52
Câu 1 : Quan điểm CT - XH của Nho gia ở Trung Hoa cổ đại. Sự khác nhau trong đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia. 1. Quan điểm CT - XH của Nho gia ở Trung Hoa cổ đại Nho gia là một trong những trường phái triết học chính của Trung Hoa cổ đại. Phái Nho gia được Khổng Tử sáng lập, Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm và Tuân Tử phát triển về phía duy vật. Quan điểm CT - XH của Khổng Tử: Khổng Tử là người sáng lập ra đạo Nho, ông được phong là “Chí thánh tiên sư, Vạn thế sư biểu”, nghĩa là thầy, thánh của muôn đời, muôn nhà. Khổng Tử coi XH là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, trong đó có các quan hệ như: Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ, Anh-em, Bạn bè. Năm mối quan hệ này về sau được phái Nho gia gọi là Ngũ luân, trong đó 3 mối quan hệ Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ là những mối quan hệ cơ bản nhất và được gọi là Tam cương. Những phạm trù cơ bản trong thuyết Chính trị - Đạo đức của Khổng Tử là Nhân, Lễ, Nghĩa và Chính danh: Nhân: là lòng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hoàn toàn. Trung và Thứ là hai khía cạnh của Nhân: Trung là tính ngay thẳng với người, điều mình muốn thì hãy làm cho người; Thứ là lòng vị tha, điều mình không muốn thì đừng làm cho người. Nhân có tính đẳng cấp thể hiện trong các mối quan hệ cụ thể vua- tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn bè: “Quân nhân, thần trung, phụ tử, tử hiếu”, “vua lấy lễ khiến bề tôi, bề tôi lấy trung mà thờ”. Trong đạo nhân, hiếu là gốc - hiếu không chỉ thể hiện ở việc phụng dưỡng cha mẹ mà quan trọng nhất là lòng thành kính. Khổng Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật”. Lễ: là hình thức thể hiện lòng nhân. Lễ bao gồm mối quan hệ rộng lớn, từ quan hệ thần linh đến quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo dức, phong tục, tập quán, quan hệ nhà nước, luật pháp… Lễ trong quan niệm của Khổng Tử là: Trật tự, kỷ cương và pháp luật của XH. Nguyên tắc đạo đức phải tuân theo. Nghi thức, nghi lễ trong quan hệ XH, nhất là trong Tam cương. Khổng Tử nói: “Không biết lễ thì không đứng vững, người quân tử không bao giờ làm trái với lễ. Cái gì (điều gì) trái với lễ thì không nhìn, không nghe, không nói, không làm”. Nghĩa: là hành vi đạo đức thể hiện đức nhân. Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi ích của mình vì người khác. Nghĩa và lợi -1-

Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 1: Quan điểm CT - XH của Nho gia ở Trung Hoa cổ đại. Sự khác nhau trong đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia.1. Quan điểm CT - XH của Nho gia ở Trung Hoa cổ đại

Nho gia là một trong những trường phái triết học chính của Trung Hoa cổ đại. Phái Nho gia được Khổng Tử sáng lập, Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm và Tuân Tử phát triển về phía duy vật. Quan điểm CT - XH của Khổng Tử:

Khổng Tử là người sáng lập ra đạo Nho, ông được phong là “Chí thánh tiên sư, Vạn thế sư biểu”, nghĩa là thầy, thánh của muôn đời, muôn nhà.

Khổng Tử coi XH là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, trong đó có các quan hệ như: Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ, Anh-em, Bạn bè. Năm mối quan hệ này về sau được phái Nho gia gọi là Ngũ luân, trong đó 3 mối quan hệ Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ là những mối quan hệ cơ bản nhất và được gọi là Tam cương.

Những phạm trù cơ bản trong thuyết Chính trị - Đạo đức của Khổng Tử là Nhân, Lễ, Nghĩa và Chính danh:

Nhân: là lòng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hoàn toàn. Trung và Thứ là hai khía cạnh của Nhân: Trung là tính ngay thẳng với người, điều mình muốn thì hãy làm cho người; Thứ là lòng vị tha, điều mình không muốn thì đừng làm cho người. Nhân có tính đẳng cấp thể hiện trong các mối quan hệ cụ thể vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn bè: “Quân nhân, thần trung, phụ tử, tử hiếu”, “vua lấy lễ khiến bề tôi, bề tôi lấy trung mà thờ”. Trong đạo nhân, hiếu là gốc - hiếu không chỉ thể hiện ở việc phụng dưỡng cha mẹ mà quan trọng nhất là lòng thành kính. Khổng Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật”.

Lễ: là hình thức thể hiện lòng nhân. Lễ bao gồm mối quan hệ rộng lớn, từ quan hệ thần linh đến quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo dức, phong tục, tập quán, quan hệ nhà nước, luật pháp… Lễ trong quan niệm của Khổng Tử là:

Trật tự, kỷ cương và pháp luật của XH. Nguyên tắc đạo đức phải tuân theo. Nghi thức, nghi lễ trong quan hệ XH, nhất là trong Tam cương.Khổng Tử nói: “Không biết lễ thì không đứng vững, người quân tử không bao giờ làm trái

với lễ. Cái gì (điều gì) trái với lễ thì không nhìn, không nghe, không nói, không làm”. Nghĩa: là hành vi đạo đức thể hiện đức nhân. Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi ích của

mình vì người khác. Nghĩa và lợi không thể dung hợp với nhau. Khổng Tử nói: “Quân tử biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết rõ về lợi”.

Chính danh: Khổng Tử chủ trương thuyết chính danh để giải quyết đúng đắn các mối quan hệ. Chính danh trong quan niệm của ông gồm các nội dung sau:

Muốn cho XH thái bình, thịnh trị thì yêu cầu phải bố trí người ở cương vị phù hợp với năng lực, người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó, phải làm đúng danh phận, chức trách của mình “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Nói và làm không được vượt chính danh: “Không phải lễ thì không nói, không phải lễ thì không làm, không phải lễ thì không nghe”.

Khổng Tử đề cao người hiền tài với tư tưởng Thượng hiền và khuyên các nhà cai trị nên sử dụng người hiền tài quản lý đất nước và loại bỏ dần những kẻ bất tài trong bộ máy cai trị.

Phải thực hiện ba điều: thực túc, binh cường, dân tín. Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng chăm lo nhân dân. Đồng

thời ông khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui, nghèo không oán trách.(hạn chế) Quan điểm CT - XH của Mạnh Tử:

Tư tưởng về CT - XH của Mạnh Tử thể hiện ở triết lý nhân sinh (triết lý về cuộc đời) mà trung tâm là học thuyết về tính thiện. Ông nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tính thiện của con người có ở 4 đức tính lớn vốn có bẩm sinh, đó là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí và chúng bắt nguồn từ tứ đoan:

-1-

Page 2: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Ai sinh ra cũng có lòng thương xót nên phải lấy Nhân mà cảm hoá. Ai sinh ra cũng có lòng ghen ghét nên phải lấy Nghĩa mà điều chỉnh. Ai sinh ra cũng cung kính nên phải lấy Lễ mà giáo hoá. Ai sinh ra cũng biết phải trái nên phải lấy Trí mà phân biệt đúng sai.Tính thiện làm cho con người ta khác loài cầm thú nên đã sinh ra người thì phải biết nuôi

dưỡng Thiện đoan. Tính thiện của con người vốn bắt nguồn từ cái tâm do trời phú để cho con người ta biết suy nghĩ, phân biệt phải trái đúng sai để ứng xử với con người và vạn vật.

Dựa trên thuyết tính thiện và tư tưởng đức trị của Khổng Tử, Mạnh Tử đưa ra thuyết “Nhân chính”, tức là cái trị là chính, phải vì nhân chứ không phải vì lợi. Chủ trương của thuyết này là lấy đức để thu phục lòng người, phản đối việc cai trị bằng bạo lực. Ông phân biệt “vương chính” - cai trị bằng nhân nghĩa với “bá chính” - cai trị bằng bạo lực. Theo ông lấy đức mà thu phục lòng người thì người ta vui lòng theo mình một cách thành thực.

Trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chủ trương nhân chính, Mạnh Tử đã đề ra một quan điểm rất độc đáo đó là dân bản. Ông coi dân là quan trọng nhất, kế đến là giang sơn xã tắc, vua là thường thôi “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Và ông giải thích là có dân mới lập nên nước, có nước mới lập nên vua, chứ vua không thể sinh ra dân. Quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn trọng lẫn nhau. Nếu vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi sẽ coi vua như kẻ thù. Nếu vua không có đạo đức thì không còn xứng đáng làm vua nữa mà chỉ là “một thằng” thôi và nhân dân có quyền đạo đức để lật đổ ngôi vua.

Thời Mạnh Tử, chế độ công hữu tan rã, chế độ tư hữu ra đời. Mạnh Tử chủ trương chế độ “Bảo dân”, tức là lo cho dân đủ mọi điều để cho dân vững tin sản xuất. Ông chủ trương giảm hình phạt, bớt thuế má nhằm tạo cho người dân có một sản nghiệp để phụng dưỡng bố mẹ và nuôi nấng vợ con để cho: “Năm được mùa thì no đủ, năm mất mùa thì không bị đói”. Cơ sở của tư tưởng này là: “Có hằng sản mới có hằng tâm”.

Tóm lại, triết học của Mạnh Tử tuy còn mang yếu tố duy tâm và thần bí (hạn chế) nhưng trong học thuyết về CT-XH với tư tưởng “nhân chính”, “bảo dân” có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử XH. Vì thế, Mạnh Tử xứng đáng được hậu thế phong là bậc Á thánh.

Quan điểm CT - XH của Tuân Tử:Tuân Tử là người phát triển học thuyết của Khổng Tử, đề cao nhân, nghĩa, lễ nhạc và chính

danh. Tuy nhiên, ông phản đối quan niệm của Khổng Tử và Mạnh Tử về những vấn đề chính trị và đạo đức. Tuân Tử đứng trên quan điểm duy vật và vô thần (tích cực), ông cho rằng tự nhiên gồm 3 bộ phận: trời, đất và người. Trời chỉ là một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành và biến hoá của vạn vật. Như vậy, trời không quyết định vận mệnh của con người. Việc trị hay loạn, lành hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời. Nếu con người hành động thuận với lẽ tự nhiên thì lành, trái lại sẽ gặp loạn “Lấy sự trị mà đối phó với đạo thì lành, lấy sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”.

Không chỉ hành động phù hợp với tự nhiên mà con người có thể cải tạo tự nhiên và XH để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông phê phán mê tín dị đoan, việc tôn thờ trời, ỷ lại trời, khuyên con người nên tin ở sức mình, ra sức phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, ăn ở điều độ, giữ gìn sức khoẻ thì trời sẽ không để cho nghèo khó và bệnh tật.

Ông chủ trương sửa trị việc nước, giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho XH tiến bộ, văn minh hơn. Đó là chức năng của người có thể sánh ngang với trời vậy. Ông đề cao “lễ trị”, ông cho rằng lễ nghĩa và đẳng cấp trong XH là cần thiết để duy trì trật tự XH.

2. Sự khác nhau trong đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia

-2-

Page 3: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Nho gia:a. Người sáng lập: Khổng Tử Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm, Tuân Tử phát

triển về phía duy vật. b. Đường lối chính trị: “đức trị” hay “nhân trị”

- Coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh.- Khổng Tử coi XH là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, đó là Ngũ luân và Tam cương.- Các phạm trù cơ bản trong học thuyết của Khổng Tử là Nhân-Nghĩa-Lễ-Chính danh:+ Nhân: lòng thương người có tính đẳng cấp thể hiện trong các mối quan hệ.+ Nghĩa: là hành vi đạo đức biểu hiện của đức nhân.+ Lễ: là hình thức thể hiện lòng nhân.+ Chính danh: là điều cơ bản để trị nước. Nó có nghĩa là người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó, phái làm đúng danh phận, chức trách của mình.

- Đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hòa mâu thuẫn giai cấp, phản đối đấu tranh. Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng, chăm lo cho nhân dân. Đồng thời, ông cũng khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui, nghèo mà không oán trách. Ông coi việc oán trách cảnh nghèo hèn, ưa dùng bạo lực, là mầm mống của loạn..

