Upload
quy-anh
View
138
Download
14
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Bồi thường thiệt hại trong Bộ luật dân sự Việt Nam phần cụ thể
Citation preview
2
Mục lục Trang
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra…………………3
Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra gây ra………………10
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do việc xây dựng gây ra………………………16
3
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra.
1. Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra?
Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời.
Theo khoản 2 Điều 606 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định về năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
“Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì
cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ
để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài
sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621
của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha,
mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”
Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ phụ thuộc vào tuổi và tài sản của con. Về độ
tuổi, vấn đề vướng mắc thường gặp trong thực tiễn xét xử liên quan đến trường hợp
khi gây thiệt hại còn chưa đủ 18 tuổi, nhưng khi xét xử vụ án thì người đó đã thành
niên. Phải xác định tuổi của người con vào thời điểm nào? Đối với thời điểm xác
định tuổi, có thể có hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất là xác định tuổi vào thời
điểm có hành vi gây thiệt hại và quan điểm thứ hai là xác định vào thởi điểm giải
quyết bồi thường thiệt hại. Thiết nghĩ, khi áp dụng những quy định tại Điều 606
BLDS hiện hành thì cần xác định tuổi của con vào thời điểm có hành vi gây thiệt
hại. Bởi lẽ, BLDS đã quy định “người chưa thành niên dười mười lăm tuổi gây thiệt
hại” hay “người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại”. BLDS đề
cập đến tuổi khi “gây thiệt hại”. Khi con gây thiệt hại đã thành niên và không thuộc
trường hợp giám hộ thì cha mẹ không phải chịu trách nhiệm và trong trường hợp
này, chúng ta không thể lấy tài sản của cha mẹ để thực hiện việc bồi thường.
4
Mặt khác, khi con gây thiệt hại là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì viêc
sử dụng tài sản của cha mẹ còn phụ thuộc vào tài sản của con. Do vậy, cần phải xác
định người gây thiệt hại có đủ tài sản để bồi thường hay không.
Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường của cha mẹ còn được quy định tại khoản 3 Điều
621 BLDS 2005:
“1. Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại
thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
3. Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, nếu trường
học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản
lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng
lực hình vi dân sự phải bồi thường.”
Vậy nếu trường học chứng minh được mình không có lỗi thì cha, mẹ vẫn phải bồi
thường.
Đối với tình huống
2. Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do
sức khỏe bị xâm phạm không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời.
Theo khoản 1 Điều 604 BLDS 2005 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại:
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm
phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường.”
Theo đó, Hùng phải bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Tuy nhiên, lúc gây thiệt hại Hùng chỉ mới 16 tuổi và Tòa án đã xác định hiện nay
Hùng không có bất kỳ tài sản nào, theo khoản 2 Điều 606 BLDS 2005:
5
“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha,
mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”
Về việc xác định tài sản để bồi thường, có thể có hai quan điểm khác nhau. Quan
điểm thứ nhất là xác định tài sản tài thời điểm có hành vi gây thiệt hại. Quan điểm
thứ hai là xác định tài sản tại thời điểm bồi thường. Giải pháp thứ hai là thuyết phục
vì quan trọng là ở thời điểm giải quyết bồi thường, người liên quan có khả năng bồi
thường hay không. Trước thời điểm này (có thể là khi có hành vi gây thiệt hại), người
liên quan có thể có đủ tài sản nhưng tại thời điểm giải quyết bồi thường họ không có
đủ điều kiện bồi thường như trong tình huống trên thì không đem lại lợi ích cho
người được bồi thường. Bên cạnh đó, BLDS quy định “nếu không đủ tài sản để bồi
thường”. Dường như tài sản ở đây là tài sản để bồi thường. Do đó, cần xác định tài
sản của người gây thiệt hại tại thời điểm bồi thường.
Khi giải quyết tình huống trên, tại thời điểm bồi thường thì Hùng không có tài sản
nên Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình.
3. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Bình giá trị chiếc
đồng hồ và chiếc xe đạp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết
hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.
Theo Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao, về nguyên tắc chung thì một trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có thiệt hại xảy ra.
Theo Điều 608 BLDS 2005 quy định về thiệt hại do tài sản bị xâm phạm:
“Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm thì thiệt hại được bồi thường bao gồm:
1. Tài sản bị mất;
2. Tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng;
3. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản;
4. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.”
