Upload
tranthuan
View
222
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Ban Tổ Chức Đại Hội OCS 11 Nam California
Ngày 23 – 26 Tháng 6, 2010
Trưởng ban :
Hồ Ngọc Minh Đức 1-714-234-4508 [email protected]
Phụ tá :
Lê Quang Trung 1-714-657-9162 [email protected]
Tài chánh :
Vũ Gia Khánh 1-714-510-4438 [email protected]
Tiếp tân :
Ngô Sơn 1-562-212-9907 [email protected]
Thông tin :
Lê Sĩ Quý 1-714-308-8364 [email protected]
Đặc san :
Võ Anh Tuấn 1-310-675-5307 [email protected]
Du ngoạn :
Nguyễn Xuân Thành 1-714-357-5940 [email protected]
Cùng Toàn Thể Gia Đình OCS Nam California
2 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Chủ Biên :
Võ Anh Tuấn
Biên Tập :
Gia Đình OCS
Trình bày & layout :
Vũ Hoàng Thư
Hình Bìa :
Nguyễn Nhật Cường
Phạm Đình Công
Thực hiện và phát
hành:
Ban Tổ Chức Đại Hội
OCS 11
Quý Bạn OCS và gia đình thân mến,
Bạn đang cầm tờ Đặc San Đại Hội 11 OCS Nam Cali trên tay, kết
quả đóng góp của tất cả Anh Chị em trong đại gia đình OCS. Không ai
dám nhận mình là văn thi sĩ, chúng ta chỉ nhận mình là những kẻ một
thời gắn bó với đại dƣơng và cùng chung vai đấu cật với nhau một thời.
Sự kết hợp kỳ diệu đó đã quây quần chúng ta lại với nhau hôm nay và
phôi thai tờ Đặc San.
Bạn còn nhớ, kể từ ngày đó ? Một buổi chiều nắng hạ soi lên
chiếc cầu treo ngoài vịnh Newport, nhìn về phía bên kia bờ đại dƣơng
nhớ một mái tóc, nhớ một vòng tay lƣng. Ngƣời yêu dấu đợi chờ ở cuối
chân mây. Thao thức ngày về theo lá phong đỏ ngập dài con đƣờng
xuống phố vang vọng tiếng cƣời thân quen công viên chiều hẹn hò. Có
bao nhiêu lá vàng trong một mùa thu vàng ngập lá Newport? Và mùa
qua, tuyết trắng phủ kín sân King Hall. Khúc phim vần quay thật nhanh
trong trí tƣởng cho ta lùi về một dĩ vãng tƣởng còn mới nhƣ hôm qua.
Đã 40 năm kể từ những bƣớc ách ê đầu đời ở Bạch Đằng II và
thời gian ngắn ngủi đội ngũ chung nhau dƣới mái trƣờng OCS. Nhắc
nhƣ thế để biết chúng ta không quên một quá khứ tuyệt đẹp. Cùng một
mẫu số, đoàn ngƣời trai "kiêu hùng cùng nhau tách bến" ấy tung ra khắp
bốn phƣơng trời nƣớc Việt. Mang trên vai Quê Hƣơng và Đại Dƣơng.
Ấp ủ lý tƣởng làm trai khi đất nƣớc can qua. Kẻ còn, ngƣời mất trong
khói lửa ngập trời. Rồi vật đổi sao dời. Rồi vận nƣớc điêu linh. Chuyến
hải hành cuối cùng không mở ra những mộng lớn hải hồ, mà thật sự chỉ
là khởi điểm cho những chiếc bách trôi nổi giữa dòng. Ba mƣơi lăm năm
lƣu vong, đủ dài cho một thế hệ mới lớn lên, đồng thời cũng là tố chất
làm dậy men cho thế hệ chúng ta trở thành những bình rƣợu quý !
Ngày hôm nay, anh em chúng mình cùng nhau một lần nữa tụ
họp. Đây là lần thứ 11, tay nắm tay, lòng trong lòng của tình đồng môn,
nghĩa chiến hữu, đồng ngũ một thời, và sau hết, quý giá thay ở lứa tuổi
trên 60 nhi-nhĩ-thuận, những tên bạn già không thể nào quên nhau sau
bốn mƣơi năm, kể từ ngày đó.
Ban Tổ Chức Đại Hội 11 OCS Nam Cali nhiệt liệt hân hoan chào
đón tất cả bạn bè thân hữu khắp thế giới cùng về đây siết chặt tay nhau
trong tình thân hữu, chung vui những ngày ấm áp Cali. Ban Tổ Chức
nguyện sẽ làm việc hết mình để không phụ lòng quý bạn đã bỏ hết mọi
sự về đây. Bên cạnh đó, ƣớc mong nắng Cali sẽ ƣớm vàng rực rỡ thành
những kỷ niệm khó quên đối với bạn và gia đình.
Bạn Đồng Môn ! Thân Chào Hội Ngộ !
BTC/ĐH11/OCS Nam California
Thư Ngỏ
2 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Tháng Tư, Với Người Ở Lại
Phạm Hồng Ân
“Để khật khưỡng chiều say trên xứ lạ
Thấy mơ hồ một chiến hạm ra khơi"
Có thể, tôi sẽ trở về Việt Nam thêm một lần.
Một lần để thăm lại bằng hữu, chiến hữu và cố
nhân. Cứ hàng năm, đến tháng tƣ, lòng tôi quặn
thắt, khi chợt nhớ đến Tƣ Ù - ngƣời thủy thủ
năm xƣa, trên Trợ Chiến Hạm HQ.231. Tôi nhớ
từng lời đối thoại giữa tôi và anh, trƣớc những
phút giây sắp sửa tan hàng.
- Trung Úy ơi! Tan hàng, rồi...trung úy đi đâu?
- Có lẽ, tôi về nhà. Sống chết bên vợ con.
- Em cũng vậy. Em cũng cùng ý nghĩ nhƣ trung
úy. Có về, cho em đi theo, nhá trung úy!
- Đồng ý! Nhƣng sau này có mệnh hệ chi, đừng
trách nhau nhé!
Tôi cởi tung quân phục, xếp gọn gàng lại, đặt
trên đầu giƣờng. Tôi nhìn đôi lon trung úy lần
cuối. Nhìn chiến hạm lần cuối. Nhìn những bậc
thang lên đài chỉ huy, nhƣ đƣa tôi lên đài danh
vọng thuở nào. Nhìn những bậc thang dẫn xuống
hầm tàu, dẫn xuống lòng nƣớc - nhƣ chôn vùi
tuổi tên, chôn vùi cả một cuộc đời. Tôi rƣng
rƣng nƣớc mắt, gọi chiếc PBR (Patrol River
Boat) của giang đoàn tuần thám đến, lầm lũi đƣa
tôi và Tƣ Ù vào bờ.
Thế rồi, tôi vô tù. Tƣ Ù về với mảnh vƣờn, thửa
ruộng. Thế rồi, tôi đi Mỹ, diện HO. Tƣ Ù ở lại,
vắt kiệt đời anh trên từng mảng đất bạc màu.
Những bằng hữu chí thân của tôi cũng vậy. Bây
giờ, Huỳnh Kim Soàng chạy xe ôm ở Sóc Trăng.
Trần Cung Thy bán vé số ở cầu Ông Lãnh.
Nguyễn văn Bảo sửa đồng hồ bên lề đƣờng.
Trƣơng Chí Thảo đi vùng kinh tế mới. Nguyễn
Hồ lê tấm thân tàn ma dại, khất thực ở Cà Mau.
Tiết cố nhân lƣu lạc sang Campuchia. Mỗi ngƣời
mỗi nơi. Mỗi hoàn cảnh là mỗi nỗi đau thƣơng
ngút ngàn.
Tháng tƣ, năm 1975 nhƣ một đại họa khủng
khiếp, dìm thế hệ chúng tôi xuống tận cùng địa
ngục. Đại họa kéo dài. Nó dây mơ rễ má đến đời
con, đời cháu. Những ngƣời may mắn qua Mỹ,
dẫu có tấm lòng, vẫn không làm sao xoa dịu hết
những khổ đau chất chồng, mà ngƣời ở lại cam
chịu.
