View
1.467
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
Công trình được xuất bản trong sự hợp tác của Tạp chí Văn hóa nghệ thuật và Công ty phát hành sách Hà Nội để chào mừng những ngày lễ lớn năm
2000, và hướng tới kỷ niệm ngàn năm Thăng Long
kho tàng
lễ hội cổ truyền
Việt Nam
2000302000 - DT
37
VMã số
Nhiều tác giả
Kho tàng lễ hội cổ truyền việt
nam
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc
Tạp chí văn hóa nghệ thuật
Hà Nội, 2000
Ban tuyển chọn:
- TS Nguyễn Chí Bền (trưởng ban)
- PGS, TS Trần Lâm Biền
- TS Bùi Khởi Giang
- TS Nguyễn Minh San
- TS Đỗ Lai Thúy
- CN Phạm Vũ Dũng
- CN Võ Hoàng Lan
- Nhạc sĩ Nguyễn Thanh Nghị
- Bìa: Họa sĩ Trần Quang Vinh
- ảnh : Phạm Lự
9
Lời giới thiệu
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khoá VIII về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể trong sự nghiệp xây dựng văn hoá Việt Nam, trong đó có nhiệm vụ bảo tồn, kế thừa, phát huy các di sản
văn hoá, các giá trị văn hoá truyền thống.
Nghiên cứu, sưu tầm, tập hợp, giáo dục sâu rộng những đạo lý
dân tộc tốt đẹp thông qua di sản văn hoá phong phú do cha ông để lại, do
đó, là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó, đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Từ nhiều năm nay, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, cơ quan ngôn
luận của Bộ Văn hoá Thông tin, đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ này, thể hiện ở việc đăng tải nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài báo
và thông tin đa dạng về văn hoá nghệ thuật, văn hoá dân gian, có tác
dụng thiết thực đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hoá ở nước ta.
Không chỉ dừng lại ở đó, Tạp chí còn nghiên cứu, tập hợp để xuất bản
được những chuyên luận, những công trình nghiên cứu văn hoá hiện đại
và truyền thống, sách phổ cập kiến thức văn hoá... như: Tìm về bản sắc
dân tộc của văn hoá; Văn hoá vì con người; Việt Nam, cái nhìn địa văn
hoá; Hỏi và đáp về văn hoá Việt Nam... kiên trì ý tưởng nghiên cứu vùng văn hoá thể hiện ở các số chuyên đề về văn hoá địa phương, ở các cuốn
sách Văn hoá nghệ thuật Nam Bộ, Văn hoá nghệ thuật Trung Bộ...Những
ấn phẩm khoa học đó đã giúp ích nhiều cho các nhà quản lý văn hoá, các
nhà nghiên cứu, các cộng tác viên và bạn đọc đông đảo.
Sự xuất hiện công trình Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam do
Tạp chí Văn hoá nghệ thuật tập hợp, chọn lọc, biên soạn, một lần nữa
khẳng định phương châm nghiên cứu và phổ biến khoa học văn hoá của Tạp chí. Đó là đi tìm bản sắc văn hoá Việt Nam, sắc thái các vùng văn
hoá được thể hiện ở các đối tượng văn hoá cụ thể, mà lễ hội cổ truyền
Việt Nam chỉ là một trong những đối tượng đó.
Chúng tôi cho rằng lễ hội cổ truyền là một hiện tượng trội của văn
hoá truyền thống Việt Nam, đã từng được tìm hiểu, phân loại, sưu tập,
nghiên cứu khá kỹ lưỡng. Tư liệu công bố và chưa công bố về đối tượng
này chắc chắn hết sức đa dạng và phong phú, không chỉ ở số lượng sưu
tập được mà còn ở cách tiếp cận, mô tả, tập hợp và hệ thống hoá tư liệu. Chính sự phong phú và đa dạng đó của nguồn tư liệu ít nhiều tạo cho
10
người đọc cảm giác choáng ngợp hay trùng lặp. Trong bối cảnh đó, sự
xuất hiện của Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, với cái nhìn tổng quan
về lễ hội cổ truyền, với cách sắp xếp và nhìn nhận lễ hội cổ truyền gắn
với vùng văn hoá..., theo ý kiến riêng tôi, đã có được ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định, đóng góp có hiệu quả vào việc sưu tầm, nghiên cứu
lễ hội cổ truyền, văn hoá dân gian và văn hoá dân tộc. ít ra, cho đến nay,
đây cũng là sự tập hợp đầy đủ hơn cả về lễ hội cổ truyền Việt Nam.
Các nhà quản lý văn hoá, các nhà khoa học, các nhà sưu tầm
nghiên cứu, hoạt động văn hoá, các nhà giáo, các em học sinh và bạn đọc
đông đảo, ở vị trí của mình, sẽ tìm thấy trong Kho tàng lễ hội cổ truyền
Việt Nam những tri thức cần thiết cho bản thân. Chỉ dừng ở đấy thôi, thì
cũng có thể thấy việc Tạp chí Văn hoá nghệ thuật biên soạn và cho ra mắt độc giả cuốn Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam là việc làm đúng
đắn và hữu ích.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này với bạn đọc gần xa./.
Hà Nội, tháng 1 năm 2000 Nguyễn Khoa Điềm
UVBCHTƯ Đảng
Bộ trưởng bộ văn hoá thông tin
9
Cùng bạn đọc
1. Là một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng, lễ hội cổ truyền
Việt Nam có vị thế quan trọng và to lớn trong đời sống xã hội, đời sống
văn hoá trước đây cũng như ngày nay.
Do vậy, nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu văn hoá, văn hoá dân gian đã sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ truyền. Nhiều ấn phẩm về lễ hội cổ
truyền Việt Nam đã được công bố trong những năm qua. Tuy nhiên, một
cuốn sách có tính chất tổng hợp giới thiệu được toàn cảnh lễ hội cổ
truyền Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa được ra mắt bạn đọc. Một công
trình như thế, sẽ có rất nhiều tác dụng cho việc sưu tầm những lễ hội cổ
truyền Việt Nam, cũng như việc tìm hiểu giá trị văn hoá của lễ hội cổ
truyền Việt Nam.
Xuất phát từ nhu cầu cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn ấy mà Tạp chí Văn hoá nghệ thuật chủ trương tập hợp, biên soạn và cho ra mắt
bạn đọc công trình Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam.
2. Khi thực hiện cuốn sách này, nhóm tuyển chọn có một thuận lợi
cơ bản là được kế thừa toàn bộ thành tựu sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ
truyền của thế hệ đi trước và những người cùng thời, ở những mức độ
khác nhau, ở những không gian, thời gian khác nhau. Những thành tựu
này là hết sức cơ bản và to lớn. Dù thế, trước nguồn tư liệu đồ sộ như vậy, nhóm tuyển chọn cũng không tránh khỏi những khó khăn trong thao
tác xử lý, sắp xếp đối tượng.
Trong khi xử lý tư liệu, chúng tôi nhận thấy có những hiện tượng:
- Có những lễ hội mới chỉ có một tác giả đề cập đến.
- Cùng một lễ hội có những tác giả viết một cách khác nhau (về góc
tiếp cận, về phong cách, về không gian, thời gian lễ hội, về diễn biến
nghi lễ, về nhân vật thờ phụng...).
- Có nhiều lễ hội chưa được đề cập tới hoặc được viết một cách sơ sài, song do khả năng có hạn, chúng tôi cũng chưa tập hợp được vào
trong sách này. Hy vọng sự thiếu vắng này sẽ được lấp đầy khi có điều
kiện về tư liệu và các phương diện khác.
- Đặc biệt, chúng tôi phải nhấn mạnh đến hiện tượng nhiều cách
viết, nhiều giọng văn khác nhau khi viết về lễ hội, nghĩa là, có lễ hội
được viết dưới góc độ nghiên cứu, có lễ hội được viết với tính chất miêu
thuật, có lễ hội lại chỉ được chú ý ở một vài tình tiết...
10
3. Vì thế, nguyên tắc xử lý của nhóm tuyển chọn như sau:
- Tôn trọng tính khoa học của văn bản tư liệu được kế thừa.
- Thống kê, xử lý, lựa chọn, biên soạn từng lễ hội cổ truyền Việt
Nam theo trật tự như sau:
+ Địa điểm, thời gian tổ chức: thôn, xã, huyện, tỉnh (thành phố),
ngày tổ chức, chỉ dẫn đường đi v.v...
+ Di tích: miêu tả khái quát di tích, không gian, cảnh quan lễ hội
v.v...
+ Nhân vật phụng thờ: Thờ chính, phối thờ, lớp văn hoá.. truyền
thuyết, sắc phong v.v...
+ Diễn biến lễ hội: Nghi thức thờ cúng, trò diễn, rước, vật lễ, trò
chơi...
+ Giá trị văn hoá của lễ hội: ý nghĩa, các lớp văn hoá, giá trị trong
đời sống...
Trật tự này, khi ứng dụng trong thực tiễn biên soạn cũng chỉ mang
tính tương đối vì, thực ra, có những bài viết về một lễ hội nào đó, lại
không đáp ứng đầy đủ các mục của trật tự như một mô hình cấu trúc ấy.
Cho nên, chúng tôi cũng chỉ coi đây là khung cơ bản biểu hiện quan
niệm khoa học của nhóm tuyển chọn, về một mô hình cấu trúc của lễ hội
cổ truyền. Việc có những lễ hội không đáp ứng hoàn toàn mô hình này vẫn được tập hợp trong sách được coi là những biệt lệ.
Vì vậy, trong lựa chọn và xử lý, có những lễ hội được sử dụng
nguyên vẹn, có lễ hội được biên tập, bổ sung, có khi vài ba bài viết về
một lễ hội được gắn kết vào làm một (có chỉ nguồn cụ thể) trên cơ sở tôn
trọng tới mức cao nhất văn bản đã có. Đặc biệt, có nhiều lễ hội được ban
tuyển chọn viết lại trên cơ sở tư liệu cũ, có nhiều lễ hội được viết mới...
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, bởi là cuốn sách về lễ hội ở nhiều vùng văn hoá khác nhau, của nhiều tác giả khác nhau ở nhiều thời
điểm lịch sử khác nhau, nên sự chấp nhận đa phong cách trong miêu tả
và diễn đạt cũng là một lẽ đương nhiên.
4. Cuốn sách được chúng tôi kết cấu như sau:
- Mở đầu là bài viết về Tết. Tách riêng, để trước tất cả các lễ hội cổ
truyền, bởi chúng tôi quan niệm Tết “là sự đón mừng năm mới” (Trần
Quốc Vượng), là sự mở đầu của mùa lễ hội, từ mùa xuân đến mùa thu và
hết năm.
11
Trong một khía cạnh nào đó, có thể coi Tết như một lễ hội cổ
truyền.
- Sau đó, các vùng văn hoá là ranh giới để chúng tôi sắp xếp các lễ
hội cổ truyền. Có thể còn nhiều tranh luận về cách phân vùng văn hoá ở Việt Nam, tạm đặt ra ngoài sự tranh luận ấy, chúng tôi lấy các vùng: Tây
Bắc- Việt Bắc, châu thổ Bắc Bộ, duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên và
Nam Bộ để sắp xếp các lễ hội cổ truyền. Trong từng vùng như vậy, chúng
tôi sắp xếp theo a, b, c của địa danh có lễ hội cổ truyền.
- Đối với các lễ hội thờ cá voi/ cá ông, chúng tôi coi như một ngoại
biệt, bởi theo chúng tôi, đây là một loại lễ hội đặc thù của cư dân không
thuần tuý sống bằng nghề trồng lúa nước, mà sống bằng nghề đánh bắt
hải sản, trải dài ven biển từ Bắc vào Nam. Lễ hội thờ cá voi được sắp xếp theo hành trình đó (từ Bắc đến Nam).
Khi làm sách này, nhóm tuyển chọn chỉ ước mong rằng tập hợp
được một cách đầy đủ các lễ hội cổ truyền trong di sản văn hoá mà các
thế hệ trước để lại, nhằm đem đến cho bạn đọc một cái nhìn tương đối
toàn diện về kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn chế
về tư liệu khảo sát, về thời gian và nhân lực, chúng tôi chưa thể tập hợp
được vào sách này toàn bộ lễ hội cổ truyền như chính sự tồn tại của nó
trong cuộc sống. Chúng tôi hy vọng rằng công việc cần phải được tiếp tục để tương lai chúng ta có được một Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt
Nam đầy đủ như sự tồn tại của lễ hội cổ truyền trong cuộc đời.
Dù đã cố gắng hết sức, chúng tôi vẫn ý thức rằng, với một công
việc lớn như vậy, cuốn sách không tránh được những thiếu sót. Mong
rằng các bậc trí giả, các nhà hiểu biết, đông đảo bạn đọc, bằng tấm lòng
chân thành và độ lượng sẽ góp ý, chỉ bảo để những lần xuất bản sau
cuốn sách sẽ tốt hơn./.
Nhóm tuyển chọn
12
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
15
Tổng quan về kho tàng
Lễ hội cổ truyền Việt Nam
Nguyễn Chí Bền
- 1 -
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, ra
đời và phát triển trong xã hội loài người. ở Việt Nam, lễ hội gắn
bó với làng xã như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời
sống cộng đồng. Là những cư dân nông nghiệp sống với nghề
trồng lúa nước, vòng quay của thiên nhiên và mùa vụ tạo ra
trong con người những nhu cầu tâm linh mà lễ hội chính là nơi,
là cơ hội thỏa mãn nhu cầu tâm linh ấy của họ. Trong tâm thức
mỗi người dân Việt Nam, nếu cây đa, giếng nước, sân đình là
những thành tố gắn bó thân thiết với mỗi người từ thuở thiếu
thời cho đến lúc giã biệt cõi đời thì lễ hội lại là thành tố văn hóa
gắn bó không những thân thiết mà vừa thiêng liêng lại vừa mãnh
liệt, gần gũi. Lễ hội cổ truyền là một "thời điểm mạnh của sinh
hoạt cộng đồng" - chữ dùng của GS. Đinh Gia Khánh - một
thành tố có tính chất tổng hợp trong các thành tố: tín ngưỡng,
tôn giáo, nghệ thuật biểu diễn dân gian v.v...
- 2 -
Trong số các loại hình của văn hóa dân gian Việt Nam, lễ
hội là loại hình được sưu tầm nghiên cứu tương đối muộn
màng. Thời kỳ từ thế kỷ thứ X đến năm 1858, các nhà nho chỉ
quan tâm ghi chép lại huyền thoại, thần tích về các thần được
người dân ở các làng quê thờ phụng mà ít ghi chép sự phụng
thờ các vị thần ấy của người dân ở các làng quê. Thực tế, các
thành tố: trò diễn, truyền thuyết, di tích v.v... của lễ hội cổ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
16
truyền gắn bó với nhau một cách mật thiết. Suốt dặm dài lịch
sử, chắc chắn các thành tố này tồn tại trong một di tích, một lễ
hội như một thành tố không thể tách rời. Phải chăng, điều này
là do quan niệm của các nhà nho hay do truyền thống của văn
hóa Việt Nam. Thành thử, từ Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên1
đến Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh - Kiều Phú 2 đến Vũ
trung tùy bút của Phạm Đình Hổ 3 đến Ô châu cận lục của
Dương Văn An4, v.v... chỉ ghi chép phần huyền thoại, truyền
thuyết liên quan đến các vị thần được các vương triều, các địa
phương phụng thờ. ở một địa hạt khác, khi làm các bộ sách
loại chí, thực lục, các nhà nho hay các viên quan trong Quốc sử
quán nhà Nguyễn có ghi chép một số dòng về phong tục tập
quán. Bút pháp của thể chí, kí, thực lục hay do quan niệm mà
các tác giả của các bộ sách như Đại Nam nhất thống chí, Gia
Định thành thông chí, Lịch triều hiến chương loại chí v.v..., chỉ
ghi những dòng ngắn gọn đến mức đơn giản về các phong tục,
trò chơi, lễ tết của cư dân mỗi vùng mà họ đề cập. Bởi vậy, nếu
nhìn nhận một cách nghiêm ngặt, các tác giả trong thời kỳ từ
thế kỷ X đến 1858, chưa sưu tầm, nghiên cứu về lễ hội, nhưng
nhìn ở từng thành tố, không thể không thừa nhận các tác giả ấy
đã có những dòng ghi chép và có thể nói là những dòng ghi
chép đầu tiên về lễ hội cổ truyền Việt Nam.
Thời Pháp thuộc, sớm nhất trong các tác giả sưu tầm
nghiên cứu về lễ hội cổ truyền Việt Nam phải chăng là
G.Dumoutier. Bài viết của ông về lễ hội làng Phù Đổng được in
trên Revue d' histoire des religions năm 1893, có lẽ là bài
nghiên cứu sớm nhất viết về lễ hội cổ truyền Việt Nam. Tác giả
đã miêu thuật truyền thuyết và đám rước cùng một lời bình khá
sắc sảo: "Cảnh tượng mà chúng tôi chứng kiến... sẽ là một
1 Bản dịch của Trịnh Đình Rư, Đinh Gia Khánh hiệu đính, bổ sung, Nxb Văn học tái bản,
Hà Nội, 1972. 2 Bản dịch của Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San, Nxb Văn hóa, Viện Văn học, Hà
Nội, 1960. 3 Bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nxb Văn học, Hà Nội, 1972.
4 Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên, Nxb KHXH Hà Nội, 1997.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
17
trong những cảnh tượng hấp dẫn mà chúng tôi được xem ở
Bắc Kỳ. ở châu Âu cổ kính của chúng ta, thử hỏi dân tộc nào lại
hãnh diện là còn được tiến hành kỷ niệm một sự kiện anh hùng
của lịch sử mình đã xảy ra từ hai nghìn ba trăm năm trước"1.
Những năm đầu thế kỷ XX, việc nghiên cứu Đông
Dương, trong đó có Việt Nam, của người Pháp được tăng lên
với nhịp độ đáng kể với nguyên cớ như viên toàn quyền Đông
Dương P.Doumer từng viết: Muốn cai trị tốt dân tộc thuộc địa
thì điều trước hết phải hiểu tường tận dân tộc được cai trị. Lễ
hội cổ truyền là một thành tố của văn hóa dân gian được các trí
thức người Pháp, có khi là linh mục, có khi là công chức quan
tâm nghiên cứu. Lễ động thổ của M.J. Przyluski công bố năm
1910 trên BEFEO là một công trình như vậy. Năm 1913, một số
trí thức người Pháp tại Huế đã lập nên Hội đô thành hiếu cổ
(Association des Amis du Vieux Huê) ở Huế. Việc nghiên cứu
văn hóa, trong đó có văn hóa dân gian ở Huế, được đẩy mạnh.
Trên tờ tạp chí Những người bạn Huế cổ (BAVH), từ năm 1914,
đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội cổ truyền
vùng Huế như Tế Nam giao của L.Cadière và R.Orbard. Năm
1915, H.Délétie đã có một bài viết khá sinh động và cặn kẽ về
nghi thức lên đồng: Lễ rước sắc thần Thiên Yana ở điện Huệ
Nam. Năm 1916, R.Orbard viết về lịch lễ hội ở Huế mà thực ra
là ông miêu tả những lễ tết của cư dân vùng Huế theo thời
gian.
Năm 1915, khi viết về phong tục tập quán, Phan Kế Bính
cũng dành nhiều trang trong cuốn Việt Nam phong tục để viết
về việc Thờ thần, Việc tế tự, nhập tịnh, Đại hội, Lễ kỳ an2. Tuy
không miêu tả một lễ hội nào cụ thể, nhưng những nhận xét về
lễ hội cổ truyền của ông là rất xác đáng. Ví dụ những miêu
thuật của ông về đại hội từ mở hội đến sửa sang nơi thờ cúng,
luyện tập, rước nước, gia quan, phụng nghênh hồi đình v.v...
1 Chuyển dẫn từ Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Văn học dân gian, tập 1, Nxb ĐH và
THCN, Hà Nội, 1972, tr.116 . 2 Xin xem Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1990, từ trang 75 đến
tr.109.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
18
Năm 1930, không hoàn toàn sưu tầm hay nghiên cứu về lễ
hội cổ truyền, Nguyễn Văn Khoan khi nghiên cứu về ngôi đình
của người Việt đã dành ba mục: Các buổi cúng tế trong đình,
Tục lệ thờ cúng, Một số hèm đặc biệt1 để đề cập đến phần văn
hóa phi vật thể gắn bó với ngôi đình. Chính đây lại là những
thành tố của lễ hội cổ truyền gắn bó với môi trường xã hội của
văn hóa, nói khác đi tí chút, chính ngôi đình là môi trường diễn
xướng, là không gian của lễ hội cổ truyền.
Thành công sớm nhất trong số các nhà khoa học Việt
Nam nghiên cứu lễ hội cổ truyền là giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn
Huyên. Ông là người "tiếp thu được nhiều kinh nghiệm của học
thuật Pháp và do đó đã để lại những công trình khảo cứu rất có
giá trị"2. Hai lễ hội cổ truyền được giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn
Huyên dành tâm huyết và nghiên cứu cặn kẽ là lễ hội làng Giá
(nay là xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây) và lễ hội làng
Phù Đổng (nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội). Vừa
miêu thuật chi tiết, tỉ mỉ, vừa giải mã những yếu tố của hai lễ
hội cổ truyền trên, giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên đã dựng
lại diện mạo của hai lễ hội làng Giá và Phù Đổng rất trọn vẹn.
Cho đến hôm nay và mãi sau này, chắc chắn những miêu
thuật, nhận xét của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên về hai lễ
hội cổ truyền này sẽ không bị lạc hậu hay phai nhạt giá trị. Xin
đơn cử phần ông miêu thuật lễ hội ở làng Giá: Một lễ hội Lý
Phục Man hàng năm từ sự phân công đến đám rước, đến các
lễ lớn: tế và các lời khấn đều được ông miêu thuật rất cặn kẽ.
Nguyên nhân đưa đến sự thành công này cũng không đơn
thuần chỉ là sự vận dụng một phương pháp mà còn do "Nguyễn
Văn Huyên tỏ ra say sưa với đề tài lễ hội và tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam"3.
1 Bản dịch chép tay của Trịnh Hữu Ngọc.
2 Đinh Gia Khánh, bài Về những đóng góp của các nhà nghiên cứu người Pháp trong việc
tìm hiểu văn hóa dân gian ở Việt Nam, trong tập 90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử
Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993, tr.167. 3 Hà Văn Tấn, Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên với văn hóa Việt Nam, in trong tập Góp
phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1995, tr.13.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
19
Những năm 30-40, trên báo chí công khai hồi ấy, lác đác
có một số bài báo viết về các lễ hội, chẳng hạn như Lê Ta (tức
Thế Lữ), viết về hội Dóng1, Vũ Bằng viết về hội Lim2, Nguyễn
Duy Kiên viết về hội chùa Thày3, Huy Tân viết về Tục thổi cơm
thi ở phiên chợ Chuông4, Anh Đạt viết về Thi thả chim ở hội
đền Chèm5, Nguyễn Văn Tố viết Một vài tục cổ về mùa xuân 6.
Năm 1938, khi cho ra mắt bạn đọc cuốn Việt Nam văn
hóa sử cương, ông Đào Duy Anh có đề cập đến lễ hội cổ truyền
trong phần Tín ngưỡng và tế tự 7. Lễ hội không là đối tượng
được ông đề cập nhưng những ghi chép của ông vẫn có nhiều
tác dụng cho việc nghiên cứu lễ hội của các thế hệ sau. Chẳng
hạn, ông nhận xét: "Trong lễ vào đám hay vào hội của ít nhiều
làng, có một chi tiết đặc biệt gọi là hèm, người ta thường bày
một trò để nhắc lại tính tình sự nghiệp hoặc sinh bình của vị
thần làng thờ"8.
Bẵng đi mấy năm từ 1945 đến 1954, hầu như lễ hội cổ
truyền không được chú tâm nghiên cứu, sưu tầm. Lý do chính
phải chăng là khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đã khiến cho những lễ hội cổ truyền không được mở, nên
việc sưu tầm, nghiên cứu về nó cũng chưa được phát triển.
Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm thời chia cắt,
việc sưu tầm, nghiên cứu lễ hội ở hai miền diễn ra khác nhau,
cùng phương pháp và động cơ cũng có khác nhau.
ở miền Nam, trên các tạp chí như Văn hóa nguyệt san,
Bách khoa, Phổ thông, Tư tưởng v.v..., thỉnh thoảng vẫn có
những nghiên cứu về lễ hội, lễ tiết v.v... Có thể kể đến các bài
1 Báo Phong hóa số 99 năm 1934.
2 An Nam tạp chí số 19 năm 1931.
3 Trung Bắc chủ nhật số 9 năm 1940
4 Trung Bắc chủ nhật số 102 năm 1942.
5 Trung Bắc chủ nhật số 65 năm 1942.
6 Tạp chí Tri tân năm 1945, số 175-178
7 Xem Việt Nam văn hóa sử cương, tái bản, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr225-244.
8 Sđd, tr.234.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
20
viết của các tác giả như Bửu Kế với bài : Lễ tế xuân hay đám
rước thần nông (Bách Khoa, 1961), Những lễ tết đầu năm
(Bách Khoa, 1961), Đạm Quang với bài viết về hội đền Hùng
(Văn hóa nguyệt san, 1959), Tạ Thúc Khải viết về giỗ Hùng
Vương (Văn hóa nguyệt san, 1959), Nguyễn Ngu ý viết về hội
mùa xuân với đời sống tình cảm của Việt Nam (Bách Khoa,
1962), Phong An viết về nghi thức cúng đình (Hồn nước, 1971),
Thái Bạch viết về kỷ niệm Thánh Gióng (Văn hóa nguyệt san,
1960), Thái Văn Kiểm viết về các lễ tiết (Văn hóa nguyệt san,
1960), Lê Văn Hảo viết về cổ tục của người Việt qua hội mùa
(Đại học, 1964). Lễ hội của các dân tộc ít người cũng được chú
trọng giới thiệu. Lê Hương viết về lễ Ok om bok (Phổ thông,
1967), Nguyễn Trắc Dĩ viết về tục thưởng xuân của đồng bào
Thượng (Tập san Sử Địa, 1967), Nguyễn Bạt Tụy viết về Tết
của người Dao Mường (tạp chí Phương Đông, 1973). Bên cạnh
các tác giả viết về các lễ hội cụ thể, Nguyễn Toại viết một bài
nghiên cứu đáng lưu ý về lễ hội cổ truyền đăng trên Nghiên cứu
Việt Nam: Nhớ lại hội hè đình đám1. Tác giả không dừng ở một
lễ hội nào cụ thể, mà trình bày những nét khái quát về lễ hội cổ
truyền. Tác giả đi từ việc thờ phụng phúc thần và thành hoàng
ở các làng quê đến việc tìm hiểu nghi thức cúng tế, trò diễn, trò
rước của các lễ hội ở làng quê. Mặc dù tác giả viết rõ đó "là
một vài ký ức về đình làng, về hội hè đình đám" 2 nhưng bài
viết vẫn là một bài nghiên cứu đáng quan tâm trong các công
trình nghiên cứu về lễ hội cổ truyền ở miền Nam trước năm
1975.
Trong số các tác giả ở miền Nam từ năm 1954 đến năm
1975 sưu tầm nghiên cứu về lễ hội cổ truyền, có hai tác giả
đáng lưu ý. Thứ nhất là Nguyễn Đăng Thục. Thật ra, ông không
chuyên sưu tầm nghiên cứu về lễ hội cổ truyền mà ông xem lễ
hội cổ truyền như một phương tiện để tìm hiểu tư tưởng Việt
Nam. Năm 1965, trên Văn hóa nguyệt san, ông đã viết về văn
1 Nhà sùng chính Huế, niên san 1973, tập 1.
2 Bđd, tr.47.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
21
hóa đình làng, đến năm 1973, trên tạp chí Tư tưởng, ông lại trở
lại với đề tài này. Sau khi giới thiệu về đình làng thông qua
nhận định của các học giả khác, ông đã miêu thuật khá cặn kẽ
điện thần của đình làng cũng như hội hè đình đám. Trình tự các
nghi thức ở đình làng trong ngày lễ hội được miêu tả khá chi
tiết. Ông đã dẫn những ý kiến xác đáng của L.Cadière về tôn
giáo tín ngưỡng của người Việt để phân tích các tín ngưỡng
gắn liền với các lễ hội. Vẫn nhất quán với cách tiếp cận của
mình, khi viết về tư tưởng bình dân Việt Nam trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam, ông vẫn dành những trang khá lớn để nói về
lễ hội cổ truyền, phục vụ cho sự phân tích tư tưởng bình dân
Việt Nam, như Mùa xuân với đời sống tình cảm Việt Nam, Trẩy
hội hành hương1.
Nếu như Nguyễn Đăng Thục coi lễ hội cổ truyền là
phương tiện để ông tiếp cận lịch sử tư tưởng Việt Nam thì Toan
ánh lại coi lễ hội cổ truyền là mục đích tiếp cận, đối tượng miêu
tả và nghiên cứu của ông. Sinh ra trên đất Bắc, những năm
sống ở miền Nam trước 1975, viết về lễ hội cổ truyền, với Toan
ánh còn như một cơ hội để đánh thức những kỷ niệm xưa cũ
về quê hương của mình, như tác giả đề từ: "Kính dâng anh hồn
thân phụ để kỷ niệm những ngày thơ ấu thân phụ thường dắt
con đi xem những hội quê tỉnh Bắc" 2. Năm 1960, trên Văn đàn
tuần san, ông đã viết về hội hè và phong tục mùa thu. Năm
1969, quyển thượng cuốn Nếp cũ hội hè đình đám ra mắt bạn
đọc, năm 1974, quyển hạ của cuốn sách này ra mắt bạn đọc.
Ngoài những phần khảo cứu, ông tập trung miêu thuật các lễ
hội cổ truyền trên mọi miền đất nước. Với 54 lễ hội cổ truyền,
Nếp cũ hội hè đình đám của ông là bộ sưu tập đầu tiên, dày
dặn về lễ hội cổ truyền Việt Nam. Riêng phần khảo cứu, Toan
ánh miêu thuật khá cặn kẽ nhiều trò diễn của các lễ hội qua các
mục như: hội hè đình đám là gì, mục đích của hội hè đình đám,
1 Xin xem Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1992, từ trang
122-177. 2 Quyển thượng, Nam chi tùng thư, xb, S, 1969, quyển hạ, tác giả xb, S, 1974.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
22
thời gian mở hội, rước, tế gia quan, hèm, những trò giải trí
v.v...1. Ông lại dành chương thứ tư để đề cập các trò diễn của
các lễ hội mà ông gọi là Những đặc tính của các cổ tục2 với các
mục luyến ái tính, khác với hội hè đình đám, chiến đấu tính
v.v... Bởi vậy, có thể nói Toan ánh là người có đóng góp rất lớn
vào công việc sưu tầm và nghiên cứu lễ hội cổ truyền Việt
Nam.
ở miền Bắc, từ sau năm 1954, việc sưu tầm và nghiên
cứu lễ hội cổ truyền có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau
năm 1975. Trước năm 1975, việc sưu tầm nghiên cứu lễ hội cổ
truyền chưa được giới nghiên cứu quan tâm nghiên cứu. Một
phần do chính sự phát triển của đối tượng nghiên cứu. Những
năm 1954-1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đòi hỏi
chúng ta phải tập trung sức người sức của cho sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mặt khác, do nhiều tác
động của chiến tranh, cho nên lễ hội cổ truyền tạm lắng xuống.
Phải chăng vì thế mà việc sưu tầm nghiên cứu lễ hội cổ truyền
cũng chưa phát triển lắm.
Sớm nhất trong số các công trình sưu tầm nghiên cứu về
lễ hội cổ truyền sau 1954 ở miền Bắc, phải kể đến bài viết của
cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi: Một số tục cổ và trò chơi của
người Việt Nam trong Tết nguyên đán và mùa xuân3. Người có
nhận xét một cách bao quát về lễ hội cổ truyền ở miền Bắc vào
thời điểm này là giáo sư Nguyễn Hồng Phong. Tiếp cận từ góc
dân tộc học, khi nghiên cứu xã thôn Việt Nam, giáo sư Nguyễn
Hồng Phong khi đề cập về sinh hoạt cộng đồng ở xã thôn, đã
có những nhận xét về lễ hội cổ truyền 4. Tác giả nhận xét. "Hội
hè ở nông thôn nước ta ngày xưa cũng đều có tính chất vừa
giải trí vừa tín ngưỡng. Và ở hội hè nào thì cũng có tính chất
giải trí hoặc tín ngưỡng, nhiều hay ít là tùy từng loại. Song dù
1 Xin xem Nếp cũ hội hè đình đám quyển hạ, tác giả xuất bản, S, 1974, từ tr. 9-35.
2 Sđd, từ tr. 227-344.
3 Tập san Nghiên cứu Văn Sử Địa số 37, 1958 (từ tr 5-7).
4 Xin xem Xã thôn Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959, từ tr. 201-218.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
23
loại nào thì hội hè cũng có tác dụng giải trí, có nội dung giải trí.
Do đó, ý nghĩa của hội hè cũng có khác nhau, có thứ xuất phát
từ yêu cầu giải trí như các hội mùa xuân ở nông thôn, có cái thì
xuất phát từ yêu cầu tín ngưỡng - cái tín ngưỡng này nói chung
là lành mạnh - như hội chùa Keo, hội đền Kiếp Bạc, hội chùa
Hương, hội Phủ Giày, hội đền Hùng v.v... tiến hành ngoài phạm
vi của từng thôn"1. Đó là một nhận xét đúng. Mặt khác, tác giả
có phân tích các thành tố của lễ hội từ sinh hoạt và biểu diễn
văn nghệ, các trò chơi và chỉ ra các mặt tiêu của hội hè như:
"cuốn người nông dân vào những tổ chức tế tự lãng phí rất
nhiều thì giờ và tiền của"2, về "mặt tinh thần thì ngày hội cũng
là một dịp để bọn làm nghề tôn giáo tuyên truyền cho tôn giáo,
bọn làm nghề mê tín (đồng bóng... thầy bói, thầy tướng, xem
thẻ...) tăng cường hoạt động" 3. Điều đáng lưu ý là tác giả đã
nhìn sự tồn tại của lễ hội với các thành tố riêng biệt nên không
thấy được sự gắn kết giữa các thành tố với nhau, cũng như các
lớp văn hóa lắng đọng trong lễ hội cổ truyền.
Vẫn tiếp cận từ góc độ dân tộc học, các nhà nghiên cứu
khi nhìn nhận thời Hùng Vương, đã không quên nghiên cứu về
lễ hội thời kỳ này. Trong cuốn Thời đại Hùng vương 4, PGS Lê
Văn Lan đã viết một số trang về hội lễ thời kỳ này. Ông miêu
thuật một cách đơn giản một số trò diễn như tục đánh trống
đồng, đánh cồng, múa nhảy và ca hát, giã cối và bơi thuyền và
những hoạt động trên sông nước, kể chuyện dân gian theo
nghi thức để đi tới nhận xét: "Ngày hội lễ ở thời Hùng Vương
như vậy là một dịp sinh hoạt văn hóa tinh thần quan trọng và
đặc sắc. Nó gồm có nhiều hình thức phong phú và độc đáo. Đó
là những ngày hội làng" 5. Trong khi đó, viết về Hà Nội, GS
Trần Quốc Vượng và nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Sán đã viết về
1 Sđd, tr.203-204.
2 Sđd, tr.215.
3 Sđd, tr.216.
4 Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn Lan, Nguyễn Đổng Chi, Hoàng Hưng, Nxb Khoa học xã
hội , Hà Nội, in lần 1 (1973), in lần 2 (1976). 5 Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, 1975, từ tr. 259 - 282.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
24
những lễ hội của Hà Nội xưa ở phần 6: sinh hoạt văn hóa ở
Thăng Long buổi Lý Trần của cuốn sách Hà Nội nghìn xưa. Các
tác giả đã trình bày những lễ tiết của Thăng Long buổi ấy và có
những kiến giải khá xác đáng: "Tắm tượng, lễ mộc dục, không
chỉ dành riêng số tượng Phật mà với cả tượng và bài vị thánh
thần... Lễ mộc dục này, dù đã bị Phật giáo hóa và Đạo giáo
hóa, vẫn hé mở cho ta thấy cội nguồn xa xưa từ những lễ thức
cầu mưa" 1.
Cũng trước năm 1975, có một tác giả đã trở lại viết về
hội Gióng, nhưng là ở một góc tiếp cận khác, so với Nguyễn
Văn Huyên trước cách mạng tháng Tám. Đó là nhà nghiên cứu
đã quá cố Cao Huy Đỉnh với tác phẩm Người anh hùng làng
Dóng. Quả tình "ở những năm 60, khi mà không ít người
nghiên cứu văn học dân gian vẫn còn nhìn folklore ngôn từ
bằng con mắt văn học từ giác độ văn học, Cao Huy Đỉnh đã
kiên trì một phương pháp làm việc: đặt tác phẩm văn học dân
gian vào môi trường nảy sinh ra nó mà khảo sát"2. Với phương
pháp ấy, Cao Huy Đỉnh đã dành chương III: Hội Dóng và nghệ
thuật diễn xướng anh hùng ca cho việc nghiên cứu để tìm được
"sự chuyển hóa thường xuyên từ nghệ thuật truyện kể sang
nghệ thuật diễn xướng" có tính chất tổng hợp và ngược lại3.
Tác giả đã miêu thuật khá trọn vẹn diễn trình của hội Dóng
nhưng để phục vụ cho việc tiếp cận hình tượng người anh
hùng làng Dóng của mình.
Sau năm 1975, việc nghiên cứu, sưu tầm về lễ hội cổ
truyền như có một bước phát triển mới. Vẫn tiếp cận từ góc độ
dân tộc học, Lê Thị Nhâm Tuyết công bố liên tục chùm bài về lễ
hội cổ truyền trên tạp chí Dân tộc học. Tác giả đi từ vị trí lịch sử
của hội làng đến các loại hình của hội làng trước cách mạng
tháng Tám năm 1945 và hội làng trung du. Những nhận định
1 Sđd, tr. 273.
2 Các tác gia nghiên cứu văn hóa dân gian, Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nxb KHXH, Hà
Nội, 1995, tr. 130. 3 Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997, tr 498.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
25
của tác giả là chính xác. Chẳng hạn về địa điểm mở hội: "Hội
làng thường lấy đình làm cơ sở. Đấy là nơi thờ thành hoàng.
Và nhiều người đã nghĩ đến sự đồng nhất giữa hội làng và tín
ngưỡng thành hoàng: Hội làng chính là nghi thức biểu đạt quan
niệm của dân làng về thần thành hoàng làng. Nhưng có không
ít hội làng lại chẳng lấy đình làm nơi mở hội. Ngôi chùa làng
mới là cơ sở của hội làng ở khá nhiều nơi... Và cũng còn nhiều
nơi nữa, không dùng đình, cũng không chọn chùa, mà lại lấy
đền làm nơi mở hội làng" 1. Tác giả cũng đưa ra quan niệm về
sự phân loại hội làng trước cách mạng tháng Tám năm 1945
của mình. Đồng thời, như chưa bằng lòng ở kết quả nghiên
cứu của mình, tác giả viết: 'Chính vì vậy mà vấn đề hội làng
cần phải được xem xét với cái nhìn vừa lịch đại (nghiên cứu hội
làng trong lịch sử) vừa đồng đại (nghiên cứu loại hình hội làng)" 2. Sau này, trên Tạp chí Văn hóa dân gian (số 1-1984 và số
1/1985), tác giả cô gọn những ý kiến của bản thân đã công bố
trên tạp chí Dân tộc học bằng tiểu luận: Nghiên cứu về hội làng
của người Việt. Tác giả đã đi từ quan niệm về hội làng của bản
thân để phác họa sự biến đổi của hội làng qua các thời kỳ lịch
sử, trên cơ sở ấy mà khẳng định giá trị của hội làng.
Năm 1978, các tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần
Linh Quý công bố cuốn Quan họ nguồn gốc và quá trình phát
triển3. Tiếp cận từ góc độ của folklore học, tác giả Đặng Văn
Lung đã miêu thuật một số lễ hội, chủ yếu là các lễ hội liên
quan đến quan họ như hội Lim, hội ó, hội Nhồi, hội Bùi và các
lối hát quan họ như hát trùm đầu, hát cầu đảo, hát hiếu, hát kết
chạ, khía cạnh tác giả quan tâm là việc nghiên cứu nguồn gốc
và quá trình phát triển của dân ca quan họ mà các lễ hội chỉ là
phương tiện để tác giả chứng minh cho lễ hội của mình. Nói
khác đi là, lễ hội không là đối tượng nghiên cứu của tác giả
trong công trình này.
1 Tạp chí Dân tộc học số 1-1976, tr.48.
2 Tạp chí Dân tộc học số 2-1976, tr.23.
3 Nxb KHXH Hà Nội, 1978.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
26
Năm 1981 trong khuôn khổ của loại sách đất nước, con
người, Tô Nguyễn - Trịnh Nguyễn cho ra mắt bạn đọc cuốn
Kinh Bắc - Hà Bắc1. Các tác giả có dành một chương cho lễ
hội cổ truyền ở Hà Bắc với sự phân loại thành 6 loại: loại hội hè
liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp cổ truyền; loại hội mùa
biểu hiện các hình thức thượng võ; loại hội hè liên quan đến
các anh hùng dựng nước, giữ nước và nhân vật lịch sử; loại hội
văn hóa; loại hội chùa; và những hội hè tế lễ ở các làng mang
màu sắc Đạo giáo. Thực ra, cách phân loại của các tác giả
chưa thật khoa học, nhưng những trang viết về hội hè Hà Bắc
của các tác giả vẫn là những trang đầu tiên viết về lễ hội cổ
truyền ở phạm vi một vùng đất.
Bắt đầu từ những năm 80, tác giả Thu Linh đã có nghiên
cứu về lễ hội cổ truyền, Trên tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ
thuật, (số 2-1982), tác giả xác định Hội là một hình thức sinh
hoạt văn hóa truyền thống. Sau đó, năm 1983, cùng nghiên
cứu với tác giả Đặng Văn Lung, chị công bố chuyên luận Lễ hội
truyền thống và hiện đại2. Với sáu chương: Mấy nét về quá
trình phát triển của hội (chương 1), Đặc trưng và chức năng
của hội (chương 2), Cấu trúc hội (chương 3). Hội và đời sống
(chương 4), Hội trong thời đại chúng ta (chương 5), Tìm hiểu
phương pháp tổ chức hội (chương 6), hai tác giả Thu Linh và
Đặng Văn Lung đã có những đóng góp nhất định vào việc
nghiên cứu lễ hội. Bởi lẽ, đây là một trong không nhiều chuyên
luận về lễ hội được công bố sớm nhất trong tiến trình sưu tầm,
nghiên cứu về lễ hội ở Việt Nam. Đáng tiếc là các tác giả đồng
nhất hai phạm trù lễ hội cổ truyền và lễ hội đương đại và nên
không tập trung vào giải mã những vấn đề cần giải mã của lễ
hội dân gian. Và việc đi tìm một kịch bản cho lễ hội cổ truyền là
không sát với đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
1 Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1981.
2 Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1984.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
27
Khác với góc tiếp cận của các tác giả Lê Thị Nhâm
Tuyết, Thu Linh và Đặng Văn Lung, kiên trì quan điểm của
mình về tên gọi của đối tượng nghiên cứu nghiên cứu là hội lễ,
GS Đinh Gia Khánh tiếp cận lễ hội cổ truyền như một thành tố
văn hóa dân gian (folklore). Trong loạt bài nghiên cứu về các
thành tố: nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, năm 1982
ông đề cập đến ý nghĩa xã hội và văn hóa của hội lễ văn hóa
dân gian 1. Bốn năm sau khi xuất bản cuốn Trên đường tìm
hiểu văn hóa dân gian, ông đặt hội lễ dân gian trong tương
quan với các thành tố khác như ngữ văn dân gian, nghệ thuật
tạo hình dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian. Phân biệt với
các thành tố khác, giáo sư cho rằng hội lễ là "thời điểm mạnh
trong sinh hoạt cộng đồng". Phải thừa nhận rằng, đây là ý kiến
đã chỉ ra được chính xác đặc trưng lễ hội cổ truyền. Chương
viết về lễ hội trong cuốn sách này của giáo sư quả có sức khái
quát cao về lễ hội cổ truyền 2. Cùng với GS Đinh Gia Khánh,
trước năm 1975, khi viết về Hà Nội nghìn năm văn hiến, GS
Trần Quốc Vượng đã viết về lễ hội cổ truyền. Năm 1978 trên
tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, ông lại viết về hội hè
dân gian với làng quê đổi mới. Năm 1986, trên tạp chí Văn hóa
dân gian, ông đặt vấn đề tiếp cận lễ hội từ một cái nhìn tổng
thể. Ông khẳng định chúng ta "chỉ có khả năng đề cập đến
những lễ hội hiện hữu từ thời nông nghiệp" 3 và từ đó đi đến
quan niệm: "lễ hội là một sản phẩm và một biểu hiện của một
nền văn hóa" 4.
Trong những năm trước 1980, ngoài những tác giả trên
còn có một số tác giả khác viết về lễ hội cổ truyền như Nguyễn
Huy Hồng viết về hội chùa Keo (1977), Nguyễn Quốc Lộc viết
về hội Hiền (1977), Dương Văn Thâm viết về trò Trám (1974),
hội đánh cá Láng Thờ (1976), Nguyễn Hữu Thu viết về hội hát
chèo tàu (1975) rồi hội mùa xuân hát thổi cơm thi (1982), 1 Tạp chí Văn hóa dân gian số 1-1985.
2 Xem Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà Nội, 1989, từ tr. 171-191.
3 Tạp chí Văn hóa dân gian số 1-1986, tr. 3.
4 Bđd trang 4.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
28
Nguyễn Khắc Xương viết về một số diễn xướng hội làng về
vùng chân núi Hùng (1976) v.v...
Trước năm 1985, nhìn nhận những công trình sưu tầm,
nghiên cứu lễ hội cổ truyền không thể không đề cập đến những
trang miêu thuật về hội làng ở Hà Bắc (nay là hai tỉnh Bắc Ninh,
Bắc Giang) của tác giả Trần Linh Quí trong công trình Địa chí
Hà Bắc 1. Tác giả đã miêu thuật một cách phác thảo các hội
làng ở Hà Bắc từ các trò diễn: rước, thi đốt pháo, thi cướp cầu,
ném cầu trong ngày hội đến các tục lệ khác như thi đọc mục
lục, hát quan họ v.v... Đây là công trình địa chí sớm nhất trong
các công trình địa chí về các tỉnh thành của nước ta được công
bố sau năm 1954. Thành ra, những trang viết về lễ hội Hà Bắc
cũng là vào loại sớm trong các công trình sưu tầm, nghiên cứu
lễ hội cổ truyền. Sau năm 1985, tình hình sưu tầm, nghiên cứu
lễ hội cổ truyền như bừng lên với một luồng sinh khí mới. Lễ
hội cổ truyền được khôi phục và phát triển trở lại. Thực tiễn ấy
đòi hỏi công tác sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ truyền phải phát
triển ở các tạp chí khoa học, sau năm 1985, số lượng các công
trình sưu tầm nghiên cứu về lễ hội cổ truyền được công bố
tăng rất nhanh.
Nếu trước năm 1985, tạp chí Nghiên cứu Văn hoá nghệ
thuật (nay là tạp chí Văn hoá nghệ thuật) chỉ có 2 bài viết
nghiên cứu về lễ hội cổ truyền thì từ năm 1986 đến năm 1998,
tạp chí này đã công bố 66 bài viết nghiên cứu, miêu thuật về lễ
hội cổ truyền. Bạn đọc gặp ở đây những bài miêu thuật về lễ
hội cổ truyền cụ thể như bài của Trịnh Minh Hiên viết về hội
chọi trâu Đồ Sơn, của Vũ Kim Biên về lễ hội đền Hùng xưa, của
Nguyễn Đức Minh về lễ hội Long Chu ở Hội An, của Nam
Phong - Hữu Bình về lễ hội đầm Ô Loan, của Nguyễn Tứ Hải
về lễ hội cầu ngư ở Khánh Hoà v.v... Mặt khác, số lượng các
bài nghiên cứu về lễ hội cổ truyền cũng được công bố khá
1 Nhiều tác giả, Ty Văn hóa và Thông tin, Thư viện tỉnh xuất bản, 1982, chỉ đạo biên soạn
Lê Hồng Dương, từ tr.555-579.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
29
nhiều. Đáng chú ý là những bài viết sâu sắc về lễ hội cổ truyền
như bài: Từ một vài trò diễn trong lễ hội làng của PGS Nguyễn
Từ Chi; bài: Những giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền và nhu
cầu của xã hội hiện đại của PGS, TS Ngô Đức Thịnh .v.v...
ở tạp chí Văn hoá dân gian, từ năm 1983 đến năm 19971
có 180 bài viết cả miêu thuật lẫn nghiên cứu về lễ hội cổ truyền
được công bố thì số lượng bài công bố sau năm 1985 là 155
bài. Nhiều công trình tập trung miêu thuật lễ hội vụ thể như TS
Lê Hồng Lý với Hội Trường Yên và cố đô Hoa Lư, Nguyễn Thị
Hiền với lễ hội đền hoá Dạ Trạch, TS Bùi Xuân Đính với hội
chùa Tam Sơn, TS Huỳnh Văn Tới với lễ hội Dinh Cô .v.v...
Nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc về lễ hội dân gian được
công bố như Hội lễ dân gian truyền thống trong thời hiện đại
của GS Đinh Gia Khánh, Phác thảo lịch sử lễ hội của người Việt
ở Bắc Bộ của PGS, TS Nguyễn Xuân Kính .v.v... Năm 1986,
cuốn Địa chí văn hóa dân gian vùng đất tổ 2 ra mắt bạn đọc.
Tác giả Nguyễn Khắc Xương trong chương Trò diễn hội làng 3,
tác giả Lê Trung Vũ và Nguyễn Lợi trong chương Lễ thức trong
sinh hoạt xã hội và gia đình 4 đã phác họa những nét chính của
lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phú. Không dừng lại miêu thuật một lễ
hội nào trọn vẹn mà các tác giả miêu thuật các loại trò diễn
trong các lễ hội cổ truyền. Âu đó cũng là một đóng góp đáng
quí.
Cũng thời điểm này, ngành văn hóa thông tin Hà Bắc tổ
chức một cuộc hội thảo khoa học về lễ hội cổ truyền Hà Bắc
vào ngày 11-11-1986. Hội thảo đã thu hút các nhà nghiên cứu
như GS Đặng Nghiêm Vạn, PGS Lê Trung Vũ, PGS, TSKH
Phan Đăng Nhật, PGS, TS Phan Khanh, các TS Trần Đình
Luyện, Lê Hồng Lý, Lê Văn Kỳ, các cán bộ nghiệp vụ ở địa
1 Theo thống kê của tạp chí Văn hoá dân gian các năm 1983 - 1992, 1993 - 1994, 1995,
1996 - 1997. 2 Chủ biên Ngô Quang Nam, Xuân Thiêm, Sở Văn hoá Thông tin Vĩnh Phú, 1986.
3 Sđd từ tr. 211 - 256.
4 Sđd, từ tr. 267 - 300.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
30
phương như Nguyễn Quang Khải, Trần Thái v.v... Nội dung của
cuộc hội thảo không chỉ dừng lại những vấn đề về lễ hội cổ
truyền Hà Bắc mà còn mở rộng đến các vấn đề như quan niệm
và thực tế ở các nước xã hội chủ nghĩa anh em, về công tác, tổ
chức, chỉ đạo và quản lý các ngày hội trong giai đoạn hiện nay.
Đáng tiếc, có lẽ do thời gian chuẩn bị chưa cặn kẽ nên các
tham luận chưa phải là sâu sắc. Dầu vậy, nối tiếp công việc ấy,
năm 1989, Sở Văn hóa Thông tin Hà Bắc lại xuất bản cuốn Hội
xứ Bắc (tập II) với việc miêu thuật ba lễ hội: hội Lim, hội pháo
Đồng Kỵ, hội làng Đình Bảng. Thực ra, so với một vùng đất
từng là trung tâm sinh tụ của người Việt, việc miêu thuật các lễ
hội ở Hà Bắc thực ra còn quá ít ỏi, chưa phản ánh đúng diện
mạo của lễ hội cổ truyền nơi đây.
Năm 1988, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc cho ra mắt bạn
đọc cuốn Lễ hội Khơ me Nam Bộ của tác giả Sôrya. Tác giả đã
miêu thuật lễ hội Chol Chnam thmây, lễ Oc Omboc và ngày hội
đua ghe ngo, lễ cưới, lễ Đôn ta và lễ tang. Mặc dù tác giả chưa
có sự giải mã hay nghiên cứu mà chỉ dừng ở mức độ miêu
thuật, nhưng đến nay, đây vẫn là tác phẩm duy nhất miêu thuật
lễ hội cổ truyền Khơ me Nam Bộ.
Năm 1988, tác giả Tôn Thất Bình cho công bố những
sưu tập của mình về lễ hội dân gian Bình Trị Thiên. Ngoài tiểu
luận Vài nét về văn nghệ dân tộc Bình Trị Thiên 1, tác giả đã
miêu thuật 8 lễ hội dân gian ở Bình Trị Thiên 2. Đáng tiếc là tác
giả không phân định các hình thức diễn xướng dân gian và lễ
hội cổ truyền. Thành thử đóng góp của công trình vào tiến trình
sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ truyền chưa được là bao.
Năm 1989, nhà xuất bản Thể dục thể thao xuất bản cuốn
Trò chơi xưa và nay 3. Nhìn các trò diễn của các lễ hội trong
diện mạo trò chơi dân gian Việt Nam, các tác giả đã miêu thuật
1 Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên, từ tr. 9-39.
2 Sđd từ tr. 40-160.
3 Chủ biên Mai Văn Muôn, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, tập I, 1989.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
31
khá nhiều trò diễn trong lễ hội cổ truyền Việt Nam như trò chen
(Nga Hoàng, Hà Bắc), trò bắt chạch trong chum v.v... Lần đầu
tiên, lịch lễ hội cổ truyền ở một số địa phương đã được các tác
giả sắp xếp và hoàn chỉnh với các thông tin, tên hội, huyện, tỉnh
và các trò đặc sắc.
Năm 1990, Văn phòng Ban nếp sống mới trung ương tổ
chức xuất bản cuốn Hội hè Việt Nam 1. Ngoài lời mở đầu, lịch
hội Việt Nam, du lịch và hội hè Việt Nam, tập sách miêu thuật
18 lễ hội cổ truyền, trong đó có 16 lễ hội phía Bắc, 2 lễ hội phía
Nam cùng bài viết những phong tục đẹp và hội hè của một số
dân tộc ít người. Việc miêu thuật của các tác giả, thật ra không
có gì mới mẻ về mặt tư liệu so với các thế hệ trước đã miêu
thuật.
Năm 1991, Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình, xuất bản
cuốn Hội lễ dân gian ở Thái Bình của các tác giả Phạm Minh
Đức, Phạm Thị Nết, Phạm Thị Lan, cuốn sách có hai phần:
phần một là bài viết Những ghi nhận bước đầu về hội lễ dân
gian ở Thái Bình và phần hai là 17 bài miêu thuật về 17 lễ hội ở
Thái Bình cùng phần ba là lịch hội Thái Bình. Có thể nói, Thái
Bình là tỉnh đầu tiên ở châu thổ Bắc Bộ có được một tập sách
miêu thuật các lễ hội cổ truyền trong tỉnh. Mặc dầu so với tiềm
năng lễ hội cổ truyền của tỉnh còn khá nhiều lễ hội cổ truyền
khác nữa. Với con số thống kê của tác giả Nguyễn Thanh, Thái
Bình có 49 lễ hội cổ truyền 2, thì 17 lễ hội cổ truyền được miêu
tả quả là chưa đầy đủ.
Trong khi đó, năm 1991, sở Khoa học công nghệ và môi
trường Hà Nội cho thực hiện đề tài khai thác những yếu tố tích
cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực của lễ hội dân gian truyền
thống, định hướng một mô hình lễ hội hiện đại ứng dụng thể
nghiệm vào tình hình lễ hội hiện nay đang được phục hồi nhanh
chóng ở thủ đô Hà Nội do ông Nguyễn Vinh Phúc làm chủ
1 Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1990.
2 Xem Nhận diện văn hóa làng Thái Bình, Sở VHTT và TT Thái Bình, 1998, từ tr. 186-200.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
32
nhiệm đề tài. Do địa giới Hà Nội hồi ấy nên các tác giả miêu
thuật 8 lễ hội, mà đến nay, có những lễ hội thuộc về Hà Tây
hay Vĩnh Phúc. Bài tổng luận của đề tài này của hai tác giả
Nguyễn Vinh Phúc và Lê Văn Lan sau này được xuất bản trong
cuốn Tìm hiểu di sản văn hóa dân gian Hà Nội 1 cùng bài viết
về Hội Gióng của GS Trần Quốc Vượng: Căn bản triết lý người
anh hùng Phù Đổng và hội Gióng 2.
Cũng năm 1991, công trình Địa chí văn hóa dân gian
Thăng Long - Đông Đô- Hà Nội, do GS Đinh Gia Khánh và ông
Trần Tiến chủ biên được ra mắt bạn đọc. Mặc dù công trình
không dành một chương để viết về lễ hội dân gian, nhưng ở
chương Trò chơi và trò diễn dân gian, các tác giả có dành một
mục để viết về các hội thi tài của người dân Thăng Long mà
các tác giả xếp vào mục Trò chơi dân gian. Cũng ở chương
này, tác giả lại dành một mục để viết về các trò diễn dân gian,
trong đó có các trò: rước thần An Dương Vương, diễn trận
Thánh Gióng diệt giặc Ân, rước thánh Trèm. Ngoài ra, trong
chương Lễ thức và phong tục, các tác giả có một mục những lễ
hội dân gian với việc miêu thuật 30 lễ hội trên địa bàn Hà Nội.
Thực ra, con số này bao hàm cả những lễ hội mà theo địa giới
hiện nay không còn thuộc Hà Nội nữa, cho nên chưa thể nói
rằng con số ấy đã là tất cả các lễ hội cổ truyền Hà Nội.
Năm 1991, các tác giả Ngô Đức Thịnh, Đỗ Hồng Kỳ, Tô
Đông Hải đã hoàn thành công trình khoa học Văn hoá dân gian
M'nông do PGS, TS Ngô Đức Thịnh làm chủ biên. Chương Lễ
hội dân gian M'nông 3của cuốn sách này do tác giả Tô Đông
Hải đảm nhận. Tác giả đã từ hệ thống thần linh và những quan
niệm tín ngưỡng của người M'nông mà đề cập đến những hệ
thống lễ nghi: lễ nghi nông nghiệp, lễ nghi vòng đời người, nghi
lễ gia đình và nghi lễ cộng đồng. Việc miêu thuật của tác giả thì
1 Nxb Hà Nội, 1994.
2 Sđd, tr. 203-225.
3 Sở Văn hoá Thông tin Đắc Lắc, in lần 2, 1995
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
33
khá cặn kẽ, nhưng việc giải mã giá trị văn hóa của lễ hội ở đây
thì đáng tiếc, tác giả chưa làm được là bao.
Năm 1992 có thể nói là năm đánh dấu những cột mốc
trên tiến trình nghiên cứu lễ hội cổ truyền. Sau hai năm 1990 -
1991 biên soạn, năm 1992, công trình Lễ hội cổ truyền của
người Việt ở Bắc Bộ 1 do PGS Lê Trung Vũ làm chủ biên ra mắt
bạn đọc. Công trình thu hút trí tuệ của các nhà khoa học như
PGS, TS Ngô Đức Thịnh, PGS, TSKH Phan Đăng Nhật, PGS,
TS Nguyễn Xuân Kính cùng TS Lê Văn Kỳ với 367 trang khổ 13
x 19 cm, các tác giả đã trình bày khá cặn kẽ về các vấn đề của
lễ hội cổ truyền từ vị trí của lễ hội trong đời sống tinh thần của
người Việt, môi trường tự nhiên, xã hội lịch sử của sự hình
thành lễ hội, lịch sử lễ hội của người Việt ở Bắc Bộ, đến nội
dung phản ánh của hội làng, cùng việc miêu thuật 9 lễ hội ở
châu thổ Bắc Bộ và lịch một số lễ hội cổ truyền của người Việt
ở Việt Nam.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về lễ hội cổ truyền, công trình
này là công trình nghiên cứu đầu tiên đã trình bày một cách đầy
đủ, trọn vẹn, khoa học về lễ hội cổ truyền, tuy rằng các tác giả
giới hạn địa bàn nghiên cứu của mình là châu thổ Bắc Bộ. Nói
cách khác, đây là một cột mốc mà các nhà nghiên cứu ở Viện
nghiên cứu văn hóa dân gian đã cắm được trên đường nghiên
cứu về lễ hội cổ truyền, một cột mốc mà không phải ai cũng dễ
dàng cắm được .
Công trình thứ hai được xuất bản trong năm 1992 là
cuốn Bảo tàng di tích lễ hội 2. Vốn là một luận án phó tiến sĩ
được in thành sách, tác giả dành 5 chương và một phụ lục để
tiếp cận vấn đề: chương 1 là chương khái quát sử liệu và vấn
đề đặt ra; chương 2 là chương Bảo tàng với khoa học và di sản
văn hóa dân tộc; chương 3 là chương một số vấn đề lý luận,
1 Nxb, KHXH, Hà Nội, 1992.
2 Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1992. Tên sách trang bìa lót lại là: Bảo tàng - di tích - lễ
hội, vấn đề bảo vệ di sản văn hóa dân tộc.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
34
thực tiễn bảo tàng di tích nước ta; chương 4 là chương Di tích,
lễ hội và cuộc sống. Chương 5 là các kịch bản lễ hội. Ngoài ra
là phụ lục: danh sách di tích lịch sử văn hóa, các lịch lễ hội
trong năm. Như vậy, lễ hội được tác giả dành cho một chương,
nhưng tác giả chỉ đề cập nó trong mối quan hệ với di tích và
vấn đề xây dựng nghi lễ, nghi thức cũng như kịch bản lễ hội ở
các di tích lịch sử. Đáng chú ý là các kịch bản lễ hội mà tác giả
đưa ra trong phần phụ lục. Các kịch bản này, đã được thực thi
trong cuộc sống, nhưng nó không là kịch bản có tính chất mẫu
mực của các lễ hội cổ truyền.
Cũng năm 1992, tác giả Sơn Nam công bố một cuốn
sách mỏng với nhan đề Đình miếu và lễ hội dân gian 1. Thực ra
lĩnh vực này không phải là quen thuộc với nhà văn biên khảo
Sơn Nam. Với hơn 60 trang sách khổ 13 x 19, tác giả chia cuốn
sách của mình thành tám chương, cùng một phụ lục Đình miễu
ở đồng bằng sông Cửu Long của tác giả Trương Ngọc Tường,
để giải quyết vấn đề theo kiểu biên khảo. So với những bút ký
biên khảo của ông như Hương rừng Cà Mau, Văn minh miệt
vườn, Đồng bằng sông Cửu Long, những nét sinh hoạt xưa
v.v..., hình như lĩnh vực này không phải là sở trường của ông
nên cuốn sách thật ra chưa đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu
và những điều tác giả trình bày, thực ra, chưa có gì mới mẻ
nếu không muốn nói là sơ sài về lễ hội dân gian.
Năm 1993, các tác giả Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng,
Lê Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam công bố cuốn Lễ cầu mùa của các
dân tộc ở Việt Nam 2. Đây vốn là kết quả của một công trình
khoa học cấp Bộ đã được nghiệm thu và đánh giá tốt do Trung
tâm châu á - Thái Bình Dương của trường Đại học tổng hợp
Hà Nội chủ trì, có sự hợp tác chặt chẽ của bộ môn dân tộc
thuộc khoa lịch sử của trường.
1 Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1992
2 Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1993.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
35
Các tác giả đã đề cập đến tục cầu mùa của người Kinh,
của vùng Việt Bắc - Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ cùng
vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, dù là những nét phác thảo,
nhưng tương đối bao quát về lễ cầu mùa của các dân nông
nghiệp ở các vùng trên.
Năm 1993, nhằm để chuẩn bị cho một qui chế lễ hội mới,
phù hợp với sự bùng nổ của lễ hội cổ truyền, thay thế qui chế
mở hội truyền thống ban hành kèm theo quyết định 54/VHQC
ngày 4-10-1989 của Bộ Văn hóa - Thông tin, Vụ Văn hóa quần
chúng và Thư viện, thuộc Bộ Văn hóa - Thông tin đã mở hội
thảo về lễ hội từ ngày 27 đến 29-6-1993 tại Hà Nội. Tại hội
nghị, các nhà quản lý và các nhà khoa học "đã bày tỏ và trao
đổi khá sôi nổi về nhiều khía cạnh khác nhau trong việc quản lý
lễ hội, cũng như các điều nên giữ, nên bỏ, thậm chí phải cấm
đoán khi tiến hành lễ hội" 1. Và ngày 21-5-1994, Bộ trưởng Bộ
Văn hóa - Thông tin đã ký quyết định số 636/QĐ-QC ban hành
Qui chế lễ hội. Cũng năm 1993, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội
tổ chức hội thảo khoa học về lễ hội cổ truyền với 38 tham luận
tham gia hội thảo. Một số đặc điểm của lễ hội Hà Nội, cũng như
một số vấn đề lý luận chung về lễ hội cùng thực tiễn một số lễ
hội Hà Nội đã được đề cập.
Cũng năm 1993, Viện khoa học xã hội Việt Nam đã tổ
chức hội thảo quốc tế "Lễ hội truyền thống trong đời sống xã
hội hiện đại". Với sự có mặt của 11 nhà khoa học nước ngoài,
25 nhà khoa học trong nước cùng 6 khách mời, hội thảo đã đề
cập đến nhiều khía cạnh khác nhau xung quanh lễ hội cổ
truyền và hiện đại Việt Nam và các nước Inđônêxia, Philippin,
Thái Lan, Trung Quốc, v.v... Có thể nói rằng, so với công trình
Lễ hội cổ truyền của Viện nghiên cứu văn hóa dân gian được
xuất bản năm 1992, hội thảo này là một cột mốc nữa mà giới
nghiên cứu văn hóa dân gian đã đạt được ở lĩnh vực nghiên
cứu lễ hội cổ truyền, với nhiều kiến giải khoa học sâu sắc.
1 Kỷ yếu hội nghị - hội thảo về lễ hội, Vụ VHQC và TV, Hà Nội, 1993, tr. 5.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
36
Năm 1993, lần đầu tiên bạn đọc được tiếp nhận cuốn Từ
điển hội lễ Việt Nam của tác giả Bùi Thiết 1. Với 403 lễ hội được
giới thiệu trong các mục từ, cuốn sách là một tập hợp đầu tiên
về lễ hội cổ truyền đã được giới thiệu tóm tắt. Giá như tác giả
khảo sát điền dã cặn kẽ hơn các lễ hội cổ truyền, chịu khó đối
chứng tư liệu để xác lập được các thông tin đúng thì cuốn sách
sẽ là một cuốn sách có giá trị về lễ hội cổ truyền Việt Nam. Rất
tiếc, tác giả chưa làm được điều ấy! Thành ra, giá trị khoa học
của cuốn sách không khỏi bị ảnh hưởng ít nhiều.
Năm 1995, sau một thời gian dài nghiên cứu và sửa
chữa nhiều lần, công trình Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh 2 do GS Nguyễn Đổng Chi làm chủ biên được công bố. Dưới
mục Hội diễn dân gian, PGS Vũ Ngọc Khánh đề cập đến lễ hội
dân gian với các loại: hội diễn nghề nghiệp, hội diễn kỷ niệm
với 17 lễ hội ở Nghệ Tĩnh. Các lễ hội này, được miêu thuật
trong khuôn khổ của một công trình dạng chí, là cứ liệu, chỉ báo
rất tốt cho những ai muốn nghiên cứu, sưu tầm lễ hội cổ truyền
ở đây sau này.
Năm 1995, TS Ngô Văn Doanh đã công bố công trình Lễ
hội bỏ mả (pơ thi) các dân tộc bắc Tây Nguyên (dân tộc Giarai -
Bana). Có thể nói, đây là công trình đầu tiên về lễ hội cổ truyền
của hai dân tộc Bana, Giarai ở Tây Nguyên. Thế nhưng, đây lại
là kết quả của một quá trình khảo sát điền dã chu đáo, tỉ mỉ và
khoa học của tác giả. Mặt khác, sự giới hạn vấn đề trong phạm
vi lễ bỏ mả khiến cho tác giả có điều kiện đi sâu vào từng vấn
đề của lễ hội này từ việc phân tích lễ bỏ mả - đỉnh điểm của
mùa lễ hội, rồi cái chết được hồi sinh, người sống được giải
phóng, những ngày hội diễn của nghệ thuật truyền thống, rồi
trình bày những giá trị độc đáo của lễ bỏ mả: từ bữa ăn, lời
cúng, đến tượng mồ, nhà mồ. Công trình còn dừng lại miêu
thuật lễ bỏ mả của các nhóm nhỏ của hai tộc người Bana,
1 Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1993
2 Nxb Nghệ An, Vinh, 1995. Quá trình biên soạn và sửa chữa này xin xem: Về việc biên
soạn Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh từ tr. 7 đến tr 8.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
37
Giarai ở Tây Nguyên. Có thể nói rằng, TS Ngô Văn Doanh đã
cắm một cột mốc không dễ gì vượt qua trên đường sưu tầm,
nghiên cứu lễ hội cổ truyền của các dân tộc ít người ở Tây
Nguyên.
Năm 1995, PGS Lê Trung Vũ công bố công trình Lễ hội
dân gian Ê đê 1. Đây là công trình đoạt giải nhất năm 1993
trong tặng thưởng hàng năm của Hội Văn nghệ dân gian Việt
Nam. Ngoài phần trình bày những tiêu đề, tác giả đã trình bày
các lễ hội của độc giả Ê đê theo vòng đời người, theo hệ thống
lễ nghi nông nghiệp cùng một số các lễ khác như lễ cúng bến
nước, lễ cầu no đủ, lễ hội Kơpan v.v... Tác giả đã miêu thuật
cặn kẽ và chân xác các lễ hội này. Bởi vậy, cho đến nay, công
trình này vẫn là công trình duy nhất có giá trị khoa học trong
việc sưu tầm, nghiên cứu lễ hội dân gian Ê đê.
Cũng về tộc người Ê đê, năm 1995, trong công trình Văn
hóa dân gian Ê đê 2 do PGS, TS Ngô Đức Thịnh làm chủ biên,
PGS Lê Trung Vũ lại trở lại đề tài này trong chương 6: Lễ thức
trong đời sống cá nhân và cộng đồng của công trình.
Cũng năm 1995, cùng với nhà nghiên cứu Thạch
Phương, PGS Lê Trung Vũ lại công bố công trình 60 lễ hội
truyền thống Việt Nam3. Đây là một công trình miêu thuật các lễ
hội cổ truyền của hai tác giả. Ngoài những phần như phàm lệ,
cùng bạn đọc, hai ông đã miêu thuật 43 lễ hội của người Việt,
17 lễ hội các dân tộc ít người. Đồng thời hai ông còn dành một
số phần để miêu thuật các hiện tượng theo hai ông quan niệm
là trò diễn, trò chơi (9 trò diễn và chơi), cuộc thi tài (10 hình
thức), để giới thiệu lịch 100 lễ hội và các câu ca hội hè. Sau bộ
Nếp cũ hội hè đình đám, cuốn sách này là bộ tập hợp miêu
thuật nhiều lễ hội cổ truyền nhất được ra mắt bạn đọc.
1 Nxb VHDT, Hà Nội, 1995.
2 Sở VHTT Đăk Lak xuất bản, 1995.
3 Nxb KHXH, Hà Nội, 1995.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
38
Năm 1995 khi đề cập vai trò của văn hóa dân gian Việt
Nam trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, GS Đinh Gia
Khánh đã dành một chương trình của cuốn sách Văn hóa dân
gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam1để đề cập
đến những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội
hiện nay.. Có thể nói ông đã trình bày khá đầy đủ quan niệm
của ông về lễ hội cổ truyền từ hội làng và các tôn giáo ngoại
lai, hội làng và tín ngưỡng bản địa đến ý nghĩa xã hội và văn
hóa của hội làng. Những nhận xét của ông có tác dụng định
hướng cho việc tiếp cận lễ hội cổ truyền. Chẳng hạn: "Hội làng
và tín ngưỡng gắn với hội làng là một biểu hiện của bản sắc
dân tộc ta. Bản sắc ấy không bị các tín điều và các biểu tượng
của các tôn giáo ngoại lai làm cho lu mờ đi. Ngược lại, các tín
điều, và các biểu tượng tôn giáo muốn có được ý nghĩa nào đó
trong xã hội nước ta thì phải hội nhập được vào bản sắc ấy".2
Năm 1996, Lê Văn Kỳ tiếp cận một khía cạnh của lễ hội
cổ truyền trong công trình: Mối quan hệ giữa truyền thuyết
người Việt và hội lễ về các anh hùng 3. Ngoài một phụ lục với 4
truyền thuyết, công trình vốn là một luận án phó tiến sĩ của tác
giả, bao gồm ba chương: Chương một đề cập đến truyền
thuyết với tư cách một thể loại văn học dân gian; chương hai
đề cập đến hội lễ Việt Nam với tư cách là một hình thức sinh
hoạt văn hóa cộng đồng đặc biệt. Chương ba đề cập mối quan
hệ giữa truyền thuyết và hội lễ về người anh hùng. Đấy là một
góc tiếp cận hẹp, do vậy, tác giả đã có những nhận xét xác
đáng về quan hệ giữa truyền thuyết và hội lễ về người anh
hùng4.
1 Xin xem Văn hoá dân gian Việt Nam với sự ttriển của xã hội Việt Nam Nxb CTQG, Hà
Nội, 1995 từ tr 74 đến tr 120. 2 Sđd, tr 111.
3 Nxb KHXH, Hà Nội, 1997.
4 Xem sđd, từ tr.100- 169.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
39
Cũng ở góc tiếp cận hẹp, năm 1997, Hà Hùng Tiến công
bố công trình Lễ hội và danh nhân lịch sử Việt Nam 1 với 4
chương sách và 1 phụ lục, tác giả đã đề cập đến nhiều khía
cạnh của vấn đề này. Đáng lưu ý là chương 4: Từ lịch sử dân
tộc đến danh nhân văn hóa và lễ hội hiện tại. Tác giả giới thiệu
12 lễ hội cổ truyền về các danh nhân văn hóa của Việt Nam từ
các vua Hùng đến Quang Trung. Rất tiếc là tác giả không tập
trung vào vấn đề đã dự kiến lựa chọn, mà dàn trải, thành ra,
các kết luận khoa học của tác giả chưa có gì đóng góp nhiều
lắm cho việc nghiên cứu lễ hội cổ truyền Việt Nam.
Trong khi đó, năm 1997, TS Tôn Thất Bình công bố
những khảo sát, sưu tầm của anh về lễ hội dân gian ở Huế
trong công trình Huế, lễ hội dân gian 2 có kế thừa công trình Lễ
hội dân gian Bình Trị Thiên trước đây. Lần này, tác giả tập
trung miêu thuật khá cặn kẽ các lễ hội dân gian Huế, từ lễ hội
tưởng niệm các vị khai canh, khai khẩn (19 lễ hội) đến lễ hội
các tổ sư ngành nghề (9 lễ hội), đến lễ hội theo tục lệ, cầu an
theo vụ mùa (9 lễ hội), đến lễ hội tín ngưỡng tôn giáo (9 lễ hội)
và lễ hội để tưởng nhớ các danh nhân anh hùng lịch sử (3 lễ
hội). Cùng với việc miêu thuật này, tác giả có một tiểu luận: Lễ
hội dân gian hiện nay ở Thừa Thiên Huế 3. Có thể nói, công
trình đã bao quát được diện mạo lễ hội dân gian ở vùng đất
một thuở là kinh kỳ của Việt Nam thời quân chủ.
Năm 1997, cùng với TS Nguyễn Hồng Dương, PGS Lê
Trung Vũ công bố cuốn Lịch lễ hội 4 với 387 lễ hội. Các lễ hội
đều được có những thông tin: địa điểm lễ hội, nhân vật phụng
thờ, trò diễn của lễ hội.v.v...
Có thể nói, đây là một tập tư liệu quí, có hệ thống về các
lễ hội ở Việt Nam, nhìn ở những nét căn bản nhất.
1 Nxb VHTT, Hà Nội, 1997.
2 Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế xuất bản, 1997.
3 Xin xem Huế, lễ hội dân gian, Sđd, từ tr.7-13.
4 Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1997.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
40
Từ một luận án phó tiến sĩ, năm 1998, tác giả Hồ Hoàng
Hoa công bố công trình Lễ hội, một nét đẹp trong sinh hoạt văn
hóa cộng đồng 1 . Tác giả không tiếp cận lễ hội cổ truyền từ
góc độ của khoa văn hóa dân gian mà đi sâu vào khía cạnh mỹ
học của lễ hội cổ truyền. Với 4 phần: phần một là những vấn đề
chung; phần hai là tính thẩm mỹ, tính cộng đồng và các giá trị
của lễ hội, phần ba là chức năng và vai trò của lễ hội trong sinh
hoạt văn hóa cộng đồng; phần IV là một số vấn đề của lễ hội
truyền thống trong xã hội hiện đại. Đây là công trình khoa học
đầu tiên tiếp cận lễ hội cổ truyền từ tính mỹ học của nó. Và tác
giả đã thành công và giải quyết trọn vẹn vấn đề này.
Năm 1998, TS Ngô Văn Doanh đã công bố công trình Lễ
hội Rija Nưgar của người Chăm 2. Chọn Rija Nưgar làm đối
tượng nghiên cứu, tác giả đã bỏ nhiều công khảo sát điền dã,
sưu tầm tư liệu để làm rõ một lễ hội, mà theo anh chính là Tết
năm mới truyền thống của người Chăm. Vì vậy, công trình là
một đóng góp vào việc nghiên cứu, sưu tầm các lễ hội cổ
truyền của người Chăm ở Việt Nam.
Năm 1999, dưới sự chủ biên của TS Trần Hữu Sơn, một
số tác giả dã công bố kết quả sưu tầm nghiên cứu về lễ hội cổ
truyền ở Lào Cai với nhan đề: Lễ hội cổ truyền Lào Cai 3 .
Ngoài tiểu luận, bài Đặc điểm món ăn trong lễ hội, cuốn sách
đã giới thiệu 9 lễ hội cổ truyền ở Lào Cai. Có thể nói đây là cố
gắng rất lớn của tác giả Lào Cai, giới thiệu được diện mạo lễ
hội cổ truyền Lào Cai.
Tựu trung, tiến trình sưu tầm và nghiên cứu lễ hội cổ
truyền Việt Nam đã trải qua một quá trình lâu dài. Nhiều thành
tựu đã đạt được, một số bộ sưu tập lễ hội đã được công bố.
Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề khoa học về lễ hội cổ truyền
1 Nxb KHXH, Hà Nội, 1998.
2 Nxb VHDT, Hà Nội, 1998.
3 Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
41
đã được giải quyết trọn vẹn. Trước hết là công việc sưu tập các
lễ hội cổ truyền. Cho đến hiện nay, sưu tầm, miêu thuật thật sự
các lễ hội cổ truyền vẫn là công việc đặt ra một cách cấp bách.
Nhiều lễ hội, nhiều trò diễn trong các lễ hội đã bị mai một, thất
truyền. Một số bô lão am tường lễ hội, ở các làng quê đã dần
dà về thế giới khác, mang theo cả vốn liếng về lễ hội mà họ có
được qua năm tháng. Thành ra, việc sưu tầm, miêu thuật, dựng
lại diện mạo các lễ hội cổ truyền càng cấp bách hơn. Không có
tư liệu đầy đủ, khó mà giải mã được trọn vẹn những vấn đề của
lễ hội cổ truyền.
Mặt khác, dẫu công tác nghiên cứu lễ hội cổ truyền đã
đạt được nhiều thành tựu, nhiều cột mốc đã được cắm trên tiến
trình nghiên cứu nhưng chưa phải các khía cạnh về lễ hội cổ
truyền đã được xem xét đầy đủ. Hơn nữa, vận dụng những
thành tựu mới mẻ của khoa học vào việc nghiên cứu, giải mã
lễ hội cổ truyền, chúng ta lại chưa làm được là bao. Những câu
hỏi còn đang đặt ra trước mắt các nhà nghiên cứu để chờ câu
trả lời.
- 3 -
Hiện tại, quan sát lễ hội cổ truyền thực ra chúng ta đã
quan sát trên lát cắt đồng đại. Bởi lẽ, là một thực thể, một thành
tố của văn hóa, lễ hội cổ truyền không khi nào là một thành tố
bất biến, trái lại, nó vận động trong thời gian và không gian.
Lắng đọng trong lễ hội cổ truyền, qua dòng sông thời gian, qua
những bãi xa, bờ lạ, là những lớp phù sa văn hóa khác nhau.
Mỗi lễ hội cổ truyền, tồn tại đến hôm nay, đều là kết quả của
một quá trình tiếp biến văn hóa lâu dài. Quá trình tiếp biến ấy
khiến cho lễ hội cổ truyền luôn mang dáng vẻ của thời đại mà
vẫn không mất đi diện mạo ban đầu, nói khác đi là, cấu trúc của
lễ hội không bị phá vỡ ở hai mảng lớn: lễ và hội. Có thể thấy
quá trình tiếp biến ấy ở ba lần khác nhau:
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
42
- Lần 1: Thời sơ sử và thời Bắc thuộc.
- Lần 2: Thời quân chủ và thời thuộc Pháp.
- Lần 3: Từ 1945 đến nay.
ở lần thứ nhất, tư liệu và hiểu biết của giới nghiên cứu
văn hóa dân gian về lễ hội cổ truyền giai đoạn này còn quá ít ỏi,
chưa đủ để chúng ta hiểu tận tường về lễ hội cổ truyền ở giai
đoạn này. Căn cứ mà các nhà khoa học dựa vào là trống, thạp
đồng Đông Sơn, Những hình chạm khắc trên các hiện vật khảo
cổ cho chúng ta hình dung được diện mạo văn hóa Đông Sơn,
trong đó có lễ hội thời Đông Sơn1. Người ta đã thấy một tín
ngưỡng thờ mặt trời như một thanh nam châm hút vào nó
những sinh hoạt văn hóa và còn thấy quan niệm về thế giới của
cư dân Đông Sơn. Đồng thời, người ta còn thấy tín ngưỡng
phồn thực, một tín ngưỡng mà theo các nhà khoa học xã hội và
nhân văn là tín ngưỡng của một lớp cư dân gắn với cơ tầng
văn hóa Đông Nam á. Vì thế, trên lát cắt đồng đại, lễ hội cổ
truyền còn nhiều những lễ thức mà các nhà nghiên cứu thừa
nhận có từ thời xa xưa, phản ánh những hiện tượng đến hôm
nay không còn tồn tại, hoặc chả ai hiểu được những lễ thức ấy,
hoặc trong con mắt của người hôm nay, thấy hiện tượng ấy là
"buồn cười", thậm chí "kém văn hóa"?! Chẳng hạn nghi thức tắt
đèn buổi rã đám của làng La, các nghi thức thị phạm hành
động tính giao ở một số hội làng, rước các biểu tượng sinh
thực khí, tháo khoán cho nam nữ tự do giao hợp v.v..., ở một
số hội làng. Người ta thường nghĩ đến cội nguồn của những lễ
thức này ở cơ tầng văn hóa Đông Nam á, ở nền văn hóa trước
khi có văn hóa của người Hán nhập vào mảnh đất này. Do vậy,
trong buổi khởi đầu của văn hóa Việt, lễ hội đã xuất hiện, do
nhu cầu tự nhiên của cư dân nơi châu thổ Bắc Bộ. Vòng quay
của thiên nhiên, mùa vụ nối tiếp nhau, chính ở điểm nối tiếp ấy,
lễ hội đã xuất hiện, như một lẽ tự nhiên, với cư dân nông
1 Xin xem Trần Quốc Vượng, Lễ hội, một cái nhìn tổng thể, Tạp chí văn hóa dân gian, số 1-
1985, tr. 5.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
43
nghiệp mà phương thức canh tác chính là trồng lúa nước: Lễ
lên đồng, xuống đồng, tết Nguyên đán, lễ hội mùa xuân v.v...
Có lẽ, trong mô hình cấu trúc của lễ hội thời ấy, chưa có một
nhân vật trung tâm được phụng thờ, và cũng chưa thể có
được một hệ thống nghi lễ đầy đủ, lớp lang như lễ hội cổ
truyền ở giai đoạn sau này.
Tiếp biến văn hóa xuất hiện khi người phương Bắc tràn
xuống xâm lược và đô hộ Giao Châu. Rồi với vị thế địa văn
hóa, địa chính trị của vùng châu thổ Bắc Bộ, văn hóa ấn Độ du
nhập vào đây. Cả hai nền văn hóa ấy cùng đan xen với văn hóa
của cư dân Việt. Các thành tố của hai nền văn hóa này có cơ
hội hòa vào lễ hội của cư dân Việt. Sự hội nhập giữa Phật giáo
và tín ngưỡng tứ pháp mà dấu vết chúng ta còn thấy ở lễ hội
làng Dâu (xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh) từ huyền thoại đến điện thần ở di tích, đến các nghi thức
ngày lễ hội là biểu hiện cho khía cạnh ấy.
ở lần thứ hai, tiếp biến văn hóa lại mang đến các lớp văn
hóa cho lễ hội giai đoạn này. Sự phồn thịnh của Phật giáo buổi
Lý Trần, sự ưu thế của Nho giáo thời Lê sơ là ngọn nguồn đưa
đến những tiếp biến văn hóa của lễ hội. Đặc thù của Phật giáo
ở Việt Nam đã khiến cho ngôi chùa làng trở thành một môi
trường của lễ hội cổ truyền.
Trong lần thứ hai này, lễ hội cổ truyền có sự thay đổi khá
quan trọng. Sự can thiệp của vương triều quân chủ thông qua
việc phong thần cho một số vị thần ở các làng quê, việc kê
khai, san định thần tích vào năm 1572 sẽ khiến cho vị thành
hoàng bước những bước đi dài về các ngôi đình trú ngụ, làm vị
thành hoàng làng. Với quyết định năm 1496 giao cho làng quản
lý đình và quyết định của nhà Lê yêu cầu các làng quê kê khai
thần tích, rồi giao cho Nguyễn Bính san định, diện mạo tín
ngưỡng ở làng quê Việt nơi châu thổ Bắc Bộ có những thay đổi
quan trọng. Thực chất, đây là một quá trình sáng tạo folklore.
Khi người dân kê khai thần tích của vị thần làng mình, chính là
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
44
lúc người dân đã bắt đầu quá trình sáng tạo này. Để có được
quá trình sáng tạo ấy, người dân đã huy động toàn bộ vốn liếng
văn hóa mà họ có. Một chút mẫu đề thần thoại, một chút văn
hóa Phật giáo, Nho giáo, pha chút văn hóa Lão giáo v.v..., đều
được huy động vào quá trình sáng tạo. Khi san định xong, triều
đình gửi về các làng xã bản thần tích ấy. Và lúc này, thần tích
lại bắt đầu một đời sống của nó trong tâm thức dân gian. Bởi
những bản thần tích ấy đều viết bằng chữ Hán, mà đại đa số
cư dân Việt, thời quân chủ, không phải ai cũng biết, cũng đọc
được thứ chữ này. Vả chăng, trong con mắt những người dân
quê, bản thần tích ấy là vật báu nhà vua ban cho vị thánh của
làng, thành thử, nó chứa không ít chất thiêng liêng kỳ bí, nên
được cất giữ cẩn thận. Và người dân quê chỉ được nghe lại, kể
lại từ các ông đồ nho, các nhân vật được làng xã trao cho
quyền cất giữ thần tích. Việc truyền miệng diễn ra, và đương
nhiên, quá trình sáng tạo folklore lại bắt đầu. Cứ như vậy, qua
thời gian, diện mạo của vị thần của làng quê này được hoàn
chỉnh, để trở thành vị thánh của cộng đồng trong tâm thức dân
gian. Nhưng cần thấy rằng, sự sáng tạo ấy của dân gian không
phải là sự sao chép lịch sử mà đó là "ý thức lịch sử của nhân
dân, hơn thế nữa là "cương lĩnh" cô đúc thái độ và yêu sách
của nhân dân trước lịch sử"1 . Diện mạo của vị thần được
phụng thờ trong lễ hội, sẽ được tạo dựng trong quá trình sáng
tạo này. Do đó, nhiều lớp văn hóa lắng đọng trong lễ hội cổ
truyền. Nói khác đi là, sự tiếp biến văn hóa ở thời kỳ quân chủ,
do những tác động có ý thức, có chủ định của các vương triều
đã khiến cho diện mạo lễ hội cổ truyền thay đổi, so với giai
đoạn trước. Nói cách khác, đến thời quân chủ, mô hình cấu
trúc của lễ hội cổ truyền đã có thay đổi quan trọng, hoàn chỉnh
như chúng ta quan sát sau này. Nghĩa là, lễ hội đã có một nhân
vật được phụng thờ, gắn với một tín ngưỡng nhất định, đã có
một nghi thức thờ cúng theo qui định của nhà nước quân chủ
1 Trần Quốc Vượng, Nguyễn Từ Chi, bài Vua chủ, in trong tập Góp phần nghiên cứu văn
hóa và tộc người, Nxb VHTT, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 1996, tr.161.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
45
và những nghi thức ngoài lề, đã có những trò diễn gắn với từng
nhân vật được phụng thờ.
Mặt khác, cũng chính các vương triều quân chủ, chẳng
hạn như nhà Trần, đã nhiều lần ra lệnh đàn áp "dâm thần", phá
bỏ các "dâm từ" tạo cho một sự phản ứng trong người dân, sự
thay đổi trong cấu trúc lễ hội. Nhiều trò diễn vốn là các nghi lễ
phồn thực trở thành nghi thức bên lề, nghi thức mà người dân
các làng quê gọi là "hèm". Thời gian đi qua, dân làng không ai
giải thích được, hoặc có biết, cũng không dám giải thích, có rất
nhiều các loại hèm khác nhau: loại hèm nghi lễ liên quan đến
chiến trận, loại hèm phồn thực, loại hèm của những người chết
giờ thiêng, loại hèm về việc giao duyên, ẩu đả giữa các làng.
Trong tâm thức dân gian, những nghi thức bên lề, những "hèm"
ấy, đôi khi như từ miền sâu thẳm của ký ức chợt hiện về, bất
thần và rạo rực, theo tiếng trống ngày hội làng.
Cũng cần nói đến diện mạo lễ hội cổ truyền thời thuộc
Pháp. Người Pháp, đương nhiên là có thái độ vơ vét thuộc địa
của kẻ xâm lược. Thực dân Pháp hẳn là nhiều hành động đáng
lên án với dân tộc Việt Nam, nhưng phải thấy rằng trên cơ bản,
các hằng số của văn hóa Việt Nam; nông dân, nông nghiệp lúa
nước, xóm làng, không bị phá vỡ trong giai đoạn từ năm 1858
đến năm 1945. Đành rằng, có sự tiếp biến giữa một bên là văn
hóa Việt Nam và một bên là văn hóa Pháp và văn hóa Việt
Nam từ năm 1858 đến năm 1945 có những biến đổi quan trọng
nhưng lễ hội cổ truyền trong giai đoạn này, không có sự biến
đổi lớn lắm như ở thời quân chủ.
ở lần thứ ba, lễ hội cổ truyền có một thời kỳ chựng lại, do
hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Thế nhưng, khi có chủ
trương của Đảng, Nhà nước về bảo tồn và phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc, lễ hội cổ truyền lại phát triển trở lại, như
chưa hề biết đến một thời kỳ chựng lại đã qua. Điều đáng quan
tâm là "sự bột phát trở lại" - chữ dùng của GS Đinh Gia Khánh
của lễ hội cổ truyền trong giai đoạn hiện nay lại trùng với sự
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
46
thay đổi của nền kinh tế nước ta đang chuyển từ cơ chế quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Mặt trái của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tác
động khá nhiều mặt tới các lĩnh vực đời sống xã hội, văn hóa,
trong đó có lễ hội cổ truyền. Đồng thời, "sự bột phát trở lại" của
lễ hội cổ truyền lại xảy ra vào thời kỳ khoa học công nghệ nhất
là công nghệ thông tin viễn thông có những phát triển vượt bậc.
Do đó, những tiếp biến văn hóa ở thời kỳ này tác động đến lễ
hội cổ truyền sẽ khác các giai đoạn đã qua. Các yếu tố truyền
thống có quan hệ với các yếu tố hiện đại, sẽ xảy ra ở cả hai
chiều: tiêu cực và tích cực. GS Đinh Gia Khánh đã khẳng định:
"Hội lễ dân gian truyền thống với tính cách là một hiện tượng
truyền thống thì tất là phải được hình thành dần từ nhiều yếu tố
đã có từ trước và lần lượt xuất hiện trong tiến trình lịch sử. Nếu
như đến nay nó không còn đáp ứng được cho những nhu cầu
đã từng làm cho nó trở thành một hình thức "xã hội - lịch sử"
của tư tưởng và cảm xúc của cộng đồng thì tất là nó phải chết.
Nhưng nếu nó còn có thể sống được thì chính là vì nó đã biết
thích ứng được với đời sống hiện nay bằng cách tiếp nhận và
đồng hóa những yếu tố mới, dù là bản địa, dù là ngoại lai" 1
Như vậy, trên lát cắt đồng đại, lễ hội cổ truyền có sự vận
động trong không gian và thời gian khác nhau, nên có nhiều lớp
văn hóa lắng đọng. Nói cách khác, lễ hội cổ truyền là một bảo
tàng văn hóa của Việt Nam.
- 4 -
Đã thành một cái nhìn quen thuộc, các nhà nghiên cứu
chia lễ hội cổ truyền thành hai bộ phận: phần lễ và phần hội.
Phần lễ bao gồm các nghi thức, các động tác, các bài văn tế,
phần hội với trò chơi, trò diễn, vật dâng cúng... Thực ra, sự 1 Bài Hội lễ dân gian truyền thống trong thời hiện đại, Tạp chí văn hóa dân gian, số 2 -
1993, tr.10.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
47
phân biệt giữa các yếu tố này chỉ có tính chất tương đối. Bởi lẽ,
trong các trò chơi dân gian, khá nhiều trò chơi vốn là các trò
diễn nghi lễ hoặc mang tính nghi lễ, nhưng hiện tại, nó đã nhạt
dần hay mất đi tính nghi lễ, khiến chúng ta lầm tưởng đó là trò
chơi dân gian đơn thuần. Chẳng hạn trò chọi gà, đấu vật v.v...
Nếu giả định lễ hội cổ truyền như một mô hình thì yếu tố
đầu tiên phải đề cập đến là nhân vật phụng thờ. ở mỗi làng quê
khác nhau, nhân vật này lại khác nhau, như một câu phương
ngôn: "Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy
thờ". Nhìn ở các góc độ khác nhau, sẽ thấy nhân vật phụng thờ
có nhiều loại khác nhau. Có thể đó là các thần tự nhiên, nhưng
cũng có khi là nhân thần. Nhìn ở góc độ tín ngưỡng, có thể đó
là một vị thành hoàng làng, cũng có thể là một phúc thần, hoặc
một vị thánh mẫu, thậm chí là một loài vật ở loài khơi xa là cá
ông/cá voi. Nhìn ở góc độ cấp bậc, các nhà nho cũng như một số
vương triều quân chủ xưa chia các vị thần này thành các thứ bậc:
- Thượng đẳng thần
- Trung đẳng thần
- Hạ đẳng thần
Dầu nhìn ở góc nào, các vị thánh ấy đều là kết quả của
một quá trình sáng tạo dân gian của người dân nhiều thế hệ
qua dặm dài lịch sử. Mục đích cuối cùng của quá trình sáng tạo
dân gian ấy nhằm thiêng hóa nhân vật phụng thờ, biến nhân
vật phụng thờ trở thành thiêng liêng. Đáng chú ý là, bằng tấm
lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, thái độ uống nước nhớ
nguồn, người dân các thế hệ đã đưa nhiều nhân vật lịch sử,
văn hóa của đất nước vào hệ thống các nhân vật được phụng
thờ. Bởi vậy, có hai cách mà người dân hay sử dụng trong quá
trình thiêng hóa nhân vật phụng thờ này: một là lịch sử hóa, hai
là huyền thoại hóa. Đương nhiên, sự tách bạch giữa hai thủ
pháp này chỉ có tính chất tương đối. Hai thủ pháp này có thể
thấy trong khá nhiều nhân vật phụng thờ của các lễ hội khác
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
48
nhau. Tác động của hai thủ pháp này có thể thấy qua lần kê
khai thần tích của người dân các làng quê và san định thần tích
của Đông các đại học sĩ tiến sĩ Nguyễn Bính vào năm 1572.
Điều đáng quan tâm là quá trình lịch sử hóa và huyền thoại hóa
nhân vật phụng thờ đều gắn bó mật thiết với cảnh quan từng
vùng quê, di tích và điện thần của các nhân vật phụng thờ. Quá
trình lịch sử hóa và huyền thoại hóa này lại diễn ra khác nhau
giữa các vùng văn hóa. Nếu như vùng châu thổ Bắc Bộ, quá
trình này diễn ra mạnh mẽ và trọn vẹn thì ở vùng đồng bằng
Nam Bộ, quá trình này lại diễn ra chậm hơn và chưa toàn vẹn.
Có thể lấy nhân vật thành hoàng làng làm ví dụ. Nếu như các vị
thành hoàng làng của châu thổ Bắc Bộ được đẩy về cõi xa mờ
của lịch sử, với một khoảng thời gian vô thủy vô chung với một
gương mặt của một nhân vật lịch sử thì thành hoàng làng ở
đồng bằng Nam Bộ vẫn vẹn nguyên dáng vẻ của một vị thần tự
nhiên, chưa xảy ra quá trình lịch sử hóa và huyền thoại hóa. So
sánh giữa nhân vật thánh mẫu Liễu Hạnh và bà chúa Xứ ở núi
Sam (thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang), cũng sẽ thấy điều này:
một bên là quá trình huyền thoại hóa đã diễn ra trọn vẹn, một
bên là quá trình huyền thoại hóa một pho tượng đá vốn không
có gốc rễ từ văn hóa Việt chưa toàn vẹn. Mặt khác, các nhân
vật phụng thờ này đều gắn bó với các tín ngưỡng khác nhau.
Nói cách khác, các nhân vật phụng thờ là đại diện, là nơi ký gửi
các niềm tin tín ngưỡng khác nhau. Đa số các nhân vật phụng
thờ trong các lễ hội cổ truyền ở các làng quê, đều là thành
hoàng làng: dù là nhân thần hay thần tự nhiên. Nhưng họ đều
có sắc phong của triều đình thế tục, để làm một nhiệm vụ của
triều đình: "bảo ngã lê dân" (bảo vệ dân đen của ta - tức nhà
vua). Thứ hai, là những nhân vật phụng thờ gắn bó với tín
ngưỡng thờ mẫu. Các nhân vật này có thể là các mẫu với một
hệ thống điện thần tương đối lớp lang từ bắc vào nam với mẫu
Thượng ngàn, mẫu Thoải, mẫu Liễu Hạnh, chúa Ngọc thánh
mẫu, Linh Sơn thánh mẫu, chúa Xứ thánh mẫu và các cận thần
như quan lớn Tuần Tranh, ông Hoàng Mười, cô Ba Bắc Lệ
v.v... Thứ ba là những ông tổ sư, tổ nghề gắn bó với tín
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
49
ngưỡng thờ tổ nghề, như ông tổ nghề vàng bạc, tổ nghề khảm
trai, tổ nghề thêu v.v... Thứ tư là các vị thần gắn với tín ngưỡng
của đồng bào các dân tộc ít người: các Yang của đồng bào Tây
Nguyên, vị Thần nông của đồng bào Tày - Nùng ở Việt Bắc -
Tây Bắc v.v...
Tựu trung, nhân vật phụng thờ gắn với tín ngưỡng ẩn tàng
trong lễ hội cổ truyền như thành tố lớn nhất, chủ yếu nhất. Khó
có thể nói đến một lễ hội cổ truyền mà lại không đề cập đến
nhân vật phụng thờ và tín ngưỡng. Không có tín ngưỡng,
không có nhân vật phụng thờ, không thành lễ hội, hay nói giản
dị như dân gian, phi lễ bất thành hội.
Cũng cần nói đến các tôn giáo ngoại lai khi đề cập đến lễ
hội. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, nhiều tôn giáo ngoại lai đã
du nhập vào Việt Nam. Thế nhưng, như các nhà nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn khẳng định, chưa có một tôn giáo
ngoại lai nào du nhập vào Việt Nam lại có thể trở thành một hệ
ý thức duy nhất, độc tôn thống trị đời sống xã hội. Trái lại, các
tôn giáo ngoại lai đều phải thích nghi, hòa hợp với các tín
ngưỡng bản địa. Và "ở nước ta, các hiện tượng văn hóa dân
gian, các tác phẩm văn hóa dân gian gắn với các sinh hoạt
cộng đồng (trong đó có hội làng), có thể ít nhiều chịu ảnh
hưởng của các tôn giáo ngoại lai nhưng không hề bị khuôn đúc
vào các mô thức tôn giáo ấy, không hề bị đồng hóa vào hệ
thống tín điều, hệ thống biểu tượng của các tôn giáo ấy"1.
Thành tố thứ hai của một lễ hội cổ truyền cần lưu tâm là
trò diễn. Người ta hay xếp trò diễn vào phần hội, nhưng thực ra
trò diễn gắn kết rất mật thiết với nhân vật phụng thờ. Toàn bộ
cuộc đời của nhân vật phụng thờ được "trình diễn" trong ngày
lễ hội bằng những động tác, những nghi thức v.v..., từ bao đời
để lại. Có thể đó là trò nghiềm quân trong lễ hội làng Giá (xã
Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây), có thể đó là trò Thánh
1 Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1995, tr.111.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
50
Gióng đi đánh giặc Ân của lễ hội làng Phù Đổng (huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội), hoặc đó là trò kéo chữ trong lễ hội
Phủ Giày (xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).
Trình tự của một trò diễn dân gian liên quan đến những
địa điểm gắn bó với cuộc đời của nhân vật phụng thờ. Vì vậy,
điểm xuất phát của các trò diễn thường là nơi thờ vọng (đa
phần là ở đình: nơi lưu giữ thần tích và sắc phong) như nhận
xét của Phan Kế Bính: "Miếu là chỗ quỉ thần bằng y, đình là nơi
thờ vọng"1. Và điểm kết thúc là một địa điểm nào đó gắn bó với
sự kiện nào đó trong cuộc đời của nhân vật phụng thờ, thường
là nơi hoá của nhân vật được phụng thờ (đa phần là
nghè/miếu). Do mỗi một lễ hội có một nhân vật phụng thờ khác
nhau nên trò diễn này không giống nhau. Có một số loại trò
diễn thường thấy trong các lễ hội cổ truyền như sau:
- Thứ nhất là trò diễn đồng nhất với nghi lễ lấy nước để
làm lễ mộc dục. Lễ hội xã Tự Nhiên (huyện Thường Tín, tỉnh
Hà Tây), đền Đa Hòa (xã Bình Minh, huyện Châu Giang, tỉnh
Hưng Yên), đền hóa Dạ Trạch (xã Yên Vĩnh, huyện Châu
Giang, tỉnh Hưng Yên) v.v..., chính là những lễ hội có các trò
diễn loại này. Khởi điểm ban đầu của các trò diễn ấy phải
chăng là lễ mộc dục, mà lễ mộc dục, là nghi thức cầu mưa của
cư dân nông nghiệp, về sau được lịch sử hóa và huyền thoại
hóa?!
- Thứ hai là trò diễn kể lại cuộc đời chiến công của nhân
vật phụng thờ. Lễ hội làng Phù Đổng (huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội), lễ hội làng Đồng Kỵ (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh) là những lễ hội cổ truyền có trò diễn này. Các trò diễn
kiểu này mang tính chất đồng hiện lịch sử. Trước mặt những
người dân trong làng, lịch sử là một dòng chảy liên tục, đồng
hiện cả quá khứ lẫn hiện tại và tương lai.
1 Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr.76.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
51
- Thứ ba là trò diễn giả định. Trò diễn nghinh ông trong
các lễ hội thờ cá voi của cư dân ven biển có thể coi như loại trò
diễn này. Người dân thờ cúng cá ông giả định rằng ra ngoài
khơi xa nơi nước sông với nước biển gặp nhau, dừng thuyền
lại là có thể nghinh ông, gặp ông lên vọi trong ngày lễ nghinh
ông.
- Ngoài ra là một số các trò diễn khác. Nói đến trò diễn là
phải nói đến các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ được hội nhập
vào đây. Trên đường vận hành của trò diễn trong lịch sử,
người dân đã đưa vào đủ loại: ca hát, múa sênh tiền, múa con
đĩ đánh bồng v.v..., khiến cho trò diễn mang tính chất vừa trang
nghiêm, linh thiêng, vừa trần tục, vui vẻ, vừa hoành tráng vừa
kỳ bí. Quan sát trò diễn trong lễ hội, theo cái nhìn lịch đại, ắt sẽ
thấy sự biến thiên của nó. Có những trò diễn là lưu ảnh của
những nghi thức xa xưa của cư dân nông nghiệp, nhưng lại có
những trò diễn vốn là nghi thức của một tín ngưỡng khác được
hút vào những nghi lễ gắn với nhân vật phụng thờ này.
Vấn đề cần lưu ý là hiện thực được phản ánh trong các trò
diễn là hiện thực thông qua lăng kính của người dân các thế
hệ. Lịch sử ở đây là ý thức của nhân dân về lịch sử. Nói cách
khác, các trò diễn trong lễ hội là thông điệp mà người dân các
thế hệ trước gửi lại các thế hệ sau.
Một thành tố khác không thể không đề cập đến khi nhìn
nhận lễ hội cổ truyền. Đó là các vật dâng cúng. Cần phân biệt
hai loại vật dâng cúng: một là những vật dâng cúng thông
thường như hương hoa, oản, quả, rượu, thức cúng v.v..., hai là
những vật dâng cúng mang tính nghi lễ, như món bánh trôi
trong lễ hội đền Hát Môn (huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây), món
chè củ mài trong các lễ hội làng ở vùng trung châu thuộc các
tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ. Đặc điểm của các vật dâng cúng này
là sự gắn kết của vật dâng cúng và nhân vật phụng thờ. Hoặc
đó là món ăn quen thuộc của nhân vật phụng thờ đã dùng
trước khi hóa, về cõi linh thiêng, hoặc đó là món ăn lúc sinh
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
52
thời nhân vật phụng thờ ưa thích, đã dùng v.v... Có thể nói, đó
là tín hiệu folklore quí giá, giúp chúng ta giải mã được nhiều điều
về thời lịch sử xa xưa, cung cấp cứ liệu cho các nhà khảo cổ học,
dân tộc học, nhân học v.v... Nhưng trong tổng thể của một lễ hội,
đây là những yếu tố quí giá, mang bản sắc dân tộc của lễ hội cổ
truyền.
Cũng trong các vật dâng cúng, có những vật dâng cúng
như được tạo ra từ một ý niệm, từ cõi vô thức trao truyền tới
thế hệ hôm nay. Món bánh dày có mặt trong nhiều lễ hội chính
là một vật dâng cúng như vậy. Với tư cách là một vật dâng
cúng, bánh dày vừa là một vật dâng cúng các thần linh, vừa để
thi tài giữa các cá thể, giữa các cộng đồng lớn nhỏ, vừa cũng là
nơi chứa đựng ý tưởng, tư tưởng của người xưa. Các lễ hội cổ
truyền ở các làng như làng Cá Dốc (xã An Đạo, huyện Phong
Châu, tỉnh Phú Thọ), làng Nha Môn (huyện Phong Châu, tỉnh
Phú Thọ), làng Yên Thư (huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Phú Thọ), đều
có món bánh dày rất lý thú. Món bánh này là vật để thi tài giữa
các thành viên trong làng, sau đó để mà trình thánh, trong ngày
lễ hội, không thể không có. Thực ra, các vật dâng cúng này,
một thời xa xưa đã là nơi tải chứa một nội dung tín ngưỡng.
Thời gian trôi qua đã làm biến thiên, tạo ra vệt đứt giữa vật
dâng cúng và tín ngưỡng mà một thời giữa chúng đã có sự gắn
kết. Cho nên, hiện tại khó có thể nhận ra đường dây liên hệ từ
thời xa xưa ấy.
Thành tố thứ năm của lễ hội cổ truyền là nghi thức thờ
cúng. Thông thường, nghi thức thờ cúng của các lễ hội cổ
truyền là phương tiện để con người giao tiếp với thần linh, bao
gồm: bài văn tế, trình tự buổi cúng tế và các động tác cúng tế.
Nếu như các trò diễn thường xảy ra ở không gian rộng thì các
nghi thức thờ cúng này lại chỉ xảy ra ở không gian hẹp của di
tích. Trong các yếu tố ấy, bài văn tế là một yếu tố khả biến mà
ban quí tế thay đổi theo từng năm. ở bài văn tế này chỉ có một
yếu tố bất biến, đó là phần ca ngợi công lao, ân đức của vị thánh
mà dân làng phụng thờ. Phần được thay đổi theo từng năm là
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
53
ngày tháng, tên những người được dân làng ủy quyền cúng tế
thần linh.
Trình tự của buổi thờ cúng và các động tác của những
người được dân làng ủy quyền đứng ra cúng tế thần linh, thực
ra rất giống nhau ở tất cả các lễ hội ở các làng quê từ các qui
định khi nào dùng rượu, khi nào dâng trà, khi nào dâng lễ mặn
v.v... Thực ra, các qui định ấy gần như mô phỏng, sao lại nghi
thức cúng tế của triều đình, bởi quan niệm hương đảng tiểu
triều đình của những người dân quê trong làng xã xưa. Chỉ cần
so sánh với nghi thức cúng tế của triều đình, chẳng hạn triều
đình nhà Nguyễn trong lễ tế giao, sẽ thấy sự giống nhau ấy1.
Một sự mô phỏng hay sự áp đặt của triều đình quân chủ, cũng
khó mà nói cho xác đáng?! Hay nói khác hơn, khó mà minh
định được một cách rõ ràng.
Riêng với nghi lễ này ở Nam Bộ, trong ngày lễ kỳ yên ở
đình làng với cư dân làm nghề trồng lúa nước có sự khác biệt
mà Phan Kế Bính đã nhận ra từ những năm đầu thế kỷ này: "ở
về Nam Kỳ thì các đồ ăn gì cũng hiến. Trong khi hiến rượu,
người ta đi một cách khoan thai và trang nghiêm. ở Nam Kỳ,
khi hiến rượu, hiến đồ ăn thường có hai người đóng tuồng, mặc
đồ nhung tay cầm nến đi trước, kế đến mỗi bên ba bốn con hát,
áo mũ rực rỡ, mỗi ả cầm vài nén hương, vừa đi vừa đọc câu
chúc hỗ rồi mới đến người hiến rượu, hiến đồ ăn đi sau. Mà
cách đi thì rất ngộ nghĩnh, người nào mắt cũng nhưng nhưng
nháo nháo, nghiêng đầu nghiêng cổ, chân bên nọ đá chân bên
kia, làm cho ai lạ mắt cũng phải phì cười, mà họ thì cho thế mới
là đi vào kiểu" 2. Các nhân vật mà Phan Kế Bính gọi là con hát,
các bô lão ở Nam Bộ gọi là đào thài. Tại đình Bình Thủy, thành
phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ, các cô đào thài này đi sau học trò
lễ và hát những câu chúc mừng như:
1 Xin xem Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của tổ phiên dịch , Viện
sử học Việt Nam, Nxb Sử học, Hà Nội, 1961, tr.123. 2 Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb tp. HCM, 1990, tr. 86.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
54
Đội ơn thần thánh đượm nhuần
Hương lâm hoan lạc phỉ mừng kỳ yên 1
- 5 -
Như vậy, khởi điểm là các nghi thức nông nghiệp của
những cư dân sống bằng nghề trồng lúa nước, lễ hội trở thành
một sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng của cộng đồng, một thành
tố văn hóa đặc biệt ở làng quê. Vì thế, nhìn ở phương diện tính
chất, lễ hội cổ truyền có hai yếu tố: chất thiêng liêng và chất
thế tục. Ai đã từng chứng kiến một hội làng, ắt sẽ thấy rõ điều
ấy. Âm thanh náo nức của tiếng trống vào hội, khuôn mặt rạng
rỡ, hoan hỉ của những cư dân trong cộng đồng, dù đó là cộng
đồng của tộc người Việt hay của đồng bào các dân tộc ít
người. Đường làng, ngõ xóm như sạch sẽ, phong quang hơn.
Mọi thứ đều trở nên khác với bình thường. Tâm trí mọi thành
viên của cộng đồng đều hướng vào vị thần được thờ phụng, vị
thánh của làng. Nhân vật này vừa gần gũi, vừa xa vời, vừa
thiêng liêng, vừa rất đời. Đó là nơi người dân ký thác mọi niềm
vui, nỗi buồn, là chỗ dựa tinh thần của cá thể, gia đình, dòng họ
và cộng đồng. Mọi người đều tìm thấy chỗ dựa ấy cho chính
mình và cộng đồng, trong một xã hội nông nghiệp đầy phấp
phỏng, lo âu cùng các trắc trở đều có thể ập đến. Lễ hội là lúc
đẹp nhất để mọi người dân trong cộng đồng thể hiện niềm biết
ơn, niềm tin tưởng ấy. Chẳng phải ngẫu nhiên mà có nhà
nghiên cứu đã khẳng định giá trị văn hóa của lễ hội là sự "cộng
mệnh và cộng cảm" - chữ dùng của PGS, TS Ngô Đức Thịnh.
Do đó, tràn ngập trong các nghi thức, nghi lễ, hoạt động của
ngày lễ hội là chất thiêng. Chất thiêng này cố kết các số phận
con người, hướng con người vươn tới sự trong sáng, bằng an
của tâm hồn. Lại nữa, con người đến với lễ hội là đến với một
1 Xin xem: Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác thảo, Nguyễn Phương Thảo, Nxb Giáo
dục, in lần 2, Hà Nội, 1998, tr. 28.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
55
chuỗi thời gian không xác định quá khứ, hiện tại, tương lai mà
là thời gian đồng hiện, đưa con người vào cõi thiêng, sống
trong một không gian thiêng từ trung tâm điện thần của di tích
đến những địa điểm liên quan đến nhân vật phụng thờ. Các trò
diễn, các nghi lễ đưa con người vào tâm thế trở về cội nguồn,
tắm mình trong không gian huyền thoại, đậm đặc chất lịch sử.
Và biểu hiện trong con người lòng biết ơn, sự ước mong thầm
kín khi họ đến với vị thánh của làng, đến với thần linh để cầu
mong cho bản thân, gia đình, dòng họ, cộng đồng sự
bằng an, sinh sôi nảy nở của con người lẫn tạo vật.
Tuy nhiên, đan cài, hoà lẫn vào chất thiêng ấy là chất thế
tục. Lễ hội cổ truyền, vì thế, luôn luôn thấm đượm chất đời.
Dẫu có một thoáng ngẩn ngơ vì những nghi thức cổ xưa, một
chút thầm thì tiếng gọi từ ngàn xưa vọng về thì âm thanh náo
nức của lễ hội vẫn là âm thanh cuộc đời tươi nguyên nhựa
sống. Ai có thể quên được mùi thơm cay nồng quyến rũ của
miếng trầu mà cô gái làng có làn môi cắn chỉ đã mời ta trong
không khí bảng lảng của chiều hội làng. Ai có thể quên cô gái
làng thắt đáy lưng ong vừa cõng em bé, vừa giữ chú cóc trong
vòng vôi, vừa nấu nồi cơm thi. Ai có thể quên cỗ bánh dày
trắng muốt đoạt giải nhất của ngày hội làng, để dâng lên thánh
ngự v.v... Những biểu hiện của chất thế tục ấy, hòa quyện vào
chất thiêng, khiến cho lễ hội là "thời điểm mạnh của sinh hoạt
cộng đồng", là một sinh hoạt văn hóa đặc biệt của văn hóa
làng. Những giá trị của lễ hội cổ truyền phải được nhìn từ quan
hệ giữa chất thế tục và chất thiêng liêng ấy của lễ hội cổ
truyền.
- 6 -
Khi nhìn lễ hội cổ truyền, có một hiện tượng mà chúng ta
phải tách biệt rõ ràng, để tránh lầm lẫn về giá trị của nó. Đó là
hiện tượng một số sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, thường được
gọi là mê tín, đan cài vào các lễ hội cổ truyền. Chẳng hạn, các
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
56
hiện tượng như xóc thẻ, bói toán, xin xăm, vay tiền v.v..., thực
ra, các hiện tượng này gắn bó với lễ hội cổ truyền rất lỏng lẻo.
Gọi cho đúng, các hiện tượng ấy chỉ gắn bó với lễ hội theo kiểu
cây tầm gửi, hay nói cách khác là sống nhờ không gian thiêng
của lễ hội. Các ông thầy thực hành văn hóa như thầy bói, thầy
tướng v.v..., đã mượn không gian thiêng của lễ hội để thực thi
các hoạt động của mình. Hình như họ đã hiểu rằng, không gian
lễ hội bao giờ cũng đậm chất thiêng, khiến cho mỗi con người
khi đặt chân tới đó, đều cảm như thấy mình là con người khác,
dễ chấp nhận hơn, dễ tin hơn. Và các ông thầy thực hành văn
hóa đã triệt để tận dụng đặc điểm này để thu lợi cho mình. Hơn
nữa, các hiện tượng ấy không là của riêng lễ hội nào, mà ở tất
cả các lễ hội mọi vùng quê đều có. Hiện tượng vay tiền không
chỉ có ở đền bà Chúa Kho (thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) mà
ở miếu bà Chúa Xứ (núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang)
cũng có. Hiện tượng xóc thẻ, không phải chỉ có ở các chùa của
người Hoa (thành phố thành phố Hồ Chí Minh), mà chắc chắn
ở chùa của người Việt châu thổ Bắc Bộ cũng có, và các thẻ
đều có một nội dung như nhau ở tất cả các vùng trong cả
nước.
Thái độ của Đảng, Nhà nước ta với các loại tầm gửi này
trong lễ hội cổ truyền rất rõ ràng. Thực hiện Chỉ thị số 27/CT-
TW ngày 12/1/1998 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 14-1998/CT-TTg
ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa - Thông
tin đã ra Thông tư số 04-1998/TT-BVHTT ngày 11-7-1998
hướng dẫn thực hiện việc cưới, việc tang, lễ hội. Thông tư ghi
rõ: "Nghiêm cấm lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan".
Bởi vậy, khi nhìn nhận các hiện tượng văn hóa tín ngưỡng ấy
cần thấy rõ khía cạnh "tầm gửi" vào lễ hội của nó. Những sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng ấy có bị loại bỏ thì cũng không ảnh
hưởng gì đến giá trị của lễ hội cổ truyền.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am
57
- 7 -
Tiếp cận lễ hội cổ truyền Việt Nam, dù ở góc nhìn nào,
đều dễ thấy giá trị văn hóa của nó. Nhiều nhà nghiên cứu đã
khẳng định giá trị cộng cảm, cộng mệnh của lễ hội cổ truyền,
tính chất là "thời điểm mạnh trong sinh hoạt cộng đồng" của nó.
Trong các thành tố của văn hóa làng xã Việt Nam, lễ hội cổ
truyền là thành tố đặt ra nhiều vấn đề hơn cả. Làm thế nào để
kế thừa và phát huy kho tàng văn hóa quí giá này của các thế
hệ tiền nhân để lại? Trả lời câu hỏi ấy, không phải là một công
việc đơn giản, có thể giải quyết một sớm, một chiều và càng
không thể là công việc của một người hay một số người mà
phải là công việc của cộng đồng, cả dân tộc. Dù thế nào, lễ hội
cổ truyền vẫn như dòng nước mát lành chảy từ cội nguồn văn
hóa dân tộc qua thời gian và không gian và có sức chảy lan tỏa
đến các thế hệ hôm nay và mai sau. Phải chăng, đó là hành
trang của thế hệ hôm nay để bước vào thiên niên kỷ thứ ba,
xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Có lẽ không là phải chăng mà chắc chắn là như vậy.
Bởi lễ hội cổ truyền đã tồn tại qua lịch sử bao đời nay như một
loài cây tràn đầy sinh lực sống./.
Hà Nội, cuối năm 1999
N.C.B
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
1361
Về loài cá và quá trình thiêng hóa
Nguyễn Chí Bền
Theo Từ điển bách khoa nông nghiệp thì: "Cá Voi Balaenus, (tên
khác : cá ông, cá ông voi) chỉ động vật có vú ở biển thuộc bộ Cetacea, họ
Balaenidae. Bề ngoài giống cá nhưng có máu nóng, thở bằng phổi, đẻ
con, nuôi con bằng sữa. Tổ tiên cá voi có lẽ là động vật ăn thịt, sống ở
cạn, 60-70 triệu năm về trước chuyển xuống nước. Do môi trường có ma
sát lớn, cấu tạo cơ thể được biến đổi thích nghi. Thân trần, hình thoi,
thuôn về phía đuôi, kết thúc bằng vây đuôi hai cánh nằm ngang. Chi trước biến thành vây ngực, chi sau, da lông, các tuyến mỡ, tuyến mồ hôi
và tai ngoài bị thoái hoá. Đa số các loài có vây lưng, khiến cơ thể thăng
bằng trong nước. Dưới da có lớp mỡ dày. Cổ không thể hiện rõ. Mũi có
1, 2 lỗ có van. Phổi rất dễ co dãn. Cột sống có 41-98 đốt, xương sườn 17
đôi, nhưng chỉ có 10-11 đôi liền, cá voi có thể lặn dưới nước lâu đến 1,5
giờ. Thính giác phát triển mạnh, xác định được chính xác âm hưởng
truyền tới, nhờ xoang khí ở sọ và việc tách hệ thần kinh 2 tai. Vị giác và
xúc giác (qua da) khá nhạy. Mắt bé, thị giác đóng vai trò thứ yếu... Cá voi là động vật có vú lớn nhất hiện nay. Thân dài từ 12 đến 33m tuỳ theo
loài. Có con nặng đến 150 tấn. Các loài thuộc nhóm cá voi răng chủ yếu
ăn cá, thân mềm chân đầu. Các loài cá voi không răng chủ yếu ăn thân
giáp trôi nổi" 1. Loài cá này đã được ghi chép trong thư tịch. Đầu thế kỷ
XIX, Trịnh Hoài Đức viết: "Tượng ngư : cá voi. Đầu tròn nơi trán có lỗ
phun nước ra, miệng mũi giống như con voi, trơn láng không có vẩy,
đuôi có hai chi giống đuôi tôm, tánh từ thiện biết cứu trợ người nên các nhà ngư nghệ thường gọi là nhân ngư" 2. Giữa thế kỷ XIX các viên quan
trong Quốc sử quán của nhà Nguyễn cũng ghi chép về cá voi với những
dòng tương tự : "Cá ông voi : Đức ngư (theo tên đời Tự Đức ban cho)...
Đầu đời Minh Mệnh cho tên là nhân ngư, đầu đời Tự Đức cho đổi tên
hiện nay... Dị lục ký trong An Nam chí của Cao Hùng Trưng chép rằng:
"Hải thu là thứ cá rất lớn trong các loài cá, phun hơi nước lên trên không,
gió bay đi như mưa. Cách trí kính nguyên dẫn sách Chính tự thông chép
1 Trung tâm quốc gia biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam xb, Hà Nội, 1991, tr.85
2 Đại Nam nhất thống chí, Sđd, tr.58.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
1362
rằng : Bạch ngư dài 20 trượng, tính hiền lành hay cứu người hoặc thấy
người chài bị loài cá dữ làm khốn quẫn nó cũng giải cứu. Lại sách Bắc sử chép: Nước Chân Lạp có thứ cá tên là kiến đồng, bốn chân, không vẩy,
mũi như vòi voi, hút nước phun lên cao đến 6, 7 mươi thước. Vậy chép
ra đây để phòng khảo cứu. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình tượng vào
nhân đỉnh" 1. Từ một loài cá ngoài biển khơi, quá trình huyền thoại hoá,
lịch sử hoá đã diễn ra, để cá voi trở thành linh thiêng. Trong dân gian,
người ta kể truyền thuyết về cá voi theo hai dạng khác nhau: một là
truyền thuyết của người Chăm; hai là truyền thuyết lưu hành ở vùng biển
Trung Bộ. Truyền thuyết thứ nhất kể: "Cá voi vốn là hoá thân của một vị thần tên là Cha-Aih-Va. Vì nôn nóng trở về xứ sở sau thời gian rèn luyện
pháp thuật, Cha-Aih-Va đã cãi lời thầy, tự ý biến thành cá voi, ra sông
lớn mà đi, sau đó bị thầy trừng phạt. Sau lời nguyền rủa của thầy, Cha-
Aih-Va bị các loài thuỷ tộc ở biển Đông hành hình, bị hoá thành thiên
nga... sau cùng trở lại hình người. Cha-Aih-Va đổi tên và tự xưng là Pô-
Ri-I-Ăk liền hoá thành cá voi, rẽ sóng đến dâng thuyền và đưa người vào
bờ" 2. Cũng đi theo hướng này, ông Thái Văn Kiểm cho rằng : "từ thuở
xa xưa, người Chàm tôn xưng cá voi là vua của sóng cả... Từ xa xưa, người Chàm đã tôn thờ tất cả những gì có vẻ kỳ lạ trong con mắt của họ.
Chính khúc gỗ có hình dáng con đại bàng mà những người Bồ Đào Nha
đầu tiên trả bằng giá vàng là đối tượng của một truyền thuyết giải thích
nguồn gốc nhà trời của dân Chàm. Nghĩa là người Chàm là cháu con
của một cuộc kết duyên của chim ưng gỗ (tiếng Chàm là Patangahlan) và
vua sóng cả tức là cá voi. Bởi vậy, cá voi luôn luôn bảo hộ những người
đi biển bị đắm tầu bè và cứu giúp họ" 3.
Trong khi đó, ông Lê Quang Nghiêm ghi ở miền ven biển Trung
Bộ một truyền thuyết về nguồn gốc cá voi: "Theo huyền thoại, xưa kia
đức Phật Quan Âm trong lần tuần du Đại Hải ngậm ngùi đau xót cho số
phận của người trần bị chết chìm ngoài biển khơi, nên xé chiếc áo cà sa
làm muôn mảnh thả trên mặt biển làm phép thành cá ông, lấy bộ xương
voi ban cho để cá ông có thân hình to lớn, lại ban cho phép (thâu đường)
1 Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb KHXH,
Hà Nội, 1971, tập 5, tr.362-363. 2 Nguyễn Văn Kim, Bài về tục thờ cá ông (cá voi) ở vùng ven biển Bến Tre trong tập Bến
Tre đất và người, tài liệu đánh máy của đề tài Địa chí Bến Tre, 1985, tr.317. 3 Tục thờ cá voi, Tập san nghiên cứu xã hội Đông Dương, 1972. Bản dịch của Đỗ Lai Thuý,
tr.6.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
1363
để lội thật mau hầu làm tròn trách nhiệm cứu vớt người lâm nạn" 1.
Trong cuốn Nếp cũ hội hè đình đám, ông Toan ánh, khi ghi chép về lễ hội ở Vàm Láng (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), cũng ghi truyền thuyết như
của Lê Quang Nghiêm : cá voi là tiền thân của đức Quan Thế Âm Bồ
Tát, và "những người dân sống về biển cả đều cầu nguyện đến cá voi mỗi
lần lâm nạn. Theo ngư dân ven bờ biển Bình Thuận, họ có 12 câu nguyện
gọi là Thập nhị đại nguyện. Tương truyền là của đức Quan Thế Âm
truyền cho họ để họ cầu lên kêu cứu với Nam Hải đại vương trước mọi
tai nạn" 2. Ông Lê Quang Nghiêm, ông Toan ánh không ghi chú cụ thể
truyền thuyết này là của tộc người nào, nhưng truyền thuyết các ông ghi chép trong tác phẩm của mình khác với truyền thuyết mà tác giả Nguyễn
Văn Kim nêu ra. Xung quanh các ngôi đền thờ cá voi ở Trung Bộ, Nam
Bộ, đều bao phủ những tình tiết liên quan đến cá voi, với tư cách là thần
hộ mệnh, luôn đóng vai trò cứu giúp ngư dân nơi biển khơi. Khảo sát
điền dã các xã ven biển Bến Tre, chúng tôi không gặp truyền thuyết thứ
nhất, mà chỉ gặp những mảnh vụn của truyền thuyết thứ hai. Tại xã Bình
Thắng, huyện Bình Đại, chúng tôi được nghe ông Nguyễn Văn Phùng kể:
"theo hầu ông còn có cặp cá đao nếu ông không làm tròn phận sự, cá đao sẽ là người xử tội ông. Người dân xã Thới Thuận từng nhặt được đầu cá
ông trôi dạt từ ngoài biển vào, và họ đem về thờ cúng". ở vùng Ba Tri,
ông Nguyễn Duy Oanh từng ghi : "Dân chài lưới có lập một cái miếu thờ
cá ông tại vùng Bãi Ngao. Mỗi khi ra khơi, họ thường cúng vái. Nhiều
lần họ được cá ông giúp đỡ trong lúc biển động mạnh ghe đánh cá của họ
suýt chìm. Họ cầu cứu cá ông thì ít phút sau cá ông hiện đến. Cá ông kê
lưng đỡ thuyền họ lướt qua sóng gió hãi hùng. Mỗi lần cá ông hiện lên trên mặt biển che chở thuyền chài thì y như có một con cá đao theo bên" 3.
Cũng trong quá trình thần thoại hoá còn có một quá trình lịch sử
hoá. Đó là việc người ta gắn sự linh thiêng của cá ông với những ngày
hàn vi của nhà vua Gia Long. Người dân vùng Gò Công có chuyện cá
ông cứu Nguyễn ánh mà Thái Văn Kiểm đã ghi lại : "Gia Long khi còn là
hoàng tử Nguyễn ánh bị săn đuổi bởi quân Tây Sơn đã phải chạy thẳng
vào vùng cực Nam ở vùng Soi Rạp (giữa Gia Định và Gò Công). Một
trận bão điên cuồng nổi lên. Chiếc thuyền lớn chòng chành như sắp lật. Vị vua tương lai cầu khấn trời. Thế là một điều kỳ diệu xảy ra : một con
1 Bài Những tục thờ cúng đặc biệt và kỳ lạ của ngư phủ lưới đăng tỉnh Khánh Hoà, Tạp chí
Bách khoa, S,1970, số 322, tr.26. 2 Quyển thượng, Nam chi tùng thư xb, S, 1969, tr.123.
3 Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ 1757 đến 1945. Phủ QVK đặc trách văn hoá xb, S,
1971, tr.355-356.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
1364
cá voi xuất hiện, nó đội chiếc thuyền lên và bơi thoát ra khỏi vùng bão và
đặt thuyền cập bãi Vàm Láng (Gò Công)." 1 . Ông Toan ánh cũng ghi lại truyền thuyết này trong cuốn Nếp cũ hội hè đình đám của ông. ở Bến Tre
cũng lưu hành chi tiết đã được lịch sử hoá này về sự linh thiêng của cá
ông. Ông Nguyễn Duy Oanh ghi : "Dân vùng Bãi Ngao (Ba Tri) cũng thuật
rằng cũng có lần thuyền của vua Gia Long đến đây gặp sóng to gió lớn và
cũng được cá ông hộ tống vào đến Bãi Ngao" 2.
Tất cả các chi tiết của các truyền thuyết về cá ông đều hướng tới
mục đích thần thoại hoá, lịch sử hoá một đối tượng từ lâu được ngưỡng
mộ. Loài cá nơi biển cả đã hoá thân thành vị thần thiêng liêng của biển. Cơ sở của việc thần thoại hoá và lịch sử hoá ấy, chính là niềm tin tưởng ở
đối tượng được tin, của người dân sống bằng nghề biển. Cốt lõi của
những thần thoại ấy đều là việc cá ông/ cá voi cứu giúp người ngoài biển
khơi, đồng thời cá ông / cá voi giúp cho cư dân được mùa biển. Dù rằng,
các thần thoại có khác nhau, nhưng tâm thức dân gian của cư dân vùng
biển đều coi cá ông / cá voi là thần. Bởi vậy người dân vùng biển không
khi nào ăn thịt cá ông / cá voi. Người ta cũng gọi cá ông / cá voi bằng
nhiều tên khác nhau : Ông Khơi, ông Lộng, Ông Sứa v.v...
Khi gặp cá ông / cá voi chết, bao giờ cư dân vùng ven biển Bến Tre
cũng chôn cất rất tử tế. Việc chôn cất, như sự ghi chép của Trịnh Hoài
Đức, vào đầu thế kỷ XIX: ...Dân miền biển đến kính lễ, thấy thây cá voi
này trôi dạt, dân chài lưới góp tiền mua vải hòm liệm chôn, người trưởng
trong ngư hộ đứng làm tang chủ, cất đền phụng sự” 3.
Bên cạnh việc thờ phụng là tục kiêng kỵ. Dân ở đây có một loạt
kiêng kỵ liên quan đến cá ông / cá voi. Thái Văn Kiểm đã ghi khá chi tiết về việc kiêng kỵ này : "Chúng tôi đọc trong tạp chí Excuraions et
Reconnaissances số 6 in ở Sài Gòn năm 1880 : Việc dùng tên cá voi bị
cấm. Đó là dấu hiệu tỏ sự kính trọng cá voi. Người ta chỉ dùng từ ông.
Nếu cá bị chết, người ta cũng tránh dùng từ chết mà chỉ dùng từ lụy. Lăng
cá ông thì người ta gọi là lăng ông"4.
Trong sự chuyển hoá từ một loài vật nơi biển cả thành một vị thần của cư dân sống bằng nghề biển, có vai trò của vương triều Nguyễn. Nhà Nguyễn phong tặng cá ông là : "Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn thần".
Khảo sát điền dã các lăng cá ông ở các xã ven biển Bến Tre, chúng tôi
1 Bđd, tr.7.
2 Nguyễn Duy Oanh, Sđd, tr.356.
3 Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.59.
4 Tục thờ cá voi, tài liệu đd, tr.11.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
1365
chưa gặp một sắc phong nào. Nhưng ngay từ đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã ghi rất rõ : "Thần là con cá nhân ngư... ngư phủ dăng lưới đánh cá, thường hô là thần mà cầu khấn thì nhân ngư đuổi cả bầy cá chạy vào
lưới. Ngư phủ rất cảm ơn, có khi nhân ngư lầm vào trong lưới, thì ngư phủ mở một mặt lưới kêu mà dẫn ra, nhân ngư ắt theo cửa lưới ấy mà ra" 1. Ông đã khẳng định là vua Gia Long đã phong cá ông làm "Nam Hải tướng quân". Các tác giả Huỳnh Ngọc Trảng, Hồ Tường, Trương Ngọc
Tường, đã công bố sắc phong cá ông ở thời Minh Mạng mà các ông tìm thấy ở đình Lý Nhơn, phường 6, quận 4 thành phố Hồ Chí Minh, như sau :
"Sắc Nam Hải cự tộc ngọc (lân) chi thần, hộ quốc dân hiển trứ
công đức. (Tích) ngã (Thế) Tổ Cao Hoàng (Đế) (?) (?) Khánh bí (?) nhân tứ. Kim quang thiệu hồng (ân) (miễn) niệm thần hưu, hạp long ân điển, khả gia (tặng) (Phổ) Tế chi thần. Chuẩn hứa Trường Đà các đội (y) cựu
phụng sự thần. Kỳ hiệu linh lợi hữu du (tế). Khâm tai.
Minh Mạng ngũ niên thất nguyệt (?) nhật
(Sắc mệnh chi bảo).
Phỏng dịch :
Sắc phong cho thần Nam Hải cự tộc ngọc lân (tức cá voi) giúp nước phò dân công đức sáng tỏ. Xưa Thế Tổ Cao Hoàng Đế của trẫm, (tức vua Gia Long) (chẳng may bị nạn) đã gặp điềm lành là thần cứu kịp lúc. Nay được sự soi sáng của hồng ân, trẫm liên miên suy nghĩ đến công
ơn thần hợp với sách ghi ơn lớn, nên tặng thêm là Thần Phổ Tế. Chuẩn cho những đội Trường Đà (tức những đội canh giữ cửa sông) y như cũ mà thờ phụng thần. Còn thần thì linh ứng giúp ích (cho những người trên sông nước). Kính vậy thay.
Ngày.... tháng 7 năm Minh Mạng thứ năm (1825)
ấn : Sắc mệnh chi bảo" 2.
Thời điểm của sắc phong này là năm 1825. Vì thế, có thể nói quá
trình trở thành vật biểu trưng thần biển của cá voi có cả hai chiều tác động : niềm xác tín của người dân và sự dội xuống của vương triều nhà Nguyễn. Người dân tin tưởng, thờ phụng, triều đình phong chức cho cá voi để bắt dân phụng thờ. Dù là chiều tác động nào, niềm tin tưởng của
1 Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.112.
2 Đình Nam Bộ, tín ngưỡng và nghi lễ, Nxb TP HCM, 1993, tr.269-270. Những chữ trong ngoặc
đơn là do sắc thần bị rách, các tác giả đoán thay những chữ đã mất.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
1366
cư dân sống bằng nghề biển, đã tạo ra quá trình thần thoại hoá và lịch sử hoá một con vật được phụng thờ./.
N.C.B
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
101
Lễ hội Cầu an bản Mường
Quỳnh Chi
Lễ hội cầu an cho bản mường (xên bản, xên mường) của người
Thái, đặc biệt là người Thái Mai Châu, Thuận Châu, Mộc Châu; người
Mường... là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng rất quan trọng đối với
cộng đồng người ở Tây Bắc. Lễ hội thường được tổ chức vào cuối tháng
giêng, đầu tháng hai âm lịch hàng năm (dịp tết Nguyên đán), gắn với tục
giết trâu hiến sinh cầu và tạ thần linh, được biểu hiện qua tiếng sấm, tức
lời phán quyết của vua trời, qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng... Lễ hội có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản
mường, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy,
nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đồng bào
ở địa vực lớn (bản, mường).
Lễ hội cầu an cho bản mường của một số tộc ít người sở dĩ thu hút
được sự tham gia tổ chức, đóng góp... của các bản, mường là bởi, trước
hết nó gắn với nghi lễ hiến sinh thờ thần nước, nguồn nước, vị thần gắn
bó chặt chẽ với đời sống tâm linh của cộng đồng. Thứ nữa, theo quan niệm lâu đời của người dân bản mường, nếu không tổ chức lễ cúng trong
toàn bản, toàn mường, không hiến lễ vật (trâu, cặp trâu) cho tổ tiên và
các vị thần linh thì cuộc sống vật chất và tâm linh của con người trong
cộng đồng sẽ gặp những trắc trở, không thuận lợi, thần không phù hộ cho
được nhân khang, vật thịnh, cộng đồng bình an. Chính vì thế mà để được
bình yên, cộng đồng người Thái, Mường... nơi Tây Bắc xa xôi này sử
dụng một thế ứng xử rất quen thuộc của các cư dân Việt và cư dân các tộc ít người trên đất Việt, là hiến tế lễ vật (trâu, bò, heo, gà... thảng hoặc
kể cả người nữa) cho thần linh, mà ở đây là thủy thần, thần nước, thần
nguồn nước... dưới dạng con thuồng luồng, con giải, con giao long... Các
nghi lễ này ngày càng nhạt dần đi, ngắn gọn thêm, nhường chỗ cho các
trò bách hý mang tính hội hè. Dù thế, qua nghi thức hiến sinh rất ngắn
gọn trên, những nhà khoa học, văn hóa thạo giải mã sẽ đọc được rất
nhiều biểu tượng gắn với cội nguồn văn hóa vốn có.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
102
Vậy là, để cầu bình an, cầu được mùa, mường bản tổ chức lễ hội
xên mường, xên bản 1. Thường thì người ta tổ chức lễ cầu an cho mường trước, sau đó lần lượt làm lễ hội cầu an cho bản hoặc liên bản. Lễ hội
này, như đã nói, không chỉ bộc lộ khát vọng an lành cho cuộc sống, mối
quan hệ khăng khít giữa thần và người mà còn biểu hiện khát vọng sinh
sôi qua sự mong muốn và cầu khẩn mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi.
Dần dà, lễ hội này còn mang tính chất tạ ơn thần linh đã cho mùa màng
bội thu, đem sự no ấm đến cho mọi người. Chính vì thế, ngày nay, qui
mô lễ hội (to hay nhỏ, kéo dài hay thu gọn...) một phần lớn tùy thuộc vào
thời tiết liên quan đến sự được mất của mùa màng năm tới, nhưng còn phụ thuộc vào sự được mất, nhiều ít của mùa màng vừa rồi, sau khi thu
hoạch.
Lễ hội này thường được tổ chức tại một bãi rộng, nơi có nguồn
nước (mở nước), nhiều khi là nguồn nước thiêng, hoặc ở cạnh rừng (bìa
rừng) trong hai hoặc ba ngày. Tùy địa vực mà sự hiến sinh gắn với một
biểu hiện của thần linh hay bản thân thần linh (sấm, mưa, thuồng luồng,
thổ công, thổ địa...). Nhiều người cho biết, ở Mộc Châu, lễ hội này được
tiến hành ở đầu nguồn nước thuộc một bản được chọn (thường là bản Mòn). Đây là nguồn nước thiêng, gần rừng thiêng, nơi cư trú của thần
thuồng luồng đầy uy lực. ở người Thái Mai Châu, thì lễ hội lại được tổ
chức ở bãi rộng gần đình như các lễ hội ở châu thổ, đồng bằng. Có nơi,
người ta tổ chức lễ ở các miếu thờ thổ công, thổ địa của bản, của gia
đình, ở vườn và ở đầu ruộng. Thường thì ngay từ dịp tết Nguyên đán,
mọi thứ dùng cho lễ hội đã chuẩn bị xong.
Lễ hội thường kéo dài trong 3 ngày (có nơi hai ngày một đêm, có nơi một ngày một đêm). Nghi lễ cúng kiếng cơ bản là hiến sinh trâu (nơi
là một cặp trâu đực to, trắng - đen, nơi thì một con, nhiều nơi cúng cả gà,
lợn). ở Mộc Châu, trong lễ xên bản, xên mường, người ta hiến tế cặp trâu
đen - trắng cỡ từ mười tuổi trở lên. Hai trâu, nhưng trâu trắng mới thực
sự mang năng lượng thiêng để thành lễ vật tế thần (ở đây là thủy quái
thuồng luồng, con ma to nhất dưới nước mà bà con thường gọi là phi
ngược). Có lẽ nghi thức thờ, hiến sinh hai trâu là mới hơn nghi thức hiến
sinh một trâu mộng rất phổ biến. Bởi theo bà con cho biết, trước kia, dân một mường khác phải đem trâu trắng và các đồ cúng lên cúng tại bản
Mòn này. Từ đó nảy sinh lễ cúng liên mường (xên liên mường) mà đồ
1 Các tác giả Thạch Phương, Lê Trung Vũ trong 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995 gọi là hội hoa ban, do hội mở định kỳ vào mùa hoa ban nở.
Cách gọi này, có lẽ, chỉ đúng về mặt hình thức, bởi, trong mùa hoa ban nở, không chỉ diễn
ra lễ hội xên bản, xên mường.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
103
cúng và trâu hiến sinh tăng thêm về số lượng. Suy tưởng này, thực ra,
mới chỉ là giả thiết.
Người chịu trách nhiệm chính trong tổ chức lễ hội cầu an bản
mường là a nha, nhưng người trực tiếp điều hành buổi lễ lại chính là ông
thầy cúng (mo mường). Dân chúng trong mường, ngoài bản, bất kể già
trẻ gái trai đều có nghĩa vụ tham gia, đóng góp tùy sức mình và được
quyền tham dự lễ hội của mường.
Nghi lễ giết trâu ở đây hết sức đơn giản, không quan trọng và hệ
thống như nghi lễ đâm trâu, ăn trâu ở Tây Nguyên. Trước ngày hội chính
thức, tức là khoảng 2-3 giờ chiều ngày hôm trước, người ta đã làm lễ giết trâu. Trước khi thịt trâu, ông mo mường và ông mò phăn (tức ông thầy
chém, được dân mường chọn ra) làm lễ vái thần linh, tổ tiên rồi cầm dao
nhọn làm động tác chém dứ (mang tính nghi lễ) vào cổ các con trâu dùng
tế lễ, miệng thì thầm những câu như thần chú (thực ra, nhiều người cho
rằng các ông chỉ nói lời kính báo với thần linh, tổ tiên: trâu tế thần đã
sẵn, dân bản, dân mường đã thịt trâu dâng các vị rồi đây nhé, xin các vị
về mà nhận lấy). Sau đó, các ông lui ra, dành chỗ cho các thanh niên
khỏe mạnh vào chém trâu, thịt trâu... Bắt đầu ngày hội, người ta làm nhiều mâm cỗ cúng (mỗi mâm cỗ tượng trưng cho một bản lớn, xưa, có
tạo bản đứng đầu, các bản nhỏ không được tượng trưng bằng mâm cỗ)
đặt cạnh nguồn nước thiêng của mường. Đặc biệt, mâm cỗ của ông a
nha, đặt ở giữa, dùng cúng tổ tiên (mâm cúng chính thức) phải đầy đủ
các bộ phận của con trâu hiến tế (đầu, đùi, thân, móng, đuôi...) cùng tất
cả các bộ phận của một con lợn. Những mâm còn lại của các bản, ngoài
thịt trâu, cơm rượu... còn phải có gà vịt, đặt ở hai bên mâm cúng chính, dành để cúng các vị thần khác. Khi buổi lễ bắt đầu, mo mường quì trước
các mâm cỗ, phía sau là a nha, tạo bản, dân mường quì lễ. Trong không
khí trang nghiêm, linh thiêng, ông mo trang trọng, xuất thần đọc bài cúng
đã thông thuộc, mời tổ tiên (ông cha bà cố nội ngoại tiếng Thái là Pao pu
pang cải), thần đất (Chau đỉn), chủ nguồn nước (Chau nặm bo), thổ công
thổ địa... về nhận lễ vật, dùng cỗ, vui vẻ với cộng đồng dân cư bản
mường; đồng thời cầu mong tổ tiên thần linh ban phúc, phù trợ cho bản
mường bình yên, làm ăn suôn sẻ, con người khỏe mạnh, ngô lúa sinh sôi, gia súc gia cầm đàn đàn, lớp lớp... Khấn xong, mo mường và các vị chức
sắc cùng dân bản mường vái lạy tổ tiên và các vị thần. Trong lúc đó, mo
mường ném hai quả trứng (một đỏ, một trắng) và một nắm cơm nhỏ
xuống nguồn nước. Cuộc lễ kết thúc, mọi người bắt đầu vào cuộc ăn
uống cộng cảm, vui chơi thể thao, văn nghệ...
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
104
Cuộc ăn uống cộng cảm diễn ra hết sức vui nhưng đúng lễ nghi.
Các ông mo mường, a nha, tạo bản... ăn làm phép ở mâm cỗ chính, rồi đi từng mâm; ở mỗi mâm các ông ăn một miếng thịt, uống một hớp rượu.
Kế đó, cả bản mường ăn uống vui vẻ cho bằng hết các mâm, không được
bỏ thừa hay đem về.
Để chuẩn bị cho việc diễn ra những trò bách hý trong hội lễ, ngay
từ sáng tinh mơ của ngày đầu tiên, bên cạnh vị trí cúng lễ (mặt bằng, có
thể là bàn đá cạnh nguồn nước), người dân bản đã sửa sang, dọn dẹp mặt
bằng, rộng cách nơi hành lễ khoảng trên dưới 100m. Mọi hoạt động hội
hè, trò chơi, văn nghệ, thể thao...đều được diễn ra nơi đây. Trời về chiều, trong tiếng trống, tiếng chiêng dìu dặt lúc khoan lúc nhặt, dân làng tổ
chức xòe vòng, xòe đôi, xòe đơn thật hào hứng. Bên mâm rượu tập thể,
những nam thanh nữ tú hát giỏi múa hay, biết nhiều, nhanh nhẹn trong
ứng đối vừa ăn uống, chọc ghẹo, vừa hát đối đáp giao duyên. Họ hát giới
thiệu, khen ngợi nhau, bày tỏ chí hướng, tỏ lòng với nhau... trong men
rượu, men tình... Bên cạnh đó, dăm bảy đôi nam nữ (thường là những đôi
đã ngầm kết nhau, tổ chức múa sạp, thi bắn nỏ, bắn súng hỏa mai. Nhiều
nơi còn có tục đi săn tập thể vào ngày kết thúc lễ hội. Dưới sự chỉ huy của một thợ săn giỏi nhất mường, được dân bản bầu lên, mọi người lao
mình vào cuộc săn một cách hào hứng. Thú rừng săn được sẽ chia đều
cho mọi người cũng như lũ chó tham gia cuộc săn... Cứ như thế cuộc vui
kéo dài trong hai, ba ngày. Sau đó, bản nào về bản ấy. Bản nào giàu có,
nhiều khả năng vật chất thì mời mo mường, a nha về bản mình, tiếp tục
mổ lợn, giết gà tiệc tùng vui vẻ, hoặc tổ chức cầu an cho bản (xên bản).
Như vậy, các nghi lễ chính trong lễ hội cầu an bản mường vừa bộc lộ tín ngưỡng thờ phụng thủy thần (thần nước, thần nguồn nước, sấm báo
mưa) vừa thể hiện tín ngưỡng gắn với thời săn bắn, hái lượm nguyên
thủy. Tuy nhiên, bằng vào tục hiến sinh trâu, có thể thấy nghi lễ chính là
cầu thần nước, cầu tổ tiên cho làng bản bình an, làm ăn phát đạt, người
vật phát triển. Tục đi săn, nhiều khi, là hệ quả kéo theo, ngày càng mang
tính hội hè nhiều hơn. Vết tích nghi lễ tín ngưỡng qua tục săn bắn tỏ ra
rất mờ. Dù sao, đó cũng là sự kéo theo hay xếp lớp văn hóa, thường gặp
trong văn hóa dân gian.
Về lễ hội cầu an cho bản mường, có tư liệu khác cho rằng, đối
tượng thiêng được chú ý là tiếng sấm (bóng dáng của nhiên thần, thần
sấm, chớp - pháp lôi, pháp điện). Ngoài việc bộc lộ sự ngưỡng vọng,
khẩn cầu thần nước cho mùa màng sinh sôi, con người phồn thịnh, có lẽ
cũng còn những tín hiệu biểu trưng khác cần phải bóc tách và lý giải. Dù
sao, việc chú trọng đến tiếng sấm đầu năm, với tư cách bóng dáng hay
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
105
bản thân một nhiên thần (đại diện cho trời), một mặt chứng tỏ sự gắn bó
đến mức nhiều khi lệ thuộc vào thiên nhiên, nhiên thần của cư dân và mùa màng tộc Thái, mặt khác cho thấy kinh nghiệm sống, kinh nghiệm
làm ăn phong phú của cư dân ở đây. Qua một vài chi tiết thoáng qua, có
tính gợi mở sau đây; "Người Thái Mai Châu cho rằng hễ năm nào nghe
tiếng sấm rền từ phía thượng nguồn sông Mã, thì năm đó ắt có đại hạn...
Người ta mổ ít lợn, gà làm lễ tế thần để cầu mưa, rửa lá lúa, xua đuổi
thần trùng... Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng
nguồn sông Đà, thì mọi người đều phấn khởi, tươi vui. Họ tin rằng năm
đó sẽ mưa thuận gió hòa, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy bồ đầy kho, mọi người khỏe mạnh, ít ốm đau" 1, có thể thấy thần linh
cũng được phân loại tốt xấu gắn với hoàn cảnh cụ thể, sự vật cụ thể,
nguồn nước cụ thể (sông Mã, sông Đà...). Kinh nghiệm làm ăn thực tiễn
có tác động không nhỏ đến suy niệm và đời sống tâm linh cư dân miền
núi. Điều này gắn với việc thờ thủy quái đã nêu, song có vẻ gián tiếp
hơn. Tuy nhiên, về mặt diễn trình, lễ hội cầu an bản mường có khác nhau
ở một số chi tiết hội.
Như vậy, ngoài sự khác biệt đôi chút ở nghi lễ hiến tế, hầu như, các hoạt động của lễ hội cầu an bản mường đều giống nhau, ở chỗ đây là dịp
để mọi người tụ họp, gặp gỡ với tổ tiên, thần linh, gặp gỡ với nhau trong
cả sinh hoạt vật chất lẫn hành động tâm linh; vừa bộc lộ niềm thành kính,
ngưỡng vọng thánh thần, vừa thể hiện sức mạnh của con người; vừa cầu
phúc cho một cuộc đời hạnh phúc, an bình, vừa bộc lộ khả năng vui chơi,
thi tài... Có thể nói, lễ hội cầu an bản mường là một hoạt động văn hóa
tín ngưỡng đặc sắc của các tộc Thái, Mường...; một sinh hoạt văn hóa dân gian tổng thể; một nguồn vui không thể thiếu của cư dân ít người nơi
rẻo cao Tây Bắc xa xôi, mỗi khi mùa hoa ban trắng nở./.
Q.C
1 Thạch Phương, Lê Trung Vũ.Sđd. tr. 331-337.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
107
Lễ hội cúng rừng
Vàng Thung chúng
Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, cùng với hội tết nhảy của người
Dao; hội gầu tào - sải sán của người H’ Mông; hội xuống đồng của
người Giáy, Tày... người Nùng lại tấp nập mở hội cúng rừng.
Hội cúng rừng được tổ chức ở hai khu rừng cấm khác nhau, vào hai
thời điểm khác nhau: đó là hội cúng rừng ở đầu bản vào ngày 30 tháng
giêng và hội cúng rừng cấm giữa đồng vào ngày mồng 2 tháng 7 âm lịch.
Hội cúng rừng đầu xuân ngày 30 tháng giêng được tổ chức ở khu
rừng đầu bản. Đây là hội chính nên được tổ chức một cách chu đáo tỷ mỷ và chặt chẽ. Cách đây vài chục năm, hội này do các già làng đứng ra tổ
chức. Sau hội được giao cho ban quản trị hợp tác xã cùng đội sản xuất lo
liệu và hiện nay giao cho các trưởng phó thôn chủ trì, các thầy cúng thầy
mo chỉ làm các thủ tục lễ nghi.
Từ trước đó hàng tuần, các cụ ông và bà con dân bản tổ chức quyên
góp tiền nong mua lợn gà, vàng hương, gạo nếp làm rượu cẩm. Ban tổ
chức tập hợp bà con dân bản phân việc cho các bộ phận: hậu cần, tiếp tân lễ nghi phục vụ thầy cúng - thầy mo, bộ phận phát dọn cỏ làm sạch môi
trường khu rừng cấm. Đặc biệt, trong bộ phận hậu cần, người ta chọn
một bà già vừa đức độ vừa có kinh nghiệm làm hũ rượu cẩm để cúng
thần linh.