6
Ở đây, không có “tài sản bị hủy hoặc bị hư hỏng”, không có việc “lợi ích gắn liền
với việc sử dụng, khai thác tài sản” và “chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc
phục thiệt hại”. Như vậy, nếu có thiệt hại thì có thể đó là thiệt hại do “tài sản bị mất”.
BLDS không định nghĩa khái niệm “tài sản bị mất” nhưng thông thường tài sản bị
mất là tài sản không còn trong phạm vi chiếm hữu, sử dụng của chủ sỡ hữu và việc
này ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Trong tình huống này, chiếc xe đạp hiện đang gửi nhà một người bạn nên khả năng
đòi lại tài sản vẫn còn. Vì khả năng đòi lại tài sản vẫn còn nên chưa thể coi là tài sản
này đã bị mất, tức là chưa có thiệt hại nên chưa có trách nhiệm bồi thường. Còn đối
với chiếc đồng hồ, Hùng đã bán cho người đi đường không rõ họ tên, địa chỉ nên
không thu hồi được. Vì vậy, Tòa án chỉ có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường giá trị
chiếc đồng hồ nhưng không thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường giá trị chiếc xe đạp
được.
Thực tiễn xét xử như Quyết định số 04/HĐTP-HS ngày 23-3-2004 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán hủy quyết định sơ thẩm
và phúc thẩm là do “số tài sản mà bị cáo chiếm đoạt chưa được thu hồi trả cho người
bị hại đã được Tòa án các cấp giải quyết buộc bố mẹ bị cáo phải bồi thường.” Đó là
2 xe máy, 1 đầu video, 4 điện thoại bàn…, Hùng bán cho Hoàng Văn Phương ở 72
Bà Triệu, thành phố Huế và một số nơi khác. Như vậy, theo Hội đồng Thẩm phán,
cha mẹ không phải bồi thường khi tài sản này vẫn chưa được tiến hành thu hồi.
4. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7
triệu đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối
với hoàn cảnh tương tự.
Theo Điều 604 BLDS 2005 căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm
phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường.”
7
Và khoản 1 Điều 605 BLDS 2005 về nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
“Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận
về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Nếu các bên không thỏa thuận được về hình thức bồi thường thì BLDS không có
hướng giải quyết cụ thể. Nộp tiền sung quỹ Nhà nước là một khoản tiền và bồi
thường thiệt hại cũng thường là một khoản tiền. Tuy nhiên, đây là hai phạm trù khác
nhau. Bởi lẽ, bồi thường thiệt hại là một khoản tiền mà người có trách nhiệm bồi
thường giao cho người bị thiệt hại còn sung quỹ Nhà nước là hoản cảnh một chủ thể
giao một khoản tiền cho một chủ thể khác là Nhà nước. BLDS chỉ đề cập tới trách
nhiệm “bồi thường” của cha mẹ khi con chưa thành niên gây thiệt hại nên việc Tòa
án buộc cha mẹ có trách nhiệm nôp tiền sung quỹ Nhà nước là mở rộng phạm vi
trách nhiệm của cha mẹ và việc mở rộng này là không có lí do thuyết phục. Về
nguyên tắc, ai có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì tự phải chịu bồi thường. Vì
vậy, Tòa án không thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu
đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ.
Trong thực tiễn xét xử, cũng trong Quyết định số 04/HĐTP-HS đã nêu, theo Hội
đồng Thẩm phán: “Tòa án các cấp buộc bố mẹ bị cáo phải nộp số tiền 7.570.000
đồng do bị cáo chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm cắp được là không đúng quy
định của pháp luật dân sự”. Việc Tòa án các cấp “mở rộng” việc nộp tiền sung quỹ
như vậy đã làm biến dạng quy định của pháp luật.
5. Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn
xét xử.
Khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cá nhân:
8
“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha,
mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”
Nếu Tòa án đã xác định Hùng không có bất kỳ tài sản nào để bồi thường thì cha mẹ
Hùng phải bồi thường phần còn thiếu cũng tức là toàn bộ thiệt hại. Vì vậy, Tòa án
không thể buộc Hùng và cha mẹ “cùng” bồi thường cho anh Bình
Theo thực tiễn xét xử, khi xem xét trách nhiệm của cha mẹ đối với thiệt hại do con
chưa thành niên gây ra, những quy định của BLDS quy định về trách nhiệm bồi
thường hoặc của người con, hoặc của cha mẹ và điều này phụ thuộc vào tuổi cũng
như tài sản để bồi thường. Điều đó có nghĩa là khi cha mẹ chịu trách nhiệm và Tòa
án không thể buộc con và cha mẹ “cùng” bồi thường. Đây là quan điểm của Hội
đồng thẩm phán trong Quyết định số 24/2006/HS-GĐT ngày 1-8-2006 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Đối với Bản án số 19
6. Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu
trách nhiệm bồi thường không? Cuối cùng, Tòa án đã buộc ai phải bồi
thường thiệt hại.
Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn không ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách
nhiệm bồi thường. Cụ thể, tại đoạn 2 trong phần Xét thấy: “Bà Thêm cho rằng bà và
ông Thụ đã ly hôn, Tòa án đã giao cháu Hậu cho ông Thụ trực tiếp nuôi dưỡng nên
bà không trách nhiệm về hành vi của cháu Hậu, lập luận của bà Thêm là không được
chấp nhận vì việc ly hôn giữa hai vợ chồng không làm chấm dứt nghĩa vụ của cha,
mẹ đối với con chung.”
Cuối cùng, Tòa án đã buộc bà Thêm và ông Thụ phải bồi thường thiệt hại. Cụ thể,
trong phần Xét thấy trang 4 của bản án: “buộc ông Mai Văn Thụ và bà Nguyễn Thị
Thêm có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Nam là
42.877.000đ, chia theo phần ông Thụ và bà Thêm mỗi người phải bồi thường là
21.438.500đ, bà Thêm đã bồi thường 3.000.000đ nên bà Thêm còn phải bồi thường
số tiền là 18.438.500đ.”
9
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (từ góc độ văn
bản cũng như so sánh pháp luật).
Pháp luật dân sự hiện nay không nhắc đến việc phát sinh trách nhiệm bồi thường của
cha mẹ với điều kiện là con phải sống cùng cha mẹ. Do vậy, cha mẹ phải bồi thường
ngay cả khi con không ở hay sống cùng cha mẹ trên cơ cở Điều 606. Hướng giải
quyết trên của Tòa án là hoàn toàn phù hợp với pháp luật hiện nay.
Ở Pháp, BLDS ban hành năm 1804 cũng đưa thêm điều kiện để quy trách nhiệm của
cha mẹ là con “chung sống cùng cha mẹ”. Tuy nhiên, điều kiện này thường được án
lệ Pháp xem nhẹ. Tức là Tòa án vẫn buộc cha mẹ bồi thường mặc dù con chưa thành
niên gây thiệt hại đang được giao cho ông, bà, quản lý, chăm sóc.
10
Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra.
1. Vì sao đã có quy định của Điều 604 mà BLDS còn có thêm quy định của
Điều 622?
Về nguyên tắc chung người nào gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.
Nguyên tắc này đã được thể hiện ở khoản 1 Điều 604 BLDS 2005:
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm
phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường”.
Còn Điều 622 là một chế định đặc thù, theo đó người bồi thường không phải là người
trực tiếp gây ra thiệt hại:
“Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm
công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền
yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả
một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Quy định của Điều 622 tạo điều kiện tốt hơn cho người bị hại trong việc yêu cầu bồi
thường đồng thời xét đến trách nhiệm của người sử dụng người làm công.
2. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra.
Đoạn trong phần Xét thấy của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về
bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra là: “Bị cáo là người lái xe thuê cho
Công ty TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định tại Điều 622 và Điều 623 Bộ
luật dân sự thì Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có
quyền yêu cầu Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả
một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
11
3. Trên cơ sở Điều 622, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra.
Theo Điều 622 BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do
người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và
có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại
phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Như vậy các điều kiện
để áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hai do người làm công gây ra gồm:
Thứ nhất: Người gây thiệt hại phải là người làm công - người làm công là người thực
hiện một công việc thường xuyên hay nhận một vụ việc để nhận một khoản tiền. Và
quan hệ “người làm công” chỉ tồn tại khi một người thực hiện công việc theo “mệnh
lệnh”, “chỉ dẫn” của người khác.
Thứ hai: Người bồi thường thiệt hại là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác khi
người làm công của các chủ thể này gây ra thiệt hại. Như vậy theo Điều 622 BLDS
thì cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại cho dù họ không
có lỗi, không có hành vi trái pháp luật và người bị thiệt hại cũng không phải chứng
minh rằng những chủ thể này đã có lỗi hay hành vi trái pháp luật.