Cách đây vài tháng, Nguyễn văn Bảo trút hơi
tàn. Anh nằm xuống bởi căn bệnh nan y, bởi
thời cuộc quá thô bạo, phũ phàng. Những cái
đồng hồ kiểu cọ từ Trung Quốc nhập lậu qua,
vừa đẹp vừa rẻ tiền. Ngƣời ta tự động vứt bỏ
những cái hƣ hỏng, cổ lỗ. Đâu cần phải mất thì
giờ đến thợ sửa chữa, tu bổ. Thế là, Nguyễn văn
Bảo dầm mƣa phơi nắng, ngồi ngoài trời suốt
ngày, từ tháng này qua tháng khác, với cái bụng
xẹp lép, với một mớ trí thức vô dụng. Cho đến
giây phút cuối cùng, cơn đau thập tử nhất sinh
đã đƣa bạn về thế giới bên kia.
Còn Trần Cung Thy? Cái thằng thiếu úy bộ binh
hiền nhƣ đất cục. Cái tên thi nhân lãng mạn, có
những vần thơ đẹp nhƣ khói nhƣ sƣơng nhƣ mây
nhƣ gió:
...Đêm còn lại
3 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
với sƣơng mù mái tóc
Guốc gõ đều
và khói thuốc mênh mông
Đại lộ chạy dài
đèn xanh đèn đỏ
Tiếng nói của lòng
gió chạy hƣ không...
(Thơ Hàn Lệ Cung Thy)
Vậy mà, bây giờ, nhà thơ ngồi bên lề đƣờng bán
từng tờ vé số. Cứ thế, anh câm lặng nhƣ tảng đá,
hết giờ này qua giờ khác, cho đến lúc...nổi điên,
chửi thề. Rồi bỏ nhà, đi thất thểu nhƣ tên ăn
mày.
Tôi gặp Thy, lần cuối, sau 1975, trên một ghe
thƣơng hồ. Gia đình anh túm năm tụm bảy lên
ghe, đi khắp vùng sông ngòi, chở mƣớn cho con
buôn. Làm ăn chẳng bao lâu, cách mạng trƣng
dụng ghe, ghép gia đình anh vào tội: buôn lậu.
Thế là, tài sản mất trắng, chồng vợ ly tán. Cuối
cùng, anh điên điên khùng khùng, về cầu Ông
Lãnh bán vé số qua ngày.
Tôi cũng không thể quên Hải Quân Trung Úy
Huỳnh Kim Soàng. Một thằng bạn khí phách
nhất trong đám lính tráng hải quân. Một thằng
bạn hào hoa phong nhã nhất trong nhóm sĩ quan
Hải Đội 4 Duyên Phòng ở Phú Quốc. Rất tiếc,
sau 1975, Soàng ở tù chỉ có hai năm mƣời một
tháng. Mà diện HO, xét đi Mỹ, phải ít nhất là ba
năm tù. Thiếu một tháng gỡ lịch, đành hận cả
một đời. Soàng cam chịu ngƣời ở lại, kéo dài
cuộc sống bằng chiếc xe ôm tàn tạ.Đau khổ nhất,
là Nguyễn Hồ. Ngƣời thƣơng phế binh bị cụt hai
chân, bởi một cuộc chiến khốc liệt nơi vùng
rừng núi cao nguyên. Nguyễn Hồ sống một
mình, trong túp lều rách nát dƣới chân cầu quây,
tỉnh Cà Mau. Anh hành nghề khất thực. Ban
ngày, lê tấm thân tàn khắp đó đây, ngửa tay xin
từng đồng lẻ của khách qua đƣờng. Anh lân la
tới tối, khi đã mệt lả, mới bò về túp lều, khoanh
tròn trong chiếc chiếu rách để dỗ giấc ngủ.
Nguyễn Hồ bị cụt hai chân, nhƣng trời còn
thƣơng, chừa hai đầu gối anh lại. Chính nhờ hai
đầu gối này, anh lết đi khắp nơi, cùng với hai
bàn tay trợ lực. Và cứ vậy, anh đã sống trên ba
mƣơi năm khổ hãi nhƣ thế, dƣới chế độ cộng
sản.
Năm trƣớc, thằng em kết nghĩa của tôi ở Cà
Mau, viết thƣ cho tôi, trong đó có đoạn:
"...Anh Sáu, anh còn nhớ Tiết cố nhân của anh
chăng? Em nghĩ, đã là cố nhân với nhau, làm sao
quên đƣợc, phải không anh? Tiết bây giờ lƣu lạc
sang Campuchia, với gia đình. Cách đây hai
năm, Em có công việc qua Nông Pênh, tình cờ
gặp Tiết nơi một khu thƣơng mãi. Anh ơi! nếu
có anh ở đây, chắc chắn anh chẳng nhìn ra Tiết
đâu? Một cô bé học trò dễ thƣơng ngày nào. Một
nàng Thơ xinh xắn, duyên dáng của anh ngày
trƣớc - giờ trở thành một bà già tong teo, đứng
cặm cụi bán mì trên đƣờng phố Nông Pênh. Anh
ơi! nhìn Tiết, em thấy tội nghiệp cho chị vô
cùng. Thời gian gớm ghê thật! Bàn tay vô hình
và tàn bạo của nó, không bỏ sót một ai, phải
không anh?..."
Đọc xong thƣ, tôi bồi hồi, ray rứt mãi. Hình ảnh
cô học trò dễ thƣơng hiện ra trong ký ức. Ngày
xƣa, lúc nào, Tiết cũng xõa tóc dài, ôm chiếc cặp
da trƣớc ngực, khoan thai bƣớc trên hành lang
lớp học. Và tà áo dài, tà áo dài thƣớt tha, lồng
lộng gió xuân, Tiết mặc buổi sáng đầu năm,
khiến tôi nao nao cắn bút làm thơ:
Sáng nay em mặc áo dài
Bên kia là pháo, bên này là hoa
Màu trời lẫn với màu da
Chia nhau một chút kiêu sa đầu ngày
Sáng nay lòng bỗng say say
Thì ra xuân đã về ngay tim mình.
(Thơ Phạm Hồng Ân)
4 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Rồi, cho đến một ngày, tôi trở lại Việt Nam.
Buổi trƣa hôm sau, thằng em kết nghĩa đƣa tôi
đến chợ cầu Ông Lãnh. Từ xa, nó chỉ cái sạp bán
vé số dƣới gốc cây. Bên cạnh, là một lão bụi đời,
ngồi phe phẩy tờ báo.
- Đó! anh Thy đó! Thằng cha mặc áo ka ki xanh.
Tôi tiến đến lão. Trời ơi! thằng bạn thơ ngày xƣa
đây ƣ? Thời gian và thời cuộc làm nó tàn tạ đến
thế sao? Tôi muốn ôm chầm bạn. Muốn tâm sự,
kể lể huyên thiên. Nhƣng, tôi nén lại. Ít ra, cũng
bông đùa bạn đôi chút, nhƣ ngày xƣa, hai đứa đã
từng giỡn hớt với nhau.
- Này, ông bạn! Tôi sẽ mua hết tất cả những tờ
vé số này. Nhƣng, với một điều kiện.
Thy ngƣớc lên. Cặp mắt anh bắt đầu ngang tàng,
chầm chậm phóng thẳng tia nhìn vào mặt tôi.
- Điều kiện gì?
- Điều kiện là... phải có vé trúng độc đắc chiều
nay, trong xấp vé số này.
Mặt Thy tái đi. Anh chợt đứng dậy, hầm hập đẩy
hai tay áo lên tận cùi chỏ.
- Mẹ, nếu biết thế... thì tau dại gì bán cho mày?
Lúc này, tôi mới cƣời ha hả với Thy. Kéo bạn
vào lòng, mừng rỡ.
- Thy ơi! Tau đây! Ân đây! Mày không nhận ra
tau sao?
Thy ngỡ ngàng. Rồi, ôm chầm lấy tôi. Những
giọt nƣớc mắt ứa ra.
- Hèn chi, tau thấy mày ngờ ngợ, quen quen...
Chúng tôi kéo nhau vào quán. Thức ăn dọn lên.
Các chai bia bắt đầu khui nắp. Men bia cùng với
men tình thấm nhập vào máu, khiến chúng tôi
lâng lâng đến tận cùng kỷ niệm.
Trời đã xế chiều, tôi phải từ giã Thy ra về.
Trƣớc khi đi, tôi giúi vào tay bạn chiếc máy ảnh.
