức sinh hoạt
Quan họ dân gian truyền thống thì chúng ta đã dần hình thành một hình thức
biểu diễn Quan họ chuyên nghiệp trên sân khấu, trên đài phát thanh, trên sóng
truyền hình v.v... đặc biệt là Quan họ chuyên nghiệp trên sân khấu của Nhà hát
dân ca Quan họ Bắc Ninh (trước đây là Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh được
thành lập năm 1969). Mặc dù các hình thức này vẫn trên cơ sở kế thừa, phát huy
Quan họ truyền thống và là những hình thức biểu diễn Quan họ cần thiết cho con
người hôm nay, nhưng bởi các lý do thay đổi môi trường diễn xướng, thời gian
131
diễn xướng, con người diễn xướng... mà những giá trị văn hóa, những sinh hoạt
văn hóa Quan họ khác đã bị lược bỏ chỉ còn lại "ca nhạc Quan họ" thuần túy. Từ
đó, chúng ta đã nhận thức rõ hơn là muốn gìn giữ dân ca Quan họ và đặc biệt là
toàn bộ những sinh hoạt gắn liền với nó, làm nên nó theo đúng dân gian truyền
thống thì Quan họ phải được bảo tồn, phát huy trên chính không gian, môi
trường đã sản sinh ra nó, và phải được vận hành bởi chính chủ thể quan trọng
nhất của nó là người dân sở tại. Họ là những thành viên của XHQHL mà hạt
nhân cốt lõi là các liền anh, liền chị. Khi Quan họ tồn tại trong cộng đồng và
không gian nguyên thủy của nó, thì nó sẽ đi đúng "lối đi truyền thống" và theo
cái cách nó đã sinh ra và lớn lên. Các sinh hoạt văn hóa Quan họ sẽ diễn ra chân
thực và tự nhiên với đúng "hơi thở của đời sống". Về cơ bản nó vẹn nguyên và
không bị cắt cúp, gọt rũa vì một lý do nào đó. Cuối cùng, điều quan trọng nhất là
Quan họ sẽ giữ được sức sống, sự đa dạng văn hóa và bản chất văn hóa nghệ
thuật của nó như vốn có. Chính vì thế, muốn bảo tồn, phát huy, phát triển các
SHVHQHL rất cần phải đề cao vai trò chủ động, tích cực tham gia của người dân,
đặc biệt là các nghệ nhân Quan họ trong XHQHL.
4.3.5. Bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng gắn với phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương sở tại
Trong "Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa tỉnh Bắc Ninh đến năm
2020, định hướng đến năm 2030 có nêu dự báo phát triển KT-XH của tỉnh Bắc
Ninh giai đoạn này là: "Phát huy cao nhất tiềm năng lợi thế của tỉnh về vị trí cửa
ngõ, nguồn nhân lực xây dựng Bắc Ninh trở thành tỉnh có vị trí trong nền kinh tế
của vùng đồng bằng Sông Hồng". Trong đó đề ra mục tiêu tổng quát về văn hóa là:
"Phát triển kinh tế kết hợp với quan tâm nâng cao chất lượng mọi mặt trong đời
sống xã hội. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa... Tiếp tục xây dựng nền văn
hóa tiên tiến mang đậm bản sắc văn hóa Bắc Ninh" và đánh giá:
Tỉnh có hệ thống các DSVHVT và DSVHPVT phong phú, có tiềm năng
phát triển du lịch, tạo nền tảng và hỗ trợ cho sự phát triển sự nghiệp văn
hóa trong những năm tới. Trong nền tảng đó, Bắc Ninh hoàn toàn có thể
xây dựng được bản sắc, sự khác biệt về văn hóa và du lịch, góp phần xây
132
dựng bản lĩnh, cốt cách của văn hóa và con người Bắc Ninh với mục tiêu
hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển đời sống văn hóa tinh thần
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [87, tr.19-21].
Cụ thể hóa định hướng phát triển văn hóa đó của địa phương, lãnh đạo tỉnh
Bắc Ninh đã cho xây dựng và triển khai dự án: "Bảo tồn và phát huy DSVHPVT
dân ca Quan họ Bắc Ninh và Ca trù"; quan tâm đặt biệt đến nâng cao chất lượng,
năng lực tổ chức và quản lý lễ hội, trùng tu tôn tạo, sưu tầm và hoàn thiện hồ sơ
các di tích lịch sử, các loại hình VHPVT, làng nghề thủ công mỹ nghệ v.v...
Trong bối cảnh thuận lợi như vậy DCQH chắc chắn phải khẳng định được và cần
khẳng định vai trò của mình trong sự đóng góp vào sự nghiệp chung phát triển
KT-XH của địa phương. Các đóng góp cụ thể đó liên quan đến việc truyền dạy,
quảng bá các giá trị dân ca Quan họ; tô thắm và làm tăng tính hấp dẫn của các
sinh hoạt lễ hội mà ở đó Quan họ đóng vai trò chủ đạo; truyền dạy, bồi dưỡng tri
thức dân gian về ca hát dân ca, lề lối sinh hoạt Quan họ truyền thống cho thế hệ
trẻ trong phong trào văn nghệ quần chúng; định hướng tư duy kế thừa cho các
diễn viên của Nhà hát Quan họ để họ có nền tảng, cơ sở thực hiện đổi mới, cách
tân Quan họ dưới hình thức "trình diễn" mà không làm mất đi hoặc biến dạng
Quan họ truyền thống.
Đặc biệt, để góp phần thực chất vào các hoạt động phát triển kinh tế địa
phương, Quan họ làng cần tham gia tích cực vào hoạt động du lịch cộng đồng và các
loại hình du lịch vui chơi, giải trí khác. Quan họ và các sinh hoạt văn hóa, đặc biệt là
SHVHQHL phải trở thành loại hàng hóa, sản phẩm du lịch hấp dẫn, ưa thích, có hàm
lượng văn hóa, hàm lượng kinh tế cao phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH, tăng
cường giao lưu và hợp tác kinh tế - văn hóa với không chỉ các địa phương trong nước,
mà còn cả với các nước trên thế giới.
Hơn nữa, Quan họ cần phải là hạt nhân văn hóa nghệ thuật để quy tụ, khai
thác tiềm năng các loại hình văn hóa nghệ thuật khác của quê hương Kinh Bắc làm
nên một không gian văn hóa cổ truyền - truyền thống độc đáo, đậm đặc và hấp dẫn
với du khách để hiện thực hóa mạnh mẽ thương hiệu Du lịch "Về miền Quan họ" đã
được khởi động từ mấy năm nay.
133
Tóm lại, quan họ phải trở thành thế mạnh bản sắc văn hóa của quê hương
Kinh Bắc ngàn năm văn hiến và một nguồn lực mạnh mẽ để phát triển KT-XH ở địa
phương sở tại.
4.3.6. Bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng cần phải chú ý
đến bối cảnh hội nhập quốc tế
Trong bối cảnh đất nước đã và đang tích cực, chủ động hội nhập quốc tế,
SHVHQHL đang đứng trước những cơ hội và thách thức do quá trình hội nhập
quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại mang lại. Những tác
động mạnh mẽ của các loại hình văn hóa, nghệ thuật, giải trí mới từ nước ngoài tràn
vào Việt Nam trong những năm gần đây đã góp phần nâng cao trình độ dân trí, trình
độ tiếp nhận và thụ hưởng giá trị văn hóa, nghệ thuật của thế giới ở nhiều châu lục
khác nhau đến với cư dân vùng Quan họ. Đồng thời, những tác động tiêu cực từ
việc tiếp nhận xô bồ, thực dụng các loại hình văn hóa, giải trí từ bên ngoài vào cũng
gây ảnh hưởng tiêu cực đến SHVHQHL. Đứng trước những thách thức đó, vấn đề
bảo tồn, phát huy SHVHQHL cần phải nâng cao sức mạnh nội sinh của vùng quê
mình, chủ động, tích cực lựa chọn những yếu tố tiến bộ, hợp lý của văn hóa, nghệ
thuật, giải trí từ hiện tại, đồng hóa nó, biến thành nguồn lực bên trong để phát triển
sinh hoạt văn hóa Quan họ nhưng không làm mất bản sắc và bản lĩnh của mình.
Đồng thời, cần phải tích cực quảng bá giá trị văn hóa Quan họ ra với cộng đồng
quốc tế, trước hết là đối với các nước ASEAN và các nước khác. Tăng cường quảng
bá giá trị SHVHQHL thông qua các kênh thông tin đại chúng như chương trình phát
thanh, truyền hình bằng tiếng nước ngoài, đẩy mạnh quảng bá thông qua các kênh
du lịch trong nước và quốc tế, nhất là khách quốc tế đến với Việt Nam.
Quan họ, với tư cách là DSVHPVT đại diện của nhân loại không thể không
tham gia vào quá trình này và chắc chắn có vai trò nhất định của nó. Công việc và
sứ mệnh giao lưu hội nhập còn nằm ở thì tương lai, nhưng các nhà quản lý, các nhà
khoa học và bản thân những con người trong cuộc của loại hình dân ca này đã đến
lúc phải khởi động tiến trình đi ra bên ngoài một cách thật cụ thể và có lý có tình.
Rõ ràng là một công việc khó khăn nhưng rất đáng mừng, đáng kiêu hãnh vì lợi ích
văn hóa, lợi ích kinh tế chắc chắn sẽ nhiều hơn là những thiệt hại và nguy cơ.
134
Chúng ta sẽ phải nghĩ đến đối tượng phục vụ mới của DCQH là ai để lựa chọn, sắp
xếp, để sáng tạo ra những sản phẩm Quan họ phù hợp cho cuộc hội nhập lớn này.
Khi đó, những đại diện của các "Quan họ làng" sẽ sánh vai cùng các "đồng nghiệp"
"Quan họ Đoàn", "Quan họ Đài", "Quan họ tổng hợp"... trên con đường truyền bá
và hội nhập văn hóa của mình.