Thứ ba: Có thiệt hại xảy ra. Để áp dụng Điều 622 thì điều kiện thứ ba là phải có thiệt
hại phát sinh “trong khi thực hiện công việc được giao”
Thứ tư: Công việc được giao. Nếu người làm công gây ra thiệt hại khi thực hiện
công việc không liên quan đến việc làm công được giao thì người sử dụng lao động
không phải bồi thường thiệt hại.
4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 để buộc Công ty
Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng điều kiện nêu ở câu hỏi trên đối
với vụ việc được bình luận)
Theo nhóm em thì việc Tòa án vận dụng Điều 622 để buộc Công ty Hoàng Long bồi
thường là hợp lý vì đã dựa vào các điều kiện sau của Điều 622 để áp dụng các quy
định về bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra:
12
Thứ nhất: Người gây thiệt hại phải là người làm công – anh Hùng là người lái xe
thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long nên điều kiện này thỏa mãn.
Thứ hai: Người bồi thường thiệt hại là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác khi
người làm công của các chủ thể này gây ra thiệt hại. Trong vụ việc trên thì chủ thể
bồi thường thiệt hại do anh Hùng gây ra là Công ty TNHH vận tải Hoàng Long.
Thứ ba: Có thiệt hại xảy ra. Để áp dụng Điều 622 thì điều kiện thứ ba là phải có thiệt
hại phát sinh “trong khi thực hiện công việc được giao”. Thiệt hại trong vụ việc trên
là làm anh Trần Ngọc Hải chết ngay tại chỗ.
Thứ tư: Công việc được giao. Anh Hùng gây ra thiệt hại tính mạng cho anh Trần
Ngọc Hải khi thực hiện công việc liên quan đến việc làm công được giao là điều
khiển xe ô tô khách BKS: 16L – 3411 của Công ty TNHH vận tải Hoàng Long chở
khách đi từ Hải Phòng đến TP.Hồ Chí Minh.
5. Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông
Hùng thì ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao ?
Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng thì
ông Hùng phải bồi thường. Vì áp dụng khoản 1 Điều 604 BLDS 2005 quy định:
“Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: 1. Người nào do lỗi cố ý
hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài
sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Và khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra:
“Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì những người này phải bồi thường trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Ông Hùng đã có hành vi trái pháp luật là điều khiển xe ô tô khách lấn chiếm lòng
đường, hành vi đó do lỗi vô ý, do hành vi trái pháp luật của ông đã dẫn tới cái chết
của anh Hải (có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra).
13
Như vậy, nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông
Hùng thì ông Hùng vẫn phải bồi thường.
6. Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại?
Đoạn của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực hiện nghĩa vụ
bồi thường cho người bị thiệt hại là theo phần Xét thấy có nêu: “theo quyết định của
án sơ thẩm mặc dù bị cáo không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho người bị
hại nhưng đã tự nguyện nộp 5.000.000đ để cùng với Công ty TNHH vận tải Hoàng
Long khắc phục hậu quả xảy ra”
7. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm của ông Hùng đối với người bị thiệt hại?
Theo nhóm em hướng giải quyết trên của tòa án liên quan đến trách nhiệm của ông
Hùng đối với người bị hại là phù hợp với quy định tại điều 622. Tuy nhiên hướng
giải quyết đó chưa hợp lý lắm. Bởi vì tòa không xét đến trách nhiệm của ông Hùng
đối với người bị hại .
Theo nhóm em, nếu chỉ áp dụng Điều 622 thì quyền lợi của người bị thiệt hại chưa
được bảo vệ hiệu quả, nhất là trong trường hợp công ty hay chủ sử dụng người làm
công bị phá sản hay không còn khả năng thanh toán tiền bồi thường.
Hơn nữa trong trường hợp này, ông Hùng là người gây ra thiệt hại do hành vi trái
pháp luật của mình chứ không phải do sự sai bảo hay chỉ dẫn của người sử dụng
nguời làm công. vì vậy, đối với trường hợp của ông Hùng, Tòa nên xem xét bắt ông
Hùng bồi thường trực tiếp cho người bị hại.
8. Cho biết suy nghĩ của anh chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu
trực tiếp ông Hùng bồi thường.
Tại Điều 622 chúng ta chỉ thấy đề cập đến việc chủ thể là cá nhân, pháp nhân sử
dụng người làm công phải bồi thường cho người bị thiệt hại và người sử dụng người
làm công có quyền yêu cầu người gây ra thiệt hoàn trả lại một khoản tiền theo quy
14
định của pháp luật chứ không thấy đề cập đến vấn đề người bị thiệt hại có quyền yêu
cầu người gây ra thiệt hại bồi thường thiệt hại.
