Upload
phunglien
View
224
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
Đại Học Vạn Hạnh
Khoa Triết Khóa X
Môn học : KINH LĂNG GIÀ
Thích Đồng Trí
BỐN THÁNH QUẢ - DUYÊN GIÁC
BỒ TÁT – NHƯ LAI
Duyên khởi thuyết về Tứ Thánh Quả
2 Hạng Thanh Văn
5 Vô Gián Chủng Tánh
Tứ Thánh Quả
Ngũ Vô Gián
Ý sinh thân – Bồ Tát
Ngũ Vô Gián
Như Lai Thân
DUYÊN KHỞI THUYẾT VỀ TỨ THÁNH QUẢ
Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ bạch Phật:
Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn vì con nói về bậc Tu Đà
Hoàn và những đặc tính của quả vị ấy. Con và các Bồ Tát
đại hữu tình nhờ nghe nghĩa ấy sẽ biết rõ các phương tiện
để chứng những quả vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na
Hàm, A La Hán. Biết nghĩa ấy rồi con sẽ diễn nói lại cho
chúng sinh, khiến chúng chứng được hai vô ngã, trừ sạch
hai chướng ngại (phiền não chướng và sở tri chướng),
dần thông đạt đặc tính các địa, được cảnh giới trí
tuệ không thể nghĩ bàn của Như Lai, như ngọc
ma ni nhiều màu, khiến khắp chúng sinh đều
được lợi ích.
2 HẠNG THANH VĂN Phật bảo Đại Huệ :
Lại nữa, Đại Huệ! Có hai hạng Thanh văn thừa chung phân biệt
tướng. Nghĩa là được tướng tự giác thánh sai biệt, và tướng tánh
vọng tưởng tự tánh chấp trước. Thế nào là Thanh văn được
tướng tự giác thánh sai biệt? Nghĩa là đối cảnh giới vô thường,
khổ, không, vô ngã được chân đế lìa dục tịch diệt, dứt ấm, giới,
nhập, tự tướng, cộng tướng, không hoại tướng bên ngoài mà biết
như thật. Tâm được dừng lặng, tâm dừng lặng rồi được thiền
định, giải thoát, tam-muội đạo quả chánh thọ giải thoát chẳng lìa
tập khí bất tư nghì biến dịch tử, được tự giác thánh lạc trụ Thanh
văn. Ấy gọi là được tướng tự giác thánh sai biệt Thanh văn.
2 HẠNG THANH VĂN (tt.) Phật bảo Đại Huệ : “Tánh vọng tưởng tự tánh chấp trước là, chấp có
pháp tự tánh mà khởi chấp trước. Thanh văn tuy biết đại chủng xanh
vàng đỏ trắng các pháp, chẳng phải có tác giả, không đồng với
ngoại đạo tà kiến. Nhưng thấy Phật trước phân biệt các pháp tự
tướng cộng tướng, tất cả kinh điển nói cho là thật có, bèn thành
pháp chấp. Cho nên Bồ-tát đối chỗ này phải lìa nhân vô ngã tướng
vào pháp vô ngã, thứ lớp tiến lên các địa.”…
“Đây lại do Thanh văn chấp có Niết-bàn, để rõ những cái thấy ngoài
tâm đều là vọng tưởng. Thanh văn sợ sanh tử vọng tưởng mà cầu
Niết-bàn, chẳng biết sanh tử Niết-bàn tánh nó không hai. Thấy có
sai biệt, đều là vọng tưởng chấp, chẳng phải thật tánh. Nghĩa là rõ
tam giới sanh nhân, căn cảnh vị lai thôi dứt, khởi
tưởng Niết-bàn. Chẳng phải chứng đến chỗ tự giác
thánh trí, chuyển tàng thức làm Niết-bàn. Đây là phàm ngu
chỉ nói ba thừa mà chẳng nói duy tâm tịch diệt.”
5 VÔ GIÁN CHỦNG TÁNH Phật bảo Đại Huệ :
Lại nữa, Đại Huệ! Có năm vô gián chủng tánh. Thế nào là năm?