Từ sáng sớm ngày 30 tháng giêng, trong khi đợi các bộ phận phát
dọn, tiếp tân chuẩn bị, các thầy mo - thầy cúng xúc miệng bằng nước
muối, rửa mặt bằng nước trầm hương và điểm tâm ngụm rượu, mặc quần
áo dài mới, chân đi giày, đầu vấn khăn xếp chuẩn bị tiến hành các nghi lễ cúng rừng. Trong khi cúng, không được ai ăn uống, vệ sinh bừa bãi, ô uế
môi trường.
Bàn thờ cúng đặt ở hai gốc cây cổ thụ gọi là cây bố và cây mẹ
(tiếng Nùng là chapôq- chamêq). Thức ăn đặt trên lá chuối để trên một
cái giá hai tầng, mâm trên và mâm dưới.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
108
Cỗ mâm trên gọi là mâm đất nước gồm một con gà sống lông đỏ
đẹp; một con lợn đực đen tuyền; 7 chén rượu xếp hàng ngang- chén giữa đội đáy một chén khác; một bát nước; một nhúm muối, 7 con ngựa giấy
đen; một cái ô bằng giấy đen che lư hương (lư hương được bện bằng cỏ);
7 nén nhang; 7 bát cơm và 7 xâu thịt tổng hợp. Đặc biệt có một bát thịt
gồm thịt nạc, gan, tim, tiết, gọi là bát bảo hộ đất nước.
Cỗ mâm dưới gọi là mâm bảo vệ bản làng. Mâm này gồm một con
gà sống gáy, một miếng thịt lợn, 5 xâu thịt lợn tổng hợp; 5 chén rượu và
5 bát cơm. Chén giữa cũng đội đáy chén khác; 5 con ngựa bằng giấy.
Khác với mâm cỗ trên, mâm dưới có một bát thức ăn chay.
Có hai thầy cúng, thày mo thay mặt nhân dân thôn bản úp mặt vào
cây, quỳ lạy 4 phương trời, 2 lần mỗi lần 3 lạy, mang nghĩa đón nguồn
nước mẹ về phù hộ độ trì cho bà con dân bản an cư lạc nghiệp, mọi sự
bình yên.
Rượu để cúng là rượu nếp cẩm. Sau khi khai lễ lần thứ nhất, quỳ
lạy 4 phương trời, thì mổ lợn gà làm các thức ăn theo thủ tục để bày thờ,
hết hai lần cúng thì các thầy cúng và hai người tiếp tân cùng nhau ăn
uống điểm tâm, xem bói xương gà. Trong khi thày cúng quỳ lạy, khấn vái, những người khác có thể xem nhưng không được nói tiếng dân tộc
khác để pha tạp tiếng mẹ đẻ. Các thày cúng và người phục vụ không
được ăn uống gì cả, kể cả vệ sinh cũng phải ra ngoài khu rừng cấm. Sau
khi làm hết các thủ tục thờ cúng, xem bói xương gà, trưởng ban tổ chức
mới dùng loa đi mời toàn thể dân bản tới dự hội.
Hội được quy tụ ở ven khu rừng cấm và sinh hoạt tại chỗ. Người
đại diện gia đình đến dự hội phải là con trai, bất kỳ già trẻ đều được. Đến dự hội ai cũng phải ăn mặc chỉnh tề, không được để đầu trần chân đất và
tự đem bát đũa cơm rượu đóng góp theo nhu cầu của mình. Các gia đình
ở thôn bản khác và đồng bào dân tộc khác trong khu vực cũng được phép
dự hội miễn là tuân thủ các quy định chung của ban tổ chức mà tục lệ đề
ra như: phải có trách nhiệm đóng góp theo quy định chung, trong lúc dự
hội cũng như sau lễ hội phải tuân thủ các lệ làng trong phạm vi khu vực
như: không thả rông gia súc, gia cầm phá hoại mùa màng người khác;
không chặt phá cây rừng bừa bãi, khi làng bản có gia đình nào tai bay vạ gió đói rét, bệnh tật, thiên tai hạn hán hoặc cưới xin, tang gia đau buồn
phải có trách nhiệm giúp đỡ, đoàn kết lẫn nhau trong lúc hoạn nạn, khó
khăn. Mọi người ăn uống tập trung như một hội thề, không phân biệt già
trẻ, giàu nghèo vì tất cả thức ăn đều nấu chung thành một chảo (như chảo
thắng cố) và chia sẻ đều nhau. Các thầy cúng cũng cùng ăn uống với mọi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
109
người trong không khí chan hoà tình cảm gia đình. Mọi người vừa ăn
uống vừa chuyện trò vui vẻ. Giữa tiệc hội, thầy cúng trịnh trọng thông báo những điều hay, điều gở của xóm làng qua bộ xương gà, đầu gà,
chân gà cho dân bản hay để cùng nhau đề phòng, tránh những điều tai
bay vạ gió..., cầu chúc cho dân bản lao động sản xuất được mùa và sống
bình yên hạnh phúc. Các thầy kêu gọi mọi người hãy đoàn kết chung
lưng đấu cật thi đua sản xuất trên đồng ruộng, nương rẫy, phát triển chăn
nuôi đàn gia súc, gia cầm; cầu thần rừng phù hộ độ trì che chở cho mọi
người đều được thanh tịnh bình an, mùa màng tươi tốt, có cuộc sống an
khang thịnh vượng đồng thời yêu cầu mọi người thực hiện tốt các quy định về lệ làng đã được dân bản bàn bạc, nhất trí đề ra trong lễ hội. Cuối
buổi lễ hội, thầy cúng tuyên bố ăn tết 3 ngày không ai được vi phạm tục
lệ. Nếu ai mang vác cuốc cày, bừa, dao hay chị em phụ nữ có mang đội
nón qua làng trong những ngày tết sẽ bị phạt vạ.
Sau các thủ tục lễ nghi, các thày cúng ra về, dân bản vẫn còn rượu
chè ca hát linh đình. Có tốp thì chơi trò Leng hao tức là hai tốt gần giống
như “oẳn tù tì”; có đám thì hát Sán côx tức sơn ca nhưng chủ yếu là hát
dân ca Lưnx cha chinw (tiếng hát làm ăn) trong đó có đoạn:
Một năm 12 tháng
Tháng giêng lá mục(1)
tàn
Tháng hai lá mục nhú
Lá mục nhú mỏ quạ
Lá gianh ngọn lưỡi mác
Mọi lá cây đều mọc
Muôn thứ hoa đua nở
Chim rừng hát vang rừng
Chim rừng ca vang núi
Ve ở nương kêu nhiều
Đánh thức người ngủ muộn
Dậy lấy nước đựng bầu
Dậy lấy thóc tra nương
Báo làm ăn mùa mới
Kẻ có ngựa sửa chuồng (1)
Lá mục: Lá loại cây tên là “mayx mucq”
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
110
Người chống loạn sửa súng
Kẻ làng chơi sửa nhị
Người làm ăn sửa đồ(2)
.
Tuy rượu chè ca hát say sưa, nhưng cuối hội không ai quên dành
một phần thức ăn về cho gia đình cùng vui hưởng phúc lộc của rừng. Sau
đó các gia đình làm các loại bánh trái đã chuẩn bị sẵn như bánh khúc,
bánh dày, bánh chưng rồi mổ gà cúng gia tiên, rủ con cháu họ hàng, mời làng xóm ngoài bản thân quen cùng xum vầy ăn tết ba ngày. Nam thanh
nữ tú, trẻ em thiếu nhi lại trưng diện những bộ quần áo mới lộng lẫy đi
tham dự các trò chơi xui xuân như đánh quay, đánh yến, đánh đu, làm
leng hao, chơi cờ gỗ. Từ khắp góc bản đến giữa làng chỗ nào cũng nhộn
nhịp, nghe thấy những tiếng con quay đôm đốp chạm nhau, đu quay kêu
kẽo kẹt tiếng vỗ tay cổ động ầm ĩ của những người thắng cuộc trong hội
leng hao, cờ gỗ... Sau 3 ngày chơi tết, ăn uống vui xuân thoả thích, nghe
tiếng chim ngủ muộn kêu vang động núi rừng, không ai bảo ban thúc giục, bà con dân bản tiếp tục một năm làm ăn mới vì sự sinh tồn của mỗi
con người, gia đình và cả làng bản.
Truyền thuyết của người Nùng kể lại rằng: con người vốn có tổ
tiên, sinh ra nhiều thế hệ con cháu nối tiếp nhau khai thiên lập địa, đoàn
kết bên nhau lập làng, dựng bản giữa trời đất thiên nhiên trù phú. Nhờ
rừng núi mênh mông, thời tiết thuận hoà, đất đai màu mỡ, cây cỏ hoa lá
xanh tươi con cháu mới xây dựng cho mình cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cũng như con người, đất trời rừng núi là tổ tiên, linh hồn của vạn vật. Nó
bảo vệ, che chở cho thế giới thiên nhiên luôn tồn tại và phát triển. Vì vậy,
cùng với việc thờ cúng gia tiên trong các ngày lễ tết cổ truyền, để đền
đáp công ơn của tổ tiên thì cũng phải cúng núi rừng, cầu rừng phù hộ che
chở cho mùa màng, gia súc gia cầm luôn được phát triển tốt tươi không
bị mưa gió vùi dập, sâu bọ phá hoại, bệnh dịch giết hại gia súc; cầu núi
rừng và tổ tiên phù hộ cho người Nùng tránh khỏi mọi tai bay vạ gió,
loạn lạc lâm nguy. Rừng núi non nước được dân thờ cúng như tổ tiên dân tộc. Nguyên do của lễ hội cúng rừng là thế.
Hội cúng rừng còn được những gia đình gặp rủi ro, ốm đau, bệnh
tật, mùa màng thất bát tổ chức.
Lễ vật cúng rừng ở gia đình đơn giản hơn, gồm một con lợn, một
con gà sống gáy và một chai rượu. Thầy cúng phải khấn 3 bài cúng là:
(2)
Đồ: Đồ dùng lao động sản xuất
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
111
- Mời thần rừng xuống trình tấu,
- Xin thần rừng giúp cứu dân độ thế,
- Mổ lợn gà nạp lễ.
Ví dụ trong bài cúng mời thần rừng trình tấu đề cứu giúp gia chủ có
đoạn:
Hỡi chủ gỗ sung, cội gỗ sâng!
Kính bốn phương trời bốn hướng đất
Dù ở phương đông phương nam
Cũng kính mời tới phương đông phương nam
... Ông ở xa, suối sâu không qua được
Khói hương này cũng đi qua
Ông ở xa, đường dốc không biết đi
Khói hương này đi báo phải về
Ông ở gần lời hoa tiếng ngọt
Nô tỳ này đi van mãi cũng về
Đi nói đến chỗ đứng, đi van đến chỗ nằm phải về
Nô tỳ này đi kính mời phải về
Thày mo này đi tìm phải gặp
Mời về dẫm trước bàn
Mời về ngồi lên ghế
Đừng để bàn này vắng
Không để ghế kia vẻ...
Sau khi cúng xong, gia chủ mời đại diện của bản cùng họ hàng ăn
uống. Trong ngày lễ này, những người trong gia tộc cũng phải tuân thủ
những điều cấm kỵ như trong hội cả bản.
Hội cúng rừng cấm giữa đồng hoặc ngay trước bản tổ chức vào ngày
mồng 2 tháng 7 âm lịch - đầu mùa lúa chín. Rừng cấm này chỉ bảo hộ vụ
lúa ở ruộng đồng.
Mâm lễ vật cúng ở rừng này cũng giống mâm cúng ở vùng rừng cấm
đầu bản, song có một điều khác là mâm cúng dưới ở rừng cấm này có
thêm một con vịt, vì bà con thường chăn vịt ở gốc cây lúa.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
112
Quá trình tổ chức hội này cũng giống như hội chính. Song trong quá
trình tổ chức, nếu nhà nào đang có ruộng lúa bị sâu hại hoặc bị úa vàng khô gọi là bị phạm thần lửa, tiếng Nùng gọi là Sriuw phay, thì cũng cúng
tại chỗ. Trong mâm cúng không có xâu thịt mà chỉ có bát thịt tinh chất và
xôi vàng, dùng rượu trắng chứ không phải dùng cơm nếp cẩm với nghĩa
chúc mừng và cầu mong lúa chín rộ.
Lúc ăn hội, chỉ có nam giới đi dự, bất kỳ già hay trẻ. Những người
có vợ chửa thì không được đi dự mà chia phần về nhà vì người ta tin rằng
nếu đi thì lúa sẽ bị mắc bệnh đốm lá. Những người đi dự không đội mũ thì
ruộng sẽ có sâu ăn lúa và ai đem theo ớt đi ăn ruộng lúa sẽ chết khô. Vì vậy, trong khi đi ăn cỗ, mọi người phải tuân thủ theo quy định chung của
lệ làng là không được nói tiếng dân tộc khác, không được để đầu trần chân
đất, không được ăn mặc quần áo rách, không được đem ớt, cơm cháy, rượu
khê. Nước chấm- món ăn cộng đồng chỉ có muối, mì chính, rau thơm. Lúc
ăn có thể nói tục chứ không được chửi bậy.
Như vậy, hội cúng rừng của người Nùng ngoài ý nghĩa là hội cầu
mùa, cầu đất trời thiên nhiên phù hộ cho con người một cuộc sống an
khang thịnh vượng, còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bảo vệ cảnh thiên nhiên kỳ thú... của làng bản./.
V.T.C
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
114
Hội Đoọc Moong người Mường
ở xã Phong Phú
Nguyễn Hữu Thức
Trước đây, rừng còn nhiều, sau tuần vui tết, người Mường ở xóm
Lý, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình lại chính thức bước vào một mùa làm ăn mới. Ngày ấy, người Việt gọi là ngày hạ nêu.
Nếu người Việt tổ chức nêu vào mồng 7 tháng giêng thì hạ nêu
của người Mường Tân Lạc là ngày 6 tháng giêng, bởi quan niệm trong
dân gian cách tính ngày của người Mường xưa lùi một ngày so với người
Việt. Ngày mồng 1 tết của người Việt coi là ngày 30 của người Mường,
thế nên, ngày hạ nêu của người Việt cũng là ngày hạ nêu của người
Mường mà chỉ khác nhau về cách gọi.
Ngày hạ nêu có lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng). Sau lễ khai sơn mọi người bắt đầu vào rừng hái lượm và săn bắt thú.
Trong ngày này, một trong những sinh hoạt cộng đồng rất vui,
nhiều nơi tổ chức, đó là Hội Đoọc Moong. Tiêu biểu là hội đoọc moong
của người Mường xóm Lý.
Đoọc nghĩa đen là đâm, mở rộng nghĩa là săn. Ngôn ngữ Tày-
Thái cổ có một âm tương tự là toọc nghĩa là đóng, mở rộng nghĩa là
trồng. Moong còn gọi là Muông, là từ chỉ các loài thú 4 chân. Hội Đoọc Moong là hội đi săn các loài thú rừng.
Buổi sáng đó, người trong Mường hay Quềl (đơn vị cư trú) ở
Mường Lồ (xã Phong Phú ) không phân biệt trẻ già trai gái, ai có thể trèo
đồi, leo núi được cùng kéo nhau đi. Một người săn giỏi (trùm săn)của
mường cùng các cụ già có kinh nghiệm bàn định hướng xuất phát làm ăn
và chọn điểm săn. Sau đó, mọi người tưng bừng reo hò cùng ông trùm săn
theo hướng đã định đến một quả đồi hay một khu rừng. Mọi người toả ra
vây quanh khu rừng đó. Những thợ săn giỏi có súng kíp hoặc nỏ cứng, nhanh chân tìm chỗ đón lõng ở các khe, các lối mòn thú hay đi. Những
người khác khép kín dần vòng vây, họ hò, reo, hú đuổi thú, tay cầm cây
lao hoặc cầm một cây gậy nhỏ. Nhiều người cầm cồng (chiêng), loại cồng
nhỏ (chiêng boòng beeng) đánh theo điệu đi săn. Những chú chó săn của
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
115
mường theo hiệu lệnh của cồng săn vượt lên sục sạo các bụi rậm đánh hơi
thú.
Tiếng cồng săn dập dồn, tiếng hò reo vang rộn, tiếng chó sủa chói
tai cuốn hút bước chân người, tất cả tạo thành một âm hưởng sôi động của cuộc sống cộng đồng bước vào mùa làm ăn mới.
Thú rừng bị vòng vây khép kín dồn dần vào một nơi. Trước là bị
chó tấn công sau là người ùa đến dùng gậy nhọn, cây lao chặn đánh.
Cũng có khi không đợi đến lúc bị dồn vào một chỗ những con thú ranh
mãnh phóng ngược lại hướng tiến của con người. Lúc ấy, mọi người
không bỏ vây mà chỉ số ít người tách ra đuổi theo con thú. Thường chỗ
con thú thoát được lại là chỗ đã có người nấp đón chỉ đợi thú chạy vào
tầm ngắm là nổ súng tiêu diệt.
Hội đoọc moong rất vui, thu hút nhiều người tham gia. Nếu buổi
săn hôm đó được thú, làng Mường vui mừng đánh cồng, gõ phách. Họ
khiêng con thú đến một miếu lớn bằng gỗ, dựng ở xóm Lý, thờ Đức Tản
Viên. Hậu cung có tượng người (Thánh Tản Viên) bằng đá. Mọi người
mổ con thú săn được dâng lễ tế Thánh Tản. Ông mo thay mặt dân xã,
mặc áo thụng, đội mũ tai én làm lễ khấn Thánh Tản phù trợ mùa màng
tươi tốt. Nhỡ không được thú gì, dân Mường tỏ ý buồn cho việc xuất
hành đầu năm mới không may. Dân làng đành phải chọn một con bò thay thú rừng tế Thánh Tản. ở miếu thờ Thánh Tản có tục không giết trâu để
tế thần. Có điều khi chọn nơi săn, các cụ đã tấu trình kỹ lưỡng, một khi
đã kéo dân chúng đi đoọc moong thì thế nào cũng phải săn bắn được thú.
Thế nên, khu rừng được chọn thường là nơi cấm săn bắt trong năm để
nhiều thú về ở. Sau lễ tế Thánh Tản, mọi người tự mang cơm và rượu cần
đến vui mừng suốt ngày tới tận đêm khuya.
Ngoài con thú được dâng lễ Thánh Tản, hễ phường săn có bắt thêm được con thú nào khác, làng có lệ chia phần như sau: Người nào
giết chết con thú sẽ được hưởng một đùi sau cùng đầu con vật, vị trí cắt
lấy đầu tính bằng cách tóm cái tai con vật vít xuống phía cổ, đầu nhọn tai
đến đâu thì cắt phần cổ đến đó.
Sau đấy, họ mổ con vật ra lấy thịt chia đều cho tổng số người và
chó. Mọi người quan niệm phần của một đầu người tương đương với
phần của một đầu chó.
Cũng có khi trong cuộc săn một con thú như lợn rừng, hoẵng, cheo cheo v.v... chạy ra liền bị mấy người đuổi đánh và đâm chết. Khi
con vật chết hẳn, một người hô to không đâm nữa, mọi người tự nguyện
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
116
giơ cây lao của mình ra phía trước, căn cứ vào đầu con thú và đùi sau
chia đều cho những người đó. Nếu ai đó, dù rằng anh đánh con vật ngã
quị xuống, hiềm vì ngọn lao của anh không có máu thì vẫn coi là anh
không trực tiếp giết con vật đó. Lệ Mường quy định thế nên nhiều người chạy tới sau, tiếc công sức đuổi thú, cho dù con thú đã bị đâm chết, anh
ta cũng cố lao tới chấm đầu nhọn của mình cho có máu con vật để hưởng
vinh quang và phần thịt chia. Lệ này giúp chúng ta hiểu thêm cơ sở ra
đời câu phương ngôn của người đi săn là “Rây máu ăn phần”.
Người giết được con thú cốt yếu là nhận về sự ving quang, cảm
phục của người trong mường chứ lợi lộc chẳng là mấy, bởi lẽ khi nhận
phần đem về nhà, người giết được thú phải tốn kém nhiều rượu thịt để
khoản đãi dân mường đến chúc mừng anh ta. Có điều: sống ở làng sang ở nước, dù là tốn kém nhưng người giết được thú lấy làm vui mừng lắm,
cho là gia đình có phúc lớn, tin trong năm làm ăn gặp nhiều may mắn.
...Cuộc săn chấm dứt bằng hiệu lệnh cồng. Đã thành thói quen, hễ
nghe điệu cồng đó thì người và chó bỏ vị trí trở về mường. Càng gần làng
mường họ càng reo hò, chào đón thắng lợi đã giành được.
Hội đoọc moong ngày đầu năm mới không thuần tuý chỉ là ngày
Hội đi săn mà mở rộng ý nghĩa thành ngày hội văn hoá chứa đựng nhiều
yếu tố sinh hoạt cộng đồng hấp dẫn như đánh chiêng, leo núi, vui hò, uống rượu cần, thi tài bắn nỏ, bắn súng, đâm lao... giúp con người
Mường hiểu biết lẫn nhau và sống gắn bó với nhau hơn trong một cộng
đồng làng xóm chan chứa nghĩa tình./.
N.H.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
117
lễ hội gầu tào
Mã A Lềnh - Lý Seo Chúng
Gầu tào là lễ hội quan trọng của người Hmông. Lễ hội mở ra
nhằm một trong hai mục đích cầu phúc hoặc cầu mệnh. Một gia chủ nào
đó không có con, thưa con hoặc sinh con một bề, sẽ làm lễ nhờ thày cúng
bói xin cho mở hội Gầu tào nhằm cầu mong có con - đó là hội cầu phúc.
Một gia chủ khác bị ốm đau bệnh tật, con cái yếu ớt, thậm chí có con bị
chết, mùa màng, vật nuôi lụi dần, cũng nhờ thầy cúng bói xin mở hội
Gầu tào - đó là hội cầu mệnh.
Ngay từ cuối tháng chạp, khi được thầy cúng bói xin mở hội, gia
đình mở hội cầu phúc phải nhờ anh trai, chị dâu (những người có con cả
trai, cả gái) chặt cây mai cao to, không cụt ngọn, ngọn dài có lá về dựng
nêu. Riêng gia chủ cầu mệnh, mong mọi người trong gia đình đều được
khỏe mạnh xin đuổi hết bệnh tật ốm đau, làm ăn tấn tới thì phải cử hai
thanh niên khỏe mạnh trong dòng họ chặt cây mai về dựng nêu. Lễ dựng
nêu được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 29 tết. Địa điểm trồng cây nêu
(cũng là địa điểm mở hội) một quả đồi gần đường đi, tương đối bằng phẳng, đánh bớt gốc cây, dọn sạch các bụi cây lúp xúp. Cây nêu được
chôn ngay trên đỉnh đồi. Nếu lễ hội được chia làm ba năm (tổ chức suốt
ba năm liền) thì mỗi năm chỉ dựng một cây nêu bằng cây mai. Nhưng
nếu lễ hội chỉ tổ chức gộp một lần thì phải chôn dựng ba cây nêu theo
hình tam giác cân ở giữa đỉnh đồi. Trên gần ngọn nêu treo 3 miếng vải
lanh màu đen, trắng, đỏ khác nhau. ở Pha Long (Mường Khương) chỉ
treo một miếng vải đỏ và dải vải đen. ở Sa Pa lại chỉ treo một dải vải đỏ. Phía dưới sợi vải, treo lủng lẳng bầu rượu ngon và một dây tiền giấy
bằng giấy bản. Khi dựng xong cây nêu, gia chủ còn làm lễ cúng ở ngay
chân cột nêu mời tổ tiên các thần phù hộ cho có con, mọi thành viên đều
khỏe mạnh, bằng an kế tục việc làm ăn, làm mặc theo dòng họ. Khi cây
nêu được dựng lên, các làng gần, làng xa biết rằng tết năm nay sẽ mở hội
Gầu tào. Mọi người nô nức chuẩn bị dự hội. Thời gian mở hội thường
trong khoảng từ ngày mồng một đến ngày 15 tháng giêng. Nếu hội tổ
chức 3 năm liền thì mỗi năm tổ chức 3 ngày liền, hội làm gộp một năm sẽ tổ chức 9 ngày.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
118
ở Sa Pa, sáng ngày mồng một tết làm lễ mở hội. ở Mường Khương
mở hội vào ngày mồng 3 tết. Sau phần cúng khai hội của thầy cúng, mọi người cùng tham gia các cuộc thi trò chơi.
Sáng sớm ngày khai hội, mọi người tụ tập đến bãi mở hội. Khắp bãi
đã dựng thêm nhiều lều lợp lá cây cho người già ăn uống chúc tụng. Bãi
bằng nhất được dọn ra cho trẻ em đánh quay. Những dây ống hát được
chăng lên khắp triền đồi. Nơi bắn nỏ, bắn cung, sân múa khèn, đường
đua ngựa cũng được qui định và bài trí đơn giản. Mỗi sân bãi đều đã cắt
cử người quán xử (chủ sự). Gia chủ là người có quyền tối cao thống lĩnh
toàn hội. Bên cạnh gia chủ, sẽ có hai đến ba trung niên hay ông già thạo đường ăn nói thay mặt gia chủ giải quyết mọi sự. Nếu gia chủ là người ít
nói năng, chậm chạp thì có thể nhờ và ủy quyền cho một người thay mặt
mình. Ngoài ra cần có xừ quan (quản lý) chăm lo việc ăn uống, có hấu
pầu tờ (quản củi đuốc), hấu pầu giê (trông nom xay giã dần sàng) cùng
với xừ quan. Tại đây khi làm những thủ tục lễ bái, hầu hết là dùng những
từ hoa mỹ (pàng lỳ) thanh cao, những câu ví mỹ miều, những câu tục ngữ
(lù txà) khoa trương. Ngày nay rất ít người biết hết những câu, từ, bài sử
dụng trong hội.
Khách ngoài họ, khách đường xa đến, người thì ống gạo, người thì
thồ ngô, người thì hũ rượu, người xách đôi gà, ai mang đến đều phải vào
làm lễ cầu chúc cho mọi người yên vui khang đường, tiếp nữa là cầu
chúc cho mùa màng bội thu, lợn gà đầy chuồng, đầy sân. Chủ nhà nói lời
cảm tạ và biết ơn ghi sâu lòng hiếu thảo hào phóng của khách.
Khách gần khách xa, người già, người trẻ ai thích chơi trò gì thì
làm đến sân ấy. Đám hội nào cũng nườm nượp. Xừ quan, quan xử cùng gia chủ và các bậc triết nhân thánh hiền, thầy mo chữ sau những cuộc
đón khách trọng thể, họ công bố mở hội bằng một lễ nhẹ nhàng, rồi đến
khai mạc từng đám chơi.
Đám bắn thi cung nỏ qui định tiêu điểm bằng một lá nhỏ, hiện một
hột ngô, trước là tĩnh sau là động, di chuyển nhanh như chim bay hay sóc
lặn bụi. Lần lượt từng người một vào bắn, có thể dàn hàng ngang bắn
đồng thời, nhưng rồi vẫn phải từng người phân thắng bại. Người thiện xạ
sẽ được ban tổ chức ban thưởng một bầu rượu ngon.
Đám chọi quay thu hút hết các em nhỏ và cả những người vào tuổi
thanh niên. Quay to, quay nhỏ, đủ cỡ được trưng ra. Trò chơi trẻ em thì
nhiều vô kể ngay cạnh bãi quay, vặn gậy, nhảy sào, mimi nào tẩu si (như
trò bịt mặt bắt dê của nhiều dân tộc khác), chơi đu quay, nhảy ngựa, đánh
yến, đánh cầu. Song nổi bật nhất, hào hứng nhất vẫn là trò đánh quay.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
119
Con quay làm bằng gỗ cứng: đinh, lim, chò chỉ và có 2 loại quay. ở các
làng Hmông phía Tây sông Hồng (Bát Xát, Sa Pa) các bạn trẻ thường dùng con quay đẽo tròn, phần trên gọt tròn, nhắm và có núm, phần dưới
hơi nhọn, ngay đỉnh nhọn có đóng một chiếc đinh. Chiếc quay nặng từ
0,2 đến 0,5 kg. ở miền Đông sông Hồng, lại dùng quay to, nặng hơn, tùy
sức lực và ý thích từng người. Ai có những con quay từ nửa cân (0,5kg)
trở lên đều được mọi người trầm trồ thán phục, coi như loại siêu nặng.
Con quay ở miền Đông phần trên phẳng, phần dưới hơi nhọn, dáng thô,
nặng hơn quay miền Tây. Dây đánh quay thường được tết bằng sợi lanh,
dài 1 sải, sải rưỡi tùy theo chiếc quay to hay nhỏ.
Đánh quay có 2 hình thức chủ yếu: thi quay tít và chọi quay. Đầu
tiên các bạn trẻ thường thi quay tít. Một vòng tròn được vạch trên đất
bằng cách vạch người đứng thi từ 5 - 7m, mọi người đứng dàn hàng
ngang ở vạch thi đấu, khoảng cách vừa phải để khi vung tay khỏi va
chạm vào nhau. Chủ trò hô lên một tiếng, những con quay lao vút vào
vòng quay phát ra những tiếng kêu vo vo, vù vù quay tít, con quay nào
quay lâu nhất sẽ được mọi người trầm trồ khen ngợi. Con nào nhảy chồm
chồm vượt ra khỏi vòng tròn rồi đổ lăn chiêng ra là chưa đạt, chủ nhân của nó tiu nghỉu, có khi phải đẽo lại chiếc khác. Có nơi người chủ quay
còn dùng dây quất vào cạnh tròn của con quay, tạo ra một lực tiếp tuyến
để nuôi quay quay được tít lâu hơn. Loại quay tròn có núm, người ta có
thể hất lên cho quay trong lòng bàn tay.
Trò chơi quay bao giờ cũng thu hút được nhiều người chơi, nhiều
khán giả hâm mộ. Ai có con quay trước thì phải thả ra khoảng trống
trước mặt để làm mồi, con quay mồi đang nhảy nhót, quay vù vù. Một người khác vung tay lên, một con quay từ trên bổ xuống giáng mạnh vào
con quay mồi. Có con quay bị giáng mạnh còn bị vỡ toác. Tiếng xuýt
xoa khen ngợi nổi lên. Nếu chọi không trúng, thì con quay chọi lại phải
thay thế con mồi.
ở Bắc Hà - Lào Cai, chọi quay được tiến hành ở ba bậc (mỗi bậc
cách nhau 5m). Người thua cuộc ở bậc 1 sẽ làm mồi ở các bậc tiếp theo.
Chọi quay ở từng bậc, đòi hỏi người chơi vừa phải nhìn cho tinh, liệng
trúng đích, vừa phải khỏe để liệng quay ở độ nhất định xa.
Thi quay, chọi quay, tạo cho cánh tay thêm rắn chắc, con mắt thêm
tinh nhanh, làm cơ sở để khi đến tuổi trưởng thành, luyện tập môn võ
ném quả cân xa 15 - 25m vẫn trúng đích diệt kẻ thù.
Đám múa khèn thật là trịnh trọng, được coi như môn tài tử cao sang
nhất. Mọi người quây quanh người múa, buông tay, nghiêng mình kính
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
120
cẩn chiêm ngưỡng những tài hoa xuất chúng. Người múa đi những
đường lượn, đường vòng, nước đi, nước lùi, khi thì như con nai in trên thảm cỏ, khi thì như cơn gió mát lướt nhẹ qua rừng cây, khi thì như con
công đứng chụm chân xòe cánh, lăn tròn, lộn nhào, quay tít ngón chân,
chân vỗ hoặc tay vỗ chân kia... Kết thúc bài, người múa lại thổi bài mời
mọc rồi người khác bước ra sân, bái chào, không để cho trang khèn bị
đứt quãng. Người vừa biểu diễn xong, bước ra khỏi sân bao giờ cũng
được đón những đôi chén rượu với một sự trọng vọng khâm phục đặc
biệt.
Đám hát gầu plềnh, hát tình ca, đối đáp, trao duyên, hát vui hội hè thường có mặt những thanh niên trai gái đang độ thanh xuân. Họ hát để
thi thố tài nghệ, và cũng nhân thể tìm hiểu nhau. Những bài hát thường
là sáng tác tức thì. Đám hát không thiếu những người đã định nơi chốn
bởi vì đã được luật hội cho phép và cấm kỵ không được ghen tuông, ích
kỷ; hơn nữa đám hát luôn có người kiểm soát nên ai có vô ý sắp lại gần
nhau sẽ có ngay chiếc gậy trúc của người kiểm soát trỏ vào giữa nhắc
luật, và hai người phải dãn cách. Song nhiều chiếc gậy thường mải xem
thổi khèn hoặc lử đử lừ đừ với bầu rượu nên có quên nhiệm vụ là điều dễ hiểu. Trong đám hát, những người đã định nơi chốn thường lui tới bên
những chiếc ống hát. Từ ống mai đầu này tới ống mai đầu kia cách
khoảng 100 - 200m là một sợi tơ tằm vàng óng nối liền, mỗi ống bắc trên
một cây cọc cao vừa tầm người đứng. Khi người đầu này hát thì người
đầu kia áp tai lắng nghe, giọng hát truyền qua nguyên vẹn trên sợi dây.
Những người chơi nhị thổi sáo bịt và sáo lưỡi đồng, gẩy đàn môi
thì tùy thích nhập đám hoặc chơi riêng một mình. Trên khắp các triền núi, tiếng kèn lá bay bổng vang trời gọi mời nhau. Các cụ bà cũng kéo
nhau ra hội móm mém kể chuyện này chuyện nọ hoặc chăm chút lời ăn
tiếng nói, bước đi đứng, nếp váy áo cho con cháu. Các cụ ông rạng rỡ
mặt mày bên những mâm rượu và chủ trì cho những cuộc lễ một cách
cung kính. Một ngày ba bữa ăn sắp cơm, nước đầy đủ. Xưa kia còn có
chum rượu cần to tướng, đặt ngay tại gốc cây nêu, vại to, vại nhỏ để
trong những căn lều, những gốc cây, bụi cỏ có chiếc vò thì đựng rượu
chua, chum thì rượu cân, có vại thì rượu nếp thơm, đều có cần, ai muốn uống bao nhiêu tùy thích (và không sợ bẩn vì nơi linh thiêng không ai
dám làm bậy làm bẩn). Đêm đến, khách xa, người cao tuổi được mời về
nhà gia chủ. Tại bãi hội, những đống lửa được đốt lên, mọi người tiếp tục
cuộc vui. Ngày đầu tiên, sau khi làm lễ khai hội, nếu nhà thày mo ở gần
thì mọi người kéo vào nhà thày làm lễ nhảy (đha thàng). Đám nhảy đồng
thời cũng sẽ tiếp diễn cho đến hết hội. Những năm không có hội, mọi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
121
người vẫn kéo đến nhà thày mo cùng nhảy đồng (nhảy tập thể tốp nam
hoặc tốp nữ).
Hình thức, động tác nhảy rất đơn giản, một tốp nam hoặc một tốp
nữ, thường là thanh, thiếu niên, đứng thành một hàng ngang trước bàn
thờ. Cuộc nhảy mở đầu do thày mo đánh chiêng. Chiêng đánh phía sau
lưng tốp nhảy. Khi cả tốp nhảy đã đồng loạt run rẩy, thày tránh ra, cả tốp
cùng nhảy lùi, rồi nhảy tiến theo 4 hướng. Tiến, lùi mãi đến lúc mệt, đối
với nam, lần lượt quì lạy trước bàn thờ, lạy 3 lạy theo 3 hướng. Đối với
nữ thì chạy ra ngoài hoặc ra phía bếp lò. Thông thường lúc đang nhảy, có
thể vồ bắt một người cùng nhảy cho vui. Cá biệt có người khi đánh chiêng, không run lên được, cứ đứng trơ ra. Thày mo sẽ phải ra tay bằng
cách đệm quẻ bói dưới chân, đốt một thẻ giấy, lấy tro hòa nước, phun
vào người, khi làm những động tác ấy, đều phải khấn theo bài cúng đến
phương sách ấy, buộc người đó phải nhảy, và đôi khi không thể dừng
được, thày phải khấn thì mới dừng. Đó là những người hay thích thách
đố thày.
Nhảy đồng mang tính chất của sa man giáo, dường như vô nghĩa,
song thực chất ý nghĩa của nó là cầu mong sức khỏe, sinh sản, cầu mong mùa màng tốt tươi, cầu mong đất trời thuận hòa, cầu mong thần linh ma
quái không gây ra những điều oan trắc. Nhảy đồng còn tựa như được thôi
miên, hồn được lìa khỏi xác, khiến người được bay bổng vào cõi mơ.
Hết thời hạn hội, gia chủ làm lễ kết thúc, cây nêu được hạ xuống.
Thày mo đốt thẻ giấy, hốt than cho vào gáo nước, vừa đi vừa cầu khấn.
Sau mỗi đoạn khấn vái, thày lại hấp một ngụm nước phun ra xung quanh.
Gia chủ cầm bầu rượu hạ từ trên cây nêu đi theo sau thày mo, cũng hẩy rượu ra khắp nơi. Mảnh vải đỏ thì mang về treo trong nhà cầu mong
hồng phúc đời đời. Trường hợp nếu là hội cầu phúc, ông chủ hội chọn
một đôi trai gái, một đôi nam nữ đứng tuổi đông con và họ hàng rước nêu
về gia chủ gác ở đằng sau nhà hoặc làm giát giường mong sớm có con.
Nếu mở hội cầu mệnh thì rước cây nêu đến gác ở chỗ vách đá khô ráo./.
M.A.L - L.S.C
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
123
hội hát sắc bùa
ở người mường
vũ hoa
Sắc bùa1 là một hình thức sinh hoạt, một bộ phận trong hệ thống
những hoạt động cần có trong dịp chúc mừng năm mới từng gia đình và trong cả làng. Sắc bùa còn tham gia một số nghi lễ khác như đám cưới,
hội mùa (Xớc pông kơm c'lải lỏ). Khi các gia đình giàu có có việc vui
mừng lớn, họ cũng mời các đoàn cồng đến đánh cho thêm phần vui vẻ.
Nhưng trước hết, đối với tộc Mường nói chung và Mường ở Mường
Vang- Lạc Sơn nói riêng, sắc bùa gắn liền với mùa xuân. Đã một thời, nó
là phong tục đón mừng năm mới không thể thiếu được của họ.
Hằng năm, vào những ngày cuối cùng của năm cũ, trước khi vào một vụ cày mới, trong các làng người Mường nói chung và trong từng
gia đình Mường nói riêng đều nhộn nhịp chuẩn bị đón mừng cái Tết sắp
đến. Người ta quét dọn nhà cửa, sân ngõ, chuẩn bị quần áo đẹp, gạo,
rượu, thịt gà và gói bánh penhpang2. Trong ngày cuối năm, mỗi gia đình
đều soạn một lễ nhỏ gọi là wải hộp (tập hợp các vía lại) để tập trung một số vía của các thành viên trong gia đình đang lang thang vào thân chủ của
chúng để cầu khẩn trời phù hộ cho chúng và thông qua chúng, cho chủ
của chúng có một
sức khoẻ dồi dào1.
Ngày mồng một tết hàng năm là ngày thờ cúng tổ tiên của người
Mường. Mùng hai tết mới là ngày các phường bùa bắt đầu đi chúc tết.
1 Theo đồng bào, từ Sắc bùa có thể hiểu theo nghĩa là đánh cồng. Tuy nhiên, người ta chỉ
sử dụng từ trên trong trường hợp cồng được đánh một cách tập trung nhất, với một số lượng
cồng nhất định nào đó (mà trong đó, các loại cồng khác nhau được tập hợp lại theo một tỷ
lệ đã được quy ước) trong dịp tết đón mừng xuân mới. Nếu cồng được đánh một cách riêng
rẽ từng chiếc hoặc vài chiếc một thì người ta chỉ gọi là đánh cồng. 2 Giống bánh chưng của người Việt.
1 Theo quan niệm của đồng bào, mỗi người có 90 vía"bốn mươi wai bên đăm, năm mươi
wai bên chiêu" (bốn mươi vía bên phải, năm mươi vía bên trái). Những vía này nhiều khi
rời khỏi cơ thể để đi chơi. trong những ngày tết, phải tập trung chúng lại trong thể xác thì
con người mới khoẻ mạnh được.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
124
Gọi là phường bùa, nhưng thực tế đây chỉ là sự tập hợp những
người biết đánh cồng lại, tính chất phường hội chưa rõ ràng. Những
người có vợ có chồng cũng có thể tham dự. Tuy nhiên, trai thanh gái lịch
chưa vợ chưa chồng vẫn chiếm đa số. Phường không có quy chế: ngày thường không có đóng góp, hội họp, luyện tập. Sinh ra và lớn lên trong
các làng Mường, ngay từ nhỏ họ đã được nghe, được thấy, được đánh thử
tiếng cồng, sắc bùa đã ngấm vào tâm khảm để đến độ 15-17 tuổi, họ đã
bắt đầu gia nhập phường bùa để đi chúc tết trong làng và khắp làng trên
xóm dưới. Tuy nhiên, khi đi chúc tết những làng khác thì con gái thường
không tham gia. Nhìn chung, quy trình của một cuộc sắc bùa chúc tết
trong làng cũng tương tự như quy trình của một cuộc sắc bùa chúc tết
ngoài làng.
Phường bùa gồm có 12 người thạo đánh cồng (người Mường gọi
là chiêng). Ngoài ra, còn có hai người đi sau cùng đoàn, chuyên khiêng
một chiếc thúng để đựng gạo. Tuy nhiên, con số của phường bùa có thể
xê xích ít nhiều tuỳ theo số lượng cồng hiện có và số người muốn tham
gia. Trước tết ít hôm, họ tập trung những cồng tốt trong làng lại thành
một bộ, để ở một nhà chắc chắn, rộng rãi trong làng. Thông thường, một
bộ cồng gồm có những loại sau:
- Bốn chiêng dóng. Loại này thường phân cho những người thạo đánh cồng nhất sử dụng.
- Hai chiêng giàm (số lượng chiêng giàm không bắt buộc, có thể 3-
4 cái). Trong số này người ta chọn lấy cái có tiếng vang hay nhất để làm
chiêng cái (chiêng dẫn). Chiêng này thường được sử dụng ở các đầu bài
để lên con hay còn gọi là lên cái chiêng do thầy
thường1 đảm nhận.
- Ba chiêng đúc.
- Hai chiêng thau.
- Một thanh la.
Khi chiêng đã đủ bộ, thầy thường phân những chiếc chiêng đã
mượn cho từng người. Người được giao đánh thử xem chiêng tốt hay xấu và chịu trách nhiệm về chiếc chiêng được giao. Nếu làm hỏng chiêng sẽ
bị đền bằng trâu hoặc bò. Sau khi nhận chiêng, họ bắt đầu tiến hành việc
1 Thầy thường: Người có giọng hát tốt, hát nhiều bài hát và giỏi đặt lời khi hát đối đáp.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
125
luyện chiêng. Sáng và chiều ngoài vài tiếng đi bừa, họ tập trung lại ở nhà
giữ cồng. Buổi luyện tập kéo dài nhiều khi thâu đêm đến sáng.
Sáng mồng hai tết, phường bùa tập trung đông đủ ở nhà để cồng.
Ai nấy đều chỉnh tề trong những bộ trang phục truyền thống đẹp đẽ của dân tộc. Con gái bịt đầu bằng một mảnh khăn trắng (bít trốc); khoác một
chiếc áo chùng đen, phía trong mặc một chiếc áo ngắn không cúc, màu
trắng hoặc màu sáng (;) trong cùng là chiếc yếm màu xanh hoặc màu đỏ;
mặc váy màu chàm; cạp váy dệt hoa văn con rồng, đồng tiền hoặc quả
mê (quả và dây mây). Con trai thường mặc áo cánh ngắn sáng màu,
khoác áo chùng đen, mặc quần trắng, đầu quấn khăn nhiễu. Họ bàn nhau
xem ở trong làng sẽ đến nhà nào trước và sau đó nếu ra khỏi làng sẽ đến
làng nào trước. Sự lựa chọn đó là tuỳ hứng, không theo một quy định nào cả.
Phường bùa xuất phát từ nhà để cồng, theo thứ tự sau: thầy
thường đi trước, tiếp đến là những người cầm chiêng dóng, đến những
người cầm chiêng giàm, chiêng đúc, chiêng thau, thanh la, cuối cùng là
hai người khiêng thúng. Trước khi xuất phát, từ vị trí của mình trong sân
nhà để cồng, thầy thường đọc:
Từ đụn đi ra
Từ nhà đi đến
Đi hết bốn mươi khoảng ruộng
Ba mươi đồi tranh
Vùng ông đạo mường này
Vui lắm rồi lại vui nhiều.
Dứt lời, thầy thường vừa lên cái chiêng vừa dẫn đầu đoàn bùa
tiến ra cổng. Ra đến đường, họ có thể vừa đi vừa đánh bài cồng đi đường
hoặc do hứng thú, họ có thể đánh một trong những bài cồng khác như bài lên chiêng, bồng một, bồng hai, bồng ba, bồng bốn, lộn cồng. Nhìn
chung trong ngày hội này họ có thể đánh tuỳ hứng những bài có sẵn chứ
không bắt buộc phải đánh theo một quy định, bài bản nào.
Đến cổng ngôi nhà định vào, thầy thường lên cái chiêng. Cả đoàn
tiến vào sân. Thầy thường lên đứng ở hè nhà, cạnh chiếc cối đặt dưới
chân cầu thang. Cả đoàn bùa đi vòng từ bên tay phải sang phía bên tay
trái của ông (ngược chiều kim đồng hồ) và cuốn thành một vòng xung
quanh thầy thường. Hai người khiêng gạo đứng ở ngoài đội hình đó. Sau khi ổn định vị trí, họ dập chiêng sáu lần (ba lần lên, ba lần xuống). Tiếng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
126
chiêng vừa ngừng, thầy thường đọc bài Phát rác1. Cũng như toàn bộ các
bài hát khác trong sắc bùa, dựa trên một chủ đề đã được ước định từ
trước, Phát rác được sáng tác theo phương pháp ngẫu hứng. Tuỳ tài ứng
khẩu của thầy thường cao hay thấp, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của gia
chủ mà độ dài ngắn, sự phong phú, chải chuốt của lời ca có khác nhau
nhưng nội dung của nó bao giờ cũng gồm những vấn đề: ca ngợi gia cảnh
(khang trang bề thế), đời sống sung túc, ăn nên làm ra của chủ nhà:
Phường bùa chúng tôi
Đi chúc đi chơi
Đi chơi đi nhởi
Đi đến đây chơi đây,
Đến đây dưới sân
Dưới xướng làm ăn nhà ông
Tôi ngồi dưới sân tôi trông
Trông đi ngó đi
Trông đi ngó lại
Nhìn thấy nhà ông
Khang khang ngút dậu
Không biết nhà ông,
Là ậu chẩu1 hay ậu vá2
Không biết nhà ông là cai xã3
Hay là cai đạo quyền anh4
Thấy rào xung quanh xỏ rộ5
Cột cổng nhà ông
Cột cổng có hình con cá
Má cổng nhà ông
Má cổng có hình con rồng
Không biết ông rước được thợ bên bắc
ở đâu khéo nhiều
Không biết ông rước được thợ bên đông
ở đâu khéo chạm
1 Phát rác: Phát: nghĩa đen là tung ra, phá ra, mở ra; rác: là nước. Từ phát rác có thể hiểu
theo nghĩa là : mở ra một khoảng thời gian mà trong đó mưa thuận gió hoà. 1, 2,3,4
Những chức vị do nhà lang đặt ra. 5 Một cách vào vườn có những đầu nhọn chĩa ra ngoài.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
127
Chạm thành tổ ong bò vẽ
Chạm thành bày ong miện6
Chạm nên kiến đen
Chạm nên kiến vàng
Chạm nên lợn lòi con hoãng
Đi ăn trái roỏng rẹch7
Chạm nên trống chim khiếu8
Mái chim kẹc9
Đi ăn trái mí, mùi xanh10
Chạm nên chim hoàng anh xuống tắm giá.
Chạm nên vẩy cá con rồng
Chạm nên hoa văn cánh xẻ.
Ông ở liếp sập, giường đồng1
Ông nhìn quần tiền trắng,
Dãy tiền đồng
Ông đem ra ông thưởng.
Phải năm được mùa ông thưởng quan bảy
Phải năm không được mùa ông thưởng quan ba Ông không cho chú nào ra không ra suông
Ra khôn, rủi ro mùa năm mới
Phát rác.
Khi thầy thường bắt đầu đọc Phát rác, chủ nhà đã ra đứng ở đầu
cầu thang và chăm chú lắng nghe. Nghe xong, nếu không mời đoàn bùa
hát thường thì chủ nhà trao cho thầy thường một thung thóc nhỏ. Thầy
thường trân trọng bưng ngửa chiếc chiêng giàm để đỡ lấy thóc do chủ
nhà trút vào: xong ông trao lại cho những người khiêng gạo. Những
người này đổ thóc vào chiếc thúng mà họ vẫn khiêng theo. Sau những
động tác trên, thầy thường đọc bài Phát rác tạ ơn gia chủ:
Tạ ơn, có lòng tạ ơn
6 Tên một loại ong rừng.
7 Tên một loại quả rừng mà chim thú thích ăn
8 Tên những loại chim rừng.
9 Tên những loại chim rừng.
10 Tên hai loại quả cùng loài cọ.
1 Liếp sập: Sập đan bằng cây sậy hay nứa tép. Giường đồng: Giường có màu giống như
màu đồng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
128
Ơn bà cũng đã có công
Ơn ông cũng đã có phúc
Tôi chúc, tôi lại truyền
Chúc truyền cho ông cùng bà
Ăn lại ở lại ngày sau
Làm năm ăn, giàu có
Có chín bịch lúa nếp
Mười bịch lúa tẻ
Hết năm này, năm sau phường bùa chúng tôi lại đến.
Phát rác.
Dứt lời, phường bùa tiếp tục đến những nhà khác trong làng.
Nếu một gia đình nào đó muốn giữ đoàn bùa lại, hát thường thì sau bài Phát rác, chủ nhà bê ra và đặt ở ngoài cầu thang một chiếc mâm.
Trên mâm có một chai rượu, vài chiếc cốc, hai bát to đựng gạo, trên mỗi
bát có cắm bốn nén hương; một đĩa trầu cau. Chủ nhà nói: "nhân dịp
phường bùa đi mừng năm mới, mời phường bùa hát một bài thường cho
người già được nghe". Vẫn đứng ở vị trí cũ, giữa vòng tròn do đoàn bùa
tạo thành, thầy thường hát một bài thường tạ ơn.
Tiếp đó, thầy thường hát những bài thường kể lại chặng đường đã
qua của đoàn bùa, đồng thời khen ngợi gia thế của ông chủ.
Thầy thường dứt lời, chủ nhà lúc đó đứng ở đầu cầu thang, liền
hát thường đáp lại.
Từ lúc này, cuộc hát bắt đầu chuyển sang phần hát đối đáp. Hai
bên dò ý, thử lòng, thông qua rằng thường để ướm hỏi nhau.
Nam:
"ở dưới sân trông lên nhà
Thấy dăm ba chiếc nôi trẻ
Nghe sợ lắm hãi nhiều"
Nữ:
"Anh rằng trông lên nhà
Thấy dăm ba chiếc nôi trẻ
Nôi bên dưới, chiếc nôi chú nó,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
129
Nôi bên trong, nôi họ đấy thôi
Em còn ăn không ở rồi
Tìm đàng chơi nơi nhởi"
Cuộc hát đối đáp cứ như vậy mà tiếp diễn. Nếu bên trai hát kém, họ có thể bị "giam" ở dưới sân cho đến khi đói bụng mà vẫn chưa được
mời lên nhà. Hát cho đến kỳ cùng mà vẫn bị thua, phường bùa đành lặng
lẽ rút lui để tìm đối thủ khác ngang sức. Trong trường hợp phường bùa
thắng, nếu không muốn lên nhà đó, có thể rút quân một cách êm thấm
với niềm hãnh diện trước bà con đang đứng xem quanh đó:
Em nói thông điều tiếng ấy
Anh lên chơi cửa một lần
Lên chơi nhà một buổi
Nói không thông điều ấy
Cho anh xin gạo trắng gạo vàng
Về đàng xa xăm kẻo trời tối lại
Nếu muốn lên nhà để tiếp tục cuộc vui, thầy thường hát tiếp bài
thường xin lên nhà.
Chủ nhà đáp lời bằng bài hát thường mời phường bùa lên chơi.
Sau đó phường bùa bắt đầu bước chân lên nhà. Thầy thường lên
trước, mọi người lần lượt theo sau, vẫn theo đúng như vị trí khi đi đường. Họ được tiếp ở gian khách, trước chiếc cửa sổ của gian thứ nhất (tính từ
cầu thang chính lên). Thầy thường và chủ nhà ngồi đối diện với nhau, sát
cạnh cửa sổ. Những người còn lại ngồi tiếp theo, làm thành một vòng
tròn. Chiêng được xếp ở gian thứ hai. Trước cửa sổ của gian thứ hai này,
người ta xếp chiêng dóng, chiêng giàm và các loại chiêng khác làm hai
hàng dọc. Chiêng được xếp ngửa. Người ta rất cấm kỵ việc xếp cồng
chiêng vào nhau. Khi đã ổn định vị trí, thầy thường xin phép gia đình, bố mẹ, chồng (nếu có) để được đối đáp với bên gái.
Hát xin phép bố mẹ:
Thương thiết lại thương nồng
Thương không ở đồng năm vui tháng tốt
Ngày này đôi anh đi chúc đi chơi
Đến cửa bố thang mẹ
Chốn chỗ nơi này
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
130
Thấy cây bằng lứa bằng đôi
Thấy cây hợp nơi vui đùa
Xin bố mẹ trong nhà
Bằng những câu ví von so sánh, bên trai dò ý xem bên gái có chồng chưa:
Cái này đôi anh thấy áo đẹp anh cũng muốn thay
Thấy áo sạch anh cũng muốn quàng
Thấy đàng sạch anh cũng muốn đi
Mà chỉ sợ chồng em mắng mỏ
Con gái trả lời:
Dù rằng em đã có cửa
Dù rằng em đã có nhà
Xếp cửa lại đồi gianh già
Xếp nhà lại đồi gianh non
Để làm đường cùng anh ăn chơi.
Nếu chưa chồng, cô gái có thể trả lời bằng câu hát:
Em đây vẫn chưa có chồng
Còn ăn không thoải mái
Rồi cô gái cũng hỏi lại chàng trai những câu tương tự. Sau đó bên
trai lần lượt hát tiếp những câu hỏi thăm ông chủ và toàn thể gia đình, hỏi thăm những người đứng đầu và các cụ ông, cụ bà, rồi hỏi thăm xem các
em bé có ngoan ngoãn chăm chỉ chăn trâu, chăn vịt hay không?
Hết đoạn hỏi thăm, thầy thường hát một câu để ngắt đoạn:
Hết tiếng ấy ta bỏ
Để bắt sang lời khác.
Bên gái mang trầu, nước, thuốc lào ra mời: bên trai hát khen ngợi
những thứ đó để đáp lễ.
Tiếp đó, gia chủ mang một bình rượu cần ra đặt vào giữa vòng
đoàn bùa đang ngồi. Khi được mời, thầy thường đáp lời: "Năm mới,
chúng tôi lên chúc mừng gia đình, mong gia đình phát đạt. Chủ nhà có vò
rượu cần cho chúng tôi uống, chúng tôi xin cảm ơn". Tiếp đó, thầy
thường hát một bài thường mô tả lại quá trình làm rượu cần và khen
ngợi bình rượu của chủ nhà.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
131
Khi uống rượu thì chủ nhà, thầy thường và những người cao tuổi
uống trước, phường bùa và những người khác uống tiếp đợt hai, đợt ba.
Ngồi cạnh vò rượu là chú trám, người chuyên cầm sừng trâu để tiếp nước
vào vò, liên tục, ứng với số rượu bị vơi đi trong vò. Khi ai nấy đã cầm cần trong tay, mọi người cùng đồng thanh "hù" lên một tiếng thật to rồi
mới bắt đầu uống. Sau những hiệp uống đông người, người ta bắt đầu
uống từng người một. Mỗi người phải uống một số rượu tương ứng với
một hoặc hai sừng trâu nước. Phải uống trong một khoảng thời gian đủ
để cho nước trong một chiếc sừng trâu (có thủng một lỗ nhỏ ở dưới đáy
vò) hết hai lượt. Nếu hết số thời gian quy định đó mà nước trong vò hãy
còn lấp xấp trên mặt lá thì người uống sẽ bị phạt. Số rượu phạt nhiều gấp
đôi số rượu phải uống lúc ban đầu. Xong cuộc rượu, gia đình nào muốn giữ phường bùa lâu hơn nữa thì làm cơm mời họ lại.
Mời các anh đi đường xa khá dài
Về đến cửa cùng nhà nhà em
Để em dọn bàn cơm cho anh ăn
Bên trai đáp lại:
Em anh có chín bụng thảo
Chín dạ lòng thương
Em dọn bàn cơm cho anh nhá
Bàn cá cho anh ăn
Em đừng nói điều tiếng ấy
Anh đây nghe phải ý thương nhiều.
Rồi họ hát thường khen mâm cơm vừa dọn.
Sau bữa cơm, cuộc hát chuyển sang phần hát giao duyên.
Bên trai mở đầu:
Thương thiết lại thương nồng
Thương không ở đồng bậu vỉ
Lý họ lại nói rằng
Lứa mình đôi anh em ta
Cùng ăn cùng chơi với nhau
Từ lúc cây si mới có một cành
Cây đa mới có một chồi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
132
Chúng ta như những đôi hoa cùng một cành
Chơi bên nhau khi chưa hé nụ
Em gái đẹp, tóc dài, da trắng.
Đang lớn lên vùn vụt
Còn mình lứa đôi anh
Cái mình còi còi, cái mình anh còn bé
Vậy nên anh không sánh nổi đường bừa
Không đưa nổi đường cày
Em đã bỏ anh lại một mình
Bỏ anh lại giữa mường
Để em đi chọn un đi giàu có
Chọn con lang đạo phó
Bởi nó giàu có hơn anh hỡi em.
Bên gái đáp:
Thương thiết lại thương nồng
Thương không ở đồng thiếng vỉ
Đàng mình đòi anh nói câu nhân nghĩa ấy
Mà phải năn nỉ lòng thương
Anh lớn nên trai giữa bãi
Em lớn lên gái giữa mường
Mà lứa đôi anh không mượn người đến mối
Không nhờ người già đến hỏi
Cho em được đến ở với bố trong cửa, mẹ trong nhà
Để lứa mình đôi ta được đi ra đồng từ cùng một nhà
Khi về vào cùng chung một cửa...
Nhìn chung, cuộc hát giao duyên này thường cũng gồm những
chặng như những cuộc hát ví giao duyên ở đồng bằng. Nó diễn ra theo trình tự: ướm hỏi, ngỏ lời, thổ lộ tình cảm, thề thốt ước hẹn hoặc nói lên
những nỗi niềm riêng khi tình duyên trắc trở, hát chia tay. Sau đó thường
bùa ra về. Trước khi về, thầy thường chào và chúc chủ nhà.
Dứt lời, thầy thường bước chân xuống trước, phường bùa lần lượt
theo sau. Khi người khiêng gạo đi cuối cùng. Đến chân thang, hai người
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
133
này quay lại đỡ lấy vật tặng do chủ nhà trao cho (mà đầu buổi vẫn để ở
đầu cầu thang) và để vào thúng của mình. Đoàn bùa ra về, khi ra cổng,
họ không đánh chiêng. Họ có thể đánh chiêng lúc đã ra đến đường. Đến
cổng những nhà còn lại trong làng, trình tự cũ lại lặp lại.
Những cuộc sắc bùa này được tiếp diễn cho đến hết ngày mùng 7
tết. Sau đó, dân làng tiến hành nghi lễ cày luống đất đầu tiên trên ruộng
đất của mình. Trước đây, ậu châu- trong bộ y phục dân tộc đẹp đẽ: áo
chùng đen, quần trắng, đầu quấn khăn nhiễu- vác cày dắt trâu đi ra mảnh
rộng chuyên trồng lúa dùng cho việc thờ cúng của thổ lang. Ông thay
mặt thổ lang cày luống đất đầu tiên trong năm mới trên thửa ruộng đó.
Hành động trên còn có ý nghĩa lớn hơn: đây chính là luống cày đầu tiên
có tính chất nghi lễ của toàn thể dân làng trên ruộng đất của làng1. Sau
đó, tất cả mọi người đều bắt tay vào công việc cầy bừa. Một vụ sản xuất
mới lại bắt đầu.
*
* *
Nhìn lại toàn bộ cuộc sắc bùa: về thời gian, cách thức trình diễn và nội dung các lời ca trong buổi lễ, ta thấy có nhiều yếu tố liên quan đến
nông nghiệp.
Trước hết, chính sắc bùa đã mở đầu như một nghi thức cầu chúc,
cầu mong cho một năm, một mùa làm ăn thịnh vượng. Kế ngay sau đó là
một loạt những ngày lễ khác mang rất đậm tín ngưỡng nông nghiệp: lễ
rước bông cơm trái lúa, nghi lễ cày luống cày đầu tiên, rồi sau đó, mọi quy
trình sản xuất của vụ mùa mới chính thức bắt đầu. Ngay chính lời ca thường sử dụng trong sắc bùa cũng mang nhiều dấu tích của một nghi lễ
nông nghiệp. Nội dung chủ đạo của lời ca là cầu cho người an vật thịnh,
nhà nhà giàu có, làm ăn tấn tới: có "tiền trắng", "tiền đồng", nhà cửa
"khang trang ngút dậu", người người khoẻ mạnh sống lâu và mùa màng
bội thu. Muốn được như vậy, gia chủ phải trả ơn những người mang điều
cầu chúc đó đến cho gia đình mình. Tiếp đó, là hát đối đáp giao duyên
giữa hai bên trai gái.
Nhìn chung, trong mọi bước tiến hành, toàn bộ lời ca và cách thức tiến hành của sắc bùa, tư tưởng chủ đạo của ngày hội này đã bộc lộ khá rõ
1 Do cơ chế xã hội, người thổ lang được coi là đại diện của lang trong nhiều lĩnh vực (thần
quyền, tộc quyền, chính quyền). Chính vì vậy nên việc tiến hành nghi lễ trên mảnh đất của
nhà lang, đồng thời cũng đem lại hiệu quả cho ruộng đất các gia đình khác thuộc quyền
thổ lang cai quản.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
134
nét: người ta đã gửi gắm vào đó niềm cầu mong cho đất đai phì nhiêu, gắn
liền với quan niệm về sự phồn vinh của bản thân con người và khả năng
tái tạo của con người. Thông qua các biện pháp tiến hành, đồng bào mong
muốn làm tăng tác dụng của sức sinh sản truyền sang ruộng đất. Có lẽ chính vì bao hàm nội dung đó mà các yếu tố của sắc bùa (cơ cấu đoàn bùa,
số lượng chiêng, các bài bản) đã được lễ hội rước bông cơm trái lúa - một
nghi lễ nông nghiệp- sử dụng như một lễ thức không thể thiếu trong quá
trình tiến hành. Bởi vậy, tuy giờ đây, sắc bùa chỉ còn tồn tại như một hình
thức vui chơi, sinh hoạt văn nghệ dân gian nhân dịp đón xuân, nhưng ta
có những cứ liệu đáng tin cậy để có thể nghĩ rằng, trước đây nó đã từng là
một nghi lễ nông nghiệp quan trọng, có vai trò tác dụng như chính bản
thân ý nghĩa của từ phát rác, tên gọi của bài hát có tính chất khai trương ngày hội này, mở ra một khoảng thời gian, một năm mới, một vụ mùa mới
mà trong đó, thời tiết thuận lợi cho trồng trọt: mưa thuận gió hoà, mùa
màng, người và vật đều sinh sôi phát triển ./.
V.H
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
136
Hội hoa ban
Thạch Phương - Lê Trung Vũ
Hằng năm, cứ vào dịp tháng 2 âm lịch, thời tiết nắng ấm, ở vùng
Tây Bắc hoa ban bắt đầu nở trắng núi, trắng rừng. Lúc này cũng là thời kỳ lúa chiêm gặp mưa xuân, xanh mơn mởn trên các cách đồng lúa nước.
Về loài hoa đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, truyền thuyết của
người Thái kể rằng: Thuở ấy, có một chàng trai tên là Khum đem lòng
yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại có tài săn bắn. Ban
thì khéo tay dệt vải lại có giọng hát làm say đắm nhiều chàng trai. Thế
nhưng, cha nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai nhà
tạo mường, vốn là một thanh niên lười nhác, lại có tật gù lưng.
Mặc cho cô gái hết lời van xin, người cha vẫn không từ bỏ ý định,
và ông đã bàn bạc cùng với nhà tạo mường sửa soạn làm lễ cưới cho hai
người. Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum
gặp chàng để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin
chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu
của mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người rồi bươn bả đi tìm chàng.
Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng,
nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy. Cuối cùng kiệt sức nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy núi cao. Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một
cây hoa mang búp trắng như búp tay người con gái. Và chẳng bao lâu,
loài hoa ấy mọc lan ra khắp núi rừng Tây Bắc, và hằng năm cứ mỗi độ
xuân về, hoa nở trắng như bông. Người ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban.
Về phần Khum, sau khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu của người
yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi tìm
nàng. Dò hỏi bà con bên bản người yêu, Khum biết được là nàng đã bỏ nhà ra đi, còn đi đâu thì không rõ. Thế là chàng trai lên đường đi tìm
người yêu, đi mãi hết mường này, bản khác mà vẫn không tìm thấy bóng
người yêu. Cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng
hoá thành con chim sống lẻ loi trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại
hót vang như tiếng gọi người yêu tha thiết từ năm nào.
Sơn La, cứ xuân sang, hoa ban nở trắng trên các sườn núi, thì nam
nữ thanh niên trong các bản mường lại rủ nhau đi hội chơi núi, hái hoa
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
137
mừng xuân. Đây cũng là dịp nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát, đánh
đàn tính, thổi kèn, múa xoè, trao và đón nhận tình yêu.
Từ sáng tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng, âm vang
truyền lan núi rừng. Các bếp nhà sàn bập bùng lửa đỏ: đồ xôi, luộc gà,
thái măng; có nhà mổ lợn bày cỗ. Rượu cần từng vò lớn, nhỏ được bê ra
để chuẩn bị đãi khách. Đó là những công việc phần lớn thuộc về lớp
trung niên và người già. Còn những chàng trai, cô gái thì áo quần, khăn
váy chỉnh tề, gọi nhau í ới và cùng đổ ra đường dẫn đến những cánh rừng
có nhiều hoa ban nở. Họ chọn những cành hoa đẹp nhất, vừa hé nụ đều
nhất để tặng người yêu và biếu bố mẹ. Theo quan niệm của người Thái, hoa ban không chỉ tượng trưng cho tình yêu, mà còn là biểu tượng của
lòng hiếu thảo, biết ơn.
Cũng trong ngày hội này, trên dòng Nậm Na, thường diễn ra các
cuộc hát giao duyên của nam nữ trên thuyền. Thuyền trôi nhẹ trên dòng
nước; các cô gái duyên dáng che ô ngồi ở mũi thuyền, bên cạnh những
bó hoa ban tươi thắm vừa mới hái, cất lên tiếng hát những bài dân ca
mượt mà, giãi bày cảm xúc và tâm trạng riêng tư, trong khi các chàng trai
ngồi ở phía đuôi thuyền, vừa lái thuyền, vừa đánh đàn tính, thổi sáo.
Người Thái ở huyện Mai Châu (Hoà Bình) lại có thủ tục mở hội
Xên bản, xên mường. Hội mở vào dịp hoa ban nở, nên còn có tên là hội
Hoa ban. Hội tổ chức định kỳ hằng năm, nhưng quy mô to hay nhỏ còn
tuỳ thuộc vào thời tiết có liên quan đến sự được, mất của mùa màng năm
đó. Vào khoảng tháng giêng, người Thái rất chú trọng đến tiếng sấm đầu
năm. Theo quan niệm lâu đời của đồng bào ở đây, tiếng sấm là dấu hiệu
linh thiêng, là "lời phán quyết của vua trời" có liên quan đến cuộc sống của bản mường, của mùa màng năm đó.
Người Thái Mai Châu cho rằng hễ năm nào nghe tiếng sấm rền từ
phía thượng nguồn sông Mã, thì năm đó ắt có đại hạn; mọi người phải lo
tích nước để làm mùa cũng như cho sinh hoạt đời sống, lại phải chuẩn bị
phương tiện như cuốc, thuổng, gàu... để đào mương, đào giếng chống
hạn. Do đó hội Xên bản xên mường năm này chỉ tổ chức nhỏ và đơn sơ.
Người ta mổ ít lợn, gà làm lễ tế thần để cầu mưa, "rửa lá lúa" (xua đuổi
thần trùng). Các cuộc vui chơi, đàn hát coi như bị xếp lại. Các ngã đường dẫn vào bản đều có buộc cành cây xanh - dấu hiệu "cấm người ngoài vào
bản, kiêng người ngoài lên thang" - trong một số ngày "kiêng kỵ". Nhà
nào nhà nấy đóng cửa im ỉm và có cài lá xanh. Không khí sinh hoạt của
bản trong những ngày này chùng xuống, đượm vẻ lo âu, buồn tẻ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
138
Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng nguồn
sông Đà thì mọi người đều phấn khởi tươi vui. Họ tin rằng năm đó sẽ mưa thuận gió hòa, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy bồ đầy
kho, mọi người khỏe mạnh, ít ốm đau. Trẻ già cùng rủ nhau ra suối tắm,
giặt, gội đầu. Những đồ dùng nấu ăn hằng ngày như nồi, chõ đồ xôi cũng
được đem ra cạo rửa. Và tất nhiên, hội Xên bản xên mường của năm đó
cũng được tổ chức lớn hơn, rộn rịp hơn. Cả bản cùng mổ trâu, mổ heo, ăn
uống, vui chơi nhiều ngày.
Ngày thứ nhất, hội Xên bản xên mường mở đầu bằng đám rước,
tiếp theo là lễ hiến sinh cúng thần. Đám rước diễn ra từ nhà tạo mường ra đình. Dẫn đầu đám rước là các chức sắc trong mường với trang phục đẹp
may bằng the, lụa, có cờ, lọng, chiêng, trống, kèn, sáo, nhị đi kèm. Tiếp
đến, các cụ già đội khăn đỏ, mặc áo tơ tằm vàng, quần chàm sẫm, thắt
lưng xanh. Một số cụ mang theo cả cung nỏ. Một con trâu mộng to béo,
được tắm rửa sạch sẽ, da đen bóng được dắt theo, đôi sừng trâu bọc giấy
màu lấp lánh; ở giữa trán và hai bên mông có dán giấy trắng cắt hình hoa
ban to như miệng bát. Đi sau cùng là những chàng trai trong bản, mặc áo
đỏ viền xanh, quần vàng, đội mũ chóp sơn dầu, chân quấn xà cạp đen đến tận đầu gối, đeo gươm hoặc giáo bên vai.
Tại đình, vị đẳm già - thầy mo có uy tín - áo thụng xanh, mũ đuôi
én đỏ, quần chàm, đi hài, bước ra trước hương án làm lễ cầu thần. Lát
sau, vị đẳm già cầm chiếc chuông nhỏ rung lên một hồi báo hiệu là đã
cáo thần xong và lệnh cho dắt con trâu mộng ra làm lễ hiến sinh. Trâu
được dắt đến nơi bãi rộng cạnh đình để mổ thịt. Từ lúc này, các trò vui
của nam nữ thanh niên bắt đầu. Họ tổ chức múa xoè quanh nơi mổ trâu theo nhịp chiêng trống và cuộc vui chơi kéo dài cho đến khi pha xong
thịt trâu mới chịu dừng.
Khi những mâm cỗ được dọn lên, thì chiêng trống cùng các nhạc cụ
khác lúc này cũng được chuyển về đình. Từng đôi nam nữ luân phiên hoà
tấu cho tới lúc hạ cỗ. Đêm đến, nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát cho
đến khuya mới chia tay.
Ngày thứ hai là ngày thi bắn súng hoả mai và cung nỏ. Mỗi thí sinh
phải bắn đủ cả hai mục tiêu tĩnh và động. Mục tiêu tĩnh thường đơn giản, bia đặt cách 50 mét. Mục tiêu di động là một quả bưởi đang lăn trên một
độ dốc nhất định. Phải là một tay thiện xạ, có kinh nghiệm bắn đón giỏi
mới mong đạt được giải. Nếu thí sinh bắn trúng mục tiêu di động cả 3
phát thì được hưởng một mâm cỗ đầy, có xôi, thịt, gọi là pàn han (có
nghĩa là cỗ dành cho người tài giỏi). Cỗ pàn han do chính tay tạo mường
chuẩn bị trước để tặng cho người đoạt giải trong cuộc thi tài. Tạo mường
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
139
nhận khẩu súng hoả mai từ tay nhà thiện xạ và lấy thêm một con dao sắc
mới nguyên, chuôi bằng ngà voi, đem đặt chéo hai loại vũ này bên mâm cỗ nơi bàn thờ để cáo thần. Hết tuần hương, cỗ được bưng xuống để mời
người được giải ngồi vào mâm thưởng thức với tất cả niềm vinh dự. Tạo
mường lúc ấy đứng ra tuyên bố trước thần linh và các chức sắc, bô lão
cùng dân chúng trong toàn mường, từ nay người được giải nhận trọng
trách "Tuần mường" (người trông coi việc an ninh trong mường). Người
Thái có câu ngạn ngữ: Ruộng hoang quý trâu đực, mường loạn quý
người hùng.
Ngày thứ ba là ngày vui chơi tập thể, đó là ngày hội tự do, sôi động nhất, có người tham gia đông đảo nhất. Ai thích trò chơi gì thì hãy nhập
cuộc vào các nhóm: ném còn, ca hát, thổi kèn, sáo, thi chim hót, thi trâu
béo... (Tục lệ ở đây kiêng thi vật và cấm trâu bò húc nhau trong những
ngày này). Những bản đông dân, người ta chia cuộc vui chơi thành hai
nơi: Một ở đầu bản, một ở cuối bản để tránh tập trung quá đông một chỗ.
Đối với nam nữ thanh niên, đêm hội cuối là đêm vui nhất, để lại
nhiều kỷ niệm nhất. Dưới ánh trăng, màu trắng của hoa ban ánh lên trên
nền xanh thẫm của rừng, tạo nên một vẻ đẹp thanh khiết. Giữa khung cảnh đầy thơ mộng ấy, cuộc thi hát giao duyên hoà cùng tiếng kèn, tiếng
sáo giữa nam nữ diễn ra từ lúc trăng lên và kéo dài cho đến tận khuya.
Họ tặng cho nhau những tấm phà (mặt váy thêu công phu), vòng đeo tay
bằng bạc, trầu cau và những chai rượu nếp mang hương vị của rừng, của
suối. Từ cuộc vui này, có bao nhiêu mối tình chớm nở và biết bao nhiêu
đôi nên vợ nên chồng.
Tiếp theo hội là một ngày kiêng kỵ. Nhà nào nhà nấy đều đóng kín cửa, cài cành lá xanh, người trong nhà nghỉ đi rừng, đi rẫy và không tiếp
khách lạ.
Hội Xên bản xên mường mở vào mùa hoa ban nở là hội cầu mùa,
cầu phúc của người Thái. Họ gửi gắm vào đó những ước vọng lớn lao về
một cuộc sống bình yên, no ấm nơi bản mường, đồng thời cũng là dịp thi
tài, vui chơi, trai gái tìm hiểu, tâm tình qua tiếng hát, tiếng đàn ... ./.
T.P - L.T.V
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
141
Lễ hội K'hô - igià - igià
Xuân mai - giàng xuấn Mùi
Người Hà Nhì đen ở tỉnh Lào Cai có gần 3.000 người. Họ giỏi làm
ruộng bậc thang, cấy lúa nước, thường ở tập trung từng khu vực, từng
thôn bản, không đan xen với dân tộc nào như: Bản San 1, Bản San 2, Suối Tẩy Hồ thuộc khu vực Trịnh Tường, Lao Chải, Tả Dì Thàng, Dì
Thàng, ả Lù khu vực Y Tý; Nậm Pung, Bản Sèn, San Chải khu vực
Mường Hum, huyện Bát Xát. Mỗi thôn bản có từ 15 đến 50 hộ. ở các khu
vực này, hầu như sương mù, gió tuyết quanh năm. Để đối phó với khí
hậu, việc xây dựng nhà ở cũng như mọi sinh hoạt đời thường đều có nét
riêng.
Hiện nay người Hà Nhì đen ở Lào Cai một năm có hai lễ hội dân
gian vào tháng giêng và tháng 6 âm lịch, nhưng lớn nhất là lễ hội tháng 6.
Lễ hội tháng 6 tổ chức ở rừng cấm, nơi trung tâm nhất của thôn
bản. Theo người già kể lại, từ xa xưa, khu rừng cấm đã được lưu giữ ở
một địa điểm có cây gỗ quý sống lâu năm. Bản nghiêm cấm không ai
được chặt phá cây cối ở khu này. Theo quan niệm của đồng bào, nếu ai vi
phạm sẽ bị thần linh chúa đất trừng phạt, gia đình sẽ ốm đau, chăn nuôi
lụn bại. Vì thế dân bản ai cũng sợ nên không dám chặt phá. Những ngày
thường cũng không ai được đặt chân lên khu rừng này. Ngày hội, cúng xong, dân bản mới được vào rừng cấm.
Lễ hội của tháng 6 được cúng ở hai điểm. Địa điểm thứ nhất là
cúng ở nhà ông thần linh thổ địa - ông táo bếp.
Những lễ vật cúng ở nhà gồm 5 cái bánh dày (clooc) một bát thịt
trâu luộc gồm 5 miếng, khoảng 2 đến 3 lạng nước lục, một bát nước
gừng pha lẫn nước đun sôi, 4 cái bát con úp xuống đất trước bàn thờ.
Bánh dày xếp trên một cái bát đặt trên bàn thờ, còn lại để trên một miếng gỗ thay cho mâm có đường kính 0,50m. Những món ăn trong mâm cỗ
phải trực tiếp do người vợ chế biến. Nếu vợ đi vắng, phải do con gái cả
làm, nếu con gái cả đã lấy chồng thì phải gọi về để giúp gia đình. Khi
chuẩn bị cỗ xong gia chủ khăn áo chỉnh tề vào lễ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
142
Trước bàn thờ, ông chủ quỳ hai đầu gối xuống đất, đầu cúi gật gật
ba cái rồi đứng khom hai tay chắp ngửa trước mặt lạy ba lần, ý nói tâm của gia đình thể hiện lòng mong các quan ngài hưởng thụ rồi phát lộc cho
mọi người trong nhà.
Bài cúng Cooăăccoóc không phát thành lời, mà chỉ là tâm niệm:
Toàn gia qua 6 tháng
Gia đình đã gặp may
Hạt giống reo nở ngay
Mọi người đều hạnh phúc
Lòng thành một bát thịt "neéc"
Cuối năm sum vầy chung
Chúng con nhớ công ơn
Là nhờ thần đất mẹ.
(Vừ A Se dịch)
Khi chủ gia đình cúng tâm niệm xong, lần lượt các thành viên trong
nhà đều phải lên trước bàn thờ lễ ba lễ. Mở đầu là con trai út, lần lượt
cho đến con cả là người cuối cùng.
Mọi người lễ tạ xong, chủ gia đình lấy bát nước gừng chia cho từng thành viên mỗi người một hớp nhỏ (cũng lần lượt từ nhỏ đến lớn). Sau đó
bát thịt trâu thái nhỏ được chia cho từng người ăn tại chỗ. Tất cả khách
đến chơi cũng được mời ăn như gia đình, mục đích là hưởng lộc thần cho
mọi người khỏe mạnh, ăn nên làm ra, tất cả gặp nhiều điều lành, tránh
điều ác. Phần cuối là bánh dày, gừng rượu được chia cho táo quân, để
ngay trên đầu ông táo bếp. Xong phần lễ trong gia đình, các đồ dùng sử
dụng phải được cất riêng dưới bàn thờ, không được dùng trong ngày thường.
Bàn thờ trong nhà được xây dựng ngay cạnh bếp nấu ăn hàng ngày
vào gian cạnh về phía trái ngoài cửa vào. Đó là cái bàn đơn giản có chiều
cao khoảng 0,80m, rộng 0,4m, dài 0,60m có 4 chân đóng liền. Một điều
kiêng kỵ, kể cả gia đình và khách không được nằm, ngồi đưa chân và
mông quay về phía bàn thờ, vì họ cho là vô lễ và sẽ bị thần quở phạt.
Lễ cúng ngoài rừng cấm (Gahelờso) được thực hiện ở nơi trung tâm
của bản. Đó là khu rừng có một số cây lâu năm chịu được khí hậu của bốn mùa và có hai cây đã được chọn sẵn làm cây đu dây (a gừ) hàng
năm. Có một bãi rộng khoảng 100m để làm đu quay (a quý).
Hiện nay vẫn còn một số địa phương giữ được một lán hội có diện
tích từ 12 đến 14m2, cột làm bằng loại gỗ không mối mọt, chịu được
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
143
nắng mưa. Mái lợp bằng tranh, hàng năm vào ngày hội phải sửa chữa;
phần sàn được lát bằng gỗ (có nơi lát bằng tre) có chiều cao khoảng 0,40m để trẻ con, người già ngồi ăn liên hoan, thưởng thức các trò chơi
trong ba ngày hội.
Dựng đu cây (a gừ)
Người ta lấy hai cây "Suúa" làm trụ có chiều cao từ 15 đến 20 mét,
đường kính 0,20m, dài 1m80 bắc ngang trên cao vào hai trãng của ngọn
cây trụ, luồn hai sợi dây rừng trên ngọn cây trụ xuống đất. Cách mặt đất
khoảng 0,40m buộc vào bàn đệm khoảng 0,80m để vừa cho hai người
đứng đối diện nhau.
Dựng đu quay (a quý)
ở giữa trung tâm trồng một cây có đường kính từ 0,30m, đến độ cao
cách mặt đất 1mét đục làm vam ở giữa dựng sóng cầu đu (soóc cua) cân
bằng hai bên. ở hai đầu sóng cầu đu có tay cầm để người chơi đu nắm
chắc khi chơi. Sóng cầu đu có chiều dài 6m40 chia đôi mỗi bên là 3m20.
Trước khi vào chơi đu cũng như các trò chơi khác phải làm lễ cúng
thần đất, thần gió để người chơi an toàn. Thầy cúng phải là người có độ
tuổi từ 50 trở lên, cả năm không gặp điều bất hạnh nào và được dân bản bầu. Không nhất thiết phải là thầy mo chuyên nghiệp.
Phần lễ quy định: mỗi gia đình phải có một mâm cỗ gồm 8 món,
phải có món rau quả + thịt v.v... Cỗ ông thầy có 10 món hoặc 12 món ăn.
Chủ gia đình đưa cỗ nhà mình ra "gahelờso", xếp thứ tự trên sàn lán từ cỗ
ông thầy trở xuống. Ông thầy cúng xong ở lán hội, cỗ được chuyển toàn
bộ xuống "a gừ" và "a quý" để cúng trước khi vào chơi.
Sắp xếp xong ông thầy lấy các món ăn trong cỗ của mình mỗi thứ một ít đặt vào một tàu lá chuối rừng để dưới trụ cột đu. ở ngoài đu cúng
xong, ông thầy quỳ hai chân xuống cúi đầu gật ba cái rồi lên chuyển từng
món ăn vào trụ cây đu, cứ thế lễ ba lần. Xong phần a gừ, chuyển sang a
quý. Sau đó thầy quay ba vòng của a gừ và a quý. Tất cả đều hướng về
phương bắc trước. Vì họ cho rằng ông tổ của người Hà Nhì từ phương
bắc đến nên phải nhớ tổ. Sau khi cúng thần xong thanh niên nam nữ
trong bản và khách bắt đầu chơi đu.
Bài cúng ở hai cây đu:
ở cây a quý:
Con cháu chơi đu quay
Thần đất che chở ngay
Lòng thành đâu đã đặt
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
144
Vòng quay tít, tít vòng quay,
An toàn là hạnh phúc
Hạnh phúc có từ đây
ở cây a gừ:
Chòng chành hai sợi dây
Vắt qua hai hàng cây
Tung bay cao, cao vút
Bay vút 9 tầng mây
Sáu tuần trăng đã qua
Sáu tuần trăng lại đến
Pua roóc căăc đầy nhà
Là công ông thần địa
Khi cúng xong các trò chơi được tiếp diễn. Trong lúc đó ở lán hội
già làng và khách chúc tụng nhau uống rượu, ăn cỗ. Già làng dân bản
chúc nhau đợt một, sang đợt hai già làng mời khác cùng ngồi ăn liên
hoan. Đã ăn, phải ăn cho hết không được đem về nhà. Không khí ngoài
gahelờso thật vui vẻ1.
"... Lễ hội tháng 6, được tổ chức trong ba ngày. Ngày đầu, chọn vào ngày thìn, cúng ở ga khẽ cóc vào ban đêm. Làm ban đêm để thần đất,
thần gió yên tĩnh nghỉ ngơi. Họ hy vọng sẽ được soi xét một cách công
tâm để dân bản ai cũng được gặp may mắn, công bằng. Ngày thứ hai là
ngày tỵ Coòng nai nha, ngày vui chơi của dân bản, nam nữ rủ nhau vào
rừng u du na mỗi người lấy 6 cành củi nhỏ về nộp cho lễ hội. Ngày thứ
ba là ngày ngọ, tất cả dân bản tập trung ở ga khê la coóc để người cao
tuổi nhất, cắt da trâu chia cho từng gia đình. Nếu già làng cắt chia đủ cho mỗi gia đình 2 chiếc thì năm đó làm ăn không thuận lợi. Nhưng nếu già
làng chia đủ cho số dân trong bản mà lẻ một chiếc thì năm đó dân bản
làm ăn gặp rất nhiều may mắn, lúa, ngô đầy nhà; trâu, bò, gia súc đầy
đàn; trai gái lấy nhau cũng nhiều hơn những năm già làng cắt chia vừa
đủ.
Tết tháng 6, dân bản được mổ trâu, tuỳ theo số dân trong bản đó,
nếu số khẩu quá đông sẽ mổ 2 con. Lệ của dân tộc cứ 6 năm sẽ tổ chức lễ
hội một lần, tập trung toàn khu vực ở một điểm rộng rãi chứa được cả
1 Từ đây chúng tôi bổ sung tư liệu của Giàng Xuấn Mùi, đoạn "Lễ hội... đồng hồ" với nhiều
nét khác biệt, để nội dung hội phong phú hơn và xin ghép tên hai tác giả (BTC).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
145
các xã lân cận. Còn bình thường hàng năm vẫn tổ chức, nhưng địa điểm
chỉ hẹp trong từng thôn bản.
Địa điểm tổ chức lễ hội được quy định là một nơi trung tâm nhất
của bản. Nơi đó đã bảo tồn được một số cây gỗ quý đã sống lâu đời thành
cổ thụ, và một phiến đá cũng đã lâu đời được tôn tạo lại cho đẹp đẽ hơn
chiều rộng 2m, dài 2m, cao 1m, để làm bàn thờ cúng thần. Dân bản còn
phải làm một ngôi nhà đơn giản bằng gỗ quý, lợp bằng cỏ tranh, rộng
khoảng 12m2 để người già và trẻ con dưới 5 tuổi ngồi dự lễ hội.
Lễ hội tháng 6 âm lịch cúng thần đất, thần gió "La coóc loóc".
Người thầy cúng không nhất thiết phải là thầy mo. Những người có độ tuổi từ 50 trở lên, trước ngày tổ chức lễ hội được già làng mời đến trung
tâm tổ chức hội. Già làng đốt 6 nén hương, rồi người đủ tuổi 50 tập trung
xung quanh bàn thờ cúng đều giơ cao tay phải miệng hô: dì xủn xì (oẳn
tù tỳ). Người nào ra hiệu đúng sẽ được thay mặt dân bản cúng thần trong
cả năm.
Lễ hội tháng giêng âm lịch cũng chọn trong ba ngày: dần, thìn, tỵ.
Hội này được mổ chó, lợn, gà.
Ngày dần mổ chó, cúng thịt chó. Chó mổ ra chỉ lấy một cái đầu, bốn cái chân, một cái đuôi và một của quý của chúng (dái chó) để cúng
"tua tu muoa" - tức là chúa sơn lâm. Lập bàn thờ ở đầu bản, nơi có con
đường mà dân làng và mọi người thường đi lại vào bản mình. Nếu như
bản nào có 2 đường vào bản cũng phải lập 2 bàn thờ.
Ngày thìn: mổ gà trống, to nhỏ tuỳ theo. Gà không cúng cả con, mà
phải lột da để cả lông và đầu, và lấy một quả tim. Cổng vào bản dựng
một cột tre cao bằng đầu người rồi treo bộ da gà cả lông đó lên cột tre. Theo lệ, cột tre phải có 6 đốt. Ngoài ra là một đôi kiếm gỗ "mua gua",
một khẩu súng hoả mai giả. Tại đây sẽ cúng tổ tiên ngũ - lục đại, và
những người chết đường không nơi nương tựa cũng sẽ được mời về
hưởng thụ, để phù hộ cho dân bản ăn nên làm ra, con người, con vật khoẻ
mạnh.
Ngày tỵ, mổ một con lợn, làm lông sạch sẽ, luộc chín cả con. Có
một bát xôi nếp 6 màu, một bát nước gừng cay. Khi cúng xong mọi
người ở đó đều được mời vào ăn tại chỗ, và phải ăn cho bằng hết. Khi ăn xong, phần xương đầu lợn được chia nhiều phần, mỗi người lấy một
miếng đưa về nhà mình cúng ông táo ở gia đình.
Cùng lúc còn cúng ở ngoài cổng. Nơi chính của lễ hội già làng
đánh đàn "hoót tờơ", bà già nhảy múa, thanh niên nam nữ hát đối nhau.
Khi hát đối họ hát qua ống nghe làm bằng hai ống nứa, ở giữa luồn một
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
146
sợi chỉ làm bằng dây móc, để hai bên liên hệ với nhau qua ống nghe này,
hễ đầu bên kia hát hoặc nói thì bên này đưa vào tai để nghe và ngược lại. Những đôi nam nữ đến tuổi tìm hiểu thì rủ nhau đi chơi, leo núi ngồi vào
phiến đá cạnh suối nước tâm tình biểu lộ tình cảm với nhau. Đôi nào tâm
tình đồng ý sẽ được người con trai trùm chăn kín đáo vác về nhà mình
báo cáo với bố mẹ tổ chức lễ cưới. Đôi nào chưa thành có thể ngồi khoác
chăn cho nhau chuyện trò suốt đêm cho đến sáng.
Trong lễ hội có các điệu múa rất đặc sắc:
- Múa K'hô igià igià hoặc là múa trùm chăn, phối hợp nam nữ.
- Múa oóc ga gừ: Một khuôn múa giao duyên giữa nam và nữ chưa thân thiết lắm. Nam ở trên phiến đá cao. Nữ một bên lạch nước gần phiến
đá.
- Múa Lu di mua: múa vui liên hoan, phối hợp cả nam nữ.
- Múa dua tu mú: nam nữ vỗ tay nhau.
- Khuôn múa kết thúc của lễ hội Du lua cuóu: Nam nữ đứng xen kẽ
nắm tay nhau, đi vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ" 1.
Trong ngày hội còn có trò đu dây, đu quay và hát giao duyên.
Đu dây: Người đứng trên phiến đá có sẵn lấy đà, bước hai chân đứng lên bàn địa, dùng sức nhún hai chân đẩy người lên thẳng đu sẽ bay
cao. Khi lên cao cũng làm ngược lại. Muốn cho cao hơn vẫn liên tiếp
nhún lấy đà, và phải nhún đều đều, cứ như thế khi nào không muốn chơi
nữa thì hãm lại bằng cách đứng thẳng người, tự đu sẽ chậm lại. Đôi khác
lại tiếp tục chơi.
Phần đu quay "a quý": Mỗi bên bốn người đứng đối nhau quay theo
kim đồng hồ. Có hai cách chơi.
Cách thứ nhất: Tay bám vào sóng cầu đu, phần mềm của bụng dựa
vào sóng cầu đu. Cả hai bên đều dùng chân đẩy mạnh xuống đất từ 4 đến
6 bước miễn sao cho sóng cầu đu quay tròn. Một bên ghìm xuống thấp
bằng tầm chân, một bên ôm chặt sóng cầu đu bổng người lên cao. Khi
đẩy hết đà bên cao đổi xuống đất. Cứ vậy, hai bên đổi nhau. Nếu bên nào
cũng khoẻ như nhau thì sóng cầu đu thăng bằng quay tít như con quay.
Như vậy cả hai bên đều có tài và người ta cho rằng các thiên thần năm
nay sẽ tạo cho dân bản làm ăn gặp may mắn.
Cách thứ hai: Cả hai tốp ngồi trên sóng cầu đu, hai chân xoạc hai
bên ép vào sóng cầu đu, ôm thắt lưng nhau. Người số 1 cầm chắc tay cột
1 Xem thêm Giàng Xuấn Mùi, Lễ hội dân tộc Hà Nhì đen, Tạp chí Văn hóa dân gian, tháng
4/1995.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
147
an toàn, tốp con gái đứng dưới chân trụ cột cầu đu dùng hết sức đẩy cho
sóng cầu đu quay tròn theo hướng kim đồng hồ càng nhanh càng tốt. Nếu bên nào không chịu được phải xuống coi như chịu thua. Tốp con gái
đứng giữa đều kéo tai bên thua, bắt các cậu con trai phải thổi kèn
áppagùmy, một loại kèn cuốn bằng lá như con sâu có âm lượng rất trầm,
vang xa. Bài kèn áppagùmy có nội dung "Anh là người thua cuộc không
được hát trùm chăn với ai đâu". Ngoài hai bãi chơi a gừ và a quý còn có
nhiều tốp trai gái trong bản cũng như khách ở xa đến từng đôi, rủ nhau
đến bên các lùm cây, phiến đá ngồi hát trao đổi, tâm tình. Có nhiều đôi
đã quen nhau nắm tay nhau đi những chỗ vắng vẻ, trùm chăn cho nhau để tâm tình. Ngược lại cũng có đôi rất ưng nhau nhưng chưa làm thế nào để
gần nhau. Họ đến bên các phiến đá dưới gốc cây nói chuyện với nhau
qua ống giao duyên đã được bố trí sẵn của ban lễ hội.
Hát giao duyên
Có hai ống nứa dài khoảng 0,20m, một mặt bịt kín bằng da rắn
hoặc màng cây tre đực. Luồn một sợi dây moóc rừng dài khoảng 6 đến
10 mét qua hai đầu bịt kín.
Cách chơi: mỗi người một ống. Người bên A nói chuyện hoặc hát, người bên B đưa sát vào tài nghe rồi trả lời và ngược lại.
Loại chơi giao duyên này chỉ áp dụng cho những đôi mới quen biết
lần đầu chưa dám ngồi gần, chưa dám nhìn thẳng mặt nhau.
Nếu trong khi chơi đã hiểu ý nhau, người bên A thổi ba lần phù
phù, bên B cũng trả lời ba lần phù phù: có nghĩa là em đồng ý đi chơi với
anh, chúng ta hãy cũng nhau đến những nơi hẹn hò cùng các bạn. Hai
người lại kéo nhau đi và từ đó chiếc chăn mới được khoác cho bạn gái.
Ngày thứ hai - ngày thứ ba của hội vẫn tiếp diễn chơi a gừ, a quý.
Các đôi còn lại đã hiểu ý nhau. Từng đôi đưa nhau ra các mỏm đá, các
lùm cây, suối nước dưới sương mù. Cả hai mái đầu cùng trùm chung một
tấm chăn phủ kín. Họ hát hẹn hò, thổ lộ những gì thầm kín nhất, hát
những bài ca ước nguyện mà họ hằng mong muốn.
Nội dung bài hát của nữ:
Đêm nay em đi chơi hội
Không hẹn mà gặp anh
Chúng ta cùng tỏ tình
Mau mặt trời nhìn thấy ...
Nam hát:
Anh ở tận rừng xanh
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
148
Về đây anh biết em
Cây xanh đứng một mình
Một mình thật đơn lẻ
Cả nam, nữ cùng hát:
Anh và em ở tận rừng xa đến
Không ai hề biết mặt một lần
Chỉ trong hội chúng mình mới biết
Cầu ước gì chúng mình chung
một bếp, một chăn.
(Dịch từ tiếng Hà Nhì: Vừ A Se)
Và cứ thế trong ba ngày lễ hội họ làm được nhiều điều mong ước,
có nhiều đôi thành vợ thành chồng, cũng có đôi chỉ là tình cảm ban đầu.
Những đôi đã hiểu nhau, họ choàng chăn kín mặt không cho ai nhìn thấy
và chàng trai vác cô gái đó về nhà mình làm vợ.
Như vậy, thanh niên nam nữ người Hà Nhì đen Lào Cai được
quyền lựa chọn tình yêu.
Song, những đứa con đầu lòng của người Hà Nhì thường ít được
chăm sóc yêu thương của người bố vì họ nghĩ rằng đứa con đó chưa phải thực sự là con họ. Từ đứa thứ hai trở đi mới chính thức là con của mình./.
X.M - G.X.M
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
150
lễ hội xuân đình làng giàng
Quang Huynh
Hữu Lũng, vùng đất cửa ngõ phía Nam của xứ Lạng cũng có
những hội xuân náo nức, thu hút sự hội tụ của trai thanh, gái lịch và du khách bốn phương.
Hàng năm, cứ sau ba ngày Tết nguyên đán là mọi người đã náo
nức chuẩn bị và tổ chức hội. Hội làng này rồi đến hội làng khác: Mồng
sáu tháng giêng hội đình Đồng Lai; Mồng bảy hội đình làng Ngọc; Mồng
tám hội đình làng Bến; Mồng mười hội đình làng Giàng... Rồi hội đền
Bắc Lệ kéo dài từ đầu tháng giêng đến trung tuần tháng hai...
Trong số những hội xuân ấy, hội đình làng Giàng (xã Yên Thịnh) là một lễ hội có nhiều điều kỳ thú và đáng được quan tâm.
Hội được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng, nhưng những công
việc chuẩn bị đã được tiến hành từ trước đó, nhất là việc ôn luyện, tập
dượt các tiết mục trò diễn trong ngày hội.
Ngày hội, từ sáng sớm, theo sự sắp đặt, cắt cử của Cai đám, lềnh
trưởng trong làng, từng hộ lo việc đóng góp công sức, lễ vật cho ngày
hội. Từng nhà đưa cỗ bàn lễ lạt đến đình làng. Trên một đám ruộng bằng
phẳng trước cửa đình, giữa bày hương án thờ thần, xung quanh dùng tre đóng giáo để bày cỗ. Cỗ bày theo từng hàng, phe và chia thành hàng
thượng, hàng hạ. Cờ thần, cờ phướn cắm theo từng hàng, từng lớp phấp
phới tung bay. Đến giờ, chiêng trống nổi lên. Những trai làng rước
hương án từ các đền miếu xung quanh cùng về tụ hội. Đi theo các đám
rước là những phường bát âm vang lên những bản nhạc lưu thủy, sinh
tiền. Hòa cùng tiếng trống, tiếng chiêng âm vang nhộn nhịp.
Khi hương án từ các nơi về đủ, tám ông già làng, mũ áo chỉnh tề, đứng ra kính cẩn cúng tế đất trời thần linh cầu mong cho đất nước thanh
bình "dân khang vật thịnh", "phong đăng hòa cốc",
mùa màng bội thu, mọi nhà đắc tài, đắc lộc".
Buổi trưa cỗ bàn bày ra, mọi người ăn uống vui vẻ. Sau đó
chuyển sang phần hội, tổ chức các trò diễn. Lúc này mọi người từ già trẻ
gái trai, du khách bốn phương đã tụ hội đông đủ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
151
Mở đầu là trò "múa dậm" (múa gươm theo nhịp trống). Trò này
do một ông hát cái đánh trống giữ nhịp và tám chàng trai làng khỏe mạnh, hoạt bát biểu diễn. Những chàng trai này đã được luyện tập từ
ngày mồng ba Tết. Khi tập họ chỉ được dùng gươm gỗ, cho đến ngày
mồng chín mới được tập bằng những thanh gươm sắt báu vật của làng, để
hôm sau biểu diễn trong ngày hội. Trước ngày nhận gươm quí các chàng
trai này được đưa đến đầu nguồn suối "Mỏ Cả" nước trong và ấm tắm
rửa sạch sẽ, làm lễ khấn thần linh. Từ tối hôm đó họ đến ăn ngủ chung ở
nhà ông "hát cái", thực hiện "trai giới mộc dục", kiêng kỵ đàn bà cho
trong sạch và linh thiêng.
Vào trò, chiêng trống nổi lên. Ông "hát cái" giữ nhịp trống và
xướng lên một bài ca chữ Hán theo nhịp múa:
Thiên bồng, Cửu bồng
Đô tri thượng đế
..........
Thượng bộ kim cương
Thu tà sát mộc
Ta lại hề sát!
Tám chàng trai nai nịt gọn gàng, mắt hướng vào nhau, miệng hô
vang "Hề sát! Hề sát!', tay cầm gươm vung lên sáng loáng và múa theo
nhịp trống, nhịp chiêng lúc khoan, lúc nhặt, lúc rạo rực oai hùng, lúc
uyển chuyển duyên dáng... Điệu múa biểu thị một tinh thần thượng võ và
cầu mong sức khỏe, giữ gìn, xây dựng cuộc sống thanh bình.
Sau các điệu múa gươm, tám người chuyển sang diễn cảnh đánh
đồn. Họ vừa múa gươm, vừa chạy đến một "đồn" được quây kín bằng lá cót có tết hoa lá xung quanh. Tám người nhảy múa, biểu thị sự chiến đấu
gian nguy khó nhọc. Rồi một người xông được vào "đồn", một phát pháo
lệnh nổ vang. Từ trong "đồn" khói bụi mịt mù. Một lá cờ màu đen được
giương lên tung bay phấp phới. Mọi người reo hò hoan hỉ.
Tiếp đó là cảnh diễn "Cô gái nhà giàu kén chồng". Những chàng
trai được hóa trang thành "bố giàu", "mẹ giàu", "con gái nhà giàu" và bốn
người đại diện cho bốn nghề: sĩ, nông, công, thương.
Bố giàu được ăn mặc sang trọng. Mẹ giàu thì lại mặc váy vá chằng vá đụp can đủ trăm miếng vá bằng vải chàm, vải đen... chân bôi nghệ
vàng trông đến tức cười. Tương phản với mẹ là cô gái nhà giàu được mặc
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
152
áo tứ thân, thắt lưng lụa đào, đầu đội nón thúng quai thao, ngực độn, má
phấn môi son... trông rất duyên dáng và ngộ nghĩnh.
Bố giàu tay gõ mõ, miệng hát lên:
Cốc cốc lao lao
áo dài mũ cao
Ai có lòng nào
Thì lên cho chóng...
Bốn chàng trai đại diện cho bốn nghề sĩ, nông, công, thương lần
lượt ra trình diễn, trổ nghề để cô gái nhà giàu kén chọn làm chồng.
Mở đầu là chàng "Sĩ" mặc áo chùng thâm, đầu đội khăn xếp, tay cầm bút nghiên, vừa đi vừa hát:
Sĩ là ta cơm cha áo mẹ
Bốn mùa xuân hạ làm bạn sách đèn.
Vua Thuấn, vua Nghiêu... ta đã từng quen
...........
Nông giàu năm lang tậu được con trâu
Sĩ có năm đồng tậu được cây bút
Hỏi con gái nhà giàu có lấy Sĩ ta?
Tiếp theo là chàng "Nông", đầu đội nón lá, tay cầm roi cày:
Nông là ta, giữ việc cấy cày
Điền viên thú ấy thực là vui thay
Ta lấy nhau về làm ruộng mùa màng
Được mùa thóc lúa chứa chan
Gà lợn, dê ngan, trâu bò đầy nái
Nhà bà có con gái có gả cho Nông tôi chăng?
Có gả thì rằng cho tôi được biết.
Sau đó là đến chàng "Công", vai gánh bễ lò rèn, tay cầm dao, búa:
Công là ta giúp việc đánh rào
Tiền bạc cấp dưỡng thiên hạ vô biên
...........
Hỏi con gái nhà giàu có lấy ta không?
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
153
Sau một lượt cả bốn chàng trình diễn, cô gái vẫn tỏ ra e lệ, kén
chọn. Ông bố, bà mẹ làm động tác giục con nhận lời người này, chê người kia... trông rất buồn cười, vui vẻ.
Đến vòng thứ hai, khi chàng "Nông" lên hát, cô gái quyết định
chọn chàng "Nông" làm chồng, biểu thị sự trọng nông, "nhất nông nhì
sĩ". Hai người dẫn nhau bái lạy cha mẹ tỏ ý thuận tình. Một người đóng
vai quan làng đưa mâm cỗ to làm lễ tơ hồng kết duyên.
Sau đó là chuyển sang cảnh diễn:"Hái dâu, chăn tằm, bán kén". Lời
ca có đoạn:
Chúng ta là nàng Tô Thị
Con bà Hoàng Đế
ở núi Lịch San
ở núi Đại Ngàn
Cỏ dâu mọc tốt
Tình cờ gặp đoạn
Đôi kén nổ ra
Ta mang về nhà
Nở ra con mọn
Sắt dâu hòa trộn
Nho nhỏ được chăn
Tằm ăn một, tằm ăn hai
Nhớn lên thôi thổi...
..........
Lưu truyền vạn đại
Tích để cho làng ta đây
Bồ chị bồ bà ở nhà ra mà mua kén.
Những chiếc "kén tằm" được tết bằng lạt giang nhuộm màu ngũ sắc
tung ra. Mọi người tranh nhau lấy hưởng lộc.
Rồi đến cảnh diễn đi cày, gieo mạ, đi cấy, đi gặt, gánh lúa, say
rượu... rất ngộ nghĩnh. Mỗi cảnh diễn đều có điệu múa và lời ca phụ họa
cuốn hút người xem từ đầu đến cuối.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
154
Cũng lúc đó ở những điểm khác cạnh đấy có tổ chức những trò
chơi đu, đấu vật, kéo co... sôi động, đáp ứng nhu cầu chơi hội đa dạng của người xem.
Đêm đến, đóng đám hát hội. Những phường chèo, phường tuồng
diễn tích cổ, tiếng trống chèo vang lên suốt đêm tới sáng. Mọi người
được hưởng trọn vẹn một ngày hội vui tươi thoải mái.
Đến nay, những người dân vùng Tam Yên (Hữu Lũng) trên độ tuổi
bốn mươi mỗi khi xuân về vẫn còn bồi hồi nhớ tiếng trống, tiếng chiêng
nhịp múa dậm và những trò diễn của hội đình làng Giàng./.
Q.H
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
155
lễ hội lập tịch
lê hồng lý
Người Dao Họ (thuộc bản Khe Mụ, xã Sơn Hà huyện Bảo
Thắng, Lào Cai) là một cộng đồng không lớn so với cư dân trong xã. Trong số 40 gia đình sống ở xã Sơn Hà thì người Dao Họ chỉ có 10 nóc
nhà (gia đình). Về địa vực cư trú, họ ở không sâu. Tới phố Lu, theo
đường sắt hoặc đường bộ (quốc lộ II), đến Khe Mụ chỉ còn khoảng 6 km,
người dân bản vẫn ra chợ phố Lu mua bán những nhu yếu phẩm cho
mình. Người Dao Họ ở Khe Mụ sống ven theo các triền núi thấp bên các
khe suối hoặc thung lũng hẹp. Khe Mụ trước kia gọi là Khe Lau, theo
dân bản vì trước đây có rất nhiều cây lau, sau này khi có nhiều người Kinh đến sinh sống và gọi là Khe Mụ. Nghĩa của từ này là gì không ai rõ.
Đây cũng không phải là đất ở lâu đời của người Dao Họ, mà những
người Dao Họ ở đây vốn gốc từ Gia Phú- Thái Niên do tránh sự o ép của
Pháp mà chạy về đây sinh sống. Lúc đầu chỉ có người Dao Họ ở đây, sau
này người Kinh ở miền xuôi lên sinh sống và cứ đông dần như ngày nay.
Trong kho tàng văn hoá của người Dao Họ, thì lễ lập tịch đóng
một vai trò quan trọng trong đời một con người. Lễ lập tịch (hay còn gọi
là cấp sắc) của người Dao Họ giống như lễ thành đinh của các dân tộc ở nước ta và trên thế giới. Đó là nghi lễ đánh dấu một giai đoạn của cuộc
đời con người, giai đoạn từ tuổi thiếu niên lên tuổi trưởng thành, được
cộng đồng công nhận có vị trí trong đời sống và sinh hoạt của người Dao
Họ. Hơn thế nữa, đó không chỉ là sự công nhận chính của cộng đồng, mà
còn là sự chấp nhận của thần linh cho chàng trai đó có đầy đủ mọi tiêu
chuẩn của một thành viên chính thức của cộng đồng.
Để làm được một lễ lập tịch cần phải chi phí khá tốn kém về mặt kinh tế, do đó không phải ai cũng có thể làm được, dù rằng đó là điều
mong ước của mọi gia đình. Bởi vì, khi chưa làm lễ này thì người đàn
ông cho đến khi chết vẫn chỉ là người thường, không có vai trò gì trong
cộng đồng. Đến những nơi thiêng liêng anh ta không được quyền vào,
không được coi trọng trong các buổi hội hè, ăn uống, mà chỉ là người
phục vụ bình thường.
Gia đình định làm lễ lập tịch cho con cần phải chuẩn bị gạo, thịt,
tiền để làm cỗ cúng thần, mời các thầy cúng và bà con dân làng. Tuy
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
156
rằng mọi người đến đều có quà mừng, nhưng phần chủ yếu vẫn là do gia
đình tự lo.
Làm lễ lập tịch gồm có hai loại Tam Thanh và Tam Nguyên. Tam
Thanh đơn giản hơn Tam Nguyên, nhưng người làm Tam Nguyên xong sẽ ở thứ bậc cao hơn so với Tam Thanh. Làm Tam Thanh hay Tam
Nguyên là do truyền thống của từng gia đình. Nếu trước kia trong gia
đình ông bố làm Tam Thanh thì nay cũng chỉ làm Tam Thanh cho con.
Nếu bố trước kia đã làm Tam Nguyên thì nay con cũng phải làm Tam
Nguyên. Tam Nguyên đòi hỏi tốn kém và các nghi lễ phức tạp, do vậy
không phải ai cũng làm được, mà chỉ những người có điều kiện.
Con trai từ 13 tuổi trở lên, nếu gia đình có điều kiện, là làm được.
Có người đến chết vẫn chưa làm được thì lúc đó đình đám không được tham gia, không được vào lán thờ chỗ người ta đang làm nghi lễ mà chỉ
được ở ngoài rìa. Như vậy, việc làm hay không làm lễ lập tịch có một
ranh giới rất rõ ràng. Đó không chỉ với những người đang cùng chung
sống mà còn với thần linh của cộng đồng.
Khi gia đình đã quyết định làm lễ lập tịch cho con, phải lựa ngày
tốt đến gặp ông thầy để xem tuổi có được ngày, được tháng, được năm
hay không. Sau đó về nhà, 20 ngày sau tiếp tục xem chân giò, nếu chân
giò mà đẹp, tức là làm được - thần linh đã đồng ý. Gia đình lấy một tờ giấy, viết tên tuổi chàng trai, tên tuổi của thầy và ngày tháng gia đình sẽ
làm và mời thầy đến. Việc mời thầy phải trước ít nhất 7 ngày để thầy
chuẩn bị tìm những người giúp việc và xem sách dạy các bước làm, sắm
sửa các đồ trang trí để đến ngày đó mang tới gia đình. Điều này rất quan
trọng bởi vì đối với người Dao Họ, mỗi một bước làm trong mọi nghi lễ
đều có sách quy định. Vả lại việc trang trí trong một buổi lễ rất công
phu, nào là viết sớ, dán tranh thờ, trang trí bàn thờ, đồ thờ và các vật hành lễ. Do đó cần phải có sự chuẩn bị trước hết sức tỷ mỷ.
Về phía gia đình một mặt tiếp tục chuẩn bị lễ vật, mời anh em họ
hàng gần xa, mặt khác nhờ bà con anh em ở gần đến dựng lán thờ.
Lán thờ là nơi sẽ tiến hành các nghi thức chính thức cho lễ lập
tịch. Lán được xây dựng trên một khoảng đất bên cạnh hoặc ở ngoài xa
nhà ở một chút, theo đúng kiểu một ngôi nhà thu nhỏ. Đặc biệt là một
bên mái được khoét trống ở giữa nhưng thẳng từ vách lên chứ không
phải ở giữa mái. Nơi đó sẽ dựng một bàn thờ ngoài trời. Bàn thờ được dựng trên 4 cọc. Toàn bộ lán thờ được thưng kín bằng vách xung quanh,
chỉ để một cửa ra vào. Trên khắp bốn vách được dán kín bởi rất nhiều
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
157
tranh thờ, giấy màu, các tờ sớ và những hình cắt dán rất công phu. Theo
chiều dọc của lán thờ có dựng 4 khối cọc thẳng nhau theo nóc lán, xung
quanh bốn khối cọc (mỗi khối gồm nhiều cọc tre nhỏ bó lại) được dán
kín bằng giấy màu, sớ .v.v ... Theo suy nghĩ của người Dao Họ, đó là nơi nhốt các ma để chúng không quấy phá con người trong ngày lễ. Có thể
nói hầu hết các nghi lễ quan trọng đều được tiến hành tại đây và nó là
trung tâm của những ngày lễ. Việc dựng lán thờ là một việc làm hết sức
công phu, nên gia chủ phải báo trước để thầy cúng chuẩn bị. Đến ngày
ông thầy đến trang trí lán thờ, mọi việc ông đều dựa trên luật tục đã quy
định mà bàn bạc, thoả thuận cùng gia chủ cho hợp lý, chứ không bao giờ
độc đoán bắt gia chủ phải nhất nhất tuân theo ý của mình. Đây cũng là
nét văn hoá đáng chú ý.
Làm lán thờ đã xong, nhà chủ chọn lấy vài người thân cận đi lấy
dây để đan võng. Đó là một tấm lưới được đan bằng những cây leo trong
rừng để đỡ chàng trai sau khi đã hoàn thành các nghi lễ Tam Nguyên từ
trên trời trở lại với cộng đồng. Người đi lấy dây làm võng không cần
phải lựa chọn kỹ, nhưng loại dây leo để làm võng phải được lựa chọn rất
kỹ. Đó là loại dây leo dài, dẻo và chỉ chọn những cây leo vắt qua ngòi
nước hoặc suối và thật xoắn. Loại cây leo đó gọi là tay thảy mảy, đã được
truyền từ đời nọ qua đời kia, dùng để bện võng. Thường thường những người đi tìm dây leo là những người đã rất thông thạo, biết ở chỗ nào có
nhiều loại dây đó. Người ta đến lấy và cuộn thành bó khiêng về bóc hết
vỏ, chỉ lấy ruột rồi tước ra để thành đống sẵn đó.
Làm bàn địa cũng là một việc quan trọng. Bàn địa là nơi thực
hành những nghi lễ cuối cùng của người lập tịch Tam Nguyên. Tại đây,
sau khi đã làm xong các nghi lễ, người thụ lễ sẽ buông mình rơi xuống
tấm lưới võng do mọi người cầm đỡ ở dưới, biểu tượng cho một cuộc thử thách dài, qua hết các đoạn đường và từ trên trời trở về với cộng đồng.
Nơi đặt bàn địa là vị trí cao ráo, thoáng ở đầu bản. Tại đó người
ta dựng 4 chiếc cọc bằng bốn đoạn gỗ to, khoẻ và chắc chắn. Trên đầu
bốn cọc ấy được đặt một chiếc bàn hướng về phía đông, đó cũng là nơi
người làm lễ lập tịch phải rơi xuống. Bàn gỗ được cột chặt vào bốn góc ở
độ cao từ 2,5 m đến 3 m. Một chiếc thang dài 3m được đặt phía tây gắn
vào mép bàn. Thang gồm 12 bậc, tượng trưng đường đi lên trời.
Trước khi làm bàn địa, người ta sắm một mâm lễ vật gồm hương, gạo, trứng, rượu. Thầy cúng đặt mâm lễ ấy trên chỗ đất sẽ làm bàn địa.
Trên mâm lễ còn có một con dao găm. Sau khi thầy cúng khấn vái xong
liền cầm con dao găm vạch ra mấy vạch ở chỗ sẽ chôn cọc, tựa như thần
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
158
linh đã mách bảo chỗ phải đặt bàn địa. Sau đó, thầy cúng cầm chiếc rìu,
sẽ dùng để chặt cây làm cọc, dâng lên trước mâm lễ và khấn, rồi cầm rìu
ra chặt vào các cây đã để sẵn cạnh đó. Thầy cúng tiếp tục khấn một vài
lời nữa và lấy con dao găm trên mâm ra đo độ dài của cọc để lấy kích thước. Lấy xong ông thầy khấn tiếp vài lời nữa rồi mọi người bắt tay vào
việc.
Điều đáng chú ý ở đây là việc thực hành nghi lễ cúng này có hai
người. Một ông thầy đứng ở trước mâm lễ đọc tất cả những lời khấn, còn
một ông khác ngồi đối diện sát mâm thực hiện những bước đã kể trên
theo lời khấn của ông thầy đứng trước mâm. Khi xong các nghi thức,
những người đàn ông, mỗi người góp một tay để làm bàn địa, người đào
hố, người chặt cây, người buộc thang... Chẳng mấy chốc mà chiếc bàn địa đã dựng xong. Các thầy cúng kiểm tra lại độ chắc chắn của thang, của
bàn rồi mọi người dùng lá chuối phủ lên. Việc làm bàn địa kết thúc.
Trong lúc ở dưới đầu bản làm bàn địa thì trên nhà gia chủ, người
ta gây mối để đan võng. Mối gây như một chiếc chôn quang, xung quanh
chiếc võng tròn kiểu chôn quang này, cách đều từng đoạn, người ta buộc
sẵn các sợi dây dài ra các phía, để sau này cứ theo các đoạn dây ấy mà
đan tiếp vào làm thành một tấm lưới võng. Gây mối xong, người ta dồn
tất cả đống dây leo đã tước sẵn ấy thành một đống, buộc gọn lại, đợi đến lúc đem ra chỗ bàn địa để đan võng. Trong lúc mọi người gây mối để đan
võng, có nhạc của chiêng và trống kèm theo.
Lễ lập tịch của người Dao Họ ở Khe Mụ kéo dài tới ba ngày và có
thể hơn nữa. Nhiều nghi lễ và sinh hoạt tín ngưỡng được tiến hành trong
thời gian đó. Người ta thường kết hợp làm cả lập tịch cho Tam Thanh,
Tam Nguyên và làm chay (hay còn gọi là làm ma khô) vào cùng một lần.
Như vậy sẽ đỡ tốn kém hơn. Người ta quy định rõ cho từng ngày trong thời gian diễn ra lễ lập tịch phải làm những gì. Theo lời kể của các già
làng thì trước đây, thời gian làm lễ rất dài và gồm nhiều nghi lễ phức tạp.
Những nghi lễ mà chúng tôi quan sát được vào tháng 3 năm 1996 gồm
một số lớp như sau:
- Lễ trình trước bàn thờ tổ tiên.
- Các nghi lễ ở trong lán thờ.
- Các nghi lễ ở ngoài bàn địa.
Trong số này, dài nhất và phức tạp nhất là các nghi lễ diễn ra ở trong lán thờ. Đây là nơi hành lễ chính thức và gồm rất nhiều lễ như lễ
cúng cầu, lễ múa gà, lễ cân lợn, làm bùa, lễ dẫn đường cho Tam Thanh
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
159
và Tam Nguyên .v.v... Về thời gian, trong ba ngày thì ngày đầu tiên thực
hiện những nghi lễ mở đầu cho lễ lập tịch, cúng tổ tiên, thần linh để báo
cho biết, mời họ về dự và giúp đỡ đuổi tà ma; đón khách đến thăm hỏi dự
lễ, chuẩn bị lán thờ. Ngày thứ hai tiếp tục trang trí lán thờ, dán tranh, viết sớ, yểm bùa trừ tà ma, làm bàn địa, đan võng và cúng lễ trong lán thờ
đến hết đêm. Sang ngày thứ ba thì từ lúc chưa sáng đã tiến hành múa gà,
cân lợn và kết thúc các nghi lễ trong lán thờ để sau đó thực hiện các nghi
lễ cuối cùng là nghi lễ nhảy võng từ trên bàn địa. Sau nhảy võng là kết
thúc lễ lập tịch. Nếu gia đình nào kết hợp làm chay thì sau lễ nhảy võng
một lúc người ta sẽ tiến hành làm chay. Chúng tôi xin trình bày ở đây lễ
nhảy võng của người làm Tam Nguyên. Đó cũng là giai đoạn kết thúc
của một lễ lập tịch của người Dao Họ.
Trước hết phải thưa rằng Nhảy võng là do chúng tôi tự đặt ra để
chỉ nghi lễ mà người con trai làm Tam Nguyên phải tiến hành ở giai đoạn
cuối của lễ lập tịch. Đó là khi anh ta buông mình rơi từ trên bàn địa
xuống tấm lưới to do nhiều người đàn ông khác từ dưới căng ra và đỡ.
Võng ở đây chính là một tấm lưới to được đan bằng loại cây leo, đã được
trình bày ở trên. Người Dao Họ quan niệm rằng việc họ hứng tấm lưới ấy
ra chờ đón người con của cộng đồng, sau khi đã trải qua mọi thử thách,
được thần đất, thần gió, được tổ tiên và các vị thần linh khác che chở, nay đã chính thức được làm một người con của gia đình, dòng họ, một
thành viên của cộng đồng với đầy đủ phẩm chất của nó.
Vào sáng ngày thứ ba, sau khi những nghi lễ đã kết thúc, tại lán
thờ lúc này, người ta choàng cho người làm Tam Nguyên một chiếc áo
dài đỏ, một chiếc khăn thêu trùm lên đầu. Hầu hết tất cả các thầy cúng có
mặt tại đây để tiến hành nghi lễ. Bảy ông thầy, một người cầm dao, một
số tay không, đi xung quanh Tam Nguyên, vừa vỗ tay vừa tung dao chém vào khoảng không. Sau đó, họ cầm mỗi người một ngọn nến đi vòng
quanh Tam Nguyên. Hết vòng, tất cả cùng chụm tay vào trán Tam
Nguyên, lầm rầm đọc thần chú, rồi cùng áp tay vào bụng, vào chân Tam
Nguyên đọc thần chú. Một ông thầy đứng bên ngoài đọc to các lời khấn.
Tiếp đến tất cả các ông thầy cùng nhau ngồi xuống trước bàn thờ để đọc
lời khấn. Đọc xong, một ông thầy trang phục giống như Tam Nguyên,
đầu đội mũ có đuôi, trán có đeo một bức tranh vẽ một vị thần, nối với
Tam Nguyên bằng một tấm vải ở trước bụng, dắt Tam Nguyên đi vòng quanh chiếc cột ở giữa lán thờ. Các thầy có mặt cùng nhau đọc những lời
khấn viết sẵn trên giấy và chuẩn bị đi xuống bàn địa.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
160
Đoàn người dẫn Tam Nguyên xuống bàn địa gồm có: Người đi
đầu tiên cầm hai kiếm, vừa đi vừa múa. Theo sau là một người cầm
thước, một người cầm kiếm và một người đeo mặt nạ. Rồi tiếp đến hai
người với những chiếc tua vải ở tay vừa đi vừa múa. Kế đến là một ông thầy dẫn Tam Nguyên đi. Ông này đi giật lùi, mặt đối mặt với Tam
Nguyên để dẫn đường. Lần lượt theo sau là một ông thầy đội mũ, mặc áo
đỏ, tay ôm sách; một người cầm hương, một người đọc lời khấn trong lúc
đi. Hai người khiêng võng cùng dàn nhạc và mọi người đi theo.
Đến bàn địa, tất cả đi quanh bàn địa thuận chiều kim đồng hồ.
Phía trước mặt bàn địa, về hướng đông, có đặt một chiếc bàn hương và
một bức tranh thánh, phía đối diện bàn này ở hướng tây, sau chân thang
lên bàn địa, cũng đặt một bàn hương như thế. Sau khi ba vòng đi quanh thang kết thúc, nến được thắp và cắm dọc hai bên của 12 bậc thang lên
bàn địa. Tam Nguyên cùng ông thầy dẫn đường bước lên bậc đó. Các
ông thầy cúng khác ngồi hết lên các bậc thang còn lại phía trên. Sau đó
tất cả các ông thầy trên đó từ từ đi xuống, một ông thầy khác từ dưới đất
bước lên thang vừa đi vừa khấn, vừa xua tay và gạt hết những cành lá
chuối che trên đó xuống. Một ông thầy đứng trước chân thang đọc lời
khấn. Một ông khác tiếp tục trèo lên thang. Khi lên tới bàn, ông ta đứng
dậy làm những động tác thần chú và múa ở trên đó. Một tay ông cầm tua vải, tay kia cầm một chiếc gậy bằng gỗ, một đầu vót nhọn, một đầu là
con dao. Sau khi múa xong, ông ta không đi xuống theo bậc thang, mà
nhảy xuống. Lúc đó ông thầy đang đứng đọc khấn trước chân thang tiếp
tục lên. Tay ông cầm con dao có đeo một vòng tiền xu ở cán, khi lên tới
bàn ông lấy tay vạch trên mặt bàn và thì thầm đọc lời niệm chú. Kết thúc
ông ta cũng nhảy xuống. Một điều đáng lưu ý là cả hai ông này mỗi khi
nhảy xuống đều vỗ hoặc xoa tay vào cột ở bàn địa rồi mới nhảy. Mặt bàn khá cao so với mặt đất nên các ông đều trèo thả chân rồi mới nhảy chứ
không nhảy thẳng từ trên mặt xuống.
Khi ông thầy cầm dao có vòng tiền kết thúc nghi lễ của mình thì
ông thầy dẫn Tam Nguyên bắt đầu lên. Hai thầy trò cùng lên cầu thang
song song với nhau, mỗi người một bên. Vừa đi vừa cúi xuống dùng tua
vải xua xua hai bên như để dẹp đường. Đến cạnh bàn, ông thầy cũng
niệm chú rồi đỡ Tam Nguyên lên mặt bàn. Ông ta lấy ra những mảnh vải
trắng và đen (do ông chủ nhà sắm sẵn và đưa lúc ông thầy còn đứng dưới chân cầu thang bắt đầu kẹp vào ba khe ngón tay giữa của Tam Nguyên,
mỗi khe ba cặp. Những tấm vải dùng quấn ở bụng của cả thầy lẫn trò
được cởi ra và luồn xuống khe thang. Ông thầy nhảy xuống khỏi thang
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
161
vào bàn địa bị chặt đứt và thang được đem đi. Trên bàn lúc này chỉ còn
Tam Nguyên ngồi xuống, quay lưng về hướng đông (nơi sẽ rơi xuống,
mắt nhìn về hướng tây nơi ông thầy sẽ chủ huy cuộc nhảy võng. Ông
thầy cầm con dao khi nãy bây giờ ngồi cách bàn địa khoảng 5m, bắt đầu hành lễ. Ông ta hô lên hai tiếng ê, ê báo cho Tam Nguyên biết cuộc lễ bắt
đầu. Sau đó, ông ta hô tiếp một lần đồng thời nhổm người lên một ít, hô
lần thứ hai đứng khom và hô lần thứ ba đứng thẳng người lên. Xong việc
này, ông dang tay phải sang phải và cũng hô ba lần, mỗi lần hô là một lần
nâng dần lên, đến câu thứ ba thì giơ thẳng lên đầu. Hết bên phải chuyển
sang bên tay trái. Cứ mỗi lần hô và làm động tác này thì Tam Nguyên ở
trên bàn cũng nhìn mà làm theo, và xong một bên tay thì Tam Nguyên
thả một cặp hai miếng vải đen trắng ở một kẽ tay. Cứ như vậy sau sáu lần thì số mảnh vải kẹp ở tay cũng hết.
Xong việc thả các mảnh vải, theo lời hô của thầy, Tam Nguyên
đứng thẳng và ngồi xuống, hai tay bó vào gối. Lại ba lần hô, Tam
Nguyên theo đó mà chụm chân và xoay dần ra mép bàn phía đông. Trong
lúc đó, mọi người ở dưới cùng nhau trải võng cho căng ra. Trên mặt võng
trải 12 cái chăn đan chéo nhau, đồng thời lấy gạo vãi khắp mặt võng. Số
chăn phải xếp sao cho để lúc người Tam Nguyên nhảy xuống thì tất cả
các đầu chăn phải chụm lại phủ kín toàn bộ người nhảy võng.
Tam Nguyên cứ nhích dần, nhích dần. Đến lần hô thứ ba thì
buông mình rơi xuống võng theo đằng lưng xuống trước. Khi xuống tới
nơi, tất cả các chăn phủ kín Tam Nguyên. Anh ta không được động đậy
mà vẫn giữ nguyên tư thế ngồi bó gối. Chỉ đến khi các thầy xông vào, lấy
tay đập vào đầu gối, lúc ấy Tam Nguyên mới được bỏ tay ra và duỗi
thẳng người và chân. Các thầy cởi áo của mình ra đắp cho Tam Nguyên.
Người ta bắt đầu đọc những lời thần chú. Sau đó người ta nâng Tam Nguyên ngồi dậy, các thầy lần lượt vào dùng dấu bùa đóng (tượng trưng)
và niệm chú cho Tam Nguyên, bón trứng và cơm cho Tam Nguyên.
Người ta đem đến một cuộn vải và chiếc ống nứa để dốc tiền vào lòng
Tam Nguyên
để kiểm tra âm dương rồi xé cho Tam Nguyên hai đoạn vải.
Mọi thủ tục như vậy là xong. Giờ đây chàng trai ấy coi như đã
được cấp sắc là Tam Nguyên. Và anh ta đã trở thành một ông thầy Tam
Nguyên mới và hoà vào dòng các thầy múa ba vòng xung quanh bàn địa. Trong lúc vừa múa các thầy cùng nhau chặt võng ra nhiều mảnh và đem
vứt ra bốn phía. Lễ kết thúc, mọi người lại nhảy múa trở về nhà trong
tiếng nhạc rộn rã.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
162
Những người hôm qua dựng bàn địa nay lại tự tay phá nó ra,
ngoài những người đó không ai được làm. Lán thờ được dỡ và đem ra
khỏi khu vực nhà ở để đốt đi.
Lễ lập tịch của Dao Họ là một lễ hội vừa phong phú vừa phức tạp, trong đó chứa đựng rất nhiều các các phong tục, tín ngưỡng của dân tộc
Dao Họ. Nó là một hiện tượng văn hoá tổng hợp gồm nhiều loại hình
múa, nhạc, lễ và đặc biệt là số lượng lớn những bài cúng do các thầy
cúng đọc từ các sách đã được quy định từ lâu đời, có ý nghĩa rất quan
trọng đến đời sống vật chất vào tâm linh của tộc người này. Do hiểu biết
còn chưa được thấu đáo, cũng như việc quan sát còn chưa đầy đủ, nên
chúng tôi cố gắng dựng lên một phần nào đó để độc giả hình dung một
hiện tượng văn hoá khá độc đáo này. Đồng thời cũng là để thỉnh cầu những lời chỉ giáo của các bậc thức giả đã từng trải, với lòng mong muốn
được bổ sung mà dựng lại một cách đầy đủ tất cả những nghi lễ thú vị
này./.
L.H.L
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
164
hội múa lông công vùng tu lý
Nguyễn hữu thức
Mỗi khi mùa xuân về, người Mường ở xã Tu Lý, huyện Đà Bắc,
tỉnh Hòa Bình lại tổ chức hội múa lông công. Hội này diễn ra hai lần
trong một năm, vào các ngày mồng 3 tháng giêng và ngày mồng 4 tháng
3. Tức là vào dịp tết Nguyên Đán và tết thanh minh.
Dịp tết Nguyên Đán, khoảng 3 giờ sáng ngày 3 tháng giêng, khi
tiếng trống ba hồi 9 tiếng từ tay một ông già làng Mu vang lên đĩnh đạc ở
đình, ấy là lúc hội múa lông công bắt đầu.
Tiếp theo tiếng trống là tiếng chiêng của làng Công. Làng Công nổi
cồng, tiếng cồng rộn rã lối ngõ gọi dân ra đình.
Sau đó, bất chợt vang lên tiếng xướng của người làng Riêng. tiếng
xướng vừa là lời kêu gọi vừa là lời chúc thúc giục dân chúng các làng
mau mau ra dự hội. Lời xướng bằng tiếng Kinh như sau:
Chiêng chiêng làng ơi
Hết năm cũ, bước ra năm mới
Có lễ tiệc thành hoàng,
Mồng ba tháng giêng
Cầu cho dân làm mùa làm màng
Làm ăn, làm uống,
Làm lúa, làm mạ, làm bông, làm vải
Có trâu, có bò
Có lúa có má
Con trẻ cho nó khỏe
Người già cho nó bạc đầu
Nghìn năm trăm tuổi
Con buôn kẻ bán
Đổ về dân làng ta ơi!
Lời xướng thỉnh thoảng lại cất lên suốt ngày trong ngày hội. Tiền
hô, hậu ủng sau lời xướng tất cả dân chúng reo hò hưởng ứng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
165
Mọi người tụ tập ở một ngôi đình có 4 cột cái bằng gỗ trai to,
quanh thưng ván, trên lợp tranh, gian giữa là bàn thờ thành hoàng. Hai bên có hai bức cốn gỗ chạm hình con công. Kế đó là hai ống bương to
gồm nhiều bó lông công, mỗi bó 6 chiếc.
Buổi lễ bắt đầu. Trong ánh đèn, ánh đuốc sáng trưng, ông chủ tế họ
Sa người Mường ra tế. Tế xong, ông lấy từ ống ra mỗi tay một chiếc
lông công bắt chéo tay trước ngực và bắt đầu múa. Sau chủ tế múa là đại
diện các bản vào chầu. Mỗi lần hai người mặc áo thụng đội mũ đồng cân,
tay cầm lông công múa. Họ múa theo nhịp trống và chiêng. Mỗi lượt
người múa xong, người xóm Riêng lại xướng bài.
Chiêng chiêng làng ơi...
ở gian giữa đình ông cụ làng Công đứng bên hai chiếc chiêng lớn.
Ông cụ làng Mu đứng bên một chiếc trống to. Tiếng chiêng, tiếng trống
đánh xen kẽ nhau, thỉnh thoảng lại nhập vào nhau làm nhịp cho người
múa.
Mỗi cặp vào múa khoảng 20 đến 30 phút, điệu múa phỏng theo
điệu đàn công múa.
Sáng hôm đó trong không khí tưng bừng của ngày hội xuân, các nhà mang ra đình một mâm cơm trắng tinh và nhiều món ăn. Các mâm
để thành dẫy dài. Không có ai đứng ra chấm thi nhưng trong thâm tâm
mỗi nhà đây là nơi thi cỗ với nhau. Trưa các gia đình phá cỗ ăn ngay tại
chỗ.
Cùng với bày cỗ, hội tổ chức các trò chơi như đu giật dải lụa, ném
còn, kéo co lĩnh giải v.v...
Cũng buổi sáng đó, khi nào dân bản nghe tiếng trống từ xa tiến về bản thì mọi người vui mừng náo động. Họ dong cờ, nổi chiêng trống ra
đón người anh em từ Mường Máy vào dự hội. Tương truyền, ông tổ Sa
Quí Đa lập đất ở Tu Lý, còn em ruột ông đem một số dân đi lập đất ở
Mường Máy. Cho nên, nước anh Tu Lý làm gì đều báo cho nước em
Mường Máy biết để cùng làm. Nước anh phải ra đón nước em như thế
mới quí nhau.
Tầm một giờ chiều, dân làng và người dự hội mặc quần áo mới và
đẹp đi đến nhà chủ tế rước cỗ kiệu sơn son thếp vàng trong đựng sắc vua ban từ nhà chủ tế ra đình.
Tối mồng 3, các quan chức địa phương, người già bản múa chầu
xong thì mọi người tụ vào đình tham gia văn nghệ. Cũng như múa lông
công phần văn nghệ thu hút rất nhiều người đến xem. Mở đầu người chủ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
166
trò đánh 3 tiếng trống, bày mâm hát, một bên dành cho nam, một bên
dành cho nữ. Xong đâu đấy chủ trò dõng dạc xướng một bài rõ to bằng tiếng Mường:
Dân im lặng tôi xin thưa
Đất dân Mường ta có nghề
Quê dân Mường ta có tiệc
Lễ tiệc thành hoàng mồng ba tháng giêng
Nào gái hàng huyện
Nào trai hàng huyện
Nào gái hàng Mường
Ai có thường nói rằng thường 1
Ai có đang nói rằng đang 2
Trước là chầu bóng thần thánh
Sau là quí chức dân Mường nghe nhờ
Mùa cơm thì có, mùa lúa thì lên
Phong đăng, hòa cốc làng ơ...
Dân chúng hô ủng hộ theo. Lời hát ở đây không có bài bản gắn với
lễ hội mà tùy theo tình cảnh mà ứng tác, xen vào tiếng hát là tiếng trống đệm.
Tờ mờ sáng hôm sau hội vãn, ông chủ tế cầm lông công múa điệu
"Chầu én quẹn tha" (múa bái lui) đưa tiễn mọi người ra về.
Diễn biến ngày hội múa lông công vào ngày tết cái mồng ba tháng
giêng là vậy. Sang ngày mồng bốn tháng ba (dịp tết Thanh minh), hội tổ
chức lại, trình tự tiến hành gần như ngày ba tháng giêng chỉ có đôi chỗ
khác như sau:
- Bài xướng của làng Riêng có thay đổi đôi chỗ:
Chiêng chiêng làng ơi.
Hết mùa cũ bước sang mùa mới
Có lễ tiệc thành hoàng
Mồng bốn tháng ba
Cầu ruộng xuống đồng
1 Thường : Một loại hát đối đáp nam nữ của người Mường.
2 Đang: Một loại hát đối đáp nam nữ của người Mường.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
167
Cho dân làm mùa làm màng...
- Sáng ngày mồng bốn tháng ba dân chúng không mang cỗ ra bày mà mổ trâu, mổ lợn để dân làng ăn chung.
- Chiều hôm đó dân chúng không đi rước sắc vua mà rước ông "đẻ
đất, đẻ nước", nghĩa là ông đầu đất ở khu Mó Đông, khiêng linh hồn ông
ta về đình.
- Phần văn nghệ, chủ trò vẫn xướng bài cũ chỉ khác thay "lễ tiệc
thành hoàng mồng ba tháng giêng" bằng "lễ tiệc thành hoàng mồng bốn
tháng ba".
- Bài tế tháng giêng gọi tên đầu đất Tu Lý nhưng ở bài tế tháng ba gọi tên các đầu đất quanh vùng từ Tân Minh trở xuống.
*
Diễn biến của ngày hội múa lông công ở Tu Lý gợi cho chúng tôi
một số vấn đề như sau:
1. Hội múa lông công là ngày hội tưởng nhớ tổ tiên, một nghi lễ
nông nghiệp của dân tộc Mường vùng Tu Lý.
Xưa kia các cư dân nông nghiệp trước khi mở đầu một mùa mới
thường làm lễ thờ thần đầu đất để cầu mong sự phù trợ công việc làm ăn của làng gặp nhiều may mắn.
Theo một số cụ già vùng Tu Lý, ông tổ đất ở đây là ông cả Sa
Quí Đa, người Mường trước ở châu Mộc, sau đó dẫn con cháu xuôi
dòng sông Đà vào lập bản ở Tu Lý.
Truyền rằng hồi ấy thung lũng Tu Lý còn là rừng già có rất
nhiều cây chò mọc cao vút. Đến đây, ông cả Sa Quí Đa gặp đàn công
đang nhảy múa ở một bãi cỏ (cánh đồng Công bây giờ). Ông nghĩ đất lành chim đậu và bảo bà con dừng chân khai phá. Nào ngờ đất ở đây tốt,
làm ăn thuận lợi, đời sống dân chúng mỗi ngày một ấm no. Có người đến
ở chẳng những công không bay đi mà thường ngày vẫn xuống nhảy múa.
Với lòng yêu quí con vật, ông cả cho đó là điều tốt nên bảo dân chúng
không giết công mà bắt chước điệu công múa để vui chơi. Nơi ấy, ông
lập miếu thờ bản thổ. Sau ngày ông mất, dân chúng ghi nhận công lao
của ông lập ông làm thành hoàng của làng. Mỗi năm chuẩn bị làm đồng,
dân lại tổ chức một ngày hội tưởng nhớ tổ tiên. Ngày vui ấy họ múa lại điệu công múa để bày tỏ lòng biết ơn tổ tiên và con vật đã mang điều tốt
lành cho họ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
168
2. Hội múa lông công phát triển có qui mô lớn, với trình độ tổ chức
cao được phô diễn thông qua các hình thức văn nghệ tổng hợp.
Về qui mô ngày hội thể diện khá rõ trong sự phong phú của các
hình thức văn nghệ. Ngày hội có múa, có hát, có thi trò, có rước hội, do
vậy thu hút rất đông người đến xem. Từ Phú Thọ xuống, từ Thạch Bi
sang, đồng thời con buôn kẻ bán cũng đổ về kiếm lời. Niềm tự hào qua
câu:
"Con buôn kẻ bán đổ về dân ta làng ơi".
Không phải vô cớ bài xướng của làng Riêng lại bằng tiếng Kinh.
Chắc nhiều người xuôi có mặt nên Ban tổ chức hội thấy cần phải nói bằng tiếng Kinh để thông báo mục đích của ngày hội.
Trình độ tổ chức cao ở chỗ có sự phân công rõ ràng minh bạch qua
câu ca:
Làng Mu đánh trống
Làng Công đánh chiêng
Làng Riêng xướng hò
Gò Pớ nói rang (đang)
Làng Chiềng đi vái
Nhờ sự phân công ấy nên các khâu diễn xướng khá ăn nhập nhau
thể hiện tài tổ chức, sự điêu luyện về chuyên môn.
Dưới bàn tổ tiên là những động tác múa lông công nhịp
nhàng, uyển chuyển thể hiện niềm vui sướng của những cư dân nông
nghiệp vừa qua một kỳ làm ăn vất vả giành ấm no và nỗi niềm say mê
của những con người chuẩn bị bước vào một mùa làm ăn mới. Người đến
hội chứng kiến tài năng múa của từng cặp các vị đại diện các bản đến chầu. Họ có quyền khen và chê ông này, ông nọ. Họ có quyền tự hào
người bản họ múa đẹp.
Xen vào đó là tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng thường, đang bay ra
từ mâm hát đối nhau vừa mặn mà tình nghĩa, vừa ý tứ duyên dáng. Còn
cuộc vui ngoài trời thực sự cuốn hút ánh mắt say mê của các chàng trai,
cô gái. Họ hát ví đúm. Tiếng hò reo của người xem khích lệ người đu với
tấm lụa tơ tằm. ở bãi ném còn, ai bảo trong quả còn kia không gói ghém
chút tâm tư tình cảm của những đôi lứa yêu nhau.
Vui nhất là đám kéo co. Một bên nam, một bên nữ co kéo nhau qua
sợi dây song dài. Một cuộc thi sức. Nếu bên nam thắng, năm ấy mọi
người tin rằng mùa lúa sẽ được. Nếu bên nữ thắng họ ra về với niềm tin
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
169
mùa bông sẽ tốt. Ngày hội chuẩn bị cho họ niềm tin vào công việc họ sắp
làm.
Bài xướng gọi dân hướng mọi người hãy chú ý vào công việc làm
mùa:
Chiêng chiêng làng ơi
Hết mùa cũ bước sang mùa mới...
Bài xướng trong phần văn nghệ bên cạnh khích lệ các tài năng văn
nghệ trổ tài, họ không quên nhắc nhở:
Mùa cơm thì có, mùa lúa thì nên
Phong đăng, hòa cốc ơ v.v...
Hát đâu thì hát nhưng mục đích vẫn hướng vào công việc sản xuất
chính của người nông dân là sản xuất nông nghiệp. Nó thể hiện rất rõ
mục đích của văn nghệ đối với cuộc sống.
3. Hội chợ sơ khai, ngày hội thi tài.
Về mặt hình thức, ngày ba tháng giêng, dân làng chỉ góp một nén
cơm và ít cá khô cắt cử người làng Mu Công cân đều theo số hộ đặt lên
bàn thờ vị thành hoàng (chủ nghĩa bình quân kiểu công xã nguyên thủy).
Ngoài ra các gia đình còn mang mâm cơm của nhà bày ra. Họ đi xem cỗ người và tự chấm cỗ mình. Họ thi giầu thông qua số lượng các món ăn, thi
khéo tay (làm trứng trâu năm cánh, măng lấy cả tai xòe ra, cách giữ tim,
gan lợn hãy còn tươi nguyên...). Đây là hình thức hội chợ sơ khai của dân
tộc Mường nhằm giới thiệu đặc sản địa phương, thông qua đó thể hiện tài
năng chế biến sản vật nông nghiệp.
Ngày hội là dịp để dân chúng phô trương những bộ quần áo đẹp,
nhất là những bộ quần áo của phụ nữ Mường.
4. Sự chuyển dịch của ngày hội xuống đồng vào ngày hội đầu xuân
năm mới.
Chắc rằng khởi thủy ngày hội múa lông công được tổ chức vào
tháng ba. Bởi ngày hội này còn mang nhiều tàn dư của cộng đồng công xã
nguyên thủy. Về thời gian nó gắn liền với thời điểm mở đầu một mùa
(tháng ba là mùa phát rẫy làm nương, mùa đợi sấm tra hạt); hình thức sinh
hoạt thì cả làng cùng ăn chung. Đây là lối họp xưa của các tộc trưởng họp
cả tộc đến để hô hào sản xuất, truyền giảng kinh nghiệm, bày đặt cách làm ăn; cả làng tổ chức rước người tổ đất và bài văn tế bao quát tên đầu đất,
gọi vía lúa của cả một vùng thuộc huyện Đà Bắc...
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
170
Sau đó, đến một giai đoạn lịch sử nhất định, làng công xã bị rạn nứt
tạo điều kiện cho từng nhà của làng phát triển, ngày hội lôi kéo được nhiều người đến xem thì nó không còn giữ nguyên vẹn các yếu tố của hội lễ
nông nghiệp nữa mà nhường chỗ cho các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân
gian phát triển.
Hội phát triển có ảnh hưởng rộng ra vùng được nhiều người, nhiều
nơi biết đến. Cũng như các đình chùa, miếu mạo khác, vị thành hoàng Tu
Lý được vua phong sắc nhân dịp đầu xuân năm mới. Niềm tự hào của làng
trỗi dậy, dân làng mở hội đón sắc vua ban. Từ đấy, ngày hội múa lông
công được tái diễn ngược lại với thời gian khởi thủy của nó (4-3) sang ngày đầu xuân năm mới (3-1). Do vậy, ngày 3 tháng giêng không có tục
rước ông đầu đất từ Mó Đông về mà đi rước sắc vua, không có tục ăn
chung mà thi cỗ, lời xướng nặng về chúc tụng nhiều hơn là khích lệ sản
xuất.
Tuy nhiên, người dân Tu Lý không thể quên công lao ông tổ
lập đất của mình, mặc dầu lúc đó trên họ có một ông vua ngự trị. Một mặt
họ thờ vua mở hội đầu xuân, mặt khác họ thờ tổ tiên mở hội tháng ba. Hai
ngày hội về hình thức diễn xướng gần như nhau trong một mùa xuân. Hai hướng đối lập nhưng thống nhất về tư tưởng: "Đất có lề quê có thói".
*
Hội múa lông công là ngày hội mang nhiều nét riêng của người
Mường Tu Lý. Trong số nhiều nguyên nhân hình thành chúng tôi đặc biệt
lưu ý đến hai nguyên do:
1. Môi trường, cảnh quan, địa lý. Tu Lý là vùng đất tốt đảm bảo cho
bà con làm ăn khá giả, có điều kiện để tổ chức trong một mùa xuân hai lần diễn hội như vậy.
2. Chế độ chính trị ở Tu Lý không đến mức hà khắc, quản lý chặt
chẽ đến từng người một như các vùng Mường có chế độ lang đạo lâu đời.
Những người dân ở đây mang trong họ cái chất phóng khoáng. Họ vừa có
bản lĩnh cá nhân vừa có chất cộng đồng dân chủ cao. Vì lẽ đó văn hóa của
người Mường Tu Lý không thuần nhất. Văn hóa của một số dân tộc anh
em ảnh hưởng vào họ khá sâu và rõ. Ví dụ, tục cấm bựn của người Tày,
người Mường Tu Lý nhập vào từ thời ở Mộc Châu. (Tục cấm trong một số ngày nhất định, dân không ra khỏi bản, người ngoài bản không được vào.
Đường ra vào bản đều căng dây. ở Tu Lý nếu mổ trâu cấm 7 ngày, nếu mổ
bò cấm 5 ngày, mổ lợn cấm 3 ngày. Ba năm làm một lần).
Chính hai cái đó là nền tảng tạo ra ngày hội lớn có những hình thức
văn nghệ đặc sắc, nhất là múa lông công mà sau này ngành Văn hóa -
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
171
Thông tin đã khôi phục phát triển thành điệu múa hay 1 bổ sung vào di sản
văn hóa độc đáo của người Mường tỉnh Hòa Bình./.
N.H.T
1 Năm 1976 múa lông công của đội văn nghệ xã Tu Lý do Đức Thọ đạo diễn đi dự hội diễn
tỉnh đã giành Huy chương vàng. Năm 1978, đạo diễn Khắc Tuân trên cơ sở múa lông công
thêm múa Dao, múa ống dựng vở "Vui xuân dựng hội" lại đoạt Huy chương vàng. Cũng vở
này đội văn nghệ huyện Kim Bôi dàn dựng đi hội diễn toàn quân cùng năm lại đoạt Huy
chương vàng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
172
Lễ hội lượn hai
I Ly
Mỗi khi mùa xuân tới, khắp nơi trên đất nước ta lại bước vào
một mùa lễ hội. Trong không khí xuân tươi ấy, xin hãy đến với những người anh em tộc Tày để được chứng kiến những lễ hội đặc sắc của họ. Sau tết Nguyên đán đón xuân, người Tày nói chung, người Tày vùng Đông Khê, tỉnh Cao Bằng nói riêng “thường mở hội cầu mùa, cầu sức khoẻ cho mọi người và tổ chức vui chơi. Có thể đó là hội tung còn trong lễ xuống đồng (Lồng tồng), hoặc đó là hội mẹ Trăng, còn gọi là hội Trăng, hay hội Hai”1. Nghiêng về phía phần hội, chúng tôi gọi đây là hội Lượn Hai, hay hội hát mời Trăng. Đây là một lễ hội quan trọng của người Tày, thường được chuẩn bị hết sức chu đáo và kéo dài nhiều ngày, chủ yếu riêng trong từng bản, quá lắm là mời thêm một số người thân thích, quen thuộc ở một vài bản lân cận tham gia mà thôi. Vì thế, có thể thấy ngay đây là một lễ hội mang tính hướng nội trong phạm vi bản, có lẽ, nó biểu hiện sự rơi rớt của một tâm lý cát cứ, ít giao lưu, giữa các bản trước kia, hoặc giả một vấn đề gì đó mà các nhà nghiên cứu lễ hội chưa tìm ra được. Thế nhưng, đó là những chuyện về sau.
Như đã nói, hội hát mời Trăng thường được tổ chức dài ngày và
được chuẩn bị, sửa soạn khá công phu, ngay khi dân bản còn say sưa
trong tết Nguyên đán. Đúng vậy, ngay từ sáng mồng một tết Nguyên đán,
trong lễ cúng thổ công tại bản, một thanh nữ xinh đẹp, trong trắng được
dân bản lựa chọn, cử ra làm lễ xin phép thần linh cho mở hội Lượn Hai
(hát mời mẹ Trăng). Sau khi được thần linh đồng ý (mà thường thì thần
linh bao giờ cũng đồng ý với những ý định và hành động tốt đẹp của con
người), cô gái kính mời già bản ( hoặc hội đồng già bản) lựa chọn ngày
tốt để mở hội và kết thúc hội. Dung lượng thời gian và qui mô hội không
cố định mà tuỳ thuộc vào điều kiện vật chất, tinh thần, sự chuẩn bị cũng
như sự lựa chọn của từng bản. Chỉ có điều bất di bất dịch là: hội hát mời
Trăng phải tổ chức vào (và trong) dịp tết Nguyên đán. Đó là không/ thời
gian văn hoá tự nhiên của hội.
1 Thạch Phương- Lê Trung Vũ- 60 lễ hội truyền thống Việt Nam. Nxb KHXH, Hà Nội,
1995, tr.339.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
173
Sau khi lựa chọn được thời gian, ấn định thời lượng, địa điểm
diễn ra hội, một ban tổ chức hội, đứng đầu là các già bản được bầu ra để
lo việc chọn người, phân công các khâu, các công việc tổ chức lễ hội.
Gia đình nào, cá nhân nào được chọn vào lực lượng chuẩn bị hội đều rất
hãnh diện, vui mừng và vinh hạnh. Cả bản như bừng sôi trong không khí
tết thật vui vẻ, không khí chuẩn bị thật rộn rã. Mọi nhà, mọi người náo
nức chuẩn bị và dù không nói ra, ai cũng trong tâm trạng đón chờ thời
khắc mở hội. “Mọi nhà trong bản đều náo nức chuẩn bị nghĩa vụ đóng
góp phần mình. Lúc này mùa màng đã thu hoạch xong, thóc lúa đã vào
bồ, vào kho, lợn béo có sẵn trong chuồng. Nơi góc nhà, chum rượu đã
bốc men thơm dậy”. Tất cả đã sẵn sàng vào hội.
Công việc chuẩn bị đầu tiên là làm diễn trường ( nơi diễn ra hội),
dựng sàn cúng, giàn hoa...
Trước hết, những người khoẻ mạnh, khéo tay trong bản chọn một
khu đất trống hoặc một bãi trống rộng rãi, bằng phẳng, có địa thế tốt
trong bản để làm nơi tổ chức hội. Họ dùng các nguyên liệu đã chuẩn bị
sẵn như ván, tre, phên, dây, đinh...để dựng sàn cúng. Sàn cúng cao
khoảng 1,2m đến 1,4m, xung quanh thưng kín phên nứa, phên tre. Đó là
nơi đặt lễ vật và hương cúng thần linh của bản. Bên cạnh sàn cúng, người
ta dựng một giàn hoa ( tượng trưng cho vườn hoa), nơi mà, theo thỉnh
cầu của dân bản, mẹ Trăng và các thần linh ( nam và nữ) sẽ xuống hái
hoa, nghe hát, xem múa...