- Đây là quà cho mày. Cất lấy, kỷ niệm.
- Gì vậy? Máy ảnh ƣ? Tau không cần thứ này!
Thy xua tay, lắc đầu quầy quậy. Tôi tha thiết,
ôm vai bạn.
- Tuổi già, tụi mình thƣờng sống với quá khứ.
Biết đâu với món quà này, nó giúp mày ghi lại
và giữ gìn những kỷ niệm quí báu.
Thy nổi hứng vung tay vung chân :
- Ghi lại cuộc đời một thằng bán vé số chết tiệt,
bị xã hội ruồng rẫy ƣ? Hay chụp lại những
nghèo khổ, tai ƣơng, đau thƣơng chồng chất...để
kỷ niệm?
Tôi vuốt vai bạn, ái ngại :
- Xin lỗi. Tau không có ý nghĩ nhƣ thế!
Thy gạt phăng tay tôi ra, tiếp tục nói thao thao:
- Tau tƣởng mày qua Mỹ, trở về, sẽ mang đến
cho tụi tau một sự bình yên nào đó cho cuộc đời.
Từ lâu, tụi tau đã khát khao trông chờ điều đó.
Trông chờ tấm lòng. Tấm lòng đồng đội. Tấm
lòng bác ái của tụi bây, để thay đổi số phận
nghiệt ngã của chúng tau, trên đất nƣớc lầm than
này. Hóa ra, sau thời gian sống sung sƣớng ở
Mỹ, mày chỉ là thằng Việt kiều bơ sữa, chỉ mãi
lo chuyện vinh thân phì da. Quên mẹ đất nƣớc,
dân tộc, bạn bè...
5 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
- Không, tau không có lòng dạ đó! Mày chƣa...
Thy đẩy tôi vào vách quán, ngó sát vào mặt tôi,
thì thào:
- Mày cầm máy ảnh này, chịu khó đi vòng quanh
đất nƣớc. Đi thăm lại mồ mả của những chiến
hữu, những bè bạn ngày xƣa...đã cống hiến trọn
tuổi thanh xuân cho quê hƣơng. Thăm thằng phế
binh Nguyễn Hồ, và nhiều thằng phế binh
nữa...đang lê tấm thân tàn, ăn mày khắp nơi.
Thăm thế hệ chúng ta, bây giờ, có đứa chạy xe
ôm, có đứa vá bánh xe, có đứa vác mƣớn làm
thuê, có đứa ôm bệnh nan y, có đứa trút hơi tàn
không có tấc đất chôn cất... Ghi đi! Chụp đi!
Mày cứ tha hồ kỷ niệm.
Tôi luống cuống đi nhanh ra khỏi quán. Tôi
muốn chạy trốn Thy. Chạy trốn tiếng nói đầy
thổn thức của bạn. Nhƣng càng chạy trốn, đầu
óc tôi càng quay cuồng. Có thể, tại tôi uống rƣợu
quá nhiều. Cũng có thể, âm thanh của Thy nhƣ
cú sốc, xoáy vào trái tim tôi.
Đêm nay, tôi muốn về Tam Bình tìm Tƣ Ù. Ở
đó, không khí đồng quê sẽ làm tâm hồn tôi bình
thản lại. Tôi sẽ cùng bạn ngồi trên bờ sông Tiền,
bên cạnh vƣờn cây trái xum xuê, ngắm trăng
thƣợng tuần treo lơ lửng ngoài khơi. Chắc chắn,
sẽ có mâm rƣợu kế đó. Mâm rƣợu đƣợc đặt lên
chiếu, trải tự nhiên trên bãi cỏ xanh. Rồi, những
ly đế nguyên chất làm cay xé môi miệng, làm
ấm lại trái tim phiêu bồng. Sau đó, hai đứa sẽ
say bí tỉ, quên đất quên trời, quên mất thế gian
đầy hệ lụy.
Phạm Hồng Ân
“Bắt Nắng”
Tặng Vũ Hoàng Thư
“Bắt nắng” mùa thu bên xóm nhỏ
Nắng chạy tung tăng dƣới lá vàng
Chân tôi vƣớng phải đôi mắt ấy
Thu đến bao lần, chừ ở mô?
Đóa Quỳnh Dưới Hiên
Ngỡ ngàng hôn đóa quỳnh hƣơng
Có nhau mà tƣởng hoang đƣờng mộng du
Lung linh dƣới ánh trăng lu
Tàn canh rũ cánh vô thƣờng hóa duyên
Phù sinh cõi mộng hão huyền
Khôn ngoan thƣờng trụ mạn thuyền sang
sông
NP_u2
6 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Ba mươi lăm năm nhớ lại
Lê Đình Quang
Ngày 26 tháng 12 năm 1974, tôi từ giã mọi
ngƣơi trên HQ 614 để về Nha Trang nghỉ phép
và sau đó sẽ trình diện đơn vị mới. Đây là lần
thứ ba, từ giã đơn vị trong đời lính của tôi, có
thể nói HQ 614 là nơi mà tôi ra đi với thật nhiều
luyến tiếc. Những ngƣời ở đây, từ ông hạm
trƣởng đại úy Lâm Khả Thanh cho đến mọi nhân
viên đều rất là chân tình và dễ mến. Tình hình an
ninh dọc theo quốc lộ 1 lúc này vẫn còn tốt, tôi
đi xe đò từ Sai Gòn về Nha Trang. Trong thời
gian ở HQ 614, vì có quá nhiều sĩ quan nên
chúng tôi thay phiên nhau đi phép nhiều dến nỗi
không muốn đi nữa vì không có tiền, lần về phép
này mang một ý nghĩa trọng đại hơn, tôi lập gia
đình trong thời gian này. Những ngày sau đó,
mƣa thật nhiều, nhiều nơi của Khánh Hòa đã bi
ngập lụt, trong đó có thôn Phú ân Nam của tôi,
trong xóm ngƣời ta phải di chuyển bằng ghe.
Thật là một dịp lý thú để tôi chở bà xã đi lòng
vòng trong xóm cũng nhƣ đi thả lƣới, bắt cá, sau
mấy năm ở trong quân đội hôm ấy tôi mới lại có
dịp trở về quê trong lúc trời lụt nhƣ thế này.
Những ngày phép qua thật mau, tôi lại khăn gói
lên đƣờng để trình diện Duyên Đoàn 26 ở đảo
Bình ba, tôi vào Cam Ranh, quá giang xe đến
BTL/ vùng 2, đến cầu tàu thì may quá có một
chiếc thuyền ở đó, tôi lên chiếc thuyền để đến
đơn vị. Ngày đầu tiên về đon vị, tôi thây hơi thất
vọng, cái không khí của Duyên đoàn 14 đã
không tìm lại đƣợc ở nơi đây, ngƣời và việc đều
có vẻ xa lạ đối với tôi, một ý nghĩ đến thật
nhanh phải chi mình ở lại HQ 614 thì có lẽ hay
hơn. Nhƣng mọi việc đều đã lở, phải cố gắng để
hòa đồng với mọi sinh hoạt ở đây. Thật ra thì ở
đâu cũng vậy mà thôi, còn mới thì xa lạ, lâu rồi
thì sẽ thấy thoải mái và vui hơn, làng Bình Ba ở
bên cạnh cũng có vẻ nhộn nhịp với những quán
cà phê, quán nhậu. Ngày đầu đến đây, tôi cố
gắng tìm hiểu sơ sơ là nhƣ vậy, qua ngày thứ
hai, trung úy Tiến, sĩ quan nội vụ đã hƣớng đẫn
tôi trình diện ông chỉ huy trƣởng. Sau khi anh
Tiến trình bày sơ sơ về hoàn cảnh, ông chỉ huy
trƣởng lại cho tôi nghỉ phép thêm một tuần nữa,
lúc này mà đi phép thì thật là tuyệt vời. Ở đơn vị
này, muốn đi ra ngoài, ngoài con đƣờng qua
Cam Ranh rồi quá giang xe, có một con đƣờng
khác tiện lợi hơn là đi đò của ngƣời dân đảo
Bình Ba. Mỗi ngày đều có những chuyến đò đi
vào lúc 6 giờ sáng và về vào lúc 11 giờ trƣa
cùng ngày. Tuy rằng đây là phƣơng tiện là của
dân chúng nhƣng nó vẫn cần thiết cho chúng tôi,
chiến thuyền của đơn vị không đƣợc sử dụng
cho nhu cầu này. Ở duyên đoàn 14 Cửa Đại, đơn
vị lúc nào cũng có một chiến thuyền trực bến để
cho sĩ quan đi công tác hay đi vì những lý do cá
nhân. Nếu tôi biết chỗ này đi lại khó khăn nhƣ
vậy thì tôi đã không xin về đây, đời lính của tôi
7 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
hai lần làm đơn xin thuyên chuyển, cả hai đều
đƣợc đƣa về đon vị theo ƣu tiên 3, nếu biết vậy
tôi đảo ngƣợc lại là đƣợc rồi, nhƣng tôi đã
không còn cơ hội nữa, miền nam Việt Nam đã
mất, những ngƣời lính nhƣ chúng ta đã phải
phiêu bạt khắp nơi.