Đạo gia:a. Người sáng lập: Lão Tử sáng lập và Trang Tử phát triển, hoàn thiện.b. Đường lối chính trị: sử dụng học thuyết “vô vi”, có nghĩa là sống, hoạt động theo lẽ tự

nhiên, thần phái, không làm trái với tự nhiên, không can thiệp vào trật tự của tự nhiên, chỉ làm cho dân no bụng, xương cốt mạnh mà lòng hư tĩnh, khiến cho dân không biết, không muốn.- Không dùng luật pháp, không cần giáo dục nhân, lễ, nghĩa, trí. “Theo chính sách vô vi thì mọi việc đều trị”. Lão Tử cho rằng: Lễ là biểu hiện sự suy vi của trung hậu, thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí để tính toán trước thì chỉ cái loè loẹt của đạo, mà là nguồn gốc của sự ngu muội. Dân sở dĩ khó trị là vì nhiều mưu trí, cho nên dùng trí mưu trị nước là cái hoạ cho nước, không dùng mưu trí để trị nước là cái phúc cho nước.- Lão Tử chủ trương bỏ nghệ thuật vì ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt, ngũ âm làm cho người ta ù tai, ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruỗi ngựa săn bắn làm cho người ta mê loạn, vàng bạc châu báu làm cho người ta đồi bại. Cho nên Thánh nhân chỉ cần no bụng mà không cần vui mắt.- Lão Tử chủ trương hạn chế quyền lực của Nhà nước và hoạt động của dân đến mức tối đa, để cho dân sống chất phác thời nguyên thủy, duy trì tình trạng nước nhỏ, dân ít, quay lại thời kỳ cổ xưa thắt nút ghi dấu. Ông nói: “Nước nhỏ, dân ít, không ai đi xa, có gươm gao không dùng, bỏ văn tự, sống lại thời kỳ thắt nút ghi dấu, hai nước ở cạnh nhau không nghe thấy tiếng gà gáy, cho sủa và ngàn đòi không qua lại”.Pháp gia:

a. Người sáng lập: Quản Trọng là người đầu tiên bàn đến pháp luật như là phương pháp trị quốc. Thận Đáo, Thân Bất Hại chủ trương pháp trị. Được Hàn Phi phát triển lên đỉnh cao trên cơ sở tổng hợp những yếu tố hợp lý trong 3 học thuyết Nho gia, Đạo gia và Pháp gia.

b. Đường lối chính trị: Hàn Phi chủ trương đường lối “pháp trị”. Để cai trị XH cần phải có 3 yếu tố là Pháp, Thuật và Thế:- Pháp là pháp luật, được công bố cho mọi người biết, để tuân theo và phải thay đổi cho phù hợp với tình hình cụ thể vì không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng với mọi thời đại (lý luận “Tham nghiệm”). Pháp luật mà biến chuyển được theo với thời đại thì thiên hạ sẽ trị… Thời thế thay đổi mà phép trị dâ không thay đổi thì loạn. Phải căn cứ vào tâm lý “tránh bại” và “cầu lợi” của con người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự XH.- Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu.- Thuật là phương pháp mưu trí, thủ đoạn trong việc trị dân.Nếu pháp được công bố rộng rãi thì thuật là cơ trí, thủ đoạn ngấm ngầm của vua, không để ai biết. (Thuật của Pháp gia có kế thừa yếu tố Chính danh của Nho gia).

-3-

Page 4: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 2: Bản thể luận và nhân sinh quan của Phật giáo Ấn Độ cổ đạiPhật giáo là một trường phái Triết học Tôn giáo, thuộc trường phái phi chính

thống, xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, ở phía Bắc Ấn Độ, nay giáp biên giới Nêpan. Phật giáo ra đời trong làn sóng đấu tranh chống lại sự thống trị của Đạo Balamôn, chống phân biệt đẳng cấp và đòi bình đẳng XH.

Người sáng lập ra đạo Phật là Thích ca Mâu ni, tên thật là Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn. Năm 29 tuổi, Tất Đạt Đa xuất gia để tìm con đường diệt trừ nỗi khổ của chúng sinh. Sau 6 năm tu luyện, ông đã tìm ra chân lý “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”. Ông trở thành Phật Thích ca Mâu ni khi vừa tròn 35 tuổi. Bản thể luận: Bản thể luận của Phật giáo được thể hiện toàn bộ trong đạo lý duyên khởi, thể hiện trong 4 nguyên lý:

Vô tạo giả: Phật giáo là trường phái triết học vô thần không triệt để, đạo Phật cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung, vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hoá vô thường, vô định, không do một vị thần nào sáng tạo nên cả. Phật giáo cho rằng thế giới tồn tại khách quan, không do thần thánh sáng tạo ra. Trong vô tạo giả, mỗi sự vật hiện tượng khách quan được Phật gọi là một pháp.

Vô ngã: Phật giáo không thừa nhận Brahman - sáng tạo thế giới và atman - linh hồn bất tử. Vô ngã nghĩa là không có cái tôi vì “ngã” là cái tôi, sự vật hiện tượng xung quanh ta và chính bản thân ta là không có thật mà nó được tạo thành từ các yếu tố mà Phật gọi là Danh và Sắc. Danh là tinh thần, Sắc là vật chất. Thế giới do các yếu tố vật chất và tinh thần kết hợp lại với nhau tạo nên.

Danh là bốn yếu tố chỉ có tên gọi mà không có hình chất, bao gồm: Thụ (cảm thụ về khổ hay lạc đưa đến sự lãnh hội với bản thân hay tâm), Tưởng (là suy nghĩ, tư tưởng), Hành (ý muốn thúc đẩy hành động, tạo tác), Thức (nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý, phân biệt ta là ta).

Sắc là vật chất, bao gồm một yếu tố không có hình thù là Không và bốn yếu tố có hình thù là Địa, Thủy, Hỏa và Phong (Đất, Nước, Lửa và Gió).

Sắc kết hợp với bốn yếu tố của Danh (Thụ, Tưởng, Hành, Thức) tạo thành “Ngũ uẩn”. Có lúc Danh kết hợp với năm yếu tố của Sắc (Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không) tạo thành “Lục đại”. Các yếu tố Ngũ uẩn và Lục đại hòa trộn với nhau tạo nên sự phong phú và đa dạng của thế giới và thế giới ấy chuyển biến không ngừng, bác bỏ sự tồn tại của Brahman.

Vô thường: Phật khẳng định rằng thế giới khách quan không có gì là vĩnh hằng, bất biến mà cái gì cũng có quá trình sinh thành, biến đổi và tiêu vong theo luật Nhân - quả mà Phật gọi là Sinh, Trụ, Dị, Diệt (hay Thành, Trụ, Hoại, Không). Từ sự vật nhỏ nhất cho đến vũ trụ đều tuân thủ luật trên.

Nhân quả tương tục: Phật khẳng định rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng trên đời đều có nguyên nhân của nó. Nhân kết hợp với duyên thì sinh ra quả, quả lại kết hợp với duyên lại biến thành nhân và sinh ra quả khác. Nhân và quả tạo thành một chuỗi không ngừng nghỉ, Phật gọi là “Nhân quả tương tục vô gián đoạn” và “Nhân quả tương tục vô tạp loạn”. Phật đưa ra khái niệm duyên là sự thống nhất giữa nhân và quả.

Tóm lại, bản thể luận Phật giáo thể hiện lập trường vô thần, chống lại Brahman và không thừa nhận atman, thể hiện tư tưởng biện chứng, thừa nhận có sự vận động tuyệt đối. Nhưng hạn chế của bản thể luận khi cho rằng tất cả đều vô thường, vô ngã, sinh-trụ-dị-diệt và không thấy được sự đứng yên tương đối của các sự vật hiện tượng. Nhân sinh quan: Phật giáo tuy bác bỏ Brahman và atman nhưng lại kế thừa thuyết luân hồi, nghiệp báo trong đạo Balamôn. Thích ca Mâu ni đã đưa ra thuyết “Tứ

-1-

Page 5: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên” để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây là tư tưởng triết lý nhân sinh quan chủ yếu của đạo Phật. “Tứ diệu đế” là bốn chân lý vĩnh hằng, thiêng liêng, cao cả, đúng đắn gồm có: Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo đế.

Khổ đế: Phật cho rằng đời là bể khổ. Phật dạy “Nước mắt của chúng sinh nhiều như nước biển cả. Ta chỉ dạy các con một điều là khổ và diệt khổ”. Các nỗi khổ của con người thể hiện trong Bát khổ, đó là:

Sinh khổ Lão khổ Bệnh khổ Tử khổ Thụ biệt ly khổ (yêu nhau mà phải xa nhau thì khổ) Oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải ở với nhau thì khổ) Sở cầu bất đắc khổ (mong muốn mà không đạt được thì khổ) Ngũ thủ uẩn khổ (nỗi khổ do năm giác quan sinh ra)Tám nỗi khổ trên quy định cuộc đời của con người và ai cũng phải nếm trải. Nhân đế (Tập đế): Phật giáo giải thích nguyên nhân mọi nỗi khổ của con người.

Phật khẳng định rằng tất cả mọi nỗi khổ của con người đều có nguyên nhân của nó. Các nguyên nhân của nỗi khổ được thể hiện qua “Thập nhị nhân duyên” (12 nỗi khổ của con người). Phật khẳng định rằng “Sự vật hiện tượng bên ngoài kể cả thân xác con người không có gì là vĩnh hằng, bất biến. Thế mà lòng người lại tham (tham lam), sân (giận dữ), si (ngu muội) muốn chiếm lấy, giữ lấy, lầm tưởng không đổi”. 12 nguyên nhân đó là:

Vô minh (không sáng suốt) Hành (do không sáng suốt dẫn đến tâm dao dộng) Thức (do tâm dao động dẫn đến thúc đẩy hành động) Danh sắc (là sự phối hợp giữa các yếu tố Danh và Sắc sinh ra lục căn) Lục căn (sinh ra 6 cảm giác gồm nhãn [mắt], nhĩ [tai], tỵ [mũi], thiệt [lưỡi],

thân [da], ý căn). Lục nhập (do “lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra” sinh ra “sắc, thanh, hương, thiệt, thân, pháp” sinh ra nỗi khổ của con người)

Xúc (là cảm nhận được do con người tiếp xúc) Thụ (khổ thụ [đau đớn], xá thụ [tha thứ], lạc thụ [sung sướng]) Ái (là yêu thương, mong muốn) Thủ (là ham muốn chiếm lấy) Hữu (là có) Sinh (sinh ra đời) Lão tử (già rồi chết)12 nguyên nhân trên là nguồn gốc mọi nỗi khổ của con người. Trong 12 nguyên

nhân trên thì “vô minh” là nguyên nhân căn bản nhất. Diệt được vô minh là diệt được tham-sân-si.

Diệt đế: Phật nói khi con người ta tìm ra được nguyên nhân của nỗi khổ theo Thập nhị nhân duyên thì Phật khẳng định rằng con người có thể từ bỏ tận gốc mọi nỗi khổ và chỉ có như thế con người mới đến được cõi Niết bàn. Do vậy, Phật cho rằng cái khổ có thể tiêu diệt được.

Đạo đế: Phật nói chúng sinh có thể tiêu diệt được nỗi khổ nếu đi theo con đường “Bát chính đạo”, gồm có:

-2-

4 nỗi khổ này cuộc đời vốn có

Page 6: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Chính kiến (suy nghĩ đúng, hiểu biết đúng) Chính tư duy (suy nghĩ chân chính, bằng chính mình) Chính nghiệp (hành động chân chính, làm điều thiện) Chính ngữ (lời nói trung thực, thật thà, chân chính) Chính mệnh (mưu sinh đúng đắn, không tham lam) Chính tinh tiến (siêng năng, cần cù, chịu khó) Chính niệm (tâm niệm đúng đắn) Chính định (tập trung suy nghĩ một cách đúng đắn)Theo quan niệm của Phật giáo, người nào thực hiện được 8 điều trên thì tâm tư sẽ

được yên tĩnh, lòng dạ sẽ thanh thản và đạt được cảnh giới Niết bàn. Con đường giải thoát của Phật giáo mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt đẳng cấp, giới tính, trình độ học vấn, không lệ thuộc vào tín ngưỡng … Điều này mang tính nhân văn sâu sắc, vượt qua đẳng cấp khắc nghiệt vốn là truyền thống lâu đời trong Ấn Độ cổ đại. Vì vậy, Phật khuyên nhủ “Hãy tự cố gắng để tự mình giải thoát cho mình, hãy quay về với chính mình, con người đều là Phật cả đấy”. Nhận xét:

Ưu điểm: Là trường phái triết học vô thần mặc dù không triệt để,

có yếu tố duy vật biện chứng. Chống lại sự phân biệt đẳng cấp, chủ trương bình đẳng

xã hội. Triết lý của đạo Phật có ý nghĩa giáo dục rất lớn vì nó

khuyên con người khinh ghét những ham muốn dục vọng vật chất tầm thường. Triết lý của đạo Phật mang tính nhân đạo, thể hiện qua mục đích của Phật

giáo là tìm ra nguyên nhân nỗi khổ của con người và con đường giải thoát nỗi khổ đó.. Đạo Phật có tính nhân đạo cao bởi vì nó khuyên con người suy nghĩ và làm

điều thiện, tránh xa điều ác, thương yêu cứu giúp mọi người. Không dùng bạo lực trong quan hệ giữa các giáo phái khác nhau cũng như tôn giáo khác nhau.

Nhược điểm: Phật giáo là trường phái duy tâm chủ quan trong quan niệm về XH bởi vì

nó cho rằng nguyên nhân cơ bản của mọi nỗi khổ là do vô minh và ái dục mà không nhìn thấy nguyên nhân kinh tế của nỗi khổ đó. Phật giáo cho rằng sự sáng suốt, giác ngộ của con người là yếu tố quyết định sự giải thoát con người khỏi cái khổ.

Phật giáo chủ trương giải thoát con người bằng phép tu thân, tích đức tiêu cực, xa lánh cuộc đời mà không mang phong trào cách mạng XH, phủ nhận sự biến đổi cải tạo XH bằng thực tiễn cách mạng.

Phật giáo theo trường phái nhận thức luận duy tâm, nhận thức chỉ thực hiện bằng sự tu luyện, thiền định. Không thừa nhận vai trò của nhận thức cảm tính và tư duy cũng như via trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức.

Phật giáo cho rằng cuộc đời là giả, ảo, mọi ham muốn đời thường đều là tội lỗi. Tuy nhiên, Niết bàn - cái mà Phật cho là thực tại thì hóa ra chỉ là điều tưởng tượng thuần túy, không có gì làm bằng chứng.

