155
CN XXVII Thường niên B Mc. 10, 2-16 04-10-2009 ĐỨC GIÊSU ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ VÀ CÁC ..….Lm. PX Vũ Phan Long, ofm 02 HÔN NHÂN BT KH PHÂN LY .……………..Lm. Carolô Hồ Bc Xái 09 TÌM LẠI SỰ NGẠC NHIÊN ………………...….. Lm Mark Link, SJ 23 GIA ĐÌNH- HÌNH NH THIÊN CHÚA BA NGÔI ...Lm Phm Thanh Liêm, SJ 27 ĐIU CHÚA LIÊN KT, CHỚ PHÂN LY …Lm Giuse Phm Ngọc Ngôn,Csjb 31 MỐI GIÂY BT KH PHÂN LY ………..Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 34 BN CHT TRONG TÌNH YÊU ………...Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 37 TÚP LU LÝ TƯỞNG ..………………….. .Lm. Anphong Trn Đc Phương 40 CHUNG THỦY TRONG HÔN NHÂN ……Lm Giuse Đinh Lp Liễm 44 BIT DUY TRÌ ƠN THÁNH ………….…Lm. H Ngọc Đoi 55 1

21 Bg-cn_xxvii_ngọc Nga St2

Embed Size (px)

DESCRIPTION

vấn đề li dị

Citation preview

CN XXVII Thường niên BMc. 10, 2-1604-10-2009

ĐỨC GIÊSU ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ VÀ CÁC ..….Lm. PX Vũ Phan Long, ofm 02HÔN NHÂN BÂT KHA PHÂN LY .……………..Lm. Carolô Hồ Băc Xái 09TÌM LẠI SỰ NGẠC NHIÊN ………………...….. Lm Mark Link, SJ 23GIA ĐÌNH- HÌNH ANH THIÊN CHÚA BA NGÔI ...Lm Pham Thanh Liêm, SJ 27ĐIÊU CHÚA LIÊN KÊT, CHƠ PHÂN LY …Lm Giuse Pham Ngọc Ngôn,Csjb 31MỐI GIÂY BÂT KHA PHÂN LY ………..Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 34BÊN CHĂT TRONG TÌNH YÊU ………...Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 37TÚP LÊU LÝ TƯỞNG ..………………….. .Lm. Anphong Trân Đưc Phương 40CHUNG THỦY TRONG HÔN NHÂN ……Lm Giuse Đinh Lâp Liễm 44BIÊT DUY TRÌ ƠN THÁNH ………….…Lm. Ha Ngọc Đoai 55TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC .………………. Alice von Hildebrand 56GIA ĐÌNH LÀ NÊN TANG CỦA XÃ HỘI ...Lm. Giuse Vũ Thái Hoa 64TIN TƯỞNG VÀ PHÓ THÁC ….……... Lm An Phong, OP 67CỘNG ÐỒNG TÌNH YÊU …................. Lm. Giuse Đô Vân Lưc, OP 68THIÊN CHÚA ÐÃ PHỐI HỢP ……….... Lm. Giuse Nguyễn Cao Luât, OP 73SỰ GÌ THIÊN CHÚA ĐÃ KÊT HỢP …… Lm. Giuse Mai Xuân Tư, OP 79TÔN TRỌNG SỰ BÌNH ĐẲNG ………….Lm. Jude Siciliano, OP 82HÔN NHÂN BÊN VƯNG ………..…… Lm. Giacôbê Pham Văn Phượng, OP 90CHI LÀ MÔT …….……….…. ...……... Manna ………………. 94HÃY SỐNG KHĂNG KHÍT………....... Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm 98

1

ĐỨC GIÊSU ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ VÀ CÁC TRẺ EMMáccô 10,2-16

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

I. NGƯ CANHBản văn đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay bỏ câu 10,1 là một tóm lược nhỏ quen thuộc của tác giả Mc: một chi tiết địa lý khá mơ hồ (“miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan”); một mô tả tổng quát về hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu cho đám đông đã quy tụ lại. Truyện kế tiếp không liên hệ gì với nội dung của c. 1 cả. Nhưng tác giả có một ý hướng thần học: Đức Giêsu đang tiến đến gần Giêrusalem.Khi nghiên cứu kỹ đoạn văn Mc 10,2-12, người ta nhận thấy nòng cốt là cc. 2-9, một cuộc tranh luận với mấy người Pharisêu. Vì bản văn Kinh Thánh được trích từ Bản LXX, người ta nghĩ đến Do-thái giáo thuộc môi trường Hy-lạp. Sự độc lập của phân đoạn này với cc. 10-12 được xác nhận bởi Lc 16,18 trong đó chỉ có câu đầu của giáo huấn ban cho các môn đệ. Có lẽ cc. 10-12 đã được thêm vào sau.

II. BỐ CUCBản văn có thể chia thành hai phần :

1) Vấn đề ly dị (10,2-12):a- giáo huấn cho dân chúng (cc. 2-9),b- giáo huấn cho các môn đệ (cc. 10-12);

2) Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (10,13-16).

III. VÀI ĐIÊM CHÚ GIAI- chồng có đựơc phép rẫy vợ không? (2): Câu hỏi đề cập đến tính hợp pháp của ly dị, chứ không phải lý do đưa đến ly dị có xung khắc với sự hiểu ngầm theo Đnl 24,1-4. Vào thời

2

ấy, người ta chỉ tranh luận về các lý do. Một nhóm kinh sư nêu ra các lý do: ngoại tình, một bệnh truyền nhiễm, chứng điên hoặc không thể có con. Đối với đa số các kinh sư, còn có nhiều lý do khác: chỉ cần người đàn ông không bằng lòng một điều gì đó nơi vợ mình là có thể rẫy vợ. Dù thế nào, người chồng có tự do rất lớn.

- để thử: Có tác giả cho rằng có lẽ họ nhắm đẩy Đức Giêsu vào thế xung đột với đại gia đình Hêrôđê đầy những vụ ly dị. Nhưng hợp lý hơn thì cho rằng người Phariêu muốn gài Đức Giêsu vào thế phải nói ra quan điểm nhiệm nhặt của Người, và như thế Người trở thành đáng ghét trước mắt người ta, do Người giới hạn “tự do” của họ.

- Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? (3): Đnl 24,1-4 coi việc ly dị như được phép; đoạn văn này chỉ đề cập đến thủ tục phải theo khi một người chồng đã quyết định ly dị vợ mình, và lệnh cấm tái kết hôn sau khi cuộc hôn nhân của người phụ nữ này đã chấm dứt. Các lý do để được ly dị được diễn tả mơ hồ: “thấy nơi nàng có điều gì chướng” (bâh ‘erwat dâbâr). Sự mơ hồ này đã đưa tới một tranh luận của giới kinh sư. Những nố ngoại lệ trong TM Mt (5,32; 19,9) được hiểu trong bối cảnh này. Nhưng trong TM II, vấn đề được đặt ra tận căn bản: có được phép ly dị không?

- Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị rẫy vợ (4): Người Pharisêu đã trả lời câu hỏi của Đức Giêsu dựa vào nền tảng của Đnl 24,1-4. Trong Do-thái giáo xưa kia, ly dị không phải là một hành vi pháp lý công khai tại toà án. Người chồng chỉ việc viết một giấy (“Tôi bỏ và ly dị vợ tôi ngày này”), rồi đưa giấy ấy cho vợ. Ta thấy rằng người Pharisêu nói về phép

3

(cc. 2.4), trong khi Đức Giêsu lại hỏi họ là có một lệnh truyền (= điều răn) nào chăng (hẳn là người Pharisêu sẽ khó mà tìm được một lệnh truyền nào như thế trong Luật!). Trong Mt 19,7-9, người Pharisêu lại nói về một lệnh truyền của Môsê, còn Đức Giêsu lại trả lời họ rằng đó chỉ là một sự cho phép.

- vì các ông có lòng chai dạ đá (5): Đức Giêsu coi lời dạy của Đnl 24,1-4 như một sự nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người và một sự miễn chuẩn cho chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Trong câu trả lời, Đức Giêsu đi từ một lời cho phép ly dị đến lời làm nền tảng cho hôn nhân: sự miễn chuẩn không hủy bỏ được luật căn bản.

- Lúc khởi đầu công trình tạo dựng (6): Đức Giêsu cho thấy Người phản đối ly dị là do Người dựa vào Kinh Thánh: Người trích St 1,27; 2,24. Người khẳng định rằng trong chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa, những người kết hôn thì nên “một xương một thịt”, nên không được ly dị. Đnl 24,1-14 cho phép ly dị là một cách nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người. Lời giáo huấn của Đức Giêsu nhằm tái lập lại chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng, nên không hềâ đối lập với Kinh Thánh.

- Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt (8): Lý tưởng hôn nhân này là một suy diễn dựa trên St 2,24; nó cung cấp lý do vì sao không thể ly dị.

- loài người không được phân ly (9): “Loài người” đây là người chồng, chứ không phải là đệ tam nhân như vị thẩm phán. Bởi vì theo Đnl 24,1-4, người chồng có thể một mình

4

bắt đầu thủ tục, thì không cần một đệ tam nhân. Ở đây Đức Giêsu triệt tiêu thủ tục Cựu Ước.

- khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người (10): Đây không thể là ngôi nhà ở Caphácnaum (x. 1,29; 9,33), bởi vì Đức Giêsu và các môn đệ đã bỏ miền Galilê. Đây là một sáng tạo của Mc để tạo cơ hội cho Đức Giêsu dạy riêng các môn đệ .

- Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình (11): Giáo huấn tuyệt đối này cũng xuất hiện trong Lc 16,18c.

- và ai bỏ chồng … (12): Luật Do-thái chỉ nói rằng người chồng có thể tiến hành thủ tục ly dị, chứ không nói là người vợ. Thường thường, các tác giả cho rằng c. 12 này là một cách tác giả ứng dụng giáo huấn của Đức Giêsu cho những người sống dưới luật Rô-ma và Hy-lạp.

- trẻ em (13): có thể ở trong khoảng ấu nhi đến 12 tuổi. Người ta mong Đức Giêsu đặt tay để chúc lành cho chúng.

- chạm tay vào chúng: để Đức Giêsu chúc lành cho chúng.

- Người bực mình (14): Phản ứng này của Đức Giêsu (x. 1,43; 3,5; 8,12; 14,33-34) đã phát sinh do các môn đệ không hiểu Người và bản chất của Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng. Một lần nữa, lối xử sự của các môn đệ lại là cớ để Đức Giêsu ban một giáo huấn tích cực. Mt 19,14; Lc 18,16 đã bỏ đi phản ứng rất người này, có lẽ vì thấy bất xứng với Đức Giêsu.

5

- vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng: Đặc tính chính yếu của trẻ em là khả năng đón nhận. Vì không có sức mạnh thể lý và không có quy chế pháp lý, trẻ em biết cách đón nhận tốt nhất. Nước Thiên Chúa phải đượïc đón nhận như một quà tặng, bởi vì không một sức mạnh hoặc quy chế nào của loài người tạo ra được hoặc đòi hỏi cho có được Nước Thiên Chúa (x. c. 15).

- Thầy bảo thật (15): Từ “thật” dịch từ amên trong bản Hy-lạp: “điều vững vàng”, “điều chắc chắn là thế”.

- đặt tay chúc lành cho chúng (16): Trong các tác phẩm thời ấy, trẻ em được coi như ví dụ về phong cách thiếu hợp lý hoặc là những đối tượng cần được đào tạo. Trong đoạn này (x. cả 9,33-37), chúng được trân trọng như những nhân vị và được quan hệ với Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.

IV. Ý NGHĨA CỦA BAN VĂN* Vấn đề ly dị (2-12)Đức Giêsu đã sang miền Giuđê. Giáo huấn của Người về hôn nhân và ly dị lại là một thách đố nữa cho những ai muốn bước theo Người. Cựu Ước cho thấy có thể ly dị (x. Đnl 24,1); điều chắc chắn là người đàn ông có thể rẫy vợ. Dù các lý do để ly dị thế nào, hệ thống luật lệ thời ấy cho các người chồng một tự do rất lớn và khiến các bà vợ phải trả giá đắt cho tự do này: vị trí của các bà rất mong manh và các bà phải lệ thuộc sự quyết đoán của chồng.

Khi đăt câu hỏi cho Đức Giêsu, người Pharisêu muốn lôi kéo Đức Giêsu vào trong cuộc tranh luận về các lý do cho phép ly dị. Đức Giêsu không đi vào trong tranh luận về các lý do

6

hợp pháp để ly dị. Như trong các trường hợp khác, Người đăït cuộc tranh luận trên một bình diện khác. Người đưa các người đối thoại trở lại với Kinh Thánh, với cách xử sự và ý muốn của Thiên Chúa tạo hóa vào thuở tạo thiên lập địa. Tương quan giữa người nam và nữ không phải là điều mà con người tự do định liệu, bởi vì không phát xuất từ con người, nhưng từ Thiên Chúa trong tư cách là Đấng Tạo hóa. Ngài đã tạo dựng loài người trong sự khác biệt nam nữ; Ngài đã nhắm người này cho người kia, đã quy định rằng họ kết hợp với nhau và nên “một xương một thịt”. Phá hỏng sự bố trí này của Thiên Chúa Tạo hóa là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Đấng Tạo hóa. Như thế, hạâu quả tiêu cực là cấm ly dị và tái kết hôn. Vì vậy, sau đó, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng ly dị và cưới vợ hoặc lấy chồng khác là phạm tọâi ngoại tình.

* Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (13-16)Sau một đoạn nói về hôn phối, có một đoạn nói về trẻ em cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Nhưng thực ra bản văn này đề cập đến Nước Thiên Chúa và hạng người hy vọng được tham dự vào đó. Các em bé không tự mình hành động theo sáng kiến của mình; chúng không có khả năng lo liệu cho bản thân; chúng chỉ được an toàn dưới sự che chở của cha mẹ. Chỉ những ai nhận biết và đón tiếp Nước Thiên Chúa như một quà tặng (như một em bé nhận quà) mới hy vọng được thông phần vào Nước Thiên Chúa; Nước này được dành cho những ai không cậy dựa vào quyền thế hoặc đặc quyền, bởi vì Nước này vượt trên mọi quyền lực và quy chế loài người. Công thức đặc biệt nói về việc đón nhận Nước Thiên Chúa gợi ý cho ta coi ở đây Nước này như một thực thể hiện tại. Quả thật người ta đi vào trong Nước tương lai,

7

nhưng dĩ nhiên việc đón nhận Nước ấy phải xảy ra trước. Nước ấy cũng đã hiện diện rồi. Tác giả Mc đã hiểu tương quan với hiện tại này theo nghĩa Kitô học: Ngay bây giờ người ta đã có thể trải nghiệm Nước Thiên Chúa trong hoạt động của Đức Giêsu. Một hình ảnh được cung cấp trong cảnh kết thúc, khi Đức Giêsu ôm lấy các trẻ em và chúc lành cho chúng: qua hành động này, nguyện vọng của dân chúng được đáp ứng (c. 13), và nhất là lời hứa được công bố ở cc. 14t được xác nhận.

+ Kết luậnNgoài nội dung riêng của hai phần trong đoạn này, ta thấy hai phần có một nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi nhẹ trong xã hội lúc ấy, nhưng dưới mắt Đức Giêsu, họ cũng là những nhân vị, và có lẽ còn được Thiên Chúa chiếu cố đến đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước Thiên Chúa được dành cho những con người như thế.

V.- GỢI Ý SUY NIÊM

1. Xuyên qua dây hôn của đôi vợ chồng, phát sinh một điều mới, một đơn vị mới và có thể nói, một hữu thể nhân loại mới. Họ vẫn là hai người với đặc tính riêng và trách nhiệm riêng, nhưng họ không còn độc lập, tách biệt và riêng rẽ nữa. Thiên Chúa đã nhắm làm cho sự kết hợp của họ đưa tới sự phát sinh một đơn vị mới chuyên biệt và thực hữu, một dây liên hệ thường hằng. Đó là cách bố trí của Thiên Chúa.

2. Các môn đệ phải đón nhận Nước Thiên Chúa như các trẻ em, nghĩa là họ không thể đi vào đó bằng sức riêng. Như

8

các em bé, họ phải cảm thấy mình được che chở bởi tình yêu của Thiên Chúa, phải để cho mình được Ngài lấp đầy bằng những ân huệ. Đi vào Nước Thiên Chúa luôn luôn là một ân huệ mà ta đón nhận với lòng biết ơn.

3. Các môn đệ chu toàn bổn phận chính yếu, bổn phận phục vụ, bằng cách chu toàn trách nhiệm đối với các trẻ em. Cũng như con cái có bổn phận đối với cha mẹ, cha mẹ cũng có bổn phận đối với con cái.

4. Các bổn phận được giao cho chúng ta có thể là lớn lao và đẹp đẽ, nhưng trước nhan Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là như các trẻ em: chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào tình yêu của Ngài và để cho Ngài ban chan hòa các ân huệ.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

HÔN NHÂN BÂT KHA PHÂN LY

Lm. Carolô Hồ Băc Xái

I. DÂN VÀO THÁNH LÊAnh chị em thân mến Lời Chúa hôm nay dạy về đạo thuỷ chung trong hôn nhân.Ngày nay, đạo thuỷ chung đang bị thử thách nặng nề: nhiều cặp vợ chồng ly dị nhau, nhiều cặp khác thì ly thân, nhiều cặp khác nữa thì vẫn còn sống chung nhưng ngoại tình.Trong thánh lễ này, anh chị em hãy cầu nguyện cho gia đình mình, và cũng hãy cầu nguyện cho những gia đình đang bất hòa với nhau.

II. GỢI Ý SÁM HỐI9

Xin Chúa tha thứ cho những người làm vợ làm chồng đã vì yếu đuối mà có lần không trung tín với nhau.Xin Chúa tha thứ cho những vợ chồng không hòa thuận yêu thương nhau.Xin Chúa thứ tha cho những cha mẹ không làm gương tốt cho con cái.

III. LƠ I CHÚA1. Bai đọc I St 2,18-24Bài tường thuật về việc Thiên Chúa tạo dựng người nữ. Qua những hình ảnh mà tác giả tạm dùng, chúng ta khám phá được những ngụ ý sau: (1) Người nữ là trợ tá tương xứng của người nam (trong khi mọi dã thú và chim trời đều không thể làm bạn tương xứng với người nam được); (2) Người nữ vừa thân thiết vừa bình đẳng với người nam (hình ảnh chiếc xương sườn ở ngang hông người nam); (3) Vợ chồng phải gắn bó với nhau thành một xương một thịt.

2. Ðáp ca Tv 127Bài thơ ca tụng người vợ đức hạnh: nàng như cây nho đầy hoa trái, nàng là phúc lộc Thiên Chúa ban cho người kính sợ Chúa.

3. Bai đọc II Dt 2,9-11 (Chủ đề phụ)

Ðức Giêsu là đại biểu của loài người. Qua cuộc chịu nạn và chịu chết, Người bị hạ xuống thua kém các thiên thần một thời gian ngắn. Nhưng qua việc phục sinh, Ngài lại được nâng lên trở thánh vị lãnh đạo thập toàn. Các kitô hữu kết hợp với Ðức Giêsu trong đau khổ thì cũng được chia xẻ vinh quang với Ngài.4. Tin Mừng Mc 10,2-16

10

Ðoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài học: a/ Về cuộc sống hôn nhân: Những người biệt phái phỏng vấn Ðức Giêsu về vấn đề ly dị.

Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn đề này: lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép ly dị vì những cớ rất tầm thường; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi Shammað) chỉ cho ly dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép ly dị.

Còn lập trường của Ðức Giêsu là tuyệt đối không được ly dị: "Ðiều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly". Nhân dịp này, Ðức Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân: phải yêu thương nhau ("luyến ái") và đồng tâm nhất trí ("nên một huyết nhục") với nhau.

b/ Về thái độ đón tiếp: Người ta đem trẻ nhỏ đến với Ðức Giêsu. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với Ðức Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng ("đặt tay trên chúng"). Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là vì thời đó người Do Thái coi khinh trẻ nhỏ (coi chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.

Phản ứng của Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai. Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.

IV. GỢI Ý GIANG

11

* 1. Gia đình: Vấn đề Ly hôn và con cái"Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, và tôi còn khóc, nhưng không ai biết... Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung đột khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại... chính tôi nữa!"

Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.

Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỉ lệ phân nửa: bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy!

12

Lý do người ta dựa vào, là "Ðã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau". Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót 3 điểm sau đây:

Thứ nhất là quá ích kỷ: chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.

Thứ hai là phản trắc, lật lọng: những người ly dị là những kẻ phản trắc, lập lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không?

Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân: bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Ðó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng

13

cấn phải trải qua khủng hoảng mới đi tối chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được?

Ðó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn... Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo Hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây: Những người biệt phái dẫn chứng với Ðức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Ðức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Ðức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẫn trách trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.

Ðức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của TC, con người không có quyền làm ngược lại "Ðiều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly". Nghĩa là Ðức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có 100 tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Ðức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành

14

cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đoạ khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.

* 2. Chung thủy trong tình yêuThu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường. Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.Hồ Tử nói: - Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học: - Chàng đi làm quan năm năm mới về. Ðáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết

15

gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được!

Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Ðó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: "Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục "là giao ước tình yêu". Hiệu quả của giao ước này là "hai người trở nên một". Ðiều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.

Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: "Mình với ta tuy hai mà một". Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.

Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.

Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua

16

Ðavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.

Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Ðó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.

Hình ảnh "Ðức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng" (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu "cơm không lành canh không ngọt", muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp "đường ai nấy đi" thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.

Ðức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn".

Lạy Chúa, "Chúa là tình yêu", xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.

