Upload
httpwwwfacebookcomdjthanhbinh-httpwwwfacebookcomdjthanhbinh
View
397
Download
10
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Nếu quý vị không buông xả được ái dục, thì dầu cho quý vị xuất gia tám vạn bốn ngàn đại kiếp, quý vị cũng chỉ phí thời gian trong Đạo Phật và tạo nghiệp chướng với mỗi bữa ăn mình thọ dụng
Citation preview
2
Khai Thị Về Ái Dục
Hòa Thượng Tuyên Hóa
卍
Sắc Dục Chướng Ngại Ðường Ðạo
Ðức Phật dạy: "Trong các thứ ái dục, không gì
đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc đẹp
to lớn không gì sánh bằng. May thay, chỉ có một
mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế thì khắp
thiên hạ không ai có thể tu Ðạo được cả!"
Kinh Phật Nói Bốn Mươi Hai Chương - Chương 24
Ái dục là gốc của sinh tử
Nên biê t a i du c la gô c rê cu a sanh tư . Chu ng sanh chi u khô
trong vo ng luân hô i đê u la do lo ng a i du c ma ra. Truy cho
cu ng gô c a i du c thi na o pha i chi mơ i co trong đơ i na y, hay
đa co tư 2, 3, 4 kiê p trươ c đâu. No đa co tư vô thi kiê p, khi
sanh tư mơ i bă t đâ u vây. Đơ i đơ i kiê p kiê p, bo thân na y
sanh thân kia, đê u do a i du c la m cho luân chuyê n. Chi đê n
nga y nay, thư ho i mi nh đa co mô t ma y may y nghi ta m rơ i
ca i gô c rê a i du c na y chưa? Bơ i ca i hôt giô ng, ca i gô c rê a i
du c qua sâu dâ y, nên sanh tư cư vô cu ng vô tâ n.
3
Ðối với kẻ mới phát tâm tu, điều chướng ngại nhất khi
dụng công là lòng tham đắm sắc dục giữa nam và nữ. Ðây
là vấn đề căn bản nhất.
Nếu quý vị không buông xả được ái dục, thì dầu cho quý
vị xuất gia tám vạn bốn ngàn đại kiếp, quý vị cũng chỉ phí
thời gian trong Đạo Phật và tạo nghiệp chướng với mỗi
bữa ăn mình thọ dụng.
Người tu Ðạo nên chú ý! Chớ gieo duyên nhiễm ô với
người khác. Sợi dây trói buộc bất tịnh này sẽ làm chúng ta
đọa lạc.
Tu hành thì cần phải giữ mình cho trong sạch, như giữ đôi
mắt không để dính một hột cát vậy.
Tu đạo thì trước hết phải trừ tập khí. Trừ như thế nào?
Bên trong thì khắc kỷ phục lễ, bên ngoài thì đoạn dục khử
ái, cả hai đàng cùng dụng công, ắt sẽ thành công.
Con người sanh ra bởi sắc dục, chết bởi sắc dục, đó là lẽ
thường của thế tục, và thuận theo thế tục thì cứ sống đi
chết lại không ngừng. Kẻ xuất gia thì đi ngược lại, có đi
ngược mới thành thánh, nên cái gì hay với thế gian thì lại
không hay với người xuất gia; người thế gian tham, chúng
ta không tham; cái gì người thế gian yêu thích, chúng ta
không yêu thích; cái gì người thế gian mê, chúng ta không
mê. Muốn cầu đại đạo ắt phải ra khỏi đường mê.
4
Khuyết điểm lớn nhất của chúng sanh là si ái--ngày đêm
sống trong si ái, không thể xả bỏ được. Nếu chuyển được
tâm háo sắc thành tâm tu học Phật Pháp, từng giờ từng
phút không lãng quên việc tu học, thì sẽ mau chóng thành
Phật.
Thân thể ai không nhiễm ô thì người ấy là Phật; thân thể
ai nhiễm ô thì người ấy là chúng sanh. Nhiễm ô là gì? Nói
vắn tắt thì "nhiễm ô" tức là nhìn không thông, xả không
được, giờ giờ phút phút luôn sanh khởi vọng tưởng.
Tinh lực dồi dào thì không cảm thấy lạnh.
Khí lực sung túc thì không cảm thấy đói.
Thần lực đầy đủ thì không cảm thấy mệt."
Tinh, khí, thần là ba báu vật. Người xuất gia phải tu trì tinh,
khí, thần.
"Chuyên nhất thì linh.
Phân tán thì bị ngăn ngại."
Chuyên nhất về việc gì? Tức là chuyên nhất đoạn dục vọng,
trừ tham ái. Nếu không đoạn dục vọng, trừ tham ái thì có
xuất gia tu Ðạo đến tám vạn đại kiếp đi nữa cũng vẫn
không thành công. Vì vậy, việc này rất là trọng yếu.
Tại sao thế giới càng ngày càng băng hoại? Vì ai ai cũng
tranh--tranh danh, tranh lợi, tranh quyền, tranh địa vị, và
nghiêm trọng nhất là tranh sắc dục.
5
Dâm dục là nguồn gốc của sanh tử. Nếu không đoạn dâm
dục thì muốn sanh lên trời cũng không được, huống hồ là
muốn chứng Ðạo Bồ-đề vô thượng? Vì vậy, nếu muốn tu
phép Thiền-định Tam-ma-đề, muốn vượt khỏi biển sanh tử
khổ đau, thì trước hết phải vượt qua cửa ải này.
Học Phật Pháp thì cần phải dùng trí huệ chứ không thể
dùng tình cảm. Dùng trí huệ để học Phật Pháp thì đó là
Chánh Pháp. Dùng tình cảm mà học Phật Pháp thì đó là
Mạt Pháp.
Từ vô lượng kiếp về trước cho đến nay, chúng sanh chúng
ta do quen sống buông xuôi theo tình cảm và dục vọng của
mình, nên cứ phải loanh quanh luẩn quẩn mãi trong sáu
nẻo luân hồi. Vì bị vô minh, ái kiến và kiêu mạn luôn luôn
vây phủ nên chúng ta chưa thể chứng được quả-vị A-la-hán.
Do đó, chúng ta không nên tin tưởng ý niệm của mình.
Chúng ta phải dè dặt, không được bất cẩn. Chúng ta phải
tuyệt đối thận trọng, chớ nên đắm nhiễm sắc dục và cũng
đừng tin ở ý niệm của mình!
Quý vị phải thận trọng, chớ gần gũi sắc dục; gần gũi sắc
dục tất sanh họa. Quý vị hãy ghi nhớ rằng mình phải hết
sức cẩn thận, đừng bao giờ mê đắm sắc tướng. Nếu quý vị
mê chấp, cùng với sắc tướng "hợp lại thành một", ắt sẽ có
tai họa xảy ra.
6
Nam giới cần phải tránh xa nữ giới và đồng thời, nữ giới
cũng cần phải tránh xa nam giới. Đó là phương pháp "sanh
thiện, diệt ác" dùng để đối trị lòng tham ái và tham dục.
Nam thì nên xem những phụ nữ cao niên như mẹ, và nữ thì
nên xem những người đàn ông già cả như cha. Khi người
nam gặp những người nữ trạc tuổi mình hoặc hơn mình
một vài tuổi thì hãy xem họ như chị, nếu nhỏ tuổi thua mình
thì xem như em gái, còn nếu là trẻ con thì xem như con cái
của mình vậy, và nên phát tâm cứu độ họ. Quý vị phát tâm
độ thoát họ tức là quý vị có lòng từ bi, muốn mang lại lợi
ích cho kẻ khác (lợi tha). Như thế, quý vị vừa làm lợi cho
mình lại vừa có thể làm lợi cho người khác nữa. Khi hai hành
vi tự lợi và lợi tha này tương ưng, thì niệm ác sẽ tự nhiên
tiêu tan và vọng tưởng cũng ít bớt.
Đức Phật dạy: "Hãy thận trọng, đừng nhìn ngó nữ sắc,
cũng đừng nói năng với họ." Đây là cách người nam đối xử
với người nữ. Về cách người nữ đối xử với người nam thì có
thể đảo lại: "Hãy thận trọng, đừng nhìn ngó nam sắc, cũng
đừng nói năng với họ!" Quý vị không được cùng nhau
chuyện trò với người khác phái. Đừng nói là cười đùa, ngay
cả nói năng cũng không thể được!
7
Phàm là người tu Đạo, hễ lửa đến thì nên tránh xa. "Lửa"
tức là gì? Ở đây, "lửa" là dụ cho dục vọng và ái tình, và cũng
là tình cảm mong muốn các cảnh giới của lục trần. Lục căn
thì thuộc về tình, còn lục trần thì thuộc về cảnh. Cả sáu căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) hợp với sáu trần (hình sắc, âm
thanh, hương thơm, mùi vị, tiếp xúc, pháp) làm cho con
người bị đắm say mê muội, mê đắm đến nỗi "sống say
chết mộng"!
Vì vậy, "người tu Đạo thấy sự dục lạc tất phải tránh xa."
Người tu Đạo cần phải lánh xa dục vọng. Nếu quý vị có thể
"thấy mà như không thấy, nghe mà như không nghe," tức là
đã đạt được cảnh giới:
Nhãn quán hình sắc nội vô hữu,
Nhĩ thính trần sự tâm bất tri.
(Mắt nhìn hình sắc, lòng không động,
Tai vẳng chuyện đời, dạ chẳng hay.)
Thì bấy giờ quý vị không cần phải tu hạnh "viễn ly" nữa.
Nếu quý vị ngày ngày tiếp xúc với trần cảnh mà không bị
đắm nhiễm thì không sao; nhưng nếu không làm được như
vậy thì cần phải nghiêm cẩn tu hạnh "viễn ly" - lánh xa lửa
dục!
"Cấu nhiễm" tức là những dục vọng trong tâm, đặc biệt là
những ý nghĩ về sắc dục. Không dứt bỏ lòng dâm dục tức là
có cấu nhiễm; loại trừ lòng dâm dục rồi tức là không còn
8
cấu nhiễm nữa. Khi cấu nhiễm không còn thì tâm được
thanh tịnh, trong sạch - các hạnh mà quý vị tu hành đều
được thanh tịnh cả.
Lòng dâm dục cố nhiên là nhơ uế, và cũng là thứ dục vọng
to lớn nhất. Ngoài ra, các thói tham, sân, si, kiêu mạn và
nghi hoặc cũng đều là những cấu nhiễm trong tâm. Trừ
sạch các thứ cấu nhiễm này thì sự tu hành của quý vị sẽ
tương ưng với Đạo. Bấy giờ, quý vị sẽ có thể "trở về nguồn
cội" (phản bổn hoàn nguyên) và tìm lại được cái tâm thanh
tịnh vốn có của mình.
Đức Phật dạy chúng ta nên dùng trực tâm mà tu Đạo và
suy nghĩ về Đạo. Trong mỗi niệm, chúng ta nên lấy việc
thoát vòng tình dục làm mục tiêu của mình. Ái tình và dục
vọng chính là bùn lầy; chúng ta cần phải vượt ra khỏi vũng
bùn ấy.
So với vũng bùn lầy lội, thì lòng ham muốn tình dục và các
vọng tưởng về sắc dục còn nguy hại, đáng sợ hơn nhiều!
Cho nên, "Phải trực tâm niệm Đạo, phải một lòng một dạ,
chỉ có một cái tâm ngay thẳng để suy nghĩ về Đạo và việc
tu Đạo, thì mới có thể thoát được sự khổ, tránh khỏi nỗi
thống khổ bị sa lầy."
Một khi phạm giới dâm, quý vị sẽ rất dễ phạm giới sát,
cũng dễ dàng phạm giới trộm cắp, và vọng ngữ. Bởi vậy,
9
phạm giới dâm thì các giới sát sinh, trộm cắp, dối trá đều
bao hàm trong đó.
Trai gái yêu nhau, rốt ráo có ý nghĩa gì? Tướng mạo dù có
đẹp bao nhiêu cũng chỉ là da bọc đồ thối: Trong ấy nào là
phân, nước tiểu... Chín lỗ trong thân thường lưu những thứ
bất tịnh: Mắt thì có ghèn, tai thì có ráy tai, mũi thì có dãi mũi,
miệng thì có nước miếng, thêm đại tiểu. Quý vị nghĩ rằng
cứu cánh thân này có sạch sẽ chăng?
Nếu mình không hao tán tinh khí thần thì có hay không có
ăn uống không thành vấn đề nữa. Chính bởi vì mình ngày
ngày cứ xoay chuyển trong cảnh giới hữu lậu nên mới cần
phải ăn uống.
Vì sao người ta có bịnh? Vì lúc bình thường không chú
trọng đến sức khỏe. Người tại gia nên bớt làm việc dâm
dục, tăng cường việc thể dục, vận động. Ðó là căn bản của
sức khỏe. Nếu quý vị cứ suốt ngày hành dâm, không giữ
phép tắc quy củ thì thân thể vĩnh viễn không thể khỏe
khoắn được.
Không có lòng tham dục thì phiền não gì cũng chẳng có.
Một khi có lòng tham dục thì chuyện gì cũng xảy ra. Thế
giới, vạn sự vạn vật vạn loài, thứ gì cũng do lòng tham dục
sinh ra cả.
Ma vô cùng thông minh. Nó rình biết người kia có lòng
tham muốn thứ gì thì nó sẽ dùng phương pháp thích hợp
10
để dụ hoặc người đó. Do đó người tu hành chúng ta không
cần thiết phải niệm chú gì đặc biệt, cũng không dùng
pháp môn gì. Chỉ cần mình chân thật, không tranh, không
tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, cứ chăm
chỉ khổ tu, thì không có ma gì phá hại được quý vị. Chỉ cần
quý vị có lòng tham, có lòng kiêu hãnh, muốn chiếm tiện
nghi, muốn tìm đường tu tắt, thì sẽ dễ dàng bị dính vào ma
sự.
Người tu mà sợ cô độc thì chẳng thể tu.
Người thuyết pháp bất luận rằng người đó có thần thông
quảng đại tới đâu, quý vị cũng phải quan sát người đó.
Nếu người đó có lòng tham lam, tới đâu cũng kiếm tiền;
hoặc có lòng dâm dục, thì người đó không phải thứ thiệt,
mà là thứ giả. Nếu người đó không có lòng tham, lòng dâm
dục, không có mưu đồ, thì người đó mới là thứ thiệt.
Người xưa nói: Vạn ác, dâm đứng đầu. Ðó là đường chết,
không thể đi. Quý vị cứ làm chuyện dâm dục thì cũng như
đi vào đường chết.
Ăn uống giúp tăng dục vọng. Dục vọng giúp thêm vô
minh.
Ái dục chính là sinh tử. Sinh tử chính là lòng ái dục. Ái dục
là gốc của sinh tử. Nếu không trừ bỏ lòng ái dục vô minh thì
rốt ráo không thể nào thoát khỏi biển ái sinh tử.
11
Không thể có chuyện là chẳng đoạn trừ lòng dâm mà có
thể thành Phật. Trong thiên hạ không có chuyện đó. Ðời
nay đa số người ta thích mau chóng, thích có kết quả ngay,
nên khi họ nghe nói có pháp huyền diệu thì liền bị mê hoặc
rồi rơi vào lưới ma. Ðến lúc chết mà vẫn cho là có pháp bí
mật, hay mật pháp! Bí mật? Bí mật! Bí mật đến độ phải
vào địa ngục luôn!
Cái lậu (chỗ lũng) lớn nhất là dục lậu - lòng dâm dục. Khi
có ý dâm dục thì cũng như bị giặc cướp tới cắp, cuỗm hết
tài sản bảo vật. Cũng giống như gỗ bị mối ăn thì gỗ thành
vô dụng. Lại cũng như món ăn ngon mà bỏ chút phân vào
thì chẳng ai dám ăn. Ba ngày nôn mửa là khác!
Nếu quý vị còn thích đẹp đẻ, xinh xắn, mỹ quan thì hẳn
thói quen (ham sắc) chưa trừ.
Ăn thịt thì dục niệm sẽ nhiều, vọng tưởng cũng nhiều, rất
khó nhập định. Không ăn thịt thì dục vọng mới nhẹ, lòng sẽ
biết đủ, cũng sẽ bớt vọng tưởng. Ðó là do khí huyết mình
nhẹ nhàng, không hỗn trược.
Người tu hành không thể có niệm tà dâm, tức là ý tưởng
dâm dục. Nếu còn chút niệm dâm dục, thì quyết không bao
giờ vượt khỏi tam giới, vẫn phải lưu chuyển hoài hoài trong
luân hồi sanh tử, vì niệm dâm dục chính là gốc rễ của sanh
tử. Nếu đoạn trừ được nó, thì mới có thể ra khỏi tam giới
mà chứng quả Phật. Bởi vậy người tu hành nhất định phải
12
dứt hết ý tưởng dâm dục. Làm sao dứt được? Trước hết là
không nên ăn những thứ giàu chất dinh dưỡng, bởi lý do
bản thân người tu không thiếu chất dinh dưỡng, cho nên
không cần thâu nhập thêm dinh dưỡng nữa. Ăn nhiều, lòng
dục nhiều; chất bổ dưỡng nhiều, tức sanh những ý niệm
dâm dục. Muốn không có ý dâm thì phải tiết chế vấn đề
ẩm thực, không ham ăn ngon, không ham ăn nhiều, phải
luyện tập sao đủ duy trì sanh mạng là được rồi, đó là bí
quyết của người tu. Nếu không, chúng ta mang các món
ngon gồm sơn hào hải vị để cúng cho cái đền thờ ngũ tạng,
thì đây quả là cái họa dẫn tới phá giới về dâm dục.
Nói về người xuất gia thì mỗi ngày ăn một bữa, nhưng
cũng có người không theo quy điều này, tự động đến tiệm
để mua thức ăn. Người đó đương có dục niệm về ăn, vậy
dục niệm về sắc chắc cũng không bỏ được. Cứ nghĩ cũng
biết, những hành động đó đều là vị kỷ. Nói chung, phàm là
vị kỷ tức đã có sự tham cầu.
