Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
5
Kho tàng di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn - Bảo tồn và phát huy giá trị
TS Phan Thanh Hải
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam, với gần 400
năm tồn tại (1558-1945), các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã để lại cho dân tộc
những di sản văn hóa vô cùng phong phú và mang giá trị đặc biệt. Huế là thủ phủ của các
chúa Nguyễn và là kinh đô của vương triều Nguyễn nên đã thừa hưởng được nhiều di sản
văn hóa quan trọng. Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nước,
sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn đã đạt
được nhiều thành quả to lớn, góp phần xây dựng Huế trở thành một trung tâm văn hóa du
lịch của đất nước, thành phố festival đặc trưng của Việt Nam.
Bài tham luận dưới đây đề cập đến 3 nội dung chính: 1-Triều Nguyễn với các di
sản văn hóa cung đình; 2- Công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa cung
đình tại cố đô Huế; 3-Một số định hướng chiến lược cho công cuộc bảo tồn và phát huy giá
trị di sản của cố đô Huế.
Abstract: The Nguyen was the last monarchy of Vietnam with nearly 400 years of
existence (1558-1945). Nguyen lords and Nguyen dynasty left the country diversified
cultural heritages with special values. As the head-quarter of Nguyen lords and the capital
city of Nguyen dynasty, Hue inherits many important cultural heritages. In the past years,
with the country renovation and development, the Nguyen dynasty's cultural heritage
preservation and enhancement gained remarkable achievements helping Hue become a
cultural-tourist center, and a typical festival city of Vietnam.
This speech would like to mention 3 main contents: 1. Nguyen monarchy and the
Court cultural heritages; 2. The Court cultural heritage preservation and enhancement at
Hue ancient capital city; 3. Some strategic orientations for Hue heritage preservation and
enhancement.
* * *
Tổng quan về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cố đô Huế
GS.TSKH Lưu Trần Tiêu
(Hội đồng Di sản Văn hóa Việt Nam)
Tóm tắt:
1. Không nơi nào trên đất nước ta như ở Huế còn giữ lại được một quần thể di tích
đền đài, cung điện, thành quách, lăng tẩm… khá hoàn chỉnh về mặt quy hoạch, và cùng với
nó là một khối lượng đồ sộ, phong phú, đa dạng về những tư liệu phản ánh đời sống, nghi
lễ cung đình, sinh hoạt nơi cung cấm. Cái đẹp của kiến trúc Huế là sự mực thước trong kết
6
cấu, sự tinh tế trong từng chi tiết trang trí mỹ thuật ở đỉnh cao, sự hài hòa giữa công trình
kiến trúc và môi trường cảnh quan thiên nhiên. Tính độc đáo và duy nhất chỉ có ở Cố đô
Huế là hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế như là một hình thức "xuất bản"
những áng thơ văn, được chạm khắc, khảm cẩn, tráng men, đắp nổi tạo thành một tác phẩm
mỹ thuật, một lối trang trí mỹ thuật "nhất thi nhất họa", "nhất tự nhất họa" rất độc đáo,
được "lưu trữ" trên liên ba, đố bản, vách ván trên kiến trúc cung đình Huế.
Trên đất nước ta chỉ có ở Huế còn giữ được Âm nhạc cung đình. Nhiều thư tịch cổ,
các bộ hương ước, phổ hệ, phả hệ, sắc phong, di vật và cổ vật các loại,… còn đang được
lưu giữ trong các đình, đền, chùa, nhà thờ họ tộc và trong nhiều gia đình người dân Huế,
nhưng đang vơi dần theo năm tháng.
Không có ở các di sản văn hóa khác của Việt Nam và cũng hiếm thấy ở các nước
trên thế giới, trong một khu di sản - Quần thể di tích Cố đô Huế - được UNESCO ghi danh
5 danh hiệu cao quý: Di sản văn hóa Thế giới (1993), Nhã nhạc cung đình Huế (2003) và 3
Di sản tư liệu Thế giới: Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu bản triều Nguyễn (2014) và
Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016).
2. Quần thế di tích Cố đô Huế tọa lạc trên một phạm vi rất rộng lớn nằm trong thành
phố Huế và 3 huyện thị phụ cận của tỉnh Thừa Thiên Huế với hơn 500 hạng mục công
trình di tích trong khu vực Kinh thành, Hoàng thành, Tử Cấm thành và các di tích ngoài
Kinh thành, bao gồm 7 cụm lăng tẩm của 10 vị vua triều Nguyễn và các di tích tín ngưỡng,
tôn giáo, công trình phòng thủ… Đây là di tích có phạm vị khu vực di sản (khu vực bảo vệ
I) và vùng đệm (khu vực bảo vệ II) vào loại lớn nhất so với những Di sản văn hóa Thế giới
đã được UNESCO ghi danh ở nước ta. Chính đây là một thách thức lớn, đồng thời cũng là
cơ hội hiếm có cho những người làm công tác bảo tồn di sản Cố đô Huế.
Sau khi triều Nguyễn cáo chung, tiếp đến là 2 cuộc chiến tranh kéo dài đã tàn phá
nghiêm trọng Quần thể di tích này. Sau ngày đất nước thống nhất, các nhà quản lý và
chuyên môn đã tiến hành công tác bảo quản cấp thiết, tu sửa các công trình bị xuống cấp.
Tuy nhiên, đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, nên công tác bảo tồn gặp nhiều khó khăn, di
sản vẫn ở trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Chính vì vậy, năm 1981, Tổng Giám
đốc UNECO đã ra lời kêu gọi cứu nguy khẩn cấp di sản văn hóa Huế. Sau đó là một loạt
các sự kiện khác đã diễn ra: Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO ghi danh là Di sản
văn hóa Thế giới (1993); Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (1996) Dự án Quy hoạch bảo tồn
và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế, giai đoạn 1996-2010; Dự án điều chỉnh Quy hoạch
này (2010); giai đoạn 2010-2020 và Cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư bảo tồn và phát huy
giá trị di tích Cố đô Huế (2012); Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế phê duyệt (2015)
Kế hoạch quản lý Quần thể di tích Cố đô Huế, giai doạn 2015-2020, định hướng đến 2030
nhằm xác lập cơ sở pháp lý cho việc quản lý, bảo vệ di sản; xác định các mục tiêu, chính
sách dài hạn; xây dựng chương trình, kế hoạch, thứ tự ưu tiên đầu tư cho công tác bảo tồn
và phát huy giá trị di tích Cố đô và các nhóm giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích,
di sản văn hóa phi vật thể, môi trường cảnh quan thiên nhiên gắn liền với di tích.
Được sự quan tâm của Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, ngành, những nỗ lực to
lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thừa Thiên Huế, diện mạo của di sản văn hóa
7
Cố đô dần hiện lên rõ nét. Hàng trăm di tích quan trọng trong khu vực Kinh thành, Hoàng
thành, Tử Cấm thành, các cụm di tích ngoài Kinh thành (lăng tẩm của các vua triều
Nguyễn, các di tích tín ngưỡng, tôn giáo,…) được đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi. Ngoài
vốn đầu tư của Chính phủ và của tỉnh Thừa Thiên Huế, nguồn tài trợ của các tổ chức quốc
tế và nhiều nước; đồng thời, trên cơ sở cân đối thu chi hàng năm, Trung tâm Bảo tồn Di
tích Cố đô Huế cũng dành hơn 70% nguồn thu từ vé tham quan cho công tác bảo quản, tu
bổ, phục hồi di tích, số còn lại dùng chi cho các hoạt động nghiệp vụ và chi lương cho cán
bộ, công nhân viên và người lao động của Trung tâm.
Kết quả là, về mặt tổng thể, di tích Cố đô Huế đã thoát khỏi tình trạng cứu nguy khẩn
cấp, công cuộc bảo tồn di tích dần đi vào nề nếp và có bước phát triển mới; phát huy hiệu
quả giá trị di sản văn hóa trong phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, góp phần thực
hiện Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 trong lĩnh vực bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Trên cơ sở kết quả to lớn đó, Ủy ban Di sản Thế giới đã đánh giá cao hoạt động bảo
tồn di tích Cố đô Huế tại các kỳ họp lần thứ 28 năm 2004 và lần thứ 38 năm 2014.
3. Kết quả to lớn và toàn diện trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa Quần thể di tích Cố đô Huế có phần đóng góp quan trọng, trực tiếp của các thế hệ lãnh
đạo, cán bộ công nhân viên và người lao động Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế; từ
tâm huyết, trí tuệ của các nhà nghiên cứu, những "bàn tay vàng" của những người thợ thủ
công truyền thống Huế và nhiều vùng khác nhau của đất nước.
Điều có thể khẳng định là việc hình thành một tổ chức trực tiếp quản lý và triển khai
các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị Quần thể di tích Cố đô Huế - Trung tâm Bảo tồn
Di tích Cố đô Huế - trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về quản lý nhà
nước, sự chỉ đạo về chuyên môn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là hoàn toàn đúng
đắn, đáp ứng được yêu cầu quản lý đối với Di sản Thế giới quy mô lớn, trên địa bàn nhiều
huyện thị, đúng với tầm vóc đặc biệt của di sản văn hóa Cố đô, đồng thời phù hợp với mô
hình quản lý mới với cơ chế hoạt động tự chủ, thông thoáng, đa chức năng, hiệu quả.
Trong cơ cấu tổ chức của Trung tâm có Công ty cổ phần trùng tu di tích, mà Trung tâm là
cổ đông chính, chiếm 51% cổ phần. Đây cũng là hình thức hợp tác công - tư vào loại sớm
ở nước ta trên lĩnh vực di sản văn hóa.
Với những kết quả to lớn và toàn diện trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xứng đáng với những phần thưởng cao
quý của Nhà nước ta trao tặng: Huân chương Lao động Hạng Ba, Hạng Nhì, Hạng Nhất.
Abstract:
1. Hue still conserves quite completely a complex of monuments, palaces, temples,
pavilions and tombs… in planning scheme together with a large quantity of abundant and
various documents on life, royal rituals and daily activities in forbidden palaces. The
beauty of Hue architecture is expressed in the structure, the subtlety in aesthetic decoration
of high level, the harmony in constructions and natural environmental landscapes. Hue has
the most unique and original system of royal literature on Hue royal architecture. Verses,
8
paralleled sentences and letter were carved, enameled and covered by bas-relief on 3-
horizontal decorative panels and high longitudinal framed boards. This created many
decorative styles of “one verse, one picture” or “one letter, one picture”.
All over the country, only Hue still maintains court music. Lots of ancient
documents, sets of village regulation, genealogy, family tree, royal records, ancient
objects, etc, are maintained in temples, pagodas, temples of forefather and Hue people‟s
families, however, they are disappearing through the time.
Five times of recognition by UNESCO: World Cultural Heritage (1993), Hue court
music Nha Nhac (2003) and 3 World Documentary Heritages: Wood-blocks of Nguyen
dynasty (2009), Nguyen dynasty‟s Imperial Archives (2014) and Royal Literature on Hue
Royal Architecture (2016).
2. Hue Monuments Complex was located on a very large scale of Hue city and 3
surrounding areas of Thua Thien Hue province with over 500 constructions inside the
Citadel, the Imperial City, the Forbidden Purple City; and outside the Citadel consisting of
7 complexes of 10 Nguyen emperors‟ tombs, religious relics and defensive constructions…
These simultaneously create the challenge and the opportunity for the conservators of Hue
heritage.
After the end of Nguyen dynasty, this monuments complex was seriously destroyed
by 2 wars. When the country was unified, managers and specialists began to maintain and
restore many constructions although they had lots of difficulties in conservation business.
However, Hue Monuments Complex was recognized World Cultural Heritage by
UNESCO in 1993; Value Conservation and Promotion of Hue heritage project was
approved by the Government in the period 1996-2010; Adjustment Project in the period
2010-2020 and Mechanism; Investment Policy on Conservation and Promotion of Hue
heritage values in 2012. Management Plan of Hue Monuments Complex in the period
2015-2020, orientation of 2030 was also approved by Thua Thien Hue‟s People Committee
to create the foundation for managing and protecting the heritage: target, long-term policy,
program, scheme, priority order for heritage conservation and promotion business and
method, intangible heritage, natural landscapes attaching to the heritage.
Under the Government‟s interest, the Offices and Departments‟ cooperation, Thua Thien
Hue people and authority‟s efforts, the appearance of Hue cultural heritage is changing.
Hundreds of important relics in the Citadel, the Imperial City, the Forbidden Purple City,
outside the Citadel‟s complexes of tombs and religious constructions are invested to
maintain, restore and conserve thanks to the Government and Thua Thien Hue‟s
investment capital, international support and Hue Monuments Conservation Center‟s a part
of source of ticket revenue.
Therefore, Hue heritage conservation activities were highly appreciated by World
Heritage Committee in the 28th
and 34th
sessions in 2004 and 2014 successively.
3. Great consequences on conservation and promotion activities of Hue Monuments
Complex‟s cultural heritage values are achieved by the direct and important contributions
9
of Hue Monuments Conservation Center‟s leaders, staffs, researchers and traditional
craftsmen all over the country.
This is confirmed that the establishment of an organization in charge of management
in value conservation and enhancement of Hue monuments complex – Hue Monuments
Conservation Center – belonging to Thua Thien Hue People‟s Committee on state
management, Department of Culture, Sports and Tourism‟s guidance of professional
knowledge is completely perfect.
Hue Monuments Conservation Center deserves the state government‟s noble
rewards: 1st Labor Medal, 2
nd Labor Medal and 3
rd Labor Medal because of great and
comprehensive achievements.
* * *
Quy hoạch kiến trúc Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX và giá trị nhân văn
bền vững của nó trong lòng đô thị Huế hiện nay
Nhà nghiên cứu Phan Thuận An
Tóm tắt: Từ xưa đến nay, đô thị Huế đã trải qua nhiều lần quy hoạch kiến trúc,
nhưng chưa lần nào quy mô và quan trọng bằng lần quy hoạch vào đầu thế kỷ XIX. Bấy
giờ, để vinh thăng cho triều đại mới và để bảo vệ bộ máy hành chính trung ương tại Kinh
đô của cả nước vừa mới được thống nhất, triều đình nhà Nguyễn đã huy động hàng vạn
nhân công từ nhiều địa phương trong nước về Huế để xây dựng Kinh thành. Người ta đã
ngăn chặn và đắp lấp một số đoạn của hai chi lưu bên tả ngạn sông Hương là sông Kim
Long và sông Bạch Yến, đồng thời lợi dụng một số đoạn còn lại của hai chi lưu để làm
thành hai con sông nhân tạo: một ở trong thành là Ngự Hà và một ở ngoài thành là Hộ
Thành Hà. Với sự chỉnh đốn địa thế bằng bàn tay con người, diện mạo địa lý và hệ thống
thủy đạo của một khu vực rộng lớn ở bờ bắc sông Hương đã thay đổi hẳn.
Tư tưởng chủ đạo của quy hoạch kiến trúc Kinh thành là Dịch lý và thuật Phong
thủy. Nó được kết hợp với phương pháp xây dựng thành lũy của Vauban và ứng dụng vào
hình sông thế núi tại chỗ để tạo ra được một công trình kiến trúc vừa đồ sộ, vừa hài hòa với
bối cảnh thiên nhiên thơ mộng của vùng đất này. Trong ngót 200 năm qua, Kinh thành bao
giờ cũng được xem là cái lõi trên mặt bằng tổng thể kiến trúc đô thị Huế. Cho đến ngày
nay, nó vẫn đóng vai trò như vậy. Chính quyền địa phương đã và đang đưa các giá trị lịch
sử và nghệ thuật của Kinh thành vào trong đời sống văn hóa và xã hội của thành phố Huế.
Abstract: Since the old time, Hue city has undergone several times of architectual
planning, but none of them was in a large scale and as important as the one in the
beginning of the XIXth century. At that time, in order to promote the new dynasty and to
protect the central administrative apparatus of the whole nation which had just been
unified, the Nguyen dynasty mobilized thousands of workers from different areas to Hue to
10
build the Citadel. Some sections of the two tributaries on the left bank of the Perfume
River: Kim Long tributrary and Bach Yen tributary were stopped and filled up; some of
their remainning parts were used to create two man-made rivers: Ngu Ha River inside the
Citadel and Ho Thanh Ha River outside the Citadel. With the human terrain reset, the
geographical appearance and the hydrography of a large area on the left bank of Perfume
River were completely changed.
The main ideologies of Hue Citadel‟s architectural planning were the Theories of
Changes and Feng shui. They were combined with Vauban fortification construction
method and applied at on-site terrain to create a huge construction but well harmonized
with the romantic natural surrounding environment of this land. Since nearly 200 years,
Hue Citadel has always been considered as the core of Hue architectural planning. The
local government has been bringing the historical and artistic values of Hue Citadel into
the social and cutural life of Hue city.
* * *
Nghệ thuật khảm sành sứ trong trang trí kiến trúc cung đình thời Nguyễn
TS Phan Thanh Bình
(Trường Đại học Nghệ thuật Huế)
Tóm tắt: Với những điều kiện thuận lợi về vật chất và các yêu cầu thẩm mỹ cao
của triều đình, nghệ thuật khảm sành sứ trong mỹ thuật thời Nguyễn đã có những bước
phát triển nhảy vọt trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và trở thành một
trong những khuynh hướng chủ đạo, có tính dẫn dắt quan trọng về sự biểu cảm giá trị và
nội dung của các công trình kiến trúc.
Khi nghệ thuật khảm sành sứ được sử dụng trang trí trên những công trình kiến trúc
quy mô to lớn của triều đình, thì nhà nước phong kiến càng tăng cường trưng tập các thợ
giỏi, các phường thợ để phục vụ cho nhu cầu xây dựng, trang trí. Nhiều nghệ nhân hiền tài
đã được đảm nhận công việc thiết kế trang trí khảm sành sứ ở những công trình lớn. Các
nghệ nhân thời Nguyễn có thể tạo ra sự phối hợp hài hòa, hiệu quả trong các dải trang trí
giữa các bộ đề tài, giữa các đề tài và quan hệ tự thân của chúng như khảm sành sứ với nề
họa, khảm sành sứ với đắp nổi trang trí nề vữa. Chính ở các phù điêu được trang trí, sử
dụng trong trang trí đã tạo nên những bức tranh khảm sành sứ màu, tạo nên sự phong phú
về mặt bố cục, bài trí, tạo hình khối đa diện, góc nhìn, nhưng lại rất gần nhau ở cảm quan
thị giác tạo hình thẩm mỹ.
Khảm sành sứ trang trí cũng như các chất liệu khác luôn nảy sinh những yêu cầu
mới về kỹ thuật chất liệu trong sự gắn kết với kinh nghiệm truyền thống, thủ pháp trang trí
để gây ấn tượng và hiệu quả thị giác. Khi gắn mảnh sành sứ tạo nên những hình trang trí
rồng, phụng, mây, lửa, hoa lá hóa rồng... lên kiến trúc, nghệ nhân phải hình dung ra các
hiệu quả và yêu cầu thẩm mỹ, biểu hiện không gian của công trình kiến trúc.
11
Sự gắn bó hữu cơ, hài hòa của quan hệ tự nhiên - con người và kiến trúc trong kiến
trúc cung đình thời Nguyễn được xác định bằng nhiều yếu tố nghệ thuật, trong đó có nghệ
thuật khảm sành sứ. Những quy luật tạo hình và nguyên tắc bố cục hình khối trong khảm
sành sứ đã tác động đến mỹ cảm con người và phản ánh được giá trị của các tác phẩm mỹ
thuật. Trong trang trí khảm sành sứ cung đình thời Nguyễn đã đồng thời thể hiện nhiều
nguyên tắc bố cục, vận dụng tỷ lệ hình khối khảm sành sứ đa dạng, mỗi hình khối, bố cục
không gian đều xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của chức năng kiến trúc.
Nghệ thuật khảm sành sứ đã góp phần tạo nên diện mạo độc đáo, là bộ mặt của
nghệ thuật thời Nguyễn, là dấu ấn của nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt Nam. Chúng
đã không bị giới hạn, gò bó trong một khuôn phép truyền thống khép kín, hướng nội mà đã
có sức mở lan tỏa để không chỉ phản ánh đựơc bản sắc trang trí kiến trúc truyền thống mà
còn làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật khảm sành sứ trong dòng chảy của nghệ thuật dân
tộc.
Abstract: Due to favorable material conditions and high aesthetic demands of the
court, inlaid terra-cotta art in Nguyen‟s times made great strides at the end of 19th
century
and early of 20th
century.
This art was used on constructions of large scale and lots of talented craftsmen
gathered for the need of building and decorating. Colorful glazed terra-cotta pictures create
the abundance in structure, disposition, and form.
Decoration of inlaid terra-cotta and other different materials meet new demands of
materials and technology in the combination with traditional experiences or decorative
methods in order to make the visual effects.
The harmony in nature – human – architecture relationships on Nguyen royal
architecture is defined by many aesthetic elements, including inlaid terra-cotta art.
Inlaid terra-cotta art has contribution to the original appearance of Vietnamese
traditional art. It not only reflects the decorative identity of traditional architecture but also
emphasizes its values in art current of the people.
* * *
Giá trị nghệ thuật chạm khắc gỗ trang trí điện Long An,
nhìn từ góc độ của nghệ thuật tạo hình
NCS.Họa sĩ Nguyễn Thiện Đức
(Trường Đại học Nghệ thuật Huế)
Tóm tắt: Mỹ thuật thời Nguyễn đã để lại những giá trị nghệ thuật phản ánh truyền
thống mỹ cảm tạo hình của dân tộc bên cạnh những quan điểm thẩm mỹ cung đình riêng
của mình. Trong đó, nghệ thuật chạm khắc gỗ trang trí kiến trúc đã có những đóng góp tích
cực làm nên nét tạo hình đặc trưng và biểu cảm phần hồn cho những công trình cung điện
12
triều Nguyễn tại Huế. Điện Long An là công trình kiến trúc tiêu biểu cho lối chạm khắc
này.
Với bàn tay tài hoa và tư duy thẩm mỹ của mình, nghệ nhân thời Nguyễn đã biến
những mặt gỗ, khối gỗ của điện Long An thành những bố cục tạo hình có chủ đề thể hiện
sống động đầy biểu cảm.
Tổng thể kiến trúc điện Long An mang cấu thức và phong cách đặc biệt tiêu biểu
của kiến trúc cung đình thời Nguyễn. Chính giữa đỉnh nóc chính điện có đắp hình đầu rồng
đội hạt trân châu, hai đầu bờ nóc gắn hồi long, bốn góc bờ quyết có hình tượng long, lân,
quy, phụng đắp bằng vữa và sành sứ. Diềm mái được phân chia thành hệ thống ô hộc được
trang trí bằng các hình tượng, rồng, phụng, cá, trăng sao… Với dáng vẽ bề ngoài, điện
Long An chưa mang lại dấu ấn gì khác biệt so với các công trình kiến trúc của triều
Nguyễn, nhưng càng vào sâu bên trong nội thất, ta sẽ thấy sự tráng lệ ẩn hiện dưới vẻ thâm
nghiêm của một ngôi điện qua nghệ thuật trang trí chạm khắc gỗ tinh tế.
Trang trí chạm khắc gỗ điện Long An được thể hiện theo lối đăng đối qua trục thần
đạo. Ngôn ngữ chạm khắc tạo hình đã biến những thớ gỗ khô khan thành hình tượng thẩm
mỹ mang tính biểu cảm. Hiệu quả bao quát nhất mà chạm khắc gỗ mang lại là làm tôn lên
giá trị thẩm mỹ cho công trình. Làm cho các khối kiến trúc gỗ nặng nề trở nên nhẹ nhàng,
có sức sống và toát lên sự rạng rỡ hoa mỹ như một tác phẩm nghệ thuật, đồng thời góp
phần chuyển tải các đề tài thể hiện triết lý, tư tưởng và tinh thần của kiến trúc.
Lối chạm khắc gỗ trang trí ở điện Long An thể hiện rõ ở 8 vì nóc của điện với
những đề tài khác nhau. Với 8 mảng chạm khắc này, người nghệ nhân đã giải quyết được
sự hài hòa giữa bố cục tạo hình thẩm mỹ và giữa giá trị công năng với giá trị nghệ thuật.