Theo quan điểm của nhóm em, pháp luật của nước ta nên có quy định thêm rằng
người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người gây ra thiệt hại bồi thường trong trường
hợp chủ thể sử dụng người làm công không còn khả năng tài chính để thực hiện trách
nhiệm bồi thường. Còn về phía người gây ra thiệt hại nếu chứng minh được hành vi
gây ra thiệt hại là do người sử dụng người làm công yêu cầu thì không phải bồi
thường; nếu họ tự gây ra thiệt hại khi thực hiện công việc được giao thì họ cũng phải
chịu trách nhiệm.
Đối với trường hợp trong bản án, ông Hùng do điều khiển xe ô tô khách lấn qua phần
đường bên trái va chạm với xe mô tô đi ngược chiều nên đã gây ra tai nạn. Như vậy
ông Hùng tự gây ra thiệt hại nên phía bên người bị thiệt hại có quyền yêu cầu ông
Hùng bồi thường một phần thiệt hại.
9. Lỗi của người làm công trong Điều 622 cần được hiểu như thế nào? Vì
sao?
Theo Điều 622 người sử dụng người làm công được yêu cầu hoàn trả một khoản tiền
khi người làm công “có lỗi trong việc gây thiệt hại”. Do vậy nếu không có lỗi thì
không phải hoàn trả. Tuy nhiên BLDS lại không quy định lỗi ở đây là gì? Lỗi ở đây
có thể được hiểu theo hai cách, lỗi giữa người gây ra thiệt hại với người bị thiệt hại
và lỗi giữa người sử dụng người làm công với người gây ra thiệt hại. Điều 622 ở đây
đang xét đến quan hệ giữa nguời làm công và người giao công việc nên hiểu theo
cách thứ hai hợp lý hơn.
Như vậy, ở đây nếu người gây ra thiệt hại hành động theo “lệnh” của người sử dụng
người làm công thì họ không có lỗi. Ngược lại, nếu người làm công không làm theo
yêu cầu của người sử dụng người làm công mà gây ra thiệt hại thì được xem là có
lỗi.
15
10. Theo Tòa án, ông Hùng có lỗi theo điều 622 không? Vì sao?
Theo Tòa án thì ông Hùng có có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005. Vì trong bản án
phần xét thấy có đoạn: “Bị cáo là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng
Long, nên theo quy định tại Điều 622 và Điều 623 Bộ luật dân sự thì Công ty TNHH
vận tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây
ra trong khi thực hiện công việc được giao”.
11. Theo Tòa án, Công ty Hoàng Long có được yêu cầu ông Hùng hoàn trả một
khoản tiền đã bồi thường cho người bị hại không? Đoạn nào của bản án
cho câu trả lời.
Theo Tòa án, Công ty Hoàng Long có được yêu cầu ông Hùng hoàn trả một khoản
tiền đã bồi thường cho người bị hại. Theo bản án phần Xét thấy có nêu: “Công ty
TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí
Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu Cao Chí
Hùng là người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy
định của pháp luật”.
12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của tòa án liên quan đến
trách nhiệm hoàn trả của ông Hùng.
Theo nhóm em hướng giải quyết trên của tòa án liên quan đến trách nhiệm hoàn trả
của ông Hùng là hợp lý. Vì theo quy định của Điều 622 người sử dụng lao động “có
quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Xét đến yếu tố lỗi trong trường
hợp này, thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật của ông Hùng, như vậy trong cả
hai quan hệ giữa ông Hùng và người bị thiệt hại với quan hệ giữa ông Hùng với
người sử dụng lao động thì ông Hùng đều là người có lỗi. Như vậy, ông Hùng phải
hoàn trả cho công ty TNHH vận tải Hoàng Long một khoản tiền theo luật định.