17

Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

3. Trở lai thanh trẻ thơÐức Giêsu nói: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với một tâm hồn trẻ thơ thì sẽ chẳng được vào".Sau đây là một vài suy nghĩ về việc trở lại thành trẻ thơ:

1. Trẻ không do tuổi đời mà do tâm hồn.Ta già đi không phải vì đã sống nhiều năm mà do đã đánh mất lý tưởng, chất chứa ưu phiền, nghi hoặc, sợ hãi, thất vọng, không tự tin...2. Niềm tin làm ta trẻ, hoài nghi khiến ta già; hy vọng làm ta trẻ, thất vọng khiến ta già.3. Hồi còn bé chúng ta rất hồn nhiên. Lớn lên chúng ta đánh mất nó. Dù vậy chúng ta vẫn có thể tìm lại được sự hồn nhiên. Tuy nhiên tính chất của hai sự hồn nhiên này khác nhau:

Sự hồn nhiên thứ nhất thì chưa chín chắn, chưa có trách nhiệm, chưa biết đến ưu sầu và sự dữ. Sự hồn nhiên thứ hai đã chín mùi nhờ tinh thần trách nhiệm, nhờ cảm nghiệm về ưu sầu và sự dữ; Sự hồn nhiên thứ nhất chưa biết phạm tội. Sự hồn nhiên thứ hai chỗi dậy từ tội lỗi; Sự hồn nhiên thứ nhất không biết phạm tội, sự hồn nhiên thứ hai không muốn phạm tội.

4. Chuyện minh họaa/ Ðổi lời tuyên hôn

18

Một đôi bạn trẻ sắp sửa thành hôn đến gặp vị linh mục sắp chứng hôn cho họ và đề nghị: Thưa cha, chúng ta đã thảo luận với nhau rất kỹ nên đến xin Cha sửa đổi một chút trong câu mà Cha sẽ đọc trong nghi lễ: Thay vì Cha tuyên bố là chúng ta sẽ là vợ chồng với nhau "cho đến chết", Cha có thể đổi lại là "cho đến khi không còn yêu nhau nữa" được không ạ?

Linh mục hỏi lại: Tại sao thế?Chúng con thấy nhiều vợ chồng sống với nhau một thời gian rồi không còn yêu nhau nữa. Khi đó mà phải tiếp tục sống với nhau thì chỉ làm khổ cho nhau thôi. Thà ly dị còn tốt hơn.Cha khen ngợi sự thẳng thắn của chúng con. Nhưng cha không thể sửa đổi như chúng con đề nghị, vì cha không muốn chứng hôn cho một cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tan rã.

Nghĩa là sao ạ?Hôn nhân nửa vời thì chắc chắn sẽ tan rã. Thế nào là hôn nhân nửa vời?Thứ nhất là nửa vời về thời gian, nghĩa là chỉ muốn sống chung cho đến khi không còn muốn sống chung nữa; thứ hai là nửa vời về chọn lựa: chúng con không chọn con người của nhau mà chỉ chọn một số những điểm hợp nhau; thứ ba là nửa vời về dấn thân: chúng con chỉ muốn dấn thân bao lâu sự dấn thân đó mang đến cho chúng con sung sướng và hạnh phúc. Hôn nhân nửa vời chắc chắn sẽ tan rã thôi.

Vậy thế nào là hôn nhân trọn vẹn?

19

Hôn nhân công giáo phải là hôn nhân trọn vẹn, vì khi chọn một người làm vợ hay làm chồng mình là ta chấp nhận trọn vẹn con người của người đó gồm cả ưu điểm và khuyết điểm, ta muốn cùng người đó chia xẻ không chỉ niềm vui mà cả nỗi buồn, ta sẽ cùng người đó sống không chỉ một thời gian mà là suốt đời.

Thế nhưng ở đời này có gì là trọn vẹn đâu?Ðúng thế. Nhưng chính vì con người không trọn vẹn nên con người cần có bạn hôn nhân để bổ túc cho nhau nên trọn vẹn hơn. Hơn nữa, khi hôn nhân được cử hành bằng bí tích trước mặt Chúa thì còn có Chúa hỗ trợ cho những cố gắng của hai vợ chồng.

b/ Nam và nữTruyện kể Ấn độ về tạo dựng: Khi tạo dựng người nam xong, Ðấng sáng tạo thấy Ngài đã tận dụng tất cả những yếu tố vật chất. Ngài không còn chất cứng hay vật rắn trên tay để tạo dựng người nữ.

Sau một hồi suy nghĩ, Ngài lấy sự tròn trịa của mặt trăng, dẻo dai của thân nho, mảnh mai của cây sậy, nảy nở của bông hoa, màu tươi sáng của lá cây và sự yên tĩnh của tia nắng mặt trời, nước của đám mây và sự bất ổn của gió, sự sợ hãi của con thỏ và tự cao tự đại của con công, sự mềm mại của ức chim và cứng rắn của kim cương, ngọt ngào của mật và độc ác của cọp, nóng của lửa và lạnh của tuyết, sự bép xép của chim mỏ ác và giọng líu lo của họa mi, sự dối trá của sếu và sự tự tin của sư tử.Trộn tất cả những yếu tố đó lại với nhau, Ðấng sáng tạo dựng nên người nữ và trao cho người nam.

20

Một tuần sau, người nam trở lại và nói: "Thưa Ngài, tạo vật Ngài trao cho làm con sống không hạnh phúc. Cô ấy nói luôn miệng và chòng ghẹo con suốt ngày, làm con chẳng được nghỉ ngơi. Cô bắt con phải luôn để ý đến cô, nên thời giờ của con bị lãng phí. Chuyện nhỏ tí cũng làm cô khóc và cuộc sống thật vô dụng. Con đến trả lại cô ấy cho Ngài, vì con không thể sống với cô ấy".- Ðược.Và Ngài nhận lại. Một tuần trôi qua, người nam trở lại với Ðấng sáng tạo và nói: "Thưa Ngài, cuộc sống của con thật trống rỗng từ khi con trao lại tạo vật đó cho Ngài. Con luôn nghĩ về cô ấy, về cách cô múa hát, về ánh mắt trao duyên, về bao câu chuyện và xích lại gần con. Trông cô thật đẹp và da thịt cô mịn màng. Con rất thích nghe cô cười. Xin trao lại cô ấy cho con".- Ðược.

Và Ngài trao lại cho anh. Nhưng ba ngày sau, người nam trở lại và nói: "Thưa Ngài, con không biết phải giải thích làm sao, nhưng với tất cả kinh nghiệm của con về tạo vật này, con kết luận rằng cô đã gây cho con nhiều buồn bực hơn niềm vui. Con cầu nguyện cho cô và trao trả lại cho Ngài. Con không thể sống với cô ấy!" - Anh cũng không thể sống thiếu cô ấy!

Rồi Ngài quay lại và tiếp tục làm việc. Người nam nói vẻ thất vọng: "Con sẽ làm gì? Con không thể sống với cô ấy và cũng không thể sống thiếu cô ấy!"

V. LƠ I NGUYỆN CHO MỌI NGƯƠ I

21

Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho những người Thiên Chúa đã liên kết thành vợ chồng trong hôn nhân, để họ luôn nhớ và thi hành lời Chúa dạy: "Ðiều gì Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân ly".

1. Nhiệm vụ của Hội thánh là giúp mọi người chuẩn bị và nuôi dưỡng đời sống hôn nhân theo ý Thiên Chúa / Xin cho các vị chủ chăn luôn tận tâm thi hành nhiệm vụ rất cần thiết và cao quí này.2. Nhiệm vụ của xã hội là tạo điều kiện và môi trường tốt / để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân đúng phẩm giá con người / Xin cho các nhà cầm quyền biết ý thức trách nhiệm đó / để loại bỏ mọi ảnh hưởng nguy hại đến đời sống hôn nhân.3. Nhiệm vụ của vợ chồng là chung thủy với nhau trọn đời / để tôn trọng và yêu thương nhau / Xin cho các đôi vợ chồng đang chia rẽ bất hòa / biết nhận lỗi và tha thứ cho nhau / để gia đình được sum họp.4. Nhiệm vụ của vợ chồng công giáo là thi hành đúng lời cam kết với nhau trước mặt Chúa và Hội thánh khi cử hành bí tích hôn phối / Xin cho các đôi vợ chồng trong họ đạo chúng ta / luôn nêu gương sống trung thành với lời cam kết đó.

Chủ tế: Lạy Chúa, hoàn cảnh nghèo đói, chậm tiến và những ảnh hưởng xấu trong xã hội, đang gây đổ vỡ cho nhiều gia đình chúng con, xin Chúa luôn trợ giúp để ít là những gia đình công giáo, luôn là những dấu hiệu tinh thương của Chúa giữa mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô...

Lm. Carolô Hồ Băc Xái

TÌM LẠI SỰ NGẠC NHIÊN22

Chủ đề: "Biết ngạc nhiên như trẻ thơ là trọng tâm mọi lời cầu nguyện và tôn thờ"Lm. Mark Link, S.J.

Mấy năm trước, tờ Chicago Tribune (Diễn đàn Chicago) có đăng bài viết của Amelia Bahl nhan đề: "Đi đạo với Bà Tôi". Bài được viết theo thể đối thoại như sau;Ricky hỏi: Thưa bà tại sao cây lại thay lá vào cuối mùa hạ?Bà trả lời: Vì những lá cây cũ mèm xơ xác rồi, cần mặc lấy lá mới.- Những lá mới từ đâu đến vậy?- Từ sâu dưới lòng đất, bà mẹ thiên nhiên luôn bận bịu chuẩn bị lá mới cho chúng- Bà ơi, có bao giờ bà thấy bầu trời giống như một hồ nước úp lộn ngược không?- Và những áng mây bé tí kia trông giống những chiếc thuyền buồm phải không nào?- Cháu thắc mắc chả hiểu chúng dương buồm đi về đâu?- Có lẽ đi dự "hội mây" đó cháu.- Chúng sẽ làm gì ở đó nhỉ?- Có lẽ để quyết định xem trái đất có cần mưa thêm không?- Chà! Chúa lo lắng tất cả mọi sự, bà nhỉ?

Bà của Richy thực là một gương mẫu hoàn hảo cho người trưởng thành. Bà không bị mất cảm thức của mình về những điều ngạc nhiên của trẻ thơ. Biết ngạc nhiên là biết nhìn thấy sự vật giống như trẻ con nhìn thấy chúng. Là biết đặt ra những câu hỏi tương tự như trẻ con thường hỏi. Biết ngạc nhiên là biết nhìn mọi sự như chúng ta nhìn chúng lần đầu tiên, nghĩa là nhìn chúng với sự tươi mát lần đầu, toả ra sự mới mẻ từ đôi tay tạo dựng của Chúa khi chưa hề bị tì ố. Biết

23

ngạc nhiên là biết nhìn vào một cánh đồng cỏ ướt đẫm sau cơn mưa và nhận ra những dấu chân của Chúa trên đó. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào đôi mắt trẻ thơ và nhận ra dấu tay của Thiên Chúa ẩn chứa trong đó.

Có một ví dụ thú vị cho vấn đề chúng ta đang bàn được thấy trong quyển sách của Charles Colson tựa đề "Born Again" (Tái sinh). Colson một trong những người bị kết án trong vụ Watergate của tổng thống Nixon vào thập niên 1970. Về sau, ông đã trở lại đạo Chúa. Sự trở lại này đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn ông mãi đến hôm nay. Trong một đoạn sách của mình, Colson đưa chúng ta lùi về quá khứ 20 năm trước để tham dự một mùa hè thú vị mà ông đã trải qua cùng hai cậu nhóc, con của ông. Ông đã mua cho chúng một chiếc thuyền buồm dài 14 bộ (quãng 4 mét rưỡi) và đem nó ra hồ. Khi cả ba đến bờ hồ, một cơn mưa phùn nho nhỏ của mùa hạ bắt đầu lất phất. Tuy nhiên điều này chẳng làm cho họ quan tâm.

Sau khi thuyền rời khỏi bến, họ chỉ còn nghe thấy tiếng nước vỗ mạn thuyền và tiếng chiếc buồm sũng nước vỗ phành phạch trong gió. Cậu bé Chris, 10 tuổi được giao nhiệm vụ điều khiển chiếc thuyền. Khi nhận thức được vai trò thuyền trưởng của mình, gương mặt cậu bé trông mới rạng rỡ làm sao! Ánh mắt cậu toé lên nỗi hào hứng khi biết rằng cậu đang nắm trong tay quyền điều khiển sức mạnh của gió. Nhìn vào khuôn mặt và ánh mắt cậu con trai, Colson hết sức sửng sốt. Lúc đó, ông tâm sự với Chúa và ông vẫn còn nhớ mãi những lời tâm sự ấy: "Lạy Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho con đứa con trai này, đã ban cho con giây phút kỳ dịêu này. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt đứa nhỏ

24

này, đời con đã thoả mãn rồi. Trong tương lai, dù có xảy đến điều gì cho dẫu ngày mai con có phải chết, thì đời sống của con kể cũng đã mãn nguyện lắm rồi. Tạ ơn Chúa".

Sau đó, Colson ngạc nhiên vì điều ông vừa làm. Trước đó, ông đâu có tin rằng Thiên Chúa có bản ngã, thế mà trong ngẫu hứng, ông lại thưa chuyện với Ngài như một Đấng có bản ngã. Trong niềm vui vào giây phút ấy, tim ông đã vượt khỏi trí não để biểu lộ lời xác nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu ngã. Qua chính những lời cầu nguyện của mình, ông khám phá rằng dù ông chưa tự chứng minh được là có Thiên Chúa, ông vẫn có thể thưa chuyện với Ngài. Làm sao ông có thể thưa chuyện với Ngài được nếu không phải là tận thâm sâu tâm hồn ông vẫn ý thức rằng có ai đó đang lắng nghe ông từ một nơi nào đó. Thực thế, vào buổi trưa hè mưa phùn ấy, Colson đã khám phá ra cho mình điều mà các tác giả linh đạo luôn nhất trí với nhau, đó là: Sự ngạc nhiên là trọng tâm mọi lời khẩn nguyện và thờ phụng.

Điều này dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của bài Phúc Âm hôm nay. Nếu chúng ta cảm thấy khó cầu nguyện và thờ phụng Chúa, có thể là vì chúng ta đã để cho cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình bị khuất sau đám mây: có lẽ vì chúng ta đã không nghiêm chỉnh nghe theo lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm hôm nay; "Ai không biết đón nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó đâu". Có lẽ chúng ta đã đánh mất cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình về vũ trụ. Có lẽ từ lâu lắm rồi chúng ta không còn đi bộ dạo chơi và trò chuyện với con cháu chúng ta.

25

Nhà viết tiểu thuyết hiện đại John Updike đã cảnh cáo chúng ta điều có thể xảy ra nếu chúng ta không còn biết tiếp xúc với những thành viên trẻ trong gia đình Thiên Chúa như sau:"Nếu người lớn chúng ta không biết tiếp tục trò chuyện với trẻ con, chúng ta sẽ không còn là những con người nữa, mà chỉ còn là những cổ máy biết ăn và biết kiếm tiền". Nhà thừa sai vĩ đại Albert Schweitzer nói: "Bi kịch của cuộc sống chính là chúng ta đã chết mặc dù vẫn mang tiếng là đang sống". Khi cảm thức ngỡ ngàng trước vũ trụ bắt đầu lịm tắt thì ý thức về cầu nguyện và phụng thờ cũng bắt đầu tàn lụi theo. Đây là một lời rất quan trọng và thực tiễn mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay.

Để kết thúc xin mời anh chị em yên lặng hiệp ý cầu nguyện cùng tôi; "Lạy Chúa, xin giúp chúng con giữ mãi được cảm thức ngạc nhiên trước cuộc sống, đừng để chúng con trở nên mù loà không nhìn thấy dấu tay Chúa trong vũ trụ quanh chúng con, đặc biệt nơi ánh mắt và khuôn mặt của các trẻ nhỏ.

Xin giúp chúng con biết luôn tiếp xúc với những trẻ em chung quanh chúng con, để đừng bao giờ quên lời Chúa Giêsu truyền dạy; "Kẻ nào không tiếp nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó". Xin hãy giúp chúng con tái khám phá ra cách nào để ngạc nhiên ngõ hầu nhờ đó chúng con có thể tìm lại được cách thức cầu nguyện và phụng thờ Chúa. Chúng con nguyện xin nhờ Chúa Giêsu là Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời."

Lm. Mark Link, S.J.

26

GIA ĐÌNH- HÌNH ANH THIÊN CHÚA BA NGÔISt.2, 18-24; Tv.127; Dt.2, 9-11; Mc.10, 2-16

Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ

Gia đình là phần tử nền tảng của Giáo Hội và xã hội. Gia đình được xây dựng trên tình yêu: tình yêu của vợ chồng với nhau, tình yêu của cha mẹ đối với con cái, và tình yêu của con cái đối với cha mẹ. Tình yêu, tương quan giữa con người với nhau, cần được trân trọng và vun trồng, để đạt tới mức trọn hảo trong Thiên Chúa.

1. Thât tuyệt vời tình yêu nam nữSách Sáng Thế chương hai cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng con người, đặt con người trong vườn địa đàng, và cho con người được quyền đặt tên mọi sinh vật. Adam không tìm thấy cái gì thích hợp với mình cho tới khi Thiên Chúa tạo dựng Evà, và dẫn Evà tới gặp Adam. Adam tìm được niềm vui đặc biệt khi được Evà sống bên cạnh làm bạn đồng hành. Người nam và người nữ được tạo dựng, để sống bên nhau và nâng đỡ nhau, để cùng nhau tiến bước về với Thiên Chúa. Thật đẹp tình yêu giữa người nam và người nữ. Hai người quyến luyến và cảm nghiệm hạnh phúc bên nhau. Họ sẵn sàng hy sinh cho nhau, hạnh phúc khi thấy người mình yêu hạnh phúc. Họ sống cho nhau và vì nhau. Con cái là tình yêu của hai người, là điểm nối kết hai người, giúp họ sống triển nở và hạnh phúc. Tình yêu và hạnh phúc giữa hai người nam nữ, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và chúc phúc cho con người, cụ thể là hai người đang yêu nhau này. Không ai phá hủy được tình yêu giữa hai người, nếu không phải là chính một trong hai người. Hành vi tội của một trong hai, có thể phá vỡ hạnh phúc của họ.

27

Sau khi Evà và Adam phạm tội, Adam đã nhìn Evà với một ánh mắt khác, như nguyên nhân làm cho mình trở nên tệ hơn và xa lìa Thiên Chúa: “chính người đàn bà mà Ngài đã đặt bên tôi, đã hái trái Ngài cấm đưa cho tôi nên tôi đã ăn”. Adam đã không dám nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho Evà. Đúng là Evà có cám dỗ Adam ăn trái cấm, nhưng Adam hoàn toàn tự do. Nếu Adam dứt khoát không ăn, thì Evà đâu có làm gì được ông. Adam ăn, là do chọn lựa của ông, vì Adam tự do!

2.Điều Thiên Chúa liên kết con người không được phân lyTình yêu không chỉ là cảm tính mà còn là hành vi nhân linh. Để thành vợ thành chồng, hai người nam nữ phải chọn nhau suốt đời. Họ muốn chọn nhau ngay cả lúc bệnh hoạn yếu đau, họ chọn nhau lúc vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Tuy nhiên, con người là hữu thể tự do, một hữu thể có thể thay đổi chọn lựa của mình. Hôm nay một người chọn điều này, ngày mai có thể họ lại chọn điều khác. Hai người nam nữ muốn thành vợ thành chồng, họ cũng ý thức thân phận con người mong manh mỏng dòn đó, nhưng họ vẫn muốn tình yêu của họ thành vĩnh cửu, thế nên họ đã thề nguyền chọn nhau cả đời, thề nguyền trọn đời chung thủy với nhau.

Tội là cố tình làm điều xấu. Chính hành vi chọn điều xấu này đã làm biến dạng con người phạm tội, đã làm họ ra khác, trở nên “xấu như quỷ”. Quỷ chính là thiên thần đã muốn độc lập với Thiên Chúa, đã không vâng phục Thiên Chúa, đã từ chối sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Evà đã muốn thành một thần linh không tùy thuộc Thiên Chúa; tuy nhiên không thể là một thần linh mà không tùy thuộc Thiên Chúa vì con

28

người chỉ là tạo vật. Không chấp nhận thân phận thụ tạo, là không chấp nhận chính mình, là muốn phản kháng chống lại Thiên Chúa. Một hành vi như vậy không làm con người triển nở và hạnh phúc; Hành vi đó đã làm biến dạng con người, đã làm họ ra xấu, và làm họ không hạnh phúc; Họ không hạnh phúc với chính họ, và không hạnh phúc với người khác.

Không chung thủy, muốn chọn người khác, là một cám dỗ có thể xảy đến trong đầu của một người đã lập gia đình. Con người được mời gọi để thắng vượt cám dỗ, để là một người vợ người chồng chung thủy và tuyệt vời. Muốn những điều mới lạ, đó là khuynh hướng bình thường của con người; tuy nhiên, con người được mời gọi vươn lên thành người tuyệt vời qua việc thắng vượt chính mình, để người bạn đời là người chồng người vợ và con cái được hạnh phúc hơn. Chung thủy trong đời sống gia đình, là dấu chỉ của một người trưởng thành thật sự.

3. Tình yêu cân được vun tưới nuôi dưỡngTình yêu là tương quan giữa ngôi vị. Làm sao để hai người mãi yêu nhau? Làm sao để hai vợ chồng tin nhau hơn, trân trọng nhau, quan tâm săn sóc nhau hơn? Có lẽ hai người cần biết rằng tình yêu có thể chết nếu không được vun tưới chăm bón. Nghĩa là, họ có thể mất nhau nếu họ không cố gắng để đẹp hơn mỗi ngày. Nét đẹp về thể lý có thể mai một nhưng nét đẹp về tinh thần có thể được tăng lên với thời gian. Để được vậy, người này phải để ý tới người kia, phải quan tâm đến người bạn mình khi họ vui khi họ buồn, nâng đỡ họ khi họ gặp khó khăn.

29

Con người, cần được yêu một cách thật cụ thể, chẳng hạn, cần được yêu qua lời nói, qua sự quan tâm săn sóc. Con người cần thấy mình được yêu mỗi ngày. Mỗi người cũng cần cho thấy mình đẹp, mình đáng yêu mỗi ngày. Để được vậy, mỗi người phải tập quên mình, phải tập sống cho người khác, phải tập quan tâm đến người khác, tập săn sóc và biểu lộ tình thương yêu đối với người khác, tập coi người khác là quan trọng và rất quý đối với mình. “Anh (em) cần em (anh) để hạnh phúc” là một câu mà người bạn đời của mình thích được nghe lại, vậy tại sao mình lại tiết kiệm lời này?