Nghĩa là Thanh văn thừa vô gián chủng tánh, Duyên giác thừa vô
gián chủng tánh, Như Lai thừa vô gián chủng tánh, bất định chủng
tánh, các biệt chủng tánh.
Đại Huệ ! các biệt vô gián là : ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng
trưởng dưỡng sĩ phu. Các chúng sanh kia khởi giác như thế, cầu
vào Niết Bàn. Lại có ngoại đạo khác nói thay do tác giả, thấy tất
cả tánh rồi, nói đây là vào Niết Bàn. Khởi giác như thế, đối với
pháp vô ngã, họ vô phần, họ không có giải thoát.
Huệ ! Đây là chư Thanh văn thừa vô gián ngoại đạo
chủng tánh, chẳng xuất mà tưởng là xuất. Vì
chuyển ác kiến cho những người này nên phải tu học.
5 VÔ GIÁN CHỦNG TÁNH (tt.)
Đại Huệ! Duyên giác thừa vô gián chủng tánh, nếu nghe nói mỗi
cái duyên khác vô gián, toàn thân lông dựng lên, rơi lệ dầm dề,
duyên chẳng gần nhau, có chỗ chẳng chấp các thứ tự thân, các thứ
thần thông, hoặc ly hoặc hiệp, các thứ biến hóa. Khi nghe nói lời ấy,
tâm họ tùy nhập. Nếu biết họ là Duyên giác thừa vô gián chủng tánh
rồi, tùy thuận vì họ nói Duyên giác thừa. Ấy gọi là tướng Duyên giác
thừa vô gián chủng tánh.
Duyên giác quán mười hai nhân duyên mà được đạo. Mười hai nhân
duyên ba đời xoay quanh, nên nói vô gián. Duyên chẳng gần nhau
có chỗ chẳng chấp, đây nói họ tin chắc rất thâm thiết. Duyên giác độ
sanh phần nhiều dùng sức thần thông, chẳng dùng lời
nói. Đây là đối trị cảnh giới chúng sanh, mà chẳng
phải chính là cảnh giới chúng sanh, lấy làm cảnh giới
bất tư nghì, đó là lý do cùng đại thừa sai biệt.
5 VÔ GIÁN CHỦNG TÁNH (tt.) Đại Huệ ! Như Lai thừa vô gián chủng tánh kia có bốn thứ :
1) Tự tánh pháp vô gián chủng tánh
2) Ly tự tánh pháp vô gián chủng tánh
3) Đắc tự giác tánh vô gián chủng tánh
4) Ngoại sát thù thắng vô gián chủng tánh
Đại Huệ ! Nếu người nghe bốn việc này, khi nói mỗi thứ, và khi
nói tự tâm hiện thân tài kiến lập cảnh giới bất tư nghì, tâm không
kinh sợ, ấy gọi là tướng Như Lai thừa vô gián chủng tánh.
Tự tánh pháp là pháp thân Như Lai
- Ly tự tánh pháp là giải thoát Như Lai
- Tự giác tánh là Bát nhã trí Như Lai
- Ngoại sát thù thắng là hóa thân Như Lai. Có đại hóa và
tùy loại hóa, mỗi thứ có hiện cõi nước .
5 VÔ GIÁN CHỦNG TÁNH (tt.)
Đại Huệ ! bất định chủng tánh là khi nói ba chủng tánh kia , tùy
nghe nói mà vào, tùy kia mà thành.
Đại Huệ ! Đây là sơ trụ địa, là chủng tánh kiến lập, vì tiến lên vào
vô sở hữu địa, tạo ra kiến lập ấy. Kia tự giác tàng, tự phiền não
tập sạch, thấy pháp vô ngã, được trụ tam muội ưa trụ Thanh văn,
sẽ được thân tối thắng Như Lai
Nói chủng tánh sai biệt vốn vì người mới vào Bồ tát địa, khuyên
họ tiến lên cứu cánh, chẳng để họ rơi vào quyền tiểu, mà lại
khuyến dụ quyền tiểu phát tâm đại thừa. Chẳng
phải bảo chủng tánh quyết không thể dời đổi vậy.