Trong khi đó, một số người khác, theo sự phân công của già
bản hoặc ban tổ chức, lo chuẩn bị vật chất ( cả thức cúng như
hương, hoa, trà, rượu..., cả thức ăn bình thường như bánh trái, gạo,
thịt...) cho lễ hội. Đây là công việc ít được chú ý tới, nhưng có vai
trò hết sức quan trọng cho sự thành công của lễ hội.
Trung tâm hơn cả, quan trọng hơn cả và vì thế cũng thu hút hơn
cả là những người được bình bầu, chọn lựa để đóng các vai, các nhân vật
trong lễ hội. Chính những người này quyết định sự sinh động và quyến rũ của lễ hội. Họ phải là những người tiêu biểu cho làng bản, vừa đẹp nết lại
vừa đẹp người, đồng thời lại phải thuộc các bài hát và giỏi ca múa. Thiếu
một yếu tố trong những gì đã nêu trên, thì họ khó có thể được lựa chọn
để nhập những vai quan trọng trong lễ hội hát mời Trăng. Kể từ sau khi
được lựa chọn, phân vai, số người này tự lo trang phục, tập dượt các vai,
ôn lại các bài hát điệu múa trong lễ hội và “tìm đến những bà mế giỏi văn
nghệ, thường gọi là Mế Cốc để học thêm những bài lượn Hai”.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
174
Mục đích của lễ hội hát mời Trăng là cầu khấn mẹ Trăng (qua
cuộc diễu hành đón và tiễn mẹ Trăng...) cho thần linh trên thượng giới, ban phát điều lành điều tốt, trừ bỏ điều dữ điều xấu, giúp cho mùa màng
bội thu; cây cối xanh tươi, gia súc thoát khỏi dịch bệnh, sinh đàn nở
đống, con người hạnh phúc, ấm no... Do ước mong những điều tốt đẹp đó
mà hình thức người làm lễ, các vật dụng tham gia lễ hội cũng như không
khí lễ hội đều phải đẹp và phù hợp trong sự giao cảm tiên- trần, thánh
thần- con người. Có lẽ vì thế mà các vai chính trong cuộc lễ như: hai mẹ
Trăng (cường hai), hai mụ Khoả (thiếp slở), và các thiếu nữ múa hát và
hai thanh niên bảo vệ...đều đẹp đẽ, khoẻ mạnh, phúc hậu...
Trong không khí huyền hoặc, như thực, như ảo, giữa người cõi
tiên và cõi trần; giữa người dự lễ và người nhập vai..., ai cũng có cảm
giác rằng mình đang được chứng kiến những gì hết sức quan trọng đối
với cuộc đời từng con người trong ngày xuân đầm ấm này, và ai cũng hồi
hộp chờ giây phút bắt đầu lễ hội hát mời Trăng...
Và cuối cùng, cái giây phút ấy cũng đến. Hội hát mời Trăng bắt
đầu bằng lễ dâng hoa, vừa có ý nghĩa chúc mừng những người đóng vai,
vừa như là nghi thức mở đầu cho hội.
Sau nghi lễ dâng hoa là diễn lượn Hai (tức ca hát mời Trăng), mọi
người hát những bài hát tiễn hồn đoàn người trần gian lên cung tiên đón
mời mẹ trăng xuống dự hội trần gian dưới nghi thức lễ diễu hành. Các
vai chính trong cuộc lễ diễu hành gồm: Hai người phụ nữ trung niên,
phúc hậu, đức độ, đẹp nết, vóc dáng đẹp đóng vai hai mẹ Trăng (tức là
để hồn mẹ Trăng nhập vào- được gọi là cường hai) hát đối đáp với người
trần.
- Hai phụ nữ khác, tiêu chuẩn như trên, có thể trẻ hoặc già hơn đôi
chút, đóng vai hai mụ Khoả (được gọi là thiếp slở) làm nhiệm vụ dâng
hoa và cầu nguyện.
- Một số thiếu nữ thanh tân, trẻ đẹp, tham gia múa hát, phụ việc
cho các thiếp slở.
- Hai thanh niên khoẻ mạnh (cầm hai cây nêu bằng trúc) đứng bảo
vệ trước cửa nhà mẹ Trăng.
“Tất cả các nhân vật nói trên đều hoá trang đẹp, trong đó mẹ Trăng rực rỡ nhất: áo lụa đỏ, quần hồng, khăn đỏ, tay cầm dải lụa hồng”1.
Hành trình diễu hành lên cung trăng bao gồm hai chặng:
1 ,2,3
Trích Thạch Phương- Lê Trung Vũ- Sđd- tr 339- 343.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
175
- Chặng thứ nhất qua thế giới nhân gian, “cõi người gồm đường
trong bản, vườn rau, vườn cây ăn quả, miếu thổ công, giếng nước, cánh đồng lúa, bãi dâu, phủ Thành Lâm, đình Tiên, đồng quạ, núi vượn, thế
giới ong ve, qua cầu Tam Quang”2.
- Chặng thứ hai qua thế giới thần linh, “đi vào không trung qua
nơi ở của những người chết yểu, chợ trai gái, chợ Tam Quang, mường tổ
tiên, phường những người làm quan ở hạ giới, cuối cùng đến cung
Trăng”3.
Vậy là, trải qua bao nhiêu chặng đường, cửa ải, cuối cùng đoàn
người trần gian cũng đón được mẹ Trăng xuống vui xuân. Khi đoàn người đón mẹ Trăng trở về hạ giới, thì có thêm hai mẹ Trăng và 14 vị
thần nam nữ hoà cùng dòng người đến với chốn nhân gian.
Khi đoàn rước về tới mặt đất, đặc biệt là khi mẹ Trăng xuất hiện,
mọi người reo mừng, ca hát, hái hoa, đón rước, làm lễ dâng hoa, cầu
chúc. Các nhân vật cùng mọi người đều bắt đầu cuộc hát mời Trăng vui
chơi. Sau những lời hát chào hỏi, chúc tụng, đưa đón là những cuộc hát
nguyện cầu, xin cho nhiều giống tốt, xin cho nước đủ phân nhiều, cầu
không có thiên tai thú dữ, cầu cho ngô lúa nặng bông, mùa màng trĩu hạt... Một trong những lời cầu khấn (tạm dịch) như sau:
“Lạy mẹ cho con lúa giống
Cho con giống lúa nương
Cho con giống lúa đồng
Giống lúa nếp gặt cuối vụ
Tháng năm cho nước để cày cấy...
Vụ này tốt hơn vụ xưa,
Mùa này tốt hơn mùa trước
Gốc lúa ở bờ trên
Bông trùm qua bờ dưới...”1
Sau những lời lượn Hai (ca hát dưới Trăng) vừa có tính chất giới
thiệu trần gian với thần linh (ở đây là Mẹ Trăng cùng các thiên thần), vừa
mang tính cầu nguyện nghi lễ (có gắn chút ít tới nghi lễ cầu mùa, nghi lễ
cầu mưa, mà biểu tượng là thuỷ triều, mặt Trăng), mọi người đều cảm
thấy yên tâm vì những gì mong ước đã được ca lên trước thần linh và thần linh cũng đã biết được khát vọng của con người. Và dường như để
hoà đồng với khát vọng đó, mẹ Trăng, sau khi nói lời cầu nguyện, lấy
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
176
khăn che mặt “cũng tham gia hát đối đáp với người trần gian đi dự hội về
mọi chuyện, từ việc sinh sống, làm ăn, mùa màng, sức khoẻ, trừ tình yêu”2. Đến nay, cũng chưa có ai giải thích vì sao khi lượn Hai, mọi
người không đề cập đến chủ đề tình yêu? Do một cấm kỵ nguyên thuỷ?
Do mẹ Trăng chỉ liên quan tới mùa màng, thiên nhiên, bệnh tật con
người? Hoặc giả, bên cạnh mẹ Trăng, trong cuộc đời những con người
tộc Tày, ở những dịp như thế này còn có một vị thần linh chủ trì tình
yêu? Đó chỉ là những giả thuyết cần minh chứng thêm.
Dù sao thì lượn Hai cũng cứ như thế mà truyền lan; không khí hát
hò vui vầy, náo nức đó cứ kéo dài từ ngày này qua ngày khác, nơi hai ba ngày, bản một tuần liền, có chỗ tới gần nửa tháng mới dứt... Và, một
mảng không thể không nhắc tới là, trong khi nơi chính hội đang diễn ra
cuộc hát khi hoà thanh, lúc đối đáp giữa tiên và trần, thì ở những địa
điểm xung quanh đó, người ta xen kẽ tổ chức đánh yến (cầu lông gà),
đánh quay, chọi gà... “cho tới một hôm mọi người trong bản thấy cuộc
vui đã đủ, câu hát đã đã cạn, lời cầu đã xong, thì làm lễ kết thúc hội”1. Lễ
kết thúc hội (được gọi là slống hai, tức lễ tiễn mặt Trăng về trời) là ngày
lễ mở rộng, vui nhất của hội, với thành phần tham dự gồm bà con trong bản, người thân thuộc, khách mời và du khách vãng lai. Lúc này, ngoài
sàn cúng trong bản như đã tả phần trên, người ta phải dựng thêm một sàn
cúng nữa ngoài đồng rộng để có chỗ cho khách dự, cũng là nơi diễn ra
cuộc lượn (múa hát) mới để chia tay, tạm biệt giữa người trần và người
cõi trên, tiễn mẹ Trăng và các thần về trời. Dân chúng, người dự tập
trung ở sàn cúng trong bản rồi cùng kéo ra sàn cúng ngoài đồng. Hai
thanh niên bảo vệ nhà mẹ Trăng cầm nêu trúc đi song song dẫn đầu đoàn người đi, mang theo các đồ dùng, vật tượng trưng hình mặt trăng, thuyền,
hoa, mâm xôi và những hình thức khác. “Suốt bao ngày lễ hội, các nhân
vật (được thay đổi danh nghĩa) đã sống chan hoà cùng nhau, thông cảm
nhau sâu sắc, nay chia tay không khỏi bùi ngùi. Bài hát lượn lúc này
nặng nghĩa, lưu luyến tiễn đưa như chẳng muốn rời”2... Lúc này, mẹ
Trăng đã trần hoá, không còn là thánh thần xa lạ mà trở thành bạn thân
của con người, cùng con người bịn rịn, nức nở chia ly, hát tạm biệt và hát
hẹn hò gặp gỡ mùa lễ hội sau.
Xin nghe một đoạn lời hát của người trần:
“ Tình thương đôi ta như non cao núi cả
1,2
Trích Thạch Phương- Lê Trung Vũ- Sđd- tr 339- 343. 1 ,2
Theo Thạch Phương- Lê Trung Vũ- Sđd- tr 343.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
177
Chớ như chiếc lá gai nghiêng ngả lung lay,
Chớ như bông cỏ tranh bay theo chiều gió
Trăng về trời, lòng ta xiết nỗi nhớ thương...
Còn đây là một đoạn hát của Trăng nhắn người trần:
Nhắn ba ngày buồn hãy bẻ cành cây để trên phiến đá
Ngày vui hãy bẻ cành lá để trên cành cây
Để trăng trên thượng giới được nhìn, được thấy
Người trần buồn còn biết thêu thùa may vá,
Trăng buồn phải suốt đời ở goá trên tiên...”21
Và khi kết thúc câu cuối cùng của bài hát chúc tụng, thì hai người đóng mẹ Trăng ngã xuống, thiếp đi trong đôi phút. Khi đó mế Cốc phải
làm động tác thu hồn hai người (tức mẹ Trăng đã rời cõi trần). Sau đó,
hai người tỉnh lại, trở lại vai trò dân bản thường ngày của họ. Sự trở lại
này lâu hay mau tuỳ vào mỗi người.
Hội lượn Hai (hội hát mới Trăng) kết thúc trong niềm giao cảm
mạnh mẽ, thiêng liêng, thần thánh giữa con người và siêu nhiên. Hai sàn
cúng được dỡ đi. Mọi người tụ hội với nhau, lần lượt tổ chức ăn uống
mừng hội, mừng xuân, mừng du khách đã đến với lễ hội. Cả bản làng đều hân hoan hy vọng mẹ Trăng và các thần linh sẽ chấp thuận giúp đỡ
cho mùa màng tốt tươi, người vật mạnh khoẻ, để lễ hội mùa sau đông
hơn, phong phú hơn, chu đáo hơn...
Và, với tất cả những chi tiết sơ qua và tầng văn hoá tín ngưỡng
mới bộc lộ phần nào, rất cần được tiếp tục khai thác, có thể nói lễ hội hát
mời trăng là một sinh hoạt văn hoá- tín ngưỡng hấp dẫn và huyền diệu
với bất kỳ ai, đã - cũng như chưa- từng chứng kiến./.
I.L
1 Theo Thạch Phương- Lê Trung Vũ- Sđd.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
179
lễ tết mồng một tháng bảy
vàng thung chúng
Sau tết nguyên đán cổ truyền, đồng bào Nùng Mường Khương có một
lễ tết không kém phần linh đình, háo hức vui tươi, đó là tết mồng một tháng
bảy âm lịch.
Hàng năm, cứ đến hạ tuần tháng 6 (âm lịch), bà con người Nùng lại nô
nức phấn khởi chuẩn bị chào đón và tổ chức lễ tết mồng một tháng bảy
(tiếng Nùng gọi là chinw chetx). Khắp các gia đình, làng bản từ già đến trẻ,
kẻ mừng người lo bàn tán xôn xao, náo nức đua nhau chuẩn bị cỗ tết. Các bà mẹ, chị em nội trợ nào lo sắm gạo nếp làm xôi 7 màu, may mặc quần cao
mới, làm túi đựng còng gà cho trẻ em; nào lo gà, thịt và những thứ thực
phẩm cần thiết. Các ông bố, anh em trai thì lo chuẩn bị gọt đũa mới, rượu
chè, mời khách ngoại tộc, ngoài bản, hoa quả bánh trái. Đũa mới được gọt
bằng vầu già, gọt một nửa đoạn hình chữ nhật, một nửa đoạn tròn và gọt
trước từ 3 đến 4 ngày phơi khô để khi nhuộm đỏ mới đẹp và không bị mốc.
Rượu thường tự nấu bằng ngô nếp vì rượu ngô nếp uống ngọt hơn. Do đó khi
trồng ngô nhà nào cũng phải trồng một chút ngô nếp. Khách mời thì nhà nào cũng mời các anh em họ hàng, bạn bè thân thiết phương xa ngoài người
Nùng và mời trước hàng tuần để anh em có thời gian thu xếp công việc và
mua sắm quà cáp tới mừng và cảm tạ. Các nam nữ thanh thiếu niên thì rủ
nhau lấy củi khô, đổi công giã gạo, cắt cỏ trâu ngựa, lấy rau lợn dự trữ cho
những ngày tết để dành thời gian vui chơi.
Đến giáp tết, ngày 30 tháng 6 âm lịch, người nào kẻ ấy trong mỗi gia
đình, ai cũng tấp nập đua nhau làm các công việc của mình, phụ nữ cắt rửa lá
xôi, lá chuối, lá dong để nhuộm đũa đỏ, xôi 7 màu, lót xôi màu thờ gia tiên, gói xôi làm quà cho khách, xay đậu phụ làm thức ăn sẵn cho những ngày lễ
tết, ngả lợn con từ 20-25 kg làm thịt quay chuẩn bị thức ăn sẵn. Nhà khá giả
và mời nhiều khách thì mổ hẳn một con, không thì vài ba nhà chung nhau
một con. Các ông bà già, con trẻ cũng mỗi người một việc: rửa bàn ghế, ấm
chén, bàn thờ, chạn bát. Các em thiếu niên thì cắt cỏ ngựa, lấy rau lợn đủ ba
ngày tết. Mặc dù mỗi nhà có sự chuẩn bị cho tết khác nhau nhưng cứ đến
cuối chiều chập tối hầu như nhà nào cũng phải nhuộm xong đũa đỏ- công việc chuẩn bị bị chính thức đầu tiên cho lễ.
Đũa đỏ được nhuộm bằng lá xôi đũa (tiếng Nùng gọi là chămj thuj).
Loại lá xôi này chỉ dùng để nhuộm đũa đỏ và xôi đỏ. Kỹ thuật nhuộm đũa
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
180
đỏ rất đơn giản: cho lá xôi một lượng vừa phải với số lượng đũa và nước
đun. Nếu số lượng đũa ít, lá xôi nhiều thì khi luộc sẽ bị quá độ ngả màu thâm, đũa không đỏ tươi. Ngược lại số lượng đũa nhiều mà lá xôi ít thì thiếu
độ và đũa đỏ nhạt cũng không đẹp. Bởi vậy, nhiều người phải nhờ những
người có kinh nghiệm nhuộm giúp.
Công việc cuối cùng trong ngày chuẩn bị tết là nhà ai nấy đều tắm giặt
thay quần áo sạch sẽ, nhà nào phải làm cỗ cúng trời thì chuẩn bị mâm cỗ
cúng. Mâm cỗ cúng trời được đặt ở trên sàn góc sân để đảm bảo sạch sẽ. Do
đó những nhà phải cúng trời phải làm một cái sàn góc sân nhà vào dịp tết
tháng 7, sau đó dùng phơi thóc, ngô, ngồi khâu vá và làm chỗ vui chơi cho trẻ em nhảy múa trong những đêm trăng sáng. Song có điều kỵ là người
mang thai không được làm, phải nhờ người khác làm giúp. Mâm cúng trời
tiếng Nùng gọi là “Pai chan- cungj phax”. Một cái bàn đặt quay hướng mặt
trời mọc và có một cây cầu trời bằng vầu cao hơn đầu người được căng bằng
lá chuối, đặt 5 cái bát, 5 cái chén làm bằng dóng cây sậy, một bát nước phép;
5 lư hương bằng thân chuối; có hàng giấy ngựa treo màu đỏ 5 con (có dòng
họ 3 con); chén rượu giữa cũng đội đáy một chén khác gọi là ta chanj như
cúng rừng; một bát nước lá xôi nhuộm đũa đỏ; một lọ ớt giã bằng vầu, có cả chày nhuộm đỏ. Bên cạnh mâm có bầy cả bã lá xôi nhuộm đũa. Vật cúng chỉ
có một con gà sống gáy to, đẹp, lông đỏ; 5 bát xôi màu tím và một miếng thịt
lợn nhỏ.
Gần như thành một quy luật tự nhiên, tết tháng 7 năm nào cũng vậy,
cùng với việc chuẩn bị tấp nập, nhộn nhịp thì ngày 30/6 hoặc chí ít cũng là
buổi chiều trời cũng tuôn mưa tầm tã, như trút nước. Đồng bào gọi cơn mưa
đó là mưa dội sàn. Mặc dù mưa vậy nhưng đồng bào vẫn thích vì nó rửa sạch tất cả mọi ô uế rác rưởi, khí trời tối tăm nóng nực để hôm tết trời quang
mây tạnh, không khí trong lành, chơi tết được thoải mái. Nếu không mưa thì
bà con lo lắng sợ tết sẽ mất vui và cầu mong
cho trời đỏ cơn giông. Vì vậy mà bà con chuẩn bị tết rất chu đáo.
Sáng mồng một tháng bảy là lễ chính của đồng bào; sau đó là vui chơi
ăn uống linh đình, hội hè tấp nập.
Sau một ngày trời đổ mưa dông, bầu trời trở lại quang đãng trong xanh,
bầu không khí trở nên trong lành như đã được cuốn hết mọi rác rưởi môi trường, phù hộ độ trì cho đồng bào Nùng ăn tết. Khi trời mới chuyển ngày
gà gáy canh ba, các gia đình làm sàn cúng trời đã thức dậy nhóm bếp thổi
xôi mổ gà cúng trời trước khi trời sáng. Thầy cúng mặc quần áo dài, vải đen,
đầu đội khăn xếp, chân đi giày, long trọng khấn lạy bốn phương, tám hướng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
181
trời đất, núi rừng, cây chuối làm lễ cúng tạ ơn trời đất, núi non... đã phù hộ
độ trì cho người Nùng chiến thắng giặc ngoại xâm, bảo tồn nòi giống dân tộc và mời thần trời, núi non, rừng chuối xuống dự lễ tết chiến thắng cổ truyền
dân tộc mà người Nùng không bao giờ quên. Nội dung bài khấn có đoạn:
Hỡi thần trời thánh đất
Hỡi ông thần trái đất
Hỡi mặt trời trên cao
Và rừng chuối nơi thấp
Hôm nay ngày một tháng bảy
Ăn tết thứ người Nùng1
Nô tỳ này họ Vương cháu gia
Con đời cháu thế hệ đời chắt người Nùng
Nô tỳ này đem miếng thịt lợn nhỏ, con gà sống gáy to lên kính
Đem đĩa xôi tím, ngụm rượu ngọt về mời
Mời đến thần trời thánh đất dự cỗ
Mời đến thần trái đất, mặt trời trên cao ngồi mâm
Cùng tổ tiên tộc Nùng chơi vui bữa cỗ
Cùng thế hệ cháu, hệ chắt người Nùng ăn tết tháng bảy
Ăn cỗ xong xin phù hộ độ trì người Nùng
Ban phước tộc Nùng thịnh trị bình an...
Sau một bài cúng, thầy cúng mổ gà nộp lễ. Con gà được làm lông tại
chỗ. Làm sạch gà, con gà không luộc chín mà bày thịt sống, cả lông rác gà
cũng được bày nguyên tại chỗ trên lá chuối đặt cạnh mâm và cúng cùng một
lúc với mâm cỗ. Sau khi làm sạch gà xong, gia đình bưng cả chõ xôi màu tím
xuống bày cúng cùng con gà, thịt lợn. Một điều đáng chú ý quan tâm là phải làm sớm, nhanh sao cho cúng xong, thu dọn trước khi trời sáng. Sau ba hồi
thờ cúng với ba hồi nhang tắt mới hoá vàng thu về nhà. Sau khi thu về nhà,
bã lá xôi và lông gà vẫn để nguyên trên sàn qua 3 ngày mới được dọn. Đồng
thời sàn cũng cấm bang ăn tết 3 ngày sau mới được sử dụng làm sân phơi
hoặc chơi bời.
Sau khi bày sàn thờ cúng xong lại tiếp tục mổ gà thờ cúng gia tiên. Gà
thờ cúng gia tiên không nhất thiết là gà sống gáy mà gà mái cũng được. Mâm
1 Tết tháng 7 là Tết thứ, sau Tết cả Nguyên đán.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
182
cỗ thờ cúng gia tiên chỉ có gà và các thức ăn phụ khác và nhất thiết phải làm
bát tiết canh gà. Thịt gà không bày cả con mà đem chặt từng miếng xếp gọn trong đĩa. Bài cúng trong mâm cỗ lễ gia tiên nội dung chủ yếu là kính mời
gia tiên xuống dự tết cổ truyền mồng một tháng bảy cùng với thần trời thánh
đất... cầu các ông bà tổ tiên tiếp tục phù hộ độ trì cho con cháu gia đình có
cuộc sống an khang thịnh vượng.
Cùng lúc với các ông làm lễ cúng gia tiên thì các bà, các chị cũng làm
xôi bảy màu, đó là màu đỏ tươi (đỏ cờ), màu đỏ thẫm, màu vàng, màu xanh
lá gừng, màu nâu, màu xanh nước biển, màu tím. Nguyên liệu làm xôi 7 màu
này cũng làm từ hai loại lá xôi đũa và xôi hoa (tiếng Nùng gọi là chămj thủ- chămj lai) và một loại hoa rừng thường nở vào tháng 2-3 âm lịch (tiếng
Nùng gọi là đoọc pfănj). Loại hoa này có mùi thơm lừng, khi nở rộ hái đem
về phơi khô cất dùng lúc nào cũng được. Loại hoa này nhuộm xôi vàng: đem
hoa khô luộc với một lượng muối vừa phải, nếu nhiều muối quá sẽ bị vàng
nhạt. Luộc xong lọc lấy nước để nguội rồi đem ngâm với gạo nếp. Gạo nếp
phải được vo sạch, ngâm nước từ tối hôm trước đến độ trương vừa phải, nếu
quá sẽ bị nhão. Thời gian ngâm chỉ độ một tiếng, khi sôi lên, xôi sẽ ngả màu
vàng rất đẹp và thơm.
Xôi đỏ thì dùng lá xôi đũa luộc kỹ, lọc lấy nước để nguội, cho vào
ngâm gạo nếp như xôi vàng, khi sôi lên sẽ có màu đỏ tươi (đỏ cờ).
Xôi tím cũng dùng lá xôi đũa nhưng đem giã với gio bếp. trước khi giã
đem đốt qua lửa cho héo. Lượng gio cũng cho vừa phải nhưng phải là gio
than củi, còn gio cỏ rác , rơm rạ thì không được vì không có độ mặn chất
mầu không ngấm sâu, sẽ bị bạc màu.
Xôi màu xanh nước biển thì dùng lá xôi hoa (chămj lai) giã với gio bếp rồi lọc ngâm gạo nếp xôi lên sẽ ra màu xanh nước biển. Nhưng lượng gio và
thời gian ngâm cũng vừa phải, làm sao khi vớt gạo ra có màu xanh lơ đến khi
xôi lên thì vừa đẹp, nếu khi vớt gạo ra mà đã có màu thì xôi lên sẽ ngả màu
quá đậm, chuyển sang màu chàm.
Xôi màu xanh lá gừng (tiếng Nùng gọi là khu looc bâuưw tsinhw) khi
làm phức tạp hơn. Phải dùng gạo nếp đã ngâm ra màu vàng rồi mới lại đem
ngâm nước lá xôi hoa loại màu xanh nước biển với lượng vừa phải. Nếu
thiếu nước gio lá xôi hoa thì sẽ ra màu xanh nõn chuối hoặc nếu nước xôi hoa quá nhiều thì cũng tạo màu xanh đậm, không đẹp.
Xôi màu nâu cũng phức tạp như xôi màu xanh lá gừng. Trước hết phải
ngâm gạo nếp màu đỏ cờ sau đó lại đem ngâm nước lá xôi đũa giã gio (nước
lá xôi màu tím), một giờ sau vớt ra sẽ ra màu nâu.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
183
Cuối cùng là xôi màu đỏ thẫm. Xôi màu này khó làm nhất nên rất ít
người làm, chỉ người có kinh nghiệm mới làm. Loại xôi này phải dùng gạo nếp đã nhuộm đỏ sau đó ngâm nước lá xôi hoa với một tỷ lệ rất ít, nhạt.
Thông thường ngâm nước lá xôi hoa lần thứ hai (tức là sau khi đã ngâm lại
màu xanh nước biển để hút hết độ màu chuẩn còn lại lượng màu rất nhạt).
Khi ngâm gạo nếp màu đỏ sẽ giảm màu cờ tạo thành màu đỏ thẫm không
phải màu nâu cũng
không phải màu tím mang sắc màu máu đông.
Các loại gạo nếp sau khi nhuộm xong màu phải đãi sạch rồi để ráo
nước mới đem xôi. Việc làm xôi 7 màu rất hấp dẫn nhưng không kém phức tạp, không khác gì người hoạ sỹ pha màu tài ba giàu kinh nghiệm. Khắp đầu
làng cuối bản chị em phụ nữ chỉ bàn tán về việc làm xôi màu và tíu tít mời
nhau về nhà mình thưởng thức xôi màu- chiêm ngưỡng tài nghệ của mình.
Sau khi nhuộm gạo nếp đủ 7 màu thì cho vào chõ gỗ mỗi thứ một góc
rồi đun sôi. Phải bỏ chõ trong chảo đun nước nóng vừa bốc hơi rồi mới cho
xôi vào để khỏi bị đọng nước lâu, tranh bết ở đáy chõ.
Cúng gia tiên xong, xôi 7 màu cũng vừa chín tới, khói bốc hương thơm
toả nghi ngút khắp gia đình làng bản. Anh em họ mạc, bạn hữu thân thiết ngoại tộc, ngoài bản cũng tấp nập đến mỗi gia đình dự lễ tết. Các gia đình ở
cuối bản phải cử con cháu đến đầu bản đón khách, nếu không sẽ bị tranh mất
khách vì trong ngày lễ tết ai cũng mong có khách đến chơi kể cả khách chưa
mời đến; khách đã vào nhà thì hầu như không ai cho ra khỏi nhà bắt phải dự
cỗ với gia đình để chia vui và ôn lại tháng năm gian khổ.
Trong lúc cha mẹ, anh chị thờ cúng gia tiên, làm xôi 7 màu thì các em
thiếu niên từ tờ mờ sáng đã gọi nhau í ơi rủ nhau đi thả trâu để khi trâu no cỏ cũng là lúc bố mẹ ở nhà đã thờ cúng làm xôi 7 màu xong; về đến nhà chỉ
việc thay quần áo mới, ăn tết xum vầy.
Ngoài việc chuẩn bị tiến hành thờ cúng, lễ cỗ ngày tết, gia đình nào
cũng đặc biệt chú ý đến “còng gà” cho trẻ em; không chỉ trẻ em trong nhà
mà cả con cháu anh em, khách khứa cũng phải biếu mỗi đứa cái còng. Đặc
biệt còng gà cho cháu trong ngày tết phải to gấp đôi mọi khi. Do đó gia đình
nào cũng phải mua rất nhiều gà. Có những nhà phải mổ tới 7-8 con gà để có
mười cái còng cho trẻ. Bà con cho rằng trẻ em tuy nhỏ nhưng cũng rất vất vả, nhất là những đứa trẻ chăn trâu. Các cháu đã cùng bố mẹ dãi nắng dầm
mưa chăn trâu, cắt cỏ lấy rau lợn, lấy củi góp phần giúp gia đình làm nên
cuộc sống ấm no. Nên ngày tết phải may quần áo mới, biếu còn gà to, mừng
tiền ăn quà bánh bù đắp công sức các cháu.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
184
Khách khứa, bạn bè thân hữu đến dự lễ tết với bà con rất hồ hởi, trưng
diện bộ quần áo mới, tay xách vai mang túi quà tặng phẩm. Quà tặng có thể là gói bánh kẹo, cân hoa quả rất giản dị để tặng cho ông bà và các cháu, góp
phần thêm vui ngày tết mà thôi.
Đến bữa cỗ gia đình từ già đến trẻ ai cũng mặc quần áo mới, chân đi
giày dép, tóc tai chải sạch sẽ cùng các quý khách vui cỗ. Mâm cỗ thường làm
8 món là thịt gà luộc, thịt lợn kho tàu, thịt lợn quay, đậu phụ bọc thịt lợn rán,
miến xào, đậu phụ sống, bát tiết canh gà và bát canh xương hầm. Không
phân biệt mâm người lớn, trẻ em. Khi ăn, thông thường là phát còng gà cho
trẻ em trước rồi gia chủ gắp bát tiết canh gà đỏ chói màu cờ khai cỗ; các thức ăn không quy định, cứ dùng hết lại lấy thêm, cả gia đình và khách khứa
cùng chúc rượu, ăn xôi 7 màu rất vui vẻ linh đình. Sau một hồi chúc tụng say
sưa, cả khách lẫn chủ đều thi nhau cất tiếng hát đối đáp chúc mừng bữa cỗ
trong đó có câu:
Đối không xứng bạn thần
Đãi không cân bạn hữu
Bốn góc (cỗ) uốn sừng bò
Trên cỗ toàn bát không.
Và khách đáp lại rằng:
Hỡi bạn thông thân hữu?
Cỗ say không biết chúc
Bốn góc (cỗ) uốn sừng trâu
Trên cỗ bầy tám bát.
Có gia đình sau bữa cỗ thì làm hồi leng hao, chơi bài gỗ chúc rượu cả
ngày. Các quý khách thân hữu đến dự lễ tết suốt ngày và ngủ qua đêm, sáng sau mới về. Song hào hứng nhất là các tầng lớp thanh thiếu niên nhi đồng.
Ăn cỗ xong thanh niên nam nữ rủ nhau đi chơi trò chơi đánh én, người ta
chơi bất kể chỗ nào ở ngoài sân hoặc trong nhà. Khi chơi mệt có gia đình
mời nước, ăn xôi 7 màu thậm chí còn mời uống rượu, vì đã góp phần vào
không khí vui tươi trong gia đình. Các thanh niên chơi én thường chơi đôi,
đôi nam với đôi nữ hoặc đôi nam nữ. Nếu đôi nào có quan hệ trao duyên thì
đôi én càng bay lượn không ngớt. Chơi đôi, thường có cách chơi chéo nam
nữ; nhưng phổ biến là chơi đôi đơn nam nữ nhưng thường lồng chéo hai con én vào nhau con lượn lên, con lượn xuống trông rất đẹp mắt. Các em thiếu
niên đánh nhau, nếu còng gà ai gãy (bị thua) thì mất một nửa. Bởi vậy, dù
khó khăn, các ông bà cha mẹ cũng cố gắng mua lấy 1-2 con gà sống to để
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
185
xương cứng thịt dai, đánh còng gà cho chắc. Buổi tối các đôi nam nữ thanh
niên còn tổ chức tập trung tại một gia đình nào đó rộng rãi thuận lợi để hát đối giao duyên.
Lễ tết tháng 7 được thu xếp vui chơi ăn uống trong ba ngày; song qua
ngày mồng một, sang ngày mồng hai là các khách thân bạn hữu xin phép ra
về vì chơi hết tết sẽ không đẹp. Giữa gia đình và khách lại lưu luyến chia
tay. Gia đình nào cũng gói xôi 7 màu cùng với còng gà làm quà cho gia đình
thân khách, rồi lại hẹn gặp nhau trong dịp lễ tết năm tới rất nồng nhiệt chan
chứa lòng người . Mặc dù công việc đồng áng bề bộn nhưng là ngày tết cổ
truyền của dân tộc nên gia đình nào cũng thu xếp thời gian ăn tết 3 ngày, sau đó mới tiếp tục làm cỏ lúa, lên nương rẫy thu ngô, lao động một cách phấn
khởi, mang theo bao âm hưởng ngày tết.
Về lịch sử lễ tết mồng một tháng bảy không còn ai biết cụ thể. Các tư
liệu thành văn cũng chưa ai ghi chép mà chỉ truyền lại trong ký ức nhân dân
một huyền thoại lịch sử hào hùng đầy ý nghĩa. Theo các truyền thuyết dân
gian tuy chưa đầy đủ nhưng có thể phác ra rằng lễ tết mồng một tháng 7 gắn
liền với một trang sử hào hùng dân tộc Nùng được khái quát như sau:
Vào tháng 5 trong một năm đời nhà Hán, bọn giặc Hán phương Bắc cậy người đông muốn mở rộng khu vực cai quản đã xua quân đánh chiếm
vùng đất người Nùng Mường Khương. Bằng mọi cách chúng tìm người
Nùng giết chết tất cả. Nhiều người đã bị chúng vây bắt giết hại một cách
đẫm máu. Vùng đất Mường Khương vốn đã được người Nùng khai thiên lập
địa, tạo làng dựng bản, đổ bao mồ hôi xương máu để xây dựng cuộc sống
hạnh phúc giữa vùng “đất lành chim đậu” nên nhân dân ở đây đã tổ chức
chống lại quyết liệt để giữ mảnh đất nơi chôn rau cắt rốn của mình. Mặc dù quân giặc mạnh hơn gấp bội nhưng người Nùng cũng đã giao tranh cầm cự
giữ vững vùng đất được hàng tháng trời. Song, do thế mỏng, lực ít lại bị
động trước âm mưu của giặc, sau một tháng chống cự ác liệt lực lượng người
Nùng ngày càng thu hẹp và yếu thế. Để tránh những thiệt hại không cần
thiết, lực lượng còn lại của người Nùng tạm thời bí mật rút lui an toàn vào
các khu rừng chuối rậm rạp ven sông Chảy để bảo toàn và xây dựng lực
lượng chờ khi có thời cơ thì chớp lấy nổi dậy đánh lại giặc Hán giành lại quê
hương. Tưởng đã chiếm được vùng đất người Nùng, vì không thấy bóng dáng người Nùng đâu nữa nên giặc Hán hí hửng rút một bộ phận lực lượng
quay về chỉ để lại một bộ phận cai quản giữa vùng rừng núi hoang vu rậm
rạp. Sống giữa tình cảnh khó khăn gian khổ, phải chui lủi trong các khu rừng
chuối rậm rạp và hang hốc, “cái khó ló cái khôn”, đồng bào Nùng bỗng nghĩ
ra mưu kế chặt cây chuối lừa giặc Hán. Vì cây chuối mọc nhanh chỉ vài ngày
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
186
đã cao bằng đầu người nên khi giặc Hán kiểm soát truy lùng thấy cây chuối
bị chặt lụi đã cao thành rừng tưởng người Nùng bỏ chạy đi nơi khác lâu rồi, nên mất cảnh giác.
Trong khi giặc Hán chủ quan, đồng bào Nùng đã tranh thủ ổn định tinh
thần, xây dựng củng cố lại lực lượng hạ quyết tâm đánh giặc Hán. Đúng như
mưu kế vạch ra, vào một ngày cuối tháng sáu âm lịch trời như muốn phù hộ
người Nùng, tự nhiên mưa tầm tã như trút nước, như muốn cuốn trôi tất cả
mọi nóng bức, ngột ngạt, rác rưởi để cảnh vật trở lại trong lành, khí trời
quang đãng. Giặc Hán mất cảnh giác đã đành lại còn an bài trong giấc ngủ
lều tranh. Lợi dụng lúc trời mưa, nghĩa quân và đồng bào Nùng đã bằng các thứ vũ khí trong tay như dao phát, mác, nỏ, cuốc thuổng gậy gộc cùng nhau
vùng dậy phân chia bí mật lẻn vào các lều lán của giặc và những nhà dân bị
giặc chiếm đóng đánh chém giết lại bọn Hán làm cho chúng không kịp trở
tay, đại bộ phận bị nghĩa quân người Nùng chém giết, đánh bị thương; một
bộ phận nhỏ xin đầu hàng bị ta bắt trói. Cuộc chiến diễn ra một cách thầm
lặng, giặc Hán ở phương xa không hề biết để tiếp viện.
Chỉ trong nửa đêm nghĩa quân đồng bào Nùng đã chiếm lại được quê
hương lúc trời còn chưa sáng. Khi nghe tin chiến thắng của nghĩa quân, đồng bào Nùng ở khắp nơi trong vùng nổi dậy hò reo đốt đuốc trở về, đến rạng
sáng mồng một tháng 7 đã về đến mảnh đất cũ Mường Khương của mình.
Để kỷ niệm chiến thắng vĩ đại này, người Nùng đã quyết định tổ chức ăn
mừng 3 ngày từ sáng mồng một đến hết ngày mồng 3 tháng 7.
Người Nùng cho rằng nhờ rừng chuối xanh thẳm che chở, nhờ ông trời
mưa to gió bão đã tạo nên thời cơ cho họ chiến thắng giặc xâm lược nên
rừng chuối, ông trời đã trở thành thần phù hộ- bảo mệnh, người Nùng phải mổ gà làm lễ cúng tạ ơn rừng chuối, ông trời ngay trước sân nhà. Vì thời
gian quá gấp, trời gần rạng sáng, không làm nhanh sẽ qua giờ phút lịch sử
trọng đại nên đã không cần luộc gà, cứ để tươi mà thờ cúng và cả lông gà
cũng không cần dọn dẹp, cứ để bày tại chỗ miễn sao tỏ lòng biết ơn là được .
Vui mừng ngày thắng lợi, người Nùng không quên những ngày tháng
đánh nhau đổ máu, ẩn dật gian khổ trong rừng nên cúng cả bát nước đỏ bằng
lá xôi tượng trưng cho bát máu tức là ăn cơm chan với máu. Còn đôi đũa
cũng dùng lá xôi nhuộm đỏ tượng trưng cho chiếc gậy đầu đỏ, đầu đen là vũ khí thô sơ người Nùng đã sử dụng đánh giặc Hán. Và phải tổ chức cúng sớm
trước khi trời sáng để tuyên bố chiến thắng của mình với bàn dân thiên hạ,
ông bà tổ tiên làm cho giặc Hán phương
xa bên kia không kịp ứng phó, chấp nhận thất bại.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
187
Sau khi thờ trời, cúng chuối, đồng bào ai cũng tiếp tục mổ gà làm xôi 7
màu cúng dâng chiến công lên gia tiên đồng thời mời các ông bà tổ tiên xuống dự hội ăn mừng chiến thắng.
Với ý nghĩa lớn lao đó người Nùng cho rằng làm xôi 7 màu là tượng
trưng cho chặng đường lịch sử 7 tháng đầy ý nghĩa trong một năm đất trời
xoay chuyển nhưng gắn liền lịch sử dân tộc là:
- Xôi màu xanh lá gừng là biểu trưng cho tháng giêng- màu xanh cây
cỏ đâm chồi nảy lộc.
- Xôi màu nâu là biểu trưng cho tháng hai- màu nâu của đất khi con
người bước vào mùa làm ăn mới khai phá đồi nương để gieo trồng.
- Xôi màu tím là biểu trưng cho tháng ba- màu tím thủy chung tưởng
nhớ tới ông cha, làm tết thanh minh tảo mộ.
- Xôi màu xanh nước biển là biểu trưng cho tháng tư đầu hè khí tiết
trong lành, mây trời trong xanh như nước biển.
- Xôi màu đỏ thẫm là biểu trưng cho tháng năm- là màu máu của dân
phải đổ khi đánh nhau với giặc Hán.
- Xôi màu vàng biểu trưng cho màu bất hạnh tháng sáu, đồng bào phải
ẩn dật gian nan vì phải tạm rút lui vào rừng để bảo toàn lực lượng chuẩn bị tinh thần tiếp tục chiến đấu.
- Và xôi màu đỏ tươi (đỏ cờ) biểu trưng cho màu chiến thắng giặc Hán
ngày mồng một tháng bảy.
Thật là những biểu trưng văn hoá đầy tính nhân văn.
Đó là toàn bộ nội dung, nguồn gốc cũng như ý nghĩa lịch sử văn hoá
của tết cổ truyền mồng một tháng bảy. Từ đó đến nay, lễ tết mồng một tháng
bảy trở thành lễ tết cổ truyền của dân tộc Nùng sau tết nguyên đán. Trải qua chặng đường lịch sử với biết bao thế hệ con cháu nhiều tập tục trong lễ tết đã
mai một không còn duy trì được (ví dụ như việc làm sàn cúng trời, rừng
chuối không còn phổ biến, chỉ có con trưởng mỗi dòng họ đại diện làm và
cúng mà thôi, xôi 7 màu cũng không làm đủ chỉ 3-4 màu, thậm chí có nơi
ngại làm còn dùng phẩm nhuộm một cách loè loẹt vừa mất ý nghĩa vừa kém
thơm ngon...). Song riêng bản thân lễ tết hầu như vẫn duy trì tồn tại từ thế hệ
này sang thế hệ khác, năm này đến năm khác. Đặc biệt đôi đũa đỏ và xôi 7
màu vẫn còn duy trì gắn liền với mỗi người dân người Nùng và chỉ có tết tháng bảy mới làm mà thôi. Đó cũng là hai di sản văn hoá vật chất phản ánh
những giá trị lịch sử và văn hoá của lễ mồng một tháng bảy của người
Nùng./.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
188
V.T.C
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
190
hội mừng MùA măng mọc
Song Phạm
Mùa xuân tới, nơi núi rừng Tây Bắc, khi những cơn mưa rừng
trao nước cho dòng suối, khi cây lá đâm chồi, ra lộc, khi hoa ban nở
trắng rừng và khi con người khắp nơi hào hứng đón chào một năm mới
tốt lành, thì cũng chính là khi bà con dân tộc Khơ Mú, Thái đen, Mảng,
Xá, Kháng... tổ chức lễ hội mừng mùa măng mọc. Đây là một trong
những tục lệ không thể thiếu của người dân Khơ Mú cũng như của nhiều
tộc nhiều khác vào dịp năm mới nhằm vui chơi cho thoả những ngày
cặm cụi cuốc đất phá nương. Hơn nữa, lễ hội này còn là chốn để người
dân gửi đến thần linh lời khấn cầu, mong cho cuộc sống phồn thịnh, hoa trái tốt tươi, mùa màng trĩu hạt, con người an khang, vui vẻ... Với con
người nơi đây, mùa măng mọc là một sự kiện biểu hiện niềm vui và biểu
tượng đầy sức sống, sức vươn lên của cộng đồng.
Ngày lễ đến gần. Các bản được sang sửa sạch đẹp. Dân bản, già
trẻ, gái trai tươi mới, hớn hở trong trang phục ngày hội của dân tộc mình,
tíu tít rủ nhau đến bãi trống, bìa rừng hay ven suối, nơi dành cho hội họp,
vui chơi của bản làng. Không khí vừa trang trọng, vừa bâng khuâng,
khiến lòng người náo nức.
Trên bãi người ta đặt một bàn thờ lớn, nhiều khi là một khung thờ.
Giữa khung thờ là một cây tre cao, trạm trổ, trang trí rất đẹp mắt, gắn
đầy hoa (cây nêu). Cạnh cây nêu là một cây chuối chôn lộn ngược, củ
được đẽo tạc thành hình đầu linga (sinh thực khí nam). Dưới cây chuối là
những búi cỏ, xung quanh là những khóm sả, khóm khoai sọ lúc líu củ,
những khóm măng vầu và những quả bầu hình be rượu, (có nơi lại trồng
cây chuối lớn, quấn hoa, treo con giống bằng tre, những hạt giống, một cây vũ trụ tượng trưng cho sự giao hoà thiên nhiên - con người).
Bắt đầu cuộc lễ, ông chủ lễ mặc áo đỏ, quần đen, vấn khăn đầu,
thay mặt dân làng làm lễ tạ thánh thần, đọc lời khấn cầu thần linh ban
cho mưa thuận gió hoà, khoai lúa tốt tươi, con người và muôn vật sinh
sôi nảy nở, bình an, khoẻ mạnh ... Tất cả dân bản đứng thành kính xem
ông chủ lễ khấn, chỉ lẩm nhẩm theo chứ không có động tác lễ bái gì.
Khấn xong, ông chủ lễ rửa mặt bằng nước pha ớt để làm phép. Trong khi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
191
đó, phía trước khung thờ, cách nơi ông chủ lễ đứng khoảng vài mét, tám
cô gái đẹp, trinh bạch được chọn lựa kỹ càng, dàn hàng ngang. Mỗi cô hai tay cầm hai ống tre lớn, rỗng hai đầu, có độ dài khác nhau. Khi lễ
xong, các cô vừa hát dân ca dân tộc mình, vừa gõ các ống tre xuống một
tấm ván, tạo thành tiếng đệm bum bum nghe rất vui tai. Trong khoảng
trống giữa các cô và bàn thờ, một người đàn ông mạnh khoẻ, cởi trần,
mặc quần ngắn, đeo trước bụng một khúc gỗ tròn, dài khoảng 40 - 50cm
đẽo thành hình linga, nhảy múa trước mặt các cô gái. Theo từng bước
nhún nhảy của người múa, linga lúc thì dựng lên, lúc lại nằm song song
với chân người. Cứ chốc chốc, người đàn ông lại tiến gần đến các cô gái và khi gần cô nào thì cô đó chìa lòng ống tre ra để ông đưa mẩu gỗ lọt
sâu vào trong ống. Cứ như vậy, điệu múa giao đãi âm dương lặp đi lặp
lại trong tiếng hát dân ca, tiếng chiêng trống lúc đều nhịp, khi dồn dập
tưng bừng, trong tiếng reo cười sảng khoái của bà con dân bản. Trong
không khí vừa linh thiêng, vừa hồ hởi, không ai có cảm giác đó là những
hành động tục tĩu mà ngược lại, người ta cảm thấy mãn nguyện vì đó
chính là tượng trưng cho lời cầu mong mọi sự tốt đẹp, một nguyện vọng
phồn thực hồn nhiên và mộc mạc, cầu cho vạn vật sinh sôi, cầu cho măng mọc, hoa nở, cây trái đâm chồi nảy lộc.
Sau lễ tế thần và điệu múa giao đãi âm dương, mới thực sự là lúc
con người vui như hội. Trẻ, già, trai gái với những bộ trang phục dân tộc
đẹp nhất, mới nhất kéo nhau ra bãi dự hội. Gia đình nào cũng mang hũ
rượu cần của mình ra bãi trống, mời mọi người cùng uống, tạo thành một
không khí náo nhiệt hiếm có. Say men rượu, say men tình, say câu
chuyện, họ hàn huyên cởi mở với nhau, giải toả khúc mắc và giận hờn; cho qua những chuyện mà ngày thường không thể cho qua. Cuối cùng,
khi dàn tam chiêng và trống cái bắt đầu vào hội với âm hưởng độc đáo
của mình, mọi người tạo thành vòng tròn quanh bộ trống chiêng, cùng
nhau nhảy múa hát ca, nắm tay nhau trong một niềm hứng khởi và mối
đồng cảm vô biên. Người già say sưa nhớ lại tuổi tráng niên, con trẻ vui
chơi mặc sức, nam thanh nữ tú cùng nhau hát mưa rơi, múa điệu tăng bu,
hưn mạy, xe cắp ... quen thuộc. Và khi hoàng hôn buông xuống, một
đống lửa lớn được đốt lên, toả sáng bóng hình những người dân bản say sưa trong men rượu, cuộc tình, điệu múa, tiếng trống chiêng, say sưa với
một niềm tin không hề tắt vào kết thúc tốt đẹp của hội lễ, rằng một năm
mới tươi đẹp sẽ đến, như mùa màng sinh sôi nảy nở trên đất rừng Tây
Bắc xa xôi này. Cuộc vui lan từ rừng về bản, toả vào từng nhà, nơi, một
lần nữa, con người lại say trong men rượu, men tình bên bữa tiệc mừng
mùa măng mọc ...
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
192
Hội mừng mùa măng mọc đã thể hiện một ước nguyện phồn thực,
một quan hệ sơ khai của người dân với thiên nhiên, coi thiên nhiên như người bạn tốt của mình và mong người bạn ấy ban cho nhân khang vật
thịnh. Đó là niềm tin, đồng thời cũng là niềm vui bất tận của người Khơ
Mú và bao tộc người khác nơi núi rừng Tây Bắc mà lễ hội mừng mùa
măng mọc, là nơi họ gửi gắm./.
S.P
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
193
Hội mừng nhà mới
Thạch Phương - Lê Trung Vũ
Người Lô Lô hễ xây dựng gia đình thì phải làm nhà mới và ra ở riêng.
Tốt nhất là có nhà riêng khi chưa có con. Đây là công việc lớn, hết sức vất vả
cho đôi vợ chồng mới cưới. Mặc dầu vậy, theo phong tục, vợ chồng phải tự
đi tìm khu đất làm nhà, làm nương, chuẩn bị cho cuộc sống lâu dài, đồng
thời phải chuẩn bị cho lễ mừng nhà mới.
Theo tập quán, chủ nhân được thợ và trai tráng trong bản giúp đỡ làm
nhà. Ngày nhà hoàn thành, được coi là ngày hội, cả dân bản kéo đến dự. Nam thì mang rượu tới, nữ thì mang cơm, xôi, bánh... vừa là để mừng, vừa
để gánh bớt tổn phí cho chủ nhà. Thầy cúng (thầy mo) bao giờ cũng là người
được mời đầu tiên. Thoạt đầu, thầy bày những dụng cụ khai thác lâm sản để
làm nhà trước bàn thờ. Khấn xong, thầy cầm búa lần lượt gõ vào các cột
(mỗi cột ba cái), như để thử gỗ và kiểm tra toàn bộ ngôi nhà, cầu mong cho
mọi người trong ngôi nhà mới đều gặp may mắn, khỏe mạnh. Vừa gõ, thầy
vừa hát bài hát Thử gỗ, giới thiệu các loại gỗ và chúc tụng chủ nhà. Đi hết
một vòng quanh các cột nhà, bài hát cũng vừa kết thúc.
...
Cột nhà ta đã thử,
Gỗ rừng ta đã dùng,
Chín cột, mười cột cứng,
Nhà này thật là vững...
Nhà hợp nữ, hợp nam
Nhà hợp trời, hợp đất...
Sau khi thầy cúng thử cột nhà xong, chủ nhà bê ra một quả bầu to để
mời mọi người đập vỡ. Ai cũng hăm hở lấy tay đấm để vui cùng chủ nhà.
Quả bầu vỡ được đem đi nấu để mọi người cùng ăn. Theo truyền thuyết của
người Lô Lô, quả bầu do rồng sinh ra và là "nhà ở" đầu tiên của họ. Nay giữ
tục đập bầu trong hội mừng nhà mới là để nhớ lại một truyền thuyết xa xưa.
Chủ nhà đứng lên mời chào và khai mạc cuộc rượu:
Người tóc trắng ngồi trên,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
194
Người tóc đen ngồi dưới.
Mời người già nhắm rượu,
Mời người trẻ "gắp rau" 1
Ăn uống xong, một số nghệ nhân mang kèn, sáo tới hòa tấu thâu đêm,
suốt sáng. Cùng lúc ấy, quanh bếp lửa ở trung tâm ngôi nhà, các cụ già ngồi
hút thuốc, thưởng thức vẻ đẹp ngôi nhà mới, ca ngợi và chúc tụng theo trí
tưởng tượng phong phú của từng người. Trong khi đó, đám người trẻ cùng
nhau hát đối đáp. Chủ đề của cuộc hát tập trung miêu tả lại quá trình vất vả
của cặp vợ chồng để xây dựng nên ngôi nhà hôm nay.
Cuộc hát chậm rãi, vừa đối đáp, vừa tự sự, và nhấm nháp rượu cho đến khi trời sáng. Lúc này mọi người ra về và hẹn sẽ gặp nhau vào cuộc hát đêm
sau.
Đêm thứ hai là đêm hát giao duyên. Có thể nói đó là đêm hát của thanh
niên. Họ chia thành hai phe nam nữ. Nữ đóng vai chủ, nam đóng vai khách.
Chủ khách giao duyên qua những câu hát đối đáp.
Chủ : Đêm nay là đêm gì?
Mà sáng rừng, sáng núi.
Chúng ta mừng nhà mới...
Khách:Tối nay là tối gì?
Mà bếp lửa reo sáng.
Đêm nay là đêm gì?
Mà hát vui làng bản.
Cứ thế, ban đầu là những câu hát làm quen, rồi chuyển qua tự sự, cuối
cùng là những câu hát ngỏ lời. Càng về khuya, lời ca trữ tình càng thêm đằm
thắm.
Hội mừng nhà mới của người Lô Lô không chỉ là niềm vui lớn của một
gia đình, mà cũng là ngày hội chung cho xóm bản. Người ta coi ngôi nhà là
tượng trưng cho sự đoàn tụ, hạnh phúc của gia đình, một thành viên không
thể thiếu của cộng đồng. Mừng nhà mới là cơ hội biểu hiện một mỹ tục gắn
liền với nếp nghĩ, nếp sống truyền thống, ý thức tương thân tương ái của
người Lô Lô./.
T.P - L.T.V
1 Tức thịt, theo lối nói khiêm tốn của người Lô Lô.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
195
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
196
hội múa sư tử
Lã Văn Lô
Múa sư tử là một trò chơi dân gian rất phổ biến trong đồng bào
Tày Nùng. Đồng bào, chủ yếu là thanh niên ra lập hội múa sư tử không
những để biểu diễn, vui chơi trong tháng tết, đặc biệt là trong các hội
lồng tồng để cầu mùa màng, mà còn để rèn luyện thân thể và học một số
môn võ nghệ để tự vệ, chống giặc cướp trước đây thường xảy ra ở các
vùng biên giới.
Hội múa sư tử thực chất là một hội quyền thuật. Trung bình mỗi hội múa sư tử có khoảng 15, 16 hội viên trong đó có một thày dạy võ (lạo
slay) một ngoại giao viên (tông cha). Thầy dạy võ có nhiệm vụ hướng
dẫn việc múa sư tử, dạy võ cho hội viên, đi lên rừng hái thuốc để hội
viên ngâm rượu uống để xoa bóp cho rắn gân rắn thịt, hoặc để chữa cho
hội viên trong khi luyện tập, đấu võ bị thương tích. Nghĩa là thày dạy võ
phải biết cả nghề thuốc nam, dạy cho hội viên biết một vài môn thuốc
thường thức cần thiết, đặc biệt là các môn thuốc chữa thương tích. Ngoại
giao viên thì chịu trách nhiệm giao dịch với bên ngoài để tổ chức các buổi múa sư tử, viết thiếp mời bà con đến xem biểu diễn.
Dụng cụ múa sư tử gồm có một trống nhỏ, một thanh la, một đôi
não bạt một đầu sư tử loại trung (gọn nhẹ để biểu diễn), một mặt nạ dười
ươi, hai mặt nạ khỉ, các thứ võ khí như gậy, đinh ba, mã tấu, song đao,
tay thước v.v... Con sư tử nào đã múa lâu năm đeo thêm một băng vải
đen ở cổ (để nói lên sự lão luyện trong nghề) và được các con sư tử đàn
em tôn trọng.
Muốn trở nên một hội viên múa sư tử ít ra phải được rèn luyện
qua một khóa võ nghệ, gọi là một "pùn" trong 40 ngày, dưới sự chỉ dạo
của một thầy dạy võ. Người nào muốn được thực sự tinh thông võ nghệ
thì tìm thầy giỏi đến dạy thêm vài ba khóa.
Đồng bào tổ chức học võ vào khoảng tháng mười âm lịch sau vụ gặt mùa, vùng học về đêm để khỏi ảnh hưởng đến công việc sản xuất. Món ăn bồi dưỡng sau buổi luyện tập là cơm nếp, đu đủ chín và rượu thuốc, tốt nhất là rượu ngâm tay gấu, tức là "hùng chưởng".
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
197
Một buổi biểu diễn có hai phần, phần múa sư tử và phần biểu diễn quyền thuật, đấu võ, biểu diễn một số tiết mục xiếc như nhào lộn, nhảy cao, trồng cây chuối, đi bằng tay. Có hội luyện được môn "quá tu pịa" (vượt cửa dao), kỹ thuật rất cao. Trên bàn, người ta dùng dao gậy, đinh ba buộc vào nhau thành một chiếc cửa nhỏ vừa lọt thân người. Các võ sĩ thu mình gọn như chiếc thoi, hai tay chập vào nhau, dún mình phi thân nhảy băng qua cửa dao như con cá vượt sóng.
Múa sư tử cũng chỉ là một điệu múa võ, nhất là trong khi sư tử đùa nghịch với bộ ba đười ươi và hai khỉ. Đười ươi và khi tìm đủ mọi cách để trêu trọc sư tử. Con thú dữ này nhiều lúc phát khùng lên nhe răng ra định ngoạm đầu đười ươi và khỉ, nhưng lũ này dùng đủ miếng võ để né tránh một cách hết sức tài tình. Trong hội "lồng tồng", theo tục lệ, con sư tử nào đến trước giữ vai trò đàn anh, có quyền chủ trì các buổi biểu diễn. Con đến sau phải đeo vào cằm con đến trước một miếng vải đỏ gọi là "quá hồng" để thừa nhận quyền đàn anh. Trường hợp tranh chấp, người ta tổ chức đấu miếng giữa các con sư tử. Con nào quật ngã đối phương sẽ được nhận vai trò đàn anh. Trường hợp này, mỗi bên đều chọn một tay quyền thuật giỏi để múa đọ tài với đối phương. Nhiều khi, chính bản thân thầy dạy võ phải đứng ra đảm đương việc này.
Đồng bào Tày Nùng rất thích xem múa sư tử, không những vì nó lành mạnh, vui nhộn khỏe khoắn, mà vì đồng bào còn cho rằng, kỳ lân sư tử xuất hiện là một điềm lành, một cảnh tượng thái bình. Theo tín ngưỡng dân gian, múa sư tử diệt trừ được ma tà, quỉ quái, nhất là diệt trừ được ma ôn dịch, tránh được nạn toi gia súc.
Đồng bào Nùng có câu hát múa sư tử mừng xuân :
Tào mộc nư chu sầy hon hỉ
Kỳ lằn sáy chỉ hùng kha cai
(Cây cỏ khắp nơi đều vui vẻ
Phố phường rực ánh bóng kỳ lân!)./.
L.V.L
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
198
Hội róng poọc
Sần cháng
Róng poọc cũng có thể mang nghĩa xuống đồng. Song đây là ngày
hội, do đó, chúng tôi muốn làm rõ hơn hai từ Róng poọc trong tiếng
Giáy.
Trong tiếng Giáy róng là xuống, nhưng poọc lại chưa phải hoàn
toàn nghĩa là đồng, mà mang nghĩa hội nhiều hơn, bởi vì poọc ở đây chỉ
đông người, như vậy, ta có thể hiểu hai từ róng poọc là hội (đã có hội ắt
phải đông người) được tổ chức ở cánh đồng.
Người Giáy ở Lào Cai, trong 12 tháng (tính theo âm lịch) chỉ trừ
tháng 11 là không có ngày ăn tết, còn lại 11 tháng, tháng nào cũng có
ngày ăn tết, nhưng để vui chơi thì chỉ có tháng giêng, tháng hai, tháng ba,
tháng sáu, tháng bảy. Vui chơi gần với ý nghĩa hội thì chỉ có tháng giêng, đó là hội róng poọc.
ở làng Giáy nào cũng có róng poọc và người ta tổ chức đúng vào
ngày Thìn trong tháng giêng (tháng tết). Người Tày ở Lào Cai, Lạng
Sơn, Cao Bằng, Hà Giang cũng tổ chức hội đó, song, về chi tiết có nét
khác nhau, cho nên ở đây, chỉ giới thiệu về róng poọc của người Giáy
Lào Cai.
Lào Cai có mười huyện, thị thì có bảy huyện, thị có người Giáy cư
trú, trong đó huyện Bát Xát là đông nhất, sau đó đến Mường Khương, Bảo Thắng, hai thị xã Lào Cai, Cam Đường rồi đến Sa Pa và Than Uyên.
Người Giáy cư trú thành luổng (làng), bán (bản), mướng (mường)
mỗi một làng, một bản, một mường đếu có thờ một vị thần riêng. Nơi cư
trú của người Giáy Lào Cai thường là ven sông, suối, thung lũng, đồng
bằng, ít khi ở sườn đồi, đỉnh núi. Nghề chính của họ là trồng lúa nước, vì
vậy, tất cả các ngày tết của các tháng đều theo sự phát triển của cây lúa
trong một vụ (ngày xưa một năm chỉ cấy một vụ lúa).
Hội Róng poọc của người Giáy được tổ chức ở trên cánh đồng
trước làng, (chúng tôi dùng từ làng để chỉ chung cho cả bản và mường).
Mỗi làng đều có một cánh đồng tương đối rộng đủ để tổ chức hội, cho
nên hàng năm cánh đồng đó gần như được làng quản lý để tổ chức cho
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
199
ngày vui của làng, chủ của cánh đồng đó không được để nước vào hoặc
làm bất cứ một việc gì có thể cản trở đến tổ chức hội. Vì thế, người ta đã quen gọi hay đúng hơn là đặt tên cho cánh đồng đó là Ná róng poọc
(ruộng xuống đồng).
Hội róng poọc được tổ chức vào ngày Thìn tháng giêng (tháng tết);
còn đầu tháng, giữa tháng hay cuối tháng là tùy thuộc vào những yếu tố
kinh tế (có no đủ không), xã hội (có ổn định không)... và cả thời tiết nữa.
Thường là người ta thích tổ chức vào trung tuần của tháng hay cuối
tháng, bởi vì hội này có ý nghĩa là kết thúc tết, nghĩa là sau róng poọc
không còn ai vui chơi nữa, mọi người đều quay về nhà mình chuẩn bị các công cụ để làm vườn, lên nương, xuống ruộng.
Ngày hội róng poọc được chủ làng thông báo cho các gia đình
trước về thời gian, về sự đóng góp. Trước đây người đứng đầu một làng
của người Giáy được gọi là Srú hoặc pình và có một người làm rán đău
(người trong nhà người nhà quan) như liên lạc ở xã ngày nay, đi báo, đi
truyền mọi việc đến từng nhà và cũng có cả nhiệm vụ thu những thứ của
dân đóng góp.
Trước ngày róng poọc một ngày, những chức sắc của làng đến nhà chủ làng để đi mua gà, vịt, lợn (độ 30 đến 50 cân), làm vòng mặt trời.
Cách làm vòng mặt trời như sau: người ta lấy tre vót và uốn vòng tròn,
sau đó đán giấy xanh, đỏ, vàng và cắt mặt trời bằng giấy đỏ, mặt trăng
bằng giấy vàng dán vào giữa vòng, sau đó cắt con âm dương dán lên mặt
trăng. Vòng mặt trời còn có ba tua bằng hoa giấy xanh, đỏ, tím, vàng.
Ngày róng poọc, từ sáng sớm, những chức sắc trong làng đến nhà
chủ làng để cùng chuẩn bị các đồ cúng thần, cây treo vòng mặt trời v.v... Cây treo vòng mặt trời được gọi là Tòng Cón (cột còn), bằng cây mai dài
từ 10-12 sải tay, để cả ngọn, sau đó uốn cong ngọn để buộc vòng mặt
trời.
Tất cả những thứ chuẩn bị đó đều được đưa ra đồng từ khoảng bảy
giờ sáng. Việc đầu tiên phải làm là: đặt bàn thờ cúng thần, trên bàn thờ
gồm có: một bát gạo to đặt trên một tấm vải mộc trắng (vải tự dệt lấy)
cắm năm nén hương, (ba nén sau, hai nén trước), trước bát hương có năm
chén to úp miệng xuống bàn và năm chén con đặt lên trôn năm chén úp để rót nước chè hoặc rượu cúng, hai bên có hai đĩa trứng luộc nhuộm
phẩm đỏ, mỗi bên hai quả, có đĩa đồ trang trí bằng bạc (vòng cổ, vòng
tay), đĩa cá rán, hai củ măng vầu, xôi đỏ bảy bát con, bảy đôi đũa, bỏng
ngọt năm bát con, một bát nước lã, trong bát có năm hào bạc trắng, bát
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
200
nước lã để làm phù phép, sáu quả còn, mỗi bên bàn cúng ba quả (những
quả còn này là của các cô gái chưa chồng). Đằng sau bàn cúng thần đặt một ghế băng, trên ghế băng có một chăn chiên gấp gọn đặt lên ghế, hai
đầu ghế thì một đầu có một gánh cỏ non độ một chét tay nhỏ, một đầu có
một gánh củi con chẻ nhỏ, cũng độ một chét tay nhỏ. Sau việc đặt bàn
cúng, người ta thắp hương vào bàn thờ và làm lễ chôn cột còn. Thắp ba
nén hương, đốt vàng mã, đào lỗ tại nơi thắp hương đó, sau đó thầy cúng,
chủ làng, vài người già và một số thanh niên bắt đầu nâng cột, đặt vào lỗ
và chôn chặt theo hướng của vòng mặt trời quay về đông.
Tiếp những công việc trên, thầy cúng bắt đầu khấn:
Vấn ní đi - Ngày này tốt
Pi ný lỳ - Tháng này lành
Đắp pi cẩu - Tắt năm cũ
Háu pi mỏ - Vào năm mới
Tò pướng Sró - Cả làng vui
Sính Srảy pướng táu nằng - Mời thần đến ngự trị.
Sằm văn Sró hún lai - Cùng ngày vui mọi người.
Tiếp theo xin âm dương. Vật dùng xin âm dương là một đoạn cành
đào dài độ ngón tay trỏ, chặt vát hai đầu, chẻ đôi, khi một mảnh sấp một
mảnh ngửa là được - nghĩa là thần đã đến; nếu không sẽ tiếp tục xin đến
khi được mới thôi. Mời được thần đến rồi thì lấy bát nước trắng trên bàn
cúng coi như đã được thần phù phép vào và đem tưới lên lợn, gà, vịt, rồi
mổ.
Sau khi lợn, gà, vịt được luộc chín, mâm cỗ cúng thần được bày lên gồm có: thủ lợn, bốn chân lợn, hai miếng thịt, mỗi miếng độ một cân, hai
bên là gà, vịt, một bát nước canh luộc thịt, năm lưng bát cơm trắng và
những chén nước chè cúng ban đầu đã được thay bằng rượu trắng.
Ngoài mâm cỗ chung ra, mỗi nhà - tùy theo điều kiện, không nhất
thiết phải có: một mâm cỗ, trên mâm gồm một con gà luộc, một đĩa cá
rán hoặc trứng rán, hai củ măng vầu nếu có, hai quả trứng vịt luộc nhuộm
phẩm đỏ, ba đến năm bát bỏng, hoa quả, bánh kẹo (nếu có) và một quả
còn. Tất cả các mâm cỗ đều hướng về nơi thờ thần làng, vị thần này được thờ ở trước làng hoặc bên sườn của làng, không bao giờ sau làng. Thần
làng được người Giáy thờ là vị thần không xác định, đều có tên gọi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
201
chung là: Srảy, pướng (quan làng). Và đã có làng (có người cư trú) thì
đều có thờ thần làng.
Ngoài mâm cỗ cúng trong ngày hội còn có đội kèn pí lè, có một
trống to làm hiệu thông báo, có các trò chơi khác như đánh mạt chược,
xóc đĩa (đánh bạc), thanh niên nam nữ thì đánh còn, đánh én, đánh quay,
chơi bập bênh...
Khi cúng tế trong ngày hội róng poọc, thày cúng phải mặc áo dài
cài khuy nách (như áo cổ của người đàn ông Trung Quốc), những người
khác được mặc bình thường. Thày cúng thắp ba nén nhang, vái ba lần rồi
cắm vào bát nhang, sau đó đọc bài cúng:
Vắn ný đi - Ngày này tốt.
Pi ný lỳ - Năm này lời
Đắp pi cẩu - Hết năm cũ
Háu pi mỏ - Vào năm mới.
Tò bán, tò pướng - Cả làng, cả bản
Róng poọc, ọc tòng - Xuống đồng, ra bãi.
Cuộc Sró riêu - Làm vui chơi
Sính Srảy pướng táu nằng - Mời thần làng về ngự.
Páo hắu bán luổng đi - Giữ cho bản, làng yên
Páo tắm pra, ná háu - Giữ ao cá, ruộng lúa
Chẹt bỏ đáy, cháy bỏ mý - Ôm không vào, đau không có.
Háu rim ná, pra rim tà - Thóc đầy ruộng, cá đầy sông....
Rồi lại gieo quẻ xin âm dương và cúng, nội dung chủ yếu là: Thịt
lợn, thịt gà, vịt béo ngon, có măng mới, có rượu ngon, thần ăn rồi ăn nữa, uống rồi uống thêm, rồi bảo vệ cho xóm làng bình yên, ngô lúa tốt tươi,
trâu bò, lợn gà đầy chuồng, cá đầy sông, người không đau ốm... Trong
bài cúng còn có đoạn: "Thần ăn xong còn xin dọn, thần ăn xong còn xin
cất và mời thần trở lại nơi thần đã ngự...". Sau đó, đốt vàng mã và thầy
cúng lấy tất cả các quả còn có trong ngày hôm đó đến vái trước bàn thờ
thần.
Làm xong thủ tục trên thì mời những người cao tuổi, nam đứng một
bên, nữ đứng một bên và lấy những chiếc còn đã được "ra mắt" thần ném tượng trưng ba lần giữa nam và nữ. Sau đó là thanh niên ném còn với
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
202
mục tiêu làm thủng vòng mặt trăng mặt trời trên ngọn cột. Khi đã ném
thủng vòng mặt trời mặt trăng, người ta lấy chiếc còn ném vái ba vái, sau đó thầy cúng, chủ làng rót bốn chén rượu đỏ (có phẩm đỏ) mỗi đôi nam
nữ đó mỗi người hai chén và mỗi người được thưởng hai nào bạc trắng.
Xin lưu ý thêm điều này, năm nào mà ném không thủng là người ta phải
dùng súng bắn bằng thủng, nếu không năm đó sẽ không yên ổn. Tiếp
theo là lễ kéo co (gọi là kéo mây, tức dây mây) bằng dây song to, bền,
gốc của dây về hướng đông, ngọn về hướng tây. Lúc đầu kéo tượng trưng
mời những người có tuổi kéo trước, phía gốc của dây là nam, ngọn là nữ.
Kéo tượng trưng ba lượt đi ba lượt về, sau đó là thanh niên khỏe mạnh, nhưng không được kéo đứt dây, năm nào để đứt dây là năm đó sẽ không
yên ổn. Sau một hồi kéo, phía đằng ngọn giả vờ thua, phía gốc thắng và
một người kéo thẳng dây song đó về phía nhà chủ làng. Kéo mây xong,
thầy cúng thắp ba nén hương và ba tờ giấy vàng đến gốc cột khấn, cắm
hương rồi chặt hạ cột xuống. Ngay hội kết thúc và người ta chuẩn bị hai
con trâu khỏe với cày để cày khoảng ba đến năm đường cày tượng trưng
cho một vụ mùa mới bắt đầu.
Tiếp đó là việc ăn. Mâm cúng của nhà nào nhà ấy đem về, còn mâm cúng thần được ăn chung tại nơi tổ chức hội, nghĩa là mỗi nhà một
người, tự đem cơm, rượu... đến, còn thức ăn sau khi làm xong, các mâm
trải lá trên mặt đất, thức ăn sẽ được chia đều cho các mâm, mâm nào
không hết họ lại tự chia đều cho nhau đem về nhà. Trước lúc vào ăn, chủ
làng thông báo những việc mọi nhà phải nhớ và làm theo như: Cấm chặt
cây xanh ở rừng nào, rừng nào được lấy củi, thời gian thu, chăn thả gia
súc; làm đường đi, đào mương, đắp đập, ngăn suối; chống trộm cướp, giữ gìn trật tự, an ninh thôn bản... Ai làm trái hoặc không thực hiện sẽ bị phạt
lợn, gà, vịt, gạo, rượu, bạc trắng, làm đường... và, như vậy, cả năm chỉ có
một cuộc họp đó, nhưng mọi người nghiêm túc thực hiện, người vi phạm
không kể thân quen đều bị xử phạt như qui định. Ăn xong bữa cỗ cũng là
kết thúc hội, kết thúc một tháng ăn chơi và bước vào một năm mới lao
động vất vả.
Có thể nói thêm, sau khi ăn bữa ăn tập thể đó, các chức sắc có thể
kéo đến nhà chủ làng vui đến khuya, nhưng rượu thịt và người phục vụ là do chủ làng tự chịu.
Hội róng poọc của người Giáy là hội xuân. Ngày hội này, theo suy
nghĩa của người Giáy là: Hội để kết thúc một tháng vui chơi (tháng Tết):
Đươn xiêng đươn dủ vảng - Tháng giêng tháng nhàn rỗi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
203
Đươn tức chẳng có cú - Tháng đánh quay chơi bóng
Đươn phung lú pú nòi - Tháng tuổi trẻ phong lưu...
Đồng thời chính để mở đầu cho một năm mới lao động và, trong tư
tưởng (hạt nhân cơ bản của ngày hội) đây còn là một lễ cúng thần cai
quản địa bàn, để thần phù hộ cho ngô lúa tốt tươi, mùa màng phong
đăng, chăn nuôi phát triển, xóm làng bình yên, mọi người khỏe mạnh. Vì
vậy, với một lý do nào đó mà không tổ chức được, thì năm đó mọi nhà,
mọi người làm ăn thấp thỏm và hễ có một sự cố nào đó xảy ra của tự
nhiên, như lũ lụt, sạt lở ruộng nương, bệnh dịch.... người ta sẽ cho là do không "róng poọc".
Các tộc người khác sống xung quanh cùng chia sẻ, cũng mong đợi
như người Giáy. Cái "hội", cái vui chơi đó là của tất cả mọi người quanh
vùng làng Giáy.
Người Giáy quan niệm: Trời là cao nhất, trời sinh ra tất cả: lành,
dữ, tốt, xấu; "tiên" cũng ở trên trời, nhưng "tiên" chủ yếu làm ra điều tốt,
lành. "Thần" là ở dưới trần gian, người trực tiếp làm ra những điều lành,
dữ, tốt, xấu. Do đó lễ cúng thần trong ngày hội róng poọc cũng là cúng cả trời, cả "tiên", cả "thần". Hội "róng poọc" vừa là vui chơi, nhưng lại
vừa cầu trời đất, thánh thần phù hộ cho sản xuất, cho cuộc sống của cả
làng bình yên. Người Giáy nghĩ như vậy, luôn luôn mong được như
vậy./.
S.C
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
205
hội xuống đồng
Trần Hữu Sơn
Hội xuống đồng - lễ hội cầu mùa đặc sắc của nhiều tộc người.
Qua miêu thuật hội xuống đồng của người Tày ở một bản cụ thể, bản
Làn xã Khánh Yên huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai, chúng tôi cố gắng lý
giải đôi điều.
Bản Làn có 68 hộ, với 363 nhân khẩu thuộc các dòng họ lớn như
Lục, La, Vi, Hoàng... Dân bản sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước.
Hằng năm, vào ngày 5 Tết, bản Làn lại tấp nập mở hội xuống đồng, nhưng thực ra, quá trình chuẩn bị hội diễn ra từ trong năm. Các dòng họ
trong bản đều phân công lo các phần việc như chọn dây song để kéo co,
chọn cây còn, lễ vật cúng chung ... Đêm 30 tết, khi gà gáy canh một, đại
diện các dòng họ cùng ông vua làm lễ rước nước thiêng về bản, nước
được lấy ở nơi mạch nước đang tuôn chảy ở đầu nguồn suối Hin đón.
Sau khi lấy đầy bầu nước chung của bản và các ống nước mới của từng
gia đình, nam nữ thanh niên còn vui vẻ té nước lên người nhau. Trong
tiếng chiêng rộn rã, một đôi nam nữ thanh niên cẩn thận khiêng quả bầu lớn đựng nước nguồn về làng. Quả bầu đựng nước được trịnh trọng đặt
trên bàn cúng của ông thầy mo. Sáng 5 tết, đoàn người đến đón ông mo
đi mở hội, đi đầu là mo và bầu nước nguồn, đi sau cùng là hai người
khiêng trống vừa đi, vừa đánh. Địa điểm mở hội là ở giữa cánh đồng Nà
Noi lớn nhất bản, lại gần bờ suối.
Chính giữa cánh đồng dựng một dàn cúng bằng tre, nửa cao
khoảng 1,2m, rộng 40 cm, theo hình chữ U. Phần trang trọng nhất là dàn cúng chính đặt ở hướng đông. Phía nam dàn cúng đan cài những cành lá
đao (cây báng họ cau cọ thường lấy bột làm lương thực, nấu rượu). Mâm
cúng của ông mo đặt ở giữa dàn cúng. Trên mâm có bát nước (lấy trong
bầu nước thiêng) đáy bát có một đồng bạc trắng, một đĩa xôi đỏ, một đĩa
xôi vàng, một con gà nhỏ luộc chín, một xâu cá nướng, một bát tiết, một
con dao nhọn, một bó vải mới dệt. Hình nộm hai con cá làm bằng giấy
bản màu vàng, hai con chim én làm bằng giấy bản màu đỏ, hai chùm hoa
bằng hạt gạo rang đều cắm trên những mảnh bẹ thân chuối để trang trọng trong mâm. Hai bên mâm cúng của thầy mo là hai chùm quả đao.
Tiếp theo hai bên mâm cúng của thầy mo là mâm của các chức dịch và
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
206
dân làng, cuối dàn cúng là mâm của những người mới chuyển về bản
trong năm. Các mâm cúng của chức dịch và dân chủ yếu là các món ăn, không có bát nước, con dao, đĩa tiết.
Một hồi chiêng vang lên, lễ cúng mở hội bắt đầu. Thầy mo cung
kính đọc bài cúng mời thần bản, thần các con suối (nữ thần) thần các
ngọn núi (nam thần) về dự lễ cúng. Nội dung bài cúng cầu mong "lúa tốt
như cỏ lau, cỏ lác, hạt to như quả đao không có sâu cắn phá, cá nằm chật
suối, chật ao, trâu, lợn đầy đàn, gà vịt đầy sân, người người khoẻ mạnh,
nhà nhà đông con, bản thêm nhiều trẻ nhỏ, xóm không người yếu đau...".
Cúng xong, thầy mo một tay cầm bát nước, một tay cầm dao lia bốn lần trên bát nước, cắt ngang dọc theo bốn phương, tám hướng, thầy mo ngậm
nước phun bốn phương, tay cầm bạc trắng vẩy bốn hướng.
Cúng xong ở dàn cúng chính, thầy mo lại trịnh trọng đến cúng tại
cột cây còn. Cây còn là một cây mai dài, có lá, ngọn uốn cong thành hình
tròn đường kính khoảng 40cm. Một bên hình tròn (phía đông) dán giấy
đỏ (tượng trưng cho mặt trời), một bên dán giấy vàng (phía tây) tượng
trưng cho mặt trăng. Thân còn được kết thêm một cành lá đao. Dưới gốc
còn là mâm cúng chung của cả bản gồm có một con gà trống to luộc, một đầu lợn luộc, xâu cá nướng và hai đĩa xôi màu đỏ, màu vàng, hai quả còn
(trong nhồi thóc, hạt bông, cát) có tua màu đỏ. Sau khi cúng xong, thầy
cúng tung cao quả còn cho các chàng trai tranh cướp đầy náo nhiệt và vui
vẻ. Chàng trai nào cướp được quả còn của ông mo đầu tiên cũng là người
đầu tiên ném còn, mở cuộc vui. Các quả còn liên tiếp bay lên hạ xuống
hai bên nam nữ. Chàng trai ném qua phông còn cho thiếu nữ bắt. Các
thiếu nữ tung còn cho các chàng trai. Ai cũng náo nức thi nhau ném trúng phông còn. Phông còn thủng, người ném trúng sẽ được thưởng hai vuông
vải đỏ. Và, quả còn ném thủng phông còn sẽ được ông mo rạch ra, lấy
hạt bông, hạt thóc trộn với thúng thóc rang, tung lên đám đông người dự
hội. Mọi người chen lấn, xô đẩy nhau, ôm vạt áo hứng cho bằng được vài
hạt thóc rang, mong nhận được phần nhiều.
Hết trò ném còn là đến trò kéo co. Lúc đầu, kéo co còn mang tính
nghi lễ, thường chia làm các phe như phe những gia đình ở phía trên mỏ
nước dòng suối đá trắng kéo với phe đại diện những gia đình ở phía dưới của mỏ nước. Đại diện phía thượng nguồn phải dành phần thắng. Hoặc
thi kéo co giữa đại diện gia đình ở phía đông kéo với đại diện gia đình ở
phía tây bản. Tất nhiên phải dành cho phía đông thắng, năm đó mới được
mùa.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
207
Một số nam nữ thanh niên lại chơi trò đánh én - đánh cầu lông (cầu
bằng ống trúc cắm ba chiếc lông gà). Mở đầu trò chơi, ông mo thường đánh với một bà già đông con ở gần cột còn, đứng theo hướng ném còn:
đông - tây. Về sau, nam nữ thanh niên chọn nơi khuất gió để đánh được
thuận lợi. Ai để cầu rơi sẽ bị véo tai hoặc phải kỷ niệm cho đối thủ một
túi thổ cẩm, hoặc một tấm khăn, thậm chí cả vòng bạc.
Hết phần kéo co, đánh én mang tính nghi lễ, một bà già đông con
trai trực tiếp đánh trống làm nhịp cho các điệu múa. Theo nhịp điệu của
trống, một tốp 12 người, 6 nam, 6 nữ cầm mộc và kiếm ra trình diễn trò
múa kiếm. Khi tiếng trống "tùng" người cầm kiếm phải đâm mũi kiếm vào mộc, người múa buộc phải ưỡn phần thân dưới, đưa mộc đỡ. Múa
kiếm kết thúc, trống, chiêng, nổi lên rồn rập, gọi mọi người cầm tay nhau
vào điệu xoè vòng. Trống ở giữa vòng xoè, xung quanh vòng xoè ngày
càng nới rộng, vì có thêm nhiều người....
Như vậy, hội xuống đồng của người Tày Văn Bàn nói riêng và của
các tộc khác nói chung là một lễ hội cầu mùa. Cả phần lễ và phần hội đều
tập trung phản ánh ước nguyện của dân làng mong ước được mùa, người
người khoẻ mạnh, sinh nhiều con cháu. Mục đích chỉ có vậy, nhưng hội xuống đồng tập trung cả một hệ thống tín ngưỡng đan xen, hoà nhập vào
nhau khó mà tách bạch. Các tín ngưỡng thường bao quanh các yếu tố ảnh
hưởng đến nông nghiệp như: nước, mặt trời...
1- Hội xuống đồng là một hội mở đầu chu kỳ sản xuất nên nó luôn
phản ánh ước mong sinh sản. Vì vậy, tín ngưỡng phồn thực thể hiện bằng
các lễ thức, ma thuật, diễn xướng hằng xuyên các hành động hội.
Một số nhà nghiên cứu đã lý giải trò ném còn là hành động tượng trưng, diễn lại ý niệm nam nữ giao phối. Quả còn tượng trưng cho nam
tính, ném vào phông còn, phá vỡ phông còn (màng trinh) sẽ được mùa,
quả còn mang nam tính nên trong nghi lễ trao còn, ông mo trao quả còn
để trên mâm cúng đã được nạp năng lượng thiêng cho các trai tráng. Và
tất nhiên, khi ném còn nghi lễ mở đầu cuộc ném bao giờ cũng là nam
giới, còn bên nhận là nữ giới. Khi ném trúng phông còn, ông mo còn
tung hạt giống (có năng lượng thiêng, có sự sinh sản mạnh) cho mọi
người tranh nhau cướp. Đó là chuyển tính chất thiêng của hành động nam nữ tính giao sang hạt giống, nhằm chia thêm chất "thiêng" cho mọi thành
viên cộng đồng. Đặc biệt, tính phồn thực còn thể hiện rõ nhất ở điệu múa
kiếm và mộc với hành động chọc thanh kiếm vào mộc theo nhịp trống.
Khi đó, người cầm mộc cũng ưỡn nửa thân dưới ra phía trước. Đương
nhiên, không thể phủ nhận là điệu múa mang đầy đủ tính chất thượng võ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
208
Nhưng thực ra, cốt lõi của điệu múa là diễn tả lại hành động tính giao.
Kiếm là biểu tượng của dương, còn mộc là âm. Trong trò đánh én, én là biểu tượng của dương, bàn đánh là âm. Đánh én là sự giao hoà nam tính
và nữ tính (âm dương) cho sự sống sinh sôi.
2- Trước đây, thời điểm tổ chức hội xuống đồng vào khoảng tháng
3, tháng 4 âm lịch, là thời điểm đón những cơn mưa đầu mùa ở vùng cao
phía Bắc. Về sau do ăn Tết Nguyên đán, hội mới mở vào tháng giêng.
Nước là yếu tố quyết định của nền nông nghiệp lúa nước. Vì vậy, dấu vết
cầu mưa phản ánh khá đậm nét trong hội này. Trong các thần linh về dự
hội, bên cạnh thần núi (nam thần) còn có thần mỏ nước (nữ thần) - biểu hiện của âm dương hoà hợp. Nước để cúng trong ngày hội phải là nước
nguồn mang tính chất tinh khiết, chảy mãi không cạn. Nước được người
dân đánh chiêng rước nước về đặt trên bàn thờ ông mo nạp năng lượng.
Ngay sau lễ cúng, ông mo còn niệm chú làm tăng chất thiêng rồi ngậm
nước phun bốn hướng. Đó là hành động mô phỏng cầu mưa, mong mưa
tưới khắp trần gian. Ngay lúc đó, một hồi trống đổ vang rền như tiếng
sấm đổ hồi. Trong trò kéo co có màn kéo giữa người thượng nguồn và
người hạ nguồn và phe thượng nguồn thắng thì năm đó sẽ mưa thuận gió hoà và được mùa "kéo lên nguồn - nguồn thắng - nước tràn bờ đầy khe".
3- Cũng như nước, mặt trời là yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo
cho lúa nước được mùa. Trong lễ hội xuống đồng, ta cũng gặp những
biểu tượng mặt trời và tín ngưỡng liên quan đến mặt trời.
Đó là việc làm dàn cúng chính sắp các mâm cúng quan trọng nhất
của ông mo, các chức dịch làm ở hướng đông - hướng mặt trời mọc.
Mâm cúng của gia đình nào cũng có hai đĩa xôi, xôi đỏ tượng trưng cho mặt trời, xôi vàng tượng trưng cho mặt trăng. Mâm cúng của ông mo đặt
ở vị trí trang trọng nhất, màu đỏ gần như màu chủ đạo: đĩa xôi đỏ, hai
con chim én bằng giấy đỏ, đĩa tiết gà màu đỏ ... Mâm của ông mo lại đặt
trên khoanh giấy hình vuông đỏ ...
Ngay trong một trò chơi trong hội - trò chơi ném còn cũng cho ta
những liên tưởng đến tín ngưỡng thờ mặt trời. Một bên phông còn màu
đỏ tượng trưng cho mặt trời, quả còn được ném từ đông sang tây (hướng
đi của mặt trời). Trò chơi đánh én được mở đầu bằng nghi thức ông mo tung én (biểu tượng mặt trời) cho bà già theo hướng đông - tây. Trong trò
kéo co, bên thắng cuộc phải là hướng đông (mặt trời mọc).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
209
Ngay vòng xoè quanh cột còn cũng chuyển động từ phải sang trái -
chiều chuyển động ảo của mặt trời. Đường vòng tròn kín này còn có ý nghĩa là biểu tượng của mặt trời.
Tất cả những tín ngưỡng trên đều nằm một mục đích mong cây lúa
sinh sôi, nảy nở. Cây lúa và hạt thóc trở thành hình tượng trung tâm của
ngày hội.
Lễ đón ông mo và mâm cúng của ông mo diễn ra trang trọng. Ông
mo đi trước, theo sau là người đội mâm cúng và người bê rổ đựng thóc
rang thành bỏng. Thóc rang là một biểu tượng của hạt giống, nó còn trực
tiếp nhận năng lượng thiêng này sau đó sẽ được phân phát cho mọi thành viên qua nghi thức lãi hạt giống. Trên bàn thờ ông mo, bên cạnh rổ đựng
hạt giống là các chùm quả đao. Khi cúng, ông mo khẩn cầu "mong hạt
lúa to như quả đao". Tại sao có hiện tượng này ?
Cây đao, người Việt gọi là cây báng, một loại cây thuộc họ cau cọ,
một là cây lương thực của người Tày. Đồng bào thường lấy bột thân cây
báng nấu độn với gạo, hoặc nấu rượu. Có thể, trước khi tìm ra lúa, người
Tày sống chủ yếu nhờ bột báng. Khi đã có lúa họ vẫn không quên cây
báng. Và, cây báng đã đi vào hội xuống đồng như là một loại cây thiêng phù hộ cho lúa, truyền năng lượng thiêng cho lúa. Lễ hội xuống đồng còn
hé mở cả lịch sử tiền nông nghiệp của người Tày - lịch sử kinh tế hái
lượm mà cây đao là đại diện.
5- Trong hội xuống đồng có sinh hoạt xoè vòng. Trống xoè treo
ngay ở cột còn. Cây còn mang biểu tượng của cây lúa thiêng, cây vũ trụ
trong điệu múa này trở thành trung tâm điểm. Đội hình múa quanh cột
còn là đội hình hướng tâm. Nguồn gốc của nó là những sinh hoạt cộng đồng quanh đống lửa thời xa xưa. Mặt khác, đường vòng này không chỉ
được tạo bởi đội hình múa mà còn là một đường vòng của các âm thanh
trống chiêng. Từ tâm điểm là cột tròn, tiếng trống sẽ lan đều xung quanh.
Bao bọc bên ngoài đội hình múa hướng tâm lại là vòng tròn dân làng
xem hội.
Có thể ngày xưa, xã hội có mang tính chất dân chủ cộng đồng cao,
cây còn mới là trung tâm tiếp nhận năng lượng thiêng của ngày hội. Từ
tâm điểm này, năng lượng thiêng lan toả đều cho mọi thành viên. Tính dân chủ cộng đồng được đề cao, mọi người đều bình đẳng đón nhận năng
lượng thiêng. Về sau, xã hội đã phân hoá vị trí nhận năng lượng thiêng từ
còn chuyển sang bàn thờ (dàn cúng theo hình chữ U). Nhưng ở đây tính
chất bình quân, bình đẳng không còn nữa. Vị trí trang trọng nhất, có khả
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
210
năng nhận năng lượng thiêng lớn nhất là phần đáy chữ U - nơi đặt bàn
thờ của ông mo, theo hướng mặt trời mọc. Sau mâm cúng của ông mo, đến mâm cúng các gia đình chức sắc, người dân bình thường và cuối
cùng mới đến các gia đình ngụ cư. Năng lượng thiêng không chia đều mà
đã mang tính chất "đặc quyền đặc lợi" cho một số người.
Hội xuống đồng như một bể trầm tích các lớp tín ngưỡng, văn hoá
phong phú và hấp dẫn. Có lẽ nào lại để cho hội này phai nhạt dần trong
đời sống người dân vùng núi phía Bắc hiện nay ?
________________ T.H.S
Ghi chú: Có nhiều tác giả quan tâm đến Hội xuống đồng của cư dân các tộc. Chúng tôi dẫn thêm một ít tư liệu để làm sáng rõ thêm về một
hội lễ rất phổ biến này.
+ ở châu thổ Bắc Bộ:
"...Xưa, dân thường làm hai vụ lúa: vụ mùa và vụ chiêm. Tuy phần
lớn làng xã đều làm hai vụ, nhưng có nơi lại mạnh về làm lúa mùa, được
gọi là các làng đồng mùa; có nơi lại mạnh về làm lúa chiêm, gọi là làng
đồng chiêm. Theo đó mà hội xuống đồng, tuỳ làng chiêm hay mùa, mà
được tổ chức vào những thời điểm khác nhau.
ở các làng đồng mùa, hội xuống đồng tiến hành vào mồng 1-6
(âm). Còn ở các làng đồng chiêm, hội được tổ chức vào mồng 1-11 (âm).
Nhiều làng, hội này được ghi vào lệ làng (hương ước) như là một tập tục
năm nào cũng phải có.
Ngày vào hội ngay từ sáng sớm, các quan viên kỳ mục hay già làng
đã đề tựu ở đình làng làm lễ tế thành hoàng và cáo yết thần nông, các vị
thần phù hộ cho nhân khang vật thịnh và mùa màng tươi tốt. Sau đó, mọi người mới tụ tập tại vị trí đã được chọn trước (thường là cách đình không
xa), để tổ chức hội xuống đồng. Nhiều làng, lễ cáo yết các thần được tổ
chức tại nơi mở hội. Đó là một mảnh ruộng công tốt nhất được cày xới
thật kỹ, ở giữa ruộng cắm một cây tre tươi đủ cành lá để làm cây nêu.
Trên ngọn thường buộc một đụn lúa nhiều bông, chắc hạt (có nơi buộc vỉ
tre đan hình tam giác, tượng trưng cho mong ước phồn thực, sinh sôi).
Sau lễ cáo yết thần nông, hội xuống đồng bắt đầu bằng nghi thức cấy lúa.
Những người thực hiện nghi thức này được gọi là chúa đồng. Có làng chỉ có một chúa đồng. Có làng lại chọn từ 3 đến 5 chúa đồng. Đó là những
người cao tuổi, thạo nghề cấy hái, am hiểu đồng đất, lại phải phúc hậu,
đông con, nhiều cháu, mạnh khoẻ, có uy tín và đặc biệt gia đình phải hoà
thuận và không vướng tang ma. Dân làng hy vọng rằng những đức tính
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
211
tốt đẹp đó của chúa đồng sẽ hoà nhập vào cây lúa, truyền cho lúa sức
sinh sôi mãnh liệt. Sau khi làm lễ thần nông, thổ địa, chúa đồng bắt đầu lội xuống ruộng và cấy mạ vòng quanh chân nêu. Trong khi đó, ở trên
bờ, dân làng vừa đánh trống (giả tiếng sấm) vừa hò reo vui nhộn, té nước
(giả làm mưa), ném bùn đất (giả làm thiên tai)... vào chúa đồng. Nếu
chúa đồng vẫn vững vàng, vẫn cấy đẹp, ngay ngắn thì dân làng cho rằng
ước mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, con người khoẻ mạnh
nhất định sẽ thành hiện thực. Khung cảnh của hội xuống đồng thật là vui
vẻ. Sau khi chúa đồng cấy được một khoảng rộng, dân làng ùa nhau
xuống cấy tiếp trong không khí hào hứng, sôi nổi với mong muốn mình cũng được thạo việc và có nhiều đức tính đẹp như chúa đồng. Sau khi
cấy xong thửa ruộng công, dân làng trở về nhà mình, ai cấy của nhà nấy.
Họ tin rằng không khí sinh sôi ở nơi kia sẽ truyền cho cây lúa của riêng
mình...". Ngọc Lưu Ly1
+ ở người Tây Bắc xưa
"Từ sớm ngày 30 Tết, dân các bản Tày tụ về khoảng đất rộng tiện
lợi nhất do quan châu chọn, thường là gần trung tâm vùng và gần con
suối trong xanh nhất, bởi họ cho rằng: Thần bản thường ở gần suối. Những ai biết thổi kèn, đánh trống đánh chiêng đều mang theo nhạc cụ
của mình đến đây rồi lập thành một ban nhạc để phục vụ cho cuộc vui
sau cuộc lễ.
Quan châu chủ trì lễ hội, thày cúng (mo) đồng thời là người lo bàn
cúng và các vật cúng tế như gà trống to luộc chín, có tiết gà chín rải ở
trên, với lợn (hoặc đầu lợn), rượu, bát nước suối trong có đồng bạc,
hương thắp và tiền ma (làm bằng giấy bạc). Cùng với thày cúng, có thầy trợ giúp (Báo mo). Dưới bàn cúng chính, dân các bản còn đem về những
gà, thịt lợn, bánh tết, hoa trái, hương nhang ... để bày thêm hai dãy đồ
cúng. Bắt đầu cuộc lễ, ông mo với dáng vẻ đường hoàng, thần bí trong
thế đứng khoanh tay với bộ phục trang: áo giống áo dài nữ nhưng không
có viền, tóc thì búi đỉnh đầu, cúng mời Thần Nước ở bốn mỏ nước: Pak
Săt, PaK Só, Pak Zặt, Pak Lảng và Thần Núi cùng với bốn thần: Pú jăng
Sắng, Pú đan Tắng, Pú khả To và Pú Lềnh về dự lễ, nhận những vật hiến
tế để phù hộ cho dân bản năm tới được mùa, và mọi nhà yên vui khoẻ mạnh. Sau những bài cúng, ông mo một tay bưng bát nước có đồng bạc
trắng, một tay cầm dao đưa trên bát nước cắt ngang dọc bốn phương tám
1 Hội xuống đồng, Báo Hà Nội mới chủ nhật số 270, tháng 5/1994.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
212
hướng, rồi niệm thần chú, xong ông ngậm nước phun về các phía. Đây là
một hành động mô phỏng để cầu mưa, mong mùa màng không bị hạn.
Cúng xong, đồ cúng trên bàn chính chỉ có thầy mo, quan châu, thày
phụ mo và vài người phụ lễ được ăn. Đó là những đại diện cao nhất cho
dân bản đứng ra nhận năng lượng thiêng mà trời đất đã ban cho qua các
vật hiến tế. Còn những dãy đồ cúng mà mọi người đem đến được chế
biến chung để tất cả cùng ăn, không kể người đem đến ít hay nhiều. Đây
cũng là một biểu hiện của sinh hoạt cộng đồng mà người Tày còn giữ
được trong lệ ăn chung đồ cúng này.
Sau lễ cúng và niệm chú, hai già bản có uy tín nhất, được quan châu cử, đem tới những vốc ngô rang tung vãi ra bốn phía trên không.
Lúc này, lễ đã bớt phần trang trọng, gần như là sự chuyển tiếp sang phần
hội. Tất cả mọi người háo hức, xô đến hứng những hạt mưa ngô, mong
mình được phần nhiều để năm tới mùa màng bội thu (ở Bắc Hà, ngô
chiếm vị trí rất quan trọng trong lương thực, vì chỉ có một mùa lúa).
Xong trò vãi ngô, hai già bản khác phụ trách trò ném còn (gieo
đúm) xuất hiện cùng chiếc chiêng trong tay, chọn ba đôi chơi còn cân
xứng ra bãi. Nếu các già đồng ý ai, già sẽ đưa chiêng lên ngang vai họ gõ một tiếng ... Mỗi tốp chơi được ném ba lần. Quả còn là một bọc vải tròn
bằng cái bát ăn cơm, có tua. Cô gái được cầm trái còn ném trước, qua
một vòng tròn bằng dây mây uốn treo trên cột (cây dẻ). Các đôi trai gái
được phép ném qua ném lại ba lần, nếu trúng sẽ được thưởng và người
ném trúng đầu tiên bao giờ cũng được phần thưởng cao nhất, còn nếu mà
"nam vất đi không trúng, nữ ném vào không tin" qua ba lần thì các già
trưởng trò sẽ thay ba đôi khác. Trò chơi diễn ra liên tục cho đến khi trưởng trò thấy không còn các đôi cân xứng nữa.
Khác với trò ném còn, trò đu giật cờ là trò chơi không có thưởng.
Vòng đu được kết vào ba cột gỗ (cây dẻ) chôn hình tam giác đều, ngoài
xa các chân cột có hàng rào bằng dây mây uốn hình bán nguyệt ken lại
thành vòng tròn taọ ra một bãi đu có giới hạn. Lá cờ được treo trên đỉnh
chụm của các cột đu. Mỗi lần thi, trưởng trò chọn hai đôi nam hoặc hai
đôi nữ, vòng đu bắt đầu bay với sự cố gắng của các vận động viên cùng
tiếng reo hò của những ai ngoài cuộc, hoặc của bên nam nếu trên vòng đu là nữ hoặc ngược lại. Thời gian và cả không gian cùng bay, có thể nói trò
chơi này mang tính thể thao để rèn luyện sức khoẻ và lòng dũng cảm cho
thanh niên. Trò đu tuy không có thưởng mà vẫn thu hút nhiều bạn trẻ
tham gia thật vui vẻ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
213
Góc bãi này đánh đu, góc kia kéo co, nơi đó thường là bên suối.
Một sợi dây mây dài và to được đưa đến làm vật co. Thanh niên các bản chia thành hai phe, đôi khi có cả người già và thiếu niên, đứng dọc bờ
suối theo cách tính đầu nước - cuối nước. Tiếng trống chiêng vang lên là
hiệu lệnh bắt đầu cho cuộc đua sức, thể hiện sự đồng tâm hiệp lực, bên
nào thắng, mùa màng năm đó sẽ tốt hơn, mọi người sẽ không ốm đau. Có
dịp, cuộc kéo co là sự đua sức giữa nam và nữ, khi nữ thắng, người già
bảo rằng "năm nay bọn gái sẽ khoẻ mạnh hơn đấy".
ở một góc bãi khác, mọi người quây thành một vòng xoè lớn, nhảy
múa liên tục theo điệu nhạc từ ban nhạc bốn người với trống, kèn, chiêng và một cặp chũm chọe. Ai thích "xoè" thì vào vòng, mệt thì ra, người
khác sẽ thay thế ... Hình thức sinh hoạt múa này đậm nét dân dã hơn vào
buổi đêm. Mọi người cho rằng xoè đêm mới là linh hồn của ngày hội.
Khuya, hội xoè được kết thúc trong chia tay đầy lưu luyến của mọi người
và hội "Lồng tồng" - mở đầu lễ hội mùa xuân đã kết thúc với ấn tượng
mạnh mẽ của đêm xoè...". (Lan Phương) 1.
+ ở người Tày Nùng - Việt Bắc:
"Lùng tùng (tiếng Tày: lồng tống = xuống đồng) không chỉ là ngày hội tưng bừng nhất có từ lâu đời mà còn là ngày hội bao hàm ý nghiã văn
hoá tộc người của cư dân Tày, Nùng ở Việt Bắc. Về bản chất, lùng tùng
là hội cầu mùa, được tổ chức như để tổng kết một năm sản xuất đã qua và
chuẩn bị cho công việc năm tới.
Phần lớn hội diễn ra trong tháng giêng âm lịch hàng năm, cá biệt
mới tổ chức vào tháng hai, nhưng cũng ít khi vượt quá hạ tuần.
Buổi sáng tinh mơ từ đình làng đã vang lên tiếng trống, gióng ba hồi một và vào khoảng 7-8 giờ sáng thì kèm theo tiếng chiêng, đan xen
nhau rộn ràng. Đám rước thần và thành hoàng nhịp cùng chiêng trống,
tiến vào đám đất, nơi diễn ra lễ hội (thường là thửa ruộng to nhất, gọi là
nà lồng tống: ruộng xuống đồng).
Ngày hội thường bày cỗ cúng ở ngoài đồng. Theo định lệ, mỗi hộ
mang một mâm cỗ, làm tuỳ theo khả năng, nhưng cũng có nơi quy định
tiêu chuẩn theo số tráng đinh trong hộ. Vì thế, nhiều khi mâm cỗ là bộ
mặt kinh tế của mỗi gia đình và họ thi nhau làm thật thịnh soạn. Nhà nào có nhiều con gái chưa chồng, lại giàu nữa, có khi làm tới 120 món (có cả
đồ chay), gọi là pác nhí vị. Những mâm ấy, món ăn phải xếp thành nhiều
1 Vài nét sinh hoạt xưa của người Tày ở Bắc Hà. Hoàng Liên Sơn. Tạp chí VHNT số
6/1990, tr 32,34.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
214
tầng, nhiều lớp, do hai người khoẻ mạnh khiêng. Khi thắp hương còn
phải dùng lá chuối đậy kỹ. Lúc ông trại cúng xong, đánh trống báo "hạ ban" mới được mở ra để ăn uống. Từ khi cúng đến lúc ăn, chỉ khoảng
hơn tiếng đồng hồ và không quá mười giờ trưa.
Sau đó cuộc vui thực sự bắt đầu. Trong tiếng chiêng trống rộn ràng,
người điều khiển (không nhất thiết là ông trại) tuyên bố và hướng dẫn
cuộc vui. Các trò chơi không phải nơi nào cũng giống nhau và thứ tự sắp
xếp theo tập quán mỗi vùng. Khi chuyển mục, có những bài ca, câu khấn
xin âm dương (dùng hai mảnh gỗ tung lên xem xấp ngửa) và xin thần
phật cho phép. Thực ra, mọi người chỉ chăm chú nghe lời khấn chứ không mấy ai để ý tới việc thần thánh đồng ý hay không. Thông thường
có một số trò chơi:
- Tung còn (tức còn, đỏn còn, tọt còn). Có hai loại, loại tung tự do
nhưng trực tiếp phục vụ nội dung cầu mùa: người ta dựng một cột
(thường là cây mai) cao 20-30 mét, đỉnh cột có vòng tròn dán giấy đỏ
điểm hồng tâm. Lối tung này đòi hỏi sức khoẻ và kỹ thuật. Chàng trai
nào tung còn thủng vòng giấy là được. Năm nào không có ai tung thủng,
làng bản mất vui vì cho rằng sẽ mất mùa, đói kém. Có nơi, sau ngày hội phải tổ chức tung lại cho được mới thôi. Bởi thế trong ngày hội, ai tung
được đầu tiên được coi như ngôi sao sáng trong năm, mọi người thán
phục và lĩnh phần thưởng của làng. Loại thứ hai: tung còn theo từng phe
nhóm, có khi là các đôi, các nhóm trai gái giữa các làng với nhau, tính
được thua bằng số lần ít nhiều để còn rơi xuống đất.
- Kéo co (xẻ thỏi, kẻo tỏi). Trò chơi này được thi theo làng, cũng có
khi theo khối dân cư ở vị trí địa lý đông, tây, nam, bắc. Trước khi thi, bao giờ cũng chia làm hai phe đông - tây, kéo lấy lệ để bên đông thắng liền
ba lần rồi mới thi chính thức. Người ta cho rằng, bên đông thắng là mặt
trời thắng sẽ giúp làm ăn được mùa.
- Múa võ, múa giáo (oóc quyền, oóc pảng). Múa võ có nhiều loại.
Có loại múa trong lễ cúng thánh thần, mang tính chất biểu diễn. Có loại
võ thi sức khoẻ tài nghệ cao thấp, phân được thua và có giải thưởng, như
đấu võ tay không, múa song dao, múa côn hoặc giáo.
- Múa sư tử (Kỳ lân, tủng kỳ lân): Có ở khắp các vùng Tày, nhưng vùng đông Việt Bắc đa dạng hơn. Có hội chỉ có một con sư tử để múa
vui, nhưng nhiều hội thi có hàng chục con tham gia để tranh giải (một
con sư tử có 7-10 người họp thành). Cuộc thi và chấm với nhiều mục: 1)
Tài biểu diễn đẹp mắt. 2) Vượt chướng ngại vật (nhảy qua bàn, qua lưỡi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
215
gươm ...). 3) Đấu vật để so tài sức giữa những người làm đầu trò của mỗi
con. Trong cuộc thi, tiếng chiêng, trống nổi lên náo động cả một vùng.
- Ra quân (tấu quân). Có sáu người cầm cờ đi đầu. Tiếp đến với hai
hàng 40 - 50 thanh niên trai tráng vận lễ phục, mỗi người cầm một cây
côn ngắn khoảng một mét bọc giấy mầu sặc sỡ, đan nhau ngang dọc
trông khoẻ và đẹp.
- Phát đường (phát tàng, tức tàng). Hàng mấy chục thanh niên nam
nữ với lễ phục rực rỡ tay dao, tay cuốc làm những động tác chặt cây, phát
cỏ, cuốc đất theo nhịp chiêng trống cùng bài ngâm rộn rã.
- Đánh quay (tức xáng), đánh cầu (tức yến: tương tự cầu lông, nhưng đánh bằng bàn tay). Cách đánh: theo đôi hay giữa các cặp với
nhau, đánh quay là trò của con trai, còn đánh yến chủ yếu của con gái ..."
(Phương Bằng). 1
+ ở người Tày Bắc Thái:
Chính giữa một bãi rộng, nơi được chọn làm địa điểm để tổ chức
hội, một cây mai dài từ gốc đến ngọn đang được người ta dựng, làm mốc
cho các trai làng thi tài đọ sức ném còn. Trên đỉnh cột, họ uốn ngọn cây
mai thành một vòng tròn, đường kính từ 50 đến 60 cm. Vòng tròn đó được dán kín bằng giấy mỏng màu trắng. Chính giữa vòng tròn, nổi lên
hai chữ "Nhật" "Nguyệt", một mặt tượng trưng cho mặt trăng, mặt kia
tượng trưng cho mặt trời. Mở đầu cuộc vui, chủ bản đứng trước các mâm
cúng đọc một bài mo, cầu mong các bậc thần thánh năm mới hãy ra tay
phù hộ độ trì cho dân làng được làm ăn khang thịnh, nhân dịp năm mới
xin dâng cỗ đến các người. Mâm cúng thể hiện sự khéo tay của các bà,
các chị nàng dâu, con gái. Mâm nào cúng đầy ắp bánh chưng, bánh bỏng, bánh khảo, chè lam, được sắp xếp một cách hài hoà cân xứng. Chính
giữa còn có mâm cao cỗ đầy của các họ khác đã đến khai khẩn lập làng
đầu tiên cùng với chủ bản. Các mâm này được xếp cao đến 4 hoặc 5 tầng
(tiếng Tày gọi là Tạy). Nói là 5 tầng, nhưng chỉ dùng một chiếc mâm gỗ.
Bốn bát đựng đầy các loại bánh dùng làm đế cho một miếng phên đan
thưa đặt lên trên, rồi 4 bát bánh khác lại dùng làm đế cho một miếng
phên khác, cho tới 4 lần phên. Tầng trên cùng bày một cỗ bánh hình hoa
(pẻng bjooc). Bánh này được làm bằng bột gạo giã nhuyễn như bánh dày, cán mỏng và cắt rời thành từng dải nhuộm đủ các màu sắc. Những dải
này được giăng lên 1 cái que cao từ 30 đến 50cm thành hình chóp nón.
Xung quanh cỗ bánh này còn bày nhiều loại bánh khác. Hai đôi quả còn
1 Đôi nét về hội lùng tùng và việc khôi phục nó - T/c Dân tộc học số 1/1990, tr 62-64
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
216
treo ở hai góc mâm. Các quả còn được khâu bằng 4 miếng vải màu túm
lại, bên trong nhồi cát mịn. Cũng có lúc người ta nhồi bằng thóc, bằng hội bông, bằng đỗ xanh...
Chủ làng kết thúc bài mo, mời mọc, dâng lễ các thần xong, đoạn
quay mặt ra phía có cây mai cao vút vừa được dựng lên, tay xách 1 đôi
còn vung vẩy 3 lần, rồi trao cho một thanh niên đứng gần đấy, mở đầu
cho cuộc thi ném còn lấy giải. Số người tham dự thi ném còn không hạn
chế. Miễn sao phải nhớ người chơi với mình, để khi "còn" trúng vào
vòng tròn trên ngọn cây mai kia, thì cả hai đều được thưởng. Chơi còn
phỏng (tên gọi cây mai làm đích để ném còn) chỉ dành cho nam giới, vì nữ không đủ sức để ném lên cao hoặc cũng vì lý do kiêng kỵ nữa ! Sau
cuộc ném còn phỏng đó, trai gái mới được rủ nhau chơi ném còn riêng
cho mình. Đích của quả còn lúc này không phải một cái vòng trên cao,
mà lại là các nàng tiên từ khắp nơi xa gần đến dự hội. Người con trai cố
ném quả còn của mình sao cho chính xác: trúng vào đầu hoặc vào mình
cô gái. Bên gái lại trổ tài bằng cách bắt những quả còn do bên trai ném
tới, sao cho duyên dáng đẹp mắt. Chiều gần tối, họ còn trao cho nhau
nhẫn, vòng bạc và cả tiền nữa. Họ buộc quà tặng vào dây còn để hò hẹn dịp khác gặp lại. Trời về tối, khi các đôi nam nữ không còn nhìn rõ tua
còn, để mà đón bắt nữa, họ tiến lại gần nhau cất lên tiếng lượn truyền
thống. Trong khi đó, giữa sân hội lồng tổng đèn nến được thắp sáng
trưng, hàng chục chiếc chiếu hoa rải ngay ngắn, xôi thịt đầy mâm. Chủ
bản đứng ra mời và chủ trì bữa liên hoan đó. Người đến dự là đại biểu
của các gia đình trong bản. Gạo, thịt do chủ bản sắp đặt theo chế độ luân
phiên đóng góp từ họ này sang họ khác. Về sau (trước năm 1954) cả làng cùng gom góp. Kết thúc ngày hội lồng tổng làng Ninh (gọi tắt là tổng
Ninh) lại chờ đợi đến hội "xuống đồng 3 xã" (tổng slam xạ) được tổ chức
vào ngày 16 tháng 1 âm lịch" (Dương Kim Bội) 1.
1 Trích từ Hội xuống đồng, dân tộc Tày ở Bắc Thái T/c Dân tộc học số 1/1977, tr112-114.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
221
hội đình làng an cố
phạm minh đức – phạm thị nết
- phạm thị lan
Từ thị xã Thái Bình đi Diêm Điền, rẽ lên đê biển, hỏi vào thôn An
Cố, xã Thuỵ An, huyện Thái Thụy, chúng ta sẽ tới đình An Cố- ngôi đình có
kiến trúc đẹp nổi tiếng và cổ xưa nhất của Thái Bình.
Cũng như nhiều đình làng ở Thái Bình: Đình Đông La (Đông Hưng),
đình Hiệp Lực (An Khê), đình Đông Linh (Quỳnh Phụ), đình Tử Các (Thái
Thụy), đình Thượng Liệt Đông Tân (Đông Hưng)... đình An Cố là nơi thờ
thành hoàng làng và là trung tâm của những sinh hoạt văn hoá cộng đồng
làng.
Theo truyền thuyết thì đình An Cố xây dựng cùng thời với đình Cổ
Trai (Hải Phòng), khoảng những năm đầu của thế kỷ XVI.
Theo ngọc phả ở miếu An Cố (Thụy An, Thái Thụy) thì thành hoàng
làng An Cố tên là Phạm Hải. Ông sinh ra trong một gia đình giàu có và rất
trung hậu ở châu Bố Chính (Quảng Bình nay). Cha tên là Phạm Xuyến, mẹ
là Bùi Thị Nguyên. Vốn có lòng thương người nên ông bà thường mang của
nhà chia cho người nghèo. Ông bà chỉ băn khoăn một điều: tuổi đã cao mà
chưa sinh được một mụn con, 3,4 năm sau gia tài đã hết, ông bà thường phải đi nhặt củi, đánh lưới. Một hôm trời quang, trăng sáng, hai ông bà đang đánh
cá ở ngoài biển bỗng có một con cá nhảy vào thuyền rồi bay lên trời. Con cá
toả ánh hào quang xuống bà Nguyên, bà Nguyên về có thai. Sau 12 tháng,
ngày 10-2 bà sinh con trai đặt tên là Hải. Thuở nhỏ Hải rất thông minh; 13
tuổi đã thuộc làu kinh sách Khổng Mạnh, tinh thông võ nghệ, hiểu sâu cả
thiên văn, địa lý... Năm 21 tuổi, bố mẹ Hải lần lượt qua đời. Cũng lúc ấy,
Sơn Nam có dịch lệ, lụt lội, dân phải cầu đảo. Một đêm, nhà vua nằm mơ thấy thần báo mộng cho hay rằng: Phạm Hải có thể giúp nước an dân. Tỉnh
dậy, vua cho gọi Phạm Hải vào triều rồi hỏi han cặn kẽ, chàng đối đáp rành
mạch nên phong cho làm đại nguyên soái, cai quản cả vùng Sơn Nam.
Phạm Hải đi Sơn Nam đạo, Thụy Anh huyện, Thái Ninh phủ, lập đàn
ở cửa biển Bình Lạng (Thuỵ Xuân), lụt lội yên ả, dân ở trang An Cố mang lễ
mời ông về làng mình.
Phạm Hải về trang An Cố, thấy nơi đây phong cảnh hữu tình, ông bèn
cho quân lính xây hành cung để ở. Ông tích cực khuyến nông, trừ dịch hại, xin miễn tô thuế tạp dịch cho dân An Cố. Vua y cho...
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
222
Khi giặc sang xâm lấn nước ta, vâng mệnh vua, ông bài binh bố trận
ở cửa biển, đánh cho quân giặc phải rút chạy về nước. Với công trạng đó, sau khi mất, ông được nhà vua phong : "Nam Hải Đại Vương thượng đẳng
thần", cho làng An Cố lập đền thờ. Bằng việc huyền thoại hoá, người dân đã
thiêng hoá nhân vật phụng thờ. Đằng sau lớp huyền thoại ấy, người dân
muốn khẳng định: Thành hoàng làng là Phạm Hải- người có công lớn trong
việc giúp dân chống lại thiên tai, địch hoạ, trừ dịch bệnh, khuyến khích trồng
lúa nước, trồng dâu nuôi tằm.
Trước năm 1950, Thụy An có hai đình (đình trong đình ngoài) và một
miếu. Hiện giờ làng vẫn còn lưu giữ được đầy đủ đồ thờ, võng lọng, ngọc phả, thần phả... Đình An Cố bây giờ là đình ngoài (đình trong đã bị thực dân
Pháp phá hỏng).
Đình An Cố trông về hướng tây, tiền thân đình thời Lê làm kiểu chữ
đinh. Đến đầu Nguyễn có xây thêm 9 gian tiền tế và hai toà bát giáp, trước
cửu đình xây một tam môn. Năm 1961, tất cả các toà tam môn, bát giáp và
nhà tiền tế đều bị phá. Hiện giờ đình còn giữ lại nguyên sơ phong cách thời
Lê.
Đình dài 26 mét, rộng 10 mét gồm 7 gian, không có móng vì thiết kế theo kiểu vì kèo chồng rường. Toàn bộ sức nặng của ngôi đình dồn vào 44
cột trong đó có 12 cột có đường kính 80 cm; 32 cột nhỏ có đường kính 60
cm. Sự lắp ráp toàn bộ chi tiết liên kết trong đình đều dùng mộng, không
dùng đinh. Bởi vậy, đình trở thành một hệ thống khung vững chắc có thể
nâng lên, đặt xuống, di chuyển đi một nơi nào khác, hoặc có thể tháo dỡ
toàn bộ khung
đình.
Đình An Cố không chỉ là công trình kiến trúc mà còn là một công
trình nghệ thuật trang trí nổi tiếng của Thái Bình, được xếp hạng di tích quốc
gia.
Hằng năm cứ vào ngày sinh (10-2) và ngày mất của thành hoàng làng
(15-11) đình An Cố lại rộn ràng. Nhìn chung, các nghi thức tế lễ, hội hè ở
đình An Cố không có gì khác so với các hội. Số ngày hội không cố định,
năm được mùa hội kéo dài hàng chục ngày, tế lễ linh đình, các trò rôm rả,
năm thất bát hội tổ chức bình thường theo nhị kỳ xuân - thu.
Gần đến ngày hội, làng chọn những chàng trai khoẻ mạnh, thanh lịch
để tham gia vào đám rước. Trước ngày lễ, người dự lễ phải ăn chay, sạch sẽ,
nghiêm túc, sắp xếp theo chức vị theo đúng thứ tự trong lễ rước.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
223
Buổi khai hội ở An Cố là rước vị thành hoàng làng từ miếu ra đình.
Đi đầu đám rước là đoàn nhạc công đánh chiêng trống, kèn, nhạc, đàn hát... Tiếp đó đến 10 chàng trai khôi ngô, mặc áo có thêu chỉ đỏ kèm sợi kim
tuyến, đầu đội mũ bồ nóc, đóng khố tua cơ, vác cờ, biển, giáo mác, súng
ống, khiêng nhang án, long đình, bài vị. Nối sau là đoàn người mặc áo lương
cấp, quần trắng thắt lưng xanh lục bỏ múi cạnh sườn khênh rước song loan,
kiệu võng. Cuối cùng là dân làng An Cố đi chậm rãi. Vào tế: người dự có thể
mặc áo xanh hoặc đen, đầu đội mũ, chân đi hia. Riêng 24 người chầu tế đầu
đội mũ da, chân đi hia, mặc áo giáo tay cầm gươm chỉ xuống đất. ở An Cố,
bình thường kiêng tên huý của thành hoàng làng, nếu người nào vi phạm sẽ bị phạt: rượu 1 hồ và 12 miếng cau trầu, nhưng trong lúc tế thì không kiêng
tên huý.
Trước đây đồ cúng tế đều bổ về 8 giáp trong làng. Mỗi giáp một lễ
gồm: 2 con lợn, 2 mâm xôi, 5 chai rượu. Tế xong, cỗ tế được chia về từng
giáp. Sau này, 8 giáp làm thành một lễ chung gồm: 2 con lợn, 2 mâm xôi, 5
chai rượu. Tế xong 8 giáp cùng thụ lộc.
Tế lễ trong đình vừa kết thúc thì ở ngoài sân đình các trò vui đã diễn
ra thật sôi nổi. Ban ngày có đánh cờ và đấu vật. Giải thưởng cho môn đấu vật thường từ hai đến ba quan tiền, thưởng cho đô nào thắng cuộc, giải thưởng
cho các "đô cờ" bằng các giải lụa điều. Đêm đến, trên sân đình, người xem
đứng chật ních, nhưng không có cảnh chen lấn ồn ào, họ chăm chú theo dõi
những làn điệu chèo, những tích tuồng cổ, cổ vũ động viên người diễn. Dưới
ánh sáng đèn mở ảo, cả người diễn và người xem đã bị cuốn hút bởi lời hát
cùng điệu múa, họ gần như quên hẳn những tháng ngày lao động mệt mỏi...
Hội làng An Cố trong hình mẫu hội làng cụ thể của tổ chức hội hè đình đám xưa kia ở nước ta. Hội được tổ chức với ba phương diện chính:
Những cuộc tế lễ, những cuộc giải trí, những tiệc tùng.
ý thức sùng bái vị thành hoàng thông qua hội tế thần, là biểu hiện ý
thức nghĩ về cội nguồn. Nếp nghĩ "uống nước nhớ nguồn" đã và đang là nếp
sống đẹp và phù hợp với tâm lý của dân tộc Việt Nam./.
P.M.Đ - P.T.N – P.T.L
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
225
Hội đền an dương vương
Võ Hoàng Lan
Không biết từ bao giờ trong dân gian đã lưu truyền câu ca:
"Chết thì bỏ con bỏ cháu
Sống thì không bỏ mồng sáu tháng giêng".
Đó là ngày mở hội đền thờ An Dương Vương ở xã Cổ Loa thuộc
huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Hội mở, sắc xuân tưng bừng bao
phủ lên mọi cảnh vật, thấm đẫm tâm hồn du khách hành hương. Người ta
cảm thấy làn khói hương như dẫn tâm trí con người ngược thời gian trôi theo dòng lịch sử và truyền thuyết mà về một vùng đất cội nguồn.
Đền thờ An Dương Vương, còn gọi là đền Thượng, được xây dựng
trên một gò đất cao kề trong luỹ thành cũ ở góc Tây Nam, thuộc địa phận
xóm Chùa. Mở đầu là ba cây hương đá mang tư cách trục vũ trụ rất đẹp
được làm khoảng đầu thế kỷ XVIII. Từ đó bước nhiều bậc lên thềm cao,
hai bên có đôi rồng đá lớn, một điển hình của nghệ thuật đầu thế kỷ
XVIII, dẫn vào nghi môn. Theo bia ký còn ghi lại thì đền được xây dựng
năm 1687 và sửa lại năm 1893. Đây cũng có thể là niên đại của ngôi nghi môn xây bằng gạch Bát Tràng với lầu thượng cao. Sau nghi môn vào đến
sân lát gạch khá rộng, kẹp hai bên sân là hai dãy nhà tả hữu mạc để khách
thập phương dừng chân sửa soạn trước khi vào lễ. Tiền bái là một ngôi
nhà ba gian to, cao, cột lim đồ sộ, góc mái cong vút, hai đầu hồi liên kết
với hai dãy hành lang, rồi chạy vào nối với điện chính tạo thành một
khung kín ôm lấy một "sân vuông" mà ở giữa là một ngôi nhà trùng diêm
tám mái cao. Người ta như cảm thấy kết cấu ngôi nhà này ít nhiều chịu ảnh hưởng của dịch học. Rằng: cả toà nhà như tượng cho Thái cực, lớp
mái ở trên tượng cho dương, mái dưới tượng cho âm, bốn phía mái như
hiện thân của tứ tượng và tám lá mái cho bát quái. Tất cả hội lại nhằm nói
lên sự nảy sinh và phát triển. Ngôi nhà này có từ bao giờ hiện không rõ,
song trên ô cửa có trang trí mang phong cách nghệ thuật của cuối thế kỷ
XVI đầu thế kỷ XVII. Nơi đây, trên bàn thờ ngoài bát hương có tượng
Rùa bằng gỗ sơn son thếp vàng và một chiếc nỏ có tên, đó là bàn thờ thần
Kim Quy. Hậu cung cũng dựng ba gian có bàn thờ An Dương Vương đặt ở giữa, với pho tượng của Ngài bằng đồng, mặc triều phục, bên đông là
bàn thờ hoàng hậu và bên tây thờ Thái Thượng hoàng. Trên một gò đất
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
226
cao phía tây đền là nhà bia, xưa kia là nơi vua lập miếu thờ thần Nông.
Đây là một nhà bia hai tầng tám mái, có thể coi là đẹp nhất nước ta cả về địa thế và cây cối, kiến trúc và ý nghĩa triết học. Cách cổng đền không xa,
phía trước mặt là một hồ tròn lớn, chính giữa có một cồn đất tròn và ở tâm
xây một giếng nhỏ bằng gạch, tương truyền đó là giếng Ngọc.
Am Bà Chúa ở cách đền không xa, cùng khuôn viên với đình, nơi
đây có cây đa cổ thụ toả bóng mát đã từ lâu lắm rồi. Tiền bái của am là
ngôi nhà nhỏ ba gian, ở giữa là bàn thờ. Qua một cái sân nhỏ là hậu cung
cũng gồm ba gian, gian giữa đặt bàn thờ công chúa, hai bên là 12 nàng
hầu. Vén bức màn sau bàn thờ sẽ thấy một khối đá lớn hình chiếc ngai, thường phủ vải vàng, ba bề khối đá được xây kín, theo lời truyền tụng của
dân gian, đó là tinh linh Mỵ Châu hội vào đó. Trong cụm di tích này còn
có đình Cổ Loa được xây trên đất mà người ta truyền lại từ xa xưa là nơi
vua ngự triều. Đình trông về hướng nam, phía trước có nghi môn (nay đã
bị phá), tiếp theo là một lớp cổng xây có ba cửa, ở giữa là cửa lớn đóng
kín. Hai bên cửa giữa xây trụ gạch có phượng lật, lồng đèn... cửa hai bên
kiểu tò vò đội mái giả, sau lần cửa là sân gạch khá rộng rồi tới đình. Đình
được làm với kết cấu cổ truyền gồm ba gian hai chái lớn. Theo lời truyền thì đình này được di chuyển từ nơi khác tới, với nghệ thuật đầu thế kỷ
XVIII. Nơi đây tập trung nhiều mảng chạm rất đẹp, với đường nét mạnh,
chắc tay, có thể coi như dấu vết nghệ thuật điển hình của đương thời.
Theo Lĩnh Nam chích quái, Thục Phán nối nghiệp các vua Hùng lên
ngôi, xưng là An Dương Vương, nhập hai tộc Âu Lạc và Lạc Việt thành
nước Âu Lạc, định đô ở Cổ Loa. Vua muốn xây thành nhưng mất rất
nhiều công sức, mà thành xây xong lại đổ, vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng 7 tháng 3 có một cụ già từ phương Đông đi tới
trước cửa thành mà than rằng: "Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong
được !". Vua đón vào trong điện hỏi rằng: "Ta đắp thành này đã nhiều lần
băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao ?". Cụ già
đáp: "Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng mới thành công".
Hôm sau, vua ra cửa đông chờ đợi, thấy một con Rùa vàng từ phương
Đông lại, nổi trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là sứ Thanh
Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương quỷ thần. Được sự giúp đỡ của Rùa vàng nên đã trừ được yêu quái, thành xây nửa tháng thì xong. Thành
rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa thành,
còn gọi là Quỷ Long thành. Trước khi trở về biển Đông, Rùa vàng trao
cho nhà vua vuốt thần, vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy gọi là
"Linh Quang Kim Quy thần cơ". Khi Triệu Đà cho quân xâm lược phương
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
227
Nam, vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà thua lớn phải xin hoà. Sau đó, Triệu
Đà xin An Dương Vương cho con trai mình là Trọng Thuỷ được kết hôn cùng công chúa Mỵ Châu, vua vô tình đồng ý và còn cho Trọng Thuỷ ở
rể. Trọng Thủy được Mỵ Châu cho xem trộm nỏ thần, hắn đã ngầm đánh
tráo vuốt Rùa vàng, sau đó mang về phương Bắc cho Triệu Đà. Trước khi
chia tay, Mỵ Châu đã hẹn với chồng: Nếu sau này chẳng may gặp phải
cảnh biệt ly thì Trọng Thuỷ cứ theo dấu lông ngỗng sẽ tìm thấy mình.
Được nỏ thần, Triệu Đà cho quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương
tin tưởng vào nỏ thần nên vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, khi quân Đà tiến
sát vua mới cầm lấy nỏ, nhưng nỏ đã không còn thiêng vì đã bị mất lẫy thần, vua bèn đặt Mỵ Châu ngồi sau ngựa rồi cùng nhau bỏ chạy về
phương Nam. Ra tới biển (đời sau truyền rằng đó là đất Dạ Sơn, xã Cao
Phú, phủ Diễn Châu) thấy không có thuyền vua kêu lên rằng: "Trời hại ta,
sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu ta". Rùa vàng hiện lên nói: "Kẻ
nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó !", vua tuốt kiếm chém Mỵ Châu rồi
theo Rùa vàng xuống biển. Mỵ Châu chết, máu chảy xuống nước, trai sò
ăn phải đều biến thành hạt châu. Quân Đà và Trọng Thuỷ theo dấu lông
ngỗng đuổi tới nơi không thấy gì, chỉ còn lại xác Mỵ Châu. Trọng Thuỷ đưa xác Mỵ Châu về táng ở Loa thành, rồi lao đầu xuống giếng mà chết.
Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông đem về rửa ở nước giếng này
thì ngọc trong sáng hơn.
Xã Cổ Loa gồm ba làng Đông, Đoài, Chùa với 12 xóm: Thượng,
Nhồi, Dõng, Gà, Lan Trì, Chùa, Chợ, Vang, Hương, Mít, Bãi và Trại. Từ
bao đời nay, nhân dân 12 xóm đã cùng nhau trông coi di tích này, cùng
nhau thờ phụng và mở hội hàng năm để tưởng nhớ đến An Dương Vương, đồng thời cũng nhớ đến một thời kỳ lịch sử bi hùng của đất nước. Xưa kia
hội bắt đầu mở từ mồng 6 cho đến hết 18 tháng giêng, theo truyền thuyết
dân gian thì ngày 6 tháng giêng là ngày Thục Phán nhập cung và ngày 9
tháng giêng là ngày ông lên ngôi và mở tiệc khao toàn bộ binh sĩ. Cổ Loa
còn kết chạ với 7 xã khác ở xung quanh cùng thờ An Dương Vương từ
ngày 6 tháng giêng, nên hội đền An Dương Vương đã trở thành hội lớn
trong vùng với sự tham gia rước kiệu của cả 7 xã đó. Tuy nhiên, có những
năm vì bị mất mùa hay vì một lý do nào đó mà làng chỉ mở hội trong 4 hay 6 ngày, thông thường những năm này làng không tổ chức rước, mà
chỉ tế lễ và dâng hương tại đền Thượng.
Việc chuẩn bị cho ngày hội được bắt đầu từ năm trước, theo các cụ
cao tuổi trong làng thì ngày xưa vào giữa tháng Tám, làng đã họp bàn việc
tổ chức mở hội. Làng Cổ Loa khi ấy chia làm 4 góc, mỗi góc sẽ cử 2
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
228
người đàn ông vào ban điều hành của làng, hai người này gọi là lang cai.
Các lang cai phải là những người đàn ông đã có tuổi (ngoài 50 tuổi), có uy tín đối với dân làng, có khả năng tổ chức công việc và đặc biệt là gia đình
phải quang quẻ, thuận hòa, êm ấm ... Cùng với 8 vị lang cai, còn có 2 vị
dịch mục của làng sẽ là những người chịu trách nhiệm chính trong việc tổ
chức lễ hội. Trước hết, những người trong ban tổ chức sẽ quyết định thời
gian mở hội năm đó (6 ngày hay 12 ngày), sẽ chọn quân chần và quân cờ.
Mỗi xóm sẽ cử một số thanh niên nhất định khoẻ mạnh, đẹp trai, gia đình
không bị vướng vào các điều cấm kỵ, để cầm cờ và khênh kiệu, đó là
những quân chần. Quân cờ là những thanh nữ từ 13 đến 16 tuổi, chưa có chồng, xinh đẹp và gia đình cũng không bị vướng vào các điều cấm kỵ.
Khi tham gia đám rước, thanh niên mặc áo gấm thắt khăn đỏ ngang lưng,
thanh nữ mặc áo the, những quần áo này cũng như quần áo của các quan
viên đều do mỗi gia đình tự sắm lấy. Ngày 14 tháng Chạp làng sẽ tổ chức
kiểm tra mọi việc chuẩn bị đến lúc đó đã hoàn tất hay chưa, đó là ngày
nhập tịch. Trong ngày này có thể làng sẽ tổ chức tập duyệt các nghi thức
tế lễ, rước, hoặc bổ sung, thay thế các quân chần hoặc các quan viên vì lý
do nào đó không thể tham gia ngày hội được. Đền thờ, am thờ được quét dọn sạch sẽ, đồ thờ, đồ rước được lau chùi cẩn thận, sửa sang trưng bày.
Ngày 18 tháng chạp là ngày lễ gia quang, tức là ngày rước áo mũ của thần
về đến nơi thần đang ngự.
Chiều ngày 5 tháng giêng cả 8 xã tổ chức dâng hương tại đình làng,
tại đền Thượng các vị chức dịch, quan viên trong làng cũng làm lễ dâng
hương và ôn lại công lao, chiến công của nhà vua. Ngày chính hội (6
tháng giêng) được bắt đầu bằng các cuộc rước và đại tế.
Sáng sớm ngày 6 tháng giêng, một đám rước rất nghiêm trang và
lộng lẫy, rước bản văn từ nhà ông điển văn1 ra đền, dẫn đầu là một viên
chức mặc áo thụng xanh, đầu đội mũ tế cùng với dân làng mang cờ quạt,
long đình. Ra đến đền, ông cai đám ở đền Thượng phải ra nghênh tiếp bản
văn và rước vào đặt ở hương án. Ngoài sân đền, cờ hội, cờ đuôi nheo, lá
cờ đại cắm trên cột cờ lớn giữa sân, phấp phới bay theo làn gió xuân. Sát
hai bên cửa đền là đôi ngựa hồng, ngựa bạch bằng gỗ, to như ngựa thật, có
yên cương hình chim phượng, lại được trang trí bằng các ngù, đai thêu kim tuyến rất sặc sỡ, lộng lẫy. Dọc hai bên dũng đạo là hai hàng lỗ bộ và
bát bửu xếp cân xứng. Lúc này, kiệu của bảy xã kết chạ cũng đã được
rước tới đền Thượng và bày xung quanh sân, cuộc tế lễ bắt đầu. Lễ vật
1 Ông điển văn thường là người có tài văn chương, đỗ đạt cao, được phe tư văn trong làng
tín nhiệm, chọn viết chúc văn tế thần cho ngày hội năm đó.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
229
dâng lên thần gồm có hương, hoa, oản, quả, xôi thịt, và có cỗ bánh dầy, cỗ
bỏng, theo dân gian đó là hai thứ An Dương Vương đã dùng để khao quân. Lễ tế diễn ra đến quá Ngọ (12 giờ trưa) mới xong, và tế ở đây là tế
hội đồng, tức là 7 xã cùng Cổ Loa thay phiên nhau tế. Lẽ ra, Cổ Loa là
chủ nên được tế trước, nhưng người Cổ Loa cho rằng họ không phải là
dân gốc ở đây nên họ mời làng Quậy (Liên Hà) tế trước, vì dân làng Quậy
mới là dân gốc, khi làng Quậy tế xong, Cổ Loa mới cùng các xã khác lần
lượt tế. Các quan viên, kỳ mục làm lễ trước bàn thờ xong, tiếp tới dân
chúng lễ theo. Trong lúc đó, ở nội tự, một số kỳ mục đại diện các xóm cầu
nguyện nhà vua phù hộ cho dân làng được bình yên, thịnh vượng. Sau khi tế lễ xong ở đền Thượng, tất cả các quan viên cùng kỳ mục và dân chúng
cử hành lễ rước thần từ đền sang đình để thần xem hội, đây là đám rước
có quy mô lớn nhất với sự tham gia rước đồng thời của tất cả các kiệu.
Tuy đường rất ngắn chỉ từ đền Thượng đi vòng qua giếng Ngọc ra đến đầu
làng rồi vòng về ngự tại đình Cổ Loa, nhưng đám rước đi chậm. Đến nghi
môn, kiệu của làng nào trở về làng đó, trước khi về đều được nhận lễ ban
phúc, ông chủ tế làng Cổ Loa thắp hương, xóc thẻ rồi cắm cho mỗi kiệu
ba nén hương, hương này đủ cháy cho tới khi kiệu về đến từng xã. Đoàn rước và kiệu của Cổ Loa vào tế một tuần nữa tại đình, kết thúc nghi thức
tế lễ của ngày hội chính. Từ đó cho đến hết hội, tại đình và đền chỉ còn lễ
túc trực và lễ của các phe, giáp, các dòng họ và khách thập phương với
các lễ vật do họ đem tới.
Hội đền An Dương Vương còn có một lễ rước rất đặc sắc là lễ rước
vua giả làng Nhội. Trên núi Sái ở làng Nhội có đền thờ Trấn Vũ, theo
truyền thuyết là vị thần đã giúp vua trừ yêu quái, xây thành Cổ Loa. Thành xây xong, An Dương Vương đã tự mình đến núi Sái để làm lễ tạ
ơn, tại đây nhà vua đã cho xây dựng đền thờ và vào ngày 12 tháng giêng
hàng năm, nhà vua thường cùng văn võ bá quan sang đây tế lễ. Nhưng rồi
việc đi lại của nhà vua và đoàn tuỳ tùng quá cầu kỳ, tốn kém nên An
Dương Vương giao cho dân sở tại cử người thay mặt mình (đóng vua) và
tổ chức tế lễ giống như thật. Về sau người ta diễn lại tích đó. Làng sẽ chọn
một người cao tuổi, có đức độ đóng vai vua hành lễ. Tuy đây là một
phong tục riêng của làng Nhội nhưng nó cũng góp phần làm phong phú thêm các hoạt động của lễ hội Cổ Loa.
Ngày 18 tháng giêng, ngày giã hội, người ta sẽ tổ chức một đại lễ
giã đám tại đền, các nghi thức được tiến hành trong buổi lễ cũng giống
như ở ngày chính hội. Sau khi tế xong, thần vị được rước hoàn cung, dân
làng cùng nhau thụ lộc thánh với hy vọng một năm ấm no, thịnh vượng,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
230
dưới sự bảo trợ của thần linh, đang chờ đợi họ. Ngoài ngày hội chính vào
đầu mùa xuân, trong năm tại đền An Dương Vương còn có một số lễ hội khác, như ngày lễ thánh sinh (11.8 tục truyền là ngày sinh của Thục
Phán), ngày thánh hoá (7.3), lễ "ăn sêu bà Chúa" (13.8 là ngày ăn hỏi của
công chúa Mỵ Châu).
Không chỉ có phần lễ, dân chúng đi hội còn được tham dự vào nhiều
trò vui khác nhau, nhờ vậy, ngày hội không những đem lại cho người ta sự
thoả mãn, yên ổn về mặt tâm linh, mà còn là dịp để những người nông dân
xưa nghỉ ngơi, vui chơi thoải mái trước khi bước vào một chu kỳ lao động
mới, vất vả và nhiều âu lo.
Các trò vui diễn ra ngay tại sân đình và xung quanh các nơi thờ tự
khác, với những trò phổ biến ở tất cả các hội hè trên khắp các làng quê
Bắc Bộ như cờ người, đấu vật, chọi gà, đánh đu, leo dây, tổ tôm, hát chèo,
tuồng ...
Đấu cờ người là một cuộc thi khá thú vị, bởi những người cao cờ
nhất của mỗi làng mới được tham gia và giật được giải cờ là một niềm
vinh dự lớn cho làng. Trước khi vào cuộc, người đấu phải vào lễ Thánh
rồi mới ra đấu. Cứ lần lượt đấu loại nhau, ai giữ được cho đến cuối cùng thì được giải, đó là người phá giải cờ và là người giỏi cờ nhất của hội năm
đó.
Chơi đu là trò chơi thu hút khá nhiều trai thanh gái lịch tham gia.
Trước ngày mở hội, ban tổ chức đã trồng sẵn hai cây đu để các đôi nam
nữ thi tài. Giải thưởng thường chỉ là vài vuông lụa, nhưng những người
được giải vẫn rất sung sướng vì đã có dịp thể hiện tài năng và lòng dũng
cảm của mình.
Trò đấu vật diễn ra ở bãi đất ngoài đình, các chàng trai khỏe mạnh,
nhanh nhẹn của các làng đều có thể tham gia, bởi sới vật là nơi thể hiện
tinh thần tượng võ. Giá trị vật chất của giải thưởng không phải là lớn
nhưng giá trị tinh thần lại rất đáng kể, đây là dịp để các chàng trai phô bày
sức khoẻ và tài nghệ của mình trước dân làng, trước các thôn nữ trong
vùng. Đối với họ, đây cũng là một niềm vui, niềm vinh dự mà hội làng
mang lại.
Chọi gà là một trong những trò vui nổi tiếng ở hội Cổ Loa, vì vùng này cũng là vùng hay tổ chức đấu gà chọi và nuôi gà chọi, nên đến hội
người ta lại đem những cặp gà đã được nuôi nấng, luyện tập công phu để
tranh giải.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
231
Đáo đĩa là một kiểu đánh đáo đặc biệt, có một người làm cái. Người
này đặt một chiếc mẹt, trong mẹt để một cái đĩa nhỏ. Những người chơi đứng cách mẹt khoảng 2 thước, rồi đi những đồng trinh hoặc những đồng
xu vào cái đĩa, nếu trúng một sẽ được ăn năm, những đồng nào bắn ra mẹt
sẽ bị mất cho nhà cái, đồng nào không vào mẹt cũng không vào đĩa người
chơi được đi lại.
Ngoài ra còn không ít trò vui khác như tổ tôm điếm, đánh cờ bỏi...
Tối tại đình làng lại có hát chèo để thờ thần, có năm có cả hát tuồng ... Cứ
như vậy, những trò vui ấy kéo dài suốt từ ngày mở hội cho đến ngày giã
đám, mang lại cho làng quê một không khí náo nức, vui vẻ khác thường./.
V.H.L
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
121 233
Lễ hội đền Ba Xã
vũ đức cường
Đến nay ở Minh Đức, huyện ứng hoà, tỉnh Hà Tây, người dân
vẫn có thói quen gọi con trâu là con nghé; cho dù con trâu đó đã làm
“cha” làm “mẹ”, chân đã bại, răng đã long không thể kéo cầy. Chẳng là theo như lời kể của các bậc cao niên: Xa xưa vùng này là rốn nước đồng
chiêm, nghiệp canh nông cả năm chỉ ở một mùa mà vẫn bấp bênh. Cư
dân đói nghèo xơ xác trên đồng trắng, nước trong. Cho tới khi có người
họ Mạc, tên gọi là Trâu Trắng ra dạy dân khoanh vùng ngăn nước và
trồng các giống lúa thích ứng theo từng mùa vụ. Kết cục là dân được ấm
no, quần cư trở nên phồn thịnh và trù phú. Khi ông qua đời, nhớ công ơn
ấy, nhân dân trong vùng quyên tiền, góp sức lập đền thờ và tôn ông làm
đức thành hoàng và cũng từ đấy người địa phương có thói quen kỵ huý tên gọi: Trâu.
Đền thờ đức thánh Mạc Trâu đặt ở nơi trung tâm của năm thôn:
Thịnh Cầu, Thịnh Bàng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng và Thịnh Hạ. Mặt
đền nhìn về hướng đông, trông ra mặt hồ sen bát ngát. Hai bên tả hữu
đền, bên là chi lưu của dòng sông Nhuệ, bên là đường cái quan uốn khúc
như con rồng, con rắn lượn quanh. Đền có kết cấu mặt bằng theo kiểu
“nội công ngoại quốc”. Từ đường lớn đi vào qua tam quan là con đường
vỉa gạch nghiêng đưa ta đến sân chầu. Hai bên đường, dưới bóng cây cổ thụ, có bày nhiều trâu đá, ngựa đá, voi đá và chó đá trông vừa uy nghiêm
vừa dân dã. Chính diện khang trang chia làm ba lớp, nên thường được
gọi nôm là: tam cung. Trên các vì kèo, chắn gió, đặc biệt là cửa võng
được chạm trổ tinh vi bằng nhiều họa tiết như: tứ linh, hoa lá, cá vượt Vũ
Môn v.v... Nội cung bày bài vị đức thành hoàng và năm bát nhang thờ
của năm làng cùng nhiều đồ tế khí: tàn lọng, bát bửu, xà mâu và kiệu
rước v.v...
Hai bên chính điện, cùng trông ra sân chầu là hai dãy nhà năm
gian, ứng với năm thôn dùng làm nơi tiếp khách và nhận lễ trong mỗi kỳ
lễ hội v.v...
Đền Ba Xã tứ mùa bát tiết hương bay. Song nhộn nhịp tưng bừng
hơn cả là kỳ lễ hội thường niên 12 tháng sáu. Và như đã thành lệ cứ năm
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
121 234
năm một kỳ mở lễ hội to. Để chuẩn bị cho mỗi kỳ lễ hội, người năm thôn
ở Minh Đức nuôi năm con nghé. Trước ngày lễ hội các con nghé được dắt đến thi: Con nào vào giải, được chọn để hôm sau mở hội giết thịt tế
thần và chia đều để năm thôn thụ lộc. Ngày khai hội 12 tháng 6, từ sáng
sớm, làng thôn đã rộn rã, tưng bừng. Người của năm thôn trống giong cờ
mở, kiệu rước đưa thần thánh thờ trong bản hạt thôn mình về đền dự hội.
Sau khi cả năm thôn, anh trước em sau đã tề tựu đông đủ, lễ rước nước
bắt đầu. Vẫn theo thứ tự anh trước em sau, năm đoàn rước ra sông Nhuệ
làm lễ rước nước. Đi đầu mỗi đoàn rước là đội cờ, tiếp sau là đội nhạc,
đội kiệu rước bát nhang hương án, và kiệu rước chum nước. Chum nước được quây quanh bằng vải trắng, miệng phủ vuông vải đỏ... Tới bờ sông
năm thôn, mỗi thôn dùng năm chiếc chải ra giữa giòng sông lấy nước về
làm lễ mộc dục.
Sau lễ mộc dục là lễ tế thần, lần lượt năm thôn làm lễ tế, tiếp sau là
lễ tế của các dòng họ, các gia đình và khách thập phương. Trong khi ở chính
đền long trọng diễn ra lễ tế, ở ngoài hồ ngoài bãi đền, diễn ra nhiều trò chơi
sôi động như múa rồng, múa lân, chọi gà, đấu vật. Sôi nổi và cuốn hút người
xem hơn cả là trò đập bị gạo và túm nước. Người ta treo nhiều bị gạo và túm nước lên một giá treo. Ai đập vào bị gạo thì được thưởng. Ai đập vào
túm nước, túm nước vỡ ra bắn tung toé vào người thế là những tiếng cười rộ
lên theo v.v...
Lễ hội đền Ba Xã đã từ lâu trở thành lệ của năm thôn: Thịnh Cầu,
Thịnh Bằng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng, Thịnh Hạ và dân chúng thập
phương kéo về dự hội rất đông. Để phục vụ cho việc ăn ở của khách thập
phương, nhiều người địa phương quần tụ gần đền, dựng nhà, lập quán, thành một nơi buôn bán sầm uất thời xưa. Chính vì lẽ đó mà ở gần đền
Ba Xã ngày nay, có một địa danh được gọi là: Phố Cống Thần./.
V.Đ.C
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
235
lễ hội đền bà tấm
lê hồng lý
Đền Bà Tấm nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành
Hà Nội, xưa kia thuộc trang Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh
Bắc Ninh. Dương Xá gồm ba thôn là Dương Đình, Dương Đá và Dương
Đanh (tam Dương), xa nữa là ba ngõ trong một làng, đền Bà Tấm nằm trên
đất của thôn Dương Đá. Trước đây riêng Dương Xá là một xã, nhưng nay
hợp với Thuận Quang và Yên Bình thành xã Dương Xá mới.
Trong hậu cung đền có tượng bà Tấm (Nguyên Phi ỷ Lan) và sáu tượng nữ khác gọi là lục bộ. Gian ngoài có đặt một số đồ thờ và chiếc
ngai, trên ngai có bài vị ghi "Lý triều đệ tam hoàng thái hậu" và một vài
bia ký ở hai gian bên cạnh. Đặc biệt có bộ khám long đình rất đẹp mang
niên đại thời Mạc.
Hàng năm ngày tiệc lệ chính là 19-2 âm lịch - ngày hội lớn là 25-7,
tương truyền là ngày giỗ bà. Ngoài ra vào các dịp xuân thu, những ngày
sóc vọng đều có lễ trong đền.
Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang tổ chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xã suốt từ
Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm (Hải Hưng) và những làng cấy ruộng hậu
của đền. Trong đền còn giữ được tấm bia ghi rõ tên các làng cấy ruộng
hậu của đền với số lượng cụ thể. Do hội khá lớn, nên thường phải năm
năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng, theo trí nhớ của dân làng, được
tổ chức vào năm 1939, nhiều người còn nhớ cả tên người được giải cờ
người năm đó là ông Trần Nhật Tân.
Trước đây chính hội là từ 19 đến 22 tháng 2 âm lịch, nhưng thực
chất người ta đã rục rịch từ ngày 16 và đến tận 25 tháng 2 mới hết hội.
Ngay từ tiệc đầu xuân dân làng đã tụ hội tại đền để chuẩn bị hội xuân tế lễ
cẩn cáo với Bà, mong phù hộ cho làng. Dân làng chọn cử các tiên chỉ, tổng
cờ, ban tế cùng các việc khác cho ngày hội. Ngày 19-2 âm lịch tương
truyền là ngày sinh của bà Tấm.
Ngày hội được mở đầu bằng một đám rước long trọng - rước nước.
Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
236
là Tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó là long đình rước
bà ỷ Lan (bài vị), có những người phục dịch theo kiệu. Đường đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên Sủi. Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng lấy
nước. Các cụ già còn nhớ trước kia trong đền có một chiếc chóe bằng sứ
Nhật Bản rất cao và to, nhưng nay đã bị mất. Ngoài ra là kiệu của các thôn
thuộc Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền. Do vậy mà đám
rước rất lớn và dài, bởi vì ruộng đất lộc của bà trải rộng tới tận Nghĩa Trai,
Bình Trù, Liên Mỹ... Bà cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do qui mô
của đám rước dài và lớn như vậy nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng
hồ mới rước được nước về tới đền.
Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, thì từ các thôn cũng tiến hành
rước lễ vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên
vị, cuộc tế lễ bắt đầu. Các bô lão năm thôn được cử vào ban tế tiến hành
kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt. Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là
trầu, rượu. Từ thượng cổ năm nào cũng vậy có chăng thêm thì chỉ có bánh
gai, bánh mật mà thôi.
Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải
dùng nước ở giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đình, gánh về nhà trước đó ba bốn ngày để thật trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy
mới đảm bảo độ tinh khiết. Sau khi đã xem, xét lễ vật một cách kỹ lưỡng,
cuộc tế lễ bắt đầu.
Trong "Lý triều đệ tam hoàng đế" bản chữ Hán còn chép rõ bản văn
tế Hoàng thái hậu về mùa xuân ở đền. Chúng tôi xin ghi lại ở đây làm cứ
liệu tham khảo:
"Rằng: Năm nay là... tháng ... ngày mồng một.
Tỉnh-phủ-huyện-tổng-xã, toàn dân kính dâng lễ vật mong được chiếu
cố.
Triều Lý, Hoàng đế thứ ba, ỷ Lan linh ứng, dung mạo thơm tho, đức
hạnh đoan trang, trí hòa hiền hậu, trinh tiết phép lành, lừng danh nhân
hậu... giúp nước đầy phúc, nghĩa đẹp, một mực hiền hòa đôn hậu, dẹp hết
nạn, yêu nước; đoan trang điềm lành, cứu đời yên dân, giúp nước bảo vệ
sự nghiệp, gây dựng cơ đồ, vun trồng nền ơn, ban phúc, phát của... đức lớn
lừng danh, hành vi tao nhã, giữ nề nếp, yên dân giữ nước, lòng nhân đức mở rộng kéo dài không nghỉ.