Thiên Chúa là tình yêu. Mọi tình yêu đều đến từ Thiên Chúa. Tình yêu nam nữ cũng có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nhau đến độ tất cả tùy thuộc lẫn nhau. Đức Giêsu luôn lấy Ý Cha làm lương thực và lẽ sống cho mình; Ngài luôn cố gắng lấy Ý Cha làm ý mình. Là một trong thân xác, chưa đủ để duy trì và phát triển tình yêu; con người cần là một trong tâm trí, trong phán đoán, trong chọn lựa giáo dục con cái, trong cách sống. .. Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguyên mẫu và phải là nguyên mẫu của tình yêu gia đình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ Làm sao để chung thủy trong đời sống gia đình? Làm sao để tình yêu vợ chồng không bị mai một

nhưng mỗi ngày một sâu đậm hơn? Theo bạn, có nên ly dị không? Tại sao?

30

Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ

ĐIÊU CHÚA LIÊN KÊT, CHƠ PHÂN LYMc 10, 2- 12

Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Trên hành trình tiến về Giêrusalem, sau khi rời bỏ Caphacnaum, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đến miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. Thánh Máccô hẳn phải tinh ý lắm mới giúp cho chúng ta khám phá một điểm độc đáo trong Tin mừng của Ngài, đó là việc Chúa Giêsu đến miền Giuđa – nơi được xem là “thành đô Thiên Chúa” của người Dothái, nơi tập trung cư dân Dothái sống quanh thủ đô Giêrusalem để rồi từ chính nơi trung tâm tôn giáo này, Chúa Giêsu chạm trán với những người Pharisêu – những vị lãnh đạo về tinh thần và là thầy dạy của người Dothái với cái bẫy “gài sẵn” được giăng ra hòng đưa Chúa Giêsu vào tròng để có cớ kết án Ngài: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?”. Chúng ta hãy xem giáo huấn của Chúa Giêsu xung quanh vấn đề này như thế nào.

Trước hết, chúng ta cùng xem quan điểm của Đệ nhị luật và của người Pharisêu về vấn đề ly dị ra sao. Một khoản luật về vấn đề ly dị được lưu truyền rất lâu trong dân Dothái có từ thời Môsê và được ghi lại trong sách Đệ nhị luật với đại ý là một người đàn ông đã lấy vợ, đã ăn ở với vợ rồi nhưng vì trong quá trình chung sống, xét thấy người vợ sống không tốt với mình hoặc thấy có điều gì không hay ở nơi nàng, thì người chồng được phép viết chứng thư ly dị, trao tận tay người vợ và đuổi nàng ra khỏi nhà (x. Đnl 24, 1-4). Người Dothái căn cứ vào đây để có thể tha hồ đối xử tệ bạc với

31

người vợ của mình. Lý do là vì… đã có luật rồi nên cứ thế mà làm! Đàng khác, vào thời Chúa Giêsu vẫn lưu truyền hai trường phái quan niệm khác nhau về vấn đề ly dị, một của trường phái Hillel và một của trường phái Shammai. Trường phái Hillel là trường phái chủ trương tự do, cấp tiến. Họ chủ trương rằng được phép rẫy vợ với bất cứ lý do nào, cho dù chỉ một việc rất nhỏ - điều này rất hay xảy ra trong gia đình- làm chướng tai gai mắt “đức ông chồng” là có thể nhận được chứng thư ly dị và bị đuổi ra khỏi nhà ngay lập tức.

Trường phái Shammai, trái lại, chủ trương bênh vực quyền lợi của người phụ nữ đang bị xã hội của những người đàn ông thống trị. Trường phái này chỉ chấp nhận cho phép rẫy vợ trong trường hợp người vợ “mèo mỡ” hay nghi ngờ về lòng thuỷ chung. Dù ở trường phái nào đi nữa, chúng ta thấy thân phận người phụ nữ, người vợ trong xã hội Dothái lúc bấy giờ rất hẩm hiu. Họ có thể bị đuổi ra khỏi nhà không biết lúc nào, đôi khi chỉ vì một bóng hồng nào đó lưới qua trong trái tim của đức lang quân cũng đủ để gây cớ cho nàng mất vai trò làm vợ, làm mẹ.

Người Pharisêu rõ ràng đã có đầy đủ lý chứng về vấn đề ly dị, nên khi đưa vấn đề này trình bày với Chúa Giêsu, họ tin chắc rằng Người sẽ sập bẫy. Bởi có chọn trường phái nào thì Chúa Giêsu cũng là người hoặc theo cấp tiến hoặc theo bảo thủ đối với lề luật thánh. Và như thế ai còn có thể tin, để rồi tuôn đến học hỏi nơi Ngài nữa. Chúa Giêsu trả lời họ bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã dạy các ông điều gì?”. Hỏi câu hỏi này, Chúa Giêsu biết chắc rằng họ sẽ trả lời dựa vào lệnh truyền của Môsê đã được ghi trong Đệ nhị luật. Thế

32

như đó chỉ là cái cớ để dựa vào đó, Ngài nại đến một thế lực cao trọng hơn luật Môsê để giải thích lề luật. Ở đây, Chúa Giêsu nại đến ý định ban đầu của Thiên Chúa được trích trong sách Sáng thế, đó là “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt” (St 1, 24) để từ đó, Ngài đưa đến kết luận : “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.

Như thế, người nam và người nữ phối hợp với nhau nên vợ nên chồng có một nền tảng vững chắc từ trong ý định nguyên thuỷ của Thiên Chúa. Đây là một nền tảng vững chắc nhất về hôn nhân của nhân loại. Từ nay dựa vào nền tảng này, có thể thấy được rằng hôn nhân của con người là cuộc hôn nhân mà ở đó khi đã kết hợp, người nam và người nữ sẽ trở thành “một xương một thịt”, làm thành một tế bào sống xuất phát trong tương quan tình yêu, giới tính và trách nhiệm. Chính vì thế, chúng ta thấy rằng việc rẫy vợ dù có tạo ra bất cứ lý do gì vẫn không huỷ bỏ ý định ban đầu của Thiên Chúa cũng như tính cánh vĩnh viễn của mối dây hôn nhân. Nguyên tắc ở đây là sự miễn chuẩn (hôn nhân) không bao giờ huỷ bỏ luật căn bản- luật phát xuất từ thánh ý Thiên Chúa. Trong một xã hội mà ở đó gia đình luôn phải đương đầu với bao nhiêu thách đố: ly dị, phá thai, đồng tính luyến ái,

Lời Chúa hôm nay – hơn bao giờ hết- đặt ra cho mỗi người Kytô hữu chúng ta một sự lựa chọn. Vẫn biết rằng gia đình- tự bản chất- là thánh thiêng nhưng đồng thời cũng rất mỏng giòn dễ đổ vỡ nên cũng rất cần được quan tâm chăm sóc và hướng dẫn của hết mọi người. Thiết nghĩ mục vụ về gia đình

33

ngày hôm nay đặt ra cho mỗi người chúng ta không chỉ chú trọng đến giáo lý về hôn nhân mà còn cần phải hướng dẫn cho những thanh niên thiếu nữ chuẩn bị bước vào đời sống gia đình có được một kiến thức khả dĩ bao có thể, giúp họ vững tin hơn bước vào đời sống hôn nhân và ra sức xây dựng gia đình theo giáo huấn của Chúa và Giáo hội.

Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Bai1: MỐI GIÂY BÂT KHA PHÂN LYMc 10, 2-16

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Chúa nhật thứ 27 thường niên, năm B gợi lên một vấn đề hết sức quan trọng về hôn nhân. Quanh vấn nạn của nhóm người Pharisiêu liên quan đến việc ly dị, Chúa Giêsu đã khẳng định lại cách dứt khoát: ”Hôn nhân là duy nhất và chung thủy “. Chúa nói: “Thuở ban ban đầu, lúc tạo thành vạn vật, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly “( Mc 10,6-9 ).

Ý NGHĨA CÁC ĐOẠN KINH THÁNH :Bài đọc thứ I trích từ sách khởi nguyên 2, 18-24 gợi lên cuộc sáng tạo đầu tiên, nhưng cuộc tạo dựng này có ý nghĩa thâm sâu và tối ư quan trọng. Thiên Chúa dựng nên con người.

34

Điều quí giá nhất là Thiên Chúa làm nên con người có nam có nữ. Đây là điểm rất quan trọng trong cuộc tạo thành. Thiên Chúa dựng nên Ađam trước, rồi từ xương sườn của Ađam, Thiên Chúa đã nắn đúc nên người nữ. Cả hai ông bà nguyên tổ đều bởi xương thịt của nhau và Thiên Chúa đã tác tạo ông bà theo hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là cuộc tạo dựng đầu tiên của Thiên Chúa và là cặp hôn nhân đầu tiên. Đây là trình thuật khẳng định rõ ràng nhất về cuộc hôn nhân đầu tiên của con người. Hai người trở nên một xương một thịt:” Hai mà một, một mà hai “. Thiên Chúa đã thiết lập đời sống gia đình theo sự khôn ngoan thượng trí của Ngài. Do đó, cuộc hôn nhân này có mang tính cách thánh thiêng, đạo đức. Hai vợ chồng phối hợp với nhau sinh ra những người con, tiếp nối cuộc sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, bài Tin Mừng của thánh Marcô 10, 2-16 khẳng định lại điều Chúa Giêsu đã thiết lập hôn nhân trong trình thuật khởi nguyên về cuộc sống gia đình của ông bà nguyên tổ khi các người Pharisiêu giăng bẫy để bắt bẻ và lấy cớ để kết tội Chúa Giêsu, Ngài đã vượt lên trên những điều luật cho phép của Môsê, của con người “ vì sự cứng lòng của con người” để đưa những người Pharisiêu vào chính điều cốt yếu Ngài đã hoạch định về bí tích hôn phối. Sự gắn bó giữa người nam và người nữ để trở nên một huyết nhục là “giao ước tình yêu” do Chúa thiết lập. Hiệu quả của giao ước tình yêu là hai người trở nên một. Như thế, Thiên Chúa xác định rõ ràng cuộc hôn nhân giữa người nam và người nữ do ý định của Ngài và phát xuất bởi tình yêu chung thủy của Ngài. Điều này cũng nói lên hình ảnh kết hợp giữa Chúa Giêsu và Hội Thánh. Thánh Phaolô viết:” Đây là một mầu

35

nhiệm lớn lao vì được áp dụng cho Đức Kitô và Giáo Hội”( Eph. 5, 32 ).HÔN NHÂN KITÔ GIÁO NÓI LÊN SỰ THÁNH THIÊNG CỦA ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG: Ngay từ đầu Thiên Chúa đã thiết lập hôn ước tình yêu giữa người nam và người nữ. Ngài đã nhắc nhở về sự chung thủy của vợ chồng mà Tin Mừng hôm nay gợi lại. Điều này cho thấy việc ly dị là bất trung với giao ước tình yêu, đồng thời cũng bất tuân với ý định của Thiên Chúa. Hôn nhân dẫn con người tới sự thánh thiện. Sự kết hợp giữa vợ chồng đưa con người tới sự sống mới. Hoa quả của tình yêu là những người con được sinh ra theo ý định của Thiên Chúa. Sự thánh thiện của hôn nhân không phải là sự thánh thiện đơn lẻ của từng người. Sự thánh thiện này phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi:”nên một như chúng ta là một” (Ga 17, 21-23 ).

Do đó, con đường dẫn tới sự nên thánh của đôi vợ chồng chính là cả hai hỗ tương và bổ túc cho nhau. Đường nên thánh của chồng chính là người vợ và ngược lại sự nên thánh của vợ chính là người chồng. Trái lại, sự bất hòa, thiếu hiệp nhất, bất trung đối với nhau sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới phần rỗi của vợ chồng. Xét cho cùng, lời của Chúa Giêsu:” Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, con người không được phép phân ly” luôn có giá trị vĩnh viễn. Phân ly là chia lìa giao ước tình yêu của Chúa, là phá đổ công trình tạo dựng của Thiên Chúa, là xóa nhòa hình ảnh của Thiên Chúa và bất trung chạy theo các tà thần,ngẫu tượng, dân ngoại.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông Thư nói về gia đình số 59 đã viết:”… Gia đình Kitô hữu, xét như là Hội

36

Thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn “.

Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa mọi gia đình để các gia đình luôn biết sống cái cốt lõi của hôn nhân do Chúa thiết lập: ”luật đơn hôn và vĩnh hôn”. Xin Chúa đổ tràn tình yêu xuống cho các gia đình đã làm cho tình yêu đầu tiên của họ trở nên giá băng, nguội lạnh. Amen.

Bai2: BÊN CHĂT TRONG TÌNH YÊU

Đời sống chung thủy trong hôn nhân Kitô giáo là nét đẹp tuyêt vời của nhân loại.Con người chỉ có thể sống đẹp với nhau khi họ trung thành với những gì họ đã cam kết. Quả thực, nếu con người coi hôn nhân như trò chơi, thay đổi vợ chồng như thay đổi quần áo thì hôn nhân không có ý nghĩa cao đẹp nữa. Chúa nhật 27 thường niên, năm B nói lên ý định của Thiên Chúa là sáng tạo nên người nam người nữ.Hai người nam và nữ kết hợp với nhau để trở nên một huyết nhục.Đó là giao ước tình yêu. Và hiệu quả của giao ước này là hai người trở nên một. Do đó, hôn nhân một vợ một chồng, bất khả phân ly là luật của Chúa và là nét đẹp tuyêt vời của những người theo Chúa.

Bài Tin Mừng của thánh Marcô 10, 2-16 dẫn những người theo Chúa trở về những trang đầu của việc sáng tạo: ”Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo; Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ.Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để

37

luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục.Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly“ (Mc 10, 6-9 ). Đây là cặp vợ chồng đầu tiên của nhân loại. Chúa Giêsu đã gợi lại sự kiện này để giải đáp vấn nạn của những người Pharisêu:” Người ta có được phép rẫy vợ không ?”.

Đôi vợ chồng trước mặt vị đại diện Chúa, hai người làm chứng và cộng đoàn dân Chúa đã cam kết với nhau :” Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời “.Đây là một lời cam kết, một lời thề chung thủy, một lời nói yêu thương hết sức linh thiêng. Lời cam kết này là một bí tích. Bí tích do đôi hôn phối làm nên. Đây không phải là sáng kiến của loài người, là ý kiến riêng của đôi vợ chồng nhưng là công việc của Thiên Chúa :” Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly, chia cắt. Chính vì thế, lời cam kết này sẽ là mối giây liên kết hai vợ chồng cho đến chết, chỉ có cái chết mới giải thoát được lời thề nguyền đó. Nên, Giáo Hội luôn khuyên nhủ các đôi hôn phối phải tìm hiểu nhau, cầu nguyện, học giáo lý, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi kết hôn. Và sau khi kết hôn rồi, vợ chồng luôn phải cố gắng vun khoén tình yêu, xây dựng và bảo vệ tình yêu luôn bền chặt. Sống chung thủy với nhau là một đòi hỏi bắt buộc. Tuy nhiên, sự đòi hỏi ấy luôn phải phấn đấu, can đảm và hy sinh với sự trợ giúp của ơn Chúa và sự tác động của Chúa Thánh Thần cùng với lòng chân thành, thiện chí của đôi vợ chồng.

Có những cặp vợ chồng  mình với ta tuy hai mà một nhưng lại có những bước chân dẫm lên nhau đau đớn. Họ sống với

38

nhau không thoải mái, cơm không lành canh không ngọt. Lịch sử đã cho thấy ngay từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi một vua xem ra rất đạo đức thánh thiện như vua Đavít lại chiếm đoạt vợ của tướng quân Uria, Antipas Hêrôđê lại ly dị vợ và cưới nàng Hêrôđia. Thế giới ngày nay đã có rất nhiều đôi vợ chồng ly dị và để lại biết bao đứa con bơ vơ, hư hỏng. Chúa cấm ly dị là để bảo vệ hạnh phúc gia đình và làm cho con cái trở nên những người có chỗ nương tựa, được giáo dục tốt.

Tin Mừng cho thấy cử chỉ Chúa Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng ( Mc 10, 16 ), là một lời nhắc nhở các bậc làm cha làm mẹ. Đây cũng là cử chỉ, thái độ Chúa muốn cảnh tỉnh các bậc cha mẹ hãy nhìn vào con cái, hãy nhìn vào quà tặng Chúa trao ban cho họ để họ ý thức và yêu thương con cái đừng để con cái trở thành những nạn nhân do cha mẹ thiếu quảng đại, cảm thông, tha thứ cho nhau đến nỗi đứt gánh giữa đời. Hãy yêu thương con cái đừng để chúng trở thành những trẻ lang thang bụi đời, phạm pháp do cha mẹ ly tán vv…

Giáo dục Kitô giáo trong gia đình là điều tối quan trọng để con cái, cha mẹ hiểu hơn về vai trò, và tầm quan trọng của gia đình công giáo. Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho công bố Tông Huấn Gia Đình trong đó Ngài đã nêu bật vai trò của vợ chồng, con cái.

Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho các gia đình để cha mẹ, con cái luôn biết sống yêu thương, hiệp nhất vì Chúa là Tình Yêu. Amen.

39

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

TÚP LÊU LÝ TƯỞNGLm. An Phong Trần Đức Phương

Thật tuyệt vời biết bao khi hai thanh niên nam, nữ yêu thương nhau và được kết hợp thành vợ chồng, rồi cùng sống trong một “Túp Lều Lý tưởng”, luôn có anh và em để xây dựng một gia đình hạnh phúc:

“Đời mình đẹp mãi với Em và Anh, Đời mình đẹp mãi dưới túp Lều Tranh!” (Hoàng Thi Thơ)

Dù chỉ là một túp lều tranh, nhưng có hai tâm hồn yêu thương nhau cùng chung sống, “Túp Lều Tranh” trở nên “Túp Lều Lý Tưởng!”

Một cách đơn giản, mọi sinh vật “giống đực” và “giống cái” trên mặt đất, khi ‘đến thời đến lúc’ là có một sức thu hút lẫn nhau theo bản tính tự nhiên, chung sống với nhau và sinh sản con cái để nối dõi dòng giống. ‘Người Nam’ và ‘Người Nữ’ khi đến tuổi “cập kê” cũng có sức thu hút nhau theo bản tính tự nhiên, thương yêu nhau, rồi kết hiệp với nhau ‘nên một thân xác’ (Matcô 10:8) để sinh con cái tiếp nối cộng đồng nhân loại. Trong Bài Đọc I (Sách Sáng Thế 2: 18-24) Chúa đã chúc lành cho cuộc hôn phối của Adong và Evà, và bảo “Hãy sinh sản ra đầy mặt đất!” Trong Bài Phúc Âm (Matcô 10: 2-16),Chúa Giêsu đã vui vẻ chúc lành cho các em nhỏ người ta đưa đến với Chúa. Vì thế, hôn phối luôn luôn phải là sự kết hợp giữa một “Người Nam” và một

40

“Người Nữ” để sinh con cái, không thể là sự phối hợp giữa hai người cùng phái tính, nam với nam hoặc nữ với nữ.

Hơn nữa, đời sống vợ chồng là một kết hiệp vĩnh viễn ‘mãi mãi dưới túp lều tranh’ không thể phân ly như Chúa Giêsu đã quả quyết “Điều gì Thiên Chúa đã kết hiệp, loài người không được phân ly!” (Matcô 10:9). Con người khác với các loài vật khác, con người đã được Chúa “dựng nên theo hình ảnh Chúa” (Sách Sáng Thế 1:27), nên có tình yêu tự do và trách nhiệm. Trước khi kết hôn thành vợ chồng, các bạn trẻ luôn được tự do để suy nghĩ và lựa chọn, không thể “yêu cuồng, sống vội” để đưa đến tan vỡ đáng tiếc, phá họai hạnh phúc gia đình, và ảnh hưởng đến tương lai con cái. Để nói lên sự kết hiệp bền vững giữa vợ chồng, Bài Đọc I hôm nay đã lấy hình ảnh câu chuyện Chúa lấy chiếc xương sườn của ông Adong mà dựng nên bà Evà, người vợ của ông (Sách Sáng Thế 2: 21-23)

Hôn phối là điều rất quan trọng chẳng những cho gia đình, mà còn cho quốc gia và xã hội. Có những quốc gia ngày nay thiếu ‘giới trẻ” vì nhiều đôi vợ chồng không muốn sinh con, hạn chế sinh sản bừa bãi, phá thai tự do, và ly dị dễ dàng khi gặp những khó khăn thử thách.

Thiên Chúa đã chúc phúc cho đôi tân hôn đầu tiên của nhân loại là ông Adong và bà Evà ngay trong vườn địa đàng. Chính Chúa Giêsu cũng đã mở đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng việc cùng đi với Mẹ Maria và các Tông đồ đến dự tiệc cưới Cana, và làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu để cứu vãn danh dự cho đám cưới nửa chừng hết rượu này.

41

Chúa Giêsu khi ‘xuống thế làm người’, Ngài cũng đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình, dù nghèo khó và trải qua bao gian truân thử thách, nhưng vẫn luôn gắn bó và chia sẻ tình thương, hạnh phúc; đó thật là một gia đình gương mẫu cho các gia đình chúng ta. Thánh Giuse và Mẹ Maria là gương mẫu cho các bậc làm cha mẹ, và Chúa Giêsu là gương mẫu cho các người làm con ‘luôn biết vâng lời cha mẹ’ (Luca 2: 51). Khi chịu nạn chịu chết đổ máu ra để chuộc tội nhân loại, một lần nữa Chúa Giêsu lại “thánh hóa chúng ta và cho chúng ta trở nên anh em với nhau trong cùng một gia đình nhân loại!” (Bài Đọc II, Thư Do Thái 2: 9-11).

Sự bền vững và hạnh phúc gia đình đặt tại đâu? Trước đây, tôi có nghe chuyện các bạn trẻ ở Hà Nội, sau năm 1954, sống trong cảnh nghèo khó, khi lập gia đình thì đặt hạnh phúc nơi ba chữ “B” đơn giản: ‘Buồng’ (tiếng Bắc, có nghĩa là phòng ngủ) tượng trưng một ‘căn hộ’ chính phủ cấp cho để ở; ‘Bìa’ là phiếu mua thực phẩm (theo chế độ quốc doanh thời đó); ‘Bà’ là mẹ già để gởi con khi vợ chồng đi làm. Sau này, tôi lại nghe nói tại các quốc gia tự do, thì các bạn trẻ đặt hạnh phúc gia đình trên ba chữ “C”: Car (xe), Condo (nhà), và Credit Card (Thẻ Tín Dụng).