T
TU ĐÀ HOÀN Phật bảo Đại Huệ :
- Có ba thứ Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hoàn quả sai biệt. Thế nào là ba?
Nghĩa là hạ, trung, thượng. Hạ đó, bảy đời sanh mới vào Niết Bàn;
Trung đó, ba hoặc năm đời mới vào Niết Bàn; Thượng đó, ngay đời
ấy liền vào Niết Bàn. Ba hạng này còn tam kết hạ, trung, thượng, ấy
là : Thân kiến, nghi kiến và giới thủ kiến, đó là tam kế sai biệt, dần
dần tiến lên thì đắc quả A La Hán.
Trừ Thân Kiến :
Đại Huệ ! Bậc Tu Đà Hoàn, và Tư Đà Hàm có 3 cấp bực khác nhau,
là hạ, trung, thượng. Bực hạ là còn sinh lại trong các cõi bảy lần,
bực trung còn sinh ba lần, năm lần, bực thượng thì ngay đời này đã
nhập Niết Bàn. Đại Huệ ! Ba hạng người ấy đã cắt đức 3 món kết sử
(Samyojana) là thân kiến (sathàyadrsti), nghi (vicikitsà), giới cấm thủ
(sìlavratapasàmar’sa), lần lần tiến lên đắc quả A La Hán. Đại Huệ !
Thân kiến có hai loại, ấy là câu sinh và phân biệt.
TU ĐÀ HOÀN (tt) Phân biệt thân kiến là, như do duyên khởi có vọng chấp về ba cõi.
Đại Huệ ! Thí như do tính duyên khởi mà sinh các chấp trước vào
vọng kế (tưởng tượng sai lầm). Các pháp ấy chỉ là tướng do phân
biệt sai lầm sinh ra, chúng lìa hữu và vô, cũng không phải là cũng
có cũng không. Kẻ phàm phu ngu si chấp càn, như con thú khát
tưởng tượng ra nước. Đại Huệ ! Đây là kiến chấp về một cái ngã
riêng biệt mà do không có trí tuệ, vị ấy đã tích tập từ lâu đời, đến
khi thấy được nhân vô ngã thì xa lìa được. Đại Huệ ! Câu sinh
thân kiến là quán sát khắp thân mình và thân người, các tướng
uẩn vô sắc như tho, tưởng v.v.. và sắc do tứ đại tạo, các đại ấy
làm nhân cho nhau, nên không có cái gọi là sắc uẩn quán
như vậy rồi thấy rõ quan niệm hữu, vô là một quan niệm
phiến diện về chân lý, liền xa lìa hữu vô. Vì đã xả thân kiến
nên không sinh tham dục. Đó gọi là tướng thân kiến
TU ĐÀ HOÀN (tt.) Đại Huệ ! Vì sao Tu Đà Hoàn không giữ Giới Cấm
Thủ? Vì đã thấy rõ tướng khổ của mọi chỗ thọ sinh,
cho nên không giữ. Giữ những giới ấy là vì kẻ phàm
phu ngu tham trước dục lạc thế tục ở trong các cõi cho
nên mới khổ hạnh giữ giới nguyện sinh vào các cõi vui.
Bậc Tu Đà Hoàn không giữ tướng ấy, chỉ vì cầu chứng
được pháp vô lậu, vô phân biệt, rất thù thắng mà tu
hành các giới phẩm. Ấy gọi là tướng giới cấm thủ. Đại
Huệ ! Bậc Tu Đà Hoàn xả ba kết nên lìa tham sân si.
Những loại giới cấm thủ
Giữ giới trong thời hiện đại
Nhập lưu, nghịch lưu, thất lai
.
TU ĐÀ HOÀN (tt.) Đại Huệ ! Nghi tướng là khi rõ thấy tướng các pháp sở
chứng, và khi hai kiến chấp và phân biệt thân nói trên
đã đoạn trừ, thì không còn sinh hoài nghi gì đối với
chính pháp của Phật, lại cũng không có ý tưởng theo
một bậc thầy nào khác vì (phân biệt) tịnh, bất tịnh. Đấy
gọi là nghi tướng (mà bậc Dự Lưu từ bỏ được).