Mãn phép, trở về đơn vị, ngày qua ngày mọi
sinh hoạt ở đây trở nên quen thuộc hơn, tôi lại
quen thêm một số bạn mới, trung úy Hùng, đã
có gia đình nhƣng sống ở đây một mình cũng
giống nhƣ tôi. Có lẽ cùng hoàn cảnh nên dễ
thông cảm hơn, anh và tôi đi nhậu thƣờng
xuyên, anh là sĩ quan hành quân của đơn vị,
ngoài vấn đề phân phối và theo dõi các chiến
thuyền đi tuần tiểu ở những vùng đƣợc chỉ định
cho đơn vị, anh còn nhiều thời giờ rảnh rỗi.
Không biết có đƣợc một sự may mắn nào đó, mà
ở đơn vị nào tôi cũng có nhử ngƣời bạn thật tốt,
mặc dù chỉ là mới quen nhau một thời gian
ngắn. Tết nguyên đán lại sắp đến, ở đây mọi
ngƣời chuẩn bị Tết chu đáo hơn những đơn vị
mà tôi đã từng ở qua, nhiều ngƣời đã đi chặt mai
về để làm kiểng trong nhà. Buổi tiệc tất niên
đƣợc tổ chức tại phòng hội của đơn vị, tuy rằng
mới về đơn vị, chƣa biết nhiều, nhƣng hơi men
đã làm cho tôi cảm thấy mọi ngƣời đều trở nên
gần gũi hơn. Đêm đó tôi và vài ngƣời nữa là
đám cuối cùng rời khỏi chỗ này và ai nấy đều
say không còn biết gì nữa, có lẽ hơi men khi ở
PGM còn tồn tại trong ngƣời, nên đêm đó tôi
uống quá chừng, từ bia qua rƣợu, tôi không chừa
một thứ nào.
Ngày hai mƣơi tám Tết, tôi đƣợc đi tuần ở vùng
Bãi Miếu, thật là một dịp may, những ngày Tết
năm đó tôi có cơ hội về ăn Tết với gia đình, đây
là lần đầu tiên trong cuộc đời quân ngũ của tôi.
Sau chuyến công tác này, tôi nhận một nhiệm vụ
mới, trƣởng ban tiếp liệu. đây là đơn vị thứ ba
tôi làm nhiệm vụ này. Với tôi, tiếp liệu không
còn là một vấn đề phức tạp nữa, trong kế hoạch
"chân trời mới" ở duyên đoàn 14 tôi đã học hỏi
đƣợc khá nhiều kinh nghiêm trong lãnh vực này.
Tôi cũng nhìn ra, tiếp liệu của đơn vị đã đến một
giai đoạn không ổn nên đã tìm cách để đƣa gánh
nặng này cho một ngƣời khác, cũng vì vậy nên
tôi rất cẩn thận trong mọi vấn đề. Mọi việc vẫn
tiến hành tốt đẹp, tình hình chiến sự của miền
nam đã gia tăng, vào lúc này tôi lại nhận đƣợc
lịnh đi thu huấn một khóa huấn luyện về tiếp
liệu ở TTHL/HQ/SG. Tôi từ giã gia đình, đón xe
đò vào Sài Gòn, khi đến nơi tôi mới phát giác thì
ra đây là một sự nhầm lẫn của phòng huấn luyện
vùng II, không có khóa học này, trung úy Trần
minh Quang, sĩ quan nội vụ của TTHL đã cho
tôi biết nhƣ vậy. Tôi vội vã tìm phƣơng tiện để
về Nha Trang, tình hình lúc này đã trở nên
nghiêm trọng, quốc lộ 1 về Nha trang đã không
còn an ninh nữa, may mắn cho tôi lúc đó có HQ
402 đi Nha Trang, thế là tôi quá giang chiến hạm
này. Tàu cập bến Cầu Đá, tôi đến nhà ngƣời bà
con ở đƣờng Gia Long, thì gặp bà xã tôi vừa mới
từ Ninh Hòa vào cùng với gia đình, Ban mê
Thuột đã bi VC chiếm. Tôi ở Nha Trang một
đêm, sáng hôm sau đƣa bà xã vào Bình Ba -
Cam Ranh, lúc này tôi đã xin đƣợc một căn
phòng để làm chỗ ở cho gia đình. Chuỗi ngày
êm đẹp kéo dài không bao lâu, tình hình đã đến
lúc bi quan, sau Ban mê Thuột, Quảng Trị, Huế,
Đà Nẵng lần lƣợt di tản, đơn vị lại có thêm một
số gia đình quân nhân thuộc các đơn vị khác về
đây tạm trú. Sƣ đoàn Thủy Quân Lục Chiến đã
đƣợc HQ 800 đƣa từ vùng 1 về đã lên bờ Cam
Ranh, một ngày sau, tôi đƣa tất cả chiến thuyền
sang Cam Ranh để lãnh dầu, nhƣng chờ hoài
cũng không đƣợc, tôi yêu cầu đƣợc trở về đơn
vi. Khi chiến thuyền về đến nơi, tôi mới biết đơn
vị đã ban hành lênh chuẩn bị di tản, tất cả quân
nhân phải đƣa gia đình sang Cam Ranh để lên
tàu HQ 800 về Sai Gòn trƣớc. Đây là một vấn đề
thật khó khăn, tôi không có ngƣời thân nào ở Sai
Gòn, và Sài Gòn cũng là nơi hoàn toàn xa lạ đối
với bà xã của tôi, cuối cùng thì tôi cũng nghĩ ra
đƣợc một ngƣời để có thể gởi gấm bà xã tạm ta
túc một thơi gian. Sáng hôm sau, đến cầu tàu
Cam Ranh, HQ 800 chỉ thả một thang dây cho
ngƣời ta leo lên, nhìn thấy ngƣời ta leo thang
8 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
dây tôi thật ngại ngùng, nhìn lại không thấy gia
đình chỉ huy trƣởng, chỉ huy phó, tôi thay đổi ý
định để bà xã theo ghe của đơn vị.
Buổi trƣa cùng ngày, tất cả nhân viên của đơn vị
đƣợc lịnh xuống tàu, sau khi xuống ghe tìm một
chỗ nằm cho bà xã tôi lên bờ trở lại. Lúc này
trên bờ chỉ còn lại bảy ngƣời, mỗi ngƣời đều có
một cây M16 và một máy PRC 25 để liên lạc,
nhiệm vụ của chúng tô là gác ở cổng làng Bình
Ba, vì sợ dân chúng tràn vào sẽ gây nên tình
trạng hỗn loạn và một mục đích quan trọng hơn
là tiêu hủy tài liệu của đơn vi trƣớc khi bỏ đi.
Trên bờ lúc này chỉ có tôi và anh Huệ ( K21 NT
) là sĩ quan, chỉ huy trƣởng, chỉ huy phó và các
sĩ quan khác đều đã xuống tàu. Tất cả chiến
thuyền thả neo chờ lịnh, đon vị chỉ còn mấy
ngƣời, trên bờ thật là vắng lặng, chúng tôi ngồi
nói chuyên, đốt từng điếu thuốc này qua điếu
khác. Trời đã về chiều vẫn chƣa có lịnh gì, anh
Huệ bắn một con bò của dân chạy lạc vào đơn vị
rồi dùng củi đốt để làm thức cho cả đám, thịt bò
thui trông thật ngon nhƣng chung tôi chỉ ăn cho
đỡ đói, hƣơng vị thơm ngon của thịt bò thui đã
không hấp dẫn đƣợc chúng tôi. Gần nửa đêm,
chúng tôi đƣợc lịnh di chuyển đến một địa điểm
khác trên bờ biển, tại đây một chiếc thuyền ủi
vào bờ cho chúng tôi lên thuyền. Duyên đoàn 26
lúc này đã hoàn toàn chìm trong bóng tối, từ
biển nhìn lên doanh trại chỉ còn là những bóng
mờ, những căn nhà ở đây vốn là một trại tù của
Pháp hồi trƣớc, có một thời nó đã bị bỏ trống, và
hôm nay một lần nữ mọi ngƣời đã bỏ nó mà đi.