Nhưng hạnh phúc gia đình không chỉ cần những điều kiện vật chất, mà còn cần những điều kiện tinh thần, nên các nhà đạo đức đưa thêm vào những chữ “C” khác: Communication: Vợ chồng phải biết thành thực và thẳng thắn bầy tỏ tâm tư, nguyện vọng với nhau để luôn ‘hiểu được nhau’ và cùng cộng tác (Cooperation) với nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình. Những sự thiếu thông cảm

42

thường đưa đến chỗ hiểu lầm, nghi ngờ và ghen tuông, là những căn nguyên đưa đến bất hòa, và đổ vỡ đáng tiếc. Khi đã quyết tâm sống đời sống vợ chồng, các bạn trẻ phải quyết tâm dấn thân (Commitment) chấp nhận mọi khó khăn, thử thách, cùng chia vui, sẻ buồn để vượt qua mọi khủng hoảng mà đời sống chung luôn xẩy ra. Sau đó, vợ chồng cũng cần biết ‘thương cảm nhau’ (Compassion), nghĩa là phải biết quên mình, từ bỏ ích kỷ, để nhận ra những ‘khó khăn’, những ‘khủng hoảng’ của nhau để an ủi, nâng đỡ nhau trong cuộc sống, thay vì giận hờn, phiền trách hoặc xa tránh.

Ý thức được sự quan trọng của cuộc sống hôn nhân, nên cha ông chúng ta, từ thuở xa xưa, đã có những tục lệ, tuy có vẻ rườm rà, nhưng thật sự cần thiết, để chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc sống lứa đôi, như ‘làm mối’, ‘xem mắt’, ‘dạm ngõ’, ‘đính hôn’ trước khi thật sự ‘thành hôn’ với nhau để nên vợ chồng và xây dựng một gia đình mới.

Giáo hội cũng luôn khuyến khích các bạn trẻ hãy cầu nguyện và suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi quyết định cuộc sống hôn nhân. Sau đó, phải qua một khóa học “Dự Bị Hôn Nhân” để cùng nhau học hỏi giáo lý Công Giáo về đời sống gia đình giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nghe các kinh nghiệm của các vị đã sống lâu năm trong đời sống gia đình kể lại mà học hỏi và chuẩn bị chu đáo hành trang ‘vào đời’ để khởi sự một cuộc hành trình dài, đầy hạnh phúc, nhưng cũng không thiếu những khó khăn thử thách.

Xin hiệp lời cầu nguyện chung: Xin Chúa, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Giuse, và các Thánh, ban muôn

43

ơn lành cho các gia đình chúng ta, cho các bạn trẻ mới bước vào đời sống lứa đôi, cho các bạn trẻ đang tìm hiểu và chuẩn bị đời sống hôn nhân.

Lm. An Phong Trần Đức Phương

CHUNG THỦY TRONG HÔN NHÂNLm Giuse Đinh lập Liễm

Mọi người phải công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu nền tảng gia đình không vững chắc thì lâu đài xã hội có nguy cơ sụp đổ.  Ngày nay nền tảng gia đình đang bị lung lay do những cuộc đổ vỡ, phản bội, nói đúng, hơn là do những cuộc ly dị xẩy ra hằng ngày. Thực ra chế độ đa thê và ly dị đã có từ xưa trong xã hội, nhưng nó được đặt lại cho dân Chúa từ thời ông Maisen. Chính ông đã cho phép hợp thức hóa, qui định luật và làm thành thủ tục. Luật này vẫn còn tồn tại cho tới thời Chúa Giêsu . Luật tuy đã có đấy, nhưng người biệt phái muốn Chúa Giêsu phải xác định rõ ràng xem người đàn ông có được phép rẫy vợ không, có ý gài bẫy Chúa, để Ngài phải trả lời và trả lời thế nào cũng gặp nguy hiểm. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời có hay không mà chỉ dùng Kinh Thánh để nhắc nhở cho người ta  phải trở về nguồn gốc ý định đầu tiên của Thiên Chúa khi dựng nên loài người :”Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”(Mt 19,6). Ngày nay, Giáo hội vẫn trung thành với giáo lý của Chúa Giêsu và luôn khẳng định đặc tính “vĩnh viễn” của hôn nhân Công giáo. Không ai có quyền hủy bỏ giao ước hôn nhân hợp pháp vì đây là luật của Chúa. Luật bất ly dị xem ra là một luật khắt khe và khó khả thi, nhưng với ơn Chúa trợ giúp

44

chúng ta có thể thực hiện được, và nhờ đó Giáo hội cũng như xã hội càng thêm vững chắc, gia đình dễ tìm được hạnh phúc.

I. HÔN NHÂN CHUNG THỦY1. Theo ý định của Thiên Chúa.Theo sách Sáng thế, Thiên Chúa đã dựng nên con người là Adong giống hình ảnh Chúa, cho làm chủ mọi công trình tạo dựng của Ngài, nhưng Ngài thấy “con người ở một mình không tốt” nên từ cạnh sườn của Adong Thiên Chúa đã dựng nên cho ông  “một trợ tá tương xứng với ông”.  Thiên Chúa đã giới thiệu Evà cho ông và ông đã phải thích thú kêu lên :”Đây là xương bởi xương tôi, và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là đàn bà (Ishsah) vì bởi đàn ông (Ish) mà ra”(St 2,23). Hai nguyên tổ là những tạo vật do Thiên Chúa dựïng nên giống hình ảnh Ngài và do một tình thương đặc biệt, Ngài cho hai người phối hợp với nhau trở nên một xương một thịt, bởi vì “người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình và hai người sẽ nên một xương một thịt”(St 2,24). Như vậy, ý định của Thiên Chúa  là sáng tạo một người nam và một người nữ để thành một huyết nhục  là khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ.  Hiệu quả của khế ước này là sự trở nên làm một với nhau.  Điều này chứng tỏ việc ly dị là phủ nhận khế ước tình yêu giữa nam và nữ, đồng thời  cũng nói lên sự bất phục tùng ý định của Thiên Chúa. Tình yêu vợ chồng phải là tình yêu duy nhất và chung thủy :”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mt 19,6). 2.    Luât thời Maisen.

45

a)   Luật trong sách Đệ nhị luật : Luật ly dị của người Do thái vốn bắt nguồn từ Đệ nhị luật 24,1. Đoạn sách này là nền tảng của toàn thể vấn đề. Câu ấy chép :”Khi một người nam cưới vợ, nếu nàng chẳng được ơn trước mặt chàng, bởi chàng thấy nơi nàng một xấu hổ nào, thì chàng được viết một tờ ly dị, trao vào tay nàng và đuổi khỏi nhà mình”(Đnl 24,1). Thoạt tiên, tờ ly dị vợ rất đơn giản. Nó được viết như sau :”Đây là tờ giấy tôi viết để ly dị cho ra khỏi nhà và cho (nàng) được tự do, có thể lấy ai tùy ý”. Về sau tờ giấy ly dị  được viết lại kỹ lưỡng và trau chuốt hơn. Vào thời Tân ước, chứng từ này phải do một rabbi có tài năng thảo ra. Sau đó,  nó còn phải được một hội đồng gồm 3 rabbi phê chuẩn, rồi được lưu trữ ở Tòa Aùn Tối cao. Nhưng nói chung  thì việc ly dị vợ hết sức dễ dàng và hoàn toàn do ý muốn của người đàn ông. b) Hai trường phái cắt nghĩa luật.Maisen phần lớn chỉ lấy lại “luật theo tục lê” của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly dị đã nằm trong truyền thống có cơ sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông đã cố sửa chữa những sở thích tùy tiện bằng cách “hợp thức hóa”,”qui định” và thiết lập một “thủ tục”. Ôâng muốn giới hạn sự ác bằng cách buộc phải theo thủ tục rõ ràng.  Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này có thể được áp dụng rộng rãi hay là ngược lại. Vấn đề then chốt thực sự là việc giải thích luật pháp dựa theo chương 24,1 trong sách Đệ nhị luật. Câu ấy qui định

46

người đàn ông có thể ly dị vợ nếu có một “xấu hổ”.  Vậy họ phải giải nghĩa câu này thế nào ? Trong vấn đề này chúng ta thấy có hai trường phái đối nghịch nhau : trường phái bảo thủ và trường phái tự do.

Trường pháo bảo thủ (Rabbi Shammai) : giải thích hết sức khắt khe : xấu hổ là ngoại tình và chỉ có ngoại tình (tà dâm) mà thôi.

Trường phái tự do (Rabbi Hille) : phái này cắt nghĩa rất rộng rãi. Họ bảo nó có nghĩa là nếu người vợ làm hỏng đĩa đồ ăn, la cà ngoài phố, trò truyện với đàn ông lạ, nói hỗn với bà con bạn bè của chồng gần bên chồng… là đáng xấu hổ.

 Thậm chí Rabbi Akiaba còn đi rất xa để giải thích câu “nếu nàng chẳng được ơn trước mặt chàng” là nếu người đàn ông thấy có người đàn bà nào đẹp hơn vợ mình. Sở dĩ có vấn đề được đặt ra ở đây là theo luật Do thái, phụ nữ vốn bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền sử dụng của đàn ông làm chủ trong gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị.  Cùng lắm, người vợ chỉ có thể xin chồng ly dị mình mà thôi.  Phụ nữ bị chồng ly dị dầu có thuận ý hay không, nhưng đàn ông thì có thể  tự ý ly dị vợ. Chỉ có lý do để một người phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phung, hoặc khi người ấy xâm phạm tiết hạnh một trinh nữ, hoặc khi người chồng cáo gian vợ phạm tội trước khi kết hôn với nhau. Truyện : ly dị nơi bộ lạc Babira.

47

Bộ lạc Babira bên Phi châu là nơi người chồng ly dị dễ dàng nhất với vợ. Người chồng chỉ việc đợi lúc ban đêm, đặt trước túp lều của vợ mình một bình dầu nhỏ và một chiếc gậy (gậy chống để đi cho đỡ mỏi) là sáng dậy người vợ hiểu ngay rằng người chồng đã ly dị với mình. Chiếc gậy để lại cho vợ có nghĩa là: bà hãy đi tìm người khác mà nương tựa. Còn lọ dầu nhỏ là theo một phong tục cổ truyền. 3. Vấn nan đăt ra cho Chúa Giêsu.Vấn đề được đặt ra là luật pháp cho phép ly dị đã rõ ràng như vậy rồi, tại sao những người biệt phái lại hỏi Chúa Giêsu: ”chồng có được phép rẫy vợ không”?  Đó là câu hỏi đầy ác ý, có ý gài bẫy Ngài.  Họ đặt ra câu hỏi ấy để bắt bí Chúa Giêsu : dù Chúa trả lời như thế nào đi nữa, thì Ngài cũng phải lãnh chịu một phần công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và chạm đến những gì thâm sâu nhất của con người.  Không ai có thể trung lập trước câu hỏi, vì phải chấp nhận tình trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể. Thật vậy, người biệt phái đã thử thách Chúa Giêsu một cách thâm độc ghê gớm. Hỏi Chúa Giêsu : Chồng có được phép ly dị vợ mình không ?  Họ hỏi câu này ngay trong đất của Hêrôđê Antipas. Ôâng vua này mới ly dị vợ để lấy Hêrôđia, vợ của anh mình là Philipphê I. Gioan Tiền hô đã cảnh cáo vua và dã bị chặt đầu.  Nếu Chúa Giêsu phản đối luật ly dị, thì sẽ bị chặt đầu như Gioan, và đồng thời nghịch lại với Maisen. Nếu Chúa Giêsu đồng ý cho ly dị, thì lại trái ngược với Gioan và dân chúng sẽ phản đối vì dân chúng rất tôn kính Gioan. 4. Chúa giải quyết vấn đề.

48

Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào cạm bẫy của họ. Ngài trả lời bằng một câu hỏi :”Thế ông Maisen đã truyền dạy các ông điều gi” ?  Khi dùng từ ngữ truyền dạy, Ngài buộc những lời chất vấn phải nhìn nhận công khai, đó không phải là một “lệnh truyền” của Maisen mà chỉ là một “nhân nhượng” vì lý do nhân đạo. Họ thú nhận : ông Maisen đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ. Thực ra, luật này (Đnl 24,1) chỉ cấm lấy lại một người đàn bà đã bị rẫy và nói đến việc viết tờ ly dị, chứ không có chỗ luật nào nói rõ việc được phép ly dị… Chính các biệt phái cũng phải công nhận rằng Maisen cho phép viết tờ ly dị chứ không ra lệnh phải làm việc này (GM B. Nguyễn sơn Lâm,  Lời Chúa các Chúa nhật năm B, tr 422). Phần Chúa Giêsu, Ngài luôn luôn đứng về phía Thiên Chúa,  nhưng Ngài đã trưng Kinh Thánh để trả lời :”Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, và cả hai sẽ thành nên một xương một thịt… Sự gì Thiên Chúa phối hợp loài người không được phân ly”.

Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, thương yêu nhau chí thân chí thiết đến nỗi nên cùng một xương một thịt, hợp nhất với nhau nên một.  Người Đông phương diễn tả sự hiệp nhất đó bằng một hình tròn, trong đó có âm có dương. Aâm là nữ, dương là nam, hình tròn chỉ sự toàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ. Aâm dương hòa hợp vơi nhau hoàn hảo như thế gọi là thái hòa. Hòa tới tột độ gọi là thái cực. Nhờ sự hòa hợp đó sinh ra bốn mùa xuân hạ thu đông gọi là tứ tượng. Bốn mùa xoay vần, đắp đổi nhau làm cho muôn loài, muôn vật được phát triển, sinh sôi nảy nở, lớn lên, xanh tốt,

49

trưởng thành, kết trái, rồi lại trở về cội nguồn hoàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ. Hình tròn thái hòa âm dương không có góc cạnh gẫy góc, không có khuyết điểm, phân chia, thật hoàn toàn tốt đẹp diễn tả được ý nghĩa hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập như Ngài đã nói :”Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta, như họa hình Ta” (St 1,28).(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 190) II. HÔN NHÂN THỜI CHÚNG TA. 1. Thưc trang các gia đình thời nay.Lịch sử con người đầy rẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Maisen dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến Đavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Hêrôđê ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp tục cho đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/1989 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.

Trong tiệc cưới người ta thường chúc cô dâu chú rể nhiều điều tốt lành, nhưng có một lời chúc mà người ta dùng nhiều nhất là “Trăm năn hạnh phúc”. Cầu mong hạnh phúc thì ai cũng muốn, nhưng để có được hạnh phúc quả thật không dễ chút nào. Bởi hôn nhân không phải là chuyện tháng ngày, mà là chuyện cả một đời. Rất cần có sự keo sơn, chung thủy, nhẫn nhục và tha thứ cho nhau. Hiệp nhất trong hôn nhân  phải là sự hiệp nhất trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác.  Có thể nói hôn nhân  chính là cuộc đời

50

“3 in 1” : hai trong một. Người ta thường nói :”Vợ chồng như đũa có đôi” để minh họa cho sự hiệp nhất, gắn bó, nương tựa giữa hai vợ chồng :

Thà rằng chiếu lác có đôiChẳng hơn chăn gấm lẻ loi một mình.

Có một câu thơ khá phổ biến, như một điệp khúc dễ thương: ”Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai”. Trước đây, vợ chồng thường xưng hô với nhau :”Mình ơi mình”, còn ngày nay, các bạn trẻ lại thi vị gọi người bạn đời là “Một nửa của tôi ơi” ! Lý tưởng thì vậy đấy nhưng thực tế thì thật là chua chát. Người ta không ngại ngùng chặt phăng cái nửa mình mà quăng đi nơi khác. Vì tình, vì tiền, vì chức quyền, danh vọng, vì tính tình khác biệt… người ta có thể xé toạc cái giao ước hôn nhân mà bỏ vào thùng rác. Lúc này giao ước còn có nghĩa gì đâu !  Lúc này người ta cho phản bội là một việc bình thường nên mới thẳng thừng nói với nhau :

Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi,Tình nghĩa đôi ta có thế thôi. (Thế Lữ)

          3.    Lý do của việc ly dị.Theo tài liệu của Ủy Ban Tòa thánh chuyên trách về gia đình, chúng ta thấy tài liệu viết :”Con người và gia đình hiện nay sống trong một xã hội “bị động”, nghĩa là thiếu lý tưởng, muốn làm gì thì làm, bị tục hóa và là nơi mà sự giải thoát mình được thực hiện bằng nhiều cách, mà một trong những cách đó là dùng ma túy… Thời đại chúng ta đề cao tự do, một thứ tự do  không còn được coi là tích cực hướng về sự thiện, mà là thoát ly  khỏi mọi điều kiện cản ngăn mỗi người làm theo ý riêng mình…

51

 Người ta ca tụng chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa ích kỷ” (Tập Du désespoir à l’espérance, L.E. Vatican, 1992). Vì muốn theo chủ nghĩa thực dụng ích kỷ để thỏa mãn những khoái lạc thể xác, người ta không còn tôn trọng hôn nhân theo truyền thống nữa mà thích theo hôn nhân tự do.  Loại hôn nhân này chẳng có phép đời, cũng chẳng có phép đạo. Tại Pháp, năm 1975 loại hôn nhân tự do là 445.000 trường hợp. Đến ăm 1982 loại trường hợp tự do đã tăng lên gấp đôi tức là 809.000 đôi. 4. Phải củng cố lai tình yêu gia đình.Chúng ta phải đổi mới và làm tươi trẻ lại tình yêu hôn nhân như người ta nói :”Hãy rửa tội cho tình yêu mỗi buổi sáng và hãy cưới lại nhau mỗi ngày”. Trong bài đọc 2, tác giả thư Do thái đã nhấn mạnh đến sự khắng khít giữa Đức Kitô và loài người trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Đức Kitô đã không để lại cho chúng ta  một tấm gương khắng khít hòa hợp và hiệp nhất đó sao ?  Ngài đang kêu gọi chúng ta  không những kết hợp bất khả ly với Ngài mà còn với nhau nữa. Ngài muốn khuyến khích riêng các gia đình đang gặp khó khăn đó. Thiên Chúa dựng nên chúng ta để yêu thương – nhận và cho tình yêu. Tuy nhiên, khả năng yêu thương  không phải là một vật mà Ngài ban cho đôi lứa trong ngày hôn lễ cùng với mọi quà tặng khác. Tình yêu là một điều mà người ta phải học biết. Hành trình thực sự mà đôi vợ chồng mới cưới phải thực hiện, không còn là cuộc hành trình cô độc, mà là cuộc hành trình đi từ tính ích kỷ đến tình yêu.

52

 Không có gì thách thức tình yêu bằng hôn nhân, cũng không có gì đem lại cho tình yêu cơ hội trưởng thành bằng hôn nhân. Nó đòi hỏi phải có nhiều sự trưởng thành. Theo kinh nghiệm, chúng ta thấy những con cá vàng trong chậu hòa hợp với nhau dễ dàng. Nhưng bạn hãy đem hai người đến sống chung thì ít lâu sau họ sẽ có vấn đề. Khi hai người kết hôn, họ đem đến hôn nhân sức mạnh và sự yếu đuối, tình yêu và thù hận, va chạm và tổn thương, hy vọng và sợ hãi. Tuy nhiên, những khó khăn mà họ gặp có thể là những cơ hội để họ trưởng thành. Khi đã khắc phục được vài cơn bão tố thì mối tương quan trở nên sâu sắc. Đứng trước tình trạng bi đát của các gia đình, Hội đồng Giám mục Pháp đưa ra một đường lối khả thi để xây dựng cuộc sống gia đình :”Để xem xét mục vụ về bí tích hôn nhân, chúng ta phải thực sự quan tâm đến những điều kiện thực tế hiện nay của đời sống lứa đôi : cuộc sống tạm bợ, bấp bênh về tương lai, bất ổn về đời sống lứa đôi không ngừng gia tăng, đổi thay của thân phận phụ nữ, những vấn đề do việc  điều hòa sinh sản đạt ra.  Khi để ý đến những điều kiện này, ta có thể trình bầy những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân như một đường lối khả thi để xây dựng đời sống lứa đôi và gia đình.  Một đường lối khả thi, nghĩa là đi theo nó, đôi vợ chồng không bị bỏ rơi, nhưng,  nhờ sự nâng đỡ của một nhóm hay một cộng  đoàn Kitô hữu, chính họ được mời gọi để hiểu rằng  Lời Đức Kitô dạy về tình yêu nhân loại đáp ứng được điều sâu thẳm nhất, mà cũng mỏng giòn nhất nơi con người”(Fiches dominicailes, năm B, tr 295). 

53

5.    Câu nguyện cho gia đình hiệp nhất.Người ta thường nói :”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, dù con người có nỗ lực đến đâu cũng không đạt tới kết quả mong muốn nếu không có ơn Chúa trợ giúp vì Ngài đã nói :”Không có Thầy các con không làm được gì”, nhưng Ngài cũng nói :”Hãy xin thì sẽ được”, do đó, chúng ta phải nỗ lực cầu nguyện nhiều để gia đình được hiệp nhất, tránh được sự đổ vỡ đang rình rập. Để có đượcnhững tâm tình đó, chúng ta hãy đọc lại đoạn kết bài giảng của Đức Cha B. Nguyễn sơn Lâm :”Mầu nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này. Đức Kitô chấp nhận sự chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta  sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng. Và chúng ta sẽ thấy đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa. Truyện :  Chiếc ghế quì.Một phụ nữ Đức đến xin tòa ly dị, vì ông chồng quá say sưa, chửi mắng, đập phá. Vị chánh án là ông Windthorst, một nhân vật thời danh của Giáo hội Đức. Vị chánh án hỏi:

- Lúc chồng bà say sưa, chửi mắng, đập phá, bà đối xử thế nào ?

Bà trả lời :

54

- Thưa ngài, dĩ nhiên là tôi phải gây sấm sét giông tố đối lại.