16
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do việc xây dựng gây ra
1. Trong hai quyết định trên, thiệt hại phát sinh từ nguyên nhân nào?
Trong quyết định số 322/2011/DS-GĐT nguyên nhân gây thiệt hại là do: “tháng
12/2007, chị Lưu Thị Tuyết là chủ nhà số 12 giáp với nhà số 10 xây dựng nhà mới
làm cho nhà số 10 của ông Khanh xuất hiện vết nứt. Ông Khanh có báo cáo với chính
quyền địa phương, Sở xây dựng đến lập biên bản ngày 12/12/2007 ghi nhận 13 vết
nứt. Gia đình chị Tuyết tiếp tục xây dựng đến ngày 29/1/2008 chính quyền địa
phương cùng Sở xây dựng tỉnh Vĩnh Long đến lập biên bản ghi nhận có thêm 7 vết
nứt mới”
Trong quyết định số 19/2012/DS-GĐT nguyên nhân gây thiệt hại là do: “theo kết
quả giám định số 34/BC- TTKĐ ngày 23-12-2010 của Trung tâm kiểm định chất
lượng và xây dựng Đà Nẵng đã xác định nguyên nhân là do trong quá trình thi công
móng nhà, đơn vị thi công đã không có biện pháp che chắn giữ đất công trình lân
cận hợp lý, đã gây sự cố lún đất nền móng, nứt tường… của gia đình nhà ông Khơi,
bà Hoa”.
2. Trong vụ việc thứ nhất, đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa dân sự theo
hướng áp dụng Điều 627 BLDS?
Trong phần xét thấy trang 220: “Như vậy thiệt hại do chị Tuyết gây ra cho gia đình
ông Khanh là thiệt hại thực tế là có thật và được xác định thiệt hại là 43.296.400
đồng nhưng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ chấp nhận 75% giá trị còn lại của ngôi nhà =
32.472.300đồng là không đúng với nguyên tắc bồi thường thiệt hại qui định tại Điều
605, 627 Bộ luật dân sự và Điều 120 Luật xây dựng”
3. Suy nghĩ của anh/chị về việc vận dụng Điều 627 BLDS trong những vụ việc
như trong Quyết định số 322.
Trong vụ việc trên, nếu áp dụng thiệt hại do công trình xây dựng gây ra theo Điều
627 là không hợp lí. Theo Điều 627 về Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng khác gây ra:
17
“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công
trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây
dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ
trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự
kiện bất khả kháng”.
Vậy nếu vận dụng Điều 627 không phải thiệt hại nào do nhà cửa, công trình khác
cũng được bồi thường mà chỉ những thiệt hại do tài sản này “bị sụp đổ, hư hỏng sụt
lở” gây ra mới được đề cập đến. Mà trong cả 2 vụ việc, nhà của bà Tuyết và nhà của
ông Vũ - bà Vân xây dựng trên phần đất của họ, không tác động gì đến nhà liền kề,
không sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho nhà bên cạnh (nhà ông Khanh, nhà
ông Khơi - bà Hoa). Nhà của ông Khanh, ông Khơi - bà Hoa bị thiệt hại không phải
do việc nhà của bà Tuyết, ông Vũ - bà Vân bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở mà do việc đào
móng nền, xây tường nhà cao tầng làm tác động đến phần đất nền của nhà bên cạnh.
Vì vậy không đủ điều kiện để áp dụng điều 627 trong 2 vụ việc trên.
Điều 627 quy định chủ sở hữu, người được giao quản lý bồi thường “nếu để nhà cửa,
công trình khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại”. Cụm từ “nếu để” tài sản
này bị sụp đổ, hư hỏng sụt lở rất khó hiểu. Thực tế “tài sản bị sụp đổ, hư hỏng, sụt
lở” có thể xuất phát từ hai lý do. Thứ nhất là do ý muốn con người. Thứ hai là do
ngoài ý chí của con người. Tuy nhiên trước sự không rõ ràng của văn bản, chúng ta
nên giải thích có lợi cho nạn nhân nghĩa là Điều 627 chúng ta giải thích theo hướng
tài sản bị “sụp đổ, hư hỏng, sụt lở” là do ý chí ngoài ý muốn của chủ sở hữu, người
quản lý (theo Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đổng Việt Nam-Bản
án và bình luận bản án, Nxb.CTQG 2010, bản án số 50).
4. Trong Quyết định số 19, đoạn nào cho thấy Tòa dân sự theo hướng chủ sở
hữu và người thi công liên đới bồi thường thiệt hại?
Trong phần xét thấy trang 226: “Mặt khác, Tòa án sơ thẩm không đưa đơn vị thi
công công trình là Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng KT & H vào tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ trách nhiệm gây thiệt
hại và trách nhiệm liên đới khi bồi thường cho ông Khơi, bà Hoa là thiếu sót”
18
5. Trước Quyết định trên, đã có tác giả nào theo hướng chủ sở hữu công trình
và người thi công liên đới bồi thường thiệt hại trong những hoàn cảnh
trong hai Quyết định được bình luận chưa?
