View
212
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
1
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.1. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI
Vốn đầu tư nước ngoài được chia thành hai loại: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI -Foreign Direct Investment), và Đầu tư gián tiếp nước ngoài
(Foreign Indirect Investment hoặc thường dùng hơn là Foreign Portfolio
Investment). Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên
biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm
lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động
quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức Đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Theo Điều 3 Luật Đầu tư của Việt Nam được thông qua năm
2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006 đã xác định: “Đầu tư gián tiếp là hình
thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có
giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài
chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động đầu tư”. Theo cách hiểu này, đầu tư gián tiếp nước ngoài là các khoản
đầu tư gián tiếp do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện. Để phân biệt với đầu
tư gián tiếp trong nước do các nhà đầu tư trong nước thực hiện được thông qua
2 hình thức chủ yếu sau:
- Nhà đầu tư trực tiếp mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ
có giá khác của các doanh nghiệp, của chính phủ và của các tổ chức tự trị
được phép phát hành trên thị trường tài chính.
- Nhà đầu tư gián tiếp thực hiện đầu tư thông qua Quỹ đầu tư chứng
khoán hoặc định chế tài chính trung gian khác trên thị trường tài chính.
Cách hiểu này gần với định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): đầu tư
gián tiếp nước ngoài (FPI) là hoạt động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái
2
phiếu) được phát hành bởi một công ty hoặc cơ quan chính phủ của một nước
khác trên thị trường tài chính trong nước hoặc nước ngoài.
1.2. CÁC HÌNH THỨC VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA FPI
1.2.1. Các hình thức của FPI
Theo Luật đầu tư năm 2005
Điều 26 quy định về các hình thức đầu tư gián tiếp vào Việt Nam
Nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức sau
đây:
Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán;
Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá
khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo
quyđịnh của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Điều 76 quy định về các hình thức đầu tư gián tiếp ra nước ngoài của Việt
Nam:
Việc đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư gián tiếp phải tuân thủ
các quy định của pháp luật về ngân hàng, chứng khoán và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.
1.2.2. Đặc trưng cơ bản của FPI
Thứ nhất, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp
phát hành chứng khoán hoặc các hoạt động quản lý nói chung của cơ quan
phát hành chứng khoán.
3
Thứ hai, nhà đầu tư không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật
chất, công nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như trong trực tiếp
đầu tư (FDI). FPI là đầu tư tài chính thuần túy trên thị trường tài chính.
Trên thực tế, mặc dù FPI dùng để chỉ các hình thức đầu tư không phải là
đầu tư trực tiếp nước ngoài truyền thống (tức đầu tư để lập doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, lập liên doanh hoặc công ty cổ phần và kinh doanh
theo hợp đồng hợp tác kinh doanh…), song sự phân biệt này không phải lúc
nào cũng rạch ròi và thống nhất. Chẳng hạn, khi nhà đầu tư dùng vốn của
mình để mua cổ phiếu của doanh nghiệp, nếu tỷ lệ cổ phiếu do nhà đầu tư nắm
giữ thấp hơn mức nhất định (10% theo tiêu chuẩn của IM F và 30% theo
tiêu chuẩn của Việt Nam hiện hành) là đầu tư gián tiếp, nhưng khi vượt
ngưỡng này lại được xếp vào đầu tư trực tiếp và khi đó, nhà đầu tư có thể
dùng quyền bỏ phiếu của mình để can thiệp trực tiếp vào thực tế quản lý, kinh
doanh của doanh nghiệp…
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞ NG ĐẾN DÒNG VỐN FPI
Nguồn vốn FPI chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
Bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và
môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi).
Nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
Mức độ tự do hóa và cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân
thiện, sự thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi
trường đầu tư trong nước.
Sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói
riêng, của các thể chế thị trường nói chung ở nước tiếp nhận đầu tư.
4
Sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng của
các cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và Nhà nước phát hành, cũng
như các chứng khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính.
Dòng FPI tỷ lệ thuận theo cấp số nhân cũng với sự gia tăng quá trình cổ
phần hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đang hoạt động hiệu quả ở trong nước, cùng với việc mở
rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp.
1.4. VAI TRÒ CỦA FPI
FPI có vai trò lớn trong nển kinh tế toàn cầu nói chung và đối với từng
nước nói riêng. FPI có tác động nhiều mặt, cả tích cực và tiêu cực đối với
nước đầu tư và nước nhận vốn đầu tư.
1.4.1. Đối với nước đi đầu tư
Tác động tích cực
Đa dạng hóa cơ cấu đầu tư, cho phép các nhà đầu tư có thể chuyểnvốn
đến những thị trường mới nổi có mức lợi nhuận kinh doanh cao (kèm
theo hệsố rủi ro lớn). Bằng cách đầu tư FPI, các nhà đầu tư có thể nhanh
chóng khắc phục xu hướng lợi nhuận bình quân giảm dần, nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
San sẽ rủi ro kinh doanh sang các khu vực khác, đặc biệt là các khu vực
thị trường mới nổi. So với đầu tư trực tiếp (FDI), khả năng san sẽ rủi ro
quađầu tư gián tiếp (FPI) nhạy bén hơn và đa dạng hơn.
Thông qua đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư có cơ hội tìm hiểu và thâm nhập
thị trường mới, thích nghi từng bước với thị trường mới.
Tác động tiêu cực
5
Thứ nhất, những rỉ ro đặc biệt của thị trường tài chính nước ngoài, đáng
chú ý là rủi ro chính trị, rủi ro đạo đức và rủi ro kinh tế của thị trường
mới nổi.
Thứ hai, các rào cản về thủ tục hành chính và nhất là về thuế có thể làm
triệt tiêu lợi ích thu được.
Thứ ba, những chính sách điều tiết thị trường vốn của các nước nhận
vốn FPI.
Thứ tư, chi phí giao dịch trong đầu tư FPI có thể cao hơn so với dự
kiến.
1.4.2. Đối với nước nhận đầu tư
Tác động tích cực
Trước hết FPI là một kênh dẫn vốn có quy mô lớn hơn nhiều so với đầu
tư trực tiếp truyền thống, cho phép có thể thu hút lượng vốn lớn của
nước ngoài đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và
các mục tiêu tài chính. Hơn nữa, chính hình thức đầu tư FPI còn giúp
đẩy mạnh FDI thông qua mua cổ phiếu, NĐTNN có thể dễ dàng sở hữu
và trực tiếp quản lý doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra FPI giúp các
doanh nghiệp trong nước có thể hoạt động hiệu quả hơn, năng động hơn
và nâng cao giá trị của mình.
Vốn FPI chảy vào có thể đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của một nước
bằng cách làm tăng khả năng thanh toán và hiệu suất của thị trường vốn
nội địa.
Thị trường vốn với khả năng thanh khoản và hiệu suất cao cho phép
nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả nhất dẫn đến đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng.
6
Khi nguồn vốn FPI chảy vào sẽ có tác động làm tăng tính thanh khoản
của thị trường, bởi các giao dịch vốn trên thị trường trở nên sôi động
hơn khi có sự tham gia của các NĐTNN, qua đó sẽ tạo điều kiện phát
triển phân phối nguồn lực và từ đó có tác động tích cực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Thị trường vốn phát triển có tác động làm giảm rủi ro
thanh khoản. Thị trường vốn với khả năng thanh khoản cao làm cho đầu
tư dài hạn hấp dẫn hơn, bởi vì nó cho phép người gửi tiết kiệm có thể
nhanh chóng bán chứng khoán với chi phí giao dịch thấp khi họ cần sử
dụng khoán tiền tiết kiệm của mình. Khi đầu tư dài hạn trở nên hấp dẫn
hơn sẽ tạo điều kiện cải thiện tình hình phân phối vốn và tăng năng lực
sản xuất.