4.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
4.4.1. Về nghệ nhân Quan họ
Chúng ta cần phải làm tất cả những gì có thể để tôn vinh các nghệ nhân Quan
họ, vì ba lẽ:
- Không phải chỉ chúng ta mà UNESCO và cả nhân loại tiến bộ đã khẳng
định các nghệ nhân dân gian là "Báu vật nhân văn sống" cần phải được tôn trọng,
gìn giữ, phát huy. Họ là bảo tàng sống về vốn liếng những di sản văn hóa mỗi vùng
quê, mỗi dân tộc. Nhưng họ là những con người chứ không phải là các "di tích", nên
họ có thể ra đi rất nhanh, rất chóng vánh và mang theo tất cả...
- Việt Nam đã có Luật Di sản văn hóa, Luật Thi đua khen thưởng, trong đó
qui định rõ là Nhà nước khuyến khích và có chính sách tôn vinh các nghệ nhân dân
gian, cụ thể hơn còn đặt ra các danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú.
Chỉ tiếc là nhiều cơ quan quản lý văn hóa đã quá chậm trễ để rất nhiều nghệ nhân
danh tiếng đã phải ra đi trong sự băn khoăn nuối tiếc của toàn thể xã hội.
- Cần phải có kế hoạch làm thường xuyên, lâu dài việc thu thập một cách cẩn
trọng, tỉ mỉ nguồn tư liệu vô giá từ các nghệ nhân để qua đó "dựng lại" chí ít là diện
mạo của đời sống sinh hoạt văn hóa Quan họ Kinh Bắc một thế kỷ qua. Nguồn tư
liệu và diện mạo ấy sẽ là căn cứ quan trọng để cho con cháu chúng ta bảo tồn và
phát huy di sản Quan họ. Giới nghiên cứu chúng ta có một bài học lịch sử lớn là
suốt cả thế kỷ XIX thế hệ trước đã không để lại cho đời sau một tư liệu thành văn
nào về sinh hoạt văn hóa Quan họ đương thời (!). Và khiếm khuyết đó đã làm cho
việc nghiên cứu lịch sử Quan họ của chúng ta bị đứt đoạn.
Quả thật, trong xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay, khi mà truyền thống và
bản sắc văn hóa dân tộc có thể bị mai một thì sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ các
nghệ nhân đã trở thành một giải pháp quan trọng, một "cứu cánh" có ý nghĩa hết sức
135
thời sự và quan thiết. Bởi đơn giản là: chủ thể chính yếu, căn cốt của những
SHVHQHL chính là những nghệ nhân. Họ là tác giả chính cùng với người dân sở
tại đã làm nên văn hóa Quan họ thông qua những sinh hoạt văn hóa nghệ thuật đầy
tính sáng tạo và độc đáo của mình.
4.4.2. Về bảo tồn và phát huy Theo chúng tôi, về mặt tư duy, để xây dựng chiến lược bảo tồn và phát huy
văn hóa Quan họ lâu dài, cần phải tiếp tục kết hợp hài hòa giữa việc bảo tồn văn hóa
Quan họ truyền thống với việc kế thừa, phát triển văn hóa Quan họ để phù hợp với
nhu cầu và đòi hỏi của con người đương đại. Tưởng như đã nhắc lại những phương
châm mòn cũ nhưng không phải, bởi thật đơn giản là văn hóa nghệ thuật bất kể ở
thời đại nào được sáng tạo ra đều phải phục vụ cho con người của thời đại ấy. Quan
họ của thế kỷ XIX phải được sáng tạo sao đó để phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của
con người thế kỷ XIX; và tương tự, Quan họ thế kỷ XX cũng vậy. Nghĩa là có một
diễn biến khách quan của lịch sử: Quan họ thế kỷ XX không thể còn nguyên vẹn
như trước đây một thế kỷ. Vấn đề là ở chỗ chúng ta cần nhất trí trong nhận thức và
tư duy việc chấp nhận sự biến đổi của Quan họ với tư cách là một sự thật khách
quan, miễn là tên gọi "Quan họ" cho loại hình dân ca ấy không thay đổi (tất nhiên là
cái hình thức tên gọi ấy phải có lý khi chuyển tải nội dung của loại hình dân ca ấy).
Sự thật của ngày hôm nay là chúng ta không thể phủ nhận rằng bài hát "Ngồi tựa
mạn thuyền" do một chị Hai hay anh Hai nào đó biểu diễn không phải là Quan họ khi
có thêm một dàn nhạc đệm và được biểu diễn ở nhà hàng? Nhưng mặt khác, chúng ta
sẽ không thể quên một điều: những gì của Quan họ ngày hôm qua cần phải được lưu
giữ tối đa để thừa nhận nó như một phần của lịch sử và sử dụng nó như là nguồn
nguyên liệu quan trọng nhất, cốt yếu nhất cho việc tạo dựng nên Văn hóa Quan họ của
ngày hôm nay. Đã đến lúc chúng ta phải bình thản và vui vẻ chấp nhận một thực tế có
tính qui luật là con người của ngày hôm nay cần sự phục vụ của những sinh hoạt văn
hóa Quan họ của ngày hôm nay. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ rất điềm tĩnh và tỉnh
táo khi đối mặt với những thách thức của nhiều thay đổi.
4.4.3. Về quy hoạch và tập hợp tư liệu Tranh thủ sự hỗ trợ của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch và các cơ quan
Trung ương hữu quan, tỉnh Bắc Ninh cần phối hợp chặt chẽ với tỉnh Bắc Giang
136
xây dựng một đề án qui hoạch tổng thể và chi tiết về bảo tồn, phát huy không
gian văn hóa Quan họ (nằm ở hữu ngạn và tả ngạn sông Cầu), Trong đó mỗi một
làng Quan họ phải được tổ chức khảo sát, nghiên cứu toàn diện (liên ngành từ
kinh tế, địa lý, dân tộc học, xã hội học, văn hóa, nghệ thuật, lịch sử...) như một
tiểu dự án. Mọi kết quả nghiên cứu phải được văn bản hóa (thành văn) và xuất
bản. Theo chúng tôi đây là việc cần làm ngay, nếu không, nhiều làng sẽ bị biến
mất hoặc biến dạng trong tương lai gần khi mà xu thể ĐTH đang diễn ra mạnh
mẽ như đã trình bày ở luận án.
4.4.4. Về đội ngũ nghiên cứu
Xây dựng và tập hợp một đội ngũ cán bộ nghiên cứu chuyên sâu nhưng có
khả năng nghiên cứu đa ngành về văn hóa Kinh Bắc cũng như văn hóa Quan họ.
Nếu giả sử Bắc Ninh và Bắc Giang có một suy nghĩ nào đó ỉ lại vào giới nghiên cứu
Trung ương không thôi để nghiên cứu về Quan họ thì đó là sai lầm, bởi mọi nghiên
cứu văn hóa dân gian chỉ thật sự thành công khi "bám rễ trên địa bàn". Những thành
công quan trọng của các nhà nghiên cứu địa phương về Quan họ như Lê Hồng
Dương, Hồng Thao, Trần Linh Quý, Lê Danh Khiêm là những minh họa xác đáng
cho suy nghĩ này.
4.4.5. Về không gian văn hóa Quan họ
Suy nghĩ về không gian văn hóa Quan họ chúng ta có thể mở rộng ra hai loại
là: không gian văn hóa Quan họ của bản thân vùng Quan họ và không gian rộng lớn
hơn là toàn quốc (và cả thế giới khi Quan họ đã được UNESCO công nhận). Nhưng
các không gian này có "chức năng, nhiệm vụ" khác nhau đối với việc bảo tồn, phát
huy di sản văn hóa Quan họ:
- Không gian vùng Quan họ là không gian chính yếu vận hành việc bảo tồn,
phát huy, phát triển văn hóa Quan họ.
- Không gian còn lại là không gian hưởng thụ và góp phần quan trọng vào
tôn vinh, quảng bá Quan họ. Suy nghĩ này có ý nghĩa ở chỗ, nó giúp chúng ta định
hướng được tư duy của chúng ta trong việc hoạch định chiến lược, phương hướng
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Quan họ trong bối cảnh khi mà Quan họ đã trở
thành Di sản văn hóa thế giới.
137
4.4.6. Về Nhà hát Quan họ Tỉnh Bắc Ninh đã có một Nhà hát Quan họ dành cho hoạt động nghệ thuật
Quan họ chuyên nghiệp. Nhà hát này cần phải đầu tư cả vật chất và trí tuệ để làm
tốt hai chức năng, nhiệm vụ cơ bản của một Nhà hát: chức năng biểu diễn nghệ
thuật Quan họ và chức năng nghiên cứu về Quan họ (cả Quan họ dân gian truyền
thống và Quan họ chuyên nghiệp).
4.4.7. Về làng Quan họ Viêm Xá Chính quyền và các cơ quan chức năng của tỉnh Bắc Ninh nên chọn làng cổ
Viêm Xá, với tư cách là một làng Quan họ tiêu biểu để lập dự án bảo tồn, phát huy di
sản VHQH với phương châm bảo tồn, phát huy tối đa di sản VHQH cổ truyền và di
sản văn hóa làng nói chung liên quan đến Quan họ.
4.4.8. Về mối quan hệ với UNESCO Trong bối cảnh Quan họ đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại
diện của nhân loại, cần có kế hoạch cả trước mắt và lâu dài bảo tồn, phát huy
DSVHPVT Quan họ, đồng thời kết nối sự quan tâm và trách nhiệm của Ủy ban
UNESCO thuộc Liên hợp quốc trong việc đầu tư cả về mặt khoa học và tài chính cho
việc bảo tồn, phát huy Quan họ. Thông qua UNESCO để kết nối giao lưu và quảng bá
hình ảnh, vai trò của Quan họ trong đời sống văn hóa quốc tế và khu vực.
Tiểu kết chương 4 Ở chương này - chương cuối cùng của Luận án, chúng tôi đặt ra vấn đề bảo
tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng.