-3-

Page 7: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 3: Những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Việt NamTriết học Việt nam chịu ảnh hưởng của các tư tưởng triết học trường phái Nho gia, Đạo gia và đặc biệt là

đạo Phật.1. Về bản thể luận:Chủ nghĩa duy tâm và tư tưởng tôn giáo là tư tưởng thống trị trong xã hội Việt Nam. Tư tưởng duy tâm

thể hiện ở việc vào số mệnh, nghiệp, kiếp; coi mệnh trời quyết định sự thành bại của con người: “Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”.

Bên cạnh tư tưởng mệnh trời cũng có tư tưởng đề cao vai trò con người hơn mệnh trời: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”.

Có quan điểm coi trọng thời, thế hơn mệnh.Các quan điểm duy vật lẻ tẻ, không thành hệ thống thường xuyên phản kháng lại quan điểm duy tâm:- Bác bỏ nguồn gốc thần thánh và vai trò quyết định của vua- Vạch trần thực chất của tệ mê tín bói toán- Vạch trần sự giả trá của thầy bói, địa lý2. Quan điểm chính trị-xã hội+ Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam + Yêu nước là phẩm chất cao quý nhất, đứng hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam.+ Yêu nước là trách nhiệm của mọi người không phân biệt đẳng cấp, giới tính. + Tôn kính, thờ cúng những người anh hùng dân tộc, những người có công dựng nước, xây dựng làng

xã ...+ Khinh ghét những kẻ phản quốc, như Lê Chiêu Thống, Trần ích Tắc+ Tư tưởng về độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia- Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, ngang hàng với Trung quốc. - Tư tưởng tự hào về nguồn gốc dân tộc (Huyền thoại ‘Con rồng, cháu tiên”)

- Chăm lo xây dựng nhà nước độc lập, luôn luôn giữ vững địa vị của một nhà nước độc lập - Giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, phong tục, tập quán, chống lại âm mưu đồng hóa của Trung quốc.

(Tư tưởng của Nguyễn Huệ, đánh cho dài tóc, đánh để răng đen).+ Vấn đề động lực và phương thức giành và bảo vệ độc lập dân tộc - Đại đoàn kết toàn dân tộc. Truyền thuyết “đồng bào” (cùng một bọc) nói lên tình đoàn kết dân tộc,

không phân biệt chủng tộc của tất cả các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.- Quan hệ vua-tôi, nhà nước và nhân dân: Vua tôi đồng lòng, quân dân hợp sức. Khoan thứ sức dân để

làm kế bền gốc sâu rễ (Trần Hưng Đạo) - Toàn dân kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn. Phát huy vai trò trò

của địa thế và các phương tiện đánh giặc, giữ nước.- Vừa đánh bại ý chí xâm lược, vừa mở đường cho giặc rút khỏi nước ta. Thực hiện đường lối ngoại giao

mềm dẽo, khôn khéo để giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.3. Quan niệm về đạo làm người + Chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam - Thương yêu, giúp đỡ mọi người. “Thương người như thể thương thân”. “Chị ngã em nâng”. “Miếng khi

đói gói khi no”. “Lá lành đùm lá rách”...- Tình thương yêu, gắn bó giữa các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.- Lòng nhân đạo khoan dung đối với những người lầm đường lạc lối đã ăn năn hối cải. Đối xử nhân đạo

với kẻ thù đã đầu hàng: “Đánh người chạy đi, không đánh người chạy lại”. - Lối sống nặng tình nghĩa, coi trọng đạo lý. Hiếu thảo với cha mẹ. Thờ cúng tổ tiên. Chăm sóc phần mộ

tổ tiên. Thương yêu con cháu, ít phân biệt nam nữ.- Giữ vững lối sống trong sạch: + Quan niệm về đạo làm người trong Nho gia, Đạo gia với những khái niệm “Tam cương”, “Ngũ luân”,

Ngũ thường”, “Nhân”.+ Quan niệm đạo đức Phật giáo với lòng “từ bi”, “cứu khổ, cứu nạn” ...cũng ảnh hưởng sâu đậm trong đời

sống tinh thần của người Việt NamTóm lại tư tưởng triết học Việt Nam là tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Tư

tưởng này thể hiện ở lòng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, xây dựng một nhà nước vững mạnh, chăm lo đời sống nhân dân. Tư tưởng này còn thể hiện ở lòng tự hào về nguồn gốc dân tộc, tự hào về truyền thống dân tộc, tôn kính những người anh hùng dân tộc, những người có công bảo vệ, xây dựng đất nước, quê hương, khinh ghét những kẻ phản quốc.

Ngoài ra, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, tư tưởng về đạo làm người, tư tưởng khoan dung với người lầm đường lạc lối và với kẻ thù đã chịu thất bại hoặc đầu hàng cũng góp phần làm nên tầm vóc vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

-1-

Page 8: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 4: Sự đối lập giữa quan điểm triết học của Democrit và Platon trong triết học Hy Lạp cổ đại (bản thể luận, nhận thức luận, quan điểm CT-XH) Về nguồn gốc của vũ trụ:

Democrit đứng trên lập trường duy vật vô thần, ông cho rằng khởi nguyên của thế giới là nguyên tử, là dạng vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa, nó là cơ sở của thế giới, của sự vật hiện tượng. Nguyên tử này không màu, không mùi, không vị, không nóng, không lạnh, nó không khác nhau về chất, nó chỉ khác nhau về hình dáng, về cấu tạo, về tư thế sắp xếp và các nguyên tử này luôn luôn vận động trong chân không. Các sự vật hiện tượng khác nhau là do sự liên kết giữa các nguyên tử có hình dáng khác nhau, tư thế khác nhau, cấu tạo khác nhau. Các nguyên tử vận động không ngừng và chính sự vận động của các nguyên tử, xô đẩy nhau tạo nên những nơi đậm đặc, những nơi lỏng lẻo. Những nguyên tử nào có hình dạng, khối lượng lớn thì lắng vào trong tạo nên chất rắn, còn những nguyên tử nào có hình dạng, khối lượng nhỏ thì bay ra ngoài tạo nên chất lỏng. Sự hình thành của vũ trụ là do sự vận động của nguyên tử mà ra.

Đối lập với Democrit, Platon đứng trên lập trường duy vật thần bí, ông khẳng định rằng bản nguyên của thế giới là “thế giới ý niệm”, thế giới ý niệm tồn tại một cách chân thật, đầy đủ và bất biến. Ông chia thế giới thành hai bộ phận là thế giới ý niệm và thế giới vật cẩn biết. Thế giới ý niệm là thế giới có trước và sinh ra thế giới vật cẩn biết. Thế giới vật cẩn biết là thế giới không chân thật, không đầy đủ, không bất biến, là thế giới có sau và là sản phẩm của thế giới ý niệm. Theo ông cái gì không biến đổi thì cái đó không tồn tại, cái gì chân thật, đầy đủ thì thế giới ý niệm tồn tại, thế giới vật cẩn biết là cái bóng của thế giới ý niệm.

Democrit phủ nhận cái ngẫu nhiên, cho rằng cái ngẫu nhiên không tồn tại, cho nên mọi cái đều sinh ra là tất yếu, không hề có tính ngẫu nhiên, ông thừa nhận mọi cái đều có nhân quả. Platon đưa ra thuyết mục đích luận cho rằng mọi vật được tạo ra như thế nào là phụ thuộc vào mục đích của thần thánh. Về nhận thức luận:

Democrit chia nhận thức thành hai dạng: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính là dạng nhận thức mờ tối, do giác quan đem lại. Nhận thức lý tính là dạng nhận thức thông qua những phán đoán logic, là dạng trí tuệ. Ông đã thấy được mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, giúp cho cảm tính nhận thức được lý tính, nếu chỉ dừng lại ở cảm tính thì con người không đạt được chân lý. Vì vây, muốn đạt đến chân lý thì phải bằng lý tính, nhờ có lý tính thì con người mới hiểu được nguyên tử tức là nguồn gốc của sự vật. Nhưng đứng trên cơ sở học thuyết ý niệm thì cho rằng nhận thức cảm tính, cảm giác không phải là nguồn gốc của tri thức chân thật. Kết quả của nhận thức cảm tính chỉ là dư luận, tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính.

Theo Platon ý niệm là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng, là cơ sở thống nhất của thế giới, là linh hồn của vũ trụ. Ý niệm thông qua các quan hệ toán học, biểu thị bằng con số, tạo nên sự vật cảm tính. Platon cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm có trước vật chất. Ông cho rằng nhận thức cảm tính chỉ là sự nhận thức cái bóng của ý niệm, chỉ cho ta những quan niệm, chứ không phải là tri thức chân thực. Chỉ có nhận thức lý tính, tức nhận thức khái niệm mới đạt đến tri thức chân thực. Về chính trị:

Democrit đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ, chống lại đường lối Platon. Tuy nhiên , ông vẫn coi chế độ nô lệ là hợp lý.

Trong khi đó Platon không coi người nô lệ là người mà họ chỉ là “động vật biết nói”, cho nên họ không có đời sống đạo đức, mà theo ông chỉ có những nhà triết học, các nhà thông thái thì mới có đạo đức cao cả, hướng vào ý niệm tối cao của cái thiện. Ông đưa ra học thuyết về một nhà nước lý tưởng, đó là nhà nước cộng hòa bao gồm 3 đẳng cấp: nhà triết học làm vua, vệ binh bảo vệ đất nước và người lao động sản xuất.

Tóm lại, Democrit với thành tựu triết học rực rỡ của mình đã đưa CNDV cổ đại Hy Lạp lên một tầm cao mới. Ông đã có những quan niệm đúng đắn về mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Ông là người đầu tiên đặt cơ sở lý luận cho CNDV vô thần vì thế hệ thống quan niệm duy vật của ông được coi là giá trị tinh thần kết tinh của thời đại ông và được gọi là đường lối Democrit, nó đối lập hoàn toàn với đường lối của Platon, là hệ thống triết học duy tâm.

-1-

Page 9: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 5: Quan điểm triết học của các nhà triết học Tây Âu Trung cổ (Về quan hệ giữa triết học và tôn giáo, về vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, con người và xã hội)

Xã hội Tây Âu từ thế kỷ IV - XV là xã hội phong kiến. Thiên chúa giáo trở thành tôn giáo chính thống và cùng với thế lực phong kiến trở thành lực lượng thống trị xã hội. Triết học trong thời kỳ này chịu sự chi phối và thống trị của tôn giáo và thần học. Triết học trở thành tôi tớ của tôn giáo.

Về quan hệ giữa triết học và tôn giáo các nhà triết học giai đoạn này đề cao vai trò niềm tin tôn giáo so với lý trí. Chẳng hạn Tômat Đacanh cho rằng đối tượng của triết học là chân lý của lý trí, đối tượng của thần học là chân lý của niềm tin và niềm tin cao hơn lý trí. Còn Đơnxcôt lại cho rằng đối tượng của thần học là thượng đế, đối tượng của triết học là tự nhiên. Vì vậy các nhà triết học thời kỳ này đã đưa thần học đặt niềm tin lên trên hết, đề cao niềm tin hơn lý trí và khoa học phải phục tùng tôn giáo.

Về bản thể luận các nhà triết học cho rằng Thượng đế sáng tạo ra thế giới và quyết định mọi trật tự trong tự nhiên và xã hội, là cơ sở của tri thức và đạo đức con người. Ôguytxtanh cho rằng toàn bộ thế giới do Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi Thượng đế. Thượng đế có sức mạnh vạn năng, quyền lực tuyệt đối. Tômat Đacanh cho rằng mọi trật tự trong tự nhiên, từ sự vật không có linh hồn đến con người rồi đến thần thánh và sau cùng là Chúa trời đều do Thượng đế sắp xếp. Mọi cái trong tự nhiên và xã hội đều có mục đích do Thượng đế an bày, mọi đẳng cấp trong xã hội đều do Thượng đế quy định.

Về nhận thức luận cho rằng nhận thức của con người là nhận thức Thượng đế và chân lý chỉ có thể đạt được bằng niềm tin tôn giáo. Cũng có một số nhà triết học có yếu tố duy vật như Tômat Đacanh chia nhận thức thành hai dạng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy nhiên ông cũng không dám công khai bác bỏ sự tồn tại của Thượng đế.

Về con người và xã hội theo quan điểm thần học các nhà triết học cho rằng con người là thực thể yếu đuối, do Thượng đế tạo ra và có tự do trong giới hạn tiền định của Thượng đế. Vì vậy cuộc sống trần gian là tạm bợ, tội lỗi chỉ có cuộc sống vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Mục đích của nó là để bảo vệ quyền lực tối cao của nhà thờ hay của nhà vua, giai cấp thống trị. Bởi vì nhà thờ là vương quốc của sự thành thiện, Thượng đế ban thưởng cho người này được sung sướng và bắt người kia phải chịu đọa đày khốn khổ. Người nghèo không nên yêu của cải, mà chỉ nên yêu Thượng đế vì cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ.