Vị chánh án ôn tồn bảo :- Tôi thấy hình như trong nhà bà thiếu một việc cần thiết

để gây hòa bình, đó là chiếc ghế quì. Bà hãy về sắm chiếc ghế quì.  Rồi mỗi lần ông chồng trở về say sưa, chửi bới, đập phá, bà hãy mau mắn quì vào ghế đó và thay vì nói với chồng, bà hãy nói với Chúa.

Bà này về làm đúng theo lời chỉ bảo. Ít lâu sau bà trở lại, sung sướng báo tin cho cho vị chánh án hay :”Môn thuốc ghế quì thật là linh nghiệm”. 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

BIÊT DUY TRÌ ƠN THÁNH.Lm Hà Ngọc Đoài

Suy Niệm: “Nguyện Chúa chúc phúc cho chúng tôi hết mọi ngày trong đời sống chúng tôi.” (TV 127:5) Lời đáp ca hôm nay vang vọng lời cầu tha thiết của hai tâm hồn hòa hợp trong đời sống hôn nhân. Đôi vợ chồng đầu tiên đã biết nhận ra nét đẹp và sự cao quý của tình yêu mà vợ chồng trao cho nhau. Hai nguời đã tặng nhau những hương nồng diệu vợi của tình yêu chỉ trong đời sống hôn nhân mới tìm thấy. Họ lại biết ca tụng thượng trí của Thiên Chúa trong việc tạo dựng con người cách đặc biệt. Họ biết cảm tạ tình thương của Ngài đong đầy sự trống vắng trong tâm hồn trên đời dương thế. Chính Adam biết chúc tụng Chúa, và biết ơn khi mở rộng vòng tay đón nhận Eva. Trước khi có Eva, Adam

55

đã có quyền thế và giàu sang, nhưng hồn vẫn trống vắng và buồn mênh mang! Chung quanh có nhiều muông thú, nhưng không một con thú nào hiểu được tâm tư sâu thẳm của ông. Lúc an vui, ông muốn san sẻ tâm tình, nhưng không có ai biết đón nhận! Khi sự cô đơn bước vào hồn, không con thú nào biết cảm thông để an ủi. Của cải giàu sang cũng chỉ vô nghĩa, vì không lấp đầy sự trống vắng mênh mang! Thiên Chúa thấy sự cô đơn đó, “Nguời đàn ông ở một mình không tốt!” Ngài hiểu thấu nỗi khao khát triền miên đó, nên ban cho ông người bạn đường: Eva. Ô kìa! chưa từng biết nhau, chưa từng hẹn một lần, thế mà vừa trông thấy Eva, thì Adam thốt lên câu mừng vui, muôn đời ghi lại về sau: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” Làm sao Adam biết thốt lên lời đó, nếu từ trong tâm hồn không rung động tần số yêu thương và đồng cảm do Eva đem lại? Phải chăng tình yêu Chúa dành cho loài nguời được hiện hữu hóa trong sự cảm thức nơi tha nhân? Và rồi tình yêu thiên đường được các đôi tân hôn trao tặng nhau đong đầy cho thế giới đang thiếu tình thương? Đúng thế.

Thưc Hanh: “Nguyện Chúa chúc phúc cho chúng con hết mọi ngày trong đời sống chúng con” Cho dù giòng đời có đổi thay, cho dù thế sự có nhạt nhòa, xin cho tình yêu của vợ chồng phản ảnh trung thực tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa đối với mỗi nguời chúng con.

Lm Hà Ngọc Đoài

TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC(On True Love)

By: Alice von Hildebrand

56

Dịch: Jos. Tú Nạc, NMS

Chúng ta đang sống trong một thời đại hỗn độn. Thậm chí nó có thể được nói rằng chúng ta không chỉ chuyên về những bối rối trí óc mà còn trong những bối rối cảm xúc. Nhiều người không biết làm cách nào để đánh giá được những xúc động của họ. Họ không thể phân biệt được giữa tình cảm đúng đắn và không đúng đắn. Họ không biết chắc họ có trung thành trong tình yêu hay không hoặc họ có được đem lại sự sống bởi suy nghĩ mơ tưởng và tự tin trong tình yêu hay không bởi vì họ khao khát những kích thích mà tình yêu mang đến. Họ bối rối trước “yêu thương” với sự biểu lộ một đam mê say đắm, hoặc mãi mãi “thận trọng” không dám đi đến một quyết định.

Không nên cho rằng tôi có thể trả lời được câu hỏi này, tất cả tôi hướng vào để thực hiện là sự gợi ý một vài “hướng dẫn” rằng có thể giúp ích khi người ta đặt câu hỏi: Tôi đang yêu hay tôi không yêu?

Những trải nghiệm sâu sắc luôn đến như một sự bất ngờ - một món quà khó tin không có mặt trong những thành quả của mánh khóe và hoạch định. Chúng nhận chìm chúng ta và lời phúc đáp trước tiên của của chúng ta là: “tôi không xứng đáng một món quà như thế. Anh ta (hoặc cô ta) còn hơn chính tôi nhiều.” Tâm hồn của chúng ta bị đánh bại bởi lòng biết ơn, một sự biết ơn làm chúng ta tự ti mặc cảm. Chúng ta cảm thấy không xứng đáng với món quà như thế, mà dường như đánh thức chúng ta từ một giấc ngủ say. Đừng bận tâm, con người yêu thương “bắt đầu sự sống một cách thực sự.” Con người mà đã không bao giờ yêu cuộc

57

sống trong một trạng thái mộng du và lang thang như một người máy hoàn thành công việc hàng ngày với sự thờ ơ của con tim – một con tim dường như không nhịp đập.

Khi yêu thương, người ta ấp ủ một niềm vui âm thầm sâu lắng – một niềm vui cho cả êm đềm và mãnh liệt, giống như một bụi cây bốc cháy; nhưng sự nồng nhiệt này không bị lụi tàn, và được đánh dấu bằng sự hồi tưởng sâu xa. Nó nảy sinh từ chính trung tâm của cuộc sống chúng ta. Khác với sự huyên náo ồn ào của những ai trải qua những xúc động mãnh liệt như thế nào mà không dẫn đến từ những sâu thẳm và, như một ngọn lửa rơm, bừng cháy trong chốc lát nhưng vội vàng tắt lịm.

Trái tim không diễn ra như ngọn lửa, nhưng ngọn lửa này là một hoạt động âm ỉ. Chúng ta cảm thấy như một điều tốt lành không đến từ bên trong đã dẫn dắt nâng đỡ chúng ta. Dietrich von Hildebrand nói về “đức tính hay thay đổi” của trái tim yêu thương.

Tình yêu đích thực làm cho người yêu tuyệt vời hơn; chàng bừng sáng niềm vui. Nếu điều này không xảy ra, chúng ta có thể nâng quan điểm đối với anh ta xem anh ta có thực sự yêu thương hay không. Người Pháp thường nói: “Un saint triste est un triste” – một vị thánh phiền muộn là vị thánh tội nghiệp. Một cách tương tự, một “người yêu” buồn bã nên hỏi chàng có thực sự yêu thương hay không. Chuyện nhỏ, những tôn trọng thân thiện biểu lộ một cách rộn ràng cởi mở, bởi vì cả hai họ đã thực hiện “với chàng” hoặc “với nàng” hoặc bởi họ đã trở nên vai trò của nghĩa vụ yêu đương.

58

Tình yêu chân chính làm người ta rụt rè khiêm tốn. Tất cả những yếu đuối, đớn đau và lỗi lầm của chúng ta đột ngột bộc phát trước tâm trạng của chúng ta. Nhưng không với hậu quả chìm đắm. Chúng ta nhìn những lỗi lầm của chúng ta với mong muốn được thổ lộ chúng. Chúng ta mong muốn để được tự bộc lộ với người mình yêu, và sự công khai này được kết hợp với sự mong muốn để khẩn khoản về sự giúp đỡ của chàng hoặc của nàng để chiến thắng chúng. Chúng ta mong muốn tự bộc lộ trong một cung cách khiêm tốn thần thánh hóa, để được biết một cách thành thật bởi người mà chúng ta yêu. Chúng ta sợ lừa dối người yêu dấu của chúng ta bên trong sự tin tưởng rằng chúng ta tốt hơn chúng ta vốn thành thật. chúng ta cảm thấy rằng người được yêu được phép biết cả hai “tên tuổi đúng đắn” và lối vẽ biếm họa của nó.

Tình yêu cũng liên kết tới quan điểm duy thực thiêng liêng. Vẻ đẹp của người được yêu hiện ra trước chúng ta, nhưng không phải là ảo giác. Vẻ đẹp của chàng không phải là kết quả của điều mơ ước, nhưng là một người đẹp thực tế - như trên Đỉnh Tabor – mà người yêu sẽ phải mãi mãi thủy chung, gìn giữ khi người yêu phải mải mê trước những điều không tránh khỏi bởi sự tẻ nhạt của công việc hằng ngày.

Người yêu sẵn sàng ban phát cho người mình yêu những gì mà Dietrich von Hildebrand gọi là “tín dụng tình yêu” – đó là, khi người được yêu hành động với một kiểu cách mà chúng ta không hiểu hoặc làm chúng ta thất vọng. Thay vì bắt lỗi chàng, người yêu sẽ đặt niềm tin rằng, sự tồn tại cuộc sống con người phức tạp như vốn nó phức tạp, những hành động

59

của chàng có thể được biện minh là đúng, mặc dù lúc đầu nhìn thoáng qua chúng gây ấn tượng cho chúng ta như một điều đáng tiếc. Người yêu chân thành thiết tha tìm kiếm “xin lỗi” khi thái độ của người chàng yêu là một sự thất vọng.

Chàng tự kiềm chế một cách thận trọng vượt qua sự thân mật con người gây phiền toái về cách ứng xử, cản trở của người khác vì nó có thể làm khó chịu với cái nhìn đầu tiên. Chàng vui mừng về sự khám phá rằng mình đã phạm lỗi lầm.

Vở kịch Cymbeline của Shakespeare buồn làm sao khi Posthumus được tin báo bởi tên vô lại Iachimo nói rằng vợ của ông, Imogene, đã quyến rũ hắn, tin người bịa đặt này, mặc dù ông đã có chứng cứ đầy đủ trước đó rằng vợ mình đã yêu hắn và công khai yêu hắn. Vở kịch kết thúc có hậu, nhưng nó phác họa một cách sâu sắc nỗi đắng cay, phẫn nộ và tuyệt vọng của người nào đó bị thuyết phục rằng người mà mình đã yêu, người mà hình ảnh của nàng là nguồn vui của mình, đã quyến rũ hắn.

Chúng ta có thể nói rằng chúng ta yêu chân thành khi sự thiếu kiên nhẫn, bội ơn hoặc “thô lỗ” của người được yêu (nói một cách khác, khi vẻ đẹp trung thực của chàng bị che khuất) gây cho chúng ta nỗi đau chồng chất bởi anh ta đang phai nhạt cái vỏ bề ngoài đẹp đẽ của mình và trao tặng chúng ta một bức tranh hí họa về bộ mặt thật của anh ta, hơn nữa bởi anh ta đã làm tổn thương chúng ta. Trên hết tất cả, người yêu chân thành phải sầu khổ bởi người được yêu đã làm buồn lòng Thiên Chúa. Về mức độ quan trọng, sự xúc phạm Thiên Chúa là cội nguồn của sầu muộn; sự tổn hại

60

đến linh hồn người yêu dấu của riêng anh ta là thứ hai; cuối cùng – mặc dù đớn đau day dứt – là vết thương mà anh ta giáng xuống người mà yêu anh ta nồng nàn tha thiết.

Người yêu chân thành phải lo lắng nhiều hơn về những sở thích của người mình yêu - bất cứ điều gì là sự lợi ích thực tế với tâm hồn người yêu dấu của mình – hơn cả bản thân mình. Luôn sẵn sàng tạo những hy sinh cho chàng ngay cả những việc nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày mà màu vị con người thay đổi: một căn phòng thật ấm cúng hay một căn phòng mát mẻ; ăn cơm ở nhà hay ở nhà hàng; sẽ đi xem một trận đá bóng hay ở nhà; xem một chương trình truyền hình khi mà vợ hay chồng muốn xem một chương trình khác, v.v… Sự mềm dẻo nên được giới hạn những trường hợp ưu đãi chủ quan, dĩ nhiên, và sẽ không bao giờ đưa ra những nguyên tắc. Mãi mãi, chúng ta ai nấy đề biết người phối ngẫu thường bị ngược đãi bởi chồng (hoặc vợ), người mà có liên quan mật thiết đến hạnh phúc muôn đời của người được yêu mà họ lãnh nhận mọi nỗi đau khổ này, vì chàng hoặc vì nàng mà hãy nguyện cầu dâng lên Thiên Chúa.

Dấu hiệu tuyệt hảo của tình yêu đích thực là nhẫn nại yêu thương mà người ta hướng về những yếu đuối của người yêu dấu. Điều đó có thể là tư chất của chàng, cá tính của chàng, phong cách của chàng (trong chúng ta ai cũng có); điều đó có thể là nhược điểm thể chất của chàng, sự kỳ quặc tâm lý của chàng, không có khả năng trí tuệ của chàng để theo đường thẳng của sự suy luận; sự rắc rối, hoặc sự cuồng tín của chàng vì luật lệ. Nếu một thầy tu được cho liên tục những cơ hội để “chết cho thiên hướng của riêng mình”

61

(như Thánh Benedict đã nói) giống như sự chân thành của những cuộc hôn nhân. DHY John Henry của Newman viết rằng thậm chí trong những mối quan hệ con người sâu sắc nhất, khi tình yêu khả tín, cuộc sống tâm đầu ý hợp sẽ cho con người vô vàn cơ hội để chứng minh tình yêu của mình bằng việc hy sinh những sở thích của mình.

Những tính cách cá nhân, những hành vi cá biệt, tính khí; thể lý, tâm lý, và khuyết điểm trí tuệ hoặc được giải thích như một cách đúng đắn nếu có thể hoặc chịu đựng với sự kiên nhẫn. Thánh Benedict đã viết về những thầy tu cố gằng về sự thánh thiện những người mà mặc dù hầu hết gây ra sự bẳn gắt vì những người sống gần họ. “Hãy để họ gánh chịu sự kiên nhẫn bền bỉ những yếu đuối của người khác, dù thể xác hay tính cách ” (Holy Rule, chương 72).

The History of a Soul, từ quan điểm này, cũng là một vật báu tinh thần. Thánh Thérèse của Lisieux đã vô cùng đau khổ từ những thiếu sót giáo dục và tính cách của một vài nữ tu khác. Bà đã biết cách sáng tạo và tinh xảo trong nghê thuật thánh thiện về việc vận dụng sự cáu gắt đơn thân vì sự vinh quang của Thiên Chúa, cả với sự ồn ào căng thẳng của một chị đẵ gây ra cạnh ghế ngồi cầu kinh của bà, hành động cản trở việc cầu kinh và suy niệm. Cứ thế, Thérèse thông qua tình yêu đã hiển nhiên chiến thắng.

Một cách ngạc nhiên, điều này cũng có thể mang hạnh phúc đến một cách mỹ mãn cho những cuộc hôn nhân, mặc dù trong yêu thương con người chúng ta đã bị thương tổn tâm hồn. Một người yêu trung thực tình yêu của họ được tinh luyện qua thử thách sẽ dùng những dâng hiến tầm thường

62

như họ đã thực hiện ở thời Trung Cổ, khi những nghệ nhân đã dùng một vài miếng len để làm những chiếc thảm lộng lẫy huy hoàng.Người yêu chân thành luôn có lời “cảm ơn” trên đầu lưỡi. điều này cũng dễ dàng đối với chàng khi nói “hãy tha thứ cho anh.” Vì trong mối quan hệ tuyệt hảo, người ta mắc những lỗi lầm không tránh khỏi. Nếu người nào đó ngỡ rằng mình có thể tự nhận thấy trong một tình huống mà anh ta sẽ không bao giờ mắc sai phạm, người đó sẽ không lập gia đình, hoặc con cái, hoặc bước vào dòng tu. Nghệ thuật thánh thiện trong cuộc sống phải biết rằng chúng ta sẽ vi phạm lỗi lầm, để nhận biết chúng, để ăn năn hối cải, và, với hồng ân của Thiên Chúa, để có sự sẵn sang sửa đổi.

Đồng thời, một điều quan trọng mà những người yêu nhau cả hai nhận biết lỗi lầm của họ. Chúng ta tất cả đều biết những thực trạng mà một trong những người yêu nhau luôn luôn khắt khe đối với người khác và sẵn sàng quên rằng “tình trạng chuẩn bị thay đổi” nên được hỗ tương, và rằng mình quá kiểu cách bởi tội tổ tông.

Người yêu cảm thấy một lực đẩy thiêng liêng để nói “cảm ơn” và “tha thứ cho tôi.” Nó dâng lên từ trái tim mình không gượng gạo. Người yêu chân thành trải qua chân lý sâu xa của những ngôn từ trong Canticle of Canticles (Canticle: a song or chant with word taken from the Bible/ Canticles: the song of Solomon): “Nếu một người phải cho đi hết thảy vật chất của nhà mình vì tình yêu, người đó xem thường nó như không có gì.”

63

By: Alice von Hildebrand

GIA ĐÌNH LÀ NÊN TANG CỦA XÃ HỘIVÀ CỦA GIÁO HỘI

Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Một số người Pha-ri-sêu đến gần Chúa Giêsu. Họ đặt câu hỏi về việc ly dị để bẫy Người: “Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?”. Nhưng Chúa Giêsu trả lời bằng một câu trả lời khác bắt họ nhìn nhận công khai rằng đó không phải là một điều quy định trong luật Môisen, nhưng là một điều cho phép. Bấy giờ, Chúa Giêsu tuyên bố rằng sở dĩ ông Môisen cho phép viết chứng thư mà rẫy vợ vì họ lòng chai dạ đá. Nhưng lời miễn chuẩn này không hủy bỏ được Luật căn bản.

Dù truyền thống do-thái có cổ xưa đi chăng nữa, Chúa Giêsu nhắc lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa khi kể lại câu chuyện trong sách Sáng Thế (bài đọc 1). Bằng những hình ảnh đơn sơ, nhiều tưởng tượng nhưng đầy ý nghĩa như truyện “Một mẹ trăm con” của dân tộc Việt Nam, tác giả sách Sáng Thế giúp chúng ta khám phá ra những chân lý căn bản và sâu sắc về đôi vợ chồng cũng như về gia đình.

1/ “Đàn ông ở một mình không tốt”. Câu này làm đề tài cho nhiều cuộc tranh luận sôi nổi cũng như nhiều chuyện phiếm khôi hài. Thực ra, đây là bản văn cũ dịch sai! Tên Adong hay Adam có nghĩa là “con người”, là nhân tính; dịch ra tiếng Anh là “man”, tiếng Pháp là “homme”. Chữ này có hai nghĩa: con người và đàn ông. Do đó câu dịch đúng sẽ là:

64

“Con người ở một mình không tốt”. Con người sinh ra là để sống chung với nhau (với gia đình, đoàn thể, xã hội), chứ không thể sống lẻ loi một mình.

2/ Hình ảnh ông Adong ngủ say khi Chúa tạo dựng bà Evà là một biểu tượng gồm nhiều ý nghĩa: “người khác” vẫn là một điều bí mật; tác động của Chúa luôn là một mầu nhiệm; chính Chúa sáng tạo chứ không phải con người.3/ Đàn ông và đàn bà được dựng nên bình đẳng như nhau vì được dựng nên từ cùng một xương, một thịt, cùng một nhân tính. 4/ Đôi vợ chồng phải sống trong sự hợp nhất sâu sắc và bất khả phân ly. Sự hợp nhất ấy được biểu lộ qua sự sinh sản. Con cái chẳng phải là “một thân thể” xuất phát từ tình yêu vợ chồng hay sao?

Sự hợp nhất chủ yếu này phải đuợc duy trì và bảo vệ bằng mọi giá, vì đó là ước muốn của Thiên Chúa đối với đôi vợ chồng cũng như đối với gia đình. Vì thế, Chúa Giêsu mạnh mẽ xác nhận: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Người đến để khôi phục sự sáng tạo theo lệnh truyền của Đấng Tạo Hóa. Thế nhưng, những người Do-thái giải thích bản văn của sách Sáng Thế về đôi vợ chồng theo lối của họ. Những người Pha-ri-sêu tự cho phép tránh luật Chúa và đề xuất một vài luật trừ. Theo hướng của các ngôn sứ, Chúa Giêsu trở về nguồn và phản đối những giải thích sai lầm của họ: “Tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?... các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa?” (Mt 15,3-6).

65

Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội nói về gia đình và cầu nguyện cho gia đình. Gia đình là nền tảng của xã hội và của Giáo Hội. Thiên Chúa là nguồn sự sống, nhưng tình yêu vợ chồng làm sự sống đó được sinh ra; gia đình là ngôi vườn làm sự sống được phát triển và nở hoa. Và gia đình cũng là nơi tự nhiên để truyền đạt đức tin và rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu cũng cần một gia đình để sinh ra, lớn lên và phát triển về nhân tính. Cha Stan Rougier có nói: “Nếu Thiên Chúa phát minh gia đình, bởi vì gia đình giống Người. Thiên Chúa của Kitô hữu không đơn độc. Người cần có ba (3) để thành Thiên Chúa”. Nhưng trong đời sống, không có con đường nào ngay thẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Gia đình không thể tránh được những thử thách, những khó khăn. Trong hôn nhân, chung thủy và tha thứ luôn gắn bó với nhau, vì cả hai cùng một nguồn gốc. Khi chồng hoặc vợ tha thứ cho người bạn mình vì để muốn tỏ cho bạn mình rằng cuộc sống ngày mai sẽ khác ngày hôm qua. Tha thứ không phải chỉ là quên những chuyện quá khứ, nhưng còn cao xa hơn nữa: tha thứ là để muốn cùng nhau tiếp tục xây dựng tương lai. Gia đình luôn là nơi cao trọng của tình yêu con người, của tình yêu lâu bền, chung thủy, mạnh hơn cả những thử thách và thất bại.