Trước hết, chúng tôi xác định và phân tích những nhân tố cơ bản tác động
đến SHVHQHL hiện nay đã dẫn đến những đổi thay đáng kể của Quan họ trong
mấy chục năm thời kỳ đổi mới, mở cửa bao gồm tác động của nền KTTT, khoa học
công nghệ và các hoạt động nghệ thuật giải trí. Trên cơ sở đó, cùng với kết quả
nghiên cứu của luận án, đặc biệt là nội dung Chương 3 - Sinh hoạt văn hóa Quan họ
làng hiện nay, chúng tôi đưa ra các đánh giá về tình hình SHVHQHL. Trên cơ sở
của sự đánh giá đó, chúng tôi đề cập những vấn đề đặt ra cho sự nghiệp bảo tồn,
phát huy SHVHQHL.
Những vấn đề đặt ra trong bảo tồn, phát huy SHVHQHL bao gồm các nội
dung: làm thế nào để có thể cách tân, phát triển SHVHQHL đáp ứng con người
138
đương đại mà vẫn có thể bảo tồn được những giá trị căn cốt của truyền thống, để
không mất đi những gì mà cha ông đã để lại qua nhiều thế hệ. Người ta yêu quí
Quan họ nhưng Quan họ không thể nằm im trong những giá trị cổ truyền, nó cần
phải được cách tân, phát triển để phù hợp với cuộc sống vì đó là đòi hỏi có tính qui
luật. Vậy là bảo tồn và cách tân là hai nhiệm vụ phải được giải quyết đồng thời. Sự
thay đổi của nếp sống, lối sống, sự tăng trưởng về kinh tế, những vấn đề liên quan
đến xu thế thương mại hóa văn hóa v.v...đã đặt Quan họ trước những thách thức,
nguy cơ không nhỏ về sự mai một và phai nhạt truyền thống... và ngay cả các
nghiên cứu cũng sẽ phải góp gì cho việc trả lời câu hỏi lớn là làm thế nào để bảo
tồn, phát huy, phát triển Quan họ một cách khả thi và phù hợp nhất.
Trên cơ sở của những vấn đề đặt ra chúng tôi đề xuất phương hướng bảo tồn,
phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng theo hướng cần đáp ứng được các yêu cầu
là: phải góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa và con người theo
định hướng của Đảng; phải tôn trọng tối đa sự đa dạng văn hóa của môi trường mà
Quan họ đang cùng tồn tại và ngay trong bản thân các sinh hoạt văn hóa Quan họ
làng; phải và cần gắn với không gian truyền thống của Quan họ - không gian mà ở
đó Quan họ đã hình thành và phát triển rực rỡ; phải gắn kết và góp phần xứng đáng
vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương sở tại; phải đề cao vai trò chủ thể của
nhân dân và đáp ứng nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế.
Với phương hướng được đề xuất, chúng tôi đưa ra các khuyến nghị cụ thể về
một số giải pháp để bảo tồn, phát huy các SHVHQHL.
Như vậy, vấn đề cốt lõi cần nhận thức đầy đủ hiện nay là: xu hướng biến đổi
của văn hóa nói chung, trong đó có biến đổi VHQH là một quy luật không thể khác.
Tuy nhiên, để bảo tồn và phát huy di sản VHQH thì phải quán triệt phương châm "gạn
đục khơi trong" cả trong việc giữ gìn truyền thống và giao lưu tiếp biến văn hóa, để sao
cho Quan họ phát huy, phát triển tương ứng với nhu cầu của thời đại dựa trên chính nền
tảng vững chắc từ trong truyền thống, từ trong cái lõi cổ truyền của nó và trong sự tin
yêu, bao bọc của nhân dân, trước hết là người dân sở tại.
139
KẾT LUẬN
1. Trong 49 làng Quan họ vùng Kinh Bắc dọc theo hai bên bờ con sông Cầu
nổi tiếng trong lịch sử đất nước, làng cổ Viêm Xá là một làng quê điển hình, cả trên
phương diện làng xã và thực hành dân ca Quan họ. Với khoảng 27 làng trên tổng số
49 làng Quan họ được xếp vào hàng "làng Quan họ cổ" thì Viêm Xá được dân gian
trong vùng suy tôn một cách tự nhiên là "làng cổ của các làng cổ Quan họ" bởi nơi
đây có đền thờ Vua Bà - người được coi là thủy tổ của dân ca Quan họ thông qua
một hệ thống truyền thuyết dày đặc và một sự ngưỡng mộ tâm linh dân gian bền
chặt. Vua Bà là Thánh mẫu của một loại hình dân ca độc đáo có một không hai trên
một quê hương mà ở đó tín ngưỡng "Đạo Mẫu", về mặt tâm linh đang song hành
cùng các tôn giáo lớn như đạo Phật, đạo Thiên Chúa giáo....
Như vậy, lựa chọn làng Viêm Xá và mối quan hệ liên làng của Viêm Xá với
vùng Quan họ để phân tích, nghiên cứu về sự biến đổi của SHVHQHL đã cho thấy vai
trò đại diện của Viêm Xá trong quá trình bảo tồn, phát huy các sinh hoạt văn hóa Quan
họ làng trong bối cảnh mà cả Viêm Xá và các làng Quan họ trong vùng đều chịu tác
động của những biến đổi kinh tế - văn hóa - xã hội thời kỳ mở cửa, hội nhập.
2. Ở các làng Quan họ mà điển hình là Viêm Xá và các làng kết nghĩa với
Viêm Xá từ bao đời đã hình thành nên một "xã hội Quan họ làng" với ba thành phần
gồm các nghệ nhân, thành phần hậu thuẫn trực tiếp và đa số các cư dân trong làng.
Trong đó các nghệ nhân là thành phần cốt lõi, chính yếu duy trì các sinh hoạt văn
hóa Quan họ để làm nên cả một bản sắc riêng - văn hóa Quan họ làng. Lịch sử hình
thành và phát triển của Quan họ đã chứng minh sức mạnh của xã hội đặc biệt đó ở
các làng Quan họ. Nó là một kết cấu xã hội văn hóa có vai trò rất lớn đã đem lại sự
bền vững của dân ca Quan họ trải qua bao thăng trầm của thời gian và những biến
cố xã hội.
3. Dân ca Quan họ vùng Kinh Bắc là một loại hình nghệ thuật đã trở thành di
sản văn hóa phi vật thể lớn, đặc sắc không chỉ trên quê hương đồng bằng Bắc Bộ -
Việt Nam của nó mà còn đã trở thành di sản văn hóa "đại diện của nhân loại" được
UNESCO công nhận và vinh danh. Có được điều đó là bởi vì Quan họ, ngoài sự ca
140
hát (diễn xướng) như các loại hình dân ca khác, với thời gian, nó đã tạo dựng nên cả
một văn hóa riêng có với những thành tố (mặt) sinh hoạt văn hóa như Luận án đã
tập trung nghiên cứu, làm rõ bao gồm: không gian SHVHQHL; xã hội Quan họ
làng, kết bạn Quan họ; diễn xướng Quan họ; văn hóa giao tiếp, ứng xử; tạo nguồn
nghệ nhân. Quan họ đã trở thành một hiện tượng văn hóa tổng thể, một hình thái
văn hóa nghệ thuật với đầy đủ những tiêu chí cần thiết của nó mà trong đó sinh hoạt
ca hát chỉ là một thành tố, dù thành tố đó là trung tâm cốt lõi.
Những sinh hoạt văn hóa Quan họ làng với những biểu hiện phong phú và
đặc sắc của nó được duy trì bởi một xã hội Quan họ làng trên quê hương của vùng
đất văn hiến Kinh Bắc - cái nôi của văn hóa Việt, văn hóa làng xã là một đảm bảo
bền vững cho sự tồn tại, phát huy, phát triển loại hình dân ca này.
4. Thời kỳ đất nước thực hiện công cuộc đổi mới cùng với xu hướng TCH,
HĐH, ĐTH và sự chuyển đổi xã hội ngày một mạnh mẽ làm cho tình hình kinh tế - văn
hóa - xã hội biến động không ngừng và có bước phát triển nhanh đã ảnh hưởng to lớn
đến đời sống văn hóa, nghệ thuật. Quan họ không đứng ngoài sự ảnh hưởng đó và cũng
đang có nhiều biến đổi. Tuy nhiên phát triển như thế nào để vừa kế thừa được những
truyền thống căn cốt của Quan họ cổ truyền, vừa cách tân, làm giàu được Quan họ để
đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người đương đại là một sự nghiệp không đơn giản.
Thực tiễn bảo tồn, phát huy Quan họ đã cho thấy ngoài sự tự thân vận động của Quan
họ đang rất cần sự định hướng đúng đắn của Nhà nước, sự vận dụng khả thi những kết
quả nghiên cứu, những giá trị văn hóa nghệ thuật phổ biến theo hướng chân - thiện -
mỹ để Quan họ đứng vững trên nền tảng văn hóa truyền thống của nó và tiếp tục phát
huy, phát triển. Quan họ cần phải giữ gìn được bản sắc vốn có của nó vì đấy là lý do
cốt lõi để nó có thể tồn tại và phát triển mà không bị trộn lẫn.
Có thể thấy, trong nền KTTT, Quan họ và các sinh hoạt của nó đã và đang
trở thành một loại hàng hóa. Tuy nhiên Quan họ phải là một loại hàng hóa chứa
đựng trong nó hàm lượng văn hóa cao và độc đáo để làm sao vừa mang lại những
giá trị tinh thần đậm đà bản sắc vốn có, vừa mang lại những giá trị giao lưu và kinh
tế to lớn để góp phần phát triển đất nước, hội nhập sâu vào thế giới đa sắc màu của
nhân loại.