Một ngày với nhiều biến chuyển xảy ra, bây giờ
đã an toàn trên chiếc thuyền, đầu óc tôi thật
trống rỗng,, tƣơng lai sẽ nhƣ thế nào tôi thật
không dám nghĩ tới. Ngày kế tiếp đơn vị đƣợc
lịnh di tản, lúc này thành phố Nha Trang đã bỏ
ngõ, các chiến thuyền của duyên đoàn 26 mang
theo gia dinh của nhân viên bắt đầu di chuyển về
vùng biển Ninh Chữ, nơi có duyên đoàn 27 trú
đóng. Trong lần di tản này, có hai sĩ quan vắng
mặt, trung úy Hùng, về Vạn Ninh ăn đám cƣới
rồi mọi biến chuyển đã xảy ra quá nhanh, anh
không trở về đơn vi kịp. Một ngƣời nữa đặc biệt
hơn, trung úy Phan tử Duy, vài ngày trƣớc khi di
tản anh đã rời đon vị, nghe đâu ba anh là sĩ quan
cao cấp của việt cộng, có lẻ vì sự quan hệ này
cho nên anh đã không đƣợc chỉ định vào những
chức vụ quan trọng trong những năm còn ở
trong quân đội của miền nam.
Tại vùng biể Phan Rang, các chiến thuyền vẫn
lềnh bềnh nhƣ là đang trong tình trạng tuần tiểu,
mỗi ngày tình trạng của miền nam càng bi đát
thêm, hết Cam Ranh bây giờ đến lƣợt Phan
Rang cũng thất thủ, duyên đoàn 27 cũng phải ra
đi. Sau vài ngày lênh đênh, đơn vị đƣợc lịnh về
Cát Lái và sẽ đƣợc tái phối trí trở lại. Tổng kết
chuyến đi này từ ngày rời Bình Ba, Cam Ranh
cho đến khi về đến nơi đã đƣợc chỉ định đã mất
một khoảng thời gian mƣời lăm ngày. Đối với
quân nhân hải quân, thời gian trên là chuyện
bình thƣờng nhƣng đối vơi thân nhân gia đình
thì đầy là một khoảng thời gian dài đăng đẳng,
đầy sóng gió với những thiếu thốn chật chội trên
chiến thuyền. Về đến Cát Lái, một vấn đề khó
khăn nữa lại đến, tôi phải tìm chỗ tạm trú cho bà
xã của tôi. Nhƣng may mắn thay, dại úy Hồ
Sanh, chỉ huy phó đã đồng ý để vợ chồng tôi về
nhà anh ở khu chợ Vƣờn Chuối để tạm trú. Sau
một chuỗi ngày dài lênh đênh trên biển, đặt chân
về đến Sài Gòn tôi thấy yên tâm hơn. Một ngày
sau khi về đến Sài Gòn, anh Sanh đã đƣa vợ con
về quê ở Long Xuyên với gia đình bên vợ, theo
tình hình lúc đó, vùng 4 có lẻ là vùng an toàn
nhất. Tôi trở về Cát Lái để lo công việc của
mình, lãnh dầu cho các chiến thuyền, một số gia
đình của đơn vị đã đƣợc đƣa lên bờ để tạm trú
trong một căn nhà lớn tại Cát Lái. Tôi vẫn đi đi
về về giữa Sài Gòn và Cát Lái, tình hình chiến
sự lại càng bi đát thêm, trận chiến đã tràn về
Xuân Lộc, một lần nữa đơn vị đƣợc lịnh di tản
về đảo Hòn Khoai ở ngoài mũi Cà Mau, tôi nghĩ
sinh sống ở đây chắc là khó khăn lắm, nhƣng
không biết phải làm sao. Thật ra lúc bấy giờ ở
Sài Gòn, nhiều ngƣời am hiểu tình hình nên đã
tìm đƣờng để ra đi, còn tôi là thằng lính trôi dạt
9 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
theo đơn vị với những nhiệm vụ mang trên
ngƣời, không biết phải làm gì trong tình huống
nhƣ thế này. Tôi vẫn không nhận đƣợc tin tức gì
về gia đình ở Nha Trang, tôi đã gặp lại một ông
anh cũng là hải quân đang học một khóa gì đó ở
Sài Gòn, qua ngƣời anh tôi biết thêm một gia
đình ngƣời chị của tôi đã vào Vũng Tàu. Tôi
cũng đã gặp ngƣời cháu đang học ở trƣờng nông
lâm súc đang ở trọ trong cƣ xá bƣu điện, khi tôi
đến thăm,chủ nhà đã mở cửa với một thái độ cởi
mở hơn những lần trƣớc, có lẻ vì thấy tôi là hải
quân, nhƣng lần gặp mặt đó chúng tôi đã không
đề cập gì đến việc ra đi. Buổi chiều, sau ngày
tổng thống Nguyễn văn Thiệu tuyên bố từ chức,
tôi đƣa bà xã xuống Cát Lái để chuẩn bị cho lần
di tản khác xuống miền nam. Lúc giao chìa khóa
nhà cho ngƣời bà con của anh Sanh, có ngƣời
hỏi tôi có phải là đã dến lúc hải quân ra đi hay
không, tôi trả lời là đơn vị chỉ di tản về vùng Ca
Mau, nhƣng họ đã không tin, tôi không biết giải
thích nhƣ thế nào, chỉ lặng lẽ ra đi. Tại Cát Lái,
những đon vị ở đây đều đƣợc chỉ định rời khỏi
Sài Gòn, những trận đánh càng lúc càng di
chuyển về gần thủ đô hơn. Qua ngày hôm sau,
đơn vị rời Cát Lái, một lần nữa chúng tôi lại ra
khơi, lúc trƣớc khi rời Cam Ranh, mọi ngƣời ra
đi nhƣng vẫn còn một mục tiêu để đến, đó là Sài
Gòn, thủ đô của miền nam. Nhƣng tình hình đã
biến chuyển quá nhanh, không nhƣ ý nghĩ của
mọi ngƣời, các đơn vị của miền nam đã lần lƣợt
rút lui vì phải đối diện với một lực lƣơng địch
quá mạnh và sự phủi tay ra đi của ngƣời bạn
đồng minh Mỹ. Những chiến thuyền mang theo
gia đình quân nhân tiếp nối cuộc hành trình xuôi
về nam, lần này mọi ngƣời đều có vẻ mệt mỏi và
chán nản hơn. Sau mấy ngày lênh đênh với sóng
gió, không biết vì mệt mỏi hay vì những biến
chuyển xảy ra ở tại Sài Gòn, thiếu tá Nguyễn
công Minh, chỉ huy trƣởng đã đƣa đơn vị vào
Long Phú để nghỉ ngơi và xin tiếp tế thêm nhiên
liệu. Lúc đến gần cửa Đại Ngãi, một đám mƣa
thật lớn đã ồ ạt đổ xuống, không trông thấy
sông, bờ đâu cả, các chiến thuyền phải qua một
lúc hỗn loạn rồi mới nối đuôi nhau để vào căn
cứ Long Phú vào trƣa ngày 29 tháng 4 năm
1975, tôi vẫn không biết tin tức gì về Sài Gòn,
về cuộc chiến đang xảy ra gần đó. Tôi đƣa bà xã
lên bờ đi về một xóm nhỏ ở cạnh của căn cứ để
mua những thứ cần thiết cho cuộc sống mai đây
ở tại đảo Hòn Khoai, tôi thật là ngây thơ, không
thông hiểu tình hình chút nào, lúc này ở Sài Gòn
ngƣời ta đã ồ ạt ra đi. Hoàn cảnh ở đây thật là
thanh bình, không khí chiến tranh vẫn chƣa lan
tràn về đây, chỉ thỉnh thoảng văng vẳng từ xa vài
tiếng súng rời rạc. Tối nay tại đình làng có đám
hát bội, đây là lần đầu tiên trong đời tôi đƣợc
xem hát đình, mọi ngƣời đều vui vẻ nhƣ là
không hề biết chiến tranh sắp kéo đến và cuộc
chiến sẽ làm thay đổi con ngƣời và cuộc đời của
ngƣời dân miền nam. Sau một chuỗi ngày dài
lênh đênh trên biển, hôm nay đƣợc xem hát và
có nhiều thức ăn ngon, chúng tôi tha hồ ăn nhậu.