Rất linh Hoàng thái hậu ngôi trên, rằng có lễ tế trong mùa xuân.
Kính mong Hoàng thái hậu xét đến chỗ tối tăm. Đoan trang thuần túy
công ơn ấy ghi lại ức năm, muốn kỷ. Nay gặp thời lành, tế mùa xuân, lễ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
237
mọn, tình thâm, kính cẩn, xin được chiếu cố, ban phúc, giúp nước thịnh
vượng, giúp cứu vớt dân cư ấm no.
Xin tâu trình"
Chắc chắn văn tế này được làm về sau, và tới nay không rõ vào ngày
hội nội dung bài tế có giống như trên không, song ít nhất đó cũng là cứ
liệu để thấy được niềm mong ước cầu xin của dân làng đối với Bà.
Sau cuộc lễ chính thức của các cụ trong hội đồng, ra vào không ngớt
là các cuộc dâng lễ của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên
kéo dài cho đến khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc
vui ngoài sân và khu vực xung quanh. Tương truyền sau khi tế lễ xong ngày hôm đó cũng như buổi hôm sau, lễ vật được chia ra làm đôi, riêng
Dương Đá (là nơi sinh ra Bà) được một nửa, nửa kia mới được chia cho
các thôn còn lại trong xã. Riêng ông chủ tế được biếu 60 phẩm oản và 60
quả chuối.
Những cụ già được chúng tôi hỏi đều khẳng định hội xưa không có
chi tiết về kiệu và võng lọng của ông bán dầu trong đám rước ngày hội
(người mà theo truyền thuyết đã báo trước cho ỷ Lan biết sẽ trở thành
hoàng hậu). Tuy nhiên theo Bắc Ninh dư địa chí của Đỗ Trọng Vĩ, (mục cổ tích) khi nói về miếu Lý Thái hậu lại nhắc đến chi tiết này như sau:
"Người con gái làng Dương Xá hái dâu trong nương. Có một ông lão
bán dầu trông thấy trên đầu cô có đám mây tía liền đến bảo cô ta đi gặp
vua. Người con gái từ chối nói: "Mẹ tôi sai tôi đi hái dâu chứ không sai đi
xem vua". Ông lão nài thêm, nói "sau này nếu quả cô được quí hiển thì cho
tôi võng lọng đi trước". Đến lúc đó, cô ta mới chịu nghe theo ông lão đến
chỗ vua ngự... Lý Nhân Tôn lên ngôi, tôn làm hoàng thái hậu. Nhớ lời ông bán dầu, mỗi khi ngự giá lại cho võng lọng (của ông - LHL) đi trước. Nên
về sau, dân vẫn giữ lệ cũ. Hàng năm ngày nhập tịch mở hội, vẫn rước một
cái kiệu đỏ để không và một đôi lọng xanh đi trước kiệu thần, không dám
thay đổi".
Ngày 20 tháng 2 hội cũng bắt đầu bằng những cuộc rước. Song lần
này là rước Thành hoàng và lễ vật của các thôn thuộc Dương Xá và
những nơi ăn lộc ruộng của đền bái vọng và dâng lễ. Trừ kiệu của bốn
thôn thuộc Dương Xá và Thuận Quang được vào trong đền, còn tất cả các kiệu của những làng khác đều phải đứng bên ngoài cổng đền (chỗ đường 5
bây giờ) bái vọng vào. Lễ vật được chuyển vào trong đền.
Tại sân đền còn có tục phất cờ tổng, truyền rằng nhất là vào những
năm trời âm u, múa cờ là để xua tan mây ám cho trời quang mây tạnh.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
238
Thuận Quang là làng được quyền lựa chọn tổng cờ cho hội hàng năm.
Tổng cờ cũng được lựa chọn cẩn thận, là người không tang chế, đẹp người, khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Ngoài ra còn có hai thủ hiệu trống và
chiêng. Cả thủ hiệu cờ và thủ hiệu trống, chiêng đều mặc đẹp và phải tập
luyện từ trước. Các động tác và điệu múa của họ cũng giống như hiệu cờ,
hiệu trống và hiệu chiêng ở hội Dóng. Hiệu cờ cũng quì, nhảy, múa ba lần
như ba ván ở hội Dóng. Lá cờ cũng dài như ở hội Dóng, nhưng tổng cờ
phải tập luyện cẩn thận, thuần thục, tránh để cờ lùng nhùng mà cuốn vào
cán, như vậy sẽ bị phạt vạ rất nặng và có lỗi với Thánh. Do đó mà các tổng
cờ luôn luôn phải chú ý trong khi luyện tập.
Tại bãi Xây ở trong đền, ngày trước rất rộng và cây cối um tùm, mát
mẻ, là nơi diễn ra cuộc đấu cờ người. Người đẹp nhất được chọn làm
tướng. Mỗi quân cờ đều có một chiếc ghế đầu để ngồi. Riêng tướng cờ
được che thêm một chiếc lọng. Người chơi đánh nước nào thì người đóng
vai quân cờ chuyển chỗ theo nước đánh. Cứ như vậy ván cờ diễn ra căng
thẳng với sự đấu trí của người chơi, nhưng lại hấp dẫn người xem không
chỉ vì các nước cờ tài ba mà còn bởi các màu sắc và sự thanh tú của các
nam nữ đóng quân cờ. Cuộc đánh cờ phân thắng bại cho các địch thủ kéo dài cho tới hết hội. Đến cuối hội người ta mới xác định rõ người thắng và
trao giải cho người nhất cuộc.
Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa
đền, suốt từ 19-2 đến hết hội. Thường thường các phường hát đến xin, địa
phương tín nhiệm phường nào thì cho phép họ tới hát giữ cửa đền cho đến
khi rã đám mới thanh toán tiền cho họ. Ngoài ra các phường chèo, tuồng
khác cũng đến góp vui cho hội thêm sôi nổi.
Trong hội còn có các trò chơi khác như tổ tôm điếm, đấu vật, chọi
gà, đốt pháo và thời Pháp thuộc có cả hát cô đầu...
Cứ như vậy lễ hội đền bà Tấm kéo dài cho đến hết ngày 21 tháng 2
âm lịch. Ngày 22 tháng 2 là ngày tế rã đám và kết thúc hội. Cũng vào ngày
đó các giải vật, giải cờ mới phân ngôi nhất nhì và làm lễ trao giải.
Qua khảo sát lễ hội ở Dương Xá và những làng có liên quan ta thấy
một số điểm sau:
1. Trong các làng thờ Nguyên Phi ỷ Lan thì hội ở Dương Xá có qui mô lớn nhất. Hội có rước nước từ trên Sủi (Phú Thị) với đám rước lớn
gồm cả tổng Dương Quang xưa và các làng ăn lộc đền Bà Tấm. Nếu như ở
Như Quỳnh (Hải Hưng) hay chùa Dạm (Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh),
Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội) nhất mực mọi người đều cho chỉ thờ Nguyên
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
239
Phi ỷ Lan, thì tại Dương Xá, bà Tấm và Nguyên Phi chỉ là một và có một
quá trình lịch sử dài từ một hình tượng cô Tấm lam lũ và thông minh đến vị nguyên phi tài ba, tháo vát. Chỉ có Dương Xá kiêng chữ Tấm gọi là bổi,
cám gọi là đớn.
2. Vào dịp hội, cả Dương Xá, Như Quỳnh và Phú Thị đều rước giao
hiếu và cả ba nơi đều trân trọng yêu quí thần tượng Mẫu nghi thiên hạ của
mình. Cũng dễ nhận ra điều đó vì Thổ Lỗi trang xưa bao gồm đất đai suốt
từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm, Văn Giang, Hải Hưng ngày nay. Cả ba
làng trên đều thuộc trang Thổ Lỗi ấy. Do vậy không lấy làm lạ khi xuất
hiện tâm thức kính trọng, cả ba làng đều coi Nguyên Phi ỷ Lan là người của quê mình.
3. Ghép các chi tiết hội ở cả ba làng ta sẽ có được một lễ hội trọn vẹn
với nội dung là toàn bộ truyền thuyết và sự thực lịch sử về Nguyên Phi ỷ
Lan. Đó là các tục lệ, nghi thức liên quan đến cô Tấm ở đền Bà Tấm. Chi
tiết ông bán dầu ở hội làng Ghênh (Như Quỳnh) nhắc đến đoạn cô Tấm
dựa bên khóm lan khi đi hái dâu và gặp vua để thành hoàng hậu sau này.
Tục bông sòng ở hội làng Phú Thị (Sủi) nhằm kể lại sự tích đầu thai của
vua Lý Nhân Tông và cuối cùng là những nghi thức và lễ vật của ngày hội nói lên quãng đời cuối cùng của Nguyên Phi chuyên tâm vào việc xây
dựng chùa chiền, chuyên tâm làm điều thiện, tu nhân tích đức nơi cửa
Phật. Toàn bộ lịch sử của một nhân vật được biểu tượng hóa trong các
nghi thức, tục lệ ở lễ hội của cả ba làng. Do vậy việc tổ chức tốt lễ hội ở
đây sẽ phát huy được tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các địa
phương như truyền thống tốt đẹp của các làng mạc Việt Nam vốn đã có từ
xa xưa.
4. Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ
hội lớn. Khu vực đền đã được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn. Ngày hội
được sự tổ chức khá chu đáo của chính quyền địa phương và nhân dân
trong xã. Nhiều trò vui dân gian được khôi phục lại như tổ tôm điếm, chọi
gà... Một số sinh hoạt mới được tổ chức... Trong một khu vực đền hơn hai
hécta, các trò chơi được bố trí hợp lý cho nên đã thu hút người xem rất
đông. Dương Xá lại là nơi gần thủ đô, nằm cạnh đường quốc lộ số 5, do đó
khách trẩy hội cũng rất tiện lợi. Vì vậy khách đến hội mỗi năm một đông thêm./.
L.H.L
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
241
Hội thả diều Bá Giang
Minh Nhương
Làng Bá Giang, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng có một ngôi
miếu cổ, thờ ông Nguyễn Cả. Hàng năm làng mở hội vào tháng ba âm
lịch thường có rước bánh dày, thổi cơm thi, thả diều thi... Hội thi thả diều
đông vui và hào hứng nhất. Theo thần phả và những câu chuyện truyền
miệng trong dân gian: Ngày xưa, trong làng có nhà hào trưởng, sinh
được cô gái xinh đẹp, nết na. Năm 18 tuổi mới đặt tên là Thị Trâm. Khi
đó ở đầu làng có một gò đất cao ráo, bằng phẳng. Giữa gò có một hòn đá xanh nhẵn nhụi. Xung quanh cây cối um tùm, cỏ hoa tươi tốt. Các loài
chim muông thường đến tụ tập ríu rít gọi bầy. Một hôm cô Trâm đi hái
củi về qua đó, nhân trời nóng bức bèn ngồi lên phiến đá để hóng mát.
Bỗng có một con khỉ từ trên cây chợt nhảy xuống ôm lấy cô... Cô Trâm
bàng hoàng ngất đi. ít phút sau con khỉ bỏ đi, cô Trâm dần dần tỉnh dậy
vội vã mang củi về nhà 1 . Từ đó, cô thấy trong người có cảm giác lạ rồi
mang thai. Đến ngày 16 tháng 2 năm Bính Thân, trời đất bỗng chuyển
động, mây mù kéo đến tối mịt cả một vùng. Cô Trâm trở dạ sinh ra một người con trai có dáng hình kỳ lạ. Khuôn mặt như võ tướng, tay dài quá
đầu gối. Một vết chàm đỏ ở lòng bàn chân như hình con dấu. Cô đặt tên
con là Kỳ. Người trong vùng gọi là Cả (ông lớn); năm 12 tuổi đã nổi
tiếng thông minh học giỏi. Văn chương quảng bác, võ nghệ cũng tinh
thông, trong vùng không ai sánh kịp. Trong thời gian ấy, thỉnh thoảng
con khỉ ra vào nhà. Mùa lúa chín, khỉ lại mang thóc lúa về cho cô Trâm
nuôi nấng con khôn lớn. Năm 20 tuổi, uy danh của Nguyễn Cả lừng lẫy khắp nơi. Ông lập doanh trại ở giữa ấp để làm nơi tụ tập anh tài. Đối với
dân, ông lại khoan nhân đức độ, luôn lấy điều nhân nghĩa để phủ dụ lòng
người. Ông được muôn dân hướng phục. Anh hùng hào kiệt kéo đến phù
trợ cho ông. Một lần bọn gian loạn của triều đình đến đánh úp ông (ví dụ
ông không được), giữa vòng vây bốn mặt, ông dùng một chiếc quần đen,
lấy cát đựng đầy hai ống quần rồi túm lại. Ông cầm quần đựng cát xông
thẳng vào đám giặc, tung cát bay mù mịt, làm cho chúng phải bưng mắt
chạy toán loạn.
1 Do truyền thuyết trên mà làng này không có tục "bắt vạ" những "phụ nữ không chồng mà
chửa".
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
242
Lúc này vua Đinh Tiên Hoàng mở vận nước, dẹp 12 sứ quân. Nghe
tiếng ông giữ quyền bính một vùng, vua bèn sai ông Đinh Điền đến vời ông. Đêm ấy, ông nằm mơ thấy một cụ già râu tóc bạc, tươi cười vào
dinh đọc bốn câu rằng :
Ngày mai "người ruộng" đến chơi nhà
Vua Đinh thống nhất lại sơn hà.
Vua tôi gặp gỡ ngàn năm nghiệp
Trời đất định nên thế đó mà !
rồi biến mất. Tỉnh dậy thì trời đã sáng, ngoài sân, binh mã đã kéo đến ầm
ầm. Một người nói to: Tôi là Đinh Điền, bầy tôi của Đinh Tiên Hoàng, vâng lệnh nhà vua đến đón tướng quân về giúp nhà Đinh dựng nghiệp
lớn ! Ông bèn nhận lời, mở tiệc khao quân, thưởng dân và đem theo năm
trăm quân sĩ về Hoa Lư yết kiến Đinh Tiên Hoàng. Vua Đinh cả mừng
phong ông làm Phó súy tướng quân. Lập đàn tràng cáo tế trời đất, cho cả
hai mặt quân thuỷ bộ cùng tiến đánh thành sở của các sứ quân, thu giang
sơn về một mối.
Đinh Tiên Hoàng lên ngôi hoàng đế, mở tiệc lớn ăn mừng và
phong thưởng cho các công thần. Ông Nguyễn Cả được phong là Tổng súy thượng tế đại tướng quân. Thưởng cho xã Bá Giang là quí ấp sở tại.
Nhờ vậy mà họ hàng được quí hiển, làng xóm được vinh quang.
Ông làm quan trong triều chẳng được bao lâu thì triều đình suy
thoái, bọn gian thần gây nhiều cảnh làm oán hận lòng dân. Nhiều lần
Nguyễn Cả đã khuyên can, nhưng nhà vua không nghe. Cuối cùng ông
viết tờ sớ nói rõ mọi điều lợi hại và nêu cụ thể về những việc nên tránh
hoặc những việc nên làm dâng lên, những vẫn không được vua chấp nhận. Ông Cả bèn cáo ấn từ quan về hương ấp. Ông dạy dân làm ăn, vui
vầy cùng cảnh điền viên thôn dã. Lúc rảnh rỗi bày trò vui, chơi diều cùng
đám trẻ mục đồng. Rồi một hôm, trên gò đất năm xưa, ông lại thấy Hầu
Công (con khỉ) ngồi trên giữa hòn đá đó. Ông kính cẩn cúi đầu làm lễ.
Đột nhiên hiện ra một làn mây trắng từ từ nâng bổng hòn đá bay lên. Làn
mây bao bọc xung quanh biến thành mây ngũ sắc. Lại thấy cụ già đọc
bốn câu thơ :
"Giáng sinh trần thế tại gò này
Nay lại về trời tựa áng mây
Tìnhnghĩa cha con, cha xuống đón
Anh hùng sinh hoá thảy đều hay".
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
243
Tiếng thơ vừa dứt thì sấm chớp ầm ầm, gió mưa mù mịt. Ông Cả
cũng hóa theo, hôm ấy là ngày 12 tháng 8. Lát sau, trời tạnh mây quang. Người trong vùng đổ ra phía gò, vô cùng nuối tiếc. Ai nấy đều hướng lên
trời như ngắm chiếc diều bay. Tưởng nhớ công ơn ông Cả, người dân lập
miếu thờ ngay trên gò đất ấy. Triều đình phong sắc với những mỹ tự.
Hiện nay trong miếu còn đôi câu đối :
"Sinh tiền tích trứ Đinh triều soái
Hóa hậu linh chiêu Bá ấp thần".
nghĩa là :
"Khi sống triều Đinh lừng tướng giỏi
Hóa rồi ấp Bá rạng thần thiêng".
Hội thi thả diều ở Bá Giang cũng được mở ra từ đất. Ngay từ
tháng 8, trong làng đã rục rịch làm diều. Người chọn tre, mua giấy, người
khoét sáo, vót dây... Công việc rất công phu, tỉ mỉ. Dây diều xưa làm
bằng tre đủ tuổi, vót đều nối dài rồi cuộn lại ngâm vào nước quả cây cúc
hột và muối. Cho vào nồi ba mươi đun một đêm, dây vừa mềm lại vừa
dai. Sáo diều cũng dùng nan tre đan thành ống, đun sơn gắn với miệng
sáo làm bằng gỗ vàng tâm. Tiếng sáo vừa thanh lại vừa ấm. Giấy dán diều lớn là loại giấy xi măng, diều nhỏ bồi bằng giấy bản. Ngày nay dây
diều được thay bằng dây ni lông, nhẹ diều càng dễ bay lên.
Ngày rằm tháng ba âm lịch, làng Bá Giang vào hội. Sau phần tế
lễ, rước bánh dày tưởng nhớ thần nhân, hội thi thả diều mở ra. Mỗi năm,
làng cử người khéo tay làm một chiếc diều to làm biểu tượng. Diều dài
5m, rộng 1m50 dán giấy hồng điều, có đề bài thơ :
Gió hát trăng thanh hồn non nước
Sải cánh diều bay nhạc sáo ngân
Khí thiêng tướng Cả lưu truyền thống,
Anh hùng rạng rỡ sáng lòng dân
Địa điểm thi thả diều là khu vực trước cửa miếu thờ ông Nguyễn
Cả đến đền Châu Trần thờ thần bản thổ. Cửa miếu nhìn ra một cánh đồng
thoáng rộng, bên con đê sông Hồng ôm ấp lấy xóm làng. Một dải hồ
trong xanh in bóng nước. Mở đầu là lễ trình diều, tất cả những người dự
thi đều mang diều đến lễ trình trước cửa miếu. Hàng năm, thường có từ 30 đến 60 diều dự thi. Diều to dài 3m, diều nhỏ dài 1m. Người thi đa số ở
trong làng, có thêm người ở Hạ Mỗ, Tân Hội, Liên Trung... cũng mang
diều đến dự. Buổi chiều quê, khi gió nồm nam lộng thổi, cánh đồng lúa
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
244
đang thì con gái xao động rì rào. Trước cửa miếu Bá Giang, mấy chục
cánh diều nối tiếp bay lên, bầu trời xanh vi vu tiếng sáo... Đứng trên bờ đê, trong làng xóm, ngoài đồng ruộng, ở đâu cũng xem được diều bay.
Thỉnh thoảng lại có diều đứt dây bay mất ra phía sông. Có diều chao đảo
rồi rơi xuống nước. Lại có những diều đan chéo dây quấn vào nhau, cả
hai đều rơi,... gây thành những cuộc reo hò huyên náo và những chuỗi
cười sảng khoái của người xem. Lũ trẻ trong làng rủ nhau thả diều con
theo hội. Thế là có hàng chục, hàng trăm diều nhỏ dán đuôi bay khắp hội,
tạo thành mấy tầng diều cao thấp bay chấp chới trong gió xuân. Nghe
đâu đây ngân nga tiếng "chuông Bồng, cồng Bá". Hòa cùng tiếng sáo, tiếng vằng của hội diều. Cảnh sắc làng quê biết bao ngoạn mục.
Cuộc thi thả diều diễn ra một hoặc hai giờ do ban tổ chức qui định,
còn phụ thuộc vào sức gió của thiên nhiên. Những diều do đứt dây hoặc
đảo, tự loại khỏi cuộc thi. Số lượng diều bay giảm dần theo thời gian của
cuộc thi. Thường khi vào chung kết chỉ còn lại trên hoặc dưới 10 diều dự
chấm giải. Ban tổ chức thường trực ở đền Châu Trần. Người có diều dự
chấm lùa dây buộc vào hàng cột trước cửa đền. Sao cho diều ở trên cao
ứng với nóc miếu thờ ông Nguyễn Cả.
Giải thưởng của hội diều là cờ và tặng phẩm, xếp theo thứ tự nhất,
nhì, ba với tiêu chuẩn: Diều bay cao, không đảo và có tiếng sáo hay.
Người được nhận giải lần lượt vào tạ lễ thần và hội thi kết thúc, những
cánh diều vẫn tiếp tục bay, tiếng sáo vẫn ngân nga để "hầu thánh" cho
đến tận đêm khuya.
Trong ánh trăng thanh, dân làng Bá cứ nghe tiếng sáo véo von cũng
phân biệt được diều ấy là của ai thả. Mấy năm gần đây, diều chiếm giải nhất là của các cụ Thìn Ngọ (1992), Hồng Nhâm (1993) và Nguyễn Văn
Bồi (1994) đều ở làng Bá Giang. Ngày hội văn hóa huyện Đan Phượng
lần thứ nhất, xã Hồng Hà cử 10 người mang diều lên huyện dự liên hoan,
được người xem hoan nghênh. Ngày nay, miếu Bá Giang đã được nhà
nước xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa. Người dân ở đây quan niệm
rằng, cứ năm nào hội diều mãn nguyện thì năm ấy dân làng được "hòa
cốc phong đăng". Di tích và hội diều đều được gìn giữ và kế thừa./.
M.N.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
246
hội Bạch Hạc toan ánh
*
Làng Bạch Hạc, (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) hàng năm mở hai kỳ
hội Xuân, kỳ đầu từ mồng 3 đến hết mồng 5 tháng giêng, kỳ sau từ mồng
10 đến 13 tháng ba.
Bạch Hạc chính là Phong Châu, kinh đô nước Văn Lang đời Hùng Vương.
Hùng Vương đô ở Châu Phong
ấy nơi Bạch Hạc, hợp dòng Thao Giang.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ bản chương cũng liền.
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Bạch Hạc nằm bên tả ngạn sông Lô, theo danh từ địa phương còn gọi là sông Thao, trông sang thành phố Việt Trì. Muốn tới Bạch Hạc, du
khách hoặc dùng xe lửa, đường Hà Nội đi Lào Cai, đến ga Bạch Hạc,
cách Hà Nội chừng bảy chục cây số, xe lửa sẽ ngừng nơi đây trước khi đi
qua cầu sông Lô để sang Việt Trì, hoặc du khách có thể đi theo đường
bộ, quốc lộ số 2 đường Hà Nội đi Tuyên Quang, Hà Giang, thẳng tới
Bạch Hạc, quốc lộ số 2 cũng đi qua cầu Việt Trì trên sông Lô như đường
sắt.
đình làng Bạch Hạc trông thẳng ra sông Lô, trên một khu đất cao vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh. Nơi đây thờ Thổ Lệnh đại vương, một
vị thiên tướng đã xuất hiện xuống đất Phong Châu vào đời nhà Đường.
Thần tích ghi rằng về đời Đường khi Lý Thường Minh làm Thứ
sử Giao Châu, một hôm nhàn du đến đây ngắm phong cảnh, nằm mộng
thấy từ trên trời bay xuống hai thiên tướng.
Hai thiên tướng này là hai anh em ruột. Lý Thường Minh mời hai
vị thi tài, ai hơn sẽ ở lại hưởng hương khói của dân làng Bạch Hạc. Đức Thổ lệnh đại vương là anh, bước một bước qua sông và một bước nữa
thì lui về chỗ cũ. Ngài bước mạnh đến nỗi in hằn vết chân lên một tảng
đá, nơi đây khi hàng năm trong kỳ hội tháng ba có cuộc đua thuyền,
thuyền bắt đầu khởi hành.
* Có bổ sung tư liệu của một số tác giả khác.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
247
Theo lời dân chúng, ở bên kia sông cũng có một vết chân như
vậy, nhưng vì lâu năm bị đất phù sa che lấp đi. Tảng đá về mé sông Bạch Hạc, dân làng còn ghi được và cất giữ ở đình làng. Vết chân dài một
thước, rộng năm tấc.
Em đức Thổ lệnh đại vương là đức Thạch Khanh đại vương được
dân làng Thọ Sơn, huyện Hạc Trì tỉnh Phú Thọ thờ phụng.
Do sự liên hệ huynh đệ giữa hai vị thần linh, dân hai làng Bạch
Hạc và Thọ Sơn có tục giao hiếu với nhau trong những kỳ tế lễ hội hè
của hai làng.
Hội Bạch Hạc với hai kỳ tháng giêng và tháng ba mỗi năm, nhiều cổ tục được nhắc lại, nhưng đáng chú ý nhất, ở đây có cuộc thi thuyền
trên sông Lô và tục cướp cầu. Còn những tục khác như chơi cờ bỏi, tế lễ
thì cũng không khác gì ở những ngày hội Xuân, hội Thu khác miền Bắc.
Tục cướp cầu diễn ra trong thời kỳ hội mồng ba tháng giêng. Đây
là một thú vui đặc biệt của dân làng và hàng năm, trong ngày hội, dân
chúng các xã lân cận đã kéo nhau tới đây rất đông để xem và đôi khi
cũng tham dự cuộc cướp cầu.
Mỗi năm dân làng cử một người may bộ cầu để tung cho dân làng cướp trong dịp hội. Được cử may bộ cầu là một điều vinh dự trong dân
xã, thường là hương chức trong làng. Bộ cầu gồm một quả cầu mẹ và
tám quả cầu con. Mỗi quả cầu gồm một nắm bông bọc trong vải ngũ sắc
có thêu chỉ mầu sặc sỡ. Một sợi chỉ được đính vào quả cầu, một đầu chỉ
buộc vào một ngành tre. Mỗi quả cầu đều có dải buông thõng, dải hoặc
khâu bằng lụa màu, hoặc kết bằng chỉ sặc sỡ.
Sáng ngày mồng ba Tết, dân làng tới nhà vị Hương chức được chỉ định may cầu để rước bộ cầu ra đình. Đám rước long trọng có cụ Tiên
chỉ trong làng cầm hương, các nam nữ thanh niên đi theo, có phường bát
âm cử nhạc điểm theo tiếng chiêng trống rất oai nghiêm. Chín mẹ con
quả cầu bầy trên long đình do bốn thanh niên khiêng.
Rước tới đình, cả bộ cầu được kính cẩn đặt lên bàn thờ thay cho
bộ cầu năm trước. Kế đó là lễ tế cầu. Tế cầu xong là cuộc tung cầu để
dân làng và cả dân thiên hạ cùng chen nhau cướp.
Cầu tung từng ba quả một, mỗi lần tung đều do một vị hương chức hoặc một vị bô lão đảm nhiệm.
Đầu tiên là ông Tiên Chỉ, thời Pháp thuộc khi không có ông Tiên
Chỉ, do ông niên trưởng trong làng, - tung quả cầu Mẹ và hai quả cầu
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
248
Con. Vị này trước hết phải đọc một bài văn chúc, đại khái ca tụng phong
cảnh của làng, dân phong và nhất là sự linh thiêng của Đức Thành Hoàng đã che chở cho dân được thịnh vượng, làng xã được yên bình. Sau bài
văn chúc ba cành tre được giơ cao theo nhịp trống thờ. Khi tiếng trống
dứt, dân làng hò reo ầm ĩ. Dứt hồi hò reo, vị Tiên Chỉ lại đọc một bài văn
chúc thứ hai cầu cho dân chúng trong xã gặp được mọi sự tốt lành. Tiếp
theo bài văn chúc thứ hai lại là một hồi trống và một loạt hò reo ầm ĩ.
Sau đó vị Tiên Chỉ hoặc niên trưởng tháo ba quả cầu buộc ở
ngành tre ra, buộc lại với nhau làm một rồi tung lên để dân chúng xô
nhau cướp. Bộ ba quả cầu không kịp rớt xuống đất đã có người đỡ, nhưng liền đó, người đỡ được ba quả cầu lại bị người khác chen đẩy
giằng mất. Họ xô lấn nhau, họ chen chúc nhau, họ cười, họ gọi nhau ơi
ới, người này ngã, người kia reo, cho đến khi một người nắm chặt được
bộ cầu, sự ồ ạt mới ngừng.
Sáu quả cầu sau đó do hai vị chức sắc hoặc bô lão khác mỗi người
tung ba quả, nhưng lần này, không còn hai bài văn chúc, chỉ có trống
đánh nhịp và mọi người hò reo.
Mọi người lại xô đẩy chen lấn nhau như lần thứ nhất. Họ tin rằng cướp được quả cầu sẽ gặp may mắn. Họ tranh nhau rất hăng hái, đàn ông,
đàn bà, thanh niên nam nữ đều dự cuộc, không phân biệt người thân kẻ
lạ, người gần kẻ xa, người sang kẻ hèn.
Cướp được cầu, dù một quả hay bộ ba quả, có thể đem về nhà làm
kỷ niệm, hoặc để thờ tại đình. Thường thường dân làng Bạch Hạc, cướp
được cầu, họ vẫn mang tới đình để thờ cho tới năm sau.
Tục cướp cầu, tuy chỉ là một cổ tục cử hành hàng năm theo nghi thức cổ truyền, nhưng đây chính là một cổ tục đề cao tinh thần thượng
võ, chứng tỏ người dân Việt Nam luôn luôn sẵn sàng bất khuất nó đã
khiến dân tộc Việt Nam được tự chủ với bốn nghìn năm lịch sử.
Cuộc thi thuyền hàng năm làng Bạch Hạc tổ chức vào ngày rã
đám trong kỳ hội từ mồng Mười đến Mười Ba tháng ba, tổ chức ngay
trên dòng sông Lô để dân xã và khách trẩy hội từ thập phương tới có thể
đứng hai bên bờ sông dự xem.
Làng có bốn giáp: Bộ Đầu, Tiểu Hạc, Đông Nam và Thần Chúc. Mỗi giáp có một chiếc trải dài bằng gỗ chò, dài hơn hai chục thước, rộng
chừng thước rưỡi, đóng bằng nguyên cả cây gỗ theo chiều dài. Chiếc trải
có năm chục bơi chèo ở hai bên; đầu trải uốn thành rồng và đuôi trải
cũng lượn khúc như đuôi rồng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
249
Để dự cuộc bơi trải các giáp đều kén những dân đinh khoẻ mạnh
sung vào những tay bơi, mỗi giáp năm chục người cho chiếc trải, nhưng giáp nào cũng kén một số người dự khuyết. Ngoài những tay bơi, mỗi
giáp còn phải kén ba người, ba người này thường là các bậc đàn anh
trong giáp, một người đứng đầu thuyền cầm cờ hiệu, một người đứng
giữa gõ một chiếc trống khẩu để giữ nhịp cho những tay chèo, và ở cuối
thuyền, một người ngồi cầm lái. Mỗi bên mạn thuyền là hai mươi lăm tay
chèo, đây là những tay trai lực lưỡng đã được hàng giáp lựa chọn, và đã
có luyện tập cùng với ba vị đàn anh điều khiển chiếc trải. Trong lúc bơi,
họ vừa chèo vừa hò reo.
Người đứng đầu thuyền cầm cờ hiệu, và đồng thời cầm trịch cho
chiếc thuyền bơi. Người này trước hết phải luôn luôn đứng cho cân, tự
giữ lấy thăng bằng, đừng vì mình mà thuyền thiên lệch, gây khó khăn
cho các tay bơi. Đứng trên thuyền cho vững, mặc con thuyền lao đi vun
vút trên mặt nước theo đà các tay chèo, trong khi đó lại phải cầm trịch
cho chiếc trải, dùng cờ hiệu phất cho chiếc trải hoặc đi thẳng, hoặc tiến
trái, hoặc tiến phải, hoặc vòng theo một độ nào để quay đầu trở lại, quả
không phải là một việc dễ dàng. Chỉ cần một chút sơ ý có thể ngã lao xuống nước trong khi chiếc trải vẫn vun vút bơi đi.
Người cầm trống khẩu đứng giữa thuyền cũng phải giữ mình cho
cân, cho khỏi ngã như người cầm trịch, và tiếng trống phải sao cho đều
để khỏi lạc tay chèo những người đang bơi.
Người cầm lái đứng ở cuối, cầm cả vận mệnh của chiếc trải trong
tay, trải đi nhanh hay chậm là do nhiệm vụ người cầm lái. Phải giữ lái
cho trải đi thẳng, phải lựa tránh những chiếc trải khác mà vẫn vượt lên đầu. Lại còn lúc quay, khi lượn, phải lựa cho thuyền theo lái. Với từng ấy
khó khăn, người cầm lái lại phải đứng cho vững, cho cân trên cuối
thuyền, nếu vô ý ngã xuống sông, chiếc trải không lái sẽ bơi ngang bơi
ngửa...
Người cầm lái phải luôn luôn để ý tới người cầm trịch, theo hiệu
của người cầm trịch lái chiếc trải.
Năm chục tay chèo, đã ngồi xuống chiếc trải, phải chú ý hết đến
việc bơi, tai phải nghe tiếng trống, tay phải bơi cho đều đều, đừng sai nhịp với bạn cùng bơi. Một tay chèo bơi sai nhịp, có thể gây rối loạn cho
ba bốn tay chèo khác, có khi cho cả một mé chiếc trải.
Thật là khó khăn! Do đó phải có sự luyện tập hàng tháng trước.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
250
Lúc xuống bơi trải, các tay chèo đều mình trần trùng trục mỗi
người chỉ vận một chiếc khố, mỗi bọn một mầu khố đều nhau, trông thật đẹp, nhất là khi, mỗi hàng đoàn họ dắt nhau xuống từng chiếc trải trước
cuộc bơi, trông họ với thân hình nở nang, bắp tay rắn chắc, có thể ví họ
như những bức tượng đồng lực sĩ.
Lúc cuộc thi bắt đầu, bốn chiếc trải xếp hàng đều nhau ở ngay
trước cửa đình làng. Thật là một cảnh nhộn nhịp cho người xem và cả
cho người dự cuộc. Dân giáp nào cũng hồi hộp như chính những tay bơi.
Trên chiếc trải, ngoài những tay chèo mình trần đóng khố, ba
người đàn anh cầm trịch, đánh trống và giữ bánh lái, người nào cũng khăn áo đóng áo dài, thắt lưng đỏ buộc múi sang bên, trông có vẻ ung
dung bình tĩnh và rất tự tin.
Các chiếc trải khởi hành ở trước cửa đình làng và bơi cho tới ngã
ba sông nhánh chảy vào sông Lô. Theo lời truyền tụng đây là dân làng
diễn lại tích đức Thổ Lệnh đại vương, tiễn đức Tản Viên khi xưa, lúc đức
Tản Viên tới thăm ngài ra về.
Chiếc trải về tới đình trước nhất sẽ được giải thưởng và làm lễ đốt
mừng bánh pháo.
Dân làng Bạch Hạc giải thích cuộc bơi trải căn cứ trên một sự tích
huyền bí: Đức Thổ lệnh tiễn đưa đức Tản Viên, nhưng trên thực tế, dân
ta cần luôn luôn tập luyện cho quen sông nước, và đã hơn một lần chúng
ta thắng giặc trên mặt sông! Bạch Đằng Giang còn đó, Chương Dương
độ còn kia, và cả trận sông Lô năm 1947, khi toàn dân kháng chiến đã
khiến gần ba nghìn quân Pháp vong thân trôi theo dòng nước!
Gặp những năm dân làng làm ăn thịnh vượng, mùa màng được, nhân dịp hội tháng ba, dân làng tổ chức cờ người thay cho cờ bỏi, cờ
người cũng chơi như cờ bỏi chỉ khác quân cờ thay vì những biển cờ có
khắc chữ, là những nam nữ thanh niên mặc quần áo có thêu chữ mang
tên những quân cờ, chữ thêu ở trước ngực và ở sau lưng người đóng quân
cờ. Cũng có nơi, quân cờ mặc quần áo như thường, nhưng có thêm chiếc
biển khắc hoặc viết chữ theo bộ cờ, như vậy mỗi nước đi, nếu quân cờ di
chuyển phải mang theo chiếc biển của mình. Tại mỗi vị trí của bàn cờ
đều có một chiếc ghế để quân cờ ngồi.
Tại những xã lớn thịnh đạt, những nam nữ đóng quân cờ còn
mang theo khí giới, và khi quân bên nọ ăn quân bên kia, quân cờ ăn sẽ
múa một thế võ như hạ quân cờ bị ăn, y như trong một màn hát bội. Trên
đây là mấy cổ tục đặc biệt diễn ra hàng năm tại xã Bạch Hạc trong những
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
251
ngày hội. Ngoài những cổ tục trên, hội còn nhiều trò vui khác như tổ tôm
điếm, đáo đĩa v.v./.
T.A
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
1
lễ hội làng bạch trữ
Nguyễn ngọc thanh
Làng Bạch Trữ ngày nay thuộc xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh,
tỉnh Vĩnh Phúc. Bạch Trữ xưa có tên Nôm là Kẻ Bạch thuộc tổng Bạch Trữ, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây 1.
Làng ở phía tây, cách thị xã Phúc Yên 3 km, ngay ven sông Nguyệt
Đức (địa phương gọi là Cà Lồ2). Làng nằm trải dài dọc theo ven đê, trong
mỗi xóm ngõ, nhà cửa thường có tường xây bao bọc, đường đi của xóm,
ngõ hẹp với nhiều đường ngang tắt, mật độ cư trú trong từng xóm dày đặc,
thường anh em họ hàng ở gần nhau, không khí "trong nhà ngoài làng" lúc
nào cũng đầm ấm.
Làng Bạch Trữ xưa có bốn xóm, xóm Rọ, xóm Nường, xóm Chì và xóm Gáo. Sau này do sự tăng dân số thêm một số xóm khác nữa xuất hiện
vào những thời điểm khác nhau, tuy nhiên diện mạo của làng cổ không
thay đổi nhiều lắm so với trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Dân làng
xưa chia thành tám giáp: giáp đông Rọ, giáp tây Rọ, giáp đông Nường,
giáp tây Nường, giáp đông Chì, giáp tây Chì, giáp đông Gáo, giáp tây Gáo.
Các giáp đều thờ chung thành hoàng ở đình. Đó là Mỵ Nương công chúa
(con vua Hùng Vương thứ 18, là vợ của Sơn Thánh Tản Viên) và Hoàng
Cống (tức Cống Sơn) quân sư và tướng của Hai Bà Trưng. Theo truyền thuyết và ngọc phả chép vào năm Hồng Phúc nguyên niên 1572, đời Lê
Anh Tông3 hiện đang còn lưu giữ có ghi: Mỵ Nương công chúa nhân một
lần đi chơi, tình cờ thấy nhiều cỏ trữ trắng mọc ở ven đường, hỏi tên làng,
dân không ai biết, nàng liền đặt tên gọi là làng Bạch Trữ, đồng thời lưu lại
dạy dân làng biết nghề dệt vải. Để tưởng nhớ công ơn, hàng năm làng mở
hội tung bông nhằm ghi nhớ lại sự việc này. Còn Hoàng Cống (Cống Sơn)
theo ngọc phả, ông quê ở động Hoa Lư (Ninh Bình) theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán, lập nhiều chiến công được phong thực ấp ở
1 Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX. Nxb KHXH, Hà Nội
1981, tr. 36-39. 2 Theo sách Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập IV, Nxb KHXH, Hà Nội 1971, tr.208 có
ghi: sông Nguyệt Đức là chi lưu của sông Bạch Hạc (tức sông Hồng) đoạn từ Yên Lạc chảy
qua Thịnh Kỳ, Khả Do về Bắc Ninh gọi là Nguyệt Đức. 3 Cuốn ngọc phả này do Đông Các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
2
Bạch Trữ và đóng đồn tại đây. Khi Hai Bà Trưng mất, ông vẫn tiếp tục
cuộc kháng chiến chống quân Hán ở xung quanh Bạch Trữ.
Đình làng được xây dựng trên một khu đất cao ráo ở giữa làng,
trước đình có một cái ao hình bán nguyệt. Nhìn chung đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, mang dấu ấn của nhiều thời. Phong cách và truyền
thống kiến trúc cổ dân tộc thể hiện rõ qua các đầu đao, độ dốc thấp và
nặng của bộ mái, qua bố cục kiến trúc, hệ thống cốn, giá chiêng ở các đầu
hồi. Không những thế Bạch Trữ còn là một chứng cứ lịch sử, một công
trình tưởng niệm những người đã có công xây dựng và bảo vệ làng.
Ngày trước cũng như hiện nay, hàng năm dân làng lại tưng bừng
mở hội. Ngôi đình đã thực sự trở thành trung tâm của hội làng. Vào những
ngày đó, già trẻ, trai gái, lớn bé, tụ tập ngoài đình, quanh đình, bên bờ ao cùng vui hội.
Trong một năm ở Bạch Trữ có những hội lễ chính sau:
- Tháng giêng: ngày mùng 10, Đức Thánh Cống Sơn sinh nhật, có
hát chèo, đánh vật đến hết ngày 15, hàng ngày có tế lễ ở đình.
- Tháng hai: Khánh hạ đức Bà công chúa, từ ngày mùng 1 đến ngày
mùng 10 làng mở hội có các trò chơi, đánh cờ, bắt chạch trong chum, thả
vịt xuống sông để đuổi bắt, đánh đu. Có rước kiệu đức Bà từ miếu về đình.
- Tháng tám: Đức Bà công chúa sinh nhật, làng mở hội từ chiều mùng 9 đến hết ngày 15. Tổ chức rước kiệu từ miếu về đình để tế lễ vào
mùng 10, ngày 15 tế tạ rước kiệu về miếu, ở sân đình tổ chức tung bông.
- Tháng một: Đức Bà công chúa phụ hoá nhật, tám giáp làm tám cỗ
bánh dày mang ra đình thi.
- Tháng chạp1: Đức ông phụ hoá nhật, ngày 11 mở tiệc giỗ trận
tưởng nhớ đến chiến công của Hoàng Cống (Cống Sơn).
Dưới đây là bốn lễ hội chính.
A. Lễ hội vào tháng hai:
Xưa kia cứ mười năm mới mở hội một lần, hội bắt đầu từ ngày
mùng 1 đến hết ngày mùng 10.
Không khí trong làng trước ngày vào hội khá nhộn nhịp, nhà nào
cũng lo lễ vật sao cho chu tất để nếu được giáp cử mang lên đình cúng
thành hoàng cũng không hổ thẹn với các giáp bạn. Trong nhà ngoài ngõ
đều được dọn dẹp sạch sẽ.
1 Ngày tháng trong bài chúng tôi ghi theo cách tính âm lịch.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
3
Trong ba ngày đầu hội, mỗi giáp cử hai nam thanh niên khoẻ
mạnh, mặc quần áo mới, đầu chít khăn đỏ đi rước kiệu từ miếu về đình,
đến chiều lại rước kiệu từ đình về miếu.
Những ngày này các cụ hàng lão túc trực ngày đêm ở ngoài đình để đón tiếp khách từ các xã lân cận tới dự hội. Từ ngày mùng bốn làng tổ
chức các trò chơi.
a. Đánh cờ người.
Trên sân đình một bàn cờ tướng 32 quân được kẻ sẵn vôi sao cho
từ tướng đến quân đều là người thực có thể đứng vừa. Các quân cờ thường
là giai tân, do chủ tế đã chọn sẵn từ trước. Mỗi buổi sáng ông chủ tế dẫn
quân cờ đến bàn cờ, ở mỗi vị trí quân cờ có cắm biển tên các quân cờ bằng
chữ Hán, và gọi loa mời những người giỏi cờ đến khảo cờ.
b. Bắt chạch trong chum.
ở Bạch Trữ, người ta chỉ dùng một chiếc chum, đổ nước đến nửa
chum và bỏ chạch vào. Những người xin bắt chạch lần lượt ghi tên theo
thứ tự. Có thể chỉ là một người đàn ông bắt chạch. Nếu ai bạo dạn, "tán"
khéo thì rủ thêm một người phụ nữ cùng vào bắt chạch. Nhiều khi chạch
chẳng thấy đâu lại bắt nhầm phải tay nhau, lúc đó dân làng và đôi trai gái
cười vui vẻ, dí dỏm, tinh nghịch, hả hê.
Trò bắt chạch trong chum không những gắn liền với nghi lễ phồn thực của người Việt cổ từ thuở xa xưa mà còn thể hiện sự thông minh, nhanh nhẹn, tài trí của người lao động nông nghiệp, trong chừng mực nào đó còn có ý nghĩa giao duyên vì đã nhiều đôi trai gái nên vợ, nên chồng sau trò chơi này.
c. Thả vịt xuống sông.
Trò chơi này chỉ có nam giới tham gia. Vịt thả xuống sông, trai làng cùng một lúc nhảy ào xuống, người bơi, người ngụp săn bắt vịt. Ai bắt được vịt thì đem về đình lĩnh thưởng, giải thưởng tuỳ theo từng lần làng mở hội. Có năm phần thưởng bằng vải đủ may một bộ quần áo, có năm bằng tiền.
B. Lễ hội vào tháng tám (còn gọi là hội tung bông).
Đây là ngày hội vui nhất, tập trung dân bốn phương về dự hội, hội bắt đầu từ ngày mùng 10 đến hết ngày 15 tháng 8. Trước đó vài tuần các giáp đã phải lo đủ gạo nếp, đỗ, gà trống để biện lễ cúng thành hoàng.
Sáng mùng 10, các giáp mang lễ vật gồm thịt gà, xôi và chè ra đình. Buổi sáng hôm đó làng tổ chức lễ rước kiệu Đức Bà từ miếu ở đầu
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
4
làng về đình. Đi đầu đám rước có đoàn người vác cờ, quạt rồi đến phường bát âm, tiếp đó đến kiệu Đức Bà do tám chàng trai khoẻ mạnh của tám giáp cắt cử khiêng. Đi sau kiệu là chủ tế và các cụ. Khi tiếng trống nổi lên, đám rước chậm rãi tiến về đình, hai bên đường dân làng đứng xem rước kiệu đông nghịt nhưng không hề cười đùa vì thế tạo cho đám rước không khí trang nghiêm.
Đám rước kiệu về tới đình, làng tổ chức khấn lễ, bên trong đình ngay gian giữa trải ba chiếc chiếu to, hai bên hàng cột đình mỗi bên có sáu người đàn ông mặc quần áo theo lối võ quan dưới các triều phong kiến xưa, tay cầm vũ khí (đao, kiếm). Dưới sân đình là hai hàng người xếp dọc tay cầm lễ vật (rượu và hương). Sau khi ông chủ tế đọc xong bài khấn, thứ tự hai người một đi vào trong đình tiến lễ dâng thành hoàng. Công việc tế thành hoàng tổ chức trong bốn ngày theo nghi thức trên.
Đến sáng ngày 15, phần khấn tế kết thúc, làng tổ chức rước thành hoàng về miếu, thành phần rước giống như hôm đầu, nhưng mọi người phải vừa đi vừa chạy. Sau lễ rước thành hoàng, làng tổ chức tung bông ngay tại đình. Giữa sân đình, người ta kê một chiếc bục cao, ông chủ tế đứng ở trên bục chuẩn bị tung bông. Dân làng chen chúc ở sân đình và bên ao đình ngóng đợi.
Bông được làm bằng một đốt tre non tước rất khéo, những mảnh xơ màu trắng muốt, mềm mại, mỏng manh, được buộc thành túm giống như một cuộn bông. Dứt tiếng trống, người chủ tế tung bông lên cao, khi bông chưa chạm đất dân làng đã xô nhau vào cướp. Người ta chen nhau, hò reo ầm ĩ, trống thúc liên hồi, có những năm chủ tế tung bông xuống ao đình, dân làng lội ào xuống ao giành bông. Theo lệ làng, ai cướp được bông mang về nhà, để lên bàn thờ tổ tiên, châm ba nén hương là được. Nhưng phần nhiều chẳng ai giành lấy bông mà còn nguyên vẹn, người nhiều được vài sợi, người ít chỉ được vài đoạn sợi. Song ai cũng vui vẻ, hể hả vì nghĩ rằng công việc làm ăn cả năm sẽ có thành hoàng giúp đỡ chở che.
C. Lễ hội mùng bốn tháng một.
Tương truyền đây là ngày Mỵ Nương công chúa mất vì vậy hàng năm làng làm lễ tiến cỗ bánh dầy lên đình đồng thời mở hội thi bánh dầy.
Lệ làng xưa, tám giáp phải có tám chiếc bánh dầy to, vừa là bánh để dâng tế thành hoàng vừa để dự thi. Ngày xưa, mỗi giáp có một thửa ruộng riêng chuyên cấy lúa nếp lấy làm bánh thi, đến vụ gặt, lúa nếp sau khi đập mang phơi khô, chọn lựa kỹ càng rồi mang về để ở nhà ông cai giáp, đến ngày 25 tháng 10 thóc mới được mang ra giã, gạo làm bánh cũng chọn khá cầu kỳ, hạt gạo phải đều nhau, không sứt mẻ hoặc bị gãy và phải
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
5
giã trắng. Gạo giã xong nhưng chưa được làm bánh ngay mà đến sáng mùng hai tháng 10 mới đem ngâm. Khi giã gạo làm bánh phải giã theo một kỹ thuật cao, sao cho khi vắt bánh thì bánh mịn, dẻo và trắng. Tất cả các công việc để làm bánh hoàn thành trong ngày mùng ba. Chiều tối ngày mùng ba các giáp cử người mang bánh ra đình (bánh được đặt trên mâm đồng, và có phủ giấy hồng điều). Sáng ngày mùng bốn sau khi tế lễ xong, các mâm bánh của tám giáp hạ xuống để thi. Ban giám khảo chấm thi là các chức sắc trong làng, sau khi xem xét và bình phẩm, ban giám khảo sẽ hội ý để chọn bánh đạt giải nhất.
Ngày hội thi bánh dầy cũng là ngày cho các em trai từ ba tuổi trở lên ra nhập giáp hay còn gọi là vào làng, hôm đó gia đình chỉ cần có một cơi trầu trình cai giáp là được chia phần bánh dầy, nhưng từ năm sau, mỗi em phải nộp cho giáp một nồi gạo nếp cái (tương đương một thúng bánh dầy loại nhỏ) và nộp liên tục trong 10 năm. Có như vậy đến tuổi 25 mới được ra ăn cỗ ở đình làng.
D. Tiệc giỗ trận ngày 11 tháng chạp.
Theo ngọc phả thì ngày 11 tháng chạp năm 46 (sau CN) là ngày diễn ra trận quyết chiến giữa quân sĩ của Hoàng Cống với quân xâm lược Hán, vì tương quan lực lượng chênh lệch, Hoàng Cống cùng nhiều quân sĩ của ông đã ngã xuống. Tưởng nhớ đến ông hàng năm dân làng mở tiệc giỗ trận vào ngày 11, hôm đó kiêng hát xướng và các trò chơi.
Tiệc giỗ trận được tổ chức ở bãi đồng Sổ theo đồng bào đây là nơi Hoàng Cống luyện tập binh sĩ.
Trước ngày mở tiệc, tám giáp cử người ra bãi quét dọn sạch sẽ. Ông chủ tế (do các giáp rút thăm chọn ra) sẽ vạch thành tám ô đều nhau chia cho tám giáp. ở giữa bãi kê một chiếc bàn to dùng để lễ vật. Lễ vật là thịt lợn đen hoặc bò vàng do các giáp góp tiền mua.
Đến ngày mở tiệc, ngoài lễ vật kể trên, từng giáp mang theo hương, hoa đến bày lên trên bàn. Ông chủ tế đánh ba hồi, ba tiếng trống tất cả dân làng đều ra bãi đứng mặc niệm. Chủ tế đứng ở giữa bãi hướng mặt lên bàn bày lễ vật đọc bài văn tế.
Trên đây là vài nét phác hoạ về một số ngày hội lễ chính ở làng Bạch Trữ. Nhưng cũng như mọi làng quê khác, hội làng Bạch Trữ không chỉ mang tính chất tưởng niệm những người có công xây dựng cơ đồ, nặng về tế lễ mà còn có đủ các trò chơi đậm đà màu sắc dân gian.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
6
Hội làng Bạch Trữ còn bảo lưu các trò chơi cổ gắn với nghi lễ phồn thực của người Việt cổ (trò bắt chạch trong chum). Hội làng còn biểu hiện nghi lễ của cư dân làm nông dệt vải (hội tung bông).
Hội làng Bạch Trữ lấy đình làng làm trung tâm của các hành động hội chứng tỏ có sự đồng nhất giữa hội làng với tín ngưỡng thành hoàng./.
N.N.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
258
hội làng bạt trung
và tục thi nấu cơm cần
nguyễn thanh
Làng Bạt Trung nằm ven đường quốc lộ 39B, km số 10 trên đường từ
thị xã về Tiền Hải, nay là xóm Việt Hưng xã Hoà Bình, huyện Kiến Xương.
Thuở xưa đình, đền, miếu thờ Triệu Quang Phục và tướng lĩnh của ông được
xây dựng thành một quần thể lớn, nay đã bị hư hao chỉ còn lại một ngôi miếu
cổ. Hàng năm làng mở hội hai kỳ vào 15 tháng giêng và 15 tháng 8, những
năm gần đây được tổ chức vào dịp 15 tháng 3. Xưa, hội làng Bạt Trung mở với nghi thức tưởng niệm Triệu Quang Phục cùng nhiều sự lệ, nhiều trò dân
gian như thi lợn lềnh, bắt gà đặc biệt là tục thi kéo lửa, leo cây chuối, chạy giải
lấy nước nấu cơm cần. Nay tục thi lợn lềnh không duy trì còn các trò dân gian
vẫn được duy trì, riêng trò thi kéo lửa nấu cơm cần thường thu hút nhiều thành
viên trong làng tham gia.
Tương truyền, vào thế kỷ VI, khi Triệu Quang Phục lui quân về Dạ
Trạch (Hưng Yên) có hai người làng Bạt Trung là Lý Chiêu Tường và Trần Hưng Trấn chiến đấu dưới cờ của ông. Nghĩa quân của Triệu Quang Phục trên
các chiến thuyền bị vây riết, trên đầm lầy không có lửa nấu cơm họ nghĩ ra
cách dùng dây thuyền kéo mạnh vào cọc thuyền tạo ra lửa, treo niêu trên sào
vừa lướt thuyền vừa nấu cơm. Thuở ấy vùng đất thuộc làng Bạt Trung ngày
nay cũng đang là một vùng đầm lầy đầy lau sậy, hai ông Lý Chiêu Tường và
Trần Hưng Trấn cũng đã được Triệu Quang Phục cho triển khai thế trận ở đây
và từng phải nấu cơm theo cách này. Sau này dân làng lập đền thờ Triệu
Quang Phục và hai ông. Theo định lệ cứ ba năm một lần vào các năm Tý- Mão- Ngọ- Dậu làng Bạt Trung tổ chức thi kéo lửa nấu cơm cần, còn tục thi
lợn lềnh và các trò bắt gà, bắt vịt, đấu roi... năm nào cũng được duy trì trong
ngày hội.
Tục thi lợn lềnh hàng giáp vốn là một tục lệ khá phổ biến ở nhiều làng
cổ ở Thái Bình. Các cố lão trong làng Bạt Trung gọi là tục nuôi nỉ (từ cách gọi
này chúng ta thấy tục nuôi lợn phân cho các đình trong giáp ở Bạt Trung vốn
có rất lâu đời bởi từ “nỉ” vốn là từ nôm cổ nay không còn thông dụng, chỉ thấy
tồn tại trong cụm từ cố định “nỉ lần, nỉ lượt”). Làng Bạt Trung có 4 giáp, hàng năm các giáp phân cho một hộ theo nhân đinh nuôi lợn. Nhà nào đến phiên
nuôi lợn lềnh được xem là một việc đại sự. Từ đầu năm phải lo chọn giống,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
259
làm chuồng. Con lợn để dự thi gọi là Ông lợn, được chăm lo nuôi dưỡng sạch
sẽ, chu đáo. Đến ngày khai hội, gia chủ phải lo làm xôi đãi làng, đãi giáp rồi chiêng trống rước lợn ra đình để dự thi. Lợn được đo bằng dây để tính vòng
vai, chiều dài, vòng bụng. Thước dây đo xong lại được kiểm tra lại trên thước
khác trên đá tảng ở đình. Lệ của mỗi làng về qui cách đo, tính thưởng khác
nhau. Riêng ở làng Bạt Trung nếu chiều dài lợn 1m10 là đủ lệ, 1m20 được
hưởng khoang (hay còn gọi là quán ưu), từ 1m30 được trừ phần con cái miễn
phải nuôi lợn theo lệ... Lợn tế thánh xong từng phần cơ thể con lợn chia theo
ngôi thứ trong làng, phần còn lại chia cho các xuất đinh đã vọng. Không ít nhà
bị khuynh gia bại sản vì lệ nuôi nỉ của làng. Mâu thuẫn trong làng cũng dễ nảy sinh khi chia phần theo tâm thức “miếng thịt làng hơn sàng thịt chợ”.
Tục thi nấu cơm cần của làng Bạt Trung là một cuộc thi mang sắc thái
độc đáo của cư dân nông nghiệp vùng châu thổ Bắc Bộ. Để có được bát cơm
dẻo cúng thần, phải qua các kỳ thi kéo lửa, leo cây chuối, chạy giải lấy nước
nấu cơm, nấu cơm chín, dẻo, vượt thời gian.
Cuộc thi đầu tiên là kéo lửa. Làng Bạt Trung có 4 giáp, mỗi giáp một
cối dự thi. Cối dùng để kéo lửa là một đoạn tre hoá gốc già, thẳng, dài chừng
1m20. ở đốt giữa đoạn tre đục thông một lỗ dài 20cm, rộng 1,5cm để đặt mồi, ở khoảng giữa được tạo thành hai rãnh để đặt dây kéo . Dây kéo lửa là loại lạt
tre dây dài chừng 80cm, dây phải vừa dẻo vừa bền, kéo không bị đứt. Mồi để
bén lửa là loại mạt rạ mục trên mái nhà lợp rạ được nghiền nhỏ rang, phơi kỹ
hoặc một ít bã sắn, dây, mạt cưa, vỏ bào, rơm rạ nghiền lẫn. Việc tạo ra cối,
dây, mồi, củi, là cả một kỹ nghệ bí truyền, khi kéo lửa là cả một nghệ thuật
tổng hợp của năm bảy nghệ nhân, từ người giữa cối đến người kéo không bị
đứt, giữ cối sao cho không bị nhấc khỏi mồi, kéo sao cho đủ nhanh, đủ mạnh tạo ra nhiệt thành lửa.
Khi có hiệu lệnh trống, các chàng trai của từng cối vào cuộc kéo lửa
chiêng trống và tiếng hò reo cổ vũ vang dậy. Cối nào kéo được lửa sớm sẽ
được chấm theo thứ tự. Khi kéo lửa xong sang phần thi leo cây chuối lấy niêu.
Bốn cây chuối hột loại to nhất nhì trong làng được phát hết lá, bóc lớp bẹ bên
ngoài, bôi bùn trơn nhẵn , trên ngọn chuối treo một chiếc niêu nhất. Mỗi giáp
cử một người leo. Giải cũng được chấm theo thứ tự thời gian lấy được niêu
của các giáp.
Lấy niêu xong là phần thi chạy vượt sông giữa cánh đồng để lấy nước
nấu cơm. Nước được đựng vào một chiếc đĩa cổ mang về, vượt thời gian là rất
khó khăn. Giải được chấm theo thứ tự giáp nào mang đĩa về đích sớm nhất.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
260
Khi đã có lửa, có niêu, có nước, cuộc thi nấu cơm cần bắt đầu. Niêu
cơm được treo trên cần một cây tre còn cả phần ngọn để trang trí, cây tre đường kính phần gốc chừng 3cm, dài chừng 5m, một người vác cần, một
người đỡ phần ngọn, bốn người cầm đuốc nấu cơm, một người vừa giữ cho
niêu thăng bằng vừa theo dõi khi cơm sôi phải ghế cho chín đều và điều chỉnh
lửa. Thuở trước, niêu nấu cơm là niêu nhất bằng đồng nấu chừng một bò gạo,
nay dùng xoong nhôm loại nhỏ. Trên mặt niêu cơm đặt một chiếc khăn thấm
nước sao cho rước được nhiệt lên mà không quá lạnh đến mức tốn nhiệt. Khó
khăn nhất là cả bốn cối đều phải chạy quanh sân theo hiệu lệnh của chủ khảo.
Người vác cần chạy sao cho niêu cơm không bị sánh nước, người cầm đuốc chạy sao đưa lửa đều vào niêu, người giữ niêu tính thời gian biết khi cạn nước
mở ra ghế mà đỡ mất nhiệt... Thông thường từ khi nấu đến khi cơm chín phải
chạy đều trong khoảng 15 đến 20 phút và phải duy trì đều đặn các thao tác sao
cho cơm chín sớm nhất, dẻo nhất, nếu khô, nhão, khê, sống bị trừ điểm.
Khi cả 4 cối đã hoàn tất việc nấu cơm, Ban giám khảo tính điểm. Điểm
tổng thể dành cho cối nào nấu cơm nhanh nhất, cơm dẻo ngon nhất được giải.
Còn các giải từng phần cũng được tính điểm để cộng tổng số như điểm kéo
lửa, điểm leo cây chuối, điểm lấy nước, điểm thời gian nấu cơm, điểm chất lượng cơm... Khi chấm điểm xong, các niêu cơm được xới mang vào lễ thánh.
Trong các phần thi mỗi giáp đều có mục riêng được coi là những bí
quyết không để lộ ra ngoài. Trước ngày khai hội nhiều ngày các trai tráng
được chọn phải tập luyện chu đáo từ việc kéo lửa đến các thao tác leo cây
chuối, chạy vượt sông lấy nước, nấu cơm cần... Giải tổng thể hay giải từng
phần tuy không lớn nhưng là điều may cho cả giáp trong năm.
Ngoài tục thi kéo lửa nấu cơm cần, hội làng Bạt Trung còn có tục thi bịt mắt bắt gà vui nhộn. Người ta dùng lưới quây một góc sân đình thả 4 con
gà của 4 giáp có đánh dấu riêng. Bốn chàng trai của bốn giáp được bịt mắt
vào bắt. Ông trọng tài vừa gõ trống vừa xua đuổi gà chạy toán loạn, ai bắt
đúng gà giáp mình thì được thưởng, ai bắt nhầm gà khác thì tiếng cười vang
dậy. Nay tục bắt gà đơn giản hơn, chỉ bắt một con.
Ngoài các trò dân gian truyền thống, những năm qua hội làng Bạt
Trung còn thêm nhiều trò vui mới./.
N.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
262
lễ hội đền Bắc Lệ *
Võ Hoàng Lan
Tục thờ Mẫu có một vị trí khá đặc biệt trong đời sống tâm linh của
người Việt. Tín ngưỡng dân dã này đã phát triển cùng với lịch sử phát
triển của dân tộc Việt, các di tích thờ Mẫu cũng ra đời theo bước chân
của tộc người này, từ núi rừng cho xuống đồng bằng, và Bắc Lệ là một
trong những trọng điểm của loại hình di tích đó. Đền Bắc Lệ ở xã Tân
Thành huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn), là nơi thờ Mẫu Thượng Ngàn - bà
chúa sáng tạo và cai quản vùng rừng xanh.
Đền Bắc Lệ không phải chỉ có một ngôi đền đứng độc lập, mà là
một quần thể di tích, gồm có đền chính, đền Chầu Bé và đền Đèo Kẻng.
Cho đến nay chưa tìm được một tài liệu nào cho biết chính xác thời điểm
ra đời của ngôi đền, chỉ biết rằng đền đã trải qua rất nhiều lần trùng tu
tôn tạo, có khu còn được xây lại mới hoàn toàn (như đền Chầu Bé chẳng
hạn), do vậy ngôi đền có dáng vẻ cổ truyền kết hợp với các yếu tố hiện
đại. Giờ đây đền chính vẫn nằm trên khu đất xưa kia, là một dãy nhà ba
tòa liền mái, xây bằng gạch, có các cột gỗ và được lợp bằng ngói tây. Ba tòa nhà này đồng thời cũng là ba cung. Từ ngoài vào: cung đệ nhất có
ban thờ Ngũ vị Tôn Ông và hạ ban thờ Ngũ Dinh. Sau cung đệ nhất là
cung đệ nhị có ba ban thờ: ban thờ Đức vua Cha Ngọc Hoàng ở giữa, ban
thờ Chúa Sơn Trang lùi về sau, phía bên trái, và ban thờ Đức Thánh Trần
ở đằng sau phía bên phải. Cuối cùng là cung cấm với hai ban thờ: ban thờ
Phật được đặt trong cùng, và ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu ở phía ngoài.
Cách đền chính khoảng 15m về bên phải là đền Chầu Bé mới được xây dựng lại. Đền Đèo Kẻng tuy cách đền chính 2 km nhưng vẫn được coi là
một bộ phận trong quần thể di tích này. Đền cũng có cấu trúc như đền
chính với ba cung thu nhỏ: đệ nhất, đệ nhị, cung cấm.
Trong Tam Tòa Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Ngàn còn gọi là Mẫu Đệ
Nhị, truyền thuyết về bà được lưu truyền trong dân gian với rất nhiều dị
bản, nhưng đều trùng hợp ở những điểm chính như: nguồn gốc xuất thân
vương giả của bà (là con gái Hùng Vương, hoặc là con gái của Sơn Tinh
* Bài viết có sử dụng tư liệu của PGS, TS Ngô Đức Thịnh - Phạm Quỳnh Phương trong
Đạo Mẫu ở Việt Nam (tập I), Nxb Văn hóa thông tin, H, 1996.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
263
và Mỵ Nương..), bà có sắc đẹp và những tài năng hơn người do được
thừa hưởng từ các vị thần tiên, nhờ vậy bà đã đem lại cho muôn dân ở chốn rừng xanh một cuộc sống yên ấm và no đủ. Nhớ ơn bà, dân gian đã
tôn bà là Mẹ - Bà Mẹ Rừng Xanh, cai quản tất cả 81 cửa rừng cõi Nam
Giao và đã xây dựng đền Bắc Lệ để thờ phụng bà. Truyền thuyết còn cho
thấy Bà gắn liền với những sự kiện lịch sử cụ thể như Mẫu Thượng Ngàn
giúp đỡ các triều đại Lý, Trần đánh thắng quân xâm lược phương Bắc,
giúp đỡ Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh... Bên cạnh
những truyền thuyết này, người dân sở tại còn đồng nhất Liễu Hạnh công
chúa với Chúa Thượng Ngàn, nên cũng có người cho rằng đền Bắc Lệ thờ Mẫu Liễu. Tương truyền trong một lần chu du miền sơn cước, Liễu
Hạnh đã tới Bắc Lệ một thời gian. Trước đó, Bắc Lệ là nơi đất dữ nhưng
khi Liễu Hạnh xuất hiện đã qui phục được các loài thú dữ, cuộc sống của
người dân không bị đe dọa nữa..., và dân gian đã xây dựng đền Bắc Lệ để
bày tỏ lòng biết ơn và thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thật ra thì Mẫu
Thượng Ngàn hay Mẫu Liễu Hạnh cũng đều là hóa thân của một Bà Mẹ
Khởi Nguyên, trong tư duy dân dã đó bà mẹ này đã sáng tạo ra xứ sở và
muôn loài, sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của tộc người Việt. Bởi địa bàn cư trú đầu tiên của tộc người Việt ở vùng rừng
núi nên bà mẹ khởi nguyên có dáng dấp của bà chúa rừng xanh.
Tuy vậy, cũng giống như tất cả mọi đền thờ Mẫu khác, đền Bắc Lệ
cũng thờ tất cả các vị thần linh trong hệ thống thần điện Mẫu, như Tam
Tòa Thánh Mẫu, Ngũ Vị Vương Quan, Tứ Phủ Chầu Bà, Vua Cha Ngọc
Hoàng... Chỉ có điều, người dân ở đây đặc biệt coi trọng những vị thần
linh gắn với địa phương họ như Mẫu Thượng Ngàn, Chầu Bé, Cô Bé. Theo niềm tin của người dân sở tại, Chầu Bé là một vị nhân thần quê ở
Bắc Lệ, nên còn gọi là Cô Bé Bắc Lệ. ở đây, Cô Bé Bắc Lệ có một quyền
uy vô cùng to lớn, có thể thay mặt Mẫu để ban phát mọi điều cầu xin của
con người.
Không biết từ bao giờ trong dân gian đã truyền tụng về sự linh ứng
của các vị thần linh được phụng thờ ở đền, nên đền Bắc Lệ đã thu hút
được một số lượng lớn khách hành hương, không chỉ là dân địa phương
mà còn ở rất nhiều vùng khác, cả Hà Nội, Hải Phòng... cũng có người lên tận đây lễ bái, nhất là vào những dịp lễ hội lớn của đền.
Đền Bắc Lệ trong một năm có 5 ngày lễ lớn mà những ai đã từng
đến lễ ở đây đều nhớ rõ, vì đó là những ngày hội tụ rất đông đảo khách
thập phương. Để mở đầu cho một năm là lễ Thượng nguyên, được tổ
chức vào khoảng từ mùng 2 đến 15 tháng giêng, rồi đến lễ vào hè (đầu
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
264
tháng tư), lễ ra hè (đầu tháng tám), lễ Mẫu (20-9) và cuối cùng là lễ tất
niên (nửa cuối tháng chạp). Dù tổ chức vào những thời điểm khác nhau trong năm, nhưng nội dung chính của các lễ hội này đều để bày tỏ lòng
thành kính và biết ơn thần linh của con người, đồng thời cầu mong thần
linh che chở và ban phúc lành để có được cuộc sống bình yên, phồn
thịnh. Nếu nói rằng sự cầu cúng, lễ bái này sẽ làm cho con người có ý
thức ỷ lại, trông chờ vào sự may rủi và lười lao động thì thật là không
phải, bởi mỗi người đi lễ đều tin rằng mọi thành quả mà họ có được đều
do công sức lao động mà họ đã bỏ ra và nhờ vào sự giúp đỡ của thần linh
mà công sức ấy không bị uổng phí. Bởi vậy, có thể nói rằng, thực chất việc đi lễ chỉ để tạo ra một sự yên ổn về mặt tinh thần, nhờ có sự yên ổn
ấy mà người ta vững tin hơn khi bước vào một chu kỳ sản xuất mới.
Vì để dâng lên thần linh nên đồ cúng lễ thường được nhân dân
chuẩn bị rất chu đáo, từ các lễ vật (như cỗ chay, cỗ mặn, đồ mã...), đến
cách sắp xếp đồ lễ (các đồ lễ bày trên ban thờ phải theo một trật tự nhất
định), đến thứ tự các bài thỉnh: Phật - Thánh - Tứ Phủ Chầu Bà - Ngũ vị
quan lớn... Trong các ngày lễ này thì lễ tiệc Mẫu là lễ hội lớn nhất và thu
hút được nhiều sự chú ý nhất, cũng có thể xem đây là lễ hội chính của đền.
Lễ tiệc Mẫu được tổ chức vào ngày 20-9 hàng năm, theo dân gian
thì đây là ngày giỗ Mẫu, bởi ngày 3-4 là ngày Mẫu thác lần thứ nhất và
ngày 20-9 là ngày Mẫu thác lần thứ hai. Công việc chuẩn bị cho lễ hội đã
được bắt đầu từ trước đó nhiều ngày, những đồ lễ dâng lên Mẫu phải
được lựa chọn cẩn thận nên khâu chuẩn bị rất được coi trọng, đây là lúc
người ta nuôi gà vịt lợn, chọn gạo, làm đồ mã... Lễ hội được bắt đầu vào ngày 18 bằng lễ mở cửa đền. Các ban thờ trong đền, các đồ tế lễ được
dọn dẹp và lau chùi sạch sẽ, người ta làm lễ tắm ngai (ngai Vua Cha
Ngọc Hoàng và ngai Mẫu Thượng Thiên) bằng nước mưa, hoặc nước lấy
ở đầu nguồn suối Bắc Lệ từ sáng sớm, và nước trầm hương. Sang ngày
19 người ta phải chuẩn bị cỗ cúng, cỗ cho các ban cũng được qui định
chặt chẽ: cỗ tam sinh, cỗ mặn cho ban Công Đồng, Ngũ vị Tôn Ông; cỗ
chay (có khi cả cỗ mặn) cho ban Mẫu; cỗ trứng, thịt sống cho ban Ngũ
Hổ; cỗ có cua, ốc luộc cho ban Chúa Sơn Trang. Theo một số nhà dân tộc học mỹ thuật thì hình tượng hổ là tượng trưng cho sức mạnh của trần
gian, đại diện cho các thần linh ở dưới mặt đất, Ngũ Hổ là tất cả các thần
linh thuộc 5 phương của thế nhân, nên đem trứng sống tới cúng ở ban
này có nghĩa như những linh hồn của các kiếp đời đã qua được đưa tới
đây để cầu sự bảo trợ của sức mạnh thiêng liêng này. Tuy nhiên trong ý
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
265
thức hồn nhiên dân dã thì hổ cũng được đồng nhất với Chúa Sơn Lâm
nên người ta còn đem thịt sống tới cúng như để thỏa mãn một nhu cầu phàm tục thuộc tự nhiên. Còn việc đem đồ biển đến lễ ở ban Chúa Sơn
Trang đã biểu hiện cho sự bổ sung cái thiếu của miền sơn cước, đồng
thời biểu hiện lòng thành kính của tín đồ và mặt nào phản ánh mối giao
lưu của thương mại đã phát triển. Đồ mã cũng được chuẩn bị hết sức
phong phú với hầu hết các kiểu loại, nhưng những thứ có tính chất bắt
buộc là 2 voi, 2 ngựa, 6 thuyền, 5 mũ quan, 6 hình nhân (mỗi hình có 3
đầu)... Ngày 20, chính hội, vào ngày này các nghi lễ trọng thể được diễn
ra tại đền chính. Đầu tiên là lễ mời Mẫu đi xem hội, rồi mới đến lễ rước. Sau khi hiệu lệnh do người cai đám phát ra, chiêng trống nổi lên, pháo
hiệu nổ vang, đoàn cờ kiệu bắt đầu xuất phát. Đi đầu tiên là 11 lá cờ,
gồm cờ tiết (cờ vua trao để làm tin), cờ mao, cờ ngũ hành vuông có đuôi
nheo, cờ tứ linh. Y phục của những người cầm cờ rất đẹp và thống nhất:
áo nâu nẹp đỏ, đội nón dấu... Sau hai người cầm biển dọn đường (một
biển có chữ "hồi tỵ" - tránh xa, và biển kia là "tĩnh túc" - yên lặng) là bốn
người khiêng trống và chiêng. Rồi đến kiệu những đồ mã (voi, ngựa...)
có che lọng, tiếp đó là phường nhạc bát âm và kiệu bát bửu. Một đoàn tùy tùng đội nón dấu, thắt lưng bó que, mang gươm hộ tống. Đỉnh trầm
hương và mâm ngũ quả được để trên kiệu long đình do bốn người khiêng
đi trước, tiếp theo là kiệu vua Cha Ngọc Hoàng, hai kiệu bát cống rước
Mẫu, Đức Trần Triều và kiệu võng rước hàng các Chầu. Sau cùng là
khách hành hương và dân trong vùng. Đoàn rước đi từ đền chính đến đền
Đèo Kẻng, quãng đường dài độ 2 cây số, nhưng không khí náo nhiệt,
đông vui của đám rước đã làm cho mọi người không ai cảm thấy đường xa và mệt nhọc, lòng tin đã cho người ta sức khỏe và niềm hưng phấn để
tham dự được hết mọi lễ nghi diễn ra trong hội. Khi đoàn rước đến nơi,
người ta bắt đầu cử hành đại tế. Buổi tế diễn ra trước ban thờ Đức Vua
Cha Ngọc Hoàng và kéo dài trong 2 giờ với các nghi thức: đón thần,
dâng rượu, đọc chúc và hóa, lễ tất, lễ hồi cung. Kết thúc đại tế ở đền Đèo
Kẻng là lễ hồi cung, mời Phật và các vị thần trở lại đền, đám rước được
tổ chức quay về theo đúng thứ tự như lúc đi. Về đến đền chính, lại tiếp
tục có một đại tế nữa, cũng giống ở đền Đèo Kẻng. Chiều tối 20, một cuộc phân phát lộc thánh diễn ra, tất cả mọi người đi lễ đều được nhận
lộc, bất kể đó là khách thập phương hay dân sở tại, dù đóng góp nhiều
hay ít vào lễ hội, bởi "lộc hòa đồng phân".
Lễ hội đền Bắc Lệ là lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu, bởi vậy có
những giá trị văn hóa tín ngưỡng đích thực của nó./.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
266
V.H.L
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
267
lễ hội chùa bi
Lê ngọc canh
Hội chùa là nơi tụ hội những sinh hoạt đậm bản sắc văn hóa của
người Việt. Quá trình phát triển Phật giáo cũng là quá trình hình thành, phát triển hội chùa, những dấu ấn tốt đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng
đồng người Việt.
Song, qua quá trình biến động phát triển của lịch sử và văn hóa
cộng đồng, hội chùa đã dần dần lui về dĩ vãng mà chỉ còn lại lễ chùa.
Tuy vậy, hội chùa không mất hẳn, điều đáng mừng là vùng đất Bắc Hà
vẫn còn tồn tại hội chùa Bi (thuộc Chân Đàm, huyện Tây Chân, trấn Sơn
Nam xưa). Đời Lê Trưng Hưng, huyện Tây Chân đổi là huyện Nam Chân, nay thuộc xã Nam Giang huyện Nam Ninh tỉnh Nam Định.
Chùa Bi. Chùa được xây dựng trên vùng đất rộng thuộc ba thôn
Vân Chàng, Giáp Ba, Giáp Tư. Chùa Bi xưa đã bị tàn phá khi nhà Minh
đô hộ nước ta (1407 - 1427), ngày nay chỉ còn lại một số tảng đá cổ là
vết tích của ngôi chùa được xây dựng trên mảnh đất này.
Theo lịch sử chùa Bi (Đại Bi tự), chùa có từ đời vua Lý Nhân
Tông. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, từng giai đoạn chùa được
xây dựng lại và trùng tu với cấp độ khác nhau:
- Ngôi chùa đầu tiên được xây dựng từ thời Lý, năm Nhâm Tý
(1073).
- Thời Lê sơ, chùa được xây dựng lại trên nền đất cũ (1427-1527)
- Đời Lê Trung Hưng, tu sửa lớn, vào năm Chính Hoà thứ III
(1682).
- Năm Gia Long thứ 6 (1807) chùa Bi lại bị quân Bắc thành đốt phá
khi ông Vũ Đình Khánh tục gọi là lãnh Khếnh người thôn Giáp Ba chống lại nhà Nguyễn. Sự việc này có được chép trong sử sách 1. Sau này chùa
Bi được xây dựng lại theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Tuy vậy
còn những bóng dáng hoạ tiết lá lật, mây tản, rồng bay của thời Lê trung
hưng.
1 Đại Nam thực lục - tập III. Chính biên - Đệ nhất kỷ III - Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội,
1963.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
268
Hiện nay chùa được kiến trúc theo kiểu "Nội công ngoại quốc" đối
xứng hai bên linh đạo, nguy nga đồ sộ, từ tiền sảnh đến thượng điện kết cấu theo nhiều lớp, chùa được nâng cao dần. Ngoài hệ thống chính của
chùa, hai bên còn có hai dãy hành lang dài và thấp, trải mái rộng, mỗi
dẫy 20 gian, càng làm tôn vẻ đẹp của chùa.
Đến chùa Bi, du khách và những nhà nghiên cứu không thể không
để ý đến gác chuông 2 tầng, 8 mái và những đầu đao uốn cong. Chùa có
quả chuông lớn, sớm sớm, chiều chiều ngân vang cả một vùng như nhắc
nhở chúng sinh cảnh tỉnh và giác ngộ. Năm Minh Mạng thứ 18 (1838)
chuông được đúc lại, cao hai mét, đường kính 1m60 nặng 1.800kg. Chùa còn 18 bia, văn bia cổ nhất được khắc năm Kỷ Mùi (1679) đời Lê Hy
Tông. Chùa Bi ngoài thờ Phật, còn có một gian thờ Đại pháp thiền sư Từ
Đạo Hạnh.
Theo thánh phả :"Đạo Hạnh thiền sư họ Từ, huý Lộ, cha là Từ Vinh
giữ chức Đô Sát tăng quan triều Lý, nhân trú ở làng An Lãng tức làng
Láng, kết duyên cùng bà Tăng Thị Loan mà sinh ra Thiền sư. Đô Sát
tăng quan vốn người cương trực, em vua Lý Nhân Tông là Diên Thành
hầu ghen ghét, tìm cách mưu sát, mượn pháp sư Đại Điên giết hại ông. Thiền sư đưa mẹ đi tìm nơi lánh nạn.
Lẻn đi về chốn Sơn Nam
Tây Chân huyện đó Chân Đàm xã tây
Gửi thân đương chốn am mây
Mẹ con mừng rỡ ở đây trụ trì
Sửa sang phong cảnh chùa Bi
Toà vàng rực rỡ, vườn Kỳ thanh u...
Kệ Thánh Tổ
Đạo Hạnh Thiền sư kết bạn với Minh Không th iền sư tu ở chùa
Không Lộ (Giao Thuỷ) và Giác Hải thiền sư trụ trì ở chùa Phúc Lâm
(Giao Thuỷ). Ba người nghiên cứu pháp môn Đà La Ni rồi cùng nhau đi
Tây Thiên được Phật tổ truyền cho tâm ấn, lục trí thần thông. Khi về
nước thiền sư trở lại chùa Bi, thì thân mẫu đã qua đời. Thiền sư dời lên
trụ trì ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, huyện Thạch Thất, trấn Sơn
Tây. Ngoài việc tu hành Thiền sư còn dậy nghề làm trò rối (ổi lỗi), nên nhân dân gọi Thiền sư là thầy. Ngọn núi Phật Tích mà thường ngày thiền
sư tĩnh tọa cũng gọi là núi thầy. Theo sự tích, vì còn nhiều tục luỵ, thiền
sư thác sinh làm con trai Sùng Hiền hầu để nối nghiệp vua Lý Nhân
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
269
Tông tức là vua Lý Thần Tông. Đạo Hạnh thiền sư còn được suy tôn là
một trong ba vị thánh tổ Việt Nam (Việt Nam tam thánh tổ)1.
Sách Việt điện U linh viết thời Trần, có ghi chuyện Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh Không (Không Lộ) và Giác Hải sang Tây Trúc học được
thuật lạ.
Sách Hí phường phả lục của trạng nguyên Lương Thế Vinh, viết ở
giữa thế kỷ XV thì Từ Đạo Hạnh là tổ thứ 5 trong 7 vị tổ nghề chèo.
Thiền Uyển Tập Anh chép :Đạo Hạnh thiền sư là bậc chân tu đắc
đạo, vị tổ thứ 12 của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi. Một trong chín vị
thành Phật được ghi trong Phật phả Việt Nam.
Từ Đạo Hạnh là một trong ba vị sinh sinh hoá hoá: Từ Đạo Hạnh,
Linh Lang đại vương và Vân Cát Thần Nữ, cùng với bốn vị không chết
(tứ bất tử) là Phù Đổng thiên vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công
chúa và Tản Viên Sơn thánh.
Hội chùa.
Đến hội chùa Bi, khách thập phương đều nhìn thấy lá cờ phướn dài,
tung bay trong gió. Cờ phướn là biểu tượng cho chốn tu hành, nơi thờ
Phật. Tương truyền rằng thuở xưa các nhà sư đi truyền đạo, khuyên giảng về đạo lý của Phật là hướng thiện, trừ tà, nhân ái, với từ tâm và tấm
lòng thành. Tại một gia đình nọ, gia đình tốt, hướng thiện, trong nhà có
một người con ngỗ ngược, ngang tàng, hung hăng, sau khi nghe truyền
giáo lý của đạo Phật, đã quy phục. Người con ngang ngược đó bèn lấy
dao mổ bụng lấy lòng mình để cúng Phật, và nói "Đó là tấm lòng thành
của tôi cúng Phật". Sau đó, các sư vãi đội cỗ lòng ấy về chùa, đi được vài
ngày mùi hôi thối không chịu được, bèn ném xuống sông. Bỗng có con quạ thiêng xuất hiện, tha bộ lòng đó về vái chùa. Bởi vậy trên cột cờ
phướn bao giờ cũng có hình con quạ tượng trưng cho quạ thiêng, quạ
thần. Cờ dài kiểu răng cưa và có dải dài hai bên là tượng trưng cho tấm
lòng thành của con người hướng về Phật, quy Phật 2.
1 Theo tư liệu của các cụ: Đoàn Văn Bàng, Đoàn Châu Uẩn. Đoàn Văn Quang, Đoàn Văn
Lĩnh. 2 Phướn (Phan) Đồ trang nghiêm, biểu dương oai đức nhà Phật, khi treo nhằm cầu phúc
đức - Quạ được coi là thiên sứ ngậm phan để ban phước, đem lệnh của tầng trên xuống nhà
chùa cho mở hội.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
270
Sự tích thôn Vân Chàng, Giáp Ba, Giáp Tư ở khu vực chùa Bi, theo
các cụ trong ban di tích kể rằng1: thuở xưa thiền sư Từ Đạo Hạnh về đây lập chùa Bi (Đại Bi tự), thiền sư có đi quyên góp để xây dựng chùa. Tại
thôn Giáp Ba ngày nay (trước là Cẩm Nang thôn), Từ Đạo Hạnh đến
quyên góp, dân làng người góp, người không, thiếu nhiệt tình. Thiền sư
đến thôn Vân Chàng, dân làng rất nhiệt tình, thành tâm đóng góp ngay.
Thiền sư đến thôn Giáp Tư (xưa là Kinh Lũng thượng thôn) quyên góp,
cũng được sự nhiệt tình đóng góp của dân làng. Về sau thôn Cẩm Nang,
tức thôn Giáp Ba cũng có đóng nên thiền sư xếp thôn Vân Chàng là anh
cả, thôn Giáp Tư là anh hai, thôn Giáp Ba là anh ba. Mặc dầu chùa được xây dựng trên đất của thôn Giáp Ba ngày nay. Do vậy việc thờ cúng, tổ
chức rước hội chùa Bi thôn anh cả Vân Chàng có vai trò quan trọng, đã
được lệ tục quy định ở phần rước, tế, lễ.
Hội chùa Bi hàng năm tổ chức vào ngày 20, 21, 22, 23, 24 tháng
giêng âm lịch.
Ngày 20 tháng giêng:
- Lễ phát tấu do các nhà sư đảm nhiệm, tiến hành theo nghi lễ nhà
Phật.
- Tối múa rối cạn chầu thánh Từ Đạo Hạnh và cúng lễ 12 đầu lộng
theo ý nghĩa, cấp độ khác nhau (đầu lộng là 12 đầu rối). Trong đó có 6
ông lộng, tượng trưng cho 3 thôn gọi là chúa lộng, như đầu tượng: Hoàng
hậu, 2 cô tiên, ông chàng, ông mãnh, ông chớp và 6 đầu tượng nhỏ khác.
Ngày 21 tháng giêng
Dân gian có câu:
Thứ nhất là hội Phủ Giày
Vui thì vui vậy chẳng tày chùa Bi
Buổi sáng các xóm thôn tưng bừng trong tiếng trống chiêng cồng
vui đi hội. Khởi đầu đám rước từ thôn Vân Chàng (thôn anh cả rước 2
kiệu, đi từ miếu Vân Chàng qua đình thôn Giáp Ba, đám rước và kiệu
của thôn Giáp Ba tiếp theo sau. Về đến chùa Bi cũng là lúc đám rước
kiệu của thôn Giáp Tư tới cửa chùa. Tập kết ba đám rước của ba thôn
trước chùa, rồi thứ tự kiệu thôn anh cả (Vân Chàng) đi trước, tiếp theo là
thôn anh hai (Giáp Tư), sau cùng là thôn anh ba (Giáp Ba).
1 Theo tư liệu của các cụ: Đoàn Văn Bàng, Đoàn Châu Uân, Đoàn Văn Quang, Đoàn Văn
Lĩnh.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
271
Đám rước của mỗi thôn đều theo trật tự đội hình như sau: Cờ ngũ
hành, múa sư tử, múa rồng, phường bát âm, múa sênh tiền, hàng bát bửu, kiệu, các quan tế, các nữ quan, Phật tử vừa đi vừa tụng kinh lần tràng hạt.
Tiếp theo là tế lên chùa, mỗi thôn chọn 6 người, coi như người nhà
thánh vào chùa tiến hành lễ Phật, theo nghi thức quy định, và đọc văn tế.
Sau tế lễ là các trò chơi dân gian như thi chọi gà, đấu vật, đánh đu, cờ
người. Sau này có trò chơi kéo chữ, tiến hành cả ban đêm và ban ngày.
Các quân cờ trên có thắp đèn dầu hoặc nến.
Tối hát múa rối bằng các đầu lộng, diễn tả sự tích, ca tụng cuộc
sống thanh bình an khang và khuyên nhủ mọi người học hành nấu sử sôi kinh, ơn cha nghĩa mẹ.
Giáo Ngũ Canh, có những lời mẹ khuyên con chăm học, có chí để
nên người.
...Khi con đi học nhà thầy
Sôi kinh nấu sử đêm ngày cho chuyên
Chớ thấy nhà khó mà phiền
Đông kia lạnh lẽo, có phen xuân về
... Đường đi chớ ngại là xa
Đất kia năng đắp, ắt là nên non
Ví dù đào giếng cho sâu
Đào cho thấy nước, mới hầu nên công
Giáo Chinh Phụ, ca ngợi người phụ nữ với tình cảm tiễn chồng đi
đánh giặc
Chàng vâng mệnh khâm sai ánh tuyết
Vợ ở nhà chực tiết phòng không
Chàng đi dẹp giặc khi nay
ở nhà thiếp chịu sầu tây hỡi chàng
... Chàng đi thiếp chịu nhường lo
Lọ là chàng phải dặn dò thiếp chi
Hoặc là:
... Có đêm thở vắn than dài
Hồ nằm lại dậy ngùi ngùi ngồi lo
Có đêm gà gáy o.o!
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
272
Thương chồng gian khổ, đói no nhường nào
Có đêm nghe mõ truyền lao
Hồ nằm lại tưởng chiêm bao thấy chồng...
Trong đêm hội hát rối cạn, trước cửa chùa còn có đoạn trích chuyện
mô tả vẻ đẹp của cây lúa, ca ngợi tinh thần chiến đấu, đất nước hùng
cường, ca ngợi tình nghĩa vợ chồng, phản ánh cảnh chia ly, người đỗ
khoa bảng, học hành tới đích, đạo lý làm con đối với cha mẹ, khuyên con
gái đối với chồng... Có thể xem hát múa trong những đêm hội chùa Bi là
sinh hoạt diễn xướng rất sôi động hấp dẫn. Nét độc đáo của hội chùa Bi
là sinh hoạt diễn xướng (hát múa rối cạn, ca ngợi thần tích công đức, lẽ sống nhân sinh, cách ứng xử văn hóa của con người với cộng đồng).
Ngày 22 và 23 tháng giêng:
Sáng cúng Phật
Chiều đấu vật và các trò chơi dân gian
Tối hát múa rối chầu thánh
Ngày 24 tháng giêng:
Sáng cúng Phật
Chiều đấu vật và các trò chơi dân gian
Tối lễ tạ và đóng cửa chùa, kết thúc hội.
Ai đã đến chùa Bi và dự hội chùa không thể không ghi nhận những
nét độc đáo, những bản sắc văn hóa tốt đẹp mà hội chùa là một trong
những biểu hiện. Bản sắc ấy ở chùa Bi sẽ còn được bảo lưu và phát triển
lâu dài trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã của người Việt. Nơi
đây có hình thức diễn xướng múa rối cạn, với những tích trò sinh động,
hấp dẫn, nội dung phong phú, đa dạng truyền cảm, khuyên con người hướng thiện, nhân ái, hoà thuận phát huy thế ứng xử văn hóa truyền
thống của cộng đồng làng xã. Dù chỉ một lần vãng cảnh chùa Bi cũng
cảm nhận nét kiến trúc độc đáo của chùa từ thấp lên cao dần. Sự tích
thiền sư Từ Đạo Hạnh xây dựng và trụ trì tại chùa, lệ tục phân chia anh
cả, anh hai, anh ba để thờ phụng cúng lễ. Sự tích cờ phướn, chim quạ, là
một biểu hiện tâm tư, tình cảm của con người, của tăng ni Phật tử luôn
ngưỡng mộ và hướng tới tu nhân tích đức. Không những thế, chùa Bi còn
tồn tại cây đèn thờ Phật trăm ngọn thắp sáng.
Kiến trúc nghệ thuật, sinh hoạt văn hóa lễ hội chùa Bi xứng đáng
là điểm sáng của văn hóa chùa và văn hóa của cộng đồng người Việt./.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
273
L.N.C
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
274
Hội đỡnh - đền bổng điền
Nguyễn
thanh
Bổng Điền, vốn là địa danh dựng để đặt cho một hương của một
vựng đất nằm kề tả ngạn sụng Hồng vào thời Lý; cỳ thời kỳ dựng làm địa
danh của một huyện sau đổi thành Thư Trỡ, xưa cỳ tờn là trang Bổng Điền. Vào thời Nguyễn làng Bổng Điền thuộc tổng Bổng Điền, huyện
Thư Trỡ, nay thuộc xú Từn Lập, huyện Vũ Thư, tỉnh Thỏi Bỡnh. Trung
từm của trang Bổng Điền xưa thuộc làng Hương Đường, nay thuộc xú
Việt Hựng, nơi đặt Lăng mộ Quế Hoa, nữ tướng thời Hai Bà Trưng.
Đỡnh Bổng Điền của làng Bổng Điền nay thờ nhị vị đại vương, hai vị
tướng thời Hựng, đền Bổng Điền thờ Quế Hoa cụng chỳa. Cư dừn làng
Bổng Điền xưa đa phần cỳ gốc gỏc từ Hương Đường xuống khai phỏ lập
làng cỏch ngày nay trờn dưới 300 năm. Lễ hội làng Bổng Điền cỳ liờn quan đến nhiều làng phụ cận mà đỏm rước từ đỡnh đền Bổng Điền về
lăng mộ bà Quế Hoa ở Hương Đường vẫn được gọi tờn là đỏm rước về
làng.
Hiện tại, ở Thỏi Bỡnh ớt nơi cũn lưu giữ được cả một quần thể đầy
đủ cỏc thiết chế liờn hoàn của làng là đỡnh- đền - chựa - văn chỉ như ở
làng Bổng Điền. Quần thể di tớch được xừy dựng trờn diện tớch 16000
một vuụng, thuở trước cũn cả một ao đỡnh rộng gần 10.000 một vuụng
nằm sỏt chừn đờ sụng Hồng đủ để mở hội với sức chứa hàng ngàn người tham gia hành lễ và cỏc hoạt động đua tài giải trớ trong ngày hội.
Theo truyền thống, hàng năm làng Bổng Điền mở hội vào mồng 10
thỏng 3, chớnh hội là hai ngày 14 và 15 thỏng 3.
Nghi lễ lớn nhất, được sự quan từm và chăm lo của cả làng Bổng Điền
và cỏc làng lừn cận là đỏm rước “về làng” vào ngày 15 thỏng 3.
Khai hội ngày 14 thỏng 3 là đỏm rước nước Kiệu thỏnh mang bài
vị thành hoàng làng được rước từ đỡnh ra đền vạn chài (cũn tờn là đền Hàng Vạn) với quúng đường chừng hơn 1km. Khi kiệu Thỏnh đến đền
Vạn chài thỡ hạ kiệu, dừn làng làm lễ bỏi vọng rồi đưa lọ nước xuống
thuyền cỳ đoàn thuyền hộ giỏ xuụi dũng đến Ngú ba sụng nơi sụng Hồng
đổ vào sụng Vị Hoàng thỡ làm nghi lễ đổ nước cũ xuống, mỳc nước mới
lờn đưa về đặt lờn kiệu rước về đỡnh thờ. Sau nghi lễ rước nước là cuộc
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
275
đua trải vượt sụng Hồng của cỏc làng Bổng Điền, Vạn Chài, Đụng An.
Buổi chiều 14 cỏc trải được đưa về đua tại ao đỡnh. Cũng tại ao đỡnh, cuộc thi bơi của trai trỏng cỏc giỏp trong làng được tổ chức. Trờn sừn
đỡnh là cỏc trũ vật, chọi gà, đập niờu, cờ người... dưới ao đỡnh sau cuộc
đua chải, thi bơi là trũ bắt vịt. Tại Văn chỉ của làng là lễ tế lợn sống,
huyết mao của hội tư văn. Tại đỡnh là cuộc tế của từng giỏp theo lần lượt
12 giỏp của làng. Cũng vào chiều 14 cỏc làng Vạn Chài, Đụng An rước
kiệu từ làng mỡnh đến đền Bổng Điền làm cỏc nghi lễ tế thỏnh và chuẩn
bị đỏm rước vào sỏng hụm sau.
Sỏng 15 thỏng 3 đỏm rước với nghi thức trọng thể từ đỡnh Bổng Điền lờn lăng thờ Quế Hoa tại Hương Đường với quúng đường hơn 4km,
cả đi và về chừng gần 10km cuốn hỳt cư dừn cỏc làng Bổng Điền, Vạn
Chài, Đụng An, Hương Đường cựng tham gia. Ngoài kiệu Phật, kiệu
vừng là kiệu thỏnh của cỏc làng. Một đỏm rước khổng lồ từ mờ sỏng
ngày 15 được tổ chức xuất phỏt từ đỡnh - đền Bổng Điền dọc đờ sụng
Hồng tiến ngược lờn Hương Đường, dọc đường đi kiệu của cỏc làng
thường quay xuụi ngược dọc ngang, việc điều hành đỏm rước là cả một
nghệ thuật thống nhất cao theo hiệu lệnh chỉ huy. Riờng với làng Bổng Điền, để lo cử người vào phự giỏ phải chọn nữ đồng trinh sạch người,
sạch nết, sạch tang. Cỏc giỏp lo cử trai trỏng giỏp mỡnh vào phự giỏ.
Riờng hai nữ cầm lỏ soỏi và hai nam cầm cờ vớa phải là những người
đẹp nhất làng. Cỳ bốn người cầm lọng đi che cho người cầm lỏ soỏi và
cầm cờ vớa.
Khi đỏm rước tới địa phận làng Đụng An giữa khoảng cỏch làng
Bổng Điền và làng Hương Đường thỡ dừng kiệu. Theo tục xưa cả làng Đụng An nhà nào nhà nấy, giàu dày khỳ mỏng nấu xụi chố hoặc làm cỗ
để sẵn chờ những người đi rước vào ăn, khụng kể là cỳ thừn thiết hay
khụng. Nhà nào khụng cỳ người vào ăn coi như bị xỳi quẩy, bị dư luận
cười chờ cho nờn khi vừa dừng kiệu dừn làng Đụng An đú ra mời chào,
lụi kộo sợ nhà mỡnh ế cỗ. Khi rước đến lăng bà Quế Hoa tại Hương
Đường thỡ tổ chức tế lễ và rước từ đỳ về đỡnh đền. Đỏm rước thường
diễn ra cả ngày, cỳ năm tối xẩm mới rước về đến đỡnh đền Bổng Điền và
phải tổ chức tế đờm, sau đỳ cỏc làng Vạn Chài, Đụng An lại rước kiệu từ đỡnh đền Bổng Điền về đền làng mỡnh.
Do quy mụ rước tế trờn khụng gian rộng mấy làng như thế nờn lễ
hội đỡnh đền Bổng Điền cỳ ảnh hưởng rộng và mang tớnh chất của một
hội vựng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
276
Những năm gần đừy, ao đỡnh bị lấp để quai đờ, tục đua chải khụng
được duy trỡ nhưng sự rước tế vẫn theo như lệ cũ. Vỡ trong xú Từn Lập cỳ ba làng đều mở hội nờn lễ hội Bổng Điền cứ ba năm mới rước “về
làng” một lần.
Tự thừn những hành động hội trong hội đỡnh đền Bổng Điền đú tạo
ra tớnh cộng đồng, cộng cảm của hàng vạn cư dừn cỏc làng xưa vốn
cựng trang Bổng Điền với từm thức chung một cội nguồn./.
N.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
277
lễ hội đền cờn
yến ly
Đền Cờn là một ngôi đền cổ được xây dựng từ thế kỷ XIII nằm tại
thôn Phương Cần, xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An.
Ngày nay muốn đến đền Cờn du khách từ ngoài bắc vào theo đường 1A
đến thị trấn Hoàng Mai, rẽ tay trái, đi gần 10km là đến nơi. Đền nằm bên
cửa biển Lạch Cờn giữa một địa hình non nước hữu tình, bên dòng sông
Mai thơ mộng của huyện Quỳnh Lưu. Đền Cờn có hai đền gọi là đền
chính (đền Trong) ở phía trong cửa lạch và đền phụ (đền Ngoài) ở phía cửa biển.
Hiện nay, đền Ngoài bị hư hỏng, chỉ còn lại những tàn tích đổ nát,
được nhân dân tập hợp lại như lư hương bằng đá, tượng nghê đá, phỗng
đá...đền Trong cũng bị hư hỏng không ít, may còn giữ lại được đôi chút
kết cấu của kiến trúc.
Hầu hết các di vật còn lại ở đền được đưa vào đặt tại đền Trung.
Đó là bàn thờ, khám thờ, ngai, các tượng nghê, tượng phỗng cầm bát
hương, tượng người cầm tay thước, khám... trong đó có hai ngai cùng có tượng nữ mặc áo vàng. Phần kiến trúc còn giữ lại được ở đền Trung quả là
một công trình nghệ thuật lớn với những mảng chạm đều là những tác
phẩm điêu luyện.
Đền thờ tứ vị thánh, hiện còn ghi lại như sau: “Đại càn quốc gia
Nam Hải tứ vị thánh nương thượng đẳng thần ngọc bộ hạ”. Truyền thuyết
về các Bà đã dược ông Nguyễn Đổng Chi ghi trong Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam.
Lúc đầu, người dân Quỳnh Bảng lập đền thờ các Bà nên làm ăn rất phát đạt. Trước đây, người dân Phương Cần đẩy các Bà đi, sau nghĩ lại,
bèn họp nhau xuống cướp bài vị về thờ. Cuộc tranh dành kéo dài và bất
phân thắng bại, họ bèn đem việc này lên xin vua Bà xử kiện. Vua Bà báo
mộng bảo hai làng bốc bát hương đồng lên thờ, nếu bên nào bát hương
cháy từ dưới lên thì bên đó được chính vị thờ Người. Cuối cùng, dân
Phương Cần thắng, nhưng cũng từ đó cả hai làng đều thờ và thân thiện với
nhau. Vì vậy, hàng năm khi vào dịp hội đền Cờn lại có tục chạy ói để diễn lại sự tích ấy.
Hội chính đền Cờn xưa kéo dài từ 15 đến 21 tháng giêng âm lịch,
nhưng từ đầu tháng giêng dân làng Phương Cần đã chuẩn bị cho ngày hội.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
278
Làng có bốn giáp Nhất, Nhị, Tam, Tứ cũng là bốn tổ chức cơ bản tạo nên
ngày hội làng.
Ngày mồng sáu tháng giêng làng tiến hành cuộc tế xuân đầu tiên
để chuẩn bị vào hội chính thức. Cuộc tế diễn ra rất linh đình với đồ tế là
“lợn bồi trâu” tức là 5 con trâu thịt bỏ ruột, 5 con lợn cũng vậy nhưng
được đặt lên lưng 5 con trâu!
Sáng ngày mồng bảy tháng giêng, người ta tiến hành tế bánh dầy.
Bánh được làm to, cao, hết rất nhiều gạo. Mỗi giáp đều phải làm bốn
chiếc “bánh giống”. Bốn chiếc bánh này hết một thùng gạo (20 kg). Bánh
giống được đem ra đền thờ các vị thánh, sau đó riêng ông Seo (tên gọi người trưởng giáp) được biếu hai cái, còn lại hai cái chia phần cho cả
giáp. Ngoài ra giáp còn làm một chiếc bánh dầy to, cao, bằng cả một
thùng gạo nếp 20kg, gọi là bánh cọc. Bánh này được rước ra đền để lễ
thánh, rồi đồng dân cùng hưởng.
Sau hai ngày tế ấy là thời gian của các trai đi mừng, tức là chia
thành từng nhóm đi quyên tiền của bà con trong làng, thêm thắt cho ngày
hội. Họ có thể đi cả sang các làng bên quyên góp. Dù nhiều dù ít, nhà nào
cũng có dù tiền, gạo, hoặc vật gì đó góp chung, mong ngày hội được đông vui. Ai cũng nghĩ như một việc làm lấy may của đầu năm mới, đồng thời
tỏ rõ sự “sởi lởi” của mình để cầu sự ban ân trong năm được may mắn và
phát đạt.
Không khí hội hè kéo dài như vậy cho tới ngày rằm tháng giêng.
Dân ở đây thay câu “Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng
giêng” bằng câu:
Cả năm được rằm tháng bảy
Cả thẩy được rằm tháng giêng.
Ngày 15 tháng giêng làm lễ “nghiềm quân”, tức là rước tất cả các
đồ thờ tự như kiệu, tàn, lọng, chấp kích v.v... ra để kiểm điểm lại xem
thiếu hụt, hỏng như thế nào. Mọi thứ được bày biện, lắp ráp lau chùi bóng
loáng, cờ quạt được treo lên, được xỏ vào cán, tất cả xếp theo hàng lối rực
rỡ cả một khu đền. Ngày 16 tháng giêng người ta tổ chức rước một kiệu
có 4 tàn vàng che, lên chùa thăm sư ông, tượng trưng như thánh lên chùa
vấn an Phật. Ngày 17 tháng giêng rước một kiệu, được các nữ đảm trách có tám tàn che và các đồ thờ khác đặt ngoài chợ. Trong suốt ba ngày ba
đêm 17, 18 và 19 tháng giêng có tổ chức hát bội rất đông vui mỗi ngày
kiệu được một hoặc hai phường bán hàng ở chợ ủng hộ hương, đăng, trầu,
rượu. Thậm chí, họ còn có thể lo cả tối vui của ngày hôm đó. Cho nên vào
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
279
những ngày này cả khu vực chợ là một sân khấu hội rất lớn và đông vui
không kể xiết. Tất cả diễn ra vui vẻ cho đến ngày 20 tháng giêng. Tất cả các kiệu cùng nghi trượng được rước tập trung tại đền vào ngày 20 tháng
giêng, chờ ở đây để chuẩn bị chạy ôi. Cả ngày 20 tháng giêng trong làng
cũng như ngoài đền không khí thật nhộn nhịp. Người ta nóng lòng chờ đợi
giờ phút linh thiêng của tục chạy ôi, tức chờ đợi đức thánh động ngự (dấu
hiệu biểu hiện cho phép chạy ôi). Các cụ già làm lễ thủ giò, xem chân gà
có nóng không, đó là dấu hiệu thánh động ngự. Chạy ôi tức là chạy xuống
hòn Ôi ở ngoài biển, nơi xác đức thánh mẫu và các công chúa trôi dạt ở
đó. Nay để diễn lại sự tích “hai làng tranh nhau bài vị” người ta diễn tục chạy ôi tượng trưng. Người tham dự là của bốn giáp Phương Cầu. Qua 12
giờ đêm 20 tháng giêng, sau khi các cụ xem xét thấy đã được phép chạy
ôi, thì người chủ tế ra lệnh để người của bốn giáp đã được phân công sẵn
ai cầm gì, rước gì, rầm rập chạy. Ai chạy đến trước thì giáp đó thắng cuộc.
Sáng ngày 21 tháng giêng, mọi thủ tục đã tiến hành xong. Trong
đền tiếp tục tế lễ. Các trò vui những hôm trước diễn ra chủ yếu ngoài chợ
thì nay dồn vào đền, mà nổi bật là đua thuyền trên dòng Mai Giang trước
đền.
Ngoài đua thuyền, tại sân đền và các bãi xung quanh còn có đu,
đấu vật, đấu cờ và những trò chơi khác. Ngày hội kết thúc trong không khí
tưng bừng của mùa xuân, báo hiệu một năm mới tốt lành./.
Y.L
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
280
Lễ hội đền cuông
trần minh siêu
Do công lao dựng nước và giữ nước, ý chí bất khuất trước kẻ thù,
Thục An Dương Vương được lịch sử đánh giá là người anh hùng dân tộc,
đã nhiều lần lãnh đạo nhân dân đuổi Tần, đánh Triệu lập nên những
chiến công hiển hách, mở đầu cho việc tạo dựng nên truyền thống anh
dũng, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Để tưởng nhớ công ơn to lớn của Thục An Dương Vương, nhân dân
vùng Diễn Châu (nay thuộc xã Diễn Trung) đã lập miếu thờ ở cửa Hiền.
Theo truyền thuyết mỗi khi màn đêm buông xuống, có những đốm lửa
lập loè trên sườn núi Mộ Dạ. Nhiều người nghĩ rằng - đốm lửa là linh
hồn vua Thục muốn yên ngự trên sườn núi, nên nhân dân đã lập đền và
rước linh hồn ngài về đó để thờ phụng. Đền thờ Thục An Dương Vương
có từ đó.
Đền Cuông nằm sát đường Quốc lộ 1A, là điểm cực nam huyện Diễn Châu cách thành phố Vinh 30 km về hướng bắc. Du khách đến di
tích có thể đi bằng đường bộ, đường biển hay đường sắt, đều thuận lợi.
Nếu đi bằng tầu hoả, dọc tuyến đường sắt Bắc - Nam, tới ga Mỹ Lý
(Diễn Châu), chỉ cần đi bộ 1 km nữa là tới đền. Nếu đi bằng đường biển,
chỉ cần neo thuyền ở cửa Hiền sau đó đi 3 km đường qua núi Mộ Dạ là
tới
Theo nhân dân truyền lại, hồi đó núi Mộ Dạ có rất nhiều chim
công, đến nỗi đương thời có người gọi là núi Công. Thế núi Mộ Dạ đứng xa trông giống hình con công (hoặc con chim hạc) khổng lồ đang múa,
đuôi xoè ra đến làng La Vân, hai cánh dang rộng với những ngọn núi lúp
xúp, đầu công chính là nơi dựng đền Vua Thục. Vì thế nhân dân thường
gọi đền thờ Thục An Dương Vương là đền Công, tiếng địa phương gọi là
đền Cuông.
Niên đại khởi dựng đền Cuông đến nay vẫn chưa xác định được
chính xác, nhưng đến thời Lê mạt, danh sĩ Phạm Đình Hồ (1768 - 1839) trong tác phẩm Vũ Trung tuỳ bút đã viết: “Nhân việc nhà tôi đi qua đền
Cuông, đứng trên đầu hạc nhìn xuống, đền Thục An Dương Vương nằm
trên sườn núi, nhìn thấy cổ hạc xanh rì đàn công múa rất đẹp, qua trung
điện, hạ điện mái lợp tranh, qua ba cấp là xuống núi”. Năm 1802, vua
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
281
Gia Long đã cho tu sửa lại đền. Đến năm Giáp Tý (1864) dưới thời Tự
Đức, triều đình cho tu sửa và nâng cao như quy mô hiện nay, niên đại tu
sửa còn ghi rõ ở ván ấm nhà hạ điện. Việc tu sửa theo sắc chỉ của vua Tự
Đức phải chọn gỗ tốt, thợ giỏi về làm. Dựa trên biểu mẫu đã phê duyệt, hai hiệp thợ nổi tiếng ở Nam Đàn và Hưng Nguyên thi nhau làm. Khi
khánh thành vua Tự Đức đã ban thưởng một đồng tiền vàng mang nhãn
hiệu nhà vua để làm bảo vật của đền.
Đến năm Thành Thái thứ 10 (1897) nhà thượng điện được nâng cấp
cho phù hợp với nơi thờ phụng vị vua chủ. Năm Khải Định thứ 1 (1916)
phần ngoại thất được tu lý để hài hoà với nột thất của đền.
Đền Cuông là một công trình kiến trúc đẹp, vững chắc phù hợp với
điều kiện thiên nhiên ở xứ sở miền Trung có nhiều mưa to, bão lớn. Trên núi Mộ Dạ hiện nay là cả rừng thông bạt ngàn. Sau núi là biển cả mênh
mông ngày đêm rì rào sóng vỗ, mỗi sáng sớm mặt trời từ biển nhô lên,
tất cả cảnh vật được phủ hào quang rực rỡ. Về phía bắc dưới chân núi
Mộ Dạ là cửa Hiền lịch sử, nơi có huyền thoại khi An Dương Vương
cùng đường, thần Kim Quy đã hiện lên rẽ nuớc đưa ngài về cõi vĩnh
hằng, nơi có ngôi mộ của Mỵ Châu, một nạn nhân của thiên bi tình sử.
Bãi biển vùng cửa Hiền bằng phẳng, nước trong xanh là bãi tắm rất tốt,
đây là vùng tiểu khí hậu không có gió tây nam, những đợt gió nóng từ đất Lào trườn qua dãy Trường Sơn, về tới đây bị cây rừng của núi Mộ Dạ
chặn lại. Trên bãi biển nhô lên hàng ngàn hòn đá có hình thù giống như
những con cá biển nên nhân dân gọi là bãi đá Ngư Hải. ở đây có một
phiến đá to cao, bằng phẳng tương truyền những ngày đẹp trời, Thục An
Dương Vương thường dạo chơi và đánh cờ với tiên ở đó, nên gọi là đá
Bàn Cờ.
Khi bình minh thức dậy, cả bãi đá ánh lên vạn màu sắc rực rỡ. Có thể những hòn đá có màu sắc ở đây sẽ trở thành vật kỷ niệm cho những
ai là du khách đã từng đặt chân tới đây. Nửa chiều khi bóng núi Mộ Dạ
đổ xuống che hết cả bãi đá, thì nhiệt độ ở đây hạ xuống mát mẻ, dễ chịu,
thần kinh được thư giãn, thoải mái. Nếu con người biết gia công mỹ thuật
thì bãi đá Ngư Hải sẽ biến thành những bãi đá tự nhiên để du khách ngồi
hóng mát, giải khát, thưởng thức các đặc sản vùng quê Diễn Châu, tâm
hồn hoà quyện với biển, trời, non nước trong huyền thoại thần Kim Quy
với vua Thục, Mỵ Châu với Trọng Thuỷ...
Từ đền Cuông nhìn về phía tây chưa đầy một cây số là núi Mụa, có
dáng voi phục chầu về đền Cuông. Tục truyền rằng trên đỉnh núi này có
ngót 50 tướng sĩ của vua Thục đã tuẫn tiết. Sát chân núi Mụa có phiến đá
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
282
đồ sộ, bề mặt phẳng phiu in đậm bàn chân các nàng tiên lúc du ngoạn
trần gian. Bên phải núi Mụa là núi Bạc có dáng hình con Kim Quy (Rùa
Vàng) đang nằm im, mơ màng nhìn về đền Cuông, nhớ tới một thời oanh
liệt của quá khứ. Không xa về phía tây có động Hồng Hoa với bao huyền thoại về việc tạo dựng quê hương vùng này. ở đó có đập nước Xuân
Dương, phong cảnh nên thơ, cá nhiều và ngon, có thể là nơi bơi thuyền
câu cá cho du khách đến nghỉ mát ở bãi biển cửa Hiền.
Từ đền Cuông ra phía bắc gặp núi Lưỡng Kiên (lèn Hai Vai), một
thắng cảnh, một di tích lịch sử gắn liền với thời tiền sử và cả thời hiện
đại, là nguồn cảm hứng đã sản sinh ra nhiều áng văn thơ nổi tiếng của
bao thi nhân mặc khách. Quanh chân lèn Hai Vai có sông Bùng như một
dải lụa uốn lượn giữa màu xanh của đồng lúa rộng thẳng cánh cò bay. Trên bờ sông Bùng tại làng Lý Trai, xã Diễn Kỳ có di tích lịch sử văn
hoá của phụ tử đồng khoa tiến sĩ Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hoà thời hậu Lê,
thành Trãi ở xã Diên Hồng nơi tướng Đinh Lễ của Lê Lợi dùng kế mai
phục cướp được 300 thuyền lương của tướng giặc Minh là Trương Hưng,
buộc Tiết Phụ phải mở cửa ra hàng.
Cách đền Cuông về phía tây chừng 4km là làng Nho Lâm, nơi có
nghề rèn nổi tiếng do Lư Cao Sơn một tướng của Thục An Dương
Vương khởi tạo. Cũng tồn tại với đền Cuông, dưới chân phía tây núi Mộ Dạ, có dòng kênh uốn lượn do Lê Đại Hành đào vào thế kỷ thứ X.
Những lúc đẹp trời đứng trên đỉnh núi Mộ Dạ phóng tầm mắt ra
bốn phía, ta mới thấy được những điều kỳ thú của một vùng non nước
hữu tình, cứ ngỡ đây là nơi gặp gỡ của núi và biển, của sông ngòi và
kênh rạch của lịch sử và tình yêu.
Đền Cuông là một di sản vật chất quý giá đã được Bộ Văn hoá -
Thông tin ra quyết định số 9 QĐ/BT ngày 21/2/1975 xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá quốc gia.
Trước đây các triều đại phong kiến Việt Nam cũng đã ghi nhận,
khẳng định giá trị văn hoá quý báu, cao đẹp của di tích đền Cuông nên đã
có nhiều bản sắc phong và tổ chức trùng tu, tôn tạo. Riêng vua Tự Đức
đã tặng một đạo chiếu văn tôn vinh Thục An Dương Vương là “Nam
quốc đế Vương”, xếp đền Cuông vào hàng quốc tế.
Từ xa xưa, lịch lễ tiết hàng năm của đền Cuông thường được tổ
chức vào hai kỳ chính là ngày 15-2 (âm lịch) gọi là Xuân tế và 15-8 (âm lịch) gọi là Thu tế. Nhưng, lễ hội chủ yếu mở vào mùa Xuân trong các
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
283
ngày 14,15,16 tháng 2 (âm lịch) tức là vào dịp Xuân tế 1. Xưa, ban phụng
sự tế lễ chuẩn bị cho lễ hội đền Cuông rất long trọng và chu đáo. Đền
Cuông là đền quốc tế, nhưng việc phụng sự tổ chức tế lễ lại do tổng Cao
Xá phủ Diễn Châu đảm nhiệm. Đền Cuông còn là đền thờ thành hoàng của 4 làng quanh đền: Tập Phúc (nay thuộc Diễn An), Cao Quan, Cao ái,
Yên Phụ (nay thuộc xã Diễn Trung) gọi chung là Tứ thôn. Lễ hội đền
Cuông xưa không chỉ bó hẹp trong phạm vi tổng Cao Xá, Tứ thôn mà
quy mô của nó mở rộng ra cả vùng Đông Thành (gồm Diễn Châu, Yên
Thành và một xã thuộc huyện Nghi Lộc hiện nay). Trước mấy ngày
chuẩn bị vào đại tế ở đền Cuông, các đình phải làm lễ cáo yết và xin thần
hoàng cho phép làng mở hội và rước kiệu thần về đền Cuông (vào các
ngày 12,13-2).
Ngày 13-2, tại đền Cuông, ban phụng sự đền Cuông của Tứ thôn
tiến hành làm các lễ:
Lễ rước nước: nước được lấy từ giữa sông hoặc ở giếng, rước về
đền Cuông và các đình làng. Sau khi đám rước đến giếng, người ta trịnh
trọng đặt kiệu long đình ở một nơi cao ráo, sạch sẽ. Hai thanh niên khoẻ
mạnh (đã được trai giới), khiêng chum từ kiệu long đình xuống, đặt sát
gần miệng giếng. Một cụ già được cắt cử trước, lấy gáo dừa có cán dài,
đưa gáo ra giữa giếng múc từng gáo một đổ từ từ qua miệng vải điều căng qua miệng chum sau đó khiêng lên kiệu rước về đền Cuông.
Lễ mộc dục: ngay sau lễ rước nước, làng cử hành lễ mộc dục, rửa
tượng thần, đồ tế khí, long ngai...
Tế gia quan: sau khi lau rửa, làm lễ khoác áo mũ cho tượng thần
(đốt vàng mã), sau đó bắt đầu tuần tế trước long kiệu (gọi là tế gia quan).
Ngày 15-2, tổ chức lễ tế thần (đại tế), mục đích thỉnh mời và đón
rước thần linh về dự hội để dân làng chúc tụng, tỏ lòng biết ơn đấng thần linh. Đây là nghi lễ trang trọng nhất trong hệ thống lễ. Sáng ra,
trống, chiêng gióng 3 hồi 9 tiếng. Mọi chức sắc, bô lão tề tựu đông đủ, lễ
phục trang nghiêm vào cuộc tế thần. Nói chung nghi thức tế lễ ở đền
Cuông cũng là nghi thức tế lễ cổ truyền như ở các nơi khác, nhưng xưa,
các vị về tế lễ ở đền Cuông đều là các quan về hưu và quan chức đương
triều, người nào cũng áo mũ cân đai, làm cho buổi tế thần càng uy
nghiêm, không khác gì một buổi thiết triều trước cung điện nhà vua. Chủ
tế trong lễ chính Xuân tế và Thu tế hàng năm là tổng đốc An Tĩnh. Năm
1 Tư liệu viết về phần lễ hội dưới đây, chúng tôi tham khảo Đền Cuông- di tích và lễ hội –
Luận án thạc sĩ khoa học văn hoá của Lương Khải Hoàn- Hà Nội 1997.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
284
đại lễ (4 năm một lần vào các năm Sửu, Tỵ, Dậu), chủ tế là quan đại thần
của triều đình là người trong vùng, đã hưu. Trước đây có Đông Các học
sỹ Cao Xuân Dục, Tế tửu hoàng giáp Đặng Xuân Thụy đã từng làm chủ
tế tại đền Cuông.
Buổi tế kéo dài thường là 2 tiếng đồng hồ, qua 40 lần xướng và
thực hiện, kể từ khi “khởi chinh cổ” tới “lễ tất”. Sau lễ tế thần là rức
kiệu. Đám rước thần ở đền Cuông xưa được tiến hành như sau: Đi đầu
đám rước là cờ tiết, cờ mao. Tiếp đến là 5 lá cờ ngũ hành, mỗi cờ một
màu tượng trưng cho một thứ vật chất (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ), tiếp
đến là 4 lá cờ tứ linh. Tiếp đến là lá cờ bát quái. Các chân cờ đội nón
dấu, áo nâu, nẹp đỏ, thắt lưng bó que. Tiếp sau đó là đám người mang
biển hồi ty, tĩnh túc, trống cái, chiêng vừa đi vừa đánh theo nhịp đã quy định.
Kế tiếp là một ngựa hồng, ngựa bạch bằng gỗ to như ngựa thật,
được trang trí rất đẹp đặt trên bệ gỗ có 4 bánh xe, mỗi bên có 2 người
kéo. Ngựa có tán lọng che và có người vác hiệu đao đi hộ vệ. Kế tiếp là
đoàn người vác chấp kích, đồ lỗ bộ, phường nhạc đồng, con đĩ đánh
bồng, đám người mặc trang phục nhà lính mang kiếm lệnh, rồi đến
phường bát âm, đám đô tuỳ khiêng long đình, long kiệu. Các bô lão,
chức sắc ăn mặc lễ phục, dân làng đủ mọi lứa tuổi đi sau đám rước.
Đám rước một vòng từ đền Cuông xuống các làng sau đó lại rước
về đền Cuông (hoàn cung):
Trong lúc đó, ở khu vực xung quanh đền, người trẩy hội kín cả một
vùng, các phe, giáp, phường hội náo nức đua tài. Buổi tối, các phường
tuồng, chèo, hát ca trù, hát giao duyên, ví phường vải, hát dặm... Ban
ngày có đánh đu, cờ người, đấu vật, chọi gà, kéo co, múa lân, rồng, nấu
cơm thi, làm nham (nộm).
Độc đáo của cuộc nấu cơm thi ở hội đền Cuông là theo hai thể loại:
nấu cơm cần và nấu cơm canh cóc, đã đi vào câu ca:
“Đi coi (xem) một bữa cơm cần
Bõ công nhớp áo (bẩn), nhớp quần cả năm”.
Hay: “Thôi đừng rầu rĩ nữa em
Sửa soạn khăn yếm đi xem cơm cần”.
Qua phần trình bày ở trên, có thể rút ra nhận xét là: lễ hội đền
Cuông, phần lễ chiếm nhiều hơn phần hội.
Lễ hội đền Cuông, trong mấy chục năm qua, do nhiều nguyên nhân,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
285
không tổ chức được. Năm 1993, UBND huyện Diễn Châu bắt đầu cho
khôi phục lại, xuân ất Hợi (1995) được sự đồng ý của tỉnh uỷ, UBND
tỉnh, Sở Văn hoá - Thông tin, Sở Thể dục thể thao phối hợp với UBND
huyện Diễn Châu tổ chức lễ hội đền Cuông nhằm phục hồi lại các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và để góp phần thoả mãn nhu cầu
hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của quần chúng nhân dân./.
T.M.S
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
286
Rước bánh vía ở hội Bình Đà
Lê Trung Vũ
Xã Bình Minh thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây là một xã lớn.
Về đường bộ, xã nằm trên ngã ba đường 71 và 22. Về đường thủy, xã
nằm ven sông Đáy, gần ngã ba sông Đáy và sông Đỗ Động. Xã cách Trung tâm Hà Nội 24km, vẫn được coi là vành đai phía Tây, bảo vệ kinh
đô từ lâu đời.
Thôn Bình Đà thuộc xã Bình Minh có hai ngôi đình đẹp là đình Nội
- còn gọi là đình Trong và đình Ngoại gọi là đình Ngoài. Đình Nội thờ
Lạc Long Quân, theo truyền thuyết là thủy tổ người Việt. Làng còn giữ
được nhiều tài liệu quí của đình như thần phả, sắc phong, chiêng đồng,
đồ thờ, các bia thời Lê, Nguyễn, và một số bức giá tượng (phù điêu) lớn
rất giá trị. Năm 1985 đình Nội đã được xếp hạng là di tích lịch sử - nghệ thuật. Đình Ngoài ở bìa làng, giáp đường 22. Đình mở cửa hướng Nam,
đón gió mát, đứng trên thế đẹp "lục long triều hội" (6 rồng chầu về).
Đình thờ Lý Lang Công, con vua Lý Thái Tông (1028-1054). Ông trở
thành thành hoàng làng, có công đánh giặc Tống và cứu hạn cho dân.
Hội Bình Đà mở ngày 6 tháng 3 (âm lịch), chính hội, chung cho cả
hai đình. Mồng 5: giáp hội, từ sáng sớm cửa đình đã rộng mở để cử hành
lễ mộc dục Thánh vị (lau bụi và lau nước thơm ngũ hương). Trống
chiêng nổi ba hồi chín tiếng báo cuộc thi xôi chè làm vật phẩm dâng thánh. Cỗ nhất làm lễ phẩm đình Trong, cỗ nhì: lễ phẩm đình Ngoài.
Tiếp theo là hóa mã và đại tế. Sang giờ mùi (13 giờ-15 giờ) trống chiêng
lại nổi âm vang. Mọi người sửa soạn cuộc rước kiệu "giao hoàn". Đây là
việc rước sắc từ đình Trong ra đình Ngoài rồi trở về. Sắc của bố (Lạc
Long Quân: Quốc tổ) gửi con đi đánh giặc giữ nước. Con (Linh Lang) là
biểu tượng của thế hệ tiếp nối dòng dõi Quốc tổ. Đám rước có đội múa
rồng, múa lân lượn lên, lượn xuống như đón như đưa.
Hoàng hôn, cuộc rước đuốc mới từ đình Ngoài quay về đình Trong.
Đây là đám rước lớn nhất. Trống chiêng "tùng dinh" cùng nhạc phường
bát âm râm ran bầu trời lễ hội trong buổi chiều tà cuối xuân. Cờ đủ loại,
đủ màu rực rỡ khắp nẻo đường dẫn về hội: cờ ngũ hành, cờ tứ linh, cờ
hàng giáp. Múa xênh tiền có, tiếng trống cơm hòa nhịp. Rồi giá trống giá
chiêng, bát bửu, đèn lồng sáng mờ một màu vàng mát.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
287
Nhà dân hai bên đường đều kê bàn thờ ra cổng đón hội lễ vọng.
Trời tối hẳn, các xóm đều có đuốc, nối tiếp nhau "bật hồng" sáng rực trời đêm. Hòa vào chiêng trống, xênh tiền, đàn sáo là tiếng reo hò rào rạt của
dân làng dự hội, vừa dân dã vừa linh thiêng: vừa ồn ào vừa hùng tráng
tất cả đồng thời dấy lên trong không khí tràn đầy tươi vui mà cổ sơ, như
muốn lôi con người về quá khứ xa, tưởng như đây là cuộc hành hương
của đoàn người ngoan đạo thành tín trở về đất tổ của mình.
Giờ Tuất (19-21 giờ) đám rước lớn tới cổng đình Trong. Đám rước
lớn tạm dừng, chào đón đám rước của các chùa vừa tới. Đám rước nhà
chùa không ồn ào mà đầy vẻ tôn kính nghiêm nghị với những lá phướn dài - cờ nhà Phật - cùng đoàn sư sãi trầm lặng, khiêm nhường, vừa đi vừa
lần tràng hạt trong đồng phục nâu sồng đồng nội thân quen. Vật phẩm
nhà chùa đều là cỗ chay xếp ngăn nắp trên những mâm đồng do các sãi
đội: 100 phẩm oản, 100 quả chuối, 100 miếng cau đậu, 100 ghế chéo (1).
Đại lượng giống nhau giữa các loại vật phẩm mang tính biểu tượng gợi
nhớ tới vị quốc tổ của nòi giống Lạc Hồng. ấy là hình ảnh 100 quả trứng,
100 con trai như cái vốn ban đầu của dân số, tộc người.
Năm gian đình Nội đèn nến sáng trưng khói hương nghi ngút ngan ngát thỏa thơm. Vật phẩm dâng trình vừa xong thì mâm bánh trôi thờ gọi
là bánh vía, bánh thủy cùng vừa rước tới. Chủ tế nhận đưa ngay vào hậu
cung dành cho nghi lễ đặc biệt ngày mai, mồng 6, chính hội.
Cửa đình lần lượt đóng lại. Sự yên lặng bên trong tạo thành không
khí thiêng. Chỉ còn hai chủ tế, bốn trùm, bốn giải quán tiến hành lễ thỉnh
bách thần về phù hộ cho dân làng, làm ăn phấn chấn, mùa màng thịnh
vượng.
Còn phía ngoài, sân đình rộng lớn là thế mà như không sao chứa
hết người, với tiếng cười nói, reo hò từng đợt vang dậy trong trò đêm
tràn đầy sức sống.
Pháo bông đã phát sáng lấp lánh đủ màu với nhiều trò vui trên mỗi
tầng của cây pháo: người đi cầy, người múa côn, cảnh đấu vật... hoặc các
trò như Thạch Sanh đánh trăn tinh, cô Tấm đi chơi hội... Mỗi tích trò
thường kèm theo một loại pháo. Và cuối cùng, ở tầng cao nhất thường là
tầng pháo thăng thiên vút lên, đồng thời lóe đủ bảy màu, gọi là "thất tinh", được người xem tấm tắc là may mắn, hoàn thiện. Vì đó là bảy sắc
cầu vồng, màu của trời đất, đại lượng đầy đủ của cảnh sắc thiên nhiên.
(1)
Ghế mã, để 100 con trai Lạc Long Quân - Âu Cơ về hưởng lộc, dự lễ, an tọa.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
288
Trời - Đất - Người hòa hợp, theo triết lý phương Đông, ý là hạnh phúc
trọn vẹn, đầy đủ.
Ngày Chính hội: mồng 6. Trong đình chỉ có chủ tế cùng bốn trùm
cai nội đang kính cẩn bày biện xem xét lễ vật cho đám rước vía, gồm:
nước trong (1 bát), trầu cau (1 tráp), tiền mã (100 tờ), oản lớn (12 phẩm),
bánh thủy (bánh vía 3 viên) đậy kín trong đài.
Sáng rõ mặt người, trống chiêng gọi hội ba hồi chín tiếng dõng dạc
vang lên lan rộng như nhắc nhở, lại như giục dã dân làng tới. Chủ tế,
trùm cai xem xét từng mâm, đặt vào đúng nơi thờ như ngọc phả qui định.
Rồi, cửa đình đóng lại. Lễ cầu cúng diễn ra như đêm qua.
Khoảng một giờ sau, lễ tất, cửa đình mở rộng, chiêng trống, đàn nhị
nổi lên hòa tấu, báo hiệu nghi lễ mới: lễ múa cờ, múa bông: đón mời và
cầu nguyện quốc tổ. Cuộc tế đã sửa soạn sẵn, tiếp ngay sau hai lễ múa
trên. Tế trong đình Nội đồng thời cầu ở Thiên Quan, ở đài tế trời, đất,
trước đình, phía bên trái. Các giáp mang lễ lợn (lợn cả con, sạch lông,
sạch lòng) bày la liệt quanh đài. Mỗi nơi một chủ tế đảm nhiệm.
Chủ tế tới đàn trời đất đọc văn, lời thiết tha, giọng trầm bổng xúc
động lòng người, cảm hóa trời đất: "Thiết nghĩ âm dương đều cảm, giời đất lưu thông, u hiển tuy khác, thành tâm như một. Ngày này, giờ này,
nước Đại Việt, phủ ứng Thiên, huyện Thanh Oai, xã Bảo Đà, quan viên,
chức sắc kỳ mục, lý dịch cùng trên dưới, già trẻ mười sáu giáp, hàng năm
mở tiệc cầu phước vào ngày mồng 6 tháng 3, kính mời..."
Nghi thức đặc sắc nhất của hội sắp bắt đầu: lễ Rước Bánh Vía.
Sau một hồi trống chiêng âm vang kéo dài, kiệu bánh vía được rước
vào cầu Thiên Quan trước. Bánh ba cái, chỉ được biết như vậy, không ai trông thấy bao giờ, để trong đài đậy kín. Kiệu có lọng, tàn, quạt hầu hai
bên. Trống khẩu đi theo đám rước giữ nhịp và giữ thăng bằng. Sau kiệu
là hai ông chủ tế đình Nội, đình Ngoại cùng Tiên chỉ, hai ông từ, hai ông
trùm thôn cai và đại diện gia đình làm bánh vía.
Bà con chen chúc nhau quanh giếng chùa Cả chờ đợi. Nhạc trống
chiêng "tùng dinh" cùng phường bát âm reo vui đưa đám rước tới bên
giếng. Viên cầm đuốc dẫn đường (mặc dầu lúc này vào giờ ngọ - 12 giờ
trưa). Tàn, cờ, quạt, vải phủ kín đài bánh. Ba người yên lặng, thành kính, chậm rãi bước tới sát mép nước. Tại đây đã quây sẵn một khung cót tròn.
Đọc mật khẩu xong, chủ tế mở đài lấy từng chiếc bánh bóp nát thả xuống
nước (trong khung cót). Bánh chìm hết mới tốt và người hành lễ mới tròn
trách nhiệm. Ba người yên lặng đi lên. Đám rước về đình Nội làm lễ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
289
Buổi chiều có cuộc rước "hoàn cung". Rước cả sáu kiệu từ đình
Trong ra đình Ngoài. Đến nơi lễ cáo trình Thánh xong, để lại ba kiệu, còn ba kiệu rước trả về đình Trong (hoàn cung).
Hết hội, người dân Bình Đà đều tin Đức thánh quốc tổ Lạc Long
Quân và Đức Thành hoàng Lý Lang Công sẽ phù hộ cho dân làng như
lời ghi trong Ngọc Phả: Cầu cho con người bình yên, mạnh khỏe, sống
lâu, lúa tốt, của nhiều, muôn đời sung sướng. Và con người Bình Đà,
luôn nghĩ tới sự hài hòa âm dương, hòa hợp con người với vũ trụ, biểu
hiện ở quan niệm "thiên thời - địa lợi - nhân hòa" để hạnh phúc trọn vẹn
trong cuộc sống./.
L.T.V
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
290
Chùa và hội bối khê
Trần lâm biền
Đông tàn! Nhà sư vừa đi vừa bấm đốt tay- ngày hội đã đến gần-
Một tiếng chuông trong veo như hoà mênh mông vào cát bụi đem nguồn
vui nhắc nhở muôn nhà. Như lệ thường, các lão ông, vãi bà theo tiếng gọi
truyền kiếp mà lên chùa, lòng già như trẻ lại, hăng hái tham gia vào các
công việc chuẩn bị cho hội. Vừa lao động các cụ vừa ôn lại sự tích và các
mặt văn hoá của chùa.
Nằm trên địa phận xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, được xây dựng từ thời Trần, đã qua nhiều lần trùng tu, Chùa ở ngay đầu
làng Bối Khê. Từ ngoài vào, trước chùa là một bãi rộng. Qua bãi rộng sẽ
đến một cổng gạch, là cổng chùa mà đồng thời cũng là cổng làng. Sau
cổng là con ngòi nhỏ, dấu tích của dòng sông Đỗ Động thuở xưa, có nhịp
cầu nhỏ vắt ngang. Qua cầu sẽ tới tam quan của chùa- một kiến trúc ba
gian, hai tầng tám mái; tầng trên là gác chuông. Chùa làm theo kiểu “nội
công ngoại quốc”: phía trước là nơi thờ Phật, phía sau là nơi thờ thánh,
hai bên là hai dãy hành lang, mỗi dãy bảy gian, bày tượng tổ truyền đăng; quây quanh bốn phía, bao bọc lấy thượng điện. toà này dựng trên nền
cao, cột to và thấp, đầu đao góc mái uốn cong thanh thoát; các bộ phận
kiến trúc bằng gỗ chạm trổ khá công phu, mang dấu ấn nghệ thuật điêu
khắc trang trí thời Trần, nhất là những đầu bẩy chạm rồng ở hàng hiên,
đặc biệt có một đầu bẩy ở góc mái bên trái, ngoài hình rồng còn chạm
hình chim thần. Trong chùa còn giữ được nhiều di vật và đồ thờ quý.
Phía trong cùng của toà thượng điện đặt một bệ đá thờ Phật có từ thời
Trần, thuộc loại lớn. Bệ chia làm nhiều tầng, trên cùng là đài hoa sen; thân bệ tạc hình rồng, thú, hoa lá; bốn góc bệ tạc hình chim thần. Chùa
còn có bốn cây đèn gốm thời Mạc, trang trí hình cánh sen và hình rồng
đắp nổi. Đặc biệt có “đôi cây thiêng”, trồng trong chậu đắp núi giả, tất cả
đều bằng gỗ, sơn son thếp vàng, rất đẹp. Quá trình xây dựng chùa và sự
tích đức thánh Bối thờ ở chùa được ghi lại trên nhiều tấm bia, trong đó cổ
nhất là bia “Bối Động thánh tích bi ký” có niên đại giữa thế kỷ XV.
Trong khuôn viên chùa có nhiều cây cổ thụ, vườn hoa cây cảnh xen giữa những cụm kiến trúc, làm tôn thêm vẻ thanh nhã, u tịch của chốn thiền
lâm.
Hồi ấy, vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nhà sư đạo
sĩ Nguyễn Bình An, một người có công xây dựng lên ngôi chùa này. Ông
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
291
thường đi lại giữa Sở (Trăm Gian) và Bối Khê, dùng tâm từ bi mà kết chạ
hai làng. Truyền rằng, mẹ ông dẫm vào vết chân người khổng lồ trên đá mà sinh ra ông. Và vết chân ông cũng đã để lại những ao nhỏ trên bước
đường đi từ làng nọ tới làng kia. Ông đi guốc trên nóc nhà để trông coi
thợ, dùng một niêu cơm và vài quả cà mà thợ ăn mãi không hết. Thế rồi,
khi ông viên tịch, dân làng chịu ơn đã ướp xác ông thành tượng để thờ.
Tới khi quân Minh sang, chúng đốt tượng ông, bị một trận mưa máu mà
tan tác. Rõ ràng là Nguyễn Bình An đã trở thành một nhân vật được xây
dựng từ những mảnh vụn huyền thoại để thành vị thánh mang hình bóng
của anh hùng văn hoá. Một quan niệm chung, rất xưa, về bước đi của loai người, cho rằng: Khởi thuỷ, con người mang thân hình to lớn, song
không được linh lợi, họ như một sản phẩm không hoàn chỉnh của tạo
hoá. Như vậy cần phải tạo lập lại- một trận đại hồng thuỷ đã cuốn sạch
họ khỏi thế gian- Sau đó, giống người như hiện nay đã dần thành hình.
Giống người khổng lồ đó thường để lại dấu vết trên đá, và người đàn bà
nào vô tình dẫm vào vết tích này sẽ thu hút lấy cái tinh khí của họ mà
sinh ra thánh nhân... Có lẽ truyền thuyết về sự ra đời của đức thánh Bối
đã phần nào mượn từ sự tích Phù Đổng (?), để rồi con đường dài khoảng 20km, với ngài chỉ còn vài bước. Song, cũng như vậy chúng ta gặp vết
chân của ngựa Phù Đổng trên đường lên núi Sóc, vết chân của Nguyễn
Minh Không ở Nam Định và Thái Bình. Thực ra, đó là những ao nước
cứu hạn nằm rải rác trên khắp các ruộng mùa (không thấy ở ruộng
chiêm), những ao này vô cùng cần thiết với cư dân Việt sử dụng nước tại
chỗ cho nông nghiệp (nước mưa). Chúng được linh thiêng hoá trong sự
bảo trợ của thần linh. Sự kiện này có gì liên hệ với việc nhà sư khâu Đà La cho man Nương, hay một vị thần linh ngoài biển cho Chử Đồng Tử
chiếc gậy để cắm xuống đất thì nước mới phụt lên cứu dân chống hạn...
Một sự kiện đáng lưu tâm về thánh Bối còn như có nét bắt nguồn từ
truyện Thạch Sanh trong sự tích niêu cơm. Tất cả đã hội lại thành đức
thánh linh thiêng quyền năng vô lượng, có hơi hướng của tối thượng thần
Siva, nguồn sinh lực vĩnh cửu, tạo mọi của cải nông nghiệp. Truyền lại,
pho tượng của ngài mang màu cánh dán đậm gần gũi với màu tượng Phật
Tứ Pháp. Sau này tượng thánh được đúc bằng đồng, song vẫn giữ màu đậm. Màu sắc ấy gắn với Siva thuộc đạo Bà la môn và phần nào gắn với
nguồn nước.
Với vị thánh đặc biệt này mới có ngôi chùa đặc biệt. Cũng như
chùa Keo (Thái Bình), chùa Thày (Hà Tây)..., chùa Bối Khê vừa thờ Phật
vừa thờ Thánh, với các điện thờ riêng. Đó là một ngôi chùa gỗ mít mang
nhiều dấu vết của kiến trúc vào thế kỷ XIV xưa nhất còn lại ở nước ta-
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
292
Trên đó, những chiếc cột, chiếc xà, đầu bảy nặng nề bằng gỗ mít đã hằn
lên những đường gân thời gian, rồi nhiều mảng chạm rồng phượng hoa lá vô cùng đẹp của đương thời, còn làm rung động tâm hồn người hoài cổ-
một điện thánh hai tầng mái, với các “đấu củng” không xa cách ở gác
chuông chùa Keo nổi tiếng- Trong hai nơi ấy còn lưu giữ một mang
nhang án đá lớn (dài hơn 3m) đầy nét nghệ thuật (của yếu tố phương
nam) có niên đại 1382; một tượng Quan Âm Thiên Thủ lớn điển hình của
nghệ thuật thế kỷ XVI, nhiều bia đá thế kỷ XV- XVII, rồi tượng đức
Thánh, nhiều đồ thờ gỗ rất quý và những viên gạch hòm sớ trang trí linh
vật... Tất cả đã tạo cho ngôi chùa có một giá trị tự thân đích thực đáng tự hào. Và, hơn hết neo trong ý thức mọi khách hành hương vẫn là ngày hội
cùng các lễ tiết riêng của chùa, điển hình là lễ cầu mưa.
Người Việt là một cư dân nông nghiệp lúa nước. ở châu thổ Bắc bộ,
phần nào được thiên nhiên ưu đãi, nên trong sản xuất họ chưa có nhu cầu phổ
cập về mương- phai, (thuỷ lợi) như một số cư dân khác quanh vùng. Nguồn
nước chủ yếu là nước tại chỗ, tức nước mưa.
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy nước tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun nước
ý thức cầu nước từ trên trời luôn thường trực, thông qua các nghi
lễ cầu mưa. Hiện tượng này cũng phổ biến trong cư dân Việt ở khắp các
vùng. Tại chùa Bối Khê (Thanh Oai- Hà Tây), việc cầu mưa có lẽ là một
trong những nơi còn giữ được nhiều tập tục hơn cả.
Nơi đây, ngôi chùa là một trung tâm văn hoá làng xã chứ không
phải đình, song chùa lại lấy việc thờ thánh là chính. Các chùa dạng này không có sư mà chỉ có ông Thống lo việc đèn hương. Trong nhiều nghi lễ
cầu mưa ở Bối Khê trước đây, vị thánh và ông Thống có vai trò quan
trọng với dân và với hội.
Dân quanh vùng Bối Khê tôn thờ, sùng kính Thánh tuy không
mấy người được chiêm ngưỡng tượng Ngài. Pho tượng này luôn được
dấu kín ở hậu cung; vào những ngày nhất định trong năm, chỉ một vài
người được vào làm lễ “mộc dục” (tắm tượng) hoặc thực hiện những “
Hèm” nào đấy.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
293
Rất may mắn, trong một lần đi khảo sát điền dã, chúng tôi đã
được vào hậu cung xem tượng. Đây là một pho tượng lớn, kích thước gần bằng người thật. Tượng có trang phục theo lối phổ biến của những nhà
quyền quý thế kỷ XVII- XVIII. Đầu đội khăn Thanh Cát ôm sát đầu rồi
rủ dài xuống lưng, áo quần và da thịt được tạo màu sẫm. Khuôn mặt có
vẻ dữ tợn, như thường thấy ở các tượng loại này, (tượng Minh Không ở
chùa Keo, tượng Từ Đạo Hạnh...) mắt đau đáu nhìn sâu vào tâm, vào cõi
mông lung. Tượng được tạc theo thế “kiết già phụ tọa” như các tượng
Phật.
Khi trời đổ nắng mãi mà không mưa, mọi thứ cầu cúng khác đều không linh nghiệm, thì các già làng ăn chay, cầu niệm, cùng ông Thống
vào lễ thánh. Các cụ vào lễ phải “quang quẻ” (không vướng tang trở,
không gặp chuyện gì xấu- rủi, gia đình hoà thuận…). Cỗ cúng xong,
tượng thánh được rước ra phơi nắng ngoài sân. Hành động có vẻ “phạm
thượng” như mâu thuẫn với việc tôn sùng Thánh này, được tư duy dân
dã, chân chất của người nông dân lý giải một cách đơn giản đến ngây
thơ: Ngồi trong khám kín ở hậu cung, có lẽ Đức Thánh không biết trời
đang hạn. Dưới cái nắng thiêu đốt, Ngài sẽ đồng cam cộng khổ thông cảm với khao khát của người nông dân mà làm mưa xuống. Lễ thức cầu
mưa còn diễn ra ở tục “tróc rồng”.
Vào một ngày thiêng được chọn, ông Thống và dân làng bện rơm
thành năm con Rồng lớn (+), đặt ở sân chùa, tượng trưng cho năm
phương, mỗi con hướng về một phía, con giữa chầu vào chùa. Miệng mỗi
rồng ngậm một ống đu đủ, cắm vào siêu nước trong tiếng trống ầm ĩ, ông
Thống cầm kiếm đứng trên thềm chùa múa võ “loạn xạ” theo một bài chỉ mình ông biết. Đồng thời, ông la hét và lảm nhảm đọc thần chú, toàn
những lời chẳng ai nghe kịp hay không hiểu nổi. Cuối cùng, ông xá dài
vào chùa. Toàn dân chờ đợi, hương khói nghi ngút cho đến lúc những hạt
mưa đầu tiên rơi xuống.
Nhưng cũng có khi trời vẫn không mưa được. Ông Thống lại
đứng lên múa võ, bắt quyết, niệm chú, cuối cùng hét lớn và vung kiếm
chặt vào đầu một con Rồng để ra oai. Con Rồng “ương ngạnh” bị trừng
phạt thường là con Rồng hướng Bắc, vì dân gian dã nghiệm rằng: “cơn đằng Bắc chưa chắc đã mưa” (?) đồng thời đó là hướng hắc ám.
Từ bao đời, người Việt tin rằng Rồng là chủ nguồn nước. Con vật
linh thiêng và huyền thoại này luôn là đề tài chính trong điêu khắc cổ ở
chùa- đình... như một biểu tượng cho hạnh phúc nông nghiệp. Vì vậy khi
có hạn hán người ta viện tới Rồng. Tư duy dân dã vùng Bối Khê trong
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
294
giai đoạn muộn mằn đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của việc cầu đảo kiểu
Trung Hoa khi phân không gian làm năm phương. Năm con rồng rơm từ Đông- Tây- Nam- Bắc và Trung phương sẽ hút nước các biển (tượng
bằng năm siêu nước) để làm mưa.
Ông Thống lúc đó được coi là hóa thân của thánh. Bản thân thánh
Bối (hay Từ Đạo Hạnh, Minh Không...) xưa kia tu hành theo lối Mật
tông, thông phù chú nên cũng thường hành phép ấn- quyết, cầu đảo giúp
dân. ở ông Thống cũng còn thấy bóng dáng của ông mo Mường được
Việt hoá và phức tạp hoá trong sự hỗn dung giữa tín ngưỡng dân gian
Phật giáo và yếu tố Đạo Trung Hoa.
Hai nghi lễ cầu mưa kể trên được tổ chức như những “liệu pháp
cấp cứu” tức thời. Để mong mưa thuận gió hoà, dân vùng Bối Khê còn lễ
Mẫu và có tục đốt pháo đầu xuân.
- Lễ Mẫu được tổ chức vào các ngày Sóc- Vọng hàng tháng (lịch
Trăng) trong điện Mẫu – một ngôi đền riêng trong khuôn viên chùa Bối
Khê. Đây là một điện Mẫu nông dân vì Tam Toà chỉ có Mẫu Thiên- Mẫu
Thoải- Mẫu Địa. Mẫu Thượng Ngàn thờ riêng ở một ban thờ khác.
(Nhiều điện Mẫu ở thành phố đặt Mẫu Thượng Ngàn ở vị trí Mẫu Địa, nhằm cầu xin “tiền rừng- bạc biển”, bàn thờ kiểu này đã bị tầng lớp
thương nhân chi phối làm biến đổi). Tư duy nông nghiệp mong mẫu
Thiên ban cho sự thuần hoà về khí tiết, xin mẫu Địa sự phì nhiêu cho đất
đai, và cầu ở mẫu Thoải (Thuỷ) nguồn nước đầy đủ để trồng cấy. ở nhiều
nơi, mẫu “Thủ Điện” là Mẫu Thoải. Dân làng Bối Khê bầy tượng Tam
Toà ngang hàng, nhưng năm nào ít mưa họ rước Mẫu Thoải nhô hơn về
phía trước như để Mẫu nghe rõ hơn những lời câù cúng.
- Hội Pháo đầu xuân không chỉ có ở Bối Khê, nhưng như ở Đồng
Kỵ (Hà bắc) thì tổ chức ở sân đình và chùa với việc thi pháo lớn. ở hội
Pháo Bối Khê, thì tư duy liên tưởng về các hiện tượng tự nhiên đã rõ nét
và phong phú hơn qua tục thi đốt pháo màn than. Tục này đã lâu không
làm nên chỉ còn trong ký ức của mọi người.
- Khoảng gần trưa ngày 12 tháng giêng âm lịch hàng năm, các
thôn trong làng Bối Khê thi đốt pháo. Người ta đặt trên ngọn một cây tre
(cao khoảng 15- 17m) một khung giấy tròn (đường kính 40- 50cm) quét dày thuốc pháo dễ bắt lửa, xung quanh gắn nhiều pháo con và ở giữa có
một quả pháo đại. Cách đốt bằng Nhị Thanh hay Thăng Thiên đặt dưới
đất, cắt thuốc vừa đủ, sao cho khi châm lửa nó bay lên vừa tới màn than
thì nổ, tạo lửa gây cháy màn, rồi dẫn nổ đến pháo con và pháo đại. Mỗi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
295
thôn chọn một số người ra đốt pháo, những người này phải hoàn toàn
trong sạch, lý lịch rõ ràng, gia đình không có điều xấu, không tang ma... Lệnh gọi thôn cả vào trước, một người trung niên, mặt thành kính bước
lên, hai tay nâng chiếc pháo xá dài vào chùa, miệng lầm rầm những lời
cầu nguyện, sau đó bước ra, đặt pháo chiếu lên màn than- Ông chỉnh đi
chỉnh lại chiếc pháo trong sự hồi hộp của mọi người, giờ quyết định đã
tới, ông thổi lửa bùi nhùi, châm vào đóm, tay run run đưa vào ngòi pháo.
Một tiếng xèo (hay tiếng nổ) khô khốc, và, chiếc pháo bay lên... Bao con
mắt nhìn theo với một thoáng cầu mong. Nếu ngay từ chiếc pháo đầu mà
màn than đã cháy nổ, thì được coi là một báo hiệu tốt lành cho cả vùng, còn nếu không, thì, thôn thứ hai, thứ ba... thay nhau vào đốt, mọi nghi
thức được lặp đi lặp lại cho tới khi một thôn nào đó làm cháy được màn
than.
Có khi sự việc đốt pháo phải quay tới hai ba “vòng” và cuối cùng
mọi việc đều tốt đẹp. Cuộc đốt pháo chỉ có người thắng mà không có ai
thua, người thắng được dân thôn reo hò công kênh tới trước cửa Phật tạ
ơn và lĩnh thưởng. Người ta tin phúc lớn do Thánh ban sẽ đến với mọi
nhà trong thôn người đốt được màn than.
“Đệm đàn” cho pháo màn than là pháo tràng và các thứ pháo khác
tạo niềm xúc cảm- Có thể hiểu được ý nghĩa tục đốt pháo này như sau:
Màn than đen sẫm thuốc pháo được nhìn nhận như một bầu trời
mây đọng nước. màn than bắt cháy ngoằn ngoèo theo vệt thuốc là hình
ảnh những tia chớp. Rồi râm ran pháo con là tượng của sấm rền. Tiếng
nổ lớn cuối cùng là sấm đại. Tất cả làm nên một tiếng vọng của cơn mưa
như nhắc nhở đất trời thực hiện nhiệm vụ- hãy theo sự gợi ý của chúng tôi đây, mà nổi sấm lên gọi mây mưa về cho mọi miền no ấm. Rồi sau
hội người ta như cảm thấy đó đây những chồi non thập thò trên mọi nẻo,
gọi ngọn xuân phong và thời gian chuyển động để hạt mưa bay và mùa
màng xanh tươi mát mắt người trồng. ý nghĩa cầu mưa theo cách diễn và
nhại lại tự nhiên để rồi “gợi ý” cho Trời Đất thuận theo ước vọng của con
người còn được thấy trong nghi lễ đánh trống Thiêng. Thực ra, đây
không hẳn là một nghi thức riêng, mà nó thường đi kèm các nghi lễ trên.