Cấu kiện thừa lưu cũng được đầu tư chạm khắc công phu tạo nên tính biểu cảm. Nếu các
mảng chạm khắc ở vì kèo là mạnh mẽ, phóng túng thì ở xuyên trến, kèo có nhịp điệu vừa
phải, ở liên ba, đố bản, ô hộc là sự chỉnh chu t mỉ theo lối thư pháp.
Nghệ thuật chạm khắc gỗ trong nội thất điện đã đóng góp một vai trò quan trọng
việc khoác lên mình khối kiến trúc gỗ to lớn một lớp áo rất mỹ miều nhưng trang nhã.
Abstract: Nguyen dynasty‟s art has aesthetic values reflecting the traditional art
and royal aesthetic viewpoints, especially wood - carved decoration on royal architecture
in Hue. And Long An Temple is the typical example for this type of decoration.
Nguyen dynasty‟s craftsmen created pieces of wood into lively and expressive
products.
Architecture of Long An Temple has special and typical style of Nguyen royal
construction. At the top of the temple, there is a dragon covered with pearl while symbols
of dragon, unicorn, turtle and phoenix covered by plaster and porcelain appear at 4 corners
of the roof ridge. Roof ridges are divided into panel system decorated by dragon, phoenix,
fish, moon, star…If looking from the outside, we see nothing special compared to other
different Nguyen dynasty‟s constructions. However, we will be surprised with its interior
in subtle decoration of wood – carved art.
13
Wood – carved decoration at Long An Temple is expressed by a well-matched style
through the holy axis. It brings the aesthetic values and philosophical themes of the
construction‟s particular function.
The style of wood – carved decoration at Long An Temple is used at 8 roof rafters
in different topics. Artisans successfully solved the harmony in the lay-out of functional
and aesthetic values.
The art of wood – carved decoration in the interior of the temple plays an important
role in covering the construction with wood in good-looking and elegant appearance.
* * *
Đặc trưng kiến trúc vùng miền
và nét đặc thù trong kiến trúc cung đình Huế
NCS Bảo Đàn
(Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế)
CN Hoàng My
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Có thể thấy rằng, kiến trúc ở hai miền Bắc - Nam Việt Nam có sự khác biệt
đáng kể, và sự khác biệt này đã định hình thành trường phái. Bắc và Nam Việt Nam trong
trường hợp này được hiểu là Bắc và Nam Hoành Sơn/Đèo Ngang dưới góc nhìn Địa - Văn
hóa. Dù muốn hay không, dưới nhiều giác độ, Hoành Sơn đã và đang là ranh giới của
nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề mang tầm vóc quốc gia và khu vực.
Cùng với quá trình Nam tiến, trong một giai đoạn lịch sử, khi người Việt miền Bắc
biết đến dải đất phương Nam/Nam Hoành Sơn với những biểu hiện rất khác về mặt văn
hóa, kinh tế lẫn chính trị, vùng đất này đã trở thành đất hứa cho những ý đồ cát cứ. Khởi
đầu là việc thiết lập các thủ phủ ở vùng Quảng Trị và Thừa Thiên dưới thời các chúa
Nguyễn, cho đến khi kinh đô của một quốc gia thống nhất được định đặt ở Huế dưới thời
các vua Nguyễn, vùng đất này đã có cơ hội hội tụ cho mình những tinh hoa đến từ mọi
miền đất nước, định hình thành bản sắc, rồi đến lượt nó, sự phát tỏa với tư cách/thuộc tính
của vùng trung tâm đã khiến nhiều biểu hiện văn hóa ở nơi này trở thành chuẩn mực hay
mẫu hình cho nhiều vùng miền khác.
Qua việc khảo sát và đối sánh trong phong cách kiến trúc, bài viết này đề cập đến
những vấn đề sau: [1]. Đặc trưng kiến trúc vùng miền của hai miền Nam - Bắc Việt Nam;
[2]. Nét đặc thù trong kiến trúc đình Huế - những điểm dị biệt được định hình qua quá trình
tiếp thu tinh hoa và gạn lọc và đúc kết; và [3]. Sau nhiều biến động lịch sử - xã hội, cái tinh
thần còn lại của lối kiến trúc Huế là gì?
Những nhận định trong tham luận này chỉ là bước đầu và mang tính gợi mở, những
giả thiết đặt ra vẫn cần rất nhiều thảo luận từ những nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề.
14
Abstract: Overall, architectural styles with decorative motif systems between the
North and the South of Vietnam (in this case is understood as the North- South of Hoang
Son mountain/ Deo Ngang – the mountain pass road under the perspective of geography
and culture) have significant differences and nearly shaping into design opinion. Along
with the Southward movement of people in the North, Southern land strip with different
expressions of culture, economy and politic became the promised land for any settlement
plan. Beginning with the establishment of metropolis in Quang Tri, Thua Thien during the
Lord Nguyen‟s period, then, a capital city of unified nation was built in Hue during the
Nguyen Emperors‟ period, this land has gradually gathered the quintessence of the whole
country and coming to form its identity. Through survey and comparison, the paper
mentions following issues: (1) differences in architectural styles between the North and the
South of Vietnam; (2) Vietnamese identities in architecture of Hue is configured through
the process of absorbing quintessence; (3) The spirit of architecture in Hue is preserved
through historical and social changes. All reviews in the paper are initial suggestions.
* * *
Thiết kế và xây dựng Diên Phước Trưởng công chúa từ, một ngôi nhà vườn ở Huế
Masatoshi Imai
(Hiệp hội KTS và KS Toàn Nhật Bản)
Tóm tắt: Bài thuyết trình này, tôi muốn xem xét nét đặc trưng của thiết kế và xây
dựng công trình Diên Phước Trưởng công chúa từ, một ngôi nhà vườn ở Huế và so sánh
với kiến trúc truyền thống của Nhật Bản.
Phủ Diên Phước Trưởng công chúa là ngôi nhà vườn Huế được xây dựng khoảng
năm 1850, vừa là nơi không gian sống và là nhà thờ của công chúa trưởng của Hoàng đế
thứ 3 của triều Nguyễn.
Diên Phước Trưởng công chúa từ là một công trình kiến trúc gỗ đã bị mục nát
nhiều, toàn bộ ngôi nhà đã được hạ giải để trùng tu. Mỗi cấu kiện gỗ đều được chạm khắc,
lắp đặt rất đẹp và cân đối. Đặc trưng của kết cấu khung gỗ là tất cả các cột của kiến trúc gỗ
đều nghiêng về trung tâm của ngôi nhà. Độ nghiêng khác nhau tùy theo sở thích của chủ
nhân và được thay đổi tùy theo từng căn nhà. Phần mái nhà của Việt Nam thẳng chứ không
cong lên như kiến trúc của Trung Quốc. Mái của Diên Phước Trưởng công chúa từ được
lợp bằng ngói liệt tương tự như phần mái của kiến trúc truyền thống Nhật Bản.
Từ mặt cắt ngang của mái Diên Phước Trưởng công chúa từ cho thấy lớp vữa và
lớp lót ở dưới mái dày 6cm. Ngói liệt dày 7cm được ốp 5 lớp. Mái ngói của kiến trúc gỗ
truyền thống Nhật Bản được ốp với vỏ cây bách tùng, cây tuyết hoặc ốp với tấm ván bên
dưới ngói.
15
Trên đây là những sự khác nhau giữa các công trình bên trong và bên ngoài Hoàng
thành Huế và so sánh với kiến trúc gỗ cung đình ở Nhật Bản. Đặc trưng của kiến trúc cung
đình triều Nguyễn đều nghiêng về tâm của ngôi nhà. Độ nghiêng làm cho việc xây dựng
ngôi nhà rất khó khăn. Ở Nhật Bản, thiết bị máy móc được dùng để hỗ trợ công việc bằng
tay. Có những kĩ sư đã rất nỗ lực trao truyền các kỹ năng truyền thống các thế hệ kế cận.
Tôi hy vọng rằng, những kỹ năng bậc cao của kiến trúc hoàng gia triều Nguyễn sẽ được kế
thừa cho nhiều năm tới trong tương lai.
Abstract: I would like to express my thoughts about the characteristics of the
design and the construction of Diên Phúc Trưởng Công Chúa Mansion, a garden house in
Hue, comparing it to the Japanese traditional architecture.
Diên Phúc Trưởng Công Chúa Mansion, which is a garden house in Hue, is a shrine
and a living space built for the first imperial princess of the third emperor of the Nguyen
Dynasty as the story goes. It is estimated that it is the building of about AD 1850, the
middle of the 19th
century. Because the wooden construction of Diên Phúc Trưởng Công
Chúa Mansion decayed very much, all the building have been demolished and restored this
time.Its roof color is the same as Tài Hé Diàn in the Forbidden City of China. But there is
not a curve of the whole roof at Thai Hoa Hall in Hue.The linear roof without curve is the
characteristics of the royal architecture of the Nguyen Dynasty. Its roof is curved
delicately. From this, it indicates that the characteristic of wooden architecture of the
Nguyen Dynasty is the straight line.
The roof of this flat plate tile is the characteristics of the wooden architecture of the
Nguyen Dynasty. The design of the roof of the flat plate tile in Hue is similar to the roof of
the Japanese traditional wooden architecture. In its cross-section, the mortar without water
is underlaid 6cm under the roof and the roof is shingled with the flat plate tile. The width
of the parts which we can view from above is 35mm.The flat plate tiles 7mm thick are laid
5 sheets and shingled. It is the construction which has adjusted in the climate of Hue later.
The roof and the outside wall of Diên Phúc Trưởng Công Chúa Mansion are integrated
wholly. Woodcarving skill reached very great heights in the Nguyen Dynasty period in
Hue.
As described above, I have tried showing the difference between the buildings
inside the Hue Imperial City and the buildings outside the Hue Imperial City and
comparing the wooden royal architecture in Hue to the Japanese wooden royal
architecture. The inclination of the posts makes the building hard. Not only accuracy, but
also the skill which can work out differences totally are included in its skill. I hope that the
high skill of the royal architecture of the Nguyen Dynasty will be inherited for many years
to come into the future.
* * *
16
Dự án phục hồi điện Kiến Trung và những vấn đề trong phục hồi di tích kiến trúc
TS Trần Minh Đức
Tóm tắt: Điện Kiến Trung nằm trong khu vực Tử Cấm thành, Đại Nội Huế. Điện
mang những giá trị lịch sử - kiến trúc đặc sắc và đang trong giai đoạn thiết kế phục hồi.
Tuy nhiên, để hoàn thành dự án cần vượt qua một số trở ngại:
Phục hồi di tích có đảm bảo được tính chính xác hay không và phục dựng để làm gì?
Dựa theo tư liệu lịch sử, điện Kiến Trung xây dựng dưới thời Minh Mạng, kiến trúc
ban đầu là lầu gỗ về sau được đổi thành gạch – bê-tông dưới thời vua Khải Định, Bảo Đại.
Ban đầu, lầu chỉ có chức năng ngắm cảnh rồi trở thành nơi làm việc của vua Khải Định và
nơi sinh sống của gia đình vua Bảo Đại sau này. Ngoài giá trị lịch sử vừa nêu, điện Kiến
Trung còn mở đầu cho phong cách kiến trúc cung đình mới bằng kiểu nhà phương Tây và
nghệ thuật ghép gốm sứ, thủy tinh màu tuyệt kỹ trang trí của Huế.
Với những giá trị vừa nêu, điện Kiến Trung xứng đáng được đưa vào danh mục cần
thiết cho việc phục dựng di tích.
Tuy nhiên, điện Kiến Trung hiện đã bị triệt hạ chỉ còn nền móng vì vậy muốn phục
hồi cần phân tích quá trình, sự kiện lịch sử. Khảo sát và khảo cổ, phân tích ảnh tư liệu, các
công trình tương đồng với công trình di tích... Ngoài ra, để lấy thông tin cho thiết kế phục
hồi gần chục đề tài nghiên cứu đã được tiến hành nhằm phục vụ thiết kế phục dựng điện
Kiến Trung một cách chính xác và khoa học nhất.
Abstract: Kien Trung Residence locates in Forbidden Purple City, Hue Citadel. It
bears typical historical and architectural values and is in its stage of designing restoration.
However, it is necessary to overcome some hindrances to fulfill the project:
Does the restoration ensure the authenticity and what the restoration is for?
According to historical document, Kien Trung Residence was built under the
emperor Minh Mang‟s times, initial architecture was a wooden pavilion and later it was
transformed into brick and concrete under the emperor Khai Dinh and Bao Dai‟s times.
Initially, the pavilion had function as a sight-seeing place then became the working place
of the emperor Khai Dinh and later a living place of the emperor Bao Dai. Apart from
above historical value, Kien Trung Residence also starts the new royal architectural style
by Occidental house style and the art of joining ceramics and beautiful glasses of Hue
decorative style.
With above values, Kien Trung Residence deserves to be in the list of relics which
should be restored.
However, Kien Trung Residence is now dismantled and only the foundation is left;
therefore, it is necessary to analyze the process and historical events if we want to restore
it. Carrying out excavation and archeology, analyzing documentary photos and similar
constructions to relics…Besides, it is essential to get the information for designing
17
restoration of nearly 10 research topics with an aim to serve the designing restoration of
Kien Trung Residence the most exactly and scientifically.
* * *
Một số kinh nghiệm thực tiễn tu bổ, phục hồi di tích kiến trúc gỗ qua dự án trùng tu
di tích Phu Văn Lâu
TS Nguyễn Tiến Bình
CN Mai Xuân Hiển – CN Ngô Quỳnh Như
(Phân viện Khoa học Công nghệ Xây dựng Miền Nam)
Tóm tắt: Vài nét về Phu Văn Lâu từ lịch sử hình thành đến trước thời điểm dự án
trùng tu được triển khai.
Những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình vận hành dự án tu bổ, phục hồi di tích
kiến trúc gỗ ở Huế, được đúc rút thông qua quá trình triển khai Dự án Tu bổ, phục hồi di
tích Phu Văn Lâu (5/2014- 9/2016): phân tích thông tin lịch sử, phân tích ảnh tư liệu, thiết
lập quy luật từ các công trình tương đồng, phân tích hiện trạng và suy luận về tính logic,
gia cường bổ sung phần kết cấu yếu bằng các giải pháp hiện đại phù hợp, thực hiện tu bổ
cẩn trọng, đúng quy trình, thiết lập hồ sơ khoa học về di tích.
Một vài kết luận và kiến nghị của nhóm tác giả từ kinh nghiệm thực tiến thi công,
phục hồi công trình Phu Văn Lâu (5/2014- 9/2016).
Abstract: Some features on Phu Van Lau from the formation history to the time
before the restoration project was exploited.
Some practical experiences during the execution of the wooden construction
restoration project in Hue, which are summarized from the process of execution the project
of restoration Phu Van Lau (5/2014 – 9/2016): analyzing the historical information and
documentary photos, establishing the rules from similar constructions, analyzing the real
situation and reasoning on logicality, strengthening the weak structure by suitable modern
solutions, carrying out the restoration carefully and in accordance with the process,
establishing scientific file on the relics.
Some conclusions and recommendations of the author group from the experiences
of execution reality and restoration of Phu Van Lau (5/2014-9/2016).
* * *
18
Kinh nghiệm từ một số dự án trùng tu tại di tích Huế và
vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
ThS Andrea Teufel
(Tổ chức GCREP, Đức)
Tóm tắt: Từ năm 2003 đến năm 2013, "Chương trình Bảo tồn Văn hoá" của Bộ Ngoại
giao Liên bang Đức đã hỗ trợ 4 dự án trùng tu ở Huế và được thực hiện với sự hỗ trợ và
hợp tác chặt chẽ của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.
Tất cả các dự án đều có ba mục đích chính:
1. Bảo tồn và trùng tu các đối tượng theo hướng dẫn của UNESCO về bảo tồn Di tích
Di sản Thế giới.
2. Phát triển các phương pháp bảo tồn/trùng tu mà có thể chuyển giao/áp dụng tại các
điểm di sản tương tự, dựa trên việc sử dụng các vật liệu truyền thống Việt Nam và vật liệu
bảo tồn hiện đại.
3. Cung cấp đào tạo chuyên nghiệp tại chỗ cho các họa sĩ và thợ thủ công địa phương
về bảo tồn- trùng tu di tích
Bài trình bày này sẽ giới thiệu tóm tắt 4 dự án có chủ đề khác nhau, đó là: bảo tồn /
trùng tu các bức tranh tường (bên trong và bên ngoài), vữa truyền thống, khảm và sơn kiến
trúc. Kết quả và những khó khăn gặp phải trong quá trình trùng tu sẽ được trình bày kèm
theo minh họa; cũng như giới thiệu cụ thể các nhiệm vụ và nâng cao giải pháp trùng tu…
Ngoài ra, tác giả sẽ chia sẽ một số kinh nghiệm và khả năng để phát triển đào tạo
chuyên nghiệp về bảo tồn trùng tu di tích ở Việt Nam.
Abstract: From 2003 to 2013, the „Cultural Preservation Program‟ of the Ministry of
Foreign Affairs of German Federal has supported 4 restoration projects in Hue, which have
been carried out in close cooperation and with the support of the HMCC (Hue Monuments
Conservation Center).
All projects had three main objectives:
1.Conservation and restoration of the object(s) in accordance with the UNESCO
guidelines for preservation of World Heritage Monuments
2.Developing of transferable conservation/restoration methods for future similar
venues, which are based on the originally used vietnamese materials and modern
conservation materials.
3.Providing on-the-spot professional training in conservation-restoration for local
artists and artisans
It will be given a short introduction to the 4 projects regarding to their different
thematic focuses, which are: conservation/restoration of wall paintings (inside and
outside), traditional plaster, mosaic and architectural paint scheme. Challenges and results
of the restoration process will exemplified, and tasks for further improving of the methods
will be named.
19
Furthermore, experiences and possibilities for development of a professional training in
conservation-restoration in Vietnam will be discussed.
* * *
Áp dụng phương pháp anastylosis trong việc tu bổ
các tác phẩm khảm sành sứ trang trí công trình Thái Bình Lâu
CNMT. KSXD Nguyễn Thế Sơn
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Năm 1931, nhà bảo tồn Nikolaos Balanos đưa ra khái niệm Anastylosis
trong công tác bảo tồn trùng tu di tích. Nó là một thuật ngữ chuyên môn có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp. Trong lĩnh vực bảo tồn, anastylosis đề cập đến việc tiến hành khôi phục lại
một di tích kiến trúc hoặc một di chỉ khảo cổ bằng cách tháo dỡ và xây dựng lại cấu trúc
bằng cách sử dụng các phương pháp ban đầu, kết hợp với việc tái sử dụng tối đa các thành
phần kiến trúc nguyên gốc đã tạo nên di tích và di chỉ đó. Phương pháp này được áp dụng
thành công tại một số công trình kiến trúc trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng,
đặc biệt là các di tích kiến trúc trong quần thể di tích Huế như Thái Bình Lâu. Gần 100
năm tồn tại, do tác động của thiên nhiên và chiến tranh, công trình Thái Bình Lâu này đã
xuống cấp trầm trọng vì vậy công tác trùng tu để bảo tồn công trình này là một yêu cầu hết
sức cấp thiết, nhiệm vụ trọng tâm là việc tu bổ các tác phẩm nghệ thuật trang trí khảm sành
xứ ở công trình này. Việc áp dụng phương pháp Anastylosis đóng một vai trò rất lớn vào
công tác trùng tu di tích này (từ tháng 8/2010 đến tháng 3/2115 của TT Bảo tồn Di tích Cố
đô Huế) nhằm giữ gìn tối đa các thành phần trang trí nguyên gốc hiện còn, tránh gây mất
mát, đổ vỡ thêm, phục hồi toàn vẹn các giá trị về văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật.
Abstract: In 1931, the conservator Nikolaos Balanos gave out the concept of
Anastylosis in heritage conservation and restoration. It is a technical term originated from
Greek. In conservation field, anastylosis mentions the restoration of archaeological
constructions or relics by dismantling and reconstructing the structure with original
methods combined with reusing original architectural components in maximum. It is
successfully applied at some constructions in the world in general and in Vietnam in
particular, especially constructions in Hue Monuments Complex ssuch as Thai Binh
Pavilion. Nearly 100 years of existence, due to the influence of nature and war, Thai Binh
Pavilion has been seriously upgraded, therefore, the conservation and restoration of this
construction is extremely necessary. The main task is the restoration of terra cotta – inlaid
decoration art. The application of Anastylosis method plays an important role in this
conservation (from Aug/2010 to Mar/ 2015 by Hue Monuments Conservation Center) in
20
order to conserve to the most the existing original decorative parts and restore the values of
culture, architecture and art perfectly.
* * *
Nghiên cứu về kỹ thuật sơn mài truyền thống ở Huế
TS.Shiomi Saito
(Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản)
Tóm tắt: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phân tích các đặc điểm hoa văn cổ,
cách bố trí và thành phần trong các chất màu được làm trên cửa Cảnh Môn tại điện Thái
Hòa thông qua việc lập hồ sơ họa tiết cổ, tác giả đã thực hiện các bản vẽ đúng kích thước
và phân tích các lớp sơn bằng phương pháp nghiên cứu kỹ thuật sơn mài kiến trúc hoàng
gia.
Tại di tích Huế, nhiều kỹ thuật sơn được tìm thấy trong trang trí kiến trúc, tôn giáo,
mỹ thuật và nghề thủ công vẫn đang còn tồn tại đến ngày nay, được xem là những tài liệu
tham khảo có giá trị cho việc sử dụng sơn mài truyền thống của triều Nguyễn. Những kỹ
thuật sơn này bao gồm tranh sơn mài trang trí sử dụng những tờ giấy vàng và bạc, có xuất
sứ tại Việt Nam.
Bởi vì phần lớn các kiến trúc cung điện triều Nguyễn là gỗ, các lớp phủ bên ngoài còn
lại tại các di tích Huế đã xuống cấp đáng kể do bị hư hỏng bởi các yếu tố sinh học và môi
trường tự nhiên với khí hậu khắc nghiệt, độ ẩm và nhiệt độ cao. Điều này thật khó khăn để
nghiên cứu phục hồi các bức tranh sơn mài đã được thực hiện trước đây. Cấu trúc của phần
lớn các cung điện được làm bằng cột gỗ và dầm, với công năng sử dụng không chỉ như một
tổ hợp kiến trúc, mà còn là yếu tố quan trọng của trang trí nội thất.
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế thực hiện bảo tồn và trùng tu với quan điểm bảo
tồn di tích lịch sử và bảo tồn các cột sơn mài cũ nguyên trạng bằng cách trưng bày cột với
các lớp sơn nguyên thủy trong các lần trùng tu gần đây. Do đó, các phương pháp trùng tu
do Trung tâm BTDTCĐ Huế thực hiện có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phục hồi
điện Cần Chánh cũng như phục hồi các di tích lịch sử cho tương lai.
Dựa trên những tài liệu nghiên cứu trước đây, nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra
quá trình sơn các lớp nền sơn mài trên cột nhằm thực hiên tiêu bản sơn mài để mô tả lại
quy trình sơn các lớp nền sơn mài truyền thống. Điều này cũng nhằm mục đích nghiên cứu
phương pháp thiết kế tranh sơn mài kiến trúc của thời Nguyễn với sự đúc kết của các kỹ
thuật truyền thống đã được khoa học chứng minh thông qua khảo sát thực địa về vật liệu,
quy trình, kỹ thuật, khảo sát các công trình hiện còn và phân tích hóa học các lớp phủ sơn
mài…
Abstract: This study was conducted to shed light on the characteristics of old
patterns, layout, and ingredients of pigments employed on the columns at Thai Hoa Hall
21
through the creation of records of old patterns, including full-scale drawings, and analysis
of paintings, as a means for examining imperial architectural lacquer techniques.
In the Hue Monuments, various painting techniques are seen in architectural
decorations, religious articles, and arts and crafts that exist today as valuable references to
the use of traditional lacquer by the Nguyen Dynasty. These painting techniques include
decorative lacquer paintings using gold and silver leaves. Lacquer is produced in Vietnam.