Sáng ngày hôm sau 30 - 4 -1975, sau khi các
chiến thuyền hoàn tất việc lãnh dầu, lúc đang
đứng trên cầu tàu, qua một cái radio từ một
chiếc thuyền gần đó, tôi nghe ông Dƣơng văn
Minh đã kêu gọi quân dội miền nam buông
súng. Tôi thật bàng hoàng khi nghe những lời
này, nó nằm ở ngoài sự tƣởng tƣởng của tôi,
chúng ta vẫn còn một miền nam trù phú với một
lực lƣợng hùng hậu của vùng 4, tai sao lại phải
buông súng. Sau lời tuyên bố của ông Dƣơng
văn Minh, tôi thấy những chiếc trực thăng nối
đuôi nhau bay ra biển, tôi đang phân vân thì có
lịnh xuống thuyền. Khi tất cả chiến thuyền ra
đến cửa biển, thiếu tá Nguyễn công Minh, chỉ
huy trƣởng cho biết tình trang của miền nam và
ông sẽ ra đi, nếu ai muốn đi thì theo ông, nếu ai
muốn về thì lấy thuyền về Cần Thơ rồi về quê
của mình. Đây là một vấn đề thật khó quyết
định, ra đi thì không biết số phận của mình sẽ ra
sao, có thể là vĩnh viễn xa rời quê hƣơng, không
có dịp để trở lại, còn ở lại thì không biết số phận
của mình sẽ ra sao. Tôi hỏi ý kiến anh em trên
thuyền, đa số muốn ra đi, thế là chúng tôi đi, tôi
báo tin này với bà xã, vợ tôi đã bật khóc khi hay
10 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
tin này. Phút chia tay thật ngắn ngủi và cảm
động, anh em cùng đơn vị trong bao nhiêu năm,
lúc này phải chia tay, trong ý nghĩ của mọi
ngƣời đây là lần vĩnh viễn chia tay, khó có cơ
hội để có thể gặp lại nhau, nhiều ngƣời đã rơi
nƣớc mắt, ôm chặt lấy nhau, không nói lên lời.
Một giờ trƣa cùng ngày, các chiến thuyền bắt
đầu ra khơi, chiếc của tôi đi sau cùng, chạy đƣợc
một lúc nhìn lại phía sau, tôi thấy một chiếc ghe
nhỏ đang rƣợt theo, trên ghe có ngƣời đứng vẫy
tay, tôi nói thuyền trƣởng ngừng lại chờ xem họ
muốn gì, chúng tôi không quên chuẩn bị tình
trạng tác chiến. Chiếc ghe nhỏ chở bốn ngƣời,
hai đàn ông, hai đàn bà, họ cho biết là từ Sóc
Trăng đến và muốn quá giang để ra tàu lớn. Tôi
cho họ lên tàu rồi chạy theo những chiếc kia,
đến gần tối chúng tôi gặp HQ 228, chúng tôi
đƣợc lịnh lên HQ 228 và bỏ trôi các chiến
thuyên. Từ trên HQ 228 nhìn xuống mặt biển,
những chiến thuyền càng lúc càng trôi xa, chồng
chềnh theo sóng nƣớc, chúng tôi ngồi yên lặng
bên nhau, nhìn về bờ biển với bao nỗi buồn tủi
xót xa.
HQ228 trực chỉ Côn Sơn, trên đƣờng đi đã gặp
HQ 400, một lần nữa chúng tôi đƣợc chuyển qua
HQ 400. Khi vào trong khoang tàu, tôi thật là
ngạc nhien vì có rất nhiều ngƣời ở đây, nhìn
thoáng qua tôi thấy đƣợc an ủi hơn, thì ra cũng
có nhiều ngƣời đã bỏ nƣớc ra đi giống nhƣ tôi.
Tôi tìm một chỗ trống, trải cái mền ra, những đồ
đạc đem theo đều để trên đó, chỉ chừa một
khoảng trống nhỏ cho hai vợ chồng. Gia tài của
tôi bây giờ là một thùng mì gói đã mua ở Long
Phú, có ngƣời đã hỏi mua một gói mì cho em bé
với giá 1 đô la, nhƣng vợ tôi chỉ cho mà không
bán. Ở đây, tìm đƣợc nƣớc sôi thật là khó khăn,
tôi vào nhà bếp để xin một lon nƣớc sôi nhƣng
đã bị từ chối, may quá tôi đã gặp một ngƣời
cùng khóa, trung úy Chông quang Vinh, là nhân
viên của HQ 400. Sau vài lời thăm hỏi, tôi ngỏ
lời muốn xin một ly nƣớc sôi, anh vui vẻ gật
đầu, một lúc sau anh trỏ lại vói một ca nƣớc
nóng, tôi cám ơn và nấu mì cho bà xã. Bà xã của
tôi không chịu đƣợc sóng gió, suốt cuộc hành
trình từ Cam Ranh đến Long Phú đã ói mửa
triền miên, hôm nay ngồi trên tàu lớn, biển lại
êm, bữa ăn hôm nay là bữa ăn ngon của vợ tôi.
HQ 400 vẫn tiếp tục cuộc hành trình đến Subic
Bay của Phi luật Tân, lúc này tôi đã biết ngoài
HQ 400 còn có nhiều chiến hạm khác của hạm
đội miền nam Việt Nam đang đƣợc đệ thất ham
dội Hoa Kỳ hộ tống để đến Subic Bay. Khi hạm
đội của miền nam ra đến hải phận quốc tế các
tàu đều có một sĩ quan của hải quân Hoa Kỳ, tất
cả đều đƣợc lịnh phải hạ quốc kỳ của miền nam
và thay vào đó là cờ của Hoa Kỳ. Mƣời hai giờ
trƣa hôm đó, một buổi lễ hạ quốc kỳ đƣợc thực
hiện cùng một lúc cho tất cả chiến hạm của miền
nam. Đây là giây phút cảm động khó quên trong
cuộc đời của tôi, chúng tôi cùng hát quốc ca
trong lúc lá quốc kỳ từ từ kéo xuống, chúng tôi
hát trong nghẹn ngào tức tƣởi, không thể ngăn
đôi dòng nƣớc mắt. Hạ kỳ xong, tôi ngồi xuống,
ông chỉ huy trƣởng đến bên tôi, cặp mắt còn đỏ,
ông hỏi tôi một điêu thuốc, tôi lấy gói thuốc đƣa
cho ông. Từ ngày về đơn vị đến nay, đây là lần
đầu tiên tôi thấy ông hút thuốc, ở trong hoàn
cảnh nhƣ thế này điếu thuốc lá đã thật sự chia xẻ
với chúng ta thật nhiều trong một nỗi đau khổ
chán chƣờng nào đó. Đoàn tàu vẫn tiếp tục cuộc
hành trình, những ngày kế tiếp tôi lại chứng kiến
một cảnh tƣợng đau lòng khác xảy ra cho một
nhân viên cùng đơn vị. Ngƣời con trai của anh
Khâm, chỉ mới hai tuổi, đã bi bệnh từ mấy ngày
trƣớc, vì phải di chuyển liên miên, nên việc trị
bịnh thật là khó khăn, đến khi qua HQ 400, dù
đã đƣợc bác sĩ săn sóc, bịnh tình đã quá nặng và
em đã qua đời. Buổi tối cùng ngày, ngƣời ta
dùng vải bao xác của em rồi đƣa lên bong tàu,
tôi và một số ngƣời khác lên bong tàu để tiễn
đƣa em. Mặt biển tối đen, mọi ngƣời đứng yên
lặng nhìn về phía em bé, xác của em đƣợc đƣa ra
khỏi tàu, mọi ngƣời nhìn theo xác em để tiễn
biệt lần cuối cùng và cầu nguyện cho em sớm
tiêu diêu miền cực lạc.