Tác động tiêu cực
So với các hình thức đầu tư nước ngoài, đầu tư gián tiếp có xu hướng
không ổn định hơn so với các hình thức đầu tư khác do đặc tính thị
trường và khả năng thanh khoản cao. Sự không ổn định của nguồn vốn
FPI ở một mức độ nhất định là có giá trị, bởi vì nó tạo cơ hội tiềm năng
thu hút các nhà đầu tư và kích thích thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, tính không ổn định cũng sẽ gây ra rủi ro, những rủi ro này
nếu không được quản lý hiệu quả có thể gây ra tình trạng mất ổn định
của hệ thống tài chính và các khó khăn kinh tế khác.
Những rủi ro có thể xảy ra khi đầu tư nước ngoài chảy vào nhiều, nhất
là đầu tư gián tiếp đó là những rủi ro vĩ mô: Dòng vốn lớn chảy vào
cũng có thể làm mất cân bằng vĩ mô, đặc biệt là khi chính sách vĩ mô
không nhất quán và hướng tới những mục tiêu mâu thuẫn. Nguy cơ phổ
biến nhất là tỷ giá tăng lên quá mức (đồng bản tệ lên giá), chính điều đó
phá vỡ cân bằng tài khoản vốn và làm tích tự nợ nước ngoài.
7
Bên cạnh đó, vốn đổ vào có thể gây ra áp lực lạm phát trong một số
trường hợp như: khi tỷ giá cố định đươc duy trì, dòng vốn đổ vào dẫn
đến tình trạng mở rộng điều kiện tiền tệ trong nền kinh tế, qua đó sẽ tác
động đến mức giá, tỷ lệ lạm phát có thể gia tăng. Điều đó sẽ gây bất lợi
cho hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của hệ thống trung gian
tài chính nói riêng.
Rủi ro khủng hoảng tài chính tiền tệ có thể xảy ra khi các NĐTNN rút
vốn ào ạt, nhất là đối với các nguồn đầu tư gián tiếp. Các cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở M êxicô (1994), Thái Lan (1997) là một minh
chứng rất rõ nét về rút vốn ồn ạt của các nhà đầu tư gián tiếp. M ặc dù
các cuộc khủng hỏang tài chính tiền tệ, có thể xuất phát từ những
nguyên nhân khác nhau (khủng hoảng lòng tin, khủng hoảng các chỉ số
kinh tế cơ bản…), nhưng bối cảnh đó, nguồn vốn đầu tư gián tiếp chiếm
tỷ trọng cao trong các khoản vay nợ nước ngoài sẽ càng làm trầm trọng
thêm mức độ khủng hoảng. Chính vì vậy, để tránh những tác động xấu
của nhà đầu tư gián tiếp, việc kiểm soát chặt chẽ luồng vốn này là rất
cần thiết.
8
PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP TẠI VIỆT NAM
2.1 SỰ CẦN THIẾT VÀ TIỀM NĂNG THU HÚT ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1.1 SỰ CẦN THIẾT THU HÚT ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP.
Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc
đẩy sản xuất, thì FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển
theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh
bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn
vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản trị doanh
nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế.
Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp mang một ý
nghĩa rất quan trọng. Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước,
Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai
đoạn (2006-2010) để xây dựng, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế
và hạ tầng xã hội. Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách
và cổ phần hóa nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập
WTO. Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các
kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK). Các mối
quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các
hiệu ứng tốt tác động đến các doanh nghiệp. Vì lợi ích của hội nhập không
những được đánh giá thông qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng
hàng hóa, dòng người mà còn có cả dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu
tư FII sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài
9
chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các
cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động “phi
thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế
(vốn, công nghệ, quản lý…).
Hơn nữa, đầu tư gián tiếp có thể giúp vốn cho doanh nghiệp trong nước,
giúp doanh nghiệp tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh, do vậy FPI
rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn.
Tuy nhiên, dòng vốn FPI cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh
huy động vốn từ nước ngoài khác. Do vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn định, tương
xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn, nâng cao
năng lực quản trị của nhà doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu
WTO là vấn đề cần được quan tâm.
2.1.2 TIỀM NĂNG THU HÚT FPI
Theo khảo sát của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) gần đây cho thấy, vào
năm 2001 lợi nhuận từ vốn FPI thế giới tăng gấp 2 lần vốn FDI. Trong vòng 4
năm, đầu tư gián tiếp toàn cầu đã tăng 2 lần; nước có tỷ trọng đầu tư gián tiếp
lớn nhất là Mỹ chiếm 24,5%, tiếp đó là Anh chiếm 10%. Dòng vốn FPI đang
trỗi dậy mạnh mẽ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 và đang chuyển hướng
đầu tư sang các quốc gia đang phát triển có tiềm năng, nhằm hạn chế các rủi
ro đầu tư.
Hiện có khoảng trên 100 định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp trên
thế giới đang quản lý một khối lượng tài sản khổng lồ, khoảng 300 tỷ USD.
10
Chỉ cần họ chấp nhận đầu tư vào Việt Nam 0,1% là chúng ta đã có khoảng
300 triệu USD.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các yếu tố sản xuất trong quá trình tái
sản xuất hàng hóa, dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nơi này sang nơi
khác, nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi quốc gia thông qua các cam kết
mở cửa thị trường. Việt Nam đang nổi lên như một quốc gia có nhiều tiềm
năng thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn
định, tiềm năng tăng trưởng kinh tế dài hạn, Việt Nam còn là một quốc gia có
nhiều lợi thế so sánh hấp dẫn nhà đầu tư như: nguồn lao động, thị trường, tài
nguyên. Hơn nữa, vận nước đang lên, Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò,
vị trí và tầm quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Sự
quan tâm của khu vực và thế giới tới Việt Nam, đặc biệt là thời điểm Việt
Nam gia nhập WTO, cộng với sự thành công của các nhà đầu tư hiện hữu tại
đây sẽ mở ra cơ hội lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FPI) là một tiềm năng rất lớn
đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Với các yếu tố thuận lợi
khách quan, Việt Nam hoàn toàn có khả năng khai thác tiềm năng dòng chảy
vốn FII của thế giới phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2.2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI FPI
Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng
nguồn vốn FPI vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FPI
vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp
so với vốn FDI. Một số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy
mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn (1991-
11
1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá thấp so
với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FII/FDI trong khoảng 30-40%).
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đầu tư FPI vào Việt Nam trong thời
gian gần đây cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị
trường chứng khoán của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã
không ngừng gia tăng. Đến cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư
gián tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính thức.
Theo các nhà đầu tư, lý do để họ hướng về Việt Nam là Chính phủ đã
khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của nền
kinh tế, tính chuyên nghiệp hoá từng bước của môi trường đầu tư và sự thành
công của những nhà đầu tư hiện hữu. Bên cạnh đó, phải kể đến những bước
tiến mới trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam bao gồm: việc phát hành thêm
trái phiếu chính phủ ra nước ngoài và trái phiếu tư nhân, thành lập Tổng công
ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); quá trình cổ phần hoá đang
diễn ra tại Việt Nam bao gồm cả ngân hàng thương mại quốc doanh; tăng
cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống điện và giao thông, cải cách
khung pháp lý dành cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, để có thể thu hút thêm nguồn vốn FII tương xứng với tiềm
năng của nền kinh tế và thị trường, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt
động cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là khung pháp lý, cơ chế và sách
lược phát triển thị trường chứng khoán
2.2.1 DÒNG VỐN FPI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
DÒNG VỐN FPI QUA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ
12
Kênh thu hút vốn này được coi là kênh mở đầu cho thời kỳ tiếp nhận
nguồn vốn FPI đối với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù đã trải qua
nhiều giai đoạn thăng trầm khi xét trên góc độ quy mô vốn đầu tư, nhưng kênh
dẫn vốn này vẫn đang chứng tỏ là một trong những kênh huy động vốn dài
hạn quan trọng cho nền kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy
mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó có tái cấu trúc TTCK, theo đó
hành lang pháp lý cho các loại hình quỹ đầu tư đa dạng đang từng bước được
hoàn thiện để thu hút sự tham gia nhiều hơn của loại hình nhà đầu tư có tổ
chức trên TTCK.