Theo bản án số 447/2008/DS-PT ngày 8-5-2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh
Tóm tắt bản án: Bà Nguyễn Ngọc Lan có khiếu nại về việc trong quá trình xây dựng
nhà của ông Nguyễn Đông Hải và bà Huỳnh Ánh Tuyết gây thiệt hại cho nhà của bà
Lan, cụ thể: Nhà bị thấm nước từ trước đến sau. Bà Lan khởi kiện yêu cầu ông Hải
bà Tuyết bồi thường thiệt hại do việc xây dựng nhà của ông Hải bà Tuyết gây ra, bà
Lan không đồng ý ông Nhân bồi thường thiệt hại cho bà vì ông Nhân không phải
chủ sở hữu ngôi nhà (ông Nhân là thầu xây dựng nhà của ông Hải bà Tuyết) mặc dù
trước đó có thỏa thuận giữa bà Lan, bà Tuyết ông Nhân về khắc phục hậu quả thiệt
hại nhà bà Lan nhưng do ông Nhân không thực hiện nên bà Tuyết, ông Hải phải bồi
thường.
Theo hợp đồng kí giữa bà Tuyết với công ty TNHH Thương mại – xây dừng QH thì
phía công ty phải chịu trách nhiệm an toàn cho hộ kế bên, nếu có thiệt hại thì phải
bồi thường.Theo Tòa xét thấy thì sự thỏa thuận trên làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ giữa bà Tuyết với công ty. Do đó bà Tuyết có quyền khởi kiện công ty… thành
vụ kiện khác về phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các hộ kế bên do việc
xây dựng nhà của bà Tuyết gây ra.
Trong vụ việc trên, hai chủ thể liên quan đến bồi thường là chủ sở hữu công trình
(ông Hải, bà Tuyết) và người thi công công trình (chủ thầu ông Nhân). Ai phải bồi
thường? Tòa án chỉ buộc chủ sở hữu công trình phải bồi thường. Cụ thể theo Tòa án
“mặc dù trước đó có sự thỏa thuận giữa bà Lan, bà Tuyết và ông Nhân về việc khắc
phục hậu quả của bà Lan, nhưng do ông Nhân không thực hiện, nên bà Tuyết, ông
Hải là chủ đầu tư phải bồi thường thiệt hại cho nhà bà Lan”. Việc quy trách nhiệm
cho chủ đầu tư mà loại trừ cho người thầu xây dựng có thể được lý giải như sau: ý
tưởng xây dựng là của chủ đầu tư và thầu xây dựng chỉ là người thực hiện công việc
của chủ đầu tư. Tuy nhiên quyết định xây dựng là của chủ đầu tư nhưng công việc
19
của người thầu cũng có thể ảnh hưởng tới người bên cạnh. Để tạo điều kiện cho phía
người bị hại, phải chăng chúng ta nên buộc cả hai liên đới chịu trách nhiệm.
Như vậy theo phân tích trên mặc dù văn bản hiện hành không quy định rõ ràng liên
đới chịu trách nhiệm trong trường hợp trên nhưng theo ý kiến của Đỗ Văn Đại ta
nên buộc cả nhà thầu và chủ đầu tư liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Nếu ta làm như thế sẽ hạn chế sự lơ là, thất trách của các nhà thầu, buộc họ phải có
trách nhiệm cao nhất với công việc của mình.
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trách nhiệm liên đới giữa chủ sở
hữu công trình và người thi công công trình (nếu được, hãy đối chiếu với
pháp luật nước ngoài đối với hoàn cảnh tương tự)
Hướng xác định này hoàn toàn thuyết phục vì như thế sẽ nâng cao được trách nhiệm
của những người xây dựng công trình, buộc họ phải làm việc có trách nhiệm hơn,
đảm bảo an toàn cho nhà cửa, các vùng lân cận.
Điều 1386 BLDS Pháp: “Chủ sở hữu công trình xây dựng phải chịu trách nhiệm về
thiệt hại gây ra do công trình bị đổ vì thiếu bảo dưỡng hoặc vì khuyết tật trong khi
xây dựng”.
Liên quan đến vấn đề này Điều 717 BLDS Nhật Bản qui định: “Nếu việc xảy ra thiệt
hại đối với người khác vì nguyên nhân sai sót trong xây dựng hoặc bảo quản cấu trúc
trên đất thì người chiếm hữu cấu trúc chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối với
bên bị thiệt hại, song nếu như người chiếm hữu đã thể hiện sự quan tâm đúng mức
nhằm ngăn chận việc xảy ra thiệt hại thì chủ của cấu trúc đó phải bồi thường”.