11 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
summertime...
hạ vừa tàn
giọng đồng rỉ máu
ve hàng phượng bay
mù thu
vàng ướm bên này
chờ em tôi nhặt
những ngày tháng qua
Vũ Hoàng Thư
Tháng 5, Thái bình Dƣơng thật là yên, có thể nói
là trời quang mây tạnh, trong suốt cuộc hành
trình, tình trạng say sóng đã không xảy ra mặc
dù đây là lần đầu tiên đi tàu của một số đông
ngƣời. Một điều may mắn hơn, tuy rằng trên tàu
có rất đông ngƣời, nhƣng đã không có điều gì
dáng tiếc xảy ra. Ngày 8 tháng 5 năm 1975, HQ
400 đến Subic Bay, chờ đợi không bao lâu,
chúng tôi đƣợc di chuyển qua một thƣơng
thuyền của Hoa Kỳ, chiếc Green Port, tàu này
thiết lập thêm một số tiện nghi để thích ứng cho
nhu cầu của đoàn ngƣời tị nạn, nhờ vậy mọi
ngƣời cảm thấy thoải mái hơn. Chúng tôi đƣợc
cấp phát ration C, cầm hộp ration trong tay, tôi
cảm thấy vui hơn, nhƣng khi mở ra tôi thấy hơi
thất vọng vì bên trong không có thuốc lá. Ở trên
HQ 400 đƣợc năm ngày thì tôi đã hết thuốc lá,
tàu thì rất đông ngƣời, nhƣng ngƣời quen thì
không có bao nhiêu vì vậy tôi chỉ biết tâm sự
cùng trời xanh và biển rộng qua những điếu
thuốc của mình. Có lẽ ông trời cũng thƣơng cho
đám dân tị nạn, biển thật êm và không có mƣa,
tôi chọn một chỗ ở sân mũi rồi trải cái mền nhà
binh ra để làm giang sơn của mình. Trên thƣơng
thuyền này có một số binh sĩ thủy quân lục chiến
tay lúc nào cũng cầm súng để giữ an ninh, một
lần nữa mọi việc đều tốt đẹp. Ngày 12 thang 5
năm 1975 chiếc Green Port đến Guam, tại nơi
đây chúng tôi đƣợc lịnh phải cởi bỏ quân phục,
những vật dụng nhà binh đều phải bỏ vào một
cái thùng lớn đặt ở dƣới cầu tàu. Chúng ta,
những thằng lính của miền nam, đơn vị là nhà,
lúc nào cũng mặc đồ lính, áo quần dân sự chỉ
vỏn vẹn một hai bộ chỉ để dành khi nào đi phép
mới mặc, bỏ hết quân phục, có ngƣời chỉ còn
vỏn vẹn một bộ đồ mặc trên ngƣời. Từ trên tàu
nhìn xuống, có rất nhiều những căn lều đã đƣợc
dựng lên chờ đón đoàn ngƣời tị nạn, tôi mang túi
xách tay lên vai trái, tay phải cầm những bộ đồ
quân phục đã đƣợc quấn lại với nhau, xếp hàng
theo đoàn ngƣời từ từ xuống tàu.
Bƣớc xuống hết cầu thang, có một cái thùng lớn
đặt bên phải, tôi bỏ quân phục vào đó rồi có
ngƣời chỉ dẫn căn lều mà tôi phải đến đó để ở.
Tôi quay lại nhìn lên tàu vẫn cò rất nhiêu ngƣời
đang xếp hàng đi xuống, ngoài kia là biển xanh
thăm thẳm, quê hƣơng tôi giờ đây đã ngút ngàn
trong mây khói. Giờ đây ở nơi đó, những ngƣời
thân trong gia đình ngày ngày vẫn chờ đợi tin
tôi, ở đó có những ngƣời bạn của tôi đã trở về,
giờ này không biết họ sống chết ra sao. Tôi
không ngăn nổi dòng nƣớc mắt, lơ lửng đi về
căn lều họ đã chỉ định, tôi đang đi trên một miền
đất lạ để tìm cuộc sống mới và tôi đã rời bỏ quê
hƣơng của tôi.
Lê Đình Quang
summertime
12 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
nhûäng maãnh vuån kyá ûác vïì Biïín
Mèo Hoang
Vào khoảng năm cuối của bậc trung học, sau
khi thi trƣợt Bac Phú Lãng Sa vì khi vào thi o-
ran môn Histoire/Géo với một ông tây ba lô mũi
lõ bên trƣờng Đuổi Sói Lỗ Ban (Chasseloup
Laubat) sau này là trƣờng Lê Quý Đôn, tôi đã trả
lời không đƣợc lễ phép cho lắm, vì nhất định
phùng mang trợn mép gân cổ lên cãi văng nƣớc
bọt là tổ tiên ta chắc chắn không phải là dân
Gaulois! Sau đó, tôi đành phải bỏ dở năm cuối
chƣơng trình Phú Lãng Sa để đi
qua học với thầy Lan, một nhà thơ
hiện đại rất nổi tiếng sau này, với
những câu thơ bất hủ nhƣ “hôm
nay em buồn nhƣ con mèo chết
đói” chẳng hạn. Thầy Lan là một
ngƣời rất béo tốt và có một thân
hình đồ sộ của một võ sĩ Sumo, với
đôi mắt hiền từ và cặp môi Botox
rất có duyên của ca sĩ Khánh Hà
thời 2009. Một hôm ngƣời học trò
thử tập làm vài câu thơ rồi hý hửng
đƣa cho thầy Lan xem, đọc phớt
qua thầy đƣa trả lại và có lời
khuyên:
- Có lẽ thơ văn không thích hợp
với cậu đâu ạ.
Hơi buồn ngƣời học trò cố đƣa ra
mảnh bằng Tú đúp ban Xê Ra với
dòng chữ đỏ lòe loẹt của ban giám
khảo ở cuối trang ghi lại nhƣ sau : “Đậu Vớt với
sự nhân nhƣợng và khoan hồng tối đa của ban
Giám Khảo vì lý do Nhân Đạo!”. Thầy Lan lại
thở dài rồi lắc đầu nhè nhẹ, tôi cố hỏi với thêm,
thƣa Thầy, Thầy nghĩ con nên theo học ngành gì
bây giờ, Nha Y Dƣợc thì không nhận bằng này,
Kiến Trúc và Phú Thọ, họ cũng chẳng thèm nhìn
đến, mà Văn Khoa và Luật Khoa đã đông sinh
viên quá, thì lại bị ăn lựu đạn khói cay mỗi ngày.
Xin Thầy cứ viết đại cho con vài chữ, đại khái
nhƣ bói cho con một quẻ về tƣơng lai không xán
lạn của một ngƣời con trai lƣng dài, thông minh,
nhƣng lại chậm hiểu và rất chóng quên, lớn lên
trong thời loạn ly của lịch sử. Nghe xong thầy
Lan trừng mắt bảo rằng, - Tôi là thầy dậy Triết
chứ có phải thầy bói đâu mà anh bảo viết cho
anh một quẻ, anh rõ là dở hơi nhỉ ! Tôi vội năn
nỉ, thì con chỉ dám xin thầy chọn cho con một
hƣớng đi chứ con thấy tƣơng lai xa vời có vẻ mù
mịt nhƣ khói lựu đạn cay đấy Thầy ạ. Thầy Lan
giằng lấy mảnh giấy và nguệch ngoạc vài dòng
mà sau này tôi cố decipher mãi vẫn không ra
đƣợc một chữ nào cả. Tôi cúi đầu chào từ biệt
thầy Lan và đem mảnh giấy xuống
lầu một đƣa cho cô Nga, lúc đó cô
đang làm Giám đốc Hiệu Trƣởng,
kiêm Tổng Thủ Quỹ trƣờng kiêm
luôn bà Nội Trợ của thầy Lan, thì
cô Nga cũng chẳng thèm đọc mà
chỉ lấy con giấu đỏ đóng bịch lên
là “Đã trả đầy đủ”. Thế là nhờ
mảnh giấy này tôi đã đƣợc miễn
học phí tháng cuối mà tôi đang còn
thiếu nợ vì chƣa có tiền trả.