141
5. Sự thay đổi về mô hình, phương thức sinh hoạt Quan họ làng bởi tác động
của sự biến đổi về không gian, xã hội, cơ chế chính sách, thể chế quản lý mà điển
hình là việc thay thế sinh hoạt bọn Quan họ bằng sinh hoạt Đội (câu lạc bộ) Quan
họ có sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền các cấp với qui mô nhiều khi vượt ra
khỏi tính chất làng xã và xu hướng hoạt động tổng hợp cùng thời điểm với các loại
hình nghệ thuật khác...cũng làm cho Quan họ biến đổi không ngừng. Tuy nhien,
những kết cấu SHQH như bọn Quan họ, nhà chứa Quan họ, v.v... với vai trò to lớn
của nó trong quá khứ có cần phải được khôi phục hay không là một vấn đề cần quan
tâm giải quyết. Trong lịch sử phát triển văn hóa nghệ thuật của nhân loại đã có
nhiều hiện tượng, hình thái văn hóa bị mất đi do những biến cố xã hội nào đó nhưng
khi được khôi phục, lại phát triển rất mạnh mẽ và góp phần quan trọng vào đời sống
tinh thần của nhân dân.
Quan phương hóa, chính quyền hóa hay hành chính hóa Quan họ (vai trò
quản lý nhà nước thay phần lớn vai trò tự quản dân gian) làm cho tính "sân khấu
hóa" của Quan họ tăng lên so với tính "sinh hoạt văn hóa đa dạng" vốn có của nó từ
trong dân gian truyền thống. Sự can thiệp dường như không thể khác của những thể
chế, thiết chế xã hội đương đại rất có thể làm cho Quan họ gặp "nguy hiểm" trên
con đường cố gắng duy trì một đời sống tự nhiên - hồn nhiên" đầy bản sắc của nó.
6. Thực tiễn của đời sống văn hóa nghệ thuật Quan họ như Luận án phân tích,
lý giải đã chỉ ra rằng, muốn bảo tồn, phát huy loại hình dân ca này một cách liên tục
và bền vững thì nhà nước, cụ thể là chính quyền sở tại phải cùng với người dân
Quan họ luôn quan tâm, chăm sóc, gây dựng, nuôi dưỡng và tôn vinh đội ngũ các
nghệ nhân Quan họ - những hạt nhân, nòng cốt của các SHVHQHL. Thực tiễn đã và
đang tiếp tục cho thấy sự mai một cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ nghệ
nhân Quan họ như trình bày trong Luận án đã và luôn là nguyên nhân quan trọng
nhất dẫn đến nguy cơ mai một, biến dạng của loại hình dân ca độc đáo này.
7. Nhìn từ góc độ văn hóa học, Quan họ phải được bảo tồn, phát huy, phát triển
trước hết và trên hết là ngay trong môi trường truyền thống đã sinh ra và nuôi dưỡng nó
trưởng thành. Môi trường đó chính là cảnh quan thiên nhiên của làng xã vùng Kinh
Bắc, là xã hội Quan họ làng và các sinh hoạt văn hóa với phong tục tập quán, tôn giáo,
142
tín ngưỡng đã tồn tại tự ngàn đời... Như ở phần "Phương hướng..." đã đề cập. Có lý
luận cho rằng trong xu thế ĐTH như hiện nay thì liệu đến một lúc nào đó có còn các
SHVHQHL nữa không? Từ thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, ở Việt Nam làng
là một thiết chế xã hội bền vững, không thể mất ngay cả trong một số làng ĐTH cao độ
thì cộng đồng dân cư ở đấy với truyền thống văn hóa làng từ ngàn đời sẽ không thể mất
đi hoàn toàn. Do vậy VHQHL chỉ có thể có những biến đổi trong xu hướng kế thừa,
tiếp nối truyền thống để phát triển và đáp ứng con người ở các thời đại khác nhau
trong lịch sử. Đó đã và đang là một hiện thực sống động được người dân quê hương
Kinh Bắc khẳng định, gìn giữ và nuôi dưỡng.
Mặt khác, quan họ phải được sống và vận hành trước hết bởi những chủ nhân
thật sự của nó là cộng đồng dân cư vùng Kinh Bắc bởi Quan họ chính là kết quả
sáng tạo của chính họ, là đứa con tinh thần của chính họ cả trong quá khứ và hiện
tại. Những phân tích, đánh giá khoa học và cả bằng cảm nhận nữa trong Luận án
này đã cho chúng tôi niềm tin về một sự trường tồn của Quan họ, cho dù phía trước
sẽ còn nhiều biến đổi và gian khó./.
143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Chính (2000), Nghệ nhân Quan họ làng Viêm Xá, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Trần Chính (2005), Văn hóa nghệ thuật từ một góc nhìn báo chí, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
3. Trần Minh Chính (2006), "Suy nghĩ về thực trạng và một số kiến nghị về bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa Quan họ", trong sách: Quan họ Bắc Ninh, thực
trạng và giải pháp bảo tồn, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh xuất bản,
Bắc Ninh.
4. Trần Minh Chính (2015), "Về quan niệm sinh hoạt văn hóa Quan họ", Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, (9), tr 74 -77.
5. Trần Minh Chính (2015), "Xã hội và nghệ nhân làng thủy tổ Quan họ ", Tạp chí
Làng Việt, (11), tr. 16 -20.
6. Trần Minh Chính (2015), "Xã hội Quan họ làng và người nghệ nhân làng thủy tổ
Quan họ Viêm Xá - Bắc Ninh", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (9), tr.56-60.
7. Trần Minh Chính (2015), "Tìm hiểu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
văn hóa và di sản văn hóa", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (9), tr.6-10.
8. Trần Minh Chính (2015), "Văn hóa giao tiếp, ứng xử của xã hội Quan họ làng
Viêm Xá - Bắc Ninh", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (3+4), tr.9 -13.
144
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị An (2006), "Không gian diễn xướng Quan họ - Sự đa dạng và sự biến
đổi", Trong sách: Không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh - bảo tồn và
phát huy, Viện Văn hóa thông tin - Sở Văn hóa thông tin, Bắc Ninh.
2. Đào Duy Anh (1996), Đất nước Việt Nam qua các thời kỳ, NXB Thuận Hóa.
3. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
4. Phương Anh, Thanh Hương (1973), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Tập 1, Ty
Văn hóa Hà Bắc xuất bản.
5. Phương Anh, Thanh Hương (1976), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Tập 2, Ty
Văn hóa Hà Bắc xuất bản.
6. Toan Ánh (1996), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua tết lễ hội hè, NXB Tổng
hợp, Đồng Tháp.
7. Nguyễn Trọng Ánh (2007), Những giá trị âm nhạc trong hát Quan họ, Luận
án Tiến sĩ Nghệ thuật, Nhạc viện Hà Nội, Hà Nội.
8. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000), Một số Văn kiện của Đảng về công
tác tư tưởng - văn hóa, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000), Một số Văn kiện của Đảng về công
tác tư tưởng - văn hóa, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn
hóa, Hà Nội.
11. Hoàng Chí Bảo (2010), Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội
nhập quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Trần Bạt (2005), Cải cách và sự phát triển, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
13. Vũ Bằng (1931), "Hội Lim", An Nam tạp chí, (9).
14. Nguyễn Chí Bền (2011), Dân ca Quan họ Bắc Ninh, di sản văn hóa phi vật thể
đại diện của nhân loại, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
15. Nguyễn Chí Bền (2013), Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành tố,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
145
16. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, NXB Tổng hợp, Đồng Tháp.
17. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Văn bản chỉ đạo và quản lý của
Đảng, Nhà nước về lễ hội, Hà Nội.
18. Bộ Văn hóa thông tin (1998), Một số giá trị văn hóa truyền thống và đời sống
văn hóa cơ sở ở nông thôn hiện nay, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
19. Bộ Văn hóa thông tin (2003), Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 những giá trị
tư tưởng văn hóa, Viện Văn hóa thông tin và Văn phòng Bộ, Hà Nội.
20. Bộ Văn hóa Thông tin phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006),
Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội đương đại (qua trường hợp
Quan họ Bắc Ninh ở Việt Nam), Hội thảo khoa học quốc tế, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay,
NXB Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
22. Lê Ngọc Chân (2002), Hát Quan họ ở miền Bắc Việt Nam: Khao khát khám phá
nghệ thuật quan họ, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học California, Ber Kley,
Hoa Kỳ (Tài liệu dịch của Viện nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật Quốc gia
Việt Nam).
23. Chu Ngọc Chi (1928), Hát Quan họ, Nhà in Thụy Ký, Hà Nội.
24. Chi bộ thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, Thành phố Bắc Ninh (2012), Báo cáo kết
quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của chi bộ thôn Viêm Xá nhiệm kỳ
2010-2012, phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2012-2015, Bắc Ninh.
25. Nguyễn Tiến Chiêu (1959), "Tìm hiểu nguồn gốc quan họ Bắc Ninh", Tạp chí
Bách khoa, (64 + 65).
26. Trường Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt, NXB Sự thật, Hà Nội.
27. Trần Chính (2000), Nghệ nhân quan họ làng Viêm Xá, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
28. Trần Chính (2002), Văn hóa nghệ thuật từ một góc nhìn báo chí, NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
29. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
30. Cục Văn hóa - Thông tin cơ sở (1999), Tín ngưỡng mê tín, NXB Thanh niên,
Hà Nội.
146
31. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian - Mấy vấn đề phương pháp luận và
nghiên cứu thể loại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam, một số vấn đề kinh tế xã hội, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (Chủ biên) (2001), Xã hội học, NXB Đại học
quốc gia, Hà Nội.
34. Phạm Duy (1972), Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam hiện đại, Sài Gòn.
35. Lê Hồng Dương (1980), Những vấn đề văn hóa văn nghệ Hà Bắc, Hội Văn
nghệ Hà Bắc xuất bản, Hà Bắc.
36. Vũ Cao Đàm (2008), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB
Thế giới, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), Văn hóa đại cương và cơ sở văn hóa Việt
Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Nghiêm Vạn (1969), Phương pháp
sưu tầm văn học dân gian ở nông thôn, Vụ Văn hóa quần chúng xuất bản,
Hà Nội.
42. Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2010), Phát triển Văn hóa Việt Nam giai đoạn
2011- 2020 - Những vấn đề phương pháp luận, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội
43. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Hà Nội.