-1-

Page 10: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 6: Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật Tây Âu thế kỷ 17-181. Về bản thể luận: a. Quan điểm trước triết học Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII:Phật giáo: Cho rằng thế giới tồn tại khách quan không phụ thuộc vào thần thánh, không do thần thánh sáng tạo ra. Phật giáo không thừa nhận Brahma sáng tạo thế giới và atman – linh hồn bất tử. Khổng Tử: coi Trời đôi khi như là lực lượng tự nhiên, đôi khi lại như lực lượng siêu tự nhiên. Ông nói: “Sống chết do mệnh, giàu sang tại trời”, “đạo của ta thi hành ra được cũng do mệnh trời, mà bị phế vong cũng la do mệnh trời”. Hêraclit (546 – 480): Ông cho rằng bản nguyên của vũ trụ là lửa. Lửa tắt đi sinh ra vạn vật và vạn vật cháy lên thành lửa theo con đường chuyển hoá đi xuống và đi lên.Đêmôcrit (460 – 370): Ông cho rằng nguyên tử (atom) là cơ sở tạo nên vũ trụ. Nguyên tử: không phân chia được; đồng nhất về chất; khác nhau về hình dáng, kích thước, trật tự sắp xếp. Nguyên tử luôn vận động trong chân không (không gian). Vũ trụ hình thành do va chạm của nguyên tử trong cơn lốc nguyên tử. Platôn: Ông cho rằng thế giới ý niệm có trước sự vật cảm tính. Ý niệm tồn tại bất biến và chân thật. Sự vật cảm tính luôn thay đổi, chỉ là cái bóng của ý niệm nên không chân thật. (Học thuyết về ý niệm)Ôguytxtanh (354 – 430): Ông cho rằng toàn bộ thế giới do Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi Thượng đế. Thượng đế có sức mạnh vạn năng, quyền lực tuyệt đối. Tuy nhiên Thượng đế không có mặt trong thế giới cảm tính. Nicôlai Côpecnic (1473 – 1543): Ông đưa ra thuyết nhật tâm (mặt trời là trung tâm) để chống lại thuyết địa tâm (trái đất là trung tâm – phù hợp với kinh thánh).Galile (1564 – 1642): Ông thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, vô tận, vĩnh viễn, không có khởi đầu và kết thúc.

b. Quan điểm của của triết học duy vật Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII:Xã hội Tây âu thế kỷ XVI – XVIII là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển

mạnh mẽ, mâu thuẩn gay gắt với chế độ phong kiến dẫn đến cuộc cách mạng tư sản: Cách mạng Anh (1642 – 1648), Cách mạng Pháp (1789 – 1794). Thời kỳ này khoa học tự nhiên có bước tiến nhảy vọt, cơ học Niutơn là phát triển nhất. Phương pháp thực nghiệm được đề cao và áp dụng rộng rãi trong khoa học.

Ph. Bêcơn (1561 – 1626): Theo ông thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan. Ông khẳng định sự thống nhất giữa “hình dạng” với “tự nhiên”. Khoa học không thể biết cái gì ngoài vật chất, vật chất không tách rời vận động. Nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Vật chất có nhiều tính chất nên vận động cũng có tính đa dạng. Ông chia vận động theo vận động cơ học (Thể hiện tính siêu hình, máy móc).

Hôp-xơ (1588 – 1679): Ông cho rằng vật chất tồn tại khách quan không do thần thánh sáng tạo và cũng không phụ thuộc vào ý thức của con người. Ông cũng coi vật chất luôn vận động. Song ông quy vận động của vật chất về vận động cơ học, đó chỉ là những sự di chuyển đơn giản, máy móc của vật thể trong không gian (thể hiện quan điểm siêu hình máy móc).

R. Đêcactơ (1596 – 1650): ông cho rằng vũ trụ là thế giới vật chất, nó được hình thành từ chuyển động xoáy lốc của vật chất; không gian, thời gian là thuộc tính gắn liền với vật thể (duy vật).

B. Xpinôda (1632 – 1677): Ông khẳng định thế giới tự nhiên là thực thể duy nhất, hoàn toàn độc lập không do ai sinh ra. Thượng đế cũng chính là thế giới tự nhiên. “thực thể” là cái duy nhất, là nền tảng và là bản chất chung của mọi sự vật hiện tượng. Thwcj thê có thuộc tính chung là quảng tính và tư duy. Con người là một dạng thức của thực thể. Con người cũng có quảng tính và tư duy (tức linh hồn và thể xác). Linh hồn là chức năng hoạt động của cơ thể. Không thể có linh hồn tách rời cơ thể. (Điều này hoàn toàn hơn hẳn quan điểm của tôn giáo: Khi chết con người sẽ lên thiên đường hoặc về cõi niết bàn).

Đ. Điđơrô (1713 – 1748): Ông khẳng định “Trong vũ trụ chỉ có một thực thể - cả trong con người lẫn động vật” đó là vật chất. Vật chất bao gồm toàn bộ các vật thể có quảng tính, có hình thức và luôn vận động. Vận động không chỉ bao gồm di động mà còn bao gồm cả đứng im. Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Chính quá trình vận động và phát triển của tự nhiên đã giúp cho tự nhiên ngày càng hoàn thiện; từ đó Ông kết luận rằng “kết cấu và trạng thái của sinh vật là kết quả

-1-

Page 11: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên” (Quan điểm này của ông đã tiến gần tới học thuyết tiến hoá các gióng loài của Đácuyn về sau)

2. Về nhận thức luận: a. Quan điểm trước triết học Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII:Phật giáo: Nhận thức chỉ thực hiện bằng tu luyện, thiền định. Không thừa nhận vai trò của cảm tính và tư duy cũng như vai trò hoạt động thực tiển đối với nhận thức.Tuân tử: Ông đứng trên lập trường duy vật trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Theo ông nhận thức bắt nguồn từ giác quan. Nhưng giác quan cho ta biết cái bề ngoài, muốn nhận thức đầy đủ, sâu sắc phải dựa vào cái “tâm” (tức tư duy).Hêraclit , Đêmôcrit: Nhận thức bắt nguồn từ cảm giác.Platôn: Nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm có trước thế giới vật chất Galile (1564 – 1642): Ông cho rằng “chân lý là quá trình; ông đề cao sức mạnh trí tuệ của con người.

b. Quan điểm của của triết học duy vật Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII:Ph. Bêcơn (1561 – 1626): Ông cho rằng, không có tri thức bẩm sinh. Mọi tri thức đều bắt đầu

từ kinh nghiệm và chế biến những kinh nghiệm đó thành một hệ thống, nhờ đó ta biết được bản chất, quy luật của sự vật. Ông ví những người kinh nghiệm lý luận như con kiến (chỉ biết tha nhặt những cái lẻ tẻ, vụn vặt để sử dụng mà không biết chế biến chúng); còn những nhà giáo điều thì giống như những con nhện (dùng lý trí của mình chăng lên cái mạng vô hình, xa rời thực tiển); nhà khoa học chân chính phải như con ong (cóp nhặt nhị hoa và chế biến thành mật).

Hôp-xơ (1588 – 1679): Ông đã phát triển kinh nghiệm luận của Ph. Bêcơn kết hợp với một số yếu tố duy lý luận. Ông cho rằng đối tượng nhận thức là các vật thể, các đối tượng vật chất cùng những quan hệ số lượng cơ học và toán học. Con người có thể nhận thức được sự vật nhờ cảm giác và lý trí. Cảm giác, kinh nghiệm là bước đầu của nhận thức. Nguồn gốc của cảm giác, kinh nghiệm là ở thế giới vật chất. Lý trí đi sâu phân tích sự vật để nắm được bản chất của sự vật.

B. Xpinôda (1632 – 1677): Ông thừa nhận khả năng nhận thức của con người là vô hạn. ông chia nhận thức thành nhiều dạng: nhận thức cảm tính, nhận thức giác tính và trực giác. Ông cho rằng tự do là nhận thức được cái tất yếu.

La Mettơri (1709 – 1751): Ông cho rằng con người là một cái máy phức tạp. Tư tưởng, suy nghĩ đều bị quy định bởi cấu trúc cơ thể và chịu sự tác động của môi trường và điều kiện sống.

Đ. Điđơrô (1713 – 1748): Ông coi nhận thức gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 là cảm giác (thu thập); giai đoạn 2 là tư duy (kết hợp); giai đoạn 3 là thực nghệm (kiểm tra sự kết hợp). Ông luôn luôn nhấn mạnh phải dùng thí nghiệm và quan sát để kểm tra những luận điểm về lý luận. (Có thể nói nhận thức luận của Đ. Điđơrô đã tiến gần nhận thức luận duy vật biến chứng, nó có vai trò tích cực chống thần học, chủ nghĩa duy tâm và bất khả tri).

Ngoài ra chúng ta còn thấy rõ sự tiến bộ,hạn chế của chủ nghĩa duy vật Tây Âu thế kỷ XVII –XVIII trong vấn đề về con người, nhà nước và xã hội, cụ thể là:Về con người – nhà nước:

Hôp-xơ (1588 – 1679): Ông cho rằng con người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Bản tính tự nhiên của con người vốn là độc ác (nhận thức này hoàn toàn sai lầm). Nhà nước là sự thoả thuận ký kết kế ước xã hội. Cũng theo ông gốc rễ của tôn giáo là do sự sợ hãi, do sự ngu dốt đẻ ra (điều này chưa hoàn toàn đúng bởi vì tôn giáo còn có một nguồn gốc khác là tín ngưỡng).

Đ. Điđơrô (1713 – 1748): Ông kết luận rằng con người là thể thống nhất giữa cơ thể và ý thức. Cơ thể là khí quan vật chất của tư duy. Linh hồn là tổng thể các hiện tượng tâm lý của con người. Không có cơ thể thì không có linh hồn.

Về chính trị - xã hội: Đ. Điđơrô (1713 – 1748) ông chứng minh sự sụp đổ tất yếu của chế độ phong kiến, và sự thắng

lợi của chủ nghĩa tư bản. Ông coi chính quyền là sự thoả thuận giữa nhân dân với nhau; ông ca ngợi quyền lực của nhân dân và chủ trương xây dựng một hình thức nhà nước thông qua đại biểu nhân dân. (Ông chưa thấy được tính gia cấp của Nhà nước). Ông chống lại quyền lực nhà thờ, đồng thời ông

-2-

Page 12: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

chứng minh rằng con người sáng tạo ra tôn giáo (con người sáng tạo ra Thượng đế, sáng tạo ra kinh thánh, sáng tạo ra luật lệ tôn giáo)- (Điều này về sau cũng được Mác kế thừa). Ông chủ trương xoá bỏ tôn giáo bằng cách giáo dục quần chúng và tiêu diệt giới tu hành (Ông sai lầm vì chưa thấy rõ nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo).

Tóm lại, chúng ta có thể thấy rõ những thành tựu và hạn chế của triết học duy vật Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII, đó là:* Những thành tựu cơ bản:

Tiếp tục cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Đây là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, của khoa học đối với tôn giáo. Triết học duy vật là thế giới quan của giai cấp Tư sản cách mạng, là vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội, xác lập xã hội tư bản.

Do yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thời kỳ này khoa học tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và phát triển một cách mạnh mẽ. Nhờ thành tựu của khoa học, chủ nghĩa duy vật có một bước phát triển mới, nó có cơ sở khoa học để chứng minh về chi tiết.

Cũng do yêu cầu phát triển của khoa học tự nhiên, triết học thời kỳ này đặc biệt chú ý đến những vấn đề về nhận thức luận, về phương pháp nhận thức.

Tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo thời kỳ Phục hưng, thời kỳ này các nhà triết học đề cao vị trí con người; gương cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng con người khỏi thống trị của phong kiến và giáo hội.

* Một số hạn chế:Mặc dù là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm và giáo hội nhưng

hầu hết các nhà duy vật vẫn rơi vào phiếm thần luận hay tự nhiên thần luận, chỉ có một số ít các nhà duy vật, đi đến chủ nghĩa vô thần.

Do thói quen nghiên cứu khoa học chuyên môn, tách biệt khỏi các mối liên hệ chung, hơn nữa do sự thống trị của cơ học Niutơn, nên trong thời kỳ này phương pháp tư duy siêu hình, máy móc giữ vai trò chi phối.

Kết luận chung là: Triết học duy vật Phương Tây thế kỷ XVII – XVIII là một bước phát triển rực rỡ trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Những thành tựu triết học thời kỳ này không chỉ đáp ứng yêu cầu đặt ra lúc đó, mà nó còn đặt nền tảng cho sự phát triển của triết học trong các giai đoạn sau này.

-3-

Page 13: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 7: Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng a) Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh:

+ Về vấn đề tồn tại. Chủ nghĩa hiện sinh không phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới, nhưng theo họ tồn tại tự nó không là cái gì cả. Sartre chia tồn tại thành hai miền: tồn tại trong nó và tồn tại cho nó. Con người là một tồn tại cho nó, một tồn tại có ý thức.

+ Về quan hệ giữa hiện sinh và bản chất. Các nhà hiện sinh cho rằng hiện sinh có trước bản chất, hiện sinh là tính thứ nhất so với bản chất. Con người không có một bản chất vốn có nào cả, nó không giống như cái tên của nó, nó không phải là cái mà người định nghĩa về nó, không phải là cái bản chất mà mà triết học, khoa học gán cho nó. Mỗi cá nhân trở thành cái gì là do sự hiện sinh của nó, do ý thức của nó. Giữa cá nhân này với cá nhân khác không có một bản chất chung nào cả.

+ Sự trăn trở (anxiety: lo âu, trăn trở), hay sự dau khổ (anguish) cũng là một chủ đề của chủ nghĩa hiện sinh. Đó là trạng thái không thoả mái, lo sợ, khủng khiếp nói chung, không gắn một cách trực tiếp với một đối tượng cụ thể nào cả. Các nhà hiện sinh có một cái nhìn đen tối, bi quan về cuộc sống, họ phủ nhận tư tưởng về hạnh phúc, chủ nghĩa lạc quan của các nhà khai sáng. Họ khai thác triệt để khía cạnh bi kịch, đau khổ, tuyệt vọng trong sự hiện hữu của con người.