Những Nghi ngờ nào thường phát sinh?
Nghi đưa đến trở ngại gì?
Tại sao nói đa nghi đa ngộ?
Tín thành tựu là thế nào?
.
TƯ ĐÀ HÀM
Đại Huệ! Thế nào là tướng Tư Đà Hàm? Ấy là đốn chiếu
soi sắc tướng vọng tưởng, chẳng sanh tướng thấy tướng
sanh. Vì khéo thấy được tướng thiền hạnh, nền vãng lai thế
gian này một lần, mong dứt sạch khổ để đắc Niết Bàn, nên
gọi là Tư Đà Hàm. Nhị quả Tư-đà-hàm (Sakadàgàmì)
Còn gọi là Nhất lai, nghĩa là còn trở lại một lần nữa. Quả vị này hiện
hữu nơi người đã phá xong ba kiết sử trên và tiếp tục làm mỏng nhạt
tham và sân. Người chứng Nhị quả chưa phải là người đã phá trừ hết
hai kiết sử Tham và Sân, chỉ là bớt đi Tham và Sân. Còn Tham và Sân
vi tế, tiềm tàng thì khi diệt sạch sẽ đắc Tam quả.
Phật cũng ấn chứng cho người chứng được Nhị quả Tư-
đà-hàm sẽ chỉ còn một lần tái sinh lại cõi đời này và chứng A-la-hán.
A NA HÀM Tam quả A-na-hàm (anàgàmì)
Còn gọi là Bất lai, nghĩa là Không trở lại nữa, xuất hiện nơi vị
đã diệt sạch hai kiết sử Tham và Sân.
Diệt trừ năm kiết sử từ Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi,
Tham và Sân thì đạt được đệ Tam Thánh quả.
Hết hai kiết sử Tham và Sân rồi thì nhân duyên với thế gian này
cũng hết. Do vậy, một vị chứng A-na-hàm thì không còn bị tái
sinh về cõi này nữa, sẽ hóa sinh giữa cõi trời Sắc cứu kính, sau
một thời gian không nhất định, sẽ chứng Niết bàn tại đây.
- Đại Huệ! Thế nào là A Na Hàm? Nghĩa là đoạn dứt sự sanh
kiến chấp lỗi lầm của kết tập ( tập khí phiền não ),
chẳng sanh vọng tưởng sắc tướng nơi quá khứ, vị lai,
hiện tại, tánh phi tánh, gọi là A Na Hàm.
.
A LA HÁN Tứ quả A-la-hán (Arahanta)
Là quả vị Thánh cao siêu cuối cùng, thật sự giải thoát, giác ngộ viên
mãn. Vị A-la-hán tự tại phi thường, tuổi thọ vượt hơn người bình
thường, không còn bị cuốn vào luân hồi sinh tử nữa, muốn chết
(viên tịch) lúc nào cũng được.
A La Hán còn có các tên khác như: Sát tặc, Ứng cúng, Bất sanh.
1- Sát tặc có nghĩa là giết hết giặc phiền não.
2- Ứng cúng có nghĩa là bậc xứng đáng nhận tứ sự cúng dường của
Trời, Người.
3- Bất sanh có nghĩa là mãi mãi vào Niết Bàn, không còn chịu quả
báo sống chết nữa. Theo các nhà Đại thừa cho bậc A La
Hán là quả vị cao nhất của Tiểu thừa.
Đại Huệ! Nói là A La Hán, là do sức sáng suốt giải
thoát Tam muội của chư Thiền, dứt sạch tất cả khổ, phiền
não của vọng tưởng tánh phi tánh, nên gọi là A La Hán.
.