Trong phạm vi của luật nhân quả thì phạm tội tà dâm là
nghiêm trọng nhất. Sự trừng phạt còn ghê gớm nữa: Một
người lúc sống phạm giới tà dâm bao nhiêu lần, thì khi chết
sẽ bị một cái cưa lớn cưa thân người ấy từ đầu xuống chân
bấy nhiêu lần. Sinh tiền kết hôn một trăm lần thì chết rồi bị
cưa một trăm lần.
13
Người có đẹp lộng lẫy đến đâu, cũng chỉ là bọc da thối.
Người xấu xí tới đâu cũng chỉ là bọc da thối. Bên ngoài tuy
không giống nhau nhưng bên trong thì một thứ, chẳng gì
đẹp đẽ hay xấu xí. Nếu càng tìm bên trong càng thấy toàn
là máu, mủ, đờm, dãi, nhớp nhúa. Xét đến năm tạng, thì
toàn là phân và nước tiểu. Bên ngoài đẹp đẽ, bên trong thối
không thể chịu được, có gì khác đâu? Cần gì mình phải
chấp trước vào cái thân này chớ! Người ngu si thì chú ý vẻ
đẹp bên ngoài, chấp trước vào cái tướng đẹp đẽ mỹ miều,
rồi ghét bỏ cái tướng xấu xí. Ðây chẳng phải là ngu si sao?
Bởi vì có lòng dâm dục nên mới phát sinh ra những
chuyện ác trên đời. Nếu quý vị có thể làm những việc lành,
tự mình thanh tịnh, không có hành vi dâm loạn thì đó tức là
chúng thiện phụng hành.
Chỉ có những kẻ vô cùng si mê mới vừa muốn giữ cái tâm
dâm dục lại vừa muốn được khai ngộ. Tư tưởng này thuộc
loại ngu si tột đỉnh, và những người mang tư tưởng này là
những kẻ khó có thể giáo hóa nhất; cho dù bây giờ Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni có giáng thế đi chăng nữa thì Ngài
cũng không có cách nào làm cho họ đắc Đạo hay chứng
quả vị được cả! Cho nên, hạng người này là ngu dốt nhất,
si mê nhất!
Quý vị xem, hạng người có chút ―tiểu trí tiểu huệ‖ ấy vì
không đoạn trừ dâm-tâm nên nói toàn những chuyện ái
14
dục – anh yêu em, em yêu anh - cứ yêu qua yêu lại như thế
rồi cuối cùng họ thành ma luôn! Thành ma rồi thì sao
nữa? ―Những loại ma ấy cũng có đồ chúng.‖ Chúng ma
ấy cũng có đồ đệ, cũng có kẻ ủng hộ chúng. ―Tất cả đều
tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.‖ Bản thân loài ma
không biết xấu hổ, kẻ nào cũng tự xưng rằng: ―Tôi chính là
Phật! Chúng tôi đây đều là những đấng tối cao, vô
thượng!‖ Hễ cái gì là to lớn, thì chúng xưng chúng là cái
đó. Chúng vốn là ma nhưng lại không chịu thừa nhận mình
là ma, mà cứ xưng là Phật. Phật thì cũng có Phật giả mạo
vậy. Trên thế gian này cái gì cũng có giả được cả, cho nên
loài ma cũng có thể làm ông Phật giả. Song le, chúng
không chịu nhận chúng là thứ giả. Chúng cho rằng chúng
là thứ thiệt, và cũng là ―thiên thượng thiên hạ duy ngã độc
tôn‖ (trên trời, dưới trời, chỉ mình ta là tôn quý) nữa!
Trước khi nhập diệt, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng:
―Hiện nay Ta còn ở tại thế gian thì bè lũ Ma-vương không
dám xuất hiện. Song le, lúc Phật Pháp đang ở vào giai
đoạn tàn lụn - Thời Mạt Pháp, thì sẽ có nhiều loại ma dân
ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm.‖
―Thời Mạt Pháp‖ chính là thời đại của chúng ta hiện nay.
Vào thời điểm này, loại ma-dân ấy rất đông đúc và chúng
15
đi khắp nơi nói chuyện dâm dục. Bất luận nam hay nữ, kẻ
nào cũng ưa thích dâm dục và đồng thời cũng muốn thành
Phật, muốn được khai ngộ.
Sự khác biệt giữa ―phản‖ (trái) và ―chánh‖ (phải) –
giữa Ma-vương và Bồ-tát - vốn rất vi tế; khác biệt như thế
nào? Bồ-tát thương xót và che chở tất cả chúng sanh với
lòng từ-bi, chứ tuyệt đối không có lòng dâm dục. Trong khi
đó, Ma-vương đối với chúng sanh thì cứ đề xướng ―ái‖,
chuyên môn nói chuyện dâm dục, chú trọng dâm dục; thậm
chí chúng còn nói rằng hễ tâm dâm dục càng nặng bao
nhiêu thì khai ngộ được quả vị càng cao bấy nhiêu, và dùng
tà thuyết ấy để hại người.
Bồ-tát thì không có tâm dâm dục, các ngài đối với tất cả
chúng sanh hoàn toàn không có sự phân biệt. Có tâm dâm
dục tức là ma. Không có tâm dâm dục, chỉ đơn thuần xót
thương và cứu giúp tất cả chúng sanh – đó mới chính là
cảnh giới của chư Phật và chư Bồ-tát. Ma thương người là
có mưu đồ, có tham dục. Bồ-tát thương người thì không có
tham dục. Không có tham dục tức là không có tâm dâm dục.
Không đoạn trừ tâm dâm dục mà ngày ngày cũng ngồi
Thiền, cũng tu hành, tất quý vị vừa tu hành vừa bị lậu thoát.
16
Quý vị tu được một phần thì lậu thoát mười phần, tu được
mười phần thì lậu thoát mất một trăm phần. Quý vị muốn
ngồi Thiền mà lại không chịu dứt bỏ dâm-tâm ư? Quý vị vừa
muốn ngồi Thiền để được khai ngộ, lại vừa muốn tìm cầu
thứ lạc thú điên đảo ấy, thì chẳng khác nào muốn nấu cát
và sạn cho thành cơm vậy.
Khi không còn dâm-tâm thì sẽ không thấy có tướng nam
tướng nữ, không còn phân biệt giữa mình với người, và
cũng không thấy có tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả nữa.
Nếu quý vị quả thật không có tâm dâm dục, thì quý vị sẽ:
Mắt nhìn hình sắc, trong chẳng có,
Tai vẳng chuyện đời, tâm chẳng hay!
(Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu
Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri.)
Khi mắt nhìn biết bao hình sắc mà trong lòng chẳng thấy
có gì hiện hữu và tai nghe những âm thanh êm dịu mà tâm
trí lại không hay không biết gì cả, tức là đã có được chút
―hỏa hầu.‖ Tâm phải không dao động, không một ý nghĩ
nào dấy khởi, dục-niệm phải hoàn toàn không còn nữa, thì
17
mới là đúng thật. Nếu có những lúc quý vị vẫn còn tơ
tưởng đến phái nữ, thì vẫn chưa được.
Vì quý vị không thể dừng hẳn tham và dục, nên sáu căn
biến thành lục tặc (sáu kẻ cướp) và sáu thức xuất hiện. Nếu
quý vị không khởi tham dục, thì kẻ cướp, sáu căn không
cướp phá gì được, còn sáu thức không còn là thức phân biệt
nữa. Mọi việc đều trở về cội nguồn của nó và mọi phiền
não sẽ tiêu vong. Quý vị nên chú ý vào chi tiết này. Tất cả là
tùy thuộc ở điểm quý vị có tham dục hay không. Nếu quý vị
còn có tham dục thì quý vị chưa tách rời chính mình ra khỏi
ma sự. Nếu quý vị không còn tham dục, thế là quý vị đã
cùng chư Phật chung phần.
"Phú quý bất năng dâm" nghĩa là giàu sang mà không
dâm... Người giàu có, lắm tiền bạc, thế lực lớn, thường
chẳng biết giữ phép tắc, không chịu kiểm soát hành vi của
mình, hóa thành dâm loạn. Tuy nhiên, nếu quí vị cũng ở
trong hoàn cảnh giàu sang, mà không có hành vi dâm loạn,
biết giữ quy củ, chất phác thực thà, thì quí vị không vi phạm
luật pháp của thế gian, chẳng phạm tới luật pháp của cõi
trời, cũng chẳng phạm vào luật pháp của địa ngục. Ðó là
phú quý bất năng dâm.
18
Con người sao lại dâm loạn? Chỉ vì tâm si mê tác quái.
Ngu si tức mê mờ, hồ đ ồ, u tối nên mới dâm loạn, làm phân
tán tinh lực, thời gian, và đ ánh mất đ i tự tánh trân bảo vô
giá. Nếu luôn đ iều phục thân, thì không phạm tội giết
hại, trộm cắp, tà dâm. Muốn không phạm ba nghiệp ấy thì
trước hết phải diệt trừ tham sân si. Tâm như sóng biển ba
đ ào; hết gợn này rồi lại đ ến gợn khác. Vọng tưởng này
vừa đ i thì vọng tưởng kia lại tới. Vọng tâm tuy không thiệt,
nhưng rất khó đ iều phục. Đ iều phục tâm tức là rèn luyện
tâm vọng này cho đ ến khi nó như đ ứa bé ngoan ngoãn.
Hành dâm là đ iều cấm tuyệt đ ối với người xuất gia, còn
đ ối với các đ ệ tử Phật tại gia thì việc tà dâm chỉ cấm nếu
không phải là giữa vợ chồng. Ngoài ra, tư tưởng dâm dục c
ũ ng phải giới hạn, không thể nào cứ từ sáng đ ến tối hồ tư
loạn tưởng, suốt ngày đ ể cho tư tưởng dâm dục ám ảnh
cho đ ến bạc cả tóc, rụng cả ră ng! Có biết đ âu, tới kiếp
sau những tư tưởng đ ó vẫn còn theo đ uổi, rồi kiếp kế ti
ếp mă i mă i không thôi, đ úng là "vì dâm dục mà sanh, vì
dâm dục mà tử".
Nếu biết giữ giới không sát sinh, không trộm cắp và chủ
yếu là không tà dâm. Khi không tà dâm thì bảo bối nơi
19
thân mình không biết tiêu hao mất. Bảo bối này, tôi tin
rằng quý vị đ ều biết rõ. Bởi vậy, trọng yếu là ở ―Trì giới
luật.‖ Că n bản của sinh mạng chúng ta là vật gì, tôi không
cần phải nhiều lời. Nếu mình có thể trì giới không tà dâm,
thì tự nhiên sẽ có xá lợi quang minh sáng lạng, kiên cố hơn
kim cương.
Tôi xin nói thật cho quý vị nghe: bất luận là nam hay nữ, hễ
nam nghĩ đ ến nữ hay nữ nghĩ đ ến nam, đ ó gọi là lậu.
Nếu ý nghĩ (nam nữ) không đ oạn thì quý vị không đ ắc
đ ược lậu tận thông.
Lại nói sâu hơn một chút cho các vị nghe, nói thực cho các
vị biết, vì rằng nếu không nói thật, cứ che đ ậy úp mở thì
biết bao giờ các vị mới hiểu sự thật bên trong? Nói thật thì:
Nếu các vị không đ ể mất tinh thì gọi là lậu tận. Nếu tinh
mất thì gọi là lậu. Không những tinh không mất mà ngay cả
tư tưởng ý niệm (dâm dục) cũ ng phải không có. Khi ý niệm
vi tế nhỏ nhiệm về dâm dục không có nữa thì mới lậu tận.
Hiện tại các vị đ ã hiểu chưa? Vì sao thiên ma không lậu tận?
Vì chúng có tâm dâm dục. Quỷ thần cũ ng có tâm dâm dục.
Thế nào là trần lao? Chính là sự dâm dục. Trần lao chính là
dâm dục mà dâm dục chính là trần lao. Vì thiên ma tham luy
20
ến sự dâm dục nên chúng không muốn quý vị buông bỏ
việc dâm dục. Chúng khiến quý vị tham luyến. Chúng nói:
"Chúng ta là bạn tốt. Tôi không buông bỏ chuyện dâm dục,
nhưng anh muốn từ khước, buông bỏ việc này sao? Không
thể đ ược!" Vì thế tụi nó tới tìm quý vị. Ðể làm gì? Nói toạc
ra, là vì chúng không thể đ ể quý vị giải thoát khỏi thế giới
này.
Nếu quý vị tu hành có đ ược đ ịnh lực thì yêu ma quỷ quái
đ ều muốn ă n thịt quý vị cho bằng đ ược. Nhưng không
phải là ă n thịt quý vị đ âu! Tôi sẽ hết sức chân thực trình
bày cho quý vị đ ược rõ chẳng giữ lại đ iều gì. Ðiều gì thực
sự sẽ xảy ra? Chỉ vì quý vị không nghĩ đ ến dâm dục, tinh
đ ầy đ ủ, khí đ ầy đ ủ, thần đ ầy đ ủ, nên bọn chúng thấy
rằng lúc này quý vị có nhiều của báu. Chúng nói: "Ta nhất
đ ịnh tới đ oạt bảo bối của mày!" Thế là bọn kéo lại phá
hoại quý vị. Nguyên nhân là chúng muốn đ oạt bảo bối! Nế
u quý vị nam có bạn gái và quý vị nữ có bạn trai, thì những
người ấy cũ ng sẽ cướp đ i của báu trân quý của quý vị vậy.
Quý vị thử nghĩ có đ iều gì khác sẽ xảy ra?
Một số người trong chúng ta hiện nay, tâm dâm dục nặng
hơn tâm học Phật Pháp. Những người đ ó không hề nghĩ
21
rằng: ―Hằng ngày tôi đ ều nghiên cứu Phật Pháp, không
ngừng tìm tòi học hỏi. Ngủ không đ ược thì tôi nghiên cứu
Phật Pháp; lúc thức dậy thì tôi càng nên học hỏi Phật Pháp
nhiều hơn nữa!‖ Họ không nghĩ như thế! Trằn trọc, ngủ
không đ ược, họ lại sanh tâm dâm dục, cứ thấy rằng nghiên
cứu Phật Pháp chẳng ý vị gì cả. Một khi dâm tâm dấy khởi,
họ cảm thấy đ ó là đ iều vô cùng thích thú kỳ diệu, và đ ó
là một thứ vô minh đ ang chi phối họ đ ến tâm thần đ iên
đ ảo, mê muội!
Quý vị, bất luận là nam hay nữ, nếu tâm dâm dục quá lớn
mạnh, sung mãn, thì quý vị có thể ngày ngày chí thành khẩn
thiết xưng tụng Chú Đ ại Bi, lâu dần dâm tâm sẽ bị tiêu diệt,
tà tri tà kiến cũ ng bị trừ khử!
Quý vị chớ có lấy làm kinh ngạc khi thấy tôi nói hết ra một
cách trắng trợn như vậy, bởi vì thiên kinh vạn quyển, ba
tạng mười hai phần kinh, đ ến tận cùng thì cũ ng chỉ nói
tới vấn đ ề này thôi. Nếu chẳng có vấn đ ề "dục," thì kinh
đ iển gì cũ ng chẳng cần thiết, mọi thứ pháp đ ều
"không," mọi thứ pháp đ ều "như." Bởi vì có vấn đ ề đ ó,
chúng ta mới phải tu. Nếu quý vị chẳng thể nào bỏ ái và đ
oạn dục, thì dù có xuất gia tu đ ến tám vạn đ ại kiếp, cũ
22
ng uổng phí công phu, hoài ngày tháng, ở trong chốn đ ạo
ă n cơm chùa mà tạo nghiệp. Nếu chấm dứt ái dục, trừ
dâm tâm, mới thực sự hết tâm tham, không có tham ắt
không có phiền não. Vậy tới khi nào thì bỏ đ ược tâm tham
đ ây? Tất nhiên phải phá đ ược vô minh, mới đ oạn trừ tâm
tham đ ược. Lý do các vị Bồ-tát tu hành dũ ng mãnh và tinh
tấn, chính là đ ể phá trừ một phần vô minh, chứng đ ược
một phần pháp thân, tới khi chứng đ ược quả vị Ðẳng giác
thì mới đ em hết vô minh diệt trừ đ ể chứng quả vị Phật.
Tâm tham là một trong ba đ ộc rất khó đ oạn trừ. Chúng ta
lúc mới phát tâm tu hành, thì cái làm chướng ngại sự dụng
công của chúng ta chính là tâm tham dâm, nam thì ham nữ,
nữ thì ham nam, một vấn đ ề că n bản. Kinh Lă ng-nghiêm
nói rất rõ: "Tâm dâm không trừ, trần ai chẳng ra khỏi," như
chẳng muốn trừ tâm tham dâm mà lại mong thành Phật đ
ạo, thì chẳng khác gì lấy cát nấu lên đ ể làm cơm ă n, một
chuyện không thể xảy ra đ ược.
Lửa vô minh rút cuộc là gì? Nói một cách rất đ ơn giản, rất
gọn gàng thì nó chính là tâm dâm dục của tình tham ái nam
nữ. Loại tâm niệm đ ó mà khởi đ ộng, thì không ai nói giỏi
đ ược, không có pháp nào mà chế ngự nó. Cho nên biết
bao nhiêu người bị vướng trong cảnh hồ đ ồ, tạo ra những
23
việc hồ đ ồ, có thể nói rằng một lần sai sẩy, tức thành cái
hận thiên thu, không phương cách nào cứu vãn. Khi hai phái
nam nữ đ ương trong thời kỳ luyến ái, nếu như ai có hỏi
họ, tại sao lại thương anh ấy? Tại sao thương chị ấy, chắc
chắn họ sẽ hồi đ áp: "không biết tại sao." Ðó là tại vô minh.
Rất mong các vị xuất gia đ ều có thể dứt đ ược ái, trừ đ
ược dục, tu trì thì dụng công, xin cố gắng!