+ Sự phi lý (absurdity) của cuộc đời. Triết học hiện sinh là một trào lưu triết học phi duy lý. Nó không thừa nhận chủ nghĩa duy lý trong triết học và khoa học, không thừa nhận sự giải thích sự vật, hiện tượng bằng lý luận, bằng khoa học. Nó không thừa nhận bất kỳ mối liên hệ khách quan nào, bất kỳ bản chất và quy luật khách quan nào.

+ Hư vô. Chủ nghĩa hiện sinh phủ nhận mọi bản chất, kết cấu. Con người hiện sinh không một bản chất, một kết cấu tri thức, một giá trị đạo đức, một mối quan hệ xã hội nào cả. Nói tóm lại, nó chỉ đơn thuần là một sự trống rỗng, hư vô. Nó sống trong sự đau khổ, lo âu, tuyệt vọng, đang đứng bên bờ vực thẳm.

+ Cái chết. Đối với con người hiện sinh, cái chết là vấn đề quan trọng nhất. Con người hiện sinh là con người luôn luôn sợ hãi trước cái chết, vì sự sống là sự tồn tại dẫn đến cái chết. Cái chết treo lơ lửng trên đầu, trong mỗi giây phút của cuộc sống.

+ Sự tha hóa. Chủ nghĩa hiện sinh phát triển khái niệm tha hóa đến cực đoan, không thể chấp nhận được. Con người hiện sinh là những con người bị tha hóa, tách rời, trở thành xa lạ với tất cả: với thế giới đồ vật, với xã hội, trong lao động, trong quan hệ với người khác, kể cả trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa con cái với nhau, và kể cả sự tha hóa ngay cả trong tình yêu.

+ Tự do và trách nhiệm. Các nhà hiện sinh, đặc biệt là Sartre nói đến tự do với một ý nghĩa đặc biệt đến mức đôi khi họ gọi triết học của mình là “triết học về tự do”. Các nhà hiện sinh giải thích tự do một cách chủ quan: tự do là sự tự lựa chọn cái gì phù hợp với xúc cảm nội tâm, cái gì mà cá nhân coi là đúng đắn.

Sartre gắn liền tự do với trách nhiệm cá nhân. Người hiện sinh hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và hành vi của mình. Sự tự do không bị quy định bởi bất kỳ cái gì khác ngoài trách nhiệm cá nhân.

Ngoài ra, trách nhiệm cá nhân mà chủ nghĩa hiện sinh nói đến do đâu mà có. Trách nhiệm cá nhân bao giờ cũng liên quan đến tự ý thức và lương tâm của mỗi cá nhân, tuy nhiên, nó không phải là cái vốn có trong mỗi người.

b) Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa thực dụng:Nguyên tắc phương pháp luận căn bản của chủ nghĩa thực dụng là lấy kinh nghiệm, hiệu

quả, công dụng làm tiêu chuẩn. Chủ nghĩa thực dụng quy triết học chỉ còn là phương pháp, tuyên bố rằng chủ nghĩa thực dụng không phải là lý luận triết học có hệ thống, mà chỉ là lý luận về phương pháp.

Chủ nghĩa thực dụng nhấn mạnh vai trò của thực tiễn (practice) như là mục đích của triết học, như là tiêu chuẩn của chân lý. Thế nhưng họ lại xuyên tạc bản chất của hoạt động thực

-4-

Page 14: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

tiễn. Bởi vì, theo họ trong tự nhiên không có một hình thức, một trật tự, những quy luật ổn định. Tất cả những cái được coi là quy luật khách quan, hiện thực khách quan đều là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người. Do đó, họ rút ra kết luận: con người tuyệt đối tự do trong hoạt động của mình, họ có thể làm bất cứ việc gì họ muốn, bất cứ cái gì có lợi cho họ.

Theo chủ nghĩa thực dụng, những gì tồn tại đều là những yếu tố của kinh nghiệm. Chủ nghĩa thực dụng coi kinh nghiệm như là cái bao hàm trong nó cả vật chất và ý thức, cả khách quan và chủ quan. Bằng cách tuyên bố kinh nghiệm là cái duy nhất, chủ nghĩa thực dụng cho rằng họ đã khắc phục được sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và đã giải quyết triệt để vấn đề đã được tranh cãi hàng nghìn năm nay.

Về nhận thức luận, chủ nghĩa thực dụng coi ý nghĩa của sự vật, của khái niệm không phải là cái gì có sẵn, vốn có của nó, mà chỉ biểu hiện ra trong quan hệ cụ thể, trong công dụng thực tế. Giá trị của tư tưởng hay lý luận không phải ở chỗ nó có phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan hay không, mà là ở chỗ nó có đem lại hiệu quả thực tế hay không.

Về tiêu chuẩn của chân lý, James cho rằng chân lý không phải là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, mà là mối liên hệ giữa các kinh nghiệm với nhau. Cái gì đem lại lợi ích và hiệu quả hữu dụng thì nó là chân lý, mà không cần xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không. Chân lý theo quan niệm của chủ nghĩa thực dụng chỉ có tính chất tương đối, tùy theo từng người, từng hoàn cảnh, từng thời gian và địa điểm áp dụng khác nhau. Như vậy, trong quan niệm về chân lý, chủ nghĩa thực dụng chỉ nhấn mạnh công dụng và hiệu quả thực tế và phủ nhận tính khách quan của chân lý; nhấn mạnh tính tương đối và phủ nhận tính tuyệt đối của chân lý.

-5-

Page 15: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 8: Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện, V.I.Lênin phát triển

Triết học Mác-Lênin là sự kế thừa có phê phán và chọn lọc những tư tưởng triết học của nhân loại trong quá trình lịch sử. Đồng thời sự ra đời của triết học Mác-Lênin là một bước ngoặt vĩ đại trong sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. Triết học Mác có những cái mới về chất so với các hệ thống triết học trước đó:

+ C. Mác và Ph. Ăngghen phát triển chủ nghĩa duy vật lên hình thức cao của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phát triển phép biện chứng lên hình thức cao của nó là phép biện chứng duy vật.

Trước Mác, chủ nghĩa duy vật vẫn còn mang tính chất siêu hình, máy móc. Nó chưa đưa được quan điểm phát triển vào trong lý luận của nó; nó lấy quy luật cơ học để giải thích sự vận động của thế giới, dùng quy luật cơ học và quy luật sinh học để giải thích bản chất con người. Còn phép biện chứng trước Mác mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng Hêghen thì lại là duy tâm, tức ông đã xuất phát từ quy luật vận động, phát triển của một ý niệm tuyệt đối nào đó có trước thế giới để giải thích tất cả những gì đang tồn tại. Cho nên phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, ngược đầu và đóng khung trong một một kết cấu tư biện, gượng gạo.

Trên cơ sở kế thừa có phê phán và chon lọc những thành tựu mà mà các nhà duy vật đã đạt được cũng như kế thừa hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen, C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Từ khi triết học Mác ra đời, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng được kết hợp với nhau thành một thể thống nhất.

+ Việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện quan trọng nhất của bước ngoặt cách mạng trong sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại.

Trước Mác, các nhà triết học, đều không tránh khỏi duy tâm khi giải thích các hiện tượng xã hội. Họ đều cho rằng tinh thần, tư tưởng (ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, trời, thượng đế, hoặc ý thức chủ quan của con người) là yếu tố quyết định trong lịch sử. Họ không thấy được vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất, của đời sống vật chất.

C. Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu đời sống xã hội. Triết học Mác coi xã hội như là một cơ thể sống, một cấu trúc phức tạp bao gồm những cá nhân, gia đình, giai cấp, dân tộc với vô số những mối quan hệ xã hội chằng chịt được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn của họ. Triết học Mác coi sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội; vạch ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người; lấy cơ sở hạ tầng để giải thích kiến trúc thượng tầng, lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức xã hội.

Chính vì thế, triết học Mác là chủ nghĩa duy vật cân đối, hoàn chỉnh và triệt để; nó bao quát cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác-Lênin.

Triết học Mác - Lênin không chỉ giải thích thế giới mà vấn đề quan trọng là cải tạo thế giới. Trước Mác, người ta chưa xác lập được mối quan hệ gắn bó với nhau giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận nhiều khi chỉ là sản phẩm của tư duy thuần túy, chỉ là kết quả của sự suy lý tư biện của các nhà lý luận. Người ta chưa chỉ ra được một tiêu chuẩn khách quan để phân biệt cái đúng và cái sai trong lý luận. Lý luận càng cao siêu, càng xa rời thực tế thì càng được đánh giá cao.

Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C. Mác và Ph. Ăngghen vạch ra một cách đầy đủ và chính xác vai trò của hoạt động thực tiễn với tính cách là hoạt động vật chất cải tạo tự nhiên và xã hội đối với quá trình nhận thức; khẳng định rằng thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức, tiêu chuẩn của chân lý. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của triết học Mác-Lênin.

-1-

Page 16: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

+ Triết học Mác-Lênin có sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học. Với sự ra đời của triết học Mác-Lênin, giai cấp vô sản và nhân dân lao động có một lý

luận triết học khoa học để giải thích đúng đắn các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Triết học Mác-Lênin còn là vũ khí lý luận cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động để đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất công, xây dựng xã hội không có giai cấp, không có người bóc lột người.

Những quan điểm cách mạng trong triết học Mác-Lênin, nhất là quan điểm về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không phải là những hoài bão chủ quan của loài người, mà trái lại chúng có cơ sở khoa học vững chắc, dựa trên sự nghiên cứu nghiêm túc và lôgíc chặt chẽ của triết học và các khoa học xã hội.

+Triết học Mác đã đem lại một quan niệm đúng đắn về đối tượng của triết học. Trước đây quan niệm coi triết học là khoa học bao trùm tất cả các khoa học hay coi triết

học chỉ còn “công cụ” của khoa học hoặc của hoạt động thực tiễn.Triết học Mác đã đưa ra một quan niệm đúng đắn trong việc xác định đối tượng và vai trò

của triết học. Đối với triết học Mác, triết học không đồng nhất với các khoa học cụ thể, cũng không phải là “khoa học của các khoa học”, mà là học thuyết về những nguyên lý chung nhất, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.

Những đóng góp của V.I. Lênin trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng

Lênin phát triển ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác: triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học. Về triết học, V.I. Lênin đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận mácxít về nhận thức. V.I. Lênin cương quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, bảo vệ và phát triển những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp; lý luận về nhà nước, về cách mạng vô sản, về chuyên chính vô sản, về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.

-2-

Page 17: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 9: Bản chất, vai trò của phép duy vật biện chứng. Các nguyên tắc phương pháp luận của nó và sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng XHCN ở Việt Nam.

TGQ duy vật ra đời và phát triển trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan thần thoại, tôn giáo và thế giới quan triết học duy tâm 1. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng

a) Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học- Khẳng định vật chất có trước, quyết định ý thức. Nhưng ý thức có vai trò vô cùng to

lớn. Quan hệ vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trên cơ sở hoạt động thực tiễn.

- Khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người b) Thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật (CNDV) và phép biện chứng (PBC)

Thiếu sót của CNDV trước Mác là phương pháp siêu hình, máy móc. Trong khi đó, PBC lại được các nhà duy tâm phát triển. C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa PBC ra khỏi triết học duy tâm và trở về với quan điểm duy vật, tạo nên sự thống nhất giữa CNDV và PBC.

c) Chủ nghĩa duy vật triệt đểTrước Mác, quan điểm duy tâm thống trị trong lĩnh vực xã hội. Ngay những nhà triết học

triết học duy vật, vô thần như Phoiơbăc cũng không thoát khỏi quan điểm duy tâm khi bước vào nghiên cứu xã hội. Đối với quan điểm duy tâm khách quan về lịch sử thì xã hội do một ý niệm có trước thế giới hoặc do Thượng đế quyết định. Còn đối với quan điểm duy tâm chủ quan thì sự phát triển của xã hội do ý chí của vĩ nhân, lãnh tụ quyết định.

Triết học Mác đã đưa quan niệm duy vật vào lĩnh vực xã hội, sáng lập ra CNDV lịch sử. CNDV lịch sử là một cống hiến vĩ đại của C. Mác. Việc vận dụng quan điểm duy vật vào trong lĩnh vực xã hội đã tạo ra một CNDV triệt để.

b) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn- Lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích- Lý luận phải được kiểm tra trong thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý- Thực tiễn phải được hướng dẫn bằng lý luận khoa họcLý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Thực tiễn mà không được lý luận

hướng dẫn thành thành thực tiễn mù quáng. c) Tính cách mạng và tính sáng tạo - Triết học Mác không dừng lại ở nhận thức thế giới, mà vấn đề quan trọng là cải tạo thế

giới - Lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp vô sản và nhân dân lao động có thế giới quan khoa

học của mình. Triết học Mác trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

- Tính đảng và tính giai cấp của CNDV mácxít không mâu thuẫn với tính khoa học của nó. Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học của chủ nghĩa duy vật mácxít có cơ sở là sự thống nhất giữa lợi ích của giai cấp vô sản với quy luật khách quan của tiến trình lịch sử.