Giai đoạn 1991 - 2005 (trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới - WTO). Mặc dù đây là giai đoạn nguồn vốn FII vào Việt Nam
phải chứng kiến nhiều sự biến động nhất, nhưng cũng là giai đoạn đã góp
phần tạo tiền đề cho lộ trình thu hút nguồn vốn FII ổn định và quy mô lớn hơn
cho suốt những giai đoạn sau đó.
Từ 1991 - 1996, tuy chưa có TTCK, nhưng FPI đã vào Việt Nam dưới
hình thức 7 quỹ đầu tư quốc tế với tổng số vốn khoảng 400 triệu USD (Bảng
1). Trong giai đoạn này, giá các chứng chỉ quỹ này tăng nhẹ và luôn cao hơn
giá trị tài sản ròng (NAV).
Năm 1997, mặc dù so với các nước khác trong khu vực, ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á tới nền kinh tế Việt Nam ít nặng nề hơn
nhưng nguồn vốn FII không vì thế mà khả quan hơn. Với các quỹ đang hoạt
động trong giai đoạn này, giá chứng chỉ quỹ giảm mạnh, mức chiết khấu từ
43,6 - 47,7% so với NAV. Hoạt động đầu tư thua lỗ, khiến các quỹ đẩy mạnh
cắt giảm quy mô, 5 trong số 7 quỹ đã rút khỏi Việt Nam, 2 quỹ còn lại thu hẹp
13
90% quy mô, trong đó chỉ còn duy nhất Quỹ Vietnam Enterprise Investment
Fund duy trì hoạt động. Thêm vào đó, trong thời gian này, số lượng doanh
nghiệp cổ phần hóa rất ít, cả nước chỉ có 38 doanh nghiệp tư nhân được thành
lập, 128 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa. Những điều này đã phần
nào làm giảm mức độ thu hút của thị trường Việt Nam đối với nhà ĐTNN. Do
đó, từ năm 1997 cho đến hết năm 2002, không có bất kỳ quỹ đầu tư mới nào ở
Việt Nam ra đời.
Từ năm 2003 tới năm 2005, dòng vốn FPI bắt đầu quay trở lại TTCK
Việt Nam với 13 quỹ mới được thành lập có tổng quy mô vốn đạt 908 triệu
USD. Đây là kết quả của sự ra đời và phát triển của Sở Giao dịch Chứng
khoán (SGDCK) Tp. Hồ Chí Minh (2000) và SGDCK Hà Nội (2005) cùng với
hành lang pháp lý được điều chỉnh theo hướng khuyến khích và tạo điều kiện
cho các nhà ĐTNN tham gia TTCK Việt Nam, đơn cử như việc điều chỉnh tỷ
lệ nắm giữ của nhà ĐTNN, từ mức 20% lên mức 30% (2003) sau đó lên mức
49%, đã tạo môi trường đầu tư rộng mở hơn cho các nhà ĐTNN.
Giai đoạn từ 2006 (Việt Nam gia nhập WTO) đến nay. Với tốc độ tăng
trưởng kinh tế những năm 2006, 2007 đạt mức bình quân 7,5%/năm, Tổ chức
xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt
Nam từ mức B3 lên B1. Việc gia nhập WTO vào năm 2006 cùng với sự tăng
trưởng nhanh chóng của TTCK đã giúp Việt Nam thu hút được đông đảo nhà
ĐTNN, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức (quỹ đầu tư) từ các nền kinh tế
phát triển. Quy mô vốn FII mới vào thông qua 12 quỹ đầu tư mới (2006) đạt
hơn 780 triệu USD với một số quỹ điển hình như Golden Brigde, Blackhorse,
DWS Vietnam Fund… Tính tới thời điểm cuối năm 2006, lượng vốn FII tăng
lên tới 2 tỷ USD, cao hơn tất cả giai đoạn trước đó cộng lại. Giao dịch của các
14
quỹ đầu tư thời kỳ này chiếm khoảng 60% tổng giao dịch toàn thị trường, có
vai trò dẫn dắt giao dịch của cả thị trường.
Trong giai đoạn từ 2008 đến năm 2011, dòng vốn của các quỹ ĐTNN
vẫn tiếp tục hướng tới thị trường Việt Nam kể cả khi TTCK có sự điều chỉnh
mạnh. Trong giai đoạn này, các quỹ đóng mới được thành lập và đặc biệt là sự
xuất hiện của ba quỹ hoán đổi danh mục (ETF - Exchange Traded Fund), gồm
các quỹ FTSE Vietnam Index ETF, Market Vectors Vietnam ETF và iShares
MSCI Frontier 100 ETF (Bảng 2).
Năm 2011, hai quỹ FTSE Vietnam Index ETF, Market Vectors Vietnam
ETF) đã góp phần huy động lên tới 150 triệu USD vốn ĐTNN vào thị trường
Việt Nam, nhưng năm 2012 giảm xuống còn hơn 80 triệu USD (FTSE
Vietnam ETF thu hút 28,5 triệu USD và Market Vectors Vietnam ETF thu hút
được 52,24 triệu USD). Trong hai năm 2013 – 2014, nhà ĐTNN có động thái
rút vốn tại các quỹ này, tuy nhiên quy mô rút vốn không lớn. Tính bình quân
cả năm thì hai quỹ ETF trên vẫn duy trì trạng thái vào ròng, trong đó tính
riêng năm 2013, quỹ Market Vectors Vietnam ETF đã tiếp nhận tổng cộng
66,88 triệu USD vốn ĐTNN, con số này tiếp tục tăng trong quý I/2014, đạt
83,37 triệu USD. Có thể nói, các quỹ ETF nước ngoài đã có những đóng góp
tích cực trong việc cải thiện thanh khoản TTCK trong thời gian qua và duy trì
triển vọng khả quan từ nguồn vốn của các nhà ĐTNN đối với TTCK Việt
Nam kể cả ở những thời điểm thị trường được đánh giá là khó khăn như giai
đoạn 2010 - 2012.
Mặc dù xu hướng vốn ĐTNN vào ròng tại các quỹ ĐTNN chiếm ưu thế,
nhưng cũng cần phải cân nhắc tới vấn đề thoái vốn từ các quỹ này khi các quỹ
15
đã đến thời gian đáo hạn cũng như xem xét áp dụng các biện pháp kiểm soát
hoạt động thoái vốn của các quỹ, nghiên cứu các sản phẩm bảo hiểm rủi ro
cho nhà đầu tư để tránh gây biến động lớn về giá cổ phiếu trên thị trường thứ
cấp và ảnh hưởng tới tâm lý của nhà đầu tư trong nước.
2.2.1.1 VÀI NÉT VỀ CÁC CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ VÀ QUỸ ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI CHỦ YẾU TẠI VIỆT NAM.
Theo thống kê của Công ty quản lý quỹ chứng khoán VN (VFM), hiện
có gần 30 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn
rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD.
Hiện nay, hàng loạt quỹ đầu tư nước ngoài đang đổ vốn vào thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Các quỹ đầu tư là phương tiện để nhà đầu tư đưa các khoản tiền của họ
vào nhằm có được yếu tố đầu tư đa dạng và điều kiện quản lý chuyên nghiệp.
Nhà đầu tư không hưởng lợi trực tiếp từ các cổ phiếu được mua bán trên thị
trường chứng khoán mà sẽ chia sẻ hiệu quả sau quá trình mua bán chứng
khoán tập trung của quỹ đó.
Lợi ích trước hết và quan trọng hơn cả khi tham gia vào quỹ đầu tư là
khả năng đầu tư đa dạng. Lợi ích khác do các quỹ đầu tư mang lại là trình độ
quản lý chuyên nghiệp. Một lợi ích nổi bật nữa của quỹ đầu tư là các cổ phần
góp vốn vào quỹ này có tính thanh khoản (nhà đầu tư muốn rút lui khỏi tổ
chức đầu tư này có thể bán lại phần tài sản của họ với giá phải chăng để
chuyển thành tiền mặt trong thời gian ngắn).
16
Hiện nay, nhiều công ty quản lý quỹ đầu tư tập chung chính vào thị
trường Việt Nam như Vina Capital, Mekong Capital, Dragon Capital.