Chùa Kim Sơn có một thầy chẳng dám uống sữa. Bởi vì sau
khi uống sữa thì lòng dâm dục nổi lên, không sao kềm chế
đ ược; do đ ó thầy chẳng uống sữa. Chúng ta ă n uống là đ
ể duy trì sinh mạng, lấy vật thực làm thuốc men. Không ă n
thì chết đ ói, nên ă n đ ể duy trì sự sống chứ chẳng phải
chúng ta cần ă n các thức bổ dưỡng đ ể nuôi thân. Khi thức
ă n quá bổ béo thì rắc rối lắm đ ấy.
Kinh Lă ng Nghiêm dạy: ―Phi tinh phú nhân, diễn thuyết
kinh, pháp‖ là nói đ ến bọn yêu mỵ, ma quái này có thể
bay tới nhập vào thân quý vị, chúng làm quý vị có nă ng lực
giảng thuyết kinh pháp (mặt khác, quý vị lại phá giới; lén
lút hành dâm). Do đ ó, quý vị cần phải hiểu rõ, đ ừng nhìn
biểu hiện múa may, đ ộng đ ậy, nhảy nhót rồi cho là mầu
nhiệm, là hay ho, đ úng đ ắn!
Không Truy Cầu: Không truy cầu thì sẽ không khởi ý niệm
dâm dục. Dâm dục là do mình có mong cầu. Con gái mong
24
con trai, con trai mong cầu bạn gái, đ ó là thứ truy cầu kẻ đ
ối phương. Không những chỉ cầu thôi mà còn truy, theo đ
uổi nữa, giống như cái khoan, cứ nhắm về phía trước mà
khoan. Nếu không có sở cầu, thì làm sao còn ý niệm tà dâm?
Một chàng trai tuấn tú, một cô gái xinh xắn bất quá chỉ là hai
bị thịt hôi hám mà thôi. Tại sao tham luyến chứ? Nếu
không có sở cầu thì mình không sao phạm giới dâm này.
"Dã dung hối dâm" có nghĩ a là chải chuốt hình dáng là
khiến kẻ khác sanh lòng dâm. Ví dụ như người con gái bôi
phấn thoa son, trang đ iểm thật lộng lẫy, đ ây chính là khêu
gợi, khiến người khác trông thấy liền sanh lòng tà vạy. Th
ế nên người nữ tốt nhất là đ ể dung mạo tự nhiên, không
cần phải tô son đ iểm phấn. Nếu bôi son trét phấn vào môi
vào má hồng hồng đ ỏ đ ỏ, cho rằng làm như vậy rất có ý
nghĩ a, song thật ra thì chẳng có ý nghĩ a gì cả, mà chỉ là
thể hiện sự đ iên đ ảo của chúng sanh—sự đ iên đ ảo của
chúng sanh chính là ở đ iểm này vậy!
Người tâm nhiều tham luyến, tham luyến cái gì? Chính
là tham đ ắm dâm dục. Người tham đ ắm dâm dục, phải có
phương cách đ ể ngă n chặn ―dâm‖. Phương cách đ ó
như thế nào? Chính là quán thân bất tịnh. Nam, nữ diện
25
mạo có xinh đ ẹp cách mấy cũ ng đ ều là bất tịnh; đ ã là
bất tịnh, thì làm sao có thể tham luyến? Nên mới nói
―chúng sanh nhiều tham luyến phải quán bất tịnh‖. Biế
t nó là bất tịnh, nên không tham đ ắm; không tham đ ắm,
thì sẽ không có tâm dâm dục mạnh mẽ như thế!
Nói rõ một chút, quý vị không giữ gìn đ ược tinh, khí, thần
của mình đ ều gọi là ―lậu‖. Người nữ mỗi tháng đ ều có
kinh nguyệt, đ ây cũ ng gọi là lậu. Că n nguyên chính ở chỗ
nam nữ không dừng đ ược tâm dâm dục, gọi đ ây là ―lậu‖
lớn nhất. Lậu có rất nhiều như thế!
Người có tâm dâm dục, nhưng không cần sợ, ông xem
Hỏa Ðầu Kim Cang trong Kinh Lă ng Nghiêm, lòng dâm dục
của ông ta vốn rất nặng, nhưng sau đ ó ông có thể dụng
công phu biến lửa dâm dục thành lửa trí huệ mà làm Hỏa
Ðầu Kim Cang. Cho nên nói dâm dục vốn là nhân của tịnh
tánh. Nếu ông có một niệm chánh, đ ó là nhân của tịnh
tánh. Nếu ông chứa chấp một niệm tà thì sẽ không thanh
tịnh, cho nên không phải đ oạn trừ tánh dâm dục, mà biến
dâm dục thành tịnh tánh. Dâm tánh vốn không thanh tịnh,
nhưng cần biến nó thành tịnh tánh – chánh tri chánh kiến.
26
Ðấy mới là đ úng! Cho nên nói: Tánh dâm tức là tịnh tánh
thân, trừ dâm thì đ ược Pháp thân thanh tịnh.
"Dâm tâm bất trừ, Trần bất khả xuất."
Nghiã là:
"Lòng dâm không dứt, Trần gian chẳng thoát."
Chỉ hai câu này thôi cũ ng đ ủ chứng minh bộ Kinh này hàm
chứa diệu lý chơn thật, xác quyết của chư Phật nói ra: "Nế
u không trừ đ ược lòng dâm dục, thì không thể ra khỏi đ
ược Tam Giới." Cũ ng có thể nói rằng: Nếu không đ oạn
dục, khứ ái, thì că n bản không thể nào chứng quả đ ược!
Trong Kinh Lă ng Nghiêm còn dạy rằng:
"Nhược bất đ oạn dâm,
Tu Thiền Ðịnh giả,
Như chưng sa thạch,
Dục kỳ thành phạn,
Vô hữu thị xứ."
Nghiã là:
"Không dứt lòng dâm,
Mà tu Thiền Ðịnh,
Cũ ng như nấu cát,
Rồi mong thành cơm,
Thật chẳng thể đ ược."
27
Do đ ó, quán chiếu thì biết rằng Chánh Pháp Nhãn Tạng là
ở đ ây! Phàm là người Phật tử chân chính thì nhất đ ịnh phải
ủng hộ, nghiên cứu Kinh Lă ng Nghiêm và tụng trì Chú Lă
ng Nghiêm, bởi vì Chú này có nă ng lực không thể nghĩ
bàn; đ ó là kinh nghiệm của chính bản thân tôi.
Tôi lại phát nguyện đ ặc biệt nhấn mạnh rằng bộ Kinh Lă ng
Nghiêm là thật chứ không phải giả. Nếu tôi có sai lầm thì
nguyện sẽ đ ọa đ ịa ngục và bị cắt lưỡi!
Hy vọng các vị nhận thức rõ ràng vấn đ ề này, tự mình phải
có chánh kiến, đ ừng cô phụ lòng tôi.
Bởi vì có vô minh, thành ra thứ gì cũ ng không hiểu thấu,
chỉ biết ái. Từ sáng đ ến tối chỉ nghĩ đ ến thứ này: đ ó là
nghĩ đ ến sự dâm dục và ái dục. A! Chẳng thể buông bỏ
dù chỉ trong chốc lát. Nếu các ông chú tâm, thích thú tham
cứu Phật Pháp cũ ng như khi say mê ái dục vậy thì sẽ thành
Phật rất chóng. Nhưng tiếc thay các ông không thể chuyển
đ ổi ý thích dục lạc thành ý thích Phật Pháp. Do vậy, càng
học Phật Pháp, càng thấy vô vị. Rằng: ―Tật xấu của tôi nhiề
u như thế đ ó, Phật Pháp đ ều nói toạc ra cả. Ôi! Thật là
tôi không muốn học chút nào. Phật Pháp kêu gọi tôi thay đ
ổi tâp khí, làm sao mà tôi có thể làm đ ược đ iều ấy?‖ Đ ó
là một ví dụ về si ái.
Vô minh khiến cho kẻ phàm phu chỉ biết dụng công vào
mấy thứ tình dục. Họ nghĩ rằng chuyện tình ái ở thế gian
28
là thật, cho nên họ không thể xa rời và cũ ng không nỡ
buông bỏ nó. Do đ ó họ gắn bó với lục thân quyến thuộc
một cách rối ren mà buông xả không đ ành. Rồi họ tạo ra bi
ết bao thiện ác lẫn lộn, họ cũ ng không phân biệt đ ược
giữa ô nhiễm và thanh tịnh. Đ ời đ ời kiếp kiếp, họ cứ quay
quanh trong vòng sanh tử luân hồi, vĩ nh viễn không bao
giờ ngừng. Cho nên nói vô minh là că n bản của sanh tử.
Người tu hành không có mấy thứ rắc rối đ ó đ è nặng trong
tâm, cho nên họ dễ đ ược thanh tịnh, giải thoát và hết sanh
tử. Nếu không cắt đ ứt vô minh, chúng ta vĩ nh viễn sẽ bị
nó chi phối, đ ể rồi xuống đ ịa ngục, chạy lên núi đ ao, hay là
vào chảo dầu sôi. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ hối hận là lúc đ
ầu sao mình không chịu tu hành tinh tấn. Nhưng rất tiếc là
đ ã không còn kịp nữa.
Nếu quý vị cắt đ ứt ái dục, thì chỉ trì một câu (Chú Vãng
Sanh) thôi thì sự linh ứng đ ã phi thường rồi; nếu quý vị
chưa đ oạn đ ược ái dục, thì dù có tụng đ ến mười ngàn
lần cũ ng không công hiệu!
Lúc chưa giác ngộ, thấy thứ gì đ ều cho là thiệt, nhất là đ
ối với tài sắc danh thực thùy (tiền tài, sắc dục, danh vọng, ă
n uống, ngủ nghỉ), thứ gì cũ ng tham luyến, không xả bỏ đ
ược. Nếu là giác ngộ, thì mọi thứ sẽ thành hư ngụy, như
hình bông hoa trong gương, bóng mặt tră ng dưới nước,
tất cả đ ều là ảo ảnh, chẳng phải chân thiệt.
29
Quý vị ngồi Thiền tới một trình đ ộ kha khá thì sẽ có ma
tới thử thách xem Ðạo-lực của quý vị ra sao. Có khi chúng
hóa hiện làm kẻ nam hay người nữ với dáng mạo đ ẹp đ ẽ
đ ể dụ dỗ-nếu không đ ộng tâm thì quý vị vượt qua đ ược
thử thách, nếu đ ộng tâm thì quý vị sẽ đ ọa lạc. Ðây là đ iề
u vô cùng quan trọng, quý vị hãy nhớ cho kỹ! Hễ sẩy chân lỡ
bước là ôm hận ngàn đ ời!
Người tu hành phải tu làm sao đ ể dẹp bỏ "cái tôi" (ngã
tướng). Nếu không còn "cái tôi" thì chuyện gì cũ ng nhẫn
nại, cam chịu đ ược. Cảnh giới có tới, quý vị cũ ng chẳng đ
ộng tâm. Hãy xem mình như hư không. Cảnh vừa lòng tới, c
ũ ng cứ tu hành. Cảnh nghịch ý tới, cũ ng cứ tu hành. Nói
cách khác, gặp cảnh vừa lòng cũ ng đ ừng sinh tâm hoan hỷ
vui mừng, gặp cảnh trái ý cũ ng chớ lo âu sầu muộn. Bất
luận là thuận hay nghịch, đ ều phải nhận thức cho rõ ràng.
Nếu quý vị có thể "như như bất đ ộng" (không khởi tình
cảm, vọng tưởng hay chấp trước), thì sẽ không bị cảnh giới
làm cho lay chuyển. Nếu lúc nào cũ ng "liễu liễu thường
minh" (sáng suốt chiếu soi nhân quả mọi sự), thì sẽ xoay
chuyển đ ược cảnh giới.
Tình ái cũ ng là bệnh và bệnh nặng nhất chính là dục niệm.
Khi dứt sạch lậu thì hết dục niệm, hết các ý nghĩ dâm dục,
hết sự khát khao, vọng tưởng, niệm gì cũ ng không còn.
30
Bát nhã chính là không ngu si, không làm những việc mê
muội. Việc mê muội có rất nhiều rất nhiều. Ðó chính là
những việc vốn không nên làm mà quý vị vẫn làm, nghiêm
trọng nhứt là tâm dâm dục, vốn không nên làm, nhưng vì
mê muội đ ến, không những quên mất Bát nhã, mà Ba la
mật cũ ng quên luôn, cứ làm theo ý mình, buông lung theo
dục tình. Phàm phu chỉ thích làm những việc mê muội mà
không chịu tu Bát nhã pháp. Không làm việc ngu si chính là
Bát nhã hạnh. Quý vị không tu Bát nhã hạnh, chính là phàm
phu; nếu tu Bát nhã hạnh – tức đ oạn dục khử ái, thì thân
mình và Phật giống nhau.
Cái gì gọi là giác ngộ? Tức giác ngộ tình dục là những thứ
nguy hại, làm tổn thương đ ến thân thể và khiến cho quý
vị ngu si. Một niệm dục chính là một niệm ngu si, niệm niệm
dục chính là niệm niệm ngu si, cho nên nói: "Nghiệp hết
tình không là chân Phật, nghiệp nặng tình mê là chúng
sanh." Phải buông bỏ những tâm niệm ô nhiễm, ngoài cách
này ra không còn cách nào hết. Tâm niệm ô nhiễm chính là
dục niệm, nói rõ hơn, chính là niệm dâm dục. Nếu thân làm
những niệm dâm dục này, chính là thân nghiệp không
thanh tịnh. Nếu miệng nói việc ỷ ngữ, thì khẩu nghiệp
không thanh tịnh. Nếu tâm thường nghĩ đ ến việc dâm
dục, thì ý nghiệp không thanh tịnh. Nếu thân khẩu ý đ ều
không phạm, thì ngày thành Phật không xa. Người đ ời
thường đ i ngược với sự giác ngộ, hiệp với trần lao. Hiệp với
31
trần gì? Chính là hiệp với những thứ trần ô nhiễm không
thanh tịnh. Nếu một khi quý vị rơi vào lưới dục tình thì sẽ bị
ô nhiễm. Nếu ly khai tình dục, mới có thể rời xa ô nhiễm.
Cho nên nói: quay lưng với trần lao chính là hiệp với sự giác
ngộ, quay lưng với giác ngộ chính là lă n lộn trong trần lao.
Nếu quý vị ô nhiễm thì không đ ược thanh tịnh, không đ
ược thanh tịnh thì không thể thành Phật.
Nếu quý vị phóng túng theo ái dục, chạy theo tình ái, thì
càng ngày càng lún sâu, mê mờ càng ngày càng tă ng. Nếu
quay đ ầu, tức là Niết bàn, và cũ ng là bỉ ngạn. Nếu không
quay đ ầu, thì mê lầm càng ngày càng sâu càng đ ậm. Tuy
mê mờ sâu đ ậm, nhưng nếu biết quay mình, đ ó chính là
đ ốn ngộ.
Người ta ở đ ời, nếu không chấp trước danh vọng thì cũ
ng ôm chặt lợi lộc, không chấp trước tiền tài, thì lại mê đ
ắm sắc đ ẹp, do đ ó không thể nhìn thủng (hiện tượng),
chẳng thể buông bỏ (mọi chấp trước). Muốn nhìn thủng,
muốn buông bỏ, song lại chẳng đ ặng. Vì sao chẳng kham?
Bởi vì trong tâm có "con quỷ" tinh tế và "con sâu" linh lợi
tác quái, do đ ó rất nhiều việc mình đ ể lỡ cơ hội, đ ối diện
với Ðức Quán Âm mà chẳng nhận ra Ngài. Ðức Quán Âm
Bồ-tát ở ngay trước mặt, thế mà cứ đ i tìm kiếm khắp nơi.
Ðó chính là bị đ iên đ ảo vọng tưởng chi phối vậy.
32
Tà-sư khi nói chuyện thì chuyên môn có tâm phan-duyên
và giảng toàn những đ iều sai trái, không đ úng đ ắn.
Chẳng hạn như dâm dục là không đ úng, thì họ lại tán
dương: ―Đ úng! Đ ó là pháp môn kỳ diệu nhất,‖ khiến
cho người ta bị rối trí, mê muội, không thể tìm thấy chân lý.
Lấy phải làm trái, đ úng nói không đ úng, không đ úng nói
đ úng - những kẻ như thế gọi là tà sư. Đ ầu óc họ đ ầy dẫy
những tà tri tà kiến; cái biết và cái thấy của họ đ ều không
chánh đ áng – cái gì ―chánh‖ thì họ nói là không đ úng,
còn cái gì ―tà‖ thì họ lại bảo là hay nhất!
Tà-sư khi nói pháp thì chuyên môn nói về chuyện dâm
dục, và những đ iều họ nói đ ều không đ úng với đ ạo lý -
về đ iểm này, mọi người cần phải biết phân biệt cho rõ
ràng. Ở cảnh giới của bậc Bồ-tát, lắm lúc các ngài cũ ng
dùng cái tâm ―từ bi ái hộ chúng sanh.‖ Vì biết rằng tất cả
chúng sanh đ ều có dục niệm rất nặng nề, cho nên ngay
từ lúc mới bắt đ ầu giáo hoá họ, bậc Bồ-tát không đ òi hỏi
họ phải đ oạn tuyệt lòng ái-dục (hay tâm dâm dục) liền, mà
chỉ dùng vô số pháp môn phương tiện đ ể làm cho họ tự có
cái nhìn thấu đ áo về dâm dục, rồi tự ý đ ình chỉ cái tâm ấy.
Đ ó là cảnh giới của bậc Bồ-tát, hoàn toàn khác hẳn với cảnh
giới của hàng tà-sư ngoại đ ạo; vì vậy, mọi người cần phải
hiểu cho tường tận đ iểm này.