ở chùa Bối Khê trước đây có một chiếc trống đại treo trên giá chạm rồng và đao lớn. Viền quanh mặt trống người ta vẽ hoa văn hình chữ S, hình
tượng nghệ thuật hoá của chớp. Giữa mặt trống là hình tròn “Lưỡng
Nghi” với hai nửa Âm- Dương trong thế đối đãi, vận hành.
Trong chỉnh thể này, hình Rồng tượng trưng cho bầu trời mây với
các tia chớp (đao), tiếng trống đồng nhất với tiếng sấm. Tiếng rung- vang
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
296
của trống (sấm) như tạo cho Âm- Dương giao hoà, sinh sôi, vạn vật nảy
sinh và phát triển.
Chỉ với một ngôi chùa Bối Khê, các hình thức lễ cầu mưa đã hội
tụ thành một hiện tượng văn hoá dân gian đặc sắc. Chỉ với một nội dung
cầu mưa, nguồn hạnh phúc nông nghiệp, của cư dân lúa nước, văn hoá cổ
truyền Việt đã thể hiện các nghi lễ phong phú và đa dạng. Tâm thức dân
gian mang nhiều nét đẹp bất ngờ. Giải mã được các nghi lễ cổ truyền để
vừa loại bỏ hủ tục vừa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là điều mà
chúng ta luôn nghĩ tới./.
T.L.B
-------------
Chú thích
(+) Một phần bài viết theo tài liệu của Nguyễn Hồng Kiên.
(*) Kích thước không nhất định, thường dài từ 1m đến 2m.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
298
Lễ hội làng Canh Hoạch
Nguyễn Hữu Thức
Canh Hoạch tên xưa là Cổ Hoạch, tên Nôm là làng Vạc hay làng
Vác thuộc xã Dân Hoà, huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây.
Đó là một làng quê trù phú từng được dân trong vùng biết tới về nghề
làm đồ chơi (đèn kéo quân) cho trẻ em, làm quạt giấy, những năm gần đây
phát triển thêm nghề làm lồng chim. Ngày nào cũng có hàng trăm lồng
chim mỹ thuật, kiểu dáng to nhỏ, chạm khảm trai lóng lánh chuyển lên thủ
đô Hà Nội.
Canh Hoạch nổi tiếng trong vùng là đất văn vật, nơi xuất hiện hai
trạng nguyên thời phong kiến tự chủ.
Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 chép “Nguyễn Đức
Lượng, người xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, con tiến sĩ Nguyễn Bá
Ký, cha tiến sĩ Nguyễn Khuông Lễ. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất
danh (trạng nguyên) khoa Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) đời
Lê Tương Dực. Thi đỗ năm 50 tuổi. Lúc đầu tên là Hề được vua phê cho
đổi tên là Đức Lượng. Làm quan đến chức Lễ bộ Tả thị lang. Sau khi mất được tặng Thượng thư”. Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng có người em
gái là Nguyễn Thị Hiền lấy công tử Nguyễn Doãn Toại con ông Nguyễn
Doãn Địch đỗ thám hoa khoa Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức 12 (1481) đời
Lê Thánh Tông, sinh cậu con trai đặt tên là Nguyễn Thiến. 6 tuổi mẹ cho
Nguyễn Thiến theo học cậu là Nguyễn Đức Lượng. Sau đi thi Nguyễn
Thiến đỗ trạng nguyên. Dân gian gọi là Trạng Cậu, Trạng Cháu. Cuộc đời
Trạng nguyên Nguyễn Thiến được tóm tắt trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 như sau: “Nguyễn Thiến, người xã Canh Hoạch,
huyện Thanh Oai, 38 tuổi đỗ Hội Nguyên, được ban Đệ nhất giáp tiến sĩ
cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên) khoa Nhâm Thìn niên hiệu Đại Chính
3 (1532) đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm quan nhà Mạc đến chức Lại bộ
Thượng thư, ngự sử đài đô ngự sử, Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh
diên, tước Thư quận công. Sau vì bất mãn với nhà Mạc, ông cùng với
thông gia là đại tướng Thái tể Phụng quốc công Lê Bá Ly dẫn quân chúng
trốn vào Thanh Hoá quy thuận triều Lê Trung Hưng. Vua Lê Trung Hưng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
299
ban thưởng, cho giữ nguyên các chức tước, đảm trách việc tuyển bổ quan
lại cho nhà Lê trong khoảng 8 năm. Mất năm Thiên Hựu (1557) đời Lê Anh Tông, thọ 63 tuổi”.
Nguyễn Thiến hiệu là Cảo Xuyên, danh sĩ có tiếng ở thế kỷ
XVI. Ông đỗ trạng nguyên trước Nguyễn Bỉnh Khiêm 1 khoa, sau đó hai
vị trạng nguyên này thường xướng hoạ thơ văn với nhau. Hiện còn một số
bài thơ của Nguyễn Thiến chép trong Toàn Việt thi lục và Bạch Vân am
thi tập. Nguyễn Thiến là cha của Nguyễn Quyện một danh tướng lỗi lạc
thời nhà Mạc.
Nhắc đến văn hiến làng Canh Hoạch không thể không nhắc tới Nguyễn Quyện. Vốn là tuớng giỏi của nhà Mạc, do cha bất mãn, ông giữ
trọn chữ hiếu theo cha quy thuận nhà Lê. Sau khi cha chết Nguyễn Quyện
và em ông là Nguyễn Miễn trở lại nhà Mạc. Dân gian thời ấy có câu đề cao
công lao của Nguyễn Quyện đối với triều Mạc:
Quyện tồn Mạc tại
Quyện bại Mạc vong
Sau những năm ở với triều Lê - Trịnh (1551-1557), Nguyễn Quyện trở về với nhà Mạc cầm quân đánh một số trận lớn thắng ròn rã đã làm
thanh thế quân nhà Mạc cường mạnh hẳn. Nguyễn Quyện còn mang một
bộ phận quân về xây dựng căn cứ quân sự lớn và mở mang thương nghiệp
ở trang Cổ Hoạch từ ngã tư Vác đến hết làng Tảo Dương. Đại bản doanh là
khu nhà để sắc hiện nay ở làng Canh Hoạch. Thời bấy giờ dân gian có câu:
Thứ nhất Cổ Bi
Thứ nhì Cổ Loa
Thứ ba Cổ Hoạch
Cổ Bi ở huyện Gia Lâm, thế kỷ XVIII chúa Trịnh Cương chọn đất ấy
xây dựng Phủ đệ. Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh kinh đô thời Thục An
Dương Vương. Với câu tục ngữ trên, qua con mắt của người dân, Cổ
Hoạch được coi là một trong ba nơi có vị trí quân sự quan trọng và là nơi
cư dân sầm uất, kinh tế phát triển ở vùng ngoài kinh thành Thăng Long.
Chiến công của Nguyễn Quyện lẫy lừng đất nhà Mạc, vua Mạc phong ông
lên bậc Thường quốc công rồi Thái bảo. Nhờ thanh thế của ông dân chúng
quê hương ông rất tự hào. Thời ấy có câu ca:
Gái thì bẩy huyện xứ Đông
Trai thì Gạo, Vác cháu ông già Thường
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
300
Bẩy huyện xứ Đông là quê hương của nhà Mạc, còn Gạo (làng Tảo
Dương), Vác (làng Canh Hoạch) là quê quán và trú quán của Thường quốc công Nguyễn Quyện. Trai gái ở những nơi trên giỏi giang trung thành với
nhà Mạc.
Dĩ nhiên vai trò cá nhân Nguyễn Quyện không thể cưỡng lại được xu
thế tất yếu của lịch sử, khi nhà Mạc tuy có nhiều yếu tố tiến bộ nhưng đối
ngoại làm mất lòng dân nên không quy tụ được nhân tâm tạo thành sức
mạnh bảo vệ triều đình. Năm 1592, Nguyễn Quyện bị thua trận ở Cầu Dền,
bị bắt và chết trong ngục. Các học giả Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú soạn
sách đều đánh giá cao tài năng quân sự của Nguyễn Quyện.
Lễ hội làng Canh Hoạch có liên quan mật thiết với Trạng nguyên
Nguyễn Đức Lượng và Thường quốc công Nguyễn Quyện. Chính hội của
làng tổ chức vào ngày 12 tháng 3 âm lịch tại đình Canh Hoạch, xưa kia có
tên là đình Đụn, nơi sinh hoạt chung cho cả 5 giáp của làng. Đình nằm ở
thế đất cao gần giữa làng, với lối kiến trúc hoành tráng, khoẻ khoắn và bay
bổng, cửa đình trông hướng tây. Cái khoẻ khoắn thể hiện ở độ thấp của bộ
cột kèo đỡ mái, kẻ tiền kéo dài ra, sự to ngang mở rộng của lòng nhà tiền tệ. ấy nhưng lại rất thoáng và bay là kiểu kiến trúc của ống muống và nhà
hậu cung từ đấy bất ngờ nhô lên một toà nhà chồng diêm tám mái, các góc
đao cong mũi rồng tựa như một bông hoa trên toà đài vậy.
Người làng Vác rất tự hào về ngôi đình làng mình, truyền ngôn câu
chuyện về bà Hậu, tức bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩm con trạng nguyên
Nguyễn Thiến, năm 1551 cùng thông gia Lê Bá Ly quy thuận vua Lê, theo
gia phả thời gian này, Nguyễn Thiến đã gả bà cho chúa Trịnh Tùng (?).
Sau khi nhà Mạc bị đẩy lên chiếm cứ Cao Bằng, bà ra ở kinh đô Thăng Long. Bà Hậu có truyền sai người làng Gạo (Tảo Dương) nguyên quê nội
của cha bà và người làng Vác nơi trú quán và là quê ngoại của cha, lên dỡ
dinh cơ của bà chuyển gỗ về quê. Làng Vác lên trước chọn dỡ căn nhà nhỏ.
Làng Gạo lên sau phải dỡ ngôi nhà to hơn. Khi số gỗ đã mang về hai làng
hết, bà chúa mới bảo số gỗ ấy bà cung tiến để hai làng làm đình. Làng Gạo
nhờ số gỗ nhà to nên làm đình lớn. Làng Vác có số gỗ của nhà nhỏ nên
đình bé hơn, thay vì đất thợ nên đình tuy bé nhưng kiểu cách lại thanh và
đẹp.
Câu chuyện dí dỏm trên thay đủ giải thích sự ra đời của ngôi đình ít
nhất cũng có từ thời Lê- Mạc đồng thời ca tụng cái đẹp của ngôi đình gắn
với nghiệp của những người thợ thủ công mỹ thuật làm quạt “khéo tay hay
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
301
mắt” biến những cái thô trở thành cái đẹp trang sức cho làng mình. Đó
cũng là một nét văn hoá của làng Vác.
Đình Canh Hoạnh thờ ba vị thần. Hai vị thần tên là Trình Lý, Cao
Hàn tương truyền là tướng thời Hùng Vương thứ 18 đem quân đi đánh giặc
bảo vệ bờ cõi nước Văn Lang khi dẫn quân qua đất Canh Hoạch thấy đất
có thế đẹp, một mặt trông ra sông Đáy, cạnh làng lại có khe nước thay hào
rất thuận lợi lập đồn luỹ liền đóng quân ở lại. Đến thời nhà Trần có tướng
Trần Uất con thứ hai tướng quân Trần Hưng Đạo đã sát cánh bên cha
chống giặc Nguyên-Mông, thấy Canh Hoạch là nơi đắc địa cũng đem quân
về lập đồn binh ở làng. Sau đó, ba vị tướng Trình Lý, Cao Hàn thời Hùng Duệ Vương và Trần Uất tên hiệu Minh Lang đại vương ở thời Trần được
dân làng tôn thờ làm phúc thần - thành hoàng bảo trợ làng.
Diễn biến lễ hội làng Canh Hoạch từ ngày 11 đến 13 tháng 3 âm lịch.
Xưa kia hình thức tổ chức lễ hội tiến hành như sau: Ngày 11/3 dân làng tổ
chức rước ba cỗ kiệu thành hoàng, kiệu Đức Thánh Cả Trình Lý đi trước,
tiếp kiệu Đức Thánh Hai Cao Hàn và kiệu Đức Thánh Ba Trần Uất từ đình
xuống cổng Dinh vào đình sắc rước sắc các vị thành hoàng ra đình. Sau đó, làng dùng kiệu đốn xuống rước bát nhang Trạng nguyên Nguyễn Đức
Lượng từ Nhà thờ Trạng nguyên họ Nguyễn và lại rước bát nhang Thường
quốc công ở đình Sắc về đình Đụn phối hưởng tế cộng đồng. Ngày 13/3
dân làng tổ chức rước sắc, rước bát nhang trạng nguyên và Thường quốc
công hoàn cung.
Xưa là vậy, còn nay kể từ năm 1991 khi đình làng được nhà nước
công nhận là di tích lịch sử văn hoá thì làng mở lại hội và trình tự hội được
làng nhất trí diễn ra như sau:
- Ngày 11 tháng 3 âm (tương truyền ngày sinh của vị thành hoàng
Trần Uất) cả làng cùng ra đình sửa sang đồ lễ, dựng cổng chào và các cây
nêu, thân nêu cắm bông tre nhuộm màu đẹp mắt. Sáng hôm đó dân làng tổ
chức tế nghênh (tế mời) sang buổi chiều, khoảng 3 giờ dân làng mới cất vai
kiệu tổ chức rước ra, đám rước lớn có đội cờ, đội trống, đội bát âm, bát
bửu, gươm hầu, đội múa xênh tiền (12 đến 16 em gái), làng có 4 xóm rước
4 cỗ kiệu, theo trình tự sau:
+ Đi đầu là kiệu đốn (kiệu cỗ) rước quan Trạng.
+ Tiếp kiệu bát cống rước bài vị Đức Thánh Cả, choàng áo đỏ.
+ Tiếp kiệu rước bài vị Đức Thánh Hai, choàng áo vàng.
+ Tiếp kiệu rước bài vị Đức Thánh Ba, choàng áo vàng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
302
Ngoài ra, các xóm lẻ và xóm chợ của phố Vác có các cỗ kiệu nhỏ
rước cỗ, rước lẵng hoa đi kèm đám rước. Đặc biệt người làng Vác còn tạo đội hình rước quạt, một sản phẩm độc đáo của nghề làng, trong đó có 1
chiếc quạt thờ đặt trong hậu cung của đình làng được làm vào đầu thế kỷ
XX. Quạt dài 83 cm, khi xoè tạo thành nửa vòng tròn, đường kính 158cm.
Hai nan cái bằng sừng trâu đánh bóng đen nhánh, hình mái chèo, chỗ rộng
nhất của bản nan là 7,3cm. Đầu quạt to bằng trứng ngỗng. Mặt nan cái
bằng sừng, chạm hổ phù và hình rồng cuốn thuỷ. Mặt quạt bằng vải lụa.
Phù giá mỗi cỗ kiệu thánh có 2 người vác quạt tre. Hai đội múa rồng
biểu diễn dẹp đám từ đầu đám đến cuối đám.
Đoàn rước từ đình là đường 22 đi qua ngã tư Vác đến ngõ vào Nhà
thờ Trạng Nguyên họ Nguyễn thì kiệu đốn tách ra rước cỗ vào nhà thờ còn
các cỗ kiệu khác đi tiếp xuống đầu làng và quay ngược lên.
Kiệu đốn được hạ xuống đặt trước sân nhà thờ Trạng nguyên. Đó là
nơi thờ kế tiếp 3 đời đỗ Đại khoa của dòng họ Nguyễn là tiến sĩ Nguyễn Bá
Ký, Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng, tiến sĩ Nguyễn Khuông Lễ.
Nhà thờ kiến trúc chữ nhị, không to tát mà khiêm tốn trên một gò đất cao trông ra ao rộng. Duy chỉ có hai cột đồng trụ búp hoa tựa hai ngọn bút
vươn cao lên trời như một ký hiệu báo cho khách xa gần biết đó là nơi thờ.
Hậu cung nhà thờ họ Nguyễn có bức đại tự: “Trạng nguyên từ”.
Trong nhà thờ Trạng nguyên có đôi câu đối rất hay:
Phiên âm:
Cựu trạng nguyên, sanh trạng nguyên, nhất giáp khoa danh quang sử
bút
Phụ tiến sĩ, tử tiến sĩ, bát truyền chung đỉnh dụ Gia khương
Dịch nghĩa:
Cậu trạng nguyên, cháu trạng nguyên, khoa danh đỗ đầu sáng danh
sử sách
Cha tiến sĩ, con tiến sĩ, tám đời quyền quý phúc đầy nhà.
Các lão làng Canh Hoạch dâng tiến lễ vào nhà thờ quan Trạng, sau
một tuần tế ông trưởng họ và các lão làng mang bát nhang quan Trạng ra
đặt lên kiệu Đốn và dân làng cùng rước kiệu và cờ biển của Trạng nguyên
ra đường cái lớn nhập vào đoàn rước của làng đang đợi ở đó, vẫn theo trình tự kiệu rước quan Trạng đi đầu. Đoàn rước đi qua cửa đình xuống cổng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
303
Dinh ở cuối làng thì một kiệu đi lối cửa đình vào rước bát nhang ông
Thường quốc công ở nhà Sắc.
Nhà Sắc hay đình Sắc dưới danh nghĩa của làng nhưng thực chất là
nơi thờ Nguyễn Quyện và là nơi ghi công trạng của gia đình Trạng nguyên
Nguyễn Thiến.
Hiện diện nhà Sắc kiến trúc kiểu chữ nhất, ba gian, hai bên có tả hữu
mạc. Gian giữa đặt long ngai bài vị Thường quốc công Nguyễn Quyện,
gian bên phải để hòm sắc của các triều đại phong kiến phong cho các vị
thành hoàng, gian bên trái đặt bài vị bà Hậu, tức bà Nguyễn Thị Ngọc
Cẩm, con Trạng nguyên Nguyễn Thiến, làng Vác tục gọi là Bà Chúa Thuận. Dân làng rước bát nhang Thường quốc công ra cổng Dinh và nhập
vào đoàn rước quay trở lại đình làng để tế cộng đồng.
Các cỗ kiệu được sắp đặt ngăn ngắn ở sân đình và các cụ lần lượt
rước 3 long ngai bài vị, các Thánh và bát nhang quan Trạng, quan võ
Thường quốc công đặt lên hương án trong hậu cung đình để dân chúng vào
lễ Thánh.
Tục hèm của làng Canh Hoạch là dân đi tế và rước việc nhà Thánh không mặc áo đỏ, vàng mà mặc
áo màu đen nẹp đỏ.
- Ngày 12 tháng 3 âm lịch (chính hội), các cụ tổ chức tế, dân làng
dâng 1 lễ mặn gồm mặt lợn và ván xôi đầy.
- Ngày 13 tháng 3 âm lịch, các xóm trong làng ra đình lễ tạ, mâm lễ
chỉ làm đồ chay (hương hoa, oản quả...) tổ chức các trò chơi dân gian như
đấu cờ, đánh gậy hát chèo sân đình; đến chiều, sau tuần tế tiễn thì dân làng
tổ chức rước kiệu đốn đưa bát nhang quan Trạng và quan võ Thường quốc công về yên vị, gọi là rước hoàn cung Thánh giá. Dân gian có câu: “Mười
một rước ra, mười ba rước về” là vậy.
Hội làng Canh Hoạch là một hội lớn ở trong vùng. Việc cả làng đi
rước trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và quan võ Thường quốc công
Nguyễn Quyện là một hiện tượng văn hoá độc đáo đề cao truyền thống
hiếu học và tinh thần thượng võ của làng. Ngoài ra, những yếu tố trong lễ
hội tưởng nhớ các vị Thành hoàng thời Hùng Vương - thời Trần và yếu tố
rước quạt tôn vinh nghề làng là những nét văn hoá đặc sắc khiến cho lễ hội làng Canh Hoạch trở nên sinh động, hấp dẫn dân chúng trong vùng./.
N.H.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
304
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
306
Lễ hội đền Côn Giang
Lý Linh Hoàng
Đền Côn Giang còn gọi là đền Cống Cun hay đền Đức Thánh là
một ngôi đền lớn nằm ẩn mình dưới những tán lá bàng cổ thụ, cạnh ngã
ba sông Cun thuộc địa phận làng Phúc Khê, huyện Thanh Lan nay là xã
Thiền Quan, huyện Thái Thụy, cách thị xã Thái Bình khoảng 12 km.
Truyền thuyết về vị thần được thờ ở đền kể rằng vào cuối thế kỷ
XV ở làng Phúc Khê có hai anh em nhà họ Quách nổi tiếng là thông
minh, học rộng, tài cao, đã đạt giải cao trong các kỳ thi. Người anh là Quách Đình Bảo đỗ thám hoa, người em là Quách Hữu Nghiễm đỗ
hoàng giáp, đều được các triều Lê Thánh Tông rồi Lê Hiến Tông tin cậy,
giao giữ nhiều trọng trách. Hai ông còn nổi tiếng là những người đức độ,
đặc biệt trên lĩnh vực giáo dục và ngoại giao, được các quan đồng triều
và dân làng kính trọng. Sử sách còn ghi rằng năm Nhâm Tuất (1502)
Quách Hữu Nghiễm được cử làm quan chánh sứ, đi sứ nước Minh để làm
lễ tạ ơn vua nhà Minh đã ban mũ và áo cho vua Lê Hiến Tông, để tiếp
tục "bồi đắp hòa khí", "dập tắt muôn đời họa chiến tranh". Quách Hữu Nghiễm đã làm tròn sứ mệnh và tỏ rõ là một vị chánh sứ tài giỏi, khéo
léo. Nhà sử học Phan Huy Chú (thế kỷ XIX) đã đánh giá Quách Hữu
Nghiễm là "nhà ngoại giao đầy mưu chước chính trị". Từ những bài biểu
lời lẽ mềm mại, bay bướm đến những bài thơ vịnh cảnh tạ ơn tài tình mà
Quách Hữu Nghiễm dâng lên khiến vua Minh rất hài lòng, phải khen là
"nhân tài đời tam đại" và ban cho ông một chiếc thuyền lớn, đầu thuyền
chạm trổ hình con chim ích, một loài chim to, khỏe, vượt biển nhanh. Vào một ngày thu đẹp trời, quan thượng thư họ Quánh dong thuyền theo
dòng sông Trà Lý về thăm quê. Nhưng, lạ thay, khi đến ngã ba sông thì
thuyền đột nhiên dừng lại. Thấy vậy, dân chúng tập trung tới xem rất
đông. Lính trên thuyền bỏ neo. Vài ba người lên bờ tìm gặp quan viên sở
tại. Họ báo gấp rằng quan thượng thư họ Quách không bệnh tật mà tự
nhiên chết, hôm đó là ngày 9 tháng 9 (âm lịch) năm Giáp Tý (1504).
Nhận được tin dữ, vua Lê bèn cử người mang tiền bạc về làm lễ an táng
ông theo nghi thức trọng thể. Dân làng Thiền Quan lập đền thờ ông làm thành hoàng làng. Vua Lê phong cho hoàng giáp Quách Hữu Nghiễm -
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
307
thượng thư bộ lại kiêm đô ngự sử làm "Tối linh thượng đẳng thần", cắt
52 mẫu ruộng gần đó để dân làm lễ phụng sự hàng năm.
Kể từ đó đến nay, đời nọ nối đời kia, năm này qua năm khác, cứ
đến ngày giỗ ông, dân làng Thiền Quan tổ chức tế lễ lớn, có quan đại
thần trong triều về dự. Người, ngựa, xe cờ, quạt, võng lọng chật kín sân
đền. Ngày giỗ thành hoàng làng trở thành ngày hội lớn trong vùng từ bao
giờ không rõ. Ngoài phần nghi lễ tế, rước bắt buộc, dân còn tổ chức các
trò chơi khác như đánh cờ, đánh gậy, chọi gà, thi vật, hát chèo v.v...
Mỗi lần mở hội, người người tin rằng thần hoàng làng - họ Quách
luôn đem phúc lành đến cho dân làng : trẻ già khỏe mạnh, làm ăn thịnh vượng, ra khơi vào lộng an toàn./.
L.L.H
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
308
Hội đền Chèm
Minh Thắng
Hội Chèm là một trong những hội lớn của thủ đô Hà Nội. Dân
Hà thành thường có câu:
Thứ nhất là hội Cổ Loa
Thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm.
Làng Chèm thuộc xã Thụy Phương (xưa còn gọi là Thị Điềm, rồi Thụy Hương), huyện Từ Liêm, Hà Nội, nằm bên tả ngạn sông Hồng. Từ
trung tâm thủ đô đi theo đê Yên Phụ, hoặc xuôi theo đường Cầu Giấy về
phía cầu Thăng Long, đến chân cầu, hướng theo đê đi ngược lên khoảng
hơn 1 km là tới làng.
Đứng trên đê sông Hồng, có thể nhìn bao quát được toàn bộ diễn
trường của lễ hội Chèm. Nói đến hội Chèm không phải chỉ riêng có làng
Chèm mà là hội của dân "tam làng": làng Chèm, làng Hoàng, làng Mạc.
Môi trường lễ hội diễn ra trong một không gian rộng lớn, có đình, có bến chợ và một quãng sông dài trên 3km.
Ngôi đình nằm dưới những rặng cây xanh nhô ra giữa dòng sông
trông như một bán đảo nhỏ. Đình Chèm được xây dựng từ thời Bắc thuộc
(603-939), đến nay đã qua nhiều lần trùng tu, nhưng vẫn mang một dáng
vẻ cổ kính tiêu biểu cho lối kiến trúc ở thế kỷ XVII. Việc nâng cao ngôi
đình lên 2,4m so với ban đầu quả là một kỳ công lớn của nhân dân nơi
đây. Mặt chính của đình nhìn ra sông. Toàn bộ khu đình được chia làm
hai phần:
Phần ngoài là Tầu Tượng (nơi để voi ngựa) là một ngôi nhà ba
gian, hai dĩ, cao 10 m, có bốn mái lớn với các hình Long, Ly, Quy,
Phượng. Trước cửa Tàu Tượng có bốn cột đồng trụ cao từ 12 đến 14 m
tạo cho đình một dáng thanh thoát trang nghiêm.
Có hai văn bia ở lầu mộc dục. Bên phải ghi công đức của người
đóng góp, bên trái ghi việc kiệu đình.
Khu trong là khi chính cung. Chính cung được thiết kế theo hình chữ công, có tiền cung, trung cung và hậu cung.
Tiền cung có long sàng cỗ ngai, hương án. Hai bên là giá ngự
đựng bát bảo lộ bộ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
309
Trung cung có 5 bàn thờ, với các đồ thờ như chĩnh, lư hương,
đèn, nến...
Hậu cung có tượng Lý Ông Trọng (đối tượng suy tôn) tượng phu
nhân và hai nàng hầu. Hai bên tả và hữu và tượng sáu người con đứng. Hậu cung có bài vị của đức ông, đức bà.
Có rất nhiều truyền thuyết về Lý Ông Trọng, nhưng qua sự chọn
lọc, chúng tôi thấy truyền thuyết dưới đây có lẽ phù hợp với lịch sử hơn:
Thời Hùng Vương thứ 18, Tuấn Công (người xã Thụy Phương)
thông minh tuấn tú, kết duyên với Hà Nương (xã Đa Lộc) nhan sắc tuyệt
vời. Họ sống với nhau hạnh phúc, nhưng mãi tới năm 32 tuổi mà vẫn
chưa có con. Hai người bàn đem một phần của cải bố thí cho thiên hạ để
cầu phúc. Một hôm Hà Nương đang dạo chơi ở vườn hoa, bỗng trông thấy một vết chân rất to, nàng ướm thử vào chân mình. Vừa ướm xong
thì thấy toàn thân sực nức hương thơm. Nàng có mang từ đấy. Đến tháng
thứ 13, năm bính tuất, Hà Nương sinh được một cậu bé. Tuy còn nhỏ
nhưng cậu bé có tư thế tuấn chỉnh, mặt mũi khôi ngô, cao lớn lạ thường.
Hai vợ chồng vô cùng sung sướng cho là trời ban phúc lành nên đặt tên
là Trọng. Lớn lên Trọng cao 20 thước, sức lực hơn người, trí dũng siêu
quần, thông minh xuất chúng. Lưng có 28 nốt ruồi giống như 28 ngôi
sao, ở rốn lại có cái lông. Năm 18 tuổi, khi vua hạ chiếu cầu hiền tìm người văn hay võ giỏi, mỗi huyện phải cử một người đến kinh ứng tuyển.
Phủ Quốc Oai chọn Lý Ông Trọng. Khi đến yết kiến, vua trông thấy hài
lòng bèn phong cho là chỉ huy sứ coi việc bảo vệ cung đình. Tính Trọng
nóng nảy, thẳng thắn nên nhiều lần quá tay đã giết kẻ phạm tội nhưng
vua mến tài nên vẫn trọng dụng. Mỗi khi có giặc Chiêm Thành, Ai Lao,
vua sai Trọng ra quần là giặc bị đánh tan tác. Sau đó vua ra lệnh cho ông
Trọng ra trấn thủ ở Lâm Thao. Các dân tộc ở biên thùy đều mến phục. Ông thường nói "làm người nên có chí hăng hái như chim phưưọng
hoàng bay muôn dặm xa, làm sao chịu làm tôi tới người để cho người
mắng phạt". Ông cầu học, cầu tiến rồi làm tướng cho An Dương Vương
Thục Phán.
Thời ấy nước ta đã bình yên. Bên Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng
đã thống nhất đất nước, nhưng quân Hung Nô vẫn ngày đêm quấy phá
vùng biên ải. Vua Tần ép An Dương Vương phải cống nạp người tài sang
Trung Quốc. Lý Ông Trọng được cử đi sứ cho nhà Tần. Mặc dù Tần Thủy Hoàng đã cho xây vạn lý trường thành nhưng vẫn không ngăn nổi
sự quấy phá của Hung Nô. Vua Tần nhớ Lý Ông Trọng ra quân. Ông đi
trận nào thắng trận đó, quân Hung Nô không dám xâm phạm cửa ải nhà
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
310
Tần nữa. Lý Ông Trọng được bổ nhiệm là quan Tư Lệ hiệu uý và được
gả công chúa Bạch Tính Cung.
Về già, ông được vua Tần cho về nước. Sau đó, quân Hung Nô lại
tới uy hiếp, vua Tần lại cho mời ông sang. Ông từ chối không được, không muốn xa Tổ quốc một lần nữa nên ông đã tự sát. An Dương
Vương cho ướp xác ông gửi sang Trung Quốc để làm bằng chứng. Tần
Thủy Hoàng cảm kích nên đã tổ chức lễ tang ông rất long trọng. Sau đó
Tần Thủy Hoàng cho tạc tượng ông bằng đồng dựng ở cửa Hàm Dương.
Và, mỗi lần có sứ giả sang, vua Tần ngầm sai người làm cho tượng cử
động. Quân Hung Nô ngỡ ông Trọng vẫn còn ở đất Tần, nên rút chạy.
Dân làng nơi ông sinh ra kính trọng tài năng đức độ và oai linh
của ông nên đã lập bàn thờ tạc tượng ông và phu nhân, suy tôn ông làm thành hoàng; tôn là Đức Ông và Đức Bà, cùng thờ chung trong một ngôi
đền của làng.
Hàng năm hội Chèm mở 3 ngày từ 14 đến 16 tháng 5 âm lịch để
tưởng niệm ông.
Ngày 14 đền và đình mở cửa để nhân dân đến dâng hương. Có lễ
nghinh thuỷ trên sông Hồng, lễ tấn phát cúng Phật, cả ba làng tế cỗ tại
nhà. Ngày 15 là ngày chính hội; các lễ rước được lần lượt cử hành.
Mở đầu là lễ rước nước, thường được tiến hành vào buổi sáng, đây là cuộc rước nước lớn và uy nghi nhất, lấy nước làm lễ mộc dục.
Những người tham gia, quần áo đủ sắc màu mang theo đồ tế lễ đi
bộ ngược bờ đê cách đình 3 km rồi xuống ba chiếc thuyền rồng loại lớn
xuôi theo dòng sông đến trước cửa đình Chèm. Tại đây diễn ra nghi thức
lấy nước. Ba thuyền cùng chèo chống làm sao cho cùng quay ba vòng.
Trong lúc thuyền quay, một người lấy gáo múc nước sông đổ vào chĩnh
và đánh phèn cho nước trong. Tất cả mọi việc phải tiến hành xong khi thuyền quay hết vòng thứ ba. Khi thuyền quay, chiêng trống nổi lên cùng
với tiếng hò ù óc- ù óc vang dội cả khúc sông vọng từ bờ nam sang bờ
bắc tạo âm hưởng lạ tai. Theo các cụ giải thích: Tiếng ù óc là sự mô
phỏng tiếng hô đuổi giặc Hung Nô phát ra từ pho tượng của ông ở cửa
Hàm Dương mà Tần Thuỷ Hoàng đã dùng kế nghi binh quân giặc.
Lấy nước xong, đoàn thuyền xuôi về bến Ngự, tức nhà mã cách
đền khoảng 1 km thì dừng lại, lấy đồ tế lễ và cuộc rước nước, rước mã ở
trên bộ bắt đầu. Đi đầu đám rước là xe, voi, ngựa choé nước, tất cả đều có lọng che và được nhiều người kéo. Sau đó đến kiệu mũ, áo, kiệu bát
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
311
cống. Đám rước đi theo nhịp chiêng trống của ông thủ hiệu, ông đại hiệu,
nhịp nhàng về tới sân đình để làm lễ mộc dục (tắm Thánh).
Chiều tối tiến hành rước văn (văn tế). Cuộc rước được cử hành
long trọng như rước nước. Văn tế đặt trên kiệu (gọi là long đình). Văn được rước từ nhà ông trưởng văn ra đền. Hai bên đường làng nhiều ống
hương được cắm thành tiêu, tạo không khí tôn nghiêm. Cùng lúc, lễ rước
văn; lễ phát tấu được tiến hành.
Đội ngũ tế gồm 12 người mặc áo thụng màu xanh lam, mũ quan
văn, thắt lưng đai. Các ông trợ tế mang rượu, mang nến hồng thắp sáng
tiến vào cung, ba tuần dâng rượu, một tuần ẩm thực, một tuần tiến hồ.
Hàng tế đi giữa các ông già tay cầm cờ nheo dài 2m màu xanh, màu hồng
quay tít. Cuối cùng chủ tế đọc văn tế rước từ chùa Chèm trở về (gọi là Mỹ tự Đức Thánh Cả) người dự lễ im phăng phắc, trầm hương bay nghi
ngút. Tiếng ông chủ tế sang sảng vang lên:
“Uy mãnh oanh liệt thụ tín giản ý
Khâm đức trang tĩnh tuyển văn hiển hựu
Tương túc anh nghị
Trung hiếu thuần chính”.
Tạm dịch:
“Ngài uy linh anh hùng tiếng tăm vang dội Nam bang
Cử chỉ trang nghiêm văn võ toàn tài
Đạo đức toàn vẹn với nước với dân”.
Sau phần hội, nhân dân được xem nhiều trò chơi như bắt vịt, thả
chim câu, thả diều, bơi trải...
Ngày 16, ngày cuối hội, sáng có lễ nghinh thuỷ trên sông Hồng.
Chiều rước văn từ chùa Chèm về đình. Xen kẽ trong ngày là các trò chơi
giải trí như: đánh cờ, đấu vật, hát chèo... Chiều tối tan hội, ba làng làm lễ hậu hội tại nhà.
Ba ngày của hội làng Chèm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong
lòng người dân, đó là sự kính trọng niềm tự hào về con người về nơi đây.
Mộ số nghi thức, tập tục của lễ hội như: lễ rước nước, lễ tắm tượng (đầm
mình trong nước giữa dòng sông Hồng) cùng với tục đua thuyền (trên
mặt nước), tục thả chim bồ câu (trên không) gợi lên cho chúng ta nhiều
điều suy nghĩ. Phải chăng đây là dư ảnh mờ nhạt của các nghi lễ cầu mùa
(cầu mưa và cầu tạnh, cầu mưa thuận gió hoà) của cư dân nông nghiệp từ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
312
thuở xa xưa, mà nay chỉ còn hiện diện như một nếp sống thượng võ và
thú chơi tao nhã?./.
M.T
-----------------
Có sử dụng tư liệu của: Thạch Phương, Lê Trung Vũ trong Lễ hội
truyền thống Việt Nam - Nxb KHXH, 1995; Và sử dụng bản viết tay: Lễ
hội đình Chèm của Văn Hậu, Hội VNDG Hà Nội, 1991.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
313
Lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn
Song Phạm
ở nước ta, cú nhiều lễ hội gắn với con trõu hay biểu tượng trõu,
một con vật quen thuộc với cuộc sống của cư dõn nụng nghiệp. Riờng về
chọi trõu, cỏc ụng Thạch Phương, Lờ Trung Vũ cho biết rằng "ở nước ta,
một số nơi, trong dịp hội hố cú tổ chức chọi trõu, như chọi trõu ở Bạch
Lưu (huyện Lập Thạch), ở Chu Hoỏ, Phự Ninh (huyện Phong Chõu), ở Hoàng Cương (huyện Thạch Hoà) tỉnh Vĩnh Phỳ ( nay là tỉnh Phỳ Thọ,
Vĩnh Phỳc -SP). Chọi trõu ở đõy được coi như là một trũ vui bờn cạnh
cỏc trũ vui khỏc, hơn là một tập tục cú quy củ"1. Nếu đỳng vậy, thỡ chọi
trõu ở đõy chỉ mang ý nghĩa một hành động hội, chứ chưa bộc lộ nột tõm
linh, tức lễ nghi qua việc chọi trõu. Cũng cú thể, ở đú, dưới những lớp
văn hoỏ sõu hơn, sau này, người ta cú thể đọc được đụi nột nghi lễ, tớn
ngưỡng ỏnh lờn qua hành động chọi trõu đú chăng.
Vậy mà cú một nơi, lễ hội chọi trõu đó trở thành một tục lệ ngàn đời, gắn với tớn ngưỡng thờ thuỷ thần của cư dõn vựng biển, thu hỳt sự
quan tõm của dõn chỳng và du khỏch cả nước. Nơi đú nay là thị trấn Đồ
Sơn, thành phố Hải Phũng, vốn là Tổng Đồ Sơn gồm 3 xó Đồ Sơn, Đồ
Hải, Ngọc Xuyờn. Từ một hội làng, lễ hội chọi trõu Đồ Sơn dần biến
thành lễ hội liờn làng, vựng và dần dần mang tớnh quốc gia. Nhờ cú bói
biển cỡ quốc gia, nhờ cú hội chọi trõu nổi tiếng mà bỏn đảo rộng hơn 20
km2 nằm ở phớa đụng nam, cỏch trung tõm thành phố Hải Phũng khoảng
20 km này trở thành nơi được nhiều người quan tõm:
Dự ai buụn đõu bỏn đõu
Mồng chớn (mười) thỏng tỏm chọi trõu thỡ về
Dự ai buụn bỏn trăm nghề
Mồng chớn (mười) thỏng tỏm thỡ về chọi trõu.
Chẳng ai cũn nhớ cõu ca này cú từ bao giờ, thế nhưng nú cứ da
diết, thụi thỳc lũng người phương xa, khiến họ, dự đi đõu, cũng khú quờn
ngày về dự hội.
1 Thạch Phương - Lờ Trung Vũ: 60 lễ hội truyền thống Việt Nam. Nxb KHXH, Hà Nội,
1995, tr.269.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
314
Di tớch ở lễ hội này, cho đến nay, chưa thấy ai miờu tả một cỏch kỹ
càng. Do thế, cú lẽ đành bằng lũng với vài dũng sơ sài, ngắn ngủi được
ghi trong sỏch Đại Nam nhất thống chớ như sau: "ở chõn nỳi Đồ Sơn,
huyện Nghi Dương cú đền thuỷ thần. Tương truyền cú người bản thổ đi qua, đến đờm thấy hai con trõu chọi nhau dưới đền, nờn hàng năm, đến
ngày 10 thỏng 8 cú tục chọi trõu để tế thần"1. Đõy cú lẽ cũng khụng nằm
ngoài cỏch nhỡn huyền thoại trờn tinh thần thiờng hoỏ một ngụi đền thờ
thuỷ thần, thần biển. Một tài liệu khỏc cho biết "Lỳc đỏm ngư dõn mới
lập đền thờ, đõy chỉ là một ngụi đền lợp lỏ, nhưng sau này đền được xõy
gạch với đầy đủ vẻ tụn nghiờm. Đền toạ lạc đối diện sụng Hồng Giang,
phớa trước nơi thần linh đó xuất hiện"2. Rừ ràng ở nơi đõy, huyền tớch,
huyền thoại cú vai trũ rất lớn trong việc làm linh thiờng lễ hội, làm nhõn hoỏ, linh hoỏ nhõn vật được thờ phụng (thuỷ thần), dự rằng hỡnh thức,
động tỏc, tiến trỡnh chọi trõu ngày càng đậm tớnh chất thể thao trong khi
vẫn giữ được những nghi lễ tối thiểu cuả một lễ hội thờ thuỷ thần, thờ
nước với mụ tớp Trăng-Trõu-Biển (gắn với thuỷ triều).
Về mặt thần tớch, thần phả, sự tớch... cỏc vị thần được thờ ở đền
thuỷ thần cũng như nguồn gốc tục chọi trõu, cũng cú những điểm khỏc
nhau ở cỏc tài liệu khảo cứu. "Theo cỏc ụng Nguyễn Văn Liờm, Thỳ Y
Sĩ và Ngụ Quốc Cụn, nguyờn tri phủ Kiến Thụy mà tập san Indochine nhắc lại trong số 7, xuất bản ngày 17-9-1942, nguyờn do như sau: Cỏch
đõy 18 thế kỷ, với giú mựa Đụng Nam, một số ngư phủ nguyờn quỏn ở
Thần Hoà trụi giạt tới chõn nỳi Thỏp Sơn của bỏn đảo Đồ Sơn... Sống ở
đõy, những cư dõn này liờn tiếp chịu mọi thiờn tai bóo tố nối tiếp trời
hạn hỏn. Trước mọi tai nạn, họ chỉ cũn biết ngày đờm ngưỡng lờn trời
van vỏi và cầu khẩn xin chư vị thần linh miền ven duyờn hải thương họ.
Cho tới một hụm, trời trong sỏng dưới ỏnh trăng thỏng 8, một số người trụng thấy ngoài biển, dưới ỏnh trăng vàng đang đựa súng gợn,
một lóo nhõn đầu túc bạc phơ ngự trờn một chiếc sập đỏ, tay cầm một
chiếc gậy dài ngắm nhỡn một đụi trõu chọi nhau. Hỡnh ảnh này hiện rồi
biến. Sau đú, một trận mưa độ lượng đó tưới mỏt mặt đất. Qua hỡnh ảnh
xuất hiện bất ngờ trờn mặt biển, ngư dõn hiểu thần linh giỏng hạ bỏo cho
dõn chỳng biết mà thờ phụng.
Để làm hài lũng thần nhõn, họ đó tổ chức những cuộc chọi trõu và
tục này đó được lưu truyền mói mói. Một tấm hoành khắc vào đời Vua
1 Dẫn theo Lễ hội cổ truyền, Viện Văn hoỏ dõn gian, NXBKHXH, Hà Nội, 1992.
2 Chuyển dẫn từ Toan ỏnh- Nếp cũ hội hố đỡnh đỏm (quyển hạ)- Nxb tp HCM, 1992, tr.
169.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
315
Lý Thỏnh Tụng (1054-1059) gắn trờn chớnh điện ngụi đỡnh xó Đồ Sơn,
chứng tỏ cổ tục đó cú từ lõu lắm"1.
Thạch Phương và Lờ Trung Vũ lại dẫn lời cỏc bụ lóo và Lễ hội cổ
truyền-sđd, cho rằng "ở đõy cũn lưu giữ một tục cổ gắn liền với huyền thoại xưa. Trước kia, sau ngày hội, sỏng ngày 11, cả tổng làm lễ tế thần.
Rồi người ta chở con trõu đoạt giải nhất ra Hũn Độc (nơi cú vực xoỏy)
nộm xuống biển đỳng nơi Bà Đế ngày xưa đó bị dỡm chết để hiến sinh,
thỡ làng mới yờn"2.
Theo cắt nghĩa của nhiều tài liệu, Bà Đế là một trinh nữ xinh đẹp
tờn Đế, kết duyờn với vua thuỷ tề (Thủy thần), cú thai, dõn làng phạt vạ,
bọn hào lý đem cụ dỡm chết ở biển (ở Hũn Độc). Cụ chết oan, hiển linh
và được lập đền thờ.
Lại cú tài liệu gắn chọi trõu với sự tớch người anh hựng nụng dõn
Quận He (quận Hẻo) đời Hậu Lờ, phất cờ khởi nghĩa chống lại nhà nước
phong kiến. Hội mỳa cờ, chọi trõu là để tưởng nhớ ụng 3.
Như vậy, trong lớp sương mờ huyền thoại, ta vẫn cú thể thấy lễ hội
chọi trõu bao chứa nhiều lớp văn hoỏ chồng xếp lờn nhau, mà cho tới
nay, khụng phải ai cũng cú thể lý giải, búc tỏch được. Đõy là một lễ hội
cần tiếp tục chỳ ý giải mó qua việc đọc những biểu tượng văn hoỏ bộc lộ
trong tiến trỡnh lễ hội, đặc biệt là cỏc nghi lễ tớn ngưỡng1.
Lễ hội chọi trõu thường diễn ra trong một ngày, thậm chớ chỉ trong
một buổi. Cũn hành động chớnh, mà người ta dựng để gọi tờn lễ hội, quỏ
trỡnh chọi trõu, nhiều khi chỉ kết thỳc trong khoảnh khắc. Nhưng để cú
được những khoảnh khắc đú, việc chuẩn bị cho lễ hội đó bắt đầu trước đú
hàng dăm bảy thỏng trời. Ngoài những cụng việc cần thiết cho một lễ hội 1 Toan ỏnh- Sđd, tr.168.
2 Thạch Phương- Lờ Trung Vũ- Sđd.tr.275.
3 Xin xem cỏc tài liệu của Toan ỏnh, Thạch Phương- Lờ Trung Vũ, Lễ hội cổ truyền ...đó
dẫn trong bài. 1 - Toan ỏnh cũn cho rằng nhõn vật được thờ là Điểm Tước Đại vương hay Bỏt Bộ tụn thần
(tỏm vị thần linh - khụng rừ tờn). Xin xem Toan ỏnh, sđd, tr.169-170. Lễ hội cổ truyền,
Sđd, tr 291 cho rằng nhõn vật được thờ là Điểm Tước Đại Thần Vương.
- Phạm Lợi, khi viết về nhõn vật được tụn thờ, đó khẳng định: "Thần Thành hoàng của
tổng Đồ Sơn được thờ tại đền Nghố. Tương truyền, xưa, đất này đang đụng vui, bỗng một
con thuỷ quỏi đến phỏ hoại xúm vạn, bắt dõn mỗi năm phải cỳng cho nú một "thiện nam"
tại vụng Mỏt. Một đờm hố giụng bóo nổi lờn, xỏc thuỷ quỏi bị giết giạt vào bói biển nơi
mỏm Nghố, chõn nỳi Ngọc; cư dõn lập đền thờ tại đú, tức là đền Nghố. Được thần linh giỳp
đỡ, xúm vạn trở lại yờn vui, cư dõn Đồ Sơn tiến hành lễ cầu duệ hiệu của thần. Sau 5 đờm
7 ngày hương khúi, một nốt chõn chim xuất hiện trờn mõm bột và thần Điểm Tước trở
thành thần thành hoàng của tổng" (VHDG-2/1995).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
316
bỡnh thường, thỡ ở lễ hội chọi trõu Đồ Sơn, trõu chọi là vấn đề được chỳ
trọng bậc nhất. Quỏ trỡnh chuẩn bị cho lễ hội chọi trõu gồm cỏc giai
đoạn và cụng việc: kộn chọn-mua trõu; trỡnh trõu với thần, chăm súc,
luyện tập trõu; đấu loại chọn trõu vào hội và lễ hội chọi trõu . Nhiều tỏc giả, trong cỏc cụng đoạn trờn, khụng chỳ ý tới một nghi thức rất đỏng
nhấn mạnh: đú là lễ trỡnh trõu. Bởi, đến nay nghi thức này bị lẩn khuất,
cú khi triệt tiờu đi trờn thực tế. Song, trong hệ thống nghi lễ của lễ hội,
nú cú vai trũ rất quan trọng2, bởi, ngay từ trước khi nuụi và luyện tập,
trõu chọi đó được thần linh ghi nhận, khụng thể thay thế hoặc đỏnh trỏo.
Bõy giờ, chỳng ta đi lướt qua cỏc giai đoạn và cụng việc chuẩn bị.
Trước hết là kộn chọn-mua trõu. Hội mở thỏng Tỏm, nhưng như đó
núi, từ thỏng hai, ba (õm lịch), thậm chớ từ sau tết Nguyờn đỏn, cỏc làng đó lo cử người đi kộn chọn để mua trõu chọi. Tiền mua trõu là tiền đấu
thầu cỏc đỏy, khẩu săm đỏnh bắt tụm, cỏ trờn biển hoặc kết hợp với sự
đúng gúp của dõn làng. Người được giao trọng trỏch đi mua trõu phải là
người được thụn, làng tớn nhiệm, thành thạo tướng trõu, thụng thuộc chợ
bỳa, tận tõm tận lực với cụng việc chung. Lại phải là người trong sạch,
gia đỡnh hoà thuận vui vẻ, khụng mắc tang chế... Nhiều người trong thụn
làng cũng như cỏc nhà nghiờn cứu đều đỏnh giỏ đõy là cụng việc cú ý
nghĩa quyết định đối với cuộc chọi trõu và cũng là với lễ hội chọi trõu, liờn quan tới uy tớn thụn làng và ở mức độ cao hơn, là sức khỏe, vận
may trong sinh hoạt làm ăn của mọi người. Vỡ thế, họ đi nhiều nơi, kộn
chọn rất kỹ, đỳng tiờu chuẩn thỡ mới mua.
Theo kinh nghiệm nhiều đời, người thành thạo sẽ chọn trõu chọi
(tức trõu cũn nhiều thỳ tớnh) theo 10 tướng mà cỏc cụ đó đỳc kết (và cỏc
tài liệu dẫn trờn cũng đó ghi nhận) là: thõn trắng, ức rộng, hỏng to, cổ cũ,
đuụi chai, đớt nhọn, lưng tụm, sừng cỏnh cung, trường đựi, ngắn quản. Tỏc giả Phạm Lợi cú những miờu tả kỹ càng hơn: "Nếu tiờu chuẩn chọn
trõu cày kộo là khoẻ mạnh, dẻo dai và hiền lành thỡ yếu tố hàng đầu đối
với trõu chọi là sự hung dữ, gan lỡ và cú bộ đồ - đụi sừng - tốt. Đụi sừng
được coi là tốt khi khoảng cỏch giữa hai đỉnh sừng rộng từ 40-48 cm và
chiều cao đạt 24-26 cm, sừng phải đen mịn, cong đều và hơi "hướng
tiền". Độ gan và sự hung dữ của trõu phụ thuộc vào trũng mắt, mớ mắt
và một số khoang khoỏy... Trõu cú cặp mớ dày, trũng mắt vằn đỏ, độc
2 Cú lẽ chỉ cú Toan ỏnh và Phạm Lợi chỳ ý tới hỡnh thức này khi ghi nhận lễ trỡnh trõu của
14 thụn tại đỡnh làng Đồ Hải (xem Toan ỏnh, sđd, tr. 172-173 và Phạm Lợi, Tạp chớ đó
dẫn, tr.17).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
317
khoang, cú khoỏy sũ và khoỏy tam tinh, da dầy, lụng múc... thuộc loại
này. Phớa dưới cổ trõu nếu chỉ cú một vệt trắng vắt ngang là trõu "độc
khoang"; khoỏy đúng giữa hai mắt là khoỏy "tam tinh", đúng giữa đỉnh
đầu, cỏch đều hai chõn sừng là "khoỏy sũ". Trõu muốn giành chiến thắng trờn sới chọi cũng phải khoẻ mạnh, dẻo dai, số đo vũng ngực trõu phải
đạt 1,80m trở lờn và cú từ 9 đến 12 năm tuổi. Trõu chọi phải "cao võy,
rộng ức, hỏng to, cổ cũ, đớt ngút, lưng tụm bà, tiền cất, hậu hạ, sườn kớn,
bụng cheo, trường đựi, ngắn quản, nhỏ khoeo" hay "mỡnh cỏ trắm, bụng
teo, bốn chõn múng thũ, nhỏ khoeo, kớn múng", "thẳng múng con, trũn
múng to"1... Thường trõu chọi phải từ bảy, tỏm tuổi trở lờn thỡ mới đủ
sức thi đấu. Theo mọi người cho biết thỡ trõu chọi thường được mua ở
Hải Phũng, Hải Dương, Hà Đụng, Nam Định, Thỏi Bỡnh, Tuyờn Quang, Yờn Bỏi, Thanh Hoỏ, Nghệ An...
Thứ đến là lễ trỡnh trõu với Thần. Như đó núi, đõy là một lễ tiết
ngoài hội nhưng lại hết sức quan trọng khi đặt nú trong hệ thống nghi lễ
của hội. Cú thể coi đõy là lễ tiết đầu tiờn mà nhờ đú, trõu chọi khỏc
(thiờng hơn) trõu bỡnh thường. Lễ trỡnh trõu cũng hết sức ngắn gọn:
“Sau khi tất cả mười bốn thụn, mỗi thụn đó kộn chọn tậu được con trõu,
dõn làng tổng làm lễ trỡnh trõu với đức tụn thần. Tất cả đàn trõu của
mười bốn thụn đều được dắt tới sõn đỡnh làng Đồ Hải, con đứng con nằm ngổn ngang, con miệng đang nhai lại đỏm cỏ ăn lỳc sỏng. ở trong
đỡnh quan viờn hàng tổng hội họp để làm lễ khấn trỡnh với thần linh. Lẽ
tất nhiờn cú những lễ vật như hương đăng trà quả rượu trầu. Vị đại diện
hàng tổng thắp hương khấn vỏi lễ thần rồi xin một quẻ õm dương để
được biết ý thần hài lũng về những con trõu đó chọn. Rồi lần lượt cỏc
quan viờn khỏc trong hàng tổng đều vào lễ, sau cựng là những dõn thụn
đó được hàng tổng uỷ nhiệm việc nuụi trõu.
Lễ trỡnh trõu xong, thụn nào dắt trõu về thụn đú, và kể từ ngày đú,
một người được hàng thụn cử nuụi trõu phải săn súc con trõu sao cho
khoẻ mạnh và nhất là tinh khiết” 2. Tài liệu khỏc chộp: "khi đó chọn
được trõu, cư dõn Đồ Sơn chuẩn bị đi dắt trõu về làm lễ trỡnh thành
hoàng. Trước khi đi dắt trõu, cỏc giỏp phải làm lễ xin phộp thành hoàng
tại đỡnh Cụng và đỡnh Nghố, phải cỳng thổ thần, thành hoàng ở địa
phương cú trõu, nếu nghỉ đờm lại dọc đường thỡ lỳc ra đi người dắt trõu
cũng phải cỳng lễ” 3.
1 Phạm Lợi - T/c đó dẫn, tr. 17.
2 Toan ỏnh, Sđd, tr.172-173.
3 Phạm Lợi - T/c đó dẫn, tr. 17.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
318
Sau lễ này, những con trõu đú mặc nhiờn đó được thần linh ghi
nhận vào danh sỏch trõu dựng để chọi trong lễ hội (kể cả vũng đấu loại).
Kế đến là khõu nuụi, chăm súc, luyện tập trõu. Đõy là loại trõu chọi
và hiến tế thần, người được giao cho nuụi trõu cũng phải lựa chọn theo tiờu chuẩn riờng của từng làng, nhưng thường là người cú tiếng tăm,
được làng tin cậy, khụng mắc tang chế, thạo nghề nuụi trõu và trong thời
gian nuụi trõu nhất thiết phải thanh tịnh. Trõu được nuụi theo chế độ
riờng (ăn uống, kiờng khem, làm quen dần với khụng khớ sới chọi cũng
như khụng gian lễ hội với đủ tiếng trống chiờng, hũ reo, quần ỏo, cờ quạt
ngũ sắc...). Sau khi thử trõu (tức hai con trõu được đưa đến đối mặt nhau
ở hai bờn một chiếc cổng sắt khoỏ chắc chắn, chỳng sẽ lao vào nhau
bằng nhiều cỏch"1, thỡ cụng việc nuụi, luyện tập coi như đó hoàn thành. Thời gian để mua, nuụi, luyện trõu chọi cú thể kộo dài hai, ba, bốn thỏng
tuỳ làng.
Vũng đấu loại chọn trõu dự lễ hội chọi trõu (tức vũng chọi chọn
trõu vào chung kết như ngày nay chỳng ta thường gọi). Trước đõy, tổng
Đồ Sơn cú 3 xó, 14 giỏp (Toan ỏnh viết là 14 thụn), mỗi giỏp (thụn) gúp
một trõu chọi, đấu loại với nhau để chọn 6 trõu vào hội. Vũng đầu vào
trung tuần thỏng 5, vũng hai vào đầu thỏng 6, sao cho cả 3 xó đều cú trõu
vào dự hội2. Thường thỡ Đồ Sơn cú 3 trõu, Đồ Hải 2 trõu và Ngọc Xuyờn 1 trõu vào dự lễ hội chọi trõu, cỏc trõu bị loại vẫn được nuụi để
làm lễ vật hoặc sau này mổ thịt, trõu của xó nào, xó đú hưởng thịt.
Cuối cựng thời gian lễ hội chớnh thức cũng đến. Thường thường
cụng chỳng lễ hội chỉ nhớ về lễ hội chọi trõu qua cõu ca dao, vào ngày
mồng 9 (hay mồng 10 ) thỏng tỏm. Thực tế, đú là một ngày trọng đại,
đầy nỏo nức trong lũng người dõn sở tại và du khỏch hiện đại. Tuy
nhiờn, theo Phạm Lợi, thỡ ngày vào đỏm, mở đầu lễ hội chọi trõu cổ truyền của cư dõn Đồ Sơn là ngày 30 thỏng 7 và kết thỳc vào ngày 16-
8"3. Nghĩa là thời gian chớnh thức của lễ hội diễn ra trong suốt hơn nửa
thỏng". Sỏng 30 - 7 ở đỡnh Cụng và ngày 8-8 ở đỡnh cỏc thụn, xó là thời
điểm diễn ra nghi thức lễ rước, lễ mộc dục và lễ yờn vị... Chiều 30-7 cư
dõn Đồ Sơn tiến hành lễ rước thần thành hoàng từ đền Nghố về đỡnh
Cụng... Ngày 9-8 cư dõn Đồ Sơn tiến hành tục chọi trõu tế thần"1. Ngày
1 Phạm Lợi - T/c đó dẫn, tr.17.
2 Toan ỏnh chộp cú khỏc về thời điểm đấu loại: "Cuộc đấu loại bắt đầu trong những ngày
mồng 8 và mồng 9 thỏng 6 rồi lại tiếp tục vào ngày 30 thỏng 7 õm lịch" (xem Sđd, tr.175). 3 Phạm Lợi -T/c đó dẫn, tr.18.
1 Phạm Lợi - T/c đó dẫn. tr.18 .
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
319
xưa, hội thường kộo dài trờn chục ngày, trong hội cú nhiều nghi lễ, trũ
vui, cỏc sinh hoạt văn hoỏ dõn gian, mà nổi bật là trũ chọi trõu và nghi lễ
hiến tế trõu cho thần biển. Hiện nay nghi lễ hiến tế (vứt trõu xuống biển)
đó khụng cũn hoặc được biểu trưng hoỏ, nờn cú lẽ vỡ thế mà sự đặc sắc quy tụ vào nghi thức chọi trõu. Như vậy là ngày 9-8 (nhiều tài liệu và thư
tịch ghi là ngày 10-8) lễ hội chớnh thức được bắt đầu. Mở đầu là nghi lễ
rước cỏc trõu chọi đi dự hội. Khoảng 1-2 giờ sỏng, chủ tế cỏc đỡnh làm
lễ xin phộp thành hoàng đưa trõu đi. "Người rước trõu thần phải tắm rửa
để thanh khiết, mặc ỏo dài, thắt lưng đỏ, đội nún lỏ dứa. Trõu thần cũng
được trang trớ, lưng trựm vải đỏ, ngà buộc những dải lụa điều" 1. Đi đầu
đỏm rước là cờ ngũ phương, trống chiờng, long đỡnh, long kiệu, bỏt
bửu..., tiếp là cỏc vị bụ lóo, chức sắc, cụng chỳng và...trõu chọi theo thứ tự xếp hạng vũng loại. Đi hai bờn là hai chàng trai mỳa cờ mỗi giỏp, tức
cú 28 chàng mỳa cờ 2. Sới chọi cỏch cửa đỡnh khoảng 70 -80 một, mỗi
cạnh xấp xỉ 200 một 3, cú hào nước bao quanh (để trỏnh nguy hiểm khi
trõu thua phỏ rào, nhưng cũng gợi đến yếu tố nước, yếu tố hào bao quanh
cú tớnh thần linh-thành hoàng), trong cú hai dóy lỏn tre cho trõu đứng,
ngoài cú cỏc lỏn phục vụ người dự hội. Rước trõu tới sới khoảng 10-11
giờ trưa, nghi thức chọi trõu tế thần bắt đầu. Trước mỗi khỏp đấu đều cú
mỳa cờ, tức nghi lễ mở trận cho 2 trõu vào sới đua tài. 28 chàng trai khoẻ mạnh ỏo đỏ, thắt lưng xanh, hai tay cầm cờ đuụi nheo đỏ... tiến lựi, mỳa
cờ theo nhịp trống, dàn thế trận như đang giao chiến, rất vui mắt và hào
hứng4 .
Những người mỳa cờ vừa vào nước chào, thỡ trống lệnh nổi lờn,
hai trõu chọi vào sới. Hai quản trõu dắt trõu vào đứng dưới chõn hai cột
cờ ngũ phương. Hiệu trống thứ hai, hai trõu tiến lờn gần cỏch nhau
khoảng 15-20 một. Hiệu trống thứ ba, hai người dắt trõu rỳt dõy mũi. Hai trõu chọi tự do lao vào giao đấu. Kiểu cỏch giao đấu để phõn thắng bại
cú nhiều, chỳng tụi trớch một tư liệu khỏc: " Những con trõu sừng vũng
rõy xụng vào đối phương, cỳi xuống lấy cỏng là sừng cắm ngay vào mắt
đối phương, rồi quỳ xuống khụng cho đối phương gỡ ra. Đoạn nú nhanh
chúng khộp mỡnh quật một cỏi là đối phương ngó. Đấy là lối đỏnh "giỏp
lỏ cà", đầu trõu nọ liền sỏt với đầu trõu kia, đỏnh giữ rịt khụng cho để hở
cỏch nhau. Đối với trõu cú sừng dóng, hơi hướng về phớa trước thỡ cỏch
1 Lễ hội cổ truyền-sđd. tr. 295.
2 Sỏch Lễ hội cổ truyền, tr.295 ghi là 24 thanh niờn mỳa cờ (nay là 16 cụ gỏi mỳa cờ).
3 Thạch Phương - Lễ Trung Vũ, sđd, chộp là sới được căng dõy trờn bói rộng khoảng 6 mẫu
(20.000m2 = 2ha), khụng núi sới rộng bao nhiờu.
4 Mỳa cờ cũn được gắn với lễ ra quõn của quận He (quận Hẻo) trước lỳc xuất quõn.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
320
đỏnh lại khỏc hẳn. Đối phương càng tiến sỏt thỡ nú cứ lựi thật nhanh để
tạo một khoảng cỏch rồi dựng cặp sừng to chắc phang vào mặt mũi đối
phương; cú những cỳ phang rất mạnh làm dập cả lỏ mớa, mỏu chảy lờnh
lỏng, khiến đối phương chỉ cũn cỏch là phải bỏ chạy. Lại cú những đụi trõu ghỡm nhau rất lõu, hai đầu sỏt nhau, hai cổ vươn dài đố ấn xuống,
hai mũi sỏt đất, bốn mắt chũng chọc nhỡn nhau, bốn chõn trước chống
xuống vững chắc, bốn chõn sau choói ra, giữ thế để dũ tỡm sơ hở của đối
phương mà tấn cụng giành thắng lợi. Đụi cặp sừng trõu rập vào nhau
cỏch cỏch. Đầu sừng rạch vào da nhau kờu soàn soạt. Mặt đất nỏt nhóo,
cỏt tung bụi mự, cứ thế đụi trõu chọi dun đi đẩy lại hơn một tiếng đồng
hồ mà khụng phõn thắng bại.
Trong trận đấu, con trõu nào khoẻ, và lấy được nhiều cỏng (nghĩa là đỏ được nhiều miếng hay, miếng hiểm, làm tổn thương cho trõu đối
phương) thỡ chắc chắn là thắng cuộc. Cú những con trõu bị thương tớch
đầy mỡnh: rỏch da, mỏu chảy, mắt sưng nhưng vẫn gan lỳ, chờ sơ hở của
đối phương đỏnh đũn hiểm húc hoặc con bị đối phương lấy cỏng nhưng
đó khụn khộo gỡ cỏng rồi lấy cỏng đối phương được người xem hoan
nghờnh, cổ vũ nhiệt liệt. Nhưng đang chọi mà con nào chỉ cần bỏ chạy
1,2 bước là thua cuộc.
Hội chọi trõu kết thỳc bằng một cuộc rước giải trõu nhất về làm lễ tạ thần. Mọi người thoải mỏi, phấn khởi kể cả xó cú trõu thua, dự vào
đỏm rước này để biểu thị sự đoàn kết, vụ tư mừng ngày
hội vui thắng lợi.
Trõu nhất hàng tổng, ngoài việc được thưởng một số tiền, cũn cú
phần thưởng đặc biệt: một lỏ cờ vúc hồng thờu hai chữ: "Thượng đẳng"
bằng chỉ kim tuyến, một bỏt hương bằng đỏ xanh, đem theo đỏm rước trở
về. Hội làng tiếp tục đến ngày 9-8 õm lịch mới kết thỳc.
Ngày hụm sau, mồng 10-8, tất cả 14 giỏp trõu dự giải (sơ khảo và
chung kết) dự trõu thắng hay trõu thua đều giết thịt để trước là tạ thần
linh, sau là chia cho hương ẩm liờn hoan cựng hưởng" 1.
Sau đú, lễ hội chớnh thức kết thỳc, nhưng hội làng cũn kộo dài tới
tận mười rằm hoặc mười sỏu thỏng 8 mới kết thỳc 2.
1 Trịnh Minh Hiờn- Hội chọi trõu Đồ Sơn- Tạp chớ VHNT số 3/1990, tr 35-38.
2 Phạm Lợi cũn viết rằng, vào chiều ngày 16-8, cú lễ tống thần, gió đỏm, kết thỳc hội. Nghi
lễ được thực hiện ở biển (trước) hoặc cỏc giếng đỡnh (nay) bằng cỏch cỏc hương sư hai tay
bờ đĩa mao tiết hụ to hai ba tiếng, vỏi ba vỏi và hất xuống nước trong bối cảnh khụng được
ai đi lại ngoài đường để cản trở thành hoàng về Nghố (xem Phạm Lợi - T/c đó dẫn, tr.20).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
321
Lễ hội chọi trõu là một lễ hội làng (tổng, vựng) cú tớnh chất tổng
thể nguyờn hợp với sự chồng xếp lờn nhau của nhiều lớp văn hoỏ cần
được tiếp tục giải mó. Dự sao, cú thể thấy, đõy là một tập tục lõu đời của
người Việt, khụng chỉ bộc lộ dấu vết nghi lễ hiến sinh cho thuỷ thần để cầu bỡnh an, cầu nhõn khang vật thịnh, cầu súng yờn bể lặng, được mựa
tụm cỏ... mà cũn là sự biểu dương sức mạnh của con người, sự trỡnh bày
cỏch thức hoà nhập và dần dần chinh phục tự nhiờn của cư dõn ven biển
Đồ Sơn; là cỏch thức tự làm phong phỳ đời sống tinh thần, tõm linh của
mỡnh trờn một nền tảng nghi lễ-huyền thoại... Dự gỡ đi nữa, lễ hội chọi
trõu Đồ Sơn đó bảo toàn được nghi lễ hiến sinh cổ xưa của loài người 1.
Và từ xưa đến nay, trong tõm thức khỏch gần xa, mỗi khi đến kỳ, thỡ dự
"buụn đõu, bỏn đõu", họ cũng khụng thể quờn rủ nhau về miền biển Đồ Sơn quyến rũ để...chọi trõu ./.
S.P
1 Xem thờm Lễ hội cổ truyền , Sđd, tr 298.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
323
Lễ hội Đền Chiêu Trưng
ThảoNnguyên
Lê Khôi, thụy là Võ Mục, con ông Lê Trừ, anh thứ hai của Lê Lợi.
Cha mẹ mất sớm, Lê Khôi ở với chú là Lê Lợi, tham gia nghĩa quân Lam
Sơn từ ngày đầu khởi nghĩa đến lúc kháng chiến chống Minh thành công.
Ông từng tham gia hội thề Lũng Nhai và có tên trong 35 công thần khởi
nghĩa. Ông tham gia dự nhiều chiến dịch, lập nhiều công lớn. Sau kháng
chiến thắng lợi, ông làm quan trải ba triều: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, lên đến chức Khâm sai tiết chế thuỷ bộ Lục dinh, Hộ vệ
thượng tướng quân. Năm 1443, ông được phái vào làm tổng trấn Hoan
châu (Nghệ Tĩnh). ở đây ông chú trọng phát triển nông nghiệp, đào kênh,
đắp đập, khai hoang lập làng. Năm Đại Hoà thứ 3 (1446), phụng mệnh
vua Nhân Tông, ông cùng Nguyễn Chích, Nguyễn Xí (Đại Việt sử ký
toàn thư chép là Lê Thu, Lê Khả, Lê Khắc Phục) đi đánh Chiêm Thành ở
châu Thuận Hoá, bắt được chúa Chiêm là Bí Cai. Trên đường trở về, bị bệnh nặng, ngày 3-5 bính dần, đoàn chiến thuyền về đến cửa Sót, chân
núi Nam Giới thì ông mất. Triều đình làm quốc tang, thi hài ông an táng
ở núi Long Ngâm và cho lập đền thờ ông ở đây, hàng năm quốc tế, truy
phong Nhập nội kiểm hiệu tư không. Năm Quang Thuận thứ tư (1463),
Lê Thánh Tông ngự giá thăm đền, viếng mộ, ngự chế bài thơ quốc âm để
vịnh, sắc cho Đô Uý Bảng nhãn Nguyễn Như Đỗ soạn bia dựng tại đền.
Năm Hồng Đức thứ 18 (1487) lại phong Chiêu Trưng đại vương. Đời Lê
Thần Tôn, năm tân tỵ, quan Hữu ty xin lập một đền mới ở thôn Nguyễn Phúc, xã Triều Khẩu, huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) để tiện việc tế tự.
Đền ở cửa Sót giao lại cho ba xã Mai Phụ, Vĩnh Tuy và Kim Đôi trông
nom, phụng thờ.
Đền Chiêu Trưng còn gọi là đền Võ Mục, thuộc xã Kim Đôi nay
thuộc địa phận xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đền dựng
ở trên núi Long Ngâm, ngọn núi cuối cùng của dãy Nam Giới.
Đền Chiêu Trưng được xây dựng theo kiểu tiền miếu hậu lăng, phía
sau là lăng mộ Chiêu Trưng đại vương, phía trước là đền thờ, gồm ba toà, thượng, trung và hạ điện. Đền điện dựng xong vào năm Đinh Mão
(1447), một năm sau khi Lê Khôi mất. Mặc dù trải nhiều gió bão, qua
nhiều lần trùng tu, nhưng đền Chiêu Trưng cơ bản vẫn giữ được phong
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
324
cách kiến trúc cổ truyền. Đền Chiêu Trưng đẹp cả về quy hoạch kiến trúc
lẫn trang trí nghệ thuật.
Các mảng chạm trổ ở đền Chiêu Trưng, nhất là ở trung điện hết sức
điêu luyện, tinh tế. Ngoài các đề tài bát tiên quá sơn, bát tiên quá hải, tứ linh, bát bảo quen thuộc còn có nhiều đề tài khác mang đậm chất dân
gian như nữ công đánh đàn nguyệt, nữ công thổi sáo, vũ nữ, các hình con
giống như voi, hươu. Đáng chú ý là ở trung điện còn có tượng hai võ sĩ
Chàm (phải chăng đây là một dấu hiệu của giao lưu văn hoá Việt Chàm
trước đây). Đền Chiêu Trưng là một trong bốn ngôi đền đẹp nhất ở xứ
Nghệ:
Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng.
Ngoài đền chính ở núi Long Ngâm, cả ba xã Vĩnh Tuy, Mai Phụ, Kim Đôi đều có đền thờ vọng.
Hàng năm đền Chiêu Trưng có hai lễ chính. Lễ thưởng xuân vào
ngày 4 tháng giêng và hội đền vào các ngày 2 và 3 tháng 5 âm lịch.
Lễ thưởng xuân: Vào khoảng giờ thìn (7-9 giờ), các xã Vĩnh Tuy,
Kim Đôi bắt đầu tổ chức đám rước về đền vọng ở xã Mai Phụ. Sau đó
hình thành các đám rước bằng hầu hết thuyền của cả ba xã về đền chính.
Sau khi đoàn thuyền đến cách đền chính khoảng 500 m thì toàn bộ đoàn
rước và những người dự lễ dừng lại và đám rước đi bộ về đền. Vào khoảng bắt đầu giờ ngọ (11 giờ) thì lễ tế được tiến hành. Lễ tế kéo dài
khoảng 2 giờ bao gồm 3 tuần tế. Sau khi tế xong, dân các xã lại rước kiệu
về đền vọng xã mình. Lễ thưởng xuân khá đông người tham gia. Ngoài
dân của ba xã còn có dân của nhiều xã, nhiều vùng tới hành lễ, du xuân.
Lễ thưởng xuân ngoài ý nghĩa tưởng nhớ công đức của Chiêu Trưng đại
vương Lê Khôi, đây còn là dịp du xuân đầu năm mới của dân trong vùng,
dịp gặp gỡ đầu năm của mọi người, nhất là thế hệ trẻ. Có thể nói đây là một hình thức hội xuân của nhân dân vùng cửa Sót.
Hội đền Chiêu Trưng đại vương được tiến hành vào dịp giỗ ông
hàng năm (2-3/5 âm lịch). Vào chiều hoặc tối ngày 1-5 ở vùng này
thường có một trận mưa dông. Dân trong vùng bảo đó là mưa “dội
tượng”, mưa “rửa đền” để chuẩn bị cho ngày hội đền. Thực ra, cũng vào
khoảng thời gian này người ta tiến hành lễ mộc dục, lau chùi tượng
Chiêu Trưng đại vương (ở đền có pho tượng Lê Khôi được tạc bằng gỗ
trầm hương khá đẹp).
Từ giờ ngọ ngày 2/5, dân các xã Kim Đôi, Vĩnh Tuy bắt đầu tiến
hành rước kiệu (đựng bát hương, đồ ngũ sự), tàn, lọng, cờ và đồ tế khí từ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
325
đền vọng xã mình về đền vọng xã Mai Phụ. Cũng như lễ thưởng xuân
vào dịp đầu năm, đoàn rước của ba xã hợp thành một đoàn rước từ đền
vọng xã Mai Phụ (ở sát bờ sông Sót) về đền chính. Bắt đầu từ ngày mồng
1, hầu hết dân của ba xã đã nghỉ việc làm ăn để dự hội, vì thế đám rước rất đông. Hàng trăm chiếc thuyền có trang trí cờ hoa tham gia rước. Con
gái mặc áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ ở phía trong, ngoài còn có một
lớp khăn bọc. Nam giới mặc quần áo nâu có chỉ nẹp, đội nón gỗ sơn (gỗ
gõ ghép thành nón, phết sơn ta). Con gái đội mâm ngũ sự, đàn ông và
thanh niên trai tráng gánh kiệu và mang đồ tế khí, trong đó có hai thanh
niên mang kiếm ngũ sự, những người có tang không được tham gia đợt
rước kiệu. Trong đoàn rước còn có phường bát âm cử nhạc lễ. Thuyền
của dân các làng lân cận, của ngư dân các nơi (thường ra vào cửa Sót) cũng tham gia đoàn rước. Ngoài ra còn có đoàn thuyền rồng tham gia
cuộc thi bơi cũng diễu hành cùng đám rước. Sau khi về đền, bắt đầu làm
lễ yết. Buổi tối mồng 2, dân chúng và khách thập phương ở lại đền rất
đông. Tại đây, họ vừa dâng hương nhân ngày giỗ Đại Vương đồng thời
có dịp du ngoạn cảnh sơn thủy (núi Long Ngâm ở sát cửa sông, một mặt
là biển, cảnh hết sức hữu tình). Ban đêm trên núi dưới sông, dưới biển
đèn sáng lung linh. Khi bắt đầu về khuya, trai thanh nữ tú bắt đầu tổ
chức hát ví dặm. Có nhiều tốp hát khác nhau, trên núi dưới thuyền hát với nhau và các thuyền hát với nhau. Trong lúc đó ở trong đền hương
khói nghi ngút, ánh nến lung linh, những người cao niên, các bà các cô
lại hát các bài chầu văn ca ngợi công đức Chiêu Trưng đại vương. Cả
một vùng Cửa Sót, núi Long Ngâm như không có đêm mồng 2/5 vì hầu
như không có ai ngủ, mọi người bị cuốn hút vào một không khí hội hè
đầy sinh động.
Ngày 3/5, khoảng giờ tỵ, bắt đầu cử hành lễ tế. Lễ vật có hương hoa, xôi, gà, rượu do dân ba xã dâng cúng. Tiến hành lễ tế gồm có một
người điều hành gọi là điểu; một chủ tế (đại mạnh), chủ tế phải là người
cao tuổi, vợ chồng song toàn, gia thất yên ấm, do ba xã luân phiên cử ra;
2 bồi tế, 1 đọc văn, 1 tiểu hưu (đánh mèn- một loại nhạc cụ để điều hành
lễ), 1 tiểu cổ (đánh trống con), 1 đại cổ (đánh trống lớn), 1 đại chinh
(đánh chiêng); 1 thượng hương (đưa hương cho chủ tế); 3 tiến tửu (tiến
rượu- sở dĩ 3 người vì đền có 3 toà).
Lễ tiến hành 3 tuần tế, kéo dài khoảng 2 giờ. Sau đó, dân làng và khách thập phương dâng hương ở lăng mộ Đại vương.
Sau lễ tế là hội chèo giải- hội thi bơi thuyền. Cuộc thi thuyền được
tiến hành ở ngay cửa Sót, phía trước đền. Tham gia cuộc thi không chỉ có
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
326
dân 3 xã mà còn có cả các làng, xã lân cận. Số thuyền tham gia không ấn
định. Nhiều ít tuỳ năm, nhưng năm ít nhất cũng có tới vài chục thuyền.
Thuyền dự hội neo chật cửa sông. Trên bờ, dưới chân đền hàng vạn
người đứng xem và cổ vũ.
Thuyền thi được trang trí kiểu thuyền rồng, mỗi thuyền có 17
người, 14 tay chèo, 1 người cầm lái, 1 người chỉ huy, 1 người bắt nhịp.
Các tay chèo đóng khố, mình trần. Người ta thả 2 chiếc phao có cắm cờ
tiêu cách nhau khoảng 700-800 mét để giới hạn đường bơi. Các thuyền
thi phải bơi 3 vòng qua quãng sông giữa 2 điểm này. Thuyền nào về
trước là thắng và giật giải. Những năm có nhiều thuyền thi, phải tổ chức
thành 2-3 tốp để thi. Khi đoàn thuyền bơi, cả người thi lẫn người xem, cổ
vũ thường hò động viên:
“Mấy khi ba xã hội đồng
Trên phụng nghi Đức thánh, dưới thuyền rồng chèo bơi.
Dô hò! là hò dô hò...”
Qua khảo sát, cho thấy, hội thi chèo giải này là một hình thức sinh
hoạt văn nghệ thể thao của dân ba xã vùng biển này. Thứ nữa, Lê Khôi
về đến cửa Sót là đi bằng đường biển từ Thuận Hoá ra. Vì vậy, nhân
ngày giỗ của ông, nhân dân cửa Sót đã tổ chức cuộc thi này nhằm diễn tả
lại chiến tích của ông.
Do nhiều biến động lịch sử, từ khoảng những năm 1940-1980, hội
đền Chiêu Trưng không được tổ chức với quy mô và hình thức cũ. Từ
năm 1981 trở lại nay, huyện Thạch Hà và hai xã Kim Đôi, Mai Phụ (xã
Vĩnh Tuy sáp nhập với xã Mai Phụ thành xã Thạch Bắc, nay đổi thành xã
Mai Phụ) đã tiến hành tôn tạo, sửa chữa đền và phục hồi đền Chiêu
Trưng. Các nghi lễ, cách thức tổ chức cơ bản phục hồi theo hội xưa. Tuy
vậy, hội hàng năm hiện nay đã bổ sung thêm một số hình thức sinh hoạt văn hoá khác như giới thiệu nhân vật lịch sử Lê Khôi và giá trị kiến trúc,
nghệ thuật của ngôi đền, rồi biểu diễn văn nghệ, chiếu phim vào các tối
mồng 1, mồng 2/5: ngoài thi bơi thuyền rồng còn có thêm thi bơi thuyền
thúng, đấu bóng chuyền bãi biển... ở Hà Tĩnh hiện nay đã phục hồi lại
một số lễ hội nhưng hội đền Chiêu Trưng cùng với hội chùa Hương là có
quy mô nhất, khai thác được nhiều yếu tố hội lễ truyền thống nhất. Việc
tổ chức và đưa các hình thức mới vào lễ hội cơ bản phù hợp với nghi lễ
truyền thống, đặc điểm tập quán sinh hoạt của dân cư. Thêm một điều đáng nói là ở đây phục hồi (có cải tiến, bổ sung) hội lễ truyền thống mà
hầu như không có các biểu hiện của hoạt động mê tín dị đoan. Hội đền
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
327
Chiêu Trưng ngày nay thực sự là một sinh hoạt văn hoá tinh thần bổ ích,
nó không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh mà thực sự là
ngày hội tưởng nhớ đến các vị tiền bối có công với dân với nước, rất cần
thiết để góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ./.
T.N
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
328
Hội chợ làng Chuông
PhượngVũ
Làng Chuông là tên nôm của xã Phương Trung, huyện Thanh Oai,
tỉnh Hà Tây.
Xã Phương Trung có 7 thôn hợp lại thành một làng, như thế đủ biết
làng Chuông thuộc loại làng lớn ở trong vùng.
Làng Chuông nổi tiếng về nghề làm nón. Nón Chuông đẹp dáng lại
bền, từng là kỷ vật tạo ra vẻ dịu dàng của bao cô gái bước lên xe hoa về
làm dâu nhà chồng. Cả xứ Bắc Kỳ không mấy nơi là không biết tới nón làng Chuông.
Làng Chuông không chỉ nổi danh nghề nón mà từ xa xưa đã nức
tiếng về hội chợ nữa.
Hội chợ làng Chuông tổ chức vào ngày mồng mười tháng giêng là
hội chợ lớn nhất của tỉnh Hà Đông cũ. Sự khao khát muốn đi chợ
Chuông của cô con gái được bà mẹ cảm thông đồng tình, thể hiện qua
đoạn ca dao lưu truyền phổ biến trong vùng:
Mồng chín ta chả đi đâu
ở nhà têm trầu mồng mười chợ Chuông
Bố đánh thì mẹ lại nuông
Dù cho chớ bỏ chợ Chuông mồng mười
Bố đánh thì mẹ lại cười
Dù cho chớ bỏ mồng mười chợ Chuông
Cớ sao mà hội chợ Chuông lại hấp dẫn cô gái đến vậy?
Ngược trở lại cội nguồn của lịch sử chúng ta biết rằng, xa xưa chợ không thuần túy là nơi trao đổi hàng hóa, chợ còn là nơi qui tụ và diễn ra
các sinh hoạt văn hóa ở trong vùng. Điều này còn tồn tại ở nhiều chợ
phiên trên các vùng núi cao. Yếu tố trao đổi hàng hóa và yếu tố giao lưu
tình cảm song song tồn tại. Một khi đã gọi là hội chợ thì các yếu tố văn
hóa ở trong chợ cũng nổi trội hơn.
Điều này càng chứng tỏ qua việc xem xét lịch chợ diễn ra ở trong
vùng nửa đầu tháng giêng. Chúng ta thấy chợ Chuông không phải là chợ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
329
họp sớm. Trước đó hai ngày có phiên chợ Đình ở thị trấn Vân Đình,
nhưng chợ Đình lại không được gọi là hội chợ.
Dân chúng đã giải thích tính chất hội ở chợ Chuông bằng một câu
ca dao rất ngắn gọn:
Mồng mười đi chợ Chuông chơi
Xem đánh cờ người xem thổi cơm thi.
Rõ ràng câu ca dao trên đã phản ánh chợ Chuông mồng mười chỉ là
nơi để du khách đi "chơi". Điều người ta quan tâm là đến chợ để xem hai
trò diễn mang tính văn hóa độc đáo là đánh cờ nghệ thuật và thổi cơm
thi.
Đánh cờ người ở chợ Chuông được tổ chức ngay trước cửa đình
trên khu đất họp chợ. Đánh cờ người thực hiện tài trí của con người.
Cuộc đấu trí giàu tính văn hóa giữa hai đối thủ trên một bàn cờ tướng mà
các quân cờ đều bằng người thật. Một bên 16 quân cờ là nam giới ăn mặc
sang trọng, phía trước áo in chữ Hán thể hiện chức năng của quân cờ đó.
Bên kia, 16 quân cờ do nữ giới sắm vai. Riêng tướng ông và tướng bà
của hai bên được ngồi trên ghế có lọng che, người sắm vai quân cờ khác
phải đứng. Tục truyền người làm tướng ông, tướng bà ngồi trên ghế ở bàn cờ được làng chọn lựa rất kỹ càng, vừa đẹp về hình thức lại phải ăn ở
phúc đức, trong năm gia tộc không có vận áo xám (việc tang). Sau cuộc
thi đánh cờ người, các vị tướng ông, tướng bà sẽ mời quân cờ về nhà mở
tiệc cau trầu chè nước. Gia chủ hãnh diện được làng chọn vào vị trí
tướng cờ năm đó.
Du khách tới hội chợ Chuông là dịp xem những trai thanh nữ tú của
đất Phương Trung phô bày vẻ đẹp trên bàn cờ tướng. Đánh cờ người âu cũng là một nghệ thuật chơi cao cấp của cha ông ta được cả cộng đồng
làng hưởng ứng.
Tục thổi cơm thi ở hội chợ Chuông giành cho cả hai phái
nam và nữ. Đây là một trò diễn thi tài nấu nướng. Các cô gái của làng
ứng thí sẽ đứng vào một vòng tròn vôi đường kính khoảng 1,5m, có 1
đứa trẻ chừng 6, 7 tháng không phải con mình đẻ ra, và 1 con cóc cùng
các đồ nấu nướng. Các cô phải lấy lửa từ bùi nhùi rơm, tước mía làm củi,
nhóm bếp trông trẻ con không khóc, trông con cóc không cho nhảy ra ngoài vạch vôi. Theo một số cụ già địa phương, thì:
Hình thức vẽ một vòng tròn bằng vôi trắng là tượng cho trời, con
cóc là cậu ông trời, tượng cho mưa (trên trống đồng có nhiều cóc đã
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
330
mang nghĩa này). Giữ cóc trong vòng tròn được đồng nhất với ý thức cầu
mưa, cầu một dòng sinh lực cho cây trồng, đảm bảo nguồn hạnh phúc. Trước đây, người con gái đi dự nấu cơm thi còn phải ăn chay và khi nấu
không được nói cười, phải chăng để đồng nhất với bà mẹ Đất. Các cô gái
vất vả vượt qua những điều kiện làng đặt ra còn để thử thách sự nhanh
nhẹn, tháo vát của con cô gái làng Chuông. Nồi cơm của cô nào chín
trước, dẻo ngon sẽ được làng thưởng.
Tục thổi cơm thi giành cho nam giới xưa tổ chức trên một cái đầm
cạnh chợ. Chàng trai dự thi mỗi người ngồi trên một thuyền nan câu,
trong lòng thuyền chứa sẵn gạo, nước, củi, bùi nhùi giữ lửa. Khi có hiệu lệnh của các bô lão, các chàng trai bơi tay đưa thuyền từ bờ bên kia sang
bờ bên này. Trong thời gian đó dẫu là tay ướt cũng phải tìm cách lấy lửa,
nhóm bếp, vo gạo nấu cơm. Mọi việc diễn ra trên chiếc thuyền câu vừa
bơi vừa nấu cơm thật khó. Làm sao giữ thuyền không chòng chành, bơi
tiến về đích và nấu cho kịp nồi cơm thơm ngon. Đây cũng là một thử
thách đối với các chàng trai làng Chuông.
Cũng cần lưu ý là đằng sau sự đi chơi chợ, xem trò, bản thân mỗi
người đến hội đều có một nhu cầu giao lưu tình cảm. Chẳng phải đương nhiên mà cô gái lại:
Mồng chín ta chẳng đi đâu
ở nhà sắm sửa trầu cau mồng mười.
Các cô gái xưa ở trong vùng chuẩn bị đi hội chợ Chuông là như vậy
đó. Mỗi cô đều bọc theo một túi trầu cau. Miếng trầu là đầu câu chuyện.
Miếng trầu nên nghĩa nên tình. Gặp nhau ở giữa chợ mở gói trầu ra mời
bạn bè miếng trầu do chính tay cô gái têm, hẳn là trong số các bạn nhận trầu có người bạn trai mà cô gái đem lòng thương nhớ, sau đó họ nên
nghĩa vợ chồng. Trong bối cảnh xã hội phong kiến ngày xưa trói buộc
người con gái vào khuôn phép gia đình, bố mẹ đặt đâu con ngồi đó thì
khát vọng của cô gái được têm trầu đi chơi chợ, giao thiệp rộng rãi với
bạn bè mới chính đáng làm sao. Và, chỉ có người mẹ mới hiểu hết tâm
trạng sâu kín của con gái mình.
Hội chợ Chuông thực chất là ngày hội sinh hoạt văn hóa nông
nghiệp của một vùng đất. Văn hóa làng nghề cũng nhân dịp này thể hiện trong ngày hội chợ.
Trong tuần đầu của tháng đầu năm "tháng giêng là tháng ăn chơi"
ấy thì mồng mười tháng giêng có ý nghĩa khép lại ngày cuối của kỳ
thượng tuần (từ mồng một đến mồng mười) chuyển sang kỳ trung tuần
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
331
(từ 11 đến 20); cũng có ý nghĩa là khép lại một tuần chơi đón mừng
xuân mới (sau này chu kỳ tuần rút ngắn còn 7 ngày, nên ngày mồng 7 tết là ngày hạ nêu, bắt đầu làm đồng, lịch người Mường ngày lùi tháng tiến
nên ngày động thổ, mở cửa rừng là ngày mồng 6 tết), để bước vào tuần
thứ hai con người chú tâm vào việc làm ăn mưu sinh. Do vậy, hội chợ
Chuông còn thêm ý nghĩa nữa là hội chợ mua bán lấy may giành cho
những người làm nông nghiệp kiêm thủ công. Người làng Chuông có
nghề cổ truyền làm nón, từ rất xa xưa họ đã làm các loại nón đội đầu,
trong đó phổ biến nón thúng quai thao, sau năm 1930 mới chuyển sang
làm nón Xuân Kiều hay còn gọi là nón Ba Đồn như ngày nay. Nghề làm nón là nghề thích hợp với nữ giới và nữ giới cũng là đối tượng chính
mua nón. Chính vì lẽ đó, hội chợ Chuông thu hút rất đông các bà, các cô
tới chợ. Ngày nay con gái làng Chuông mang nón ra chợ bán lấy phước,
đắt rẻ không thành vấn đề miễn là có người mau mồm miệng chân tay
mua cho mình. Còn các cô gái trong vùng về hội chợ cuối buổi thường là
mua về cho mình một chiếc nón mới coi đó như là kỷ vật của ngày đi hội
mà xưa kia rất hiếm hoi các cô mới có một ngày thư thái được cha mẹ
cho đi chơi như thế.
Sau nữa cũng phải nói tới không gian làng Chuông mở hội chợ.
Làng Chuông họp chợ ngay trước cửa đình và chùa. Đình Phương Trung
sau nhiều lần tu sửa được xây dựng to đẹp vào cuối thế kỷ XIX. Mặc dù
bị bom đạn quân Pháp hủy hoại nhưng đến nay làng vẫn giữ được nghi
môn hai tầng đăng đối uy nghi, sau nghi môn là đại bái đồ sộ 5 gian
trong bài trí nhiều đồ thờ tự, thuộc loại quí hiếm ở các làng xã trong
vùng.
Đình thờ người anh hùng dân tộc Phùng Hưng, dân ngưỡng kính
gọi là Bố Cái đại vương. Phùng Hưng dẫn binh sĩ từ quê hương ông ở
Đường Lâm theo dòng sông Đáy xuống tới trang Thời Trung (tên xưa
của làng Chuông) thì đóng đồn binh luyện quân sĩ ở đó. Từ làng Chuông,
Phùng Hưng dẫn quân qua Thạch Bích đến làng Triều Khúc (Hà Nội)
đánh thẳng vào thành Tống Bình lật đổ ách thống trị phong kiến nhà
Đường ở thế kỷ VII giành quyền tự chủ cho đất nước.
Sau này dân làng nhớ ơn lập đền thờ và tôn Phùng Hưng làm thành hoàng của làng. Làng mở hội tưởng niệm Phùng Hưng vào ngày mồng
mười tháng ba, có quốc tế, và ngày 25 tháng mười, làm lễ tế cờ ăn mừng
chiến thắng của quân sĩ Phùng Hưng hạ được thành Tống Bình.
Kề liền đình là chùa Phương Trung. Đó là một chùa cổ, kiến trúc
kiểu chữ đinh ( ) với hệ thống tượng phật trên 100 pho. Điều đáng lưu
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
332
ý là chùa Phương Trung bài trí hệ thống tượng thờ theo kiểu "Tiền thần
hậu phật". Phía trước Phật đài, nhà chùa đặt vị trí trang trọng thờ tướng Đỗ Huệ và công chúa Phương Dung. Truyền rằng, Đỗ Huệ người làng
Chuông đã dẫn 50 trai tráng của làng trong đó có các con trai và người
trong họ gia nhập đoàn quân của Phùng Hưng tham gia đánh thành Tống
Bình, Phùng Hưng phong Đỗ Huệ làm tướng chỉ huy. Còn công chúa
Phương Dung là vợ của Phùng Hưng, bà đã "xuất gia tòng đạo phật"
chọn đất Phương Trung xây dựng chùa chiền, mở mang cõi phật. Sau
ngày bà mất dân làng gọi bà là Đức Thánh Bà và thờ ở chùa.
Điều đáng nói là hội chợ ở cạnh một ngôi chùa cổ thờ Phật nên xuất hiện một tầng văn hóa sâu hơn cái ta thường thấy ấy là hội chợ
Chuông phảng phất tín ngưỡng hội chùa. Đi hội chợ Chuông du khách
vừa tham gia sinh hoạt chợ búa vừa đồng nghĩa với việc hành hương
vãng cảnh chợ Chuông và đi lễ Phật.
Hội chợ lại ở cạnh một ngôi đình cổ thờ vị anh hùng dân tộc lừng
danh Phùng Hưng Bố Cái đại vương, cho nên đi hội chợ Chuông cũng là
dịp để nhân dân bày tỏ lòng tôn kính với vị anh hùng dân tộc.Chắc hẳn
có một số rất đông du khách sẽ vào thăm viếng mái đình cây đa làng Chuông và thành kính thắp nén nhang tưởng niệm vị thành hoàng làng.
Có thể nói, hội chợ Chuông là sự hỗn dung rất nhiều lớp văn hóa
trong tiến trình phát triển của lịch sử. Những trầm tích của văn hóa chùa
chiền, của tín ngưỡng thành hoàng làng, của các sinh hoạt gắn liền với
nền nông nghiệp trồng lúa nước và những biểu hiện của văn hóa nghề, tất
cả tạo thành một tổng thể hòa quyện vào nhau vì thế hội chợ Chuông có
sức sống lâu dài trong tâm trí nhân dân và đang có cơ hội thực thi trong đời sống xã hội hiện đại./.
P.V.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
334
Hội Đền Chử Đồng Tử
Nguyễn Minh San - Nguyễn Chí Bền
Đa Hòa là tên làng, xưa thuộc tổng Mễ Sở huyện Đông An tỉnh
Hưng Yên,nay thuộc xã Bình Minh huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên.
Từ Hà Nội, du khách có thể xuôi dòng sông Hồng chừng 20 km, tới
bãi Tự Nhiên, bến Bình Minh hoặc có thể đi đường bộ, qua cầu Chương
Dương rẽ phải, theo đường đê chừng 25 km là tới nơi (đi bằng ôtô hay xe
máy, xe đạp rất thuận tiện).
Khách thập phương tới đây không chỉ để đứng trên con đê sông Hồng thưởng ngoạn một vùng quê với những con đường lát bê tông tới
tận cổng từng ngôi nhà của nhân dân đã ngói hóa, ngắm nhìn một dải phù
sa chạy tít tắp theo triền đê sông Hồng từ lâu đã là nơi trồng cây dược
liệu quí như địa tiền, bạc hà, sinh địa, ngưu tất, bạch truật... mà để được
đắm mình trong chốn Bồng lai tiên cảnh của đền Chử Đồng Tử ở thôn
Đa Hòa và dâng hương bái vọng ở chính nơi thờ đức thánh Chử Đồng Tử
- người đã được nhân dân bao đời nay tôn là một trong Tứ Bất Tử của
thần linh Việt cùng nhị vị phu nhân tên là Tiên Dung công chúa, con gái Vua Hùng thứ 18 được phong tặng là Thượng tôn thần đẳng thiên tiên
tôn thần và Tây Sa công chúa được phong tặng là Nội trạch Tây cung
công chúa huyền diệu tôn thần.
Đã hàng ngàn năm nay, người ta truyền rằng: Vua Hùng thứ 18 có
người con gái tên là Tiên Dung. Năm mười tám tuổi, nhan sắc tuyệt trần,
nhưng nàng không có ý định lấy chồng, chỉ thích du ngoạn những nơi
danh lam thắng cảnh của đất nước. Vua cha chiều con, để cho nàng thỏa chí. Bấy giờ tại làng Chử Xá (nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà
Nội) có ông Chử Cù Vân, vợ là Bùi Thị Gia chẳng may mất sớm, để lại
cảnh gà trống nuôi con. Một ngày nọ, hỏa hoạn thiêu cháy toàn bộ gia
sản, hai cha con chỉ còn độc một cái khố vải. Vì thế, chỉ khi ai đi đâu,
mới dùng khố. Một ngày kia, người cha ốm nặng, trước khi chết dặn con
rằng: "Khi nào cha chết, con cứ chôn mình trần, giữ cái khố mà mặc".
Người cha qua đời, Chử Đồng Tử không đang tâm để cha thân trần, lấy
khố quấn cho cha trước khi chôn. Còn mình, đành mình trần chịu rét và đói. Hàng ngày, chàng ra bờ sông, cho nước ngập tới nửa người để che
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
335
phần dưới trần trụi, đợi các thuyền buôn qua lại để xin bố thí, hoặc bán
vài con cá mà chàng bắt được. Một hôm, công chúa Tiên Dung du ngoạn đến bến sông nơi Chử Đồng Tử đang sinh sống. Cồng chiêng nổi lên, đàn
sáo hòa nhịp, cờ lọng rợp trời, tùy tùng hộ tống nàng đông đảo. Chử
Đồng Tử thấy thế sợ quá, chạy trốn lên một bãi cát lúp xúp những bụi
cây. Chàng bới một cái hố, vùi mình xuống cát. Nàng công chúa dừng lại
chính nơi đó. Thấy cảnh tươi đẹp, trên đầu có một vầng mây ngũ sắc,
nàng bước đến mô cát để ngắm cảnh rõ hơn. Cảm thấy là nơi sạch sẽ,
nàng quyết định tắm mát. Thế là màn được che lên bốn phía, cho Tiên
Dung ở trong đó. Trút bỏ xiêm y, nàng dội nước lên tấm thân ngọc ngà và ngất ngây thưởng thức sự dịu mát do dòng nước đem lại. Nước chảy
làm trôi cát đi để lộ ra thân hình cường tráng của Chử Đồng Tử. Giữa
cảnh thanh thiên bạch nhật, nàng công chúa đang độ trăng tròn, trong
như ngọc, trắng như ngà với chàng trai phơi phới tuổi xuân. Cả hai đều ở
trong tư thế tự nhiên lúc lọt lòng. Công chúa bàng hoàng, xấu hổ, lo sợ
hỏi rằng: "Người là ai, sao lại ở chốn này?" Chử Đồng Tử kể lại với nàng
về cuộc đời khổ cực của mình. Nghe xong, công chúa cảm động mà rằng:
- "Ta nguyện không lấy chồng, nhưng nay cơ sự thế này, chắc là nguyệt lão muốn xe duyên cho chúng ta". Nói xong, nàng sai người lấy
quần áo rồi mời chàng lên thuyền mở tiệc vui. Đồng Tử không dám chấp
nhận cuộc hôn nhân, Tiên Dung bảo: "Chúng ta gặp nhau như thế là do ý
trời, sao dám cưỡng lại?". Chàng đành phải thuận. Chuyện đến tai vua
Hùng. Hùng Vương nổi cơn thịnh nộ: " - Tiên Dung không biết trọng
danh giá. Nó đi lang thang để lấy một đứa cùng đinh, còn mặt mũi nào để
nhìn thấy ta nữa".
Tiên Dung sợ không dám trở về, ở lại cùng chồng mở một hiệu
buôn. Vùng đó ngày càng thịnh vượng, dân cư tập trung đông đúc, dần
dần trở thành một cái chợ lớn là chợ Thám (hay chợ Hà Lương, nay là
chợ Đa Hòa). Khách buôn ngoại quốc đều xem nàng như người đứng đầu
trong vùng. Có một nhà buôn khuyên Chử Đồng Tử nên đi các vùng biển
xa làm ăn buôn bán. Đồng Tử đi theo.
Tới vùng Quỳnh Lãng, chàng trèo lên ngắm cảnh và vào thăm một
chiếc am sơ sài dựng tít trên đỉnh núi. Thấy Đồng Tử có dáng người tiên cốt, nhà sư bèn truyền cho đạo pháp. Chử Đồng Tử nhận ở lại học đạo,
sau một năm mới về. Phật Quang (có tài liệu ghi là Ngưỡng Quang) cho
chàng một cái gậy, một cái nón và dặn: "Những quyền phép mầu nhiệm
ở cả trong gậy và nón này". Đồng Tử nhận quà và cáo biệt. Về nhà,
chàng truyền đạo cho vợ. Tiên Dung giác ngộ, bỏ nghề buôn bán. Hai vợ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
336
chồng lại cùng nhau đi học đạo. Một ngày kia, đang giữa chặng đường xa
không nhà cửa thì trời tối. Đồng Tử đành cắm chiếc gậy chụp nón lên để trú tạm. Nào ngờ, vào khoảng canh ba thấy hiện lên thành quách lâu đài
bằng đá quí, dát châu báu, giường chạm trổ, màn trướng che dày cùng
tướng sĩ thị vệ, văn võ bá quan như một triều đình riêng. Sớm sau, dân
trong vùng thấy sự lạ, kính cẩn đua nhau mang lễ vật dâng cho cả hai vợ
chồng Chử Đồng Tử.
Tin đồn về kinh đô, vua Hùng cho là Tiên Dung và Chử Đồng Tử
là những kẻ phản loạn. Vua sai đem binh mã đến hỏi tội. Binh lính nhà
vua gần tới nơi, những người thân cận khuyên công chúa cho quân ra chống cự. Tiên Dung mỉm cười nói: "Ta có gây nên cơ sự này đâu. Mọi
việc đều do ý trời cả. Ta sống hay chết cũng nhờ trời. Làm sao ta dám
chống lại vua cha. Nếu cha ta phán quyết, ta cũng cam chịu". Khi binh
lính của nhà vua kéo gần tới nơi, thì trời tối, đành hạ trại đóng quân. Vào
lúc nửa đêm, bỗng nổi lên một trận cuồng phong. Chỉ trong khoảnh khắc,
cả tòa thành cùng người, vật đều bay lên trời. Hôm sau người ta thấy một
dải cát trơ trọi giữa đám đầm lầy mênh mông.
Người đời sau gọi nơi này là bãi Tự Nhiên (nay thuộc địa phận xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) và đầm lầy ấy là đầm Nhất
Dạ (đầm được hình thành trong một đêm), hay là đầm Dạ Trạch. Truyền
thuyết ở vùng Khoái Châu cũng do Nguyễn Bính soạn vào thế kỷ XVI
còn có một đoạn nữa 1. Sau khi truyền đạo cho Tiên Dung, hai người đi
chu du, một hôm đến địa đầu Ông Đình thuộc địa phận huyện Đông An,
bỗng gặp một người con gái khoảng 18, 19 tuổi, có nhan sắc tuyệt trần,
người làng Đông Tảo (nay là xã Đông Tảo, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên). Tiên Dung bảo chồng: "Người đó có phải chàng định lấy
làm vợ bé chăng?". Đồng Tử mỉm cười, Tiên Dung hiểu ý bèn đến nói
với cô gái rằng: "Nàng là tiên hay là trần? Lang quân ta là người tài mạo
tuyệt vời, nàng làm thiếp cũng thật xứng thay, ta tuy là con vua nhưng
không hề đố kỵ, ta với nàng làm chị em cũng chẳng vui lắm sao". Người
con gái nói: "Tôi chính là tiên nữ Tây Cung, không hẹn mà gặp, do trời
hay do người". Tiên Dung nói: "Do trời thôi", rồi kết làm chị em, đến
chỗ Đồng Tử làm lễ giao kết, mở yến tiệc vui vẻ. Rồi ba người đi vân du. Lúc đó, ở ấp Ông Đình có 5, 6 người chết vì dịch, Đồng Tử dùng gậy chỉ
vào, những người chết liền sống lại, ăn nói như thường. Tây Cung lấy
một tờ giấy trắng viết một chữ nào đó, đốt lên, lấy tàn cho những người
bị bệnh dịch uống, hàng trăm người đều khỏi cả. Già trẻ làng Ông Đình
1 Theo truyền thuyết ở làng Đông Tảo, người con gái này có tên là Ngải Hòa.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
337
kéo đến bái tạ. Rồi Chử Đồng Tử lại dùng gậy, nón hóa phép ra đền miếu
trao cho dân đèn hương về sau. Ba người đi qua các vùng Kim Động, Tiên Lữ đều hóa phép ra lâu đài, nhà cửa như vậy. Sau, cả ba người đều
trở về trời.
Truyền thuyết về mối tình giữa nàng công chúa lá ngọc cành vàng
với một chàng trai nghèo nhưng rất mực hiếu thảo từ lâu đã trở thành
thiên tình sử đẹp nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Chử
Đồng Tử - Tiên Dung - những con người không ham danh vọng, không
màng phú quí vinh hoa, suốt đời chỉ tìm những cái đẹp trong thiên nhiên,
khai phá tạo dựng những bãi bồi phù sa, đã đi vào cõi bất tử.
Đền Đa Hòa đã được Nhà nước xếp hạng vào năm 1962, là di tích
lịch sử văn hóa nổi tiếng. Đây không chỉ là một di tích lưu truyền và lan
tỏa về một thiên tình sử hàng ngàn năm nay mang ý nghĩa nhân văn cao
đẹp mà còn có giá trị đặc biệt về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời
Nguyễn. Đền do tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (tự là Cán Thần, hiệu là Trúc
Vân người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái
Châu, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc huyện Châu Giang tỉnh Hưng Yên)
đứng ra vận động nhân tài vật lực của nhân dân tám thôn tổng Mễ Sở cùng thập phương công đức để xây dựng, tôn tạo năm 1894 trên nền một
ngôi đền cổ. Hiện chưa tìm được tài liệu nào chính xác cho biết ngôi đền
cổ này được xây dựng từ thời gian nào, bằng vật liệu gì, qui mô to nhỏ ra
sao và, điều quan trọng hơn là ngôi đền này thờ ai. Đây là một đề tài hấp
dẫn cho các nhà nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân tộc khai thác.
Đền Đa Hòa hiện nay là một kiến trúc qui mô lớn, mặt quay hướng
chính Tây, nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên thuộc địa phận huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây mà kế đó, có ngôi đền Ngự Dội để ghi dấu nơi Tiên
Dung dừng thuyền tắm thủa nào.
Tổng thể kiến trúc đền nằm trên một khu đất cao, rộng, bằng
phẳng, hình chữ nhật có tổng diện tích 18.720m2, bao gồm 18 nóc nhà
lớn nhỏ. Con số này là sự gởi gắm ý tưởng của người xây dựng nhằm
nhắc nhở người đời sau nhớ tới thiên tình sử của nàng Tiên Dung vừa
tròn 18 tuổi, diễn ra vào đời Hùng Vương thứ 18.
Di tích được chia làm hai khu. Khu ngoài rộng chừng 7.200m2 không có tường cao, nổi bật là nhà bia cửa trổ ra 4 hướng, 2 tầng 8 mái
cong chịu ảnh hưởng của triết lý dịch học dưới bóng đa cổ thụ, và trước
mênh mông sông nước. Trước cửa phía Tây treo bức đại tự, ba chữ Trấn
Giang Lâu - bút tích của tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Đây là kiến trúc mới,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
338
được xây dựng sát cạnh nền cũ của ngôi nhà bia đã bị thực dân Pháp phá
dỡ. Từ nhà bia giữa hai hàng cây gạo - một loài cây bất tử, cây thiêng, có tuổi đời sánh ngang với tuổi đời của ngôi đền là con đường lát gạch rộng
6m dẫn tới cổng chính vào khuôn viên đền. Tại đây, hai cột trụ vút cao
ngự trên đỉnh là hai con lân quay mặt vào lối đi, ngày đêm canh giữ ngôi
đền. Trên cột trụ có hai câu đối:
Phượng giá hồng sơn kim đỉnh đan thành phong vũ dạ
Hạc qui hoa biểu ngọc tuyết linh bí thủy vân gia.
sẽ hướng tâm hồn du khách vào chốn linh nghiêm.
Con đường lát gạch rộng 8m dưới những tán đa - cũng là một loài cây bất tử, cây thiêng và những vòm nhãn thẳng tới nghi môn. Hai bên
con đường này là nhà chuông và nhà khánh đá. Cả hai nhà có kiến trúc
giống nhà bia. Chuông cao 1,5m, đường kính 0,8m. Khánh dài 1,2m, cao
0,8m. Cả chuông và khánh đều được làm vào thời Nguyễn.
Ngọ môn gồm có 3 cửa. Cửa chính là tòa nhà 3 gian cao, rộng, trên
đỉnh nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, trước cửa có treo bức đại tự lớn 4
chữ nho sơn sơn thếp vàng Bồng lai cung quyết. Cách cửa bằng gỗ lim
thượng song hạ bản, chấn song con tiện chỉ mở vào những ngày đại lễ. Còn hai bên cửa thường xuyên rộng mở đón khách xa gần.
Qua một khoảng sân lớn, lát gạch (sân Đại) là các nhà Đại tế, tòa
Thiên Hương, cung Đệ nhị, cung Đệ Tam và cuối cùng là Hậu cung. Nối
liền các cung, các nóc là hai Thảo xá, hai Thảo bạt, hai nhà ngựa, hai nhà
pháo đối diện nhau qua sân Đại và sân chầu.
Đền Đa Hòa được xây dựng vào đời Nguyễn. Song, kiến trúc nơi
đây có được những nét rất riêng vô cùng độc đáo của nó. Trước hết phải kể đến kiểu dáng nóc của 18 ngôi nhà lớn, nhỏ. Đỉnh của tất cả nóc đều
là hình con thuyền, loại thuyền dùng thi bơi chải mũi cong được đỡ bởi
hai con vật có mặt rồng, mình sư tử (nhân dân địa phương quen gọi là
con vác). Nếu đứng trên cao nhìn xuống sẽ thấy 18 nóc nhà - cái ngang
cái dọc, cái cao, cái thấp như 18 con thuyền đang quần tụ dập dềnh trên
biếc lá. Lúc đó chắc hẳn trong ta sẽ sống động hình ảnh đoàn thuyền của
công chúa Tiên Dung về bến sông này thuở nào.
Nét đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc khu đền được dồn cho tòa Thiên Hương. Tòa nhà có kiến trúc cao, thoáng, trang nghiêm. Toàn bộ
phận mái 2 tầng 8 mái cong gửi gắm triết lý dịch học, ngói vẩy cá, đầu
đao cong được đỡ bởi 8 cột gỗ vuông ở 4 góc nhà. Các đấu kê xà ngang,
xà đùi được cách điệu là những con lân mặt hình rồng, mình sư tử. Bụng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
339
các xà ngang, ngay dưới các đấu là các búp sen bằng gỗ chúc xuống như
thể Trời ban hương xuống cho chúng sinh. Những đầu đao, bờ nóc chạm trổ tinh vi, đắp gọt tỉ mỉ, màu sắc rực rỡ. Đập ngay vào mắt ta khi bước
lên thềm tòa nhà này là bức đại tự 3 chữ lớn sơn son thếp vàng Giao
Quang Các (nơi ánh sáng hội tụ), ở trong tòa này có treo đôi câu đối;
nhắc đến một cách cô đọng truyền thuyết về Tiên Dung và Chử Đồng Tử
ở nơi này: Hóa cảnh thị hà niên, Tự nhiên vi châu, Nhất dạ thành trạch.
(Cảnh đẹp được hóa ra bên bờ sông, bãi cát thành châu ngọc, một đêm
thành đầm nước).
Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần tiên. (Ngàn năm trước có mối duyên kỳ ngộ, dưới trần gian là vợ chồng,
ở trên đời là thần thánh).
Nghệ thuật điêu khắc ở đây nổi bật là cửa võng ở cung đệ nhị và
các bức y môn viền xung quanh cửa vào Ngọ Môn tòa Thiên Hương và
các cung. Các điêu khắc gỗ này đều được chạm lộng hình chim phượng,
hoa cúc mãn khai và các hoa quả thiêng biểu hiện ước vọng cầu phúc,
được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Bộ cửa 12 cánh từ tòa Thiên Hương
vào cung đệ nhị trên chạm lồng hoa lá, hạ bản có vẽ thông, mai, cúc, trúc (tứ quí). Cũng với bàn tay đầy mỹ cảm đã làm nên những tác phẩm
điêu khắc lại dâng tặng những hương án chạm lộng tứ linh, những cỗ
ngai, bài vị và những cỗ kiệu bát cống được chạm khắc, tỉa tót tinh vi.
Các cỗ ngai được chạm thủng tinh xảo, độc đáo với kỹ thuật chạm lộng
bong kênh, các cột ngai chạm rồng quấn quanh. Các tay ngai cũng chạm
hình đầu rồng làm cho ta phảng phất bóng dáng ngai vàng Huế.
Thu hút sự chú ý của khách hành hương là ở các pho tượng, đặc biệt là các pho tượng đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Tượng
được đúc bằng đồng, mặt tượng được sơn màu da, kẻ mắt. Các pho đều
có độ cao, ngang bằng nhau. Ngồi giữa là pho tượng Chử Đồng Tử đầu
đội mũ có chữ Vương, nét mặt thông minh thuần phác. Nhị vị phu nhân
ngồi hai bên, đầu đội mũ nữ hoàng, khuôn trăng sáng, nhân hậu, hiền
thục. Hiện nay trong đền có 6 pho tượng đặt làm hai hàng cân xứng nhau
đều là tượng Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Ba pho không để trong
ngai và làm bằng gỗ. Sở dĩ có thêm ba pho này nữa là vì, trong thời gian thực dân Pháp chiếm đóng vùng này, sau khi phá phách, chúng đã lấy ba
pho tượng bằng đồng đem đi. Nhân dân địa phương đã tạc ba pho bằng
gỗ này giống như những pho bằng đồng đã bị cướp. May là một thời gian
sau, do đấu tranh của nhân dân, chúng đã phải trả tượng lại cho đền, trở
lại vị trí cũ của nó nơi chính điện. Ba pho tượng bằng gỗ kia đã sống
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
340
trong tâm linh mọi người vì vậy được giữ lại để tiếp tục cuộc sống của
nó, đồng thời để ghi dấu một thủa nơi đây giặc ngoại xâm đã tàn phá quê hương, phá bỏ chùa chiền.
Toàn bộ kiến trúc trên càng được tôn nghiêm thêm vẻ đẹp cổ kính
bởi nó được nằm trong một không gian thẩm mỹ với sông nước bao la,
cổ thụ bốn mùa xanh tốt. Cây cối nơi đây cũng được chọn lọc để tập
trung vào chủ điểm khẳng định sự bất tử của đức thánh Chử Đồng Tử
cũng như mối tình tuyệt mỹ của Ngài. Đó là những cây do sức sống
mãnh liệt của nó được nhân dân gọi là những cây bất tử các cây thiêng
thường được trồng trong các nơi thờ tự như đa, gạo, si...
Ngoài ra, nó còn được làm đẹp bởi những lời hay, ý đẹp, ca ngợi
cảnh đẹp và tình yêu bất tử của con người toát lên qua mỗi lời, mỗi chữ
của những hoành phi, câu đối của những tao nhân mặc khách mọi thời.
Thực là chốn Bồng Lai tiên cảnh vậy.
Hiện nay di tích còn bảo tồn được nhiều di vật quí, hiếm, trong đó
đặc biệt phải kể đến đôi lọ Bách thọ (một trăm chữ thọ không chữ nào
giống chữ nào viết, khắc trên thành lọ bằng gốm), một cổ vật vô giá của
dân tộc.
ở đền Đa Hòa diện mạo điện thần xưa được bố trí như sau:
Trung tâm điện thần là Hậu cung với ban thờ lớn trên ngự ba pho
trí tuệ đồng trong các cỗ ngai sơn son thếp vàng chạm rồng. Ngồi nơi
chính điện là tượng đức thánh Chử Đồng Tử, bên tả là Tiên Dung, bên
hữu là Tây Sa công chúa. Phía ngoài ban thờ này, hai bên là ban thờ thân
mẫu và thân phụ của Chử Đồng Tử, bà Bùi Thị Gia và ông Chử Cù Vân.
Cùng hướng chính điện, bên ngoài ban thờ đức thánh Chử Đồng Tử là ban thờ Công Đồng. Hai bên tường của gian thờ này, hướng vào trục
chính điện là hai ban thờ Thánh bản thổ. Xưa Đa Hòa là đền hàng tổng
nên trên các ban này có đặt 8 bát nhang, của 8 thôn thuộc tổng Mễ Sở
xưa là Hoàng Trạch, Phú Trạch, Nhạn Tháp, Mễ Sở, Phú Thị, Thiết Trụ,
Bằng Nha, Đa Hòa. Xế ra phía ngoài, ở hai bên tường, hai ban thờ cũng
hướng vào trục chính điện, một bên là ban thờ các quan, một bên là ban
thờ tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Trên ban thờ ông không có tượng, chỉ có
ngai, bên cạnh để một cây đàn tranh ngụ ý nhắc rằng sinh thời ông là người hay thơ, hay nhạc, thích đàn hát.
Tại đây, người dân thập phương đã bao đời hương khói trong niềm
tin tưởng cầu Phúc, Lộc, Sức khỏe mùa màng tươi tốt cho mình và cho
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
341
cả đất nước. Việc thờ phụng theo tín ngưỡng dân gian ở đây diễn ra hàng
năm, nhằm những dịp sau (theo âm lịch):
- 4/Giêng là ngày sinh công chúa Tiên Dung.
- Ngày 10/2 ngày sinh nàng Nguyễn (Tây Sa).
- Ngày 1/4 công chúa Tiên Dung về tắm ở bãi Tự Nhiên.
- Ngày 2/5 ngày giỗ quan thành hoàng bản thổ.
- Ngày 12/6 ngày giỗ thân mẫu Chử Đồng Tử.
- Ngày 12/8 là ngày thi cỗ mừng sinh nhật Chử Đồng Tử.
- Ngày 10/10 ngày giỗ thân phụ Chử Đồng Tử .
- Ngày 17/11 ngày Tam vị hóa, tức là ngày Chử Đồng Tử cùng nhị vị phu nhân bay về Trời.
Xưa, thành lệ, cứ 3 năm một lần, đền Đa Hòa mở hội hàng tổng từ
10-15 tháng 3 âm lịch gọi là hội Kỳ Yên (lễ cầu mát). Trong ngày hội,
đoàn rước kiệu của 8 làng đưa thánh bản thổ của làng mình về trình Đức
Thánh và dự hội, làm cho một quãng đê và các ngả đường về đền đông
vui, nhộn nhịp, cờ xí rợp trời. Giã hội, các làng lại rước kiệu làng mình
trở về.
Tiêu biểu và đông vui nhất trong năm tại đền là ngày hội rước nước tổ chức vào tháng Giêng, sau Tết âm lịch. Lễ hội này do nhân dân địa
phương tiến hành, có sự tham dự cộng cảm của các làng lân cận và khách
thập phương. Lễ diễn ra trong ba ngày, thật tưng bừng nào nhiệt, nhất là
vào ngày rước nước. Tất cả dân làng quanh vùng đều tập trung về đền dự
hội. Không những thế, những người con của quê hương sinh cơ lập
nghiệp ở nơi khác hoặc những người đi công tác và làm việc ở nơi xa vào
những ngày này cũng về vui chung cùng bà con dân làng.
Mở đầu hội là lễ khai mạc. Mọi người cùng nhau ôn lại truyền
thuyết về mối thiên duyên Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa cùng
Tây Sa công chúa. Sau lễ khai mạc là lễ rước nước, tức là lễ lấy và mang
nước ở sông Hồng về đền. Theo tục lệ thì nước dùng trong việc Thánh ở
đền trong cả năm như làm lễ mộc dục (lau tượng), nước cúng phải là
nước được lấy ở giữa dòng sông Hồng. Lực lượng tham gia lễ này gọi là
giai đồ, có tới hàng trăm người, được biên chế thành các đội như: đội tế
nam gồm các vị trung niên trở lên, đội tế nữ gồm các bà trung niên trở lên, đội múa sênh tiền (múa tiên) gồm các thiếu nữ tuổi chừng 13, 14,
ban nhạc lễ, đội múa rồng, đội khiêng kiệu Thánh, đội khiêng kiệu chóe
đựng nước, lực lượng chèo thuyền... các đội này có trang phục ngày hội,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
342
kiểu cách riêng. Đi đầu đám rước là hai con rồng vàng lộng lẫy uy nghi
được đám rước đến hơn mười người múa, uốn lượn theo nhịp trống phách dồn dập. Múa rồng là một nghệ thuật, làm sao cho giống "rồng
bay". Dẫn đoàn rước kiệu là hai hàng các bà, các cô trong đội tế nữ trong
những bộ xiêm y, dài đủ màu xanh, đỏ, vàng, trắng. Sau đám rước rồng
là ban nhạc lễ, sau đó đến kiệu Thánh có lọng che hai bên, cùng bát bửu,
chấp kích do trai thanh gái lịch trong làng rước. Kiệu chóe sứ có bệ đỡ,
có lọng che, treo trên 4 dải lụa đỏ buộc dưới đít kiệu, luôn luôn được 2
cụ già đi 2 bên giữ cho cân bằng. Hàng đoàn người trong trang phục
ngày hội nối tiếp nhau theo đám rước tới bờ sông. Bên kia sông, trên bãi cát trắng Tự Nhiên, nơi Chử Đồng Tử và Tiên Dung gặp gỡ buổi đầu
cũng cờ xí rợp trời. Đó là đám hội của làng Ngự Dội chờ tham gia đoàn
rước về trình Thánh. Đoàn rước đến bến Tuần thì dừng lại. Tại đây, hai
con rồng được đưa xuống 2 chiếc thuyền chở những đồ với nguyên cờ xí
và những đồ tế tự trên tay. Trong tiếng trống náo nức, tiếng đàn nhị, sáo
sôi động đoàn thuyền rước bắt đầu bơi sang bãi Tự Nhiên. Lúc này cảnh
đẹp nên thơ và trữ tình. Trên sông, hai con rồng đang "bay" cùng hàng
chục chiếc thuyền kết đầy cờ hội đang du ngoạn trên mặt nước như cảnh đoàn thuyền Tiên Dung thuở nào. Chiếc thuyền mang chóe từ chỗ đang
được dòng nước cuộn chảy đẩy xuôi dòng đã được những cánh tay trải
khỏe mạnh lại xoay ngang giữa dòng. Cùng lúc, những con thuyền chở
đoàn đi theo cũng bẻ lái cho thuyền quây quần thành vòng tròn quanh
chiếc thuyền mang chóe. Cuộc múc nước được tiến hành. Người được
chọn ra múc nước là một người già đức độ, khỏe mạnh, mặc lễ phục, tay
cầm chiếc gáo dừa sơn đỏ cúi xuống múc từng gáo đổ vào chóe tới khi đầy. Xong việc, đoàn thuyền quay vào bờ trong tiếng trống, chiêng, tiếng
mái chèo làm náo động cả lòng người. Đám rước lại tiến hành theo thứ tự
như lúc đi theo sau hai con rồng vàng trở về đền. Lễ rước nước trong lễ
hội Chử Đồng Tử đưa ta trở về không khí của những hội làng thuở xưa.
Trong bản chất, lễ hội này mang rõ nét tín ngưỡng cầu nước của những
cư dân nông nghiệp. Lễ rước nước hình thành như một hành động thiêng
liêng biểu trưng cho lòng cầu mong trời cho nước và trở thành một nghi
lễ mở đầu cho rất nhiều hội làng vùng đồng bằng và Trung du Bắc Bộ. Tất cả các hành động của buổi lễ này hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đều
tập trung nói về nước, như hoạt động của đội rồng múa lượn và trong
hành động chèo thuyền khuấy động nước, và các trò diễn khác...
Do đó có thể nói, lễ rước nước ở đây là một sinh hoạt văn hóa dân
gian tổng hợp. Sau lễ dâng hương là các trò chơi diễn ra ở trước sân tòa
Thiên Hương và sân Đại tế, thu hút mọi người tham dự. Chỗ này thì vật,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
343
võ, đánh gậy, chỗ kia đánh cờ người (nhà nào có con gái đẹp được có
mặt trong bàn cờ là vinh hạnh lắm), múa rồng, múa sư tử. Ban ngày có hát cô đầu, đêm có hát chèo. Ngoài ra, khách hành hương còn được thỏa
mãn nhu cầu tâm linh của mình trước điện thánh.
Để thỏa mãn nhu cầu tâm linh, từ lâu người Việt Nam đã sáng tạo
một thế giới huyền thoại, trong đó tồn tại những vị thần có nguồn gốc
thuần Việt. Trong số các vị thần linh ấy, có bốn vị được tôn vinh là
Thánh Bất Tử - Tứ Bất Tử. Đó là Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử,
Thánh Gióng và Mẫu Liễu Hạnh.
Nếu như Tản Viên Sơn Thánh là biểu tượng cho sức mạnh cố kết của cộng đồng và khẳng định nó trước tự nhiên, chế ngự những sức
mạnh tàn phá của tự nhiên như mưa, gió, lũ, lụt; Thánh Gióng là biểu
tượng cho sức mạnh đoàn kết nhân tài vật lực của cộng đồng trong cuộc
chiến đấu chống xâm lăng bảo vệ lãnh thổ và quyền làm chủ bất khả xâm
phạm của mình; Mẫu Liễu Hạnh là khẳng định quyền sống của con
người, quyền tự do và bình đẳng với nam giới của phụ nữ thoát khỏi
những ràng buộc của xã hội, của lễ giáo phong kiến đã lỗi thời, khát
vọng vươn tới để đạt được những ước vọng của hạnh phúc gia đình thì Chử Đồng Tử là biểu tượng của tình yêu đôi lứa vượt lên trên tiền tài và
địa vị, của ước muốn xây dựng một xã hội ổn định, cân bằng, của nghĩa
cử cứu độ chúng sinh đảm bảo sự trường tồn của cộng đồng.
Chử Đồng Tử đi vào tâm thức dân gian và trường tồn qua năm
tháng, không chỉ là con người hiếu thảo, nhân ái, thuần hậu chinh phục
được lòng người mà còn là biểu tượng của một chí hướng phát triển của
cả cộng đồng, mở mang khai phá đồng bằng lầy trũng thành cánh đồng tốt tươi, trồng dâu, chăn tằm, dệt lụa, phát triển các ngành nghề, đặc biệt
là nghề buôn bán. ở Chử Đồng Tử nhân dân ta còn học được ý chí tự lực,
tính hồn nhiên, tâm hồn phóng khoáng, thơ mộng và một tình yêu mãnh
liệt, thủy chung. Chính những đức tính này là phẩm chất đạo lý truyền
thống mà con người Việt Nam hằng có và quí trọng. Vì vậy mà Chử
Đồng Tử trở thành Bất Tử. Việc thờ phụng Chử Đồng Tử biểu hiện
khuynh hướng tôn thờ anh hùng văn hóa, tôn thờ những người có công
với dân với nước vốn là truyền thống của nhân dân ta. Mặt khác, Ngài còn được tôn thờ như ông tổ của Đạo thờ tiên - Chử Đạo Tổ - Tiên, theo
quan niệm của dân gian là những người ở cõi trời giáng trần hoặc là
người trần giới có đạo cốt, tài năng và đức độ, qua thời kỳ tu luyện trở
thành tiên, sau đó dùng phép lạ của mình cứu nhân độ thế, được dân gian
tôn thờ, ngưỡng mộ. Chử Đồng Tử và Tiên Dung tuy thấm nhuần triết lý
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
344
vô vi của Đạo Lão nhưng cuộc đời của họ vẫn toát lên tính nhân bản sâu
sắc gần gũi với tất cả những gì tự nhiên nhất, họ là thần tiên nhưng không hề cách biệt với thế giới người trần.
Truyền thuyết về thiên tình sử Chử Đồng Tử và Tiên Dung ngoài
việc phản ánh một cảm quan huyền thoại về việc Người, việc Đời nơi
dương thế của nhân dân ta trong tiến trình lịch sử của mình, còn là bức
tranh phản ánh hiện thực lịch sử của nhân dân vùng đồng bằng và trung
du Bắc Bộ trong việc khai phá vùng đầm lầy phù sa ven sông Hồng buổi
bình minh của đất nước.
Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã bay về trời nhưng tình yêu của họ vẫn còn mãi mãi với thời gian và bất tử trong tâm linh các thế hệ người
Việt Nam. Đền Chử Đồng Tử ở xã Bình Minh và nhân dân nơi đây đã là
một trong những điểm tựa cho sức sống bất tử ấy. Bây giờ cứ ba năm
người dân tổng Mễ xưa lại mở lễ hội một lần bắt đầu từ ngày 10/2 âm
lịch đến hết ngày 12/2 âm lịch. Thời gian đi qua, truyền thống văn hóa
của dân tộc, như thế, vẫn được lưu giữ một cách trọn vẹn nhất./.
N.M.S - N.C.B
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
347
Lễ hội Chử Xá Đỗ Lan Phương
Chử Xá, còn có tên nôm là làng Sứa, là “anh cả” của 72 làng thờ Đức
Thánh Chử ở vùng châu thổ sông Hồng bởi đây là quê hương của Ngài.
Chử Xá là một trong ba làng của xã Văn Đức (Trung Quan, Chử Xá và
Sơn Hô) huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Từ Hà Nội (trung tâm thành phố),
qua cầu Chương Dương, xuôi dọc theo đường đê sông Hồng xuống phía nam
hơn chục cây số, qua làng gốm Bát Tràng, đi tiếp 3 km rồi rẽ phải xuống chân
đê qua địa phận xã Xuân Quan, Kim Lan sẽ gặp bến đò Văn Đức (thuộc làng
Trung Quan) thì rẽ trái đi thêm 2 km sẽ tới làng Chử Xá, như vậy, chúng ta phải
đi khoảng 20 km.
Chử Xá được biết đến từ thế kỷ XV, là vùng đất cổ và có bề dày văn hoá lâu đời. Đối với người dân Chử Xá, nếu như Tết Nguyên Đán là Tết Niên lịch,
tết của một chu kỳ mùa màng, thì hội đình mới thực sự là Tết của cả cộng đồng
làng để tạ ơn và cầu ước tổ tiên (Đức Thánh Chử) cùng các vị thần Càn Hải Đại
Vương Tứ Vị Thánh Nương, hai thần Đương Niên- Đương Cảnh giúp dân làng
có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Lễ hội làng Chử Xá có một nét đặc biệt là, nghi lễ được tổ chức ở hai nơi:
Đình Chử Xá và Lăng Thân Phụ- Thân Mẫu của Chử Đồng Tử. Xưa kia, Hội làng được tổ chức trong ba ngày từ 17 đến 19 tháng Giêng (âm lịch). Dân làng
phải chuẩn bị bắt đầu ngay sau những ngày Tết năm mới. Ngay ngày đầu tiên
của năm mới, khi cụ Tiên chỉ ra đình thắp hương cúng năm mới đã khấn cầu các
vị thần cho con cháu trong làng (các giáp) chuẩn bị lo ngày hội và lo lễ dâng
thánh. Sau đó, hội đồng trưởng giáp (7 giáp) họp, do cụ Tiên chỉ chủ trì, bàn về
các việc như chọn lựa những người được đứng trong ban tế (gồm 18-24 người,
tuổi từ 40 trở đi), bầu chọn người làm Đông xướng, Tây xướng, cử người làm
phụ tế (phụng văn) trong số những người tế; chọn lựa những người thực hiện lễ Mộc dục. Những người được chọn này sẽ phải trai giới một tuần trước ngày
hội;bàn việc làm cỗ cúng ở đình và để đãi khách và những người hầu lễ (ban tế,
ban nhạc, đội trống, đội sinh tiền, các vị chức sắc trong làng...). Theo quy định,
mỗi giáp góp cỗ 7 cân xôi, 7 cân thịt, nếu giáp nào đăng cai phục vụ lễ (thay
phiên thường niên) chỉ góp rượu. Giáp đăng cai hầu lễ làng phải trực ở đình từ
một vài hôm trước hội để quét dọn đình và sân đình sạch sẽ. Năm nào khách
đông (thường là “đại biểu” từ 72 làng thờ Chử Đồng Tử tới tế và dự lễ) làng
phải lo nhiều cỗ thì ngoài số lượng đóng góp chung của các giáp, số lượng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
348
lương thực thực phẩm thiếu, làng sẽ giao cho các gia đình khá giả đảm trách,
nhưng tất cả đều được gọi là cỗ làng. Cuối cùng, hội đồng trưởng giáp điểm qua tình hình chuẩn bị các nghi thức hầu lễ như múa trống xếp chữ, múa sinh tiền,
múa con đĩ đánh bồng, phân công người đi cờ, đội rước chấp kích và bát bửu,
điểm số thuyền dùng trong ngày hội (dùng trong lễ rước nước, đua thuyền).
Ngày 16 tháng Giêng (âm lịch), các gia đình bắt đầu chuẩn bị làm cỗ cúng
ở đình. Cỗ cúng có hai loại: Cỗ chay (trai lễ) gồm: trầu cau, oản xôi, chuối, cam,
mía (chặt tấm khoảng 30 cm, hai đầu bọc giấy điều), chè đường, chè kho, xôi
vò, bánh gai, bánh cốm (làm giả từ thóc nếp ngâm nước rồi rang chín); Cỗ mặn
(sinh lễ) gồm các món: thịt lợn luộc, thịt lợn xào (thái mỏng, to bản), canh thịt (thịt cắt vuông nấu loãng nước với nước mắm), đặc biệt có món “dừ” là một loại
canh xột xệt dùng để chấm khi ăn với oản xôi. Canh “dừ” được chế biến từ xôi
giã nấu với thịt mỡ cho nhừ, khi múc ra bát sẽ bày lên trên các miếng gan luộc.
Cơm cúng được nấu bằng gạo tám, ngoài ra còn có bánh chưng, thịt gà (cúng cả
con đã luộc chín, thường là từ cỗ các gia đình mang ra cúng để thụ lộc thánh).
Ngày 17 tháng giêng, làng bắt đầu vào hội. Hôm đó là ngày làm lễ Rước
nước và Mộc dục. Một mâm cỗ chay bày cúng trên bệ Thánh Chử Đồng Tử và
nhị vị phu nhân, hai mâm cỗ mặn bày cúng trước điện của Đức Càn Hải Đại Vương Tứ vị Thánh Nương và trước bàn thờ hai vị thần Đương Niên Đương
Cảnh. Khi bày cúng Thánh Đức Càn Hải Đại Vương, cỗ mặn ở đây có 4 bát to
cơm gạo tám (1 kg gạo nấu chín rồi chia bốn) với bát canh thịt (múc 16 miếng
thịt) và đĩa thịt xào (cũng 16 miếng). Còn bên bàn thờ thần Đương Niên Đương
Cảnh chỉ cần bày cúng xôi và chân giò luộc. Ngoài các gian Đại bái và Tiền tế
bày cúng hoa quả, oản xôi.
Đúng giờ chọn, ông Tiên chỉ chỉnh tề trong bộ áo lễ vào thắp hương trong đình và vào lễ ở hậu cung xin các chư Thánh cho dân làng rước kiệu đưa choé đi
lấy nước để làm lễ Mộc dục. ở Lăng cũng tiến hành một nghi lễ tương tự.
Đoàn rước nước bắt đầu khởi hành từ đình, đi về hướng lăng để đón choé
của Thánh Phụ Thánh Mẫu ở đó, rồi hướng ra bờ sông. Đi đầu đoàn rước là
những nam thanh niên cầm cờ hội, cờ ngũ sắc, tiếp đến là các chàng trai rước
bát bửu (trường đao, kiếm, bút, quạt, khánh, bàn cờ...), rồi đến đội trống chiêng
của các ông trung niên. Tất cả những người này đều mặc áo dài lễ, thắt lưng
xanh đỏ. Tiếp theo là đội múa sinh tiền của 12 em gái (8-12 tuổi), được làng chọn là nhũng em ngoan nết, con cháu các gia đình hoà thuận. Các em đều trong
trang phục áo tứ thân màu đỏ, quần trắng, thắt lưng vàng, khăn dài choàng vai
màu xanh. Các em vừa đi vừa múa sinh tiền tạo tiếng nhạc nghe thanh nhẹ, vui
tai, những đôi tay kẹp khăn choàng đưa lên, vòng xuống tạo thành những cánh
lượn uyển chuyển, các cụ còn gọi đó là điệu múa tiên. Có hai chàng trai đóng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
349
giả nữ múa điệu con đĩ đánh bồng, cũng đi liền đây. Cụ Tiên chỉ đi tiếp sau, bốn
thanh niên khiêng hương án có hương nhang và hoa quả rồi đến các chàng trai khiêng kiệu đặt choé nước, họ đều mặc áo dài trắng với thắt lưng màu đỏ. Cuối
đoàn rước là các bô lão, chức sắc, tư văn và dân làng.
Đến bờ sông (cách làng khoảng 3 km), những chiếc thuyền đã chờ sẵn và
đón đoàn rước ra sông. Mỗi thuyền chở một kiệu có choé nước, những người
khiêng và một ông được phân công múc nước. Cụ Tiên chỉ ở trên thuyền với
choé nước của Chử Đồng Tử- Tiên Dung và Tây Sa, đi kèm theo là đội trống
chiêng, tù và.... Các đội múa sinh tiền và đĩ đánh bồng ở các thuyền sau. Còn
một vài thuyền chở các vị chức sắc và một số dân làng. Đoàn thuyền rồng được cụ Tiên chỉ hướng dẫn bơi vòng hai vòng theo hướng ngược dòng về đầu nguồn,
trông xa giống những con rồng thật đang quấy nước theo nhịp trống chiêng, tù
và và tiếng nhạc sinh tiền. Sau đó, đoàn thuyền dừng ở giữa sông để chọn một
luồng nước trong làm lễ lấy nước.
Hương án lúc nào cũng nhang khói thơm ngát. Cụ Tiên chỉ đọc bài văn lễ
hà bá rồi ném vàng thoi (đồ mã) xuống nước (500 thoi). Xong nghi thức này,
những người được chỉ định lấy nước sẽ dùng gáo (sơn son thiếp vàng) múc nước
dưới sông lên và mỗi vị Thánh chỉ cần lấy 4 gáo nước. Như vậy, choé của Đức Thánh Chử và nhị vị phu nhân cần 12 gáo nước, choé của Càn Hải Đại Vương
Tứ Vị Thánh Nương cần 16 gáo và choé của bố mẹ Chử Đồng Tử cần 8 gáo.
Lấy nước xong, các thuyền đưa đoàn rước về bến rồi theo đường cũ trở về
lăng và đình. Các choé nước được đưa vào lăng và đình để chờ lễ Mộc dục, cụ
Tiên chỉ lại khấn trình Thánh các choé nước. Nghi lễ Rước nước kéo dài tới 4-5
tiếng đồng hồ.
Chiều cùng ngày (17-1 âm lịch), cụ Tiên chỉ thắp hương dâng thánh các lá phiếu dùng để bốc thăm chọn người trong ban lễ Mộc dục xem ai là người thực
hiện lễ này ở lăng hay đình. Lễ Mộc dục được tiến hành vào đầu giờ chiều. ở
đình lễ Mộc dục được làm ngay tại hậu cung. Ngai và bài vị được đưa ra khỏi bệ
lau chùi sạch sẽ và khoác xiêm y mũ mão. Còn ở lăng, hai bức tượng Thánh
Phụ, Thánh Mẫu được lau rửa sạch sẽ và thay khăn choàng. Dân làng cho rằng
ai được làm lễ Mộc dục thì năm đó cả gia đình được nhờ lộc thánh, con cháu sẽ
khoẻ mạnh, làm ăn dễ dàng.
Đêm ngày 17-1, các giáp tiếp tục làm cỗ làng cho ngày chính hội (18-1), cỗ làng cũng được chế biến như ngày hôm trước, với hai loại: cỗ chay (trai lễ) ;
cỗ mặn (sinh lễ). Ngoài cỗ làng, các giáp còn phải làm cỗ thi (bánh dầy) tại nhà
các ông trưởng giáp. Gạo nếp nấu xôi làm bánh dầy thi được tuyển chọn rất kỹ
từ nếp quýt (nếp thơm) và được ngâm bằng nước mưa. Có khoảng 40 kg gạo
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
350
nếp đã chọn, đã ngâm nước từ đêm hôm trước, vớt ra để ráo rồi cho vào hai chõ
thùng (gỗ) đồ chín rồi đem ra giã làm bánh. Cối và chày giã được bảo quản rất kỹ, các chày giã được thay đầu bịt mỗi năm một lần (chày làm bằng tre già bịt
đầu bằng mo nang). Thường mỗi giáp có 2 cối 8 chày, các cối giã xôi thường do
các thanh niên khoẻ đảm nhiệm. Xôi giã nhuyễn được để vào mâm đồng thật
sạch rồi đưa vào nơi “tạo” bánh - thường là buồng riêng được dọn dẹp sạch sẽ.
Trước khi “bắt” (véo) bánh, các ông phải “lộn” đi “lộn” lại xôi đã giã xem còn
sót hạt xôi nào không, nếu có thì dùng tăm gẩy ra để bánh được đảm bảo nhuyễn
mịn hoàn toàn. Khi “bắt” bánh người ta xoa tay bằng lòng trắng trứng gà cho
khô để khỏi dính tay. Bánh “bắt” xong được để ướm vào khuôn rồi mới đặt vào những miếng là chuối tây non (được rửa sạch và lau khô), lại có người khác chỉ
chuyên ngồi dùng miếng vải chúc bâu nõn dúng vào nước chanh vắt trong chậu
nước rồi xoa vào mặt bánh cho nõn trắng và bóng. Sau khi bánh được hoàn
thiện, người ta xếp những chiếc bánh đó lên một sập gỗ (giường) và quây màn
kín xung quanh để giữ không cho một hạt bụi vương vào. Mỗi chiếc bánh to
bằng chiếc đĩa nhỡ (đường kính khoảng 17 cm) và nặng gần cân gạo. Như vậy,
mỗi giáp làm được khoảng gần 40 chiếc bánh. Họ sẽ chọn ra 22 chiếc bánh đều
và đẹp để bày cỗ thi. Mâm bày bánh hình vuông được sơn son và chạm trổ hình hoa lá rất đẹp (nay làng thay bằng mâm bồng lớn, hình tròn). Lòng mâm bày
bánh đã đục sẵn các lỗ tròn cho vừa bánh, mỗi mâm có 22 lỗ. Cỗ bàn làm xong
thì trời cũng sáng, mọi người chuẩn bị quần áo chỉnh tề và đem cỗ lên đình.
Sáng ngày 18 (tháng Giêng-âm lịch), người ta đã đưa sẵn long ngai và bài
vị của Đức Thánh Chử và nhị vị phu nhân được đặt trên các kiệu ra ngoài sân
đình để làm lễ. Hương án cũng được đặt ra ngoài sân đình, ngay chính giữa cửa,
trước hương án người ta trải những tấm chiếu, các ông Đông xướng Tây xướng đứng hai bên. Sau các ông là phường trống. Hai ông Đông xướng Tây xướng là
người điều hành các nghi thức lễ, sau mỗi lệnh xướng của hai ông là một hồi
trống. Mở đầu là việc trình văn tế các Đức Thánh do ông chủ tế (Tiên chỉ) đọc,
đứng cạnh ông chủ tế là hai ông phụ tế (hay còn gọi là phụng văn). Sau bài văn
tế, cả ban tế (18 người, trang phục áo dài lễ màu lục, quần trắng và đi hài thêu
rồng) vào tế và làm lễ dâng hương, dâng rượu, ông chủ tế nâng khay chén, còn
hai ông phụ tế nâng hai be rượu. Sau các bước “cung, bái” các ông rót rượu đưa
lên hương án để dâng Thánh. Ngày nay còn có thêm ban tế nữ (cũng 18 bà trong trang phục áo dài màu vàng, quần trắng, thắt lưng xanh, khăn vành dây màu
vàng có đính kim sa) vào tế, theo điều khiển của Đông xướng Tây xướng, ban tế
nữ vào dâng trà và hoa. Trong khi các ban tế của làng làm nghi thức tế lễ thì
đằng sau họ là đội múa sinh tiền biểu diễn, hết bài thì đến hai cậu con trai giả nữ
ra múa điệu con đĩ đánh bồng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
351
Khi tế xong, ông chủ tế điều khiển đoàn rước các kiệu Thánh Chử và nhị
vị phu nhân có mũ, áo, đai, hia ra lăng lễ trình Thánh Phụ-Thánh Mẫu. Đi theo đoàn rước cũng đủ cờ, trống, các đội tế, đội múa, v.v...
ở ngoài lăng, người ta cúng cỗ mặn nhưng vẫn có hương, hoa, trà, quả. ở
lăng cũng làm nghi thức như vừa trình ở đình, hai ông Đông xướng và Tây
xướng cũng điều hành cuộc tế, có một bài văn tế để tạ ơn cha mẹ. Sau khi lễ cha
mẹ xong, đoàn rước quay trở lại đình, long ngai và bài vị của Đức Thánh Chử và
nhị vị phu nhân được đưa vào hậu cung. Cỗ mặn, cỗ chay được bày vào bệ thờ
để cúng ngâm nga. Hai gian Đại bái và Tiền tế, người ta bày các mâm cỗ thi
(bánh dầy) của 7 giáp.
Buổi sáng 18-1 (âm lịch) này, nghi thức tế lễ rất long trọng và thiêng liêng.
Các làng thờ Chử Đồng Tử ở khắp nơi tới tế trong ngày hội ở Chử Xá. Các làng
đó lập các đội tế nhỏ (6- 8 người) do các ông Tiên chỉ của các làng đó làm chủ
tế, đây gần như là một cuộc hành hương về lễ tổ. Các làng thờ Đức Thánh Chử
cũng có ý muốn lễ trình trước khi làng họ mở hội tế lễ Ngài (làng Chử Xá mở
hội đầu tiên). Cuộc tế lễ có khi kéo dài đến hết ngày bởi các làng xa gần đến rải
rác. Chử Xá đảm bảo tiếp khách chu đáo đúng như một người anh cả (làng xưa
kia đã làm cả một con đường chạy dài suốt rìa làng, phía ngoài sông- được gọi là “đường khách” để tiếp rước các đoàn lễ ở các nơi đến).
Sau khi làng tế xong, hội đồng đại biểu các giáp và các chức sắc tổ chức
cuộc bình xét về các cỗ bánh dầy của các giáp. Giải nhất sẽ thuộc về mâm cỗ mà
bánh có chất lượng: trằng đều, mịn, nhuyễn, bóng và bánh không bị khô. Giải
thưởng chỉ là một be rượu (đã cúng thánh), chục miếng cau khô và trầu têm
hoặc có thêm bánh pháo, nhưng đó là một vinh dự vô cùng cho giáp giật giải
năm đó. Họ cho rằng, giáp nào được giải nhất sẽ làm ăn thịnh vượng và mọi người đều khoẻ mạnh. Sau khi được giải, giáp được phép rước kiệu bánh đi
vòng quanh làng.
Phía ngoài các ban tế, các đội múa sinh tiền, múa con đĩ đánh bồng thay
nhau múa hầu Thánh. Đặc biệt, phải kể đến điệu múa trống xếp chữ “Thiên hạ
thái bình” của 22 em trai (tuổi từ 10-15). Đây là điệu múa rất đẹp và nổi tiếng
trong vùng, dân làng còn gọi là nghi thức lễ chữ.
Tuy nhiên, sau khi làng “anh” (Chử Xá) tế lễ xong, các làng khách (em)
đến tế, người ta đã bắt đầu tổ chức các trò chơi (từ đầu giờ chiều) ở các bãi đất được san sửa phẳng ngoài sân đình.
Trước hết phải kể đến trò đánh gậy (còn gọi là múa gậy) của nam thanh
niên- trung niên. Các cặp chơi với nhau phải cùng tuổi, thi thoảng có các cặp
chơi mang tính thi thố thì có lệch tuổi. Muốn chơi được, họ phải tập luyện từ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
352
trong năm vào mỗi dịp nông nhàn và được các võ sư hướng dẫn. Chử Xá rất nổi
tiếng về trò đánh gậy và trở thành ngón võ của trai làng. Xưa kia, vào năm 1370 đời Trần Nghệ Tôn, vua đi theo đường sông Đà vào Thăng Long dẹp loạn Hôn
Đức Công Dương Nhật Lễ, trai làng Chử Xá đã hưởng ứng và mang theo gậy
tre, theo sau thuyền vua về Thăng Long, giúp vua dẹp loạn. Sau này, trai làng
Chử Xá cũng với cây gậy đã giúp nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật. Gậy múa
(đánh) được chọn từ các cây tre đực già, các mắt ở đốt tre có 3 dễ, loại tre này
làm gậy đánh khó dập, thân gậy không to dễ cầm, gậy có độ dài khoảng 2 m.
Sau khi đã chuốt hết các mắt tre, người ta hơ qua lửa để nắn cho thẳng, rồi đánh
bóng nhẵn, hai đầu được sơn đỏ. Các gậy tre này được dựng trước hương án cúng Thánh trước khi mang ra chơi.
Trò chơi đánh gậy thu hút mọi người từ già, trẻ, gái, trai bởi sự hồi hộp với
tiếng gậy đập vào nhau nghe chát chúa cùng với tiếng trống điều khiển thúc dồn
mỗi khi trận đấu ở bước quyết định. Các đường gậy múa tít, quấn vào nhau,
không phân biệt được tay người nào với người nào, tiếng các bước chân nhảy
lên nhảy xuống thình thịch... Các ngón võ được thay đổi làm sinh động cuộc
chơi, lúc thì đánh năm cửa (ngũ môn), khi thì đánh ba cửa (tam môn). Tất cả đều
là lối đánh trước- sau, trên- dưới, phải- trái phối hợp lại tạo thành các ngón võ. Có các cặp chơi quá mạnh mẽ đến gẫy gậy, người ta lại thay gậy khác và chơi
tiếp.
Ngoài ao đình cũng có trò chơi khá hấp dẫn, đó là thi bơi thuyền (nhỏ) với
mái chèo ngắn. Thanh niên các giáp có tài điều khiển thuyền lập thành các đội
để thi với nhau. Mỗi thuyền chỉ cần 6 hoặc 8 người. Mỗi lần thi chỉ cần hai
thuyền, và số người trên thuyền phải bằng nhau. Vì không phải bơi trên sông có
đường thẳng mà là trong ao nên mọi người trong nhóm phải phối hợp với nhau thật khéo léo sao cho thuyền vừa đi nhanh mà vẫn có thể lượn theo vòng ao,
không đâm phải bờ ao và không đâm phải nhau. Số vòng bơi do ông trưởng trò
(thường là một người được làng bầu là người bơi giỏi và chèo thuyền giỏi nhất
làng) đặt ra. Cứ hai đội thi với nhau rồi sau đó đảo đội thi. Trò chơi làm cho
không khí hội thêm nhộn nhịp bởi tiếng trống thúc giục trên bờ, tiếng hò reo của
mọi người cộng với tiếng khua nước oàm oạp. Nói là thi nhưng lại không có
giải, đội nào thắng sẽ được dân làng truyền danh cả năm.
Một góc bãi khác, trò chơi chém mía (đất trồng của người Chử Xá trước đây vốn là bãi trồng một vụ mía) cũng sôi động không kém tuy không được tổ
chức chính thức như các trò trên. Trò chơi này thể hiện sự khéo léo và có nhiều
người tham gia. Rất nhiều mía từ các gia đình được mang vào hội để vừa chơi
vừa phục vụ (bán) “giải khát” luôn. Các cây mía cần được chặt ra thành tấm và
tự nhiên từ lúc nào, hình thành những người thi chặt mía nhanh và đều tấm. Ai
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
353
đó có thể đứng ra làm trọng tài và hô “một-ba”, có nghĩa là một nhát dao chặt
được 3 tấm mía hoặc “hai-năm” là hai nhát dao chặt thành 5 tấm mía. Để làm được, người tham gia chơi dựng cây mía lên, tay cầm phía ngọn mía vít nó
xuống làm cho cây mía cong đi. Người đó dùng một con dao dài lưỡi hơi to bản
và rất sắc chém thật mạnh một nhát từ trên xuống. Đường dao đó đi qua hai
đoạn của cây mía cong (một phía ngọn, một phía gốc), thế là một nhát chia cây
mía ra thành ba. Muốn chặt thành 5 tấm người ta cũng làm như vậy, trò chơi này
đòi hỏi người tham gia phải có động tác khéo léo khi uốn cong thân cây mía, bởi
cây mía mềm dễ uốn thì cũng dễ trượt gốc phía dưới đất, do vậy người ta thao
tác rất nhanh và vung dao chặt mạnh, dứt khoát. Có nhà thua mất cả ôm mía mà vẫn vui vẻ. Những cây mía của người thắng cuộc được đem chia cho mọi người
vây quanh ăn thoả thích.