Một số công ty Quản lý quỹ chủ yếu
1. Dragon Capital
Dragon Capital là điển hình về sự kiên trì “bám trụ” ở VN. Đây là công
ty quản lý quỹ thành lập ở Anh năm 1994. Năm 1997-1998, khi cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực xảy ra, nhiều quỹ đầu tư đã ra đi. Nhưng Dragon
Capital thì ở lại, và đã thành công. Dragon Capital lập Quỹ Vietnam
Enterprise Investment Limited (VEIL) năm 1995. Đây là quỹ đầu tư nước
ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng tài sản hiện nay ước tính khoảng 1 tỷ
USD. Năm 2003, Dragon Capital liên doanh với Sacombank để thành lập
VietFund Mangagement (VFM), công ty quản lý quỹ đầu tiên tại Việt Nam.
Hiện VFM đang quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1).
Cuối năm 2004, Dragon Capital lại thành lập quỹ thứ hai tại Việt Nam
là Vietnam Growth Fund Limited (VGF) hiện có tổng vốn 500 triệu USD.
Sang năm 2005, Dragon lập thêm quỹ Vietnam Dragon Fund Limited (VDF)
có tài sản hiện tại là 340 triệu USD. Quỹ đầu tư mới nhất của hãng này là
Vietnam Resource Investment (Holdings) Limited (VRI), từ 2007. Đây là quỹ
đầu tiên đầu tư vào các công ty kinh doanh về tài nguyên thiên nhiên.
Tháng 9 vừa rồi, Dragon Capital đã giới thiệu một chỉ số chứng khoán
riêng của mình, chỉ số Dragon Capital VN30 Index (DC VN30 Index), đo
lường các thay đổi trên cả 3 sàn giao dịch TP. HCM, Hà Nội và thị trường
OTC.
17
2. VinaCapital
Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ
tháng 11/2003 với việc ra đời quĩ đầu tư tư nhân Vietnam Opportunity Fund
(VOF). VOF là quĩ do một số tổ chức tài chính lớn thành lập để đầu tư vào
Việt Nam, trong đó ông Robert Knapp, Giám đốc quĩ Millennium Partners (là
quĩ đầu tư lớn tại Mỹ với số vốn 4 tỷ USD), có tỉ lệ góp vốn lớn nhất.
Từ giữa năm 2006, Công ty Quản lý quỹ VinaCapital khai trương Quỹ
bất động sản VinaLand, nhưng số tiền mà các nhà đầu tư nước ngoài góp vào
quỹ đã lên tới 65 triệu đô la Mỹ, vượt mức dự kiến 15 triệu đô la Mỹ. Ngoài
VinaLand, VinaCapital đang nỗ lực giải ngân nốt số tiền còn lại chừng 50
triệu đô la Mỹ trong tổng số 171 triệu đô la Mỹ của Quỹ Vietnam
Opportunities Fund (VOF) với hướng đầu tư chính của VOF tiếp tục là cổ
phiếu OTC và địa ốc.
Ngay từ đầu năm 2007, VinaCapital đã lên kế hoạch thành lập mới một
quỹ đầu tư bất động sản với tổng vốn đầu tư lên tới 200 triệu USD.
Ngày 5/7/2007, Vina Captial đã chính thức đưa Quỹ Cơ sở hạ tầng Việt
Nam (Vietnam Infrastructure Limited – VIL) lên niêm yết trên sàn chứng
khoán thứ cấp London (Alternative Investment Market – AIM). Đây là quỹ
đầu tiên giao dịch trên thị trường AIM tập trung vào các lĩnh vực hạ tầng cơ
sở then chốt của Việt Nam, bao gồm năng lượng, vận tải, nước và viễn thông.
Sự kiện này đã nâng số quỹ đầu tư mà Vina Capital mở tại Việt Nam lên thành
bốn quỹ với tổng số vốn đầu tư gián tiếp đã thu hút vào Việt Nam lên tới 1,8
tỷ USD.
18
VinaCapital cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào các công ty công nghệ.
Công ty quản lý quỹ này đã liên doanh với Tập đoàn Draper Fisher Jurveton -
tập đoàn đầu tư mạo hiểm với tổng vốn đầu tư trên 3,5 tỷ USD để lập quỹ đầu
tư DFJ VinaCapital với tổng số vốn đầu tư ban đầu là 50 triệu USD.
3. Mekong Capital
Mekong Capital là công ty quản lý quỹ đầu tư tập trung vào Việt Nam
do các cá nhân có kinh nghiệm về mảng quản lý đầu tư cả ở Việt Nam và quốc
tế thành lập năm 2001.
Phần lớn các vị trí cao cấp trong công ty là do người Việt Nam nắm giữ
và cũng là cổ đông của công ty.
Công ty bắt đầu hoạt động từ năm 2002 tại Việt Nam với việc thành lập
Quỹ đầu tư Mekong Enterprise Fund đầu (tổng vốn đầu tư 18,5 triệu USD).
Mekong Capital chọn những công ty thuộc khu vực tư nhân ở các địa phương
với quy mô nhỏ làm đối tác.
Đến nay, quỹ đã đầu tư hết vào 10 công ty Việt Nam như Công ty Xây
dựng và Kiến trúc AA, Công ty tin học Lạc Việt, Công ty nhựa Tân Đại Hưng,
Công ty gỗ Đức Thành.
Ngày 5/6/2006, công ty đã chính thức khai trương quỹ đầu tư cổ phần
thứ 2 (Mekong Enterprise Fund II) tại TP.HCM. Quỹ có tổng vốn 50 triệu
USD, tập trung đầu tư vào các công ty tư nhân Việt Nam phục vụ cho thị
trường trong nước, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối và quảng
bá thương hiệu (vốn đầu tư trung bình cho mỗi dự án là 3 triệu USD).
19
Cũng từ giữa năm 2006, Công ty đã đẩy mạnh đầu tư gần hết số vốn
18,5 triệu đô la Mỹ của Mekong Enterprise Fund vào các doanh nghiệp cổ
phần.
4. Indochina Capital
Indochina Capital đã hoạt động ở Việt Nam 15 năm
Trong 15 năm qua, công ty đã tiến hành đầu tư 1 tỷ USD vào các dự án
địa ốc, trong đó tiêu biểu là các dự án như Khách sạn Furama (Đà Nẵng),
Saigon Center (Tp.HCM), 63 Lý Thái Tổ (Hà Nội)... và nhiều dự án địa ốc
khác do công ty đầu tư chính; và góp vốn chung với một công ty khác đầu tư
dự án khu du lịch Nam Hải (Đà Nẵng).
Ngoài lĩnh vực bất động sản, công ty còn đầu tư vào thị trường chứng
khoán kể từ khi thị trường chứng khoán bắt đầu mở cửa cho đến nay và tổng
cộng công ty đã đầu tư khoảng 50 triệu USD vào thị trường chứng khoán.
Hiện công ty đang quản lý số vốn khá lớn của các tổ chức tài chính và các cá
nhân nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, Indochina Capital cũng đã thành lập hai quỹ, một địa ốc với
42 triệu đô la Mỹ và một quỹ chứng khoán với 50 triệu đô la Mỹ.
Để phục vụ cho mục tiêu lâu dài trên thị trường Việt Nam, Indochina
Capital đã thành lập Quỹ Indochina Capital Holding Limited và thực hiện đợt
phát hành và niêm yết trên thị trường chứng khoán London với quy mô ban
đầu là 500 triệu USD (3/2007). Sự kiện này ngay lập tức đã thu hút sự quan
20
tâm của nhà đầu tư nước ngoài và trong đợt phát hành lần đầu Indochina
Capital Vietnam Holding Limited dự định thu hút khoảng 300-350 triệu USD
nhưng đã nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư và đạt được con
số 500 triệu USD.
Một số quỹ đầu tư chủ yếu
1. Prudential
Quỹ đầu tư Prudential (PRUBF1) do Công ty Quản lý Quỹ đầu tư
Prudential Việt Nam thành lập năm 2006.