Hôm nay, Chúa nhắc chúng ta không nên phán xét và kết án. Chúng ta hiểu rõ rằng luật xã hội và luật Giáo Hội rất cần thiết, nhưng sự phán xét của Chúa không bị giới hạn trong sự phán xét của loài người. Người nhìn xa và rộng hơn. Xin Chúa chúc lành và ban ơn cho gia đình chúng ta được luôn sống thương yêu nhau trong sự trung thành, trong sự tin tưởng, nhẫn nại và tha thứ. Ước gì tất cả chúng ta, gia đình

66

chúng ta là những chứng nhân của Chúa, chứng nhân tình yêu, bởi vì ở đâu có tình yêu thương, ở đấy có Thiên Chúa hiện diện.

Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

TIN TƯỞNG VÀ PHÓ THÁCLm. An Phong, OP

Tin mừng hôm nay gồm hai phần độc lập nhau : Một về việc ly dị (2-12) và một về các trẻ em (13-16). Các người Biệt phái muốn gài bẫy Ðức Giêsu nên đã hỏi Người về việc ly dị. Ðức Giêsu đã trả lời bằng cách qui chiếu về ý muốn của Thiên Chúa hơn là duy lề luật. Sách Ðệ nhị luật chương 24, câu 1 viết : "Nếu một người đàn ông đã lấy vợ… thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì phải viết cho nàng một chứng thư ly dị" là một nhượng bộ của Môsê. Theo đó, luật ly dị chỉ là chấp nhận việc ly dị chứ không cho quyền để ly dị. Hơn nữa, đó còn có mục tiêu là để giới hạn tội lỗi và kiểm soát những hậu quả xấu có thể xảy ra. Ðể giải quyết nhượng bộ này, Ðức Giêsu đã đưa ra Sáng thế ký 2,24 : "Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt." Như thế, không có vấn đề ly dị theo ý Thiên Chúa.

Ðoạn văn về các trẻ em và việc đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ em là một kiểu mẫu cho tất cả mọi người. Ðứa trẻ là hình ảnh của sự bất lực, yếu đuối, từ đó mới có khả năng đón nhận, phó thác. Theo quan niệm của Cận Ðông cổ, trẻ em chẳng có nghĩa lý gì, chúng chỉ "lệ thuộc, ngây thơ, không có giá trị". Ðón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ tức là tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa đồng thời ý thức về sự bất xứng cũng như bất lực của mình.

67

Một cách chung, chủ đề chính của hai đoạn Tin mừng là tình yêu. Tình yêu không chỉ là một cảm xúc "mau nóng chóng nguội", nhưng là một sự liên lụy, dấn thân. Liên lụy, dấn thân đòi phải có tin tưởng và phó thác. Ðức Giêsu không chấp nhận ly dị vì lẽ tình yêu trong hôn nhân là sự liên lụy, dấn thân, tin tưởng và phó thác cho lẫn nhau trong tự do. Từ đó, con người mới biết tin tưởng và phó thác cho Thiên Chúa như một đứa trẻ, bởi lẽ đức tin là một cuộc "hôn nhân" giữa Thiên Chúa và con người.

Lạy Chúa,Xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác đời sống mình dưới sự quan phòng của Ngài, "như trẻ thơ nép mình trong vòng tay mẹ hiền",Nhờ đó, chúng con được sống bình an và hạnh phúc.

Lm. An Phong, OP

CỘNG ÐỒNG TÌNH YÊULm. Giuse Đô Vân Lực, OP

Hôn nhân là một cộng đồng tình yêu, qui tụ những nét tươi đẹp nhất của cả vũ trụ này. Nếu không, tại sao thánh Phaolô dám so sánh hôn nhân với cuộc kết hiệp giữa Ðức Giêsu và Giáo Hội (Ep 5:32) ? Nhưng vì tội lỗi, hôn nhân đang rơi vào tình trạng khủng hoảng nặng nề về mọi mặt, đã đánh mất nét tinh nguyên thuở ban đầu. Bởi đó, Ðức Giêsu đã đến để phục hồi những nét tươi đẹp nhất của hôn nhân trong gia đình nhân loại hôm nay.

68

LÝ TƯỞNG HÔN NHÂN Mấy người Pharisêu đã giương bẫy khi chất vấn Ðức Giêsu về vấn đề hôn nhân (Mc 10:2). Nếu chấp nhận ly dị, Người đã ủng hộ những thủ tục ly dị của họ. Nếu đả phá ly dị, Người sẽ bị một số người dùng luật ly dị (Dnl 24:1) chống đối. Quan trọng hơn nữa, Người có thể chọc giận vua Herod vì ông này mới giết thánh Gioan Tẩy giả dám chống lại việc ly dị và ngoại tình (Life Application Study Bible 1991: 1754). Nhưng Ðức Giêsu không trả lời trực tiếp. Dựa trên Thánh Kinh, Người muốn mọi người trở về nguồn để thấy hình ảnh tươi đẹp của hôn nhân : "Cả hai sẽ thành một xương một thịt." (St 2:24; Mc 10:8) Thật là một hòa hợp tuyệt vời !

Từ khởi thủy, "Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà" (St 2:22). Không còn sự gắn bó nào khăng khít hơn. Trong cơn đê mê, Ađam vui sướng kêu lên : "Ðây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi ! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút ra từ đàn ông." (St 2:23) Sự gắn bó này không dừng lại ở xác thịt, nhưng vươn tới sự hiệp nhất trong bình đẳng. Trong hôn nhân, "con người tìm được cho mình một trợ tá tương xứng." (St 2:20) Hôn nhân gắn bó nam nữ trong một tình yêu sâu xa và bền chặt. Chỉ khi nào trung thành trong tình yêu đó, con người mới khám phá ra chính mình và đạt được những chiều kích lớn lao trong kế hoạch Thiên Chúa. Thiên Chúa đã không tạo dựng người nữ từ hư vô hay từ bùn đất, nhưng từ cạnh sườn Adam. Sự hiệp nhất thực sự chỉ thể hiện khi hai bên tôn trọng giá trị của nhau. Trong hôn nhân, người ta không đánh mất chính mình, nhưng tìm được mình trong người khác. Mỗi người là một nhân vị độc lập, nhưng hiệp nhất trong sự tương trợ, gắn bó với nhau. Sự tương trợ

69

không phá hủy tính độc lập. Sự hiệp nhất là một hòa điệu tuyệt vời giữa tính độc lập và tương trợ. Ðộc lập quá mức sẽ đẩy người ta đến chỗ phân ly hay ly dị. Nhưng "sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly," (Mc 10:9) vì tình yêu hôn nhân bắt nguồn từ Thiên Chúa.

Quả thực, con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1:28), nhưng không giống trong sự cô độc. Chính vì thế Thiên Chúa mới phán : "Con người ở một mình thì không tốt." (St 2:18) Không tốt vì sự đơn độc làm giảm đi hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Cũng như Thiên Chúa, con người chỉ thực sự là con người khi sống cùng và với người khác. Tự bản chất, Thiên Chúa không đơn độc, nhưng hiện hữu trong một cộng đồng Ba Ngôi. Tình yêu bao giờ cũng đòi tương quan. Tình yêu không thể thành hình nơi một cực hay một chiều. Chỉ tình yêu mới phản ánh tình yêu. Con người chỉ thực sự là hình ảnh Thiên Chúa khi yêu thương nhau. Bởi đó con người cô độc Adam phải ra khỏi chính mình, để tìm đến đối tượng tình yêu là Evà. Evà và Adam làm thành cộng đoàn tình yêu. Như thế cộng đồng Ba Ngôi tìm thấy hình ảnh viên mãn trong cộng đồng tình yêu hôn nhân. Ngược lại, hôn nhân tìm thấy lý tưởng tuyệt vời nơi tương quan Ba Ngôi. Khi đã khắn khít trong hôn nhân, người ta tìm được hạnh phúc tròn đầy, vì thể hiện được độ sung mãn tình yêu Thiên Chúa trong chiều kích nhân loại. Tình yêu nhập thể trong một bối cảnh và xác thân cụ thể. Bởi đấy càng sống trọn vẹn ơn gọi hôn nhân, càng cảm thấy sâu xa mầu nhiệm kết hiệp giữa Ðức Giêsu và Giáo Hội, càng cảm thấy thấm thía tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại được mạc khải trong Diễm Tình Ca và sách Ngôn sứ Hôsêa.

70

Sự kết hiệp sâu xa đó như một chứng từ mạnh mẽ về tình yêu và niềm hi vọng. Giữa bao nhiêu đổ vỡ hôn nhân hôm nay, can đảm sống ơn gọi và lý tưởng hôn nhân, Kitô hữu đã chứng minh cho mọi người thấy tình yêu là sức mạnh liên kết hai trái tim bền vững trong hôn ước giữa bao sóng gió cuộc đời. Khi ly dị, người ta vừa phản bội nhau vừa phản bội Thiên Chúa. Tâm hồn phản bội sẽ không tìm được bình an, vì "hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội." (Ga 8:34) Ly dị không xóa nhòa được dấu ấn Chúa đã ghi trong tình yêu hôn nhân ban đầu. Vì "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình."(Mc 10: 12) Cuộc kết hiệp này không phản ánh tình yêu Thiên Chúa. Tâm hồn con người trở thành phức tạp, không còn đơn sơ xứng đáng với Nước Thiên Chúa nữa.

Ðó là lý do tại sao sau khi đề cập tới đổ vỡ trong cuộc sống hôn nhân, Ðức Giêsu ôm các trẻ em để mạc khải về điều kiện vào Nước Thiên Chúa : "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào."(Mc 10: 15) Không ai thành thực hơn trẻ em. Không đâu cần thành thực hơn đời sống hôn nhân. Khi bỏ cuộc sống hôn nhân, bất chấp ý định phối hợp của Thiên Chúa, con người không còn thành tâm với chính mình và người bạn đời nữa. Mỗi đứa con là một nhắc nhở hôn nhân nhớ rằng "Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng."(Mc 10:14) Người ta không thể trở nên như trẻ em. Nhưng nhờ sự trung tín trong tình yêu, họ có thể tìm được nét tuyệt vời của hạnh phúc hôn nhân. Tấm lòng mỗi người sẽ mở ra như tờ giấy trắng. Họ có thể tin nhau vì hiểu rõ

71

nhau. Nói khác, khi yêu, phải đơn sơ thành thực như trẻ em, người ta mới có thể bước vào thiên đàng trần giới tức là hạnh phúc gia đình. CHỨNG TỪ HÔN NHÂN Càng tìm cách tránh né thực tế, hôn nhân càng rơi vào cơn hỏa mù tình yêu. Chỉ có một cách thoát cơn hỏa mù đó là bước theo "Ðức Giêsu, (Ðấng) trải qua gian khổ đã trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ." (Dt 2:10) Quả thế, nếu theo Ðức Giêsu, họ sẽ đi vào cuộc sống hôn nhân cũng giống như Ðức Giêsu đến thế gian "không phải để lên án thế gian (mặc dù thế gian đáng bị lên án) nhưng là để thế gian được cứu độ." (Ga 3:17) Khi không còn yêu nhau nữa, họ chỉ sống với tâm trạng buồn bực và thái độ lên án. Họ không còn cảm thấy dịu ngọt của hoa trái tình yêu. Họ không thấy phải hi sinh và ban tặng cho nhau hạnh phúc tình yêu nữa. Họ không thể mở mắt học bài học yêu thương nơi Thiên Chúa. Quả thực, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3:16) Chính vì tình yêu ấy, "Ðức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa." (Dt 2:9) Khi hi sinh trọn vẹn cho nhau, vợ chồng đang thực hiện ơn cứu độ do nguồn ơn bí tích hôn phối mang lại. Như thế hôn nhân trở thành một con đường nên thánh. Chỉ khi hiến thân cho nhau, vợ chồng mới chứng tỏ mình là bạn đời của nhau. Thật vậy, "không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15:13).

Ngoài đặc tính cứu độ, tình yêu còn đầy năng lực sáng tạo. Cũng như Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả sức mạnh tình yêu

72

khi sáng tạo con người, vợ chồng cũng cảm thấy năng lực vô biên ấy khi thấy kết quả tình yêu nơi người con, hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa và của chính mình. Mỗi người con là một hồng ân làm phong phú tình yêu và củng cố cộng đoàn tự nhiên là gia đình. Bởi vậy, phá vỡ cộng đồng này sẽ kéo theo những hậu quả trầm trọng, không thể cứu vớt được. Thiên Chúa muốn cứu con người nên đã kêu gọi họ nhớ lại "lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ," để "phối hợp" (Mc 10:6,8) họ thành vợ chồng. Ðó là thánh ý Thiên Chúa. Sống theo thánh ý là con đường nên thánh nhanh nhất và chắc chắn nhất. Thiên Chúa muốn hôn nhân phải là hình thức tốt đẹp nhất nối kết con người trong một cộng đồng tình yêu, ở đó "con người tìm được cho mình một trợ tá tương xứng." (St 2:20) Trước những thảm cảnh gia đình đổ vỡ hôm nay, Thiên Chúa cần đến hôn nhân như dấu ấn tình yêu của Người đặt giữa nhân loại.

Lm. Giuse Đô Vân Lực, OP

THIÊN CHÚA ÐÃ PHỐI HỢP ...Lm. Giuse Nguyễn Cao Luât, OP

Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ.Những người biệt phái mở đầu cuộc tranh luận với Ðức Giê-su qua câu hỏi về vấn đề ly dị. Họ không có ý tìm hiểu vấn đề, trái lại có ý thử Ðức Giê-su và tìm cách hại Người. Họ dựa vào Luật Mô-sê để nói rằng được phép rẫy vợ. Theo luật này, chỉ cần người chồng thấy người vợ không đẹp lòng mình nữa, vì khám phá nơi nàng có điều gì chướng thì anh ta có quyền viết cho nàng một chứng thư ly dị và đuổi nàng ra khỏi nhà.

73

Những người biệt phái đề cập đến tương giao nam-nữ theo khía cạnh pháp lý bằng cách quy chiếu vào một quyền bính nhân loại. Ðức Giê-su không nhìn vấn đề theo khía cạnh này, nhưng theo chương trình của Thiên Chúa. Do đó, Người nói rõ với họ Luật Mô-sê đã cho phép như thế vì lòng dạ lì lợm của con người, chứ ý Thiên Chúa không phải như vậy. Ðó là một sự nhượng bộ phát sinh từ hoàn cảnh lịch sử và cần phải được chỉnh đốn lại cho phù hợp với chương trình của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa đã đến nơi Ðức Giê-su Ki-tô, tất cả những gì không phù hợp với Nước Thiên Chúa, phải bị loại bỏ. Trong xã hội, lề luật có mục đích là giúp con người tiến bộ. Theo quan điểm Ki-tô giáo, lề luật có mục đích giúp con người thi hành thánh ý Thiên Chúa và làm cho chương trình của Người được hoàn thành. Nếu người ta biến lề luật thành tuyệt đối bằng cách nêu ra các thứ quyền, khi ấy, người ta đã khép kín lại nơi chính mình và quên mất giá trị ơn gọi của mình là tiến lên phía trước. Và như thế, họ cũng khép kín trước Thiên Chúa là Ðấng kêu mời họ tiến lên phía trước.

"Lúc khởi đầu...Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ .." Khẳng định này cho thấy người nam và người nữ đều được Thiên Chúa dựng nên, và vì vậy họ bình đẳng với nhau. Chương trình của Thiên Chúa, đó là người nam và người nữ cùng nhau tiến bước, hoà hợp với nhau, người này làm cho người kia được sống. Người vợ không phải là một món đồ thuộc quyền sở hữu của người chồng và có thể bị anh ta bỏ rơi bất cứ lúc nào.

74

Hơn thế nữa, khẳng định của Ðức Giê-su còn nhấn mạnh đến việc hai người nam nữ thu hút nhau, bù đắp cho nhau và khắng khít với nhau để tạo nên một cộng đoàn, một nếp sống. Ðời sống lứa đôi không phải là chiếm hữu nhưng là một cuộc phiêu lưu, trong đó mỗi người khám phá và thăng tiến chính mình qua việc gặp gỡ người bạn đời của mình. Ðời sống này đòi mỗi người trung tín đến cùng như chương trình của Thiên Chúa. Chấp nhận phiêu lưu là chấp nhận lời mời trung tín đến cùng. Tại sao người chồng lại có thể viện cớ người vợ có điều gì chướng để từ bỏ nàng ? Phải chăng vì anh ta đã đặt khát vọng và cảm tính của mình lên trên kế hoạch của Thiên Chúa ? Chỉ có ai khám phá sống tình yêu, người ấy mới có thể đi đến cùng của cuộc phiêu lưu.

Dĩ nhiên tình yêu này không làm giảm giá trị của tình dục, như người ta vẫn nghĩ ; trái lại, chính tình yêu là cách hiểu về tình dục cách đúng đắn nhất : đặt nó vào trong toàn bộ ơn gọi làm người, và như vậy, tương đối hoá nó.

Yêu thương và trung tín Ðời sống hôn nhân quả là một thực tại sâu sắc : đời sống ấy có tính cách thiêng thánh vì là công trình của Thiên Chúa, và từ đời sống ấy có thể phát sinh một con người mới, có linh hồn bất tử, có tự do, có khả năng yêu mến và hiểu biết theo đúng hình ảnh của Thiên Chúa. Ngay từ khi được sáng tạo, người nam và người nữ, vốn xa cách và khác biệt nhau, được mời gọi sống chung với nhau để làm nảy sinh tình yêu. Khi tình yêu ngự trị trong cuộc sống này, thì đời sống lứa đôi trở thành một thực tại thánh, trở thành một phần trong thân thể Ðức Ki-tô, bởi vì có tình yêu Thiên Chúa hiện diện trong

75

đó. Thánh Phao-lô ghi nhận : Mầu nhiệm này thật cao cả. Tôi muốn nói về Ðức Ki-tô và Hội Thánh" (Ep 5,32).

Cũng như Ðức Ki-tô và Hội Thánh chỉ là một thân thể và không ngừng sinh ra những người con mới qua bí tích Thánh Tẩy, thì người nam và người nữ cũng thực hiện một cuộc hoà hợp nơi đứa con của mình. Từ hai, họ làm nên một, một thân xác, một con người.

Như vậy, là người nam hay người nữ, mỗi người chỉ thực sự là mình khi được yêu mến và mỗi người cũng chỉ thực sự là mình khi biết yêu mến. Chính tình yêu tạo nên mối tương giao duy nhất : từ hai, họ làm nên một, không còn tính cách nào khác.

Trong cuộc sống lứa đôi, mỗi người cảm nghiệm sự hiệp nhất này. Ðây không phải là sự tan biến, mất hút - dấu chỉ của sự chết, nhưng là một sự trao tặng : mỗi người vẫn tự do khi hiệp nhất với nhau để diễn tả về tình yêu Thiên Chúa và cùng tiến bước về với Thiên Chúa.

Trong cuộc sống lứa đôi, hai người cùng đi vào cuộc phiêu lưu làm con cái Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở bên cạnh họ. Chính điều này làm cho họ liên kết chặt chẽ với nhau, và nhờ đó họ cùng nhau sống mầu nhiệm sáng tạo, sống giao ước, cùng nhau đảm nhận những khó khăn, những thách đố, và cùng nhau đón nhận Nước Thiên Chúa.

Thế nhưng, có những người lầm lẫn về chính mình và về người khác, những người chỉ sống bí tích hôn nhân như một nghi lễ, những người coi bí tích hôn nhân như cao điểm của

76

trí tưởng tượng, được một vị thần trong mây chúc lành, để rổi cuối cùng họ xa rời nhau. Ðối với những người này, ai được quyền phân xử, ai được quyền ném đá vào họ ? Thưa chỉ có Thiên Chúa. Chỉ có Người mới biết họ như thế nào.

Sau cùng, sự trung tín không phải là đặc tính dành riêng cho đời sống lứa đôi. Trong nhiều cuộc dấn thân khác, vẫn phải có những người trung tín phục vụ. Khi người ta phá đỗ sự dấn thân được thể hiện trong tinh thần tự do và trách nhiệm, tức là dứt khoát lìa bỏ dân Thiên Chúa, thì đó là chia rẽ. Mà chia rẽ dẫn đến cái chết. Mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi lập giao ước, để sống và làm cho sống.

Con đường nên thánh Hôn nhân không chỉ là tế bào nền tảng, nguyên thuỷ, gắn liền với mầu nhiệm sáng tạo, nhưng còn là con đường nên thánh. Ở đây, thánh thiện không có nghĩa là sự hoàn hảo luân lý, nhưng là một công trình thiêng liêng và mỗi người đều trung thành thể hiện.

Thánh thiện bởi vì tạo nên sự hiệp nhất như Thiên Chúa đã muốn khi dựng nên con người. Và sự hiệp nhất này được diễn tả trong tình yêu. Phá vỡ sự hiệp nhất này chính là phá đổ công trình của Thiên Chúa, là làm méo mó hình ảnh Thiên Chúa đã dựng nên : đó là ngoại tình. Xưa kia các ngôn sứ đã dùng từ ngữ này để nói về những người bỏ quên Thiên Chúa mà chạy theo các ngẫu tượng.

Như thế, hôn nhân là con đường nên thánh. Ðời sống lứa đôi tạo nên một cộng đoàn sống động, trong đó tình yêu ngự trị, hay nói cách khác, chính Thiên Chúa ngự trị. Hẳn không

77

phải là tình cờ khi Ðức Giê-su muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến, Người đã thực hiện phép lạ đầu tiên trong một tiệc cưới.

Ðàng khác, câu chuyện Tin Mừng này cũng nhắc nhở mỗi người phải trở về với thánh ý của Thiên Chúa. Người ta không được quyền nại ra bất cứ điều gì để né tránh, để không thực hiện chương trình của Người. Trái lại, người ta phải can đảm sửa lại những sai lệch do tình trạng yếu đuối hay đam mê của mình.

Dù vậy, phải nói rằng khẳng định của Ðức Giê-su không có ý giải quyết tất cả những vấn đề cụ thể và pháp lý của cuộc sống lứa đôi. Người chỉ muốn đặt đời sống đó trước chương trình kỳ diệu của Thiên Chúa, trước tình yêu không thay đỗi, một tình yêu lớn hơn mọi tình trạng của con người. Trung tín chính là trở về với tình yêu này.