NGŨ VÔ GIÁN Năm tội vô gián là: giết mẹ, giết cha, giết A La Hán, Phá hòa hiệp
tăng, ôm lòng ác độc gây đổ máu thân Phật. Đại Huệ ! Sao gọi là mẹ
chúng sinh? Ấy là ái dục đưa đến sinh sản cùng ham vui v.v.. đều
như mẹ nuôi dưỡng tất cả. Cha là gì? Là vô minh khiến sinh vào
sáu xóm làng (dục giới); cắt đức hai cội gốc ấy gọi là giết cha mẹ.
Sao là giết A La Hán? Ấy là các tùy miên xem như kẻ thù, như
độc của chuột sinh, tận diệt chúng gọi là giết A La Hán. Sao là phá
hòa hiệp tăng? Là các tướng khác nhau của các uẩn nhóm họp,
đoạn trừ chúng gọi là phá hòa hiệp tăng. Sao gọi là ác tâm gây đổ
máu thân Phật? Là thân 8 thức vọng sinh tư duy hiểu biết, thấy
có tự tướng cọng tướng ngoài tâm, dùng tâm vô lậu, ba giải thoát
mà diệt trừ thân Phật 8 thức, ấy gọi là ác tâm đổ máu thân Phật. Đại
Huệ ! Ấy là năm tội vô gián bên trong, nếu có người
làm, liền có sự vô gián của hiện chứng thật pháp
Ý SINH THÂN Đại Huệ Bồ Tát hỏi :
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Ý Sanh Thân?
Phật bảo Đại Huệ :
Nói Ý Sanh Thân, ví như sự đi nhanh chóng của ý đi qua vách đá
vô ngại, cho đến khoảng cách số dặm vô lượng ở phương xa, vì
trước kia ý đã thấy, ghi nhớ chẳng quên, tự tâm lưu chú chẳng
ngừng, thì Ý Sanh Thân cũng như thế, thành chẳng chướng ngại.
Đại Huệ! Ý và thân như thế được sanh cùng một lúc, ý sanh thân
của Đại Bồ Tát thuộc Thánh chủng diệu tướng trang nghiêm, do
như huyễn Tam muội, có sức thần thông tự tại, nên trong một lúc
cùng sanh, cũng như ý sanh, chẳng có chướng ngại,
tùy theo cảnh giới của bổn nguyện ghi nhớ mà
thành tựu cho chúng sanh, đắc sự an lạc của Tự Giác Thánh Trí.
Ý SINH THÂN (tt.) Sao là thân “Giác pháp tự tính”? Ấy là ở địa thứ 8 liễu tri các pháp
như huyễn, không tướng, tâm chuyển các thức sở y, an trú định như
huyễn và các định khác, có thể hiện vô lượng thần thông tự tại, như
hoa nở, mau như ý khởi, như huyễn như mộng như bóng như hình,
không phải do tứ đại tạo mà giống như do tứ đại tạo, các sắc tướng
trang nghiêm đầy đủ, vào khắp các cõi phật, hiểu rõ tự tính các
pháp, ấy cũng là thân do giác ngộ tự tính các pháp mà sinh. Sao gọi
là thân “chủng loại câu sinh vô tác hành”? Ấy là hiểu rõ tướng các
pháp do chư Phật chứng đắc. Đại Huệ ! Ông nên siêng quán sát ba
loại thân ấy.
. Ý sanh thân của đại Bồ-tát do sức tam muội như huyễn tự tại
thần thông diệu tướng trang nghiêm, thân chủng loại thánh,
đồng thời liền sanh. Ví như ý sanh không có chướng ngại,
tùy chỗ nhớ nghĩ cảnh giới nguyện xưa, vì thành tựu chúng
sanh được tự giác thánh trí thiện lạc.
NHƯ LAI THÂN Pháp thân Như Lai có hai thứ: 1) Lý pháp, nghĩa là tánh tịnh thể
sáng xưa nay lìa niệm đồng với hư không giới, không đâu chẳng
khắp chúng sanh cùng Phật đều đồng. 2) Trí pháp, nghĩa là trí thủy
giác cứu kính, khế hợp với lý bản giác thanh tịnh, lý trí dung nhau,
sắc và tâm không hai. Do trí hiện ra nên gọi là trí pháp.