Some of the decorative paintings that are found in the Hue Monuments are thought to
have been restored during and after the Nguyen Dynasty. However, few documents
provide specific details about the restoration of paintings, aside from records of recent
restoration work by Hue Monuments Conservation Center.
Because the majority of Nguyen Dynasty palace architectures is wooden, the coatings
that exist in the Hue Monuments have deteriorated significantly due to biological damage
and the harsh natural environment characterized by high temperatures and humidity. This
has made it difficult to study the restoration of lacquer paintings that have been performed
before recent times. The structure of the majority of palaces was made of timber columns
and beams, with the columns functioning not only as a structural member, but also as an
important element of interior decoration.
Hue Monuments Conservation Center engages in preservation and restoration from the
viewpoint of preserving historic monuments, and preserves old columns that display
remnants of coatings that were applied prior to the recent restoration. The approaches made
by the Conservation Center thus have significant importance to the future restoration of
historic monuments and the reconstruction of Can Chanh Dien.
This study was conducted using the results of studies carried out by a study group led
by Professor Emeritus Nakagawa at Waseda University and Hue Monuments Conservation
Center. With the cooperation of Hue Monuments Conservation Center, a local joint survey
was carried out with Mr. Ho Thanh Binh and Ms. Dang Son Ca, who both work at the
Conservation Center, in an attempt to analyze architectural painting and design techniques.
Based on the findings of past studies, this study aims to investigate the process of
painting the lacquer foundation on columns through the creation of sample lacquer boards
representing traditional lacquer foundation processes. It also aims to specifically advance
the study on the design methods of architectural lacquer paintings during the Nguyen
Dynasty through an accumulation of traditional techniques that have been scientifically
proven through field surveys on materials, processes and skills, surveys of existing
buildings, and chemical analyses of lacquer coatings.
* * *
22
Các công trình khoa học cấp quốc gia nghiên cứu về triều Nguyễn
Ý nghĩa và tác dụng
PGS.TS Đỗ Bang
(Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)
Tóm tắt: Trong vòng hai thập kỷ qua, triều Nguyễn là chủ đề nghiên cứu của nhiều
luận án Tiến sĩ thuộc các ngành Lịch sử, Văn học, Văn hóa… Đối với Sử học ít nhất đã có
hai đề tài cấp Quốc gia được đánh giá là những thành tựu:
1. Đề tài: Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn; những
vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay. Đây là đề tài cấp Quốc gia,
quy tụ 23 nhà khoa học trên cả nước thực hiện trong 3 năm, biên soạn ra 2 ấn phẩm với 2
nội dung nghiên cứu về kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước cùng bộ Thư mục triều
Nguyễn. Trong quá trình thực hiện đã có 6 công trình xuất bản. Đến năm 1999, xuất bản
được 10 cuốn sách và bộ Thư mục 2 tập được đánh giá là thành tựu nghiên cứu lớn nhất về
triều Nguyễn của thế kỷ XX. Với kết quả này, nhiều giảng viên các trường Đại học đã xây
dựng thành các chuyên đề giảng dạy cao học và Tiến sĩ…
2. Đề tài: Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn
thời kỳ 1802 - 1885.
Đây là đề tài khoa học cấp Quốc gia do PGS.TS Đỗ Bang làm chủ nhiệm. Trong quá
trình thực hiện, các thành viên đã công bố 12 bài trên các tạp chí chuyên ngành và nhiều
hội thảo quốc gia và quốc tế, đồng thời có nhiều ấn phẩm nhất được xuất bản và tái bản,
đáp ứng nhu cầu hiểu biết của bạn đọc về chủ quyền biển đảo Việt Nam dưới triều
Nguyễn, góp phần nâng cao nhận thức việc đấu tranh về chủ quyền biển đảo và làm cơ sở
khoa học cho việc biên soạn giáo trình giảng dạy các cấp.
Abstract: During the last two decades, Nguyen dynasty is the research theme of
many PhD theses belonging to branches of History, Literature, Culture…As for History,
there are at least two national themes which are evaluated as achievements:
1. Theme: carry out scientific research on economy and state mechanism
establishment of Nguyen dynasty; problems are raised in the renovation reality of the
country presently.
This is a theme of national level, gathering 23 scientists all over the country,
carrying out during 3 years, composing 2 publications with 2 contents about the economy
and state mechanism establishment along with Nguyen dynasty‟s bibliography. During the
execution process, there were 6 published works. Until 1999, 10 books and a 2-volumn
bibliography were published, which was evaluated as the biggest research achievement on
Nguyen dynasty of XXth
century. With this result, many teachers of colleges have built
special subjects for post-graduate teaching program.
2. Theme: Organization and Vietnamese sea and islands protection activities under
Nguyen dynasty from 1802-1885.
23
This is scientific theme of national level headed by Associate Professor-PhD Đỗ
Bang. During the execution process, members have published 12 writings on specialized
magazine and at many international and national conferences; simultaneously many
publications were published and reprinted, which met the demand of readers on
Vietnamese sea and island sovereignty under Nguyen dynasty, contributing to heightening
the awareness about struggling for sea and island sovereignty and setting scientific basis
for composing teaching program of all levels.
* * *
Huế với những nỗ lực thiết lập và duy trì sự hài hòa/cân bằng động giữa bảo tồn
và phát triển bền vững theo tinh thần Công ước của UNESCO
PGS.TS Đặng Văn Bài
(Hội Di sản Văn hóa Việt Nam)
Tóm tắt: Xây dựng quan điểm về bảo tồn di sản thế giới trước hết cần được xuất
phát từ những kiến nghị, nguyên tắc và giải pháp khoa học trong khuôn khổ khung pháp lý
mang tính quốc tế có liên quan tới di sản thế giới của Liên hợp quốc.
Cần xác định rõ trách nhiệm cũng như cam kết của các quốc gia thành viên
UNESCO trong việc thực hiện Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới,
sự quan trọng của các giá trị văn hóa các địa điểm di sản, các giá trị văn hóa cần phải được
bảo vệ bao gồm tính lịch sử của di sản và tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần… như
Công ước 1972, Hiến chương Burra (1979 sửa đổi 1981, 1988, 1999), Các nguyên tắc và
mục tiêu đặt ra trong Hiến chương Washington 1987, Tuyên bố NARA (Nhật Bản 1994)
của UNESCO.
Huế là một thành phố di sản với 5 di sản thế giới - nơi lưu giữ một khối lượng di
sản kiến trúc khá đồ sộ, mang những giá trị nổi bật toàn cầu, nơi đáp ứng mọi tiêu chuẩn
cao nhất được UNESCO đề ra cho một khu di sản thế giới.
Theo tinh thần các khuyến nghị trong các Công ước và Hiến chương của UNESCO
liên quan tới di sản thế giới, các quốc gia thành viên phải luôn tuân thủ một nguyên tắc bất
biến là tạo lập và duy trì sự hài hòa, “cân bằng động” giữa bảo tồn và phát triển.
Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và Thành phố Huế nói riêng với tư cách
là cộng đồng chủ thể ở địa phương và đại diện cho Việt Nam trong việc thực hiện cam kết
của Chính phủ về trách nhiệm bảo tồn Quần thể di tích cố đô Huế. Trung tâm Bảo tồn Di
tích Cố đô Huế là đơn vị chủ quản trực tiếp quản lý quần thể di tích này.
Abstract: Building a point of view about the world heritage preservation firstly
derives from the petitions, rules and scientific resolutions in shape and sound of
international legal frame relating to world heritage of UNESCO.
24
It is necessary to clarify the responsibility as well as the commitment of UNESCO
member states in executing the convention on protecting world cultural and natural
heritages, the importance of cultural values of heritage sites, cultural values which are in
need of being protected including the historical characteristic of heritage and all physical
and spiritual factors…such as Convention 1972, Burra Charter (1979, modified in 1981,
1988, 1999), regulations and aims set in Washington Charter 1987, NARA Declaration
(Japan 1994) of UNESCO.
Hue is a heritage city with 5 world heritages – where keeps as archive a great
number of architectural heritages which bears global outstanding values, and meets all the
highest standards which UNESCO has required of a world heritage site.
In accordance with the recommendation in UNESCO‟s conventions and charters
relating to world heritage, the member states always have to obey one unchanged rule
which is creating and maintaining the harmony, “moveable balance” between preservation
and development.
People of Thua Thien Hue in general and of Hue City in particular play the role of
subject community at locality and representative of Vietnam in executing the governmental
commitment on the responsibility of preserving Hue Monuments Complex. Hue
Monuments Conservation Center is the unit in charge of direct management of this
complex.
.
* * *
Bảo tồn những giá trị đặc sắc của cố đô Huế - đỉnh cao của kho tàng
di sản văn hóa triều Nguyễn ở Việt Nam
GS.TS Trương Quốc Bình
(Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia)
Tóm tắt: Nhà Nguyễn là vương triều cuối cùng của thời đại quân chủ Việt Nam
được thành lập từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802 cho đến lúc vua Bảo Đại thoái vị
vào tháng 8 năm 1945. Trong gần 150 năm tồn tại, mặc dù có những biến động căn bản về
chính trị do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, nhưng vương triều
Nguyễn cũng có những vai trò không nhỏ trong lịch sử dân tộc. Trải qua những biến đổi to
lớn về chính trị và kinh tế xã hội, trên cơ sở những thành tựu của văn hóa dân tộc qua các
thời Lý-Trần-Lê và phát huy những tinh hoa của văn hóa Phú Xuân từ những nỗ lực của
các đời chúa Nguyễn, văn hóa Việt Nam thời nhà Nguyễn không những không bị lụi tàn
mà còn phát triển rực rỡ trong tất cả mọi lĩnh vực từ kiến trúc, xây dựng, thủ công nghiệp,
đến khoa học, giáo dục, tôn giáo tín ngưỡng, văn chương nghệ thuật… Có thể nói, trong
các lĩnh vực văn hóa tinh thần, triều Nguyễn đã để lại một di sản khổng lồ, vĩ đại mà không
triều đại nào trong lịch sử có thể sánh được.
25
Nhìn chung, triều Nguyễn đã để lại cho hậu thế một kho tàng di sản hết sức
phong phú và đa dạng. Kho tàng di sản đồ sộ này, bao gồm cả di sản vật thể và di sản phi
vật thể, trải rộng trên cả nước từ Bắc chí Nam, là kết quả lao động sáng tạo của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam. Đáng chú ý là, bên cạnh sự phát triển rộng khắp và mạnh mẽ của
văn hóa dân gian trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội thì đến thời Nguyễn, văn
hóa cung đình cũng có sự phát triển cao độ và tập trung do những điều kiện kinh tế xã
hội ở trong nước và những tác động không nhỏ của thời đại trong bước chuyển quan trọng
của lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Với tư cách là kinh đô của
nước Đại Nam thống nhất, Huế chính là nơi được triều đình nhà Nguyễn tập trung xây
dựng với những ưu tiên hàng đầu về nhân tài vật lực và cho đến nay còn để lại một kho
tàng di sản văn hóa cung đình hết sức đặc sắc, hết sức nổi trội, được đánh giá là có giá
trị toàn cầu nổi bật.
Từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước đến nay, công cuộc nghiên cứu, bảo vệ và phát huy
những giá trị của kho tàng di sản văn hóa đặc sắc này đã và đang thu được những kết quả
rất đáng khích lệ. Những nhận thức khách quan khoa học về vai trò của nhà Nguyễn trong
lịch sử dân tộc có ý nghĩa quan trọng tạo cơ sở cho sự quan tâm và những quyết tâm của
Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp bảo tồn các di sản văn hóa vô giá này.
Với những nỗ lực tự thân ở trong nước cùng sự hợp tác có hiệu quả của các tổ chức và
chuyên gia quốc tế, đặc biệt là UNESCO và các tổ chức chuyên môn quốc tế về di sản văn
hóa, cho đến nay đã có 5 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể là những bộ phận hữu cơ của
di sản văn hóa cung đình Huế được công nhận là di sản thế giới, bao gồm:1-Khu di tích cố
đô Huế - di sản văn hóa thế giới đầu tiên của Việt Nam; 2-Nhã nhạc cung đình Huế; 3-
Mộc bản triều Nguyễn; 4-Châu bản triều Nguyễn; 5-Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế.
Ngoài 5 di sản nói trên cần phải kể đến một số Di sản thế giới khác có liên quan đến văn
hóa cung đình thời Nguyễn như Khu Di sản văn hóa Thế giới Hội An, khu phố cổ là
thương cảng sầm uất từ thời các chúa Nguyễn và duy trì sự phồn thịnh trong suốt thời kỳ
các vua Nguyễn. Đồng thời, cho đến nay đã có gần 30 đơn vị hiện vật có tính độc bản và
có những giá trị cao về các mặt lịch sử, mỹ thuật của kho tàng di sản văn hóa cung đình
Huế được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam công nhận là Bảo vật quốc gia. Trong tương lai,
những giá trị đặc sắc của kho tàng di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn tại Huế sẽ tiếp tục
được nghiên cứu, tôn vinh ở các cấp quốc gia và quốc tế.
Phát huy những thành tựu rất đáng khích lệ trong thời gian qua, Chính phủ Việt
Nam, trực tiếp là chính quyền tỉnh Thừa Thiên- Huế đang tập trung nỗ lực để tiếp tục
nghiên cứu, bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa độc đáo- nguồn tài nguyên
du lịch đặc biệt của quốc gia dân tộc Việt Nam và là một bộ phận hữu cơ của di sản văn
hóa nhân loại./.
Abstract: The Nguyen is the last dynasty of Vietnamese monarchy which was
established when the emperor Gia Long went to the throne in 1802 until the emperor Bao
Dai abdicated in August 1945. For nearly 150 years of existence, although there are
fundamental changes in politics due to subjective reasons and different objectives, the
26
Nguyen dynasty played rather big roles in the nation's history. Undergone tremendous
political and socio-economic transformation, on the basis of the achievements of the
national culture through the Ly-Tran-Le and promote the cultural essence of Phu Xuan
from efforts of Nguyen Lords, culture of Vietnam in Nguyen Dynasty not only not died but
also flourished in all fields, from architecture, construction, industry, science, education,
religion, beliefs, art and literature... It can be said that in the field of spiritual culture,
Nguyen dynasty has left huge heritage, which no dynasties in Vietnam‟s history can match.
Overall, the dynasty has left to posterity rich and diverse heritage. Cultural heritage,
including both tangible and intangible heritage, spread across the country from north to
south, this is the result of creative labor of Vietnamese community. Noticeably, apart from
the widespread and strong development of folklore in almost all fields of social life, under
Nguyen dynasty, imperial culture also has a high and focused development due to the
socio-economic conditions in the country and the significant impact of the era in the
important transition of Vietnam‟s history from the nineteenth century to the first half of
twentieth century. As the capital of the united country, Hue is where the Nguyen court
focused on building a top priority to the talents and resources and so far left a museum of
dominent and unique royal heritages which were evaluated as having outstanding universal
values.
From the 80s decade of last the century to the present, the study, protection and
promotion of the values of this unique cultural heritage have already obtained very
encouraging results. The scientific objective perception of the role of the Nguyen Dynasty
in the history of the nation has created significant basis for the interest and the commitment
of the Government and people of Vietnam in the cause of heritage preservation this
priceless cultural heritage. With these efforts in the country itself and the effective
cooperation of international organizations and experts, especially UNESCO until now,
there are 5 cultural tangible and intangible heritages of Hue royal court to be recognized as
world heritages, including: 1. Hue Monuments Complex; 2-Hue court music; 3-Nguyen
Dynasty woodblocks; 4-Chau Version (Nguyen Dynasty’s Imperial Archives); 5. Royal
literature on Hue royal architecture. Also, to date, nearly 30 unique exhibits of high values
in terms of history, fine-arts of Hue cultural heritage treasure were recognized as a
National Treasure by Prime Minister of Vietnam. In the future, the unique value of Hue
cultural heritage treasure of Nguyen court will continue to be studied, honored at the
national and international levels.
Promoting the encouraging achievements, in recent years, the Government of
Vietnam, directly is the government of Thua Thien-Hue Province, is taking efforts to
continue to study, protect and promote the value of the typical cultural heritage treasure –
special tourism resources of the country and the people of Vietnam and is an organic part
of the cultural heritage of humanity.
* * *
27
Nhà vườn truyền thống trong không gian di sản văn hóa cảnh quan đô thị Huế
ThS Trần Văn Dũng
(Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế)
Tóm tắt: Đô thị Thừa Thiên Huế cần phải bảo tồn và phát triển các chân giá trị để
tạo ra bản sắc riêng trong quá trình phát triển về văn hóa và du lịch. Đặc biệt, trong việc
xây dựng thành phố Huế trở thành thành phố Fsetival đặc trưng của Việt Nam, là một địa
chỉ tham quan quen thuộc của du khách trong và ngoài nước. Do vậy, nhà vườn truyền
thố ột di sản đặc biệt cần được bảo tồn và phát huy giá trị để thúc đẩy du lịch
đô thị di sản phát triển bền vững. Nhà vườn truyền thống Huế là yếu tố quan trọ ả
ới yêu cầu bảo tồn bền vững những giá trị nổi bật về cảnh quan của
khu Di sản văn hóa cung đình Huế, hướng đến xây dựng Huế trở thành đô thị “Di sản, văn
hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường”.
Abstract: Thua Thien Hue urban area needs to conserve and develop the core
values in order to create its own identity during the cultural and tourism development
especially during the process of building Hue to become a Vietnamese city of festivals and
a popular destination of domestic and foreign tourists. For this reason, Hue traditional
garden house is a special heritage that needs to be conserved and its values need to be
utilized to promote the sustainable development of tourism. Hue traditional garden house is
the essential factor ensuring the process of urbanization to balance with the request of
conserving the outstanding value of Hue Court cultural heritage's site for purpose of
building Hue to become a city of “Heritage, culture, ecology, landscape and
environmental protection”.
* * *
Nghệ thuật kiến trúc cảnh quan trong kiến trúc lăng tẩm hoàng gia thời Nguyễn
ThS.KTS Đỗ Thị Thanh Mai (Phân viện Khoa học Công nghệ và Xây dựng Miền Trung)
Tóm tắt: Triều Nguyễn (1802-1945) là triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam,
chính vì vậy đây là triều đại kế thừa được những tinh hoa về văn hóa, kiến trúc của dân tộc
qua hàng ngàn năm lịch sử. Tuy thời gian tồn tại không dài, nhưng hệ thống kiến trúc cung
đình thời Nguyễn đã có những bước phát triển đột phá, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc và
cách tổ chức không gian vườn. Chính đặc điểm này đã làm cho Huế- kinh đô của triều
Nguyễn trở thành một điển hình của lối kiến trúc đô thị- cảnh quan, nổi tiếng đẹp và thơ
mộng, trong đó nổi bật là hệ thống lăng tẩm hoàng gia. Tháng 12.1993, quần thể kiến trúc
28
cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới với những đánh giá đặc biệt
về giá trị cảnh quan và lịch sử.
Trong bài viết này, tác giả sẽ bước đầu phân tích, đánh giá vai trò và đặc điểm của
nghệ thuật kiến trúc cảnh quan trong kiến trúc lăng tẩm hoàng gia thời Nguyễn. Đây là
nhân tố đặc biệt quan trọng làm nên cá tính và phong cách riêng của kiến trúc lăng tẩm
Huế, tạo nên một thành tựu đột phá so với kiến trúc lăng tẩm của tất cả các triều đại trước
đó tại Việt Nam, và cả trong sự so sánh với kiến trúc lăng tẩm hoàng gia của các nước
trong khu vực Đông Á.
Abstract: Nguyen dynasty (1802-1945) is the last monarchy of Vietnam, therefore,
it inherits cultural and architectural quintessence of the nation through thousands of
historical years. Though the existence time is not long, the system of Nguyen royal
architecture has obtained breakthroughs, especially in architectural art and garden space
arrangement. It is this characteristic that makes Hue – the capital city of Nguyen dynasty –
become a typical in urban landscape architecture which is famous for its poetic beauty, in
which the most outstanding is the system of royal tombs. On December 1993, Hue
Monuments Complex was acknowledged World Heritage by UNESCO with special
assessments on landscape and historical values.
In this writing, the author will initially analyze and evaluate the role and the
characteristics of landscape architectural art in Nguyen dynasty‟s royal tomb architecture.
This is a special factor which forming the personality and style of Hue tomb architecture,
creating break-through achievement in comparison with tomb architecture of previous
dynasties in Vietnam and with royal tomb architecture in Southeast Asian region.
* * *
Di sản văn hóa thời Nguyễn ở Nam bộ: Đức Quốc Công Từ (Gò Công, Tiền Giang)
ThS Nguyễn Đắc Thái
(Đại học Văn Lang, Thành phố Hồ Chí Minh)
Tóm tắt: Đức Quốc Công Từ (ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, thị xã Gò Công,
tỉnh Tiền Giang) là cụm di tích gồm nhà thờ, lăng mộ của gia tộc Đức quốc công Phạm
Đăng Hưng, một bậc đại quan, là thân phụ của Nghi Thiên Chương hoàng hậu (Hoàng thái
hậu Từ Dũ - mẹ vua Tự Đức), được xây dựng qui mô lớn, công phu theo điển chế triều
Nguyễn (và cả Đức Quốc Công Từ ở Kinh sư).
Công trình được xây dựng từ năm 1826, với sự tham gia của những người thợ giỏi
địa phương và từ cung đình Huế, rồi càng được đầu tư trùng tu nâng cấp qui mô lớn từ thời
Tự Đức, thể hiện rõ điển chế cung đình triều Nguyễn qua qui mô kiến trúc, qui thức xây
dựng, biểu tượng trang trí. Đến đầu thế kỷ XX, nơi đây còn lưu dấu những đợt trùng tu thời
29
Thành Thái, Khải Định và Bảo Đại, bổ sung nhiều giá trị nghệ thuật tạo hình phương Tây,
thể hiện rõ nét quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa Pháp - Việt. Đến nay, dân gian vẫn
quen gọi đây là lăng Hoàng gia, một bộ phận quan trọng trong di tích Giồng Sơn Quy,
được công nhận Di tích cấp quốc gia từ năm 1992.
Đây là một công trình tiêu biểu cho dòng chảy mỹ thuật Nguyễn xuôi về phương
Nam, trên con đường mở cõi, trong mối quan hệ mật thiết với kinh đô Huế và giao lưu, tiếp
biến văn hóa Pháp - Việt đầu thế kỷ XX. Quá trình xây dựng trùng tu di tích này trước năm
1945 đều tuân thủ điển chế, nổi bật giá trị nghệ thuật trang trí thời Nguyễn. Tìm hiểu nghệ
thuật trang trí, chúng tôi mong muốn sẽ nghiên cứu, tiếp cận gia tộc Phạm Đăng như một
trường hợp danh gia vọng tộc Nam bộ điển hình. Đây là chìa khóa giải mã đời sống tư
tưởng của một giai đoạn lịch sử, gắn liền những khát vọng, giá trị chuẩn mực đương thời.
Đó là cơ sở để các nhà nghiên cứu văn hóa, quản lý, trùng tu di sản văn hóa nghiên cứu, lí
giải và phục hồi hệ thống hoa văn trang trí truyền thống trong những công trình kiến trúc
từ đường cổ xưa. Tiếp cận di sản nghệ thuật trang trí của công trình kiến trúc đặc biệt này
thông qua hệ thống hoa văn, các đồ án trang trí sẽ thiết thực góp phần giải quyết được vấn
đề quan trọng đó.
Abstract: Đức Quốc Công Từ (Royal Mausoleums hamlet, Long Hưng Commune,
Gò Công Town, Tiền Giang Province) is the relic complex consisting of HOUSE OF
WORSHIP, the tombs of the family of Pham Dang Hung, who was a mandarin of high rank
and also father of Empress Consort Nghi Thien Chuong (Empress dowager Tu Du – mother of
the emperor Tu Duc). The large-scale complex, along with Grand Duke‟s house of worship in
the imperial city of Hue, was elaborately built under the Nguyen dynasty‟s official regulations.