Cuối cùng, bài Tin Mừng này được đặt sau những lời Ðức Giê-su nói về chuyện đi theo Người, vác lấy thập giá. Chúng ta có quyền hiểu rằng, nếu như đời sống lứa đôi là con đường cần phải đi, thì phải đi đến cùng. Và chính con đường này dẫn đến sự sống đích thực.

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

78

"SỰ GÌ THIÊN CHÚA ĐÃ KÊT HỢP,LOÀI NGƯƠ I KHÔNG ĐƯỢC PHÂN RE"

Lm. Giuse Mai Xuân Tư, OP

Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay không phải là thánh lễ thành hôn. Nhưng phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn mượn hình ảnh của hôn nhân, đặc biệt là tính đơn hôn và chung thủy của hôn nhân, để nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người.

Thưa anh chị em, ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã muốn cho con người được hạnh phúc, hạnh phúc đó được thể hiện trong ý muốn và việc làm của Thiên Chúa dành cho con người : "Ðàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó" (St2, 18) và Thiên Chúa đã tạo dựng người nữ, khi bừng tỉnh dậy thấy người nữ trước mặt, người đàn ông đã sủng sốt thốt lên : "Bây giờ đây, xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi" (St2, 23). Tình yêu bền chặt và hạnh phúc còn vượt xa tình máu mủ ruột thịt : "Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân thể" (St2,24). Tình yêu như thế là tuyệt vời, đem lại hạnh phúc tràn đầy và bất tận cho con người. Ðây vừa là ý muốn của Thiên Chúa cho con người được hạnh phúc, đồng thời muốn nói lên tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người giống như tình yêu phu thê: kết hợp mật thiết, trở nên một, vượt xa tất cả mọi thân thiết khác và hoàn toàn tạo hạnh phúc cho đối tượng của tình yêu.

79

Thưa anh chị em, tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người như thế đó ! Nhưng con người có sống, có giữ và có thực thi tình yêu đó chăng? Nhìn vào thực tại cuộc sống, hôn nhân đã không ngừng tiếp diễn, hôn nhân này sinh ra hôn nhân khác. Mỗi hôn nhân là một chuyến đi về định mệnh, là cuộc mạo hiểm đi tìm hạnh phúc. Nhiều người cho rằng : những ngày liền trước hôn nhân là cả một mùa xuân, rồi đến những ngày mới thành hôn là mùa thu, và tiếp đó, là những ngày xuân thu xen giữa những tháng dài đông hạ. Với nhiều bạn trẻ thì cho rằng : những ngày liền trước hôn nhân là những ngày đầy thân mật, rồi đến ngày mới thành hôn là tuần trăng mật, và tiếp đó là cả những tháng ngày dài dập mật và vỡ mật.

Thưa anh chị em, hôn nhân ngày nay có lẽ đang trở thành nỗi lo sợ của không ít người. Bởi vì, tỷ lệ những cuộc hôn nhân đi đến ly dị ngày một gia tăng, nó đang làm biến đổi nền đạo đức trong xã hội, gây đau khổ cho biết bao người vô tội. Ðặc biệt là những em nhỏ mồ côi đương nhiên trở thành tệ nạn của xã hội cũng không ngừng gia tăng. Phải chăng hôn nhân ngày hôm nay đang trở thành nỗi bất lực của con người, mà con người không có cách giải quyết.

Trở về bài tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn bối cảnh của cuộc nói chuyện với người Pharisiêu về hôn nhân, để tái xác nhận những đặc tính bất di bất dịch của đời sống hôn nhân, là không bao giờ được ly dị.

Những người Pharisiêu đã nại đến Môsê tổ phụ của dân tộc, để tấn công Chúa về tính cách bền vững này. Chúa Giêsu đã trả lời họ một cách nhẹ nhõm : "Chính vì sự cứng lòng tin

80

của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ mình và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ". (Mc 10,5-9)

Thưa anh chị em, Chúa Giêsu đã lặp lại hầu như nguyên văn những lời trong sách Sáng thế, để tái khẳng định sự bền chặt của hôn nhân. Việc ly dị vợ hoặc chồng là điều không được phép làm, vì như thế là phá vỡ sự bình đẳng Thiên Chúa đã thiết lập và con người đang tái tạo, là theo ý riêng tư vụ lợi, là xúc phạm đến những tâm hồn ngây thơ đơn sơ, vì gia đình là tổ ấm, là nôi hạnh phúc, là mái trường không thể thiếu để trẻ em phát triển thành người. Hơn nữa, sự bất khả phân ly của hôn nhân là lời thề hứa sâu sắc nhất của tình yêu; và bí tích hôn nhân đúng là một hồng ân, một quà tặng nhưng không để chữa bệnh con người không biết yêu thương và chỉ có Thiên Chúa sống động trong ta mới có thể làm được những gì mà chúng ta coi là bất lực.

Tôi xin kể câu chuyện: có hai vợ chồng trẻ rất nhiệt tình đi làm việc bác ái cùng mẹ Têrêxa Calcutta, nhưng hai vợ chồng không bao giờ đi làm việc với nhau, khi họ được mời đi làm việc cùng nhau là họ tìm cách khước từ, họ không thể đi chung và sống chung với nhau. Một hôm mẹ Têrêxa gọi cả hai người đến và nói: tại sao anh chị đi làm việc bác ái và yêu thương người khác được, mà anh chị lại không bác ái và yêu thương nhau ? Họ bắt đầu kể tội nhau, nhưng mẹ Têrêxa đã giơ tay xin hai người cùng mẹ vào nhà thờ để cầu nguyện. Hai người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đã

81

dành cho họ, họ đã khóc với Chúa, xin lỗi nhau và về sống chung với nhau thật là hạnh phúc.

Thưa anh chị em, chỉ có Thiên Chúa là tình yêu mới có thể làm biến đổi tình yêu nơi con người và tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chỉ đạt tới đỉnh cao nơi Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã làm chứng cho tình yêu, bằng chính cái chết trên thập giá. Quả thật tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho con người thì cao vời, tuyệt diệu, trung tín và bền vững. Ước gì Lời Chúa hôm nay trở thành phương thuốc chữa căn bệnh bất lực của tình yêu hôn nhân. Với những ai đang làm vợ và làm chồng hãy sống ý thức được tình yêu mà Chúa đã dành cho mỗi người, bằng tất cả ý thức trách nhiệm, biết quên mình để can đảm nhận lãnh bổn phận, chính là bí quyết sống hạnh phúc trăm năm. Ðây cũng là cuộc hành trình đầy tin tưởng vào Thiên Chúa là tình yêu và là hành trang đi về hạnh phúc bất diệt nơi Nước Trời, mà Thiên Chúa đã hứa ban cho con người qua Ðức Giêsu Kitô. Amen

Lm. Giuse Mai Xuân Tư, OP

TÔN TRỌNG SỰ BÌNH ĐẲNGVÀ TRUNG TÍN TRONG HÔN NHÂN

Mc 10, 2-16Lm. Jude Siciliano, op.

Trong các toà án ngày xưa, khi chưa phát minh máy ghi âm, thì người ta dùng thư ký đặc biệt, ghi chép rất nhanh các lời khai, gọi là nhân viên tốc ký. Sau phiên toà các luật sư muốn dò lại hồ sơ, chỉ cần đọc văn bản ghi nhanh đó, khắc biết

82

đầy đủ chi tiết. Khi tranh đua các trận cầu ở Mỹ, người ta dùng máy ghi ảnh. Nếu một ông bầu nào đó, muốn phản đối trọng tài thì chỉ cần bấm lại máy, mọi sự sẽ trở nên rõ ràng. Nếu một tiệm tạp hoá lớn bị trộm cắp, hay khách hàng cầm nhầm đồ vật thì cảnh sát chỉ cần bấm lại máy thu hình đặt sẵn trong các quầy là tìm ra thủ phạm ngay. Thời hiện đại có nhiều phương tiện tìm kiếm sự thật rất tiện lợi và nhanh chóng.

Nhưng khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ vạn vật và con người, ai đã ghi chép văn bản? Hẳn chẳng có ai. Khi Adam, Eva được dựng nên, ai đã chứng kiến mà mô tả lại? Cũng chẳng có ai cả! Vậy những chuyện trong sách Sáng Thế thật hay bịa? Rõ ràng trình thuật tạo dựng hai ông bà không phải là câu truyện tả chân xác thực một trăm phần trăm. Thánh Kinh không phải là lịch sử theo nghĩa đó. Nó có mục tiêu khác. Đó là giúp đỡ các tín hữu bền vững và lớn lên trong đức tin. Nó không phải là truyện “lúc ấy” mà là chuyện “bây giờ”. Nó chuyển tải một nội dung quan trọng cho các tín hữu hiện đại và đường lối văn chương của nó cụ thể, rực rỡ màu sắc, ngõ hầu người đọc dễ nắm bắt và nhớ lâu. Liệu có đúng câu truyện xảy ra như thế? Đúng thế. Nó là sự thật nằm tàng ẩn trong câu truyện, xin cảm phiền theo dõi tiếp.

Chân lý thứ nhất có thể suy đoán ra là đàn ông và đàn bà hoàn toàn bình đẳng trong việc tạo dựng, không phải như người ta lầm tưởng xưa nay: đàn bà thua kém đàn ông. Thiên Chúa là Tạo Hoá của cả hai người. Không có sự chênh lệch hay thiên vị khi Ngài dựng nên Adam và Eva. Tạo hoá của Adam cũng là tạo hoá của Eva. Chẳng có ưu tiên nào cả! Vậy tại sao người ta lại đặt ưu tiên cho Adam và

83

coi nhẹ Eva? Adam không tham dự vào việc tạo dựng Eva. Khi Thiên Chúa làm nên Eva, Adam đang ngủ say! Công việc là công việc của Thiên Chúa. Ngài hoàn toàn tự mình khởi sự, chẳng có ai can dự vào. Adam từ bụi đất và Eva từ một chiếc xương sườn. Cả hai là công việc một mình Thiên Chúa. Vậy não trạng thiên vị là sai lầm. Sự thật là nhân phẩm Adam, Eva hoàn toàn giống nhau.

Chân lý này còn được tỏ hiện, như tác giả Dianne Bergan nhận xét, trong lời tuyên bố của Adam: “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi.” Theo nữ tác giả, hai chữ “xương thịt” có ý nghiã vừa tâm lý vừa thể xác. Xương gợi nên sức mạnh, thịt sự yếu đuối. Như vậy toàn cảnh con người là sức mạnh và yếu đuối nơi cả hai đàn ông và đàn bà. Chứ không riêng gì một phía nào: đàn ông là sức mạnh, đàn bà là yếu đuối. Chúng ta nên hiểu phía đàn ông mạnh mẽ nhưng cũng rất yếu đuối và đàn bà là người bạn thích hợp của ông ta. Eva chia sẻ toàn bộ số phận làm người như Adam. Như vậy câu truyện tạo dựng con người là có thật. Vì nó chuyển tải sự thật căn bản về loài người mà Thiên Chúa đã tác thành nên: Cuộc đời là một ơn ban của Thượng Đế và Ngài còn ban cho một hoàn cảnh thuận lợi để sống. Adam và Eva được tạo dựng như một cộng đoàn, không riêng lẻ và được kêu gọi sống với nhau trong tương quan hợp lý. Tương quan này được đặt trong một thế giới có trật tự. Khi hành động tạo dựng Adam, Eva hoàn tất, chúng ta chẳng thể có ý kiến nào khác ngoài quan niệm là họ thuộc về Thiên Chúa và về nhau cách hoàn hảo, bởi cả hai đều “một xương một thịt”. Không thể nói nhân loại đầy đủ hơn nơi người đàn ông và kém hơn nơi người đàn bà. Hoặc một bên trổi vượt hơn bên kia và vì thế có thể lấn át nhau. Ngược lại cả hai đều phản ánh đồng

84

đều nhân loại tính: “Con người nói: phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi…bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương thịt.”

Như vậy chúng ta dễ hiểu ra quan điểm của Chúa Giêsu khi tuyên bố: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly. Xin nhớ, Ngài cùng các môn đệ đang đi lên Giêrusalem, dọc đường Người dạy dỗ các ông về giáo lý chân thật của Đức Chúa Trời. Các Pharisêu đưa vấn đề ly dị ra trắc nghiệm Ngài. Nhưng cũng nhờ vậy mà Ngài có cơ hội dạy dỗ một chân lý ngàn đời về vấn đề hôn nhân. Theo sách Đệ nhị luật (24, 1-4) người đàn ông được phép đuổi vợ vì một lý do giản dị là tìm thấy nơi nàng có điều chi “chướng”. Chẳng ai hiểu chính xác thế nào là chướng, vì vậy mỗi trường phái cắt nghĩa một khác. Thời Chúa Giêsu vấn đề ly dị là một đề tài không nhỏ ( thời nay cũng vậy) trong cộng đồng tôn giáo. Vì vậy họ đặt trước Chúa Giêsu cái bẫy để thử Ngài. Nếu Ngài trả lời được thì rõ ràng Ngài đi ngược với tự nhiên. Nếu nói không thì phạm luật Môsê như chúng ta vừa trích dẫn. Nhưng thay vì bàn luận trực tiếp được hay không được phép ly dị, Ngài chưng ra sách Sáng Thế Ký và chương trình về hôn nhân của Thiên Chúa.

Ngày nay lời dạy của Ngài cũng rất khó nuốt. Bởi ly dị rất phổ biến trên toàn thế giới. Riêng nước Mỹ 50% các giao ước hôn nhân đi đến đổ vỡ. Các tín hữu khó mà tuôn giữ lời Chúa Giêsu trước thực tại của cuộc sống tân thời, xô bồ và thượng tôn vật chất. Trong bài suy niệm này chúng ta thử vật lộn với sự thật Chúa dạy và các thực tế trong gia đình, xã hội, bạn bè, người dưng nước lã và với chính bản thân. Trước hết là lý do nghiêm ngặt chống ly dị. Trong xã hội thời

85

cổ và ngay cả bây giờ, luật hôn nhân nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Bởi vì đàn ông có khuynh hướng bạo lực và đàn áp. Họ coi đàn bà và con nít như tài sản riêng, có toàn quyền định đoạt tương tự như nô lệ vậy. Luật lệ là để bảo vệ các thành viên yếu kém trong cộng đồng. Nhưng tai hại thay nó lại do đàn ông xây dựng nên. Vì thế còn nhiều thiếu sót và bất công. Thí dụ luật cho phép ly dị vì lý do “chướng mắt”. Chướng mắt vì không thích nữa, vì tốn kém, vì nấu ăn tồi, vì tuổi tác… Hàng ngàn lý do gọi là “chướng”. Khi một người đàn bà bị đuổi ra khỏi nhà, bà rất dễ bị tổn thương và lệ thuộc vào gia đình bên ngoại để sống còn. Chẳng may gia đình nghèo khổ, lúc ấy bà hoàn toàn phải tự lo liệu. Cho nên cần một luật hôn nhân nghiêm ngặt hơn để giúp đỡ những trường hợp khó khăn. Ngoài lề luật của Thiên Chúa, lòng yêu thương bác ái đòi buộc Chúa Giêsu đưa ra một “lý tưởng”, chứ không phải như mấy ông Pharisêu hy vọng Ngài sẽ tháo thứ như thái độ của Ngài vốn có đối với “tập tục” của cha ông.

Có lẽ vì lý do đó mà thánh Mathêu đặt vấn đề ly dị vào mục “khuôn vàng thước ngọc” của Bài Giảng Trên Núi(5,31) song song với tám mối phúc thật, yêu kẻ thù, bất bạo động, đưa má cho người ta tát, cho mà không đòi lại… Trong ánh sáng của các lý tưởng này, Chúa cho chúng ta hay nhân loại thiếu sót biết bao khi thực hiện Thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta quá yếu đuối trong chức vụ làm môn đệ Ngài và làm công dân nước trời. Chúng ta luôn cần đến lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Vấn đề hôn nhân và gia đình cũng vậy. Nó là một lý tuởng người ta phải cố gắng đạt tới. Không vì lý do gì mà bưng tai bịt mắt trước “sự thật” của Sáng Thế Ký. Và Chúa Giêsu nhấn mạnh lại: Mối ràng buộc hôn nhân

86

là vĩnh viễn không quyền lực nào bẻ gẫy được dù là quyền bính quốc gia, Giáo Hội, quốc tế. Nó đã được Thiên Chúa an bài và quyết định. Ngoài ra tính bất phân ly của hôn nhân còn là biểu tượng tình yêu Hội Thánh với Đức Kitô và sự gắn bó vững vàng giữa thụ tạo với Thiên Chúa của mình. Như vậy hôn nhân giữa người nam và người nữ mang nhiều ý nghĩa khác nhau về lòng trung thành. Không những trung thành xác thịt, nhưng tình yêu, tâm linh, tinh thần tín thác, trợ giúp và biểu tượng nữa. Nó nói lên sự gắn bó của Thiên Chúa với loài người và ngược lại loài người với Tạo Hoá của mình. chẳng biểu tượng nào có ý nghĩa hơn!

Đó là lý tưởng của hôn nhân công giáo, nó vượt xa mọi học thuyết khác. Người tín hữu tin chắc rằng bí tích hôn phối phản ánh tình yêu của Chúa Kitô, Thiên Chúa nhập thể, với Hội Thánh và ngược lại. Nhưng khi thể hiện chúng ta thường thất bại, vì yếu đuối của bản tính nhân loại. Chúng ta phải luôn đấu tranh để theo gương Chúa Giêsu. Ngài trung thành với Hội Thánh và từng linh hồn cho đến chết trên thập giá. Hôm nay chúng ta đem cuộc đấu tranh này dâng trên bàn thờ để Chúa giúp đỡ. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta Đức Kitô và tinh thần của Người ngõ hầu chúng ta sống am hợp với niềm tin.

Tuy nhiên Hội Thánh không cố tình ngoảnh mặt khỏi những yếu đuối của con người. Nó bắt nguồn ngay từ bản tính sa ngã. Sau thời gian dài kinh nghiệm và suy gẫm về điều chi làm cho người ta hoàn toàn đồng ý thì tâm lý học khám phá ra rằng vào giai đoạn nào đó của cuộc đời hoặc trong những hoàn cảnh nhất định nào đó việc đồng ý hoàn toàn và tự do là không thể thực hiện được. Vì thế hiện nay Giáo Hội tuyên

87

bố nhiều giao ước hôn nhân không thành, bởi thiếu sự đồng ý chân thật. Nhưng ở những hoàn cảnh khác, phẩm chất của giao ước hôn phối là đầy đủ, không tháo gỡ được nữa.

Phúc Âm hôm nay nghiêm khắc lên án ly dị. Tuy nhiên nhiều cặp vợ chồng không đáp ứng được lý tưởng của hôn nhân. Họ thiếu sót cách này cách khác. Các chủ chăn nên bỏ công khó tìm hiểu và giúp đỡ họ thực tình chứ không “tội nghiệp” suông. Ở Việt Nam còn ít, chứ ở Âu Mỹ, ly dị và tái kết hôn ngày càng trở nên phổ biến. Họ vẫn khao khát sống đời tín hữu, nhưng hoàn cảnh không cho phép. Các mục tử nghĩ sao đây? Hãy tìm ra phương pháp để an ủi nâng đỡ những tâm hồn đó. Người ta còn đặt câu hỏi: ly dị và tái kết hôn khác nhau thế nào? Vậy cần nhiều học hỏi và suy tư, không nên bỏ phí thời giờ vui chơi bài bạc.

Nhưng tư tưởng chính thống vẫn là bước đi an toàn. Luật lệ nghiêm khắc vẫn cần thiết để bảo vệ lý tưởng hôn nhân và giúp đỡ các đôi vợ chồng đạt tới mục tiêu ấy. Tôi quen một gia đình đã kết hôn 30 năm. Họ thú nhận đã 5 lần dự tính ly dị. Nhưng nhờ ơn Chúa và bạn bè nâng đỡ họ vẫn còn yêu nhau và khám phá ra rằng những khó khăn chỉ là nhất thời, giúp họ lớn lên trong hiểu biết và hạnh phúc. Một bà mẹ trẻ khác thú nhận: “Quyết định kết hôn và sống trung thành là một điều khó khăn nhất trong cuộc đời mình”. Chúng ta cần giữ vững “lý tưởng” nhưng cũng cần tìm ra đường lối giúp các gia đình khủng hoảng. Xin đừng nhởn nhơ với bổn phận. Công việc thật nặng nề nhưng là trách nhiệm mục tử.

Căn do mọi sự dữ là tội lỗi. Người ta thường ích kỷ nghiêm khắc với tha nhân, dễ dãi với bản thân. Cho nên thiếu bác ái

88

chân thật. Đôi vợ chồng phải nâng đỡ nhau chứ đừng chì chiết, nhường nhịn nhau chứ đừng cố chấp. Chúng ta sống trong thế giới tan nát vì tôïi lỗi cho nên ít nhiều bị ảnh hưởng. Điều này mọi người đều biết và thông cảm. Nếu như lúc nào đó “lý tưởng” bị bẻ gẫy, chúng ta không ngã lòng, xin Chúa khoan dung tha thứ. Ngài sẵn sàng đổ ơn xuống giúp đỡ ngõ hầu chúng ta làm lại cuộc đời. Ngày nay các gia đình luôn phải đối phó với khó khăn và căng thẳng. Này nhé ly dị rất phổ thông, văn hoá xã hội không giúp đỡ gì nhiều cho nếp sống gia đình. Các thành viên tản lạc xa nhau. Kinh tế chụp giật xô bồ. Cha mẹ xa con cái. Con cái chẳng có thời giờ thăm hỏi cha mẹ, ông bà. Công việc bề bộn. Tình cảm máu mủ không được vun đắp, nuôi dưỡng. Thử hỏi gia đình bền vững thế nào được? Nhưng hãy nghĩ đến những lễ hôn phối mà chúng ta đã tham dự. Nó ám chỉ sự dẫn thân trọn đời, không những ngay lúc nghi thức diễn ra, mà mãi mãi về sau. Khi đôi vợ chồng gặp khó khăn, cần được khích lệ và giúp đỡ để tiếp tục là “một xương một thịt”. Chúng ta hãy sẵn sàng hiện diện để “lý tưởng” của Chúa được củng cố và sáng tỏ. Như vậy cộng đồng mới thực sự là môn đệ Chúa. Mong lắm thay. Amen.