- Ngoài ra, CNDV mácxít còn có tính sáng tạo. Nó không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Nó luôn luôn được đổi mới và phát triển cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Nó phải được vận dụng phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi thời kỳ và mỗi nước. Nó là hệ thống mở sẳn sàng tiếp nhận những phát mình mới của khoa học.2. Các nguyên tắc phương pháp luận của nó và sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng XHCN ở Việt Nam.

a) Các nguyên tắc phương pháp luận - Nguyên tắc tính khách quan của sự xem xét.Thế giới quan DVBC là cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) tính khách quan của sự

xem xét (quan điểm khách quan).

-1-

Page 18: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Nguyên tắc này đòi hỏi trong nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, xem xét sự vật đúng như nó tồn tại trong thực tế.

Cải tạo sự vật phải xuất phát từ qui luật khách quan của sự tồn tại và phát triển của sự vật.

Không được lấy tình cảm, ý chí chủ quan làm điểm xuất phát trong việc xem xét và cải tạo sự vật.

Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan. - Phát huy tính năng động chủ quan, chống chủ nghĩa duy ý chí.- Chống thái độ thụ động, ỉ lại, bảo thủ, trì trệ.- Phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi cá nhân cũng như của toàn xã hội trong việc

nhận thức và hành động.- Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí.b) Vận dụng vào cách mạng XHCN ơ Việt Nam - Tôn trọng các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam - Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước - Coi trọng công tác giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục tri

thức khoa học, kỹ thuật, bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng cho nhân dân.- Coi trọng lợi ích, kết hợp hài hòa các lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi tập thể và lợi ích xã

hội; lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị và lợi ích tinh thần. - Chống những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.

-2-

Page 19: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 10: Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa phương pháp luận của nó1. Bản chất của phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.

Phép biện chứng duy vật bao gồm 2 nguyên lý cơ bản, những phạm trù và những nguyên lý cơ bản, vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận thức khoa học, vừa là logic của chủ nghĩa Mác. Đi sâu vào từng nguyên lý, phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật, chúng ta sẽ càng thấy rõ sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và phương pháp của phép biện chứng duy vật. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật:

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: khái quát bức tranh toàn cảnh những mối liên hệ của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Tính chất vô hạn của thế giới, cũng như tính chất có hạn của mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quyết định bởi rất nhiều loại mối quan hệ có vai trò và vị trí khác nhau. Sự liên hệ phổ biến là đặc trưng phổ quát nhất của thế giới. PBCDV khẳng định rằng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối, mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau.

Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ Trong tổng số các mối liên hệ phải rút ra được những mối liên hệ bản chất, chủ

yếu để thấu hiểu bản chất của sự vật. Từ bản chất của sự vật quay lại hiểu rõ toàn bộ sự vật trên cơ sở liên kết các mối

liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả các mối liên hệ khác của sự vật để đảm bảo tính đồng bộ khi giải quyết mọi vấn đề trong đời sống. Quan điểm toàn diện đối lập với mọi suy nghĩ và hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.

Nguyên lý về phát triển: phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất của thế giới. Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. PBCDV khẳng định rằng mọi lĩnh vực trong thế giới (vô cơ và hữu cơ; tự nhiên, xã hội và tư duy) đều nằm trong quá trình phát triển không ngừng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi không ngừng và về phương diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi của thế giới có xu hướng phát triển. Phát triển được coi là khuynh hướng chung, là khuynh hướng chủ đạo của thế giới. Vì vậy, quán triệt quan điểm phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo mọi hành động, suy nghĩ của con người. Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó, phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức được cái mới và ủng hộ cái mới. Phát triển không loại trừ sự thụt lùi, tức sự thoái hóa, sự diệt vong của cái cũ, cái lạc hậu, cái lỗi thời. Thậm chí cái mới cũng phải trải qua những thất bại tạm thời. Tuy nhiên, thụt lùi là khuynh hướng không chủ đạo, chẳng những không ngăn cản sự phát triển, mà trái lại là tiền đề, là điều kiện cho sự phát triển Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể về phương diện vạch ra nguồn gốc, động lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Đó là 3 quy luật:

Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập: còn được gọi là quy luật mâu thuẫn. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, Nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà yêu cầu cơ bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và

-1-

Page 20: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn. Lênin nói: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng. linh hoạt, tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ở đây, quy luật mâu thuẫn là cơ sở phương pháp luận chỉ đạo mọi phương pháp đấu tranh cụ thể của con người với tự nhiên và xã hội, là cơ sở của nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn có lợi cho cách mạng, cho hoà bình và tiến bộ xã hội.

Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại: gọi là quy luật lượng - chất. Quy luật này phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển, là cơ sở phương pháp luận chung để nhận thức và thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật với 3 yêu cầu cơ bản là:

Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi về chất. Chống chủ nghĩa duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.

Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện bước nhảy vọt cách mạng, chống thái độ bảo thủ, trì trệ.

Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình phát triển. Quy luật phủ định của phủ định: Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến

lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến những hình thái cơ bản của tương lai.

Bên cạnh 3 quy luật cơ bản, nội dung của phép biện chứng duy vật còn bao gồm các cặp phạm trù không cơ bản: cặp phạm trù cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, nguyên nhân - kết quả, bản chất - hiện tượng, khả năng - hiện thực, nội dung - hình thức. Tóm lại, mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Vì vậy, chúng phải được vận dụng tổng hợp trong nhận thức khoa học thực tiễn cách mạng.2. Ý nghĩa của phương pháp luận của phép biện chứng duy vật

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của PBCDV là cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử-cụ thể và nguyên tắc phát triển.

a) Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả các mặt,

các mối liên hệ; đồng thời phải đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối liên hệ chủ yếu có vai trò quyết định.

“Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “ quan hệ gián tiếp” của sự vật đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả các mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc” [Lênin, t.42, tr.384]

Hồ Chủ tịch nói: “Cán bộ trong khi học tập nghiên cứu như nghiên cứu về xã hội, con người và sự vật thì phải xem xét toàn diện, xem quá khứ, nhất là xem hiện tại để hiểu biết và suy đoán tương lai. Có thế mới nhận định tình hình, mới nhận xét sự việc xảy ra được đúng đắn”. (Hồ Chí Minh, Nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị Trường đại học nhân dân, 10-1-1959)

Sự vận dụng quan điểm toàn diện trong sự nghiệp cách mạng:- Trong Cách mạng dân tộc dân chủ: Đảng ta vận dụng quan điểm toàn diện trong phân

tích mâu thuẫn xã hội, đánh giá so sánh lực lượng giữa ta với địch, tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp.

-2-

Page 21: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

- Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện, triệt để; đồng thời phải xác định khâu then chốt. Nắm vững mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và đổi mới tư duy.

Đối lập với nguyên tắc toàn diện của PBC, quan điểm siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc xem mặt này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời sự vật khác.

Chủ nghĩa chiết trung thì kết hợp các mặt một cách vô nguyên tắc, kết hợp những mặt vốn không có mối liên hệ với nhau hoặc không thể dung hợp được với nhau. Thuật nguỵ biện thì cường điệu một mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt thứ yếu làm mặt chủ yếu.

b) Nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong nhận thức và thực tiễn Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem xét sự vật hiện tượng trong quá trình vận

động phát triển: nó ra đời trong điều kiện như thế nào? trải qua những giai đoạn phát triển như thế nào? mỗi giai đoạn có tính tất yếu và đặc điểm như thế nào?

c) Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn Nguyên tắc phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh

hướng biến đổi trong tương lai của chúng: cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.

Chẳng hạn, vận dụng quan điểm lịch sử-cụ thể và quan điểm phát triển vào việc xem xét vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, chúng ta phải xem xét nguồn gốc ra đời của giai cấp; kết cấu giai cấp và các hình thức đấu tranh giai cấp qua các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản; quan hệ giai cấp, nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp trong điều kiện nước ta hiện nay; và xu hướng tiêu vong của giai cấp và đấu tranh giai cấp trong xã hội tương lai.

-3-

Page 22: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 11:Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn (Khái niệm thực tiễn và lý luận, nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn) và ý nghĩa phương pháp luận của nó

Khái niệm thực tiễn và lý luận:Thực tiễn được định nghĩa là những hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch sử - XH của con

người nhằm biến đổi giới tự nhiên và xã hội. Do vậy, thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất chứ không phải là hoạt động tinh thần hay còn gọi là hoạt động lý luận.

Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể (tức là con người) và khách thể (tức là giới tự nhiên), là dạng hoạt động vật chất trong đó chủ thể chủ động làm biến đổi khách thể. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất cũng như sức mạnh vật chất của mình để tác động vào tự nhiên, XH nhằm cải tạo, làm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức, do đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sáng tạo, là hoạt động đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Vì vậy, thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.

Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất và đặc trưng của con người. Con người không thể thỏa mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có những hoạt động đó thì con người và XH loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản nhất của con người và XH, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.

Hoạt động thực tiễn mang tính lích sử - XH vì nội dung, phương pháp, phương tiện cũng như phạm vi ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của XH, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của XH loài người. Thực tiễn là hoạt động có tính chất loài, hoạt động đó không thể được tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân trong XH. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ XH của con người.Hoạt động thực tiễn được thể hiện qua ba hình thức cơ bản sau đây:

Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là hình thức nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của XH loài người, quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn. Nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.

Hình thức cơ bản thứ hai của thực tiễn là hoạt động CT - XH nhằm cải tạo, biến đổi XH, phát triển các quan hệ XH, chế độ XH. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn cao nhất.

Với sự ra đời và phát triển của khoa học làm xuất hiện hình thức cơ bản thứ ba của thực tiễn - hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc biệt nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học. Hình thức hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.

Trên cơ sở những hình thức cơ bản, những hình thức không cơ bản của hoạt động thực tiễn được hình thành. Đó là hoạt động thực tiễn trong một số lĩnh vực như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo …

Lý luận được hiểu là hệ thống những tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan. Lý luận được hiểu theo một cách khác là hệ thống hoá các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật; trong đó quy luật là cái cốt lõi, là sản phẩm của hoạt động nhận thức của con người.

Khác với các quan điểm duy tâm, tôn giáo Triết học Mác-Lênin khẳng định lý luận là kết quả của quá trình nhận thức. Quá trình nhận thức đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động ) là giai đoạn đầu, trình độ thấp của quá trình nhận thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng.

-1-

Page 23: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy luận.

Lý luận mang tính trừu tượng cao, khái quát cao, nhờ đó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật, hiện tượng khách quan. Nhận thức lý luận là nhận thức hướng vào nắm bắt về bản chất quy luật của sự vật. Như vậy lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:Ta thấy rằng, lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ chặt

chẽ với thực tiễn. Giữa thực tiễn và lý luận có mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, và trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định.Vai trò của hoạt động thực tiễn đối với hoạt động lý luận:

Hoạt động thực tiễn là cơ sở của nhận thức, của lý luận bởi vì nó là nền tảng, là điểm xuất phát, là nơi diễn ra hoạt động lý luận. Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà lý luận của con người mới được hình thành và phát triển. Thông qua thực tiễn, con người tác động vào giới tự nhiên, buộc giới tự nhiên phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật, qua đó giúp con người nhận thức được chúng. Không có hoạt động thực tiễn thì không có hoạt động lý luận.

Hoạt động thực tiễn là động lực của nhận thức, của lý luận bởi vì hoạt động thực tiễn đề ra nhu cầu thúc đẩy cho hoạt động lý luận của con người, để từ đó mà hệ thống tự nhiên, XH hình thành. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người biến đổi luôn bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình nhờ đó mà hoạt động lý luận phát triển. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động thực tiễn, các giác quan của con người hình thành và phát triển, và con người thông qua đó để tạo ra các công cụ, phương tiện ngày càng tinh vi nhằm tăng cường khả năng lý luận của con người.

Hoạt động thực tiễn là mục đích của của nhận thức, của lý luận bởi vì hoạt động lý luận không phải chỉ để lý luận mà là để cải tạo tự nhiên, XH nhằm phục vụ cho nhu cầu của con người. Hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có phương hướng và biện pháp, do vậy đòi hỏi nghiên cứu sự vật, hiện tượng và vậy là hoạt động lý luận quay trở lại phục vụ hoạt động thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hoạt động thực tiễn của quần chúng. Hoạt động lý luận chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng được vận dụng vào hoạt động thực tiễn, cải tạo thực tiễn để phục vụ cho mục tiêu phát triển nói chung.

Hoạt động thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý bởi vì hoạt động lý luận của con người có thể đúng hoặc sai, có thể chân thật hoặc giả dối, do vậy muốn đo được độ chính xác và độ tin cậy của hoạt động lý luận thì phải quay về hoạt động thực tiễn và lấy thực tiễn để làm tiêu chuẩn. Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được lý luận đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý và bác bỏ sai lầm.Vai trò của hoạt động lý luận đối với hoạt động thực tiễn:

Hoạt động lý luận là cái chỉ đạo hoạt động thực tiễn, nghĩa là hoạt động thực tiễn chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan. Hoạt động lý luận giúp con người đề ra mục đích, phương hướng đúng đắn, tạo ra các phương pháp, phương tiện hoạt động có hiệu quả.

Hoạt động lý luận thúc đẩy hoạt động thực tiễn, nghĩa là nếu không có lý luận đúng đắn hướng dẫn hoạt động thực tiễn, tiến hành chậm chạp, mò mẫm, không có phương hướng con người không thể phát hiện ra các khả năng mới của các sự vật, hiện tượng, đề ra mục đích, mục tiêu mới, tìm kiếm phương pháp và phương tiện mới.