44. Dương Phú Hiệp (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu Văn
hóa và con người Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
45. Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc (1986), Lịch sử Hà Bắc, Tập 1, Hà Bắc.
46. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (1997), 50 năm sưu tầm nghiên cứu phổ biến
văn hóa - văn nghệ dân gian, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
147
47. Nguyễn Văn Huyên (1996), Bức tranh địa lý hành chính của một tỉnh Việt
Nam xưa: tỉnh Bắc Ninh (hay Kinh Bắc)/ Góp phần nghiên cứu văn hóa
Việt Nam, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Nguyễn Văn Huyên (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Đinh Thị Thanh Huyền (2015), "Tục chơi Quan họ (xứ Kinh Bắc) xưa và nay",
Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, (11), tr.30-39.
50. Thanh Hương, Phương Anh (1973), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Tập 1, Ty
Văn hóa Hà Bắc xuất bản, Hà Bắc.
51. Nguyễn Hải Kế (1996), Một làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (Đồng chủ biên) (1993), Lễ hội truyền thống
trong xã hội hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, NXB Văn
học, Hà Nội.
54. Lưu Khâm, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Viêm (1956), Tìm hiểu quan họ Bắc
Ninh, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
55. Trần Văn Khê (1976), "Sau khi thăm quê hương Quan họ", Tạp chí Khoa học
xã hội, (9).
56. Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh (2001), Dân ca Quan họ, lời ca và bình
giải, Trung tâm văn hóa Quan họ Bắc Ninh, Bắc Ninh.
57. Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh, Lê Thị Chung (2006), Không gian Văn
hóa Quan họ, Trung tâm Văn hóa Quan họ Bắc Ninh, Bắc Ninh.
58. Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam và Hoàng Trinh (1993), Phương pháp luận về vai
trò của văn hóa trong phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Vũ Khiêu (2002), Bàn về văn hiến Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Hồ Chí Minh.
60. Nguyễn Hùng Khu (2012), Đời sống văn hóa cộng đồng trong thời kỳ hội
nhập phát triển, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
61. Nguyễn Duy Kiện (1947), "Hội Lim", Việt báo, (1059).
148
62. Nguyễn Xuân Kính (2013), Con người, môi trường và Văn hóa, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
63. Đỗ Long, Trần Hiệp (1993), Tâm lý cộng đồng làng và di sản, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
64. Đỗ Long (2000), Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
65. Đặng Văn Lung, Hồng Thao và Trần Linh Quý (1978), Quan họ - nguồn gốc
và quá trình phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Đặng Văn Lung (1980), Quan họ: Nguồn gốc và quá trình phát triển, Luận án
Phó Tiến sĩ Văn học, Viện Văn học, Hà Nội.
67. Trần Đình Luyện (Chủ biên) (2003), Lễ hội Bắc Ninh, Sở Văn hóa Thông tin
Bắc Ninh, Bắc Ninh.
68. Trần Đình Luyện (Chủ biên) (2006), Văn hiến Kinh Bắc, Sở Văn hóa Thông
tin Bắc Ninh, Bắc Ninh.
69. L.Meeker (2007), Sự chuyển tải âm nhạc: Âm nhạc dân gian, sự điều chỉnh và
quá trình hiện đại hóa ở miền Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Đại học Columbia, Hoa Kỳ (Tài liệu dịch của Viện nghiên cứu Văn hóa
nghệ thuật Quốc gia Việt Nam).
70. Đức Miêng (2002), Yêu một Bắc Ninh, NXB Âm nhạc, Hà Nội.
71. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Lê Viết Nga (Chủ biên) (2004), Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh, Bảo
tàng Bắc Ninh, Bắc Ninh.
73. Lê Hữu Nghĩa, Trần khắc Việt và Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) (2007), Xu
thể toàn cầu hóa trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
74. Hữu Ngọc, Lê Hữu Tầng, Dương Phú Hiệp (1987), Từ điển triết học giản yếu,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
75. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
76. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
149
77. Hữu Ngọc (Chủ biên) (2002), Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Thế
giới, Hà Nội.
78. Nhiều tác giả (1966), Những ý kiến về văn học dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
79. Nhiều tác giả (2004), Đề cương về Văn hóa Việt Nam, chặng đường 60 năm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Nhiều tác giả (2006), Lối chơi Quan họ, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 81. Nhiều tác giả (2012), Bảo tồn và phát huy Di Sản văn hóa Quan họ Bắc
Giang, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 82. Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc (1962), Dân ca
Quan họ Bắc Ninh, NXB Văn hóa, Hà Nội. 83. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Di sản Văn
hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 84. Trần Linh Quý, Hồng Thao (1997), Tìm hiểu dân ca Quan họ, NXB Văn hóa
dân tộc, Hà Nội. 85. Trần Linh Quý (2012), Trên đường tìm về Quan họ, NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội. 86. Mạnh Quỳnh (1940), "Lim", Trung Bắc tân văn chủ nhật. 87. Việt Sinh (1933), Nghe hát Quan họ một đêm ở Lũng Giang, Phong Hóa. 88. Sở Văn hóa thông tin Bắc Ninh (1997), Văn hiến Kinh Bắc, Tập 1, Hà Bắc. 89. Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2004), 35 năm Đoàn dân ca Quan họ Bắc
Ninh (1969-2004), Bắc Ninh. 90. Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2004), Hội Lim truyền thống và hiện đại, Bắc Ninh. 91. Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2006), Quan họ Bắc Ninh - Thực trạng và
giải pháp bảo tồn, Bắc Ninh. 92. Sở Văn hóa thông tin Hà Bắc (1995), Trung tâm văn hóa Quan họ Bắc Ninh,
Hà Bắc. 93. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh - Viện Văn hóa nghệ thuật Việt
Nam (2008), Làng và nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh, Hà Nội. 94. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh (2012), Quy hoạch phát triển sự
nghiệp văn hóa tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Bắc Ninh.
150
95. Tô Ngọc Thanh, Hồng Thao (1986), Tìm hiểu âm nhạc cổ truyền, Tập 1, NXB
Văn hóa, Hà Nội.
96. Tô Ngọc Thanh (2007), Ghi chép về văn hóa và âm nhạc, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
97. Bùi Quang Thanh, Phạm Nam Thanh (2008), Nhận diện không gian văn hóa
Quan họ vùng Bắc sông Cầu, (in trong sách Văn hóa dân gian Việt Nam,
một cách tiếp cận, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
98. Hồng Thao (1997), Dân ca Quan họ, NXB Âm nhạc, Hà Nội.
99. Hồng Thao (2005), 300 bài Quan họ, Viện Âm nhạc, Hà Nội.
100. Nguyễn Toàn Thắng (Chủ biên) (2014), Những vấn đề lý luận về phát triển
văn hóa trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
101. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
102. Bùi Thiết (1993), Từ điển Hội lễ Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.
103. Trương Thìn (2007), 101điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam,
NXB Hà Nội, Hà Nội.
104. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
105. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng Văn hóa ở Việt Nam,
NXB Trẻ, Hà Nội.
106. Đinh Khắc Thuân (Chủ biên) (2009), Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư
liệu Hán - Nôm, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
107. Vương Xuân Tình (2004), Tập quán ăn uống của người Việt vùng Kinh Bắc,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
108. Phạm Trọng Toàn (2007), Tương đồng và khác biệt giữa hát Xoan, hát Ghẹo
Phú Thọ và Quan họ Bắc Ninh, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
109. Minh Trúc (1937), “Hát quan họ”, Báo Trung Bắc tân văn, (5962 + 5963 +
5967 + 5969 + 5971 + 5974 + 5976).
151
110. Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển Văn hóa dân tộc (2009), Tìm về
cội nguồn Quan họ, NXB Sân khấu, Hà Nội.
111. Trung tâm từ điển học (2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
112. Trung tâm Văn hóa Quan họ Bắc Ninh (2002), Một số vấn đề về Văn hóa
Quan họ, Bắc Ninh.
113. Chu Quang Trứ (1997), "Bắc Ninh có 49 làng Quan họ", Tạp chí Văn nghệ
Dân tộc và miền núi, (340.
114. Lê Thị Nhâm Tuyết (1974), "Kết nghĩa làng chạ trong sinh hoạt văn hóa cổ
truyền", Tạp chí Dân tộc học, (36).
115. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
116. Ty Văn hóa Hà Bắc (1972), Một số vấn đề về dân ca Quan họ, Nxb Hà Bắc.
117. Ty Văn hóa Hà Bắc (1974), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Tập 3, Nxb Hà Bắc.
118. Ty Văn hóa thông tin Hà Bắc (1986), Địa chí Hà Bắc, Nxb Hà Bắc.
119. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn hóa dân gian (1989), Văn hóa
dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
120. Nguyễn Viêm (1959), Quan họ Bắc Ninh, NXB Âm nhạc, Hà Nội.
121. Viện Văn hóa dân gian (1982), Lễ hội cổ truyền, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
122. Viện Văn hóa dân gian (1990), Quan niệm về Folklore, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
123. Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và
thực hành, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
124. Viện Văn hóa Thông tin (2007), Văn hóa học - Những phương pháp nghiên
cứu, Hà Nội.
125. Viện Văn hóa Thông tin và Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2006), Không
gian Văn hóa quan họ Bắc Ninh, bảo tồn và phát huy, Bắc Ninh.
126. Viện Văn hóa Thông tin và Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2006), Quan họ
Bắc Ninh, thực trạng và giải pháp bảo tồn, Bắc Ninh.
152
127. Viện Văn hóa Thông tin và Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2006), Vùng Văn
hóa Quan họ Bắc Ninh, Bắc Ninh.
128. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng Văn hóa ở
Nước ta, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
129. Hồ Sỹ Vịnh (1999), Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
130. Đinh Xuân Vịnh (1996), Sổ tay địa danh Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.
131. Lê Trung Vũ (Chủ biên) (1992), Lễ hội cổ truyền, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
132. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, NXB Văn hóa, Hà Nội.