Trong các quỹ đầu tư của nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam hiện
nay, Prudential được xem là quỹ đầu tư lớn nhất với quy mô quỹ vào khoảng
500 triệu USD.
Tuy nhiên, 65% vốn của quỹ này dành để đầu tư vào trái phiếu Chính
phủ, chỉ có khoảng 35% còn lại tương đương với khoảng 175 triệu USD là
dành đầu tư vào tài sản vốn và thị trường chứng khoán.
Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, Quỹ đầu tư này rất phù hợp
với các nhà đầu tư có khả năng chấp nhận rủi rot rung bình, thời gian đầu tư từ
trung bình đến dài hạn và mong muốn có thu nhập định kỳ cùng triển vọng
nâng cao giá trị vốn đầu tư.
2. Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL)
VEIL là quỹ đầu tư nước ngoài duy nhất có thời gian hoạt động lâu nhất
tại Việt Nam. Quỹ được thành lập vào tháng 7-1995 với tổng số vốn huy động
21
ban đầu là 35 triệu USD, và trong hơn 10 năm hoạt động đó VEIL đã vượt qua
khủng hoảng kinh tế khu vực và nâng số vốn huy động lên đến hơn 109 triệu
USD. Hiện nay, VEIL là quỹ đứng thứ hai tại Việt Nam về mặt quy mô vốn
huy động nhưng lại đứng đầu về lượng vốn hóa thị trường.
Nguồn vốn đầu tư của VEIL được huy động từ các nhà đầu tư có tổ
chức nước ngoài chủ yếu từ Anh, Mỹ và Canada. Bên cạnh đó, VEIL có một
phần vay từ tổ chức tài chính quốc tế IFC trực thuộc Ngân hàng Thế giới
WorldBank. VEIL là quỹ đóng và được niêm yết trên thị trường chứng khoán
(TTCK) NCB ở Ailen.
Quỹ VEIL được thành lập bởi Công ty quản lý quỹ Dragon Capital với
mục tiêu đầu tư vào các công ty tư nhân, doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần
hóa, công ty cổ phần niêm yết hoặc chưa niêm yết và các công ty có vốn đầu
tư nước ngoài mà nguồn doanh thu chủ yếu từ Việt Nam.
VEIL ưu tiên đầu tư vào 5 ngành chính là tài chính ngân hàng, cơ sở hạ
tầng, bưu chính - viễn thông, du lịch, khai thác khoáng sản và hàng tiêu dùng.
VEIL tập trung đầu tư vào doanh nghiệp có quy mô vốn từ 2 - 3 triệu USD trở
lên và đặc biệt không đầu tư vào các công ty được quản lý bởi gia đình.
Trong năm 2005, VEIL được xem là quỹ có kết quả hoạt động tốt nhất
tại Việt Nam khi giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ tăng 37,1% so với
các năm trước và giá của một đơn vị quỹ VEIL được giao dịch cao hơn gần
11% giá trị tài sản ròng.
3. Vietnam Growth Fund (VGF)
22
Quỹ VGF cũng được quản lý bởi Dragon Capital và thành lập vào tháng
10-2004 với số vốn huy động ban đầu là 60 triệu USD. Cũng như VEIL, VGF
là quỹ đóng và được niêm yết ở TTCK NCB ở Ailen. VGF có tốc độ tăng vốn
khá nhanh so với VEIL, chỉ sau hơn một năm hoạt động quy mô vốn của quỹ
đã tăng 66,7% đạt 100 triệu USD.
Mục tiêu đầu tư của VGF là nhằm vào những công ty có tốc độ tăng
trưởng nhanh và thuộc những ngành đầu tư như VEIL. VGF đặc biệt không
đầu tư vào thị trường bất động sản. Giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ
và giá giao dịch của VGF vào cuối năm 2006 tăng 15% và 17,6% so với năm
trước.
4. Vietnam Dragon Fund (VDF)
Dragon Capital cho biết mới vừa thành lập Quỹ VDF vào đầu năm 2006
với số vốn đầu tư ban đầu là 35 triệu USD. Quỹ VDF được huy động vốn bởi
các nhà đầu tư Nhật Bản. Đây cũng là một quỹ đóng và được niêm yết ở
TTCK NCB. Mục tiêu đầu tư của VDF tương tự như VEIL là ưu tiên đầu tư
vào 5 ngành chính là tài chính - ngân hàng, cơ sở hạ tầng, bưu chính - viễn
thông, du lịch, khai thác khoáng sản và hàng tiêu dùng.
Trong 9 tháng đầu năm 2006, VDF đã thực hiện 30 khoảng đầu tư vào
các công ty niêm yết và không niêm yết hoạt động chủ yếu ở Việt Nam. Tổng
giá trị tài sản ròng tính đến cuối tháng 9-2006 đạt hơn 169 triệu USD tăng gần
22,5% so với tháng 12-2005.
5. Vietnam Opportunity Fund (VOF)
23
VOF của Vinacapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ tháng 9-2003,
đến tháng 9-2006 có quy mô tổng vốn huy động 171 triệu USD được tập trung
đầu tư vào những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh như dịch vụ tài chính,
hàng tiêu dùng, bán lẻ, bất động sản, du lịch, cơ sở hạ tầng và ngành công
nghệ.
Mới hoạt động hơn 3 năm, VOF đã đạt kết quả đầu tư tốt và tốc độ tăng
vốn nhanh. Giá trị chứng chỉ quỹ luôn được giao dịch cao hơn giá trị tài sản
ròng trên một cổ phiếu quỹ khoảng 20 – 25% và thậm chí đạt đến đỉnh điểm
44,6%.
Giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ vào đầu năm 2006 đạt 1,6
USD, tăng 39,1% so với cùng kỳ năm trước. Quy mô vốn của VOF vào cuối
năm 2005 nhỏ hơn VEIL, nhưng gần đây VOF đã huy động thêm được hơn 76
triệu USD từ nhà đầu tư Millenium Parnerts của Mỹ và vươn lên đứng đầu về
vốn đầu tư tại Việt Nam.
6. PXP Vietnam Fund
Thành lập sau VOF chừng 3 tháng, PXP Việt Nam chỉ tập trung đầu tư
vào những công ty đã niêm yết hoặc chuẩn bị niêm yết tại TTCK Việt Nam.
Quỹ PXP đầu tư dài hạn vào những công ty Việt Nam hoặc có vốn đầu tư
nước ngoài nhưng lượng vốn hóa ở mỗi công ty phải đạt tối thiểu 5 triệu USD
hay có chỉ số giá trên thu nhập (P/E) của công ty đó phải tương đương với P/E
thị trường.
Nhờ vào sự tăng trưởng mạnh của TTCK Việt Nam nên PXP đã cải
thiện nhanh kết quả đầu tư, sau 2 năm hoạt động giá trị tài sản ròng trên một
24
đơn vị quỹ đạt 3,2 USD, tăng 33,3% so với năm trước. Với việc đầu tư vào
Công ty Dược phẩm Imexpharm, trong cùng thời gian này PXP đã nâng tổng
số công ty đã đầu tư lên 23 đơn vị và đạt 93% tổng lượng vốn huy động.
Tất cả 10 công ty chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng tài sản ròng của PXP
là những doanh nghiệp đã niêm yết trên TTCK và có kết quả kinh doanh tốt
trong năm vừa qua. Ngoài việc thành lập quỹ mới VEEF vào cuối tháng 11-
2005, PXP tăng quy mô quỹ từ 25,8 triệu USD lên khoảng 40 triệu vào quý 2-
2006 bằng cách phát hành thêm hơn 2 triệu cổ phiếu.
7. Vietnam Emerging Equity Fund (VEEF)
Bên cạnh PXP Việt Nam, PXP Asset Management đã mở thêm quỹ đầu
tư mới Vietnam Emerging Equity Fund (VEEF) vào thị trường Việt Nam với
quỹ mô vốn khoảng 15,9 triệu USD từ tháng 11-2005 và được niêm yết tại
TTCK Ai-len (NCB). VEEF cũng tập trung đầu tư vào những công ty niêm
yết hoặc chuẩn bị niêm yết trên TTCK Việt Nam. Đến giữa quý 3-2006,
VEEF đầu tư vào 28 công ty Việt Nam, giá trị tài sản ròng đạt 52,5 USD, tăng
36% so với lúc mới thành lập.