The construction of the complex began in 1826, with the participation of skillful
artisans from neighboring localities and from imperial palace of Hue. After that, it was restored
and upgraded in large scale under the reign of the emperor Tu Duc. The complex clearly
reflected royal regulations of construction of Nguyen Dynasty through its architecture style,
rules of construction, and decorative symbols. By the early 20th century, in the eras of the
emperor Thanh Thai, the emperor Khai Dinh and the emperor Bao Dai, it was again under
restoration, in which many features of Western plastic art were added, clearly showing the
cultural interaction and integration between France and Vietnam. Until now, people are used to
calling this complex Royal Mausoleums - an important part of the relics in Son Quy Mound,
which was recognized as National Heritage since 1992.
This construction is typical of Nguyen Dynasty‟s arts spreading toward the South
of Vietnam following the expansion of the country and reflective of the intimate
relationship with the Imperial City of Hue and of the interaction and integration of French
and Vietnamese cultures during the early 20th
century. Before 1945, the construction and
restoration process of this relic obeyed the royal regulations and marked the values of
decorative arts in Nguyen Dynasty. On studying decorative arts, we hope to research on
Pham Dang Family as a typical noble family in South Vietnam. This is the key to decode
the way of thinking of people in that historical period, which was closely connected with
30
the aspirations and norms at that time. This is the basis for researchers, managers, and
restorers of cultural heritage to study, explain, and restore system of traditional decorative
patterns in ancient architectural houses of worship. Approaching the decorative art‟
heritage of this special architectural complex through system of decorative patterns and
designs will practically contribute to solving this important issue.
* * *
Công tác nghiên cứu và Bảo tồn kiến trúc gỗ truyền thống Nhật Bản
so sánh với kiến trúc cung đình Huế
Mitsuhiko Nakamura
(Hiệp hội KTS và KS Toàn Nhật Bản)
Tóm tắt: Thành phố Kurayoshi ở giữa tỉnh Tottori, trung tâm chính trị, kinh tế và
văn hóa trong khu vực này; đặc biệt sau thời kỳ Edo (1603-1868). Cấu trúc thành phố bao
gồm: sông Tamagawa, đường Honmachi, đường Shinmachi. Trên trung tâm đường
Honmachi là các hoạt động thương mại sầm uất với các ngôi nhà thương gia như một
“Kura” (ngôi nhà với những bức tường phủ bùn, lợp ngói đỏ) dọc hai bên đường phố.
Nhiều nhà trong số đó là kiến trúc gỗ truyền thống 2 tầng vừa là nhà, vừa là cửa hàng được
xây dựng cuối thời kỳ Edo đến đầu thời kỳ Chiêu Hòa (1926-1989).
Hơn 4,7ha công trình kiến trúc gỗ truyền thống của thành phố Kurayoshi được xếp
hạng là một khu bảo tồn kiến trúc gỗ truyền thống của Nhật Bản vào năm 1998. Năm 2007,
sau khi kiểm kê lại để mở rộng khu bảo tồn thì 4,5ha phía đông của thành phố đã được bổ
sung vào khu bảo tồn kiến trúc gỗ truyền thống.
Trong nỗ lực bảo tồn các kiến trúc gỗ tại thành phố, các kiến trúc này đã được
chính phủ Nhật Bản ưu đãi rất nhiều về thuế như: thuế tài sản cố định, thuế quy hoạch
thành phố… Ngoài ra, những nỗ lự khác cũng được phối hợp để hỗ trợ như: “các cuộc họp
của các chuyên gia” trong đó bao gồm các kiến trúc sư, thợ mộc, thợ trát tường, thợ làm đồ
gỗ, công nhân cơ khí, thợ xây, thợ tatami… và các chuyên gia kỹ thuật bảo tồn.
Với sự tác động của con người như: thu hút du lịch, quy hoạch thành phố chưa phù
hợp cũng như ảnh hưởng của tự nhiên đã ảnh hưởng đến khu bảo tồn kiến trúc gỗ của
thành phố Kurayoshi. Đó thưc sự là khó khăn trong công tác bảo tồn và trùng tu khu di tích
này.
Abstract: Kurayoshi city in the middle of Tottori Prefecture, Japan had lied at the
center of the politics, the economics and the culture in this area, especially in the Edo
Period (1603-1868). The structure of the city consists of (1) the Tamagawa river city, (2)
the Honmachi street and (3) the Shinmachi street.The house built like a „kura‟ (a special
warehouse which protects valuable goods from a fire) with white walls stand side by side
parallel with the Tamagawa river. Many of these houses consist of the traditional wooden
31
architecture built from the end of the Edo Period (1603-1868) to the beginning of the
Showa Period (1926-1989).
4.7 hectare of the traditional wooden architectures of the Kurayoshi city was
classified as a preserved district of traditional wooden architecture by the Japanese state at
1998. 4.5 hectare which lies east of the district was added as a preserved district of
traditional wooden architecture in 2007 after the re-examination for the expanding of a
preserved district was started.
Various efforts are mounted as above, the traditional architectures in various efforts
are mounted to support "the meeting of experts" which consists of architects, carpenters,
plasterers, sheet-metal workers, masons, tatami mat workers and so on and to extend
experts of conservation technique. And, in Japan, there are many wood decays and many
termite damages of wooden architecture by a hot and humid climate similar to Vietnam.
These damages are notable in the humid north of building.
It is a rare and favorable instance in many cases that modernism architectures have
spoiled the sight of traditional architectures preservation district.
* * *
Di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn - một yếu tố cốt lõi khẳng định
vị thế Thừa Thiên Huế là trung tâm văn hóa du lịch đặc sắc của Việt Nam
TS Phan Tiến Dũng
(Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế)
Tóm tắt: Huế là một trong những đô thị quan trọng có bề dày lịch sử và văn hóa,
là đô thị phản ánh quá trình phát triển đỉnh cao của đất nước qua gần 4 thế kỷ kể từ năm
1636, đặc biệt là giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX với tư cách là Kinh
đô của đất nước Việt Nam thống nhất qua các triều đại Tây Sơn và triều Nguyễn. Di sản
văn hóa cung đình thời Nguyễn thể hiện sự kết tinh các giá trị văn hóa vật thể và phi vật
thể qua nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, lễ nghi, ẩm thực,... kết hợp với môi trường thiên
nhiên và con người xứ Huế, các giá trị trên là nền tảng quan trọng cho sự phát triển về
kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay. Bảo tồn và phát triển bền vững các giá
trị di sản văn hóa cung đình đã và đang khẳng định vị thế của tỉnh Thừa Thiên Huế xứng
tầm là một trung tâm văn hóa, du lịch đặc sắc của Việt Nam.
Abstract: Hue is one of the important cities with a rich history and culture. It is
also a place where the process of urban development had been in peak for nearly four
centuries since 1636, especially from the end of eighteenth century until the first half of the
twentieth century when this place became the capital of united Vietnam through the Tay
Son dynasty and Nguyen dynasties. The royal cultural heritage of Nguyen Dynasty is the
quintessence gathering the tangible and intangible cultural values through art, architecture,
32
music, rituals, cuisine, etc. combining with the natural environment and special features of
Hue people. Those values are the important foundation for economic and
social developments of Thua Thien Hue province today. Conserving and sustainably
developing imperial cultural heritage values have confirmed the position of Thua Thien
Hue province as a culture and tourist attracting center of Vietnam.
* * *
Cố đô Huế bên dòng sông Hương
GS Takeshi Nakagawa
Tóm tắt: Tham quan Huế từ tháng 7/1991, và gặp gỡ với đội ngũ nhân viên của
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đo Huế (HMCC) với tư cách là những nhà tư vấn về bảo tồn
và trùng tu của UNESCO , tôi đã có cơ hội chia sẻ ý kiến, hiểu biết và kinh nghiệm về
công tác bảo tồn các di tích lịch sử. Được mời phát biểu tại hội thảo quan trọng này, tôi xin
đề cập đến các điểm di tích đáng chú ý trong Quần thể Di tích Cố đô Huế mà tôi sẽ giới
thiệu ngắn gọn các kỹ thuật trùng tu di sản cẩn thận và khoa học.
Bài phát biểu của tôi gồm có 5 phần:
1. Hoàng Thành
2. Di tích di sản thế giới
3. Cuộc chia cắt Nam-Bắc
4. Các phong cách kiến trúc và Lịch sử
5. Bảo tồn các hiện vật văn hóa
Abstract: Visiting Hue since July 1991, and meeting with the staff of Hue
Monuments Conservation Centre (HMCC) as a UNESCO's consultants of heritage
preservation and restoration, I have had chances to share my intercultural opinion,
knowledge and experience on the preservation of historical monuments. Invited as a
speaker in this important conference, I would like to mention the remarkable sites in the
Complex of Hue Monuments, with which I may be able to introduce briefly the careful and
scientific heritage restoration techniques.
My speech will include the following 5 parts:
1. The Imperial Capital
2. A World Heritage Site
3. North-South Divide
4. Architectural Styles and History
5. Preserving Hue's Cultural Artifacts
* * *
33
Bảo tồn cảnh quan văn hóa ở lưu vực sông Hương
Nghiên cứu về hệ thống "sinh thái" của các lăng mộ hoàng gia triều Nguyễn và khu
vực phụ cận
Furukawa Naoaki (Viện Nghiên cứu Vùng và Đô thị, ĐH Waseda)
Tóm tắt: Tham luận này là một nghiên cứu thành công của một trong những tham
luận đã trình bày tại Đại hội lần thứ 11 APSA (Hiệp hội các trường quy hoạch châu Á) năm
2010 - "Trường hợp nghiên cứu bảo tồn và tái tạo hệ thống sinh thái khu vực lăng mộ
hoàng gia và vùng phụ cận tại lưu vực sông Hương, Huế, Việt Nam".
Một chuỗi các nghiên cứu, cùng với sự hỗ trợ ban đầu của các nhà quy hoạch địa
phương, chọn vùng phụ cận của lăng mộ hoàng gia triều Nguyễn tại Huế để thực hiện điều
tra hệ thống sinh thái đặc thù của khu vực Đông Á và nỗ lực đưa ra Hướng dẫn lý tưởng và
thực hiện nhằm bảo tồn và tái tạo cảnh quan văn hóa theo khuôn mẫu. Tuy nhiên, nghiên
cứu này sẽ cố gắng hướng vào nắm bắt yếu tố tự nhiên tổng thể của vùng, có nghĩa là, lấy
lăng mộ hoàng gia triều Nguyễn ở Huế-Di sản Thế giới của UNESCO và các ngọn núi
xung quanh, sông ngòi và đất nông nghiệp làm thành phần cộng sinh để bảo tồn và tái tạo
theo quan điểm nghiên cứu và tìm kiếm một viễn cảnh đảm bảo các giá trị thiết yếu của
môi trường lịch sử Huế. Cụ thể, ở phần đầu của bài trình bày, rõ ràng đề cập đến "Các ngọn
núi bao quanh" và "Khu vực dẫn nước" như các phần quy hoạch cơ bản của bảo tồn và tái
tạo đối với vùng phụ cận của lăng mộ, trong khi bài tham luận này nhằm mục đích bổ sung
một số điểm vào kế hoạch bảo tồn môi trường trong khu vực nhằm mang lại kết quả tối ưu
cho các ngôi làng phụ cận với việc duy trì ruộng lúa và các vấn đề hiện tại có liên quan,
hoặc thậm chí xâm phạm môi trường lịch sử, cần xem xét các điểm quy hoạch có thể xảy
ra, cụ thể tập trung nghiên cứu khu vực alwng Gia-Long vùng phụ cận - cụ thể là làng
Định Môn.
Thông qua hội thảo chuyên đề có sự tham gia của cộng đồng (Tháng 8/2015 tại xã
Hương Tho), dân làng địa phương và các nhà quy hoạch, nghiên cứu này trình bày tuyên
ngôn dự kiến của địa phương về 6 nội dung theo nhiều hướng phát triển ý tưởng chi tiết
của việc bảo tồn môi trường lịch sử và phát triển khu vực phụ cận. Mỗi một ý tưởng đều
được thảo luận áp dụng với các điều kiện thực tế tương ứng của khu vực phụ cận lăng Gia
Long về bảo tồn và tái tạo cảnh quan văn hóa độc đáo của vùng; nội dung của mỗi bản
tuyên ngôn tương ứng được viết bằng cách tham khảo ý kiến trước với đại diện dân làng
địa phương.
Tuyên ngôn 1) Di sản hoàng gia: "Cuộc sống cộng sinh với các di sản hoàng gia:
tôn trọng di sản của chúng tôi, duy trì cấu trúc hoàng gia và kết nối với lối sống và sản xuất
địa phương"; Tuyên ngôn 2) Thiên nhiên/ Hệ thống: "Hiểu được hệ thống sinh thái của
lăng Gia Long và duy trì cảnh quan lịch sử độc đáo"; Tuyên ngôn 3) Chất lượng cuộc sống
của làng:" Trở lại sự hài hòa cảnh quan với lăng tẩm, sông Hương và thiên nhiên"; Tuyên
ngôn 4) Các hoạt động mới trong làng: “Làm phong phú lối sống của làng bằng cách sử
dụng nguồn lực sẵn có trong khu vực"; Tuyên ngôn 5) Quảng bá: "Kết nối ngôi làng với
34
bên ngoài và quảng bá các giá trị địa phương"; Tuyên ngôn 6) Cộng đồng: "Chia sẻ ý kiến
của chúng tôi và tiếp tục sống với nhau trong sự hòa đồng, hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau".
Thông qua các cuộc thảo luận tại hội thảo chuyên đề có sự tham gia của cộng đồng,
các tuyên bố địa phương trên đây và nội dung đã được chia sẻ với đại diện địa phương.
Điều này thực sự cần thiết để thực hiện việc cải tiến, cần đề xuất và thưc hiện các chương
trình giáo dục về môi trường và kế hoạch hành động liên quan. Vì vậy, nghiên cứu này
mong muốn trình bày Hướng dẫn và thực hiện dành cho người dân địa phương về Quản lý
phát triển theo yêu cầu của UNESCO, vì tính đến thời điểm hiện nay chỉ thiết lập vùng
đệm mà không có hướng dẫn hay phương pháp thực hiện cụ thể nào, bởi ngay cả một công
trình lịch sử đơn lẻ cũng cần được nằm trong vùng đệm bảo vệ.
Những ý tưởng mới được trình bày trong nghiên cứu này sẽ hữu ích cho các cơ
quan có liên quan của địa phương về tìm kiếm phương pháp bảo tồn cảnh quan văn hóa
bằng việc canh tác của người dân địa phương để tự duy trì và cải thiện môi trường nhằm
giúp đơn giản hóa việc mở rộng vùng đệm trong khu vực.
Abstract: This presentation is a succeeding research of the one presented at APSA
(Asian Planning Schools Association)‟s 11th Congress in 2010 ―“A Case Study of
Conservation and Regeneration of the Regional Ecological System of Imperial Tombs and
the Peripheries in the Huong River Basin, Hue, Vietnam”.
The series of research, with local planners‟ first-hand assistance, takes the
peripheries of the successive Nguyen Imperial Tombs in Hue as precedents for
investigating the distinct ecological system of East Asia, and tries to urge Ideal Guideline
and its operation for what the Conservation and Regeneration should be under the
framework of cultural landscape. Nevertheless, this research tries to move a step forwards
by taking nature and region as a whole; i.e., taking the Nguyen Imperil Tombs of Hue―a
UNESCO World Heritage, and the surrounding mountains, rivers and farmland to be a
symbiotic composition in terms of Conservation and Regeneration as the research
viewpoint, and seeks for a perspective of securing essential values of Hue‟s historical
environment. Specifically, the prior papers, clearly, concerns to take “Unit of Enclosed
Mountains” and “Unit of Water Catchment Area” as basic planning units of Conservation
and Regeneration for the Tombs‟ peripheries, whereas this presentation aims to add the
point that the Conservation plans for regional environment must take the peripheral
villages‟ affects in terms of paddy field maintenance and the relevant contemporary issues,
or even infringes upon their historical environments into consideration as inevitable
planning features by focusing on the Gia-Long Tomb and the peripheral village- Dinh Mon
village in particular.
Going through the Community Participatory Seminar (2015 August) with local
villagers and planners, this research, thus, presents tentative local manifesto of 6 contents
with several detailed idea evolution for both historical environmental conservation and
peripheral regional development. Each and every respective idea was discussed applicable
for the actual condition of the Gia-Long Tomb‟s periphery on occasion with detailed
35
conditions of Conservation and Regeneration of its unique cultural landscape; the content
of each respective manifestoes were written by prior consultations with local villagers‟
representatives.
Manifesto 1) Royal Heritage: “Life in symbiosis with the royal heritage: respect our
legacy, maintain royal structures connect them with local lifestyle and production”,
Manifesto 2) Nature/ Systems: “Understand the eco-system of Gia Long Tomb and
maintain the unique historical landscape”, Manifesto 3) Physical quality of the Village:
“Get back the townscape harmonizing with the tombs, Huong River and nature.”,
Manifesto 4) New activities in the Village: “Enrich the lifestyle of the village by making
the most of resources we have in this area”, Manifesto 5) Diffusion: “Connect the village
to the outside and spread the local values”, Manifesto 6) Community: “Share our minds
and continue living together in harmony, cooperating and supporting each other”
Going through discussions with the Community Participatory Seminar, the local
manifestoes above and the contents were shared with local representatives. It is necessary
to take a future action for actualizing the improvement of and programs of environmental
education and associated action plans must be issues to be proposed and set up. This
research, consequently, seeks to present the historical architecture works a new set of
Guidelines and its operation with local villagers, for the Development Controls required by
UNESCO only set up the Buffer Zone without specific guidelines or methodologies at this
moment―by which a single-unit historical building be concentrically encircled in the
Buffer Zone.
The new ideas presented in this research would be crutially helpful for the local relevant
authority in terms of seeking the method the cultural landscape conservation by cultivating local
villagers for self-sustaining environmental improvement alternative to simple and institutional
Buffer Zone Extention.
* * *
Nghiên cứu bảo tồn di sản cảnh quan gắn liền với hệ thống kiến trúc cung đình Huế
TS Lê Công Sơn
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Thành phần, số lượng, chủng loại, chất lượng, và tình hình quản lý, chăm
sóc hệ thống cây xanh, cây cổ thụ ở các điểm di tích Huế.
Vai trò, thực trạng của hệ thống ao hồ trong kiến trúc truyền thống Huế và công tác
chăm sóc tu bổ. Việc sử dụng và công tác chăm sóc tu bổ hệ thống sông ngòi, ao hồ dưới thời
Nguyễn.
Sự khác biệt trong phối trí trang trí sân vườn ở từng khu vực di tích. Lịch sử hình
thành và tình trạng bố trí cây xanh trong vườn Thượng uyển của triều Nguyễn.
36
Công tác nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến cũng như áp dụng các thành tựu
khoa học kỹ thuật, xây dựng hệ thống đồng bộ các giải pháp có đầy đủ cơ sở khoa học và
pháp lý nhằm phục vụ cho việc bảo tồn, tôn tạo các giá trị di sản cảnh quan thuộc Quần thể
di tích cố đô Huế của đơn vị Phòng Cảnh quan Môi trường thuộc Trung tâm Bảo tồn Di
tích Cố đô Huế.
Abstract: Components, number, species, quantity and the state of management and
taking care of trees and ancient trees at Hue relics.
The role, the real state of the pond and lake system in Hue traditional architecture
and the task of taking care and repairing. Usage and the task of taking care of river, pond
and lake system under Nguyen dynasty.
The difference in garden decoration and arrangement at each relic area. History of
formation and the state of tree arrangement in royal garden of Nguyen dynasty.
Scientific research work, promoting initiatives as well as applying scientific and
technical achievements, building a synchronic system of solutions which fully have
scientific and legal basis with an aim to serve the preservation and restoration of
landscapes belonging to Hue Monuments Complex of Environmental Landscape
Department, Hue Monuments Conservation Center.
* * *
Bảo vật hoàng cung triều Nguyễn sưu tập tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
TS Nguyễn Văn Cường
(Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
Tóm tắt: Triều Nguyễn (1802 - 1945), triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam,
trải qua 143 năm tồn tại đã để lại cho hậu thế một khối di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Khối di sản này hội tụ, kết tinh và tỏa sáng những giá trị
văn hóa, nghệ thuật, trí tuệ và tâm hồn dân tộc.
Bảo tàng Lịch sử quốc gia hiện đang lưu giữ, bảo quản và phát huy bộ sưu tập bảo
vật vô giá của hoàng cung triều Nguyễn gồm khoảng 2.500 hiện vật vốn do các ngự xưởng
chế tác dành riêng cho các vua và hoàng tộc sử dụng.
1. Nguồn gốc, lai lịch của sưu tập
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, tại quảng trường Ngọ Môn trước Đại Nội Huế đã diễn
ra nghi thức trao ấn kiếm thoái vị của vua Bảo Đại cho phái đoàn đại diện của Chính phủ
Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là ông Trần Huy Liệu. Trước đó, vua
Bảo Đại đã thống nhất bàn giao toàn bộ tài sản của vương triều cho chính quyền Cách
mạng..
2. Loại hình và trang trí
2.1. Sưu tập hiện vật biểu trưng quyền lực
37
Biểu trưng cho quyền lực tối cao của các vua và vương triều Nguyễn là các loại ấn.
Ấn làm từ vàng, bạc gọi là kim bảo. Ấn làm bằng ngọc gọi là ngọc tỷ. Kim bảo ngọc tỷ
được coi là trọng khí của quốc gia, là vật bảo chứng cho sự hiện diện và xác nhận ý chí,
mệnh lệnh của các hoàng đế gồm các loại:
- Kim bảo Quốc gia tín bảo, kim bảo Chế cáo chi bảo, kim bảo Sắc mệnh chi bảo,
kim bảo Hoàng đế tôn thân chi bảo, kim bảo Trị lịch minh thời chi bảo, Đại Nam hiệp kỷ
lịch chi bảo, Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo, kim bảo Thủ tín thiên hạ văn
vũ quyền hành.
- Ngọc tỷ Hoàng đế chi tỷ, Ngọc tỷ Đại Nam Thiên tử chi tỷ, Ngọc tỷ Đại Nam thụ
thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ,
Ngoài kim bảo ngọc tỷ, sưu tập còn giữ được 8 bảo kiếm cũng là vật biểu trưng
quyền lực của các hoàng đế triều Nguyễn.
2.2. Sưu tập kim sách
Kim sách là một loại thư tịch cổ đặc biệt, dùng để ghi lại sắc mệnh, chiếu dụ vua
ban về các việc chính sự, lễ nghi triều đình. Đó là sự kiện các hoàng đế lên ngôi, lập hoàng
thái tử, tấn phong hoàng hậu, vương phi hoặc ghi công, phong tước và dâng, ban tôn hiệu,
thụy hiệu cho hoàng thân, quốc thích... Sưu tập kim sách gồm 94 quyển, hầu hết được làm
bằng vàng hoặc bạc mạ vàng, chỉ có duy nhất một quyển bằng bạc.
2.3. Sưu tập mũ miện, đồ trang sức
Mũ miện của các vua triều Nguyễn trong sưu tập có bốn chiếc phục dựng, gồm một
mũ bình thiên được vua đội vào dịp tế Trời - Đất hàng năm ở đàn Nam Giao và ba mũ
xung thiên được vua sử dụng thường xuyên hơn, trong các dịp thết đại triều, thường triều
hay những khi thực hiện các nghi lễ khánh tiết của triều đình hoặc tiếp sứ giả…
Đồ trang sức trong bộ sưu tập đều thuộc loại quý hiếm, sang trọng và hoàn mỹ do
trình độ kỹ thuật, nghệ thuật chế tác đạt tới đỉnh cao và được làm bằng nhiều loại chất liệu
quý như vàng, bạc, ngọc, ngà voi, đồi mồi, đá quý...
2.4. Sưu tập đồ thờ cúng và nghi lễ
Trong bộ sưu tập bảo vật hoàng cung triều Nguyễn, sưu tập đồ thờ cúng và nghi lễ
không những phong phú về loại hình mà còn có số lượng hiện vật chiếm tỉ lệ lớn. Điều này
cũng dễ hiểu vì chúng ta thấy các vua triều Nguyễn rất trọng chữ Hiếu, Kính, Lễ, Nghĩa, đã
cho xây dựng hàng loạt các công trình lễ nghi, thờ phụng như đàn Nam Giao, điện Phụng
Tiên, Thái Miếu, Thế Miếu, Hưng Miếu... Ngoài những ngày cúng lễ theo định lệ thì mỗi
khi có việc trọng đại liên quan đến chính sự triều đình đều tổ chức các nghi lễ cáo yết tổ
tiên rất trang trọng ở tất cả các điện thờ, miếu thờ.