Theo qui định trên, nếu công trình đang xây dựng mà gây thiệt hại thì phải xác định
lỗi của người đang thi công. Trường hợp người thi công có lỗi như vi phạm qui trình
kỹ thuật xây dựng, vô ý để tài sản gây thiệt hại cho người khác thì bên thi công phải
bồi thường thiệt hại. Qui định này hoàn toàn phù hợp với thực tế, bởi lẽ xây dựng là
công việc thuộc chuyên môn kỹ thuật cao, người làm nghề xây dựng phải có thẻ
hành nghề và mua bảo hiểm nghề nghiệp, vì vậy nếu trong quá trình xây dựng do lỗi
20
của bên thi công thì bên thi công phải bồi thường thiệt hại và bên thi công có quyền
yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường thay.
Trường hợp, các công trình xây dựng hoặc các cấu trúc khác như nhà khung sắt, nhà
gỗ… sụp đổ gây thiệt hại, trước hết xem xét người chiếm hữu cấu trúc đó có lỗi trong
việc sử dụng hay không, nếu người chiếm hữu không có lỗi trong việc cấu trúc gây
thiệt hại thì chủ sở hữu công trình phải bồi thường. Rõ ràng trường hợp này người
chủ sở hữu không có lỗi trong việc khai thác tài sản, cho nên qui định có tính chất
suy đoán người chủ sở hữu có lỗi nên buộc phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, xét
về mặt thực tiễn qui định này có tính hợp lý, thể hiện là công trình xây dựng là những
khối bê tông cốt thép khổng lồ được chôn sâu trong lòng đất, vì công trình xây dựng
do con người tạo ra, do vậy mọi tính toán của con người đều không thể đúng một
cách tuyệt đối, cho nên có thể dẫn đến thiếu sót trong thăm dò địa chất, thiết kế, hoặc
thi công dẫn đến gây thiệt hại cho người khác, vì vậy cần phải buộc chủ sở hữu bồi
thường cho người bị thiệt hại là phù hợp. Mặt khác pháp luật qui định như vậy để
buộc chủ sở hữu phải mua bảo hiểm các công trình xây dựng, nếu xảy ra thiệt hại thì
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường thay.
Những qui định về bồi thường thiệt hại trong Luật dân sự của Pháp và đặc biệt của
Luật dân sự Nhật Bản rất hợp lý và hợp tình trong việc xác định trách nhiệm dân sự
của người gây thiệt hại hoặc của chủ sở hữu, người quản lý sử dụng tài sản. Những
qui định này chỉ rõ trường hợp nào có lỗi, trường hợp nào không có lỗi nhưng vẫn
phải bồi thường, trên cơ sở đó áp dụng pháp luật sẽ được chính xác.
7. Khi có sự thay đổi chủ sở hữu công trình, Tòa án buộc ai phải chịu trách
nhiệm bồi thường? Chủ sở hữu hiện tại hay chủ sở hữu công trình tại thời
điểm có sự kiện gây thiệt hại?
Tòa án xác định chủ sở hữu công trình tại thời điểm có sự kiện gây thiệt hại phải
chịu trách nhiệm bồi thường. Ở đây trong bản án 19 được bình luận mặc dù thời
điểm khởi kiện ông Vũ, bà Vân đã làm thủ tục tặng cho nhà cho bà Hà nhưng thiệt
hại xảy ra trước khi bị đơn làm thủ tục tặng nhà cho bà Hà. Nên trong trường hợp
này Tòa án đã xác định bị đơn trong vụ án là ông Vũ, bà Vân là chính xác.
21
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về xác định
người bồi thường trong trường hợp thay đổi chủ sở hữu.
Theo nhóm em thì hướng giải quyết trên của Tòa án về xác định người bồi thường
trong trường hợp thay đổi chủ sở hữu là hợp lí, thuyết phục. Tòa án đã xử lý theo
hướng buộc ông Vũ, bà Vân bồi thường thiệt hại cho nhà ông Khơi, bà Hoa mà
không phải là bà Hà. Mặc dù tại thời điểm xét xử vụ án thì ông Vũ, bà Vân đã làm
thủ tục tặng nhà cho bà Hà. Căn cứ vào hồ sơ vụ án thì thiệt hại xảy ra trước lúc tặng
cho. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì ta phải xác định được mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả gây ra.