Một trò chơi khác nghe cũng rất lạ, là trò cắt đậu phụ (Chử Xá là đất trồng
màu nên có rất nhiều đậu tương, và đây là món ăn thường ngày của họ). Những
bìa đậu phụ (hình chữ nhật) to gần bằng bàn tay ngay từ khi sản xuất người ta đã
đưa vào đó những que tre vót nhỏ bằng cái tăm và đặt dọc hoặc ngang bìa đậu.
Nhìn hình bìa đậu rất khó đoán cái que nằm ở đâu, thế mà vẫn có người có ngón
tay nhạy cảm, người nhận lời đố tranh thủ lướt nhẹ các ngón tay trên bìa đậu trước khi cắt, cũng dùng tre vót que hình dẹt mỏng, rồi hạ tay cắt. Kết quả cũng
khá hồi hộp, dù đoán trúng hay không thì cả người thi lẫn người đố đều phá lên
cười mỗi khi kết quả “hiện ra”. Trò chơi cắt đậu là một trò chơi giải trí nhẹ
nhàng, cả nam cả nữ, cả người già trẻ con đều có thể đố và giải đố.
Suốt chiều ngày 18, dân Chử Xá chạy qua chạy lại tham gia vào các sinh
hoạt cộng đồng (xem hoặc dự cuộc) vừa trò chuyện cùng nhau, chúc tụng cho
nhau vụ mùa mới. Trong ngày hội, một số cô gái bày bán nước và trầu cau cho người chơi hội uống cho đỡ khát, ăn miếng trầu cho thơm miệng và mình thì có
thêm chút lộc đầu năm. Các cô cố thể hiện sự khéo léo của mình qua miếng trầu
têm cánh phượng mong các chàng trai tới mua. Các chàng thanh niên thường tụ
nhau lại rồi kéo đi lần lượt các bàn của các cô xem trầu, bình phẩm, trêu chọc
các cô. Lời qua lại đối đáp dễ gây cảm tình và đoán tính cách nhau để kết thân.
Đây mới là ý muốn đích thực của các cô... Ngoài ra, còn một số trò chơi khác
như đấu vật, chọi gà được nhóm họp thành hội chơi trên bãi..
Các trò chơi kéo dài suốt buổi chiều và riêng các bàn trầu nước của các cô thì bày bán cả tối, bởi tối làng có trò diễn chèo. Xưa kia,Chử Xá có phường nhạc
rất giỏi và có nhiều kép chèo nổi tiếng như gánh hát của kép Viêu, Quản Giá với
những nghệ nhân như ông Câu, bà Muộn... Buổi tối ngày mười tám này, các
phường chèo thường diễn các vở Lưu Bình-Dương Lễ, Phạm Công Cúc Hoa,
Nhị Độ Mai, các tích trong Tam Quốc... Đã có năm họ diễn tích (phường chèo
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
354
tự soạn) về cuộc đời của Đức Thánh Chử, tích diễn kéo dài nhiều đêm, bắt đầu
từ đêm mười sáu. Không hiểu sao, về sau tích diễn này mất.
Ngày thứ ba của lễ hội làng (19 tháng Giêng), ngày cuối cùng được gọi là
ngày Lễ Tạ hay còn gọi là ngày lễ Giải Y (cởi áo). Đồ cúng của ngày hôm đó
chủ yếu dùng đồ chay (trai lễ): bánh dầy, oản xôi, hoa, quả, trà, rượu. Nhưng
đặc biệt, ngày hôm đó, làng có một hũ (chĩnh) mắm cá Mòi mang ra đình cúng
dâng thánh. Hũ mắm cá này được các giáp bầu chọn ra một giáp chuẩn bị lo lễ
vật từ năm trước. Giáp nào được chọn làm mắm Mòi sẽ không phải đóng góp
vật chất trong hội làng. Cá Mòi trông giống cá mè, thơm ngon và chắc thịt, hũ
mắm Mòi được chuẩn bị từ năm trước- sau hội làng năm đó. Vào mùa cá Mòi (tháng 2-3 âm lịch) người ta đánh cá và chọn ra 100 con cá Mòi to bằng bàn tay
(khoảng 2-3 lạng) rồi lấy ruột rửa sạch, để ráo nước rồi xếp vào hũ, cứ một lớp
cá người ta rải một lớp muối và thính gạo rang vàng, trên cùng hũ cá người ta đổ
vào một chén tống rượu gạo thơm ngon rồi đậy kín nắp đến năm sau mới mở ra
cúng. Cá muối phải đảm bảo có màu đỏ, thơm và khô. Hũ sành muối cá không
được dùng lại lần hai.
Đến chiều, cụ chủ tế (Tiên chỉ) ra đình làm lễ xin Giải Y (cởi áo) cho các
Đức Thánh và đồng thời làng cũng xin Thánh cất các đồ: trống con, trống lớn, trống bồng, chiêng, thanh la, tù và (ốc biển, sừng trâu), sinh tiền. Lễ hội coi như
kết thúc tuy một số trò chơi vẫn còn tiếp tục như đánh gậy, đấu vật, chọi gà,
nhưng dường như không còn sôi nổi như hôm trước. Các phường chèo cũng
diễn thêm đêm cuối.
Hội làng kết thúc, mọi người đều cảm thấy phấn chấn trước ngày mới vì đã
nhận được ở hội sự phù hộ của các vị thần cho mình và cho vật nuôi, cây trồng.
ở Chử Xá ngày nay, hội làng không còn quy mô lớn như xưa, chỉ kéo dài trong hai ngày. Các nghi thức tế lễ được rút gọn lại, số làng “em” đến lễ ít đi,
chủ yếu là các làng ở xã Bình Minh (Yên Vĩnh- Châu Giang- Hưng Yên), làng
Gòi (Tự Nhiên-Thường Tín-Hà Tây) đến tế. Nghi thức lễ hũ mắm cá mòi hiện
nay không còn (trước năm 1945, tục này vẫn còn) vì Chử Xá đã hết nghề chài
lưới trên sông và sông cũng không còn nguồn cá mòi, tục thi cỗ bánh dầy cũng
đã mất, dân làng phải sang Vạn Phước, làng bên kia sông để đặt bánh dày bày
cúng, một số các trò chơi như đua thuyền, chém mía, cắt đậu không còn bởi dân
không còn trồng mía, cả làng chỉ còn 1-2 nhà làm đậu phụ...
Điều kiện tự nhiên môi trường tác động tới cơ cấu kinh tế, từ đó lại ảnh
hưởng tới đời sống xã hội, con đường đi của lễ hội cũng có những thay đổi. Tuy
nhiên, ý nghĩa của các hình tượng tâm linh của người dân không thay đổi. Tất cả
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
355
các Đức Thánh đều là các vị thần bảo trợ cho xóm làng và cuộc sống của người
dân nơi đây./.
Đ.L.P
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
358
Hội đền Hóa Dạ Trạch
Nguyễn Chí Bền - Nguyễn Minh San
Cách Hà Nội non 20km, theo đường chim bay, về phía nam, nằm
ven dòng sông Hồng là xã Dạ Trạch, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên.
Ngược dòng lịch sử, ngày xưa, vùng đất thuộc Chu Diên, đời Lý, đất Chu
Diên gọi là Châu Khoái, đời Trần, gọi là lộ Khoái. Năm 1289, vua Trần
Nhân Tông đem đất này cho tướng quân Nguyễn Khoái làm thang mộc
ấp 1. Đời nhà Lê, đầu niên hiệu Quang Thuận, vùng Dạ Trạch, đất Khoái
Châu thuộc Thiên Trường Thừa tuyên. Đến niên hiệu Hồng Đức, đổi thành Sơn Nam Thừa tuyên. Khi đất Sơn Nam được chia thành hai lộ,
nơi đây thuộc thượng lộ. Nhà Nguyễn Tây Sơn đổi Sơn Nam thượng lộ
thành trấn Sơn Nam. Năm 1831, nhà Nguyễn đặt tỉnh Hưng Yên, thì Dạ
Trạch thuộc huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu của tỉnh này. Nhìn lại sự
thay đổi ranh giới địa lý, để thấy vùng đất Dạ Trạch có lịch sử lâu đời.
Dù ranh giới có thay đổi theo từng bước đi của lịch sử, làng Yên Vĩnh,
tức xã Dạ Trạch hôm nay, vẫn là vùng đất ghi dấu anh linh của tiền nhân.
Vào thế kỷ thứ VI, Dạ Trạch "chu vi không biết là bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có thớ đất cao có thể ở được,
chung quanh bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc
mộc nhỏ chống bằng sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được.
Nhưng nếu không quen biết đường lối mà vào, lỡ sa xuống nước thì bị
rắn cắn chết. Quang Phục thuộc rõ đường lối, mới đem hơn hai vạn
người vào đóng trong nền đất chằm, ban ngày thì tuyệt không để lộ khói
lửa dấu người, ban đêm thì dùng thuyền độc mộc ra đánh Bá Tiên - tức tướng nhà Lương, giết và bắt được rất nhiều, lấy được lương thực, làm kế
cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh nhưng không đánh được.
Người trong nước gọi là Dạ Trạch Vương" (Đại Việt sử ký toàn thư).
Như thế, vùng đất Dạ Trạch là vùng đất gắn bó với người anh hùng đánh
giặc Lương: Triệu Quang Phục. Là căn cứ của nghĩa quân, bởi địa thế
hiểm trở, nhưng còn một nguyên cớ nữa là lòng người. Nếu người dân
thuở ấy không ủng hộ nghĩa quân, cuộc chiến khó lòng mà đạt được
chiến thắng.
1 Thang mộc ấp: đất dành cho một vị công thần nào đó hưởng các quyền lợi.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
359
Rồi đến phong trào Cần Vương chống Pháp, cụ Đổng Quế cũng
lấy ngôi đền làm trụ sở để tuyển mộ nghĩa quân.
Mặt khác, Dạ Trạch còn là vùng đất của người dân khai phá.
Những giọt mồ hôi của con người đã biến vùng đất hoang vu thành ruộng
bãi tốt tươi. Đại Nam nhất thống chí chép: "Chằm Nhất Dạ ở địa phận
các xã thuộc các tổng Mễ Sở, Khóa Nhu, Bình Dân, Yên Vĩnh, Yên
Cảnh, Yên Lịch, Đại Quan vùng Đông Kết, nay thành ruộng sâu, trong
địa bạ đều chép là xứ Dạ Trạch".
Hơn hết, Dạ Trạch là vùng đất gắn liền với thiên tình sử đẹp nhất
của văn chương dân gian Việt Nam. Không hiểu sao, lịch sử trôi chảy lại chọn Dạ Trạch làm nơi lắng đọng một truyền thuyết, qua thời gian, vẫn
làm xao xuyến, thổn thức con người bao thế hệ1.
Cả truyền thuyết cũng như các dị bản đều nhằm vẽ lên chân dung
một con người, một vị thánh. Trong tâm thức dân gian, Việt Nam có 27
vị thần sinh ra hay đã từng sinh sống trên đất nước ta. Lại cũng trong số
ấy có bốn vị được suy tôn thành Tứ Bất Tử là :
- Đức Thánh Tản
- Chử Đạo Tổ
- Đức Thánh Gióng
- Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Trong số ấy, Chử Đồng Tử là người, sinh ra ở một gia đình lao
động. Bình sinh, Chử Đồng Tử cùng cha chăm chỉ nghề mò cua bắt cá,
sống vui vầy với sông nước. Với cha, chàng là một người con hiếu thảo.
Sau thành chồng của công chúa Tiên Dung, chàng làm ăn buôn bán để
sinh sống. Học đạo, rồi truyền đạo cho vợ, ngài cùng nhị vị phu nhân đi các nơi cứu nhân độ thế. Với đất nước, ngài linh hiển đúng lúc, giúp
những anh tài của đất nước đánh thắng giặc ngoại xâm. Vì thế, Chử
Đồng Tử là biểu tượng của một cộng đồng, với những khát vọng nhân
bản. Cuộc chinh phục đầm lầy cần có và đã xuất hiện những anh hùng
văn hóa của cộng đồng, kết tinh những ước mơ của người dân khai phá
đầm lầy, biến hoang vu thành màu xanh tươi tốt. Hơn nữa, Chử Đồng Tử
còn là người đi tiên phong trong việc mở mang buôn bán với nước ngoài.
Trong văn hóa dân gian Việt Nam, nhân vật đầu tiên tạo ra sự giao lưu giữa dân tộc và cộng đồng bên ngoài là Chử Đồng Tử.
1 Truyền thuyết này xin xem ở lễ hội đền Chử Đồng Tử.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
360
Lắng đọng trong tâm thức bao thế hệ con người như mật ngọt nơi
đầu môi lại là thiên tình sử diễm lệ của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Mối tình không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo mãi mãi là tấm gương sáng, là
khát vọng nhân bản của con người. Dòng chảy của truyền thuyết khi định
vị ở vùng Khoái Châu có thêm những tình tiết mới, vẫn không làm phai
nhạt vị ngọt ngào của thiên tình sử ấy.
Vì thế, từ chàng trai nghèo đánh cá, Chử Đồng Tử trở thành vị
thánh bất tử trong tâm thức dân gian Việt Nam.
Tại Dạ Trạch, đền được xây dựng khi nào, khó mà đoán định
được niên đại. Thần phả do Nguyễn Bính soạn vào đầu thế kỷ XVI ghi rằng, sau khi Chử Đồng Tử cùng nhị vị phu nhân về trời, Hùng Tuệ (Duệ
?) vương, xa giá tới tận bờ đầm, xem xét sự tình, cảm động đã xuống
chiếu cho dân lập đền ở đây cũng như nhiều nơi khác. Lĩnh Nam chính
quái, tác phẩm tương truyền được viết trong khoảng thế kỷ XIII-XIV, ghi
rằng, sau khi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân về trời thì “dân lập đền
thờ, bốn mùa cúng tế gọi chằm là chằm Nhất Dạ”. Thế kỷ thứ VI, khi
Triệu Quang Phục cầu đảo, phải chăng đã có đền thờ? ! Thế kỷ XV, theo
truyền thuyết Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến nơi này cầu mộng, chắc chắn rằng ở đây đã có miếu (đền) thờ. Qui mô vật liệu xây cất đền
không có tài liệu nào ghi chép, nên khó xác định. Truyện Trạng Lợn ghi
rằng, sau khi biết người giúp mình thành đạt là Chử Đồng Tử, Trạng Lợn
đã tâu lên vua Lê Thánh Tông sự việc, vua đã ban tiền cho ông để sửa
sang đền thờ Chử Đồng Tử. Các tác giả của Hội Tao Đàn thế kỷ XVI,
khi làm thơ vịnh Chử Đồng Tử cũng khẳng định khi ấy đã có miếu thờ:
Anh linh miếu dõi lừng hương khói
Đại Nam nhất thống chí của nhà Nguyễn khi chép về các đền
miếu của tỉnh Hưng Yên có đoạn: “Đền Dạ Trạch ở huyện Đông Yên...
Đền Chư linh thần ở huyện Đông Yên thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung
công chúa...”.
Như thế, lịch sử biến thiên theo từng bước đi nhưng đền thờ Chử
Đồng Tử và nhị vị phu nhân vẫn được duy trì cho tới nay đã mấy ngàn
năm. Nhà nước ta đã công nhận đền Dạ Trạch là di tích lịch sử văn hóa
năm 1989.
Ngôi đền với kiến trúc như hiện tại là được trùng tu vào năm
1890, hướng của đền quay về phía đông. Từ ngoài đường ngự, khách
hành hương sẽ thấy lầu chuông. Lầu có một chiếc chuông được đúc từ
năm Thành Thái thứ 14 (1902), mang tên Dạ Trạch từ chung (chuông
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
361
đền Dạ Trạch), chuông dài 1,5m, rộng 0,8m, ngoài ra còn có hai bia dựng
đối diện với nhau, một bia đã vỡ. Bia có niên đại từ năm Gia Long thứ 17 (1819). Bia làm bằng tảng đá lớn, mài nhẵn, bia cao 1,6m, rộng 0,8m,
dày 0,17m. Kế tiếp là hai dãy nhà chín gian, xưa để chín chiếc kiệu.
Trước đền có hồ hình bán nguyệt, nước trong xanh không bao giờ cạn.
Ngày trước, nơi góc hồ là hai cây đại tươi tốt. Giữa hồ có hai ụ đất lớn,
đó là mộ hai ông thần đồng. Truyền thuyết kể rằng: Xưa kia ở trên thiên
đình có hai ông thần đồng. Theo lệ, mỗi khi nghe tiếng trống ở dưới trần
gian vọng lên thì hai ông biết đó là dấu hiệu không tốt đối với mùa màng.
Hai ông xuống trần gian giúp dân để trừ hạn hán, lụt lội hay sâu rầy. Một lần nghe tiếng trống, hai ông đang bận việc trên thiên đình nên không
xuống ngay được. Khi tới nơi, mùa màng đã bị thiệt hại nặng nề. Hối
hận, hai ông ở lại trần gian biến thành hai mô đất lớn. Hai mô đất còn
đến ngày nay, trên có hai cây xương tiêu. Qua hồ bán nguyệt là sân đền.
Trước đây, mỗi khi làng mở hội, người dân mới bắc cầu gỗ (hay tre) để
vào sân đền, nay dân làng đã xây chiếc cầu bằng bê tông. Hai bên cửa là
hai tượng đức ông đứng canh. Ngày xưa muốn vào đền, phải leo 19 bậc.
Khi đê Văn Giang vỡ 18 năm liền đất phù sa lấp đi 15 bậc, chỉ còn lại 4 bậc. Đền được xây theo kiểu chữ công (I), có ba tòa lộng lẫy. Trên mái
đền tạc những hình long phượng chạm trổ tinh vi, rất đẹp. Gian ngoài
cùng, nơi cửa vào là bàn thờ, trên có một bài thơ của Chu Mạnh Trinh.
áp vào các xà những bức đại tự :
- Nam thiên tứ vị (Bốn vị thần trời Nam)
- Hải thướng tam thần (Ba vị thần về trời tại biển này)
- Sở quá giả hoá (Tự làm quá đi, phải hóa thành cái khác)
- Âm dương hợp củng (Âm dương cùng hòa hợp)
- Danh cao thiên cổ (Danh cao thiên cổ)
- Uất thông giai khí (Khí đọng lại, dần tăng lên)
Nơi tòa thứ hai là một ban thờ các quan. Tòa thứ ba là phần chuôi
vồ, trên mái là vòm cuốn tam cấp với những hình thuyền hẳn là gợi nhớ
hình ảnh của một thời vị thánh sống bằng nghề sông nước. Giữa gian là
ban thờ công đồng. Gian hậu cung, bên phải từ ngoài vào là ban thờ thổ
công miếu đình, tượng quan võ, bên trái từ ngoài vào là một con cá chép bằng gỗ sơn son thếp vàng óng ánh. Đó là Bế ngư thuyền quan, mà người
dân quen gọi là ông Bế. Hai con ngựa, một đỏ, một trắng cũng đặt trong
gian này. Tương truyền, đó là hai con ngựa mà đức Thánh và nhị vị phu
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
362
nhân đã cưỡi khi đi chữa bệnh cho muôn dân. Sát gian này còn một gian
thờ Phật mới được phối tự gần đây.
Nơi hậu cung bên phải là ban thờ các vị thân sinh của đức Chử
Đồng Tử, bên trái là ban thờ Triệu Việt Vương. Trước đây, cách đền này
chừng một trăm mét về phía tây là miếu thờ người anh hùng họ Triệu,
sau miếu hư hỏng, người dân phối tự lại đền này. Chính giữa hậu cung là
ba bài vị, ba pho tượng thờ Chử Đồng Tử cùng nhị vị phu nhân.
Nhìn ở điện thần, nét riêng của đền Dạ Trạch là sự xuất hiện của
ông Bế. Tín ngưỡng thờ cá nguyên thủy của cư dân chinh phục đầm lầy
còn lại với hình tượng ông Bế. Nét độc đáo của nghệ thuật kiến trúc thể hiện ở những chiếc kiệu sơn son thếp vàng. Bàn tay tài hoa của người thợ
đã chạm trổ những chiếc kiệu đẹp đẽ, tinh xảo để phụng thờ các vị thánh
trong hàng Tứ bất tử.
Tín ngưỡng thờ cúng vị thánh trong hàng Tứ bất tử của người dân
nơi ngài hóa, vùng Dạ Trạch, vùng Khoái Châu thể hiện qua những điều
kiêng kỵ. Người ta không dám gọi Tiên Dung, mà gọi chệnh ra là Tơn
Dong, không gọi Bế mà gọi ẵm, kiêng kỵ việc úp nón lên gậy, cán cuốc
hay cành cây. Ai đó lỡ ra làm như vậy sẽ bị coi là chế nhạo thần, sẽ bị thần phạt.
Mặt khác, các ngày lễ tại đây là dấu vết của tín ngưỡng thờ cúng
này. Tại đền Hóa Trạch, việc thờ cúng được tiến hành với các ngày:
- 4/tháng giêng ngày sinh của công chúa Tiên Dung
- Lễ hội chính mở vào các ngày 10, 11, 12 tháng 2 âm lịch.
- 12/8 ngày sinh Chử Đồng Tử
- 17/11 ngày cả ba vị bay về trời.
Mỗi ngày lễ ấy có một bản văn tế riêng, nhưng nghi thức thì
giống nhau. Đặc sắc nhất là lễ hội để tưởng nhớ đức Thánh và nhị vị phu
nhân tổ chức vào tháng 2 âm lịch. Chính lễ hội này tàng ẩn nhiều nét văn
hóa của cư dân nông nghiệp.
Vào ngày hội, nơi này thật tưng bừng náo nhiệt. Khách tứ phương
kéo về nườm nượp xung quanh khu đền. Mở đầu là nghi lễ rước nước,
tức là lấy nước ở sông Hồng về đền. Đi đầu đám rước là con rồng vàng
lộng lẫy uy nghi, uốn lượn theo nhịp trống phách dồn dập. Dẫn đầu đoàn người rước kiệu là hai hàng các bà các cô trong làng mặc những chiếc áo
xiêm áo dài đủ màu sắc. Trên chiếc kiệu đầu tiên đặt chiếc gậy, nón úp
trên đầu gậy. Tất cả các biểu tượng gợi nhớ uy linh của thánh được trang
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
363
trí rực rỡ. Sau đó là bát bửu, chấp kích, kiệu thánh. Ba cặp con đĩ đánh
bồng đi sau vừa đánh trống, vừa múa rất dẻo. Đoàn người đi rước nước sẽ đi qua đầm Dạ Trạch, qua đê, ra bãi để xuống sông Hồng. Bên kia
sông, trên bãi Tự Nhiên, nơi dấu vết còn lại của Thánh cùng nhị vị phu
nhân sau khi hóa, đầy cờ xí rợp trời. Hàng vạn người chờ đợi như tưởng
nhớ lại phút giây giông tố, bão bùng để cả tòa thành, người ngựa bay về
trời. Cả rồng và đoàn người đi rước nước đều xuống thuyền để ra giữa
dòng sông lấy nước. Bên kia sông, con rồng của xã Tự Nhiên cũng bắt
đầu xuống nước. Sông nước mênh mông, cờ xí rợp trời, rồng bay lượn
nơi bến sông, đón chào những chóe nước trong sạnh như mối tình của hai người hiếm có thuở xưa. Những gáo nước được múc giữa dòng đem
đựng vào những cái chóe có nắp đậy. Đoàn thuyền của xã Dạ Trạch, xã
Tự Nhiên cùng cập bến, trong tiếng trống giòn giã, bập bùng, tiếng mái
chèo cắt nước khẩn trương, tiếng pháo nổ ran, mùi hương trầm thơm
thoảng trong lòng gió, với sự hồ hởi, náo nức của người đi dự hội.
Tới đền, lễ dâng hương được cử hành trước ban thờ lớn. Đi đầu là
một cụ ông đẹp lão, một cụ bà cao tuổi cùng các cô đội mâm nhang đèn
oản quả vào dâng thánh. Sau đó, nhóm các bà hệ trong những chiếc áo dài bằng vải thâm biết tụng niệm kinh Phật, thuộc kinh đều đồng thanh
hát bài "Quang minh tu đức", "Nam mô Chử Đồng Tử tiên ông chí đức
đại thiên tiên ngọc bệ hạ". Tiếp đó là múa sinh tiền do các em gái chừng
13, 14 tuổi thực hiện. Người dân trong vùng gọi điệu múa này là múa
tiên hay múa cánh tiên. Bởi lẽ, người múa trang phục sắc màu rực rỡ,
trên vai mỗi em vắt một chiếc khăn lụa dài có tua ở hai đầu. Khi các em
múa, dải lụa lượn lờ như hình cánh tiên. Cô tiên đi đầu đặt trên hai vai hai bầu nước và đầu đội một đĩa trầu cau, trong tiếng nhạc sinh tiền rộn
rã.
Xung quanh đền, quanh hồ nước hình bán nguyệt, quanh gác
chuông là những trò chơi dân gian: nào chọi gà, nào bắt vịt, múa gậy,
múa sư tử, múa con đĩ đánh bồng v.v...
Ngày hôm sau, một hồi trống rộn rã thúc giục mọi người cùng
tham gia đám rước phát du, nghĩa là rước thánh đi du ngoạn nơi cảnh cũ.
Đám rước được bắt đầu từ đền. Bao giờ con rồng cũng múa lượn, dẫn đầu đám rước, rồi đến cờ, trống, bát âm, sinh tiền, long đình, nhang án,
ngựa, chấp kích, bốn cô huyền lư1 , rồi đến kiệu ông, bát bửu, kiệu bà
Tiên Dung, bát bửu và kiệu bà Hồng Vân. Đám rước đi tới làng Đông
1 Huyền lư: các cô gánh lư trầm.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
364
Kim, quê hương bà thứ, rồi vòng qua những bờ ngô, bãi mía xanh tươi,
vòng qua khu đầm Nhất Dạ, dừng lại nơi lâu đài thành quách cũ của vợ chồng Tiên Dung. Dưới đáy đầm nước trong vắt, mọi người nhìn rõ cả
tóc tiên dập dờn trong sóng nước. Các cụ già cao tuổi trong làng kể rằng
đó là tóc nàng công chúa Tiên Dung. Khi về trời, nàng vẫn còn lưu luyến
cảnh cũ, nên đã gởi lại món tóc của mình.
Ngày thứ ba của lễ hội, người dẫn vẫn tiếp tục mang hương hoa,
oản quả vào đền lễ thánh, và để được nhận lộc thánh.
Diễn biến của lễ hội theo trình tự như trên, chứng tỏ có khá nhiều
lớp văn hóa đã lắng đọng trong lễ hội. Mở hội là để dân làng tưởng nhớ vị thánh bất tử cùng nhị vị phu nhân, nhưng thực chất là để tưởng nhớ
một anh hùng văn hóa, một ân nhân của làng quê, để ngưỡng mộ một
thiên tình sử diễm lệ. Thực chất đường dây tín ngưỡng để qui tụ các hành
động hội của lễ hội này chính ở phương diện ấy. Có thể có sự đan xen
hòa nhập của đạo Lão, đạo Nho trong truyền thuyết về vị thánh bất tử,
nhưng người dân mở hội để tưởng nhớ tổ tiên, người đã có công lao với
người dân trong vùng, với nước nhà. Âu đó cũng là một nét ứng xử văn
hóa của người hôm nay với người đi trước, cũng là đường dây liên kết giữa hiện tại và quá khứ. Niềm cộng cảm cộng đồng được tái hiện trong
một không gian rộng lớn: khu vực đền, sông nước, đầm Nhất Dạ, bãi cát
dài dặc, các làng lân cận, với những nghi thức cổ sơ. Những hành động
hội ban đầu có lẽ là sự cầu nước của cư dân nông nghiệp. Điệu múa rồng
với hình ảnh con rồng uốn lượn dẫn đầu đám rước cũng là một biểu
tượng của nước, thần nước, bóng dáng đã bị khúc xạ của tục cầu mưa
thời xa xưa. Khác với nhiều lễ hội dân gian của các làng quê trên đất nước Việt Nam, lễ hội Dạ Trạch vừa muốn phản ánh câu chuyện tình say
đắm, thơ mộng, kỳ lạ trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam, vừa muốn
tưởng nhớ công đức của Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Diễn biến của
hội, vừa gắn bó với truyền thuyết, vừa mang dấu vết quen thuộc của hội
làng. Lễ hội Dạ Trạch vừa có cái chung, nhưng lại có cái riêng khó lẫn.
Cũng khó mà phân biệt được rành mạch đâu là lớp văn hóa gắn với câu
chuyện tình diễm lệ, đâu là lớp văn hóa cổ xưa của cư dân nông nghiệp
tàng ẩn trong trò diễn. Là hội làng nhưng lại là hội để tưởng nhớ một mối tình say đắm, một anh hùng văn hóa, diễn ra trong mùa xuân, với những
dấu vết nơi cõi trần rất thực mà rất ảo, rất thiêng. Sức hấp dẫn của lễ hội
Dạ Trạch chính ở phương diện ấy. Vượt ra ngoài ranh giới của làng, lễ
hội Dạ Trạch trở thành nơi thu hút khách thập phương. Ai chả mong
mình có dịp sống lại niềm cộng cảm cộng đồng của người xưa, chả mong
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
365
mình được sống những phút giây thần tiên của khát vọng nhân bản, ẩn
chứa trong mình những biểu tượng đẹp đẽ vĩnh hằng của tình yêu thơ mộng, phóng khoáng, với niềm ngưỡng mộ của các thế hệ sau đối với
một vị thánh bất tử, lễ hội Dạ Trạch sẽ còn sức sống mãnh liệt với thời
gian, trong tâm linh người dân Việt./.
N.C.B -
N.M.S
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
367
Hội Chùa Dâu
Lê Trung Vũ
Hội chùa là một lễ hội của đạo Phật. Lễ hội tôn giáo, hiểu nội
dung theo duy danh và quan niệm thông thường là những sinh hoạt mang
tính tôn giáo: đề tài, giáo lý, tổ chức tiến trình lễ thức tưởng niệm Giáo
chủ hoặc Thần, Thánh thuộc diện tôn giáo đó, theo giáo lịch riêng và do
những tu sĩ cử hành phục vụ tín đồ của mình.
Những nội dung trên của lễ hội tôn giáo, ứng vào hội chùa ở Việt
Nam từ 2000 năm nay trong không gian đồng bằng và trung du Bắc Bộ
và với người nông dân Việt cổ lại không hoàn toàn đúng như vậy. Phật
giáo là một tôn giáo ngoại nhập, vào Việt Nam từ rất sớm. Từ ấn Độ đạo
Phật truyền vào nước ta có thể trước cả Trung Quốc, bằng đường bộ, qua
đất Phù Nam, dọc theo bờ biển Trung Bộ, rồi đến Bắc Bộ. Sách sử Việt
Nam Cổ Châu Pháp Văn bảo hạnh ngữ lục chép: "Khâu Đà La và Ma Ha
Kỳ Vực đã cùng nhau tới Luy Lâu, trị sở của Sĩ Nhiếp, cuối đời Hán Linh đế (khoảng 168-169). Khi đến Giao Châu thì Khâu Đà La ở lại"1.
Được biết, Phật phái có ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội Việt Nam
thời cổ là Thiền Tông (Nam tông của Lục tổ Huệ Năng) 2, với một vài
đặc điểm như, Phật giáo Thiền Tông bàn nhiều về phong cách tu hành
(tông phong) hơn là lý luận. Thiền Tông chủ trương đưa niết bàn về trần
thế “đặt nó trong lòng con người, tâm thị Phật” (Niết bàn vô trụ xứ) .
Thiền Tông lại coi lao động như một điều kiện tu hành "nhất nhật bất tác,
nhất nhật bất thực" (một ngày không làm, một ngày không ăn). Như vậy, Thiền Tông coi sự chịu đựng bần khổ trong sinh hoạt cũng là một cách
1 Các sách sử cổ Trung Hoa như Cao tăng truyện, Phật tổ lịch đại thông chí cũng ghi như
vậy. Dẫn theo Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb KHXH, H.1986.
+ Hoặc như Thiền sư Trí Không đời Lý, trong khi đàm đạo với hoàng hậu ỷ Lan đã dẫn lời
sư Đàm Thiên đời Tuỳ nói rằng: "Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc - Khi Phật
giáo chưa vào Trung Quốc, chưa phổ cập tới Giang Đông mà ở vùng Luy Lâu của xứ ấy đã
xây dựng hơn 20 bảo sát, độ được 500 ni tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy
theo đạo Phật trước ta....." (Thiền Uyển tập anh, truyện Thông Biện. Dẫn theo Hà Bắc
ngàn năm văn hiến, Tập I, Ty Văn hoá Hà Bắc, 1973.
2 Sách đã dẫn trang 156-157.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
368
rèn luyện của người chân tu. Hơn thế, những tư tưởng bình đẳng, nhân ái,
không thừa nhận đẳng cấp của Phật giáo là một điểm rất đáng lưu ý đối
với người Việt đương thời. Bởi vì, cũng vào thời điểm ấy, sức sống bên
ngoài và sức mạnh bên trong của làng và người Việt cổ (tinh thần cố kết cộng đồng, tinh thần bình đẳng, dân chủ thời công xã) cùng với các tín
ngưỡng dân gian bản địa hình thành trong nền văn minh Việt cổ - văn
minh sông Hồng- đã tồn tại như một giá trị, một bản sắc, nên khi cộng
đồng này tiếp xúc với Phật giáo đã không xảy ra phản ứng đối kháng,
song lại tạo ra sự hoà nhập hay hỗn dung tôn giáo. Đạo Phật đã được
"bản địa hoá", "dân gian hoá", nghĩa là từ khi ấy đã được người tiểu nông
Bắc Bộ coi là người bạn đồng hành tư tưởng của mình, Đức Phật trở
thành gần gũi, "hoá" thành ông "Bụt"(Bouddha) quen thuộc trong tâm linh dân làng. Bụt thành thần linh thiêng, hiền lành ("hiền như Bụt"),
chuyên làm việc thiện, khuyên điều thiện, hay xuất hiện trong truyện cổ
tích thần kỳ để giúp người nghèo khổ, bất hạnh.
Ngược lại, Phật giáo khi nhập vào Việt Nam cũng bám ngay vào
mảnh đất đầy sinh khí của tinh thần công xã, kết hợp với tín ngưỡng dân
gian địa phương, với nền kinh tế nông nghiệp, sinh hoạt văn hoá bản địa,
tạo cho bản thân một biến dạng mới, phong phú về biểu hiện và đa dạng
về hoạt động sùng tín. Nhà sư và ngôi chùa thành những hiện thân vật chất có sức cuốn hút mạnh mẽ trong đời sống hàng ngày của dân làng.
Như vậy, Phật giáo đã bắt rễ vào làng, vào tư tưởng và tình cảm người
làng, lệ làng để tồn tại. Ngôi chùa, giáo đường nhà Phật được xây dựng
ngày càng nhiều từ rất sớm tại các làng quê Bắc Bộ1. Nhà chùa không bỏ
qua những lễ thức nông nghiệp và các tín ngưỡng liên quan đến trồng
trọt, chăn nuôi của các làng quê.
Và Man Nương - cùng huyền tích - người làng Mèn (Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), với tàn dư mẫu quyền trong xã
hội Việt cổ đã nhanh chóng nhập vào Phật điện (ở Luy Lâu, đất khởi
nguyên của đạo Phật ở Việt Nam), trở thành Phật mẫu (cũng như ỷ Lan
phu nhân sẽ thành quan âm nữ về sau) rồi lại sinh ra - một cách gián tiếp-
tứ pháp: Pháp Vân (mây), Pháp Vũ (mưa), Pháp Lôi (sấm, sét), Pháp
Điện (chớp)2, tạo ra huyền thoại Tứ pháp1 và bộ tượng Tứ pháp ra đời là
1 Theo Giao châu bát huỵện ký thì ở đồng bằng Bắc Bộ hồi thuộc Đường (thế kỷ VII-VIII)
đã có 88 ngôi chùa nổi tiếng. (Mùa xuân và phong tục Việt Nam, NXB Văn hoá,H,1976). 2 Hệ thống Tứ pháp này từ Dâu - Luy Lâu- đã truyền đi các địa phương khác như chùa Tứ
Pháp xã Lạc Hồng (huyện Mỹ Văn, Hưng Yên), chùa Tứ Pháp - Văn Giáp (huyện Thường
Tín, Hà Tây).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
369
dựa trên hoàn cảnh lịch sử đó. Ai cũng có thể thấy đây là mối quan hệ
chặt chẽ giữa thời tiết và nghề nông, để rồi biến Phật đài và nhà chùa
thành nơi thực hiện hai chức năng song hành: cầu Phật và cầu phúc thần
nông nghiệp. Ngoài ra, để có sức sống bền vững hơn, dân dã hơn, đạo Phật - ngôi chùa, trên bệ thờ Tam bảo - đã tiếp nhận những tín ngưỡng cổ
địa phương như tục thờ giới tự nhiên (tục thờ đá...) hoặc tín ngưỡng phồn
thực2. Gần gũi và quen thuộc hơn là tín ngưỡng thờ tổ tiên (Tứ Ân) hoặc
có nhu cầu để "hậu" được nhà chùa dành cho bệ thờ những bình hương
"ký kỵ". Hoặc nữa, trên Phật đài còn suy tôn cả thần bản mệnh của làng,
thần văn hoá, hoặc một ông vua.....(mô hình "Tiền Phật hậu Thánh",
"Tiền thần hậu Phật"3). Hoặc nữa, nhà chùa sẵn sàng tiếp nhận cả Đạo
Tứ phủ, lập riêng điện thờ Mẫu....
Hàng năm, sau Tết Nguyên đán vào xuân hoặc cả sang thu, chùa lại
mở hội - Hội Chùa - nhưng lại mang nội dung và chức năng hội làng, để
dân làng thực hiện mọi kỳ vọng và vui chơi. Ngay ở nơi tôn nghiêm với
giáo lý "diệt dục" này, trai gái vẫn súng sính áo quần ngày hội, kéo nhau
tới đây, trên sân chùa, hoặc ngoài cửa chùa, hát giao duyên suốt thời kỳ
hội mở!
Chúng ta theo dõi hội chùa Dâu để thấy rõ hơn những đặc điểm
trên.
Dâu chính là Luy Lâu (Liên Lâu), nơi hai nhà sư Khâu Đà La và
Ma Ha Kỳ Vực, từ ấn Độ tới và truyền giảng đạo Phật. Nơi đây cũng là
trị sở của Sĩ Nhiếp, thái thú Giao Châu hồi đầu Công nguyên. Dâu còn cả
dấu tích thành cổ, trung tâm của chính quyền đô hộ đương thời.
Chùa Dâu thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận
Thành, Bắc Ninh. Tháp Hoà Phong ở sân chùa cao, được coi là mốc của
1 "Tứ Pháp luôn giúp dân làm mưa nắng thuận hoà. Đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128)
trong nước "Ba năm mưa gió đùng đùng đã ran", vua sai rước Phật Pháp Vân về chùa Báo
Thiên ở Thăng Long để cầu, mùa màng liền phong đăng hoà cốc. Rồi lại một lần "3 thu đại
hạn theo hành khó khăn", Phật Pháp Vân lại được rước về chùa Khẩu Sơn ở phía tây điện
Rồng để vua làm lễ cầu, thì "Trời liền mưa xuống đùng đùng bốn phương"...Như vậy, cứ
mỗi lần trong nước gặp hạn, các vua...lại cầu đảo và bao giờ cũng ứng nghiệm". Tứ Pháp
còn giúp dân giữ nước, chống ngoại xâm. Trong cuộc chống quân Tống xâm lược thời Lý,
Phật Pháp Vân được rước lên Thái Nguyên và đã tham gia chiến đấu, giành thắng lợi vẻ
vang". (Hà Bắc ngàn năm văn hiến. Tập I. Ty văn hoá Hà Bắc, 1973). 2 Tại chùa Dâu, bên cạnh tượng Phật Thích Ca, Bồ Tát Pháp Vân, còn thờ đá, gọi là đức
Thạch Quang. Hiện vật gợi biểu tượng lin-ga, tín ngưỡng phồn thực (Sách vừa dẫn, tr.168).
Hoặc như chùa Bà Đá (Hà Nội). Khởi điểm dựng chùa là đào được ở đây bức tượng bằng
đá. Tượng được đem thờ khi dựng xong chùa và lấy tên tượng làm tên chùa. 3 Như chùa Bối Khê (Hà Tây), chùa Keo (Thái Bình)...
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
370
chùa, ai đi hội cũng hướng về đó. Xưa, chùa có tên là Cổ Châu tự, rồi
Thần Định tự, nay là Diên ứng tự, thờ Pháp Vân.
Có thể ban đầu chùa chỉ dựng bằng tre nứa, mái lợp tranh. Còn kiến
trúc chùa hiện nay là gạch, gỗ, ngói, với nhiều công trình chạm khắc ghi dấu ấn rất cổ.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng 8 thì về hội Dâu.
Hội Dâu mở ngày mồng 8 tháng tư, là hội hàng tổng. Dự hội Dâu
không chỉ là hành hương về đất Phật, mà người ta gặp ở đây những sinh
hoạt văn hoá của cư dân nông nghiệp. Năm ngôi chùa thờ năm mẹ con bà Man Nương quây quần trong năm làng. Hội tưng bừng và mang nhiều ý
nghĩa là nhờ các đám rước: rước chào, rước đón, rước đưa. Người rước
kiệu là trai, gái tuyển chọn trong 12 làng (cả tổng), mỗi làng góp từ 20
đến 50 người:
1- Bà Man Nương (Phật Mẫu) trụ ở Chùa Tổ (Mãn Xá).
2- Bà Dâu (Pháp Vân - con cả) ở chùa Dâu (Thiền định Diên ứng)
ở Thanh Khương.
3- Bà Đậu (Pháp Vũ- con thứ hai) ở chùa Đậu (làng Hành Đạo).
4- Bà Tương (Pháp Lôi - con thứ ba) ở chùa Phú Tương (Thanh
Tương).
5- Bà Dàn (Pháp Điện - con út) ở chùa Phương Quan.
Mồng 8 tháng tư, các làng rước tượng ba bà Pháp Lôi, Pháp Điện,
Pháp Vũ về chùa Dâu hội với chị cả. Người dự hội quá đông, không
rước được, bà Dàn cho đánh gậy. Ba mươi hai (32) gậy trao cho các
tráng đinh múa một vũ khúc mạnh, đẹp mắt, để "dẹp đám", mở lối cho đám nhao lên đường.
Đúng ngọ (12 giờ trưa), bà Dâu lại cùng bà Đậu thi cướp nước. Khi
lệnh phát ra, dân hai làng Phương Quan, Hành Đạo rước kiệu hai bà chạy
từ cửa chùa Dâu ra tam quan (khoảng 300m). Đặt kiệu xuống, mỗi kiệu
một đô tuỳ (người khiêng) cầm bình múc nước ở giếng rồi thì nhau về
trước, lĩnh thưởng. Khi bốn chị em hội ngộ rồi thì đám rước Tứ Pháp về
chùa Mãn Xá bái vọng mẹ là Mẫu Man Nương. Mồng 9 hội cũng diễn ra
như vậy. Rồi cả đám rước lớn đi quanh tổng một vòng (từ chùa Dâu lại
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
371
về chùa Dâu). Đám rước tới Thanh Tương, bà Tương (Pháp Lôi) chào
chị, chào em rồi về chùa Pháp Lôi. Đến Phương Quan bà Điện chào hai
chị Vân, Vũ để về chùa mình. Đến chùa Dâu, hai bà Vân, Vũ chào nhau
ai về chùa nấy.
Ngoài trò cướp nước, dâng nước, đánh gậy trên bãi chùa Dâu, còn
có múa sư tử, múa hoa trang rùa và hạc, múa trống, đấu vật, cờ người và
đốt cây bông. Người hành hương và dự hội đêm ngày lui tới không lúc
nào ngớt. ý nghĩa của nghi lễ rước không chỉ là tình Mẹ - Con, Chị -
Em - biểu hiện đức độ truyền thống, mà đám
rước còn được hiểu là sự giao hoà thời tiết.
Rõ ràng ở đây gọi là đất Phật tổ mà đạo Phật đã nhường cho tín
ngưỡng dân gian với nghi thức nông nghiệp được cử hành vào ngày 8 tháng tư, tức lễ Phật đản. Liên tưởng về hội Dóng (mồng 9 tháng tư)
càng làm sáng tỏ đó là nhịp cầu mùa phổ biến của ngươì Việt vùng trung
châu này1. Hơn nữa, ngày Phật đản, mà chính Pháp Vân là một hoá thân
của Phật lại cũng là biểu tượng của tín ngưỡng nông nghiệp và tôn giáo
bản địa. Ngày Phật đản gốc ấn Độ, tới chùa Dâu, đất Việt đã trở thành
ngày sinh Pháp Vân. Như vậy, đạo Phật đã hoà nhập vào tín ngưỡng bản
địa.
Thật là hiền hoà, dân dã, mang màu sắc địa phương và thấm nhuần chất lễ hội nông nghiệp để hội làng vẫn là hội chùa. Nói cách khác, ở
thời điểm này, hội chùa đã thu nhận chức năng của hội làng.
Như vậy, hội chùa cho thấy rõ, từ hàng ngàn năm qua đã mở rộng
nội hàm. ở đây vẫn là một lễ hội tôn giáo, đồng thời cũng là một sinh
1 Câu ca lịch hội cùng lịch thời tiết từng hội:
Mồng 7 hội Khám, mồng tám hội Dâu
Mồng 9 đâu đâu trở về hội Dóng.
Và: Lâm râm hội Khám
U ám hội Dâu
(Nắng) Vỡ đầu hội Dóng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
372
hoạt văn hoá dân gian của cộng động làng xóm người Việt. Đạo Phật đã
hoà nhập vào cuộc sống nông thôn Việt Nam để tồn tại và phát huy tác
dụng./.
L.T.V
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
373
Lễ hội làng Diềm
NguyễnMinh Hoàng - Đặng Mai Hồng
Đền đức Vua Bà, cũn gọi là đền Vương Mẫu nằm ở làng Viờm Xỏ
(tờn cổ là làng Diềm), xó Hoà Long (tức tổng Chõm Khờ), huyện Yờn
Phong (ngày xưa là huyện Vừ Giàng), tỉnh Bắc Ninh. Đền thờ một người
phụ nữ, tương truyền là người đầu tiờn cú cụng sỏng tỏc (đặt chuyện) và
dạy cho dõn làng hỏt quan họ cỏch đõy hàng thế kỷ. Triều đỡnh phong
tặng, nhõn dõn tụn sựng là đức Vua Bà, tức Bà Vua sinh ra điệu hỏt quan họ Bắc Ninh. Thể hiện rừ nhất ở hai cõu đối trước cửa đền thờ Bà:
“Trung liệt hiển hồi hương vạn cổ cương thường hoành vũ trụ
Thần linh hưng viờm ấp lũy triều phong tặng đối càn khụn”.
Ngày mồng 6 thỏng hai hàng năm cả làng Diềm cỳng giỗ đức Vua
Bà. Ngày này từ lõu cũng đó trở thành ngày lễ hội làng Diềm, tưng bừng
nỏo nhiệt. Họ chuẩn bị nhiều ngày trước đú với những thứ đặc sản, cầu
kỳ như bỏnh dợm, bỏnh khỳc, bỏnh chưng... để cỳng tại nhà. Trước khi cỳng tại nhà, họ soạn một mõm hoa quả, vàng hương đem lờn để cỳng
đức Vua Bà và dõng tiền cụng đức, ớt nhiều tuỳ tõm. Bỏnh dợm làm
bằng bột nếp trắng tinh, chớnh giữa cú nhõn bằng đỗ xanh màu vàng
thơm, vừa đẹp, vừa ngon. Bỏnh khỳc làm bằng xụi nếp quyện vào những
lỏ khỳc được gió nhỏ. Bỏnh chưng màu xanh như lỏ lỳa, xanh từ trong
ruột bỏnh, vỡ họ gió lỏ gừng trộn vào nếp, trụng đẹp, thơm ngon, độc
đỏo. Ăn một miếng, nhớ mói khụng quờn.
Bạn bố, bà con, liền anh, liền chị hẹn nhau hỏt đối đỏp quan họ vào ngày giỗ này. Cỏc gia đỡnh chuẩn bị đún khỏch liền anh, liền chị cỏc nơi
đến chơi nhà nhộn nhịp đường trờn ngừ dưới.
ở đõy, cú 4 điểm di tớch văn hoỏ, lịch sử: Đền Cựng - Bà Chỳa,
chựa thờ Phật, đền Vua Bà và đỡnh làng Diềm... như một quần thể tuyệt
đẹp, hài hoà cỏch nhau khoảng năm chục một. Giữa cú sõn vận động và
một hồ nước rộng, con sụng nhỏ uốn khỳc quanh làng và xa xa là dóy nỳi
nhấp nhụ như một bức tranh sơn thuỷ hữu tỡnh.
Đền Cựng - Bà Chỳa cú từ rất lõu, được xõy ở vị trớ cao rỏo, mỏt mẻ. Lưng đền tựa vào nỳi, cửa đền hướng về phớa nam. Trước đền cú
giếng Ngọc, cũn gọi là giếng Tiờn, nước uống tinh khiết, trong lành,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
374
hiếm thấy ở nơi nào cú loại nước như vậy, đặc biệt khi nấu chố xanh, cú
màu sắc, mựi thơm đặc biệt. Giếng được bao bọc thường xuyờn vỡ búng mỏt của cỏc cõy cổ thụ trựm lờn, đỏng chỳ ý là cõy duối to, cao, xum
xuờ. Dưới giếng cú hai con cỏ vàng, một đực, một cỏi, sống với nhau đó
bao đời này, độ lớn rất chậm, khụng đỏng kể. Người dõn ở đú chứng kiến
những năm lụt to, nước tràn trờn giếng nhiều ngày mà đụi cỏ vẫn khụng
đi nơi khỏc.
Hàng năm, người làng này thắp hương, tỏt giếng một lần. Tỏt giếng
mỳc kiệt nước, từ mạch ngầm dưới đỏy nước lại ựn lờn như cũ, vẫn rất
trong và xanh lơ.
Đỡnh làng Diềm là một cụng trỡnh kiến trỳc cổ nổi tiếng, cột lim
to, khụng cú mộng, con xỏ, chạm trổ rất tinh tế, tỷ mỉ, cụng phu. Cho
nờn bao đời nay đó cú cõu:
“Thứ nhất là đỡnh Đụng Khang
Thứ hai đỡnh Bảng, vẻ vang đỡnh Diềm”
Bắc Ninh là trung tõm điểm của vựng văn hoỏ Kinh Bắc, cú 49
làng quan họ, trong đú huyện Yờn Phong cú 17 làng. Trong ngày hội
làng Diềm dõn quanh vựng tập trung về đõy để dõng hương, cỳng tế và thi tài hỏt đối đỏp với nhau. Khụng chỉ huyện Yờn Phong mà cũn cú cỏc
huyện khỏc như Hiệp Hoà, Tiờn Sơn cũng về dự thi hỏt.
Trong ngày hội, nhõn dõn nhiều nơi trong tỉnh, nhiều cơ quan
Trung ương và Hà Nội, khỏch thập phương và cả khỏch nước ngoài nữa
về dự rất đụng. Từ thị xó Bắc Ninh vào làng Diềm khoảng 5km, đường
sỏ khú khăn, nhưng khỏch thập phương vẫn hối hả, hào hứng đến dự.
Mọi người núi vui với nhau: Đức Vua Bà linh thiờng phự hộ. Dõn ở đõy kể rằng: Mồng 6 thỏng hai năm nào thời tiết cũng tốt khụng cú mưa.
Mở đầu lễ hội là màn trỡnh diễn của đức Vua Bà và một dàn mỳa
nộm cầu cho nhau trong ngày xuõn trẩy hội. Đức Vua Bà dự hội thấy
vui, nhưng muốn cho dõn làng ngày xuõn trai gỏi được vui hơn, Bà đó
nghĩ ra việc dạy cho mọi người hỏt quan họ đối đỏp. Những ngày Tết,
thường “hỏt canh” qua đờm. Đức Vua Bà mặc ỏo màu vàng, thờu thựa
cụng phu, đầu đội khăn xếp vàng, tay cầm quạt lụng tiờn, kiểu hoàng
hậu. Người đúng vai đức Vua Bà cú dỏng người cõn đối, rất đẹp, mắt hiền, mặt trũn trỏi xoan, phỳc hậu do dõn làng Diềm họp bỡnh chọn rất
nghiờm tỳc từ mấy thỏng trước, đầu tiờn là cụ này phải là con gia đỡnh
mấy đời nội ngoại trong sỏng về đạo đức, mẫu mực về cuộc sống, siờng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
375
năng trong lao động, sỏng tạo trong làm ăn, kinh tế khỏ giả. Sau đú mới
là tới tiờu chuẩn thanh tõn, xinh đẹp.
Sau màn trỡnh diễn nộm cầu là đến tiết mục rước cỏc kiệu vàng. Đi
đầu là kiệu đức Vua Bà. Trờn kiệu cú hương hoa, cũn đức Vua Bà thỡ đi
bộ, bờn cạnh cú hai vệ nữ, đằng sau cú một đoàn nữ tỳ đi hàng đụi, ăn
mặc quần ỏo toàn màu vàng, đớnh kim tuyến. Thứ ba là một kiệu cú lẽ là
kiệu của một tướng đi hậu vệ. Xen vào kiệu đầu tiờn là đoàn cỏc cụ ăn
mặc ỏo dài xanh cỏnh sả, đầu đội khăn xếp, cầm cờ ngũ sắc, tượng cho
ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Điều đú muốn núi cuộc sống con
người luụn phải hài hoà trong vũ trụ. Xen vào sau kiệu đức Vua Bà là đoàn quõn ăn mặc đồ chiến trận, cầm vũ khớ kiểu cổ, sơn son thiếp vàng.
Những vũ khớ đú đều chạm trổ: long, ly, quy, phượng, thể hiện bốn con
đú gắn bú mật thiết với con người để chiến thắng cỏc thế lực ỏc quỷ, tàn
bạo.
Đỏm rước dài dằng dặc. Điểm dừng chõn đầu tiờn là trước sõn đền
đức Vua Bà. Mọi người dõng hương, hoa, mõm cỗ tiến cỳng đức Vua
Bà, mời đức Vua Bà đi vón cảnh ngày xuõn, tượng trưng bằng việc đưa
bài vị đức Vua Bà từ đền lờn kiệu, rước đến đền Cựng - đền Bà Chỳa để thắp hương viếng tổ tiờn của làng và mỳc một lọ nước từ giếng Ngọc đưa
về đền Vua Bà. Sau đú đoàn rước đi tiếp về sõn đỡnh Diềm dõng hương
và kết thỳc cuộc rước.
Khi đỏm rước kết thỳc là cỏc cuộc vui chơi, thi hỏt, đỏnh cờ, đỏnh
đu...
Lễ hội làng Diềm, một sự kiện văn hoỏ đậm đà bản sắc dõn tộc,
cũng là ngày giỗ đức Vua Bà, thủy tổ dõn ca quan họ Bắc Ninh đó gõy dấu ấn sõu đậm trong tõm hồn mọi người dõn làng Diềm và khắp cỏc
huyện Yờn Phong, Tiờn Sơn, Hiệp Hoà và khỏch thập phương.
Sau lễ hội, ai cũng cảm thấy trong lũng thanh thản, tinh thần hướng
về cội nguồn đẹp đẽ để phỏt huy tớch cực trong đời sống của mỗi người.
Bởi, “uống nước nhớ nguồn” là đạo lý của người Việt Nam./.
N.M.H - Đ.M.H
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
377
Hội Dô Kiều Thu Hoạch
Hội Dô, tức hội hát Dô, là một lễ hội gắn liền với những lễ nghi
phong tục thờ Đức Thánh Tản ở xã Liệp Tuyết (nay là xã Tuyết Nghĩa,
huyện Quốc Oai).
Xã Liệp Tuyết nằm ven bờ sông Tích, là một vùng đất cổ, tương truyền Tản Viên sơn thánh đã có lần qua đây, thấy phong cảnh tươi đẹp, bèn
dừng lại chơi. Khi ấy, trai gái dưới đồng ruộng vừa cày cấy, vừa ví von trêu
ghẹo nhau. Đức Thánh Tản thấy vậy rất hứng thú, bèn cho xây dựng Xuân
Ca cung (hoặc còn gọi đền Khánh Xuân), rồi gọi đám trai gái tới dạy họ hát
múa. Các bài ca thánh dạy đều được ghi lại trong sách Quốc nhạc diễn ca1.
Do sự tích này, mà Liệp Tuyết có hội múa hát để ghi nhớ công ơn Đức
Thánh.
Lại có truyền thuyết kể rằng, có lần đức Thánh qua chơi xã Liệp
Tuyết, đã dạy cho dân biết cách chọn hạt lúa giống và cách làm ruộng. Sau
đó, Đức Thánh Tản đi chơi nơi khác, hẹn ngày lúa chín sẽ quay lại. Nhưng
nhân dân địa phương đã mỏi mắt chờ trông mà chưa thấy ân nhân trở lại.
Mãi 36 năm sau, Thánh Tản mới tới, thấy dân đã no đủ, bèn tập hợp trai gái
trong làng để dạy họ múa hát, mừng dân no ấm được mùa. Thế là từ đó, dân
làng xây đền thờ Đức Thánh Tản, và cứ 36 năm, dân làng theo lệ, lại mở hội
ca múa tưng bừng, gọi là hội hát Dô, để nghi nhớ công ơn Đức Thánh Tản đã dạy dân làm ruộng và ca hát.
Hội Dô vào đám từ mồng 10 đến 15 tháng giêng âm lịch thì kết thúc.
Nhưng việc sửa sang đền thờ và may sắm lọng cờ thì phải chuẩn bị từ trước
đó hàng năm. Việc tập ca hát cũng được dân làng bắt đầu từ sau rằm Trung
thu năm trước, hoặc có khi còn sớm hơn. Tối tối, trai gái các thôn xóm đều
náo nức tập luyện để còn đua tài với nhau. Vì thế, tuy hội chưa mở mà không
khí trong làng đã thấy rộn rịp khác thường. Cuộc tập luyện kéo dài đến tháng Chạp thì ngừng, để chuẩn bị quần áo và các vật dụng cho ngày vào đám.
1 ở xã Liệp Tuyết hiện còn văn bản Quốc nhạc diễn ca, bằng chữ nôm do Trúc Hiên Hải Hàm
sao năm Khải Định I (1916), từ một bản sao năm Tự Đức 29 (1875). Nghe nói bản gốc có từ
thời Lê, do một ông cống người địa phương sưu tập các bài ca truyền miệng trong dân gian,
chỉnh lý và ghi chép thành văn bản như hiện nay còn thấy.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
378
Từ chiều mồng 9 tháng giêng, bắt đầu cuộc rước kiệu của toàn xã từ
đình miếu ra đền. Việc rước kiệu cũng có những tục lệ và nghi thức chặt chẽ.
Trai tráng khoẻ mạnh, trong sạch, mới được chọn khiêng kiệu. Cứ 4
người khiêng một kiệu, người này mỏi thì người khác thay. Đi trước kiệu là
các chức sắc trong xã; hai bên kiệu có người vác cờ, vác lọng đi kèm. Những
người trong các Ban hát gồm Cái hát (người con trai dẫn đầu) và các Con
hát (đều là con gái, còn gọi là Bạn nàng ) cũng được đi trước kiệu, mỗi
người đều có ô che đầu. Người con trai làm Cái, được chọn lựa khá kỹ, đó là
một chàng trai khôi ngô và có giọng hát trong trẻo. Còn Bạn nàng thì chọn
gái trinh, tuổi từ 13 đến 17. Cả Cái và Bạn nàng đều phải “quang quẻ” (nhà không có tang, bản thân trong sạch, chay tịnh...).
Đám rước gồm nhiều thôn nối dài theo thứ tự vai vế. Đại phu là thôn
anh cả của xã Liệp Tuyết được đi đầu, sau đó đến thôn Vĩnh Phúc là anh hai,
rồi tiếp theo là các thôn Bái Nội, Bái Ngoại... Cả đám rước là một rừng cờ,
đủ màu xanh, đỏ, hoa lý... bằng lụa, uốn lượn trong tiếng trống tưng bừng,
rộn rịp.
Những thanh niên cầm cờ, vác lọng, khiêng kiệu thì đầu quấn khăn
lượt, mặc quần trắng áo the đen, chân quấn xà cạp hoặc đi giầy vải. Cái cũng
ăn bận tương tự, nhưng chân không quấn xà cạp. Các bạn nàng thì mặc áo
năm thân, bên trong là áo đỏ, giữa là áo xanh, ngoài cùng là áo the đen, chân
đi dép cong, cổ đeo chuỗi hạt vòng, tay đeo nhẫn, cầm khăn đỏ, quạt và túi
múi cam nhiều màu sặc sỡ.
Khi đám rước kiệu đã tề tựu trước đền Khánh Xuân rồi, mọi người lại
về nhà. Sáng hôm sau, mồng 10 tháng giêng, thực sự bắt đầu vào hội,bắt
đầu cử hành đại lễ tại đền. Thôn anh cả Đại Phu
phải đến sớm và được vào hát trước tiên.
Trình tự cuộc hát lễ như sau: Cái dẫn các Bạn nàng vào trước đền, rồi gõ nhịp sênh làm hiệu cho các Bạn nàng vào trước bàn thờ. Tất cả đều đi theo hình chữ “chi”. Khi nghe sênh báo hiệu cho các Bạn nàng bỏ dép, bước vào chiếu, rồi bắt đầu cất tiếng hát theo các bài như đã ghi trong văn bản cổ.
Sau khi hát xong một chầu, thì Cái và các Bạn nàng được nghỉ, và bấy giờ cuộc tế lễ mới bắt đầu. Khi tế lễ thì riêng Cái và Bạn nàng thôn Bái Nội được ở lại để hát bỏ bộ. Tiếp đó, các thôn lần lượt thay nhau vào hát. Cuộc hát thờ diễn ra từ sáng đến xế chiều mới xong. Các ngày sau cũng vẫn diễn ra như vậy.
Trong khi ở đền cử hành tế lễ và hát thờ trang nghiêm, thì ở ngoài sân đền, lại là một bãi hội tưng bừng náo động với các trò vui dân dã như đánh
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
379
đu, chọi gà, cờ người, múa rối nước1... thu hút người hàng tổng, người của mọi miền Xứ Đoài cùng đông đảo khách thập phương tới xem.
Đến chiều ngày 15 tháng giêng thì hết hội. Nhân dân các thôn lại rước kiệu từ đền về miếu của thôn mình, để rồi 36 năm sau mới lại có một lần mở hội tiếp.
Tuy mấy chục năm mới mở hội một lần, song Hội Dô vẫn để lại ấn tượng sâu sắc trong nhân dân Xứ Đoài. Nội dung của hội có tế lễ, có rước kiệu, có các trò vui dân gian, nhưng nổi bật và chủ yếu vẫn là phần ca hát. Vì thế, có phần trái với thông lệ là lấy tên làng để gọi tên hội, ở đây người ta lại lấy tên ca khúc để gọi tên hội. Chẳng hạn, do trong bài hát Chèo thuyền tới đoạn kết thúc những tiếng đệm “huầy dô, huầy dô” rồn dập, sôi nổi, mà nhân dân đã gọi hội làng Liệp Tuyết là Hội Hát Dô.
Đặc biệt, trong hát Dô còn có cả múa, do đó cuộc hát khá sinh động và gây được nhiều hứng thú cho người xem.
Như khi hát phần Lời ca chính, thì có động tác đi vào đi ra khỏi bàn thờ theo hình chữ “chi”, hoặc có những động tác chèo thuyền, do các Bạn nàng dùng quạt giấy tượng trưng cho mái chèo, miệng hát tay chèo, chân cũng bước lên lùi xuống nhịp nhàng trông rất đẹp mắt.
Nhất là khi hát sang phần hát Bỏ bộ, thì càng nhiều “điệu bộ” hơn. Ví
như hát đến câu:
Ngồi rồi lấy chỉ ra xe,
Lấy kim ra xỏ, ngồi hè vá may.
Các Bạn nàng đều ngồi xuống và làm các động tác xe chỉ, luồn kim,
may vá... thật thú vị.
Theo kết quả bước đầu của giới nghiên cứu âm nhạc, thì Hát Dô có tới trên 20 làn điệu, vừa mang những nét độc đáo của Xứ Đoài, vừa có
những âm điệu chung của dân ca nghi lễ vùng trung du và đồng bằng Bắc
Bộ.
Còn về mặt lời ca, thì ngoài những bài hát trữ tình giao duyên, phản
ánh tình yêu nam nữ, hạnh phúc lứa đôi, chắc chắn xuất hiện vào giai đoạn
muộn, những bài dân ca nghi lễ còn lại ngôn từ đều rất cổ, rất mộc mạc,
nghe như âm vang của những lời ca khẩn nguyện nguyên sơ của các thị tộc ở dưới chân núi Tản:
1 Hiện còn dấu tích ao rối cổ truyền ở thôn Đại Phu.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
380
Bước chân vào tôi chầu Thánh Cả,
Bước chân ra tôi tạ thiền quan
Đức Thánh Cả vâng chạ cho an,
Tả hữu thiền quan,
Vâng lấy chúng tôi an lành...
Điều đó chứng tỏ cội nguồn cổ xưa của Hội Hát Dô. Điều đó cũng
ứng hợp với những lễ tục và huyền tích mà nhân dân Liệp Tuyết đã coi thần
núi Tản như một anh hùng khai sáng, anh hùng văn hoá./.
K.T.H
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
381
Hội Tế cá Dương Xá
Phạm Minh Đức – Phạm Thị Nết
- Phạm Thị Lan
Làng Dương Xá tỉnh Thái Bình nằm ở bên trái đường 39 thuộc
địa phận xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ngày nay.
Bảy trăm năm trước, Dương Xá thuộc đất làng Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng, nơi phát tích, "chốn thiêng" của
vương triều Trần. Vì vậy, những sinh hoạt văn hoá (hội hè, rước lễ) trước
đây ở Dương Xá cũng như ở các làng phụ cận phần lớn liên quan chặt
chẽ đến nhà Trần. Có thể nói, hội tế cá được tổ chức hàng năm vào ngày
mồng 5 và mồng 6 tháng giêng ở Dương Xá là biểu hiện cụ thể cho mối
quan hệ ấy.
Nhà Trần lên ngôi, chọn vùng Tức Mạc (Thiên Trường - Nam
Định) quê hương tổ bốn đời làm nơi xây dựng hành cung, nơi nghỉ ngơi vui chơi cho các thượng hoàng1; chọn huyện Ngự Thiên (Long Hưng-
Thái Bình) làm nơi đặt mộ tổ, lăng tẩm. Nên các lăng: Thọ lăng, Chiêu
lăng, Dụ lăng, Đức lăng, an táng Thái Thượng hoàng Trần Thừa và các
vua Thái Tôn, Thánh Tôn, Nhân Tôn đều được đặt ở đây2.
Việc lựa chọn này được tiến hành vào thời kỳ hưng thịnh và vẻ
vang nhất của triều Trần. Đó không chỉ là chỗ ở: nhà Trần nhận thấy rõ
cái lợi thế về kinh tế, chính trị, quân sự của vùng đất Long Hưng (tiện
đường giao thông, xa cửa ngõ biên giới phía Bắc, nằm sâu trong vùng hậu phương, dân đông, vật lắm...) mà còn là tập tục cổ truyền của dân tộc
là muốn trở về, gửi xác nơi quê cha đất tổ (giống như các vua Lý chọn
Tiên Sơn, vua Lê chọn Lam Kinh).
Nhưng Thái Đường (tức Dương Xá, Tây Nha, Tam Đường sau
này) không hẳn chỉ là khu lăng tẩm, xen trong đó còn có những hành
cung đền miếu lớn, lộng lẫy như: điện Thiên An, điện Diên Hiên, thềm
Thiên Trì.v.v... Hai đội quân lớn mang tên Hải Khẩu và Hổ Dực ngày đêm bảo vệ khu vực này.
Đất Long Hưng được các vua Trần coi là đất tổ. Quân dân vùng
Long Hưng được xem như con em thân thuộc. Các đội quân: Thiên
1 Tính đến đời Trần Thừa.
2 Riêng vua Trần Hiếu Tôn được an táng ở An Lăng (Kiến Xương) tức Đồng Thanh (Vũ
Thư nay).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
382
Thuộc, Thích Chương, Chương Thánh, Củng Thần (quân cấm vệ) của
nhà Trần đều là con em vùng Long Hưng. Cai quản những đội quân này là những người quốc thích hoặc tướng giỏi của triều đình. (Tướng quốc
Trần Nhật Hiệu quản quân Tinh Cương, tướng Phạm Ngũ Lão quản
quân Thiên Thuộc).
Vây quanh khu lăng tẩm, đền, miếu là các điền trang thái ấp lớn
của các vương hầu, quý tộc nhà Trần. Thái ấp của tướng quốc Trần Nhật
Hiệu chính là làng Dương Xá, thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ngày
nay.
Dương Xá nằm chạy dài chừng ba cây số, ôm lấy phía đông khu lăng tẩm với diện tích khoảng chừng 250 mẫu. Tại đây, Trần Nhật Hiệu
đã cho xây dựng một hành cùng lớn được gọi là Đầu đài sứ và thành lập
một đội quân riêng- Đó chính là một trong số những đội quân mạnh nhất
của nhà Trần sau này - Quân Tinh Cương.
Sau khi Trần Nhật Hiệu mất, dân làng Dương Xá tôn ông làm
thành hoàng.
Miếu thờ ông được đặt ở thôn Lê. Đình thờ ông được đặt ở thôn
Trung. Chỗ cao nhất, đẹp nhất trên cánh đồng làng Dương Xá là nơi đặt mộ ông. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn thì mộ Trần Nhật Hiệu rộng
chừng 5 sào, nằm cạnh một ngôi mộ không rõ của ai cũng rộng chừng 5
sào. Trên đó có rùa đá, bia đá và 8 mẫu tự điền1.
Cho đến trước khi nhà Trần di chuyển hài cốt của các vua Trần ở
Long Hưng về Yên Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh), nhân dân ở đây
không chỉ được tham dự những buổi mai táng, tế tự long trọng của các
vua và hoàng hậu nhà Trần mà còn được chứng kiến và tham dự những sự kiện có ý nghĩa chính trị quốc gia. Đó là những cuộc viếng thăm,
những buổi làm lễ mừng chiến thắng mà các vua Trần đích thân đứng ra
tổ chức để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho cháu con giữ vững cơ nghiệp tổ
tông đất nước .
Trong những ngày ấy, khi "nghi trượng kéo qua nghìn cửa đón
chào nghiêm túc, áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm" thì nhân dân Long
Hưng coi đó là ngày hội lớn của mình. Ngoài khu lăng tẩm làm lễ lớn
trong làng, tại các đình chùa nổi chiêng, trống lễ thành hoàng và lễ Phật. Các thiện nam tín nữ kéo nhau lên chùa, các nhà thờ họ và nhà nhà đều tổ
1 Theo nhân dân thì tự điền là 8 mẫu 4 sào. Năm 1983, Sở Văn hoá và Phòng Văn hoá
huyện Hưng Hà có khai quật một ngôi mộ ở trong khu vực này, phải chăng đó chính là mộ
Trần Nhật Hiệu.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
383
chức lễ ăn mừng chiến thắng. Trên các sân đình trai tráng tổ chức đánh
gậy; dưới sông thi bơi trải, thi bắt vịt... nơi nơi tổ chức vui chơi ca hát: rước thần, múa kỳ lân sư tử, sênh tiền... làng Dương Xá 700 năm trước
sống trong không khí vui vẻ và long trọng ấy...
Sau này, hàng năm, làng Dương Xá vẫn mở hội- Hội tế cá để
tưởng nhớ công đức của tướng quốc Trần Nhật Hiệu- thành hoàng làng
và để nhớ về một thời oanh liệt của nhà Trần trên đất Long Hưng.
Vào ngày hội tế cá, mỗi giáp sắm sửa lễ vật cho ngày hội- đó là
những con cá trắm. Cá lễ được tính theo vòng ngực thường là ba vổ (mỗi
vổ bằng bốn ngón tay đặt sít).
Từ chiều mùng 5 tết, đình Dương Trung cờ xí phấp phới, khói
hương nghi ngút. Cả làng Dương Xá trong không khí vừa trang nghiêm,
vừa náo nức chuẩn bị cho việc nướng cá, làm bánh dầy.
Trong mâm cỗ cá lễ thần, ngoài món cá nướng, còn có cá kho,
canh cá, cá luộc nước gừng lọc nấu với ngồng cải thái nhỏ và bánh dầy.
Người ta làm sạch cá rồi tẩm mỡ, nướng vàng. Cơm nấu bằng gạo tám
xoan nước lọc qua giấy bản.
Trong khi chuẩn bị làm cỗ cá, làng tổ chức rước tượng Trần Nhật Hiệu từ ngôi miếu thờ ông ở thôn Lê về đình Dương Trung. Đám rước
linh đình có kiệu sơn son thiếp vàng, cờ thần đủ sắc hoà trong âm thanh
kèn, la, trống phách náo động cả vùng. Đám rước như làm sống lại những
sinh hoạt văn hoá, những lễ thờ cúng mai táng và những buổi dâng lễ
mừng chiến thắng 700 năm trước.
Buổi tối, tổ chức hát chầu văn hầu Thánh. Hết ngày mùng 6 làng
tế tạ và trao giải cho giáp nào có cá to nhất, sắp cỗ ngon nhất.
Kết thúc hội, mọi người ra về trong niềm luyến tiếc. Hò hẹn nhau
3 tháng sau lại về với Hội thi diều ở chùa Bà (24 tháng 4 âm lịch).
Ngày ấy, trong chùa thì lễ Phật, ngoài sân chùa rộng hàng trăm
cánh diều thi nhau đọ sức đua tài. Cả vùng ven sông Hồng dậy vang tiếng
sáo và tiếng hò reo náo nhiệt.
Diều nào bay cao, dây đứng, tiếng sáo hay sẽ được giải. Ai thắng
cuộc, năm ấy làm ăn sẽ gặp nhiều may mắn.
Đình Dương Xá đến nay không còn nữa và hội lễ tế cá đầu xuân cũng mất đi nhưng lớp cao tuổi trong làng vẫn còn nhớ rõ. Có người cho
rằng, sở dĩ có lệ tế cá trong hội làng Dương Xá là vì để nhớ về dòng họ
Trần - một dòng họ có công lao với dân tộc mà Tổ của họ Trần làm nghề
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
384
chài lưới trên sông1. Lại có người cho rằng tế cá thuộc về hội lễ nông
nghiệp. Ngoài những hội lễ gắn một cách trực tiếp với nghề nông như rước nước, tế thần nông, hạ điền, thượng điền.v.v... Hội lễ nông nghiệp
còn bao gồm cả những hội săn chim quốc, săn hổ, cáo, đánh bắt cá ở
sông, hồ, ao, thi hái lá, măng, nấm.v.v...
Dù nhìn nhận dưới góc độ nào thì hội làng Dương Xá mà lễ tế cá
đầu xuân là trung tâm cũng là một hình thức sinh hoạt văn hoá khá độc
đáo liên quan trực tiếp đến nhà Trần./.
P.M.Đ - P.T.N
– P.T.L
1 Có tài liệu cho rằng họ Trần đã lấy tên các loài cá để đặt tên cho con cháu mình, chẳng
hạn: Trần Kinh tên cũ là Kình (cá Kình), Trần Hấp là Trắm, Trần Lý là Chép; Trần Thừa là
Dưa, Trần Tự Khánh là Ngạnh; Trần Liễu là Nheo; Trần Cảnh là Lành Canh. Khi thành
nghiệp lớn mới bỏ bộ Ngư bên cạnh mà đọc theo tên chữ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
385
Hội làng Đa Sĩ
Lê Ngọc Canh
Đình làng Đa Sĩ không rõ được xây dựng từ bao giờ, nhưng theo
các bô lão, đình được trùng tu vào năm 1802 (Nhâm Tuất) niên hiệu Gia
Long thứ nhất. Sân đình này đã từng diễn ra những vở chèo, vở tuồng,
những cảnh hát ca trù đặc sắc suốt thời gian hội làng.
Nhìn toàn cảnh đình làng Đa Sĩ, cho ta một cảm giác đó là bức tranh, một mảng màu của đồng quê luôn sống động, xanh tươi với cây đời.
Trước cửa đình là ao nước trong xanh, bốn góc có đa, si tỏa bóng
mát. Giữa ao có một gò nổi hình vuông, cỏ xanh như tấm thảm, bốn góc
gò trồng bốn cây cau. Dân làng gọi là bàn cờ (có lẽ thuở xưa đây là bàn cờ
người).
Cửa đình là hai cột Bộc Mã cao, phần đỉnh đắp hai nghê chầu bốn
phía cột có câu đối chữ Hán.
Tiếp đến là sân đình rộng, với tả hữu đều dựng nhà 5 gian dọc.
Cuối sân là ngôi đình lớn, cao rộng, bộ khung được làm bằng gỗ
lim, với 16 cột. Chân tảng cột bằng đá khối được đục theo luật âm dương.
ốp vào cột là các câu đối sơn son thếp vàng. Đình còn có những bức
hoành phi lớn chạm khắc tinh sảo.
Hậu cung có án hương, là nơi thờ thành hoàng làng.
Cùng với đình, không biết tự bao giờ, dân làng Đa Sĩ đã khéo chọn
địa thế xây miếu, chùa, làm cho cụm kiến trúc này thêm trang nghiêm cổ
kính.
Miếu Đa Sĩ xây dựng bên bờ sông Nhuệ, ẩn sau những đại cổ thụ,
đó là không gian tự nhiên của miếu.
Từ ngoài vào qua hai cây Bộc Mã đến Văn chỉ, có bia khắc tên và
học vị những danh nhân làng Đa Sĩ. Tiếp liền Văn chỉ là sân lát
gạch rồi đến miếu.
Miếu cấu trúc theo kiểu cổ của người Việt. Tiền cung (cung trước)
có 8 cột gắn câu đối, trên cao treo hoành phi sơn son thếp vàng. Nơi đây đặt hương án, lư hương hạc chầu.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
386
Trung cung (cung giữa) cũng bố trí như tiền cung. Song hai bên,
trước hương án, còn bổ sung hai hàng bát bửu, giá quạt, giá cờ.
Hậu cung có các hoành phi, câu đối, và bàn thờ chính thờ thành
hoàng làng Hoàng Đôn Hòa với ngai, bài vị chạm khắc tinh vi.
Kiến trúc miếu cấu tạo 3 tầng theo hình tháp. Các góc mái uốn cong,
đều đắp rồng và nghê. Đỉnh miếu có rồng chầu mặt nguyệt.
Hai bên miếu là hai dãy nhà ngang, mỗi dãy 5 gian.
Dân làng Đa Sĩ đã tạo dựng tượng và tôn thờ cụ Hoàng Đôn Hòa
làm thành hoàng làng. Tượng ngài phản ánh rõ nét mặt hiền từ phúc hậu,
thông minh trí tuệ.
Về hình thức, tượng Hoàng Đôn Hòa là một tác phẩm điêu khắc
nghệ thuật có đường nét, hình khối, ánh sáng, tư thế, dáng kiểu hài hòa
trong thể thống nhất.
Phía phải miếu, là một tấm bia có niên hiệu Phúc Thái thứ 6 thời vua
Lê Chân Tông (l648).
Các mặt bia ghi "Đa Sĩ xã bi" hoặc "Thượng hạ đại tiêu đăng".
Bia cho biết: Chính phu nhân Hoàng Thị Lộc, hiệu là Tư Nhuận, có
công với quê huơng được "tọa vị hậu thần". Các hiện vật trong miếu, đáng kể là bộ kiệu do tổng trấn Ngọc Hầu Nguyễn Bá Xuyến vẽ theo mẫu kiệu
của nhà vua và nghệ nhân đóng kiệu là Lê Công La cùng họ hàng ngày
đêm dồn tâm, dồn chí làm cho kiệu trở nên đẹp đẽ, rực rỡ. Trong đó, kiệu
Ông tạc tám con rồng, kiệu Bà tạc tám phượng đều sơn sơn thếp vàng.
Khi rước kiệu lúc đi nhanh, đi chậm, lúc lùi, lúc xoay là tượng trưng
rồng cuốn, rồng lượn.
Kiệu Ông để rước thành hoàng làng Hoàng Đôn Hòa, kiệu bà để rước phu nhân thành hoàng làng là Phương Dung công chúa.
Hội làng Đa Sĩ lấy ngày mất của thần Hoàng Đôn Hòa làm ngày hội
làng.
Hàng năm mở hội vào 12 tháng giêng và đến ngày 15 tháng giêng dã
đám.
Hội tổ chức rất trọng thể theo nghi thức cổ truyền:
Tế, lễ dâng hương. Rước. Vui chơi (vui hội)
- Tế, một nghi thức để tưởng nhớ công đức của thành hoàng làng, ơn cao đức dầy, nhắc nhở con cháu luôn uống nước nhớ nguồn.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
387
Những người tham gia tế gồm có: Một chủ tế, ba bồi tế, thượng
hương (người dâng hương), âm phúc (người dâng rượu). Bắt đầu là trống chiêng, báo hiệu cuộc hành lễ. Đầu tiên Đông xướng, Tây xướng, rồi chủ
tế đứng ra hô, làm hiệu điều khiển lễ. Phần quan trọng là đọc văn tế (đọc
công đức của thành hoàng làng). Kết thúc tế là dâng hương, dâng rượu,
dâng hoa (hương, hoa, đăng, trà, quả, thực). Tiếp đến là rước.
- Rước: qui tụ, tổng hợp các loại hình văn hóa nghệ thuật, là cốt lõi,
trung tâm của qui trình hội, gồm: rước kiệu, long đình, hương án và các
loại hình nghệ thuật múa sênh tiền, mõ, trống, sư tử, rồng, mặt nạ, cờ
v.v...
- Vui chơi: kế tiếp là các trò chơi làm cho hội thêm vui tươi. Hội
thường có các trò chơi dân gian như: Đánh đu, chọi gà, đánh cờ người,
vật, chèo sân đình, hát ca trù, diễn tuồng đồ v.v...
Từ thuở xa xưa, hội Đa Sĩ đã lừng vang một vùng. Ngày này, Hà
Đông, Hà Trì đổ xuống, Sa La, Văn Quán đò sang, Mậu Lương ngược lên,
Xốm qua đồng để đến.
Trước cửa miếu, đình, chùa, cắm lá cờ thần lớn tung bay trong gió,
trống chiêng rồn vang mở đầu cho một ngày hội. Kiệu Ông , kiệu Bà, long đình, lọng, tán, cờ, quạt, phướn, gươm đao, bát bửu đèn hoa đã sẵn sàng.
Những âm thanh náo nức báo hiệu việc rước thành hoàng bắt đầu với
trình tự sau: mở đầu là hai hàng cờ, rồi trai làng thổi tù và, lưng đeo
thước, đeo kiếm; đội trống chiêng và múa sư tử mở đường, ông hiệu
trống, hiệu cờ dẫn kiệu ông và đội múa trống ngũ lôi, múa mõ; theo kiệu
là các lão ông, tiếp theo là đội nữ sênh tiền vừa đi vừa múa, bà hiệu
chiêng, hiệu cờ dẫn kiệu Bà; rồi các cụ cầm cờ phướn... Hai bên đường là dân làng, khách thập phương đến dự hội. Lệ làng xưa, quân kiệu phải là
những gái làng xinh đẹp, trai làng tuấn tú, được chọn lựa và tập luyện
công phu (chưa vợ, chưa chồng, có đức tính tốt, phẩm hạnh ngoan ngoãn,
không tang, không tiếng xấu).
Được chọn làm quân kiệu, hiệu cờ, hiệu trống, hiệu chiêng là vinh
dự của gia đình họ hàng thân tộc.
Ngày đầu của hội rước kiệu từ miếu đi quanh ao đình về đình, mặc
dầu đoạn đường chỉ ngắn khoảng 500 mét nhưng phải từ sáng đến quá trưa đám rước mới tới nơi. Theo tục lệ cổ rước kiệu phải đi từng bước một
theo nhịp trống lệnh (trống khẩu), cứ 3 bước tiến 1 bước lùi. Hoặc có lúc
đi bước dồn, lùi bước dồn hoặc quay kiệu.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
388
Ngày cuối, 15 tháng giêng lại rước kiệu từ đình đi quanh ao về miếu.
Ao này được coi là viên "ngọc quí" của làng.
Hội làng Đa Sĩ đã làm giảm bớt đi những ưu phiền, đem lại sự hòa
đồng, niềm tươi vui, phấn khởi cho mọi người. Tục rước kiệu của làng Đa
Sĩ đã biểu hiện sự tôn kính người có công với nước, với dân, với làng
xóm, tôn kính bề trên và trân trọng bề dưới, mỗi khi rước kiệu ra khỏi cửa
miếu là kiệu Ông dừng lại để kiệu Bà đi trước. Khi rước về đến cửa miếu,
thì kiệu Ông lại nhường kiệu Bà. Đó cũng là thế ứng xử văn hóa truyền
thống, một nét độc đáo của lệ tục làng Đa Sĩ.
Trong hội, sân đình là nơi diễn các tích chèo, tuồng, trình diễn ca trù suốt cả thời gian hội. "Ca trù có mặt trong các cuộc tế lễ tiên thánh tiên hiền... Từ rất sớm nó đã có một bộ phận hát, múa mang tính chất tôn giáo, thờ cúng phục vụ cho phường, hội, làng, chạ trong các dịp ăn mừng được mùa, lễ tạ trời đất, hoặc tế các vị tổ nghề. Như tổ nghề lò rèn, tổ nghề đúc..." 1
Cứ liệu trên cho ta nhận biết ca trù cùng một lúc có hai mối quan hệ: quan hệ với tôn giáo và quan hệ với việc thờ các tổ nghề. Đa Sĩ đã có hai ông tổ lừng danh, là tổ nghề thuốc được tôn thờ làm thành hoàng làng và tổ nghề rèn.
Có lẽ vì thế mà ca trù được trình diễn trong hội làng? (12 tháng giêng là ngày giỗ tổ thành hoàng làng). Đó cũng là ngày hội truyền thống của làng Đa Sĩ.
Thời điểm diễn ra ca trù phục vụ cho tế từ lúc phù giá (rước kiệu) đến lúc lễ tạ, rồi vào cuộc hát cửa đình. Khi diễn ca trù thì ả đào vừa hát vừa múa theo nhịp đàn, trống, phách, song loan.
Khi tế, ả đào hát múa theo nội dung tiết mục hành lễ, ăn nhịp với các động tác của người tế.
Hát ca trù trong tế gồm có chín khúc, theo thứ tự sau:
- Nguyên hòa khúc (dâng rượu)
- Thái hòa khúc (thần vào vị)
- Thọ hòa khúc (tuần rượu thứ nhất)
- Dự hòa khúc (tuần rượu thứ hai)
- Minh hòa khúc (tuần rượu cuối)
- Hài hòa khúc (uống rượu nhận phúc thần ban)
- An hòa khúc (cáo biệt thần)
1 Tuyển tập thơ ca trù, NXB Văn học, Hà Nội 1987, tr. 11.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
389
- Thuần hòa khúc (chờ mong thần ban phúc thêm mãi)
- Ung hòa khúc (lễ xong)
Hát ca trù cửa đình tuy có nội dung thờ thần, nhưng vẫn góp phần làm cho mọi người cùng hưởng, cùng vui, nó gắn với tính quần chúng, tính nhân dân.
Đa Sĩ là một làng nghề. Bởi vậy, lễ hội làng, bên cạnh những nét chung vẫn có những nét riêng của mình. Đặc điểm văn hóa ấy chính là nhân tố khiến hội làng Đa Sĩ tồn tại đến hôm nay./.
L.N.C
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
390
Hội làng Đăm
Lờ Hồng Lý
Làng Đăm nay là xó Tõy Tựu, huyện Từ Liờm, Hà Nội. Tõy Tựu
trước kia thuộc phủ Hoài đức, tỉnh Hà Đụng. Đõy là một làng cổ cú
truyền thống văn hoỏ và sản xuất từ lõu đời. “Bơi Đăm, rước Giỏ, hội
Thầy” hay “Làng La canh cửi, làng Đăm đua thuyền” là những cõu ca
dao quen thuộc vang đến tận kinh thành Thăng long xưa.
Từ cầu Giấy, theo đường Hà Nội- Sơn Tõy, đến Nhổn rẽ tay phải,
chỉ đi vài cõy số là tới làng Đăm. Vào mựa xuõn khi đến dịp hội làng, từ đằng xa du khỏch đó cú thể nhận biết bằng màu sắc của cờ hội nổi bật
trờn một thảm xanh của những ruộng rau, dưa đủ cỏc loại đang độ kết
trỏi đợi mựa thu hoạch. Rau và dưa Tõy Tựu đó quỏ quen thuộc với đất
Hà Thành.
Hội làng Đăm diễn ra trong ba ngày, từ mồng 9 đến 11 thỏng ba
õm lịch. Xưa kia hội kộo dài tới năm ngày và cứ năm năm mới tổ chức
đua thuyền, bởi để chuẩn bị cho một cuộc đua đũi hỏi sự tốn kộm khụng
ớt thời gian, tiền của và sức lực con người. Theo cỏc cụ già cao tuổi cho biết hội được tổ chức lần cuối vào năm 1940. Kể từ đú khụng mở hội
nhưng đội thuyền đua làng Đăm vẫn luụn được mời về dự đua trong
những dịp lễ hội lớn của đất nước tại hồ Thuyền Quang, hồ Gươm, hồ
Bảy Mẫu. Khoảng những năm 1972- 1973 làng cú tổ chức bởi nhõn đún
Quốc trưởng Cămpuchia sang thăm nước ta, nhưng cuộc đua đú chưa
phải là hội. Những năm gần đõy, xu thế khụi phục dần dần những truyền
thống xưa đang được chỳ ý. Bằng chứng là sau 54 năm, năm 1994, hội
được tổ chức lại một cỏch cụng phu và trang trọng.
Theo sỏch Làng xó ngoại thành Hà Nội thỡ Tõy Tựu xưa vốn gọi
là Tõy Đàm, vỡ kiờng tờn huý vua Lờ Thế Tụng (1573 – 1600) nờn đổi
gọi là Tõy Đăm; đến nhà Nguyễn, vỡ kiờng quốc huý đổi gọi là Tõy Tựu
cũng là tờn một trong 13 tổng thuộc phủ Hoài Đức cũ. Tổng Tõy Tựu
gồm bảy xó, nay thuộc đất Tõy Tựu, huyện Từ Liờm và Tõn Hội huyện
Đan Phượng (Hà Tõy). Phớa bắc Tõy Tựu giỏp hai xó Liờn Mạc và
Thượng Cỏt, phớa đụng và đụng nam giỏp hai xó Phỳ Minh và Xuõn Phương, phớa tõy giỏp xó Tõn Lập huyện Đan Phượng và xó Dị Trạch
huyện Hoài Đức(1).
(1)
Bựi Thiết: Làng xó ngoại thành Hà Nội, 1985, tr. 231.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
391
Tõy Tựu gồm ba thụn là thụn Thượng hay cũn gọi là miền
Thượng, thụn Trung hay gọi là miền Trung và thụn Hạ cũn gọi là miền Hạ. Hàng năm, vào dịp hội ba miền cựng nhau tổ chức hội và thi bơi
thuyền.
Những di tớch liờn quan đến hội cũn lại cho đến nay chủ yếu nằm
xung quanh đỡnh và đoạn sụng, nơi diễn ra cuộc đua thuyền.
Đỡnh làng Đăm thờ đức thỏnh Tam Giang, dõn gian gọi là Bạch
Hạc Tam Giang(1). Vào ngày hội trong đỡnh cú đặt ba cỗ ngai. Một cỗ
trong hậu cung, lớn và được “mặc” ỏo trắng. Ngai thứ hai tiếp theo ngai
ở hậu cung, được đặt ở gian giữa đỡnh, nhưng chỗ đú lại thấp hẳn xuống so với hai bờn theo chiều dọc của đỡnh. Ngai thứ ba được đặt ở ngoài
cựng và là ngai để rước ra ngự ngoài thuỷ tạ lỳc thi bơi thuyền. Cả hai
ngai thứ hai và thứ ba đều được “mặc” ỏo vàng. Đỡnh bị hư hỏng nhiều,
khụng cú gỡ đặc biệt và đang được tu sửa dần dần.
Ngay cửa giữa của đỡnh nhỡn thẳng ra là liờn tiếp hai nhà thuỷ
đỡnh cỏch nhau khoảng bảy tỏm một, được gọi chớnh ngự trong và
chớnh ngự ngoài. Vào những ngày hội, kiệu của đức Thỏnh rước về được
đặt ở chớnh ngự ngoài, cũn chớnh ngự trong là nơi diễn ra cỏc cuộc tế lễ và sau đú là điểm xuất phỏt để rước ngai Thỏnh ra ngự xem bơi.
Bờn trỏi và bờn phải khoảng trống giữa chớnh ngự trong và chớnh
ngự ngoài cũn cú hai nhà thuỷ đỡnh nhỏ khỏc. Cạnh hai nhà thuỷ đỡnh
ấy là những dóy nhà dài được gọi là dóy muống. Phớa bờn phải nhỡn từ
cửa đỡnh ra cú hai dóy muống, cũn phớa bờn trỏi chỉ cú một dóy, cạnh
dóy đú là Từ Vũ. Trong Từ Vũ cú đặt một bia đỏ hỡnh trụ, bờn cạnh bia
là hai ụng phỗng ngồi canh bia.
Thuỷ tạ được xõy dựng trờn bờ sụng vươn ra mặt nước. Nú chia
thành ba phần rừ rệt. Phần trung tõm là nơi ngự giỏ của kiệu Thỏnh, bờn
(1)
Giang Quõn trong bài “Vựng đất cổ thượng vừ và hội bơi Đăm” Bỏo Hà Nội mới ngày
3.5.1994, tr2 cú ghi truyền thuyết về Bạch Hạc Tam Giang như sau: “Vốn trước làng chưa
cú đỡnh, miếu. ễng cõu ếch họ Vũ người thụn Hạ đi theo triền sụng Cỏi lờn mói vựng trờn,
thường hay đến nghỉ nhờ đền Bạch Hạc. Một hụm, cụ từ đi vắng nhờ ụng Vũ đốn hương
hộ. ễng thấy trờn đền cú tới ba bài vị thờ mà làng mỡnh lại chưa cú thành hoàng bốn làm lễ
xin õm dương để đún một vị về đăm. Đú là Thổ Lệnh Bạch Hạc Tam Giang. về làng gặp
lỳc đang cú dịch chết người và gia sỳc, ụng Vũ sợ đem giấu ở giàn mướp. Mựa lũ năm ấy
cú lũ lớn, nước tràn vào đồng, cú một mũi thuyền gỗ chạm vào đầu hạc trụi dạt vào cửa
miếu. ễng cõu ếch nhận ra đỳng là đầu thuyền đua ở đền Hạc. Dõn làng bốn cử người lờn
đền chớnh thờ thần Tam Giang xin mẫu thuyền, hỏi thể thức bơi trải rồi về làng đúng
thuyền, xõy nhà thuỷ tạ, tổ chức thi bơi. Hội Đăm bắt nguồn từ đú, đến nay đó khoảng 600
năm.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
392
trỏi là chiếu dành cho cỏc bụ lóo cao tuổi và trong hội đồng tế lễ, bờn
phải dành cho quan khỏch. Tất cả nhỡn ra hướng mặt sụng. Đõy là một nhỏnh của sụng Nhuệ mà vốn xưa kia cỏc cụ già núi rằng nú nối sụng
Hồng từ Gối xuống với sụng Nhuệ, nhưng nay đó bị cắt nờn cũn gọi là
đầm Đăm. Khỳc sụng dài khoảng 1000m và cuộc đua thuyền diễn ra tại
đú, với vị trớ xuất phỏt là nhà thuỷ tạ và điểm cuối cựng là đoạn sụng
trước cửa miếu thờ đức Thỏnh Tam Giang. Gọi là miếu nhưng đõy thực
chất là một ngụi đền lớn trong đú cũn giữ được khỏ đầy đủ bia ký và cỏc
đồ tế khớ cựng hoành phi cõu đối. Đõy là đất của thụn Thượng nờn miếu
cũn gọi là Thượng miếu.
Đối diện với miếu này phớa bờn kia bờ sụng chếch về phớa phải
cú một bệ thờ được gọi là làn tế. Làn tế, theo nhõn dõn địa phương là nơi
xưa kia rước Thỏnh về đặt tạm tại đú, trước khi đưa ngài ngự vào miếu.
Ngày ấy làn tế khỏ bề thế và nằm sõu trong trường kỹ nghệ ở đú nờn
người ta dịch chuyển làn tế ra sỏt bờ sụng và mới xõy thành một bệ thờ
như vậy.
Mọi sự chuẩn bị cho ngày hội được tiến hành từ trong năm. Ngày
mồng 9 thỏng ba là ngày mở đầu cho lễ hội của làng. Nghi thức quan trọng nhất của ngày hụm ấy là đỏm rước Thỏnh từ miếu xuống đỡnh.
Sau khi tế lễ ở đỡnh, làm lễ cỏo yết ở miếu, người ta tiến hành
rước Ngai của Thỏnh về đỡnh. Đỏm rước long trọng với đủ lệ bộ và nghi
trượng cựng những vị cú trọng trỏch trong ngày hội với đụng đảo dõn
làng. Đỏm rước đi từ miếu Thượng theo đường làng đi về đỡnh. Tới
đỡnh kiệu rước Ngài được đặt ở chớnh ngự ngoài. Sau đú cỏc tay đụ
cựng bụ lóo rước Ngai của Ngài vào đỡnh và ngự tại đú. Tiếng phỏo nổ vang cựng tiếng nhạc rộn ró làm khụng khớ ngoài đỡnh nỏo nhiệt trong
muụn màu sắc của cờ, đồ tế khớ và hương khúi nghi ngỳt.
Ngoài sụng, cỏc thuyền đua của ba thụn cũng tiến hành bơi dạo.
Vừa để chào mừng ngày hội chào mừng Thỏnh đồng thời cũng là để
duyệt lại toàn bộ cỏc bước chuẩn bị của mỡnh xem từ vị trớ ngồi của
từng trai bơi đó hợp lý chưa, cỏc tay chốo cú điều gỡ phải sửa sang cho
tốt và đều, nhịp bơi cú đồng đều ăn ý với nhau khụng; người chỉ huy,
người chống sào, tỏt nước, v.v... Tất cả gần như một cuộc duyệt lại từng chi tiết chuẩn bị cho cuộc đua ngày hụm sau. Đồng thời đõy cũng là lỳc
thăm dũ trước luồng lạch sao cho tiết kiệm được thời gian nhất mà lại đạt
hiệu quả cao nhất.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
393
Cú thể núi, suốt đờm 9-3 mọi người đều nỏo nức chờ đợi. Cỏc trai
bơi hồi hộp chuẩn bị cho cuộc thi đấu ngày mai. Dõn làng ra thắp hương lễ bỏi ngoài đỡnh miếu. Cỏc cụ trong ban khỏnh tiết thay nhau tỳc trực
nhang khúi thờ Thỏnh. Sõn đỡnh rộn ró khụng khớ ngày hội làng, đốn
đuốc sỏng trưng, kẻ ra người vào tấp nập.
Mồng 10 thỏng ba là ngày chớnh hội. Bảy giờ sỏng mọi chuẩn bị
cho ngày hội phải được hoàn tất. Ngày hội bắt đầu bằng cuộc tế lễ long
trọng của hội đồng bụ lóo trong làng. Mọi nghi thức tế lễ được thực hiện
từ chớnh ngự trong qua quóng sõn trước cửa đỡnh và vào đến trong
đỡnh. Cỏc bước tế của mỗi tuần tế đều bắt đầu từ chớnh ngự trong vào đỡnh. Đồ chấp kớch, chiờng trống, cờ quạt được xếp ngay ngắn suốt dọc
hai bờn từ chớnh ngự trong vào cửa đỡnh cũn ở giữa được trải chiếu.
Cỏc nghi thức tế lễ ở làng Đăm khụng cú gỡ khỏc biệt với những
nơi khỏc, duy chỉ cú đụi điểm đỏng chỳ ý. Thứ nhất, trước cửa đỡnh cú
hai thanh niờn mặc quần ỏo màu xanh, chõn quấn xà cạp đầu đội mũ cú
chúp nhọn cựng màu xanh, trờn chúp cú một tỳm lụng gà hoặc lụng
chim, tay cầm roi song đỏ đứng hai bờn cửa giữa đỡnh. Trong lỳc tế lễ
hai thanh niờn ấy đứng nghiờm trang tại đú. Thứ hai, ở hội làng Đăm cũng tế ba tuần, nhưng người ta lại đọc chỳc ở trước tuần cuối cựng của
cuộc tế. Sau đú tế thờm một tuần nữa rồi mới đốt chỳc văn. Chỳc văn
được một cụ già cầm trờn tay, sau khi vỏi lạy thỏnh rồi chõm lửa đốt. Cụ
già phải xoay trờn tay sao cho tờ chỳc phải chỏy hết mà khụng được rơi
xuống đất. Chỳc văn phải được đốt chỏy hết ngay trước bàn thờ Thỏnh.
Trong lỳc cỏc bụ lóo tiến hành tế lễ, trong đỡnh ở hai gian cạnh
cú trải sẵn chiếu để khỏch thập phương và bà con dõn làng chuẩn bị dõng lễ lờn bàn thờ Thỏnh. Người ra vào nườm nượp với đủ loại lễ vật, tuy
vậy khụng hề ảnh hưởng gỡ tới cụng việc tế lễ của cỏc cụ.
Khi cuộc tế kết thỳc, chiờng trống nổi lờn rộn ró, bỏo hiệu cuộc
rước sắp bắt đầu, đồng thời là hiệu lệnh để những người cú trỏch nhiệm
chuẩn bị. Nghe hiệu lệnh cỏc trai kiệu chuẩn bị. Nghe hiệu lệnh cỏc trai
kiệu và những người cầm cờ quạt, chấp kớch từ khắp cỏc ngả của hội lần
lượt kộo về chung quanh cửa đỡnh. Kiệu rước Thỏnh được chuyển từ
chớnh ngự ngoài vào chớnh ngự trong.
Một hồi chiờng trống nổi lờn một số trai kiệu cựng cỏc cụ rước
ngai Thỏnh từ trong đỡnh ra chớnh ngự trong. Theo hiệu lệnh của một cụ
già mặc ỏo tớm, cầm trống khẩu mọi người từ từ đặt ngai Thỏnh vào
kiệu. Cỏc cụ xem xột lại tỉ mỉ xem việc đặt ngai đó vững chưa, cú
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
394
nghiờng ngả gỡ khụng, lọng che trờn ngai đó kớn chưa rồi bắt đầu xếp
sắp đội hỡnh. Thứ tự đỏm rước như sau:
Hai thanh niờn quần ỏo xanh, quấn xà cạp mũ chúp nhọn xanh,
lỳc trước đứng ở cửa đỡnh với roi song đỏ trờn tay, nay đi đầu làm nhiệm
vụ dẹp đường. Tiếp đến cỏc nam nữ trẻ quần ỏo trắng, thắt lưng đỏ và
đầu quấn khăn đỏ cầm cờ và đồ chấp kớch. Sau đú là hai cụ già mặc quần
ỏo tế màu xanh đi giật lựi, mặt hướng vào kiệu Thỏnh. Theo sau hai cụ là
một cụ già khỏc mặc quần ỏo tớm, tay cầm trống khẩu làm hiệu lệnh cho
đỏm rước. Rồi đến kiệu Thỏnh với một cụ già mặc ỏo đỏ (là cụ từ giữ
đỡnh) đi sỏt kiệu để trụng nom, sửa sang bước đi cho cỏc đụ kiệu, chỉ bảo người cầm lọng đi sau kiệu che cho đỳng ngai Thỏnh... Hai bờn kiệu
là hai thanh niờn mặc kiểu vừ tướng (đầu đội mũ, thắt đai, đi ghệt...) cầm
gươm bảo vệ kiệu. Đi sau kiệu là cỏc cụ già trong ban tế, cỏc bụ lóo đến
tuổi thượng thọ với ỏo đỏ, ỏo vàng theo lớp tuổi cựng dõn làng đi rước
Thỏnh. Hai bờn lối kiệu đi người làng, khỏch thập phương chen chõn
đứng xem đỏm rước với khụng khớ vụ cựng phấn chấn.
Kiệu đi thẳng từ chớnh ngự trong qua chớnh ngự ngoài tới đường
làng trước mặt ao đỡnh. Từ chớnh ngự trong và chớnh ngự ngoài kiệu được nõng trờn tay của cỏc trai kiệu nhưng khi ra khỏi chớnh ngự ngoài,
theo hiệu lệnh của người cầm trống khẩu, kiệu được đặt lờn vai cỏc trai
kiệu để rước đi. Khi đi ra tới đường làng, đoàn rước rẽ sang tay phải tiến
về phớa thuỷ tạ. Đỏm rước đi nhịp nhàng, khoan thai trong tiếng nhạc,
tiếng phỏo nổ và dưới sự điều khiển chặt chẽ của cụ già mặc ỏo tớm. Cứ
như vậy, đỏm rước đi trong vũng một tiếng từ cửa đỡnh đến thuỷ tạ.
Khi tới trước cửa thủy tạ, kiệu được hạ xuống, cỏc trai kiệu cựng cỏc bụ lóo rước kiệu vào đặt tại bệ giữa nhà thuỷ tạ, cờ quạt, chấp kớch
được đặt trước mặt kiệu Thỏnh, hướng ra mặt sụng. Một hồi chiờng trống
nổi lờn, phỏo ở thuỷ tạ, hai bờn bờ sụng và trong đỡnh được đốt nổ rũn
ró cựng một lỳc, bỏo hiệu Ngài đó an vị. Cỏc cụ trở về chiếu của mỡnh ở
gian cạnh, trai kiệu và thanh niờn cầm cờ và đồ tế khớ nhanh chúng tản
ra khắp nơi tỡm chỗ thuận tiện để xem bơi.
Trong khi ngoài đỡnh tiến hành rước kiệu thỡ ở cỏc thụn những
bước kiểm tra cuối cựng cho cuộc đua thuyền được tiến hành. Từ chi tiết
nhỏ được kiểm tra và thống nhất giữa cỏc trai bơi và người chỉ huy. Từng
thụn làm lễ tiễn đoàn thuyền đua của cỏc thuyền của từng thụn được
khiờng ra sụng dạo quanh đợi hiệu lệnh tập trung về thuỷ tạ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
395
Hiệu lệnh chuẩn bị đua thuyền là khi tiếng chuụng trống và tiếng
phỏo nổ rũn ró lỳc kiệu Thỏnh đó yờn vị ở nhà thuỷ tạ. Cỏc thuyền đua
từ cỏc ngả từ từ tiến vào gần nhà thuỷ tạ trong tiếng reo hũ vang dậy của
người ba thụn cổ vũ cho thuyền đua của mỡnh. Mọi người sung sướng và
hồi hộp chờ cuộc đua bắt đầu.
Ba thụn Thượng, Trung và Hạ mỗi thụn cú hai thuyền đua. Xưa
kia cú thờm một thuyền thứ bảy gọi là thuyền Quan. Thuyền Quan khụng
đua mà chỉ làm nhiệm vụ bơi theo quan sỏt cuộc đua. Thuyền đua dài tới
15m gồm 18 trai bơi và sỏu người khỏc. Sỏu người đú là: ụng lỏi (người
lỏi thuyền), ụng dụ (là người bắt nhịp, chỉ huy), ụng phất cờ (người cầm
cờ phất sang phải sang trỏi để cổ vũ anh em bơi); ụng cầm lạng (là người
cầm sào, một đầu cú múc sắt hỡnh chữ U để chống và đẩy thuyền khi
thuyền sỏt vào thuyền khỏc một người tỏt nước (cầm gỏo hoặc thứ gỡ
tiện lợi để hắt nước ra khỏi thuyền) và một trọng tài cú nhiệm vụ chỉ ngồi
theo dừi cỏc trai bơi và những người trong thuyền khụng được phạm vi
cỏc luật lệ quy định. Trai bơi được chọn trong độ tuổi từ 20 đến 35 tuổi
cú kinh nghiệm và khoẻ mạnh.
Đầu thuyền của mỗi thụn đều gắn đầu của ba loài đỉa, ly, hạc.
Riờng con hạc luụn luụn gắn với hai thuyền của thụn Thượng vỡ thụn
Thượng cú miếu của Bạch Hạc Tam Giang. Cũn hai đầu đỉa và ly là của
hai thụn dưới. Trong hai thuyền của mỗi thụn lại chia ra một thuyền đụng và một thuyền tõy, cũn sỏu thuyền được đỏnh số thứ tự cho dễ nhớ. Việc
đúng thuyền và tập luyện cho cuộc đua là cả một quỏ trỡnh lõu dài và tốn
kộm. Tuy vậy thụn nào cũng cố gắng hết sức để dành được chiến thắng.
ở đõy ngoài sự ganh đua về giải, người ta cũn thi đua cả về danh tiếng
cao cả khi được giải nhất. Nú gúp phần cổ vũ cho cả thụn trong năm mới.
Cuộc đua thuyền được tiến hành bơi sỏu vũng. Sỏng ngày 10- 3
bơi hai vũng, chiều một vũng. Ngày 11- 3 cũng bơi ba vũng như vậy sau
đú kết thỳc hội.
Sau hồi chiờng trống bỏo hiệu ngai Thỏnh đó yờn vị, cỏc thuyền
đua tập trung trước thuỷ tạ. Dưới sụng cỏch Thuỷ tạ vài một cú một cột
cờ treo lỏ cờ đại thật to. Đồng thời cũng cỏch đú vài một, một sợi dõy
được căng từ bờ sụng bờn này sang bờ sụng bờn kia, trờn dõy được treo
cờ đủ màu sắc, đú cũng là mốc để cho cỏc thuyền xếp hàng bơi. Hai cụ
già mặc ỏo quần ngày hội đứng ở bờn bờ phải của Thuỷ tạ làm nhiệm vụ
hiệu lệnh. Sau khi cỏc thuyền đó tập trung vào vị trớ, cờ lệnh được phất,
cuộc bơi dạo bắt đầu. Đõy chỉ là bơi biểu diễn do đú cỏc thuyền khụng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
396
ganh đua và vội vó mà cố bơi cho thật đẹp, thật nhẹ nhàng, ngoạn mục để
lụi cuốn người xem. Tuy vậy, khụng khớ trờn bờ cũng rất sụi động, tiếng
chiờng trống, tiếng phỏo nổ mừng nổi lờn khắp nơi. Bơi dạo một vũng
theo đường đua vừa là bơi biểu diễn, vừa là bơi thử để cỏc tay chốo quen
tay mà bắt đầu cuộc đấu. Sau khoảng 15- 20 phỳt cỏc thuyền đều trở về
đụng đủ để bắt đầu cuộc bơi chớnh thức.
Cỏc thuyền đua hướng mũi vào nhà thuỷ tạ. Ba hồi chiờng trống
bỏo hiệu cỏc thuyền chuẩn bị vào lễ thỏnh để thi bơi. Sau đú theo hiệu
trống cỏc thuyền lần lượt cử người bước lờn thuỷ tạ làm lễ thỏnh. Một
tiếng trống: Thượng đụng, Thượng tõy vào; hai tiếng trống; Hạ đụng, Hạ Tõy vào. Từng cặp một sau khi làm lễ xong, chủ tế gọi: Thượng đụng,
Thượng tõy, cỏc trai bơi trờn thuyền nhất loạt dạ ran. Cũng như vậy với
thuyền của thụn Trung và thụn Hạ.
Sau lễ bỏi yết Thỏnh, cỏc thuyền được ba trọng tài xuống kiểm tra
rất kỹ lưỡng từ số người, dụng cụ trờn thuyền như dầm lỏi, đồ mỳc nước,
nhất là sào chống. Bởi vỡ sào chống là phải thống nhất, do ban tổ chức
phỏt, khụng được đổi sào vỡ chỉ cần dài hơn một chỳt là thuyền đú rất cú
lợi trong việc đẩy và chống. Cũng lỳc này cỏc thụn được phộp cử người lờn thuyền uý lạo cỏc trai bơi bằng thuốc lỏ và cỏc thứ khỏc để cổ vũ tinh
thần cho cỏc đội. Khi mọi việc đó hoàn tất tiếng chiờng trống, thanh la,
tự và dồn dập vang lờn bỏo hiệu cuộc thi sắp đến giờ xuất phỏt. Bằng
hiệu cờ và loa cỏc trọng tài đưa cỏc thuyền vào vị trớ cho cú trật tự và
bằng nhau ở đớch xuất phỏt. Thuyền của ba thụn được xếp xen kẽ nhau
sẵn sàng chờ lệnh. Một tràng phỏo dài được đốt bỏo hiệu phỳt quyết định
sắp đến, tất cả cỏc chỉ huy và trai bơi trờn thuyền đều hướng sang phớa hai cụ già cầm cờ lệnh, mọi người cỳi rạp xuống và khi lỏ cờ được chộm
mạnh xuống là lỳc cỏc thuyền bật lờn lao đi. Tiếng chiờng trống đổ hồi,
người trờn bờ cũng nhoài người ra hụ hào để cổ vũ và nhắc nhở cỏc
thuyền đua.
Điều thỳ vị ở đõy là cỏc thuyền đua sắp hàng bằng nhau trờn một
quóng sụng khụng rộng, thuyền lại to và dài chứ khụng xuất phỏt so le
như ở hội đua thuyền ở một vài nơi khỏc, chẳng hạn như ở Đồng Xõm...
Do vậy khi xuất phỏt, do sự bật lờn khỏ mạnh của cỏc tay bơi, vỡ vội
vàng muốn bứt lờn khỏi thuyền khỏc để lấy khụng gian và đụi khi khụng
trỏnh khỏi lỳng tỳng mà cỏc thuyền đó tỳm tụm vào nhau. Thậm chớ lỳc
đầu chưa chỉnh được tay bơi nờn khụng tạt nước đều tay, người lỏi chưa
định hướng vỡ tầm nhỡn chật nờn cỏc thuyền cú thể bị xiờn ngang, quay
cuồng ở một điểm. Vỡ thế qui định của cuộc đua cho phộp cỏc thuyền
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
397
chen nhau để tỡm lối thoỏt nhưng khụng được va chạm. Vai trũ của
người chống (lạng) lỳc này là vụ cựng quan trọng. Anh ta ngồi ở đầu mũi
thuyền cầm lạng ngang ra mắt chăm chăm nhỡn hai bờn để đẩy và chốn
bất cứ thuyền nào ỏp sỏt vào thuyền anh ta. Thuyền đối diện cũng trong
tư thế như vậy, do đú đó tạo ra một cuộc tranh giành quyết liệt để bứt
lờn. Song người chống chỉ được phộp chen đẩy vào mạn thuyền hoặc
mũi thuyền của đối phương chứ khụng được phộp làm bất cứ điều gỡ xấu
ảnh hưởng đến thuyền bạn. Anh ta phải chốo chống sao cho thuyền của
anh ta cú được khụng gian mà bứt lờn. Do đú, phỳt hồi hộp nhất chớnh là
lỳc này, vỡ chen chỳc nhau nờn cú thuyền vội vàng nghiờng ngả làm lật
ỳp, song cỏc trai bơi vẫn khụng bỏ cuộc mà nhảy lờn dốc nước, chốo
thuyền tiếp tục cuộc đua. Tiếng hụ hào của chỉ huy, tiếng trống, tiếng
phỏch cựng tiếng cổ vũ của hàng ngàn người đứng kớn hai bờ đó làm
cuộc đua mỗi lỳc một nỏo nức. Người cỏc thụn rầm rập chạy hai bờn bờ
sụng cổ vũ cho thuyền thụn mỡnh.
Việc đẩy, chen và chống cỏc thuyền bờn cạnh để bứt lờn theo dõn
gian ở đõy gọi là bỳng. Cũn khi đến điểm mốc cuối ở đoạn sụng trước
cửa miếu Thỏnh, cỏc thuyền bơi cũng phải vũng qua một cột cờ (vũng từ
trỏi sang phải), cả người lỏi và người lạng (chống sào) phải lướt sao cho
khộo đường “cua” tiết kiệm đường đua và thậm chớ vượt lờn thuyền
phớa trước mỡnh. Cỏi đú người ra gọi là dúc và vút gúc. Dúc và vút gúc
càng điờu luyện thuyền đi càng nhẹ và nhanh, cũn khụng khộo sẽ va vào
cột mốc hoặc đường cua quỏ rộng mà mất thời gian. Ngay cả khi cỏc
thuyền đó rón ra nếu người lỏi và lạng khụng khộo lộo, cỏc trai bơi
khụng đều thuyền vẫn bơi chậm và cú trường hợp nước tràn vào thuyền
làm đắm hoặc người bơi vội tạt nước lộn nhào xuống sụng. Khi đú cả
thuyền bỏm sau nều khụng nhanh xử lý trỏnh thuyền trước mà vượt lờn
thỡ cũng đắm nốt, như vậy sẽ cản trở tốc độ rất nhiều. Người ta tớnh
điểm từng thuyền về đớch trước sau mà xếp hạng cộng điểm cho cả đội.
Sau một vũng đua cỏc thuyền bơi được nghỉ ngơi khoảng mười lăm phỳt
để hồi sức và rỳt kinh nghiệm. Người cỏc thụn xụ đến thuyền của mỡnh
mà nhận xột, nhắc nhở, gúp ý cho cỏc trai bơi. Để rồi lại hỏo hức chờ
vũng đua mới.
Sau khi giải lao trống giục gọi cỏc thuyền đua vào vị trớ. Lần này
người ta lại đổi vị trớ đua của mỗi thuyền. Cứ như vậy trong sỏu vũng
đua của hai ngày mỗi thuyền được đứng ở một vị trớ khỏc nhau từ bờ bờn này sang bờ bờn kia một cỏch cụng bằng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
398
Trong hai ngày đua thuyền, những lỳc ngừng cuộc đua dưới sụng
trờn mặt đất diễn ra những trũ thả chim, thi cờ bỏi và nhất là chọi gà. Đõy là một vựng cú truyền thống nuụi gà chọi rất nổi tiếng, cú những cặp
gà được đưa đi đấu ở nhiều nơi. Đõy cũng là một nơi cú truyền thống vật
với cỏc đụ vật lừng danh như Hương Thỡn, Bếp Quý, Ba Oe... ban đờm
cú đốt phỏo bụng, hỏt chốo.
Ngày 11- 3 buổi sỏng bơi tiếp hai vũng nữa, và buổi chiều kết
thỳc trao giải. Thuyền được giải cũn cú vinh dự chở ngai của Thỏnh về
miếu Thượng. Bởi vỡ theo phong tục từ xưa Thỏnh đi bộ về thuỷ, do vậy
hai thuyền giật giải được đưa Thỏnh về cung của Ngài vào buổi chiều ngày 11- 3. Sau khi đua thuyền xong, dõn làng tế lễ tạ ơn thỏnh rồi rước
Thỏnh xuống thuyền về miếu của Ngài. Ngày hội kết thỳc trong khụng
khớ vui mừng phấn khởi của toàn thể dõn làng. Tối đú lại đốt phỏo hoa
mừng ngày hội, tiếng hỏt chốo lại vang lờn tại sõn đỡnh. Lời ca, tiếng
đàn, tiếng phỏo quyện vào hương khúi trong ỏnh sỏng của muụn vàn
ngọn đốn nến tạo nờn một khụng khớ khú quờn đối với mỗi người dự
hội, để năm sau du khỏch lại nhớ mà tỡm đến.
Đua thuyền là một tục lệ phổ biến ở Việt Nam, nhưng mỗi nơi tuỳ theo hoàn cảnh địa lý và phong tục mà lại cú những khớa cạnh riờng của
nú. Cỏi quyết liệt của đua thuyền làng Đăm khụng phải ở độ dài của
đường đua và đua liờn tục nhiều vũng trong một lần như ở hội bơi chải
Đồng Xõm. Khụng phải ở sự khú khăn , khốc liệt như bơi ngang dũng
sụng Hồng nước chảy mạnh như ở Sa Lóng (Liờn Hà) gần đú hoặc sụng
nước chảy xiết, thuyền phải bơi ngang trong khi đó bị đục thủng sẵn từ
trước, nếu khụng bơi nhanh sẽ đắm như ở Gia Lương Hà Bắc. Hay chỉ là bơi thuyền nghi lễ nhằm ụn lại cuộc luyện quõn của nữ tướng thời hai Bà
ở Hạ Cỏt Từ Liờm, v.v... Cỏi quyết liệt ở đõy là bước xuất phỏt cuộc đua
phải bỳng thuyền (đẩy, chen thuyền bạn mà lấy chỗ cho thuyền mỡnh);
dúc thuyền (lướt, vuốt gúc để thuyền bứt lờn mà khụng va chạm, gõy cản
trở lật thuyền, chậm thời gian); là lạng thuyền (chống, đẩy thuyền bạn
cho khụng chạm vào ngăn cản thuyền mỡnh), là vuốt gúc ở đoạn cuối cột
mốc sao cho thuyền lướt nhanh khụng bị lỳng tỳng tại đú, v.v... Cỏi
quyết liệt ấy biểu hiện ở sự mau lẹ, quyết đoỏn và tớnh toỏn điều khiển thuyền để đạt được tốc độ tối đa mà chỉ mất một sức lực tối thiểu. Điều
đú đũi hỏi cả một kinh nghiệm dày dạn và sự từng trải lớn của một cư
dõn sụng nước chuyờn nghiệp.
Cũng dễ hiểu khi nhỡn địa dư của Tõy Tựu xưa vốn nằm trong
một khu vực chằng chịt sụng ngũi. Bản thõn đầm Đăm là một nhỏnh từ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
399
sụng Hồng qua vựng Gối sang sụng Nhuệ. Từ Gối tới Hỏt Mụn, nơi cú
đoạn sụng Hỏt nối với sụng Hồng là một đoạn khụng xa. Cả một khu vực từ Hỏt Mụn Phựng, Gối, Diễn ngày nay vốn xưa cú nhiều sụng ngũi
chằng chộo nhau. Bằng chứng là những đoạn sụng cụt như đầm Đăm,
những con đờ nay khụng cũn giỏ trị ngăn nước sụng nữa và cỏc con sụng
tồn tại cho đến bõy giờ. Sống trong một mụi trường địa lý như vậy, nghề
sụng nước ắt phải được đề cao và phỏt triển.
Xột về mặt hỡnh dỏng của thuyền đua, với những con quy con đỉa
ta cũng thấy chỳng gắn với nước. Cũn hai con hạc ở đõy ẩn chứa những
điều gỡ mà ta chưa biết được? Đú là điều đỏng lưu ý. Hai con hạc ấy với đức thỏnh Bạch Hạc Tam Giang và một truyền thuyết huyền ảo kốm theo
tờn gọi của ba thụn cựng với từ miền (miền Thượng, miền Trung, miền
Hạ) cú gỡ liờn quan đến nhau khụng? Lại nữa, đường đi của đức Bạch
Hạc Tam Giang đi bộ về thuỷ. Cú gỡ chăng giữa Trời- Đất- Nước, giữa
Nỳi- Sụng hay đú là sự xoay vần là cừi mờnh mụng của vũ trụ trong quan
niệm của người xưa?
Và như đó núi ở trờn, lũng đỡnh ở giữa thấp hẳn xuống so với hai
bờn theo kiểu lũng thuyền, nếu đú là nguyờn trạng của thời xa xưa thỡ cũng cú thể liờn tưởng tới cỏi đỡnh hỡnh thuyền mà cỏc nhà khảo cổ học
đó nhắc tới.
Những dự cảm ban đầu, những nghi vấn chưa cú đầy đủ chứng
cớ để thuyết phục, song dự sao chỳng tụi cũng cố gắng trỡnh bày ra đõy
theo một trật tự nhất định để độc giả cựng xem xột, vả lại cũng là để
người viết suy ngẫm và tiếp tục hoàn thiện trong tương lai./.
L.H.L
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
400
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
402
Lễ hội Đào Xá
Bùi Xuân Đính
Làng Đào Xá, nay thuộc xã Đào Xá, huyện Tam Thanh, tỉnh Phú
Thọ. Đây là một làng rất cổ, nằm ven con đầm, vốn là dòng sông cổ, nối
liền sông Hồng với sông Đà vào thuở xa xưa. Làng nằm trong một vùng
có nhiều địa điểm khảo cổ học thời đại đá mới và đồ đồng như Gò Bông,
Xuân Lộc. Ngay tại Đào Xá cũng đã phát hiện được nhiều di vật của các
thời đại khảo cổ trên, trong đó, đáng lưu ý có chiếc trống đồng loại Hêgơ
I muộn lần đầu tiên được phát hiện ở Vĩnh Phú. Cư dân Đào Xá sống chủ yếu bằng một vụ lúa chiêm, ngoài ra còn có nghề trồng sơn và khai thác
các sản phẩm tự nhiên.
Đào Xá thờ Hùng Hải Công, một bộ tướng của Hùng Vương thứ 18
và ba người con của ông làm thành hoàng. Theo truyền thuyết địa
phương và bản thần phả (chép năm Hồng Phúc thứ hai 1558), hiện còn
lưu ở đền làng thờ thời Hùng Vương vùng Đào Xá, Hưng Hóa, Thọ
Xuân, Dị Nậu (vùng chiêm trũng của huyện Tam Thanh) bị Thủy Tinh
dâng nước làm ngập lụt. Hùng Vương phái Hùng Hải Công cùng vợ là bà Trang phu nhân đi thuyền rồng từ Đào Xá lên Thọ Xuyên. Giữa cảnh
sông nước hữu tình, bà Trang phu nhân mơ sinh ra quí tử. ít lâu sau, bà
thụ thai và sinh ra ba người con trai đặt tên là Đạt Linh Long, Mãn Linh
Long và Uyên Linh Long. Khi ba người con khôn lớn, Hùng Vương phái
Hùng Hải Công về nhậm trị ở Hưng Hóa, phái người con út là Uyên Linh
Long nhậm trị ở Thọ Xuyên, Dị Nậu, còn hai người kia ở lại giữ Đào Xá.
Dân Đào Xá thường gọi Hùng Hải Công là Đức thánh phụ, bà Trang phu nhân là Đức thánh mẫu còn ba người con là tam vị đại vương và cùng
thờ họ ở đình và ở đền. Ngoài ra trong đền còn thờ bà Quế Hoa công
chúa là người mua vui cho bà Trang phu nhân trong những ngày bà mang
thai.
Với các vị thành hoàng được thờ trên đây, lễ hội Đào Xá trong một
năm được tiến hành theo lịch sau đây:
- Tháng giêng: ngày 3 múa trâu diễn tả lại việc Quế Hoa mua vui
cho bà Trang phu nhân, lễ thức được tổ chức tại đền. Từ 27 đến 29: Cầu tháng giêng. Rước thành hoàng từ đình về đền để tế lễ, mở hội múa voi,
thổi cơm thi ở sân đình.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
403
- Tháng hai: Chọn ngày tốt tổ chức tế xuân. Ngày lo lễ lập đền thờ
bà Quế Hoa, cũng là ngày làm thượng điền kết thúc một vụ cấy cầy.
- Tháng ba: Ngày 12 Đức thánh phụ hóa nhật cũng là lễ nhà Lý
phong sắc cho thành hoàng làng, lễ Chạ Dậu (lễ kết nghĩa với làng Dậu
Dương).
- Tháng tư: Chọn ngày tốt làm lễ cầu yên ở đình.
- Tháng năm: Ngày 5 Đức thánh phụ sinh nhật, nhân kết thúc vụ
gặt chiêm làm lễ treo hái.
- Tháng bảy: Từ 9 đến 15, lễ hiền thần phù vua nhà Lý đánh giặc
Tống, tổ chức bơi trải giữa các giáp, diễn lại sự tích thành hoàng giúp Lý Thường Kiệt đánh giặc.
- Tháng chín: Ngày 9, tổ chức lễ hạ điền mở đầu vụ cấy chiêm.
- Tháng chạp: Ngày 12, lễ mừng vua Trần phong sắc cho thành
hoàng, cầu cúng ở đền. Ngày 15, lễ Đức thánh mẫu hóa cầu cúng ở đình.
Ngày 30, lễ bàn giao giáp đăng cai.
Sau đây chúng tôi trình bày một số lễ chính thức:
1. Lễ mồng 2 tháng giêng: Múa trâu: Theo truyền thuyết, trong
những ngày bà Trang phu nhân mang thai, Quế Hoa bày các trò chơi để mua vui cho bà. Lễ thức chính được tổ chức ngày 2 Tết. Đến giờ động
thổ, chủ đền hay thủ từ xin âm dương, nếu được thì ra cửa đền đốt pháo,
giáp đăng cai nổi ba hồi trống rồi khắp thôn xóm hò reo. Sau khi khấn
thành hoàng bằng 12 cỗ tế, giáp đăng cai đến nhà người được làm bánh
trâu rước lồng bánh về đền. Mỗi lồng bánh là một con trâu làm bằng bột
gạo nếp dìn (nếp đen) trị giá 6 đấu gạo, một con trâu phủ giấy bạc. Trên
mình mỗi con có khắc chữ xuân ngưu, trên bàn thờ có đặt hai bát nước, một bát đựng quả trứng, bát kia đựng chiếc gầu dai bằng giấy cốt bằng
tre. Hai người (một nam đại diện giáp đăng và bà đồng) nâng lồng bánh
trâu múa đối diện nhau. Sau đó chủ tế vảy nước ở hai bát vào hai người
múa. Lễ thức này thực ra gắn với hình thức sinh hoạt đầu mùa.
2. Cầu tháng giêng: Sáng 27, giáp đăng cai biện trầu cau, chủ tế
kính lễ động thổ đình, cắt cử người soạn đồ kính tế, cùng các đồ chấp
kích quạt, tàn, lọng. Người được phân công đọc văn tế năm đó vào đình
đọc văn. Quan viên trong làng và trai đinh các giáp rước văn, đem kiệu vào đền. Chủ tế (cụ chủ) vào cáo yết ở đền rồi đem bài vị ra làm lễ mộc
dục ở một bể trong sân đền. Sau đó rước bài vị, bát hương, hòm sắc và
một buồng cau về đình. Giáp đăng cai mang hương án, đồ kính tế về
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
404
đình. Bốn giáp biện lễ trầu rượu. Quan viên làm lễ cáo tế, các giáp lại
dâng lễ vật để làm lễ chính tế (lễ gồm: ba nải chuối, ba bát lênh lang, một thứ bánh trôi không nhân, ba con cá chép tượng trưng cho tam vị đại
vương theo giấc mộng của vợ Hùng Hải Công).
Sáng 28, tiến cỗ thờ (bốn cỗ của giáp đăng cai, mỗi cỗ gồm bốn
đồng chè kho, bốn đồng bánh mật, ngoài ra có chuối, phật thủ, chanh
yên, cam, quít, cau, trầu, một con gà trống luộc...) cỗ này để ở đình đến
sáng 29. Bốn giáp chọn mổ lợn đực đen làm cỗ tế như ngày mồng ba
tháng giêng. Trước khi đi vào đại tế, phải rước kiệu, bát hương, buồng
cau từ đình ra điếm trung quân cách đó chừng 200 mét, để kiệu hướng về phía đông một lúc (cầu vọng, tiễn Đức thánh phụ về nhậm trị xứ Hải
Dương). Đám rước rất cầu kỳ, trọng thể. Hành trình của đám rước chỉ có
200 mét nhưng phải đi ít nhất trong hai tiếng. Trước khi quay trở về đình
thì đốt pháo, gióng ba hồi chiêng trống. Sau đó, đám rước tập kết ở sân
đình, quan viên hàng xã vào tế. Từ lúc đám rước khởi hành, đến khi tế
xong mất khoảng sáu tiếng đồng hồ. Buổi tối hôm đó ở đình có tổ chức
thi hát. Trước khi hát, phải làm lễ mời ông tổ mười hai đến Đào Xá lập
nghiệp sớm nhất về nghe hát.
Ngày 29, các nghi thức tiến hành gần như ngày 28, chỉ có khác
không tiến cỗ thờ, không chào các ông tổ. Đến ngày 30, các giáp biện
trầu cau, chủ tế làm lễ xin hoàn cung.
Trong các ngày cầu này, có một số tục đáng lưu ý:
a. Múa voi: Theo truyền thuyết xưa kia mỗi lần Hùng Hải Công đi
kinh lý từ Đào Xá lên Thọ Xuyên, dưới nước có thuyền rồng, trên bộ có
voi đi hộ giá. Vì vậy, dân làng làm hai "ông voi" để "phục vụ" Hùng Hải Công. Voi được tạo ra với cốt tre đan theo kiểu đặc biệt mà hiện nay chỉ
có một số cụ còn nhớ. Da voi được bọc bằng vải màu của xã (Lâm Thao)
nhuộm đen. Ngoài ra còn có ngà, mắt, trên lưng có đai giả. Kích thước
của voi to như voi thật. Hai người chui vào trong điều khiển cho voi hoạt
động dưới sự chỉ huy của quản tượng. Trong các đám rước, voi làm
nhiệm vụ dẹp đám để bảo vệ trật tự và trang nghiêm. Khi tế ở đình, hai
voi nằm phủ phục canh giữ ở cổng đình.
b. Thổi cơm thi: Tổ chức sáng 29 tại sân đình, thi tài giữa trai đinh bốn giáp với nhau, mỗi giáp là một bếp đặt ở góc đình. Mỗi bếp có bốn
người (một người cướp gà, một người kéo lửa, một người gánh nước,
một người xay giã gạo - mỗi người thắt một chiếc khăn đỏ ngang lưng).
Dụng cụ được phép của mỗi bếp gồm: một nồi đất nấu cơm, một nồi
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
405
đồng để luộc gà, một bếp kiềng, một cối xay lúa, một cốc con để giã
bằng gỗ nhãn, chày tay, một bó củi (có năm chỉ được dùng bã mía, hoặc tre tươi già), dao thớt. Thứ tự cuộc thi như sau: Có ba hồi trống phát ra,
những người cướp gà phải nhanh chân lên thềm đình cướp một con gà
sống mang về, người đi gánh nước (ở giếng Vuồng, cách đình 300m),
người kéo lửa, và người làm gạo, tất cả vào việc. Khó khăn nhất là việc
của người kéo lửa, không được đánh diêm mà phải lấy hai, ba sợi dây
giang để kéo lửa, kéo trên mặt cây nứa khô, hoặc nhùn tre hoặc trên cây
gỗ bồ đề, trảu, trám trắng, loại gỗ dễ bắt lửa. Việc làm gạo cũng khó vì
cối xay để ở góc sân không giăng cối. Cuộc thi kéo dài trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ trong không khí nhộn nhịp vì tiếng hò reo cổ vũ của
dân làng. Khi có hồi trống ở đình, các bếp phải đem cơm và gà lên để
ban giám khảo duyệt (Cơm nấu chín thì đập vỡ nồi đất để cơm vào đĩa
còn gà đặt lên một đĩa khác rồi để cả hai thứ lên một chiếc khay gỗ. Bếp
nào có cơm trắng đều, không khê nát, gà thịt trắng, sạch lông là được
giải.
3. Cầu tháng bảy: Sáng mồng 9 giáp đăng cai biện lễ trầu cau giao
cho thủ từ và chủ tế làm lễ cáo yết ở đền, rước bài vị ra bệ lau rửa rồi rước vào vị trí thờ chính. Giáp đăng cai sửa soạn đồ kính tế, cỗ bàn như
ngày mồng ba tháng giêng. Sau đó quan viên vào tế, khi tế, chỉ dùng kèn,
không khua chiêng trống, buổi tối cả làng không được khua động ầm ĩ.
Tế xong, làm lễ hạ chải. Để tổ chức bơi chải ở đầm nước trước cửa đền,
trai tân các giáp phải đi hạ chải. Có tục bơi chải vì theo truyền thuyết và
ghi chép trong thần phả, vào thời Lý, trên đường đi kinh lý các nơi xem
xét địa thế để bố trí phòng tuyến và phương án tác chiến với giặc Tống, Lý Thường Kiệt đã ngược sông Hồng theo dòng sông Cổ nối sông Hồng
với sông Đà (nay được cải tạo thành vùng chiêm trũng) vào cầu khẩn tại
đền Đào Xá, thần linh phù trợ giúp nước đuổi giặc Tống. Lý Thường
Kiệt vừa khấn xong thì thần hiện lên đọc bốn câu thơ mà nội dung có
nhiều nét giống bài "Nam quốc sơn hà Nam đế cư":
Nam thiên dĩ định tế Nam quân
Đại đức giai do đức nhật tân
Thất quân sơn hà đô nhất thống
Tống binh bất miễn tản như vân
Lược dịch:
Trời Nam đã định vua Nam ta
Đức lớn ngày thêm đức mới ra
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
406
Bảy quận non sông thu một mối
Binh Tống tan tành tựa mây sa
Vừa dứt lời thì từ phía ngoài đầm xa hiện lên hai chiếc thuyền rồng,
mỗi thuyền có hàng trăm người hò reo, bơi thẳng vào cửa đền. Lý
Thường Kiệt tưởng quân Tống đến, liền cho thuyền ra nghinh chiến thì
trên thuyền kia có tiếng gọi "thuyền quân thần linh đến cùng ông đánh
giặc Tống, xin đừng ngại". Đoạn quân tướng tiến vào đền, cùng với quân
tướng Lý Thường Kiệt làm lễ cầu với thần linh xuất quân đánh giặc. Giặc
tan, Lý Thường Kiệt trở về, tâu vua xin phong Hùng Hải Công và Tam vị
đại vương làm "thượng đẳng phúc thần". Dân làng Đào Xá mở hội ăn mừng, tổ chức bơi chải để diễn lại cảnh Lý Thường Kiệt cùng quân
tướng đón thuyền của thần linh. Hai giáp giữ một chải (giáp Đông và
giáp Bắc: Chải đực, giáp Tây và giáp Nam: Chải cái). Mỗi chải có 27
người (24 người ở 24 khoang, 1 người gõ mõ 1 người giữ đầu chải, 1
người bẻ lái, tất cả đều đội khăn đỏ, mặc áo đỏ, đóng khố). Khi hạ chải,
bơi ra từ cửa đền, êm ả, nhẹ nhàng, không động hiệu. Đến dãy đồi Gọc
thì quay về, lúc này các chải mới nổi trống, mõ và bơi nhanh. Chải nào
về tới cửa đền trước sẽ thắng cuộc. Cứ như thế ba lần các ngày 10, 11, 12, 13, 14, 15 lễ thức cầu cúng và bơi chải diễn ra như ngày 9. Chiều 15
lập đàn làm lễ tế hạ ở đền.
Qua diễn trình hội trên, chúng tôi có mấy nhận xét sau:
1. Hội lễ ở Đào Xá, lấy việc thờ thành hoàng là vị thần có công trị
thủy làm trung tâm rất phong phú về lịch thờ cúng và chủ đề: Hội lễ nông
nghiệp (múa trâu, bơi chải) thi tài (thổi cơm thi) luyện quân đánh giặc
(bơi chải) v.v... Song yếu tố nông nghiệp và sông nước trong hội làng nổi lên rất rõ. Điều này phản ánh đặc điểm sinh hoạt văn hóa và hội lễ của
cư dân vùng chiêm trũng.
2. Tính chất "nông nhàn" của hội lễ ở vùng chiêm trũng nổi lên rất
rõ, các lễ chính thức đều tập trung vào tháng giêng (lúa đã cấy xong) và
tháng 7 (nước ngập).
3. Các lễ thức trong hội lành mạnh, có tác dụng giáo dục sâu sắc,
đáp ứng được yêu cầu thưởng thức văn hóa của dân làng nên được bảo
lưu dai dẳng (cho tới ngày nay, hàng năm, vào các ngày cầu việc tế vẫn duy trì, từ năm 1983 tới nay, múa voi và rước được phục hồi và đã đi
phục vụ hội Đền Hùng, dân làng lại đang mong mỏi được phục hồi bơi
chải, đình làng Đào Xá đã được xếp hạng). Điều đó càng khẳng định giá
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
407
trị tích cực của hội làng và là tư liệu tham khảo cho cơ quan văn hóa
trong việc phục hồi một số yếu tố tích cực của hội lễ./.
B.X.Đ
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
408
Hội Đình Bảng *
Lờ Văn Kỳ
"Hỡi cụ thắt lưng bao xanh
Cú về Đỡnh Bảng với anh thỡ về
Đỡnh Bảng cú lịch cú lề
Cú ao tắm mỏt, cú nghề nhuộm thõm"
Đấy là cõu ca dao cổ ca ngợi cảnh sống trự phỳ của một miền quờ quanh năm nhộn nhịp hội hố mà chỳng ta đang núi tới.
Đỡnh Bảng tờn nụm là làng Bỏng (xưa là rừng bỏng), cựng nhiều tờn gọi khỏc như Cổ Lóm (thời nhà Đinh); Thiờn Đức (thời nhà Lý); Đụng Ngàn (thời nhà Trần) v.v... Đỡnh Bảng nổi tiếng cũn do đõy là quờ hương nhà Lý - một dũng họ với 8 đời vua cú cụng lớn trong sự nghiệp phục hưng nước Đại Việt.
Nhờ thiờn thời địa lợi, nhờ chịu khú làm ăn, từ lõu Đỡnh Bảng đó trở thành một trong những làng trự phỳ.
Đỡnh Bảng hiện là một xó lớn gồm 13 thụn thuộc huyện Tiờn Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài nụng nghiệp là nguồn sống chớnh, dõn làng cũn biết nhiều nghề thủ cụng nổi tiếng như sơn then, sơn mài, dệt mành, dệt vải, v.v...
Xưa, làng được cả vựng biết tới vỡ mỗi năm cú tới tỏm mươi lễ hội lớn nhỏ và việc ăn uống thỡ đều mõm cao cỗ đầy, chu đỏo, sang trọng.
Hội Đỡnh Bảng thường mở vào mựa xuõn, trong đú hai hội lớn chỳng ta sẽ khảo sỏt là hội đền và hội đỡnh.
I. Hội đền Lý Bỏt Đế:
Đền Lý Bỏt Đế cũn gọi là đền Đụ (tức đền Cổ Phỏp) được xõy dựng vào thế kỷ XI trờn đất làng Đỡnh Bảng (Tiờn Sơn, Bắc Ninh) cỏch thị xó Bắc Ninh khoảng 15 km theo quốc lộ 1A. Đền Đụ nằm
giữa địa phận Hà Nội và Bắc Ninh.
Theo cỏc cụ già kể lại, đền Đụ do Lý Thỏi Tụng xõy dựng năm 1030 để thờ Lý Thỏi Tổ. Vào thế kỷ XV, giặc Minh khi sang xõm lược nước ta đó phỏ hủy làng Đỡnh Bảng và đền Đụ. Năm 1602 vua Lờ Kớnh Tụng đó cho quan điện chớnh Vũ Kỳ Sĩ cựng dõn làng xõy dựng lại đền
* Bài đó in trong Lễ hội cổ truyền (Viện Văn húa dõn gian - Nxb Khoa học xó hội, Hà Nội,
1992), ở đõy cú biờn tập lại và bổ sung một số tư liệu.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
409
Đụ. Năm 1952, đền Đụ bị chiến tranh phỏ hủy. Thời gian qua, nhõn dõn Đỡnh Bảng đó tiến hành tu dựng lại cỏc cụng trỡnh xứng đỏng là nơi tụn thờ của nhõn dõn cả nước với cụng đức của cỏc vị vua nhà Lý.
Đền Đụ được bao bọc bằng một bức tường xõy bằng gạch rộng bản. Tường mặt rộng 0,9m, cao 2,3m. Kiến trỳc đền Đụ cõn xứng, hài hũa, được đắp vẽ, chạm khắc tinh xảo, tài nghệ gồm 20 hạng mục cụng trỡnh. ở chớnh giữa nhà là điện thờ - nơi đặt bài vị và tượng tỏm vị vua nhà Lý. Qui mụ của đền Đụ bề thế, cột, khung nhà và cỏc cỏnh cửa đều bằng gỗ lim, bằng vàng tõm cổ thụ. Phớa trước đền cú hồ bỏn nguyệt với diện tớch 9.500m2.
Đến thăm Đền Đụ, chỳng ta sẽ thấy cỏc cửa rồng được chạm khắc hỡnh mõy bay, hỡnh rồng chầu mặt nguyệt. Trờn cửa rồng, cú đao rồng cong vỳt. Qua cửa rồng là đến nhà vuụng tỏm mỏi, chồng diờm, đõy là một kiến trỳc mang đậm nột thời Lờ, sau nhà vuụng tỏm mỏi chồng diờm là đến nhà tiền tế gồm bảy gian, là nơi diễn ra cỏc hoạt động tõm linh và lễ hội. Trong đền Đụ cú hai bức đại tự "Bỏt diệp trựng quang" (tức tỏm vua đều sỏng) và "Cổ Phỏp triệu cơ" (tức là đất Cổ Phỏp là nền múng để dựng lờn cơ nghiệp nhà Lý). Dưới nữa là hương ỏn thờ tỏm vị vua Lý theo thứ tự thời gian kế tiếp trị vỡ:
- Lý Thỏi Tổ (Lý Cụng Uẩn) (1010 - 1028)
- Lý Thỏi Tụng - Lý Phật Mó (1028 - 1054)
- Lý Thỏnh Tụng - Lý Nhật Tụng (1054 - l072)
- Lý Nhõn Tụng - Lý Càn Đức (1072 - 1128)
- Lý Thần Tụng - Lý Đương Hoàn (1128 - 1138)
- Lý Anh Tụng - Lý Thiờn Tộ (1138 - 1175)
- Lý Cao Tụng - Lý Long Cỏn (1175 - 1210)
- Lý Huệ Tụng - Thỏi Tử Sõm (1210 - 1224)
Ngoài ra cũn thờ thờm thõn mẫu Lý Cụng Uẩn và tỏm vị hoàng hậu. Hai bờn hương ỏn là là tượng Đỏ Rói cởi trần đúng khố. Theo tương truyền dõn gian, hai ụng Đỏ Rói đó cú cụng lớn cựng vua Lờ đi dẹp giặc. Sau khi hai ụng chết, được tạc tượng thờ để tỏ lũng trung thành với vua. Dõn gian cú cõu:
Tướng quõn Đỏ Rói đứng kia
Ngàn năm chung thủy canh bia giữa đền.
Phớa sau hương ỏn là tượng Lờ Phụng Hiểu và Tụ Hiến Thành. Qua nhà chuyển bồng, thỡ vào hậu đụ gồm bảy gian, cũng là nơi đặt bài vị tỏm vị vua nhà Lý.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
410
Tất cả những cụng trỡnh này cựng với nhà thủy tọa, văn chỉ, vừ chỉ, nhà đinh đương, binh cựu, nhà ghi cụng cỏc vua Lý hài hũa cựng những cõy cảnh, dũng sụng Tiờu Tương tạo nờn một cảnh quan thơ mộng và thiờng liờng cho đền Đụ. Bờn kia sụng Tiờu Tương là Thọ Lăng Thiờn Đức, nơi an nghỉ của cỏc vua triều Lý:
Đền Đụ kiến trỳc tuyệt vời
Thăng Long đẹp đất đẹp người ngàn năm.
Hỡnh ảnh thủy đỡnh của Đền Đụ đó được chọn làm biểu tượng để in trờn giấy năm đồng tiền vàng thời trước. 1
Lý Cụng Uẩn cú người mẹ họ Phạm ở đỡnh Sấm 2; ụng là con nuụi Lý Khỏnh Võn, con đẻ của họ Lý ở Cổ Phỏp 3. Truyền thuyết dõn gian lại khẳng định Lý Cụng Uẩn chớnh là con trai của thiền sư họ Lý người Đỡnh Bảng là Lý Khỏnh Võn tu ở chựa Tiờu, hồi quan sau chuyển về chựa Rận. Lỳc thiếu thời, Lý Cụng Uẩn cũng là tiểu ở chựa Rận. Khi lớn lờn, Lý Cụng Uẩn khụi ngụ tuấn tỳ thụng minh và cú sức khỏe phi thường được dõn chỳng mến phục. ễng tham gia triều chớnh nhà tiền Lờ, làm quan tới chức tả thõn vệ điện tiền chỉ huy sứ. Chớnh trong thời gian này, ụng được cỏc thiền sư Vạn Hạnh, Đa Bảo và quan lại như Đào Cam Mộc tạo ra sấm ký, chuẩn bị dư luận đưa ụng lờn ngụi vua mở nghiệp đế vương của dũng họ Lý, Lờ Ngọa Triều mất, quần thần suy tụn Lý Cụng Uẩn lờn làm vua năm 1009. Năm 1010 Lý Thỏi Tổ xa giỏ về quờ đó ban phỏt cho cỏc bụ lóo tiền, lụa theo cỏc thứ bậc khỏc nhau và sau đú đó phong thực ấp cho dõn làng. Cứ mỗi xuất đinh được cấp 5 sào, 3 cụ phụ lóo được cấp 1 mẫu, 32 giỏp trong làng được cấp mỗi giỏp 8 mẫu cụng điền để lo việc chung của dõn làng trong năm.
Để tưởng nhớ tới Lý Cụng Uẩn (Lý Thỏi Tổ) và cỏc đời vua Lý tiếp theo đó cú cụng với nước, với dõn làng, nhõn dõn làng Đỡnh Bảng chọn ngày 15 thỏng 3 õm lịch, ngày Lý Cụng Uẩn lờn ngụi vua làm lễ đăng quang vua Lý 4. Từ đú thành lệ, hàng năm dõn làng mở hội vào ngày 15 thỏng ba õm lịch và kết thỳc ngày 18 cựng thỏng. Do vậy, mà hội cũn cú tờn là "Lễ hội Đăng quang". Dịp nào được mựa ba năm liền thỡ làng mở hội lớn (hội Đại).
Mở hội, việc đầu tiờn là bầu Cai đỏm.
1 Phần mụ tả di tớch theo Nguyễn Hoàng Long:Di tớch lịch sử đền Đụ (Nhõn dõn, ngày
9.3.1998). 2 Nay là thụn Dương Lụi, xó Tõn Hồng, huyện Tiờn Sơn.
3 Lịch sử Hà Bắc tập I, Hội đồng lịch sử Hà Bắc xb, 1986.
4 Theo Ngụ Hữu Thi : Hội Đỡnh Bảng xưa và nay, (Hội xứ Bắc - tập II, Sở VHTT Hà Bắc -
1989).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
411
Cai đỏm là người thay mặt làng đảm nhiệm toàn bộ việc hội, 32 vị giỏp trưởng phải họp trước để cõn nhắc người xứng đỏng rồi sau đú mới đưa ra làng lựa chọn. Cai đỏm phải là người cú uy tớn với làng, gia đỡnh hũa thuận, con cỏi đầy đủ nếp tẻ, kinh tế khỏ giả, khụng cú khuyết tật. Người cú tang khụng được bầu.
Bầu xong Cai đỏm, làng phải cú cơi trầu, nậm rượu đến mừng và đưa trống Đại vào tận nhà rước Cai đỏm ra đền trỡnh Thỏnh trước khi vào hội. Ngay hụm đú, Cai đỏm cũng mổ lợn, biện cỗ cỏo gia tiờn. Nếu cha mẹ cũn thượng tại thỡ Cai đỏm phải mặc ỏo thụng đỏ, sắm riờng một cỗ để "mừng cố".
Cai đỏm biểu trưng cho sự tốt đẹp, trong sạch của xúm làng, thay vua Lý Thỏi Tổ ra đền làm lễ tạ ơn Đức Thỏnh Mẫu, tạ ơn tổ tiờn nờn rất được mọi người trọng vọng, tin tưởng. Vỡ vậy mà kể từ khi nhận chức, Cai đỏm phải sống chay tịnh, ăn riờng một mõm, khụng đến nhà người cú tang và khụng tham gia những việc cú tớnh dơ bẩn...
Sau khi làng rước ra đền, Cai đỏm sẽ là người cai quản việc tế lễ và chớnh bản thõn ụng làm chủ tế trong suốt 4 ngày.
Nghi lễ:
Từ ngày 15 đến ngày 18: ngày nào cũng tế hiến sinh - mỗi ngày một con trõu mộng thui chớn và một bưng xụi to. Tế xong thỡ ăn tại chỗ một phần, phần cũn lại chia về gia đỡnh để mọi người cựng được hưởng lộc hội.
Sỏng sớm ngày 15: Cai đỏm ra chựa Rận (tức chựa Cổ Phỏp) bỏch bỏi Đức Thỏnh Mẫu, Đức Thỏnh Văn, Đức Thỏnh Tam Bảo...
Sỏng 16 cũng ra chựa dõng oản, chuối rồi mới về tế lễ ở đền và chuẩn bị bước vào ngày hội chớnh.
Lệ định phải hành lễ ở chựa trước vỡ Lý Cụng Uẩn vốn sinh ở chựa này.1
Mõm cỗ ngày hội do cỏc giỏp biện sắm theo lứa lượt. Đỡnh Bảng cú 32 giỏp, mỗi giỏp được chia 8 mẫu ruộng cụng dựng cho hội hố, giỗ chạp quanh năm nờn dõn làng khụng phải đúng gúp thờm gỡ, mặc dự "việc ăn uống ở đõy hiếm nơi sỏnh được", mặc dầu mỗi năm làng mổ 12 con trõu mộng để tế lễ (bốn con dựng cho hội đền, tỏm con dựng vào tỏm ngày giỗ tỏm vị Hoàng đế nhà Lý).
1 Theo truyền thuyết thỡ xưa kia cú một bà làm cụng trong chựa Cổ Phỏp nằm ngủ ngoài
sõn chựa. Một nhà sư bước qua, bà thụ thai, đẻ ra một cậu bộ tuấn tỳ. Bà ta để lại đứa bộ
cho nhà chựa rồi bỏ đi. Cậu bộ ấy chớnh là Lý Cụng Uẩn.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
412
ở Bắc Ninh, tế trõu thui là một tục độc đỏo chỉ riờng Đỡnh Bảng mới cú. Nú được bắt nguồn từ sự tớch Khổng Minh Khụng chữa khỏi bệnh húa hổ cho vua Lý Thần Tụng. Nhà vua quớ trọng thầy thuốc và đó giả ơn thầy bằng cỏch cho dõn làng thui trõu cỳng khi thầy qua đời. Từ đú mà biến thành tục lệ.