2.5. Sưu tập văn phòng tứ bảo:
Các vật dụng thuộc bộ văn phòng tứ bảo đã từng sử dụng trong hoàng cung triều
Nguyễn do Ngự xưởng chế tác với kĩ thuật rất tinh xảo và bằng các chất liệu hiếm quý như
vàng, bạc, ngọc, ngà… Loại hình rất đa dạng với bút, nghiên, thủy chú9, hộp son, gác bút,
ống bút, chặn giấy...
2.6. Sưu tập tiền:
38
Sưu tập tiền trong bộ sưu tập bảo vật hoàng cung triều Nguyễn chủ yếu là tiền
thưởng (tiền mỹ hiệu) thuộc các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng
Khánh, Thành Thái, Khải Định, Bảo Đại. Gồm có các loại sau:
- Thoi (nén) đúc bằng bạc.
- Tiền đồng hình tròn, lỗ vuông đúc bằng vàng, bạc và đồng.
- Tiền đồng hình tròn không lỗ, bằng vàng, bạc và bạc mạ vàng.
2.7. Sưu tập đồ dùng sinh hoạt
Sưu tập đồ dùng sinh hoạt có số lượng lớn nhất trong bộ sưu tập bảo vật cung đình
triều Nguyễn. Loại hình cũng vô cùng đa dạng: bát, đĩa, muôi, thìa, đũa, quán tẩy, lồng ấp
(vật đựng than đốt sưởi ấm), các bộ đồ trà (ấm, chén), thuốc, trầu cau (bình vôi, ống nhổ,
khay trầu, hộp trầu, bộ cối thìa ngoáy trầu...). Chất liệu chế tác sưu tập này cũng đa dạng
nhất, gần như hiện diện đầy đủ mọi chất liệu như: vàng, ngọc, vàng cẩn đá quý; những bộ
đồ trà bằng ngọc bịt vàng.
3. Công tác quản lý, lưu giữ, bảo quản và phát huy giá trị sưu tập
Ngay sau khi tiếp nhận bộ sưu tập, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia hiện nay đã khẩn
trương, đều đặn triển khai công tác quản lý, lưu giữ, bảo quản và phát huy giá trị sưu tập.
Đó là công tác kiểm kê, phân loại, đánh số, sắp xếp địa hình đã thực hiện xong. Cơ sở vật
chất, trang thiết bị đảm bảo an ninh an toàn cũng như kiểm soát môi trường nhằm bảo quản
lâu dài cũng liên tục được đầu tư, cải tạo, nâng cấp cho xứng tầm với giá trị đặc biệt của bộ
sưu tập.
Nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu và thưởng lãm bộ sưu tập của
công chúng, công tác trưng bày, xuất bản nhằm phát huy giá trị bộ sưu tập cũng được Bảo
tàng chú trọng.
Trong tương lai, Bảo tàng Lịch sử quốc gia sẽ đẩy mạnh hơn nữa các công tác quản
lý, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, xuất bản, đặc biết chú trọng phối hợp đa ngành, đa cơ
quan nhằm gìn giữ lâu dài và khai thác, phát huy hiệu quả hơn nữa những giá trị đặc biệt
của bộ sưu tập tới công chúng.
Abstract: Nguyen dynasty (1802-1945), the last feudalistic reign in Vietnam,
during 143 years of existence, both of tangible and intangible cultural heritages are left for
the posterity.
Nguyen dynasty‟s valuable precious objects (about 2.500 objects) produced for
emperors and royal families, are preserved, maintained and enhanced by Museum of
National History today.
1.The origin of the collection
On August 30th
, 1945, at Ngo Mon Square in front of Hue Citadel, an abdication
ceremony for the emperor Bao Dai was held and the representative of Provisional
Revolutionary Government of Democratic Republic of Vietnam, Mr Tran Huy Lieu,
received the emperor Bao Dai‟s seal and sword.
2.Form and decoration
2.1.Collection of objects symbolizing for the power
39
Symbols for the highest power of emperors and Nguyen dynasty are kinds of seals.
They are made of gold and silver. Seal made of pearl is called Emperor‟s seal (ngọc tỷ). It
is considered the nation‟s power or the emperor‟s will and order. There are some kinds of
seals:
- Quốc gia tín bảo, Chế cáo chi bảo, Sắc mệnh chi bảo, Hoàng đế tôn thân chi bảo,
Trị lịch minh thời chi bảo, Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo, Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh
trấn chi bảo, Thủ tín thiên hạ văn vũ quyền hành.
- Hoàng đế chi tỷ, Đại Nam Thiên tử chi tỷ, Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ
Besides, there are also 8 precious swords symbolizing for Nguyen emperors‟ power
and influence.
2.2.Collection of golden books
This special ancient document is used for writing emperors‟ royal decrees, imperial
edicts about political affairs and royal rituals. They are events of enthronement, crown
prince enthronement, conferring a title, offering the imperial titles, queen consecration,
etc…The collection consists of 94 books made of gold, gold-gilded silver and only one
book made of silver.
2.3.Collection of crowns, jewelry
Nguyen emperors‟ crowns consist of 4, such as bình thiên crown is used in God-
Earth sacrifice ceremony at Nam Giao Esplanade every year, 3 ones of xung thien are used
more frequently on ceremonies of Great and Regular Audiences, festivals, etc…
Jewelry in the collection is valued rare, luxurious, and perfectly beautiful. They are
made of gold, silver, elephants‟ tusks, pearl, tortoise-shell, etc…with high level of
technology.
2.4. Collection of offerings and rituals
The collection of offerings in Nguyen‟s times is various and abundant because
Nguyen emperors attached much importance to Piousness, Respect, Civility,
Righteousness. That‟s the reason why Nam Giao Esplanade, Phung Tien Temple, Thai To
Temple, The To Temple, Hung To Temple, etc…were constructed.
2.5.Collection of Four Precious Objects (Tứ bảo) for office:
They were used in Nguyen court and made of rare materials such as gold, silver,
pearl, tusk, etc. There are pen, ink stone, ink slab, paperweight, etc…
2.6.Collection of money
The collection of money in Nguyen dynasty belongs to money in the emperors: Gia
Long, Minh Mang, Thieu Tri, Tu Duc, Dong Khanh, Thanh Thai, Khai Dinh and Bao
Dai‟s reigns. There are some types as follows:
- Silver bar
- Coin with square hole cast by gold, silver and bronze
- Coin in circle shape without hole made of gold, silver or gold-gilded silver
2.7.Collection of objects used in daily activities
This is the biggest collection of various types such as: bowl, plate, spoon,
chopsticks, set of teacups, etc…They are made of gold, pearl, gemstone-inlaid gold.
40
3.Value Management, Preservation, Maintenance and Enhancement of
collections
After taking over the collections, Museum of National History is immediately ready
to exploit the business of value management, preservation, maintenance and enhancement
of the collections such as inventory, classification and numbering activities. Material
facilities and equipments are chosen to ensure the safe security and environmental control
in order to invest, restore and maintain the collections.
The museum is also paid much attention to the enhancement of the collections for
the need of researching and enjoying of the public.
In the future, Museum of National History will promote the business of
management, maintenance, research, display, and publishing and cooperate with other
different offices and departments in order to exploit and conserve the collections‟ values at
the same time.
* * *
Cổ vật cung đình triều Nguyễn ở nước ngoài
TS Trần Đức Anh Sơn
(Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng)
Tóm tắt: Hiện nay, trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân ở nước ngoài đang trưng
bày và lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị của triều Nguyễn. Những cổ vật này được đưa ra
nước ngoài theo nhiều cách khác nhau: người nước ngoài xâm lăng Việt Nam đã cướp đoạt
những bảo vật của triều Nguyễn trong hoàng cung Huế để mang về nước họ; những binh
lính của quân đội nước ngoài từng tham chiến ở Việt Nam cũng “nhặt nhạnh” nhiều cổ vật
mang về nước để làm vật kỷ niệm của một thời chinh chiến ở Việt Nam; những nhà sưu
tầm nước ngoài đã sưu tầm cổ vật cung đình triều Nguyễn và đưa về nước họ; những người
Việt Nam ra định cư ở nước ngoài đã mang cổ vật đi theo; và nạn buôn bán cổ vật trái
phép.
Tham luận này giới thiệu những cổ vật có giá trị của triều Nguyễn trước đây, nay
đang được trưng bày và lưu giữ tại nhiều bảo tàng và sưu tập tư nhân ở các nước châu Âu,
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc…
Những cổ vật này được phân thành 4 nhóm: Cổ vật làm bằng vàng bạc, châu báu;
Cổ vật là đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn; Cổ vật là pháp lam Huế; và Những cổ vật có giá trị
thuộc các chất liệu khác.
Tham luận đã tập trung giới thiệu những cổ vật tiêu biểu, có giá trị về lịch sử - văn
hóa - mỹ thuật thuộc các bảo tàng lớn và các sưu tập tư nhân danh giá ở nước ngoài. Đặc
41
biệt là những cổ vật quý hiếm được rao bán bởi các hãng đấu giá hàng đầu thế giới và các
trang web chuyên kinh doanh cổ vật trên internet.
Tham luận cũng lý giải nguyên nhân vì sao những cổ vật quý hiếm của triều
Nguyễn ở nước ngoài khó có cơ hội “hồi hương”, đồng thời kiến nghị một số giải pháp
nhằm hạn chế nạn chảy máu cổ vật và tạo điều kiện cho cổ vật triều Nguyễn nói riêng, cổ
vật Việt Nam nói chung, được hồi hương ngày một nhiều hơn trong tương lai.
Abstract: Many valuable antiquities of Nguyen dynasty are now being kept and
exhibited at oversea museums and private collectors. These antiquities are brought oversea
by many different ways: the foreigners who invaded Vietnam usurped precious objects of
Nguyen dynasty in Hue Imperial City and bring them to their home country; the soldiers of
foreign military force who used to join the war in Vietnam also brought some antiquities to
their home as souvenirs; foreign collectors collected them and brought to their home;
Vietnamese people who settled abroad also brought with them the antiquities; and illegal
merchandize problem.
This speech would like to introduce previous valuable antiquities of Nguyen
dynasty which are now being kept and exhibited at museums and private collectors at
European countries, Japan, USA, Australia…
These antiquities are divided into 4 groups: antiquities made of gold and silver,
jewelry; antiquities are ordered porcelain of Nguyen dynasty; Hue enameled antiquities,
and valuable antiquities of other materials.
The speech concentrates on introducing typical antiquities which have historical-
cultural-fine arts values belonging to big museums and famous private collections oversea.
Especially, the rare antiquities are on sale by top auction sale of the world and by websites
trading antiquities on Internet.
The speech also explains the reason why rare antiquities of Nguyen dynasty
oversea meet difficulties in “returning home”, simultaneously recommends some solutions
to limit the drain of antiquities and create condition for more antiquities of Nguyen dynasty
in particular and of Vietnam in general to return their home in the future.
* * *
Sự truyền bá tư tưởng Nho giáo trên tiền tệ, một sáng tạo của vua Minh Mệnh
Nhà nghiên cứu Nguyễn Anh Huy
Tóm tắt: Trong lịch sử tiền tệ Việt Nam, trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần,
Mạc, Lê, Tây Sơn, đều đúc các loại tiền thông dụng: mặt trước thường mang niên hiệu của
42
vua đương thời, mặt lưng thường trơn, nếu có trang trí thì thường hình rồng hoặc năm đúc
theo can chi, hoặc mệnh giá…, chỉ là các văn tự đơn giản.
Đến triều Nguyễn, từ thời Minh Mệnh trở đi, đã cho đúc nhiều loại tiền (vàng, bạc,
đồng) mặt lưng có chữ với những mỹ tự vô cùng phong phú, ý nghĩa cô đọng, như:
“Nguyên hanh lợi trinh” (Vận may hanh thông đến với người quân tử), “Thiên hạ đại
đồng” (Mong xã hội trở thành thế giới thái bình), “Thân thân, trưởng trưởng, lão lão, ấu
ấu” (Cha mẹ cho ra cha mẹ, người trên ra người trên, người già ra người già, trẻ ra trẻ),…
Tìm hiểu và sưu tập lại các đồng tiền trên, ta thấy đây là một loại văn bản trực tiếp ghi
những tư tưởng Nho giáo của các vị vua triều Nguyễn mà người khởi đầu sáng tạo là vua
Minh Mạng.
Do các đồng tiền này luôn được xem là linh vật cát tường và được các đại gia săn
lùng sưu tập làm của quý nên vấn nạn làm giả các đồng tiền này đã xuất hiện từ thời còn
Pháp thuộc. Vì vậy ngày nay, muốn phân biệt tiền thật hay giả cần phải có kinh nghiệm,
từng trải và nghiên cứu sâu.
Abstract: In Vietnamese monetary history, under Dinh, Le, Ly, Tran, Mac, Le,
Tay Son dynasties, popular kinds of money were cast: the front was the name of the reign‟s
year of contemporary emperor, the back was often plain, if there were any decoration, they
would be dragon shape or the year cast in can chi (the signs of the Heavenly Stems and of
the Earthly Branches of ancient cosmology), or denomination,….only in simple characters.
Under Nguyen dynasty, from the emperor Minh Mang‟s times, different kinds of
money were cast (gold, silver, bronze) with the back in beautiful words and concise
meanings: easy luck would come with gentlemen, wishing a peaceful
world….Understanding and collecting these above kinds of money, we realize that this is a
type of text directly record Confucianism thoughts of Nguyen emperors with creator is the
emperor Minh Mang.
Due to the fact that these coins are always regarded as good omens and chased by
rich men to collect them as their valuables, the bad issue of imitating them appeared since
French domination. Therefore, nowadays it is necessary to have experience and deep
research on them to distinguish whether they are true or false.
* * *
Phục chế trang phục và từ khí cung đình triều Nguyễn
Nhà nghiên cứu Trịnh Bách
Tóm tắt: Ngày nay, đã hơn 70 năm kể từ ngày triều Nguyễn sụp đổ, vấn đề nghiên
cứu và phục chế trang phục và từ khí cung đình của triều đại này có ý nghĩa quan trọng
góp phần khôi phục các giá trị văn hóa thời Nguyễn.
43
Về mặt phục chế trang phục cung đình triều Nguyễn, đó là tổng hợp của việc
nghiên cứu các thư tịch cổ, sưu tầm các hiện vật còn lưu lại trong dân gian, nghiên cứu về
kỹ thuật dệt may, thêu, nhuộm màu… kết hợp với tìm và mời các nghệ nhân là hậu duệ của
những người làm quan trong lĩnh vực này dưới thời Nguyễn tham gia vào chương trình
phục chế. Qua quá trình đó, chúng tôi đã phục chế thành công các loại vải: trừu, đoạn, sa,
the, nhiễu cát, lụa… Các loại lễ phục của Hoàng gia được phục chế là Gia lĩnh gồm: áo
cổn; Bàn lĩnh: áo bào, tấc, bì bào (áo dài) và Trực lĩnh gồm: áo nhật bình của mệnh phụ.
Về mặt phục chế các từ khí cung đình Nguyễn, tháng 4 năm 2003, Trung tâm Bảo
tồn Di tích Cố đô Huế đề nghị tôi đảm nhận việc phục chế đồ từ khí gian thờ vua Gia Long
trong Thế Tổ Miếu. Qua quá trình nghiên cứu, tìm nghệ nhân, chúng tôi đã phục chế thành
công 25 chủng loại với 62 hiện vật bao gồm các tấm y môn bằng đoạn thêu long vân, mành
tre vẽ rồng ngũ sắc, thống sứ, chân đèn gỗ sơn son thếp vàng, hộp trầu thuốc bằng bạc
chạm rồng, bộ đồ sứ trà rượu…
Song song với công tác phục chế, chúng tôi còn coi trọng việc lưu giữ kỹ thuật và
phương thức phục chế, đào tạo lực lượng nghệ nhân kế cận trong tương lai. Chúng tôi chủ
động chọn các em thiếu niên trong các gia đình có truyền thống tập trung lại nhờ các cụ
nghệ nhân truyền nghề. Trong thời gian học nghề, các em vẫn được hưởng lương như thợ
chính để khuyến khích tinh thần học tập của các em. Hy vọng với chút công sức nhỏ nhoi
của mình sẽ góp phần tích cực trong vấn đề bảo tồn và phục chế hiện vật thời Nguyễn
trong tương lai.
Abstract: Over 70 years from the fall of Nguyen dynasty, researching and
restoring royal clothes and sacrifice objects of this dynasty play an important and
significant role in contributing to the restoration of Nguyen cultural values.
In terms of the restoration of Nguyen dynasty‟s royal clothes, the combination of
researching ancient materials, collecting the objects in community, researching the
technology of textile and dying…, inviting lots of craftsmen and descendants of some
mandarins working in this field under Nguyen dynasty appear in this restoration program.
From that, we get many achievements in the restoration of different types of cloth: trừu,
đoạn, sa, the, nhiễu, cát,…Some royal clothes are restored such as Gia lĩnh: áo cổn; Bàn
lĩnh: áo bào, tấc, bì bào (long dress) và Trực lĩnh: nhật bình.
In terms of the restoration of royal sacrifice objects of Nguyen dynasty, in April
2003, Hue Monuments Conservation Center had a suggestion to restore the sacrifice
objects at the emperor Gia Long‟s worshipping apartment in The To Temple. After
researching the materials and looking for the artisans, we successfully restored 25 types of
62 objects consisting of dragon and cloud - embroidered pieces of cloth, five-colored
dragon bamboo blinds, large porcelain vase, gilded wooden sconce, set of porcelain for tea
and wine drinking…
Together with the restoration, we also attach much importance to the restoration
technology and method, and training the future force of artisans. We actively collect
youths in traditional families to learn the method from the artisans. They also have salary
44
in order to motivate their learning spirit. We hope that they will contribute their efforts in
conservation and restoration of Nguyen dynasty‟s objects in the future.
* * *
Bàn về nguồn gốc Nhã nhạc Huế
ThS Phan Thuận Thảo
(Học viện Âm nhạc Huế)
Tóm tắt: Lịch sử, nguồn gốc của thuật ngữ Nhã nhạc.
Về thuật ngữ Nhã nhạc Huế: Nhã nhạc Việt Nam còn được bảo tồn ở Cố đô Huế,
thực chất là Nhã nhạc của triều đại Phong kiến cuối cùng của Việt Nam- triều nhà Nguyễn,
cho nên được gọi là Nhã nhạc Huế.
Nguồn gốc của Nhã nhạc Huế từ những ngày đầu thành lập.
Các yếu tố nguồn gốc đã ảnh hưởng đến nội dung của Nhã nhạc Huế:
Nguồn gốc từ Nhã nhạc Trung Quốc, chủ yếu từ hai triều đại Minh, Thanh, ảnh
hưởng về tư tưởng, quan niệm, các dàn nhạc, nhạc cụ, thể loại Nhạc chương,…. Ở mỗi nền
văn hóa, trong mỗi hoàn cảnh lịch sử khác nhau, Nhã nhạc có những biến đổi nhất định về
nội dung để phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, song những nét cơ bản vẫn được duy trì.
Nhạc nhạc Huế kế thừa truyền thống âm nhạc cung đình từ các thời đại trước như
nhạc cụ Bát âm thời Lê, dàn Đại nhạc và Tiểu nhạc thời Trần…
Nguồn gốc bản địa, từ thời kỳ các chúa Nguyễn đặt Thủ phủ ở huế, đã tạo nên một
nền nhạc cung đình và dân gian khá phong phú tạo nên một phong cách âm nhạc riêng của
Huế, đó chính là nền tảng cho sự phát triển của Nhã nhạc Huế sau này.
Như vậy, Nhã nhạc Huế vừa mang tính bản địa, lại vừa thể hiện mối liên hệ về
nguồn gốc với Nhã nhạc Trung Quốc và với âm nhạc cung đình các triều đại trước ở Việt
Nam.
Abstract: History, origin and the term Nha Nhac
Concerning the term Nha Nhac: Vietnamese Nha Nhac which is still preserved in
Hue capital city is actually court music of the last feudal dynasty of Vietnam, that is
Nguyen dynasty, therefore, it is called Hue Nha Nhac (Hue Court Music).
Origin of Hue court music from the first days of formation
Factors of origin have affected the content of Hue court music:
The origin from Chinese court music, mainly of Ming and Qing dynasties, affects
on thoughts, conception, orchestra, musical instruments, types of song texts,…In each
culture, in different historical situations, Nha Nhac has some certain changes in its content
in accordance with concrete circumstance, but its basic characteristics are still maintained.
Inheriting the tradition of court music from previous dynasties such as Bát âm
musical instrument of Le dynasty, great and small music orchestras of Tran dynasty…
45
Native origin from the time when Nguyen Lords set metropolis in Hue created an
abundant court and folk music, which formed a private musical style of Hue, that is the
basic foundation for the later development of Hue court music.
Thus, Hue court music either bears native characteristics and expresses the relationship in
origin with Chinese court music and those of previous dynasties in Vietnam.
* * *
Từ vai trò của lễ nhạc triều Nguyễn đến công cuộc bảo tồn
và phát huy giá trị trong bối cảnh hiện nay
ThS Nguyễn Phước Hải Trung
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Lễ nhạc (hay còn gọi là Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Việt Nam) dưới
triều Nguyễn là sự kế thừa nền quốc nhạc trong lịch sử dân tộc và phát triển đỉnh cao. Lễ
nhạc được xem là điển chế của nhà nước, có vai trò như là công cụ để điều hành xã hội. Lễ
nhạc ở đây không chỉ là âm điệu, tiết tấu, mà còn bao hàm cả lời ca và điệu vũ cùng các
hình thức trình tấu, diễn xướng được định chế rất quy củ. Do vậy, việc bảo tồn và phát huy
loại hình di sản đặc biệt này trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi các nhà nghiên cứu và quản lý
phải có những cách làm phù hợp, đáp ứng được nhiều yêu cầu mà thực tiễn đặt ra.
Tham luận phân tích vai trò của Lễ nhạc trong lịch sử của tư tưởng Nho giáo đến
thực tế lễ nhạc dưới thời Nguyễn, đặc biệt là vai trò của lễ nhạc được “đánh dấu” bằng
ngôn ngữ thơ khắc chạm trên cung điện. Từ đó, tham luận đã khẳng định triều Nguyễn hết
sức đề cao vai trò của lễ nhạc, đó cũng là một phần biểu hiện của văn hiến quốc gia Đại
Nam thời bấy giờ.
Song kể từ khi triều Nguyễn cáo chung, các hình thức lễ nhạc gắn liền với triều
đình xưa hầu như đã mất vai trò của nó. Do vậy, việc bảo tồn lễ nhạc nói riêng và các giá
trị văn hóa phi vật thể nói chung cần phải có những cách làm phù hợp với tính chất của di
sản. Tham luận tập trung phân tích các nội dung chính trong bảo tồn và phát huy lễ nhạc
như việc phục hồi các bài bản; phục hồi nhạc cụ, phục; bảo tồn không gian diễn xướng;
công tác truyền thông, giáo dục cộng đồng.
Nhìn chung, bảo tồn lễ nhạc nói chung trong bối cảnh hiện nay đã đặt ra nhiều vấn
đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, đòi hỏi các nhà quản lý phải có những
cách thực hiện biện chứng trên cơ sở đáp ứng được nhiều mục tiêu chung.
Abstract: Ritual music (called Nha nhac – Vietnamese court music) in Nguyen
dynasty is the inheritance of national music in national history and development of
pinnacle. It is considered the state‟s official regulation under the role of a tool of social
management. It consists of not only the melody, rhythm but also the singing, dance and
types of performances. Therefore, in this context, the conservation and restoration of this
46
special heritage require that the researchers and managers should have suitable solutions to
meet the reality‟s demands.
The report analyzes the role of Ritual music in the Confucianism thoughts and its
reality in Nguyen dynasty, especially its role “marked” by carved verse language on
palaces. From that, the report confirms Nguyen dynasty gave prominence to the role of
Ritual music, an expression of Dai Nam‟s national culture at that time.