Người chứng đ ược sơ quả, mắt thấy sắc nhưng chuyển đ
ược sắc trần, tai nghe âm thanh nhưng chuyển đ ược thanh
33
trần, và cũ ng như vậy đ ối với các că n khác. Câu nói "bất
nhập thanh hương vị xúc pháp" là nghĩ a không hề bị một
trần nào dao đ ộng. Lúc đ ó, danh không lay chuyển đ ược,
lợi không lay chuyển đ ược; đ ối với hết thẩy mọi thứ, lòng
không bị đ ộng, cũ ng như ý nghĩ a câu: "Nhãn quan hình
sắc nội vô hữu, nhĩ thính trần sự tâm bất tri," tức là mắt
nhìn hình sắc nhưng bên trong không có gì, tai nghe chuyện
mà tâm không hay biết. Có câu: "Na-già thường tại đ ịnh,
vô hữu bất đ ịnh thời", không có lúc nào mà ngoại vật làm
cho tâm dao đ ộng, không có khắc nào bị mê hoặc trước
ngoại cảnh.
Nói từ gốc rễ thì đ ạo là con đ ường dẫn tới liễu sanh
thoát tử. Tu đ ạo là khép cánh cửa sanh tử. Cửa sanh tử là gì?
Chính là dục niệm. Mang tâm dâm dục là mở cửa sanh tử, đ
oạn trừ tâm dâm dục là khép cửa sanh tử. Hạng người
thượng đ ẳng khi nghe qua đ ạo này bèn nghĩ rằng: "A!
Vốn nó là như vậy!" Do đ ó cảm thấy mà làm theo, đ ể trở v
ề nguồn cội, quay chiếu lại mình, xoay lưng với trần cảnh
mà hướng về giác ngộ (bội trần hiệp giác), và dụng công tu
đ ạo. Từ sáng đ ến tối ở đ ó tu hành, như tình trạng gà ấp
trứng, như rồng nuôi ngọc, như mèo rình chuột, tập trung
tinh thần đ ể dụng công. Chỉ một lòng tu đ ạo, không còn
vọng niệm gì khác.
Người tu đ ạo, thứ nhất phải phá đ ược cánh cửa sắc dục.
Nếu không phá đ ược nó thì không có hy vọng tu tập
34
thành công. Cả ngày mà đ ầu óc hồ đ ồ, tâm đ iên đ ảo, cũ
ng không thành công. Cho nên tôi thực thà nhắn quý vị là
chúng ta phải hàng phục cái tâm này. Hàng phục tâm chính
là dứt cái niệm dâm dục. Nếu không đ oạn trừ đ ược nó thì
dù tu cho đ ến tám vạn đ ại kiếp cũ ng chẳng khác gì nấu
cát đ ể hòng có cơm ă n, xưa nay chẳng có chuyện đ ó bao
giờ.
Các vị có muốn tu thành quả thánh vô lậu không? Ðoạn
dục cắt ái, thanh tâm quả dục, thì còn có chút hy vọng, nếu
không, không hy vọng gì, tốt hơn là mau mau hoàn tục kẻo
lãng phí thời gian!
Ai tu Ðạo rồi thì gặp nghịch cảnh hay thuận cảnh trong
tâm cũ ng không đ ộng. Nếu đ ịnh lực tới trình đ ộ đ ó, thì
sẽ không còn bị cảnh lay chuyển, mà ngược lại có thể
chuyển cảnh. Ðó mới là công phu chân chánh của người tu
Ðạo. Lại có câu:
Thái sơn bă ng tiền nhi bất kinh
Mỹ sắc đ ương tiền nhi bất đ ộng.
Tạm dịch:
Thái Sơn sụp đ ổ mà không sợ
Sắc đ ẹp trước mắt tâm không đ ộng.
Người con trai đ ứng trước người đ ẹp như Tây Thi chẳng
hạn, nếu theo phép quán "sọ đ ầu lâu", tự nhiên sẽ hết đ
ộng tâm.Người con gái khi gặp một chàng trai anh tuấn như
35
Phan An nă m xưa, nếu theo phép quán "xương trắng", cũ
ng chẳng đ ộng tâm. Nếu không có pháp đ ó thì mỗi khi
gặp gái đ ẹp, trai anh tuấn, cái tâm liền chạy lă ng xă ng,
như vượn leo, như ngựa chạy, không biết như thế nào
mới đ úng. Chỉ vì không đ ủ đ ịnh lực, thành thử uổng phí
mất Ðạo nghiệp, thật đ áng tiếc biết bao!
Hàng ngày tôi giảng kinh thuyết pháp cho các quý vị, đ i
ều khẩn yếu vẫn phải nhấn mạnh về đ oạn trừ các niệm
dâm. Kinh Lă ng Nghiêm nói: "Lòng dâm không trừ, thì
không ra khỏi cõi trần." Nhất đ ịnh phải trừ các niệm về
dâm dục, mới mong lìa khỏi cảnh hồng trần, cho nên có câu:
"Lòng dâm không đ oạn, nấu cát ra cơm, chẳng thể có việc
này." Quý vị! Người tu hành không giống người trong thế
tục. Cái gì người đ ời tham, ái, mê, thích thì chúng ta cần
phải diệt trừ. Có câu nói: "Thoát trần ly tục," nghĩ a là hết
thảy các thứ từ lời nói đ ến tư tưởng, người tu và người tục
không giống nhau. Ðiểm này quý vị phải chú ý, không thể bị
nhiễm ô theo giòng thế tục.
Nói với học sinh:
Khi vào đ ại học, các em hãy đ ào sâu đ ạo đ ức nhân bản,
hun đ úc cho mình một cá tính chững chạc. Đ ấy không
phải rằng các em cần đ eo đ uổi chuyện yêu đ ương lãng
mạn. Khi chưa trưởng thành, mà mình đ ã học về ―giáo
dục ái tình‖ ở trường, thì thử hỏi thứ giáo dục ấy dẫn mình
36
đ i về đ âu? Khi còn vị thành niên, các em không nên tùy
tiện nói chuyện yêu đ ương, hay làm chuyện loạn luân giữa
nam nữ. Nếu ta quan niệm rằng ―trai không bạn gái là
quái vật, gái không bạn trai là cù lần‖, thì quả thật thế giới
chúng ta đ ang sống nguy ngập tệ hại lắm!
Tại sao tôi nói nền giáo dục ở khắp thế giới gần kề sự
phá sản toàn diện? Là vì giới trẻ bị ―gặt‖ trước khi chúng
chín mùi. Là vì người ta đ ã dạy chuyện nam nữ ái tình cho
giới trẻ quá sớm. Việc này khác chi lúa chưa chín mà ta vội
gặp. Khi lúa mới trổ bông mà ta đ ã gặt, thì mùa ấy sẽ thất.
Nếu mầm mới lú mà ta vội ngắt, thì cuối mùa, chẳng có gì
đ ể gặt.
Lao đ ầu vào chuyện yêu đ ương tình ái lúc mình chưa
trưởng thành chững chạc thì cũ ng hệt vậy (lúa chưa chín
mà vội ngắt). Và dù rằng đ ây là việc tệ hại nhất, người ta ai
cũ ng cho việc trai gái hẹn hò, yêu đ ương lãng mạn là việc
hợp thời, đ úng mốt nhất. Thật là quan niệm đ iên đ ảo về
tình yêu. Đ áng buồn thay!
Truyền hình dạy chúng ta trộm cắp, hành hung, đ ốt phá,
và dâm loạn: đ ó là những thói hư tật xấu mà truyền hình
dạy.
37
Vấn Đ áp
Hỏi: Giới Luật nhà Phật thật vô cùng nghiêm khắc. Như Hòa
Thượng nói là "không đ ược tà dâm, không nên có tâm
tham đ ắm sắc dục giữa nam nữ," ắt hẳn sẽ có người phản
đ ối: "Như thế là không hợp nhân đ ạo!" Xin Hòa Thượng
khai thị cho.
Ðáp: Muốn học làm Phật thì chẳng thể vừa lòng người đ
ặng. Quý vị muốn học làm người thì phải học làm người tốt.
Tóm lại, quý vị muốn tu hành thì phải như thế!
Hỏi: Dùng cách gì đ ể khống chế, khắc phục lòng dâm dục,
sợ hãi và hoài nghi?
Ðáp: Ðừng ă n thịt, đ ừng ă n hành, đ ừng ă n tỏi, đ ừng ă
n những thức có tánh chất kích thích; và hãy quán tưởng:
"Tất cả người nam là cha tôi, tất cả người nữ là mẹ tôi"; đ
ược như vậy thì lòng dâm dục sẽ chẳng thể nảy sinh.
Do có ưu sầu nên có sợ hãi. Không có ưu sầu thì không có
sợ hãi. Không có lòng ích kỷ thì cũ ng không có sợ hãi. Hễ
không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không
38
tự lợi, không nói dối, thì tự nhiên không cần phải sợ sệt gì
cả!
Vì sao có lòng hoài nghi? Bởi chẳng có tín tâm! Bán tín bán
nghi nên mới đ âm ra ngờ vực. Kinh Hoa Nghiêm dạy:
Tín vi Ðạo nguyên công đ ức mẫu.
Nghĩ a là:
Ðức tin là nguồn đ ạo, là mẹ của mọi công đ ức.
Tin tưởng ở trí huệ bản hữu của tất cả chúng sanh; đ ó tức
là không hoài nghi.
Tụng rằng:
Ngày ngày luôn nói thật,
Chẳng sợ bị chửi, đ ánh,
Giết ta, ta chẳng sợ,
Giải thoát, nào quái ngại!
"Ngày ngày luôn nói thật." Mọi ngày đ ều nên nói lời chân
thật, đ ừng dối trá.
"Chẳng sợ bị chửi, đ ánh." Hãy thẳng thắn mà nói lời chân
thật. Dù bị đ ánh bị mắng, quý vị vẫn cứ nói thật.
"Giết ta, ta chẳng sợ." Cho dù có kẻ giết quý vị, quý vị cũ
ng đ ừng sợ sệt. Sợ gì chứ?
"Giải thoát, nào quái ngại!" Ðược chân chánh giải thoát thì
có gì mà quái ngại, có gì mà phải sợ hãi chứ?
39
Hỏi: Chúng tôi phải làm thế nào đ ể khôi phục bổn-tánh
của mình?
Ðáp: Việc này thì rất dễ, song le, cũ ng rất khó. Muốn khôi
phục trí huệ quang minh của bổn tánh thì trước nhất là phải
giảm bớt dục niệm, tức là cần phải quả dục. Dục vọng mà
giảm bớt thì trí huệ liền hiện tiền. Dục vọng mà dẫy đ ầy
thì trí huệ chân chánh không thể hiện tiền đ ược.
Cho nên, "lọc tâm, ít dục; giảm dục, biết đ ủ" chính là bước
đ ầu tiên của việc tu Ðạo. Nếu quý vị có thể thanh lọc tâm
trí, giảm bớt dục vọng, thì trí huệ quang minh bản hữu của
quý vị sẽ xuất hiện.
Hỏi: Nhà Phật nói "Sáu Că n thanh tịnh" là nghĩ a gì?
Ðáp: "Sáu Că n thanh tịnh" tức là: Mắt nhìn thấy hình sắc
nhưng không bị sắc-trần làm giao đ ộng, tai nghe âm thanh
nhưng không bị thanh-trần làm giao đ ộng, mũ i ngửi mùi
hương nhưng không bị hương-trần làm giao đ ộng, lưỡi nế
m mùi vị nhưng không bị vị-trần làm giao đ ộng, thân
không bị xúc-trần làm giao đ ộng, và ý cũ ng không bị
pháp-trần làm giao đ ộng, không bị cảnh giới làm lay
chuyển tức là Tam-Muội, cũ ng gọi là Ðịnh.
Ðịnh không hẳn là phải ngồi Thiền mới có; mà đ i, đ ứng,
nằm, ngồi, đ ều có thể ở trong Ðịnh. Người ở trong Ðịnh
40
không phải như khúc gỗ hay bùn đ ất, cái gì cũ ng không bi
ết; mà trái lại, kẻ có Ðịnh thì hiểu biết mọi thứ nhưng
không bị chúng làm lay chuyển. Ðó chính là "người có thể
chuyển hoàn cảnh, chứ không đ ể hoàn cảnh lay chuyển
người" vậy!
Hỏi: Phật-tánh xưa nay gốc thanh tịnh, vậy vô-minh từ đ âu
ra?
Ðáp: Vô-minh từ nơi ái tình mà ra. Vô minh chính là một tên
khác của ngu si.
Hỏi: Như có khi con nghe đ ược một bài hát hoặc một khúc
nhạc rất hay thì con có thể cúng dường ca khúc đ ó cho chư
Phật và Bồ Tát đ ược không? Nếu đ ược, thì phép cúng
dường phải như thế nào?
Đ áp: Thì cũ ng là hát ca khúc đ ó lên thôi! Nhưng quý vị cần
phải biết chắc là ca khúc đ ó không có tính cách dâm đ
ãng, không gợi ý tà dâm thì mới đ ược, mới là chánh đ áng.
Hiện nay Vạn Phật Thánh Thành của chúng ta cũ ng có
những ca khúc về Phật Giáo, quý vị đ ều có thể đ em cúng
dường chư Phật. Chúng ta xướng những bài tán trước
tượng Phật, thì đ ó cũ ng là dùng ca khúc đ ể cúng Phật vậy.
41
Trong Kinh Pháp Hoa đ ã có nói rất rõ ràng rằng các ca khúc,
âm nhạc, bài tán có tính cách thanh tịnh, trang nghiêm, đ ề
u có thể đ ược dùng đ ể cúng Phật.
Hỏi: Làm sao đ ể loại bỏ dâm dục ?
Đ áp: Nếu đ ừng nghĩ tới, thì sẽ loại bỏ đ ược. Nếu cứ
liên tục nghĩ đ ến, thì làm sao bỏ đ ược ? Ngay khi những
niệm này vừa khởi lên, phải biết rõ nó. Một khi biết rõ, thì
nó biến mất.
Hỏi: Bạch Hòa Thượng, có một số những người mẹ không
hôn thú đ ang gây ra nhiều vấn nạn xã hội, rồi sau đ ó là có
việc phá thai ... Con tự hỏi Hòa Thượng có ý kiến hay đ ề
nghị gì về vấn đ ề này.
Đ áp: Quý vị đ ang đ ề cập về những bà mẹ đ ộc thân.
Khổ thay, những người này đ ã đ ánh mất nhân phẩm, vì th
ế họ không tôn trọng những luật lệ trước khi lập gia đ ình.
Ngày nay, những người trẻ thích khiêu vũ , xem phim ảnh,
và ca hát. Họ hưởng thụ ă n uống, vui chơi và tìm khóai lạc.
Những đ am mê và hành vi dẫn đ ến sự mất nhân phẩm, đ
ến đ ộ họ không còn ý thức việc họ là con người. Là người,
phải có hành vi của người, nhưng họ lại giống như ma quỉ --
42
lén lút không tôn trọng luật lệ, muốn thử hết trước khi lập
gia đ ình ... và vì thế, họ có thai. Những chuyện như thế
này có thể không có gì quan trọng ở phương Tây, nhưng ở
Trung Hoa thì thật xấu hổ.
Vấn đ ề này xảy ra do chỉ do một niệm vô minh: Nam theo
đ uổi nữ, nữ tìm kiếm nam ... Bởi vì vô minh, nên hành
nghiệp theo sau, sau khi hành nghiệp tạo tác thì có danh sắc,
lục nhập, xúc, và thọ hiện hữu … , tất cả nhựng thứ này đ ều
tạo tác bởi vô minh.. Do mê mờ, tình ái khởi sanh, tiếp theo
là dục vọng muốn nắm bắt (thủ và hữu), và sau đ ó là nhiều
vấn đ ề khác xuất hiện … cho đ ến khi già chết (lão, tử) đ
ến. Toàn bộ chuỗi biến cố này đ ược gọi là Pháp Mười Hai
Nhân Duyên.
Vì người đ ời không hiểu Mười Hai Nhân Duyên nên, họ làm
những việc trái với đ ạo lý. Vì vậy vấn nạn của họ càng ngày
càng lớn. Cho đ ến lúc họ mang thai, sự việc càng trở nên
rắc rối hơn khi thay vì dưỡng thai bào đ ể sinh nở, họ lại phá
hủy bào thai lúc thai từ một đ ến bốn tháng tuổi.
Tội phá thai rất nặng. Quý vị có thể nghĩ chúng chỉ là con
ma bé nhỏ, nhưng những con ma này có những nă ng lực
tâm linh to lớn có thể làm quý vị chết hay mang những tật
43
bệnh kỳ lạ, làm cho quý vị nói nă ng lảm nhảm và lẫn lộn đ
ầu óc đ ến khi đ iên dại ... Tội phá thai còn nặng hơn tội gi
ết người lớn. Nếu quý vị không muốn có con, tại sao lại
gây ra việc thụ thai? Tại sao rắc rối như thế? Khổ thay, đ àn
ông và đ àn bà không hiểu đ ạo lý làm người nên những
vấn đ ề này mới xảy ra.
Đ ể giải quyết những vấn đ ề này, chúng ta cần cung cấp
giáo dục về tình dục cho những người trẻ, và dạy họ đ ừng
dính mắc vào tình ái cho đ ến khi khôn lớn trưởng thành; n
ếu không, họ sẽ gặp những vấn nạn khó khă n. Chúng ta
phải thúc đ ẩy mạnh mẽ đ ể họ tuân theo những quy tắc
này .
Khai Thị
Tình Ái và Dục Vọng là Tảng Ðá Buộc Chân Người Tu Ðạo
Cho đ ến hơi thở cuối cùng, cũ ng nên đ ối xử tốt với mọi
người, nhưng đ ừng đ ể tình ái xen vào.
44
Trong nghiệp sinh tử, tình ái và dục vọng là gốc chướng Ðạo.
Là người tu Ðạo, bất luận đ ối với người hoặc đ ồ vật, nếu
sinh ra lòng ái dục thì sẽ chướng ngại sự tu hành, làm mình
không phát triển đ ược. Nói một cách rõ ràng hơn, ái dục là
sinh tử, sinh tử chính là ái dục. Ái dục là nguồn gốc của sinh
tử. Nếu không phá vỡ tình ái dục vọng vô minh, thì mình sẽ
không thể ra khỏi biển lớn sinh tử. Làm sao đ ể thoát sinh tử?