Rước kiệu:
ở hội đền Lý Bỏt Đế, rước kiệu là nghi lễ long trọng nhất, là hành động chớnh của ngày hội thu hỳt rất nhiều người. Làng đó chuẩn bị việc này khỏ chu đỏo. Trước khi vào đỏm ba thỏng phải tuyển ba ụng "Thế tướng" với tiờu chuẩn: khỏe, khụi ngụ; cú đức độ. Sau ba Thế tướng là 16 tướng nam và 16 tướng nữ cũng là những người xinh đẹp, trẻ trung, chưa cú chồng, chưa cú vợ. Tiếp nữa là chọn phường nhạc cú tớn nhiệm; chọn người cầm cờ (thường là người cú chõn trong tư văn); chọn trỏng đinh đi khiờng kiệu, kộo ngựa, v.v... Đỡnh Bảng cũn cú tục đắp đường rước kiệu từ đền Đụ lờn chựa Cổ Phỏp gọi là "đường rước kiệu" dành riờng cho hội đền. Đường rộng rói, quang đóng nhưng lại hơi gồ ghề với dụng ý là để cho nhịp độ đỏm rước chậm rói nhằm tăng thờm phần long trọng của nghi lễ và thỏa món lũng tụn kớnh, ngưỡng mộ của dõn chỳng.
Tỏm cỗ kiệu trang hoàng lộng lẫy được rước từ đền Đụ lờn chựa Cổ Phỏp để nghe tăng ni tụng kinh rồi lại rước về chỗ cũ. Trước khi rước, ba ụng Thế tướng vào đền thắp hương làm lễ. Thế tướng lễ xong, lui ra rồi dẫn đầu đỏm rước lờn đường.
Thế tướng cởi trần, đúng khố vàng, mỗi ụng vỏc một cỏi dựi (nguyờn thờ ở trong đền) gọi là "dựi trỏi dành". Họ được xem là Thỏnh do vua Lý ứng vào trong ngày hội.
Sau Thế tướng là phường nhạc. Tiếp phường nhạc là hương ỏn tiền gồm 4 kiệu, 4 ngựa chiến bằng gỗ do cỏc trỏng đinh cởi trần, đúng khố bao, đội mũ quai rỡu, khiờng kộo.
Sau hương ỏn tiền là Cai đỏm mặc ỏo thụng xanh, quần trắng, đội mũ y quan, đi hia, che lọng. Tiếp theo là hương ỏn hậu cũng cú 4 kiệu, 4 ngựa và cỏc trỏng đinh phục dịch. Sau hương ỏn hậu là chức sắc, hương lóo và dõn chỳng. Theo lệ, đỏm rước phải cú 32 cõy cờ to, đẹp (của 32 giỏp) do thanh niờn từ 13 đến 18 tuổi của từng giỏp vỏc đi. Đi theo hương ỏn, cũn cú bỏt bửu, cú 8 tướng nam mặc ỏo màu lam và 8 tướng nữ mặc ỏo dài đỏ, tất cả đều cú lọng che. Phụ giỏ cho kiệu là 24 người do làng chọn. Đú là những dõn đinh mạnh khỏe, trong sạch, cú nhiệt huyết cộng đồng.
Cú thể núi: Rước kiệu ở hội đền Lý Bỏt Đế là một đỏm rước khổng lồ, hoành trỏng, mang tớnh hoàn thiện về nghi thức lẫn thẩm mỹ. Khụng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
413
chỉ riờng Đỡnh Bảng mà là người hàng tổng kộo về cuồn cuộn đi theo đỏm rước như tượng trưng cho một cuộc diễu hành biểu dương sức mạnh Đại Việt và thể hiện lũng biết ơn sõu sắc đối với cỏc bậc tiền bối đó cú cụng trong lịch sử nước nhà.
Đền Lý Bỏt Đế đó bị giặc Phỏp phỏ hủy từ năm 1946 và hội đền từ đấy cũng mai một dần.
Trũ chơi:
Ngoài nghi lễ thiờng liờng, hội đền cũn cú những trũ chơi vui khoẻ cuốn hỳt nhiều người tham gia như đấu vật, đỏnh cờ, chọi gà, hỏt chốo, diễn tuồng, v.v... Nhưng ở hội này, trũ chơi được lưu ý nhất là cờ người. Đõy là một trũ chơi truyền thống, qui củ nờn việc chuẩn bị cho hội cờ thật là chu đỏo, nghiờm tỳc.
32 quõn cờ là người thật, cho nờn cờ tướng ở đõy cũn gọi là "cờ người". Mười sỏu nam đúng quõn đỏ, mười sỏu nữ đúng quõn đen. Tướng ụng, tướng bà, phải là những người khụi ngụ, tuấn tỳ, cú đạo đức. Cỏc vai tướng, sĩ đều cú lọng che. Cỏc "Quõn cờ" phải khăn ỏo chỉnh tề, trang phục thống nhất, cử chỉ đứng đắn "quần trắng, ỏo dài the, giày Gia Định, khăn xếp, thắt lưng điều". Người cầm quõn phải chấp hành nghiờm chỉnh luật lệ của hội và được một người theo hầu để sai bảo khi cần thiết (như trầu, thuốc, lệnh chộm quõn, lệnh chiếu tướng, v.v...). Hội cử một người đỏnh trống bỏi để khớch lệ tinh thần chiến đấu của hai bờn, đồng thời cũng là hiệu lệnh để nhắc nhở cỏc đấu thủ lỳc phạm qui. Thời gian dành cho từng nước cờ được qui định sẵn chứ khụng tựy tiện theo người cầm quõn.
Cờ tướng Đỡnh Bảng nổi tiếng từ lõu đời và giải cờ ở đõy bao giờ cũng to nhất vựng. Ai đoạt được giải quả là kiờu hónh, vinh quang nhưng điều đú khụng dễ. Muốn dành được giải cao nhất thỡ phải vượt qua ba "cửa ải" - nhất thắng, nhị thắng; tam thắng rồi mới vào vũng chung kết để đấu trớ, đọ tài.
So với cỏc nơi khỏc, cờ tướng ở đõy cú nhiều nột độc đỏo. Nú khụng chỉ là một trũ chơi giải trớ đơn thuần mà cú thể núi là sự tổng hợp của lý trớ, mưu lược, thời cơ, và sự "hơn thua" cay cỳ này dường như cú liờn quan đến thế thỏi nhõn tỡnh. Từ hun đỳc, chuẩn bị đến cỏch chọn tướng, tuyển quõn, thời gian, luật lệ, nếp nghĩ, lối đỏnh cũng như thỏi độ, cử chỉ của người chơi đều thể hiện một cỏi gỡ hệ trọng, nặng nề, hoài cảm, u uất, khiến người xem cú quyền suy diễn: Phải chăng thế cờ cũng là thế sống, là vận nước, là cuộc đấu trớ chớnh trị của một thời mà dư õm cũn vang vọng?
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
414
Mỗi dịp vào đỏm, trũ chơi này như gợi lờn trong lũng người địa phương một thỏi độ vừa kiờu hónh, tự hào, vừa lạnh lựng, thương cảm về một dũng họ đầy oanh liệt, vẻ vang nhưng hậu vận khụng lấy gỡ làm may mắn. Sự lờn ngụi của nhà Trần là tất yếu lịch sử nhưng sự đối đói của nhà Trần đối với nhà Lý cú nhiều điều đỏng chờ trỏch. Cỏi đú trở thành niềm mặc cảm nặng nề và hỡnh như sự mặc cảm đú đó đi vào đời thường (ngay cả lỳc vui chơi) mà cờ tướng là một biểu hiện cụ thể.
II. Hội đỡnh:
Hội đỡnh tổ chức tại đỡnh làng. Đõy là một ngụi đỡnh tuyệt đẹp xõy dựng vào giữa thế kỷ XVIII và cho đến nay vẫn cũn y nguyờn.
Hệ thống thần thành hoàng trong đỡnh này khỏ phức tạp. Lỳc đầu, đỡnh chỉ thờ cú ba vị là thần nỳi (Cao Sơn đại vương); thần nước (Thủy bỏ đại vương); thần trồng trọt (Bỏch Lệ đại vương). Sau đú, đỡnh cũn thờ thờm sỏu vị "lục Tổ" cú cụng xõy dựng lại làng (tức là sỏu người con trai của Đỡnh Bảng sống sút lại sau vụ "sỏt phu, hiếp phụ" của giặc Minh), rồi đến khi đền Lý Bỏt Đế bị Phỏp phỏ hủy thỡ đỡnh lại thờ thờm tỏm vị vua nhà Lý từ đền chuyển về. Vỡ vậy, mà hội Đỡnh Bảng cú nhiều yếu tố đan xen khú phõn biệt (thiờn thần; nhõn thần; tụn giỏo sơ khai và chớnh thống v.v...). ở đõy cú thể thấy: Hội đỡnh cú mục đớch tưởng niệm ba lớp thần ứng vào ba lớp thời gian phự hợp với thực tế lịch sử mà làng Đỡnh Bảng đó trải qua.
Xưa kia, hội được mở từ ngày 12 đến 16 thỏng hai õm lịch hàng năm. Hội diễn ra theo tiến trỡnh:
1. Nghi lễ:
Việc tế lễ được cử hành trong 4 ngày. Cỏc ngày 12, 14, 16 tế thần bằng một mõm xụi, một con lợn. Tế xong, hạ mõm cỗ ăn tại đỡnh theo bốn gốc dõn (mỗi gốc cú 8 giỏp và đứng đầu 8 giỏp là một "Đầu vệ tướng"). Đờm 13, cú tục tế thần bằng hai con lợn sống (một đực, một cỏi). Tế xong mổ lợn chia cho cỏc Hiệu mang về từng nhà. Kinh phớ dựng cho hội lấy từ hoa lợi ruộng cụng do 32 giỏp thay nhau đảm nhiệm.
2. Đún Chạ:
Trong 5 ngày hội đỡnh, làng dành riờng cho một ngày để đún Chạ anh từ làng Cẩm Giang đến, vỡ hai làng này kết nghĩa với nhau rất khăng khớt, giỳp đỡ nhau tận tỡnh những lỳc khú khăn. Theo tục kết Chạ thỡ mỗi làng vào đỏm đều phải mời đại biểu của Chạ đến dự. Cẩm Giang được tụn là Chạ anh.
Sỏng ngày 15 thỏng hai: đoàn đại biểu Chạ anh sang Đỡnh Bảng dự hội. Cuộc đún tiếp được diễn ra rất long trọng. Đến gần cổng làng Đỡnh
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
415
Bảng thỡ Chạ anh dừng lại. Dõn Đỡnh Bảng cử một số hương lóo, chức sắc khăn ỏo chỉnh tề cựng một số trai đinh cầm cờ lọng và phường õm nhạc ra đún - sau đú rước Chạ anh về làng mỡnh dự hội. Khi đoàn Chạ anh đến, dõn Đỡnh Bảng từ già chớ trẻ đều tỏ ra quớ mến, trọng vọng ngay cả trong lời núi và cử chỉ.
Chạ anh vào đỡnh làm lễ rồi được mời đến nơi sang trọng nhất của làng để tiếp nước và xơi cỗ. Những mõm cỗ tiếp Chạ anh phải sắp sửa tươm tất để tỏ lũng tụn kớnh của Chạ em khi anh đến.
Lỳc tiễn Chạ anh ra về cũng rất tỡnh nghĩa. Trong khụng khớ chia tay quyến luyến, họ chỳc tụng nhau những lời tốt lành và hẹn hũ nhau đến hội lần sau.
Đõy là một tục đẹp, cú truyền thống ở đất Kinh Bắc, thật đỏng quớ.
3. Trũ chơi:
Hội đỡnh cũng cú những trũ chơi hấp dẫn như ở hội đền. Nào đấu vật, chọi gà, thả chim cõu, tuồng, chốo... được nhiều nơi biết đến.
a. Đấu vật: Là trũ chơi thượng vừ phổ biến nhất của hội. Cỏc triều đại nhà Lý rất khuyến khớch trũ này. Trong cỏc cuộc thi vừ và tuyển chọn tướng vừ đều cú mụn vật. Vỡ vậy mà lũ vật Đỡnh Bảng sớm nổi tiếng, được cỏc lũ vật sừng sỏ như Gia Lương, Hải Dương (cũ), Hà Nội, Hà Đụng (cũ), Nam Định (cũ) v.v... tỡm đến đọ sức, thi tài nhõn ngày hội. Đỡnh Bảng thành lập một phường vật gồm những người vật giỏi và cả những người kinh tế khỏ giả yờu thớch mụn vật, tự nguyện đúng gúp cho phường những quyền lợi vật chất. Phường cú nhiệm vụ giỳp hội lo chuẩn bị cuộc đấu về mọi mặt như đún tiếp đụ bạn, cử người cầm chịch, sắm sửa xới vật, lo giải thưởng v.v...
Đấu vật ở hội Đỡnh Bảng được qui định theo thể thức sau đõy:
- Đụ nào bị lấm lưng, trắng bụng là thua.
- Cú một người cầm chịch chỉ huy bằng trống; một người giỏm sỏt; một ban giỏm khảo.
- Cú ba giải chớnh thức là giải ba, giải nhỡ, giải nhất - ngoài ra cũn cú một giải lốo (giải khuyến khớch) để đụng đảo mọi người cựng tham gia.
- Thắng giải lốo mới được vào tranh giải ba; thắng giải ba mới được tranh giải nhỡ; thắng giải nhỡ mới được tranh giải nhất.
- Giải thưởng to hay nhỏ tựy theo từng năm, nhưng đó đoạt giải nhất thỡ thế nào cũng được thưởng hiện vật (ngoài bỏnh phỏo, gúi chố, vuụng nhiễu, cũn được hai chiếc mõm thau, một nồi đồng - cú năm thỡ thay mõm thau, nồi đồng bằng con bờ hay con nghộ).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
416
Thụng thường thỡ cỏc lũ vật đều cử cỏc đụ đàn em vào trước để thử sức, thăm dũ đối thủ. Sau đú cỏc đụ sừng sỏ mới vào tranh giải cao.
Đấu vật ở hội Đỡnh Bảng tuy hăng say, quyết liệt nhưng khụng thụ bạo, hiểm độc. Phần lớn cỏc đụ đều sử dụng phong cỏch mềm mại, uyển chuyển, ăn nhau ở cỏc miếng độc đỏo nờn được nhiều người khen là Đỡnh Bảng cú kiểu vật "rồng bay, phượng mỳa, hổ vờn", kể cả khi vào miếng, đấu miếng và phỏ miếng.
Hội Đỡnh Bảng đó bồi dưỡng được nhiều đụ nổi tiếng trong đời và cả trong giai thoại, sỏch vở như ụng Cản Ngũ, ụng Cả Lẫm, Quỏn Đen, Tý Chõu, v.v... Vỡ tức chớ "hơn, thua", họ đó quờn mỡnh tập luyện và khi cú giặc gió, họ đó trở thành những người hữu ớch cho đất nước, quờ hương.
b. Chọi gà: Cũng là một trũ chơi cú tiếng ở hội Đỡnh Bảng được nhiều người hưởng ứng, mờ say. Trũ chơi này thật là cụng phu và cú thể núi là "một nghệ thuật" nữa. Muốn cú gà chọi thỡ phải tuyển chọn rồi tập luyện rất dày cụng theo những "thủ thuật" nhất định. Chọi gà trước hết là chọn giống rồi mới đến tướng mạo theo quan điểm dõn gian:
Mỡnh chụng, mỏ quắp, cỏnh vỏ chai
Quản ngắn, đựi dài, chả sợ ai.
Chọi gà được tổ chức tại sõn đỡnh - nơi khoảng đất bằng phẳng nhất và khụng cú cỏ dõy để gà khỏi ngó vỡ vướng phải cựa. Một hiệp chọi là một hồ (một hồ khoảng 15 đến 20 phỳt). Khi gà mệt phải nghỉ thỡ gọi là "khuya hồ". Những con gà khỏe cú thể chọi được 20 hồ như con "tớa xũe" xưa kia của ụng Quang (Đỡnh Bảng) chẳng hạn. Nú vừa khỏe, đỏnh hầu hay lại trỏnh giỏi nờn đi đõu là thắng đấy và đó từng mang lại niềm kiờu hónh cho cả làng.
Chọi gà cũng cú giải thưởng, cú luật lệ và cú ban giỏm khảo để phõn thắng bại trong những trường hợp phức tạp mà hai ụng chủ khụng thỏa thuận được với nhau. Thụng thường thỡ con nào bỏ chạy trước hoặc bị những miếng đỏnh nguy hiểm chết tại chỗ là thua. Đú là trường hợp gà Hầu gặp gà Đấm hay gà Đấm gặp gà Dọc 1.
Cũn như gà Mộ gặp gà Lối; gà Lối gặp gà Lỳ 2 thỡ chuyện thắng bại cú khi kộo dài hàng buổi vẫn chưa phõn. Vỡ vậy mà khi đưa gà ra bói 1 - Gà Hầu: chuyờn nhằm vào yết hầu mà đỏnh làm đối thủ hoang mang, mất tinh
thần bỏ chạy dự đang cũn sức.
- Gà Đấm: gặp đối thủ là đỏnh quyết liệt, cấp tập thắng hay thua chỉ diễn ra trong
một thời gian ngắn.
- Gà Dọc: chuyờn đỏnh vào đầu đối thủ theo hướng thắng hoặc mang tớnh ỏp đảo. 2 - Gà Mộ: lỏch bờn mộ rồi đỏnh từ hai bờn vào như người ta hay núi "luồn trỏnh,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
417
chọi thỡ cỏc ụng chủ phải chọn đỳng đối tượng; phỏn đoỏn được khả năng của đối phương mới cú thể dành được kết quả. Đõy cũng là việc khú, đũi hỏi phải dày kinh nghiệm.
Chọi gà là một hoạt động bản năng của động vật nhưng do con người tổ chức, điều khiển. Vỡ vậy mà vai trũ của chủ gà hết sức quan trọng trong cỏc trận đấu cũng như quỏ trỡnh lựa chọn, tập luyện vật nuụi. Cỏi thỳ vị của trũ chơi này chớnh là ở chỗ đú.
Vào dịp hội đỡnh, nhiều nơi đó đưa gà về đõy để đọ sức thi tài và học hỏi kinh nghiệm như Hải Dương (cũ), Hà Nội, Sơn Tõy (cũ) và xa hơn nữa là Hải Phũng, Thanh Húa làm cho ngày hội thờm vui.
Chỉ thế thụi cũng cú thể thấy lễ hội ở Đỡnh Bảng rất phong phỳ, đa dạng. Nú phản ỏnh đỳng hiện thực cuộc sống của một miền quờ trự phỳ, cú lịch sử lõu đời và truyền thống văn húa tốt đẹp mà chỳng ta đó từng ghi nhận./.
L.V.K
đỏnh mộ".
- Gà Lối: luụn chui dưới bụng đối phương, chờ khi đối phương mệt mới xụng lờn
đỏnh quyết liệt dành luụn phần thắng. Loại gà này trờn hai năm mới được đấu giải.
- Gà Lỳ: gan lỳ, cú sức chịu đựng tốt dự đau đớn vẫn khụng chịu bỏ cuộc, chờ thời
cơ thuận lợi đỏnh trả đối thủ khi đối thủ đó tung hết cỏc miếng vừ của mỡnh.
(Núi chung, tờn của cỏc loại gà chọi được người ta đặt theo cỏch đỏnh, sở trường
của nú).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
419
Hội đình trên sông
Lê Ngọc Canh
ở làng chài người dân cả cuộc đời, bao thế hệ nối tiếp nhau sinh
sống, vật lộn trên sông nước để lao động, chiến đấu và tồn tại. Trong
điều kiện thực tế ấy, dân chài sáng tạo, xây dựng cho mình những sản
phẩm văn hóa mang đặc tính văn hóa sông nước.
Đình trên sông của làng chài mà chúng tôi được biết không nhiều,
chưa được phổ biến rộng khắp ở cư dân sông nước, mới chỉ tồn tại ở một số làng chài trên sông Hồng, sông Đáy. Như đình trên sông vùng Việt
Trì, Hát Môn, Vạn Dâu, Thanh Trì, Hoài Đức, Đan Phượng. Nhưng tiêu
biểu hơn cả là đình trên sông làng chài Vạn Vĩ, xã Trung Châu huyện
Đan Phượng.
Vạn Vĩ (Vạn Chài) đã từng quen thuộc với dân chài trên sông Hồng
vùng Đan Phượng. Có lẽ do phải vật lộn với sóng gió, sông nước mà dân
chài xưa đã đặt tên làng chài của mình là Vạn Vĩ.
Vạn là sóng, mạnh
Vĩ là đại, lớn
Vạn Vĩ là “sống lâu”, “sóng lớn”. Vạn Vĩ xưa có một địa bàn khá
rộng trên vùng sông Hồng thuộc Đan Phượng. Gồm các xóm chài Yên
Dâng (gần cầu Phùng), Vạn Chài nay là Đại Thần, Vạn Vĩ.
Làng chài thường tụ cư trên một vùng sông nhất định với những
thuyền nhà tương đối ổn định, còn các thuyền nhỏ thường lưu động trên
sông để đánh cá theo mùa, theo luồng cá, và hướng nước. Những thuyền
nhỏ, nhỡ là những thuyền đi đánh cá và thông thương.
Nỗi niềm khôn nguôi của dân chài là “sống không có chỗ ở, chết
không có chỗ chôn”.
Bởi vậy làng chài nào cũng phải kết nghĩa với những làng người
Việt trên đất để khi chết có chỗ chôn, xem đó là làng, là quê thứ hai của
mình, hàng năm lên vùng đất ấy để lễ cúng và tạ ơn.
Làng Vạn Vĩ, từ lâu đã kết nghĩa với làng Lại Tự Châu là làng thứ
hai của mình. Nhân dân Lại Tự Châu với nhân dân làng Vạn Vĩ (Vạn Chài) trở nên gắn bó thân thương đằm thắm tình cộng đồng, tình làng
xóm.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
420
Những ngày lễ, tết, hội của làng Lại Tự Châu là dân Vạn Vĩ (Vạn
Chài) đem hương hoa đến cúng lễ. Đặc biệt, Vạn Vĩ còn khiêng kiệu đến để tham gia rước hội.
I. Tục thờ thần Hà Bá
Hầu hết các làng chài trên sông Hồng cũng như làng Chài Vạn Vĩ
đều có tục thờ Hà Bá linh thần, Lạc Long Quân (Lạc Long Vương), thần
Linh Thông, thần Linh ứng, thần Ngư phụ tiên sư,...
Hội Vạn Vĩ tổ chức vào ngày 9 tháng ba âm lịch hàng năm.
Kể từ ngày 20 đến ngày 22 tháng 2 âm lịch tiến hành lễ xuống lưới,
từ 23 đến 25 tháng 2 âm lịch dong thuyền đi đánh cá. Trong thời gian này, mọi ngư dân đều phải để lại con cá lớn nhất trong ngày để chọn
cúng Hà Bá linh thần.
Có khi phải đến ngày trước hội mới đánh bắt được cá to. Gia đình
nào có cá to nhất làng được chọn làm vật cúng thần, thì gia đình đó, dân
chài năm đó được ấm no, hạnh phúc. Gia đình đó được vinh dự nhất làng
chài.
Ngoài tục tế lễ các Hà Bá linh thần, Lạc Long Vương (thủy quan),
Linh Thông thần, Linh ứng thần, Ngư Phụ Tiên Sư thần, thì cũng như nhiều làng khác Vạn Vĩ và Đại thần còn thờ cúng thần có công đức với
dân với nước, như Võ Duệ (Trung Ngãi Đại Vương).
II. Đình trên sông
Đình được xây dựng trên chiếc thuyền rồng rộng lớn nhất vùng.
Thuyền đình được tạo dáng theo hình rồng bay, rồng phục, dài 12
mét, rộng 5 mét, cao 3 mét 50, chia thành 3 khoang:
Khoang 1 (phí đầu rồng) là đình
Khoang 2 là đại bái
Khoang 3 để hương án
Đình gồm 4 cột gỗ, 4 xà lớn, 4 xà nhỏ đỡ 8 mái uốn cong, mái trên
nhỏ hớn mái dưới. Mái đình không có ngói mà làm bằng phên ép, lá cọ,
hoặc nứa khô. Cũng có trường hợp mái phên ép ở giữa uốn thành một
mái, 4 phía là những tấm ván gỗ liên kết lại với nhau tạo thành 3 mặt cửa
đình (mặt tiền, hữu, tả). Đình được neo giữa dòng sông.
Sân đình gồm từ 3 đến 5 thuyền hoặc nhiều hơn ghép lại với nhau, muốn rộng thì ghép nhiều thuyền.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
421
Không gian hội làng chài thường tập hợp từ 21 đến 23 thuyền lớn.
Hội rước thường có khoảng 7 đến 8 can thuyền chính (ba thuyền ghép thành một can).
4 can để kiệu và tế lễ.
Can thuyền đình xếp theo hàng dọc:
Can I (3 thuyền):
- Thuyền 1: có đình
- Thuyền 2: có giá hương
- Thuyền 3: có hương án.
Can II: liên kết theo hàng ngang với các kiệu sơn son thếp vàng:
- Thuyền 1: để kiệu bát cống rước giá văn, cờ, quạt, trống, chiêng.
- Thuyền 2: để kiệu bát cống (kiệu rước Hà Bá linh thần) để rước
5 bát hương (5 vị thần).
- Thuyền 3: để kiệu bát cống, cờ quạt trống chiêng.
Can III: Liên kết theo hàng ngang:
- Thuyền 1: Đông xướng và phường bát âm
- Thuyền 2: Hương án, chủ tế, trống tế
- Thuyền 3: Tây xướng
Can IV: bố trí theo hàng dọc:
- Thuyền 1 và 3: Để chấp kích, bát bửu, trùy đồng, cờ, và 3 phướn
- Thuyền 2: Thuyền đuốc cờ thần và bình nước
Can V: Xếp theo hàng ngang:
- Thuyền 1 và 3: có cờ, đuốc
- Thuyền 2: hát ả đào
Can VI: Cũng theo hàng ngang:
- Thuyền 1 và 3: đặt trống nhạc và nơi của chức sắc
- Thuyền 2: múa sư tử, múa rồng
Can VII: theo hàng ngang:
- Thuyền 1 và 3 của quan viên
- Thuyền 2: quan khách
Các thuyền khác đến dự hội đều quây thành vòng tròn ở giữa sông
Hồng hướng vào thuyền đình và các can thuyền.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
422
Thuyền đình trên sông cứ 10 năm lại được làm mới. Trước và sau
khi làm lại thuyền đình đều phải tiến hành các thủ tục nghi lễ theo phong tục cổ truyền.
III. Lễ hội
Trên các thuyền đều cắm cờ, phướn, đèn, hoa, đuốc đốt sáng rực cả
mặt sông, mỗi thuyền như một “lâu đài”, đèn hoa óng ánh sắc màu,
nhuộm không gian như huyền thoại thủy tiên.
Theo luật tục cổ truyền mỗi giáp có một thuyền riêng trên thuyền
để hương án và các vật tế, một cờ thần (cờ đuôi nheo) và hai cờ vuông,
các cờ có đường viền ngũ sắc, đường ngoài theo hình răng cưa và những bó đuốc lớn (đuốc thần).
Cờ thần lớn nhất của hội là cờ đuôi nheo dài 12m80, cờ làm bằng
vải tơ tằm màu ngà, màu trắng (có lẽ tượng trưng cho màu nước, (sông
nước), xung quanh có đường viền ngũ sắc, phía ngoài là đường viền hình
răng cưa, và có các dải lụa màu dài khoảng 14 mét.
Trên lá cờ có các hình quân sĩ, bảy con nhạn, voi, rồng, thuyền
rồng, chim, cá...
Cột cờ làm bằng thân cây gỗ, hoặc tre, trên đầu cột có con cá bằng gỗ - biểu tượng của nghề ngư nghiệp gắn với nước và có
thể cả mặt trăng nữa. Đế cột cờ là mui rùa - biểu hiện của sự vững chắc.
Ngoài cờ đuôi nheo còn có một số ít cờ thần (cờ vuông).
Tất cả các đầu cột cờ đều có hình cá bằng gỗ.
Hội lớn thường có:
3 kiệu bát cống
6 quạt đại
6 tán
3 bộ bát bửu đơn hoặc kép
2 phủ việt
2 trùy đồng
Không kể cờ đại theo qui định, còn có các loại cờ:
- Hai bộ cờ ngũ phương
- Hai bộ cờ ngũ hành
- 10 cờ đuôi nheo
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
423
- 10 cờ vuông
Hai bên bờ sông có cờ, đèn, hoa, đuốc và nhân dân khắp vùng đến xem hội rước.
Hội hàng năm bắt đầu từ đêm ngày 9 tháng 3 âm lịch đến hết ngày
10 tháng 3 âm lịch. Hội lớn kéo dài tới 7 ngày.
Mở đầu cho hội trống, chiêng, tấu bát âm, múa sư tử, rồi tiến hành
nghi lễ.
Các vật phẩm để cúng tế gồm có hoa, hương, đăng, trà, quả, thực.
Ngoài ra nhất thiết phải có con cá to nhất đặt trên mâm lót tấm vải điều
để cúng Hà Bá linh thần (thủy thần) rồi từ đó mới tiến hành nghi thức khác.
Lễ hội gồm có 2 phần:
Tế: Chủ tế đứng giữa hướng vào bài vị. Phía sau 2 bên là 2 người
bồi bái, tiếp theo là 8 người đứng thành 2 hàng hành hương, hành tửu
(mỗi bên 3 người đứng dâng đài rượu, một người Đông xướng, một
người Tây xướng). Khởi lễ: bắt đầu từ nửa đêm gọi là tế Phụng Linh, đến
sáng là tế Yên vị: đọc những công đức của thành hoàng làng và cầu
mong Hà Bá thần linh phù hộ cho dân chài mọi điều tốt lành, hạnh phúc ấm no, quanh năm được mùa cá...
Hội rước
Khởi đầu bằng pháo nổ ầm trời, trống chiêng rền vang cả một vùng.
Thuyền cờ thần (đuôi nheo) đi đầu, trống chiêng, nhiều đuốc nhỏ và 3 bó
đuốc lớn sát chụm vào nhau tạo thành bó đuốc lớn gọi là cây Đình Liệu.
Tiếp đến là các thuyền 2, 3 của can I và theo thứ tự thuyền 1, 2, 3
của các can II, III, IV, V, VI, VII. Các thuyền của nhân dân trong vùng đến dự hội, xem hội đều đi theo hai bên các thuyền hội. Ba thuyền có
kiệu hát cồng đều do thanh niên đứng trên thuyền khiêng kiệu. Những
người chèo thuyền đều mặc trang phục như những người chấp kích.
Trên các thuyền hội được mọi người chú ý là cảnh múa sư tử rất
đẹp, rất hấp dẫn. Tiếp đến là cảnh múa tiên, hát ca trù. Thuyền rước kéo
dài như những rừng cờ, rừng hoa, rừng đuốc lấp lánh trên dòng sông
Hồng, thật là một cảnh ngoạn mục và độc đáo của hội rước làng chài.
Đám rước đến khúc sông sâu đã chọn trước, thì đoàn thuyền rước nối đuôi nhau lượn tròn để tiến hành thủ tục nghi lễ múc nước, sau đó
bình nước được rước về đình trên sông.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
424
Khi đám rước trở về đến đình sông cũng là lúc ánh bình minh trải
những tia nắng ban mai trên mặt nước sông Hồng long lanh.
Đến đây hội rước trên sông tiến hành nghi thức tế lễ yên vị.
Tiếp đến là các trò chơi trên sông như đua thuyền rồng, bơi chải,
diễn chèo, múa sư tử, hát ca trù... cả khúc sông Hồng tưng bừng rộn vang
trong ngày hội của dân chài.
Đình, hội, rước trên sông của dân chài Vạn Vĩ nói riêng, vùng sông
Hồng Đan Phượng nói chung là di sản văn hóa độc đáo, hiếm và khác
biệt với những vùng văn hóa khác. Nó góp vào nền văn hóa cộng đồng
người Việt những tinh hoa sáng tạo trong tổng thể văn hóa Việt Nam./.
L.N.C
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
425
Lễ hội Đền Đông bộ đầu
Nguyễn Hữu Thức
Từ thủ đô Hà Nội, du khách theo đường 1A về phía nam chừng
26,5 km thì gặp một đường đất nhỏ, rải đá răm trắng, chạy xiên qua cánh
đồng bãi bạt ngàn những mía, để lên mặt đê sông Hồng lộng gió thuộc
địa phận xã Thống Nhất, huyện Thường Tín (Hà Tây).
Đến đó, du khách bị ngợp xanh giữa vùng đất bãi, xanh của mía,
của ngô, của lạc, của đỗ, xanh của lá chuối trong vườn, của rặng tre đầu
ngõ, dập dờn sen xanh chạy dài theo các hồ nước ven chân đê. Lửng lơ xanh mây chầm chậm trôi theo dòng sóng bạc sông Hồng. Và, nổi lên
giữa đồng xa kia là một khu vườn xanh sẫm cây cổ thụ, dưới đó ẩn một
di tích cổ là đền Đông Bộ Đầu.
Đền đã có từ rất xưa, từng nổi tiếng trong vùng. Sử quan triều
Nguyễn soạn sách Đại Nam nhất thống chí xếp đền Bộ Đầu là một trong
số 36 đền miếu cổ tích của tỉnh Hà Nội. ở thế kỷ XVII, sách Công dư
tiệp ký (ghi chép nhân khi rỗi việc quan) của tác giả Vũ Phương Đề đã
chép sự tích ứng Thiên đại thánh Thiên Vương thần thờ ở đền Bộ Đầu. Một số sách Hoàng Việt địa dư chí, Nam Việt địa dư chí đều có chép
danh thắng đền Bộ Đầu.
Chuyện kể rằng, ở thời Hùng Vương dòng sông Hồng xuất hiện
nhiều thuồng luồng chuyên ăn thịt người. Ngày kia có bà mẹ ở một làng
ven sông ra bến đò Giấp gánh nước thì đột ngột hai con thuồng luồng lao
tới cuốn bà xa ra bờ. Bà mẹ thảng thốt kêu cứu. Chẳng một bóng người.
Tuổi già sức đuối chống đỡ yếu ớt bà bị con thuồng luồng cái nuốt dần vào bụng. Bấy giờ bà mới ngẩng mặt lên trời ta thán:
- Trời ơi! Người ta sinh con mong để cậy nhờ, còn tôi có con mà
cũng như không thế này!
Lời bà mẹ thấu tới trời. Bỗng người con từ trên mây cao xanh sà
xuống. Thế nhưng thuồng luồng đã nuốt nhẹ chàng vào bụng. Chàng căm
giận đứng choai chân sang bên bờ sông, lưng gập xuống, đưa hai tay
khoắng nước từ ngã ba Bạch Hạc đến ngã ba Tuần Vường. Vợ chồng
thuồng luồng thấy có bàn cào khổng lồ, cào đi quét lại ở lòng sông, sóng nổi dữ dội, bùn sục đỏ ngầu thì lẩn lách tìm chỗ giấu thân. Chàng trai đã
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
426
kịp tóm cổ nó mang lên bờ, vuốt ngược bụng con thuồng luồng cái lấy
xác mẹ ra. Sau đó, chàng đưa cả hai con thủy quái xuống lòng bàn chân nhấn sâu xuống bùn đen.
Chàng trai táng mẹ vào lòng bàn tay để Mẫu bất ly thân. Xong đâu
đấy, chàng bước lên bãi ven sông rồi bay về trời. Sau này, dòng sông
Hồng từ ngã ba Bạch Hạc đến ngã ba Tuần Vường không còn gặp thuồng
luồng quấy nhiễu nữa. Bên sông làng Giấp để lại 3 vết chân lõm sâu
xuống đất. Chỗ vết chân cuối chàng "xung thiên" hóa dân lập đền chính
còn hai vết chân kia dân lập miếu thờ. Làng Giấp có tên gọi là xã Bộ Đầu
(nghĩa là bước chân) vì lẽ đó. Chàng trai hóa thần có tên là Huyền Thiên đại thánh Thiên Vương (có sách gọi là ứng Thiên).
Truyền rằng, thời Thánh tổ Triết Vương Trịnh Tùng (1570 - 1623)
đem đi đánh quân nhà Mạc, khi thuyền qua đền Bộ Đầu, Trịnh Tùng có
lên khấn xin thần linh phù trợ. Dẹp loạn xong, Trịnh Tùng mộng một
người cao lớn tới xưng công bèn sai thợ tu sửa đền thờ, cho tạc một pho
tượng Thánh bằng gỗ cao đến 21 thước ta (= 8,4m), chân đạp lên đầu con
thuồng luồng. Sách Công dư tiệp ký chép tạc tượng thần cao 3 trượng 6
thước (= 14,4m). Hàng năm ngày 19 tháng 9 âm lịch, sau kỳ lũ cuối sông Hồng, dân mở đại hội tế thần, tương truyền là ngày hóa của Đức Thiên
Vương.
Câu chuyện kể trên phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt của cư dân
Việt gian lao vất vả chinh phục đồng lầy Bắc Bộ đồng thời phản sánh
quan niệm đạo đức của nhân dân về người anh hùng dân tộc.
Như chúng ta đã biết, ở thời Hùng Vương, các cư dân Lạc Việt
buổi đầu từ miền trung du tràn xuống đồng bằng đã phải đấu tranh rất gian nan với tự nhiên để sinh tồn. Những truyền thuyết buổi đầu dựng
nước đã phản ánh phần nào điều đó. Kẻ thù họ phải đương đầu là Hồ
Tinh, Mộc Tinh, Ngư Tinh... cũng như thú dữ ở trên cạn, thú dữ ở dưới
nước đã gây cho họ biết bao khó khăn. Có thể một người mẹ nào đó ở
bến Giấp kia đã bị thủy quái bắt. Thương xót mẹ nên người con trai mưu
trí và dũng cảm đã tìm cách diệt thủy quái. Từ hiện thực lịch sử đó kết
hợp với dấu tích ao đầm ven sông có hình thù lạ dần dần câu chuyện qua
trí tưởng tượng được hư cấu đồng nhất với mẩu chuyện thần thoại thời tiền sử ca ngợi chiến công diệt thủy quái của người khổng lồ có tên là
ông Đùng, một nhân vật có nhiều chiến công trong việc khai thiên lập
địa, diệt đại bàng, dời núi ngăn sông... Người khổng lồ đã nhập vào
chàng trai làng Giấp và hệ quả là ra đời một sản phẩm tinh thần dung nạp
nhiều ý nghĩa mới phản ánh ý thức hệ thời phong kiến mà điều cốt yếu là
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
427
trung và hiếu. Phù trợ giúp vua dẹp loạn ấy là vị thần trung. Trừ họa thủy
quái cho làng ấy là vị thần có nghĩa. Cứu giúp mẹ lúc nguy nan ấy là vị thần có hiếu.
Con đường hình thành câu chuyện như trên phải trải qua nhiều thời
kỳ, trầm tích nhiều lớp văn hóa. Từ chỗ thờ thần tự nhiên (thờ dấu chân
ông Đùng), tiếp đến thờ ông Đùng, sau là đồng nhất ông Đùng với chàng
trai làng Giấp.
*
* *
Ngày 6-2-1979 đền Đông Bộ Đầu được UBND tỉnh xếp hạng là di tích lịch sử. Hội đền cũng được mở lại từ năm đó và làng đặt lệ chính hội
vào mùa xuân, ngày 8 tháng giêng, tương truyền ngày sinh của Đức
thánh.
Hội chú ý phát triển những hình thức sinh hoạt văn hóa truyền
thống ở địa phương mà cái đặc sắc nhất, hấp dẫn nhất là múa gậy.
Hầu hết các trai đinh của làng dự hội đều tham dự múa gậy. Gậy
múa là đoạn tre dài 2,5m đến 2,8m. Tay cầm ôm nửa vòng thân gậy để lỡ
đối phương có đánh róc gậy trượt trên mặt thân tre không và vào ngón tay người đỡ. Gậy trang trí thành từng vòng xanh, đỏ, trắng trông đẹp
mắt.
Đầu tiên từng cặp đấu đầu quấn khăn rìu, eo thắt dải đỏ, chân buộc
xà cạp ra đứng chống gậy trước cửa đền. Khi có hiệu lệnh họ cùng dùng
chân đá gậy tung lên, tay đón gậy múa đi ra, rồi lại múa vào. Ba lần múa
vòng tròn chào thần, chào người xem. Sau đó thao diễn các bài cơ bản,
người múa càng đông càng tốt, cây gậy xoay tít trên tay.
Các bài múa cơ bản như sau:
- Múa vớt: Bước lên ba bước, lui ba bước. Tay gậy đưa hớt trước
mặt.
- Múa ráo đất: Tay cầm gậy giơ phía trước rồi đưa vào nách quay
người lại phía sau.
- Múa vắt khăn: Đưa gậy xuống ba lần rồi chuyển gậy ra sau gáy,
vào thế đưa gậy ra đỡ.
- Múa quét chợ: Đưa gậy lùa qua đầu, đánh gậy quét qua chân. Đối phương nhận hiệu lệnh báo đánh phải nhảy lên.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
428
- Múa đánh lá lật: Múa tròn gậy trên đầu, đánh gậy xuống, quay
180 độ đánh thuận, đánh nghịch từ trái sang phải. Đây là bài khó nhất.
Nhìn chung, trong quá trình thao diễn, mọi người múa các bài cơ
bản từ đơn giản đến phức tạp.
Thao diễn xong các tay gậy thăm thử tài trí của nhau để vào đấu.
Lúc đầu được vận dụng tất cả các bài cơ bản nhưng cấm chọc táo (chọc
ngược gậy), quét chợ phải làm hiệu gậy báo trước, cấm bất thình lình
đánh bổ thượng. Người thua là do đỡ không kín, không phán đoán nổi ý
đồ của đối phương bị gậy dính người hoặc đỡ không chắc bị rơi gậy khỏi
tay.
Tay gậy nào thắng liền ba hiệp sẽ đứng giữ chủ gậy. Người vào phá
thắng hai hiệp coi là được cuộc. Người giữ gậy tới hết buổi hội qui định
không ai phá nổi là người giật giải. Năm ấy làng tôn là chủ soái múa gậy.
Múa gậy ở hội đền Đông Bộ Đầu là một trò diễn hay, độc đáo, hấp
dẫn có truyền thống lâu đời và là trò diễn giữ vai trò chủ đạo của ngày
hội nêu cao tinh thần thượng võ ở địa phương.
*
* *
Đến ngày hội Đông Bộ Đầu du khách có dịp thưởng ngoạn phong
cảnh vùng đất bãi ven sông Hồng. Đi trên mặt đê cao 8-9m như đi trên
lưng một con rồng đất. Bên này nước sông Hồng mùa xuân lắng trong
lặng lẽ con tàu kéo một đoàn xà lan dài ngược Hà Nội. Còn sát chân đê
kia là đình làng Thượng Giáp với kiến trúc nghệ thuật đậm phong cách
thời Nguyễn. Từ mặt đê chính theo con đường thẳng, mịn đất sa bồi, dẫn
ta vào đền. Cả một khu đất xanh tre, xanh chuối, nổi lên rõ nhất là cây gạo có đến mấy trăm tuổi, to đến mấy người ôm, ngọn vươn cao chừng
40-50m, cành lên mốc trắng, rậm rì những búi tầm gửi treo lơ lửng lưng
trời. Trước đây vườn đền có tên là ổ Gà. Tên ấy là do một lần quạ tha gà
chẳng may để mồi rơi xuống. Con gà thoát chết lúc cúc kiếm ăn. Lớn lên
gà sinh con đẻ cái thành một họ nhà gà mấy chục con. Xa xưa bãi ổ Gà
chỉ có quán thờ lộ thiên bên một vũng nhỏ hình tựa vết chân người khổng
lồ.
Hiện nay đền phân thành hai phần, phần trước; 5 gian nhà tiền tế rộng rãi xây theo hình chữ nhất, trông về hướng bắc. Trong nhà có chạm
đại tự chữ Hán "Thiên nhân" (người trời). Và, nổi bật nhất là bức cốn sơn
son thếp vàng "xung thiên hộ quốc" (bay thẳng lên trời giúp nước). ở
gian giữa ngôi nhà tiền tế vút lên 4 cột đá lớn cao 6-7m, đường kính
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
429
0,30m, đỡ lấy mái. Cột là khối đá nguyên, thân chạm nổi các mẫu hoa
văn thời Nguyễn, có ngõng cối lắp vào bệ đá ở dưới. Khi dựng cột làng phải bắc giáo dùng dây treo cột kéo ngược lên.
Phần sau: Hậu cung. Vào đó ta bất chợt gặp một bức tượng to cao
đứng uy nghi choáng hết cả gian nhà. Đấy là tượng Thiên Vương. Tượng
tạc thế đứng thẳng cao 5,5m, bờ vai rộng 1,5m, đầu đội mũ tướng giữa
có mặt nguyệt, hai dải mũ đăng vân thả sau vai, mặc áo dài kiểu võ tướng
chạm nổi hoa văn mây có mặt hổ phù ở đai lưng, chân đi hia dẫm lên hai
con thuồng luồng đầu rắn, mắt cá, chân chim, mình trăn. Tay phải nâng
long đao trên thắt lưng, lưỡi đao đưa thẳng phía trước. Tay trái xòe hoa nâng lăng chồng diêm tám mái. áo phía trước có lưỡng long chầu mặt
nguyệt, giữa bụng là một mặt rồng to. Sắc mặt Thiên Vương trắng hồng,
miệng hơi ngậm. Mắt nhìn thẳng, mở to buồn rầu...
Bức tượng thể hiện trạng thái giận dữ của Thiên Vương đối với
thủy quái đã hại mẹ mình, đồng thời cũng thể hiện tâm trạng nuối tiếc
của Thiên Vương không kịp về cứu mẹ. Tầm cỡ to lớn của bức tượng
phần nào nói lên khát vọng của người xưa mong cái thiện có sức mạnh
vô song đè bẹp thế lực ác bá đe dọa cuộc sống của con người.
Ngôi đền hiện nay làng đã đại tu vào năm Bính Ngọ (1906). Kiến
trúc trước đây gồm nhà tiền tế 5 gian, gian giữa chồng diêm 8 mái để
chuông đồng. Hậu cung 2 tầng. Tầng trên ba bề ghép kính. Dân chúng đi
trên đê sông Hồng đều nhìn thấy mặt Thiên Vương nhô lên ở tầng lầu.
Do hậu cung hư nặng tượng thánh đã phải tạc đắp lại so với tượng trước
thấp đi nhiều, bỏ tầng trên hậu cung và xây kín các mặt.
Hậu cung đền Đông Bộ Đầu còn trưng bày 8 tượng kim cương độc đáo chạm mũ áo tướng cao từ 2,9m đến 3,1m, mỗi vị một vẻ không vị
nào giống vị nào.
Tám vị kim cương có nhiệm vụ diệt ác phục thiện, bảo vệ điều tốt
lành của con người. Sự có mặt 8 bức tượng trên đã giúp cho chúng ta
hiểu rõ thêm tài năng nghệ thuật của các nghệ sĩ dân gian thời trước.
Du khách về nơi đây, giữa cái mới, cái đẹp của ngày hôm nay sẽ
bắt gặp sinh khí của người xưa trên mảnh đất lịch sử này./.
N.H.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
431
Hội làng Đông Linh
Nguyễn Thanh
Làng Đông Linh (có tên nôm là làng Nghìn) là một làng cổ nằm
cận kề đường quốc lộ số 10 bên dòng sông Hóa, tiếp giáp với Hải Phòng
bằng nhịp cầu Nghìn. Sử sách xưa và nay đã nhắc nhiều đến địa danh
Đông Linh. Đình làng Đông Linh hiện còn lưu giữ được dãy bia khắc ghi
truyền thống văn hóa văn hiến của vùng đất này. Tại vị trí trung tâm của
tòa đại bác còn giữ được bức đại tự Địa linh nhân kiệt. Trong truyền
thống, Đông Linh được xem là làng khoa bảng với 4 vị đỗ từ tiến sĩ đến
hoàng giáp và hàng chục cử nhân với học phong nổi trội qua nhiều đời.
Đình làng Đông Linh, với nghệ thuật chạm khắc gỗ, chạm khắc đá
nguy nga, lộng lẫy từng được xem là một trong những ngôi đình đẹp vào
bậc nhất hiện còn ở phía bắc tỉnh Thái Bình. Điều đáng quí là ngoài quần
thể kiến trúc còn giữ được khá nguyên vẹn những nét chạm khắc cổ,
những tấm bia đá cổ, thì đồ tế khí, hoành phi, câu đối của đình Đông
Linh còn khá phong phú. Đặc biệt, tại ngai thờ ở hậu cung còn có những
đồ thờ biểu trưng của tính phồn thực như đôi hạc, đôi đèn thờ được xem là "độc nhất vô nhị" trên địa bàn Thái Bình ngày nay. Đình làng Đông
Linh thờ Tướng quốc Thái Bảo Phạm Bôi. Tương truyền Phạm Bôi sinh
ra và lớn lên tại vùng đất này, khi giặc Minh xâm lược đã cùng 6 anh em
dấy nghĩa sau đó vào Lam Sơn chiến đấu dưới cờ của Lê Lợi và được
ban quốc tính.
Theo định lệ, hàng năm cứ vào dịp trung tuần tháng 2 âm lịch làng
Đông Linh mở hội, cuốn hút đông đảo du khách trong vùng về trảy hội.
Ngoài nghi thức rước, tế như nhiều hội làng trong vùng,hội làng Đông Linh còn nhiều trò chơi, trò diễn dân gian như múa kéo chữ, vật võ, cờ
người... Những năm gần đây, hội làng Đông Linh khôi phục tục gói chiếc
bánh chưng nặng chừng hơn 70kg, vốn xa xưa đã đi vào câu phương
ngôn "cây xôi làng Lày, bánh dày làng Lý, bánh chưng làng Nghìn".
Tương truyền hội làng Lày thường có tục thi cây xôi, xôi được dồn vào
các cốt chồng cao ngang nóc đình, hội làng Lý thường có tục thi giã bánh
dày cỡ lớn, làng Đông Linh có tục cúng bánh chưng ở miếu xóm với
những tấm bánh chưng khổng lồ. Ba làng này vốn thuở xa xưa cùng nằm trong một tổng, thuộc huyện Phụ Dực (cũ). Nay các miếu xóm không
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
432
còn, tục gói bánh chưng được duy trì trong hội làng với sự tham gia hào
hứng của cả làng.
Tương truyền, tục gói bánh chưng cỡ lớn trong hội làng Đông Linh
vốn xuất phát từ việc gói bánh chưng làm lương ăn cho quân sĩ đánh giặc
thuở xưa (có thuyết cho rằng từ thời vua Hùng, có thuyết cho là từ thời
Hai Bà Trưng, có thuyết cho là từ thời chống Nguyên - Mông, lại có
thuyết cho là từ thời Phạm Bôi dấy nghĩa chống Minh, hiện chưa khảo
cứu được chính xác). Dù thế nào thì từ việc chuẩn bị binh lương bằng
việc gói chiếc bánh chưng đủ cho hàng trăm người ăn và đưa vào nghi
thức hội làng cũng là sự lý giải có thể chấp nhận được.
Theo truyền ngôn của một số cố lão trong làng thì tục gói bánh
chưng lớn trong hội làng để chia phần cho cả làng khi số nhân đinh trong
làng còn ít. Khi cư dân Đông Linh đông đúc thì tục gói bánh chưng được
duy trì ở xóm gắn với tục cúng miếu xóm, ngày 6 tháng giêng hàng năm.
Tùy theo số nhân đinh ở từng xóm, xóm ít thì gói 2-3 tấm, xóm nhiều 4-5
tấm, 6 xóm trong làng vào ngày 6 tháng giêng đều rộn rã với tục rước
bánh chưng ra miếu, cúng miếu xóm và chia phần râm ran cả làng.
Lệ gói bánh chưng hàng năm, các xóm phân cho từng nhân đinh của mỗi gia đình theo nghĩa vụ "cơm lần cháo lượt". Gia đình năm sau
đến lượt gói bánh thì mọi việc đều phải chuẩn bị từ năm trước với các
việc chọn giống lúa nếp thơm để cấy, chọn giống lợn để nuôi, trồng dong
lấy lá, phơi bẹ chuối hột làm dây, chuẩn bị gia vị, mượn nồi luộc bánh,
tích trữ củi đun... và mọi việc chuẩn bị tấp nập, hối hả vào những ngày
cuối năm. Khi lúa nếp mùa chín, gặt về nhặt hết những bông cời, bông
lẫn phoi già, rẽ sạch, xay giã cẩn thận rồi đổ ra nong, nia nhặt hết hạt lẫn, hạt gẫy. Đỗ xanh làm nhân cũng được chọn kỹ không còn hạt kẹ, hạt đen.
Bẹ cây chuối hột bánh tẻ được phơi đủ độ dẻo, tách thành dây để xe
thành dây gói bánh. Trước và sau tết Nguyên đán, những gia đình được
làng phân công gói bánh coi đó là việc đại sự trong năm, kẻ vào người ra
tấp nập, người thì đến giúp việc này, việc kia, người thì đến thăm hỏi,
chuyện trò. Gia chủ thì thao thức, lo toan sao cho có tấm bánh to, bánh
ngon, bánh rền để được tiếng với xóm với làng, để khỏi mang tiếng kẻ
cười người chê.
Thông thường mỗi tấm bánh chưng theo lệ bánh chưng cúng miếu
xóm cần chừng 30 đấu gạo (mỗi đấu tương đương với 1,2kg). Khoảng 10
đến 12 đấu đỗ xanh, chừng 7 đến 10 kg thịt lợn mông sấn và nhiều thứ
gia vị khác trong đó không thể thiếu hồ tiêu và hành củ. Để gói được tấm
bánh chưng khổng lồ này thường phải dùng tới hơn 1000 chiếc lá dong,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
433
mà muốn bánh ngon phải dùng lá dong trồng ở vườn chứ không dùng lá
dong rừng và dây gói phải dùng dây bẹ chuối phơi khô xe như kiểu dây chão cày chịu lực và lạt tre bánh tẻ. Khi bắt tay vào gói bánh có hàng
chục người tham gia, từ vo gạo, đãi đỗ, mổ lợn, rửa lá và 8 người sành
gói bánh trực tiếp gói. Trên chiếc nong đại, bốn chiếc lạt tre dài khoảng
2m được xếp theo chữ tỉnh (#) trên đó các nghệ nhân thao tác nhịp nhàng
từ việc đan cài lá dong thành một tấm phên đến việc tết dây, gây mối.
Sau khi đổ gạo dàn đều nhân như gói những chiếc bánh chưng thường, 8
người cầm 8 đầu lạt, bốn người ở bốn cạnh vuôn dần chiếc phên lá dong
lên, khi bốn cạnh tiếp giáp, gối chồng lên nhau thì rít lạt buộc lại. Những người xe dây chuối vừa xe xoắn lại vừa tết thành chiếc rọ bó chặt lấy tấm
bánh, đồng thời từ những mối dây giao nhau hợp về một mối kết thành
một óc quang vừa đủ để luồn chiếc đòn khênh đưa bánh vào nồi luộc.
Khi luộc bánh, người ta vẫn để ngang chiếc đòn khiênh qua mặt nồi,
chiếc bánh được treo lơ lửng trong nồi tránh sao tấm bánh không sát đáy
nồi để khi luộc nhiệt tỏa đều, bánh rền không bị bấy.
Chiếc nồi đồng dùng để luộc những tấm bánh chưng khổng lồ này
là loại nồi đồng cỡ đại, người dân Đông Linh có thể dùng thay thuyền để vượt sông Hóa. Khi luộc bánh, người ta đào một chiếc hố, trên mặt hố
đặt nồi luộc bánh. Chiếc hố được đào gần giống hình cây thập ác, tính
toán sâu nông, ngang, dọc sao cho khi luộc nhiệt toả đều, đỡ tốn củi, đỡ
khói, dễ cời than ra, dễ tiếp củi vào... Sau khi luộc chín, bánh được khênh
ra vỗ lại cho vuông vức dùng lá dong gói thêm lượt ngoài cho đẹp, đưa
lên kiệu rước ra miếu xóm để cúng tôn thần. Ngày mồng 6 tháng giêng,
cả làng nhộn nhịp từ việc cúng tế ở miếu các xóm đến việc chia phần, nhận phần bánh chưng cho dù dư âm hương vị bánh chưng ngày tết trong
các nhà vẫn còn nhưng miếng bánh chưng "giữa làng" vẫn thiêng liêng,
được dư luận trong làng chú ý.
Để chia đều phần bánh cho từng nhân đinh, người ta dùng dây cắt
ngang tấm bánh chưng theo mặt phẳng ngang giữa bánh lật thành hai nửa
đều nhau, dùng bàn xoa, xoa đều cho nhân bánh phủ kín mặt và độ dày
đều nhau rồi cắt chia từng phần đều nhau. Bánh ngon, bánh rền được
tiếng khen cả xóm, bánh không ngon thì tiếng để đời.
Các cụ gì làng Đông Linh kể rằng, khi bóc bánh, cắt bánh, chia
bánh là thời điểm đáng nhớ nhất của dân làng này thuở trước vì hương
thơm của bánh chưng lan tỏa khắp làng. Những gia đình làm bánh xóm
lại tất tả hơn vì phải mang phần đó biếu những người thân thuộc trong
họ, ngoài làng như một hình thức báo hỷ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
434
Từ sau năm 1954, tục gói bánh chưng khổng lồ để cúng miếu xóm
ở làng Đông Linh vào ngày 6 tháng giêng không được duy trì. Ngày hội làng Đông Linh năm 1998, một chiếc bánh chưng nặng chừng 70 kg
được gói, đưa lên kiệu rước trong ngày hội và chia đều cho các gia đình
trong làng với niềm vui cộng đồng, cộng cảm./.
N.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
435
Hội làng Đông Quang
Toan Ánh
Trong các hội hè về kỷ niệm lịch sử, hội Chùa làng Đông Quang là một
hội đặc biệt hơn cả, ngày hội được dân Việt Nam gọi là ngày Giỗ trận Đống Đa.
Theo định nghĩa của ngày giỗ, đây là ngày kỷ niệm của một người chết
qua đời, những Giỗ trận Đống Đa tuy là ngày kỷ niệm lịch sử liên quan tới vua
Quang Trung, nhưng chính ra không phải là ngày nhà vua qua đời, mà là ngày
kỷ niệm cái chết của gần 20 vạn quân Thanh đã bị quân của nhà vua giết chết
tại gò Đống Đa thuộc địa phận làng Đông Quang vào ngày mồng 5 tháng Giêng
năm Kỷ Dậu (1789).
Làng Đông Quang thuộc quận Đống Đa (Hà Nội).
Hàng năm vào ngày thắng trận của nhà vua, dân làng Đông Quang mở hội
tại chùa làng, trước là để mừng Xuân, sau là để tụng kinh siêu độ cho mười
mấy vạn quân Thanh đã bỏ mình vì chiến trận, và đồng thời cũng tụng kinh cầu
nguyện cho các chiến sĩ Việt Nam đã bỏ mình trong trận chiến thắng của dân
tộc này.
Chùa Đông Quang trên con đường Hà Nội đi Hà Đông. Ai có dịp đi từ
Thái Hà ấp tới các làng Mọc, lẽ tất nhiên phải nhận thấy những mô đất thấp nhô ở cánh đồng: Đó là những di tích cuối cùng của quân nhà Thanh, sau khi thất
trận đã được vùi nông dưới nấm cỏ khâu, không kể những quân sĩ đã bỏ mình
theo giòng nước sông Hồng khi Tôn Sĩ Nghị chặt cầu qua Kinh Bắc.
Hội chùa Đông Quang không phải là lễ kỷ niệm một vị thần linh, đây chỉ
là lễ kỷ niệm một sự kiện lịch sử, dưới đây là sơ lược:
Sau khi tướng Tây Sơn và Vũ Văn Nhậm đánh chiếm Bắc Hà, vua Lê
Chiêu Thống, bà Hoàng Thái Hậu và một số các bầy tôi tòng vong sang cầu cứu vua Càn Long nhà Thanh.
Năm Mậu Thân (1788), mượn cớ cứu nhà Lê, Vua Thanh Càn Long phái
quân sang chiếm giữ Thăng Long, có ý muốn thôn tính nước Nam.
Quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng chỉ huy, gồm quân
bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu và Vân Nam.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
436
Tôn Sĩ Nghị chia quân làm ba đạo kéo sang nước Nam, một đạo do lối
Tuyên Quang, một đạo do đường Cao Bằng và một đạo do ngả Lạng Sơn. Dưới trướng Tôn Sĩ Nghị có đề đốc Hứa Thế Hanh, tri phủ Điền châu Sầm
Nghi Đống và một số các tướng lĩnh tài giỏi.
Đoàn quân này hùng hổ kéo sang Thăng Long như đàn cọp dữ.
Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở đóng quân ở Thăng Long, được tin quân
Thanh sang, liền một mặt rút quân về đèo Tam Điệp, tức là đèo Ba Dội thuộc
địa phận tỉnh Ninh Bình giáp Thanh Hóa ngày nay, một mặt cáo cấp về Phú
Xuân. Quân Ngô Văn Sở rút đi, quân Thanh chiếm đóng Thăng Long.
Vua Quang Trung lúc đó mới là Bắc Bình Vương, được tin giặc đã chiếm Thăng Long liền hội họp các tướng sĩ để bàn việc ra quân.
Theo lời yêu cầu của chư tướng, trước khi ra quân, Vương đắp đàn ở quận
Bàn Sơn và lên ngôi Hoàng đế vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân.
Sau đó Ngài thống lĩnh đại binh ra đánh quân Tàu. Quân ta gồm tất cả
mười vạn và 100 voi.
Ngày 20 tháng Chạp, đại quân kéo tới đèo Tam Điệp. Ngô Văn Sở và
Ngô Thời Nhiệm trình bày cùng nhà Vua thế mạnh của quân Thanh. Ngài cười
nói rằng:
- Chúng nó sang phen này là mua lấy cái chết! Ta ra chuyến này, thân coi
việc quân, đóng, giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân thù chẳng qua mười ngày là
xong việc, nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp bội mười lần nước ta, sau khi
chúng thua một trận, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì
đánh mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta
phải nhờ Thời Nhiệm dùng lời nói khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi 10
năm nữa, nước ta nuôi được sức phú cường, ta không cần sợ chúng nữa.
Vua Quang Trung truyền cho chiến sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước ngày để
đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng Giêng sẽ vào Thăng
Long mở tiệc ăn mừng.
Nhà Vua chia binh làm 5 đạo tiến ra Bắc: Ngô Văn Sở đem quân ra làm
tiền phong có Hô Hổ Hầu đốc chiến. Đại Đô Đốc Lộc đem thủy quân vượt biển
qua sông Lục Đầu, kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn
đường quân Tàu. Đô đốc Tuyết cũng đem thủy quân vượt bể, kinh lược mặt Hải
Dương, tiếp ứng xuống mé sông. Đô đốc Mưu đem quân đi xuyên qua huyện Chương Đức, này là huyện Chương Mỹ, kéo thẳng tới làng Nhân Mục huyện
Thanh Trì, đánh quân Sầm Nghi Đống. Đại Đô Đốc Bảo thống xuất quân tượng
mã, kéo ra làng Đại áng, huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
437
Quân của vua Quang Trung cứ kéo theo kế hoạch đúng đêm hôm trừ tịch
kéo quân ra Bắc như vũ như bão, đánh tan quân Lê ở bến đò Giản Thủy, Ninh Bình, bắt sống hết toán quân Thanh đóng ở Phú Xuyên, tỉnh Nam Hà Nam
Ninh ngày nay. Ngày 5 tháng Giêng, vây đồn Hạ Hồi, kéo thẳng tới Thăng
Long, giết quân giặc chết như rạ ở Gò Đống Đa. Các tướng lĩnh nhà Thanh là
đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thương Duy Thăng
đều tử trận. Tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng quân ở Đống Đa bị bao
vậy phải thắt cổ tự tử.
Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo hoảng hốt, không kịp thắng yên ngựa
và mặc áo giáp, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân Tàu hay vậy cũng xô nhau chạy trốn sang cầu, cầu bị Tôn Sĩ Nghị sai chém đứt, và sông
Hồng Hà đã là mồ chôn mấy vạn quân Thanh.
Quân Thanh tan, từ đó về sau tại chùa Đông Quang hàng năm có mở hội
gọi là ngày Giỗ Trận Đống Đa. Có lẽ dân làng cũng muốn kỷ niệm chiến công
oanh liệt của nước nhà, nhưng qua một hình thức của ngày hội và đây là ngày lễ
cầu siêu cho tướng sĩ quân nhà Thanh đã từng bỏ mình tại nơi đây trong trận mùa
Xuân năm Kỷ Dậu.
Hội mở ra để dân làng nhân dịp Xuân mua vui, nhưng điều chính yếu của ngày hội là tụng kinh cầu nguyện cho những vong hồn chết trận. Ngày xưa nhà
chùa có lập đàn chay tụng niệm, và dân làng cùng nhau tới lễ đàn, giúp tiền
giúp gạo để nhà chùa lo việc bố thí chúng sinh.
Trong ngày hội, dân chúng Hà Nội trước đây dự đông lắm, tới đây để nhớ
lại một giai đoạn hùng hào của lịch sử, nhưng cũng tới đây để tham dự những
cuộc lễ bái cầu cúng cho đám cô hồn tướng sĩ nhà Thanh và đồng thời cả một
số Việt quân đã bỏ mình trong trận này. Gò Đống Đa có mộ Sầm Nghi Đống, ngày hội người Trung Hoa kéo nhau lũ lượt tới viếng chùa và viếng mộ.
Các bà già, dân làng Đông Quang và cả khách trẩy hội, mang vàng hương
tới đốt trước những ngôi mộ vô thừa nhận của quân Tàu. Riêng về Sầm Nghi
Đống, người Trung Hoa có lập đền thờ tại Hà Nội ở ngõ Sầm Công.
Đọc tới đây có lẽ một vài bạn đọc phải ngạc nhiên, tại sao dân ta đối với
quân thù lại có thái độ bao dung lạ lùng như vậy.
Thấm nhuần nền đạo đức Đông phương, dân ta lấy chữ nhân làm trọng.
Quân Tàu, khi sống chúng xâm lăng đất nước chúng ta, nhưng một khi đã chết, ta không kể đây là những kẻ thù nữa, họ không còn làm hại được ta chúng ta
nhìn họ bằng một con mắt khác. Họ là những chiến sĩ đã chiến đấu theo mệnh
lệnh của triều đình, chết đi họ là chiến sĩ trận vong. Chúng ta phải kính trọng
họ, họ là những người đã chết vì quốc gia, chúng ta phải thương hại họ, họ đã
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
438
chết ở đất lạ quê người họ là những vong hồn không ai cúng vái, phải chịu đói
khát. Các người già cả, nhân ngày hội Đống Đa đốt vàng hương cho họ, và trong chùa tụng kinh cầu nguyện cho họ, chính là mong cho họ không chịu
cảnh khổ sở của những ma đói khát, cầu cho họ được siêu sinh tịnh độ. ở đây
vừa là lòng nhân từ, vừa là cử chỉ rộng rãi với kẻ thù, lại vừa thể hiện được sự
tôn kính đối với chiến sĩ trận vong.
Song song với những cuộc lễ bái, cầu nguyện và đốt vàng
hương cúng cho các vong hồn, tại hội chùa Đông Quang còn có những trò vui
khác cho khách đi xem Hội thưởng Xuân: Cờ bỏi, múa hát và đánh vật.
Riêng về Sầm Nghi Đống, người Trung Hoa có lập đền thờ ở ngõ Sầm Công, sau phố Hàng Buồm Hà Nội. Tục truyền rằng ngôi đền này linh thiêng
lắm và vong hồn Sầm Nghi Đống thường tác yêu tác quái với dân chúng Hà
Thành, mãi cho tới khi nữ sĩ Hồ Xuân Hương qua đó, vì ghét mặt một tên
tướng tử trận còn làm oai làm phách, có đề bài thơ sau:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.
Vì đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
Theo lời truyền lại, sau bài thơ trên của nữ sĩ họ Hồ, đền họ Sầm hết linh
thiêng! Có lẽ vong hồn quan tri phủ đã biết thẹn.
Kể từ khi vua Gia Long lên ngôi, mặc dầu nhà Tây Sơn bị gọi là ngụy
triều, mồ mả nhà Tây Sơn bị khai quật và ai nhắc nhở tới nhà Tây Sơn đều bị
tội nặng, nhưng nhân dân quận Bình Khê, tỉnh Bình Định (quê của Nguyễn
Huệ, Nguyễn nhạc, Nguyễn Lữ), nay thuộc huyện An Khê (tỉnh Gia Lai) vẫn
cất một ngôi đền tại nơi nhà cũ của Ba Vua để thờ phụng, để che mắt vua quan nhà Nguyễn, người ta phải nói dối là đền thờ thần. Mỗi năm, Xuân Thu nhị kỳ,
dân làng có tế lễ rất long trọng, điều đặc biệt, có tế lễ nhưng không có văn tế,
dân làng chỉ khấn vái thầm.
Rất tiếc đền thờ này, lập tại thôn Kiên Mỹ, xã Bình Khê, năm 1947 đã bị
phá hủy, cho tới năm 1955, nhân dân Bình Khê, mới lại cùng nhau gom góp
xây một ngôi đền tráng lệ hơn xưa, và hàng năm nhân ngày giỗ trận Đống Đa,
tại đây cũng có cử hành lễ kỷ niệm chiến công oanh liệt năm Kỷ Dậu. Sau năm
1975, khu di tích này được khôi phục, trùng tu theo mẫu hình thuở xưa, và nhân dân Bình Định cũng như Gia Lai đều tổ chức rất trọng thể lễ hội này./.
T.A
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
439
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
440
Hội đền Tướng quân Đoàn Thượng
Toan Ánh
Ai đã có dịp đi từ Hà Nội tới Hải Dương ắt biết thị trấn Bần Yên
Nhân.
Bần Yên Nhân là một thị trấn sầm uất và có đền thờ tướng quân
Đoàn Thượng, còn được tôn là Đông Hải Đại Vương (1), một trung thần và là một dũng tướng đời vua Lý Huệ Tôn.
Tướng quân Đoàn Thượng người làng Hồng Thị, huyện Đường Hào,
tỉnh Hải Dương (Hải Hưng) là một người rất khoẻ có sức địch muôn người,
được vua Lý Huệ Tôn giao cho trọng trách trấn giữ đất Hồng Châu, một
khu vực ven sông Hồng .
Sau khi vua Lý Huệ Tôn đi ở chùa, Lý Chiêu Hoàng làm vua được ít
lâu rồi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức là vua Trần Thái Tôn. Đoàn Thượng không phục nhà Trần, vua Trần cho người chiêu dụ, nhưng
tướng quân nhất quyết không chịu theo nhà Trần. Tướng quân chỉ biết có
nhà Lý, không biết tới nhà Trần, mặc dầu vua Trần hứa phong vương và gả
công chúa.
Trước ý chí cương quyết của tướng quân, Trần Thủ Độ cho quân đến
đánh nhưng không thắng, phải tìm kế giảng hoà rồi ngầm sai quân đánh dồn
hai mặt để phá quân của Ngài.
Bị đánh bất thần, lại bị lưỡng đầu thụ địch, quân của Ngài bị thua, và chính Ngài bị một tướng nhà Trần chém một nhát vào cổ gần đứt đầu tại địa
hạt thôn Đông Đạo xã Yên Phú tỉnh Hưng Yên (Hải Hưng) bây giờ.
Bị chém, Ngài liền cởi dây lưng buộc cổ cho khỏi rơi đầu rồi hầm
hầm tế ngựa đánh giết quân Trần, ngựa Ngài đi tới đâu, quân Trần sợ hãi
phải tránh tới đó.
Khi ngựa Ngài chạy tới làng Yên Nhân, Bần Yên Nhân ngày nay,
Ngài gặp một ông cụ già mũ áo chững chạc, đứng bên đường chào Ngài và
nói rằng:
(1)
Hưng Nhượng Vương, con trai Hưng Đạo Vương cũng được tôn là Đông Hải Đại Vương.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
441
Tướng quân trung dũng lắm. Thượng đế đã kén tướng quân làm thần
xứ này. Có một cái gò ở bên cạnh làng kia, chính là nơi hương hỏa của tướng quân, xin tướng quân để tâm cho.
Nghe cụ già nói, Đoàn tướng quân vâng lời, cho ngựa đi thẳng tới
chỗ gò đó, xuống ngựa, nằm gối đầu lên mác một lúc thì chết. Liền ngay đó,
mối đùn đất lên thành ngôi mộ của Ngài.
Nơi đó là làng Yên Phú. Dân làng này lập miếu thờ Ngài có tô tượng
tạc bia, nhưng về sau nước lụt, đền miếu bị cuốn đổ. Tượng của Ngài trôi về
xã Yên Nhân, xã này lập đền bên bờ sông Hồng để thờ Ngài.
Ngài hay hiển linh giúp đỡ dân chúng, dân chúng rất ghi ơn Ngài.
Triều Nguyễn, Ngài được phong là Bảo Quốc hà dân nhất đẳng
thần.
Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, có đôi câu đối treo ở đền Ngài:
Thanh miếu tuế thời hương, lăng cốc bất khai canh hoàn cục.
Hồng châu kim cổ lộ, cương thường sức khởi vãng lai nhân;
Đôi câu đối này Nhật Nham Trịnh Như Tấu trong Hưng Yên địa chí
đã dịch:
Khói hương thanh miếu ngạt ngào, trời trăng gió cao nêu nền tiết nghĩa.
Đường sá Hồng châu đi lại, khách gần xa trông rõ cột cương
thường.
* *
*
Nhất niên nhất lệ, hàng năm ngày 11 tháng 4 âm lịch, tại đền thờ
Ngài có mở hội. Dân chúng Bần Yên Nhân nô nức đi xem hội và làng Yên Phú năm nào cũng cử một nhóm người thay mặt dân xã tới yết lễ trong dịp
này.
Hội có tế lễ rước xách theo tục lễ cổ truyền. Có đánh cờ bỏi và cũng
như ở các đền miếu khác, có các ông Đồng bà Bóng tới lên đồng hầu bóng.
Khách trẩy hội, lễ thần rồi xin thẻ.
Dân chúng các nơi kéo nhau tới hội này đông lắm, nhất là dân chúng
vùng Hưng Yên./.
T. A
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
442
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
443
Lễ hội Đền Đồng Bằng
Bùi Ngọc Dũng
Là một trong những hội làng mùa thu có tiếng, lễ hội đền Đồng
Bằng, tỉnh Thái Bình xứng đáng được người dân vùng châu thổ Bắc Bộ
truyền đời nhắc với nhau ghi nhớ:
Dù ai buôn xa bán xa
Hai mươi tháng tám giỗ cha thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Hai mươi tháng tám thì về Đào Thôn.
Hội đền Đồng Bằng mở hàng năm, từ ngày 20 đến 26 tháng tám âm
lịch, thu hút hàng vạn người trong tỉnh và khách thập phương về dự. Ngôi
đền nằm cạnh một bến sông mang tên là sông Đồng Bằng; đất xưa thuộc
thôn Đào Động tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng (nay là xã An Lễ, huyện
Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Ngoài tên Đồng Bằng, đền còn có tên là đền
Đức Vua, đền Bát Hải... Điều đáng quan tâm là tục đua thuyền, bơi trải là
hoạt động nổi bật trong các ngày hội .
*
* *
Tục đua thuyền đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ, gắn với việc quần tụ cư
dân ở vùng này. Những truyền thuyết dân gian và một quần thể các di tích
lịch sử, cảnh quan văn hóa - địa lý đã hé mở phần nào cho ta thấy tính chất
cổ xưa của tục này.
Dân làng Đào Động thường truyền ngôn rằng: Vào thời Trần, có hai
người trong đội quân đánh giặc ở vùng cửa biển, khi giặc tan, họ chia tay nhau tại một quán nước làng Nuồi (thuộc Phủ Nội, Thanh Miện, Hải
Dương). Một người ở lại Phủ Nội chiêu dân lập ấp, một người trở về Đào
Động mở làng, lập nên tám trang Đào Động. Sau này dân hai làng kết
nghĩa giao chạ với nhau và hàng năm tổ chức đua thuyền vui chạ. Một
người được thờ ở đình làng Nuồi, một người được thờ ở đền Đồng Bằng.
Tục lệ ấy được tiếp nối cho đến những năm 40 của thế kỷ này. Sông Đồng
Bằng và sông Nuồi trở thành đường đua truyền thống của hai làng. Mỗi lần
tổ chức đua, dân Đào Động rước thần được thờ ở đền Đồng Bằng ra đình
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
444
bơi (nay là khu chợ Đồng Bằng). Làng Nuồi cũng có lệ đua thuyền từ lâu
đời và tổ chức vào ngày 10 tháng tám âm lịch hàng năm.
Các cụ già đều cho rằng chính hai người bạn trong đội quân nhà Trần
là ông tổ của tục lệ này và quả quyết rằng, khi chia tay nhau, hai người đã
có lời nguyền khắc vào tấm bia đồng ở ngã ba Rách; đáng tiếc là đình làng
Nuồi bị phá từ lâu, sắc phong, thần tích, bia ký không còn nữa.
Hai nhân vật trên không có sử sách nào ghi lại tên tuổi, hành trạng.
Theo sắc phong ở đền Đồng Bằng thì khoảng cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ
XV có một danh tướng nhà Trần tên là Trần Nhân Huệ đã về khẩn đất
vùng này và lập ra Đào Động trang, ông được coi là thành hoàng nơi đây. Liệu ông có liên quan gì với làng Nuồi thì chưa rõ. Chỉ biết là, trong mấy
lần kháng chiến chống quân Nguyên thì cả vùng rộng lớn này là địa bàn
chiến lược của nhà Trần.
Mặc dầu vậy, việc thờ cúng trong dân lại theo hai quan niệm khác.
Người theo quan niệm thứ nhất thì cho rằng đền thờ Đức Bát Hải Động
Đình, một thủy thần, nên đền có tên là đền Bát Hải Động Đình. Còn quan
niệm thứ hai thì cho rằng vị thần được thờ trong đền là Đức Thánh Trần.
Lại thêm cách đây khoảng 450 năm (vào thế kỷ XVI) một họ lớn của Đào Động là họ Đinh đã lưu tán sang làng Nuồi và bây giờ những người
cùng dòng họ ấy vẫn có mối quan hệ chặt chẽ. Như vậy tục đua thuyền
giữa hai làng như là hệ quả của mối quan hệ cư dân có truyền thống lâu
đời. Khảo sát diễn trường đua cùng quần thể di tích, ta có thể hiểu thêm bề
dày văn hóa của tục này.
Về địa lý môi trường, trên địa bàn Đào Động có con sông mang tên
Đồng Bằng, hiện nay đã bị lấp dòng chỉ còn lại dấu tích từng đoạn của một con cừ nhỏ, có đoạn biến thành sông cụt hay đầm lầy. Khảo sát thì thấy
sông dài gần 4 km, chảy theo hướng đông bắc - tây nam, phát nguyên từ
cửa Ba Mỹ (xã An Quí) nối với sông Đào Động, vòng qua thôn Đồng Ông
gặp sông Cô tại đập Hệ rồi ra sông Hóa. Trước năm 1954 sông còn rất
rộng, có đoạn rộng tới 500m và sâu hàng chục mét, thuyền bè tấp nập, đây
là con đường thủy quan trọng làm gạch nối giữa hai trục đường thủy bắc và
đông nam tức sông Diêm và sông Lục. Xa hơn nữa, trước đây sông Đồng
Bằng, sông Đào Động có vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng này, là ngư trường thu hút nhiều tay chài lưới giỏi bơi lội, đánh cá.
Trên hai bờ sông Đồng Bằng, có thể gặp những phế tích. Đây là
những mộ gạch có niên đại thuộc thiên niên kỷ I như Đống Sự, Đống He,
Đống Đồng Hưng. Nhân dân giải thích tên Đống He là do trước đây cá he
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
445
từ biển vào rất nhiều. Đó là những bằng chứng cho thấy cư dân ở đây đã
quần tụ từ lâu đời, muộn nhất cũng là từ đầu công nguyên và kéo dài suốt mười thế kỷ Bắc thuộc. Có lẽ đây là nơi dân chài lưới đến hợp cư. Vậy, địa
bàn Đào Động là vùng thổ nhưỡng hình thành sớm và sớm được dân khai
thác. Về mặt địa hình, An Lễ là vùng tương đối trũng, có sông lớn, đầm lầy
bao bọc nên việc đánh cá là nghề sống quan trọng trong đời sống cư dân.
Sông Đồng Bằng và Đào Động nối liền miền biển với vùng nội địa phía
bắc ven sông Luộc, sông Hóa của Quỳnh Phụ. Chính các sông này có thể
hợp lưu hay phân lưu với sông Cô, sông Lẫm, Diêm Hộ đổ về các vùng
cửa biển Diêm Điền, với sông Luộc, sông Hóa đổ ra cửa Thái Bình rất thuận lợi.
Theo tài liệu kiểm kê di tích của bảo tàng Thái Bình, địa bàn vừa nêu
có liên quan đến ba lần kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần.
Suốt thời kỳ kháng chiến và cả sau này, thủy quân là một lực lượng trọng
yếu của quân đội nhà Trần, góp phần đắc lực vào thắng lợi chung. Theo
các nhà nghiên cứu, vùng bắc Quỳnh Côi, Phụ Dực là vùng hiểm yếu, là
căn cứ của quân đội nhà Trần. Khu vực bắc Thái Bình, nam Hải Phòng là
khu căn cứ được hình thành sau khi nhà Trần rút khỏi Long Hưng, Thiên Trường và tồn tại tới khi tổ chức chiến dịch Bạch Đằng. Từ đây ngày 10
tháng hai năm 1288 thủy quân nhà Trần tiến lên tiêu diệt địch ở vùng cửa
biển Đại Bàng (nam Đồ Sơn) và hai tháng sau Trần Hưng Đạo dẫn quân
vượt sông Hóa tiến lên chuẩn bị chiến dịch Bạch Đằng Giang lịch sử. Là vị
trí chiến lược vừa có thế thủ vừa có thế tiến công cơ động theo đường thủy,
vùng bắc Quỳnh Côi, Phụ Dực đã trở thành địa bàn quan trọng trong cuộc
kháng chiến lần thứ ba - chiến dịch "đại thủy chiến" - mà rất có thể Đào Động là một trung tâm vì ở đây có đầm rộng lớn, kín đáo, sông sâu thuận
tiện cho việc luyện quân và tập dượt thủy chiến. Vì vậy, đua thuyền ở Đào
Động thành một hoạt động thường xuyên, một hình thức rèn luyện thể lực,
kỹ chiến thuật của quân sĩ nhà Trần, đồng thời là hình thức hoạt động văn
hóa được nuôi dưỡng, phát triển trên cơ sở lịch sử đã nêu. Khi việc đua
thuyền trở thành trò diễn trong lễ hội thì nó mang đặc trưng của lễ hội cổ
truyền, một hình thức sinh hoạt văn hóa của một dân tộc giỏi thủy chiến
trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
*
* *
Bơi trải được tiến hành vào các ngày 22, 23 và 24 tháng tám âm lịch.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
446
Trải được đóng bằng gỗ giổi, một loại gỗ nhẹ, chắc và dẻo, thớ mịn,
khi thành tấm ít nứt, có thể cất giữ qua nhiều năm, do đó độ an toàn của trải cao. Sang hơn, người ta cũng có thể đóng trải bằng gỗ vàng tâm. Trải
được ghép mộng, chốt vít và ém sơn chặt chẽ. Ván trải để mộc, không sơn,
không trang trí vẽ hoặc khắc. Thông thường trải dài từ 20 - 25 thước ta
(khoảng 8 - 10m).
Làng Đào Động có ba trải, mỗi trải gọi là một "tích" do người "cai
mạn" đứng đầu. Cai mạn là người có uy tín, có kỹ thuật bơi cao nhất và
tinh thông luật lệ. Trải không cùng một kích cỡ, cụ thể như sau:
- Trải Trung Toán (tích Trung) dài 20 thước
- Trải Đông Đào (tích Đông) dài 25 thước
- Trải Thượng Thắng (tích Thượng) dài 22 thước.
Tuy vậy, chúng lại hoàn toàn giống nhau về cấu tạo và cách bố trí,
trang bị. Khúc giữa trải phình, đầu và đuôi thót lại. Nếu cắt ngang trải được
một thiết diện mà khoảng giữa rộng gần 3 thước (1,1m) thon dần xuống
đuôi là gần 2 thước (0,7m) giống dáng con cá chép hoặc cái lá mây vậy.
Mũi trải cao 2 thước (0,8m) so với mặt nước, không vát nhọn mà ngang
bằng, được đai một vòng kim loại bảo vệ chắc chắn, tránh bị vỡ khi húc vào bờ hoặc chướng ngại. Đầu mũi trải có gắn với một đầu rồng tượng
trưng bằng gỗ gọi là "ống réo". Lòng trải rộng vừa phải, đáy hơn 1 thước
(0,5m) phần tiếp nước không phẳng, mà như một cung tròn hình bán
nguyệt khiến trải lướt nhanh dễ dàng. Đuôi trải cao so với mặt nước chừng
2 thước rưỡi (1m) vát tạo với đáy một góc 40o sau đó xòe hình "đuôi tôm"
song song với đáy khiến toàn bộ hình dáng chiếc trải, theo các cụ từng là
trai bơi kể lại, là "đầu rồng đuôi tôm".
Bố trí cấu tạo trên trải như sau: chính giữa lòng trải có một đường
"ruột rồng" rộng gần 1 thước (30-40cm) chia trải làm hai phần dọc bằng
nhau, cao ngang bằng với bề mặt hai mạn trải và phía gắn sát đáy có đục
các lỗ thông nước. Hai bên "ruột rồng" có chỗ cho hai người làm nhiệm vụ
tát nước ngồi. Mỗi trải gồm 12 "phách" tức là các xương ngang, mỗi
"phách" cách nhau một thước, hai đầu ghép với thành mạn trải, ở giữa
ghép với "ruột rồng" được bắt vít chặt chẽ với ốc kim loại hình hoa thị.
Các mép trên của "phách" bằng bặn với mép trên thành mạn và "ruột rồng".
Dưới mỗi "phách" là một ván bưng dày 2cm để gia lực cho "phách".
Các ván bưng cũng được làm theo hình bán nguyệt khớp khít với lòng trải
và hai mạn, chúng giống các cung tròn mà phách là dây cung. Ván bưng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
447
được nối với hai đầu "phách" chắc chắn cũng bằng các ốc vít và phần tiếp
sát đáy trải của nó được đục ba lỗ, đường kính 8-10cm để thoát nước. Ngoài ra từ phách thứ 4 và 6 có hai thanh gỗ dài 2 thước, rộng 0,5 thước
được ghép bằng và dọc sát hai bên "ruột rồng" làm nơi đứng cho người
chấp hiệu. Người chấp hiệu đứng cân giữa trải, hai chân đặt hai bên "ruột
rồng", trên hai tấm ván đó.
Dầm bơi nếu cùng loại gỗ như trải là tốt nhất nhưng cũng không nhất
thiết bắt buộc phải như vậy mà có thể bằng gỗ thông dụng như xoan, bạch
đàn. Dầm bơi có hình lưỡi mai dài 3 thước (1,2m) trong đó phần cán dài 2
thước (0,7m), phần mái dầm hơn 1 thước. Dầm của "tích" nào mang màu sắc riêng của "tích" ấy. Ví dụ:
Dầm bơi của trải Trung Toán có màu trắng và khắc chìm chữ "Toán";
dầm bơi của trải Đông Đào màu đỏ cùng chữ "Đông" khắc chìm và dầm
Thượng Thắng màu xanh cùng chữ "Thượng".
Bánh lái có dáng gần như bánh lái các thuyền ngày nay, phần cán
tròn sơn màu đỏ và phần ngập nước dẹt và sơn trắng.
Trên mỗi trải có khoảng 30 người có sức vóc khỏe mạnh, nếu trung
bình mỗi người là 60kg thì trải có sức chở là 1,5 đến 1,8 tấn. Trong tổng số người ấy gồm một người chấp hiệu (đánh mõ), hai người lái, một người
phất cờ, hai người tát nước và hai mươi tư trải bơi.
Để vào đua, người ta phải tập luyện trước hàng tuần để thành thục
hiệu lệnh, động tác, vị trí đến nội qui. Do hàng năm có thay đổi về nhân sự
nên việc tập luyện lại càng cần thiết.
Trải được cất giữ, trông nom trong nhà để trải mà người ta gọi là
"xiểng trải" hay "quán trải". Ba quán trải của Đào Động ở cách đình bơi 50m và làm thành một dãy thông nhau tương tự như nhà ống ngày nay,
theo thứ tự quán Trung Toán thứ nhất, ở giữa là quán Đông Đào và cuối
cùng là Thượng Thắng. Quán trải gồm 7 gian, mỗi gian dài 5 thước ta và
lòng chỉ rộng hơn trải một ít sao cho mỗi bên dôi ra cách hai mạn trải
khoảng một gang tay. Khung quán có hai hàng cột gỗ song song đối xứng
nhau và tra lỗ để gác các then ngang. Với cách kiến trúc ấy, việc cất trải rất
tiện lợi. Lúc cất trải, người ta tháo bánh lái, lật úp nguyên trải xuống, đẩy
vào đến đâu lắp then ngang đến đó để đỡ. Gầu và dầm để riêng. Lúc lấy trải ra thì thao tác theo trình tự ngược lại.
Đứng đầu các trải là người "cai mạn" được hội đồng kỳ mục giao phó
trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ với "tích" của mình như tư cách một
chủ thuyền.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
448
"Cai mạn" phải trông nom, coi sóc tài sản của "tích" mình: quán trải
hư hỏng, dột nát phải được khắc phục, thuyền nứt hỏng phải sửa chữa ngay, thiếu thứ gì phải bổ sung thứ đó. Mỗi "tích" được làng Đào Động cấp
cho một mẫu ruộng công để canh tác. Hoa lợi, sản phẩm thu hoạch sẽ dành
để giải quyết các khâu từ tu sửa thuyền quán, may sắm cờ quạt, vật phẩm
tế lễ thần thánh.
Tất cả chuẩn bị xong xuôi, ngày 22 tháng tám là ngày hạ trải, tiến
hành cuộc đua đầu tiên. Các trai bơi cả ba "tích" đã được tuyển chọn hợp
sức cùng nhau khiêng trải ra khỏi quán đưa xuống điểm xuất phát. Việc
này không phân biệt "tích" nào với "tích" nào, công việc là chung của cộng đồng. Cả ba trải Thượng Thắng, Đông Đào và Trung Toán được lần lượt
đưa ra và xếp một hàng ngang tại điểm xuất phát. Lúc này các dòng người
đổ về hai bên bờ sông xem đông chật như nêm cối. Ba tiếng cồng nổi lên
tập trung các "tích" vào cuối giờ Ngọ (một giờ chiều), người ta kiểm tra lại
số người, trang bị và bắt đầu xuống trải của "tích" mình. Người chấp hiệu
xuống trước, tiếp đó là người phất cờ ở khoang trống giữa phách thứ hai và
phách thứ ba nhưng đứng dưới sàn, rồi tới hai người cầm lái và hai người
tát nước. Chấp hiệu, phất cờ và cầm lái đều mặc áo chẽn loe phần dưới, đầu thắt khăn mỏ rìu đỏ, thắt lưng bao tượng đỏ hoặc vàng có bỏ mối. Cuối
cùng là hai mươi tư trai bơi đi hàng đôi xuống trải theo các vị trí hai bên từ
"phách" một đến "phách" thứ 12. Họ phải vào vị trí một cách trật tự, không
nhầm lẫn hay lộn xộn. Trang phục của trai bơi có màu sắc riêng để dễ phân
biệt các "tích". Trang phục được may sẵn rồi phân phát.
- Trai Đông Đào khăn mỏ rìu đỏ, áo trắng, quần trắng
- Trai Trung Toán khăn đỏ, áo xanh, quần trắng
- Trai Thượng Thắng khăn đỏ, áo đỏ, quần trắng.
Tất cả vào chỗ được phân công từ trước và ở tư thế sẵn sàng.
Trên đầu các trải bày tượng "ông mó" (tượng con phượng hoàng bằng
gỗ sơn son thếp vàng rực rỡ) cùng mâm cúng lễ gọn nhẹ là trầu rượu. Tới
13 giờ rưỡi, trên bờ có cuộc tế Nhị vị do hội đồng kỳ mục gồm các bô lão
và những chức sắc có uy tín (mười người cả thảy) tiến hành. Một tràng
pháo nổ giòn đanh vừa báo giờ tế vừa là hiệu lệnh xuất phát cuộc bơi. Các
trải đồng loạt hất Ông Mó cùng đồ tế xuống sông (người cai mạn sẽ có trách nhiệm vớt chúng) và xuất phát. Động tác của những người hiệu lệnh
(người lãnh trách nhiệm chỉ đạo trải) lúc này phải nhanh gọn, mạnh mẽ và
chính xác. Người chấp hiệu giậm chân, miệng hô "Giai bơi! Giai khỏe!"
Người phất cờ phải phất đúng nhịp hô của người chấp hiệu. Các giai bơi da
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
449
bánh mật, cơ bắp cuồn cuộn, một chân ép sát mạn, một chân tỳ lên phách
phía trước. Họ có tư thế vững chãi để bổ dầm bơi. Đáp lại tiếng hô của người chấp hiệu, các trai bơi đồng thanh đáp "Dô huậy!" vang động khúc
sông. Tiếng hô kết hợp chặt chẽ với động tác. "Dô!" là lúc đưa dầm lên.
"Huậy!" là lúc đổ dầm xuống. Động tác, hô hiệu và hiệu cờ đều tăm tắp
đẩy con thuyền lao vun vút đi. "Tích" nào cũng muốn giật giải về cho giáp
mình. Tiếng trống thúc đổ hồi trên bờ, tiếng reo hò cổ vũ náo nhiệt của
người xem đua ngùn ngụt bốc thôi thúc các trai bơi dốc toàn lực cho sự
chiến thắng của trải mình. Đúng là:
Trai ơn vua lúc đua thuyền rồng
Gái ơn chồng lúc bồng con trẻ.
Xuất phát từ đình bơi (nay là chợ Đồng Bằng) các trải sẽ thực hiện
một vòng tới thẻ Thượng (Đồng Đống) rồi tới thẻ Hạ (tức Cống Đôi và nay
còn gọi là Cầu Vật, dân gian còn có câu Thượng Đồng Đống, hạ Cống
Đôi) và trở về đình bơi. Thẻ là một cây tre dài 8 đến 10m ngọn tre có một
lá cờ đỏ và nhỏ được cắm ở giữa sông. Tại thẻ Hạ và thẻ Thượng đều có
một người làm nhiệm vụ giám sát chặt chẽ việc tuân thủ thực hiện các qui
định đã trở thành luật thi của các trải. Tới thẻ Thượng trải phải vòng theo tay phải mới được nhổ thẻ (thẻ Thượng cách đình bơi khoảng 2km) nếu
vòng theo tay trái mà nhổ thẻ bị gọi là "hớt" thẻ và là phạm luật, và bị loại
khỏi giải. Việc nhổ thẻ rất khó. Nó đòi hỏi hành động của các thành viên
trên trải phải nhịp nhàng nhanh gọn và dứt khoát sao cho nhổ thẻ lên mà
trải vẫn thăng bằng, không bị triềng (chòng chành), lật. Đến thẻ Hạ, người
ta cũng phải nhổ thẻ và mang về đình bơi. Hai giám sát viên là những
người do làng bầu ra, trung thực với nhiệm vụ không thiên vị trải nào. Cuộc thi sau 3 giờ (đến khoảng 16 giờ rưỡi) thì kết thúc. Trải nào về nhất,
không phạm luật là giật giải. Lễ trao giải diễn ra trước đình bơi. Giải
thưởng gồm một bánh pháo dài 1,2m, một mâm xôi và một thủ lợn do hội
đồng kỳ mục trao.
Cần chú ý là trong hai ngày 22 và 23 tháng tám mới là giải "thăm
thẻ" chỉ do ba trải của Đào Động đua với nhau.
Ngày 24 tháng tám là ngày chính tịch (hóa thần) cuộc đua, ngoài ba
trải của Đào Động còn có thêm ba trải của làng Nuồi là "tích" Tây Đô, "tích" Thủy Mã và "tích" Đông Thắng tham gia. Trước tiên, ba trải của
Đào Động cùng thi bơi lên Nuồi trước, mang tính chất mời chạ và chịu sự
giám sát của làng Nuồi. Sau đó trải làng Nuồi bơi xuống Đào Động dự đua.
Vẫn đường đua hôm trước nhưng lần này cả sáu trải dàn hàng ngang xuất
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
450
phát. Trải nào thắng cuộc trong lần này được thưởng từ 20 đến 30 (vuông)
lụa điều, một bánh pháo, 10 quan tiền xanh (sau này, những năm 30-40 của thế kỷ được thay bằng 5-10 đồng Đông Dương).
Dưới sông thì không khí tranh đua, song lên bờ lại bao trùm một
không khí chan hòa, thân ái, cùng chia sẻ niềm vui với nhau, một truyền
thống đẹp đẽ của cộng đồng, của tục "nước nghĩa" anh em.
Cuộc đua kéo dài đến hết ngày 24 tháng tám thì kết thúc trong niềm
hân hoan, đầy sảng khoái và lành mạnh của người xem và những lời chúc
mừng, hứa hẹn về cuộc đua trong lễ hội năm sau. Chiều 25, trải bơi lại tập
trung làm lễ cất trải, đưa ba trải vào quán trải giữ gìn.
Có thể nói tục đua thuyền ở Đào Động là một sinh hoạt văn hóa dân
gian hàm chứa trong nó nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp: giá trị thể thao,
văn hóa, truyền thống thượng võ và tinh thần cố kết cộng đồng./.
B.N.D
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
452
Hội Đồng Kỵ
Toan Ánh - Nguyễn Thu Minh
Làng Đồng Kỵ có tên nôm cổ là làng Cời xưa thuộc thôn Tam Trang,
tổng Nghĩa Lập, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, nay thuộc xã Đồng Quang, huyện
Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đó là một làng trù phú nằm trong vùng đồng bằng tỉnh Bắc Ninh, bên dòng Ngũ Huyện Khê thơ mộng.
Từ Hà Nội theo đường quốc lộ số 1A Hà Nội - Lạng Sơn tới thị trấn Từ
Sơn rẽ tay trái lối qua trường Đại học Thể dục thể thao Từ Sơn là tới làng
Đồng Kỵ. Xưa kia dân làng Đồng Kỵ làm nghề nông là chủ yếu, chỉ có một số
rất ít làm nghề thủ công (thợ mộc, đánh cá và tiểu thương) nhưng sau này và
nhất là bây giờ ở đây đã phát triển nhiều nghề đặc biệt là nghề mộc làm đồ
khảm trai trên các tủ chè, sập gụ, bàn, ghế v.v... rất nổi tiếng trong nước và
xuất khẩu.
Đồng Kỵ xưa vốn là một làng cổ, ở đây đã hình thành nhiều tập quán tốt
đẹp của một cư dân trồng lúa, hầu hết những phong tục ấy còn giữ được cho
tới ngày nay. Cơ sở vật chất của các di tích văn hóa như đình, chùa, đền, miếu
trải qua năm tháng ở đây vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn. Đồng Kỵ vốn
là một làng lớn của xã Đồng Quang. Xưa kia làng chia thành năm xóm là xóm
Đình, xóm Bằng, xóm Tư, xóm Giếng, xóm Nghề. Làng có chợ họp ngay cạnh
đình, một tháng 6 phiên vào những ngày 1 và ngày 6. Đình làng Đồng Kỵ là
một ngôi đình khá đồ sộ và đẹp, đình nhìn ra dòng Ngũ Huyện Khê dưới những bóng cây cổ thụ tự bao đời. Đình xây theo kiểu chữ Tam, nhìn ra hướng
Tây. Trong đình còn giữ được nhiều đồ thờ, bàn thờ được chạm trổ tỉ mỉ,
những điêu khắc và qui mô của một ngôi đình cổ kính. Tại đây hàng năm dân
làng tụ tập để tế lễ thờ thành hoàng làng và mở hội tưởng niệm công lao to lớn
của ông.
Thành hoàng làng Đồng Kỵ là ông Cương Công được vua phong là
Thiên Cương, một vị tướng có công lớn dẹp giặc Xích Quỉ thời Hùng Vương.
"Theo thần tích làng Đồng Kỵ, ông Cương Công - con trai ông Kinh Bắc
quận vương thời Hùng Vương thứ 4, có công dẹp loạn "Xích Quỉ" đã được
vua phong làm Thiên Cương. Tục truyền rằng Thiên cương trong khi phụng
mệnh triều đình đề binh đánh giặc có trở về nơi sinh trưởng (tức thôn Đồng Kỵ
ngày nay) để tuyển binh chọn tướng. ở đây ông cho lập trường thi võ, tập trận
để chọn tướng tiên phong. Vào ngày mồng bốn tháng giêng, ông ra lệnh xuất
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
453
quân đánh giặc. Thiên Cương chia quân làm 4 tốp và giao cho bốn tướng dưới
quyền chỉ huy. Trong buổi lễ xuất quân ấy, mọi người tổ chức đốt pháo, hò reo rộn rã tạo một không khí náo nhiệt, anh hùng. Khi dẹp xong giặc "Xích Quỉ",
Thiên Cương trở về làng cùng nhân dân mở hội ăn mừng" 1.
Sau này, để ghi nhớ công ơn của ông, làng đã tôn ông làm thành hoàng
và hàng năm mở hội nhân dịp ngày mồng 4 tháng giêng với các tục đốt pháo
và tranh cột Thái Bạch để nhắc lại sự tích đã kể trên.
Lại truyền rằng trước kia làng mở hai hội kéo dài gần hết tháng giêng và
hội cầu phúc từ mùng mười đến hai mươi hai tháng giêng. Sau làng giữ lại hội
Xuân Đài, tiến hành từ mùng bốn đến mùng sáu tháng giêng mà đặc điểm là thi pháo đại, nên hội được gọi là hội pháo Đồng Kỵ hay hội pháo đình Cời.
Ngày chính hội của làng là vào ngày mùng 4 tháng giêng, song sự chuẩn
bị và một số phong tục phải được tiến hành từ trước đó. Ngoài việc chuẩn bị
các đồ tế lễ, dọn dẹp chuẩn bị lau chùi đồ tế khí ở trong đình, bô lão và chức
dịch trong làng phân công nhau trong các ban tế lễ và phục dịch ngày hội. Các
gia đình trong thôn tổ chức làm pháo. Việc này được tiến hành trên cơ sở tự
nguyện tự giác tùy theo khả năng kinh tế của mỗi nhà, không bắt buộc.
Tục lệ đầu tiên trong ngày hội đó là tục tranh cột Thái Bạch. Đây là tục diễn ra trước ngày hội để nhắc lại sự tích Thiên Cương kén tướng tiên phong đi
dẹp giặc. Truyện kể rằng, vào ngày 30 tháng chạp năm ấy, ngài được lệnh
mang binh đi đánh giặc. Ngài lập tức triệu tập các tướng lĩnh dưới cờ để kén
tướng tiên phong. Các tướng ai nấy đều náo nức, ai cũng muốn quả ấn tiên
phong về tay mình. Cuộc đua tài sức ấy diễn ra hết sức quyết liệt.
Sau này, hàng năm trước khi vào hội, đêm 30 tết, sự tích tranh ấn ấy lại
được diễn ra bằng tục tranh cột Thái Bạch (hay còn gọi là tục ôm cột).
Cột Thái Bạch là chiếc cột cái bên phải nhìn từ cửa đình vào phía trước
bàn thờ thần.
Đồng Kỵ có 4 giáp là: Tiên, Thượng, Đông, Đoài. Đêm 30 Tết vào lúc
giao thừa, bốn giáp cử bốn ông cụ già nhất của giáp ra tranh cột. Thường có
sự thỏa thuận trước giữa các giáp nhường nhau luân phiên giữ cột một năm.
Song cũng có năm các giáp tranh nhau kịch liệt.
Các cụ đều ăn mặc trang phục chỉnh tề. Mũ ni, quần sồi đỏ, áo lụa hồng.
Đúng giao thừa bốn cụ lần lượt vào tế thần, xong là bước vào cuộc tranh cột. Dân các giáp vây quanh, hò reo cổ vũ cho cụ già giáp mình. Không khí đua
tranh thật náo nhiệt. Vì có một cột mà cụ nào cũng tranh ôm, nên các cụ giằng
1 Nguyễn Thu Minh: Hội pháo Đồng Kỵ và việc cải tạo, xây dựng mô hình mới. Trong "Hội
xứ Bắc", Hà Bắc, 1988, tr. 85.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
454
nhau, lôi kéo nhau, thậm chí cả vật nhau. Không ai ôm cột được lâu, cứ như
vậy mà kéo dài cho đến 6 giờ sáng thì dân làng phân xử. Cụ nào giữ được lâu và nhiều lần nhất khỏe nhất là được giải.
Đến ngày mồng 3 Tết, dân làng rước thánh từ miếu lên đình nhập tịch.
Đám rước rất long trọng. Người đi rước ăn mặc quần áo ngày hội, có sự phân
công nghiêm ngặt. Đi đầu đám rước là cờ thần, cờ hội, tiếp đến là trống,
chiêng và phường bát âm. Kiệu rước hương án, chóe nước. Sau đến hậu bành
trên để các đồ thờ bằng đồng. Rồi tới long đình để hòm sắc vua ban. Cuối cùng
là cỗ thờ, các quan đám và các cụ phụ lão. Dân làng đổ ra hai bên đường xem
và kéo theo đám rước. Tiếng kiệu, tiếng nhạc, tiếng người xen lẫn nhau tạo thành không khí nhộn nhịp vui vẻ. Thần được trịnh trọng rước lên đình để hôm
sau dự hội làng.
Trước ngày hội, làng đã cử ra ban khánh tiết gồm 16 người do 4 giáp
chọn, 4 ông quan đám nhất, 4 ông quan đám nhì, 4 ông khảo và 4 ông quan
ngoại để lo việc tế lễ rước xách. Những người này đều ở tuổi 51, lệ làng bắt
buộc phải làm.
Ngày xưa đặc sắc nhất của hội làng Đồng Kỵ là thi đốt pháo tràng, pháo
đại 1. Tương truyền rằng, tiếng pháo nổ là tượng trưng cho tiếng súng của Thiên Cương đánh giặc. Theo sự tích kể lại thì ngày mùng 4 là ngày xảy ra
trận giao tranh ác liệt giữa quân của Thiên Cương và quân giặc. Quân của
Thiên Cương đại thắng, do đó tiếng pháo ngày hội còn là tiếng súng mừng
thắng trận.
Làm pháo: Pháo thi gồm pháo đại và pháo tràng. Pháo đại chia làm pháo
nhất, pháo nhì, pháo ba... do các giáp gắp thăm về cử người làm. Quan niệm
của nhân dân cho đây là pháo thờ thần nên phải làm cẩn thận. Khi quấn pháo phải quét sạch sân, giã gừng hòa với nước mưa đun sôi rẩy khắp sân để tẩy uế.
Nguyên liệu dùng làm pháo cũng được rẩy bằng nước gừng. Những nhà làm
pháo to phải nhờ người thì những người đó tuổi từ 18 đến 50, không tang trở,
người tán thuốc pháo phải chay tịnh. Trước đây có sự cạnh tranh giữa các gia
đình làm pháo nên việc làm pháo phải hết sức bí mật. Ai cũng muốn pháo của
mình to hơn pháo người khác nên họ thi đua nhau. Vì thế khi chuyển pháo ra,
có nhà phải phá vách.
Có thể dẫn ra đây một vài kích thước: Năm 1923 quả pháo dài nhất là 15m, đường kính tới 1,52m, năm 1974 quả dài nhất là 6m, đường kính 1m.
Những năm sau đó pháo thường dài 4-5m, đường kính từ 50-70cm.
1 Chúng tôi ghi lại một phong tục xưa để nhằm nghiên cứu. Hiện tại, chấp hành nghiêm túc
chủ trương của Chính phủ, người dân Đồng Kỵ không tổ chức đốt pháo nữa (Ban biên tập).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
455
Bọc lấy thuốc trong pháo là giấy xi măng, rơm, cót, lớp ngoài cùng trang
trí hoa mỹ, bọc bằng giấy đỏ có các hình hoa lá, long, ly, qui, phượng bằng giấy trang kim nổi hoặc chìm trong thân pháo. Con rồng bằng giấy ngũ sắc bồi
nổi uốn khúc quanh quả pháo miệng rồng đồng thời là phun lửa và bắt lửa cho
ngòi pháo để quả pháo nổ. Nhìn xa trông quả pháo đại ta thấy cả một công
trình nghệ thuật đồ sộ, công phu nổi bật lên giữa muôn vàn màu sắc đẹp của
ngày hội xuân.
Rước pháo: Vào ngày hội, gia đình có pháo đại dự thi coi là một may
mắn lớn. Người ta tin rằng năm ấy sẽ làm ăn phát đạt, con cháu đề huề, mùa
màng bội thu. Vì vậy làm pháo xong, người ta còn ăn uống mời mọc họ hàng bè bạn cùng chia xẻ niềm vui.
Sáng mùng bốn tết, khoảng 9 giờ, làm lễ xong, tiến hành rước pháo ra
đình dự thi. Pháo được đặt lên kiệu, thanh niên trong giáp rước và hộ tống. Khi
cất pháo lên vai, người ta đốt một tràng pháo dài và cứ đi vài mét lại nổ tiếp
bánh khác. Thanh niên trong giáp vừa rước vừa reo hò. Đám rước có đủ lệ bộ
như cờ, quạt, chiêng, trống đi cùng. Thỉnh thoảng một người lại hô to: "Mừng
cho pháo ta một tiếng này i... a!" tất cả đồng thanh hô to "i... a!". Khi pháo hạ
xuống sân đình, người ta đốt một tràng pháo cuối cùng, rồi gia đình có pháo mang trầu cau mời bà con đến hội xem pháo.
Pháo rước ra tập trung trước cửa đình. Các chủ pháo thắt lưng nhiễu
điều, chít khăn lụa đỏ đứng bên quả pháo của mình đợi lệnh.
Đốt pháo: Trong lúc các giáp lần lượt rước pháo của mình đến thì trong
đình các quan đám và dân làng tế lễ. Cuộc tế kéo dài cho tới 10 giờ sáng thì
xong, bắt dầu cuộc đốt pháo.
Tiếng trống đánh ba hồi báo hiệu. Pháo tràng nổ trước, pháo đại nổ sau. Trước khi đốt, chủ pháo cầm hương quay vào đình làm lễ, tiến lên ba bước vái
thần, vái các quan đám và bô lão năm vái rồi châm lửa.
Pháo nổ từ 10 giờ cho đến khi hết các quả pháo dự thi. Trước khi đốt
pháo đại, người ta thường đốt pháo tràng. Pháo tràng thường dài từ 150 -
200m, phải vắt qua tường đình, cuốn vào cành cây cao mãi lên ngọn hoặc vắt
qua nhà tám mái. Mỗi tràng pháo nổ trên dưới một giờ. Tiếp đó là chuyển sang
đốt pháo đại. Trống cắt, pháo nổ và cứ sau một quả pháo nổ thì trong xuân đài
lại có bốn hồi trống lệnh của bốn giáp đánh lên. Tiếng pháo đại của từng giáp mỗi lần nổ xong, thanh niên trong giáp liền lao ngay vào chỗ pháo nổ ôm xác
pháo tung lên, reo hò mừng pháo nổ to và tan hết xác. Người ta tin rằng như
vậy trong năm sẽ gặp nhiều may mắn.
Tiếng pháo "hấp hiệu" (tức là quả pháo lớn nhất nổ sau cùng) tượng
trưng cho lệnh thu quân chiến thắng hoàn toàn. Vì pháo to nên ngòi chính của
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
456
pháo được nối với một pháo đại, đó là miệng rồng hoặc từ miệng rồng phun
lửa bén sang ngòi. Đây là cả một nghệ thuật thú vị. Trong khi đó người đốt và người xem có điều kiện tránh ra xa. Pháo đại nổ to, rung chuyển khắp làng, có
năm bay cả ngói đình. Pháo tốt là pháo nổ to, có tiếng vang âm, xác tan hết.
Còn pháo tràng phải nổ rền, giòn, đanh tiếng, ít pháo xịt, pháo rụng, như thế là
đạt. Mà chỉ châm lửa một lần, nổ cho tới hết tràng pháo.
Giải thưởng rất đạm bạc. Pháo nhất được một dây bánh dầy, một quả
cam, một tấm mía và một miếng trầu. Phần thưởng chỉ mang ý nghĩa tượng
trưng, thiêng liêng bởi ai cũng cảm thấy tự hào vì đã được tham dự ngày hội
pháo. Người ta tin rằng gia đình được giải sẽ gặp may mắn lớn và mùa màng năm đó bội thu. Sau khi thao pháo xong, dân làng tổ chức dô ông đám (tung
ông đám trước cửa đình) tượng trưng cho khí thế chiến thắng. Những ông đám
được các trai giáp rước, múa, nổi lên giữa đám đông như những bông hoa, nên
còn gọi là múa hoa. Song trò diễn này cốt đề cao tinh thần thượng võ, phô
trương sức khỏe và ý thức quần thể.
Từng giáp một, đám thanh niên mình trần đóng khố đỏ cùng nhau kiệu
trên vai ông đám của giáp họ. Ông đám mặc quần màu hồng thắm bằng nhiễu,
vóc hay lụa tùy theo khả năng của từng ông. Các ông được kiệu lên vai trai đinh đi quanh đình ba vòng giữa tiếng chiêng, trống lẫn tiếng reo hò của dân
làng. Sau ba vòng các ông được ngồi vào chiếu cạp điều trải ở giữa đình, ngay
trước bàn thờ thần. Ông đám thường là người cao niên trong giáp.
Ngày mùng năm thi đấu vật. Trai các giáp sẽ nô nức ra đua tài đua sức
giành giải cho giáp mình. Xới vật diễn ra vô cùng náo nhiệt và hấp dẫn. Ngoài
ra còn có các đô vật ở nơi khác về đây giành giải với trai Đồng Kỵ.
Thi bánh dầy: ngày 6 tháng giêng, tục truyền là ngày Thánh khao quân. Theo lệ làng, chỉ các cụ ông cụ bà từ 52 tuổi trở lên mới được dâng lễ vật.
Muốn vậy mỗi cụ phải đem ra đình năm nong, năm nia, năm mẹt, năm mâm
hoặc năm đĩa bánh dày. Nhiều ít, to nhỏ tùy tâm, tùy cảnh nhà, nhưng nhất
thiết phải là năm.
Gạo là loại nếp cái đều hạt, thơm nõn. Bánh phải được giã có kỹ thuật
sao cho khi vắt bánh phải mịn, dẻo, trắng. Khuôn to nhỏ tùy theo ý định của
người làm. Trên mặt mỗi bánh đều dán miếng giấy đỏ tròn, có chữ thọ cắt
bằng giấy trang kim lóng lánh. Xong xếp ra nong, nai, mẹt, mâm hay đĩa.
Sáng mùng 6 rước bánh ra đình. Kèm theo còn có mười quả cam ngọt,
mười đoạn mía dài róc vỏ và tiện sẵn, một con gà trống được luộc thật khéo,
được uốn nằm trong tư thế đẹp, miệng ngậm bông lựu hoặc bông hồng.
Khi cỗ mang ra được bình chấm và cúng thần. Sau đó chia đều cho các
xuất đinh từ lọt lòng cho đến thượng cụ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
457
Ngoài những phong tục đặc biệt đã kể trên, cũng như bao hội làng khác
ở nước ta, hội làng Đồng Kỵ còn có nhiều trò vui phổ biến như đấu cờ người, chọi gà, bịt mắt bắt dê, đu v.v... Tất cả những trò chơi ấy góp phần làm cho hội
làng phong phú và hấp dẫn.
Có thể nói rằng, dưới lớp vỏ bọc của ngày hội pháo hôm nay, ta vẫn thấy
ẩn tàng những dấu tích của một nền văn hóa xa xưa của người Việt cổ, một cư
dân trồng lúa nước của vùng Đông Nam á. Cũng như tất cả các dân tộc làm
nông nghiệp trên thế giới, người Việt cổ xưa luôn cầu mong một mùa màng
bội thu, một cuộc sống sung túc, sinh sôi nảy nở. Dấu tích của tín ngưỡng phồn
thực, tế bánh dầy, thi gà béo... chính là thể hiện niềm ao ước đó. Và hiển nhiên, đối với cây lúa nước, yếu tố nước đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Không
phải ngẫu nhiên mà tục ngữ Việt Nam có câu "Nhất nước, nhì phân, tam cần,
tứ giống". Vì thế, để có một mùa màng thịnh vượng thì mưa thuận gió hòa là
vô cùng cần thiết. Tiếng pháo ngày hội chính là tượng trưng cho tiếng sấm để
đem lại những trận mưa đầu mùa. Tiếng sấm làm cho:
Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.
Có lẽ cội nguồn sâu xa của ngày hội pháo tưng bừng là ở những ý nghĩa đó của tín ngưỡng phồn thực.
Đương nhiên, cũng như tất cả các yếu tố văn hóa khác của một dân tộc,
hội Đồng Kỵ cũng là một quá trình tiếp thu và loại trừ. Tiếp thu những yếu tố
văn hóa phù hợp, hợp thời đại và loại trừ những cái cũ, không hợp thời. Việc
chấp hành chỉ thị của Chính phủ trong việc dùng pháo nổ của người dân nơi
đây, cũng chính là thái độ ấy. Hình ảnh vị thần Thiên Cương chống giặc giữ
làng, giữ nước là một sự tiếp thu tích cực của ngày hội, phù hợp với nhu cầu của lịch sử và phù hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam./.
T.A - NTM
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
459
Hội đền Đồng Nhân
Hà My
Làng Đồng Nhân thuộc quận Hai Bà Trưng, ở về phía nam thành
phố Hà Nội. Làng này có đền thờ Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị. Đền
thờ Hai Bà ở ngay trước cửa nhà máy rượu, cách đường Nguyễn Công
Trứ chừng trên, dưới 500 thước.
Theo truyền thuyết, khi dân làng Đồng Nhân vớt được tượng Hai Bà liền báo lên triều đình, thì vua Lý Anh Tông lập tức cho lập đền thờ
Hai Bà vào năm 1142. Nhưng theo Toàn thư, thì đền được xây dựng vào
năm 1160. Đền được dựng trên bãi Đồng Nhân cạnh bờ sông Hồng. Đến
năm 1819, khi sông Hồng chuyển dòng, bãi bồi sụt lở thì đền được dời
vào trong thôn Hương Viên cũng thuộc làng Đồng Nhân. Đền toạ thế
trên nền đất cạnh chùa làng thuộc khu Võ Sở (nơi luyện võ thời Lê) từ
lúc đó cho đến nay.
Trước đền có một hồ bán nguyệt. Một hàng cột có nhiều câu đối nhưng nay đã bị vỡ nhiều. Tiếp đến là một cái sân rộng. Trước kia bên
phải sân có một cây đa cổ thụ, cành lá tươi tốt. Ngày hội nhân dân
thường treo những đôi giày và những bó hương để tưởng nhớ đến những
người hầu cận của Hai Bà. Vì qua những lần tu sửa cây đa đã bị chết và
bây giờ đã được trồng bằng cây đa mới. Gần cây đa có một tấm bia khá
lớn. Đó là bia Trưng Vương sự tích bia ký do tiến sỹ Vũ Tông Phan soạn
năm 1840. Nội dung văn bia biểu dương sự nghiệp của Hai Bà cũng như
việc dời đền từ bãi vào làng như thế nào!
ở nhà tiền tế, bên trên có hai thớt voi sơn đen. Sát tường bên trái
có một tấm bia do cử nhân Dương Duy Thanh soạn năm 1848 cũng mang
tên Trưng Vương sự tích bia ký. Nội dung bia này giống như văn bia của
tiến sỹ Vũ Tông Phan soạn năm 1840.
ở hậu cung có tượng Hai Bà đặt trên bệ cao. Tượng không đội
mũ, hai tay đưa ra phía trước (tất nhiên không được đúng với
truyền thuyết).
Tích truyện kể rằng1 sau trận chiến bại cuối cùng, Hai Bà gieo
mình xuống sông Hát thì hoá thành hai pho tượng đá từ ngoài sông Nhị
1 Xem thêm về Hai Bà trong bài Hội làng Hạ Lôi.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
460
xuôi dòng dạt đến bãi Đồng Nhân. Một hôm, ở làng chài Bố Lính (tức
bãi Đồng Nhân) khi đi đánh cá về cắm sào xuống sông để cột thuyền vào
bờ, ngay tối đó, cụ Tiên Chỉ được người báo mộng rằng: "Cắm sào vào
tay Mẹ rồi!" Sáng hôm sau cụ triệu tập dân làng lại, báo tin này cho mọi người biết. Làng liền phân công một người lặn giỏi lặn xuống sông thì
thấy có hai pho tượng vừa trôi đến đầu bãi Đồng Nhân, dân làng định
kéo vớt lên nhưng không sao vớt được. Sau đó làng làm lễ xin vớt hai
pho tượng lên thì lại được báo mộng là muốn vớt được tượng phải dùng
dây hồng điều chứ không được dùng dây thừng. Dân làng làm y như lời
báo mộng và rước được hai pho tượng lên. Đó là tượng Hai Bà Trưng.
Tượng đá lớn và nặng, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay
chỉ lên trời, một chân quỳ, một chân ngả. Nghe các cụ kể lại: hai pho tượng oai phong lẫm liệt như đang còn ra sức vẫy vùng trong đám ba
quân, và, từ hai pho tượng ánh hào quang toả sáng lung linh. Có thể là do
khí anh linh của Hai Bà kết thành.
Trở lại hậu cung của đền Đồng Nhân, bên tượng Hai Bà còn có
tượng 12 nữ tướng. Điều đáng chú ý là ở nhà tiền tế cũng như ở hậu cung
có nhiều câu đối hay như:
"Nhân miếu, tôn tượng túc thanh cao, hào khí như sinh, Bắc có
mục trung vô Hán quốc.
Hán thuỷ môn, nộ đào thời chấn đãng anh phong bất tử, Nam âm
sử thượng hữu Bà Vương".
(Khuyết danh)
Tạm dịch là:" Miếu Đồng Nhân, tượng báu trang nghiêm, hào khí
như còn, ngoảnh ngó Bắc phương không nước Hán.
Cửa sông Hát sóng hờn sôi sục, anh phong không dứt, tiếng vang
Nam sử có Vua Bà".
Hoặc một câu đối khác:
"Khả liên Hán đế xương Quang Vũ
Bất để thoa quần khởi nghĩa binh"
(Khuyết danh)
Tạm dịch là: "Khá thương vua Hán phô văn mẽ
Khôn đọ quần thoa dấy nghĩa binh".
Ngoài những điểm đã nói ở trên, còn một điều chú ý nữa phía bên
phải đền thờ Hai Bà là ngôi đình và bên trái là chùa của làng này. Chùa
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
461
có tên là Viên Minh tự (chùa Viên Minh). Tên này bắt nguồn từ một sắc
phong năm 1533. Vào năm đó - năm Nguyên Hoà thứ nhất đời vua Lê
Trung Tông - có sắc phong cho Hai Bà là Quảng Giáo Viên Minh Linh
Thạch Trưng Vương phật (chữ Viên Minh lấy từ pháp hiệu này).
Qua sự tích đền Đồng Nhân kể trên, có thể hiểu rằng từ đời Lý, từ
hai vị anh hùng cứu nước, Hai Bà Trưng đã được vương triều này tôn lên
là hai nữ thần bảo hộ nông nghiệp. Từ đời Lê Trung Hưng, hai Bà lại
được rước tôn lên làm Phật.
Hội đền Đồng Nhân kéo dài bốn ngày, từ mùng ba tới mùng 6
tháng 2. Nhưng ngày hội chính là ngày mùng 6 tháng 2. Trong những
ngày hội có tế lễ rước xách, múa đèn theo nhịp trống của con đĩ đánh
bồng; mở cuộc đánh bờ bỏi, và xưa kia thường có hát chèo để đồng dân mua vui.
Lễ rước nước sông Hồng: lễ này được coi như điểm chốt của lễ
hội, và đây có lẽ là hình thức hội nước (thờ nước cầu mưa), một lễ tiết tín
ngưỡng nông nghiệp nguyên thuỷ mà ở đây trộn lẫn với chủ đề lịch sử
(tưởng niệm Hai Bà).
Từ 8 giờ sáng, những người được phân công đã đưa voi, kiệu, cờ
quạt.v.v... ra sân đến để cử hành đám rước. Đám rước diễu hành một
cách uy nghi giữa tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tụng niệm của các cụ già. Đi theo đám rước còn có hàng trăm dân làng
hay người dân phố. Đặc biệt các thôn ở hai bên đường đám rước đi qua
đều bày hương án bái vọng. Đám rước đi theo một lộ trình nhất định, khi
đến bờ sông Hồng thì dừng kiệu lại, rước kiệu xuống thuyền. Thuyền này
ra giữa dòng sông, chỗ có nước trong sạch, lấy gáo múc nước vào đôi
choé. Làng đã chọn hai bà lão goá chồng đức hạnh làm công việc tắm và
thay áo mới cho tượng. Số nước còn lại sẽ dùng để cúng quanh năm.
Sau khi đám rước quay trở về đền thì bắt đầu làm lễ tế. Có năm
còn tổ chức tế nữ quan, tức là mọi thủ tục tế lễ đều do phụ nữ hoàn toàn
đảm nhiệm từ chủ tế, bồi tế cho đến các chấp viên. Nghi thức lễ cúng
giống như khi do các quan viên trong làng cử hành.
Múa đèn và con đĩ đánh bồng: Trong buổi hành lễ, sau đám lễ, tại
đền có đoàn vũ công múa đèn theo nhịp trống của con đĩ đánh bồng...
Đây cũng là một tiết mục sinh hoạt văn hoá dân gian hấp dẫn trong lễ hội
này. Đội múa đèn gồm 10 thiếu nữ mặc áo dài đen, thắt lưng đỏ buộc ở ngoài áo, múi buộc chéo cạnh sườn. Đèn là những đài hoặc đĩa chung
quanh cắt giấy hình cánh hoa dán vào, giữa đài là một ngọn nến đang
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
462
cháy. Người múa hai tay cầm hai đèn đi thành hai hàng, lượn qua lượn
lại trước ban thờ, khi thì đi nối đuôi nhau, khi thì đi theo hàng lối khác,
khi chéo, khi thẳng, khi vòng tròn, khi kẻ trước gặp người sau, khi xếp
thành một hàng, khi tách thành hai hàng đối diện nhau trước ban thờ. Động tác múa rất nhịp nhàng, đan lượn nhau, tay đưa lên đưa xuống,
dưới ánh sáng chập chờn, khi tỏ khi mờ của những ngọn nến mà không
để nến tắt hoặc cháy lan ra cánh hoa giấy. Đó là nét đặc sắc và cũng là sự
thể hiện khéo léo cái đẹp độc đáo của điệu múa đèn.
Dẫn đầu đội hình của điệu múa đèn này có một nhân vật mà nhân
dân ta thường gọi là "con đĩ đánh bồng" nhưng lại do một người đàn ông
đóng. Người này mặc áo dài thâm, quần trắng, khăn lượt, trên vai có
quàng những dây vải ngũ sắc, vai đeo một cái trống cơm, sau lưng có cắm chéo lên hai vai từ 2 đến 4 lá cờ đuôi nheo nhỏ. Người này làm ra bộ
dáng điệu mềm mại, ẻo lả, vừa đi vừa vỗ hai tay vào cái trống cơm với
nhịp "bập bùng, bập bùng" giữ nhịp và làm cho điệu múa càng thêm rộn
ràng, linh hoạt.
Cờ bỏi và hát chèo: ở một thửa ruộng bên cạnh đền, xưa kia có
một bàn cờ bỏi để dân làng hoặc các tay danh kỳ tới đánh cờ góp vui cho
ngày hội.
Buổi tối, trước đền có ban chèo đến để hát thờ thần và phục vụ dân làng giải trí.
Thường thì vào ngày mùng 6 dân làng Đồng Nhân cùng với một
số làng (những nơi có đền thờ Hai Bà) như: làng Hạ Lôi, Hát Môn,
Phụng Công, cùng đến dâng hương tế lễ. Tuỳ theo tình hình của từng địa
phương nhưng mỗi làng thường cử khoảng 60 cụ về dự lễ.
Trong mấy ngày lễ, các đồ cúng lễ thường gồm: cúng chay, cúng
xôi thịt, cúng bánh dày...
Hội làng Đồng Nhân cũng như nhiều hội của các làng khác giữa
yếu tố lịch sử và yếu tố tín ngưỡng dân gian thường đan xen hoà quyện.
ở đây ngoài tưởng nhớ đến công lao to lớn của Hai Bà cùng các tướng
lĩnh, còn có lễ rước nước, múa con đĩ đánh bồng, cúng bánh dày, phải
chăng là những tín ngưỡng nguyên thuỷ của cư dân nông nghiệp còn
đọng lại cho đến ngày nay./.
H.M
------------
Bài có sử dụng tư liệu của:
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
463
1, Trần Tiến, bản viết tay, 1991.
2, Lê Hồng Lý, bản đánh máy.
3, Toan ánh, Nếp cũ hội hè đình đám- quyển thượng, tái bản, Nxb thành
phố HCM, 1992.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
464
Lễ hội Đồng Xâm
Phạm Minh Đức- Phạm Thị Nết
- Phạm Thị Lan
Theo thần tích, đền Đồng Xâm do Triệu Vũ Đế xây dựng năm
214 (trước CN). Đến năm 137 (trước CN) sau khi vua Triệu chết (thọ 120
tuổi), ngôi miếu ở Đường Thâm (Đồng Xâm) chính thức được coi là chính
từ 1. Năm tháng qua đi, ngôi đền cổ đó đã bị mục nát cùng thời gian. Cho
đến năm 1920- 1925, nhân dân ở 13 làng của tổng Đồng Xâm cũ (gồm
Hồng Thái, Trà Giang và một phần xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương
ngày nay) đã tiến hành cuộc vận động xây dựng lại ngôi đền theo kiến trúc thời Nguyễn.
Đền Đồng Xâm được xây dựng trên một địa bàn rộng, thoáng từ
bờ đông sang bờ tây sông Đồng Giang, thuộc đất của hai làng Đường
Thâm và Vân Cước cũ. Nhìn chính diện từ cửa đền: bờ phía tây là toà các
lâu năm cửa, cao gần 20 mét. Dưới sông gần bờ phía đông, là toà thuỷ tạ
hình lục lăng. Trên sông xây hai cầu gạch lớn, làm thành hai đường đưa
khách tham quan vào hai khu đền chính. Một công trình điêu khắc hoành
tráng, lưỡng long ngũ hổ trên dãy giả sơn, tất cả đều hướng vào toà đại bái.
Bên tả, bên hữu là hai dãy hành lang được tôn cao nối liền mỗi bên
hai cổng vọng lâu, đối xứng qua sân tế ở chính giữa. Qua toà đại bái tới
toà trung đình rồi đến hậu cung nơi đặt tượng đức thánh Triệu và bà Trình
Thị. Phía sau khu đền là khu chùa Duông và am thờ vị tổ nghề kim hoàn.
“Ông tổ”nghề kim hoàn ở Đồng Xâm (Hồng Thái) là Nguyễn Kim
Lâu. Ông quê ở châu Bảo Lạc Tuyên Quang (sau này thuộc huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng). Trong quá trình làm nghề, xuống đến Đồng Xâm ông
đã có công dạy cho dân ở đây biết nghề kim hoàn. Để ghi nhớ người có
công khai sáng ngành nghề, những người thợ bạc Đồng Xâm đã tôn ông là
ông tổ của nghề này ở làng mình. Hiện nay ở Đồng Xâm vẫn còn lưu giữ
một tấm bia nói về công trạng của Nguyễn Kim Lâu như sau: “Hoàng
triều Chính Hoà thập niên, tổ phụ hành nghề “bổ chữ đồng ngoa”, Thượng
châu Bảo Long tụ lạc học nghệ đáo Đồng Xâm xứ, kiến lập thập nhị
1 Thần tích đền Đồng Xâm xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình, Phạm Đức
Duật dịch.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
465
phường kim hoàn truyền nghệ”. (Triều vua Chính Hoà thứ 10 (1689), tổ
phụ Nguyễn Kim Lâu làm nghề kim hoàn ở châu Bảo Long đến xứ Đồng Xâm lập 12 phường truyền nghề).
Hiện nay ngôi chùa thờ Nguyễn Kim Lâu vẫn được gìn giữ, tu bổ,
sửa sang lại. Chùa Đường cùng đền Đồng Xâm đã tạo nên một quần thể
kiến trúc vừa mang tính tráng lệ nguy nga vừa mang vẻ thâm u nơi linh địa.
Nơi đây, hàng năm cứ đến ngày 1 tháng 1 âm lịch lại diễn ra hội lễ sôi
động, thu hút hàng vạn khách thập phương.
Cho đến nay, người dân ở Hồng Thái cũng chưa lý giải được vì sao
hội đền Đồng Xâm lại mở vào ngày 1 tháng 4 hàng năm. Phải chăng hội
đền Đồng Xâm cũng nằm trong lịch hội phổ biến của các hội vùng, hội
làng khác: xuân- thu nhị kỳ. Nghiên cứu hành trạng của “Hoàng hậu
Phương Dung Trình Thị đại vương” người được đặt tượng thờ tại hậu
cung của đền, thì ngày 1 tháng 4 là sau 100 ngày mất của Bà (20 tháng
12). Rất có thể hội mở ra vào ngày này để tưởng nhớ đến người con gái họ
Trình của quê mình đã từng làm hoàng hậu của nhà Triệu, và nhờ đó mà
khu di tích này mới có điều kiện tu bổ, sửa chữa và được lưu giữ.
Xưa kia, hội đền Đồng Xâm kéo dài trong 3 ngày (từ ngày 1 tháng
4 đến ngày 3 tháng 4 âm lịch).
Để có hội tháng 4 thì ngay từ cuối tháng 3, các chức sắc trong xã
thôn đã họp bàn chọn người giữ chức mạnh bái, chức đọc văn và chức
thông xướng. Thường thường người giữ chức mạnh bái thuộc thôn Cả-
thôn Thượng Gia; người đọc văn của thôn Tả Phụ hoặc Hữu Bộc; các thôn
khác chọn người vào phụ tế. Cuộc họp bàn cũng dự kiến các tế viên và
đặc biệt bàn tổ chức thi bơi trải- hoạt động chủ yếu của lễ hội ở đây.
Ngày 26- 3 làng làm lễ mở cửa đền. Mọi việc chuẩn bị được kết
thúc bằng lễ tế mộc dục (lễ tắm tượng) do các vị mạnh bái, đọc văn, thông
xướng tiến hành tại đền chính vào ngày 30- 3.
Cũng như nhiều hội làng khác, hội đền Đồng Xâm được chia thành
hai phần lễ và hội rất rõ rệt cả về thời gian và địa điểm.
Sáng mùng 1 tháng 4: lễ rước Thánh Bà từ đền Thượng Hoà ra đền
chính được tổ chức thật uy nghiêm và độc đáo. Đoàn rước gồm toàn gái đồng trinh và là con cháu các vị chức sắc trong xã. Những người trong
đoàn rước ăn mặc đồng phục trang phục ngày hội, tay cầm chấp kích, bát
biểu, một số được chọn khiêng kiệu võng. Đối với hội lễ Đồng Xâm, lễ
rước Thánh Bà được coi là lễ trang nghiêm và trang trọng nhất.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
466
Sau khi đám rước đã về đến đền chính, trên sàn tế chính giữa đền,
lễ tế cũng được bắt đầu và cùng thời điểm này, tại các điểm: chùa Đường, chùa Tả Phụ, đền Thượng Hoà cũng diễn ra lễ tế thật uy nghiêm. Nhìn
chung các năm, lễ tế, rước được diễn ra vào sáng mùng 1 tháng 4 và kết
thúc vào chiều 3 tháng 4 bằng cuộc rước Thánh Bà từ đền chính về đền
Thượng Hoà, kết thúc ba ngày hội.
Khoảng thời gian còn lại: từ chiều mùng 1, ngày mùng 2 và sáng
mùng 3 tháng 4 dành cho hoạt động hội thật phong phú và sôi động, trong
đó cuộc đua trải trên sông Đồng Giang trước cửa đền đã thu hút hàng vạn
người đi hội.
Từ trước đến nay đua trải đã trở thành hoạt động chủ yếu trong
ngày hội ở Đồng Xâm. Bởi vậy ngay từ rất sớm, ban tổ chức đã lo chuẩn
bị cho cuộc đua này thật chu đáo. Ngay trong cuộc họp bàn của các vị
chức sắc vào ngày 20- 3 đã giành một thời gian khá dài bàn về cuộc đua
trải. Thông thường tổng Đồng Xâm có 7 trải: Thượng Gia, Tả Phụ, Hữu
Bộc, Thượng Hoà, Thuyền Định, Lãng Đông (Trà Giang); Đắc Chúng
(Quốc Tuấn).
Nếu trải nào không tham dự cuộc đua trong hội hàng năm thì ngay trong cuộc họp này phải báo cáo cụ thể, nếu không làng sẽ phạt lỗi và sau
3 năm mới được tham dự giải.
Ngày 23- 3, ngày mở cửa đền chính, cũng là ngày làng làm lễ hạ
trải. Lễ hạ trải thường là thủ lợn, mâm xôi (có năm một con gà và mâm
xôi). Lễ này do mạnh bái sắm và đặt ngay tại đầu trải để lễ Thánh và lễ
Hà Bá. (Ngoài ra trong mỗi ngày đua đều có lễ riêng). Sau lễ hạ trải người
ta tổ chức bơi tập để chọn và luyện giai bơi. Khi đã chọn đủ số giai bơi chuẩn bị cho cuộc đua, làng giao cho ông mạnh bái chọn trong số giai bơi
đó lấy người cầm lái, lo nuôi giai bơi ăn, ngủ tập trung từ 26-3 đến ngày
vào đua. Nguồn kinh phí này dựa vào thu sản phẩm trên ba mẫu ruộng hậu
của đền và các làng, các gia đình ủng hộ.
Ngoài việc lo tập luyện cho giai bơi, trong ba ngày 28, 29, 30
tháng 3 làng chọn ngày tổ chức bốc thăm bơi. Khác với các cuộc đua trải
ở các địa phương, ở Hồng Thái phải bốc hai loại thăm: thăm phân bảng và
thăm đường bơi. Trong 7 trải bơi phân bảng làm hai loại: loại 1 (4 trải) và loại 2 (3 trải) đồng thời bốc thăm đường bơi, (vì bơi trải ở Đồng Xâm có
điểm xuất phát lệch nhau). Thăm đường bơi cũng có hai loại: 2 trải chạy
(1 chạy thượng lưu và 1 chạy hạ lưu) và 2 trải đuổi (1 đuổi thượng lưu và
1 đuổi hạ lưu). Với cách đua này nên lúc nào trên sông cũng có trải đua.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
467
Sau thời gian tích cực chuẩn bị, hội đua trải ở Đồng Xâm được bắt
đầu vào chiều ngày 1-4. Ngay từ 11, 12 giờ trưa người đi hội đã nườm nượp đổ về đứng kín hai bên bờ sông Đồng Giang nối dài mấy cây số.
Trên toà lục lăng các quan chức đã có mặt đông đủ. Dưới sông, trên mỗi
trải các giai bơi mặc quần áo đồng phục với 7 trải là 7 màu quần áo khác
nhau nên rất dễ phân biệt. Trên mỗi chiếc trải gỗ dài 11 mét, rộng 1,1 mét
người xem thấy 6 cặp bơi tay cầm những chiếc dầm bơi dài 60cm, một
người đánh mõ, một người tát nước, tất cả gọn gàng trong trang phục: áo
ngắn tay đóng nẹp, quần đùi đóng nẹp có thắt lưng, đầu chít khăn màu và
ông lái- với áo dài the, quần trắng, đầu khăn xếp và đội nón dứa. Các trải đã trong tư thế sẵn sàng.
Sau ba hồi chuông, tiếng người dịch loa từ toà lục lăng dõng dạc:
“Giai bơi nghe cho lọt, rạp lưng xuống...” và sau một tiếng trống, gọn
cũng phát đi từ toà lục lăng, từ các điểm xuất phát các trải vun vút lao đi.
Trên hai bờ sông Đồng Giang cũng diễn ra “cuộc đua” của các cổ động
viên. Trên lối giành riêng cho cổ động viên, người xem thấy xuất hiện rất
nhiều người của các làng có trải dự đua, tay gõ chiêng, trống, lệnh, chạy
theo động viên trải của làng mình làm cho không khí cuộc đua càng sôi động trong không gian 1500 mét từ tiêu hạ (chùa Lãng Đông) đến tiêu
thượng (đền Thượng Hoà).
Sau ba vòng bơi, trải nào về nhất, nhì, ba được làng thưởng tiền và
đặc biệt trải nào giành giải nhất cả ba buổi đua được nhận thêm giải (ở
Đồng Xâm gọi là giải lèo). Giải thưởng cho đua trải thường bằng tiền,
ngoài ra còn có quà tặng của những người đi dự hội trao tận tay các giai
bơi.
Ngày mùng 3-3 trải nào thắng cuộc được làng tổ chức rước trải và
rước giải về làng mình rất linh đình.
Hội đền Đồng Xâm ngoài bơi trải còn có nhiều trò vui khác: múa
rối nước, đấu cờ người, tổ tôm điếm, đấu vật và đặc biệt là hát chèo, hát
ca trù. Có thể nói hội đền Đồng Xâm đã trở thành tụ điểm của những nghệ
nhân và những người ưa thích môn nghệ thuật này.
Xưa kia gần đền Đồng Xâm còn có một ngôi đền có tên là đền Ca
Công. Tại đây còn giữ lại một văn bản Hán nôm chép rằng: Khi xưa Triệu Vũ Đế đi tuần thú đến làng Đường Thâm (sau đổi là Đồng Xâm) lấy bà
Trình Thị phong làm hoàng hậu và lập hành cung ở đấy. Khi Bà mất, nhà
vua cho con cháu 36 thỏi vàng. Sau con cháu bán vàng lấy tiền mua 36
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
468
mẫu ruộng làm tự điền. Đời sau con cháu Trình hoàng hậu chuyên giữ
việc ca công và cũng có nhiều đào kép hay nổi tiếng.
Ngày nay ở Đồng Xâm vẫn còn lưu truyền một bài ca trù có tên
Đồng Xâm chính từ phong cảnh ca. Bài ca không chỉ nói đến cảnh quan
cùng không khí ngày hội mà còn khẳng định đền Đồng Xâm như một
chứng tích lịch sử:
“ Đồng Giang địa thế.
Chốn hành cung thánh đế dựng ra...
... Xinh kính thay, buổi xuân rồi sáng hạ.
Gió hiu hiu hương xạ thoảng bay.
Gái thuyền quyên quạt ngọc đan tay
Trai tráng sĩ buổi này tranh giải nhất.
Trên bãi nhạn lệnh hồi cờ phất.
Dưới dòng quyên, thuyền dắt trải lên...”1
Xưa kia ở Đồng Xâm, khi ba ngày hội đã kết thúc, riêng hát chèo
và hát ca trù văn còn kéo dài hàng tuần và có năm kéo dài hàng tháng.
Điều này đã nói lên sự hâm mộ của nhân dân nơi đây với bộ môn nghệ
thuật truyền thống này.
Ngày nay, về dự hội đền Đồng Xâm, chúng ta không chỉ trở về
một vùng quê có nghề chạm bạc nổi tiếng, nơi có phong cảnh hữu tình
cùng công trình kiến trúc khá nổi tiếng của vùng Kiến Xương và của Thái
Bình; mà còn như được sống lại không khí của lễ hội cổ truyền./.
P.M.Đ - P.T.N – P.T.L
---------------------
Phụ bản: Nguyễn Thanh - Đào Hồng, khi quan tâm đến lễ hội này, có ít
nhiều chi tiết khác, xin được dẫn như sau (từ Tạp chí VHDG số 4/97 trang
34- 36): “...Cho đến nay, trong tâm thức của nhiều người, nghĩ đến hội
đền Đồng Xâm thường chỉ nghĩ đến nơi thờ Triệu Đà (Triệu Vũ Đế) mà
chưa hiểu hết rằng đền Đồng Xâm nằm trong một quần thể kiến trúc có
quy mô hoành tráng, rộng lớn trong đó có đền thờ Trình Thị hoàng hậu
(vợ vua Triệu Vũ Đế) gắn với một làng chèo, làng ca trù nổi tiếng và đền
1 “Đồng Xâm chính từ phong cảnh ca, Phạm Đức Duật sưu tầm và phiên dịch.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
469
thờ Nguyễn Kim Lâu (thế kỷ XV), vị tổ nghề chạm bạc cổ truyền và hệ
thống đền chùa nằm kề sông Vông gắn với tục đua thuyền trong ngày hội.
Nếu không kể đến ngôi chùa Lãng Đông (nay thuộc xã Trà Giang)
và hệ thống đền chùa thờ Trình Thị hoàng hậu nằm dọc theo trục uốn
vòng của đường đua thuyền thì khu trung tâm của cụm di tích đền Đồng
Xâm đã là một tổng thể kiến trúc đồ sộ với gần 1.000 mét vuông xây
dựng, gồm các công trình kiến trúc chính như:
1. Vọng lâu
2. Cầu xây gạch cuốn vòm bắc qua sông Vông.
3. Nhà Thuỷ tạ (tọa)
4. Hoành mã
5. Hệ thống tả vu- hữu vu
6. Sân tế
7. Toà tiền tế
8. Phương đình
9. Toà điện thờ
10. Hậu cung nơi Thánh Triệu Đà và Trình Thị hoàng hậu hậu ngự
11. Hệ thống chùa Kim Tiên
12. Nhà thờ Tổ sư nghề chạm bạc.
Cho đến nay vọng lâu và cây cầu gạch dẫn đường vào đền không
còn. Sự nguy nga bề thế của tổng thể kiến trúc này có thể tính từ nhà thuỷ
tạ độc đáo nằm trên mép nước sông Vông trước cửa di tích. Thuỷ tạ là
một ngôi nhà xây cao chất ngất hình lục lăng xây cuốn vòm gồm sáu cửa
vòm quay ra các hướng. Nhà thuỷ tạ nằm án ngữ ngay trên đường trục
thần đạo của đường vào di tích. Ngồi trên nhà thuỷ tạ, du khách có thể quan sát toàn cảnh những hoạt động trong sân tế và đường thuyền đua tấp
nập trên sông.
Kề sau thuỷ tạ là một dãy kiến trúc đắp vữa choán phía trước cửa
ngôi đền bao gồm hoành mã tạo dáng lưỡng long ngũ hổ xen với các chậu
hoa, cây cảnh và nhang án thờ được đắp vẽ bằng vữa. Đôi rồng khổng lồ
và năm con hổ dữ tợn được đắp vẽ công phu dường như để tượng trưng
cho quyền lực và sức mạnh của các bậc đế vương và tạo sự uy nghi, linh
thiêng của ngôi đền. Hai dãy tả vu cùng bốn toà vọng lâu xây gạch được đặt ở bốn góc của sân đền. Mặt bằng các công trình kiến trúc này được
xây cao so với mặt đất là 1,5m với nguyên liệu chủ yếu bằng đá vôi. Bốn
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
470
toà vọng lâu kiến trúc theo lối chồng diêm cổ các, tầng dưới cuốn vòm
làm đường ra vào, hai tầng trên vươn cao tới 15 mét gợi cho khách trảy hội cảm giác như đang đứng dưới chân các toà thành thuở xưa. Những
mảng phù điêu đắp vữa hình đầu rồng, mặt hổ phù trừng trừng nhìn ra bốn
phía và hệ thống câu đối được kéo dài suốt theo chiều cao của vọng lâu
càng tăng thêm vẻ thâm nghiêm, cổ kính của ngôi đền.
Toà tiền tế của ngôi đền là một toà đại đình gồm năm gian rộng với
quy mô đồ sộ có chiều cao tới 13 mét và kiểu dáng kiến trúc bề thế, ít gặp
ở các di tích khác. Phần hiên của toà tiền tế đủ rộng để khách sắp lễ vào
đền hoặc ngủ lại vào ban đêm thoáng mát. Nội thất toà tiền tế là cả một nghệ thuật bài trí độc đáo. Vòm điện cao và rộng với hệ thống cột lim to
cao sừng sững chống đỡ hai tầng xà lim có kích thước 5m x 0,5m x 0,6m
gánh chịu sức nặng của mái đình. Hệ thống đại tự, cuốn thư có kích cỡ
cực lớn với 3,5m x 1,5m được chạm khắc gỗ công phu chữ chân có, chữ
triện, chữ thảo có. Dưới tầm cao của các đại tự, cuốn thư là hệ thống y
môn, cửa võng được chạm trổ tinh xảo hoàn mĩ với các đề tài tứ linh, tứ
quý đan xen với các mảng chạm cảnh long cuốn thuỷ, long quần, long vân
cùng hoa lá cách điệu nho sóc, chim trĩ- phù dung... phần chạm khắc gỗ của đền Đồng Xâm phong phú, đa dạng có thể xem là một trong những
tập đại thành thâu tóm các đề tài của nghệ thuật chạm khắc gỗ của Việt
Nam thời Nguyễn.
Phía hiên sau của toà tiền tế với hậu cung là toà điện trung tế được
kiến trúc theo kiểu phương đình mà mỗi cạnh bằng ba gian của toà tiền tế
khớp với các toà ống muống dẫn từ toà tiền tế đến hậu cung. Mặt bằng
xây dựng ở khu vực này được các nghệ nhân xử lý một cách cực kỳ tài hoa. Từ ba gian tiền tế được rút lại một gian chính giữa làm nền của toà
phương đình. Hai gian bên cạnh được bố trí nằm xen giữa hai gian ống
muống phía ngoài để xây thành giếng chứa nước mưa từ các mái đền đổ
xuống theo kiểu kiến trúc thức thiên tỉnh (giếng trời) trong kiến trúc đền,
chùa cổ của Việt Nam. ánh sáng trời chiếu vào làm cho cả khu vực này
sáng sủa , thông thoáng. Sự bài trí chậu hoa, cây cảnh với nhiều kiểu dáng
cầu kỳ như tạo được mối giao thoa giữa thiên- địa- nhân, gây cảm xúc
mới lạ trong lòng du khách khi họ bước tới hậu cung.
Toà hậu cung của đền được cấu trúc thành hai bộ phận liên hoàn là
toà điện năm gian nối với gian trung tâm là phần chuôi vồ được tôn cao
mặt bằng để đặt khám gian.
Phía hiên ngoài của toà hậu cung được bài trí hài hoà bằng những
đại tự cuốn thư, câu đối cùng hệ thống y môn gỗ chạm. Nhiều bài thơ, câu
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
471
đối ở khu vực này còn lưu bút danh bái đề của những danh sĩ trong lịch sử
văn học Việt Nam như Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ, Tiến sĩ Doãn Khê, Phó bảng Vũ Tuân... Hệ thống cánh cửa khay soi chỉ kép ở ba gian
trung tâm của toà điện hậu cung được chạm thủng với đề tài bát bửu, hoa
văn, dây lá, chữ triện trên 12 ô cửa của hậu cung tạo cảm giác lâng lâng,
thoát tục cho du khách trước khi bước qua ngưỡng cửa vào đây.
Khám gian đặt tại hậu cung là một tác phẩm độc đáo mang nét đặc
thù của làng nghề chạm bạc, đồng, sắt. Khám gian được phong kín bằng
những lá đồng chạm thủng các đề tài tứ linh, tứ quý, lưỡng long chầu
nguyệt... ánh sáng của những ngọn nến chạm trổ toả ra một quầng sáng huyền ảo, linh thiêng buộc du khách phải tĩnh tâm ở chốn thâm cung tĩnh
mịch hoàn toàn trái ngược với cảnh nhộn nhịp, huyên náo phía ngoài
trong thời gian có hội. Trong khám thờ đặt tượng Triệu Vũ Đế và hoàng
hậu Trình Thị. Cả hai pho tượng đều được đúc bằng đồng khảm vàng,
thiếp bạc. Cỡ tượng to tương đương với người thật ở tư thế ngồi. Tượng
Triệu Vũ Đế dáng mặt người Hán to lớn đường bệ uy nghi. Tượng Trình
Thị mang dáng người phụ nữ Việt Nam thon thả với nét mặt đôn hậu,
nhân từ, phảng phất nét đoan trang, trinh thục của cô thôn nữ Việt Nam. Trong khám thờ còn bảo lưu được kiến trúc vàng, búa sắt, theo truyền
ngôn đó là bảo vật của Triệu Vũ Đế được lưu truyền (?).
Nằm trong tổng thể kiến trúc của đền Đồng Xâm là đền thờ hoàng
hậu Trình Thị, đền thờ tổ nghề chạm bạc Nguyễn Kim Lâu và chùa Kim
Liên có quy mô kiến trúc nhỏ hơn làm nền cho ngôi đền thêm nguy nga,
lộng lẫy.
Các tư liệu từ thần tích, sắc phong, câu đối đại tự kết với nguồn tư liệu từ truyền thuyết dân gian lưu truyền trong vùng cho thấy Triệu Vũ Đế
(207- 136 tr. CN) đi tuần thú đến làng Đường Thâm (sau đổi là Đồng
Xâm) thấy nàng Trình Thị nhan sắc, nết na, đàn giỏi, hát hay bèn lấy làm
vợ, phong làm hoàng hậu và cho lập hành cung ở đây. Họ Triệu ở làng
Đồng Xâm đến nay từng vẫn tự hào là một dòng họ có nhiều người hiển
đạt. Ngôi đền Đồng Xâm được xây dựng chính trên đất hành cung xưa.
Con cháu hoàng hậu Trình Thị chuyên phụ trách cầm ca chốn cung đình
và sau khi hoàng hậu mất thì dân làng có dựng một ngôi đền thờ những người ca công tại đây. Hàng năm khi làng vào hội thường tổ chức thi hát
chèo, hát ca trù. Dân làng Đồng Xâm vốn có truyền thống đàn giỏi, hát
hay, nhiều người đã trở thành những nghệ sĩ chèo có tiếng ở thời hiện đại.
Riêng ngôi đền thờ tổ sư nghề chạm bạc của làng thì thần tích, sắc
phong và tấm bia đá thời Lê có niên hiệu Thuận Thiên nhị niên (1429) (?)
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
472
cho biết rằng: Nguyễn Kim Lâu người thôn Thượng Gia làng Đồng Xâm
sống vào thời thuộc Minh (1407- 1427) đã lưu lạc lên châu Bảo Lạc, tỉnh Tuyên Quang học được nghề kim hoàn. Khi trở về quê, ông truyền nghề
lập ra phường làm kim hoàn. Từ đó ở làng Đồng Xâm dân khang, vật
thịnh, dân làng lại toả đi làm nghề ở nhiều vùng trong nước và ở đâu cũng
thịnh đạt. Khi ông qua đời, dân làng lập đền thờ ông. Sản phẩm chạm bạc
của làng Đồng Xâm từ thời Pháp thuộc đến nay không chỉ nổi danh trong
nước mà còn được ngoài nước biết đến và ưa chuộng.