Sắc thân tức là báo thân, cũng có hai thứ: 1) Tự thọ dụng thân
cũng gọi là viên mãn báo thân. Nghĩa là tự mình tu nhân mà cảm
được, xứng tánh thọ dụng các thứ pháp lạc, tự tại không ngại. Thân
và cõi chẳng lìa nhau nên cũng gọi là tự thọ dụng độ, cũng gọi là
thật báo trang nghiêm độ. Chư Phật trải qua vô số kiếp tu tập vô
lượng thiện căn mà cảm nên, khắp giáp cả pháp giới là tự thọ dụng.
Các vị đại Bồ-tát chỉ được nghe tên mà không thể thấy được. 2) Tha
thọ dụng thân, nghĩa là do căn cơ kẻ khác cảm nên mà thấy. Chư
Phật vì khiến chúng Bồ-tát thọ đại pháp lạc, tiến tu thắng hạnh nên
tùy nghi mà hiện, cõi cũng như thế, khiến họ thọ dụng.
Các thứ sai biệt sắc thân tức là hóa thân, cũng có ba thứ:
1) Đại hóa nghĩa là Lô-xá-na ngàn trượng gia bị cho phù hợp với
Đại thừa Bồ-tát. Hoặc hiện tám mươi bốn ngàn tướng tốt, hoặc
hiện vi trần số tướng tốt, đầy khắp hư không. 2) Tiểu hóa, nghĩa là thân vàng trượng sáu, ba mươi hai tướng tốt,
phù hợp căn cơ tiểu thừa, người, trời v.v... 3) Tùy loại hóa, nghĩa là
như Chuyển luân thánh vương Đảnh Sanh, Thích Đề Hoàn Thiên
Đế, Thiện Nhãn, voi lớn, anh võ, vượn nai v.v... tùy loại mà vào. Báo
Hoá thân này đều nhiếp thuộc sắc thân, từ trí pháp mà được. Nếu
mê lý pháp tức là vọng giác, theo nhân duyên vọng giác mà có mười
hai loại thân trong tam giới. Ngộ lý pháp thì chuyển vọng giác làm
thủy giác. Do thủy hợp bản thành căn bản trí. Do sức
căn bản vô tác trí cảm phát bi nguyện, tất cả báo thân,
hóa thân lần lượt thành tựu. Đây là ba đời chư Phật
không có hai, không có khác.
Tam minh – lục thông :
PHẦN THAM KHẢO THÊM : Như Lai thập lực (Dasa balàni) là
mười trí lực hay thần lực của Như Lai, gồm:
1. Xứ phi xứ trí lực: Trí tuệ của Như Lai biết một cách chắc thật đối
với tất cả nhân duyên quả báo, nếu tạo nghiệp thiện thì nhất định
được phước báo an vui và ngược lại.
2. Nghiệp dị thục trí lực: Trí tuệ của Như Lai biết rõ nghiệp duyên,
quả báo, sinh xứ trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai của tất cả
chúng sanh.
3. Tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực: Trí tuệ của Như Lai
thông suốt về các pháp tu thiền định, biết rõ và đúng như thật về thứ
lớp, sâu cạn của thiền định, giải thoát.
4. Căn thượng hạ trí lực: Trí tuệ của Như Lai biết đúng như thật về
căn cơ cao thấp của chúng sanh.
5. Chủng chủng thắng giải trí lực: Trí tuệ của Như Lai thông suốt
mọi kiến giải và biết rõ như thật về tất cả các dục lạc, thiện
ác khác nhau của chúng sanh.
6. Chủng chủng giới trí lực: Trí tuệ của Như Lai biết khắp và đúng
như thật về hoàn cảnh thực tế khác nhau của chúng sanh ở thế
gian.
7. Biến thú hạnh trí lực: Trí tuệ của Như Lai biết đúng như thật về
nơi đến của các hạnh hữu lậu là lục đạo và các hạnh vô lậu là Niết-
bàn.