133. Trần Quốc Vượng (1998), Việt nam cái nhìn địa văn hóa, NXB Văn hóa Dân
tộc & Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
134. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
135. Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo và Dương Tất Từ (2006), Mùa xuân và phong
tục Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
153
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
DANH SÁCH CÁC NGHỆ NHÂN QUAN HỌ LÀNG VIÊM XÁ
(Được phong tặng danh hiệu " Nghệ nhân ưu tú" "đợt 1)
STT HỌ VÀ TÊN NĂM SINH GHI CHÚ
1. Nguyễn Thị Bàn 1932
2. Ngô Thị Lịch 1927
3. Ngô Thị Nhi 1923
4. Trần Thị Phụng 1923
DANH SÁCH CÁC NGHỆ NHÂN QUAN HỌ LÀNG VIÊM XÁ
(Được phong tặng danh hiệu "Nghệ nhân cấp tỉnh" đợt 1)
STT HỌ VÀ TÊN NĂM SINH GHI CHÚ
1. Cụ Nguyễn Thị Bàn 1932
2. Cụ Ngô Văn Bật 1935 Đã mất
3. Cụ Nguyễn Thị Khu 1920
4. Cụ Ngô Thị Lịch 1927
5. Cụ Ngô Thị Nhi 1923
6. Cụ Trần Thị Phụng 1923
7. Cụ Ngô Văn Sự 1924 Đã mất
154
Phụ lục 2
DANH SÁCH NGHỆ NHÂN ĐỘI QUAN HỌ LÀNG VIÊM XÁ
TT Họ và tên Năm sinh Chi chú
1. Nguyễn Thị Bàn 1932 Nghệ nhân ưu tú
2. Ngô Thị Bằng 1939
3. Ngô Thị Bạo 1935
4. Nguyễn Thị Chạch 1929
5. Nguyễn Thị Chanh 1947
6. Lê Thị Đăng 1932
7. Nguyễn Thị Hài 1956 Đội phó đội Quan họ
8. Nguyễn Thị Hải 1980
9. Ngô Văn Hiếm 1968
10. Nguyễn Văn Hưng 1964
11. Nguyễn Thị Hương 1963
12. Nguyễn Thị Khu 1920 Nghệ nhân cấp
Tỉnh
13. Nguyễn Thị Khương 1959
14. Nguyễn Văn Ký 1948
15. Nguyễn Thị Liên 1961
16. Ngô Thị Lịch 1923 Nghệ nhân ưu tú
17. Nguyễn Thị Lộ 1954 Đội phó đội Quan họ
18. Nguyễn Văn Lý 1955
19. Ngô Thị Mận 1948
155
20. Ngô Thị Mừng 1963
21. Nguyễn Đức Nhận 1958
22. Ngô Thị Nhi 1923 Nghệ nhân ưu tú
23. Trần Thị Phụng 1923 Nghệ nhân ưu tú
24. Nguyễn Văn Phương 1955
25. Trần Minh Quyết 1975
26. Nguyễn Thị Sang 1954 Đội trưởng đội Quan họ
27. Nguyễn Văn Sáng 1943
28. Nguyễn Thị Sứ 1964
29. Đặng Thị Thái 1938
30. Lê Thị Thái 1954
31. Nguyễn Thị Thảo 1942
32. Nguyễn Thị Thềm 1959
33. Trần Thị Thu 1986
34. Nguyễn Văn Thưởng 1976
35. Ngô Thị Tiên 1975
36. Nguyễn Văn Toàn 1972
37. Ngô Thị Tuyết 1965
38. Nguyễn Thị Vinh 1931
39. Trần Thị Yến 1981
Nguồn: Đội trưởng, nghệ nhân Nguyễn Thị Sang cung cấp, năm 2015.
156
Phụ lục 3
DANH SÁCH CÁC CÁ NHÂN LÀNG VIÊM XÁ
THAM GIA PHỎNG VẤN
TT Họ và tên Năm sinh Chi chú
1. Nguyễn Thị Bàn 1932 Nghệ nhân ưu tú
2. Ngô Thị Bằng 1939
3. Ngô Thị Bạo 1935
4. Nguyễn Thị Chạch 1929
5. Nguyễn Thị Chanh 1947
6. Ngô Thị Chanh
7. Ngô Văn Chinh 1951
8. Nguyễn Thị Dan 1957
9. Lê Thị Đăng 1932
10. Trần Minh Đoàn 1950 Nguyên Phó chủ nhiệm kiêm phụ trách văn hóa thôn
11. Nguyễn Thị Hài 1956
12. Nguyễn Thị Hải 1980
13. Ngô Văn Hiếm 1968
14. Nguyễn Văn Hợi 1950
15. Nguyễn Văn Hưng 1964
16. Nguyễn Thị Hương 1963
17. Ngô Thị Khu 1920 Nghệ nhân cấp Tỉnh
18. Nguyễn Thị Khương 1959
19. Nguyễn Văn Ký 1948
157
20. Nguyễn Thị Lênh 1951
21. Ngô Thị Lịch 1923
22. Nguyễn Thị Liên 1961
23. Ngô Thị Linh 1923
24. Nguyễn Thị Lộ 1954 Đội phó đội Quan họ
25. Nguyễn Thị Lợi 1948
26. Nguyễn Văn Lý 1955
27. Ngô Thị Mận 1948
28. Nguyễn Thị Mị 1941 đã mất 2013
29. Ngô Thị Mừng 1963
30. Nguyễn Đức Nhận 1958
31. Ngô Thị Nhi 1923
32. Trần Thị Phụng 1923
33. Trần Thị Phụng
34. Nguyễn Văn Phương 1955
35. Trần Minh Quyết 1975
36. Nguyễn Thị Sang 1954 Đội trưởng đội Quan họ
37. Nguyễn Văn Sáng 1943
38. Nguyễn Thị Sứ 1964
39. Đặng Thị Thái 1938
40. Lê Thị Thái 1954
41. Nguyễn Thị Thanh 1975
42. Nguyễn Thị Thảo 1942
158
43. Ngô Văn Thảo 1985
44. Nguyễn Thị Thềm 1959
45. Nguyễn Thị Thềm 1959
46. Trần Thị Thu 1986
47. Nguyễn Đức Thúc 1952 Nguyên Trưởng thôn
48. Nguyễn Đức Thục 1945
49. Nguyễn Thị Thước 1963
50. Nguyễn Đức Thược 1957
51. Nguyễn Văn Thưởng 1976
52. Ngô Văn Thưởng 1983
53. Ngô Thị Tiên 1975
54. Nguyễn Văn Tin 1952 Nguyên Chủ nhiệm
hợp tác xã
55. Nguyễn Văn Toàn 1972
56. Nguyễn Đức Tư 1965 Nguyên Trưởng thôn
57. Ngô Thị Tuyết 1965
58. Nguyễn Văn Tý 1980 Trưởng thôn
59. Nguyễn Thị Vinh 1931
60. Trần Thị Yến 1981
(Nguồn: NCS chọn để phỏng vấn sâu. Đối với từng cá nhân, có thể phỏng vấn 01 lần, có thể nhiều lần với các câu hỏi khác nhau được ghi âm hoặc ghi chép lại.)
159
Phụ lục 4 CÂU HỎI VÀ NỘI DUNG TRẢ LỜI PHỎNG VẤN SÂU
1. Một số chú ý - Nội dung cuộc phỏng vấn đã được tinh lược và biên tập cho phù hợp với đề
tài nghiên cứu và thể loại văn phong khoa học. Việc này được thực hiện trên cơ sở
sự đồng thuận và giám sát của các cá nhân tham gia phỏng vấn.
- Những nội dung được trích dẫn đảm bảo tính chân thực của thông tin mà
phỏng vấn viên thu thập được.
- Thứ tự các câu hỏi trong bảng này không trùng khớp với số thứ tự câu hỏi
trên phỏng vấn thực địa.
- Một câu hỏi có thể được hỏi với nhiều người, vì vậy chúng tôi tổng hợp
tóm lược phần trả lời dưới dạng thông tin cơ bản.
2. Thông tin chung về các cuộc phỏng vấn
- Thời gian phỏng vấn: Từ 2012-2015
- Đối tượng phỏng vấn: Người dân sở tại, các nghệ nhân, các nhà quản lý,
các nhà nghiên cứu
- Phỏng vấn viên: Trần Minh Chính và các cộng sự
- Địa điểm phỏng vấn: Tại làng Quan họ Viêm Xá, làng Quan họ Bịu kết
nghĩa (khi các nghệ nhân giao lưu Quan họ) và một số địa điểm liên quan
3. Câu hỏi và nội dung phỏng vấn
- Phỏng vấn số 01: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, ngoài học hát Quan họ, người học còn được học gì nữa
không?
Trả lời:
Ở làng chúng tôi từ lâu lắm rồi, các Em bé (người học hát Quan họ nhỏ tuổi
- TG) cùng với việc học hát là học ăn, học nói, học gói, học mở; tức là học
160
giao tiếp, ứng xử nữa. Giỏi hát rồi, phải giỏi giao tiếp, ứng xử nữa. Nhưng
bọn trẻ bây giờ thường chỉ quan tâm học hát thôi.
- Phỏng vấn số 02: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, lễ hội làng ta hiện nay có gì khác xưa không?
Trả lời:
Bây giờ chính quyền thôn họ tổ chức lễ hội thế nào chúng tôi chỉ thấy loa
đài, cờ quạt ầm ĩ, người thập phương nhiều lên nhưng toàn tập trung ở trước
làng (ý chỉ khu vực trung tâm làng) còn ở các xóm, trong nhà chả thấy làm
gì, cứ vắng lặng. Ngày xưa chúng tôi làm hội đâu cũng thấy vui, người trẻ đã
đành, đi đu đi chơi nhưng người già chủng tôi cũng khối việc để làm. Nhất là
hát canh, xóm nào cũng có, ít ồn ào nhưng say lắm, vui nữa! Bây giờ ở trước
làng mà ỉu trò thì trong làng cũng coi là hết hội. Cánh trẻ bây giờ người ta chỉ
thích mặt tiền thôi.
- Phỏng vấn số 03: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà có phải ở làng ta bây giờ Hội to hơn và đông người dự hơn
không?