Rất giản dị, chỉ cần "đ oạn dục khử ái," nghĩ a là dứt dục
vọng, trừ ái tình, chẳng cách nào khác hơn.
Người tu Ðạo đ ừng nên suy nghĩ về tình ái dâm dục,
càng không nên có hành vi yêu đ ương. Ðối với bất cứ
người nào, không nên sinh lòng yêu đ ương; hễ có lòng yêu
đ ương thì gốc khổ không thể tránh đ ược; vì có lòng yêu đ
ương thì khó thoát vòng sinh tử.
Có người nói: "Con người là đ ộng vật có tình cảm, chuyện
ă n uống và dâm dục là việc tự nhiên." Chính bởi vì nhân
duyên đ ó, nên cần phải tu Ðạo. Trong Kinh
Tứ-Thập-Nhị-Chương có dạy rằng:
Mình xem những người già như mẹ mình, những người lớn
tuổi như chị, những cô trẻ là em và những đ ứa nhỏ là con.
Hãy Sinh ra lòng đ ộ thoát họ và diệt trừ những niệm ác.
Là kẻ tu đ ạo mình phải luôn luôn quán tưởng như vậy. Nế
u quả không có ái, phải chă ng khi gặp người khác mình cứ
ngậm miệng chẳng đ ể ý đ ến họ? Không đ úng! Mình
45
không chấp trước vào tình ái, không sinh lòng yêu đ ương,
nhưng không sinh ra lòng ruồng ghét kẻ khác, cũ ng không
thể nói rằng: "Bởi vì tôi không thương người ta nên tôi phải
ghét họ." Ðó là đ iều sai lầm. Như vậy thì thế nào là đ úng?
Tức là không thương mà cũ ng chẳng ghét ai. Không
thương, không ghét chính là Trung-đ ạo.
Tu hành là tu cái gì? Chính là tu pháp Trung-đ ạo. Ðối đ ãi
với người mình luôn luôn bình đ ẳng, dùng tâm từ bi;
nhưng phải luôn cẩn thận, chớ đ ể rớt vào cạm bẫy ái tình.
Quý-vị nên chú ý! Ðừng nên bị tình ái làm cho mê hoặc. Nế
u có người gởi cho quý-vị phong thơ tình, quý-vị cảm thấy
lòng mình vui mừng, giống như có con thỏ nhảy nhót, con
tim hết sức hoan hỉ, cho rằng hễ có kẻ yêu mình, là chuyện
tốt. Sự thật là người yêu quý-vị chỉ muốn kéo quý-vị đ ọa lạc
mà thôi.
Quý-vị thiện-tri-thức nên tựa vào chỗ này mà dụng công
phu, phải thật sự hiểu rằng: "Ái tình là thứ phiền hà vô
cùng." Từ vô lượng kiếp tới nay, sở dĩ sanh tử không thể
chấm dứt đ ược là vì sao? Chính là bị hai chữ "ái tình" làm
hại. Nếu như mình có thể "đ oạn dục khử ái" thì mới có thể
siêu thoát Tam-giới, không còn sanh tử nữa.
Thứ mình thích thì mình yêu, không thích thì ghét bỏ. Hễ khi
thích, tức là mình đ ã sinh lòng yêu thương. Hễ khi ghét
lòng mình sinh ra sự ghét hận. Cả hai thứ, yêu, ghét đ ều là
46
do tình cảm mà có. Người tu hành xử lý sự việc không dựa
vào tình cảm. Tuy nhiên cũ ng không thể giống như ông
Quan Công, ngồi chễm chệ trên bàn xử lý, người ta đ ảnh lễ,
ông cũ ng không thèm nhìn tới. Ðối với người, mình phải có
sự hòa nhã, lễ đ ộ, không nên cống cao, ngạo mạn, coi
thường kẻ khác.
Tóm lại, đ ối với người khác mình phải có lòng từ bi, tìm
phương tiện giúp đ ỡ họ. Lúc nào cũ ng nên nghĩ đ ến
người khác và khiến họ sinh lòng hoan hỉ. Cho đ ến hơi
thở cuối cùng, cũ ng nên đ ối xử tốt với mọi người, nhưng
đ ừng đ ể tình ái xen vào. Các vị nhớ lấy! Ðó là pháp môn vô
cùng trọng yếu.
Si Ái Triền Miên
Sự tai hại nhất trên đ ời là ái tình sâu đ ậm.
Việc cao thượng nhất là tu đ ạo thanh tịnh.
47
Quý-vị xem gốc cây nầy gồm có
hai nhánh, song đ ôi hợp thành
một, nhánh trên nhánh dưới k
ết hợp với nhau, quý-vị biết
đ ó là gì không? Ðây là do vô
lượng kiếp về trước có một
đ ôi nam nữ thương yêu nhau
rất sâu đ ậm. Hai người đ ó
phát nguyện rằng: "Tại thiên,
nguyện tác tỷ dực đ iểu. Tại đ
ịa, nguyện vị liên lý chi." Nghĩ
a là nếu sinh lên trời thì làm đ
ôi uyên ương hai cánh liền
nhau, nếu sinh dưới đ ất thì
nguyện làm gốc cây liền cành. Ðôi nam nữ nầy rất chung
tình, nên kết làm vợ chồng. Cả hai người có một sở thích
giống nhau, đ ó là: ham tiền. Người đ àn ông thì thí mạng
đ ể kiếm tiền, người đ àn bà thì thích phung phí tiền, cho
nên có qua có lại hết sức hợp tình hợp ý.
Tuy nhiên, bởi vì yêu nhau quá đ ậm đ à nên tạo ra tội
nghiệp cũ ng hết sức sâu dầy. Ðời đ ời kiếp kiếp sinh ra
trầm luân, đ ọa lạc vào đ ường súc sanh, trở thành ngạ quỷ,
cuối cùng đ ọa đ ịa ngục. Ðến nay đ ôi vợ chồng nầy biến
thành thảo mộc. Gốc cây nầy đ áng lẽ gồm có hai nhánh,
nhưng nó lại sinh trưởng cùng một chỗ, nên mãi mãi ràng
Hai gốc cậy hiện đ ược lưu
giữ tại Vô Ngôn Đ ường
VPTT
48
buộc với nhau không xa lìa. Quý-vị thấy không, nhánh bên
trái bao quanh lấy nhánh bên phải, nhánh bên phải cũ ng
nhào sang ôm lấy nhánh bên trái, giống như đ àn ông đ àn
bà hai người ôm nhau vậy. Ðó mới thấy rằng đ ôi nam nữ
nầy tập khí ái tình si mê, hạ liệt bao kiếp rất sâu đ ậm. Ngày
nay chúng thành loại thảo mộc mà cũ ng không bỏ đ ược
lòng si ái đ ó. Ở giữa hai gốc nầy có một cục đ á, mà hai
người nầy quý như châu báu. Cục đ á đ ó là gì? Nguyên lai
nó là trương mục ngân hàng của hai vị đ ó trong tiền kiếp.
Mấy nă m trước có lần chúng tôi vào thành thuyết Pháp.
Khi đ i ngang qua bờ sông thấy gốc cây nầy, liền nhặt đ em
về. Quý-vị nhìn xem: đ ầu gốc cây nầy bị chặt đ ứt, rễ cũ ng
bị chặt mất luôn, lộ ra hai nhánh rất khô cằn, song hai nhánh
cây nầy vẫn triền miên ôm chặt lấy nhau. Quý-vị không
thấy đ ó đ áng thương xót sao?
Như vậy đ ủ thấy rằng tình yêu càng sâu đ ậm thì càng
nguy hiểm. Ðây không phải là chuyện nói chơi nói giỡn đ âu.
Có người trong bụng nghĩ rằng: "Thầy ơi! Thầy nói Pháp
này tôi không thể tin đ ược, bởi vì nó không có chứng minh,
không hợp lý. Ðại khái Thầy muốn dọa con nít, nói lời chiêm
bao thôi." Tin hay không là do quý-vị, tôi không có cách nào
làm quý-vị tin đ ược bởi vì đ ây là Pháp rất khó nói, khó thuy
ết. Người đ ã mê luyến ái thì dù mình có nói cách nào đ i
nữa họ vẫn không thức tỉnh, không chấp nhận đ ược. Sự tai
hại nhất trên đ ời là ái tình sâu đ ậm. Việc cao thượng nhất
49
là tu đ ạo thanh tịnh. Không phải người ta không biết lý ấy;
biết nhưng cố phạm là vì chẳng cách gì dứt bỏ thói quen đ
ã làm trong nhiều kiếp trước.
Tục ngữ Trung Hoa có câu rằng: "Khi tay đ ã cầm cây củi khô
rồi, thì y khó chịu bỏ ra đ ể đ ổi lấy cành hoa." Ðó là muốn ví
dụ những người luôn luôn chấp trước vào tình yêu. Nếu
mình nói với họ rằng, hãy bỏ đ i những thứ luyến ái đ ó đ ể
tu Ðạo là đ iều quý hơn, chắc chắn họ sẽ cố chấp không
muốn quay đ ầu lại. Rằng:
Thiên vũ tuy khoan, nan nhuận vô că n chi thảo.
Phật môn tuy quảng, nan đ ộ bất tín chi nhân.
Nghĩ a là:
Trời mưa rưới nước khắp nơi, song khó tươi nhuận cây cỏ
không gốc.
Cửa Phật tuy rộng thênh thang, mà vẫn khó đ ộ kẻ chẳng
lòng tin.
Tôi đ ã bảo tồn gốc cây nầy lâu nă m rồi. Có nhiều người
tôi không muốn cho họ thấy bởi vì có nói pháp nầy cho họ,
họ cũ ng chẳng tin. Tôi phải chờ cho thời đ iểm chín mùi rồi
tôi mới nói. Ngày 24 tháng 10, quý-vị từ khắp nơi xa xôi đ ế
n đ ây đ ể triều bái, tôi đ em gốc cây nầy ra Vạn Phật Ðiện.
Tuy nhiên cho đ ến ba tuần sau tôi mới nói là vì nếu
không nói thì e chẳng còn thời gian nữa; nên bất kể là
50
quý-vị có tin hay không, tôi cứ kể nhân duyên của gốc cây
nầy cho quý-vị nghe.
Giảng tối ngày 12 tháng 11, nă m 1982
tại Vạn Phật Thánh Thành
Nỗi Bất Hạnh của Cửa Phật
Tới lúc chết rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật... Mật
đ ến chỗ rơi vào đ ịa ngục vẫn còn mật.
Tôi vừa nói cho quý-vị nghe công án của gốc cây đ ó, quý-vị
không tin cũ ng chẳng sao. Bây giờ chúng ta thảo luận đ ế
n vấn đ ề sau đ ây, tuyệt đ ối không thể không tin đ ược.
Tại sao con người phải học Phật-pháp? Ðộng cơ tối thượng
không ngoài ý muốn "ly khổ đ ắc lạc, liễu sinh thoát tử."
Song chẳng may nhiều người có chí thoát đ ường mê
nhưng lại đ i vào đ ường mê.
Theo Phật-giáo vì muốn thoát luân hồi nhưng bởi chẳng cẩn
thận nên rất dễ rớt vào mê hồn trận. Nếu không biết khéo
dùng trạch-pháp-nhãn, sáng suốt mà lựa Pháp, thì dễ bị
những thứ tà tri tà kiến làm mê hoặc, rồi đ i làm những việc
không nên làm.
51
Thí dụ như muốn ly khổ đ ắc lạc, song lỡ xẩy chân rơi vào
cửa đ ịa ngục. Lại còn những chuyện tệ hại hơn nữa, tức là
trong Phật-giáo Mật-tông có kẻ dạy phương pháp gọi là
Song Tu Pháp. Họ nói chỉ cần niệm thần chú gì gì đ ó, trai,
gái cùng nhau tu pháp "Hoan Hỷ Thiền." Còn nói đ ó là
pháp cao nhất, không những thỏa mãn đ ược lòng dâm dục,
mà còn có thể tức khắc thành Phật. Song, thành Phật đ âu
phải dễ dàng như vậy! Nếu không cắt đ ứt lòng dâm dục,
mà thành Phật, thì rất là vô lý. Trong thiên hạ không có đ ạo
lý nào như vậy cả.
Ðời nay, đ a số con người đ ều tham tu cho mau cho
chóng, thích đ i đ ường tắt. Hễ nghe nói có phương pháp
huyền diệu thì liền bị mê hoặc, rồi rớt vào lưới ma, tới lúc
chết rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật... mật đ ến
chỗ rơi vào đ ịa ngục vẫn còn mật.
Tham Hưởng Thọ Thì Cần Gì Xuất Gia
Ðừng cố tình nói dối, đ ừng làm những chuyện như "bịt
tai mà ă n cắp chuông."
Người xuất gia nhất đ ịnh phải có một nền tảng tu hành
cho vững vàng. Nền tảng vững vàng là gì? Tức là nghiêm
thủ giới luật. Người xuất gia phải cần học thuộc lòng "Tứ
52
Phân Luận" tức là Luật Sa-di, Luật Tỳ -kheo, Luật Tỳ
-kheo-ni, Kinh Phạm Võng, v.v... rồi nghiên cứu tường tận,
thì mới đ ủ tư cách làm người xuất gia.
Nếu nền tảng không vững vàng, suốt ngày hết nghĩ đ
ến tiền bạc lại nghĩ đ ến sắc dục thì "thân tuy xuất gia,
nhưng tâm không nhập đ ạo." Như thế thì xa cách đ ạo tr
ă m ngàn dặm. Những người xuất gia nầy ở trong
Phật-giáo làm chuyện bại hoại, không thể thừa nhận họ là
người xuất gia đ ặng.
Người xuất gia không đ ược đ i phan duyên cái nầy, đ i
phan duyên cái khác, cũ ng không đ ược đ ơn đ ộc đ i ở
một ngôi chùa nhỏ, kêu cư sĩ lại hộ pháp. Ðơn đ ộc tiếp
thọ đ ồ cúng dường, hành vi như vậy không hợp với qui luật
của đ ức Phật chế đ ịnh. Nếu như mình có những hành vi
nầy, thì phải mau mau sửa đ ổi, bởi vì:
Thí chủ nhất lạp mễ, trọng nhược Tu Di Sơn.
Thực liễu bất tu Ðạo, bì mao đ ãi giác hoàn.
Nghĩ a là:
Hạt gạo thí chủ cho, nặng bằng núi Tu Di.
Ă n xong chẳng tu Ðạo, đ eo sừng, đ ội lông trả.
Thuở xưa người chân chính tu đ ạo, ở nhà tranh, tự mình
cày ruộng, tự mình ă n; tuyệt đ ối không nhờ vào ngoại
duyên. Vì mục đ ích diệt lòng tham, nên họ ở nhà lá mà tu
hành. Hoặc giả họ bế quan, vì muốn làm cho học vấn và đ
53
ạo đ ức mình đ ược chắc thật. Nếu như chân chính tu Ðạo,
thì có thể ở một mình đ ơn đ ộc, nhưng không thể đ ơn đ
ộc tiếp thọ sự cúng dường của cư sĩ . Làm vậy là đ em
Chính-pháp biến thành Mạt-pháp, cũ ng là phá hoại
Phật-giáo.
Hiện tại người tu hành thích đ ơn đ ộc tu ở nơi tịnh xá. Tại
sao vậy? Bởi vì nếu họ không giữ giới luật thì chẳng có
người nào thấy, phạm qui củ cũ ng không có ai biết đ ược,
có thể tùy tâm sở dục, muốn làm gì, chẳng có ai quản thúc,
đ ược tự do tự tại, có thể nói rằng không có ràng buộc gì cả.
Hoặc giả có kẻ khác thì ở trong tịnh xá của mình chiêu tập
một số cư sĩ , lại nói là làm pháp này hội nọ, nhưng thực tế
chỉ là mượn áo nhà Phật, nhờ vào danh Phật đ ể kiếm miế
ng ă n mà thôi.
Có những người xuất gia, không dùng tiền cúng dường
của cư sĩ vào những việc Phật sự, ngược lại lợi dụng tiền
đ ó đ i mua những vật xa xỉ, xe hơi, làm những đ iều ích lợi
riêng tư. Hoặc giả là mua T.V., rồi ngày ngày coi T.V., quên
lãng cả việc tụng kinh sớm tối. Hoặc giả là mua tủ lạnh đ ể
chứa những thức ngon vật lạ. Nói tóm lại, họ đ ắm trước sự
hưởng thụ, tham đ ồ vật, tham sung sướng. Phong khí hiện
tại chính thật là như vậy. Họ đ em tính chất khổ hạnh của
Phật-giáo hoàn toàn biến cải, thật là cô phụ sự khổ tâm của
Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật xưa kia vậy!
54
Có người nói: "Sinh ra trong thời đ ại nầy, mình cần phải coi
T.V., cần phải biết tin tức quốc tế, nếu không thì là đ ui
mù, câm đ iếc không biết gì cả." Bạn biết những chuyện
ngoài đ ời rồi thì sao? Biết đ ược chuyện ngoài đ ời, đ ến
lúc chết có tránh đ ược chă ng?
Có người lại nói: "Người tu hành có thể tránh đ ược cái chế
t hay sao?" Bạn tu hành, tới khi chết cũ ng phải chết, song
trước khi chết tâm mình sáng suốt, tuyệt đ ối không phiền
não, không rối ren, an nhiên mà chết. Nếu mình không tu
hành, tới lúc chết thì cũ ng chết vậy; nhưng chết một
cách hồ đ ồ, mơ màng, mê muội. Không nhớ nam, cũ ng
nhớ bắc, lòng không thanh tịnh, ôm hận mà chết. Ðó là chỗ
khác biệt, quý-vị có biết chă ng?
Ðối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng
suốt, biết mình từ đ âu tới và sẽ đ i về đ âu; rõ ràng không
có mơ hồ gì cả, không quên đ i bản lai diện mục của mình.
Người không tu hành lúc tới thì mơ màng, khi đ i thì lại
càng hồ đ ồ, cả một đ ời mê muội. Họ không biết gì lý do gì
mình tới, rồi vì sao đ i. Cũ ng không biết từ đ âu lại, rồi đ i v
ề đ âu. Hoàn toàn mù mịt.