8. Túc trụ tùy niệm trí lực: Trí tuệ của Như Lai biết đúng như thật về
các túc mạng, một đời cho đến cả trăm ngàn đời, chết đây sanh kia,
tên tuổi, đời sống và thọ mạng của chúng sanh.
9. Sinh tử trí lực: Trí tuệ của Như Lai biết đúng như thật về thời gian
sanh tử, cõi thiện và cõi ác ở đời vị lai, cùng các nghiệp duyên thiện
ác của chúng sanh.
10. Lậu tận trí lực: Trí tuệ của Như Lai đoạn tận hết thảy các tập khí,
phiền não không còn sanh khởi, thành tựu giải thoát tốt hậu.
Tứ vô ngại biện 四無礙辯
Pháp vô ngại: thông đạt giáo pháp ; 2. Nghĩa vô ngại: tinh thông nghĩa
lý uản áo của giáo pháp. 3. Từ vô ngại: tinh thông mọi ngôn ngữ. 4.
Nhạo thuyết vô ngại: dùng ba phương tiện trên để giáo hoá chúng sinh
vô ngại
Tứ vô sở uý của Phật
. Chư pháp hiện đẳng giác vô uý (Phạm sarva-dharmābhisaṃbodhi-
vaiśāradya): Đối với tất cả các pháp, Phật đều rõ biết một cách tường
tận. Do đó, đối với những chúng sinh vì không biết về các pháp mà đặt
câu hỏi thì Ngài giải đáp một cách tự tại, không có gì sợ hãi. Điều vô uý
này còn gọi là Nhất thiết trí vô sở uý.
. Lậu vĩnh tận vô uý (Phạm sarvāsrava-kṣaya-jñāna-vaiśāradya): Còn
gọi là Lậu tận vô sở uý. Phật đã dứt sạch hết tất cả mọi
phiền não, không có sự sợ hãi từ các nạn bên ngoài.
.
Thuyết chướng pháp vô uý (antarāyika-dharmānanyathātva-niścita-
vyākaraṇa-vaiśāradya): Phật nói ‘pháp nhiễm ô chắc chắn gây trở ngại
sự tu tập’. Khi nói như vậy, Phật không hề lo sợ sự bắt bẻ hay gạn hỏi
của bất cứ ai. Điều này còn được gọi là Thuyết chướng đạo vô sở uý.
. Thuyết xuất đạo vô uý (saṃpad-adhigamāya nairyāṇika-pratipat-
tathātva-vaiśāradya): Phật chỉ bày con đường thoát ly sinh tử, chỉ bày
phương pháp tu tập để thoát ly khổ đau. Vô uý này còn được gọi là
Thuyết tận khổ đạo vô sở uý, bởi Phật tuyên thuyết đạo xuất ly mà
không sợ hãi điều gì.\
18 PHÁP KHÔNG CÙNG CHUNG (thập bát bất cộng pháp)
Đây là 18 pháp công đức mà đặc biệt chỉ Phật mới có, chứ các
hàng Bồ-tát, Thanh-văn và Duyên-giác đều không có:
1. Thân không lầm lỗi (thân vô thất): Phật từ vô lượng kiếp đến
nay, trì giới thanh tịnh, công đức đầy đủ, phiền não
dứt sạch, cho nên ở nơi thân không hề có lầm lỗi.
2. Miệng không lầm lỗi (khẩu vô thất): Phật có trí tuệ biện tài vô lượng, tùy
căn cơ của chúng sinh mà nói pháp thích hợp, làm cho tất cả đều được chứng
ngộ.
3. Ý tưởng không lầm lỗi (niệm vô thất): Phật đã tu các pháp môn thiền định
sâu xa, tâm không bao giờ tán loạn, không dính mắc nơi các pháp, tuyệt đối
an ổn.
4. Không có ý tưởng phân biệt (vô dị tưởng): Phật cứu độ khắp tất cả
chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt chọn lựa.
5. Không có tâm bất định (vô bất định tâm): Trong mỗi lúc đi đứng ngồi
nằm, Phật không bao giờ xa rời chánh định sâu xa, luôn luôn nhiếp tâm trụ nơi
pháp lành.