8. Mekong Enterprise Fund (MEF)
Trong số 7 quỹ tư nhân và quỹ không niêm yết của nước ngoài đầu tư
tại Việt Nam, MEF ra đời từ tháng 4-2002 với quy mô vốn 18,5 triệu USD và
do Công ty Mekong Capital quản lý. Đối tượng đầu tư của MEF là những
công ty gia đình vừa và nhỏ, có kết quả kinh doanh tốt, đặc biệt năng động
trong kinh doanh và có khuynh hướng niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán.
25
MEF không quan tâm đến những công ty có quy mô lớn và thường cung
cấp dịch vụ hỗ trợ sau đầu tư để giúp các công ty đó cải thiện hoạt động quản
lý doanh nghiệp và có thể phát triển vượt bậc trong tương lai. Với tốc độ đầu
tư khoảng 3 - 4 công ty mỗi năm, đến nay MEF đã đầu tư 10 doanh nghiệp với
tổng vốn khoảng 13 – 14 triệu USD.
MEF đã đầu tư gần hết lượng vốn huy động, vì vậy Mekong Capital mở
thêm quỹ mới vào năm 2006 với quy mô vốn khoảng 40 triệu USD và cùng
chiến lược đầu tư như MEF.
9. IDG Ventures Vietnam (IDG)
IDG Ventures Vietnam (IDGVV) là quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên của
Mỹ tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao được thành lập vào tháng 3-2004.
Quỹ này ưu tiên đầu tiên vào các doanh nghiệp trẻ kinh doanh các ngành công
nghệ cao tại Việt Nam.
Với quy mô 100 triệu USD, IDGVV đầu tư vào những doanh nghiệp có
tiềm năng phát triển cao thuộc các ngành công nghệ thông tin, viễn thông,
internet, truyền thông và công nghệ sinh học. Đến nay, IDGVV đã đầu tư 5
triệu USD vào 4 doanh nghiệp PeaceSoft, Isphere, VinaGame và
VietnamWorks.com.
Trong thời gian 7 năm (2003-2010), IDG dự kiến dành khoảng 100 triệu
USD đầu tư CNTT tại Việt Nam, riêng đầu tư mạo hiểm chiếm tới 80 triệu
USD.
26
Cho đến nay, IDG có 16 dự án đầu tư vào các công ty của Việt Nam với
tổng số vốn trên 25 triệu USD. Theo kế hoạch, từ nay tới cuối năm, IDG sẽ
đầu tư vào hai công ty nữa với số vốn từ 10 đến 12 triệu USD.
Theo IDG Ventures, yếu tố chính để họ quyết định đầu tư vào các công
ty được lựa chọn là yếu tố con người, lãnh đạo. Trung bình 1 tháng IDG nhận
được hơn 100 dự án mời gọi đầu tư của các công ty Việt Nam. Lĩnh vực mà
IDG quan tâm nhất vẫn là công nghệ cao và media.
2.2.2 DÒNG VỐN FPI THÔNG QUA CÁC GIAO DỊCH CHỨNG
KHOÁN
Dữ liệu thống kê từ Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, cơ cấu nguồn
vốn FII vào Việt Nam thời gian qua, xét theo loại chứng khoán đầu tư, tập
trung chủ yếu ở mảng giao dịch cổ phiếu.
Đối với mảng đầu tư trái phiếu, dòng vốn ĐTNN vào ròng nhiều nhất
vào hai năm 2005, 2010 với giá trị lần lượt đạt 709,37 và 981,29 triệu USD.
Kết quả khả quan này có sự đóng góp lớn từ giá trị vốn FII mà Việt Nam thu
hút được thông qua thị trường phát hành, cụ thể là hai đợt phát hành thành
công trái phiếu chính phủ quốc tế vào hai năm này, với quy mô vốn huy động
được lần lượt là 750 triệu USD và 1.000 triệu USD.
Trong khi đó, quy mô vốn cổ phiếu duy trì trạng thái ròng dương (vào
ròng) ở mức tương đối cao trong suốt thời gian qua, và bộ phận chủ yếu của
quy mô vốn cổ phiếu này là thông qua nguồn vốn của nhà ĐTNN đầu tư vào
thị trường giao dịch thứ cấp.
27
Duy nhất năm 2008, do ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc suy thoái kinh tế
toàn cầu, giá trị cổ phiếu trên TTCK sụt giảm mạnh, lượng FII vào thị trường
Việt Nam giảm mạnh, trong khi lượng vốn của nhà ĐTNN rút ra khỏi TTCK
Việt Nam lớn khiến cho dòng vốn FII năm 2008 ở trạng thái ra ròng. Năm
2009, lượng vốn FII tiếp tục giảm sâu xuống 71 triệu USD, tuy nhiên áp lực
thoái vốn đã giảm đi nên nguồn vốn này duy trì mức vào ròng giá trị thấp (128
triệu USD). Đến năm 2010, cùng với dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thế
giới, lượng vốn FII vào TTCK Việt Nam tăng mạnh. Năm 2012, nhà ĐTNN
đã mua ròng gần 4.600 tỷ đồng trên cả hai SGDCK Hà Nội và Tp. HCM, giá
trị mua ròng tăng gần gấp 3 lần so với năm 2011 đã góp phần làm gia tăng quy
mô vốn cổ phiếu trong năm 2012 lên mức gần 1.900 triệu USD.
Tính tới cuối năm 2013, lượng vốn FII không có biến chuyển lớn với
tổng quy mô vốn cổ phiếu duy trì ròng hơn 1.800 triệu USD, thấp hơn giá trị
năm 2012, trong đó tính riêng giá trị giao dịch trên hai SGDCK, nhà ĐTNN
đã mua ròng khoảng 315 triệu USD (gần 6.650 tỷ đồng).
Ngoài quy mô vốn đầu tư, thì số lượng nhà ĐTNN tham gia đầu tư vào
TTCK Việt Nam cũng không ngừng gia tăng ,đặc biệt tăng mạnh trong giai
đoạn năm 2006 - 2007 cùng với sự bùng nổ của TTCK Việt Nam và tăng
trưởng kinh tế. Điều này đã góp phần đa dạng hóa cơ cấu nhà đầu tư trên
TTCK Việt Nam, đặc biệt là nhà đầu tư có tổ chức, bên cạnh việc đóng góp
vào cải thiện thanh khoản thị trường giao dịch thứ cấp.
2.2.2.2 ĐÁNH GIÁ CHUNG
Nhìn chung, nguồn vốn FII trên TTCK Việt Nam mặc dù có những sự
biến động tăng, giảm nhất định qua thời gian, nhưng dòng vốn này luôn
28
duy trì trạng thái vào ròng , đóng góp đáng kể vào nguồn vốn dài hạn cho
nền kinh tế bên cạnh nguồn vốn FDI .
Theo dõi Hình 4, có thể thấy, mặc dù FII cùng với FDI là hai dòng vốn
ĐTNN quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, nhưng so với FDI, FII chỉ
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Lượng vốn
FDI tại thời điểm cuối năm 2013 gấp khoảng hơn 30 lần so với lượng vốn
FII. Biểu đồ trên cũng cho thấy vốn FII chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế nhanh và mạnh hơn so với FDI. Trong khoảng thời gian từ năm 2007 tới
cuối năm 2013, lượng vốn FDI giảm 35,3% trong khi đó lượng vốn FII sụt
giảm mạnh tới 97,7%.
Thêm vào đó, so với các quốc gia khác trong khu vực, Việt Nam vẫn
đang là quốc gia có mức độ thu hút vốn FII rất thấp , chưa kể đến việc quy
mô vốn FII vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu thực tiễn đang
đặt ra đối với nền kinh tế và TTCK Việt Nam.