Lm. Jude Siciliano, op.

89

HÔN NHÂN BÊN VƯNGMc. 10, 2-16

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su tuyên bố cho những người Pha-ri-sêu cũng như cho mọi người biết chủ trương của Ngài về hôn nhân và cũng là lề luật của Thiên Chúa, là vợ chồng phải nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly, tức là chỉ được một vợ một chồng và phải sống chung thủy với nhau suốt đời. Nói khác đi, Chúa Giê-su không chấp nhận đa phu đa thê và ly dị. Tại sao Chúa Giê-su lại chủ trương như vậy và đòi hỏi mọi người phải sống như vậy?

Trong báo Tuổi Trẻ Cười số 3 phát hành vào đầu tháng Ba năm 1984, có một bài đầu đề là “Hôn nhân kiểu Mỹ” kể rằng : chuyện thay vợ đổi chồng như thay áo của người Mỹ cũng đáp ứng nhu cầu tiện dụng, bởi vì mọi thứ trong cuộc sống của họ đều phải tiện dụng, đều mang dấu vết những sản phẩm chế tạo hàng loạt. Khi nói như vậy tác giả bài báo này có dụng ý nói rằng : chuyện bỏ nhau, chuyện thay vợ đổi chồng ở Mỹ rất nhiều và rất dễ dàng. Mọi người dân Mỹ đều thuộc làu bộ luật ly dị, vì nó giản tiện hơn những bộ luật khác.

Đó là chuyện của xứ người, còn ở xứ ta thì sao ? Báo chí cho biết : tại thành phố Hồ Chí Minh, qua thụ lý sơ thẩm của các tòa án quận huyện, được tòa án thành phố tổng hợp, thì hiện tượng ly hôn đã gia tăng đáng kể, đến mức báo động trong những năm gần đây. Báo chí còn cho biết thêm : phần đông đơn xin ly hôn là của những đôi vợ chồng ở lứa tuổi 30 tới 40 và có rất nhiều đôi vợ chồng mới lấy nhau từ một đến

90

năm năm. Có bài báo, sau khi đã kể ra một số lý do dẫn đến ly hôn, đã kết luận : có những trường hợp có lý do chính đáng, nhưng cũng có những trường hợp lý do đưa ra xin ly hôn thật lẩm cẩm. Một số dẫn chứng trên cho thấy tình trạng hôn nhân ngày nay và củng cố cho điều Chúa Giê-au dạy trong Tin Mừng hôm nay.

Bước vào hôn nhân, tất cả mọi người, ai cũng muốn được hạnh phúc, trọn đời yêu thương, và cuộc tình không phải chỉ là chuyện tháng ngày, vui thì ở, chán thì chia tay, nhưng trái lại, luôn bền vững, tươi đẹp. Chính Chúa Giê-su cũng mong muốn như thế, nên Ngài đã nâng sự kết hợp vợ chồng lên hàng bí tích, nghĩa là một sự kết hợp thánh thiện, bền chặt, biểu tượng của sự kết hợp mầu nhiệm giữa Chúa Ki-tô và Hội thánh. Sự kết hợp này keo sơn và bền chặt, ngoài sự chết, không sức mạnh nào, không uy quyền nào có thể chia lìa. Vì thế, khi những người Pha-ri-sêu đến chất vấn Chúa : có được phép ly dị để lấy người khác không ? Hẳn là họ muốn hỏi : có được thay vợ đổi chồng, đa phu đa thê không ? họ còn nại đến thế giá của ông Mô-sê để hỏi thử Chúa. Chúng ta thấy Chúa Giê-su đã điềm đạm nhắc lại cho họ biết luật nguyên thủy của Thiên Chúa là một vợ một chồng, còn việc ông Mô-sê cho phép bỏ nhau để lấy người khác là vì lòng dạ dân chúng thời đó cố chấp, nên ông Mô-sê phải nhượng bộ, chứ thuở ban đầu đâu có thế. Như vậy, Chúa Giê-su đã chính thức rút lại luật Mô-sê và thay thế những gì là hủ tục trong Cựu Ước bằng luật Tân Ước, nghĩa là Chúa chính thức xác nhận luật nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân, đồng thời Chúa đòi hỏi mọi người phải sống theo luật lệ này. Vì thế từ xưa cho đến nay, Giáo hội vẫn luôn trung thành tuân giữ.

91

Hôn nhân là vấn đề tình yêu, một tình yêu chân chính không chấp nhận chia sẻ, phân tán. Khi yêu người ta muốn chiếm trọn, muốn được chung tình, chứ không ai muốn chung chạ hay nửa đường đứt gánh. Vì thế, bất cứ khi nào tình yêu bị sứt mẻ, bị chia sẻ, bị phản bội, người ta sẽ không quản gian nguy, không ngại tai tiếng, không ngại hy sinh, để quyết bảo vệ cho kỳ được tình yêu đó, như đánh ghen, đập phá, chém giết, thuê người hành hung, tạt át xít tình địch… Tất cả những hành động đó không ngoài mục đích đòi quyền yêu và được yêu một cách tuyệt đối trong hôn nhân, không ngoài mục đích bảo vệ đạo chung thủy của vợ chồng.

Không thể có hạnh phúc trong những gia đình chồng đèo bồng vợ lang chạ, trái lại, khi ‘sợi giây” tơ hồng bị xé lẻ thì biết bao cảnh hỗn loạn tang thương xảy đến cho gia đình, vợ chồng sẽ không còn lòng quảng đại để tha thứ và để cảm thông nhau như trước nữa, bầu khí gia đình ngột ngạt, nghi kỵ, hằn học, ăn miếng trả miếng sẽ bùng nổ từ đây, và không sớm thì muộn sẽ đi đến chỗ đưa nhau ra tòa đòi ly dị. Tình trạng bi đát này sẽ gây nên nhiều đau khổ cho hai người.

Nhưng hậu quả tại hại nhất của gia đình ly dị là số phận con cái. Thật bất hạnh cho chúng, sinh lầm trong những gia đình bất hòa ấy : tâm tư tình cảm chúng bị đầu độc, chia sẻ, tình huynh đệ bị sứt mẻ héo tàn, tuổi trẻ thơ mộng bị hoen ố, lòng chúng hoang mang, mặc cảm, chán chường. Tội ác phát sinh ra tội ác, từ một gia đình thiếu tình yêu, chúng càng kháo khát tình yêu khi nhìn đến anh em của những gia đình khác, chúng muốn tình thương mà lại thiếu tình thương, chúng muốn thoát ly gia đình để đòi hỏi một sự bù

92

đắp nào đó, đòi hỏi không được thì càng gào thét, đập phá, quấy rối… và trở thành những trẻ em hư hỏng.

Trong phạm vi tự nhiên mà đã nguy hại như thế huống chi là phạm vi siêu nhiên. Gia đình là nền tảng của Giáo hội, là tế bào sống của Giáo hội. Nếu tế bào đó không sống, bị hư hỏng thì nhiệm thể đâu có lành mạnh được. Chúa nói : “gia đình nào chia rẽ là tự hủy”. Trường hợp đau thương đó nếu còn được người cha hay người mẹ biết chịu đựng, nhẫn nại, hướng dẫn các con thì còn hy vọng cứu vãn được các con, nhưng nếu “ông ăn chả bà ăn nem” thì sẽ không còn mảnh đức tin nào nữa. Chúa Ki-tô đã xác định rõ ràng : “Điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”, phân ly là mất mát, là chết chóc.

Nếu thực tại hôn nhân ngày nay đã lệch chính đạo và xa rời ý muốn của Thiên Chúa, thì nhiệm vụ đưa hôn nhân trở về nguồn là một vinh dự và cũng là một trọng trách của đôi bạn đã kết ước, của các bậc cha mẹ, của các gia đình, và của hết mọi người có nhiệm vụ rao truyền lời Chúa cho muôn dân.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

CHI LÀ MÔT93

Mc 10, 2-16Manna 

LỜI CHÚA: Mc 10,2-16 "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".

Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.  SUY NIỆM

94

"Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly" Lời của Ðức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới. Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?

Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu vẫn tăng. Sống với nhau suốt một đời trở thành ước mơ khó đạt. Trong xã hội Do thái giáo thời Ðức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Người vợ là một thứ tài sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi ly dị vì một lý do cỏn con.

Trước câu hỏi: "Chồng có được rẫy vợ không? "Ðức Giêsu kiên quyết nói không. Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế. Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần. Lập trường của ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo của thời đó cũng như thời nay.

Ðiều này khiến các môn đệ của Ðức Giêsu có lần bị sốc.Họ nói: "nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn" (Mt 19, 10). Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ nếu muốn. Khi người Pharisêu trích sách Ðệ Nhị Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê, Ðức Giêsu lại trích sách Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng. Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Ðiều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.

Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời. Ðức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.

95

"Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp..."Vậy trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau. Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên. Còn cần một bên thứ ba là Thiên Chúa, Ðấng phối hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên chồng. Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới, và tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người muốn bỏ cuộc.

Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ dàng. Khi thịnh vượng, lúc gian nan; khi bệnh tật, lúc mạnh khỏe. Còn nhiều tình huống khác đe dọa hôn nhân: khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá nặng, khi đời sống vợ chồng trở thành như hỏa ngục... Những khi ấy, yêu thương và kính trọng nhau thật khó. Con người bị cám dỗ tìm giải pháp chia tay.

Chúng ta cầu cho những ai đã và sẽ kết hôn. Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một chút khiêm tốn, bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ, bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ... Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.  GỢI Ý CHIA SẺ:Ðâu là những hậu quả của việc ly dị? Việc ly dị ảnh hưởng thế nào trên xã hội và Giáo hội?Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến việc vợ chồng chia tay nhau? LƠ I NGUYÊN:

96

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.

Manna 

HÃY SỐNG KHĂNG KHÍTSt. 2,18-24; Dt 2,9-11; Mc 10,2-16

Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm 

97

PHÚC ÂM: Mc 10, 2-12"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình". Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng. 

SUY NIỆM:

98

Trong các Chúa nhật thường niên, phụng vụ thường đọc cho chúng ta nghe một cách liên tiếp các đoạn chính yếu trong một sách Tin Mừng. Năm nay, chúng ta đọc sách Tin Mừng theo thánh Marcô, và lần trước chúng ta đã đọc xong chương 9 thì hôm nay chúng ta bắt đầu nghe sang chương 10, mà chúng ta sẽ đọc tiếp trong các Chúa nhật sau.

Rồi để làm sáng tỏ bài Tin Mừng, phụng vụ chọn một đoạn Cựu Ước có khả năng hướng lòng chúng ta về mạc khải của Ðức Giêsu để chúng ta thấy chính Người đã đến không phải để xóa bỏ nhưng để kiện toàn và hoàn tất luật cũ hay đạo cũ và mọi lời tiên tri trong Cựu Ước. Chẳng hạn hôm nay bài sách Khởi nguyên đã được chọn vì bài Tin Mừng. Ðức Giêsu đã gợi lại một câu trong sách Khởi nguyên, thì phụng vụ đọc cho chúng ta nghe chính đoạn sách ấy để giúp chúng ta dễ hiểu lời Tin Mừng hơn. Ðồng thời chúng ta cũng sẽ thấy chính Ðức Giêsu sẽ làm cho bài sách Khởi nguyên thêm giá trị.

Cuối cùng bài Thánh Thư được chọn để dạy chúng ta biết sống đạo một cách cụ thể, theo như các tông đồ đã chỉ bảo cho giáo dân của các ngài. Không tất nhiên tư tưởng bài Thánh Thư phải ăn khớp với bài Tin Mừng. Phụng vụ thường chỉ muốn đọc cho chúng ta nghe hết thư này sang thư khác. Chẳng hạn lần trước chúng ta đã đọc hết thư Giacôbê, thì kể từ Chúa nhật này và liên tiếp trong nhiều Chúa nhật thường niên sau này chúng ta được nghe đọc thư Hipri, nói rằng của thánh Phaolô nhưng có lẽ chỉ là của một tác giả hoặc môn đệ thân cận của ngài và thấm nhiễm tinh thần của ngài. Ðoạn thư trích hôm nay không liên ý trực tiếp với giáo huấn của bài Tin Mừng và bài sách Khởi

99

nguyên. Nhưng tuy nói về những vấn đề khác nhau, cả ba bài Kinh Thánh vẫn bổ túc làm cho huấn giáo của Chúa nhật này thêm phong phú.

Chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng và bài sách Khởi nguyên nói đến nỗi an ủi mật thiết trong tương quan giữa người nam và người nữ. Nhưng sánh sao được với niềm an ủi và thắm thiết giữa Ðức Kitô và môn đệ Người, mà thư Do-thái hôm nay gợi lên? Chúng ta hãy lần lượt đọc lại những bài Thánh Kinh ấy. 1. Nam Nữ La MộtBài sách Khởi nguyên hôm nay là một trong những bản văn rất quý hóa trong kho tàng tư tưởng của loài người. Người ta chỉ có thể chê khi đọc hời hợt và tưởng rằng bản văn đó mới được viết ngày hôm qua, ở giữa thời đại khoa học này. Ngược lại, nếu nhớ rằng nó đã khai sinh cách đây vào khoảng ba nghìn năm và do một ngọn bút ở một dân tộc ít văn hóa, người ta sẽ phải kinh ngạc và tự hỏi làm sao tác giả có thể viết ra những tư tưởng thâm thúy như vậy. Có cả một kho tàng khôn ngoan, tâm lý và sáng suốt trong những lời văn này.

Con người được mô tả như là một hữu thể cần hiệp thông và thông cảm. Nó không thể sống cô đơn cho dù đang ở giữa một cảnh bồng lai tiên cảnh như nơi địa đàng. Nó cũng không thể thỏa mãn với sự bầu bạn của mọi thứ động vật. Tác giả thật khéo ám chỉ loài người và loài vật cũng chỉ là một giống động vật khi ông nói Adong nhìn các giống vật và thấy chúng đều là "sinh vật", nghĩa là cũng giống như ông là loài có sinh khí. Tuy nhiên lập tức ông cũng nhận ngay ra địa

100

vị "linh ư vạn vật của mình" khi tác giả viết: Adong đặt tên cho từng loài, để tỏ ra địa vị ưu việt của ông... "Nhưng con người vẫn không gặp được sự trợ giúp nào tương đối". Adong chưa tìm được vật nào giống như mình để cảm thông và làm đầy đời sống cho mình. Nói cách khác, ông cảm thấy chưa đầy đủ dù có cả vũ trụ và vạn vật ở dưới quyền. Ông muốn và cần có một ai như mình nhưng lại khác mình và bổ khuyết cho mình.

Thượng đế đã can thiệp. Thiên Chúa không để con người cô đơn. Tác giả sách Thánh dùng hình ảnh bình dân để diễn tả sự can thiệp này. Đức Chúa đưa Adong vào một giấc hôn mê, Người rút một xương sườn của ông, lắp thịt vào, làm ra người nữ và đem giới thiệu với ông. Vừa nhìn thấy, Adong đã kêu lên: phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi, nàng là Ishsha: (đàn bà) vì đã được rút ra từ Ish: (đàn ông).

Rõ ràng tác giả đã xây dựng hình ảnh từ "nguyên tự" và từ quan niệm bình dân lấy sự giống nhau về xương thịt để nói lên sự giống nhau về bản chất. Tức là tác giả muốn khẳng định đàn bà cũng là "người" như đàn ông và giữa nam nữ có một sự mật thiết bù đắp cho nhau. Tư tưởng của ông tiến bộ hơn người đồng thời rất xa, vì sau ông nhiều thế kỷ, ở nhiều nơi người ta vẫn chưa nhìn nhận sự bình đẳng và đồng loại giữa nam và nữ. Và với câu sau, "người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắng khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác", ông làm cho độc giả thấy tình gia đình phu phụ keo sơn đến mức nào.

101

Dù sao cách nói của ông vẫn có nhiều hình ảnh và có thể làm người ít học lấy hình ảnh làm thực tại. Họ đâu có biết sách Khởi nguyên ở đoạn trước đã viết về nam nữ như sau: "Thiên Chúa đã dựng nên loài người theo hình ảnh mình. Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng". Vậy, điều mà ở đây tác giả nói một cách đơn sơ, tổng hợp nhưng vẫn đề cao sự bình đẳng và đồng loại giữa nam và nữ, thì ở chương sau ông đã dùng hình ảnh để nói lên một cách dễ hiểu hơn. Chúng ta quý cả hai lối trình bày và sung sướng được nghe nói đến những nét thâm thúy nơi con người. Tuy nhiên ở đây phụng vụ không muốn lưu ý chúng ta về việc nam nữ đồng loại và bình đẳng cho bằng việc họ thu hút nhau, bù đắp cho nhau và khắng khít với nhau, để dẫn chúng ta sang bài Tin Mừng. 2. Không Ðược Ly DịChúng ta không hiểu rõ hoàn cảnh vì sao các Biệt phái lại chọn vấn đề rẫy vợ để thử Ðức Giêsu. Họ muốn thử gì? Ðể xem ý kiến của Người về vấn đề ly dị ư? Không chắc ở thời đó vấn đề có sôi bỏng như ở thời ta không, cho dù luật Rôma bấy giờ cũng cho ly dị và tâm tư đạo đức của người Dothái có vẻ không rõ ràng. Ðúng hơn, họ muốn gài bẫy Người, để xem Người có kính trọng luật Môsê không? Nhưng luật này nói thế nào? Họ chỉ có thể trích được một câu trong sách Thứ luật (24,1) cấm lấy lại một người đàn bà đã bị rẫy và nói đến việc viết ly thư, chớ không có chỗ luật nào nói rõ về việc được phép ly dị... Chính các Biệt phái cũng phải nhận rằng Môsê chỉ cho phép viết ly thư chứ không ra lệnh phải làm việc này. Dựa vào chỗ đó, Ðức Giêsu làm cho họ hiểu rằng: vì lòng dạ lì lợm của họ mà Môsê đã phải cho phép như vậy. Ðó là một nhượng bộ bất

102

đắc dĩ, không thể kéo dài mãi mãi. Nước Thiên Chúa đã đến rồi; con người phải dùng sức mạnh mà vào; người ta phải trở về với Thiên Chúa và lệnh truyền của Người. Thế mà từ nguyên thủy nam nữ đã khắng khít với nhau và đàn ông đã bỏ cả cha mẹ mình để nên một thân thịt với bạn mình. Ðức Giêsu giải thích việc đó là ý của Thiên Chúa muốn phối hợp hai người lại với nhau, và không ai được phép phân ly nữa. Về nhà, Người còn dạy rõ: không ai được rẫy vợ mình để cưới vợ khác. Ai làm như vậy sẽ phạm tội ngoại tình.

Thánh Marcô không nói đến phản ứng của Biệt phái khi nghe Ðức Giêsu trả lời, vì đứng về quan điểm luật họ còn biết nói gì nữa? Nhưng đối với con người thời nay, có lẽ phán quyết của Người còn cần được tìm hiểu thêm. Người ta có thể đưa ra ý kiến này, ý kiến khác về vấn đề ly dị. Phụng vụ hôm nay chỉ xin chúng ta suy nghĩ về bài sách Khởi nguyên và đoạn Phúc Âm hôm nay để thấy việc vợ chồng khắng khít với nhau là một cái gì nằm sâu trong bản chất nam nữ mà Thiên Chúa đã dựng nên từ nguyên thủy. Ðó là ý muốn của tạo hóa và của bản tính con người. Nếu điều này có lúc khó chấp nhận, thì chúng ta hãy đọc tiếp đoạn Phúc Âm trên.

Thánh Marcô nói đến việc Ðức Giêsu yêu quý trẻ nhỏ và dạy chúng ta phải đón lấy Nước Trời như một trẻ nhỏ. Câu nói này có thể có hai nghĩa. Hoặc là người ta phải đơn sơ như trẻ nhỏ khi đón nhận Nước Trời, không xét nét, không do dự vì trẻ nhỏ cho gì chúng cũng lấy. Hoặc là người ta phải coi Nước Trời như hồng ân tốt đẹp, tinh sạch mà người ta phải đón lấy như đón một trẻ nhỏ. Bất cứ hiểu theo nghĩa nào, người ta cũng có thể dùng Lời Chúa nói đây để giúp mình

103

chấp nhận luật không ly dị nói trên, vì rõ ràng đấy là ý Chúa, là Nước Trời đến với chúng ta mà chúng ta phải đón lấy như trẻ nhỏ. Chúng ta cũng có thể dùng bài Thánh Thư để khuyến khích mình thêm vì tác giả thư Do-thái, tuy nói đến một vấn đề khác, nhưng cũng sẽ chỉ muốn chúng ta bắt chước Chúa mà có tinh thần hòa hợp. 3. Hãy Sống Khắng KhítTác giả nhắc lại việc Ðức Giêsu đã ngang qua thống khổ tử nạn mà được vinh quang huy hoàng. Trong chốc lát và theo một diện nào đó Người đã tỏ ra như thua các Thiên Thần vì hình dạng khổ nạn của Người. Nhưng đó là ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Người muốn Ðức Kitô phải chịu khổ đau như vậy để kiện toàn bản chất con người chúng ta. Người muốn hướng dẫn số đông nhân loại lên phúc vinh quang nên đã dùng thống khổ hạ Ðức Kitô xuống thân phận tôi đòi tội lỗi như mọi người để khi Người được triều thiên ban tặng thì cả nhân loại được chia phần vinh quang của Người.

Như vậy, ở đây tác giả thư Do-thái đã nhấn mạnh đến sự khắng khít giữa Ðức Kitô và loài người trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Có thể nói vì muốn được loan báo Danh Chúa cho anh em và ngợi khen Thiên Chúa giữa cộng thể loài người mà Ðức Kitô đã phải đồng hóa và nên một với loài người trong đau khổ. Người không để lại cho chúng ta một tấm gương khắng khít hòa hợp và hiệp nhất sao? Người đang kêu gọi chúng ta không những kết hiệp bất khả phân ly với Người mà còn với nhau nữa. Người đang khuyến khích riêng các gia đình đang gặp khó khăn đó.

104

Mầu nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này. Ðức Kitô chấp nhận sự chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng; như vậy đạo tốt sẽ làm đẹp đời. Và chúng ta sẽ thấy đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa.

Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm 

105