6. Không có cái tâm không biết tự mình : buông xả (vô bất tri kỉ xả
tâm): Trong từng sát na, đối với những cảm thọ khổ vui, Phật
thấy rõ các tướng sinh trụ dị diệt của chúng, cho nên vẫn an trú
trong cảnh giới bình đẳng, vắng lặng.
7. Ý chí không tiêu mất (dục vô diệt): Phật có đầy đủ các đức
lành, tâm luôn luôn muốn cứu độ chúng sinh mà không bao giờ cho
là đủ hay nhàm chán.
8. Tinh tấn không tiêu mất (tinh tấn vô diệt): Thân tâm Phật lúc
nào cũng tinh tấn, thực hiện mọi phương tiện để cứu độ chúng sinh,
không lúc nào ngưng nghỉ.
9. Niệm không tiêu mất (niệm vô diệt): Tất cả các pháp và trí tuệ
của chư Phật trong ba đời đều tương ưng đầy đủ, không có sự thối
chuyển.
10. Trí tuệ không tiêu mất (tuệ vô diệt): Phật có đầy đủ tất cả trí
tuệ, suốt cả ba đời không có gì chướng ngại, không khiếm khuyết,
không tiêu mất.
11. Giải thoát không tiêu mất (giải thoát vô diệt): Phật dứt tuyệt
mọi sự chấp trước, thoát khỏi cả hai lãnh vực hữu vi và vô vi,
tất cả tập khí phiền não đều không còn, cho nên thành
quả giải thoát không hề bị khiếm khuyết hay tiêu mất.
12. Giải thoát tri kiến không tiêu mất (giải thoát tri kiến vô diệt):
Phật thấy biết các tướng giải thoát thật rõ ràng, không có gì che lấp
được.
13. Tất cả thân nghiệp đều hành động theo trí tuệ (nhất thiết thân
nghiệp tùy trí tuệ hành): Khi thân muốn hành động, trước hết Phật
quán sát hậu quả của việc làm, sau đó sẽ tùy theo trí tuệ mà thực hiện,
cho nên không gây ra lầm lỗi, chỉ đem lại lợi ích cho chúng sinh mà
thôi.
14. Tất cả khẩu nghiệp đều nói năng theo trí tuệ (nhất thiết khẩu
nghiệp tùy trí tuệ hành): Khi miệng muốn nói năng, trước hết Phật
quán sát hậu quả của lời nói, sau đó sẽ tùy theo trí tuệ mà diễn bày,
cho nên không gây ra lầm lỗi, chỉ đem lại lợi ích cho chúng sinh mà
thôi.
15. Tất cả ý nghiệp đều tư duy theo trí tuệ (nhất thiết ý nghiệp tùy
trí tuệ hành): Khi suy nghĩ, trước hết Phật quán sát hậu quả của ý
nghĩ, sau đó sẽ tùy theo trí tuệ mà suy nghĩ, cho nên không gây
ra lầm lỗi, chỉ đem lại lợi ích cho chúng sinh mà thôi.
16. Trí tuệ thấy biết đời quá khứ không bị chướng ngại (trí
tuệ tri kiến quá khứ thế vô ngại vô chướng):Đối với mọi sự
việc của chúng sinh ở đời quá khứ, Phật quán chiếu thấy biết
thông suốt, không có gì làm cho chướng ngại.
17. Trí tuệ thấy biết đời vị lai không bị chướng ngại (trí tuệ tri
kiến vị lai thế vô ngại vô chướng): Đối với mọi sự việc của
chúng sinh ở đời vị lai, Phật quán chiếu thấy biết thông suốt,
không có gì làm cho chướng ngại.
18. Trí tuệ thấy biết đời hiện tại không bị chướng ngại (trí tuệ
tri kiến hiện tại thế vô ngại vô chướng): Đối với mọi sự việc
của chúng sinh đời hiện tại, Phật quán chiếu thấy biết thông suốt,
không có gì làm cho chướng ngại.