After the end of Nguyen dynasty, types of ritual music of ancient court almost lost
its role. So, the conservation of ritual music in particular and intangible cultural values in
general needs to have suitable methods with the heritage characteristics. The report
concentrates on analyzing the main contents in the conservation and enhancement of ritual
music such as restoring the songs; restoring the musical instruments; conserving the
performance space; business of communications and public education.
In general, in this context, a lot of matters in the conservation of ritual music of
both logical and practical significances require the managers to have dialectical ways on
the basis of satisfying many general targets.
* * *
Phục hồi Biên Chung và Biên Khánh của Việt Nam
Nghệ nhân Kim Hyunkon
(Kho báu Văn hóa Phi vật thể Hàn Quóc)
Tóm tăt: Tôi đã tham gia dự án phục chế bộ Biên Chung và Biên khánh gồm 12
chuông đồng và 12 khánh đá của Việt Nam với tư cách là một nghệ nhân, thông qua
chương trình hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc (Trung tâm Nghệ thuật biểu diễn truyền
thống quốc gia Hàn Quốc). Dự án được thực hiện nhằm bảo tồn Nhã Nhạc Việt Nam, dự
định sẽ được biểu diễn trong dàn nhạc cụ Bát Âm. Dự án bao gồm phục hồi một bác chung
và một đặc khánh. Tôi có thể hoàn thành dự án cùng với sự hiểu biết và kinh nghiệm khi
đã chế tác biên chung, biên khánh ở Hàn Quốc.
Biên chung và biên khánh của Việt Nam và Hàn Quốc có hình dáng khác nhau.Tuy
nhiên, một bộ gồm 12 khánh đá có âm vực khác nhau, đều có cùng kích thước. Điều này
cũng giống với 12 chiếc chuông đồng. Độ dày của những chiếc chuông tăng lên khi âm
vực tăng. Điều đó có nghĩa rằng họ chia sẻ một quy tắc để chế tác những chiếc chuông và
khánh đá để có âm thanh cao độ khác nhau trong cùng một kích thước.
Theo đợt điều tra năm 2010 cho thấy những chiếc chuông và khánh còn lại ở Huế đã
bị hư hại. Vì thế, những chiếc chuông và khánh đã được phục chế không dựa vào những
chiếc chuông và khánh đá cũ, nhưng dựa vào cao độ của âm nhạc của Nhã Nhạc. Những
nhà nghiên cứu đã đưa tôi cao độ của Hoàng Chung ( Huang Zhong), cái đầu tiên trong hệ
thống 12 cao độ. Cao độ của nó là 460.75 hz, thấp hơn một chút so với Bb với tiết tấu vừa
47
phải. 11 cao độ còn lại được quyết định bởi các dòng âm vực bằng cách thêm vào và trừ đi
bởi phương pháp 1/3. Đối với nguyên vật liệu, sau khi đã phân tích một vài mẫu vật của
Biên chung và Biên khánh, những cái chuông và khánh mới đã được làm bởi các nguyên
vật liệu tương tự. Vào cuối năm 2012, sau khi làm việc với các nhạc sĩ, tôi đã sửa đổi các
cao độ dựa theo phong cách Việt Nam.
Trong bài thuyết trình này, tôi sẽ giới thiệu một số kinh nghiệm của mình trong việc
thực hiện dự án với tư cách là một nghệ nhân. Sau đó, tôi sẽ giới thiệu về kĩ thuật phục chế
các chuông và khánh đá có cao độ khác nhau trong cùng kích thước.
Abstract: I participated a restoration project of a set of 12 bronze bells (bianzhong)
and that of 12 stone chimes (bianqing) of Vietnam as an artisan, in collaboration between
Vietnam and Korea (National Center for Korean Traditional Performing Arts or National
Gugak Center). The project was conducted to preserve Vietnamese Nha nhac, which was
supposed to be played by the musical instrument of Bat am (Eight timbres). The project
included the restoration of the single bronze bell (bac chung) and the single stone chime
(dac khanh). I could complete the project with my knowledge and experience in making
Korean bronze bells and stone chimes.
The shape of bronze bells and stone chimes of Korea and Vietnam is different.
However, the 12 stone chimes of different pitches from one set have the same size in both
Korea and Vietnam. The same is true for the 12 bronze bells. The thickness of the bells
increase as the pitches raise. It means that they share one rule to produce bells and stones
to sound different pitches in the same size.
The investigation in 2010 showed the bells and chimes remained in Hue were
damaged. Therefore, the bells and chimes had to be made based not on the old bells and
chimes, but on the pitch of the music of Nha Nhac, The researchers gave me the pitch of
Huang Zhong, the first one of the 12 pitch system. It was 460.75 hz, a bit lower than Bb in
equal temperament. Other 11 pitches were decided by the generation of pitches by the
adding and subtracting by 1/3 method. As for the material, after analyzing a few pieces of
bronze bells and stone chimes, the new ones were made by the same material composition.
Later in 2012, I modified the pitches according to Vietnamese style, working together with
the musicians.
In this presentation, I will talk about my experience in conducting the project as an
artisan. Then, I will talk about the technique to make bells and stones produce different
pitches in the same size.
* * *
48
Bảo tồn, phát huy Nhã nhạc cung đình Huế - thực tiễn và những vấn đề đặt ra
PGS.TS.NGƯT Lê Văn Toàn
(Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam)
Tóm tắt: Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam đã vinh dự được UNESCO ghi
danh là Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại vào ngày mồng 7 tháng
11 năm 2003.
Nói tới Nhã nhạc, chúng ta dễ dàng tìm thấy truyền thống dân tộc từ ngàn xưa được
truyền nối, sáng tạo, tiếp biến, tạo nên những tinh hoa nghệ thuật được “định hình” với
những nhạc chương, nhạc mục.
Âm nhạc cung đình đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và đã để lại nhiều dấu ấn
quan trọng từ thời kỳ cổ đại, thời nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn và đến bây giờ
thực sự được phát triển, nâng cao tạo những bước ngoặt mới cho sự phát triển của nghệ
thuật chuyên nghiệp cổ truyền Việt Nam ở thời nhà Nguyễn. Những đặc trưng, đặc sắc của
nghệ thuật biểu diễn cung đình phản ánh rõ thẩm mỹ và truyền thống âm nhạc được tinh
lọc, truyền nối qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc.
Âm nhạc cung đình Huế có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nghệ thuật
Bài Chòi, Đờn ca tài tử, Cải lương Nam Bộ và đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm,
luận bàn qua các góc nhìn lịch sử, văn hóa hay nghệ thuật học.
Nhã nhạc cũng như nhiều loại hình nghệ thuật cung đình khác đã trở thành đối
tượng nghiên cứu khoa học từ cấp cơ sở, đến cấp Bộ, cấp Nhà nước trong những năm gần
đây.
Từ khi Nhã nhạc được tôn vinh, công tác đào tạo cán bộ bảo tồn di sản cũng được
Trung tâm BTDTCĐ Huế quan tâm, tổ chức thực hiện tốt.
Những năm qua, việc biểu diễn, quảng bá Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình không
chỉ được diễn ra ở Huế trong các sự kiện lớn, lễ hội festival mà khách du lịch Việt Nam và
quốc tế mỗi khi đến thăm Huế đều được thưởng thức loại hình âm nhạc này.
Và việc xây dựng Bảo tàng nghệ thuật âm nhạc cung đình Việt Nam tại
TTBTDTCĐ Huế là một mong muốn mà chúng tôi hi vọng nơi đó sẽ là một trong nhiều
điểm đến hấp dẫn của khách du lịch Việt Nam và quốc tế.
Abstract: Nha Nhac – Vietnamese court music was honorably inscribed as the
Masterpiece of the Oral and Intangible Heritage of Humanity by UNESCO on November,
7th
, 2003.
Mentioning Nha Nhac, we easily find that the national tradition of the old days is
transferred, created and transformed, which brings about art quintessence “formed” with
song texts, musical item.
Court music has spent many historical stages and left many important hallmarks
from ancient times, Ly, Tran, Le dynasties and Nguyen one to now, it is really developed,
heightened in order to create new turning-points for the development of Vietnamese
49
traditional professional art under Nguyen dynasty. The characteristics of court performance
art clearly reflect the aesthetic and musical tradition which is selected and transferred
through thousands of national historical years.
Hue Court Music affects the formation and development of arts such as Bài Chòi,
Đờn ca tài tử (Southern Traditional Music), Cải lương and it has been given attention and
discussed by researchers through the eyes of history, culture or art.
Nha Nhac as well as other forms of royal art has become the object of scientific
research from the grassroots level to ministerial and state level in recent years.
Since Nha Nhac was honored, training the preservation cadres is well paid attention
and executed by Hue Monuments Conservation Center.
Over the past few years, the performance and popularization of Nha Nhac – Hue
court music – not only was taken place in Hue in big events or festivals but also was
enjoyed by Vietnamese and international tourists when they visited Hue.
Building the museum of Vietnamese Court Music at Hue Monuments Conservation
Center is our wish that we hope that place will become one of the most interesting site for
Vietnamese and international tourists.
* * *
Tuồng cung đình Huế, những kết quả nghiên cứu và giải pháp bảo tồn
ThS Trương Trọng Bình - ThS Lê Mai Phương
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Sân khấu truyền thống Việt Nam nói chung, sân khấu Tuồng nói riêng là
một loại hình nghệ thuật độc đáo và phong phú. Trong quá trình hình thành và phát triển,
sân khấu Tuồng, đặc biệt sân khấu Tuồng cung đình Huế đã đạt đến đỉnh cao của nghệ
thuật biểu diễn.
Sau khi triều Nguyễn cáo chung, Tuồng cung đình Huế cũng mất đi môi trường
diễn xướng và tản mác vào dân gian, nên tính nguyên bản của loại hình này không còn như
nó vốn có. Việc sưu tầm, nghiên cứu và lập hồ sơ khoa học: Mặt nạ Tuồng cung đình Huế,
Vũ đạo Tuồng cung đình Huế và phục trang Tuồng cung đình Huế… chính là vấn đề cấp
thiết để làm cơ sở cho việc khôi phục lại những giá trị di sản của loại hình nghệ thuật này.
Abstract: Vietnamese traditional theatrical art in general and Tuong (Vietnamese
traditional theatrical play) in particular are special and abundant type of art. In the
processes of forming and developing, the Tuong, especially Hue royal Tuong reached its
climax of performing art.
After the end of Nguyen dynasty, Hue royal Tuong lost its original performing
environment. Besides, it was then spread into the folk; hence its authenticity was no longer
protected. The data collection, research and compilation of such dossiers as "Mặt nạ Tuồng
50
cung đình Huế " (the masks of Hue royal Tuong), " Vũ đạo Tuồng cung đình Huế " (The
dances of Hue royal Tuong), and " phục trang Tuồng cung đình Huế " (Hue royal Tuong's
costume), etc. are essential in restoring different values of this heritage.
* * *
Tuồng cung đình Huế - Bảo tồn và phát huy giá trị
GS Hoàng Chương
(Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn
và Phát huy Văn hóa Dân tộc Việt Nam)
Tóm tắt: Bài tham luận đã nghiên cứu và đánh giá Tuồng cung đình Huế là loại
tuồng đặc biệt, mang tính cổ điển, tính bác học cao. Tác giả cũng đề cao những nỗ lực, tâm
huyết của các nghệ sĩ, nghệ nhân ít ỏi hiện nay của loại nghệ thuật kén khán giả trong cơ
chế thị trường hiện nay. Qua đó, cũng nêu lên thực trạng, những khó khăn về công tác
nghiên cứu và phát huy giá trị di sản này, như: sự thờ ơ của người xem, kịch bản tẻ nhạt,
thiếu các đạo diễn có tay nghề cao, diễn viên diễn tuồng chưa điêu luyện, nhiều tư liệu và
sách vở quý về các vở tuồng đã không còn nữa do nhiều năm bị lãng quên. ..
Để cho sức sống của nghệ thuật Tuồng cung đình Huế thực sự trọn vẹn, tác giả đã
nêu ra một số kiến nghị: 1. Cần tập trung tài năng về Tuồng của các nhà khoa học, các
nghệ nhân, nghệ sĩ về Huế; 2. Đào tạo diễn viên trẻ theo đúng phong cách và nghệ thuật
Tuồng cung đình Huế; 3. Đào tạo khán giả, đưa Tuồng vào học đường; 4. Trên cơ sở Nhà
hát truyền thống nên xây dựng thành Nhà hát Tuồng cung đình đúng nghĩa để đầu tư,
nghiên cứu, phục hồi và phát huy những giá trị nghệ thuật cung đình đích thực, làm mẫu
mực cho phong trào Tuồng trong toàn quốc; mở rộng biểu diễn, quảng bá để phục vụ công
chúng trong và ngoài nước.
Abstract: The speech has given a research and evaluation on Tuồng of Hue court
as a special type having classical and scholarly characteristics. The author also heightens
the heartfelt efforts of the artists and artisans of this type of art which is selective about
audiences in this market mechanism. Through this, the state and difficulties in value
research and enhancement of this heritage are raised such as: the neglectfulness of
audiences, boring scenario, lack of talented stage-director and actors, and precious
documents and books on Tuồng have disappeared because they are fallen into oblivion…
In order to give Tuồng a full life, the author would like to raise some
recommendation: 1. It is necessary to gather the talent on Tuồng of researchers, artists and
artisans in Huế; 2. Training young actors in accordance with the style and art of Huế
Tuồng; 3. Training the audiences, bringing Tuồng into school; 4. On the basis of traditional
theatre, building a Tuồng theatre in the true sense of the world in order to invest, research,
restore and enhance the values of real royal art and to serve as the model of national Tuồng
51
movement; widening its performance and popularization to serve international and national
public.
* * *
Suy nghĩ về bảo tồn và phát huy Nhã nhạc cung đình Huế
Nhạc sĩ Mai Tuyết Hoa
(Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Âm nhạc Dân tộc)
Tóm tắt: Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là "Kiệt tác Di
sản Phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại" vào năm 2003. Nhã là tao nhã, trang nghiêm,
nhạc là âm nhạc. Nhã nhạc tức là âm nhạc tao nhã, trang nghiêm. Nhã nhạc cung đình Huế
thường dùng để biểu diễn trong các dịp đại lễ trang trọng của triều đình, những cuộc cúng
tế thần linh và tổ tiên đã trở thành một loại hình âm nhạc cung đình không thể thiếu của
triều đại. Nhã nhạc mang ba yếu tố là nhạc, múa và hát, hoặc cũng có thể nói nghệ thuật
cung đình Huế nói chung và Nhã nhạc nói riêng là nghệ thuật tổng hợp: nhạc, múa và hát,
trong đó nhạc và múa chiếm tỷ lệ cao hơn.
Là một loại hình âm nhạc độc đáo của Việt Nam, để bảo tồn và phát huy giá trị,
làm cho "viên ngọc quý không bị phai mờ bởi lớp bụi thời gian", tác giả bài viết đưa ra một
số ý kiến, định hướng: Giữ nguyên dạng dàn nhạc cung đình hiện có; truyền dạy, đào tạo
nhạc công Nhã nhạc cho lớp trẻ về vốn nghề truyền thống, nắm bắt kỹ thuật biểu diễn và
biểu diễn theo phong cách nghệ thuật xưa để tạo nguồn nhân lực kế cận; giới thiệu, quảng
bá sâu rộng hơn nữa cho đông đảo công chúng trong và ngoài nước được làm quen, được
thưởng thức, được biết cái hay, cái đẹp của Nhã nhạc cung đình đồng thời có chính sách ưu
đãi đối với các nghệ nhân, nghệ sỹ có công gìn giữ Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt
Nam.
Abstract: Hue Court Music (Nha Nhac) was acknowledged as “The Masterpiece of
the Oral and Intangible Heritage of Humanity” by UNESCO in 2003. Nhã means elegance
and solemnity, Nhạc is music. Nha Nhac means elegant and solemn music. Hue court
music is often performed in great ceremonies of the court, in god rituals and worshipping
ancestors, which becomes indispensible type of court music of dynasty. Nha Nhac has 3
factors: music, dance and sing, or it can be said that Hue court art in general and Nha Nhac
in particular are synthetic art: music, dance and sing, in which music and dance occupy
higher proportion.
Being a unique musical type of Vietnam, in order to preserve and enhance its value
and to “make the precious pearl not be faded by time”, the author would like to give some
opinions and orientations: keeping the original form of the present court orchestra;
teaching and training Nha Nhac professional executants for young generation on traditional
art, catching the performing technique and old performance style to train adjacent working
52
source; introducing and popularizing Nha Nhac for international and national audiences to
get acquaintance with and enjoy its beauty, simultaneously having preferential policy to
artists and artisans who have merits of preserving Nha Nhac – Vietnamese Court Music.
* * *
Những vấn đề bảo tồn, phục hồi và phát huy múa cung đình Huế
trong giai đoạn hiện nay
NSND Phan Thị Bạch Hạc
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Múa cung đình Huế là thể loại múa hát cổ điển mang tính chất kế thừa,
nhưng so với múa cung đình các triều đại trước đã được chuyên nghiệp hóa, tách biệt hẳn
với múa dân gian. Quan niệm thẩm mỹ, ý niệm về các giá trị đạo đức của xã hội Việt Nam
thời kỳ quân chủ đã thấm nhuần và lan tỏa trong các vũ khúc cung đình Huế. Điều này thể
hiện qua từng động tác và sự phát triển của nó, như đội hình quy củ, tuyến múa theo hàng,
quy mô hoành tráng...
Những năm qua, từng dự án bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể luôn
được triển khai đồng bộ và mang lại những hiệu quả thiết thực, điều này đã đem lại cho
nghệ thuật cung đình Huế nói chung, múa cung đình Huế nói riêng có thêm một sức sống
mới. Đây cũng là một trong lý do khách du lịch thường xuyên đến Nhà hát Duyệt thị
Đường (Đại Nội - Huế) để thưởng thức loại hình nghệ thuật tưởng rằng đã mai một với
thời gian.
Abstract: Hue royal dance is a kind of classical one of legacy. However, compared
to royal dances in previous dynasties, it was professionalized and separated with folk
dances. Vietnamese society‟s concepts of beauty and moral values in monarchical period
are penetrated and spread on Hue royal dances. They are expressed by acts and their
development such as methodical formation, dance on lines, grand scale…
During years, projects of conservation and promotion of intangible cultural values
have been deployed synchronously. Many practical achievements contribute to Hue royal
art in general and Hue royal dance in particular. This is also the reason why lots of tourists
frequently visit Hue Royal Theatre (Hue Citadel) to enjoy this kind of art which is thought
to be lost gradually over time.
* * *
53
Chúc văn trong các lễ tế thời nhà Nguyễn
Nhà nghiên cứu Vĩnh Cao
Tóm tắt: Chúc văn là một thể văn để ca tụng công đức người đã khuất, được dùng
để đọc trong tế lễ. Trong lễ tế hưởng thời nhà Nguyễn phần đọc chúc rất quan trọng, diễn
ra trong phần sơ hiến (dâng rượu lần thứ nhất). Ngày xưa chúc văn rất thịnh hành, những
từ chúc phúc, chúc tụng trong Hán Việt, rồi chúc mừng trong tiếng Việt cũng từ đó mà
sinh ra. Tuy nhiên, trong dân gian, ngay từ trước cũng không thông văn tự khi cúng tế
thường nhờ người viết, không muốn sánh với tế hưởng trong cung nên người ta chuyển
sang dùng thể sớ văn, loại văn này thích hợp với nhạc tế hơn.
Abstract: Chúc văn (testament), a literary style extolling the dead‟s merits, is used
to read in the rituals. In Nguyen dynasty, reading chúc văn (testament) played an important
role in sơ hiến part (that means offering wine for the first time). In the old days, chúc văn
(testament) was very popular, wishes and congratulations in Chinese-Vietnamese and in
Vietnamese also appeared. However, among the common people, they did not have
knowledge of letters and asked for help. Later they changed to sớ văn (petition), more
suitable for the ritual music.
* * *
Đàn miếu và nghi lễ Đại tự triều Nguyễn ở Huế
ThS Huỳnh Thị Anh Vân
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Cùng với việc chọn Huế làm kinh đô, triều Nguyễn đã để lại một di sản
vật thể đồ sộ gồm nhiều kiến trúc cung đình, trong đó các công trình phục vụ cho hoạt
động nghi lễ của triều đình. Các hình thức đàn miếu và nghi lễ đại tự có vai trò quan trọng
trong đời sống tâm linh của triều đại. Sự hình thành của các công trình này cũng như các
nghi thức tế tự đều có ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Trung Quốc ở một mức độ nhất
định và được triều Nguyễn, nhất là các vị vua đầu triều, đặc biệt chú trọng. Việc quy hoạch
vị trí, xây dựng kiến trúc và thực hành nghi lễ được điển chế hóa bằng nhiều quy định chặt
chẽ. Vì thế, có thể nói các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế là những hình
thức tiêu biểu và hoàn thiện nhất trong các đàn miếu (và nghi lễ) thời kỳ quân chủ ở Việt
Nam với nhiều nét đặc sắc về quy hoạch, hình thức kiến trúc, trang trí mỹ thuật, tính điển
chế, tính chính danh và tính triết lý.
Abstract: Selected Hue as the national capital, the Nguyen dynasty left a huge
amount of heritage properties including numerous royal architectures in which the ritual
constructions for the great national worship played an important role in the spiritual life
54
of the dynasty. Their establishment and the related ceremonies had certain influence
from the Confucius theory and were paid special attention by the Nguyen emperors,
especially by emperors at the early period of the dynasty. The location planning,
architectural building and worshipping ceremony were codified by many strict
regulations. Therefore, it can be said that the ritual constructions of great national
worship and related ceremonies in Hue under the Nguyen were the most typical and
completed forms among those of other monarchical dynasties in Vietnam with many
distinguished features of the planning, architecture, fine arts,
codification, legitimation and philosophy.
* * *
Lễ hội cung đình triều Nguyễn - Quá trình hình thành và
giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị
ThS Lê Thị An Hòa
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Huế là kinh đô cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, là nơi bảo lưu
tương đối nguyên vẹn các công trình kiến trúc, đền đài, lăng tẩm, đình, miếu. Ngoài di sản
văn hóa vật thể đó, Huế là nơi bảo tồn lưu giữ một khối lượng văn hóa phi vật thể khổng lồ
mà trong đó lễ hội cung đình Nguyễn đóng vai trò quan trọng, bởi nó phản ánh các hoạt
động văn hóa do vương triều này sáng lập nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống văn hóa tâm
linh. Lễ hội cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn, phần lớn chỉ chú trọng
về "lễ" hơn "hội". Trong bối cảnh đất nước hiện nay với tinh thần xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát
triển bền vững, thì việc bảo tồn phát huy giá trị các lễ hội cung đình Huế có ý nghĩa rất
quan trọng. Đứng trước thực trạng ấy cần phả
đưa ra giải pháp bảo tồ ồi sinh lễ hội cung đình cả về phần “lễ” lẫn
phần “hội”, đáp ứng nguyện vọng tâm linh của người dân đặc biệt phục vụ chiến lược phát
triển du lịch bền vững trong bối cảnh quốc tế hiện nay là điều rất cần thiết.
Abstract: Hue is the last capital city of Vietnamese feudalism, where architectural
constructions, temples, tombs and pavilions are preserved in intactness. Apart from that
tangible heritage, Hue keeps in it a large quantity of intangible heritage in which royal
festivals of Nguyen court play an important role because it reflects cultural activities
created by this dynasty in order to satisfy cultural and spiritual life. Royal festivals reflect
ritual activities of Nguyen court, mostly paid more attention to “ritual” than “festival”. In
present context of our country, with the spirit of building Vietnamese culture which is
progressive and deeply imbued with ethnic identities – important endogenous strength of
stable development – the preservation and enhancement of values of Hue court‟s royal
festivals have important meaning. Confronting with that real state, it is necessary to do
55
research on the formation of the festivals in order to offer appropriate preservation
solutions to revive royal festivals in both “ritual” and “festival” sides, meeting the spiritual
expectations of the citizens, especially serving the target of developing stable tourism in
the present international context is extremely necessary.