Mục đ ích xuất gia là liễu sinh thoát tử, không phải vì hưởng
thụ. Nên khi đ ã đ i tu rồi cần gì tham lam vật chất hưởng
thụ? Có lòng tham hưởng thụ thì cần gì xuất gia? Tôi chủ
trương rằng bất luận ai muốn đ ơn đ ộc trụ một ngôi chùa
55
nhỏ đ ể tìm cách hưởng thụ, thì chi bằng hoàn tục cho rồi.
Bởi vì sao? Bởi vì hoàn tục so với đ ơn đ ộc trụ một chùa nhỏ
tốt hơn nhiều, không tạo nên những tội nghiệp vừa kể.
Ðiểm đ ó hy vọng quý-vị đ ại chúng chú ý.
Nói rằng người tu hành đ ơn đ ộc trụ nơi một chùa nhỏ mục
đ ích không phải là đ ể tu hành mà tại tham đ ồ hưởng thụ
cúng dường, câu nói đ ó nhất đ ịnh có nhiều người không
muốn nghe. Tôi không cần biết quý-vị có muốn nghe hay
không, tôi vẫn nói vì nghĩ đ ến tiền đ ồ của Phật-giáo.
Nên chi nói ra, khiến người khác khó chịu. Thêm một lần
nữa: "Phàm là người xuất gia thích hưởng thụ, không có sự
tu trì, thì bất quá chỉ đ ội lốt thầy tu thôi." Hy vọng các đ ạo
hữu khuyến khích lẫn nhau, nhắc nhở lẫn nhau, đ ừng cố
tình nói dối, đ ừng làm chuyện như "Bịt tai mà ă n cắp
chuông." Lấy vải thưa che mắt thánh.
Giảng ngày 11 tháng 11 nă m 1983
BÍ QUYẾT TU ÐẠO: TIẾT THỰC, QUẢ DỤC
(Vạn Phật Thành ngày 9 tháng 5 nă m 1982)
Thế giới có thành, trụ, hoại, không; loài người có sinh, lão,
bịnh, tử; đ ó là đ ạo lý tự nhiên. Các vị nên hiểu rõ đ ạo lý
này: thành tức rồi sẽ trụ, rồi sẽ hoại, rồi sẽ không; sinh rồi sẽ
56
già, rồi sẽ bịnh, rồi sẽ chết. Nếu chẳng có thành thì chẳng
có trụ, chẳng có hoại, chẳng có không; nếu không có sinh
thì cũ ng không có lão, không có bịnh, không có tử.
Song nếu ta dùng vọng tưởng chấp trước đ ể phân biệt
chuyện này, thì dù phân biệt đ ến hết mấy đ ại kiếp cũ
ng không phân biệt rõ ràng đ ặng. Phân biệt bao nhiêu cũ
ng là hồ đ ồ. Vừa mới hiểu rõ đ ược một chút thì lại hồ đ ồ,
thế nên ở mãi trong vòng luân hồi không thoát ra đ ược. N
ếu muốn thoát luân hồi phải đ ả phá cái đ ạo lộ si mê vọng
tưởng này thì tu hành mới thành Ðạo, chứng ngộ bổn lai
Phật quả, xưa nay vốn chẳng đ i chẳng đ ến, chẳng dơ
chẳng sạch, cũ ng không tă ng không giảm, cũ ng không
sinh không diệt, chẳng có gì là âu sầu phiền não. Tất cả
những thứ Ngũ trược, Lục trược đ ều chẳng có. Song loài
người không biết buông bỏ cái giả, nên không nắm đ ược
cái chân thật; nên nói rằng:
"Xả bất liễu giả,
Thành bất liễu chân;
Xả bất liễu tử,
Hoán bất liễu sanh".
Dịch là:
"Không vất bỏ cái giả
Sao có đ ặng cái thật;
Không buông xả cái chết
57
Sao đ ổi thành cái sống?"
Nếu không kiềm chế tánh hư vọng cuồng dại thì trí huệ
chân chính không bao giờ xuất hiện đ ược. Tự tánh bị che đ
ậy bởi vô minh. Vô minh có hai kẻ giúp đ ỡ, có hai tên làm k
ế hoạch. Bọn chúng là gì? Thứ nhất là thức ă n, thứ hai là
sắc đ ẹp; một cái gọi là thực dục, một cái gọi là sắc dục! Hai
thứ này giúp đ ỡ cho vô minh làm đ ủ thứ chuyện xấu, cho
nên sách Nho có nói rằng: "Thực, sắc tánh dã." Nghiãờ là
háo ă n, háo sắc đ ều là bản tánh của chúng sinh vậy. Song,
mình phải biết tại sao vô minh chẳng phá đ ặng? Tại sao
phiền não cũ ng không đ oạn đ ược? Trí huệ tại sao chẳng
hiện? Ðó chính là do mình có lòng tham ă n, lòng háo sắc!
Ă n uống thì trợ giúp cho dục vọng, dục vọng lại làm tă ng
trưởng vô minh. Con người sinh ra thì biết ă n, con nít sinh
ra là biết uống sữa. Không có sữa thì nó khóc, uống rồi lại
muốn thêm nữa. Ðúng vậy! Lòng tham này mới sinh ra đ ã
có, sau khi có lòng tham ă n rồi thì sinh ra lòng tham sắc.
Con trai thì ham nữ sắc, con gái thì ham nam sắc, quyến luy
ến nhau, ham muốn không chịu buông bỏ, không thể nhìn
suốt đ ược. Ă n uống bao nhiêu thứ tinh hoa đ ều biến
thành tinh. Hễ tinh mà sung mãn thì sinh ra lòng sắc dục,
cho nên người xưa nói rằng: "Bão noãn tư dâm dục, Cơ hàn
khởi đ ạo tâm." (No ấm thì nghĩ chuyện dâm dục, Ðói lạnh
mới khởi lòng trộm cắp.) Khi ă n no rồi, con trai nghĩ đ ến
con gái, con gái thì nghĩ đ ến con trai, chỉ có khởi dục
58
niệm này. Khi nghèo thì nghĩ cách trộm cắp, cũ ng vì đ ể
có đ ồ mà ă n, ă n rồi tình dục lại khởi lên. Thế nên hễ ă n
cho đ ủ chất dinh dưỡng, mập mạp phì nộn rồi thì lại chỉ
khởi lòng dâm. Con người trước tiên là khởi lòng tham ă n,
muốn ă n thật ngon miệng, muốn ă n đ ể thân thể cường
tráng. Song ă n ít thì không đ ủ, mà ă n nhiều làm sao thỏa
mãn đ ược lòng tham? Cho nên người ta chết vì sắc, vì
thực. Nếu vô minh không có thực và sắc toa rập thì chẳng
có thể tác hại đ ược ai.
Người xuất gia ă n đ ồ càng dở càng tốt, không có dinh
dưỡng thì lại càng tốt nữa. Thế nên đ ối với vấn đ ề ă n
uống đ ừng có quá coi trọng. Ă n là đ ể duy trì mạng sống
mà hành Ðạo; không cần phải có quá nhiều chất dinh
dưỡng nhưng cũ ng không ă n những đ ồ hư hoại, khiến
cho cơ thể sinh bịnh; đ ó là thực hành Trung Ðạo.
Tôi rất cảm phục một người ở Ðài Loan, vị đ ó tức là Thủy
Quả Hòa Thượng, (5) Ngài không ham tiền cũ ng không
ham sắc. Ngài chẳng thèm nhìn đ ến những phẩm vật
người ta cúng dường Ngài. Ðó là việc mà kẻ phàm phu
không làm đ ược, bởi vì không ai có thể buông bỏ đ ược
lòng tham, thậm chí còn coi tiền tài như tánh mạng. Nhưng
Ngài thì rất thanh thoát, coi nhẹ tiền tài, lễ vật chất đ ống
một chỗ ai muốn lấy gì thì lấy, Ngài không đ ể ý tới, và đ ể
cho đ ồ đ ệ muốn ă n cắp bao nhiêu tiền cũ ng đ ược
(những kẻ ă n cắp sau này đ ều hoàn tục). Các vị thấy đ ó,
59
phải chă ng sau đ ó Ngài đ ã quản lý tiền một cách chặt
chẽ hơn? Không phải vậy đ âu! Không những Ngài không
quản lý tiền bạc, mà ngay đ ến nhìn, Ngài cũ ng không
thèm nhìn nữa. Các vị coi Ðịnh lực của Ngài cao như thế
nào! Ngài chỉ ă n trái cây, đ ậu phụng, không ă n những
thức nào có mùi vị hay đ ồ nấu, xào, luộc. Bởi vì Ngài không
nhập theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cho nên chứng
đ ược Sơ Quả A La Hán. Ngài tu hành cảm ứng rất lớn nên
Ngài thường bảo hộ Ðài Loan này. Có người nhận ra đ ược
Ngài là ai, nhưng cũ ng có người chẳng biết đ ược đ ức
hạnh của Ngài, do đ ó nhục mạ Ngài, gọi Ngài là "Á Dương
Tă ng" (ông thầy ngu dốt).
Nă m nay thân thể Ngài yếu đ i nên Ngài chỉ ă n một chút
cháo, song có kẻ lại phỉ báng, nói rằng Ngài đ ọa lạc rồi. Kỳ
thật, những người đ ó không hiểu đ ược và họ đ ã sai lầm.
Ă n hay không ă n cháo là chuyện của Ngài, tại sao phải tìm
cách xoi mói Ngài? Nếu như ai ai cũ ng tu hành như Lão
Hòa Thượng Thủy Quả, chẳng tham chẳng nhiễm, thì Phật
Giáo nhất đ ịnh ngày càng sáng tỏ và phát triển, Chánh
Pháp sẽ trụ thế. Ngài đ ã làm tôi hết sức hoan hỷ, là vị đ
ồng tu đ ồng Ðạo, hợp với tôi lắm vậy.
Không thể nói rằng tất cả ở Vạn Phật Thành đ ều tốt đ ẹp,
đ ều là Phật Pháp cả. Song mọi người ở đ ây đ ều y chiếu
Phật Pháp mà thi hành, không chú trọng đ ến chuyện ă n
ngon, mặc đ ẹp, ở tốt; họ chỉ chú trọng làm sao duy trì cái
60
thân Tứ Ðại giả hợp này đ ể sống là đ ủ rồi. Nhu yếu của
chúng ta là Pháp, là mùi vị Pháp Vô thượng. Thế nên mỗi
ngày ở Vạn Phật Thành đ ều có giảng Kinh thuyết Pháp.
Lúc nghe Kinh thì cần phải dũ ng mãnh tinh tấn, hết lòng
mà nghe giảng Kinh Hoa Nghiêm, đ ừng lười biếng. Các vị
nghe giảng Kinh không phải vì Sư Phụ, mà nghe là vì mình
mà nghe. Nếu các vị chuyện gì cũ ng biết thì không cần
phải nghe, song không phải chuyện gì các vị cũ ng biết cả.
Những đ iều mình biết là thứ Thế Trí Biện Thông, thứ
thông minh có thể biện biệt, thấu đ ạt chuyện đ ời của kẻ
phàm phu. Học Phật Pháp tức là vì mình mà học, không phải
là vì Sư Phụ hay là vì người khác mà học. Các vị hãy ghi nhớ,
đ ừng đ ể cho thời gian trôi qua vô ích, rồi sau đ ó có hối ti
ếc thì đ ã trễ.
Tu Ðạo Phải Ðoạn Dục Khử Ái
Tại sao chúng ta có phiền não? Bởi lòng tự tư (ích kỷ). Tại
sao có tự tư? Bởi có dục tâm, mới tìm hết cách đ ể giữ lấy
nó, sợ nó đ i mất. Nếu nó bị thương tổn thì sẽ phát ra nóng
giận. Tại sao nóng giận? Chính là do vô minh và tình ái tác
quái. Giả thử, không có vô minh, không có tình ái, thì tâm
nóng giận sẽ chạy xa cả mười vạn tám ngàn dặm, muốn kiế
m nó cũ ng kiếm không đ ược.
61
Nếu có tình ái tất có tự tư. Có tâm tự tư rồi thì chẳng còn từ
một thủ đ oạn nào đ ể tiến tới mục đ ích, thậm chí có thể
hy sanh cả mạng sống mà không tiếc thân. Truy ra tận gốc
là vì dục niệm. Nếu quả không có dục niệm, tất không có
tâm tự tư. Không có tự tư thì không có phiền não.
Có phiền não, tất có sanh tử; nếu không có phiền não, thì
không có sanh tử. Ý nghĩ a này, ai ai cũ ng biết, có đ iều
không thực hành mà thôi. Phải biết rằng, không có dục thì
không có vô minh. Phá đ ược vô minh thì pháp tánh hiển
hiện. Chúng ta học Phật, đ ầu tiên là trừ vô minh, đ oạn phi
ền não. Dụng công tới chỗ viên mãn thì chứng đ ược giải
thoát.
Tại sao chúng ta không có trí huệ? Bởi vì vô minh. Vô minh
sanh ra dục, dục sanh ra tự tư, tự tư sanh ra phiền não.
Tham cầu mà không đ ược thì có phiền não, người đ ối với
ta không tốt cũ ng là nguyên nhân của phiền não. Tại sao
có phiền não ? Bởi có cái Ngã. Nếu quả là vô ngã, thì
không có phiền não. Nếu có thể tới đ ược chỗ không có
vô minh, không có tự tư, thì phiền não sẽ biến mất. Quý vị
tin hay không tin, cái lý nó là như vậy. Thiên kinh vạn đ iển,
nói tới nói lui cũ ng chỉ có thế. Cho cái ngã không còn, phá
cái vô minh, tiêu diệt cái dục, thì sẽ không có tự tư, không
có phiền não, kiếm phiền não cũ ng không kiếm ra đ
ược. Tại sao? Bởi gốc gác của vấn đ ề đ ã đ ược giải quyết.
62
Quý vị phải chú ý! Nă m thứ dục, tài, sắc, danh, thực, thụy
(ngủ), đ ều do vô minh và tình ái mang đ ến. Nếu như
không có tình dục, ta sẽ thấy không có gì là trọng yếu. Bởi
có tình dục nên mới cảm thấy cái này không tốt, cái kia cũ
ng không tốt, cái gì cũ ng không đ úng, đ ó chính là con
quỷ tình dục nó tác quái. Nếu chúng ta hàng phục đ ược
quỷ tình dục này, thì chúng ta vào nhà của Như Lai một cách
mau chóng, lên tòa Như Lai, mặc áo Như Lai và thuyết
pháp Như Lai.
Vô Minh Là Că n Bản Của Sanh Tử
Vô minh tức là tham, sân, si, mạn, nghi. Nă m thứ ác nghiệp
nầy có thể khiến cho con người đ iên đ ảo đ ến phát
cuồng.
1. Tâm tham: Là đ ối với cảnh thuận, chúng ta sẽ khởi lòng
tham ái đ ến nỗi không có thì không đ ược. Thậm chí có
người vì muốn đ ược mục đ ích của mình mà bất chấp các
thủ đ oạn, bằng không họ chẳng cam lòng.
2. Tâm sân: Là khi gặp cảnh nghịch, chúng ta sẽ giận hờn và
nổi nóng, như không chửi người thì cũ ng đ ánh người,
thậm chí còn giết hại người nữa. Đ ó đ ều là do tâm sân
hận tác quái, nó khiến con người mất cả lý trí và ý chí xử sự
mọi việc. Người có tâm như thế, ắt sẽ làm cho xã hội chẳng
đ ược an ninh, trật tự.
63
3. Tâm si: Là người không có trí huệ, không biết phải trái, c
ũ ng không phân biệt đ ược thiện ác, cho nên hồ đ ồ đ iên
đ ảo, hậu quả là thành kẻ bất lương, tạo nhiều nghiệp tội.
4. Tâm mạn: Là tự đ ề cao mình và đ è ép người khác. Tự
cho chuyện gì mình cũ ng hay hơn, nổi bậc hơn người. Thứ
hành vi cống cao ngã mạn nầy là đ iều tối kỵ, chúng ta
không nên có.
5. Tâm nghi: Là người đ ối với việc chánh đ áng lại sanh
lòng hoài nghi, không tin lời nói của bất cứ ai. Người có thứ
tâm lý như vậy là bất thường, là sai lầm vì đ ã tự hạ thấp
mình.
Nă m loại tâm lý nầy đ ều là không bình thường, đ ều là
do cái nhân vô minh dẫn đ ến. Người tu hành nhất đ ịnh
phải tiêu diệt vô minh, đ ừng đ ể nó gây sóng gió thành tai
họa vô cùng tận như vậy.
Vô minh khiến cho kẻ phàm phu chỉ biết dụng công vào
mấy thứ tình dục. Họ nghĩ rằng chuyện tình ái ở thế gian
là thật, cho nên họ không thể xa rời và cũ ng không nỡ
buông bỏ nó. Do đ ó họ gắn bó với lục thân quyến thuộc
một cách rối ren mà buông xả không đ ành. Rồi họ tạo ra bi
ết bao thiện ác lẫn lộn, họ cũ ng không phân biệt đ ược
giữa ô nhiễm và thanh tịnh. Đ ời đ ời kiếp kiếp, họ cứ quay
quanh trong vòng sanh tử luân hồi, vĩ nh viễn không bao
giờ ngừng. Cho nên nói vô minh là că n bản của sanh tử.
64
Người tu hành không có mấy thứ rắc rối đ ó đ è nặng trong
tâm, cho nên họ dễ đ ược thanh tịnh, giải thoát và hết sanh
tử. Nếu không cắt đ ứt vô minh, chúng ta vĩ nh viễn sẽ bị
nó chi phối, đ ể rồi xuống đ ịa ngục, chạy lên núi đ ao, hay là
vào chảo dầu sôi. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ hối hận là lúc đ
ầu sao mình không chịu tu hành tinh tấn. Nhưng rất tiếc là
đ ã không còn kịp nữa.