Tóm lại hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn là hai dạng hoạt động của con người. Hai hoạt động này thống nhất không tách rời nhau, gắn bó xâm nhập, làm cơ sở, tiền đề cho nhau phát triển:

Lý luận xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu lý luận xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại. Tự bản thân lý luận luôn luôn phải đổi mới để theo kịp sự phát triển của thực tiễn để khỏi phải lạc hậu, lỗi thời và phải làm vai trò hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn.

Thực tiễn là mục đích, nguồn gốc, động lực của lý luận. Thực tiễn phải được chỉ đạo, hướng dẫn bởi lý luận, khoa học, cách mạng. Nếu thực tiễn không có lý luận dẫn đường thì thực tiễn sẽ trở nên mù quáng. Còn nếu thực tiễn được chỉ đạo bởi lý luận sai lầm và phản cách mạng thì hậu quả sẽ

-2-

Page 24: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

khó lường. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn.

Ý nghĩa của phương pháp luận trong thực tiễn nước ta:a) Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các tri thức khoa

học mà nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của nước ta- Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ

nam cho hành động. Bởi vì, chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng và khoa học, vạch ra quy luật và xu thế phát triển tất yếu khách quan của xã hội loài người và con đường đấu tranh để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta; là hệ thống quan điểm cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam; là sự kế thừa và phát huy những tinh hoa tư tưởng của dân tộc và nhân loại; là đạo đức cách mạng của mọi người.

- Nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay.

- Vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học của nhân loại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

b) Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội.- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện con đường đi lên CNXH.c) Trong giáo dục, đào tạo phải kết hợp lý luận với thực tiễn, học với hành - Giáo dục – đào tạo phải đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội - Kết hợp lý luận với thực tiễn, học với hành.d) Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều Bệnh giáo điều: Bệnh giáo điều là khuynh hướng cường điệu lý luận, coi thường thực tiễn, tách

rời lý luận khỏi thực tiễn. - Chỉ căn cứ trên câu chữ trong sách vở, không nắm bắt được bản chất khoa học và cách mạng

của chủ nghĩa Mác-Lênin.- Áp dụng lý luận một cách cứng nhắc không tính đến điều kiện cụ thể - Áp dụng kinh nghiệm người khác một cách rập khuôn máy móc Tác hại của bệnh giáo điều là biến chủ nghĩa xã hội khoa học thành những công thức xơ cứng,

phiến diện, cản trở quá trình đổi mới thường xuyên CNXH hiện thực.Bệnh kinh nghiệm:Là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận.Người mắc bệnh kinh nghiệm thường thỏa mãn với kinh nghiệm sẵn có của bản thân, không chịu

khó học tập lý luận, không tiếp thu và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong công tác, xem thường gới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.

Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm và giáo điều là sự yếu kém về lý luận và thiếu hiểu biết thực tiễn, chủ nghĩa cá nhân.

Để khắc phục bênh giáo điều và bệnh kinh nghiệm, cần phải tăng cường nghiên cứu, đổi mới công tác lý luận, tổng kết thực tiễn, từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, gắn lý luận với thực tiễn, tăng cường giáo dục nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên.

-3-

Page 25: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 12: Khái niệm cấu trúc của hình thái KT - XH. Phép biện chứng của sự vận động, phát triển các hình thái KT-XH. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hộiVận dụng quan điểm duy vật biện chứng và nghiên cứu đời sống XH, Mác đã nêu lên học

thuyết hình thái KT-XH, chỉ ra sự phát triển của XH là quá trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế các hình thái KT-XH từ thấp đến cao. Lý luận hình thái KT-XH là hòn đá tảng của CNDV lịch sử, là cơ sở khoa học để nhận thức và cải tạo XH.

Từ lâu triết học trước Mác đã đặt ra và trả lời không ít câu hỏi xung quanh vấn đề: Lịch sử XH loài người bắt đầu từ đâu? Sự vận động của XH do yếu tố cơ bản nào chi phối, quy định cơ cấu và xu hướng của nó?. Những vấn đề trên, ngoài Mác đưa ra, chưa có ai nêu được câu trả lời đúng đắn và có sức thuyết phục. Đối lập với những quan điểm duy tâm và siêu hình, Mác cho rằng lịch sử XH là do con người tạo ra nhưng dưới ảnh hưởng sự phát triển của LLSX. Vì vậy, không phải ý thức con người mà chính là hoạt động sản xuất vật chất của họ mới làm biến đổi lịch sử. Đứng trên quan điểm duy vật lịch sử, Mác hình dung XH như một cơ thể sống động, hoàn chỉnh gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận cấu thành, tạo nên những mối quan hệ XH phức tạp, chằng chịt tác động lẫn nhau. Bằng phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá từ trong vô vàn những hiện tượng, những mối quan hệ XH phức tạp, Mác đã phát hiện và chỉ ra những quan hệ cơ bản chi phối những quan hệ khác - đó là QHSX.

Những QHSX này một mặt phụ thuộc và bị quy định bởi tính chất và trình độ phát triển của LLSX, mặt khác nó lại quy định KTTT. Đây chính là cơ chế chủ yếu khiến cho XH loài người diễn ra theo một quá trình lịch sử tự nhiên. Trong khi chỉ ra những yếu tố cơ bản của hình thái KT-XH và cơ chế vận hành của nó theo quy luật, mà trước hết là quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Trong khi xem xét XH, Mác không hề phản đối việc đi sâu làm rõ vai trò của mỗi yếu tố thành phần trong tổng thể XH. Đồng thời, Mác cũng chỉ ra rằng trong sự tác động của vô số các yếu tố thì “vận động kinh tế, như một tất yếu, cuối cùng sẽ tự mở ra cho mình một con đường giữa vô số những cái ngẫu nhiên”. Như vậy, chủ nghĩa Mác không bao giờ nói kinh tế là cái duy nhất quyết định mà nói điều đó là “xét đến cùng” và đặt nó trong sự tác động của một chỉnh thể các quan hệ, các yếu tố.

2. Cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội:Quan niệm của CNDV lịch sử xem xét XH với tính cách là một hệ thống bao gồm trong

nó 4 lĩnh vực cơ bản: Lĩnh vực kinh tế của đời sống XH, tức là QHSX, quan hệ kinh tế giữ vai trò ban

đầu, cơ bản và quyết định tất cả các quan hệ khác. Lĩnh vực XH, tức là các quan hệ gia đình, tầng lớp XH, giai cấp, dân tộc, trong

đó quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối. Lĩnh vực chính trị của đời sống XH, tức là các tổ chức và thiết chế quyền lực, hệ

thống luật pháp và tư tưởng chính trị. Lĩnh vực tinh thần của đời sống XH.Quan niệm tổng quát đó được triển khai bằng hệ thống phạm trù, quy luật của CNDV lịch

sử: lĩnh vực kinh tế của đời sống XH có các phạm trù phương thức sản xuất, LLSX, và quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị được khái quát trong phạm trù CSHT, KTTT, các quy luật CSHT quyết định KTTT và tác động trở lại của KTTT đến CSHT. Lĩnh vực XH có các phạm trù giai cấp, đấu tranh giai cấp, kết cấu giai cấp. Sự phân chia giai cấp do vị trí các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất XH quy định, và đến lượt nó, giai cấp giữ vị trí thống trị trong hệ thống sản xuất lại quy định lĩnh vực chính trị. Đấu tranh giai cấp trong XH có giai cấp đối kháng là một trong những động lực phát triển của XH. Lĩnh vực tinh thần của đời sống XH được nghiên cứu trong mối quan hệ giữa tồn tại XH và ý thức XH, tính độc lập tương đối của ý

-1-

Page 26: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

thức XH, các cấp độ, các hình thái của ý thức XH và vai trò ngày càng to lớn của ý thức XH trong quá trình phát triển XH.

Tóm lại, hình thái KT-XH là phạm trù chỉ một kiểu hệ thống xa hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, có tính xác định về chất, là sự thống nhất của các yếu tố, một cơ cấu hoàn chỉnh luôn luôn vận động thông qua sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX, giữa CSHT và KTTT.

3. Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH: Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan

hệ sản xuấtLực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (là những người có kỹ năng, kinh

nghiệm, tri thức nhất định, chế tạo và sử dụng công cụ lao động, tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất) với tư liệu sản xuất (bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động).

Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt: quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản xuất, quan hệ về quản lý và phân công lao động và quan hệ về phân phối sản phẩm. Trong 3 mặt trên thì quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản xuất giữa vai trò quyết định.

LLSX và QHSX tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Trong đó LLSX quyết định QHSX, QHSX phải phù hợp với trình độ của LLSX. Khi LLSX thay đổi về chất thì QHSXcũng thay đổi theo. Ngược lại QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của LLSX và ngược lại nếu QHSX không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.

Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc thượng tầng (KTTT)Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Cơ

sở hạ tầng của một xã hội có thể có nhiều kiểu QHSX: QHSX thống trị, QHSX tàn dư, QHSX mầm mống, trong đó QHSX thống trị giữ vai trò quyết định

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những hiện tượng xã hội hình thành và phát triển bên trên cơ sở hạ tầng, bao gồm những tư tưởng xã hội, những quan hệ và thiết chế tương ứng với những tư tưởng đó.

Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái KT-XH, chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó CSHT quyết định KTTT, song KTTT cũng có tác động tích cực trở lại CSHT. CSHT quyết định KTTT. CSHT như thế nào thì KTTT như thế ấy; khi CSHT có những biến đổi căn bản thì KTTT sớm muộn cũng biến đổi theo. KTTT có sự tác động trở lại CSHT. KTTT tiến bộ có vai trò thúc đẩy sự phát triển của đời sống kinh tế; còn ngược lại, KTTT lạc hậu thì kìm hãm sự phát triển của kinh tế.

Ý nghĩa của học thuyết hình thái KT-XH:Phạm trù hình thái KT-XH đặt cơ sở nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nghiên

cứu tất cả các mặt của XH. Chẳng những nó chỉ ra bản chất của một XH cụ thể, phân biệt chế độ XH này với chế độ XH khác mà còn thấy được tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và sinh hoạt ở những XH khác nhau. Nói cách khác phạm trù hình thái KT-XH cho phép nghiên cứu XH cả về mặt loại hình và về mặt lịch sử. Xem xét đời sống XH ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, coi như một cấu trúc thống nhất tương đối ổn định, đang vận động trong khuôn khổ của chính hình thái ấy. Xem xét sự hình thành của một hình thái KT-XH nhất định là nghiên cứu nó trong sự vận động, bước quá độ, sự chuyển tiếp, sự thay thế các hình thái KT-XH. Hai cách tiếp cận này thống nhất với nhau, xem xét cả sự vận hành của XH ở một giai đoạn phát triển nhất định, cả quá trình phát triển theo giai đoạn của XH trong tiến trình vận động lịch sử chung.

4. Sự vận dụng của Đảng ta trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: Vấn đề quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN:

-2-

Page 27: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Lịch sử đã chứng minh không phải bất cứ nước nào cũng phải tuần tự trải qua các hình thái KT-XH đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một hình thái KT-XH nào đó do những yếu tố bên trong quyết định, song đồng thời còn tuỳ thuộc ở sự tác động của từng nhân tố bên ngoài. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra bước ngoặt phát triển của loài người, đánh dấu đỉnh cao mới của sự phát triển trí tuệ, mở ra một nền văn minh mới, tác động sâu sắc đối với sự phát triển đời sống của các dân tộc, tạo ra cho các nước chậm phát triển thời cơ mới nhưng cũng có nhiều thách thức mới trên con đường lựa chọn sự phát triển của mình. Ở nước ta cũng có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên CNXH nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, làm cho đất nước ngày càng phồn vinh. Đảng ta chỉ rõ: nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản, tù một XH vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, LLSX rất thấp. Đặc điểm này xét về tính chất và trình độ, biểu hiện ở hai đặc trưng cơ bản: một là LLSX rất thấp quy định tính tất yếu KT XH của XH ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó; hai là tồn đọng nhiều tàng dư quan hệ XH, ý thức tư tưởng tâm lý do chế độ thực dân, phong kiến cũ để lại. Đó là những khó khăn, trở ngại trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một XH kém phát triển sang một XH hiện đại hơn, phù hợp với những chuẩn mực và giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ XH.

Một số nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng hình thái KT-XH XHCN ở nước ta:

Đảng ta đã đề ra những quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng CNXH:+ Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam.+ Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý

của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (nền kinh tế thị trường định hướng XHCN). + Phát triển lực lượng sản xuất bằng việc thực hiện CNH, HĐH đi đôi với hoàn thiện

QHSX xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng của các hình thức sở hữu và phân phối trong đó sở hữu công cộng và kinh tế nhà nước từng bước giữ vai trò chủ đạo.

+ Thực hiện cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Phát huy nhân tố con người. Coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

-3-

Page 28: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 13: Quan điểm macxit về giai cấp, đấu tranh giai cấp và quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại. Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.

Quan điểm macxit về giai cấp, đấu tranh giai cấp và quan hệ giữa giai cấp và dân tộc:

Về giai cấp: Định nghĩa: Nói về giai cấp, Lênin đã đưa ra định nghĩa như sau khi nhìn từ góc độ sản

xuất xã hội. “Người ta gọi giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất XH nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động XH, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ KT - XH nhất định”

Định nghĩa trên đã cho thấy những tiêu chuẩn cụ thể để xác định các giai cấp khác nhau, đồng thời cũng xác định rõ trong tất cả các XH có giai cấp đối kháng, quan hệ giữa các giai cấp cơ bản là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột.