* * *
Gìn giữ Mộc bản triều Nguyễn cho muôn đời sau
ThS Nguyễn Xuân Hùng
(Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV)
Tóm tắt: Mộc bản triều Nguyễn là những tài liệu đặc biệt, viết bằng chữ Hán Nôm
khắc ngược trên gỗ để in ra thành sách, phản ánh các lĩnh vực lịch sử, địa lý, chính trị - xã
hội, quân sự, văn hóa… được dùng dưới thời phong kiến Việt Nam và còn lưu giữ đến
ngày nay.
Dưới biến động của lịch sử, việc gìn giữ Mộc bản cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trước năm 1960, tài liệu Mộc bản được nhà Nguyễn lưu giữ tại Kinh đô. Năm 1960, toàn
bộ số Mộc bản và Châu bản được đưa về Đà Lạt lưu trữ tại 3 địa chỉ khác nhau. Do quá
trình vận chuyển và cơ sở vật chất bị xuống cấp, tài liệu đã bị mối, mục, ngâm nước. Sau
năm 2006 đến nay, Mộc bản được Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV bảo quản trong kho
thông gió hiện đại.
Hiện nay, trong tổng số 34.619 tấm Mộc bản, số lượng tài liệu bị khuyết tật (rạn
nứt, cong vênh, rêu, cặn mực…) chiếm tỷ lệ khá lớn. Nguyên nhân là do sự lão hóa tự thân
của Mộc bản, điều kiện khí hậu, chiến tranh, sự vô tâm của con người. Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia IV đã đề ra giải pháp, triển khai đề án bảo tồn và phát huy giá trị của Di sản tư
liệu thế giới này nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận lâu dài, vĩnh viễn.
Abstract: Nguyen dynasty‟s wood-blocks are valued special documents written in
Han – Nom scripts carved upside down to make books. Aspects of history, geography,
politics – society, military, culture in Vietnamese feudalism are reflected and conserved
until now.
Due to the historical changes, the conservation of wood-blocks is also seriously
influenced. Before 1960, they were archived at the Citadel by Nguyen dynasty. In 1960, all
Wood-blocks and Chau version (Nguyen dynasty‟s Imperial archives) were kept in 3
different addresses in Dalat. Due to the transferring process, material facilities in bad
condition, the documents were rotten, worm-eaten and soaked in water. After 2006 to
present, Wood-blocks have been maintained in modern storage with ventilation system of
National Archives IV Center.
At present, among 34.619 pieces of Wood-block, a large number of documents are
being damaged (crackled, curved, and covered with moss…). Because of Wood-block‟s
56
age, weather conditions, war and people‟s awareness, Center of National Archives IV
suggests the solutions and deploys the projects of value conservation and enhancement of
this international documentary heritage to ensure long-term and ever-lasting approaching
possibility.
* * *
Di sản tư liệu Châu bản triều Nguyễn tiềm năng hợp tác và phát triển
ThS Hà Văn Huề
ThS Nguyễn Thu Hoài
(Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I)
Tóm tắt: Châu bản triều Nguyễn là các tài liệu hành chính hình thành trong hoạt
động quản lý nhà nước của triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt
Nam từ 1802 đến 1945. Với những tiềm năng thông tin phong phú, xác thực, có độ tin cậy
cao, Châu bản triều Nguyễn đã và đang được khai thác hiệu quả để phục vụ xã hội trên
nhiều khía cạnh, đặc biệt là trong công cuộc khôi phục, bảo tồn các di sản văn hóa cung
đình triều Nguyễn. Việc liên kết, chia sẻ thông tin giữa các di sản văn hóa và di sản tư liệu
để hợp tác ngày càng phát triển là xu thế cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm bào tồn,
gìn giữ, phát huy hơn nữa giá trị của các di sản này./.
Abstract: Nguyen Dynasty‟s Imperial archives are the administrative documents
formed during the state governance of the Nguyen Dynasty, the last dynasty in Vietnam's
history, from 1802 to 1945. With the potential of rich information, authenticity, and high
reliability, Imperial archives of Nguyen dynasty have been effectively exploited to serve
the society in many ways, especially in the restoration and conservation of cultural heritage
of the dynasty. The linkage and information sharing between cultural heritage and
documentary heritage to develop cooperation are increasingly necessary trend in the
current period to conserve, preserve, promote the values of this heritage./.
* * *
Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế - Vấn đề bảo tồn
và phát huy giá trị một cách bền vững
TS Phan Thanh Hải – ThS Lê Thị An Hòa
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là hệ thống thơ văn chữ Hán do các
hoàng đế triều Nguyễn (1802-1945) trước tác, được chạm, khắc, khảm, cẩn trực tiếp trên
57
các công trình kiến trúc tại cố đô Huế theo lối “nhất thi nhất họa” hoặc “nhất tự nhất họa”.
Theo thống kê, hiện nay tại đây vẫn bảo tồn được 2697 ô thơ văn và số lượng tương đương
ô họa. Ngày 19/5/2016, thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đã được công nhận là Di sản
tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương (MOWCAP)
thuộc UNESCO. Tham luận này sẽ giới thiệu tổng quan về di sản tư liệu độc đáo trên, một
số kinh nghiệm của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế trong việc xây dựng hồ sơ đề
nghị công nhận di sản, và những định hướng cùng giải pháp để bảo tồn và phát huy di sản
tư liệu này một cách bền vững và hiệu quả. Tham luận gồm 4 phần chính:
1- Giới thiệu về Thơ văn trên trên kiến trúc cung đình Huế
2-
3-
4- Một số giải pháp để thúc đẩy nâng cao giá trị di sản tư liệu trong thời gian tới
Abstract: Royal literature on Hue royal architecture consists of literature in Han
script composed by Nguyen emperors (1802-1945) and later directly carved, engraved,
inlaid on Hue constructions in the styles “one verse, one picture” or “one letter, one
picture”. Statistics show that 2697 verse panels and an equivalent number of picture
panels are being conserved. On May 19th
, 2016, royal literature on Hue royal architecture
was recognized Documentary Heritage of Memory of the World in Asia – Pacific Region
(MOWCAP), UNESCO. This report will introduce the overview of this original
documentary heritage, some experiences of Hue Monuments Conservation Center in
making the record for suggesting heritage recognition and tendencies or solutions in
conserving and enhancing this documentary heritage stably and effectively. The report
consists of 4 main parts as follows:
1. Introduction of royal literature on Hue royal architecture
2. Process of making the heritage record and some experiences
3. Plan of value conservation and enhancement of royal literature on Hue royal
architecture
4. Some solutions to improve and heighten the values of documentary heritage next
time
* * *
58
Di sản thơ văn của Dực Tông Hoàng Đế - vua Tự Đức
ThS Phan Đăng
Tóm tắt: Tự Đức là vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn, ông nắm quyền trong một
thời gian dài, dài nhất trong các vị vua nhà Nguyễn, từ 1848 đến 1883. Bên cạnh cuộc đời
hoạt động chính trị nhiều phức tạp trong tình hình đất nước đầy biến động, vua Tự Đức còn
là một tác gia có số lượng tác phẩm rất đồ sộ (gồm 17 bộ đã được in ấn) về nhiều lĩnh vực,
là một nhà thơ lớn của hoàng tộc nói riêng và của văn học thế kỷ XIX nói chung. Nhưng
do nhiều nguyên nhân, di sản thơ văn quý giá đó vẫn chưa được nghiên cứu và giới thiệu
một cách đầy đủ. Đến nay, chúng tôi nghĩ việc sưu tầm, bảo quản, hiệu đính, phiên dịch,
chú giải, giới thiệu, phổ biến… tác phẩm của Tự Đức nói chung, thơ văn nói riêng, là điều
vô cùng cấp thiết và có ý nghĩa. Bởi vì những tư liệu quý báu đó không chỉ để đánh giá
đúng mức vai trò của vua Tự Đức về nhiều mặt, mà còn là một phần di sản văn hóa quan
trọng, ghi dấu bước đường phát triển của văn hóa dân tộc trong một giai đoạn đặc biệt của
lịch sử Việt Nam.
Abstract: The emperor Tu Duc was the fourth successor of the Nguyen dynasty,
ruling over a long period of time, between 1848 and 1883, the longest reign of all the
emperors in the dynasty. Aside from leading a political life with many upheavals, he was
an author of numerous works, including 17 published volumes in various fields. He was a
great royal and national poet in the 19th
century. However, due to several reasons, his
valuable amount of works have not been extensively studied and introduced completely
and properly. To date, we reckon it is imperative and meaningful to collect, conserve,
revise, translate, annotate, introduce and impart the literary works by the emperor Tu Duc.
Not only do those valuable documents help to properly assess the role of the emperor Tu
Duc in different areas, but they also form an important cultural heritage, marking the road
map of the nation‟s cultural development during a peculiar phase of Vietnamese history.
* * *
Thơ trên ô hộc pháp lam ở Bi Đình - Hiếu Lăng
ThS Lê Na
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Bi Đình là một trong những công trình kiến trúc thuộc Hiếu lăng (tức
lăng vua Minh Mạng). Đây là công trình thứ 3, thuộc trục thần đạo nối từ Đại Hồng Môn
cho đến chân La Thành sau mộ vua.
Hòa cùng với phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, Bi Đình bên ngoài nổi bật với
những bức tranh thơ hoàn mỹ.
59
Thơ trên ô hộc pháp lam ở Bi Đình là một thành công của nghệ thuật trang trí bên
ngoài thuộc mỹ thuật Huế xưa, vừa rất khéo léo lại vừa rất trí tuệ. Theo thống kê, thơ trên
ô hộc pháp lam ở Bi Đình hiện có 11 đoạn thơ, mỗi đoạn gồm 2 câu được bố trí trong 11 ô
hộc. Các đoạn thơ này qua một thời gian tra xét, lục tìm, đối chiếu từ các thư tịch cổ đã
được sáng tỏ là những đoạn thơ trích ra từ 11 bài thơ thất ngôn trong Ngự chế thi của vua
Minh Mạng các tập 2, 3, 4.
Mặc dù thơ trên ô hộc pháp lam còn lại không được trọn vẹn với 12 ô hộc, nhưng
chúng vẫn phát huy được tính chất trang trí và sự khéo léo của những người thợ. Với ngôn
từ đơn giản, dễ hiểu, các đoạn thơ không chỉ phác họa được một phần non sông gấm vóc
xinh đẹp của xứ sở Thuận Hóa mà còn đưa con người đến gần hơn với vua Minh Mạng,
đến với góc tâm hồn bình yên và sâu lắng nhất của vị vua này.
Abstract: Stele House is one of architectural constructions belonging to Hiếu
Tomb (tomb of the emperor Minh Mang). This is the third construction belonging to Holy
Axis connected from Dai Hong Gate to La Thanh behind the grave.
In harmony with beautiful landscape, Stele House is outstanding with perfectly
beautiful verse pictures.
Verses on enameled panels at Stele House are a success of exterior decorative art
belonging to old Hue fine arts which is skillful and intelligent. According to statistics,
verses on enameled panels at Stele House include 11 verses, each includes 2 sentences
arranged on 11 panels. After searching and comparing with ancient document, these verses
are proved to be quoted from eleven 7-word poems in Ngự chế thi of the emperor Minh
Mang, volume 2, 3, 4.
Though verses on enameled panels are not complete with 12 panels, they still
enhance the decorative and skillful characteristic of workmen. With simple and easy-
understanding words, the verses not only outline the beautiful country of Thuan Hoa region
but also get the people closer to the emperor Minh Mang and the most peaceful and
deepest soul of this emperor.
* * *
Thơ văn ngự chế triều Nguyễn:
Lược khảo tư liệu và đề xuất hướng tiếp cận nghiên cứu và phát huy giá trị
TS Nguyễn Tuấn Cường
CN Mai Hương – CN Lê Như Duy
(Viện Nghiên cứu Hán Nôm)
Tóm tắt: Thơ văn ngự chế viết bằng chữ Hán chữ Nôm của các hoàng đế triều
Nguyễn là một bộ phận quan trọng cấu thành nên văn hóa cung đình thời Nguyễn (1802-
1945). Phần lớn di sản thơ văn ngự chế ấy hiện còn chưa được phiên dịch ra tiếng Việt
60
(qua chữ Quốc ngữ) và giới thiệu với đông đảo độc giả, mà vẫn còn tồn tại dưới dạng văn
bản chữ Hán chữ Nôm cổ. Đa số các văn bản Hán Nôm ấy hiện được lưu tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm (Hà Nội) - trung tâm lớn nhất lưu trữ văn bản Hán Nôm của Việt Nam. Để
tiến tới lập kế hoạch chi tiết khai thác di sản ấy, bài viết này bước đầu khảo sát trữ lượng
nhóm văn bản này, nêu ra một số đặc trưng về số lượng, từ đó đề xuất một số giải pháp để
tổ chức phiên dịch, chú giải, xuất bản và giới thiệu di sản ấy tới các nhà nghiên cứu và
những người quan tâm.
Abstract: The royal literature written in Sinographs and Nom script by emperors of
the Nguyễn dynasty (1802-1945) is no doubt a significant part of court culture of the
dynasty. Most of such royal literature is still waiting to be translated into Vietnamese and
introduced a wider audience who could not read Sinographs and Nom script. The majority
of such documents are currently archived in the Institute of Sino-Nom Studies (in Hanoi) -
the biggest center for Sino-Nom documents of Vietnam. In order to figure out a detailed
plan to deal with this legacy, this paper first makes a survey on the documents, then points
out some quantity features, finally promotes some ideas for translating, annotating,
publishing, and introducing this heritage to the public.
* * *
Dấu tích văn hóa thời Nguyễn từ hệ thống “bảo tàng”, “thư viện” làng xã vùng Huế
TS Trần Đình Hằng
( Phân viện VHNTQGVN tại thành phố Huế)
Tóm tắt: Thời Nguyễn bao gồm cả giai đoạn Đàng Trong của các chúa Nguyễn
cho đến 143 năm của đất nước Đại Nam (1802 - 1945). Thời Nguyễn có nhiều đóng góp
nổi bật cho lịch sử và văn hóa nước nhà. Nghiên cứu về lịch sử văn hóa Việt Nam thời
Nguyễn thông qua việc khảo sát tư liệu từ hệ thống tự miếu (đình, chùa, miếu, nhà thờ),
hòm bộ của các gia tộc, làng xã sẽ góp phần bổ sung, làm rõ nhiều vấn đề quan trọng, từ di
sản văn bản Hán Nôm, đồ tự khí, nghi thức cúng tế, lễ hội hiếm hoi còn lại.
Từ một số trường hợp khảo sát ở vùng Huế, chúng tôi coi đây là những “bảo tàng”,
“thư viện” đặc biệt quí hiếm, cần sớm được chú trọng khai thác, thái độ, hướng bảo tồn,
phát huy giá trị một cách phù hợp trong giai đoạn hiện nay, trên khắp cả nước.
Abstract: Nguyen monarchy lasted from the period of Nguyen Lords' Inner Region
(Dang Trong - Cochinchina) to the 143 years of Dai Nam country (1802-1945). Nguyen
monarchy is greatly contributive to Vietnamese history and culture. Researching
Vietnamese history and culture under Nguyen monarchy by investigating documents from
the systems of village's communal houses, Buddhist temples, familial temples, archives of
different families and villages, so on, will clarify many important questions from the
61
remaining Han-Nom documentary heritages, ritual objects, worshipping ceremonies, and
festivals.
From the result of our investigation at Hue region, we consider those systems
specially precious "museum" and" library" that need appropriately exploring, preserving
and enhancing in present time nationwide.
* * *
Vấn đề khai thác, phát huy các tư liệu của triều Nguyễn
PGS.TS Đinh Quang Hải
(Viện Sử học)
Tóm tắt: Trong 143 năm trị vì đất nước của triều Nguyễn (từ năm 1802 đến 1945)
đã để lại cho hậu thế kho di sản tư liệu đồ sộ và vô cùng giá trị như: Mộc bản triều
Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn. Bên cạnh đó, hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình
Huế cũng là một loại hình tư liệu độc đáo của triều Nguyễn.
1. Tư liệu triều Nguyễn - một kho tư liệu vô giá
Trong 4 “Di sản tư liệu” thế giới thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã được
UNESCO công nhận của Việt Nam, có đến 2 di sản tư liệu thuộc về triều Nguyễn là Mộc
bản và Châu bản. Khối tài liệu Mộc bản gồm 34.618 tấm gỗ được khắc ngược trên để in ra
các sách chữ Hán - Nôm tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX với nội dung
phong phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt về xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn.
Châu bản triều Nguyễn gồm 773 tập tài liệu gốc của 11/13 triều vua Nguyễn (tương
đương khoảng 85.000 văn bản), gồm những bản tấu chương được nhà vua “ngự phê”, “ngự
lãm” với dấu tích bằng mực son, các bản sắc, dụ, chiếu, chỉ, tờ trình, bản kê khai, bản dịch
các văn bản ngoại giao,...
Cùng với Mộc bản và Châu bản thì di sản thơ văn trên di tích cung đình Huế cũng
là tư liệu quý, một “loại hình di sản đặc biệt”, một “hệ thống di sản nằm trong di sản” .
2. Khai thác và phát huy giá trị tư liệu triều Nguyễn
- Khai thác và phát huy giá trị Mộc bản
Trên phương diện giá trị tư liệu, Mộc bản triều Nguyễn không chỉ đồ sộ về khối
lượng mộc bản mà còn về sự phong phú của các khía cạnh, lĩnh vực mà tư liệu Mộc bản
phản ánh. Đó là tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử, địa lý, chính trị xã hội, quân
sự, điển chế pháp luật, văn hóa - giáo dục, tư tưởng triết học - tôn giáo, thơ văn, ngôn ngữ
văn tự, quan hệ quốc tế.
- Khai thác và phát huy giá trị Châu bản triều Nguyễn
Theo cách hiểu ngày nay thì, về cơ bản, Châu bản triều Nguyễn là các văn bản
hành chính hình thành trong hoạt động quản lý nhà nước của các vua Nguyễn, gồm văn
bản do vua Nguyễn ban hành, văn bản do các cơ quan trong hệ thống chính quyền và các
62
viên quan (ở các chức phận ở Trung ương và địa phương) đệ trình lên vua phê duyệt bằng
mực son, một số văn kiện ngoại giao để khẳng định và thực thi chủ quyền của đất nước.
- Khai thác và phát huy giá trị Di sản thơ văn trên di tích cung đình Huế
Là những sáng tác văn chương của các vị vua đầu triều Nguyễn cũng như của quan
lại, văn nhân triều đình, hệ thống di văn trên kiến trúc cung đình Huế là những cứ liệu lịch
sử chân xác phản ánh tư tưởng của một thời đại, cũng như thế giới quan và nhân sinh quan,
chính sách quản lý đất nước của vương triều Nguyễn của tầng lớp vua quan. Bản thân loại
hình di sản tư liệu này cũng là một đối tượng nghiên cứu độc đáo (văn bản học), một
nguồn tư liệu phong phú cung cấp những thông tin về nhiều khía cạnh của đời sống đất
nước và vương triều Nguyễn trong lịch sử.
3. Một số giải pháp khai thác và phát huy giá trị tư liệu triều Nguyễn
Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, nhiều tư liệu triều Nguyễn như Châu
bản đã bị hư hại, mất mát khá nhiều. Di văn trên hệ thống kiến trúc cung đình Huế cũng bị
hao mòn, mất chữ, thậm chí biến mất trên một số hiện vật. Vì vậy, lưu trữ bảo vệ giá trị tư
liệu song song với việc khai thác, phát huy hiệu quả và làm cho giá trị tư liệu “tỏa sáng”
trong thực tiễn, nhất là khi chúng còn nguyên vẹn, là việc làm cần thiết.
Để có thể làm giảm thiểu áp lực lên văn bản gốc do sự tiếp cận nhiều của người
nghiên cứu, việc sử dụng các bản sao hay bản dịch để phổ biến rộng rãi hơn, phục vụ tốt
hơn cho hoạt động nghiên cứu. Đó là đẩy mạnh tổ chức phiên dịch một cách chính xác các
tư liệu triều Nguyễn từ ngôn ngữ Hán Nôm sang chữ quốc ngữ và cả tiếng nước ngoài.
Tuy nhiên để làm được điều đó, một trong những biện pháp trước mắt cũng như lâu
dài là đào tạo được các chuyên gia ngôn ngữ thông thạo Hán Nôm, đồng thời cũng đào tạo
đội ngũ đông đảo những nhà nghiên cứu, chuyên gia thuộc nhiều chuyên ngành trong lĩnh
vực nghiên cứu khoa học xã hội giỏi Hán Nôm.
Abstract: In 143 ruling years of Nguyen dynasty (from 1802 to 1945), large and
valuable repository of documentary heritage is left for the descendants. They are Nguyen
dynasty‟s wood-blocks and Chau version (Nguyen dynasty‟s Imperial archives). In
addition, “royal literature on Hue royal architecture“ is also considered an original
documentary kind of Nguyen dynasty.
1. Nguyen dynasty‟s documents – valuable documentary store
Among 4 “Documentary Heritage“ of Asia-Pacific recognized by UNESCO, there
are 2 ones of Nguyen dynasty, Wood-blocks and Imperial Archives.
Mộc bản (Wood-blocks) consist of 34.618 pieces of wood carved in the 19th and
the early of 20th centuries with various contents on Vietnamese society‟s aspects in
Nguyen dynasty.
Châu bản (Nguyen dynasty’s Imperial Archives) consist of 773 volumes of original
document belonging to 11 Nguyen emperors (equivalent to 85.000 texts).
In addition to Mộc bản (Wood-blocks) and Châu bản (Nguyen dynasty’s Imperial
Archives), royal literature on Hue royal architecture is also valuable, “a kind of original
heritage“, “heritage in heritage“.
63
2. Exploitation and enhancement the documentary values of Nguyen dynasty
- Exploitation and enhancement of Wood-blocks‟values
Nguyen dynasty‟s wood-blocks consist not only a large quantity of wood-blocks
but also abundant contents of different aspects reflecting in the society. They are used in
historical, geographical, cultural – educational, religious, literature,... researches and
international relationship.
- Exploitation and Enhancement of Nguyen dynasty‟s Imperial Archives‟s values
Basically, Nguyen dynasty‟s Imperial Archives are administrative texts formed in
Nguyen emperors‟s management activities such as texts promulgated by Nguyen emperors,
texts issued by authority system and mandarins (Central and regional) and later submitted
for the emperors‟s approval and some documents of foreign affairs to confirm the country
sovereignty.
- Exploitation and Enhancement of the values of “Royal Literature on Hue Royal
Architecture”
They are most of Nguyen emperors‟ works reflected the idea of a dynasty,
worldview and outlook of life, management policy of Nguyen dynasty.
3. Some solutions for exploitation and enhancement of Nguyen dynasty‟s
documentary values
During the time and the rise and fall of the history, lots of Nguyen dynasty‟s
documents were lost and damaged. Verses, letters and parallel sentences on constructions
were faded out or disappeared. Therefore, it is necessary to exploit, enhance, maintain and
conserve them at the same time.
In order to minimise the pressure on the original documents approach by a lot of
researchers, copies or translations should be used for researching activities. Nguyen
dynasty‟s documents will be translated exactly from Han-Nom to national and foreign
languages.
Training Han - Nom specialists, researchers, specialists of different fields in
science and society of Han - Nom is considered one of the best way for the contribution of
exploitation and enhancement of Nguyen dynasty‟s documents.
* * *
Vai trò, tác động của các xưởng sản xuất thủ công của triều Nguyễn trong xã hội
Huế và vấn đề bảo tồn, tổ chức sản xuất hàng mỹ nghệ hiện nay
PGS.TS Nguyễn Văn Đăng
(Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Khoa học - Đại học Huế)
Tóm tắt: Huế là kinh đô Việt Nam dưới thời Nguyễn mà một số thành tố vật chất
và phi vật chất của văn hóa cung đình của nó đã được UNESCO xếp hạng là Di sản văn
hoá thế giới. Góp phần cơ bản xây dựng nên di sản văn hóa cung đình Nguyễn nói chung,
64
di sản văn hóa vật thể còn tương đối nguyên vẹn duy nhất của kinh đô phong kiến Việt
Nam ở Huế chính là mạng lưới dày đặc các xưởng thủ công của nhà nước (thường gọi tắt
công xưởng hay quan xưởng).