Tôi xin khuyên quý vị nên tu hành cho kịp thời, đ ừng có
tưởng là ngày tháng còn dài mà hẹn lần, hẹn lựa.
Bậc cổ đ ức có nói: ―Đ ừng đ ợi đ ến già mới học đ ạo, mồ
lẻ loi lắm kẻ thiếu niên.‖ Học đ ạo đ ược một ngày là gần
đ ược Tịnh Đ ộ thêm một chút. Như vậy từng chút từng chút,
quý vị sẽ đ ến đ ược cõi Tịnh Đ ộ. Nếu quý vị không
chuyên cần tu đ ạo mà lại muốn đ ến Tịnh Đ ộ, thì sẽ không
đ ến đ ược đ âu! Công việc trên đ ời, dù chúng ta có lãng
phí thời gian đ ể làm, rốt cuộc cũ ng chẳng đ ược lợi ích gì.
Nhưng chỉ có pháp môn tu hành là không lãng phí thời gian.
Nếu quý vị tu đ ược một phút thì đ ược một phút lợi lạc.
Cho nên nói: ―Gom cát thành tháp,‖ tức là từng bước,
từng bước không ngừng tiến tới, tự nhiên quý vị sẽ đ ến
đ ược bờ bên kia.
Giảng ngày 5 tháng 7 nă m 1984
65
Giữ Miệng Phòng Tâm
Cổ đ ức có câu: "Thiện ác lưỡng đ iều đ ạo, tu đ ích tu, tạo
đ ích tạo" (thiện ác hai con đ ường, đ ường tu và đ ường
tạo). Ðiều này nói ra hoàn toàn xác đ áng. Tu cái gì? Tu đ
ường thiện. Tạo cái gì? Tạo nghiệp ác. Thiện tri thức cảnh
giác chúng ta mà không bao giờ chán, có đ iều chúng ta
ngu si, không biết lãnh giáo những đ iều ngay, cứ việc ta
ta làm, chỉ biết lợi cho mình mà không nghĩ lợi cho người
khác và, nói cách khác là chỉ biết tạo nghiệp ác, không tu
thiện, cho nên không thể nào ra khỏi sáu nẻo trong vòng
luân hồi.
Ý nghĩ của chúng ta kể ra thì vô lượng, vô biên, vô cùng
tận. Niệm thì chạy lên thiên đ àng, niệm thì xuống đ ịa ngục.
Vọng tưởng về thiện tức thuộc phạm vị thiên đ àng, vọng
tưởng về ác thì thuộc về đ ịa ngục, do đ ó, chúng ta nhất
cử nhất đ ộng, một lời nói một công việc làm, lúc nào cũ ng
phải thận trọng, từng giờ từng khắc lưu tâm, đ âu đ âu cũ
ng phải chú ý, trong ngoài như một.
Trông bề ngoài thì hành đ ộng rất tốt, nhưng bên trong thì
đ ầy vọng tưởng, cái đ ó cũ ng không mang lại kết quả.
Phải làm sao cho trong ngoài như một, không chạy theo
vọng tưởng mới đ ược. Có những người trong tâm thì đ ầy
vọng tưởng, nghĩ rằng người ngoài không ai biết, rồi cứ
66
như vậy ngày ngày vọng tưởng, cho đ ến khi xuống đ ịa
ngục cũ ng mang theo, mà chính mình thì không biết tại
sao đ ọa đ ịa ngục. Những hạng người như vậy thật đ áng
thương!
Chúng ta là người tu học, ở chung phải giữ miệng. Ðại
chúng ở chung một nơi, phải đ ề phòng chuyện thị phi. Có
câu nói rất chí lý: "Họa tòng khẩu xuất, bệnh tòng khẩu
nhập." Nghĩ a là họa do bởi lời từ miệng thốt ra, bệnh cũ
ng do từ miệng mang vào. Chúng ta không nên bạ đ âu nói
đ ấy, cố tránh chuyện phiền phức, giữ miệng cho kín là tốt
hơn cả. Lại có câu: "Thị phi chỉ vì hay mở miệng, phiền não
đ ều do cưỡng xuất đ ầu." Ðộc tọa phòng tâm, nghĩ a là
khi ngồi một mình chúng ta phải cẩn thận đ ề phòng tâm ý,
chớ theo vọng tưởng, nhất là các tư tưởng về dâm dục.
Người xuất gia càng phải đ ặc biệt chú ý, quản lý kỹ càng cái
tâm, không cho những tư tưởng vô ích đ ến quấy nhiễu.
Vọng tưởng thì ai ai cũ ng có, nhưng khi đ ã khởi vọng
tưởng thì ta phải vận dụng các phương cách đ ể khống chế,
không cho vọng tưởng làm mưa làm gió. Những phương
cách đ ó là hoặc ta niệm Phật, hoặc ta trì chú, hoặc giả ngồi
thiền, bái sám, tóm lại kiếm một cái gì khác đ ể làm, sao
cho tinh thần tập trung lại thì sẽ không có vọng tưởng.
Người tu đ ạo, thứ nhất phải phá đ ược cánh cửa sắc dục. N
ếu không phá đ ược nó thì không có hy vọng tu tập thành
67
công. Cả ngày mà đ ầu óc hồ đ ồ, tâm đ iên đ ảo, cũ ng
không thành công. Cho nên tôi thực thà nhắn quý vị là
chúng ta phải hàng phục cái tâm này. Hàng phục tâm chính
là dứt cái niệm dâm dục. Nếu không đ oạn trừ đ ược nó thì
dù tu cho đ ến tám vạn đ ại kiếp cũ ng chẳng khác gì nấu
cát đ ể hòng có cơm ă n, xưa nay chẳng có chuyện đ ó bao
giờ.
Các vị có muốn tu thành quả thánh vô lậu không? Ðoạn dục
cắt ái, thanh tâm quả dục, thì còn có chút hy vọng, nếu
không, không hy vọng gì, tốt hơn là mau mau hoàn tục kẻo
lãng phí thời gian!
Bất kể là phái nam hay phái nữ, hoặc giả là Tỳ -kheo, Tỳ
-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, là người già hay trẻ nít, ai nói
đ ạo lý chánh đ áng thì ta nghe, ai nói không chánh đ áng
thì đ ừng có tin, chúng ta nhất đ ịnh phải có con mắt chọn
pháp (trạch pháp nhãn). Hợp đ ạo lý thì đ i tới, không hợp
đ ạo lý thì rút lui; chọn đ iều thiện mà theo, bất thiện thì
sửa đ ổi, đ ó là quan đ iểm hết sức cơ bản của người tu.
Có người biết rõ lỗi của mình mà không sửa đ ổi, biết mà
vẫn làm quấy. Những hạng người này rất khó giáo hóa, họ
chẳng kham nổi Phật pháp, chẳng thể học gì thêm. Người ta
nói: "Gỗ mục khó đ ẽo gọt, tường bằng phân khó trét," nếu
chính mình không tự giúp cho mình, tự mình coi thường
68
mình, thì ai còn coi trọng mình, ai còn giúp đ ỡ mình nữa?
Ðó là đ iều cần phải tự xét cho kỹ.
Phụ Lục:
Kinh Lă ng Nghiêm
Bốn Đ iều Ră n Dạy Minh Bạch Về Tánh Thanh Tịnh
Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thánh Thành
Không Dâm Tâm
Kinh Vă n:
Hán Việt: “Nhược chư thế giới Lục-đ ạo chúng sanh, kỳ
tâm bất dâm, tắc bất tùy kỳ sanh tử tương tục.”
69
Việt: “Nếu chúng sanh trong Lục-đ ạo ở các thế giới
mà tâm không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng
sanh tử tương tục.”
Giảng nghĩ a:
“Nếu chúng sanh trong Lục-đ ạo ở các thế giới mà tâm
không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử
tương tục.” Giả sử tại mọi thế giới, tất cả những chúng
sanh trong sáu cõi là cõi trời, cõi A-tu-la, cõi người, cõi đ ịa
ngục, cõi ngạ quỷ, và cõi súc sanh, đ ều không còn lòng
dâm dục, hết sạch dục niệm, thì dòng sanh tử của họ sẽ dứt
hẳn, họ sẽ không còn bị tùy thuộc vào dòng sanh tử cứ tiếp
diễn liên tục, không hề gián đ oạn đ ó nữa -- sự sanh tử
của họ đ ược chấm dứt.
Kinh Vă n: Hán Việt: “Nhữ tu Tam-muội, bổn xuất trần
lao, dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất.”
Việt: “Ông tu pháp Tam-muội vốn đ ể thoát trần-lao,
nhưng nếu không trừ bỏ tâm dâm-dục thì chẳng thể ra
khỏi trần-lao.”
70
Giảng nghĩ a:
“Ông tu pháp Tam-muội vốn đ ể thoát trần-lao.”
―Ông‖ ở đ ây là chỉ ngài A-Nan. Đ ức Phật nói rằng:
―Này A-Nan! Ông tu Đ ịnh-lực cốt yếu là đ ể vượt thoát
trần-lao, ra khỏi sanh tử; nhưng nếu không trừ bỏ tâm
dâm dục thì chẳng thể ra khỏi trần lao. Nếu ông không đ
oạn trừ cái tâm dâm dục thì việc thoát khỏi trần-lao là
chuyện chẳng thể có đ ược, không thể nào thực hiện đ ược!
Vì sao? Vì tâm dâm dục chính là ‗trần‘ (bụi bặm), tức là
một thứ ‗trần lao‘ kia mà! Do đ ó, đ ừng nói là vi phạm
bằng hành đ ộng, chỉ cần trong lòng ông dấy khởi một ý
tưởng dâm dục, có cái dâm-tâm tồn tại, thì đ ó cũ ng chính
là trần-lao rồi, và như thế là ông cũ ng vẫn chưa thoát ra
khỏi nó đ ược. Cho nên, nếu muốn tu Đ ạo, muốn đ ược
khai ngộ thành Phật, mà lại không chịu dứt bỏ dâm-tâm, thì
là chuyện chẳng thể nào xảy ra đ ược.‖
Do vậy, chỉ có những kẻ vô cùng si mê mới vừa muốn giữ cái
tâm dâm dục lại vừa muốn đ ược khai ngộ. Tư tưởng này
thuộc loại ngu si tột đ ỉnh, và những người mang tư tưởng
này là những kẻ khó có thể giáo hóa nhất; cho dù bây giờ Đ
71
ức Phật Thích Ca Mâu Ni có giáng thế đ i chă ng nữa thì
Ngài cũ ng không có cách nào làm cho họ đ ắc Đ ạo hay
chứng quả vị đ ược cả! Cho nên, hạng người này là ngu dốt
nhất, si mê nhất!
Kinh Vă n:
Hán Việt: “Túng hữu đ a trí, Thiền-đ ịnh hiện tiền, như
bất đ oạn dâm, tất lạc Ma-đ ạo, thượng phẩm Ma-vương,
trung phẩm ma-dân, hạ phẩm ma-nữ.”
Việt: “Dầu có đ a trí, Thiền-đ ịnh hiện tiền, mà nếu
chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đ ạo--thượng
phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ
phẩm thì làm ma-nữ.”
Giảng nghĩ a:
“Dầu có đ a trí, Thiền đ ịnh hiện tiền, mà nếu chẳng
dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đ ạo.” Đ ức Phật lại
bảo ngài A-Nan : ―Cho dù ông có trí huệ và hễ ngồi Thiền
là đ ạt đ ược cảnh giới khinh an, cảm thấy tốt đ ẹp vô cùng,
nhưng nếu ông không đ oạn trừ tâm dâm dục thì ông sẽ bị
72
trở thành Ma-vương.‖ ―Thiền đ ịnh hiện tiền‖ tức là đ
ã có khả nă ng nhập Đ ịnh, công phu đ ã có chỗ thành tựu.
“Thượng phẩm thì làm Ma-vương.” Làm ma thì bậc cao
nhất là gì? Đ ó là làm Ma-vương ở Lục Dục Thiên. “Trung
phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma nữ.” Bậc
trung bình của loài ma là gì? Là ma dân, tức là dân chúng
bình thường của loài ma. Còn bậc thấp kém nhất của ma đ
ạo là gì? Là ma nữ, tuy là xinh đ ẹp nhưng vô cùng hèn hạ.
Về đ iểm này, người có trí huệ cần phải thận trọng và
người thông minh cần phải chú ý! Đ ừng đ ể cho mình bị hại
bởi sự thông minh của chính mình, đ ừng tự cho mình là tài
giỏi, phi thường: ―Các người không hiểu đ ược đ âu, chỉ có
tôi mới hiểu nổi! Các người không biết gì cả, chỉ có tôi mới
biết rành rẽ mà thôi!‖ Đ ó chẳng qua chỉ là thứ ―tiểu trí
tiểu huệ,‖ cái hiểu biết hạn hẹp, nông cạn. Song, cái
―tiểu trí tiểu huệ‖ ấy của quý vị có thể huỷ hoại cả tiền đ
ồ của chính quý vị đ ấy!
Kinh Vă n:
Hán Việt: “Bỉ đ ẳng chư ma, diệc hữu đ ồ chúng, các các
tự vị thành Vô-thượng Đ ạo.”
73
Việt: “Những loại ma ấy cũ ng có đ ồ chúng, tất cả đ ều
tự xưng đ ã thành tựu Đ ạo Vô-thượng.”
Giảng nghĩ a:
Quý vị xem, hạng người có chút ―tiểu trí tiểu huệ‖ ấy vì
không đ oạn trừ dâm-tâm nên nói toàn những chuyện ái
dục – anh yêu em, em yêu anh - cứ yêu qua yêu lại như th
ế rồi cuối cùng họ thành ma luôn! Thành ma rồi thì sao
nữa?
“Những loại ma ấy cũ ng có đ ồ chúng.” Chúng ma ấy c
ũ ng có đ ồ đ ệ, cũ ng có kẻ ủng hộ chúng. “Tất cả đ ều
tự xưng đ ã thành tựu Đ ạo Vô-thượng.” Bản thân loài
ma không biết xấu hổ, kẻ nào cũ ng tự xưng rằng: ―Tôi
chính là Phật! Chúng tôi đ ây đ ều là những đ ấng tối cao,
vô thượng!‖ Hễ cái gì là to lớn, thì chúng xưng chúng là cái
đ ó. Chúng vốn là ma nhưng lại không chịu thừa nhận mình
là ma, mà cứ xưng là Phật. Phật thì cũ ng có Phật giả mạo
vậy. Trên thế gian này cái gì cũ ng có giả đ ược cả, cho
nên loài ma cũ ng có thể làm ông Phật giả. Song le, chúng
không chịu nhận chúng là thứ giả. Chúng cho rằng chúng là
74
thứ thiệt, và cũ ng là ―thiên thượng thiên hạ duy ngã đ ộc
tôn‖ (trên trời, dưới trời, chỉ mình ta là tôn quý) nữa!
Kinh Vă n:
Hán Việt: “Ngã diệt đ ộ hậu, Mạt Pháp chi trung, đ a thử
ma-dân xí thạnh thế gian, quảng hành tham dâm, vi
Thiện-tri-thức, linh chư chúng sanh lạc ái kiến khanh, thất
Bồ-đ ề lộ.”
Việt: “Sau khi Ta diệt đ ộ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhi
ều loại ma dân ấy hiện ra đ ông đ ảo ở thế gian, mở
rộng sự tham dâm, lại tự xưng là Thiện-tri-thức, khiến
cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đ
ường Bồ-đ ề.”
Giảng nghĩ a:
Trước khi nhập diệt, Đ ức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng:
―Hiện nay Ta còn ở tại thế gian thì bè lũ Ma-vương
không dám xuất hiện. Song le, sau khi Ta diệt đ ộ, trong
thời Mạt Pháp, lúc Phật Pháp đ ang ở vào giai đ oạn tàn lụn,
thì sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đ ông đ ảo ở thế
75
gian, mở rộng sự tham dâm.” ―Thời Mạt Pháp‖ chính là
thời đ ại của chúng ta hiện nay. Vào thời đ iểm này, loại
ma-dân ấy rất đ ông đ úc và chúng đ i khắp nơi nói chuyện
dâm dục. Bất luận nam hay nữ, kẻ nào cũ ng ưa thích dâm
dục và đ ồng thời cũ ng muốn thành Phật, muốn đ ược khai
ngộ.
Làm sao tôi nhận biết đ ược ―con ma‖ loại này ư? Trước
kia, có lần tôi gặp một người nọ - không cần phải đ ề cập
đ ến tên của ông ta - tự xưng mình là Phật. Khi tôi nói rằng
ông ta là ma, ông ta liền hỏi lại: ―Ai là ma?‖ Tôi đ áp:
―Ông chính là ma đ ấy!‖ Vì sao tôi biết đ ược ư? Vì ông
ta cứ giở những trò của ma! Ông ta chuyên môn nói chuyện
tình cảm, yêu đ ương; lúc nào cũ ng: ―I love everybody.‖
Ông ta lấy tư cách gì mà thương yêu tất cả mọi người? Thật
là không biết xấu, không biết hổ thẹn!
Thời Mạt Pháp, ma-dân nhan nhản khắp nơi khiến cho thế
gian này như trong cơn hỏa hoạn, đ âu đ âu cũ ng rừng rực
ngọn lửa dâm dục. Những người thiếu hiểu biết đ ều
hùa theo bọn chúng: ―Họ nói nghe đ ược lắm! Những đ i
ều họ nói đ ều rất có lý!‖ Đ ặc biệt là những thanh niên
76
trẻ tuổi, ai nấy đ ều cảm thấy những đ iều chúng nói rất
―tâm đ ầu ý hợp.‖ Có câu:
«Cùng mùi thối thì hợp nhau. »
(Xú vị tương đ ầu.)
Người này thì hôi hám, người kia cũ ng thối tha, bởi ―cá
mè một lứa‖ cho nên người này bảo người kia giỏi, người
nọ khen người này hay. Nếu không cùng ―mùi,‖ chẳng
cùng sở thích, thì sẽ không khen ngợi lẫn nhau ; bởi:
« Khác chí hướng ắt không cùng nhau mưu sự đ ược. »
(Đ ạo bất đ ồng tắc bất tương vi mưu.)