Nguồn gốc ra đời, điều kiện tồn tại của giai cấp, phân định giai cấp trong XH TBCN:

Xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử, Mác và Ănghen cho rằng các giai cấp XH xuất hiện từ khi LLSX phát triển, năng suất lao động tăng lên dẫn đến có sự dư thừa sản phẩm XH, và từ đó tư tưởng chiếm đoạt của cải cũng xuất hiện.

Mác và Ănghen cho rằng giai cấp chỉ tồn tại trong chế độ tư hữu, sự ra đời chế độ này là một tất yếu khách quan do “mâu thuẫn” giữa nhu cầu tiêu dùng lớn hơn so với khả năng đáp ứng nhu cầu thấp của nền SX.

Và cho rằng, thực chất của quan hệ các giai cấp như: chủ nô và nô lệ, địa chủ quý tộc và nông nô, tư sản và vô sản là quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị thống trị. Theo hai ông, chế độ tư hữu đã lên đến giai đoạn cao nhất của nó là TBCN với phương thức SX TBCN. Việc vạch rõ bản chất của quan hệ TBCN là quan hệ bóc lột của GCTS và bị bóc lột đối với GCVS thông qua hình thức là bóc lột giá trị thặng dư từ sản phẩm đã tạo nền móng cho công cuộc đấu tranh của tầng lớp lao động chống lại GCTS bằng cuộc cách mạng XH và thay thế bằng CSCN.

Về đấu tranh giai cấp:ĐTGC là đấu tranh giữa những giai cấp có lợi ích căn bản (lợi ích kinh tế) đối lập nhau,

không thể điều hòa được, chủ yếu là đấu tranh của đông đảo quần chúng lao động bị bóc lột, bị áp bức, bị thống trị chống lại giai cấp bóc lột, áp bức, thống trị.

Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của mọi XH có giai cấp, là động lực cơ bản của sự phát triển XH có các giai cấp đối kháng (gọi là động lực cơ bản vì ngoài nó còn có những động lực thúc đẩy phát triển XH như: nhu cầu tiêu dùng đòi hỏi phải tăng, KHKT phát triển góp phần thúc đẩy SX).

Đấu tranh giai cấp xảy ra khi mà LLSX mới (tầng lớp lao động, ứng dụng KHKT,...) đã phát triển đến mức mâu thuẫn với QHSX cũ (tức nền SX XH có thể đi lên cao khi LLSX phát triển nhưng lại bị QHSX của chế độ tư hữu đó kìm hãm), mà thực chất là mâu thuẫn về “quyền lợi giữa các giai cấp” một cách gay gắt trong chế độ tư hữu đó. Và kết quả của cuộc đấu tranh, theo hai ông bao giờ cũng là sự cải tạo toàn bộ XH.

ĐTGC dẫn đến đỉnh cao là CMXH, xóa bỏ QHSX cũ, CSKT cũ, KTTT cũ đưa xã hội phát triển lên một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn. Mác và Ănghen khẳng định rằng chính CNTB với một LLSX khổng lồ đang tạo ra cơ sở vật chất để có thể đi đến một XH với

-4-

Page 29: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

trình độ cao hơn về mọi mặt, đó là XH không còn giai cấp. Và cho rằng đây là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử loài người.

Đấu tranh GCVS nhằm thủ tiêu chế độ tư hữu và thiết lập nền chuyên chính vô sản. Việc thiết lập này nhằm mục đích thực hiện các mục tiêu cơ bản của cách mạng, tạo điều kiện cho việc xây dựng CNXH và CNCS. Nó có vai trò như là bước quá độ để lên CNXH.

Tuy nhiên, chủ nghĩa macxit cũng nhấn mạnh rằng giai cấp, đấu tranh giai cấp và xoá bỏ giai cấp đều là những tất yếu khách quan. Nhưng những tất yếu này chỉ có thể thực hiện được khi những điều kiện khách quan của chúng cho phép chứ không nên hành động chủ quan.

Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc:Giai cấp: Theo định nghĩa của Lênin thì giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về

địa vị XH, vai trò tổ chức SX XH và quyền chiếm hữu đối với TLSX.Dân tộc: Là một cộng đồng người có chung một lãnh thổ, chung một ngôn ngữ, chung

một nền văn hoá, chung một hoàn cảnh. Mỗi một dân tộc bao giờ cũng gồm các giai cấp khác nhau, tầng lớp XH khác nhau (VD: dân tộc thuộc địa không phải là toàn bộ dân tộc đó là GCVS mà còn có GCTS, tiểu tư sản...).

Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc: Một dân tộc bao giờ cũng gồm các giai cấp khác nhau. Một giai cấp gọi là đại biểu của dân tộc đó nếu giai cấp đó đại diện cho PTSX mà thống trị nền SX XH, và đồng thời nó thống trị các giai cấp khác trong cộng đồng dân tộc. Chính sự thống trị của PTSX phong kiến hay TBCN đã tạo nên dân tộc phong kiến hay dân tộc tư sản. Cũng chính vì là giai cấp đại biểu nên nó cũng tạo nên đặc trưng cơ bản của dân tộc, tính chất của dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc, và mối quan hệ cơ bản giữa các dân tộc.

Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay:- Phát huy khổi đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công- nông- trí thức

dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.- Mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia - Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế . - CNH, HĐH xóa bỏ tình trạng nước nghèo, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa

nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại.- Đấu tranh làm thất bại âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù

địch, giữ vững chính quyền cách mạng, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội.- Giữ vững định hướng XHCN. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, vai trò chủ đạo

của kinh tế nhà nước. Chống khuynh hướng tự phát TBCN.- Từng bước hạn chế đi đến xóa bỏ tình trạng người bóc lột người; xây dựng xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh.- Xóa bỏ mọi tàn tích về tư tưởng và lối sống của g/c bóc lột. Khắc phục những hiện

tượng tiêu cực. Phát triển con người toàn diện. Xây dựng lối sống tốt đẹp, lành mạnh. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

-5-

Page 30: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 14: Quan điểm mácxít về bản chất nhà nước, nguồn gốc, chức năng của nhà nước. Đặc điểm của nhà nước XHCN. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

a) Bản chất nhà nước- Nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị trong kinh tế nhằm bảo

vệ địa vị và lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) của giai cấp đó.- Nhà nước là một tổ chức chính trị -xã hội, một bộ phận quan trọng nhất trong

kiến trúc thượng tầng có chức năng bảo vệ, duy trì QHSX thống trị.- Nhà nước là một tổ chức cai trị thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền

thống trị của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.Tóm lại, nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị. Không có nhà

nước đứng trên các giai cấp hoặc đại diện một cách bình đẳng cho lợi ích của tất cả các giai cấp.

b) Nguồn gốc của nhà nước Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nhà nước ra đời và tồn tại trong những điều

kiện lịch sử nhất định. Nhà nước ra đời do hai nguyên nhân:- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự thay thế chế độ công hữu bằng

chế độ tư hữu- Sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Xã hội cần phải có một tổ chức

bạo lực để giữ cho cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có quyền lợi kinh tế đối lập nhau nằm “trong vòng trật tự”.

Nhà nước do giai cấp có thế lực mạnh nhất trong xã hội, tức giai cấp thống trị về kinh tế lập ra, trước hết là để bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp đó.

c) Chức năng cơ bản của nhà nước - Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội * Chức năng thống trị chính trị của giai cấp : Nhà nước là một bộ máy cai trị của

một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng bạo lực để bảo vệ lợi ích và sự thống trị của giai cấp đó.

* Chức năng xã hội: thực hiện một số nhiệm vụ vì nhu cầu và lợi ích chung của cộng đồng dân cư trong sự quản lý của nhà nước.

Chức năng thống trị giai cấp là chức năng chính, quy định nội dung, phương hướng, mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước.

- Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại+ Chức năng đối nội: thực hiện những nhiệm vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia

nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp thống trị, quản lý xã hội.+ Chức năng đối ngoại: thực hiện những nhiệm vụ trong quan hệ với các nhà nước

khác nhằm bảo vệ độc lập quốc gia hoặc mở rộng sự thống trị đến các dân tộc khác.Chức năng đối nội giữ vai trò quyết định chức năng đối ngoại; chức năng đối ngoại

nhằm mục đích phục vụ chức năng đối nội.

d) Nhà nước XHCN có những đặc điểm :+ Nhà nước XHCN là tổ chức chính trị thông qua đó nhân dân lao động thực hiện

quyền làm chủ xã hội của mình. Nhà nước XHCN đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động.

-1-

Page 31: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản: - Sử dụng công cụ bạo lực để bảo vệ độc lập, của Tổ quốc, giữ vững an ninh chính

trị, trật tự xã hội. - Tổ chức xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người

mới. Chức năng tổ chức xây dựng là chức năng cơ bản nhất. + Nhà nước XHCN thực hiện sự bình đẳng chủng tộc và sự hợp tác bình đẳng cùng

có lợi giữa các dân tộc trên thế giới. + Nhà nước XHCN do giai cấp vô sản lãnh đạo mà đội tiên phong của nó là Đảng

cộng sản.

e) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam + Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam - Là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm

chủ của nhân dân.- Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan

nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp.- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.+ Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam- Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng

và quản lý Nhà nước. - Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội- Tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước - Cải cách tư pháp- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

-2-

Page 32: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

Câu 15: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, dân tộc học, y học, triết học nhưng chỉ đến triết học Mác mới xem xét nó một cách nhất quán, đầy đủ và sâu sắc, trên cơ sở của lập trường tư duy triệt để nhất. Quan điểm mácxít về bản chất của con người là cơ sở lý luận khoa học để hiểu con người một cách đúng đắn, khắc phục các quan điểm duy tâm, tôn giáo và duy vật siêu hình về bản chất con người; góp phần nhận thức một cách đúng đắn vấn đề mục đích, ý nghĩa của cuộc sống của con người, vấn đề giáo dục con người, vấn đề mưu cầu hạnh phúc của con người. Chống quan điểm duy vật tầm thường, đồng thời chống ảo tưởng tôn giáo

Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, triết học Mác giúp ta đi tới nhận thức được bản chất con người:“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”. Theo quan điểm mácxít, con người có hai mặt: mặt sinh vật và mặt xã hội.

Mặt sinh vật bao gồm cơ thể , mối quan hệ giữa cơ thể với giới tự nhiên chung quanh, cùng những nhu cầu sinh vật và những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người. Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con người.

Triết học Mác nhìn nhận bản chất con người một cách toàn diện: Con người khác con vật ở lao động sản xuất là hoạt động xã hội có ý thức, có mục đích và quan hệ giữa người với tự nhiên không phải là chỉ khai thác tự nhiên, mà còn tái tạo lại tự nhiên. Trên cơ sở hoạt động sản xuất vật chất, con người còn có những hoạt động xã hội đa dạng khác.

Hai mặt sinh vật và xã hội ở con người hợp thành một thể thống nhất có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người.

Với quan điểm trên con người là điểm xuất phát và giải phóng con người là mục đích cao nhất của triết học Mác.

Trên cơ sở tiếp thu quan điểm về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng nhân văn của cách mạng Pháp, tư tưởng từ bi của Phật giáo, nhân văn của Nho giáo và kế thừa truyền thống của dân tộc Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng dân tộc và mục tiêu là phát triển con người toàn diện.

Cách mạng Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam- Vấn đề xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân lao động, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. - Vấn đề phát triển thể chất, sức khỏe của con người.- Vấn đề nâng cao trình độ khoa học-kỹ thuật - Vấn đề văn hóa, đạo đức; chống những hiện tượng tiêu cực phát sinh trong xã hội. + Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay - Phấn đấu cho hạnh phúc của con người trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn

minh. Mục đích của chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tự do và hạnh phúc của con người. Sự phát triển tự do của cá nhân là điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Hạnh phúc của con người có liên quan mật thiết với vấn đề sức khỏe, thể lực, vấn đề việc làm và thu nhập của mỗi người, mỗi gia đình, vấn đề hôn nhân, xây dựng gia đình hạnh phúc...

Mặt khác, cũng cần nhận thấy rằng: con người chỉ có thể được phát triển toàn diện và sống hạnh phúc trong một môi trường xã hội công bằng, lành mạnh. Do đó, việc mưu cầu hạnh phúc cho con người không thể tách rời việc phấn đấu xây dựng một xã hội phát triển về kinh

-1-

Page 33: Bai Soan 15 CAU on TAP Triet Hoc(Ban 1)

tế, công bằng, dân chủ và văn minh. Kiên quyết chống những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội.

- Đào tạo những con người của xã hội văn minh. Con người mới là những con người có đủ trình độ và năng lực làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Do đó, giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu đào tạo ra những con người mới vừa hồng, vừa chuyên, nghĩa là vừa có đủ trình độ và năng lực sáng tạo và làm chủ khoa học và công nghệ, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, vừa có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức để có thể giữ vững thành quả cách mạng và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đưa nước ta tiến kịp trình độ của văn minh nhân loại.

- Phát triển con người một cách toàn diện. Để có những con người có đủ trình độ và năng lực làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân, có cuộc sống gia đình hạnh phúc thì cần phải phát triển con người một cách toàn diện, cả về thể lực và trí lực, cả về năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, đạo đức, cả về phẩm chất cá nhân và quan hệ xã hội.

-2-