Bài viết này trên cơ sở của 95 nghề thủ công (tượng cục) trong các ty, cục của nhà
nước thời Nguyễn tại Huế, chúng tôi đề cập đến vai trò, tác động của các xưởng sản xuất
thủ công mỹ nghệ đối với hoạt động kinh tế, đời sống xã hội và sinh hoạt văn hóa của xứ
Huế xưa nói riêng, Việt Nam nói chung. Đồng thời trên cơ sở thực trạng các nghề sản xuất
mỹ nghệ hiện nay để đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần vào công cuộc bảo tồn và tổ
chức sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ đời sống kinh tế - xã hội và hoạt động
du lịch Huế hiện nay.
Abstract: Hue, the capital of Vietnam in Nguyen‟s times, has some tangible and
intangible elements of royal culture recognized World Cultural Heritage by UNESCO.
Contributing to Nguyen dynasty‟s royal cultural heritage in general, tangible cultural
heritage in the feudalism capital of Vietnam, Hue, consists of a network of handicraft
factories of state (arsenals).
This essay is based on 95 handicrafts in some services and offices in Nguyen
dynasty in Hue. We also mention the role and effect of handicraft factories towards
economical activities, social and cultural life in Hue in particular and Vietnam in general.
Simultaneously, on the basis of present reality, production of fine arts should be suggested
some solutions in order to contribute to the conservation and production organization of
handicraft products of fine arts for present socio-economic life and tourism activities in
Hue.
* * *
Một chút tâm tình với di sản của nước Đại Nam xưa
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân
Tóm tắt: Sự nghiệp xây dựng đất nước của triều Nguyễn qua 143 năm (1802-1945)
với hai quốc hiệu là Việt Nam và Đại Nam đã để lại cho hậu thế những kiệt tác di sản. Các
vua đầu triều đã thiết lập được một chính quyền thực hiện những công việc vô cùng quan
trọng: Ban hành Hoàng Việt luật lệ, thiết lập đường Thiên Lý thông suốt từ Lạng Sơn đến
Cà Mau, đào kênh, chính sách khuyến nông, bang giao, tổ chức văn hóa - giáo dục, xây
dựng kinh đô…
Theo dòng chảy lịch sử, di sản văn minh văn hóa vật chất và phi vật chất của nước
Đại Nam đã trải qua những biến cố máu lửa vô cùng nghiệt ngã: Sự kiện thất thủ Kinh đô
(1885), Kinh thành Huế bị thực dân Pháp cướp phá. Ngày 30-8-1945, văn phòng vua Bảo
Đại nộp cho Chính phủ VNDCCH ấn kiếm và biết bao bảo vật quý hiếm khác. Từ năm
1946 đến năm 1975 cùng với cả nước, kinh đô Huế đã hứng chịu những đợt bom đạn,
65
nhiều sách vở, châu bản, mộc bản, địa bạ… bị phân tán. Sau năm 1975, do hoàn cảnh khó
khăn một số kiến trúc lăng chuyển làm nhà ở, kho chứa…
Trải qua hơn 40 năm, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cứu vãn và phát huy
được nhiều công trình di tích có ý nghĩa. Năm di sản vật thể, phi vật thể, tư liệu được
UNESCO công nhận: Quần thể di tích cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Mộc bản,
Châu bản, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế. Thành quả này đã thu hút khách tham
quan trong và ngoài nước, giúp cho ngành du lịch Huế trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục.
Abstract: The cause of building the country of Nguyen dynasty lasted 143 years
(1802-1945) with 2 national official names: Viet Nam and Dai Nam, which left for later
generation heritage masterpieces. The first emperors of dynasty established a state power
executing extremely important works: delivering Hoang Viet rule, establishing a highway
from Lang Son to Ca Mau, digging canals, delivering policy of agricultural
encouragement, diplomatic relations, cultural-educational organizations, building the
capital city…
According to the flow, the tangible and intangible heritage of Dai Nam spent harsh
upheavals: the capital fell (1885), Hue Citadel was looted by French colonialism. On
August, 30th
, 1945, the office of the emperor Bao Dai handed seal and sword and other
precious objects to the government of Democratic Republic of Vietnam. From 1946 to
1975, together with the whole country, Hue capital city had to suffered war, many books,
records of royal, wooden blocks and land register…were dispersed. After 1975, some
constructions of tombs were transferred into houses or storages due to difficult life…
Over the past 40 years, Hue Monuments Conservation Center has restored and
enhanced many meaningful constructions. There are 5 tangible and intangible heritages
acknowledged by UNESCO: Hue Monuments Complex, Hue Court Music, Mộc bản
(wooden blocks), Châu bản (Nguyen dynasty’s imperial archives) and Royal Literature on
Hue Royal Architecture. These fruits have attracted international and national tourists,
which making Hue tourism become a key industry. However, there are still some
shortcomings needed to overcome
* * *
–
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn
Tóm tắt: Thế Miếu là nơi thờ cúng theo điển lệ đại tự quan trọng nhất của triều
Nguyễn được xây vào dưới đời vua Minh Mạng. Theo gia pháp triều Nguyễn, chỉ các vị
vua trị vì cho đến lúc băng hà, được triều đình dâng tôn thụy hiệu, miếu hiệu, sau lễ đại
66
tường (hết tang) mới được rước vào chính thức thờ tại Thế Miếu. Quy chuẩn này được
tuyệt đối tôn trọng cho đến khi triều Nguyễn cáo chung.
Từ năm 1975 đến 2016, sau khi Quần thể di tích Cố đô Huế được Unesco công
nhận là “Di sản Văn hóa thế giới” (1993), Thế Miếu đã được trùng tu- tôn tạo trong nội
thất cũng như cảnh quan bên ngoài, tổ chức các hoạt động tế tự, lễ hội, tham quan có hiệu
quả.
Rất tiếc, có thể vì mục đích muốn tạo ấn tượng thuận tiện cho việc hướng dẫn giải
thích nên trên các án thờ, cơ quan quản lý đã bày biện thêm hình ảnh các vị vua Nguyễn.
Đây là điều rất trái với quy chuẩn thờ tự ở chổ tôn nghiêm như Thế Miếu.…
Để phục vụ cho sự tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa cung đình cuối cùng thời quân
chủ của Việt Nam, có khả năng xứng đáng là di sản văn hóa phi vật thể thiết nghĩ nên bảo
tồn theo đúng cách bài trí, nghi lễ thờ cúng đế vương. Đó chính là sự thống nhất của cộng
đồng quốc tế trong hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Abstract: The To Temple, Nguyen dynasty‟s most important worshipping area,
built in the emperor Minh Mang‟s reign. According to Nguyen court‟s regulation, the
emperors ruled and passed away; after their posthumous names were given and đại tường
(finishing the mourning) ceremony finished, they were worshipped at The To Temple. This
regulation was absolutely respected until the end of Nguyen dynasty.
From 1975 to 2016, after Hue Monuments Complex was recognized “World
Cultural Heritage” (1993) by UNESCO, The To Temple has been restored – embellished in
the interior and outside landscape as well in order to organize worshipping activities,
festivals and sightseeing effectively.
What a pity that management offices displayed many Nguyen emperors‟ images on
worshipping tables for convenient explanations. However, this is contrary to the
worshipping standards at a solemn place like The To Temple.
For the purpose of researching on the royal culture of Vietnam‟s last monarchy, we
should conserve and restore the worshipping activities in accordance with the emperors‟
standard disposition and ritual rites. This proves the unification of international community
in cultural heritage conservation and enhancement.
* * *
Khảo sát các bài kệ truyền thừa pháp danh của Phật giáo Đàng Trong, liên hệ với
cách đặt tên trong hoàng tộc nhà Nguyễn
Nhà nghiên cứu Phạm Đức Thành Dũng
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Từ việc nghiên cứu pháp danh của các dòng thiền Lâm Tế ở Phật giáo
Đàng Trong, liên hệ với những cách đặt tên quá độc đáo của Hoàng tộc nhà Nguyễn, đưa
67
đến nhận định có tính kế thừa thông qua những nét tương đồng. Qua đó nhìn nhận tầm vóc
quá lớn và tài năng trong hoạch định sách lược của vua Minh Mạng, đồng thời đánh giá
những phương pháp đặt tên trong Hoàng tộc của vua Minh Mạng tuy có kế thừa cách đặt
pháp danh xong mở rộng hơn, chi tiết hơn, khoa học hơn… mà chưa có triều đại nào trong
lịch sử có được, để nêu lên một dòng chảy văn hóa hết sức đặc biệt trong giai đoạn, và
trong triều đại Nguyễn.
Bên cạnh đó, phụ thêm việc giải quyết một số nghi vấn khác:
- Pháp danh của Tổ sư Nguyên Thiều mà đến nay nhiều chuyên luận còn bỏ ngỏ.
- Pháp danh ở các dòng truyền thừa dòng Lâm Tế của Phật giáo Nam Hà từ xưa đến
nay mà trước đây bản thân và nhiều bạn hữu rất mơ hồ.
- Đồng thời giới thiệu và dịch thuật một tờ Châu bản triều Nguyễn có thể xem như
khởi thủy của việc đặt tên trong Hoàng tộc nhà Nguyễn cũng như chữ nghĩa của một vị đại
thần văn học bậc nhất của triều đình trong giai đoạn ấy thuộc một dòng tộc khoa bảng rực
rỡ nhất trong triều đại nhà Nguyễn, ngõ hầu đóng góp chút gì cho công việc nghiên cứu
những mảng di sản văn hóa của triều đình Nguyễn và Phật giáo Đàng Trong một thời hưng
thịnh.
Abstract: From the research of Lâm Tế‟s religious names of Southern Vietnam‟s
Buddhism, there existed the relationship of royal Nguyen dynasty‟s original naming and
the consideration of inheritance through the similarities. We can see the talent of the
emperor Minh Mang in planning his tactics. The emperor Minh Mang‟s method of naming
in royal families had influences not only on the inheritance but also on the development
(more scientifically and detailed). This proved an extremely special cultural current in a
period and in Nguyen dynasty.
In addition, some different matters are solved:
-Religious name of Patriarch Nguyên Thiều
-Religious name of Lâm Tế of Nam Hà Buddhism from the past to the present
-Introducing and translating a sheet from Chau version (Nguyen dynasty‟s imperial
archives) which is considered the beginning of name giving in Nguyen royal family and
the knowledge of the most talented high-ranking mandarin of literature in the court at that
time. This contributed to the researching of Nguyen court‟s cultural heritage and Southern
Vietnam‟s Buddhism in a prosperous stage.
* * *
Phật giáo và hệ thống chùa Huế dưới triều Nguyễn
ThS Đặng Đức Diệu Hạnh
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
68
Tóm tắt: Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc
Việt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Qua quá trình lịch sử,
trải qua bao cuộc biến đổi thăng trầm của đất nước, Phật giáo đã khẳng định mình và có
một chỗ đứng vững chắc trong lòng của dân tộc, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc. Tìm
hiểu, nghiên cứu về "Phật giáo và hệ thống chùa Huế dưới triều Nguyễn" góp phần giúp
cho ta có cái nhìn rõ hơn về chính sách tôn giáo của triều đình, thấy được vai trò của Phật
giáo trong xã hội và đời sống của đại đa số quần chúng cũng như chính sách bảo tồn, gìn
giữ các danh lam cổ tự của triều đại mà hiện nay ta tự hào.
Abstract: Buddhism has penetrated in the spirit, thought, idea and way of living of
Vietnamese people for long and become their identities. During the historical stages and
the rise and fall of the country, Buddhism confirms its stable position in the development
and existence of the people. Studying on “Buddhism and system of Hue pagodas under
Nguyen dynasty” helps us have good awareness of the court‟s religious policy and the
Buddhism‟s role in life. From that, we have right conservation policies for famous ancient
pagodas today.
* * *
Viện Thái Y triều Nguyễn - thành tựu và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản
ThS Hồ Châu
(Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh)
Tóm tắt: Viện Thái Y với chức năng và nhiệm vụ chính là khám chữa bệnh (trong
cung đình, ngoài kinh sư), đào tạo thầy thuốc, nghiên cứu các bài thuốc, soạn thảo y thư,
trưng thu, quản lý dược liệu, chỉ đạo hoạt động của mạng lưới y tế trong cả nước, tế miếu
Tiên Y…
I.Thành tựu của viện Thái Y triều Nguyễn:
1.Là cơ quan y tế cao nhất của cả nước đã hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ
do nhà vua giao phó.
2.Là cơ quan y tế có cơ cấu tổ chức đạt đến mức hoàn thiện.
3.Đã đạt được nhiều thành tựu trong việc khám chữa bệnh.
4.Sưu tầm, nghiên cứu ra nhiều bài thuốc hay, soạn thảo và để lại cho hậu thế nhiều
y thư hết sức có giá trị.
5.Đào tạo ra một đội ngũ thầy thuốc đông đảo, có trình độ chuyên môn giỏi.
6.Có công lao rất lớn trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển nền y học cổ truyền
mang đậm bản sắc dân tộc.
II.Hạn chế của viện Thái Y triều Nguyễn:
1.Chưa thật sự chuyên khoa.
69
2.Không có đại danh y.
3.Không có sự kết hợp giữa Đông y và Tây y trong việc khám chữa bệnh.
III. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản viện Thái Y triều Nguyễn :
Việc sớm phục hồi di tích này là vấn đề rất cần thiết, hết sức có ý nghĩa nhằm bảo
tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa mà ông cha đã để lại và đó cũng chính là sự ghi
nhớ công lao to lớn của các thế hệ thầy thuốc viện Thái Y đối với sự trường tồn của nền y
học cổ truyền dân tộc.
Abstract: Main functions of Vien Thai Y are taking care of health, training the
doctors, researching remedies, writing out the prescription, managing the medicine,
directing the medical network‟ s activities all over the country, etc.
I.Achievements of Nguyen dynasty‟s Vien Thai Y:
1.The health agency of high level fulfills all functions and tasks committed by the
emperor
2.The health agency under perfect organization structure
3.Getting lots of achievements on taking care of health
4.Collecting, researching excellent remedies, writing out and leaving valuable
medical prescriptions for the posterity
5.Training medical staff of good speciality
6.Considerable contribution to maintain, conserve and develop traditional medicine
of national identities
II.Limitations of Nguyen dynasty‟s Vien Thai Y
1.Not specialized
2.No talented doctors
3.No combination between Oriental and Occidental medicine in taking care of
health
III.Conservation and Enhancement of heritage values of Nguyen dynasty‟s Vien Thai
Y
It is necessary for early restoration of this construction to conserve and enhance the
ancestors‟ cultural heritage values and memorize the great merits of Vien Thai Y‟s doctors
in traditional medicine of the nation.
* * *
Vai trò của lực lượng quân đội trong công cuộc xây dựng
kinh đô Huế dưới thời Nguyễn (1802 - 1945)
ThS Phan Thúy Vân
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Bài viết này tác giả muốn phân tích và làm rõ hơn vai trò và sự đóng góp
70
của quân đội vào việc xây dựng Kinh đô Huế là vô cùng lớn. Dưới thời Nguyễn, binh lính
ngoài việc giữ yên bờ cõi trước sự tấn công của các thế lực bên ngoài, dẹp yên các cuộc
nổi loạn của các thế lực trong nước, còn tham gia vào việc xây dựng các công trình kiến
trúc phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, làm việc… của triều đình. Lực lượng binh lính tham
gia công tác xây dựng tập trung vào loại lính tại ngũ ở Kinh đô, biền binh... Các công trình
quân đội tham gia xây dựng rất đa dạng từ việc xây đắp thành lũy, cầu cống, cung điện,
vườn tược, miếu điện, sông ngòi, lăng tẩm... Tùy thuộc vào nguồn nhân lực vào thời điểm
xây dựng triều đình sẽ huy động nguồn nhân lực từ quân đội đảm trách các công tác mang
tính chất nặng nhọc như vận chuyển vật liệu, khai phá kiến tạo khu đấ, đắp dòng chảy, tạo
nền móng công trình. Hầu hết các công trình kiến trúc lớn dưới thời Nguyễn đều có công
sức rất lớn của những người lính như công tác xây dựng Hoàng thành, Kinh thành, các
cung uyển, nơi thờ tự…
Quân đội cũng đã góp công rất lớn trong việc xây dựng hệ thống thủy đạo Kinh
thành Huế. Đào sông, hồ, xây đắp bờ kè, cầu cống, khơi thông dòng chảy là những công
việc nặng nhọc, gian khổ phù hợp với những người lính vốn đã được tôi luyện trên chiến
trường. Kỹ luật sắt đá góp thêm phầm quyết định để các công việc đầy gian khó này có thể
hoàn thành đúng thời gian và tiến độ mà triều đình mong muốn.
Lăng tẩm của các vua Nguyễn và các thành viên trong Hoàng gia là một trong
những yếu tố quan trọng cấu thành nên “tuyệt tác” di sản kiến trúc Nguyễn ở Huế. Ngày
nay, du khách khi đến chiêm quang những công trình này đã dành tặng sự ngưỡng mộ bàn
tay tài hoa và công sức tạo dựng của các bậc tiền nhân. Để chắt lọc được những tinh hoa đó
rất nhiều công sức của người dân lao động và binh lính đã đổ xuống. Nơi chốn hoang vu,
rừng thiêng nước độc dưới bàn tay của người lính, người thợ đã trở thành các tác phẩm
kiến trúc độc đáo và đầy ý nghĩa.
Như vậy, bàn tay của hàng vạn người lính qua nhiều thế hệ đã góp công rất lớn cho
sự biến chuyển vượt bậc từ một Đô thành Phú Xuân thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đến
một Kinh đô phồn hoa, lộng lẫy dưới thời các vua Nguyễn. Lịch sử ghi nhận nhiều công
trường xây dựng lớn dưới triều Nguyễn, trong đó những người lính trở thành những người
thợ trên công trường. Lịch sử cũng đã ghi nhận những công trường khắc nghiệt nhất có bàn
tay, công sức của những người lính. Sự đóng góp, hy sinh của người lính và nhân dân thế
hệ trước trong quá trình kiến tạo các di sản vẫn còn lưu truyền mãi trong câu ca dao nổi
tiếng: “Vạn Niên là Vạn Niên nào/ Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.
Abstract: With this speech, the author would like to analyze and make clearer the
great role and the contribution of the army to the building of Hue capital city. Under
Nguyen dynasty, apart from protecting the country from the invasion of exterior force,
pacifying the rebellion of interior force, the soldiers also took part in building architectural
constructions serving the need of daily activities and working…of the court. The
constructions are various from ramparts, bridges and drains, palaces, gardens, temples,
rivers, tombs…Depending on the working force, the court mobilized the armed forces to
take on heavy duties such as material transportation, exploitation of the land, creation of
71
the flow and building the foundation. Most of the big architectural constructions under
Nguyen dynasty such as Imperial City, the Citadel, palaces and gardens, worshipping
places…were received great contributions of the soldiers.
The armed force also contributed to building the waterway of Hue Citadel. Strict
discipline was decisive contribution to the success of this hard work so that it could be
completed in time and rate of progress which the court desire.
The tombs of Nguyen emperors and royal family members are one of the important
factors composing “the masterpiece” of Hue architectural relics. Nowadays, tourists
visiting these constructions give admiration to the talented hands and labor of
predecessors. Wild places and deep forests have become unique and meaningful
architectural works under the hands of workers and soldiers.
Thus, the hands of thousands of soldiers through many generations have
contributed to the transformation by leaps and bounds from Phú Xuân capital under the
Lord Nguyễn Phúc Khoát‟s time to noisy and gaudy capital city under Nguyen emperors.
History has acknowledged many big constructions under Nguyen dynasty, in which the
soldiers became the workers on the site. History also acknowledged the harshest sites
where have had the contributions of the soldiers. The contribution and sacrifice of soldiers
and the citizens of former generations in the process of creating heritages are handed down
forever.
* * *
Sử dụng di sản cung đình triều Nguyễn trong dạy học
ở trường phổ thông tại Thừa Thiên Huế
CN Trần Nguyễn Khánh Phong
(Trường THPT Hương Thủy, Thừa Thiên Huế)
CN Vũ Thị Mỹ Ngọc
(Trường Tiểu học Chi Lăng, thành phố Huế)
Tóm tắt: Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên của ngành giáo dục Thừa Thiên
Huế đã tích cực biên soạn các tài liệu giáo dục địa phương để giảng dạy, trong đó nổi trội
nhất là đã góp phần bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa cung đình triều Nguyễn
ngay từ trong trường học bằng các Tài liệu giáo dục địa phương môn Âm nhạc, Mỹ thuật,
Đạo đức, Lịch sử, Địa lý, Hoạt động ngoài giờ lên lớp dành cho bậc Tiểu học, bậc THCS
và Tài liệu giáo dục địa phương Thừa Thiên Huế môn Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân
dành cho bậc THPT.
Các tài liệu giảng dạy nói trên cho chúng ta thấy được rằng đội ngũ giáo viên được
tập huấn nhiều lần cho các chương trình giảng dạy, được tham gia sinh hoạt tập thể tại các
di sản cung đình Huế. Bên cạnh đó, nhờ sự nhiệt tình của đội ngũ giáo viên cũng như sự
đầu tư cơ sở vật chất tại trường học như máy chiếu, băng đĩa, phòng bộ môn, tranh ảnh, tờ
72
gấp, tờ rơi… giới thiệu về các di sản cung đình Huế nên đã thực sự thu hút sự tham gia học
tập của học sinh.
Chương trình giảng dạy có sự cân đối hài hòa giữa di sản văn hóa vật chất và di sản
văn hóa tinh thần đã thực sự cuốn hút sự tò mò, ham học hỏi của học sinh. Đặc biệt, ngoài
những giờ học lí thuyết, các giáo viên đã hướng dẫn các em tham quan di tích, thực hành
trang trí tranh tượng, vẽ phong cảnh cố đô Huế, xem các buổi biểu diễn nghệ thuật cung
đình.
Sử dụng di sản cung đình triều Nguyễn trong dạy học ở trường phổ thông tại Thừa
Thiên Huế sẽ được nhân rộng và bổ sung thêm nhiều thông tin tư liệu quý giá trong việc
biên soạn tài liệu, khi mà Huế ngày càng có nhiều tư liệu mới được phát hiện nhất là vấn
đề biển đảo dưới triều Nguyễn hoặc di sản cung đình Huế mới được vinh danh thêm một di
sản tư liệu ký ức thế giới: Thơ văn trên cung đình Huế, thì thời gian tới việc sử dụng di sản
này đưa vào giảng dạy tại trường phổ thông sẽ thêm thú vị hơn.
Abstract: Over the years, the teaching staff of Hue educational branch has actively
compiled local educational materials for teaching in which the most prominent result is
contributing to the conservation and promotion of cultural heritage of Nguyen Dynasty
right in school by the local educational document of subjects such as Music, Fine arts,
Ethics, History, Geography, extracurricular activities for primary school, secondary school
and Thua Thien Hue local educational documents of the subjects: History, Geography,
Civics for high schools.
The above-mentioned teaching material shows us that teachers are trained more
than once for the curriculum and participated in group activities at Hue royal heritage sites.
Besides, thanks to the enthusiasm of the teachers as well as the infrastructure investment in
schools such as projectors, tape drive, discipline room, pictures, brochures,
flyers...introducing Hue royal heritage, they have actually attracted the participation of
students in learning.
The curriculum has harmonious balance between physical and spiritual cultural
heritages which have really attracted the curiosity and inquisitiveness of students.
Especially, in addition to the theoretical lessons, the teacher instructed them to visit the
monuments, statues decorating practice, drawing Hue landscape, enjoying royal art
performances.
Using Nguyen dynasty‟s heritages in teaching in schools in Thua Thien Hue will be
replicated and supplemented many valuable information and data in compiling the
document, when Hue gradually has more new material which have been newly especially
the matter on sea and islands under the Nguyen dynasty or a newly honored Hue royal
heritage as Memory of the World, that is royal literature on Hue royal architecture, in
upcoming time, the teaching will be more interesting.