Tuy nhiên, nếu chí hướng giống nhau, lối suy nghĩ giống
nhau, thì sẽ có trường hợp ―người mù dắt người đ ui‖ xảy
ra. ―Người mù dắt người đ ui‖ có nghĩ a là kẻ đ ui mù
mà lại dẫn đ ường cho người mù đ ui. Quý vị thấy như thế
có đ áng thương hay không chứ? Tôi nói như vậy chẳng
phải là muốn trách mắng người nào cả, nhưng quý vị phải bi
ết rằng:
Hồ đ ồ dạy hồ đ ồ,
Dạy rồi chẳng ai hiểu,
77
Sư-phụ đ ọa đ ịa ngục,
Đ ệ tử cũ ng xuống theo!
Gặp lại nhau ở đ ịa ngục, sư-phụ mới ngỡ ngàng hỏi đ ệ-tử :
―Ủa, sao con cũ ng ở đ ây?‖ Đ ệ-tử đ áp: ―Thì thầy tới
trước kia mà. Lẽ dĩ nhiên là con đ i theo thầy thôi!‖ Thì ra
đ ôi bên đ ều không biết làm thế nào mình lại lọt vào đ ó
đ ược! Quý vị thấy có đ áng thương hay không?
“Lại tự xưng là Thiện-tri-thức.” Bọn chúng còn khoe
khoang không ngượng miệng : ―Tôi đ ến chỗ nọ đ ể
giảng Kinh. Tôi tới chỗ kia đ ể give lecture. I give lecture to
everybody.‖ Thật là buồn cười hết sức!
“Khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất
con đ ường Bồ-đ ề.” Chúng làm cho tất cả chúng sanh
đ ều bị rơi vào hầm hố dâm dục và đ i lạc ra khỏi con đ
ường Bồ-đ ề. Con đ ường Bồ-đ ề đ ã mất, không còn nữa,
thì chạy đ i đ âu? Chạy vô đ ịa ngục! Bấy giờ, sư phụ trông
thấy đ ệ-tử lù lù bước vô thì kinh ngạc hỏi: ―Sao con cũ ng
tới đ ây vậy? Đ ây chẳng phải là chỗ tốt đ âu!‖ Đ ệ-tử
chưng hửng đ áp: ―Thầy mới là người tới trước kìa! Con
thì đ ương nhiên là phải theo thầy rồi, thầy là sư phụ của
78
con mà!‖ Thầy thở dài ngao ngán: ―Ui chao! Lẽ ra con
không nên theo thầy, bởi đ ây là một nơi đ ầy thống khổ!‖
Kinh vă n:
Hán Việt: “Nhữ giáo thế nhân tu Tam-ma-đ ịa, tiên đ
oạn tâm dâm, thị danh Như Lai, tiên Phật Thế Tôn, đ ệ
nhất quyết đ ịnh thanh tịnh minh hối.”
Việt: “Vậy ông dạy người đ ời tu pháp Tam-ma-đ ịa,
trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Đ ó là lời minh huấn
quyết đ ịnh thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và
chư Phật Thế Tôn thuở trước.”
Giảng nghĩ a:
Sự khác biệt giữa ―phản‖ (trái) và ―chánh‖ (phải) – giữa
Ma-vương và Bồ-tát - vốn rất vi tế; khác biệt như thế nào?
Bồ-tát thương xót và che chở tất cả chúng sanh với lòng
từ-bi, chứ tuyệt đ ối không có lòng dâm dục. Trong khi đ ó,
Ma-vương đ ối với chúng sanh thì cứ đ ề xướng ―ái‖,
chuyên môn nói chuyện dâm dục, chú trọng dâm dục; thậm
chí chúng còn nói rằng hễ tâm dâm dục càng nặng bao
79
nhiêu thì khai ngộ đ ược quả vị càng cao bấy nhiêu, và dùng
tà thuyết ấy đ ể hại người.
Bồ-tát thì không có tâm dâm dục, các ngài đ ối với tất cả
chúng sanh hoàn toàn không có sự phân biệt. Có tâm dâm
dục tức là ma. Không có tâm dâm dục, chỉ đ ơn thuần xót
thương và cứu giúp tất cả chúng sanh – đ ó mới chính là
cảnh giới của chư Phật và chư Bồ-tát. Ma thương người là
có mưu đ ồ, có tham dục. Bồ-tát thương người thì không
có tham dục. Không có tham dục tức là không có tâm dâm
dục. Cho nên, trong Phật giáo có giảng về Thập Nhị Nhân
Duyên như sau:
Vô minh duyên Hành;
Hành duyên Thức;
Thức duyên Danh, Sắc;
Danh, Sắc duyên Lục Nhập;
Lục Nhập duyên Xúc,
Xúc duyên Thọ;
Thọ duyên Ái;
Ái duyên Thủ;
80
Thủ duyên Hữu,
Hữu duyên Sanh;
Sanh duyên Lão, Tử.
Và, đ ó cũ ng chính là đ iểm bất đ ồng giữa Phật-giáo với
các giáo phái của Ma-vương ở thế gian.
“Vậy ông dạy người đ ời tu pháp Tam-ma-đ ịa, trước hế
t phải dứt trừ tâm dâm dục. Ông phải dạy cho tất cả mọi
người ở thế gian muốn tu pháp-môn Đ ịnh-lực này biết
rằng việc đ ầu tiên họ cần phải làm là dứt bỏ dâm-tâm, quét
sạch dục-niệm. Đ ó là lời minh huấn quyết đ ịnh thứ nhất
về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn
thuở trước.” Đ ạo lý này vốn do chính Đ ức Như-Lai và tất
cả chư Phật, Thế-Tôn thuở trước dạy bảo. Các ngài đ ã đ
ưa ra lời giáo huấn rất rõ ràng: ―Nhất đ ịnh phải cắt đ ứt,
loại trừ tâm dâm dục!‖ Đ ây là đ iều kiện tất yếu thứ nhất,
dứt khoát không đ ược sửa đ ổi một mảy may. Đ ạo lý này là
―quyết đ ịnh nghĩ a,‖ chứ không phải là ―bất đ ịnh ngh
ĩ a‖; cũ ng chẳng phải là ―không nhất đ ịnh‖ - chẳng
phải là có cũ ng đ ược mà không có cũ ng đ ược. Cái tâm
dâm dục dứt khoát phải không còn tồn tại. Có tâm dâm dục
tất sẽ bị lạc vào đ ường ma. Nếu vẫn giữ tâm dâm dục mà
81
mong khai ngộ, thì chắc chắn sẽ trở thành quyến thuộc của
Ma-vương!
Kinh Vă n:
Hán Việt: “Thị cố A-Nan, nhược bất đ oạn dâm, tu Thiề
n-đ ịnh giả, như chưng sa thạch dục kỳ thành phạn, kinh
bách thiên kiếp, chỉ danh nhiệt sa. Hà dĩ cố? Thử phi
phạn bổn, sa thạch thành cố.”
Việt: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-đ ịnh mà không
dứt trừ dâm tâm thì cũ ng như nấu cát sạn mà muốn
thành cơm, dầu có trải tới tră m ngàn kiếp cũ ng chỉ gọi
là sạn nóng. Vì sao? Vì đ ó không phải là gốc của cơm, mà
chỉ là cát sạn!”
Giảng nghĩ a:
Quý vị xem, ở đ ây Phật lại nêu ra một tỷ dụ nữa. Đ ức Phật
bảo ngài A-Nan: ―Ông chưa tin ư? Ông chưa tin thì Ta sẽ
giảng nghĩ a cho ông rõ.‖ Và Đ ức Phật dạy tiếp: “Cho
nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-đ ịnh mà không dứt trừ
dâm tâm thì cũ ng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm.
82
Vì lẽ ấy cho nên, A-Nan à, giả sử ông không đ oạn trừ tâm
dâm dục mà ngày ngày cũ ng ngồi Thiền, cũ ng tu hành,
tất ông sẽ vừa tu hành vừa bị lậu thoát. Ông tu đ ược một
phần thì lậu thoát mười phần, tu đ ược mười phần thì lậu
thoát mất một tră m phần. Ông muốn ngồi Thiền mà lại
không chịu dứt bỏ dâm-tâm ư? Ông vừa muốn ngồi Thiền
đ ể đ ược khai ngộ, lại vừa muốn tìm cầu thứ lạc thú đ iên
đ ảo ấy, thì chẳng khác nào muốn nấu cát và sạn cho thành
cơm vậy.
Ông đ em cát sạn đ i nấu, dầu có trải tới tră m ngàn kiếp
cũ ng chỉ gọi là sạn nóng. Dù ông cứ nấu như thế trong
suốt cả tră m ngàn kiếp đ i chă ng nữa, thì cũ ng chỉ có thể
gọi đ ó là ‗sạn nóng‘ mà thôi, chẳng có công dụng gì cả.
Vì sao? Do duyên cớ nào ư? Vì đ ó không phải là gốc của
cơm, mà chỉ là cát sạn! Thứ mà ông đ em nấu chính là cát
sạn, chứ không phải là gạo, không có chất liệu của cơm! N
ếu ông muốn khỏi dứt bỏ dâm tâm mà vẫn đ ược khai ngộ
thì cũ ng tương tự như nấu cát sạn mà mong thành cơm, ao
ước cát sạn biến thành lúa gạo vậy.‖
Khi không còn dâm-tâm thì sẽ không thấy có tướng nam
tướng nữ, không còn phân biệt giữa mình với người, và cũ
83
ng không thấy có tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả nữa.
Có những người không biết hổ thẹn, dám nói rằng: ―Tôi là
người như thế đ ấy!‖ Chỉ nói suông như vậy thì chẳng đ
áng tin. Không có gì làm bằng chứng thì làm sao quý vị biế
t đ ược mình là người như thế? Nếu quả thật quý vị là
người như thế thì quý vị phải là người hoàn toàn không bi
ết mình là người như thế mới đ úng; và quý vị cũ ng sẽ
không nói: ―Chứ sao! Tôi không có tâm dâm dục!‖
Người đ ã hết sạch dục niệm thì không có thứ kiến giải ấy.
Không có, tức là không có. Họ chẳng làm rùm beng, chẳng
quảng cáo, chẳng đ ă ng báo, và cũ ng chẳng khoe khoang:
―Tôi là người như thế đ ấy!‖ Chỉ một việc tự rêu rao, tự
quảng cáo cho mình là đ ã không phải rồi; cho nên mọi
người cần phải chú ý đ ến đ iểm này!
Nếu quý vị quả thật không có tâm dâm dục, thì quý vị sẽ:
Mắt nhìn hình sắc, trong chẳng có,
Tai vẳng chuyện đ ời, tâm chẳng hay!
(Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu
Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri.)
84
Khi mắt nhìn biết bao hình sắc mà trong lòng chẳng thấy
có gì hiện hữu và tai nghe những âm thanh êm dịu mà tâm
trí lại không hay không biết gì cả, tức là đ ã có đ ược chút
―hỏa hầu.‖ Tâm phải không dao đ ộng, không một ý ngh
ĩ nào dấy khởi, dục-niệm phải hoàn toàn không còn nữa,
thì mới là đ úng thật. Nếu có những lúc quý vị vẫn còn tơ
tưởng đ ến phái nữ, thì vẫn chưa đ ược.
Có một người nọ sau khi khai ngộ rồi thì tới báo cho Sư-phụ
của mình biết và thỉnh ngài khai thị ấn chứng. Vị Sư-phụ
hỏi: ―Ông khai ngộ cái gì thế?‖ Anh ta thưa: ―Ồ! Trước
kia con hoàn toàn không hiểu, nhưng nay thì con biết đ
ược rằng sư-cô là đ àn bà!‖ Thì ra bây giờ anh ta mới biết
rằng sư-cô, tức là Tỳ -khưu-ni, là đ àn bà! Vị Sư-phụ bèn
dùng Phật-nhãn đ ể quán xét: ―Ờ! Người này quả thật đ ã
khai ngộ rồi,‖ và liền ấn chứng cho anh ta: ―Ông đ ược
rồi đ ó!‖
Hẳn quý vị sẽ nghĩ : ―Ai mà không biết đ iều đ ó?‖ Th
ế nhưng, người chưa khai ngộ thì sẽ không nói đ ược câu
ấy. Nhờ đ ược khai ngộ rồi, cho nên người đ ệ tử này mới
thốt ra một câu như thế! Vả lại, anh ta không thể nào dối
gạt người khác đ ược, vì Sư-phụ của anh ta có Phật-nhãn,
85
ngài đ ã dùng Phật-nhãn quán sát và biết đ ược đ ệ tử của
mình đ ã đ ắc Đ ạo, đ ã chứng đ ược Sơ-quả A-la-hán, nên
ngài mới ấn chứng cho, nói rằng: ―Đ úng vậy!‖
Kinh Vă n:
Hán Việt: “Nhữ dĩ dâm thân, cầu Phật diệu quả, túng đ
ắc diệu ngộ, giai thị dâm că n, că n bản thành dâm, luân
chuyển Tam-đ ồ, tất bất nă ng xuất. Như Lai Niết-bàn,
hà lộ tu chứng?”
Việt: ―Ông lấy dâm-thân mà cầu diệu-quả của Phật, cho
dẫu có đ ắc diệu-ngộ thì cũ ng đ ều là dâm-că n. Că n
bổn đ ã thành dâm, tất phải luân chuyển trong Tam-đ ồ,
không thoát ra đ ược. Thế thì Niết-bàn của Như-Lai do
đ ường nào mà tu chứng?”
Giảng nghĩ a:
Đ ức Phật dạy ngài A-Nan: ―Ông có thích cô con gái của
Ma-Đ ă ng-Già ấy, như thế có nghĩ a là không những tâm
dâm dục mà ngay cả cái thân dâm dục của ông đ ều vẫn
còn tồn tại. Ông lấy dâm-thân mà cầu diệu quả của Phật,
86
cho dẫu có đ ắc diệu-ngộ thì cũ ng đ ều là dâm-că n. N
ếu ông dùng cái thân dâm dục đ ể cầu mong chứng đ ắc
quả vị nhiệm mầu của Phật, cho dù ông có đ ạt đ ược đ ạo
lý vi diệu đ i chă ng nữa, thì cũ ng còn vướng mắc cái gốc rễ
dâm dục mà ông chưa chặt bỏ đ ược. Că n bổn đ ã thành
dâm, tất phải luân chuyển trong Tam-đ ồ, không thoát ra
đ ược. Với cái gốc là dâm dục, thì tương lai ông nhất đ ịnh
sẽ bị đ ọa vào Tam-đ ồ. (―Tam-đ ồ‖ hay ―Tam ác đ ạo,‖
tức là ba con đ ường xấu ác--đ ịa ngục, ngạ quỷ và súc
sanh.) Như thế, ông dứt khoát không thể nào ra khỏi ba đ
ường ác ấy đ ược, mà chắc chắn sẽ bị chuyển thân sanh làm
súc sanh, ngạ quỷ, hoặc đ ọa đ ịa ngục. Thế thì Niết-bàn
của Như-Lai do đ ường nào mà tu chứng? Vậy ông că n
cứ vào cái gì, nương theo con đ ường nào đ ể có thể chứng
đ ược quả vị Niết-bàn của Phật?‖
Kinh Vă n:
Hán Việt: “Tất sử dâm cơ thân tâm câu đ oạn, đ oạn tánh
diệc vô, ư Phật Bồ-đ ề tư khả hy ký.”
87
Việt: “Phải làm cho dâm-cơ của thân và tâm đ ều dứt, và
tánh „dứt‟ ấy cũ ng không còn, thì mới mong đ ạt đ
ược quả Bồ-đ ề của Phật.”
Giảng nghĩ a:
“Phải làm cho dâm-cơ của thân và tâm đ ều dứt. Ông
nhất đ ịnh phải dứt bỏ dâm-cơ của thân và dâm-cơ của
tâm.‖ ―Dâm cơ‖ tức là một niệm dâm dục nhỏ nhất, vi t
ế nhất. ―Dâm cơ‖ cũ ng có nghĩ a là vô minh; do đ ó,
cần phải dứt trừ vô minh.
“Và tánh „dứt‟ ấy cũ ng không còn, ngay cả cái biết v
ề tánh ‗dứt‘ ấy ông cũ ng phải không đ ược có nữa, như
thế thì mới mong đ ạt đ ược quả Bồ-đ ề của Phật, mới
có thể nuôi hy vọng trên con đ ường giác ngộ của Phật
vậy.‖
Kinh Vă n:
Hán Việt: “Như ngã thử thuyết, danh vi Phật thuyết; bất
như thử thuyết, tức Ba-Tuần thuyết.”
88
Việt: “Như lời Ta nói đ ây mới gọi là lời Phật nói; nếu
chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần.”
Giảng nghĩ a:
“Như lời Ta nói đ ây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng
nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần. Những lời như Ta
giảng đ ây mới đ ích thực là Pháp do Phật nói ra. Nếu lời
nói không phù hợp với đ ạo lý của Ta thì đ ó là lời của
Ma-vương vậy.‖ ―Ba-Tuần‖ là tiếng Phạn, có nghĩ a là
―ác giả,‖ kẻ ác. Ma Ba-Tuần tức là Ma-vương, vua của loài
ma.
Người đ ến nghe Kinh nhất đ ịnh là đ ều sáng mắt.
Người mù thì không thể đ ến nghe Kinh, cả người đ iếc và
người câm cũ ng đ ều không thể đ ến đ ể nghe Kinh đ
ược. Những kẻ đ ến đ ây nghe Kinh thì đ ều càng nghe
càng thông minh, chứ không phải càng nghe càng ngu si.
Do đ ó, bây giờ mọi người nên mở con mắt trí huệ chân
chánh của mình ra và hướng nhĩ -că n chân chánh của
mình vào trong đ ể lắng nghe tự tánh, chứ đ ừng lă ng xă
ng tìm kiếm ở bên ngoài nữa. Đ ó là tất cả những gì tôi
muốn nói với quý vị trong ngày hôm nay!