Thực trạng này bắt nguồn từ một số nguyên nhân như: (i) Chất lượng
hàng hóa trên TTCK chưa cao; (ii) Hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, đầy
đủ, chưa khuyến khích nhà ĐTNN (như quy định về công bố thông tin, quy
định về giới hạn tỷ lệ sở hữu - “room” áp dụng cho nhà ĐTNN, các văn
bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của các quỹ đầu tư còn chưa đầy đủ, đặc
biệt là các quỹ ETF, Quỹ hưu trí, Quỹ REITs…); (iii) Quy mô thị trường
còn nhỏ, mức độ đa dạng hàng hóa thấp; (iv) Chưa có các sản phẩm phái
sinh, sản phẩm cấu trúc (Hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp
đồng kỳ hạn…) giúp nhà ĐTNN bảo hiểm rủi ro đầu tư, dẫn đến nhà đầu tư
rút vốn ồ ạt khỏi thị trường như thời điểm năm 2008…
29
Do đó, để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn FII trên TTCK trong thời gian
tới, cần phải xem xét và giải quyết triệt để các vấn đề tồn tại ở trên nhằm
tạo ra một điểm đến đầu tư hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN.
2.3 TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI
VIỆT NAM.
2.3.1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC
Trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng
tổng vốn đầu tư trực tiếp của xã hội
Khi vốn đầu tư gián tiếp quốc tế đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng
lượng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nước. Hơn nữa, vốn đầu
tư gián tiếp quốc tế gia tăng sẽ gia tăng dây chuyền tới dòng vốn đầu tư gián
tiếp trong nước. Hay nhà đầu tư trong nước sẽ nhìn gương các nhà đầu tư gián
tiếp nước ngoài và tang động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả là
tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên.
Hơn nữa, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế gia tăng, thì đó sẽ là
một sự bảo đảm và tạo động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác
mạnh dạn thông qua các quyết định đầu tư trực tiếp mới của mình, kết quả là
gián tiếp góp phần làm tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư cả
nước ngoài, cũng như trong nước.
Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn
thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung
Việc gia tăng và phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp quốc tế sẽ
làm cho thị trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khóan) Việt Nam trở
nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống
vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này
trong thời gian qua. Hơn nữa, đi kèm với sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp
30
quốc tế này là sự phát triển các định chế và dịch vụ tài chính - chứng khoán,
đó là các loại quỹ đầu tư, công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian
khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh…bảo
hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường, đồng thời còn kéo theo sự gia
tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước
hết trên thị trường chứng khóan... Tất cả những điều này trực tiếp và gián tiếp
góp phần phát triển mạnh mẽ hơn các bộ phận và tổng thể thị trường tài chính
nói riêng, các thể chế và cơ chế thị trường nói chung trong nền kinh tế chuyển
đổi Việt Nam.
Góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người
dân.
Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả bề rộng lẫn bề sâu sẽ
mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng hoá trong lựa chọn các phương thức
đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài và trong nước. Đông đảo các
nhà đầu tư nước ngoài và cả trong nước sẽ có thêm điều kiện lựa chọn sử dụng
vốn của mình để đầu tư dưới các hình thức trực tiếp tự mình hay thông qua
các định chế tài chính trung gian để mua - bán các cổ phiếu, trái phiếu và
chứng khoán có giá khác của Việt Nam trên thị trường tài chính trong nước và
nước ngoài. Việc đầu tư này sẽ cho phép họ thu nhận được lợi nhuận từ sự
chênh lệch giá cả khi mua - bán chứng khoán, cũng như từ lãi suất và cổ tức
các chứng khoán mà họ sở hữu theo thoả thuận hoặc thực tế kết quả kinh
doanh của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phát hành chứng khoán đó. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc cải thiện thu nhập, mức sống của đông đảo các
nhà đầu tư là người dân, tuỳ theo lượng vốn và kỹ năng đầu tư chứng khoán
mà họ có. Hơn nữa, thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp này, các nhà
31
đầu tư trong nước sẽ được dịp "cọ xát", rèn luyện và bồi dưỡng kiến thức, kinh
nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói riêng, chất
lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị
trường, hiện đại.
Góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các
nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được
thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh
nghiệp và minh bạch hoá, cập nhật hoá thông tin liên quan đến các chứng
khoán mà doanh nghiệp đã và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà
đầu tư chỉ ưa lựa chọn đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin
cậy, đang và sẽ có triển vọng phát triển tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ
cho phép quá trình "chọn lọc nhân tạo", "bỏ phiếu" cho sự hỗ trợ và phát triển
các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù hợp cơ chế thị trường hơn
(còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của họ không hấp dẫn sẽ phải
điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh doanh, sáp nhập hoặc
giải thể). Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân trong
hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu
tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng
lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như theo
các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài
chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý
của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và
hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính
nói riêng sẽ được cải thiện hơn.
2.3.2. TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC
32
Làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước
ngoài
Khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất
(nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất),
khó chuyển đối hoặc thanh khoản, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế được thực hiện
dưới dạng đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi
và mang tính thanh khoản cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư
gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí
đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng
khác, ở địa phương khác tuý theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình.
Đặc trưng nổi bật này cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ
tạo và khuếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn
đầu tư gián tiếp quốc tế đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt
khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu "tháo
chạy" đồng loạt trên phạm vị rộng và số lượng. Sự nhạy cảm và bất ổn kinh tế
có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân bên trong, cũng có thể hoàn toàn do các
nguyên nhân bên ngoài nước tiếp nhận đầu tư do phản ứng dây chuyền, làn
sóng đô-mi-nô của các nhà đầu tư quốc tế như đã từng diễn ra trong cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ
trước. Trong tình huống như vậy, cuộc khủng hoảng đầu tư - tài chính - tiền tệ
hay khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu
không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả.
Làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn
tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng
khoán
33
Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần
sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một
mức "vượt ngưỡng" nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi
phối và quyết định các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các chủ quyền khác
của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh
nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt
động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp
của vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển hoá thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián
tiếp sẽ chuyển hoá thành nhà đầu tư trực tiếp.
Làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng
tội phạm kinh tế quốc tế
Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại
của các hoạt động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế vi phạm các quy định pháp lý của
nước tiếp nhận đầu tư, mà còn là mảnh đất mầu mỡ sinh sôi và phát triển các
loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài, thậm chí xuyên quốc gia, như hoạt
động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các vụ kinh doanh
phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh
phi truyền thống khác.
Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của
dòng vốn Đầu tư gián tiếp quốc tế nói trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách
"có tổ chức" của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít
nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động
kinh tế lành mạnh và làm tang tính dễ tổn thương của nền kinh tế nước tiếp
nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; Thậm chí trong một số
trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước và gây sụp đổ một nội các
chính phủ...
34
Ngoài ra, sự gia tăng dòng vốn Đầu tư gián tiếp quốc tế vào Việt Nam
còn đặt ra yêu cầu Chính phủ và các cơ quan TW phải chủ động đổi mới và sử
dụng hiệu quả các công cụ quản lý kinh tế của mình theo nguyên tắc thị
trường hơn, trong đó có việc sử dụng bảo lãnh nhà nước, quy định tỷ lệ và sử
dụng các công cụ dự phòng, dư nợ cũng như các công cụ khác của các định
chế tài chính - tiền tệ quốc gia và địa phương... những điều cần thiết để đảm
bảo sự thu hút và khai thác có hiệu quả các tác động tích cực của dòng vốn
Đầu tư gián tiếp quốc tế.
PHẦN III : GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI
35
3.1 NHỮNG HẠN CHẾ CHỦ YẾU CẦN KHẮC PHỤC ĐỂ HẤP DẪN
DÒNG VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP QUỐC TẾ ĐỔ VÀO VIỆT NAM
Nếu thu hút FDI có đóng góp cho ngành công nghiệp sản xuất, tăng kim
ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho người Việt nam nhưng lại không
tác động được tới các doanh nghiệp Việt nam thì thu hút FPI có thể giúp vốn
cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp tăng trưởng và nâng cao
năng lực cạnh tranh. Do vậy, FPI rất quan trọng đối với các doanh nghiệp
trong nước đang thiếu vốn.