Trả lời:
Vai trò của Quan họ Viêm Xá với toàn vùng là rất to lớn, nhưng vào dịp hội,
lệ xưa thì người đến dự chủ yếu vẫn là dân làng sở tại, dân các làng kết nghĩa
và các làng lân cận “đếm giỏi cũng được đôi trăm người”.
Nhưng ngày nay, nhất là kể từ khi Quan họ được vinh danh là di sản thế giới
thì số lượng người đến lễ hội với chúng tôi mỗi năm có đến hàng vạn người,
thậm chí trong đó có người đến dự cho đến hết thời gian lễ hội (thường là 2-3
ngày). Đông người nhất vẫn là lễ hội đền Vua Bà. Số lượng người đến dự rất
đông, người thì đến đơn giản là chơi hội, người thì đi lễ cầu tài cầu lộc,
người đi vãn cảnh…cũng có người đến tìm hiểu như các anh.
161
- Phỏng vấn số 04:
Câu hỏi:
Theo Ông/Bà mối quan hệ giữa chính quyền và dân làng trong tổ chức và
hoạt động lễ hội hiện nay như thế nào?
Trả lời:
Cũng khác nhiều. Bây giờ chính quyền thôn (làng - TG) họ đứng ra chỉ huy
hết. Họ mời khách, tiếp khách, phân công, cầm trịch mọi việc... Dân chúng
tôi làm theo là chính. Đôi lúc cấp trên cũng xuống chỉ đạo nữa.
- Phỏng vấn số 05: Câu hỏi: Là lãnh đạo địa phương, theo Ông/Bà mục đích của lễ hội bây giờ
có khác xưa không?
Trả lời:
Lễ hội cổ truyền trước đây được dân làng mở ra chỉ để tôn vinh văn hóa, thỏa
mãn đời sống tâm linh, vui chơi giải trí chủ yếu là để cho mình, để tự thỏa
mãn mình “tự sản tự tiêu”. Còn đối với lễ hội ngày nay, ngoài mục đích
truyền thống thì còn có những mục đích khác như mục đích về kinh tế, làm
du lịch, mục đích quảng bá văn hóa, thậm chí cả mục đích chính trị liên quan
đến vấn đề tuyên truyền, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, dân chủ, v.v…
- Phỏng vấn số 06: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà lễ hội Quan họ hiện nay có làm kinh tế không?
Trả lời:
Lễ hội của người Quan họ hôm nay không chỉ để thực hành các sinh hoạt văn
hóa thuần túy như trước đây nữa mà còn phải gánh vác cả nhiệm vụ của
người làm kinh tế và nhiều thứ khác nữa. Việc hát Quan họ nhận tiền trong
ngày hội ở các làng Quan họ, trong đó có Viêm Xá, là có thật. Thành phần,
mục đích của lễ hội thay đổi dẫn tới cách thức tổ chức, các sinh hoạt lễ hội
và đặc biệt là cái tâm thế (tinh thần) của người tham dự lễ hội thay đổi là
điều không thể tránh khỏi.
162
- Phỏng vấn số 07: Câu hỏi:
Vai trò của người nghệ nhân xuất sắc đối với Quan họ trước đây và ngày nay
có gì khác nhau?
Trả lời:
Ngày nay, những liền anh, liền chị xuất sắc thường được gọi là anh Hai - chị
Hai, anh Ba - chị Ba theo những tiêu chí xưa đã “vắng” đi rất nhiều so với
trước đây, nghĩ là trình độ kém đi. Vì thế sự "sùng kính" của người dân Viêm
Xá cũng như toàn vùng Quan họ đối với họ như xưa có lẽ không còn nữa.
Người nghệ nhân hôm nay coi như người diễn viên nghiệp dư chỉ xuất hiện
trong hoạt động ca hát không chuyên theo quan niệm của đời sống văn hóa
cơ sở dưới chế độ mới.
- Phỏng vấn số 08: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, Quan họ nên làm kinh tế như thế nào?
Trả lời:
Phi thương thì bất phú. Bây giờ Quan họ phải vừa làm văn hóa vừa làm kinh
tế nữa. Ở Hội An, họ hát Bài Chòi thu rất nhiều tiền mà lại vui. Mình ở đây,
giao thông thuận tiện, đất lề quê thói, lại sát nách thủ đô Hà Nội, sao mình
không làm được như họ.
- Phỏng vấn số 09: Câu hỏi:
Mô hình tổ chức Đội Quan họ có gì khác với Bọn Quan họ?
Trả lời:
Bây giờ mô hình sinh hoạt "Bọn Quan họ" không còn nữa, mà chuyển sang
mô hình tổ chức "Đội Quan họ” ,và gần đây là "Câu lạc bộ Quan họ", đặt
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền cơ sở. Các liền anh liền chị đều là
thành viên của ĐQH hoặc CLBQH hoạt động theo kế hoạch và phân công
nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu về chính trị và văn hóa của địa phương, cả
đối nội và đối ngoại. CLBQH không sinh hoạt trong nhà chứa như bọn Quan
163
họ mà chỉ ở đình, chùa, đền, nhà văn hóa...Còn bọn Quan họ tự nhóm lại với
nhau, có điểm khác bọn khác và sinh hoạt theo truyền thống với các bọn
Quan họ làng kết nghĩa.
- Phỏng vấn số 10: Câu hỏi:
“Trình độ” nghệ nhân phải được rèn luyện như thế nào?
Trả lời:
Người nghệ nhân Viêm Xá thường rèn luyện ít nhất khoảng 10 năm (từ 13-
14 tuổi đến 23-24 tuổi). cụ Thị - một cụ Thượng của làng kể rằng cụ học hát
từ năm 14-15 tuổi đến ngoài 30 tuổi vẫn không thuộc được trên 100 bài. Cụ
nói: “Thuộc là một chuyện nhưng lúc hát còn ngân nga, nhấn nhá nữa chứ,
phải thuộc lắm mới thế được”.
Với trình độ “đặt câu bẻ giọng” và có giọng hát “vang, rền, nền, nảy” thì
nghĩa là vừa phải có trình độ sáng tác các bài ca mới, (kể cả bài “độc”) vừa
phải có trình độ ca hát đạt tiêu chuẩn theo những yêu cầu của âm nhạc dù là
âm nhạc dân gian. Đạt đến trình độ này vào những năm cuối thế kỷ XX, đầu
thế kỷ XXI ở Viêm Xá có các nghệ nhân Nguyễn Thị Các, Ngô Thị Lịch,
Nguyễn Thị Nhi, Ngô Thị Trạch.
- Phỏng vấn số 11: Câu hỏi: Thưa Ông/Bà, các nghệ nhân bây giờ họ hát như thế nào?
Trả lời:
Các nghệ nhân trong khoảng 10 năm trở lại đây đang bộc lộ xu hướng ngại
học các bài Quan họ quá cổ vốn có tiết tấu, giai điệu chậm, dài dòng lại khó
thuộc (các bài Quan họ cổ rất nhiều hư từ, luyến láy). Các nghệ nhân ở tuổi
đang sung sức, hát nhiều như Nguyễn Thị Sang, Nguyễn Thị Thềm, Nguyễn
Văn Hưng, Nguyễn Đức Nhận vv… đã ở trình độ ngấp nghé “đặt câu, bẻ
giọng” thì thường có tâm lý là vừa muốn giữ gìn học hỏi vốn cổ vừa muốn
cách tân thật nhiều để có thể phù hợp với các đối tượng thưởng thức trẻ và
thỏa mãn ngay chính sở thích của mình.
164
- Phỏng vấn số 12:
Câu hỏi:
Thưa Ông/Bà? Ở Viêm Xá, việc hát mừng trong các sự kiện vui gia đình,
dòng họ có nhiều không?
Trả lời:
Từ bé chúng tôi đã thấy ở làng Viêm Xá khi các nhà có việc vui ít thấy mời
người đến hát Quan họ. Lúc đó chúng tôi cũng không biết vì sao. Khi lớn lên
mới biết rằng, có lẽ do cả làng là Quan họ rồi nên rất ít nhà mời Quan họ đến
hát mà thường được các làng khác mời đi hát thì nhiều.
- Phỏng vấn số 13: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, văn hóa giao tiếp, ứng xử của người Quan họ xưa thế nào?
Trả lời:
Ngày xưa đường ăn, ý ở của các anh Hai, chị Hai với bạn hát chẳng qua cũng vẫn là đường ăn, ý ở của cả làng. Có chăng là khi hát, khi đón bạn người ta nắn nót hơn mà thôi. Người Quan họ chúng tôi thì ở làng nào cũng thế. Đã không nói thì thôi, nói là phải đắn đo, nhu mì, không bỗ bã được. Bỗ bã, xuồng xã Quan họ bạn chê cười, dấu mặt vào đâu.
- Phỏng vấn số 14: Câu hỏi: Tục kiêng hèm của Quan họ hiện nay còn được duy trì như thế nào?
Trả lời:
Làng Viêm Xá:"Chúng tôi cũng không rõ lắm, chỉ nói theo truyền thống ở
làng thôi. Dân làng nói thế nào chúng tôi nói thế".
Làng Đống Cao: Khi chúng tôi hỏi một số người dân đi “xem” hát Quan họ ở
đình là tại sao anh lại nói “anh Đôi, chị Đôi” mà không nói “anh Hai, chị
Hai” thì anh trả lời: “không biết, chỉ là nói theo làng vẫn nói thôi”.
- Phỏng vấn số 15: Câu hỏi:
Ông/Bà cho biết giao tiếp, ứng xử Quan họ bây giờ có khác xưa không?
165
Trả lời:
Khác nhiều rồi. Ngày xưa lịch sự, ý nhị lắm, nhất là trong đón tiếp Quan họ
bạn, trong nhà chứa, khi hát canh, hát mừng. Lịch sự, ý nhị từ ăn, nói, đứng
ngồi. Các cụ nói, học hát là một chuyện, còn "học ăn, học nói, học gói, học
mở" nữa mới thành người Quan họ. Còn bây giờ bỗ bã, thô thiển lắm.