Từ xa xưa, lễ hội đền Đồng Xâm thường có nhiều lễ thức, nhiều
trò chơi, trò diễn, đua tài được tổ chức. Trong các nghi thức
rước tế ở hội thì lễ rước Thánh Bà được coi là một nghi lễ được dân làng
quan tâm vào bậc nhất. Sáng mồng một tháng tư (âm lịch) nghi lễ rước
Thánh Bà từ đền Thượng Hoà ra đền chính. Đoàn rước gồm toàn nữ đồng
trinh đẹp người, đẹp nết được dân làng bình chọn tham gia cầm đồ tế khí
và khiêng kiệu. Khi kiệu rước Thánh Bà đến sân tế ở đền Đồng Xâm thì
các nghi thức tế lễ ở các điểm phụ cận cũng bắt đầu. Hôm rã hội, nghi
thức tế lễ cũng kết thúc bằng việc rước Thánh Bà từ đền chính trở về đền
Thượng Hoà. Ngoài nghi thức lễ Thánh, các trò đua tài giải trí ở hội Đồng Xâm có sức cuốn hút đông đảo các du khách trảy hội như hát chèo, hát ca
trù, đấu roi, vật võ... và nổi bật nhất là trò đua trải”...
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
474
Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân
Minh Nhương
ở xã Đồng Tháp huyện Đan Phượng có làng Đồng Vân (xóm
Đồng Lạc và xóm Vân sáp nhập) bên dòng sông Đáy. Nhân dân sinh sống
bằng cấy lúa, trồng màu và có đan lát rổ, rá. Làng có ngôi đình ẩn mình
dưới cây gạo cổ thụ, bên giếng nước trong xanh. Đình thờ ông Vãng Vị,
tương truyền có dáng người cao lớn, râu tóc bạc phơ và tấm lòng nhân
hậu. Vào một năm Mão ở đời Lê, nước sông lên to làm đê vỡ, nhân dân ra
sức cứu đê nhưng không được. May có ông Vãng Vị đi vãng cảnh qua
đây, thấy vậy ông liền nhảy xuống chặn đứng dòng nước chảy, cứu giúp
dân tình khỏi cảnh lầm than, lụt lội. Nhưng rồi ông cũng bị dòng nước
cuốn trôi luôn. Dân làng thương tiếc người anh hùng, bèn lập đền và
hương khói phụng thờ ông.
Hàng năm, cứ đến ngày rằm tháng giêng, làng Đồng Vân thường
mở hội rước nước, hát chèo và thổi cơm thi. Hội thổi cơm thi ở đây có nét
độc đáo về cách lấy lửa và đậm màu sắc hài hước của dân gian. Khác với
hội thổi cơm thi trên cạn ở Liên Hà, Liên Trung... Cũng không giống thổi
cơm thi trên thuyền của làng Hạ Mỗ và Hạ Hội...
Hội thổi cơm thi của làng Đồng Vân diễn ra như sau: Trên sân
đình người ta trồng sẵn 4 cây chuối hột cao 4m thẳng tắp như cột đình.
Phần ngọn chặt bỏ lá, cắm mỗi cây một nén hương thơm. Dưới chân để 4
cối đá, 4 rá thóc và 4 mảnh tre già. Người dự thi được tuyển chọn từ các
xóm trong làng. Xóm Đình, xóm Trại, xóm Quán và xóm Miếu, mỗi xóm
thành một đội dự thi gồm 5 người nam thanh, nữ tú tuổi từ 18 đến 30. Mỗi
đội có thêm một anh hề đánh trống khẩu thúc giục. Trang phục cũng mỗi
đội một màu sắc khác nhau. Làng cử ra ban giám khảo gồm 9 vị là người
trong ban khánh tiết và khách đến dự hội, để việc chấm thi được công
minh. Bắt đầu vào hội thi, trống chiêng điểm 3 hồi, các đội hình dự thi
xếp hàng trang nghiêm thành kính làm lễ dâng hương trước cửa đình để
tưởng nhớ vị thần thành hoàng làng có công cứu dân, hộ quốc. Hội thi bắt
đầu từ việc lấy lửa từ trên ngọn cây chuối cao. Khi ba tiếng trống hiệu vừa
dứt, bốn thanh niên của bốn đội nhanh thoăn thoắt leo lên thân cây chuối
rất trơn vì đã bôi mỡ. Có người leo lên, tụt xuống, lại leo lên... Có người
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
475
phải bỏ cuộc, người khác lại leo lên, quang cảnh hết sức vui nhộn. Khi lấy
được nén hương mang xuống, ban tổ chức phát cho 3 que diêm châm vào
hương cháy thành ngọn lửa. Người trong đội vót mảnh tre già thành
những đũa bông châm lửa đốt vào những ngọn đuốc. Trong khi đó, người
trong nhóm dự thi nhanh tay giã thóc, dần sàng thành gạo, lấy nước và bắt
đầu thổi cơm. Những nồi cơm nho nhỏ treo lơ lửng dưới cần cong hình
cánh cung được cắm khéo léo từ dây lưng uốn về trước mặt. Tay cầm cần,
tay cầm đuốc đung đưa cho ánh lửa bập bùng. Các đội thổi cơm đan xen
nhau uốn lượn trên sân đình trong sự cổ vũ nồng nhiệt của người xem hội.
Những chú hề lém lỉnh luôn thúc trống khẩu liên hồi bên tai người thổi
cơm. Nghe nói có năm hội thi còn thêm tiết mục tranh nhau mặc quần áo.
Ban tổ chức sẵn một đống quần áo, cả váy áo phụ nữ lẫn lộn ở giữa sân
đình. Người dự thi nghe hiệu lệnh chạy đến tranh nhau nhận quần áo,
khăn mũ, giày dép... Ai nhặt được gì phải dùng thứ ấy. Nên có cảnh đàn
ông mặc phải váy áo của đàn bà, và ngược lại, gây nên những trận cười
"chảy nước mắt". Tạo không khí hài hước sôi động trước lúc vào thi thổi
cơm.
Khoảng sau một giờ rưỡi, những nồi cơm lần lượt được đem trình
trước cửa sân đình. Ban giám khảo mở nồi cơm chấm theo ba tiêu chuẩn:
Gạo trắng, cơm dẻo và không có cơm cháy. Các nồi cơm được đánh số
ứng với người dự thi, để giữ bí mật với ban giám khảo. Hội cơm thi ở
Đồng Vân là sinh hoạt văn hóa cổ truyền được bắt nguồn từ các cuộc trẩy
quân đánh giặc của người Việt cổ bên dòng sông Đáy xưa. Phương tiện
của hội là sản vật "cây nhà, lá vườn". Những cây chuối, hạt gạo từ vườn
ruộng, những mảnh tre, bó đuốc, đan lát của làng nghề truyền thống. Hội
thi là dịp đua tài của trai tráng trong làng về sức khoẻ, thông minh khi lấy
lửa. Là dịp thể hiện bàn tay khéo léo của gái làng để có gạo trắng, cơm
dẻo tiếp tế binh lương. Hội còn vang lên những trận cười hồn nhiên, sảng
khoái của người nông dân sau những ngày lao động mệt nhọc. Hội tỏ lòng
biết ơn vị thần từ thuở hồng hoang mở nước. Hội giữ gìn nét văn hóa dân
gian đặc sắc tiềm ẩn ở mỗi làng quê hôm nay./.
M.N
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
477
Hội làng Động Phí
Nguyễn Hữu Thức
Làng Động Phí thuộc xã Phương Tú, huyện ứng Hòa (Hà Tây).
Trước năm 1945, Động Phí là tên gọi một xã gồm ba thôn Động Phí,
Nguyễn Xá, Ngọc Động thuộc tổng Đạo Tú huyện ứng Hòa. Nay các
thôn trên thuộc xã Phương Tú.
Lễ hội làng Động Phí là một lễ hội lớn trong vùng với sự tham gia
của hai thôn Nguyễn Xá và Ngọc Động. Việc kết nghĩa ba thôn cùng tổ
chức lễ hội xuất phát từ cội nguồn lịch sử như sau: Truyền rằng, ở vùng Hoan châu có gia đình tộc trưởng Bạch Lân, vợ là Nghiêm Thị sống phúc
đức, dân trong vùng ai cũng kính trọng. Hiềm nỗi vợ chồng muộn đường
con cái. 49 tuổi bà Nghiêm Thị mới mang thai và sinh nhất bào thai hai
người con trai. Người anh đặt tên là Bạch Tượng, người em là Bạch Địa.
Lớn lên hai anh em tướng mạo uy nghi, thân thể cường tráng thông minh
hơn người.
Bấy giờ, sau khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm vào cảnh 12 sứ
quân cát cứ. Hai em Bạch Tượng và con bà dì là Đô Đài bèn đi kinh lý
khắp miền đất nước tìm anh tài mưu việc lớn.
Họ đến huyện Sơn Minh (một phần đất của huyện ứng Hòa xưa),
phủ ứng Thiên dừng ở đó tụ tập dân chúng lập nên trang Nguyễn Xá về
sau phát triển lập tiếp trang Động Phí, Ngọc Động, gọi là Tam Khu, lấy khu đất Động Phí làm trung tâm.
Lúc này, ở động Hoa Lư sứ quân Đinh Bộ Lĩnh tài giỏi sáng suốt
hơn nguời nghe tin ở phủ ứng Thiên có ba anh em Bạch Tượng thanh thế
nổi tiếng trong vùng, bèn sai công thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền triệu về
triều giao chức tước, thống lĩnh quân thủy bộ đi dẹp hai sứ quân cát cứ ở
vùng Sơn Tây. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất non sông về một
mối, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế ban thưởng công lao cho các tướng
lĩnh. Hai anh em Bạch Tượng cùng Đô Đài được Đinh Tiên Hoàng đế cho ăn thực ấp ở xã Động Phí và cai quản vùng từ Sơn Tây đến miền
Đông Hải.
Sau ngày các ông mất dân khu Động Phí lập miếu thờ anh cả Bạch
Tượng, dân khu Ngọc Động thờ Bạch Địa còn dân khu Nguyễn Xá thờ
Đô Đài. Lệ tục quy định ba thôn cộng đồng tổ chức lễ hội luân phiên ở
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
478
từng thôn, vì vậy hội làng Động Phí ba năm mới mở đại hội. Do Động
Phí thờ anh cả làm Thành hoàng làng, lại là khu đất trung tâm của hàng xã nên thường lễ hội ở làng Động Phí to hơn hai thôn Nguyễn Xá và
Ngọc Động.
Chính hội làng Động Phí tổ chức vào ngày 4 tháng giêng, tương
truyền là ngày huynh công Bạch Tượng xuất trận dẹp loạn. Tuy nhiên,
hội làng được tổ chức tưng bừng từ chiều mồng 3 tết. Hôm đó làng tổ
chức nghiềm quân, biểu dương lực lượng tham gia rước Thành hoàng.
Tất cả quân rước tụ tập đông đủ ở sân trước nhà đại bái của đình Động
Phí, dưới sự chỉ huy của ban khánh tiết, đoàn rước theo trình tự lần lượt rước kiệu Thành hoàng từ đình ra đầu làng, xuống cuối làng.
Đội hình nghiềm quân có đội cờ, đội rước bát bửu, đội nhạc bát âm,
đội múa sênh tiền 12-16 em gái, đội trống nữ, đội múa rồng phù giá kiệu.
Đáng chú ý hội rước làng Động Phí có bốn cỗ kiệu:
1. Kiệu tam tự (1 đỉnh đồng và 2 cây nến bằng đồng).
2. Kiệu ngũ sự (1đỉnh, 2 cây nến bằng đồng và 2 lọ lộc bình).
3. Kiệu long đình đặt long ngai bài vị đức bản thổ.
4. Kiệu bát cống, 16 người khiêng trên kiệu đặt long ngai bài vị
huynh công Bạch Tượng đại vương.
Rước kiệu Thánh một vòng quanh làng thì hồi giá
trở lại đình, xếp các cỗ kiệu trước cửa nhà đại bái. Buổi tối các cụ tổ
chức tế Thành hoàng. Việc tế rất nghiêm cẩn. Tục xưa đến nay làng
Động Phí nhất thiết phải sửa một cỗ chay dâng lễ nhà Thánh.
Mâm cỗ chay gồm: 3 bát cơm, 3 bát chè, 3 bát canh đậu và 6 đĩa
(đĩa cùi dừa, đĩa lạc, đĩa bí, đĩa vừng, đĩa giá đậu, đĩa đậu ván) cũng gọi là lục cúng.
Sáng mồng 4 tết là ngày chính hội, dân làng Động Phí tề tựu
nghênh đón hai đoàn rước của làng Nguyễn Xá từ trên xuống, của làng
Ngọc Động từ dưới lên. Theo quy định nếu đám rước của làng Nguyễn
Xá đến trước thì phải dừng trước nghi môn đợi đám rước làng Ngọc
Động tới và nhường kiệu Thánh Ngọc Động vào trước vì Thành hoàng
Ngọc Động là Tượng Địa đại vương thuộc thứ bậc hàng trên của Thành
hoàng làng Nguyễn Xá là Đô Đài đại vương.
Lúc này là thời điểm tưng bừng nhất của hội làng Động Phí. Cuộc
hội nhập đám rước của ba làng nghênh đón tiếp nhau. Các đội múa sư tử
tự do trình diễn, tiếng trống hội náo nhiệt phá vỡ trật tự nghiêm chỉnh
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
479
của đám rước kiệu, nhiều khi có cả kiệu quay, kiệu bay. Cờ xí bát bửu
rợp trời. Múa sênh tiền, múa trống... bộc lộ tài năng đa dạng.
Sau những màn trình diễn ngoạn mục các trò dân gian, các cỗ kiệu
Thánh được đón rước qua nghi môn vào đặt ngay ngắn ở trước cửa đình.
Bấy giờ các cụ ba thôn cùng vào thực hiện các nghi lễ tế cộng đồng.
Cuộc tế kéo dài nhiều tuần. Buổi trưa dân làng tổ chức ăn chay kết nghĩa
với nhau. Cuối buổi chiều dân làng Nguyễn Xá và Ngọc Động rước kiệu
về. Các thôn tiếp tục nghi lễ tế đêm hôm đó tại đình làng mình.
Hội làng Động Phí thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn,
tưởng niệm các vị anh hùng có công với đất nước, thắt chặt tình nghĩa giữa các thôn cùng chung một tín ngưỡng, từ đó tăng cường sự đoàn kết
giúp đỡ nhau trong cuộc sống và góp phần bảo lưu những giá trị văn hóa
đặc sắc ở địa phương.
* *
*
Cũng tại làng Động Phí, trước năm 1945, đã từng diễn ra một lễ hội
đảo vũ có diễn trò cướp cầu nổi tiếng ở phủ ứng Thiên xưa.
Thời điểm tổ chức đảo vũ - cướp cầu vào tháng ba tháng tư âm lịch.
Hễ năm nào nắng nóng khô hạn sang đến tháng ba mà trời vẫn không có
mưa thì bô lão sáu xã, thôn (Hậu Xá, Văn Nâu, Động Phí, Dương Khê,
Ngọc Động, Nguyễn Xá) quyết định tổ chức đảo vũ, cắt cử dân các thôn
chuẩn bị công việc cho ngày hội lễ. Trừ Văn Ông thuộc xá Tảo Dương
Văn còn lại 5 thôn kia thuộc xã Phương Tú.
Cả 6 thôn trên cùng tụ tập theo đám rước các cỗ kiệu Thánh của
làng Động Phí và Ngọc Động về miếu Cò, còn gọi là quán Cò có xây bàn
thờ lộ thiên bằng gạch, là nơi hai anh em Bạch Tượng, Bạch Địa và
người em con dì Đô Đài, thời loạn 12 sứ quân, từ đất Hoan châu tìm đến
vùng đất ứng Hòa, đã dừng chân ở đó để chia dân đi mở đất ở 3 khu
Nguyễn Xá, Động Phí, Ngọc Động. Kiệu Thánh của các thôn được bầy
hàng trước cửa quán Cò, bô lão các thôn vào “công đồng” cầu mưa. Sau
một tuần lễ thì mỗi thôn cử hai cụ ra vật lão, còn gọi là vật thờ chầu
Thánh ở quán Cò. Đến buổi chiều cùng ngày 6 thôn rước kiệu về đình
Đụn thôn Động Phí.
Đình Đụn là đình của lục thôn, kiến trúc 15 gian bổ dọc thành hình
chữ nhất, cửa đình trông về hướng mặt trời lặn. Hàng bô lão tế đảo vũ ở
cửa đình Đụn còn dân 6 thôn tổ chức cướp cầu ở ngoại đình.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
480
Bãi cướp cầu chia thành hai khu lấy cổng nghi môn của đình làm
ranh giới; sân trong (khoảng đất bên trong cổng đình) và sân ngoài
(khoảng đất bên ngoài cổng đình). Sân trong (hướng đông) dân làng đào
một hố đất sâu 0,80 m, đường kính mặt hố 0,60m còn sân ngoài (hướng
tây) đào một hố và chính giữa cổng nghi môn Đụn đào một hố kích cỡ
tương tự sân trong. 3 hố này thẳng hàng nhau và hai hố bên cách đều
nhau so với hố giữa.
Quả cầu bôi phẩm đỏ, đường kính khoảng 0,40m. Trước ngày cướp
cầu dân thôn cử người đến làng Phùng Xá, huyện Mỹ Đức tìm cây chuối
hột có củ to nhất thì đào lấy củ đẽo tròn mang về. Tục truyền cư dân ở đó
thấy người đi tìm củ chuối làm cầu thì nhà nào cũng săn đón dẫn người
đào vào vườn chuối nhà mình. Củ chuối nhà nào được chọn làm cầu thì
chủ hộ rất mừng tâm niệm trong năm làm ăn may mắn.
Hai người khiêng quả cầu về nhà phải qua sông Đáy. Các đò ngang,
đò dọc ở bến sông đều muốn chở người đi đào cầu và quả cầu qua sông.
Dân kiêng không đi chung đò chở cầu sợ không may.
Quân tham gia cướp cầu ở 6 thôn không hạn chế, miễn là dân đinh
khỏe mạnh, chia ra như sau:
- Quân thôn Động Phí gọi là quân chạy gậy, quân bản từ, mặc quần
áo lương dài, thắt lưng đỏ, đầu chít khăn đỏ.
- Quân cướp cầu cởi trần đóng khố. Quân thôn Hậu Xá, Văn Ông
gọi là quân tổng thượng tụ tập ở sân trong và quân các thôn Dương Khê,
Ngọc Đường, Nguyễn Xá gọi là quân tổng hạ tụ tập ở sân ngoài.
Trò cướp cầu diễn biến như sau: Trước tiên mỗi bên tổng thượng
và tổng hạ cử một người đến trước cửa đình Đụn vật thờ trước nhà
Thánh. Nếu bên nào thắng thì bên ấy cướp quả cầu đưa ra sân ngoài bỏ
cầu vào hố bên tây, bên nào thua thì phải cướp cầu đưa vào sân trong bỏ
vào hố bên đông.
Tổng thượng cử một cụ già mặc quần áo đỏ, quấn khăn lưng đỏ,
chít khăn đầu đỏ, tay cầm cờ đỏ có nhiệm vụ phất ngọn cờ về phía hố
quân mình phải đem quả cầu đến bỏ. Tổng hạ cũng như vậy, chỉ khác cụ
già cầm cờ xanh phất về phía hố quân mình phải bỏ cầu. Đứng cạnh hai
cụ là người đánh trống khẩu, người đánh kẻng bằng đồng làm hiệu lệnh
thúc giục quân cướp cầu.
Khi có hiệu lệnh của chủ đám, quân chạy gậy chạy ra hố giữa ở
nghi môn, tay cầm gậy bẩy quả cầu lên thả lăn trên mặt đất và rút gậy
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
481
chạy ra ngoài dẹp đám vòng quanh sân bãi. Liền đó, quân hai bên xô tới,
cứ theo hiệu lệnh trống, kẻng và hướng cờ chỉ giằng cướp bằng được quả
cầu về phía đã được làng chỉ định. Cuộc giằng cướp cầu quyết liệt, có keo
quân hai bên tranh cướp cầu vài ba giờ đồng hồ mới đưa được cầu vào hố
của bên mình. Mỗi ngày quân tổng thượng và tổng hạ phải tranh cướp cầu
ba keo. Bên nào hai lần cướp được cầu bỏ vào hố trong ngày là thắng
cuộc. Trò cướp cầu diễn ra ba ngày liên tiếp, cả thảy là 9 keo.
Cướp cầu diễn ra rất sôi động trong tiếng trống, tiếng kẻng thúc
giục. Quân hai bên ham cướp cầu không e ngại gì sự va chạm. Người ta
bảo rằng nếu có sự va chạm xây xát da thịt thì chỉ cần lấy đất bùn ở hố
giữa xoa vào là ắt sẽ mau lành.
Ngày thứ ba sau khi cướp cầu đủ 9 keo thì đại diện ban khánh tiết
lục thôn công bố bên thua, bên được. Quân bên được reo mừng còn dân
hàng tổng thì tin rằng mặt trời đã bị đánh động nên không gây nắng nóng
khô hạn với con người nữa mà trời sẽ mang nước
đến tưới cho đồng ruộng để dân cày cấy.
Công bố thua được xong, quân cướp cầu về sân riêng của tổng còn
quân chạy gậy mang quả cầu từ hố lên mặt đất lăn cầu đi vòng quanh bãi, gọi là dắt cầu đi chơi. Quân chạy gậy tinh nghịch lăn quả cầu vào đám
đàn bà, con gái đi xem hội tạo ra những trận cười vui sảng khoái. Sau vài
vòng dắt cầu đi chơi, quân chạy gậy dắt cầu thả xuống giếng làng Động
Phí. Cầu củ chuối nổi trên mặt nước đợi khi nào trời mưa to thì vớt lên
bỏ đi.
Ngoài sân tổ chức cướp cầu, ấn định 3 ngày, còn trước cửa đình các
cụ lục thôn tế cầu đảo vũ, tế đến khi nào trời đất thay đổi có mưa mới thôi.
Nếu trường hợp mới cướp cầu được một ngày mà trời đã đổ mưa
thì dân lục thôn tâm niệm thành hoàng làng Động Phí thiêng phù trợ cho
dân toại ý nguyện nên dân thôn phải tế tạ Thánh vài ngày.
Ngày nay, không còn nghi lễ tế đảo vũ và cướp cầu, nhưng ký ức
về trò cướp cầu vẫn in đậm trong tâm trí các cụ ở làng Động Phí. Dân
làng đang có kế hoạch gây dựng lại trò vật lão, cướp cầu, coi đó là sinh
hoạt văn hóa độc đáo của địa phương, phục vụ cho ngày lễ hội tam thôn 3 năm tổ chức một lần vào ngày mồng 4 tết ở làng Động Phí./.
N.H.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
482
Làng Động Phí thuộc xã Phương Tú, huyện ứng Hòa (Hà Tây). Trước năm 1945, Động Phí là tên gọi
một xã gồm ba thôn Động Phí, Nguyễn Xá, Ngọc Động thuộc tổng Đạo Tú huyện ứng Hòa. Nay các thôn trên
thuộc xã Phương Tú.
Lễ hội làng Động Phí là một lễ hội lớn trong vùng với sự tham gia của hai thôn Nguyễn Xá và Ngọc
Động. Việc kết nghĩa ba thôn cùng tổ chức lễ hội xuất phát từ cội nguồn lịch sử như sau: Truyền rằng, ở vùng
Hoan châu có gia đình tộc trưởng Bạch Lân, vợ là Nghiêm Thị sống phúc đức, dân trong vùng ai cũng kính trọng.
Hiềm nỗi vợ chồng muộn đường con cái. 49 tuổi bà Nghiêm Thị mới mang thai và sinh nhất bào thai hai người
con trai. Người anh đặt tên là Bạch Tượng, người em là Bạch Điện. Lớn lên hai anh em tướng mạo uy nghi, thân
thể cường tráng thông minh hơn người.
Bấy giờ, sau khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm vào cảnh 12 sứ quân cát cứ. Hai em Bạch Tượng và con
bà dì là Đô Đà bèn đi kinh lý khắp miền đất nước tìm anh tài mưu việc lớn.
Họ đến huyện Sơn Minh (một phần đất của huyện ứng Hòa xưa), phủ ứng Thiên dừng ở đó tụ tập dân
chúng lập nên trang Nguyễn Xá về sau phát triển lập tiếp trang Động Phí, Ngọc Động, gọi là Tam Khu, lấy khu đất
Động Phí làm trung tâm.
Lúc này, ở động Hoa Lư sứ quân Đinh Bộ Lĩnh tài giỏi sáng suốt hơn nguời nghe tin ở phủ ứng Thiên
có ba anh em Bạch Tượng thanh thế nổi tiếng trong vùng sai công thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền về triều giao chức
tước, thống lĩnh quân Đinh thủy bộ đi dẹp hai sứ quân cát cứ ở vùng Sơn Tây. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống
nhất non sông về một mối, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế ban thưởng công lao cho các tướng lĩnh. Hai anh em
Bạch Tượng cùng Đô Đài được Đinh Tiên Hoàng đế cho ăn thực ấp ở xã Động Phí và ai quản ở vùng từ Sơn Tây
đến miền Đông Hải.
Sau ngày các ông mất dân khu Động Phí lập miếu thờ anh cả Bạch Tượng, dân khu Ngọc Động thờ
Bạch Địa còn dân khu Nguyễn Xá thờ Đô Đài. Lệ tục quy định ba thôn cộng đồng tổ chức lễ hội luân phiên ở từng
thôn vì vậy hội làng Động Phí ba năm mới mở đại hội. Do Động Phí thờ anh cả làm Thành hoàng lại là khu đất
trung tâm của hàng xã nên thường lễ hội ở làng Động Phí to hơn hai thôn Nguyễn Xá và Ngọc Động.
Chính hội làng Động Phí tổ chức vào ngày 4 tháng giêng, tương truyền là ngày huynh công Bạch
Tượng xuất trận dẹp loạn. Tuy nhiên, hội làng được tổ chức tưng bừng từ chiều mồng 3 tết. Hôm đó làng tổ chức
nghiềm quân, biểu dương lực lượng tham gia rước Thành hoàng. Tất cả quân rước tụ tập đông đủ sân trước nhà đại
bái của đình Động Phí dưới sự chỉ huy của ban khánh tiết đoàn rước theo trình tự lần lượt rước kiệu Thành hoàng
từ đình ra đầu làng, xuống cuối làng.
Đội hình nghiềm quân có đội cờ, đội rước bát bửu, đội nhạc bát âm, đội múa sênh tiền 12-16 em gái,
đội trống nữ, đội múa rồng phù giá kiệu. Đáng chú ý hội rước làng Động Phí có bốn cỗ kiệu:
1. Kiệu tam tự (1 đỉnh đồng và 2 cây nến bằng đồng).
2. Kiệu ngũ sự (1đỉnh, 2 cây nến bằng đồng và 2 lọ lộc bình).
3. Kiệu long đình đặt long ngai bài vị Đức bản thổ.
4. Kiệu bát cống, 16 người khiêng trên kiệu đặt long ngai bài vị huynh công Bạch Tượng đại vương.
Rước kiệu Thánh một vòng quanh làng thì hồi giá trở lại đình xếp các cỗ kiệu trước cửa nhà đại bái.
Buổi tối các cụ tổ chức tế Thành hoàng. Việc tế rất nghiêm cẩn. Tục xưa đến nay làng Động Phí nhất thiết phải sửa
một cỗ chay dâng lễ nhà Thánh.
Mâm cỗ chay gồm: 3 bát cơm, 3 bát chè, 3 bát canh đậu và 6 đĩa (đĩa cùi dừa, đĩa lạc, đĩa bí, đĩa vừng,
đĩa giá đậu, đĩa đậu ván) gọi là lục cúng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
483
Sáng mồng 4 tết là ngày chính hội, dân làng Động Phí tề tựu nghênh đón hai đoàn rước của làng
Nguyễn Xá từ trên xuống, của làng Ngọc Động từ dưới lên. Theo quy định nếu đám rước của làng Nguyễn Xá đến
trước thì phải dừng trước cửa tam quan đợi đám rước làng Ngọc Động tới và nhường kiệu Thánh Ngọc Động vào
trước vì Thành hoàng Ngọc Động là Tượng Địa đại vương thuộc thứ bậc hàng trên của Thành hoàng làng Nguyễn
Xá là Đô Đài đại vương.
Lúc này là thời điểm tưng bừng nhất của hội làng Động Phí. Cuộc hội nhập đám rước của ba làng
nghênh đón tiếp nhau. Các đội múa sư tử tự do trình diễn, tiếng trống hội náo nhiệt phá vỡ trật tự nghiêm chỉnh
của đám rước kiệu thay thế vào đó là những biểu diễn kiệu quay, kiệu bay. Cờ xí bát bửu rợp trời. Múa sênh tiền,
múa trống bộc lộ tài năng...
Sau những màn trình diễn ngoạn mục các trò diễn dân gian, các cỗ kiệu Thánh được đón rước qua cửa
tam quan vào đặt ngày ngắn ở trước cửa đình. Bấy giờ các cụ ba thôn cùng vào thực hiện các nghi lễ tế cộng đồng.
Cuộc tế kéo dài nhiều tuần. Buổi trưa dân làng tổ chức ăn chay kết nghĩa với nhau. Cuối buổi chiều dân làng
Nguyễn Xá và Ngọc Động rước kiệu về đình làng. Các thôn tiếp tục nghi lễ tế đêm hôm đó tại đình làng mình.
Hội làng Động Phí thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, tưởng niệm các vị anh hùng có công
với đất nước, thắt chặt tình nghĩa giữa các thôn cùng chung một tín ngưỡng, từ đó tăng cường sự đoàn kết giúp đỡ
nhau trong cuộc sống và góp phần bảo lưu những giá trị văn hóa đặc sắc ở địa phương.
* *
*
Cũng tại làng Động Phí, trước năm 1945, đã từng diễn ra một lễ hội đảo vũ có diễn trò cướp cầu nổi
tiếng ở phủ ứng Thiên xưa.
Thời điểm tổ chức đảo vũ - cướp cầu vào tháng ba tháng tư âm lịch. Hễ năm nào nắng nóng khô hạn
sang đến tháng ba mà trời vẫn không có mưa thì bô lão sáu xã, thôn (Hậu Xá, Văn Nâu, Động Phí, Dương Khê,
Ngọc Động, Nguyễn Xá) quyết định tổ chức đảo vũ cắt cử dân các thôn chuẩn bị công việc cho ngày hội lễ. Trừ
Văn Ông thuộc xá Tảo Dương Văn còn lại 5 thôn kia thuộc xã Phương Tú.
Cả 6 thôn trên cùng tụ tập theo đám rước các cỗ kiệu Thánh của làng Động Phí và Ngọc Động về miếu
Cò, còn gọi là quán Cò có xây bàn thờ lộ thiên bằng gạch, là nơi hai anh em Bạch Tượng, Bạch Địa và người em
con dì Đô Đài thời loạn 12 xứ quân từ đất Hoan châu tìm đến vùng đất ứng Hòa đã dừng chân ở đó để chia dân đi
mở đất ở 3 khu Nguyễn Xá, Động Phí, Ngọc Động. Kiệu Thánh của các thôn được bầy hàng trước cửa quán Cò,
bô lão các thôn vào cộng đồng cầu mưa. Sau một tuần lễ thì mỗi thôn cử hai cụ ra vật lão, còn gọi là vật thờ chầu
Thánh ở quán Cò. Đến buổi chiều cùng ngày 6 thôn rước kiệu về đình Đụn thôn Động Phí.
Đình Đụn là đình của lục thôn, kiến trúc 15 gian bổ dọc thành hình chữ nhất, cửa đình trông về hướng
mặt trời lặn. Hàng bô lão tế đảo vũ ở cửa đình Đụn còn dân 6 thôn tổ chức cướp cầu ở ngoại đình.
Bãi cướp cầu phân thành hai khu lấy cổng tam quan của đình làm gianh giới; sân trong (khoảng đất bên
trong cống đình) và sân ngoài (khoảng đất bên ngoài cổng đình). Sân trong (hướng đông) dân làng đào một hố đất
sâu 0,80 m, đường kính mặt hố 0,60m còn sân ngoài (hướng tây) đào một hố và chính giữa cổng tam quan đình
Đụn đào một hố kích cỡ tương tự sân trong. 3 hố này thẳng hàng nhau và hai hố bên cách đều nhau so với hố giữa.
Quả cầu bôi phẩm đỏ, đường kính khoảng 0,40m. Trước ngày cướp cầu dân thôn cử người đến làng
Phùng Xá, huyện Mỹ Đức tìm cây chuối hột có củ to nhất thì đào lấy củ đẽo tròn mang về. Tục truyền cư dân ở đó
thấy người đi tìm củ chuối làm cầu thì nhà nào cũng săn đón dẫn người đào vào vườn chuối nhà mình. Củ chuối
nhà nào được chọn làm cầu thì chủ hộ rất mừng tâm niệm trong năm làm ăn may mắn.
Hai người khiêng quả cầu về nhà phải qua sông Đáy. Các đò ngang, đò dọc ở bến sông đều muốn chở
người đi đào cầu và quả cầu qua sông. Dân kiêng không đi chung đò chở cầu sợ không may.
Quân tham gia cướp cầu ở 6 thôn không hạn chế, miễn là dân đinh khỏe mạnh, chia ra như sau:
- Quân thôn Động Phí gọi là quân chạy gậy, quân bản từ, mặc quần áo lương dài, thắt lưng đỏ, đầu chít
khăn đỏ.
- Quân cướp cầu cởi trần đóng khố. Quân thôn Hậu Xá, Văn Ông gọi là quân tổng thượng tụ tập ở sân
trong và quân các thôn Dương Khê, Ngọc Đường, Nguyễn Xá gọi là quân tổng hạ tụ tập ở sân ngoài.
Trò cướp cầu diễn biến như sau: Trước tiên mỗi bên tổng thượng và tổng hạ cử một người đến trước
cửa đình Đụn vật thờ trước nhà Thánh. Nếu bên nào thắng thì bên ấy cướp quả cầu đưa ra sân ngoài bỏ cầu vào hố
bên tây, bên nào thua thì phải cướp cầu đưa vào sân trong bỏ vào hố bên đông.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
484
Tổng thượng cử một cụ già mặc quần áo đỏ, quấn khăn lưng đỏ, chít khăn đầu đỏ, tay cầm cờ đỏ có
nhiệm vụ phất ngọn cờ về phía hố quân mình phải đem quả cầu đến bỏ. Tổng hạ cũng như vậy, chỉ khác cụ gìa
cầm cờ xanh phất về phía hố quân mình phải bỏ cầu. Đứng cạnh hai cụ là người đánh trống khẩu, người đánh kẻng
bằng đồng làm hiệu lệnh thúc giục quân cướp cầu.
Khi có hiệu lệnh của chủ đám, quân chạy gậy chạy ra hố giữa ở tam quan, tay cầm gậy bẩy quả cầu lên
thả lăn trên mặt đất và rút gậy chạy ra ngoài dẹp đám vòng quanh sân bãi. Liền đó, quân hai bên xô tới, cứ theo
hiệu lệnh trống, kẻng và hướng cờ chỉ giằng cướp bằng được quả cầu về phía đã được làng chỉ định. Cuộc giằng
cướp cầu quyết liệt, có keo quân hai bên tranh cướp cầu vài ba giờ đồng hồ mới đưa được cầu vào hố của bên
mình. Mỗi ngày quân tổng thượng và tổng hạ phải tranh cướp cầu ba keo. Bên nào hai lần cướp được cầu bỏ vào
hố trong ngày là thắng cuộc. Trò cướp cầu diễn ra ba ngày liên tiếp, cả thảy là 9 keo.
Cướp cầu diễn ra rất sôi động trong tiếng trống, tiếng kẻng thúc giục. Quân hai bên ham cướp cầu
không e ngại gì sự va chạm. Người ta bảo rằng nếu có sự va chạm xây xát da thịt thì chỉ cần lấy đất bùn ở hố giữa
xoa vào là ắt sẽ mau lành.
Ngày thứ ba sau khi cướp cầu đủ 9 keo thì đại diện Ban khánh tiết lục thôn công bố bên thua, bên được.
Quân bên được reo mừng còn dân hàng tổng thì tin rằng mặt trời đã bị đánh động nên không gây nắng nóng khô
hạn với con người nữa mà trời sẽ mang nước đến tưới cho đồng ruộng để dân cày cấy.
Công bố thua được xong, quân cướp cầu về sân riêng của tổng còn quân chạy gậy mang quả cầu từ hố
lên mặt đất lăn cầu đi vòng quanh bãi, gọi là dắt cầu đi chơi. Quân chạy gậy tinh nghịch lăn quả cầu vào đám đàn
bà, con gái đi xem hội tạo ra những trận cười vui sảng khoái. Sau vài vòng dắt cầu đi chơi, quân chạy gậy dắt cầu
thả xuống giếng làng Động Phí. Cầu củ chuối nổi trên mặt nước đợi khi nào trời mưa to thì vớt lên bỏ đi.
Ngoài sân tổ chức cướp cầu, ấn định 3 ngày, còn trước cửa đình các cụ lục thôn tế cầu đảo vũ, tế đến
khi nào trời đất thay đổi có mưa mới thôi.
Nếu trường hợp mới cướp cầu được một ngày mà trời đã đổ mưa thì dân lục thôn tâm niệm thành
hoàng làng Động Phí thiêng phù trợ cho dân toại ý nguyện nên dân thôn phải tế tạ Thánh vài ngày.
Ngày nay, không còn nghi lễ tế đảo vũ và cướp cầu nhưng ký ức về trò cướp cầu vẫn in đậm trong tâm
trí các cụ ở làng Động Phí. Dân làng đang có kế hoạch gây dựng lại trò vật lão, cướp cầu, coi đó là sinh hoạt văn
hóa độc đáo của địa phương phục vụ cho ngày lễ hội tam thôn 3 năm tổ chức một lần vào ngày mồng 4 tết ở làng
Động Phí./.
N.H.T
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
483
Hội Giỏ
Nguyễn Chí Bền
"Bơi Đăm, rước Giỏ, hội Thầy" là cõu phương ngụn quen thuộc
chỉ những trũ diễn lễ hội cuốn hỳt lũng người của xứ Đoài xưa. Bơi Đăm
là một trũ diễn của lễ hội làng Đăm (nay là xó Tõy Tựu, huyện Từ Liờm,
ngoại thành Hà Nội), hội Thầy tức là hội chựa Thầy và rước Giỏ là một
trũ diễn của lễ hội làng Giỏ.
Làng Giỏ, thời trước cú tờn là Kẻ Sở, rồi đổi Cổ Sở và bấy giờ
bao gồm cả đất xó Đắc Sở và xó Yờn Sở. Nằm ven bờ sụng Đỏy và trục
đường bộ từ kinh kỳ lờn xứ Đoài thủơ xưa, Kẻ Giỏ, với vị thế địa - văn
hoỏ, địa - chớnh trị của mỡnh, trở thành một thị tứ sầm uất. Bến Giỏ, chợ
Giỏ, Bến Lụa v.v..., từ lõu đó nổi tiếng khắp xứ Đoài1. Nhưng kẻ Giỏ
cũng đi vào lịch sử như một làng chiến đấu lõu đời và oai hựng. Lịch sử
xõy dựng và bảo vệ quờ hương làng Giỏ đó thấm đượm mồ hụi và xương
mỏu của bao nhiờu thế hệ, được ghi vào sử sỏch, vào ký ức dõn làng bằng
những truyền thuyết, và những chứng tớch vật chất như Mả Thỏnh, Rừng
Cấm, Gũ Gio, Mả Gạo, Quỏn Giỏ, chựa Bến .v.v....
Nhõn vật trung tõm của lễ hội làng Giỏ chớnh là một người con
của làng: anh hựng Lý Phục Man. Truyền thuyết về nhõn vật này được ghi
rất sớm vào sử sỏch. Thế kỷ XIV, Việt điện u linh chộp:"Bấy giờ thiờn hạ
gặp buổi mờ tối, người hào kiệt phải giấu họ tờn. Đại Vương cũn trẻ tuổi,
phong tư và tài nghệ khỏc thường, cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, cú uy đức
lại cú sức trị được voi. Vương giỳp vua Lý Nam Đế (cựng thời vua Vũ Đế
nhà Lương), vua thấy tài mạo, biết là bậc đại trượng phu, cú thể đảm
đương một mặt trận, bốn cho theo việc binh, lập được nhiều cụng to. Sau
thấy đất Đỗ - động ở biờn giới, một nơi xa và hiểm, phi Đại Vương khụng
ai cai trị nổi, vua mới cho Vương làm Đại tướng ra trấn thủ nơi đú. Một
hiệu lệnh của Vương ban ra, những kẻ hựng trưởng đều phải nớn hơi,
trộm cướp về hàng phục, dõn trong hạt rất yờn vui, già trẻ đều cảm ơn
đức.
1 Về sự hỡnh thành của làng, xin xem Nguyễn Chớ Bền bài Làng xưa xanh ngắt búng dừa in
trong Hà Tõy, những làng nghề làng văn tập 2, Sở Văn húa Thụng tin Hà Tõy, 1993 , tr.
238-249
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
484
Quõn Lõm ấp (tức là Chiờm Thành) vào cướp quận Cửu - Đức.
Được tin bỏo cấp, triều đỡnh họp bàn việc đi đỏnh, cỏc quan đều núi:
"Tất phải Đỗ động tướng quõn mới dẹp được giặc này". Vua bốn cử Đại
Vương đốc xuất cỏc tướng đem binh vào Nam, phỏ tan quõn Lõm ấp ở
Cửu Đức. Tin thắng trận bỏo về kinh đụ, vua khen ngợi hồi lõu, bảo cỏc
quan rằng: "Tre già mới biết dao sắc, nghĩa là cú gặp lỳc gian nguy mới
biết người tài giỏi. Nay Đỗ động tướng quõn bắn vài phỏt tờn mà phỏ tan
quõn giặc dữ, thật là một người hào kiệt đất Sơn Tõy, dẫu bậc danh tướng
đời xưa cũng khụng hơn được, cần phải trọng thưởng". - Vua bốn nhõn
Vương cú nhiều cụng chinh phục cỏc rợ, đặt tờn là Phục Man, cho theo họ
nhà vua là họ Lý lại gả cụng chỳa Lý Nương cho Vương và thăng chức
Thỏi uý, giữ chớnh quyền đứng đầu cỏc quan, Thỏi uý cú tớnh trung hậu
thanh liờm, phàm bàn định việc gỡ cũng theo lẽ cụng bằng ngay thẳng,
mạnh bạo can ngăn vua, khụng dung tha kẻ cú lỗi, đàn hặc kẻ lộng quyền,
khụng e sợ gỡ cả. Trong ngoài ai cũng kớnh phục và gọi Phục Man tướng
cụng".
Tại Yờn Sở, truyền thuyết dõn gian kể Phục Man tướng cụng đó lấy
cụng chỳa Lý Nương, con gỏi Lý Nam Đế. Đồng thời, trong Gúp phần vào
việc nghiờn cứu vị thành hoàng Lý Phục Man, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyờn
cũn ghi lại truyền thuyết về một người vợ của Lý Phục Man ở làng này. Bà
tờn là ỏ Nương, dõn làng coi vị thần này là người vợ thứ hai của ụng. Vốn
là một cụ đầu hỏt, bà đến đõy để hỏt chầu vị thần thành hoàng trong lễ hội,
bỗng nhiờn biến mất, để lại quần ỏo ở làng. Sau đú, trong làng Yờn Sở cú
nhiều người chết, người ta bốn đi búi rựa và xem chõn giũ, được biết là
trong làng đó cú một vị thần mới. Đỏng chỳ ý ở làng quờ của ỏ Nương, cú
một cỏi gũ rất thiờng mà khụng ỏi dỏm vi phạm, ở thụn Thượng Khờ, cú
một thửa ruộng mà ở phớa tõy của thửa đất này cú một hũn đỏ hỡnh con
rựa mà người dõn gọi là đất rựa, dài 2 thước sỏu tấc, rộng 1 thước tỏm tấc.
Tương truyền, thửa đất và hũn đỏ linh thiờng này thuộc
quyền sở hữu của ỏ Nương (phỳc thần Yờn Sở).
Toàn bộ truyền thuyết về người anh hựng Lý Phục Man đó lắng
đọng tại Yờn Sở, sống với thời gian và tõm thức dõn gian trong di tớch và
lễ hội ở đõy. Núi cỏch khỏc, người dõn Yờn Sở đó thờ cỳng một vị anh
hựng dõn tộc. Đú là tớn ngưỡng hay lũng biết ơn tổ tiờn, thật khú mà tỏch
bạch được rừ ràng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
485
Sự thể hiện của tớn ngưỡng này là ngụi đỡnh và quỏn Yờn Sở. Đú
vừa là thiết chế vật chất của tớn ngưỡng, vừa là khụng gian của lễ hội Kẻ
Giỏ, tức xó Yờn Sở và Đắc Sở hụm nay.
Ngụi đỡnh làng Kẻ Giỏ thờ Lý Phục Man, hiện tại khụng cũn nữa
nhưng là một ngụi đỡnh đặc biệt: đỡnh khụng xà. Năm 1947, thực dõn
Phỏp đó đốt nú. Bởi vậy, " chỳng ta chỉ cũn cú thể tiếp cận vẻ đẹp qua sự
miờu tả của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyờn trong cụng trỡnh Gúp phần vào việc
nghiờn cứu một vị phỳc thần An Nam Lý Phục Man (Contribution à l'ộtude
d'un Gộnia Tutộlaire Annamite Lý Phục Man). "Chiều ngang của đỡnh là
34m, chiều sõu 13m50, mặt đỡnh day ra lũng sụng về phớa tõy nam. Núc
đỡnh kiểu 4 mỏi to lớn khỏc thường, đặt trờn những cột bằng gỗ rất to. Bốn
gúc được uốn cong thành đao đầu rồng. Bờ núc chạy suốt chiều ngang ngụi
đỡnh xõy bằng loại gạch hoa làm bằng đất nung, hai đầu cú hai con rồng
giương vuốt. Đỡnh chia làm năm khoang lớn và hai khoang đầu hồi cú thể
gọi là hai chỏi. Mỗi khoang cú hai vỡ kốo sỏu cột đặt trờn đỏ tảng. Hai cột
giữa được nối với nhau bằng một xà cõu đầu. Những cột giữa hay cột cỏi
được nối liền với những cột con ở mặt tiền hay mặt hậu bằng những kốo
chạm hoa lỏ hay long, ly, qui, phượng. Chớnh những kốo này gỏnh hết sức
nặng của mỏi. Hai vỡ kốo gian giữa là gian ban thờ khỏc với cỏc vỡ kốo
khỏc ở chỗ chắp nối với những cột con ở mặt hậu. Như vậy, ta thấy rằng,
ngụi đỡnh được dựng bằng những vỡ kốo biệt lập, chỉ được nối với nhau
bằng phần núc và những gỗ đũn tay ngoài riềm mỏi đỡnh. Cỏc cột khụng
được nối với nhau theo chiều dọc. Và chớnh đõy là đặc điểm của nú, khiến
nú khỏc hẳn với cỏc ngụi đỡnh làng khỏc ở chõu thổ Bắc Bộ. Kiến trỳc của
cỏc bộ phận trong đỡnh mang tớnh mỹ thuật rất cao. Những hoa văn hỡnh
rồng quấn trỳc, rồng chầu một vầng thỏi dương rực lửa, khiến cho ngụi
đỡnh cú một vẻ đẹp cú một khụng hai ở xứ Đoài" 1.
Thiết chế vật chất cũn lại là quỏn Giỏ. Nú hưởng một vị trớ thật
đẹp. Ngày trước, bao quanh ba mặt quỏn là một khu rừng cấm, toàn bộ
quỏn và sõn nằm trờn diện tớch chừng 6000 một vuụng. Trong hàng cổng
ngoài, hai bờn con đường trung đạo cú xõy hai trụ vuụng bằng gạch, trờn
đầu trụ cú trang trớ đầu rồng và đỡnh trụ là hỡnh bốn con phượng kết
cỏnh chổng lờn trời làm thành một cỏi hoa to cú hỡnh bốn cỏnh kộp. Bức
1 Toàn bộ phần miờu tả đỡnh Giỏ, quỏn Giỏ và đỏm rước của hai làng, chỳng tụi sử dụng kết
quả điền dó, nghiờn cứu của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyờn trong cuốn sỏch đó dẫn, qua bản
tiếng Việt của Trịnh Hữu Ngọc.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
486
tường thứ hai được trang trớ bằng gạch đỏ cú hỡnh chạm nổi. Tường phớa
đụng cú 23 viờn, tường phớa tõy cú 26 viờn. Cỏc hỡnh chạm trờn cỏc
viờn gạch khụng giống nhau. Đú là hỡnh cỏc con vật như rồng, phượng,
voi, hỡnh người đỏnh cờ, hỡnh ụng chài, chàng thư sinh. Đỏng lưu ý hũn
thứ 11 cú lời chỳc già trẻ trong làng được phỳ, thọ, khang, ninh. Dải bờn
đụng kết thỳc bằng một loạt cảnh sinh hoạt, dải bờn tõy kộo dài bằng một
dóy hỡnh 12 quả trỏm. Nhỡn nhận cỏc hoạ tiết này, người ta đỏnh giỏ
khụng giống nhau, cú người coi đú là cảnh sinh hoạt, cú người lại cho đú
là những tớch trong Phật thoại. Dự thế nào, những viờn gạch cú hỡnh
chạm này vẫn là những hoạ tiết được tạo ra bằng một bàn tay khộo lộo, tài
hoa. Qua nghi mụn hai bờn là hai dóy hành lang, ở giữa là một sõn cỏ
rộng chừng 22m2. Kế tiếp là một sõn gạch trờn nền tam cấp rộng 15m70,
dài 12m25. Chớnh diện gồm cú ba ngụi đỡnh song hành từ ngoài vào
trong là hạ đỡnh, trung đỡnh và thượng đỡnh. Hạ đỡnh là một ngụi đỡnh
rộng 16m30, sõu 8m80, bờ núc được trang điểm bằng hai con rồng lớn
đang tiến đến vừng dương làm bằng một miếng kớnh trũn màu đỏ, chung
quanh đắp thành hỡnh những ngọn lửa đang rực sỏng. Mặt tiền của ngụi
đỡnh được che bằng hàng liếp đan. Giữa hạ đỡnh và trung đỡnh là một
khoảng cỏch đủ chỗ cho một cỏi mỏng bằng đồng hun, để hứng nước
mưa. Hai ngụi trung đỡnh và thượng đỡnh chỉ cú 6m40 chiều sõu và
12m60 chiều rộng. Giữa trung đỡnh cú một bệ vuụng xõy bằng gạch
dựng làm chỗ bày lễ vật ngày khỏnh tiết. Sau cỏi bệ là một cỏi bàn bày lư
hương, nến, và hai bỡnh hương. Sau cỏi bàn này là một cỏi bàn nhỏ và
thấp hơn đặt ba đài rượu. Rồi đến một bàn thờ cú ba chiếc ngai lớn mang
bài vị phủ nhiễu điều. Hai bờn tả hữu là tượng quan hầu của thần. Trong
thượng đỡnh là một cung cấm cú một bàn thờ và năm pho tượng: ba pho ở
giữa là tượng Lý Phục Man (chớnh giữa), Lý nương và ỏ nương ở hai
bờn. Phớa ngoài tả và hữu là hai thị nữ.
Hai ngụi thượng định và trung đỡnh được núi với nhau bằng một
hàng hiờn đúng kớn. Toàn bộ hợp thành hỡnh chữ cụng. Tường ngoài của
ngụi đỡnh chạy theo hỡnh vuụng của chữ quốc. Như vậy, quỏn Yờn Sở
được xõy dựng theo kiểu nội cụng ngoại quốc. Sỏt tường bờn tõy của hạ
đỡnh là một bể nước mưa hứng từ mỏng đồng hun. Sau bể nước mưa là
nhà bia.
Tại nhà bia này cũn năm tấm bia đỏ, tấm cổ nhất cú niờn đại năm
1620, sau đú là tấm cú niờn đại 1663, rồi tấm thứ ba cú niờn đại 1728,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
487
tấm thứ tư cú niờn đại 1803 và tấm thứ năm cú niờn đại 1855. Nội dung
văn bia là những tư liệu vụ cựng quớ giỏ ghi lại sự tớch của Lý Phục Man
một số sự kiện lịch sử của làng cựng với việc tu tạo đỡnh quỏn, chộp lại
một số qui ước, tập quỏn, lệnh chỉ, sắc phong của cỏc triều đại cho Lý
Phục Man. Khắp chõu thổ Bắc Bộ, khụng phải đỡnh nào cũng cú một số
lượng bia đỏ quớ giỏ như vậy.
Đối xứng với nhà bia, ở phớa đụng là nhà để con ngựa bằng đồng
hun, con ngựa này được đỳc năm Vĩnh Thịnh thứ ba (1707), ngày nay
được sơn trắng.
Đằng sau thượng đỡnh là một cỏi sõn con ở giữa cú một bỡnh
phong với một hũn non bộ. Thực ra, quỏn/ đền Giỏ đó qua nhiều lần trựng
tu. Văn bia tại quỏn Giỏ cũn ghi rừ cỏc niờn đại này. Theo truyền thuyết,
năm 1026, Lý thỏi Tổ lập đền. Năm 1257, đền được sửa lại, năm 1608
xõy lại hai hành lang, năm 1672 dựng nghi mụn năm 1682 xõy hai cột
đỡnh trụ, năm 1682 khắc nhiều bia, xõy thờm thềm đỏ và nghi mụn. Tuy
thế, điện thần của quỏn Giỏ vẫn khụng thay đổi. Cũng khụng rừ từ khi
nào, người dõn thờ cỳng anh hựng Lý Phục Man với nhị vị phu nhõn như
hiện nay, nhưng việc trựng tu được tiến hành dưới thời vua Thành Thỏi
(1889-1907).
Việc thờ cỳng Lý Phục Man "cỏc làng Yờn Sở và Đắc Sở đều
được tổ chức theo lối khỏc nhau", hai làng Yờn Sở, Đắc Sở của làng Kẻ
Giỏ xưa chỉ tổ chức chung ngày hội để tưởng nhớ Lý Phục Man.
Những ngày đầu thỏng ba, kỳ mục của hai làng bắt đầu họp để
phõn cụng cỏc việc của lễ hội.
Lễ hội được tổ chức từ ngày mồng mười đến ngày 26 thỏng ba
hàng năm và cú hai phần rất rừ: phần rước và phần tế.
Nghi thức rước là nghi thức đặc sắc nhất, riờng biệt nhất của hội
làng Kẻ Giỏ.
Ngày 10 thỏng 3, cỏc giỏp của hai thụn Yờn Sở, Đắc Sở, cựng
thụn Diễn Xỏ, Đại Đồng, Yờn Thỏi mang lễ vật đến đỡnh Yờn Sở.
Khoảng 10 giờ là nghi thức xin phộp thần cho trang trớ lại ngụi đỡnh. Cỗ
kiệu lớn của Thành Hoàng được lắp rỏp lại, con ngựa bằng đồng hun được
kộo vào sõn. Chiều ngày 10/3, cả hai làng đi rước bài văn tế ở văn chỉ
thuộc địa phận làng Yờn Sở, ở đõy chỉ là đỏm rước văn tế. Hai làng Yờn
Sở lại tiến hành những đỏm rước khỏc nhau. Đỏm rước của làng Đắc Sở
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
488
vào ngày lẻ. Xuất phỏt từ đỡnh, đỏm rước của làng Đắc Sở đi theo con đờ,
đi đầu là người vỏc giỏo, rồi người cầm tự và. Kế tiếp là một hàng dài
gồm 20 lỏ cờ vuụng, cờ ngũ hành, hai lọng vàng, hai tàn vàng, một chiờng
và một trống cỏi. Bốn người khiờng một cỏi bàn trờn đú đặt cỏc thứ tế
khớ, lư trầm, nến, đốn, hai con hạc và hai bỡnh hoa. Sau cỏi bàn này là 8
người mang bộ bỏt bửu dàn thành hai hàng. Theo sau là người mang phủ
việt, dựi đồng, 12 người mang hồng trượng, hai người mang tỏn thờu. Kế
đú là phường nhạc với ba nhạc cụ: nhị, sỏo và cảnh, rồi cỗ kiệu văn. Đằng
trước kiệu là 4 đốn lồng, hai tỏn và hai quạt đi theo che cho kiệu. Đi sau
kiệu là hai vị bụ lóo: một vị mặc ỏo thụng xanh, đi hia đội mũ, một vị
mặc ỏo thụng thõm, đội khăn thõm đi hia đội mũ. Kế hai vị là hai lỏ cờ.
Tất cả những người khiờng vỏc này đều mặc ỏo đỏ, cú cổ cao, ống
tay dài. Trong đỏm rước cũn cú 36 em mặc ỏo dài thõm, khăn thõm và
mặc quần trắng, đi chõn đất, ngoài ỏo dài cú một cỏi thắt lưng đỏ, được tết
mỳi phớa bờn trỏi. Cỏc em này được chọn trong trẻ em của làng, khụng
phõn biệt con nhà ai, miễn rằng cỏc em khụng cú tật nguyền gỡ, hay trong
nhà khụng cú tang chế. Cỏc em cầm một lỏ cờ nhỏ màu vàng hay vàng
sẫm trờn tay. Người làng gọi cỏc em là tổng cờ. Cỏc tổng cờ này được đặt
dưới quyền chỉ huy của một ụng trạc bốn mươi tuổi, gọi là ụng thủ hiệu.
ễng này chỉ huy 36 em tổng cờ bằng một cỏi chiờng con. Khi ụng ta đỏnh
chiờng thỡ tất cả cỏc em đều đồng thanh kờu to: Lai rộ hố rộ . Sau khi
rước được văn tế, người ta quay trở lại đỡnh quỏn Yờn Sở, qua đỡnh Đắc
Sở. Khi về tới cửa quỏn, sau ba tiếng trống, đỏm rước lại tiến bước, tới nơi,
tất cả những người vỏc cờ và tế khớ đều đứng ở ngoài, hai bờn tả, hữu sỏt
nghi mụn. ễng thủ hiệu và cỏc tổng cờ tiếp tục vào sõn tế.
Trong khi đú, đỏm rước của làng Yờn Sở lại tiến hành vào ngày
chẵn, xuất phỏt từ quỏn đến văn chỉ. Những người tham gia đỏm rước
này phải là người làng Yờn Sở. Những người khiờng vỏc đồ tế khớ đều ăn
mặc như ở Đắc Sở. Riờng cỏc tổng cờ lại tới 48 em. Đỏm rước của làng
Yờn Sở khỏc đỏm rước của làng Đắc Sở ở chỗ cú những cụ già trong làng
giữ vai quan hầu của thần. Cỏc cụ hạ lóo và trung lóo của hội đồng kỡ
mục mặc ỏo đỏ cú ống tay rộng trựng xuống tận đầu gối, khuy ỏo đều ở
phớa bờn phải, ỏo bú chặt lấy người bởi một thắt lưng màu lục mà mỳi
thỡ được tết ở phớa bờn hụng phải. Cỏc cụ đều đội một cỏi nún rơm cú
vành rất rộng (xưa kia nún này làm bằng gỗ). Quần của cỏc cụ là màu
trắng. Trong tay mỗi cụ cầm một cõy roi dài một đầu sơn son thếp vàng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
489
Mười cụ chia thành hai hàng đi trước hương ỏn, mười cụ chia hai hàng đi
trước kiệu văn. Một cụ khỏc cũng ăn mặc y như vậy, cầm chiờng chỉ huy
cỏc em tổng cờ, mỗi khi cụ đỏnh chiờng, cỏc em lại đồng thanh la lờn bốn
tiếng: Lai rộ hố rộ. Đỏm rước đi theo hàng lối nhất định, với trật tự: đi
đầu là người mỳa sư tử, sau đú là tuần đinh mang roi, giỏo, tự và, rồi 20 lỏ
cờ thần. Tiếp sau là chiờng, trống cỏi cú lọng che, dựi đồng, phủ việt,
hương ỏn, phường nhạc, tàn, hai tấm bảng sơn son thếp vàng với hai dũng
chữ: thanh linh, uy viễn, bỏt bửu, rồi đến cỏc tổng cờ chia hai hàng dưới
quyền chỉ huy của ụng thủ hiệu. Cũng nằm trong đội hỡnh rước cũn cú
hai lỏ cờ vuụng, bốn đốn lồng, hai cỏi tàn, hai cỏi quạt vả vẽ rồng, một
phường bỏt õm, một cỗ kiệu, một trống cỏi. Đi sau cựng là bốn lỏ cờ
vuụng.
Khi đến văn chỉ, cũng chỉ cú cỏc tổng cờ, cỏc quan hầu của thần và
cỗ kiệu là được vào sõn, cũn lại ở bờn ngoài, đứng hai bờn đường. Xong
nghi thức này, người ta lại rước trở về con đường cũ với trật tự đội hỡnh
như lỳc ra đi.
Đỏng lưu ý nhất trong lễ hội của Yờn Sở là lễ tế cờ rất trang
nghiờm, thiờng liờng. Nơi sõn quỏn là đội hỡnh thanh niờn, trai trỏng
trong làng đụng tới hàng trăm người, sau lễ tế cờ là trũ diễn "nghiềm
quõn". Tất cả đội hỡnh được sắp xếp tài tỡnh mỳa theo hỡnh xoỏy trụn ốc,
người tướng cầm lỏ cờ đại phỏ vũng võy rất tài tỡnh.
Trũ diễn, trờn lỏt cắt đồng đại thể hiện cuộc phỏ võy của người
tướng, cũng như sự luyện quõn, nhưng tầng sõu của trũ diễn chớnh là tớn
ngưỡng thờ mặt trời. Màu ỏo đỏ, việc mỳa lượn theo vũng xoỏy trụn ốc,
ngược kim đồng hồ, chớnh là những tớn hiệu folklore cho ta hiểu những
tớn ngưỡng xa xưa đó bị khuất lấp bởi thời gian và cỏc lớp sa bồi văn hoỏ
- lịch sử. Những tiếng la là lạ của cỏc em nhỏ làm nhiệm vụ tổng cờ, ngay
thời làm cuốn sỏch về Lý Phục Man, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyờn đó
khẳng định là tiếng thể hiện hốm của thần, phải chăng là ảnh xạ của khỏt
vọng cầu mưa của cư dõn nụng nghiệp. Sự đan xen cỏc lớp văn hoỏ tớn
ngưỡng trong lễ hội thờ cỳng vị thành hoàng của người dõn Kẻ Giỏ khiến
hụm nay chỳng ta khú nhận ra từng yếu tố. Cũng khú mà tỏch bạch đõu là
thỏi độ kớnh trọng ngưỡng mộ của người dõn cỏc thế hệ với người anh
hựng, đõu là tớn ngưỡng thờ cỳng thành hoàng, đõu là tớn ngưỡng thờ
mặt trời, đõu là nghi thức cầu mưa của cư dõn nụng nghiệp. Dự sao, núi
đến lễ hội làng kẻ Giỏ, là phải núi tới trũ diễn rước. Hựng trỏng, trang
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
490
nghiờm, linh thiờng, từ số lượng cờ đụng đảo, tới trũ "nghiềm quõn" rước
Giỏ như một bản sắc văn hoỏ của làng Yờn Sở, làm thành một gương mặt
văn hoỏ khú lẫn so với cỏc làng quờ bỡnh dị khỏc.
Cựng nghi thức rước là việc tế lễ. Lễ vật trong ngày hội của làng
Kẻ Giỏ được dành cỳng Thành hoàng là xụi, gà, oản, chố kho và bỏnh
cuốn. Cú một số ngày người ta cỳng bũ. Đỏng lưu ý là những con bũ này
đều được thui cả con ở bờ mỏng nước chảy phớa đụng ngụi đỡnh, sau đú
đặt trờn bàn để cỳng thần.
Việc tế lễ diễn ra theo nghi thức chung của nghi thức cỳng tế cỏc
thành hoàng ở đỡnh làng quờ xưa. Đỏng chỳ ý là lời văn tế. ở Kẻ Giỏ, mỗi
dịp tế lễ cú một lũng văn khỏc nhau, phần đầu và phần cuối của bài văn tế
khụng thay đổi. Chẳng hạn, lũng văn của bài văn tế mồng một tết:
Đại vương
Dỏng điệu thụng minh
Tớnh tỡnh quả cảm
Cụng nhiều giỳp nước, độ dõn
Sức lớn trừ tai, hóm hoạ
Trăm điều tốt đều nờn
Mọi việc may đều đạt
Cho dõn con được sống cảnh thanh bỡnh.
Hoặc bài văn để xin mở hội:
Cỳi mong Thần rộng lũng chứng giỏm
Để thấu hiểu tấm lũng thành kớnh của dõn con
Để độ cho cả làng được ấm no hạnh phỳc
Muụn điềm lành dồn lại nơi đõy
Để mọi nhà vuụng trũn mĩ món.
Như vậy, gạt đi lớp văn hoỏ Nho giỏo đọng vào lễ hội ở cỏc nghi
lễ thưa gửi, xin lạy, õm hưởng chớnh của phần lễ nghi là người xưa muốn
gửi gắm ở Lý Phục Man sự phự hộ độ trỡ cho một cuộc sống bỡnh yờn,
thịnh vượng.
Đường dõy tớn ngưỡng để qui tụ cỏc hành động hội chớnh là sự
thờ cỳng người anh hựng, như lời văn khắc trờn bia đỏ Thuật thần từ bi:
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
491
"Từng nghe: cú cụng với nước thỡ được thờ cỳng. Cú đức với dõn thỡ
được thờ cỳng. Dẹp yờn tai họa thỡ được thờ cỳng, dẹp bỏ nguy nan thỡ
được thờ cỳng"1 .nếu chưa tớnh cỏc lớp văn hoỏ khỏc lắng đọng trong lễ
hội thỡ chỉ riờng yếu tố tớn ngưỡng này của lễ hội làng Kẻ Giỏ đó là một
thỏi độ văn hoỏ đỏng trõn trọng.
Tuy nhiờn, nhiều lớp tớn ngưỡng như tục thờ mặt trời, tục cầu mưa
v.v... đó đọng lại trong cỏc hành động ở lễ hội này, khiến nú cú diện mạo
như chỳng ta thấy hụm nay.
Dự thế nào, lễ hội làng kẻ Giỏ vẫn cú một nột riờng khú trộn lẫn
trong diện mạo lễ hội xứ Đoài. Tớnh hoành trỏng, đồ sộ của trũ diễn rước,
chớnh là nột riờng ấy./.
N.C.B.
1 Văn bia Hà Tõy, Bảo tàng tổng hợp Sở Văn húa thụng tin thể thao Hà Tõy, 1993, tr.136.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
497
Hội rước thành hoàng tổng Hà Hồi
Chu Huy
Tổng Hà Hồi cũ thuộc huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh
Hà Đông (nay thuộc Hà Tây) là một vùng quê nằm cách phía Nam thủ đô
Hà Nội chừng 20km. Nơi đây từ xa xưa đã từng nổi danh trong câu
phương ngôn: “Phía nam nhất chợ Bằng, Vồi”. Bằng là chợ xã Bằng Vọng
(Bình Vọng) nay thuộc xã Văn Bình, còn Vồi chính là tên nôm làng Hà
Hồi nay thuộc xã Hà Hồi. Chỉ với một câu phương ngôn ấy đủ nói lên sự
giàu có về sản vật, sự thịnh vượng về chợ búa, mua bán của một vùng cư
dân trù phú. Nhưng Hà Hồi lại được lịch sử ghi nhớ sâu đậm hơn trong chiến tích của vua Quang Trung mồng 3 Tết Kỉ Dậu (1789) trong chiến
công đại phá quân Thanh.
Trước cách mạng tháng Tám-1945, tổng Hà Hồi bao gồm các làng
(cũng gọi là xã) Hà Hồi, Phú Cốc, Hoà Lương, Khê Hồi (nay thuộc xã Hà
Hồi), Đức Trạch (nay thuộc xã Quất Động), Bạch Liên, Phương Quế (nay
thuộc xã Liên Phương). Ngày hội rước thành hoàng của cả tổng là ngày
16- 3 âm lịch, tương truyền là ngày sinh của vị thành hoàng Cao Sơn đại vương, đã được các triều đại phong tặng thượng đẳng tối linh. Cả 7 ngôi
đình của 7 làng trong tổng đều thờ thành hoàng Cao Sơn đại vương, thành
hoàng Cao Sơn, trong cuốn sách Đường phố Hà Nội có ghi như sau: Về
lai lịch thần này có nhiều thuyết kể khác nhau, nhưng đều thống nhất ở
một điểm: Cao Sơn là một bộ tướng thân cận của Sơn Tinh (thánh Tản
Viên).
Ngày lễ thánh là ngày 16-3 (Ngày đản sinh). Ngày 12-8 là ngày
thánh hoá. Ngày 6-11 là ngày “khánh hạ”.
Nơi đây còn thần phả viết ngày mồng một đầu xuân năm Hồng
Phúc nguyên niên (1572) người soạn là quan Lễ bộ Hàn lâm viện Đông
các đại học sĩ Nguyễn Bính. Người viết là quan quản giám bách thần tri
điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền chép y bản chính vào ngày lành
tháng 8 năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1739). Bản cuối cùng được chép lại vào
ngày mồng một đầu đông năm Nhâm Tuất Hoàng triều Khải Định năm
thứ 7 (1922).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
498
Ngoài cuốn thần phả, các tài liệu thư tịch còn gìn giữ được đến
ngày nay gồm 20 đạo sắc phong của các triều vua Lê Trung Hưng, Tây Sơn và nhà Nguyễn.
Qua các tài liệu thư tịch, đặc biệt là sắc phong Cao Sơn quốc chủ, có
thể khẳng định Miếu Tổng hay Phương Quế từ xa xưa đã được trông nom
hương khói hết sức chu đáo. Nội dung sắc phong cho biết công lao to lớn của
các vị thần, đặc biệt là Cao Sơn Quốc Chủ trong việc “hộ quốc tý dân”.
Thánh thần từ nguồn gốc xuất xứ thế nào, dù nhân thần hay thiên thần khi có
công lao đều được thờ phụng.
Như vậy theo thần tích, thì Cao Sơn có họ tên là Cao Hiển, sống vào khoảng cuối thế kỷ 13 và thế kỷ 14, có cha là Cao Khánh và mẹ là
Trần Thị Tố. Tuy nhiên lần theo thần tích ta thấy có nhiều chi tiết không
xác minh được và mẫu thuẫn với lịch sử. Chẳng hạn những chi tiết về địa
danh nơi cư ngụ của Cao Khánh khó đối chiếu với địa danh ở Thanh Hoá
hiện nay, còn địa danh về nơi ở của Trần Thị Tố thì có thể xác minh được:
xã Quang Liệt trước thế kỷ 19 thuộc tổng Nam Bạn huyện Tống Sơn, phủ
Hà Trung nay là huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa. Rất có thể Cao Khánh
cư ngụ ở vùng Trường Yên, Tam Điệp thuộc Ninh Bình hiện nay, song những địa danh như An Mạc, Giả Ca, Phú ốc, không tồn tại trong địa chí
lịch sử trước thế kỷ 19 nên chưa thể xác minh. Vì vậy chi tiết về quê quán
thực sự của nhân vật Cao Sơn vẫn chỉ là ước đoán, giả định mà thôi. Và
đương nhiên, nhân vật Cao Hiển phải chăng cũng có thể là không có thật,
mà nếu có thật nhân vật này cũng đã được nhân dân hư cấu và huyền thoại
hoá qua quá trình lưu truyền từ địa phương naỳ đến địa phương khác
trong trường kỳ lịch sử của dân tộc.
Mặc dầu vậy vị thành hoàng này vẫn được thờ phụng hết sức tôn
kính ở nhiều đền đình miếu, được nhiều triều đại nối tiếp nhau sắc phong
những mỹ hiệu cao quý. Riêng ở tổng Hà Hồi thì vị thành hoàng Cao Sơn
trở thành vị vua tinh thần qua nhiều thời được thờ phụng hết sức tôn kính.
Ngày đản sinh 16 tháng 3 âm lịch hàng năm trở thành ngày hội làng của
cả tổng hết sức linh đình trọng thể, hội rước thành hoàng tổng Hà Hồi đã
trở thành một hội rước lớn của cả vùng Thường Tín xưa kia. Trình tự lễ và
trình tự rước bắt đầu từ ngày 14 tháng ba âm lịch. Ngày 14 các làng đều có tế ở đình và tổ chức rước kiệu quanh làng có tính chất làm quen và tập
dượt nghi thức. Ngày 15 tế trọng ở đình buổi sáng rồi buổi chiều cả tổng
hội kiệu ở đình Hà Hồi. Sân đền Hà Hồi rộng hàng mẫu dất rực rỡ cờ hội,
hoa, đèn, kiệu, lọng, voi, ngựa, trống, phách... của cả tổng đi rước về, vì
tuy cùng thờ vị thành hoàng Cao Sơn, nhưng làng Hà Hồi vẫn được coi là
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
499
làng anh cả. Tối ngày 15 có cuộc tế lễ long trọng tại đình Hà Hồi, mà chủ
tế là cụ cao tuổi nhất có đức độ của làng Hà Hồi, còn bồi tế là đại biểu của cả 6 làng còn lại. Sáng ngày 16 cả tổng lại rước kiệu lên Miếu tổng tức
đền Phương Quế. Đây là một hội rước lớn có số kiệu từ 10 đến 14 chiếc,
với số người tham gia nghi thức đến hàng nghìn, đi trên một đoạn đường
dài từ làng Hà Hồi vòng ra quốc lộ số 1 rồi đi theo đường tỉnh lộ 71 sau
đó rẽ lên Bạch Liên, Phương Quế. Trình tự, đi đầu là đám rước hội của
hai làng Bạch Liên, Phương Quế với ý nghĩa hai làng sở tại, rồi đến đám
rước kiệu của các làng Khê Hồi, Phú Cốc, Hà Hồi, Hoà Lương và Đức
Trạch. Đi đầu mỗi đám rước của mỗi làng thường là đôi cờ tuyết mao, 5 hoặc 4 cờ đuôi nheo, hoặc cờ góc vuông bằng dạ hoặc nỉ, 5 cờ ngũ hành
xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, 4 cờ tứ phương xanh, đỏ, trắng, đen, 4 cờ tứ
linh long, ly, quy, phượng, 8 cờ bát quái kiền, khảm, cấn, chấn, tốn, ly,
khôn, đoài. Người cầm cờ đội nón dấu, thắt lưng bó que, đeo một cái cối
con ở trong ngực để đỡ đốc cờ cho nhẹ. Tiếp đó là trống cái lớn hai người
khiêng, một người che lọng, một người đánh trống, ăn mặc theo quy ước.
Tiếp đó là chiêng cũng khiêng giống như trống hoặc có xe kéo. Sau đó là
voi rút mây hoặc ngựa gỗ có che tán lọng, có người vác khiên đi kèm hai bên. Đi liền với voi ngựa là đội vệ sĩ, còn gọi là đội chấp kích mang
gươm, bát bửu, dùi đồng, phủ việt, tay văn, tay võ, biển tĩnh túc, biển bồ
dục đề thượng đẳng tối linh thần hoặc lịch triều phong tặng để thể hiện uy
phong danh vị của vị thành hoàng. Người cầm các loại biển mặc áo thụng
xanh, có lọng che. Tiếp đó là phường đồng văn đánh trống ba nhịp, một
vài trống khẩu, một thanh la, hai sinh tiền, tám người mặc áo nẹp đỏ, đeo
trống bản ngang lưng. Hai người nam giả dạng nữ đeo trống cơm gọi là con đĩ đánh bồng, múa điệu cà rồng theo nhịp trống. Tiếp đó đến cờ lệnh,
cờ vía của thần vị và ba người mang kiếm lệnh của vị thần. Phường bát
âm tám người chơi hai bài lưu thuỷ, ngũ đối. Rồi mới đến kiệu long đình
bày hương hoa, mâm ngũ quả, có bốn đô tuỳ đi kèm ngoài. Có hai người
cầm trống khẩu hoặc cầm cảnh gióng hiệu. Có tàn lọng che kiệu long đình
cho tôn nghiêm. Tiếp đó đến kiệu rồng (kiệu bát cống) rước bài vị thành
hoàng Cao Sơn. Đi bên kiệu có 8 đô tuỳ nam để thay thế tuỳ đang khiêng.
Đi theo kiệu là các bô lão, viên chức làng xã mặc áo có bố tử, che cả lọng xanh, có vài người đầy tớ cắp tráp, điếu theo hầu để tỏ ra đó là người danh
giá. Đám rước to còn có phường tuồng vẽ hề đeo mặt nạ đi đón đường.
Hội rước tổng Hà Hồi thường chỉ có đám rước của làng Hà Hồi là có đủ
mọi nghi thức vì làng to đông dân, kinh tế khá. Còn đám rước của các
làng khác trong tổng thường gia giảm ở số lượng nghi thức và số lượng
người tham gia. Nhưng dù có gia giảm đến mức nào thì cũng vẫn có kiệu
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
500
rồng, có phường trống, phường bát âm và cờ lọng nghiêm chỉnh. Năm
1964 hội rước tổng Hà Hồi đã kết hợp với triển lãm sản phẩm nông nghiệp, diễn ra vào ngày 16 tháng 3 âm lịch còn để lại khá nhiều dư vị của
một vùng quê trù phú. Hôm ấy thủ tướng Phạm Văn Đồng có về dự và nói
chuyện với đồng bào. Nhiều tấm ảnh chụp hồi ấy hiện còn ghi lại được
cảnh hoành tráng của một lễ hội làng quê, hiện đang lưu trữ tại UBND xã
Hà Hồi. Vài năm gần đây các làng trong tổng Hà Hồi cũ đang khôi phục
lại hội rước truyền thống. Chắc chắn sẽ có dịp hội rước truyền thống tổng
Hà Hồi lại được tổ chức đông vui và hấp dẫn như những năm xưa, thoả
mãn nhu cầu văn hoá giao tiếp của một vùng quê đang đổi mới.
Sau hội rước của các làng trong tổng lên Miếu tổng Hà Hồi, tức
đền Phương Quế, thì bắt đầu nghi thức đại tế diễn ra ở Miếu tổng. Mỗi
làng trong tổng cử 2 người tham gia vào ban hành lễ, chủ tế lúc đầu là
người thôn Khê Hồi, tả văn là người của thôn Phương Quế sở tại. Nghi
thức đại tế diễn ra theo đúng quy định chung. Sau khi tế lễ xong dân làng
xem các trò diễn như cờ bỏi, múa gậy, thi bơi, hội thuỷ chiến. Buổi tối có
văn nghệ hát chèo, diễn tuồng. Cho đến tối 17 tháng 3 hội rước mới rã
đám.
Qua hội rước thành hoàng tổng Hà Hồi và lai lịch vị thành hoàng
Cao Sơn đại vương có thể rút ra mấy nhận xét sau đây:
Hội rước hay lễ hội làng quê là một hoạt động văn hoá tổng hợp
đáp ứng nhu cầu giao tiếp, thưởng thức, trình diễn văn hoá của làng quê
Việt Nam. Làng này và làng nọ, xã này với xã khác chỉ có dịp hội rước,
hội lễ mới có thể gặp gỡ phô diễn những cái gì là tinh hoa nhất của làng
xóm mình, mới có dịp cùng lo lắng, cùng chuẩn bị, cùng hợp đồng và cùng thưởng thức những giá trị cao đẹp của cộng đồng làng xã. Vì vậy hội
rước, hội lễ là một nhu cầu tất yếu của những người nông dân quanh năm
làm ăn vất vả, vốn ít có dịp gặp gỡ vui chơi cùng nhau.
- Thành hoàng Cao Sơn đại vương mặc dù có nguồn gốc hư ảo vẫn
được người dân thờ phụng tôn kính. ở đây Cao Sơn đại vương không còn
là một nhân vật cụ thể nữa mà là vị vua tinh thần với lòng quảng đại, bác
ái, nhân từ, hiếu thuận phù hợp với chuẩn mực đạo đức và sự hướng tới
cõi cao cả của nhân dân. Họ thờ phụng thành hoàng như chính họ đang thờ phụng những điều thiện, những điều tốt đẹp nhất của tâm linh con
người. Việc thờ phụng vị thành hoàng này hay vị thành hoàng khác không
quan trọng bằng chính những ước muốn cao cả đó.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
501
Hiện nay, nhu cầu khôi phục hội rước, hội lễ của các làng trong
tổng Hà Hồi cũ là một nhu cầu chính đáng. Mặc dù một số di tích cổ truyền trong đó có đình thôn Phú Cốc, đình Đức Trạch, Miếu tổng Hà Hồi
đã bị phá huỷ, song tâm linh của người dân vẫn còn đấy, hội vẫn sống với
những giờ khắc huy hoàng của quá khứ và họ đang tạo dựng cơ hội mới
để khôi phục lại những giá trị tinh thần của làng xã cổ truyền. Làng quê
Việt Nam dù đang trên đà đổi mới, song vẫn phải tiếp nối truyền thống
của nó. Những làng xã của tổng Hà Hồi cũ đang vận động theo xu hướng
như vậy.../.
C.H
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
502
Lễ hội Đền Hả
Nguyễn Minh Hoàng
Đền Hả còn gọi là Từ Hả, là ngôi đền cổ tọa lạc trên ngọn núi
Kỳ Lân (còn gọi là Kỳ Sơn) thuộc địa phận làng Hả Hộ xưa, nay là
làng Kép xã Hồng Giang huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Đền xây
kiểu chữ tam (chữ Hán) gồm 3 tòa: đền Hạ có 5 gian, đền Trung (có 5
gian), đền Thượng (có 3 gian mang tư cách như tòa hậu cung).
Tương truyền, đền có từ thời Lý - Trần, song dấu vết kiến trúc
xưa đó hiện nay không còn ngoài một số di vật cổ như: gạch ngói,
mảnh gốm... Ngôi đền hiện tại được xây vào cuối thời Lê đầu thời
Nguyễn. Lần tu tạo cuối cùng vào những năm 1929 - 1930. Trong đền
hiện còn lưu giữ nhiều đồ thờ, ngựa thờ, bát bửu, bát tiên, vò, bát, đĩa
và nhiều hoành phi câu đối có giá trị văn hóa cao. Đền đã được Nhà
nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa. Cạnh đền Hả là ngôi chùa
cũng có tên là chùa Hả, góp phần tạo nên một tổng thể kiến trúc nghệ
thuật hài hòa với cảnh trí thiên nhiên, phía trước là con sông Lục Nam,
sau là núi của làng Hả Hộ xưa.
Đền Hả thờ tướng quân Vũ Thành 1 và 6 nhân vật thời Lý (thế kỷ
XI) là:
1. Thánh phụ thần, Thân tướng quốc, Thái truyền tả bộc xạ Vũ
Tỉnh tôn thần, thần vị.
2. Thánh Mẫu quốc: Quốc Mẫu Thiên Thành, Thái đường thái
trưởng Lý Thị Cảnh công chúa thần vị.
3. Thánh di: Thụy Thiên công chúa Lý Thị Dược, hiệu diệu văn
thần vị.
4. Thánh di: Bình dương công chúa Lý Thị Giám, hiệu diệu
Minh thần vị.
5. Thánh di: Yến Hoa công chúa Lý Thị Kiên, hiệu diệu Linh
thần vị.
1 Có tài liệu nói thần Vũ Thành chính là Thân Cảnh Phúc, phò mã nhà Lý.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
503
6. Thánh phi: Truy phong trinh minh, trinh tĩnh Giám Thị Tuấn,
gia tặng Trình Mỹ phu nhân, diệu thục chi thần thần vị.
Hiện trong đền còn giữ được pho tượng tướng quân Vũ Thành
được tạc từ thời Lê. Tượng sơn son thếp vàng lộng lẫy, uy nghi, đặt ở
đền Thượng. Qua các bản thần tích và hơn 20 đạo sắc phong của các
thời Lê, Nguyễn, sự tích võ tướng quân Vũ Thành có thể tóm tắt như
sau:
Vào thời Lý, ở thôn An Khánh xã Tòng Lệnh huyện Na Ngạn có
quan tả bộc xạ Vũ Tỉnh được vua gả công chúa Lý Thị Cảnh cho. Hai
người sinh ra Vũ Thành, một trang nam tử khôi ngô tuấn tú, văn võ
song toàn, đã đậu giải cao trong một cuộc thi ở triều đình. Song, hiềm
nỗi, khi vinh qui bái tổ thì chẳng may người cha đột ngột qua đời, ông
phải ở nhà chịu tang. Giữa lúc ấy, giặc phương Bắc tràn sang xâm
lược nước ta, giết hại dân lành. Nghe theo tiếng gọi của non sông, ông
đã cầm quân đi dẹp giặc. Trải qua 9 trận chống giặc ở phòng tuyến dọc
sông Lục Nam, ông bị thương, chạy về đến núi Kỳ Lân thì mất. Vô
cùng thương tiếc, nhân dân hai bên bờ khúc sông này đã lập đền thờ
ông. Và hàng năm, vào ngày mồng 8 tháng Giêng, lễ hội tưởng niệm
tướng Vũ Thành đã được tổ chức linh đình, và nhằm diễn lại chiến
công đánh giặc oai hùng thủa xưa của ông và nhân dân Đại Việt.
Chính hội là ngày mồng 8 nhưng ngay từ ngày mồng 6, 7, đền Hả đã
đông đúc người trong vùng và khách thập phương đến cúng bái.
Ngày mồng 8 làm lễ tế thành hoàng, tổ chức các trò chơi như
đấu vật, nhiều phường chèo trong vùng thay nhau biểu diễn (vì thế,
hội đền Hả còn được gọi là hội phường chèo). Dân làng góp gạo thịt
nuôi mỗi phường chèo và sau khi biểu diễn xong, lại có phần thưởng
nhỏ, gọi là "lộc thánh". Đặc sắc nhất trong lễ hội đền Hả là đám rước
và diễn lại sự tích tướng quân Vũ Thành đánh giặc. Hôm đó theo hiệu
lệnh các đội quân được ăn mặc chỉnh tề, xe ngựa, khí giới trong tay từ
từ tiến vào khu đánh trận đặt tại Bãi Dược. Tại đây, đã có một đội
quân ém sẵn. Khi có gió đông bắc nổi lên, hiệu lệnh phát ra, đội quân
này reo hò, từ các nơi mai phục xông ra. Hai bên giao tranh "quyết
liệt". Sau đó làm lễ tế cờ thắng trận rồi thu quân về đền.
Qua sự tích vị thần được thờ cũng như qua các hành động,
chúng ta phần nào hiểu được chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách
bảo vệ biên cương vùng núi của nhà Lý. Lễ hội đã làm sống lại cái
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
504
không khí hào hùng của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm xưa của
cha ông./.
N.M.H
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
505
Hội đền Hạ Lôi
Hà My
Làng Hạ Lôi (xưa còn có tên là Cổ Lôi, rồi Cổ Lai) thuộc xã Mê
Linh, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc, tương truyền đây chính là quê
hương của Hai Bà Trưng. Làng nằm ngay bên tả ngạn của sông Hồng, từ
Hà Nội theo đường đê Yên Phụ ngược lên phía tây bắc, qua cầu Thăng
Long, theo đê sông Hồng đi ngược lên 14 km, du khách sẽ gặp đền Hai
Bà. Ngôi đền cổ kính nằm gần chân đê sông Hồng, ở phía đông nam của
làng.
Đền được xây trên một khu đất cao, rộng, thoáng, giữa cánh đồng,
nhìn ra đê sông Hồng. Cổng đền đẹp. Trên cửa chính có bức hoành mang
dòng chữ “Ly chiếu tứ phương” (tức: ánh sáng chiếu toả bốn phương).
Sau cổng là một khoảng sân rộng. Cuối sân có hồ bán nguyệt. Bên hồ là
nhà tiền tế. Tại đây có một tấm bia và một quả chuông. Bia có tên là:
“Cải chính miếu hướng bi ký” (bia về việc sửa lại cho đúng hướng miếu),
được khắc năm 1899. Chuông có dòng niên đại đúc năm 1803. Như vậy,
đền được xây dựng từ rất lâu rồi, còn hướng và diện mạo của đền như hiện nay là có từ năm 1899.
Phía trong nhà Tiền Tế là hậu cung. ở cả nhà tiền tế và hậu cung có
một số hoành phi, câu đối mang đầy ý nghĩa tự hào là hai bức hoành:
Nam quốc sơn hà và Hoàng đế từ. Đôi câu đối có niên đại xưa nhất của
Vĩnh Tường - tri phủ Nguyễn Thái - cung tiến năm 1881 có nội dung:
“Bất thế anh hùng vương tỷ muội
Nhưng tiền cơ chở tuế xuân thu”
Tạm dịch là:
“Vua chị, vua em, hào kiệt thế gian khó sánh còn nền, còn móng
xuân thu hương lưu dài lâu”
Một câu đối khác cũng khá hoàn chỉnh của huấn đạo Phạm Quang
Tiến (cùng với đồng trị phủ sa Thương biên phủ Vĩnh Tường) soạn năm
Canh Tuất 1910:
“Số thiên niên Diên quân cố đô,
uất uất thông thông giang sơn ngộ thổ”
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
506
“Thập bát thế Lạc Hùng di trụ, oanh oanh, liệt liệt, tỷ muội nhất
môn”
Tạm dịch là: “Mấy ngàn năm Diên quân cố đô, đất nước nhà ta vẻ
vang rực rỡ”
“Mười tám đời Lạc Hùng, dòng cũ, chị em một cửa hiển hách vang
lừng”.
Phía trong hậu cung, trước kia trên bệ thờ có đặt tượng bà Trưng
Trắc và tượng ông Thi Sách ngang hàng nhau. Theo tờ khai của hương lý
làng này (tháng 4-1938) thì hai pho tượng này làm bằng đất luyện. Đến
năm Gia Long thứ 11 (tức năm 1822) mới thay bằng tượng gỗ. Đặt bên ngoài tượng là bài vị Bà Trưng Nhị, bài vị tạc bằng đá. Hai pho tượng và
bài vị này đã bị phá huỷ trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1947-
1948).
Sau khi hoà bình lập lại (1954), dân làng mới nhờ người vẽ lại hai
pho tượng Hai Bà giống như ở đền Đồng Nhân, rồi đem về treo ở Hậu
cung.
Trong dân gian cũng như trong sử sách còn lưu giữ và ghi chép
nhiều về sự tích Hai Bà. Nhưng ở đây, chúng tôi muốn ghi lại bản truyền thuyết về Hai Bà còn lưu lại trong trí nhớ của nguời dân Hạ Lôi, trên cơ
sở đó cộng thêm với những chuyến đi thực tế và những tư liệu quý giá
của các đồng nghiệp:
Mười tám đời nhà Hùng đều xưng là Hùng Vương. Tới Hùng Duệ
đế không có con trai nên nhường ngôi cho Thục Phán, thủ lĩnh bộ Nam
Cương. Thục Phán lên ngôi, đổi tên nước và dời đô về thành Cổ Loa,
xưng là Thục An Dương Vương, nước Âu Lạc. Năm Duệ chết, sau đó có tin đồn truyền rằng Thục Phán sợ người họ Hùng không thuần phục nên có
ý ngầm muốn diệt. Người nhà họ Hùng rất lo sợ....
Một chi họ Hùng đổi thành họ Trưng tìm về vùng Thiên Sớ (Thái
Nguyên?) để ẩn. Chi này truyền đến đời Hùng Điệp (Trưng Điệp) thì sinh
ra Hùng Định (Trưng Định).
Trưng Định không ở Thiên Sớ mà chuyển về trang Hạ Lôi, huyện
Mê Linh làm nghề dạy học và lấy Trần Thị Đoan con gái ông Trần Minh,
trang Cổ Lai.
Năm thứ 14 đầu công nguyên, bà Đoan sinh đôi được hai người con
gái (vào ngày 1.8 năm Giáp Tuất). Hai người xinh đẹp, tư chất thông minh
khác thường, đặt tên là Trắc Nương và Nhị Nương.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
507
Thời ấy nhà Hán cai trị nước ta, cử Tô Định làm quan thái thú, nổi
tiếng tàn ác.
Năm thứ 31, một hôm hai chị em tập võ ngoài vườn nghe tiếng la ó,
Trưng Trắc bảo Trưng Nhị ra xem, dân làng kể về Ngụy Húc (một tên
quan nhà Hán) đến đòi cống nạp, đánh đập dân rất tàn ác.
Trưng Nhị về kể với chị, hai chị em rất uất ức và cùng đến tận nơi để
xem. Thấy hai cô gái trẻ, Ngụy Húc đùa cợt, trêu ghẹo. Trưng Nhị rút tên
bắn qua đầu Ngụy Húc cảnh cáo, hắn sợ quá xin tha tội chết mà rút về.
Ngụy Húc đem chuyện kể với Tô Định, Tô Định nghe xong đem Ngụy
Húc ra chém liền lấy uy lực cho quân. Sau đó cử Tích Lâm đi trừng trị chị em Trưng Trắc. Tích Lâm bị Trưng Trắc chém làm ba mảnh, còn quân sỹ
của hắn bị Trưng Nhị đánh cho tan tác.
Lại nói ở huyện Chu Diên có gia đình ông Đặng Tập sinh được Đặng
Thi Sách. Sách khôn lớn được đi học, nhận ông đồ Lỗ Sinh Tú ở Thanh
Tước làm thầy. Thấy nước nhà cơ cực lầm than, Sách thường bày tỏ với
thầy chí hướng và xin đi chu du đây đó tìm người cứu nước. Gần một năm
trời đi mà không gặp ai, mãi đến khi về Mê Linh thì nghe tài trí của hai chị
em Trưng Trắc, bèn đem lòng khâm phục, viết thư bày tỏ nỗi lòng. Trưng Trắc bèn phúc đáp ngay. Thi Sách rất vui vẻ và cảm động liền tìm gặp hai
chị em. Dần dần giữa Thi Sách và Trưng Trắc đem lòng mến phục và ngỏ
lời với nhau. Sau khi cưới nhau, Thi Sách lại đi chiêu mộ người tài. Song
cũng không có kết quả. Lúc đó Trưng Trắc liền bàn: chàng là con quan
Lạc tướng, nên lấy danh hiệu là huyện lệnh mà chiêu nạp mọi người cho
thuận. Quả vậy, Thi Sách làm theo danh tiếng nổi nhanh khắp nơi.
Vợ chồng Thi Sách giao cho Trưng Nhị rèn luyện quân sỹ ở thành Cơ Triền (Tam Đồng). Thành được xây đắp rất cẩn thận, có đào giếng cho
quân lấy nước, có ao cho quân tắm giặt, thần tích gọi là Tam Kha hay
thành Dền. Sau khi hoàn thành, Trưng Trắc sai Trần Nang đến giữ thay để
Trưng Nhị lên Bạch Hạc luyện quân thuỷ.
Giặc Hán ngày càng tàn bạo, điên cuồng. Thi Sách căm phẫn viết thư
cho Tô Định kể tội và cảnh cáo hắn. Biết không thể giết được Thi Sách dễ
dàng, Tô Định lập mưu mời Thi Sách đến dự yến để bàn chuyện. Đang
giữa bàn tiệc Tô Định liền mở thư của Thi Sách kể tội hắn, biết tình thế nguy ngập Thi Sách liền nhanh trí rút gươm của một tên lính đứng hầu
định chém Tô Định, nhưng đã bị chúng bắt trói lại. Trên đường bị dẫn ra
pháp trường để hành hình, Thi Sách đã nhảy xuống một cái hồ tự tử. Xác
ông bị Tô Định treo lên cổng huyện đường.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
508
Hành vi bạo ngược của Tô Định không làm cho Hai Bà nhụt chí, mà
trái lại, Hai Bà đã quyết tâm tiến hành khởi nghĩa để “Đền nợ nước, trả thù nhà”. Tiến đàn thờ trước đông đảo binh sỹ, Bà Trưng đã nêu rõ 4 mục tiêu
của cuộc khởi nghĩa:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba xin oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”
Tháng 3 năm 40, Hai Bà phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát.
Người yêu nước ở khắp nơi rầm rập kéo về tụ nghĩa ở Mê Linh. Từ Mê Linh nghĩa quân tiến công vào thành Luy Lâu thủ phủ của chính quyền
Đông Hán ở Giao Chỉ. Trong thời gian ngắn khởi nghĩa liên tiếp xảy ra ở
nhiều địa phương, Tô Định hoảng sợ bỏ trốn về nước. Nghĩa quân thu
được 65 thành. Khởi nghĩa thắng lợi, nền độc lập dân tộc được phục hồi.
Trưng Trắc lên làm vua. Trưng Nhị được phong là Bình Khôi công chúa.
Hán Quang Võ uất ức, sau hai năm nuôi chí phục thù sai Mã Viện
và Lưu Long mang ba vạn quân cùng 2000 thuyền sang đánh lại nước ta.
Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, quân Mã Viện liên tiếp được ứng cứu, còn quân Hai Bà cứ hao tổn dần. Sau trận Lãng Bạc Hai Bà rút về Cẩm
Khê xây dựng doanh trại, tự nhiên thấy gió làm gãy cột cờ, cho là điều
chẳng lành.
Ngày 8/3/44 Hai Bà gieo mình xuống dòng Hát Giang tự vẫn sau
những trận chiến đấu một mất một còn với kẻ thù.
Đây là một trong những truyền thuyết mang tính lịch sử đậm đặc và
cũng rất giầu chất thơ. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà là biểu hiện cao của một tinh thần đoàn kết chiến đấu, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng tập
thể và ý chí quật cường không chịu khuất phục trước kẻ thù của dân tộc
ta.
Để tưởng nhớ đến công lao của Hai Bà, sau này ở rất nhiều nơi đã
lập đền thờ cúng và mở hội:
Theo một số tài liệu cũ chép lại rằng hội đền Hạ Lôi xã Mê Linh
xưa mở vào rằm tháng giêng âm lịch hàng năm. Song các cuộc khảo sát
gần đây cho thấy, cho đến nay hội vẫn được mở vào 6 tháng giêng âm lịch. Câu ca vẫn còn in đậm trong tâm trí người dân nơi đây:
“Có về thăm hội Hạ Lôi
Tháng giêng mồng sáu cho tôi đi cùng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
509
Kiệu bà đi trước kiệu ông
Nữ binh hộ giá khăn hồng hài hoa”
Tương truyền ngày mồng 6 tháng giêng là ngày Hai Bà mở tiệc
khao quân, cho nên sau này dân làng mở hội để kỷ niệm sự kiện đó. Mỗi
năm, tới ngày hội, người ở các nơi kéo đến rất đông. Hội có lệ cúng bánh
dầy và những trò vui cổ truyền như đấu cờ, nhún đu... Những năm gần
đây còn có đấu vật rất sôi nổi. Song đặc sắc nhất của hội đền Hai Bà là tục
rước kiệu hội đồng hay còn gọi là đám rước tập trận.
Từ giữa tháng chạp, làng đã chọn cử xong 150 cô gái xinh đẹp và 70 chàng
trai tuấn tú làm chân kiệu, chân cờ, chân lọng... và cho tập luyện, rước xách hàng tuần rất chu đáo. Đền có ba cỗ kiệu: hai kiệu rước thánh vị Hai Bà, kiệu thứ ba
rước thánh vị ông Thi Sách, chồng bà Trưng Trắc.
Sáng ngày mồng 6 tháng giêng, sau tiệc tế ba tuần rượu, trống chiêng nổi
ba hồi chín tiếng sửa soạn cuộc “rước hội đồng”.
Tất cả những người tham gia rước tập trung trước sân đền để sắp xếp hàng
lối. Như nhiều đám rước khác đi đầu bao giờ cũng là các loại cờ hội, cờ thần. Từ
trong đền ba kiệu được sắp xếp theo thứ tự, đầu tiên là kiệu Thi Sách, tiếp đến là
kiệu Trưng Trắc, cuối cùng là kiệu của Trưng Nhị. Khi xuất phát kiệu Thi Sách do 32 chàng trai khiêng, kèm theo là 32 thanh niên khác dự bị đi bên cạnh để
thay đổi cho nhau. Những người này đều mặc quần áo đồng phục ngày hội: áo
dài đen, quần trắng, thắt lưng màu buộc thành múi ở sườn bên trái, đầu chít khăn
lượt. Còn kiệu Hai Bà do các cô gái đồng trinh, cũng với số lượng như kiệu Thi
Sách. Họ mặc đồng phục áo dài tứ thân màu nâu, hai vạt thắt lưng màu buộc ra
sau, đầu chít khăn màu hồng, chân đi hài.
Khi đã sắp xếp cẩn thận, tất cả đã sẵn sàng, đám rước bắt đầu trong tiếng chiêng, tiếng trống vang động, tiếng nhạc của phường bát âm rộn rã cùng tiếng
người dự hội tạo nên một không khí sôi động và nhộn nhịp. Qua khỏi cổng đền
ra tới đường Trống Quân thì kiệu của Thi Sách dừng lại nhường cho hai kiệu kia
lên trước. Tục này gọi là tục giao kiệu với ý nghĩa “hội gia huynh đệ, ngoại quốc
quân thần” (Trong nhà là anh em, ra ngoài việc nước là vua tôi). Một cử chỉ lễ
nghĩa trong truyền thống ứng xử Việt Nam.
Đám rước đi trên đường trống quân ra đường cái lớn, rồi tiến về đình để
“Hội đồng” với bốn vị thành hoàng là: Đô, Hồ, Bạch, Hạc và ông thánh Cốt Tung... Theo lời kể của cụ Hương Đệ năm 1985 - khi ấy cụ 86 tuổi - thì ngày còn
nhỏ, cụ thấy lúc đám rước từ đền theo đường Trống Quân ra đình, các đô uý và
cả những người đi theo đều hát một bài rất cổ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
510
Tương truyền bài hát này do chính Hai Bà đặt ra để cổ vũ nhân dân
và quân lính:
“Ta lên núi
Ta lên núi
Đuổi đàn hươu,
đuổi đàn hươu,
Chị em năm ba mặt cũng rầu rầu
Ta lên núi,
ta lên núi
Đuổi đàn nai
Đuổi đàn nai
Nỗi niềm tâm sự than thở cùng ai?
Đoái trông phương Đông: nước rộng mênh mông
Đoái trông phương Tây: đá trắng gồ ghề
Đoái trông phương Nam: mây che đầu ngàn
Đoái trông phương Bắc: núi cao ngất”
Sau các phần nghi thức tế lễ và rước xách là các cuộc vui nhân dịp đầu
xuân. Đặc biệt, ở hội đền Hai Bà những năm sau này luôn luôn tổ chức giải vật rất đều đặn. Và điều thú vị khác là giải cao hầu hết rơi vào tay các đô vật của hai
làng Hoàng Kim và Tráng Việt (ở bên cạnh Hạ Lôi). Vì vậy hội xuân ngày càng
thêm náo nức bởi các cuộc tranh tài ấy.
Cũng vào khoảng thời gian này, ngoài lễ hội ở đền Hai Bà của Hạ Lôi còn
có một số hội khác về Hai Bà ở các làng bên cạnh. Đó là hội làng Đông Cao
(Đông Kiêu), xã Tráng Việt. Nội dung của nó cũng kể về những chi tiết của cuộc
chiến đấu ác liệt giữa Hai Bà và quân Hán. Để phục vụ quân sỹ của Hai Bà, chiều chiều dân làng lại nhộn nhịp sửa soạn cối chày để làm bánh dầy bó sẵn vào
mo cau cho quân đi đánh giặc. Còn làng Tráng Việt, cùng xã với Đông Cao thì
do ban ngày bận rộn đánh giặc đến mức không có thì giờ mà ăn uống, mãi đến
đêm mới được ăn nên phải đốt đèn đuốc mà ăn. Vì thế mà ở đây còn lưu truyền
câu ca:
“Đông Kiệu có hội bó mo
Tráng Việt đốt đuốc đi mò ăn đêm”./. H.M
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
511
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
512
Hội làng Hạ Thái
Phạm Vũ Dũng
Có một hội làng, nhỏ thôi, không diễn ra như thường thấy vào
tiết "Xuân - Thu nhị kỳ" mà chính hội lại nhằm vào những ngày chớm
đông - ấy là hội làng Hạ Thái.
Hạ Thái là một trong ba thôn thuộc xã Duyên Thái (gồm các thôn
Duyên Trường, Phúc Am và Hạ Thái), huyện Thường Tín, giáp với địa
phận Hà Nội.
Xa xưa, Hạ Thái còn có tên là Hạ Tràng Trang, thuộc châu
Thượng Phúc. Đến cuộc chia làng lập xã vào thế kỷ XV, được gọi là Hạ
Thái xã, lúc đó thuộc huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Nam Sơn
Thượng. Đến thời Minh Mạng, xã thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Nội.
Đầu những năm 60, xã được sát nhập thành một bộ phận của huyện
Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Những ngày vào hội, người ở các nơi khác cũng đổ về vui chung
với dân làng, chủ yếu là người Hà Nội. Chỉ cần đi dọc quốc lộ 1A
khoảng 15 km, đến Ngọc Hồi, rẽ trái hơn 2 km nữa là đã đặt chân vào
trung tâm của hội làng với những di tích và cảnh quan đẹp.
Nét riêng của thôn Hạ Thái, của hội làng, là cụm di tích lịch sử đã
được xếp hạng, hội tụ trong một phạm vi không lớn lắm, gồm đình Hạ
Thái (còn gọi là đình Bà Lạy1 , tên tục của nhân vật dân gian được thờ
phụng); chùa Hạ Thái (hay Thái Phúc Tự), nghè thôn Hạ Thái (còn gọi
là miếu Năm Cửa). Chính vị trí gần kề nhau của các di tích là điểm thuận
tiện cho sự ngưỡng vọng và hành hương.
Đình làng Hạ Thái không biết xây dựng từ năm nào bởi không
còn tìm thấy vết tích niên đại xây đình. Nhưng theo lời kể lại thì đình
được xây trên nền nhà của bà Đinh Thị Trạch (bà Lạy) người nguyện
hiến mình cho cọp ăn thịt để cứu dân làng. Đình được dựng theo kiểu
chữ Tam, gồm có tòa đại bái, nhà thiêu hương, hậu cung và hai bên tả
1 . Có ý kiến cho rằng, cụm từ Bà Lạy nảy sinh từ Play, nghĩa là ngôn từ chỉ làng của người
thuộc hệ Mã Lai, Gia Rai, Êđê. Có lẽ cũng như Ba La Bông Đỏ, Bà Tề, Bà Già... nơi mà, đã
một thời, triều đình cho tù binh Chàm cư ngụ, rồi dần Việt hoá thành tên làng.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
513
mạc, hữu mạc. Trải qua nhiều biến cố, hiện nhà thiêu hương và bên hữu
mạc đã không còn nữa, chỉ còn những dấu vết chứng tỏ chúng đã từng
hiện diện. Phía trước có sân đình rất rộng, được xây bao, ngỏ hai cửa tả,
hữu. Gần giữa sân là một hàng cột to và cao, đỡ mái vảy, tạo một hiên
đình rộng rãi. Phía trước, ngoài sân đình là một giếng đình cổ (không có
tên riêng), tròn, đường kính trên dưới 10m, xây đá bao quanh. Nước
giếng trong, đầy và có ít nhiều hoa sen, hoa súng. Có thể nói toàn bộ ngôi
đình, sân đình, hàng cột, giếng nước và những con đường làng xung
quanh đã tạo nên một cảnh trí đẹp mắt và hài hoà.
Tuy không tìm được dấu tích niên đại xây đình, nhưng bằng vào
kiến trúc tinh xảo và có tính nghệ thuật ở trong và ngoài đình, nhất là nhà
đại bái và các hàng cột, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng, đình Hạ Thái
được dựng vào khoảng thời Lê Trung Hưng.
Đình làng Hạ Thái thờ nhị vị thành hoàng, một nam, một nữ (một
chính sử, một dã sử). Đó là ông Bùi Sĩ Lương - một quan võ thời Lê, có
công phù Lê diệt Mạc và bà Đinh Thị Trạch (tục gọi là bà Lạy) đã tự
nguyện nộp mình cho cọp tinh để giải cho dân làng cái hạn phải cống
nộp người hàng năm. Một thần phả, một truyền thuyết nhưng quyện vào
nhau bởi tinh thần cứu độ dân làng. Công đức của hai vị thành hoàng đã
được truyền tụng từ lâu đời và có lẽ còn mãi mãi ngàn sau :
"Đức Ông vì nước cứu dân
Đức Bà vì nghĩa hiến thân cứu làng"
Về Đức Ông Bùi Hữu Lượng, theo thần phả còn lưu lại và theo
lời truyền của dân địa phương, thì ông không phải là người làng Hạ Thái,
được thờ phụng nơi đây chỉ do một sự ngẫu nhiên. Là một người thuộc
đất Chí Linh (Hải Dương cũ), lúc nhỏ thông minh dĩnh ngộ, lớn lên văn
võ toàn tài, ông theo nhà Lê làm đến chức Thái sư kiêm Điện tiền chỉ
huy sứ. Đến khi nhà Mạc cướp ngôi Lê, ông giữ quyền chỉ huy 10 vạn
quân tinh nhuệ diệt Mạc phò Lê, giữ yên đất nước, đem lại thái bình cho
thiên hạ. Sau đó, gặp lúc nhàn tản ông có qua Hạ Thái, thấy đây là nơi có
thế đất tốt rồng chầu hổ phục, cảnh đẹp, người đông, ông bèn bỏ tiền
mua đất, dựng điện và miếu ngay bên bờ sông Tô. Sau khi mất, ông được
vua Lê phong làm Trung đẳng thần, cho làm thành hoàng cả một vùng
rộng lớn, không chỉ ở Hạ Thái mà ở thôn Duyên Trường cạnh đó, ông
cũng được thờ làm thành hoàng cùng tên gọi Đức Ông.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
514
Theo lời các cụ già kể, thì trong tâm thức dân làng, vị thành
hoàng quan trọng hơn, có sức nặng hơn, lại là vị nữ thần Đinh Thị Trạch
(bà Lạy). Lý do có phải vì Đức Ông ngụ ở đây một cách ngẫu nhiên, hay
vì Đức Ông vốn xuất thân không phải người làng, hoặc người có công
với làng vẫn thiết thân hơn, hoặc giả cái họa thú dữ, trong con mắt dân,
vẫn đáng sợ hơn họa giặc giữ,... mà xảy ra sự lựa chọn trên, nhưng rõ
ràng có một sự thật tâm lý như vậy. Vì thế, dù đến với Hạ Thái vào bất
cứ lúc nào, chính hội hay ngày thường, bạn cũng có thể được nghe các cụ
hào hứng kể về một truyền thuyết vừa như xa xôi, vừa như mới xảy ra.
Kể rằng : không rõ vào thời nào, chỉ biết thuở đó, vùng đất này
còn là một nơi hoang vu, cây cối um tùm, nhà cửa thưa thớt, dân cư và
gia súc chưa lấy gì làm đông đúc lắm. Người dân ở đây vẫn nơm nớp lo
thiên tai và thú dữ dọa dẫm. Lúc đó, trong rừng có một con hổ vằn dữ,
gọi là hổ lang (trong mắt người dân thì đó là một con cọp đã thành tinh)
thường về làng bắt người và gia súc để ăn thịt. Dân làng lo sợ không biết
làm sao, đành phải thần phục cọp dữ, chịu cống mỗi năm một người cho
cọp vào ngày 10 tháng 1 âm lịch thì nó mới để yên cho làm ăn sinh sống.
Cứ vậy, thành lệ, như là một việc không làm không được. Lúc đó, bà Lạy
đã già lại không có chồng con, một mình mở ngôi quán nhỏ bán nước
cho người qua đường. Quá thương xót cho số phận dân làng, không đành
lòng trước cảnh tang tóc của các gia đình đến phiên có người nộp mạng
cho hổ. Năm ấy, vào ngày 10 tháng 1 âm lịch (là hạn phải nộp người cho
hổ), bà Lạy tình nguyện xin với dân làng cho mình được thế mạng với
một tâm nguyện rằng cái hạn hàng năm đó, từ nay sẽ được chấm dứt.
Đúng hạn, hổ lang đến vồ và tha bà đi từ Hạ Thái qua Văn Hội, Nhị Khê
rồi Phượng Công, để lại trên quãng đường dài nhiều vết máu. Đến
Phượng Công, hổ bỏ lại cái đầu và biến mất. Dân các làng trên thương
xót con người trượng nghĩa đã hy sinh thân mình để trừ họa cho cộng
đồng, nên đã đắp thành gò đống những nơi có vệt máu của bà. Dân làng
Phượng Công đã chôn cất chu đáo phần đầu của bà và lập miếu thờ. Dân
làng Hạ Thái ghi ơn, tôn bà làm thành hoàng làng và phối thờ cùng Đức
Ông Bùi Sĩ Lượng. (Hiện, trước cửa đình Hạ Thái còn một cái gò to, theo
lời kể, đó là dấu vết một vũng máu, nơi hổ vồ và tha bà đi). Không hiểu
do tâm nguyện của bà linh ứng hay vì lý do gì mà từ ngày ăn thịt bà Lạy,
con hổ lang bỏ đi biệt tích và dân làng Hạ Thái thoát được cái nạn phải
cống nộp người. Tâm nguyện ấy đã được truyền lại bằng một bài thơ,
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
515
viết trên một bức họa vẽ cảnh hổ lang sắp ăn thịt bà Lạy; treo ở giữa đình
làng:
"Cái hẹn hàng năm quá nhiễu nhương
Làm sao cho hết hận thiên trường
No người một bữa vui thế đấy
Uất ức muôn lòng xót với thương
Cái nghiệp trần gian ta đã mãn
Giúp đời qua khổ hãy hiên ngang
Này thôi người nhé, từ nay hết
Cái hẹn hàng năm quá nhiễu nhương".
(Lời Đức Thánh Bà)
Từ đó đến nay, hằng năm, cứ đến ngày bà tịch 10 tháng một âm
lịch dân làng lại mở hội tưởng nhớ công đức của bà. Ngày hội thờ Bà
cũng đồng thời rước cả kiệu ông. Trong đình hiện còn giữ nhiều đồ vật
chạm khắc tinh xảo: kiệu Đức Ông hình trụ kép, kiệu Đức Bà là thuyền
mui luyện hình rồng, 2 lọng đều sơn son thếp vàng kim tuyến, bộ trống
gồm 1 trống cái 6 trống con, trống múa bồng, các cột chạm khắc hình
rồng...
Bên phải đình, cách một con đường nhỏ lát gạch là chùa Hạ Thái
(hay Thái Phúc tự). Trước kia chùa ở gần bờ sông, trong vườn bàng. Sau
này, các cụ trong làng muốn tiện việc cúng tế, mới xin rời chùa vào gần
đình. Thời gian rời chùa còn được khắc rõ trên cột ở Tam bảo: đó là ngày
15 tháng 5 năm Thành Thái thứ 10 (tức 1898). Từ đó đến nay, chùa đã
được trùng tu nhiều lần bằng công của của dân làng. Hiện, chùa cũng
đang được tiếp tục sửa chữa.
Thái Phúc tự xây theo kiểu chữ đinh với nghệ thuật chạm khắc
truyền thống. Ngoài hai bức cốn "Lưỡng long chầu nguyệt", trong chùa
còn lưu giữ một bộ tượng tròn phong phú và đa dạng gồm 21 pho: Tượng
Tam thế, (quá khứ, hiện tại, vị lai), Tam tôn (A di đà, Quan thế âm Bồ
tát, Đại thế chí Bồ tát), Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, ông
khuyến Thiện, ông trừng ác, Mẫu Liễu, Bạch Hoa, Liên Hoa, Mai Hoa
công chúa, Đức Thánh Trần và các vị thần khác. Trước kia, chùa còn có
Tam quan rất đẹp, nhưng qua nhiều lần trùng tu, mái Tam quan đã bị dỡ
bỏ (do nứt, vỡ) mà không được chú ý xây lại. Điều này làm giảm đi
không ít giá trị kiến trúc của ngôi chùa.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
516
Cách đình và chùa Hạ Thái một quãng khoảng 500m là Nghè thôn
Hạ Thái (còn gọi là miếu Đức Ông hoặc miếu Năm Cửa). Hiện nghè này
chỉ là một phần của ngôi miếu cũ thờ Đúc Ông (Bùi Sĩ Lượng) và vợ là
Phương Anh phu nhân. Miếu mang tên Năm Cửa không phải do có 5 cửa
mà do được xây trên cánh đồng năm cửa. Theo lời kể, miếu này được
xây trước đình và chùa rất lâu, to, đẹp gồm hậu cung, nhà thiêu hương
tám mái. Nay nhà thiêu hương đã mất, chỉ còn lại hậu cung (chính là
miếu bây giờ), gồm ba gian, gian giữa thờ vợ chồng Đức Ông. Đây là nơi
thờ vọng Đức Ông của cả hai làng Duyên Trường và Hạ Thái. Đến ngày
sóc vọng (ngày 10 tháng ba âm lịch - ngày sinh - và ngày 10 tháng 8 âm
lịch - ngày hoá của Đức ông) miếu được mở cửa để bà con đến thắp
hương ngưỡng niệm, đồng thời kết tình giao hảo giữa hai làng.
Sở dĩ, có chuyện hai, ba làng cùng thờ vọng Đức Ông (ở đình và
miếu), ngoài lý do Bùi Sĩ Lượng được phong làm thành hoàng một vùng
(có lẽ gồm Hạ Thái và Duyên Trường), còn có lý do khác. Truyền thuyết
kể rằng: Trước kia trong miếu có thờ tượng Đức Ông bằng đồng đen rất
thiêng. Đêm đêm, ngài hiển linh đi tuần bảo vệ xóm làng khiến bọn trộm
cắp căm lắm. Một lần chúng chờ ngài hiển linh rời miếu rồi bê tượng
quảng xuống sông. Tượng trôi đến Duyên Trường thì dừng lại, dạt vào
bờ. Một người đàn bà Duyên Trường thấy vật đen trôi đến thì sợ quá,
tiện tay cầm chổi khua đẩy ra xa. Tượng trôi tiếp đến làng Phượng Dực
thì được đám trẻ chăn trâu vớt lên. Tối đó, dân làng thấy cả khoảng đất
ấy sáng rực thì ra rước tượng về thờ. Dân làng Hạ Thái biết tin đến rước
ngài về miếu nhưng bao nhiêu người khiêng cũng không nổi. Sau đó Đức
ngài hiển linh báo cho dân Hạ Thái rằng ngài không muốn về và dặn khi
nào Hạ Thái có việc, cứ đốt ba ống pháo lệnh và khấn, ngài sẽ về. Vì thế
ngày nay mỗi khi mở hội, làng Hạ Thái phải đốt ba quả pháo lệnh để mời
ngài về trước khi rước. Còn làng Duyên Trường, nơi người đàn bà xua
tượng đi thì cả làng sau đó toét mắt, phải ra miếu cầu cúng, thờ vọng mãi
mới khỏi...
Đình làng Hạ Thái thờ 2 vị thành hoàng nhưng lễ hội lại chủ yếu
mở vào ngày hóa của bà Lạy (10 tháng 1 âm) nghĩa là phần của Bà (trong
tâm người dân) vẫn hơn phần Ông. Còn việc thờ chính Đức Ông lại là ở
Duyên Trường, với chính hội là 10 tháng 8 âm, ngày ông hoá. Ngày đó,
dân Hạ Thái chỉ mở cửa đình thờ vọng, thắp nhang, chứ không mở lễ hội.
Mặc dù có nhiều ngày sóc vọng, cúng tế, song ngày hội lớn nhất,
hội chính của Hạ Thái được tổ chức vào ngày 10 tháng 1 âm lịch, tức
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
517
ngày bà Lạy tự nguyện thế mạng, hiến mình cho cọp dữ. Điều đó chứng
tỏ rằng trong lòng người dân ở đây, nhân vật dân dã đã có ảnh hưởng
mạnh hơn nhân vật lịch sử. Hành động trượng nghĩa của một người đàn
bà bình thường, đơn độc đã được đánh giá cao hơn. Nhân dân rất công
bằng và có lý khi đưa ra sự lựa chọn (một cách không chính thức) này. ở
Hạ Thái, bóng dáng Đức Bà đậm nét hơn Đức Ông, mặc dù, trong hội, họ
không chỉ tế rước riêng bà, mà các nghi lễ đều được tiến hành song song
cho cả hai vị thành hoàng. Các thế hệ dân làng sùng kính bà tới mức, sau
này, triều đình cũng phải công nhận ơn đức của bà bằng đạo sắc phong
(niên đại Cảnh Hưng bốn mươi bốn), trong đó có viết : "Bà là người có
đức sáng thuần nhã... đạo theo lẽ trời, đức hợp với đất. Giúp nước giữ vẻ
thanh bình, có sức ngầm giúp giữ dân yên, mở mang sáng tốt... Xin ghi
chép lại nơi điển sách để lưu mãi muôn đời...". Từ những căn nguyên ấy,
ta có thể hiểu hơn vị đậm dân gian của lễ hội làng Hạ Thái.
Hội làng được tổ chức trong ba này, từ ngày 9 đến ngày 11 tháng
một âm lịch. Mùng 10 là chính hội. Không khí hội làm nhộn nhịp các
làng lân cận và ít nhiều khách thập phương cùng dân Hạ Thái đi làm ăn
xa, cũng nhớ ngày trở về để đoàn tụ với gia đình, họ mạc và để dự hội
làng.
Trước ngày khai hội khoảng nửa tháng, một tháng, ban tổ chức lễ
hội đã được dân làng lựa chọn, chủ yếu là các cụ trong hội thọ và các vị
chức sắc. Các lễ thức được tập dượt sẵn sàng, lễ vật phải được chuẩn bị
chu đáo, đặc biệt cây nêu phải được cắm cạnh giếng đình từ nửa tháng
trước hội. Xưa, cứ sắp vào hội, giếng đình bị cấm dùng nước để giữ cho
trong sạch, dành nước cho cúng tế và lễ rước nước. Ngày nay, nước ở
dây không được tinh khiết như xưa, nên dân làng đã dùng nước mưa để
thay thế, nhưng các lễ thức vẫn không thay đổi. Các cụ thay nhau quét
dọn, lau chùi đồ thừa tự ở đình, chùa, nghè. Mùng 9 tháng một treo cờ và
làm lễ mộc dục. Mọi gia đình quét dọn sạch đường làng, ngõ nhà, đi chợ
mua sắm để sáng mai làm lễ cúng tại gia, sau đó ra đình dự hội. Hân
hoan nhất là ngày 10 chính hội. Từ sớm tinh mơ, các cụ ông đã ra đình,
các cụ bà ra chùa để hoàn tất công việc chuẩn bị, các vị chức sắc kiểm tra
lần cuối mọi công việc để có thể bắt đầu cuộc tế lễ. Khi ngoài đình đã
đông người, các vị chức sắc chuẩn bị tuyên bố phần chính của lễ hội bắt
đầu. Trong không khí hồ hởi của người dự hội, trong sự trang nghiêm
của ban tổ chức, dưới bóng lá cờ đại và cờ ngũ sắc tung bay trong gió, cụ
chủ tế thắp hương khấn nhị vị thành hoàng, đồng thời đốt ba ống pháo
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
518
lệnh mời Đức Ông về đình, chứng kiến sự ngưỡng vọng của bà con dân
làng. Tiếp đó là lễ rước nước (trước, nước được múc ở giếng đình, nay là
nước mưa) đặt lên bàn thờ. Kế theo là lễ dâng hương nghiêm cẩn để tế
thành hoàng, còn gọi là lễ lục cúng. Dù nhiều hay ít, lễ vật trong lễ dâng
hương phải đủ 6 thức, bao gồm: hương, hoa, nến (đăng), trà (chè hoặc
rượu), quả (các loại hoa quả), thực (oản, xôi nén, cơm).
Theo giọng xướng của người chủ xướng, chủ tế, bồi tế, phường
bát âm... cứ thế mà hành động theo đúng thứ tự vừa trang trọng, vừa chặt
chẽ, vừa trịnh trọng, vừa nhịp nhàng. Ví dụ, khi người chủ xướng hô:
"Khởi chinh cổ" thì chiêng trống bắt đầu nổi lên, hô "Thiên pháo"1 thì
pháo bắt đầu nổ ròn, hô "Củ soát tế vật" thì các cụ kiểm soát lại các vật
cúng tế xem thừa thiếu thế nào để còn bổ khuyết kịp thời. Cứ thế, lễ thức
của lễ dâng hương vừa trang trọng, vừa đẹp mắt, như một buổi trình diễn
nghệ thuật hô ứng, tạo một cảm giác đặc biệt linh thiêng. Cả người hành
lễ và người xem đều hòa nhập vào không khí trang trọng đến mê người.
Khi lễ lục cúng (dâng hương) xong xuôi, mới là lúc lễ hội bắt đầu với
không khí nhộn nhịp của nó bằng lễ rước kiệu từ đình ra miếu.
Kiệu Ông hình trụ đứng, kiệu Bà, hình thuyền rồng mui luyện
khảm khắc tinh tế, sơn son thếp vàng được khiêng ra cửa đình. ở quê
hương của nghề vàng mã và sơn thếp, các kiệu được những bàn tay thạo
nghề làm cho óng mướt, lấp lánh đầy vẻ quyến rũ.
Quãng đường từ đình ra miếu dài khoảng 500m, đường hẹp. Kiệu
Đức Ông là kiệu Long Đình do bốn thanh niên khiêng. Kiệu Đức Bà là
kiệu Bát Cống do tám cô gái khiêng. Những người khiêng kiệu (quân
kiệu) phải được chọn lọc, là những người khỏe mạnh, đạo đức tốt, chưa
vợ, chưa chồng, không vướng tang ma... Trên kiệu để bát hương, thanh
bông hoa quả.
Một đội múa sư tử đi trước dọn đường, kế là phường bát âm, đoàn
người mang cờ, đồ bát bảo, chủ tế và bồi tế. Tiếp đến là kiệu Ông, rồi
đến kiệu Bà. Nhiều khi đám rước kéo dài đến 2-3 trăm mét dọc con
đường hẹp từ đình ra miếu. Không khí rước xách thật hồ hởi, tưng bừng
trong tiếng trống sư tử, tiếng nhạc của phường bát âm, tiếng pháo và
tiếng reo hò. Đến miếu, chủ tế và bồi tế đem lễ vật vào bàn thờ làm lễ
1 Thiên pháo (Thiên: thiên lôi): Tiếng sấm cầu phúc, là tiếng gợi ý cho Thiên lôi gọi mây về
cho mưa xuống để có nước cày cấy, muôn loài sinh sôi. Sau này cũng gọi Thiên pháo, chỉ
mang nghĩa là đốt pháo khai thác buổi lễ.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
519
cáo yết, sau đó, các vãi, dân làng và du khách dâng thức cúng, thành tâm
cầu khấn. Xong cuộc khấn, hai kiệu lại được rước từ miếu về đình trong
không khí chẳng kém phần nào nhiệt so với lúc rước đi.
Có một hiện tượng đặc biệt, năm nào cũng diễn ra theo ba dạng
khi rước kiệu. Đó là kiệu bay : kiệu đang đi từ từ theo nhịp trống phách
bỗng chạy như bay về phía trước, người khiêng không sao dừng lại được;
kiệu dừng: kiệu đang đi bỗng dừng im một chỗ, và kiệu lùi: kiệu bỗng
chạy giật lùi rất nhanh làm cho người khiêng vô cùng vất vả. Các hiện
tượng này (và hiện tượng kiệu xoay ở một số đám rước khác) chưa thể
giải thích được1. Nhưng theo dân làng cho biết thì dù vậy, chưa bao giờ
có hiện tượng kiệu đổ hoặc quân kiệu bị thương, và bình hương, hoa quả
cũng không bị đổ. Mọi người cho rằng kiệu bay là ngài vui, kiệu dừng và
kiệu lùi và ngài giận vì đường đi còn uế tạp hoặc có người thất lễ. Lúc đó
sư tử phải múa bái tạ hoặc đốt pháo để tẩy uế, sau đó sự việc trở lại bình
thường. Lễ hội vừa rồi chỉ có kiệu Ông được quang dầu lại. Khi rước,
thường thì kiệu Ông đi trước, kiệu Bà đi sau, nhưng lần này kiệu Bà luôn
vượt lên trước kiệu Ông ngoài ý muốn. Dân làng giải thích rằng Bà giận,
nên mới "bay" lên trước Ông để "phản đối". Một ví dụ để thấy tính dân
gian của thần linh, cũng "đỏng đảnh" như con người.
Trong lúc đám rước diễn ra như vậy thì tại chùa, các cụ bà đang
tấp nập têm trầu pha nước mời khách và chia lộc cho khách thập phương
cùng thiện nam tín nữ. Lộc chỉ là một phẩm oản, một miếng trầu, một
quả chuối, nhưng ai cũng nâng niu, trân trọng. Xung quanh địa điểm hội
và trên sân đình, các trò diễn dân gian đang được trình tấu. Đông nhất là
đám múa sư tử với ông địa béo ục bụng to, tay che mặt nạ, tay cầm quạt,
õng a õng ẹo. Kia là múa xinh tiền, chỗ khác là xới vật, chỗ này là chọi
gà, nơi kia tấu nhạc. Dân làng kể rằng trước kia còn có múa con đĩ đánh
bồng, trò chạy chữ, trò tổ tôm điếm và những đêm chèo sân đình, nhưng
bây giờ chưa có điều kiện phục hồi lại. Ngày 11 là ngày tổ chức lễ tạ tại
đình. Đến chiều, đồ tế lễ được thu gọn. Lộc cúng được phát cho tất cả
mọi người. Lễ hội kết thúc trong một tâm trạng thoải mái và phấn khởi
Đến với hội làng Hạ Thái, dù không phải dịp xuân thu nhị kỳ, bạn
cũng sẽ được đắm mình trong niềm vui hội hè, được chiêm ngưỡng
những cảnh quan đẹp đẽ, được hòa mình trong niềm ngưỡng vọng cao
1 Theo một số nhà nghiên cứu, hiện tượng bất thường (bay,quay, lùi, đứng...) của rước kiệu
là biểu hiện một sự xuất thàn tập thể. Kiệu bay gắn với thần vui, quay: thần chào nhau,
cũng có khi chưa vừa ý; lùi và dừng: thần giận...
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
520
thượng, biểu tượng là hành động trượng nghĩa của nữ thần hoàng làng,
người đã hiến thân cho sự an vui của dân làng, người đã tạo nguồn cho
sự hình thành một lễ hội làng đông, vui và đầy ý nghĩa. Và, có lẽ, đó
cũng là sức cuốn hút khôn cùng của hội làng Hạ Thái./.
P.V.D
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
528
Hội hát Chèo tầu
Nguyễn Xuân Kính
Trước kia, Tân Hội có tên là Cối Sơn thuộc huyện Quốc Oai tỉnh
Sơn Tây. Về sau, Cối Sơn đổi thành Gối Sơn, Gối Thượng. Năm 1905, vùng đất này được chia thành ba xã: Vĩnh Kỳ, Thúy Hội và Thượng Hội (riêng xã Thượng Hội chia làm hai thôn Phan Long và Vân Hội). Ba xã này là một bộ phận của tổng Thượng Hội thuộc huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông cũ. Từ sau cách mạng tháng Tám (1945) đến trước Cải cách ruộng đất (1955), Tân Hội bao gồm các thôn: Phan Long, Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kỳ, Ngọc Kiệu, Đan Hội, Hạnh Đàn, Hạ Hội. Sau Cải cách ruộng đất, Tân Hội lại chia thành xã Tân Hội và Tân Lập 1. Xã Tân Hội hiện nay thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây, bao gồm bốn thôn: Thượng Hội, Thúy Hội, Phan Long và Vĩnh Kỳ. Bốn thôn (làng) này nằm quây xung quanh một cái chợ như ca dao địa phương đã ghi nhận:
Bốn làng thì ở bốn bên
ở giữa có chợ trên đền thờ vua.
Do dân số đông, ruộng đất canh tác ít, ở Tân Hội, việc làm ruộng chỉ là một nghề bên cạnh nhiều nghề khác như nghề dệt, rèn, mộc, đan lát. Không chỉ lao động tại địa bàn cư trú, người dân Tân Hội còn tỏa đi làm việc ở nhiều nơi khác (trong số đó có Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay). Dần dần do các nghề thủ công phát triển và do việc đi làm ở những nơi khác đem lại thu nhập cao hơn, nghề làm ruộng được coi như một nghề phụ; người dân nơi đây cũng ít khi trực tiếp làm việc ở đồng ruộng vì thuê nhân công ở nơi khác2.
Khi nhắc đến vốn văn hóa, văn nghệ dân gian cổ truyền ở Tân
Hội người ta không thể nào quên hội hát chèo tầu (một loại diễn xướng
nghi lễ, thường được gọi là dân ca nghi lễ).
I. Những giải thích khác nhau về nguồn gốc hát chèo tầu
Có ba truyền thuyết giải thích nguồn gốc của hội hát chèo tầu.
1 Xin xem: 40 năm chiến đấu, xây dựng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Hội. - Hà Nội:
Ban chấp hành Đảng bộ xã Tân Hội xuất bản, 1985, trang 5-6. 2 Theo lời các đồng chí lãnh đạo xã Tân Hội trong buổi làm việc với chúng tôi ngày 19
tháng 10 năm1993, sản xuất nông nghiệp hiện nay chiếm 25% tổng thu nhập của xã.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
529
Truyền thuyết thứ nhất kể rằng ngày xưa khi Hai Bà Trưng kéo
quân qua tổng Gối để đánh quân nhà Hán, thuyền bè qua lại trên sông
Nhuệ, sông Hồng hết sức nhộn nhịp. Để tưởng nhớ công ơn của Hai Bà,
dân địa phương thực hiện hình thức diễn xướng này.
Truyền thuyết thứ hai cho biết, sau khi đánh đuổi quân nhà Lương
ra khỏi bờ cõi, Triệu Quang Phục (thế kỷ VI) lên ngôi vua. Lý Phật Tử
không chịu thần phục nên cuộc tranh chấp giữa hai bên đã xảy ra và kéo
dài nhiều năm. Triệu Quang Phục hiểu rằng nếu hai bên cứ tiếp tục xung
đột thì rất bất lợi cho nền độc lập của đất nước. Ông đã viết thư cho Lý
Phật Tử đề nghị hội quân ở bãi Quân Thần (một địa điểm ở gần xã Tân
Hội ngày nay) để thương lượng về việc phân chia vùng đất cai quản của
mỗi bên. Trong cuộc hội quân ấy, Lý Phật Tử đi thuyền, còn Triệu
Quang Phục thì cưỡi voi. Hội hát chèo tầu là hình thức diễn lại cuộc gặp
gỡ ấy.
Truyền thuyết thứ ba kể rằng vào đời Trần, Văn Dĩ Thành là một
nho sinh học giỏi, chưa lấy vợ. Một hôm, trời mưa gió, ông đi học về qua
cánh đồng (nay là khu lăng) tự nhiên hóa. ở chỗ ông mất, mối đùn lên
thành một gò đất lớn. Dưới cõi âm, ông được Diêm Vương phong làm
tướng Dạ Xoa. Ông thường giúp dân quanh vùng tránh được dịch bệnh.
Dân làng nhớ ơn ông, tôn thờ ông là Thần Thành Hoàng và hội hát chèo
tầu có nguồn gốc từ việc thờ cúng Văn Dĩ Thành 1 .
Trên đây là những truyền thuyết do các nhà sưu tầm, nghiên cứu
đi trước đã công bố.
Trong chuyến đi khảo sát vào tháng 10 năm 1993, chúng tôi xác
nhận ở Tân Hội có ba truyền thuyết đã nêu. Do trình độ dân trí đã phát
triển, các cụ già ở địa phương đều đã đọc các tài liệu đã công bố nói trên.
Có một điều các cụ muốn bổ sung rằng, về công đức của Văn Dĩ Thành,
ông không chỉ là một phúc thần giúp dân tránh dịch bệnh, ông còn là
người yêu nước chống giặc Minh ngay khi còn trai trẻ. Các cụ đã đọc cho
chúng tôi nghe một bài vè dài trong đó có đoạn Văn Dĩ Thành đối đáp
với tướng giặc Minh Tư. Biết Văn Sĩ Thành là người tài cao học giỏi, có
1 Xin xem:
a. Nguyễn Hữu Thu Hát chèo tầu; in trong tập sách nhiều tác giả: Tục ngữ ca dao dân ca
Hà Tây. - Sở Văn hóa thông tin Hà Tây tái bản, 1993.
b. Trần Bảo Hưng, Nguyễn Đăng Hòe: Hát dô, hát chèo tầu Ty Văn hóa thông tin Hà Sơn
Bình xuất bản, 1978.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
530
uy tín trong dân chúng, Minh Tư muốn trọng dụng ông để thu phục lòng
dân:
"Làm người mà muốn vẫy vùng
Bay cao ngang dọc ông ưng chim nào?"
Văn Dĩ Thành đáp:
"Thưa rằng lời nói thanh tao
Làm con hồng yến bay cao trên đầu
Ngày đêm nó hót đôi câu
Quê hương xứ sở mong cầu yên vui".
Trước lý lẽ "đại bàng chim lớn" của Minh Tư, Văn Dĩ Thành cho
rằng:
" Đại bàng trong gió vẫy vùng
Nằm trong biển cả anh hùng độc thân
Gặp cơn mưa bão ào ào
Bay ra cụt cánh bay vào bất yên."
Trước sự dọa dẫm của bạo quyền:
"Yến hồng mi chớ khoe hay
Đại bàng không để cho mày hót đâu"
Văn Dĩ Thành bình tĩnh trả lời tướng giặc:
"Yến hồng đang ở bụi lau
Đại bàng ở bể gặp nhau cũng kỳ
Bàng cụp cánh bàng đi xuống đất
Bắt làm sao cho nổi yến hồng?
Kẻo mà cụt cánh gẫy lưng
Đất bằng yến cũng chẳng dung đại bàng" 1
Dấu tích về Văn Dĩ Thành còn lại đến ngày nay là ngôi đền thờ và
khu lăng. Theo nhà nghiên cứu Trần Bảo Hưng ngôi đền được xây dựng
từ hồi nhà Lê, đã được trùng tu nhiều lần (lần cuối cùng vào đầu thế kỷ
1 Theo lời kể của các cụ Phạm Bình Gia (80 tuổi), Nguyễn Vĩ Bảo (78 tuổi), Ngô Văn Cúc
(84 tuổi).
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
531
XX). Tại ngôi đền này, còn lưu giữ được bốn mươi sắc phong của các
triều vua từ nhà Lê đến nhà Nguyễn, sắc phong xưa nhất vào năm Vĩnh
Tộ thứ hai (1620) và sắc phong muộn nhất vào năm Khải Định thứ chín
(1924). Nhiều câu trong lời ca của hội hát chèo tầu đã ghi nhận việc triều
đình bao phong Văn Dĩ Thành:
"Đại vương đức hậu công cao
Long chương phượng cách lịch trào sắc phong.
Bảo dân hộ quốc trừ tai
Tư dân xích tử nhờ ngài bình yên"
Cũng ở thôn Thượng Hội, còn có lăng Văn Dĩ Thành; nơi đây có
đôi câu đối:
"Trần đại hiển linh quan cổ lục
Lê gia triều tự diễn kim truyền"
Nghĩa là:
"Xưa chép rõ ràng đời Trần hiển thánh
Nhà Lê lập đền thờ truyền đến ngày nay" 1
Do nhiều lý do, đã bảy mươi năm qua hội hát chèo tầu không
được tổ chức. (Lần cuối cùng là vào năm 1922). Chỉ ra một cách chính
xác về nguồn gốc của loại diễn xướng nghi lễ này là một điều rất khó
thực hiện. Chỉ biết rằng, dù để tưởng niệm Hai Bà Trưng, dù để diễn lại
cuộc hội quân của Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử, dù để ca ngợi công
đức của Văn Dĩ Thành thì những mục đích trên không hề xa lạ với truyền
thống dân tộc: uống nước nhớ nguồn, ghi nhớ và biết ơn các vị tiền bối
có công với dân, với nước. Một mặt chúng ta ghi nhận rằng theo lời kể
dân gian, con sông mà Hai Bà Trưng đi qua còn đây và đền thờ, khu
lăng, sắc phong Văn Dĩ Thành vẫn còn đang được gìn giữ. Mặt khác,
cũng như nhiều nhà nghiên cứu, chúng ta thừa nhận rằng ngày nay, trên
địa bàn Tân Hội, truyền thuyết và những di tích về Văn Dĩ Thành được
lưu truyền phổ biến hơn và còn được bảo tồn đậm nét hơn.
II. Hội hát chèo tầu
1 Xin xem Trần Bảo Hưng, Nguyễn Đăng Hòe, sách đã dẫn, tr. 132.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
532
Khoảng 25 hoặc 30 năm người ta mới mở hội hát chèo tầu. Điều
kiện để mở hội là:
1. Thời tiết thuận lợi, mùa màng bội thu;
2. Được cả tổng đồng ý. (Trong số bốn thôn Thượng Hội, Thúy
Hội, Phan Long, Vĩnh Kỳ, nếu một thôn không tán thành thì hội cũng
không được mở:
"Mừng nay cảnh vật hy minh
Bốn dân định hội đóng đinh chèo tàu".
Nếu không mở hội, hàng năm từ ngày rằm tháng giêng âm lịch
cho đến hết ngày 23 tháng này, dân hàng tổng vẫn tiến hành tế lễ.
Nếu mở hội (vào bảy ngày nêu trên), từ rằm tháng tám (Tết Trung
thu) năm trước, dân làng bắt đầu các công việc chuẩn bị luyện tập.
Đối với Thượng Hội và Thúy Hội, mỗi thôn làm một chiếc thuyền
rồng bằng gỗ, ở giữa thuyền có mui bồng trông như một cái lầu nhỏ.
Thuyền dài khoảng bốn năm mét, rộng hai mét, có tám bánh xe cho nên
người ta có thể đẩy đi đẩy lại trên cạn một cách dễ dàng. Vào hội, mỗi
thuyền sẽ chở một chúa tầu, hai cái tầu và mười con tầu. Chúa tầu do một
phụ nữ đứng tuổi (từ 50 tuổi trở lên) đảm nhiệm, sẽ ra lệnh cho các con
tầu ca hát. Cái tầu gõ sênh giữ nhịp dẫn câu hát. Cái tầu và con tầu do các
cô gái từ 13 đến 16 tuổi sắm vai. Những cô gái này phải có thanh sắc,
phải đạt những tiêu chuẩn nhất định về phẩm hạnh. Trên thuyền có một
lá cờ và 13 cái lọng để che cho chúa tầu, cái tầu và con tầu.
Đối với Vĩnh Kỳ và Phan Long, mỗi thôn làm một con voi đan
bằng tre hoặc cốt gỗ, bên ngoài phết giấy. Voi cao khoảng hai mét rưỡi,
dài hơn ba mét, được đặt trên bệ gỗ có bánh xe để di chuyển. Mỗi con sẽ
có hai quản tượng đều do các cô gái từ 13 đến 16 tuổi đóng giả trai.
Về trang phục, chúa tầu (còn gọi là mẹ chiêu quân) đầu đội mũ
thêu bảy con chim phượng, mặc áo hồng, tay cầm gương soi bằng ngà,
chân đi hài song phượng. Quản tượng đội mũ đâu mâu thần võ, mặc áo
hồng bào, tay thụng ngắn, khoác cổn chiến y. Người quản tượng ở phía
trước che lọng xanh, tay cầm búa ngọc, đeo loa đồng. Người quản tượng
ở phía sau cũng có lọng và búa như thế, chỉ khác ở chỗ đeo kim giác.(1)
(1)
Về trang phục của chúa tầu, cái tầu, con tầu và quản tượng, Nguyễn Hữu Thu và Nguyễn
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
533
Khi mở hội, vào đúng rằm tháng giêng, dân bốn thôn rước kiệu ra
khu đại dinh (khu lăng Văn Dĩ Thành hiện nay). Đám rước bắt đầu từ
thôn Thượng Hội, có trống, chiêng, cờ, lọng, xe loan, kiệu, có hương án,
có hai tầu (thuyền) và hai tuợng (voi). Ngoài số lượng chúa tầu, cái tầu,
con tầu và quản tượng như đã nêu ở trên, bốn thôn còn chọn lựa 50 thiếu
nữ xinh đẹp và 200 hàng đô (nam thanh niên) để cầm cờ, cầm lọng, đánh
trống, khiêng kiệu...
Sau khi rước, đến tối có lễ yên vị.
Vào những ngày tiếp theo, ngày nào cũng có hát chèo tầu.
Trình tự một ngày hát gồm bốn bước:
1. Người chủ tế hoặc bô lão của từng thôn dẫn chúa tầu, cái tầu,
con tầu vào làm lễ trình. Lúc này họ chỉ đi người không chứ không đem
theo thuyền. Chúa tầu, con tầu và chủ tế hát mở đầu bằng một bài lễ
trình, một bài dâng hương, một bài dâng rượu. Thí dụ, đây là một đoạn
của lời hát trình:
"Tháng giêng ngày võng tiệc lầu
Cứ trong giai tiết phải cầu giai nhân
Mỗi làng bốn mẹ chiêu quân
Năm mươi mỹ nữ thanh tân mỹ miều
Tướng cờ, tướng kiệu, chúa tầu
Hai đội liệt nữ cưỡi đầu hai voi
Hàng đô kén đủ trăm đôi
Tám viên thể sát dẹp voi đám này
Sắp hàng giăng mái đông tây
Cờ bay phượng múa quạt bay rồng chầu".
2. Con tầu và quản tượng hát xướng họa, sau đó chuyển sang hát
bỏ bộ. Đây là lời hát bỏ bộ:
+ "Đường xa Kẻ Chợ xem voi
Kìa bãi tập trận, nhà chòi bắn cung
Đăng Hòe miêu thuật có những chi tiết khác nhau (các sách đã dẫn). Những vật làm bằng
ngọc, bằng vàng được nhắc đến ở đây chỉ là tượng trưng, không phải là ngọc, vàng thật.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
534
Bắn con ngựa hồng báo tiền báo hậu
Các quan võ thần mặc áo nâu thắt lưng xanh
Khẩu súng vác vai chân anh quì đạp
Anh đánh trận này, anh đuổi trận này giả nợ nhà vua
Bõ công dãi nắng dầm mưa".
(...)
+ "Ngồi buồn xe chỉ, chỉ xe
Mua kim về xỏ ngồi hè vá may
Mất kim ta lại tìm kim
Khêu đèn cho tỏ ta nhìn mặt nhau
Nhìn qua chớ có nhìn lâu
Thoáng qua một tí bán sầu mua vui".
Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy lời hát bỏ bộ tương đối hoàn
chỉnh về mặt nội dung. Khi hát, nghệ nhân thường múa kèm theo hoặc
làm động tác (bắc cung, dệt vải) minh họa nội dung lời hát.
3. Các quản tượng hát chúc:
"Chắp tay vào lạy long trì
Chúng con quản tượng nữ nhi lễ trình
Xin chúc vua hách hách minh minh
Dạ Xoa súy mệnh thiên đình sắc phong
Xin chúc vua kiến cựu cư trung
Lễ minh đức hiệp bàn long tượng phù
Xin chúc vua niệm phúc dụng phu
Niên niên ca vũ Đường Ngu thái hòa
Mấy lời dâng suốt cao xa
Trình rồi xin bước chân đà lên voi".
4. Sau khi ra khỏi khu vực bàn thờ, các con tầu và quản tượng
đứng trên thuyền và ngồi trên voi hát đối đáp giao duyên. Thí dụ, tượng
hát:
"Cậu ở trong Quảng cậu ra
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
535
Đồn rằng có hội cậu ra ve tầu
Môi son má phấn một màu
Thi nhau bẻ lá đua nhau cậy tài
Lạ lùng tôi biết cậy ai
Má hồng xin gửi một vài câu thơ
Nên chăng để tượng tôi thờ
Kẻo đêm xuân muộn, ngày ngơ ngẩn lòng".
Tầu đáp:
"Đồn rằng hai xã có voi
Vượt qua cửa biển xem voi thế nào
Voi kia vừa lớn vừa cao
Có hai chú quản ra điều gió giăng
Gió giăng thì mặc gió giăng
Kìa như chú quản không bằng tầu đây".
Cuộc hát kéo dài một ngày.
Sang ngày hôm sau, trình tự trên được lặp lại. Đáng chú ý, trong
khi làn điệu âm nhạc được giữ nguyên, lời ca các bài lễ trình, dâng
hương, dâng rượu, lời ca các bài hát của tầu, tượng thay đổi từng ngày.
Ngoài ra, mỗi thôn cũng lại có bài hát riêng. Khi hát trước bàn thờ, mọi
người đều nghiêm trang, thành kính; còn khi hát ở ngoài thì hát thoải
mái, tự do hơn.
III. Vai trò đặc biệt của người phụ nữ trong việc tham gia hội hát
chèo tầu
Tân Hội có truyền thống khoa cử. Theo sách Hà Nội tự điển của
Nguyễn Bắc, Bùi Hạnh Cẩn và Nguyễn Vinh Phúc, trong mục "Những
ông nghè..." chỉ riêng thôn Vĩnh Kỳ đã có bốn vị khoa bảng: Đỗ Bá
Lược, Nguyễn Quang Hiền, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Nhân An (thi
đỗ vào các năm 1463, 1475, 1523, 1555 (1). Còn ở thôn Phan Long, năm
1665, cụ Nguyễn Duy Minh thi đậu Tam tràng. Ngoài ra, ở Tân Hội xưa,
(1)
Hà Nội tự điển, Nxb Hà Nội, 1990. Sách này xếp những người đỗ Trạng nguyên, Bảng
nhãn, Thám Hoa, Hoàng Giáp, Tiến sĩ, Phó bảng vào mục "Những ông nghè...".
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
536
những người đậu Cử nhân, Tú tài không hiếm; số người theo Nho học
(kể cả những người không đi thi hoặc thi không đỗ) lại càng nhiều.
Những điển tích, những câu chữ Hán trong lời ca hát chèo tầu và ba tập
chữ nôm Đại hội tầu tượng ca khúc ghi chép nghi thức của hội hát chèo
tầu chứng tỏ các nhà nho nơi đây đã có vai trò rất quan trọng đối với dân
ca nghi lễ này.
Nói đến Nho học, bên cạnh những giá trị tích cực, chúng ta không
quên quan niệm trọng nam khinh nữ mà các nhà nho chủ trương: "nữ
nhân nan hóa" (phụ nữ khó giáo dục), "nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô" (người nào dù chỉ có một con trai cũng là có con, còn nếu không có
con trai mà có đến mười con gái thì cũng coi như không có con). Đối với
nhà nho, trong ba điều bất hiếu thì không có con trai nối dõi là điều bất
hiếu lớn nhất ("bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại").
ở chốn cung đình và khi chế độ phong kiến thịnh thời, quan niệm
trọng nam khinh nữ thường tỏ rõ sức mạnh. Còn ở các làng quê nước
Việt, dù rằng ở làng nào cũng có người theo đòi cửa Khổng, sân Trình,
quan niệm trên không ít khi chỉ nằm gọn trong sách vở "thánh hiền".
Trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian ở các thôn làng, người phụ
nữ thường được nam giới rất trân trọng:
"Đêm nay mây trắng trời xanh
Mời bên em lên giọng trước, bên anh xin đáp lời"
(Hát ghẹo Nghệ Tĩnh)
ở Hà Bắc, trong các cuộc hát ví, các cô gái tuyên bố:
"Nam phải tòng nữ chàng ơi
Nam không tòng nữ, chúng tôi ra về".
ở Tân Hội, người ta không lưu truyền những giai thoại về các nữ
danh ca địa phương có tài bẻ chuyện, kể vè. Song ở nơi đây, người ta
cũng đã bộc lộ việc trân trọng phụ nữ bằng cách của riêng mình.
Thứ nhất, trong lời các bài hát chèo tầu, không hiếm những câu ca
ngợi phụ nữ, đề cao phụ nữ:
+ "Mỗi làng bốn mẹ chiêu quân
Năm mươi mỹ nữ thanh tân mỹ miều"
+ "Ngày nay bạn gái tầu rồng
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
537
Nữa mai cá nước vẫy vùng biển đông"
+ "Tôi quản nữ lên ngồi đầu tượng
Khăn nhiễu điều đổi dáng nam nhi
Quần hồng vén bức nhung y
Tay cầm búa ngọc, miệng thì gọi loa".
+ "Xưa Cửu Chân có bà Triệu ẩu
Bậc thao quần mà dấu vận nhau
Trên đầu voi xung phá Ngô quân
Cờ vàng chỉ phong vân biến thái
Anh việt nhất trường xưng Lệ Hải
Anh hùng vạn cổ nổi xưng vương
Thân bồ liễu, chí bồng tang
Sử xanh còn tỏ biển vàng chưa phai
Rõ ràng nữ kiệt anh tài
Một niềm ưu ái đội vai sơn hà
Chị em ta cùng trong nữ giới
Dẫu voi lồng chẳng ngại phong trần
Sao cho đáng bậc hồng quần" (1)
Thứ hai, như đã trình bày ở trên, trong việc sắm vai ở hội hát, bên
cạnh việc đóng chúa tầu, cái tầu, con tầu do phụ nữ đảm nhiệm, các vai
quản tượng cũng do con gái đóng giả trai. Điều này thật là độc đáo. Nếu
chúng ta nhớ lại, trong nhiều thế kỷ, tại cung điện triều Nguyễn, trong
các đội tuồng, vai phụ nữ bao giờ cũng do nam diễn viên đóng thì việc
phụ nữ Tân Hội không chỉ đóng các vai nữ mà còn giả trai để đóng các
vai quản tượng thật có ý nghĩa biết bao. Về hiện tượng này, có ý kiến giải
thích rằng do nam giới trong làng đi làm ăn nơi xa, phụ nữ gắn với khung
cửi ở nhà nên có điều kiện tham gia hội hát chèo tầu. ý kiến này chưa đủ
sức thuyết phục bởi vì trong thời gian mở hội, bốn thôn vẫn cử ra được
(1)
Những lời của các bài hát chèo tầu đều được trích từ Nguyễn Hữu Thu, Trần Bảo Hưng,
Nguyễn Đăng Hòe, sách đã dẫn.
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
538
200 (hai trăm) nam thanh niên (gọi là hàng đô) tham gia như dân địa
phương đã ghi nhận:
"Hàng đô kén đủ trăm đôi
Tám viên thể sát dẹp coi đám này".
Từ sự phân tích như vậy, chúng ta thấy trong hội hát chèo tầu,
những người phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng.
*
* *
Đã bảy thập kỷ đi qua, hội hát chèo tầu chưa được mở. Song có
nhiều tiền đề thuận lợi để chúng ta tin rằng nó sẽ được phục hồi trên
mảnh đất văn hóa, văn vật này./.
N.X.K
Recommended