Dòng vốn FPI vào Việt nam tuy đã tăng trở lại sau cuộc khủng hoảng
tài chính khu vực nhưng vẫn đứng ở mức thấp so với dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). Cụ thể, năm 2002 chiếm 1,2%, năm 2003 lên 2,3% và đạt
3,7% vào năm 2004. Trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan, Malaysia và Trung
quốc vào khảong 30-40%. Và so với FDI, tỷ lệ FPI này khá khiêm tốn, chỉ
bằng 2-3%.
Trước hết, để hiểu rõ vì sao trong thời gian qua, dòng vốn đầu tư FPI đổ
vào Việt nam lại quá khiêm tốn như vậy, chúng ta cần tìmhiểu bản chất của
nguồn FPI là gì. Như nhiều người đã biết, dòng vốn FPI được các nhà đầu tư
nước ngoài trực tiếp sử dụng để lập nên doanh nghiệp liên doanh hay doanh
nghiệp 100% vốn nứớc ngoài, còn nguồn vốn FDI lại được nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt nam thông qua các quỹ đầu tư hay qua thị trường chứng
khoán mua cổ phần của doanh nghiệp Việt nam. Mặc dù hiện nay chính phủ
đã nâng mức sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài lên đến 49% đối với cổ
phiếu niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán , nhưng
một pháp nhân nước ngoài khi đầu tư vào một doanh nghiệp thường không
mua quá 30% vốn, nên doanh nghiệp được đầu tư vẫn là doanh nghiệp Việt
36
nam. Sự đầu tư này chủ yếu mang tính hỗ trợ về tài chính và quản trị hơn là
can thiệp vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện có nhiều nhược điểm cản trở dòng vốn FPI đổ vào Việt nam. Điều
quan trọng nhất đối với nhà đầu tư là muốn hiểu được hoạt động của doanh
nghiệp một cách chân thực và chính xác qua bản báo cáo tài chính, nhưng
phần lớn doanh nghiệp ở Việt nam đều coi việc báo cáo tài chính chỉ để đối
phó với cơ quan thuế chứ không phải dành cho cổ đông cũng như các nhà đầu
tư tiềm năng. Doanh nghiệp Việt nam hiện nay thường lập 2 loại sổ sách kế
toán, một dành cho mình và một dành cho việc báo cáo thuế. Trong khi đó hệ
thống kiểm toán còn nhiều bất cập, có những qui định không theo chuẩn mực
quốc tế. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa
chủ yếu là tính theo giá trị sổ sách chứ không sử dụng phương pháp chiết khấu
dòng tiền, nên để đánh giá giá trị thực của một doanh nghiệp là rất khó. Hệ
thống thông tin của doanh nghiệp còn yếu, không cung cấp đầy đủ cho nhà
đầu tư về tình hình hoạt động cũng như những dự báo trong tương lai. Hoạt
động thâu tóm giữa các doanh nghiệp gần đây mới được công bố công khai.
Hầu hết doanh nghiệp Việt nam đều ngại công khai tình hình hoạt động kinh
doanh. Hội đồng quản trị chưa phải là tổ chức qui tụ những cổ đông lớn và
không hoạt động độc lập bởi tại nhiều doanh nghiệp Giám đốc lại kiêm luôn
chức chủ tịch Hội đồng quản trị.
3.2 GIẢI PHÁP THU HÚT FPI
Trong giai đoạn 2015-2020, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút
và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu trên để phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tích cực góp
phần giảm nghèo nhanh và bền vững.
37
Thu hút vốn FDI trong giai đoạn đến năm 2020 phải được điều chỉnh
theo hướng chuyển từ thiên về số lượng như trước đây, sang chú trọng nhiều
hơn đến hiệu quả thu hút và nâng cao chất lượng đầu tư, tận dụng tối đa nguồn
FDI để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hiệu quả,
thực hiện nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế, từ đó góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững.
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút các
dự án đầu tư hình thành mạng lưới liên kết sản xuất, kinh doanh, các ngành
công nghiệp hỗ trợ để hình thành chuỗi giá trị. Có chính sách thu hút công ty
đa quốc gia, có chính sách ưu đãi đối với các công ty đa quốc gia có kế hoạch
liên kết với các doanh nghiệp trong nước về tiêu thụ, cung ứng sản phẩm để
hình thành các cụm công nghiệp - dịch vụ.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung thể thế và triển khai áp dụng nghiêm hệ thống
quy định các yêu cầu bắt buộc về công nghệ, chuyển giao công nghệ, thu hút,
đào tạo kỹ năng cho người lao động. Quy định yêu cầu bắt buộc về chất lượng
của các dự án FDI tùy theo lĩnh vực và địa bàn đầu tư. Quy định về trình độ
công nghệ dự án FDI cho từng ngành theo địa bàn đầu tư. Đối với các đô thị
có mật độ công nghiệp cao, những địa bàn phát triển du lịch sinh thái sẽ hạn
chế tối đa thu hút FDI có hàm lượng công nghệ thấp, gây ô nhiễm ở mức độ
nhất định và tỷ trọng gia công cao.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành cần tăng tỷ
trọng đầu tư nước ngoài như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, nông
nghiệp và nông thôn, điện, nước, tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế, văn hóa,
thể thao, hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng; các ngành sản xuất có yếu
tố hàm lượng công nghệ, đào lạo lao động và chuyển giao công nghệ, kỹ năng,
hoạt động R&D. Hỗ trợ các hoạt động đầu tư có hiệu quả, đồng thời giảm
38
thiểu những mặt hạn chế, tiêu cực như nhập khẩu nhiều nhưng không chú
trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp và khai thác thị trường
nội địa là chủ yếu; lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp luật của Việt Nam để
thực hiện hành vi chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp để chuyển lợi
nhuận về nước, không có đóng góp hoặc đóng góp rất thấp nguồn ngân sách
nhà nước của Việt Nam. Không tiếp nhận hoặc hạn chế tối đa những dự án
ĐTNN sử dụng công nghệ thấp, có khả năng tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô
nhiễm môi trường, sinh thái.
Có các chính sách, quy định về thuế, phí, đất đai, quản lý ngoại hối... để
thu hút, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, chế biến sử
dụng đầu vào trong nước thay vì nhập khẩu, gia công, lắp ráp, chú trọng vào
kinh doanh thương mại, nhất là tại thị trường nội địa. Tăng cường thu hút đầu
tư nước ngoài vào các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Ban hành văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh và quản lý thống nhất hoạt
động xúc tiến đầu tư trên cả nước; xây dựng Chiến lược xúc tiến đầu tư điều
phối tổng thể các hoạt động xúc tiến ở bình diện quốc gia; xây dựng và công
bố danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011-
2015 và giai đoạn 2016-2020.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút vốn ĐTNN, cần có sự kết
hợp chặt chẽ chính sách ĐTNN với các chính sách điều chỉnh ngành khác, bao
gồm chính sách đầu tư chung, chính sách KCN theo hướng hình thành cụm
công nghiệp có tính chuyên môn hóa và chính sách phát triển kinh tế vùng.
Các chính sách này cần xây dựng trên nguyên tắc tiếp cận tổng thể quốc gia để
tạo tín hiệu chung dẫn dắt FDI tới ngành, vùng cần khuyến khích phát triển;
hạn chế các địa phương thu hút các ngành nghề như nhau, thiếu sự phối hợp
39
và bổ sung cho nhau giữa các ngành dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan mà
vẫn thiên lệch, thiếu chuyên môn hóa.
Rà soát và sửa đổi, bổ sung quy chế phân cấp quản lý đầu tư nước
ngoài, bảo đảm tính chủ động của các địa phương nhưng cần gắn với trách
nhiệm giải trình, hoàn thiện hệ thống chế tài để tăng cường vai trò kiểm tra,
giám sát, điều chỉnh của các Bộ, cơ quan Trung ương trong trường hợp cần
thiết.
Trong giai đoạn 2015-2020, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút
và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu trên để phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tích cực góp
phần giảm nghèo nhanh và bền vững.
Recommended