- Phỏng vấn số 16: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà ở làng Quan họ thường hát vào lúc nào?
Trả lời:
Quan họ từ xưa đến nay hát nhiều nhất vào lúc có sự, lệ như hội đình, đền,
chùa, mùa xuân, mùa thu và cả ở các đám khao, cưới, nhà mới, sinh con, bây
giờ thêm cả liên hoan, hội diễn, sinh nhật...
- Phỏng vấn số 17: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, người hát Quan họ có phân biệt giàu, nghèo không?
Trả lời:
Không. Ai hát hay thì người ấy được tôn vinh, được nể trọng, rất bình đẳng.
Có điều nhà ai nghèo thì đi hát khó hơn, vất vả hơn. Trước đây, nhà giàu nếu
không hát thì cũng hay làm nhà chứa cho "vui cửa, vui nhà".
- Phỏng vấn số 18: Câu hỏi:
Ông /Bà cho biết, tuổi đi hát thường từ bao nhiêu trở đi?
Trả lời:
Ở Viêm Xá chúng tôi, chỉ từ 10 tuổi là hát rồi. Người ham Quan họ có khi
hát tới "chết thì thôi". Nhưng thành anh Hai - chị Hai, anh Ba - chị Ba... thì thường
phải 25, 27 tuổi trở lên. Hát mà giỏi, gọi là "Quan họ cựu".
166
- Phỏng vấn số 19: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, một bọn Quan họ ở làng thường có bao nhiêu người?
Trả lời:
Ở Viêm Xá, một bọn có từ 8 đến 12 người. Bọn nam riêng, bọn nữ riêng. Cả
vùng Quan họ đều thế. Họ quí nhau như ruột thịt và rất hợp với nhau khi hát.
- Phỏng vấn số 20: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, Quan họ Viêm Xá xưa có thi hát ở hội không?
Trả lời:
Chúng tôi thây nói không thi, nhưng có sách nghiên cứu lại nói có. Còn bây
giờ thì Viêm Xá đi thi nhiều, cả tỉnh cả huyện, và hay giật giải. Nhưng Viêm
Xá hát Quan họ đối đáp cổ hay hơn hát Quan họ mới (có nhạc đệm - TG).
- Phỏng vấn số 21: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, người dân Viêm Xá thích nghe Quan họ cổ hay Quan họ mới?
Trả lời:
Chúng tôi thấy người già, người trung tuổi thích nghe Quan họ cổ (tức là lề
lối) và cũng thấy nghe Quan họ mới. Còn người trẻ, nhất là học sinh thích
nghe Quan họ mới hơn. Hát canh thì bây giờ ít thấy người trẻ xem được lâu.
- Phỏng vấn số 22: Câu hỏi:
Ông/Bà cho biết có thích cho người nhà tham gia đội Quan họ, câu lạc bộ Quan họ không?
Trả lời:
Ở làng chúng tôi phần lớn đều thích nhưng bọn trẻ phải đi học, đi làm xa nhiều,
giờ giấc chặt chẽ nên cũng khó. Nhưng người nào đã hát hay thì say lắm.
167
- Phỏng vấn số 23: Câu hỏi:
Ông/Bà cho biết tại sao ở làng hiện nay người trẻ hát Quan họ lại ít hơn người già?
Trả lời:
Vì không như ngày xưa, bây giờ trẻ họ "thoát ly" hết, đi làm khu công
nghiệp, đi học chuyên nghiệp rồi không về làng ở nữa nên chỉ ai ở làng làm
ruộng hoặc cac nghề tại gia mới tham gia đội Quan họ được.
- Phỏng vấn số 24: Câu hỏi:
Theo Ông/Bà, người chơi Quan họ ở Viêm Xá hiện nay có tăng lên không?
Trả lời:
Không tăng mà giảm đi. Những năm 1990 số lượng đội viên ĐQH nhiều
hơn bây giờ. Nhưng người thích hát kiểu "vài câu cho vui" thì nhiều lắm.
Thời thị trường, nhà ai cũng bận rộn.
- Phỏng vấn số 25: Câu hỏi:
Quan họ bây giờ phải quảng bá, Ông/Bà cho biết vai trò của báo đài như thế nào?
Trả lời:
Báo đài cũng được việc. Có truyền tin, truyền hình rất nhanh và hiện đại đấy,
nhưng cũng có điểm phải tính lại. Vì nhà báo không phải ai cũng hiểu biết
Quan họ truyền thống, nên thông tin họ đưa về Quan họ nhiều khi không
chính xác do tìm hiểu kiểu "cưỡi ngựa xem hoa". Nhiều khi làm cho người
dân các nơi, cả quốc tế hiểu sai về Quan họ. Ví dụ họ nói: "người Quan họ
không lấy nhau". Việc ấy có, nhưng chỉ ở một số làng có kết chạ, kết nghĩa
thôi và cũng là từ ngày xưa, còn bây giờ không thế nữa.
168
- Phỏng vấn số 26: Câu hỏi:
Bây giờ Quan họ được tôn vinh là Di sản văn hóa thế giới, người Viêm Xá có tự hào không?
Trả lời:
Chúng tôi rất tự hào nhưng cũng lo. Lo vì bây giờ cuộc sống hiện đại: con
người thay đổi, môi trường thay đổi, sở thích thay đổi... Sợ không giữ được
Quan họ cổ truyền vì lai tạp.
- Phỏng vấn số 27: Câu hỏi:
Là nhà nghiên cứu, theo Ông/Bà trang phục Quan họ bây giờ có giữ được truyền thống?
Trả lời:
Riêng trang phục, người hát Quan họ bây giờ rất thích mặc như ngày xưa vì nó đẹp, đĩnh đạc, duyên dáng và uyển chuyển.
- Phỏng vấn số 28: Câu hỏi:
Là người dân Quan họ, Ông/Bà muốn Quan họ bây giờ phải như thế nào?
Trả lời:
Muốn Quan họ vừa giữ gìn truyền thống vừa đổi mới tư duy để phù hợp với
bây giờ, nhất là những người trẻ tuổi. Nếu chỉ Quan họ cổ truyền như xưa
người ta sẽ chán, không hấp dẫn.
- Phỏng vấn số 29: Câu hỏi:
Là nhà nghiên cứu văn hóa ở địa phương, Ông/Bà cho biết tục kết bạn có
phải là cơ sở quan trọng hình thanh nên các sinh hoạt văn hóa Quan họ, trong
đó có sinh hoạt ca hát?
169
Trả lời:
Đúng là như vậy. Tục kết bạn đem đến cho các làng Quan họ không chỉ là
các giao lưu về nghệ thuật Quan họ mà còn đem lại giao lưu về văn hóa
Quan họ. Quan họ độc đáo là ở chỗ đó.
170
Phụ lục 5
BÀI VÈ VỀ 36 GIỌNG QUAN HỌ CỔ
Bài vè cổ truyền về 36 giọng ca Quan họ này có tên: Bài vè 36 giọng cổ được
Ty Văn hóa Bắc Ninh sưu tầm và đã được in trong cuốn sách Dân ca Quan họ Bắc
Ninh (Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc; NXB Văn hóa,
Hà Nội 1962) và cuốn Nghệ nhân Quan họ làng Viêm Xá (Trần Chính; NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội 2000). Ở Viêm Xá hiện nay đang lưu truyền một bài tương tự
như bài vè nói trên, có khác về tên bài và một vài chỗ nhưng đều giống ở số lượng
36 giọng ca. Bài này thường được ngâm trước khi vào một canh hát trong đền Vua
Bà. Hiện nay trong vùng Quan họ chỉ còn hát mươi, mười lăm giọng trong tổng số
36 giọng. Dưới đây chúng tôi giới thiệu toàn văn bài vè này. Những chữ in đậm
trong bài vè là tên các giọng ca cổ.
Vua bµ th¬ cæ truyÒn Quan hä*
Vèn xưa Quan hä B¾c Ninh
Muèn t×m tÝch cò ®Õn lµng DiÒm th«n
Thñy tæ Quan hä lµng ta
Nh÷ng lêi ca xướng Vua Bµ ®Æt ra
Xưa nay nam n÷ trÎ giµ
Ai mµ ca ®ưîc ¾t lµ hiÓn vinh
NgÉm xem c¸c giäng cho tinh
Ai mµ ca được hiÓn vinh trªn ®êi
Hõ la kÝnh chóc mÊy lêi
La r»ng xÕp ®Æt ë n¬i ý m×nh
T×nh tang, B¹n lan è t×nh
G¹o ngang, G¹o däc thªm xinh C¸i hõng
C¬m vµng, chiÒn chiÖn ®· tõng
171
Th¬ ®óm, §µn ®óm tin mõng Phong thư
CÇm b»ng, T×nh r»ng thê ¬
Lªn giäng §i cÊy, Ng©m th¬ mét m×nh
N¨m canh, Phó ®äc h÷u t×nh
§µm ngäc, §µn lÉy, nhí mong H·m Quúnh
§µo nư¬ng ý thøc TÝnh t×nh
N¨m cung lÈy lãt Mưêi cung d·i lßng.
T¶ lý, Giäng HuÕ ®ưêng trong
Du giµ giäng HuÕ l¹i thªm Xanh tiÒn
Bu«n b«ng, Con M¾m thÒ nguyÒn
Dang tay BÎ qu¹t ch¼ng phiÒn ¤ng r¨ng
LuyÖn chªnh, LuyÖn m¸n ca r»ng1
Cßn c¸c Giäng L¸2 nãi n¨ng v« vµn.
*Ghi theo lêi ®äc cña cô Ng« ThÞ Nhi (tøc cô Ký), sinh n¨m 1923, hiÖn ®ưîc coi lµ nghÖ nh©n nhí
nhiÒu bµi Quan hä nhÊt nh× trong lµng 1. Cã ngưêi h¸t lµ: Liªn trang, Mưêng m¸n ca r»ng". 2. Giäng L¸ chÝnh lµ giäng VÆt.