Cuối năm đó tôi theo Mẹ tôi đi lễ
Giao thừa ở Lăng Ông. Trong khi
chờ Mẹ tôi vào trong thắp hƣơng
khấn vái Bụt, tôi đứng ngoài nhìn
quanh quẩn chợt thấy một ông thầy
bói mù đeo kinh dâm đang ngồi
đập muỗi chờ khách. Thế là tôi vội
đem mảnh bùa thầy Lan viết cho
nhờ ông thầy bói mù giảng nghĩa giùm. Ông ta
giơ tay cầm lấy, xoay qua xoay lại rồi trả lại bảo
là:
- Bố khỉ ạ, anh định thử tôi đấy hử ? anh không
thấy tôi mù lòa thế này thì làm sao tôi đọc đƣợc
mảnh giấy này, hử ?
Tôi vội móc túi rút ra 1 tờ 10 Đồng bỏ vào đĩa,
thế là ông cụ thầy bói, đang mặc khăn đóng áo
the thâm, gỡ vội ngay cặp kinh dâm ra và đăng
hắng lấy giọng và đọc : Số anh... Số anh... rồi lại
ngập ngừng, tôi vội đặt thêm 5 đồng nữa (đó là
tất cả gia tài số tiền tôi có trong bóp đêm hôm
ấy), thế là ông ta đọc luôn một mạch:
13 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
“ Số anh trán ngắn đầu to,
Quanh năm chỉ có chăn bò chăn trâu !”
Ông thầy bói còn cắt nghĩa thêm
là đây không phải tiếng Hán mà
ông Thầy của anh viết tiếng Việt
nhƣng viết ngoáy nhƣ bác sĩ cho
toa thuốc nên anh đã đọc không
đƣợc đấy thôi. Thế là tôi nhìn
thấy giấc mơ làm quan Văn của
tôi đang hoàn toàn tan rã thành
mây khói chung với những làn
khói nhang mù mịt của Lăng Ông
vào đêm Giao Thừa.
Sáng hôm sau mùng một Tết,
cùng với chúng bạn đi ăn tiệm
kem Haagen Dazs ở bên cạnh nhà sách Khai Trí
để xả xui, tôi thấy họ đăng hai bích chƣơng to
tƣớng mầu sắc lòe loẹt tuyển mộ Hải Quân để đi
du học OCS tại Hoa Kỳ. Trên tấm bích chƣơng
có hình ảnh 1 chàng mặt mũi sáng sủa vóc dáng
phƣơng phi trông rất đẹp giai mặc bộ quân phục
Hải quân trắng bốp, và đang cầm cái que dài dài
giống cái cần câu, nhìn kỹ lại thì là đang cầm
kiếm rất oai chứ không phải cần câu, lại đƣợc
đứng giữa ba bốn ngƣời thuộc phe kẹp tóc xinh
đẹp mặc áo dài tha thƣớt. Thế là tôi đã chuyển ý
ngay và nghĩ “ Số mình hẩm hiu nhƣ cơm thiu
đã không làm quan Văn đƣợc thì thôi, mình sẽ
thử thời vận, liều tập làm quan Võ xem sao “.
Và chính quyết định này đã đƣa tôi đi du học bất
đắc dĩ với học bổng danh dự toàn phần để học
ngành Hàng Hải Quân Sự tại xứ Cờ Hoa, một
đất nƣớc xa rất xa bên kia quả địa cầu. Sau này
tôi mới đƣợc biết học bổng OCS đó trị giá đến
gần một triệu đô la cho mỗi ngƣời sinh viên
chúng tôi.
Sau khi học vội vã qua loa cho xong, ra trƣờng
đi nhận nhiệm sở tân đáo trên vùng biển Nha
Trang, vào một hôm sau khi ăn cơm tối, đứng
trên pont (đài chỉ huy) của 1 chiếc thuyền sắt dài
30 mét, thuộc loại Tuần Duyên Hạm (PGM) tôi
nhìn lên bầu trời nhiều sao và thầm nghĩ... “Sao
mà lắm sao thế nhỉ ?” (hình nhƣ Carl Sagan
cũng đã có cùng ý nghĩ này hồi ông ta còn mặc
quần thủng đít ).
Lúc đó tôi đang đi quá giang tầu bạn nên chƣa
phải đi ca lái tầu mà chỉ việc chắp tay sau đít
đứng ngắm sao và hóng gió nên tôi cảm thấy
cuộc đời ngƣời đi biển sao mà nó thú vị và thần
tiên quá đi mất, và tôi lại nghĩ đến đoản văn Les
Étoiles của nhà văn Ăn Phở Đáo Để (Alphonse
Daudet) trong quyển “ Những Cánh thƣ gửi máy
xay lúa gió” của ông. Nhìn lên bầu trời xanh
thẳm, ông Hạm trƣởng vui tính chỉ vào một
chòm sao nhìn hơi giống hình chữ S thật to
chiếm hết cả 1 góc bầu trời, và hỏi đùa tôi, - Thế
ở trƣờng OCS bên Mỹ các cậu có đƣợc học tý gì
về Hàng Hải Thiên Văn không ạ ? Lòng tự ái
của dân Ô Xi Éc đùng đùng nổi lên, tôi đứng
nghiêm, ƣỡn ngực ra và dõng dạc trả lời : “Thƣa
Hạm Trƣởng có ạ ! và đây là chòm Scorpio ! kia
là Ursula Undress (Đại Hùng Tinh) cạnh Ursula
minor gần sao Bắc đẩu (Polaris)à”. Ông
Thƣợng Sĩ Giám Lộ, đang đi ca nghe vậy bèn
chõ mồm vào lèm bèm, - Vẽ chuyện, coọc bi với
chả coọc bô gì, sao này dân mít ta gọi là Sao
Thần Lông ! Giật bắn ngƣời vì ngạc nhiên khi
14 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
nghe cái tên không đƣợc thanh tao cho lắm, tôi
bỡ ngỡ nhìn hạm trƣởng thì ông ta xác nhận là
ông thủy thủ già ngƣời Bắc kỳ di cƣ này đi lính
thủy từ thời Tây và đây chính là chòm sao Hổ
Cáp hay còn gọi là sao Thần Nông. Tôi nói thêm
cho ông Hạm Trƣởng nghe là con mắt hay quả
tim của chòm này chính là sao Antarès mầu đỏ,
và vì tinh tú này to gấp 800 lần mặt trời và cách
chúng ta khoảng 600 năm ánh sáng làm ông ta
kinh ngạc phục lăn đùng, chắc ông đã thầm nghĩ
“dân du học Mỹ về nói phét tài thật !” Thật ra,
những kiến thức thô sơ về thiên văn này hoàn
toàn không giúp chúng tôi đi biển hay lái tầu
giỏi hơn một tý nào cả nhƣng thƣờng hay làm
dân kẹp tóc phải thán phục há hốc cả mồm ra.
Khi đi tuần duyên tại vùng 2 Duyên Hải thì
ngƣời ta hay cho tầu chúng tôi nghỉ bến tại Cầu
Đá, Nha Trang hay trong vịnh Cam Ranh. Nơi
này trƣớc đó là chiến dịch “Chợ Trời Bán Thời
Gian” của Mỹ (Operation Market Time). Sau
Mỹ họ dọn đi thì có để lại một xóm nhỏ, rất nhỏ
và dễ thƣơng gọi là “Kilometer Nine” hay tiếng
Việt ta gọi là Cây Số Chín. Tại Cây số 9 thì có
rất nhiều nàng con gái trẻ và xinh đẹp thƣờng
hành nghề họa sĩ vẽ chân dung. Mỗi buổi chiều,
một ngƣời bạn cùng khóa 6 tên là Liêm mù
thƣờng hay mƣợn chiếc GMC của Trung Tâm
Tàn Phá Sắc Đẹp (căn cứ huấn luyện Ngƣời
Nhái của HQVN) để chở lũ chúng tôi ra thăm
xóm các nàng họa sĩ để rồi kiên nhẫn lấy số (y
chang nhƣ khi ngƣời ta đau răng đi ngồi chờ nha
sĩ vậy) ngồi chờ đến lƣợt vẽ chân dung sau
những chuyến hải hành mệt nhọc. Quý bạn đọc
có thấy hải quân chúng tôi hay có những thú vui
tao nhã không ạ ?
Một buổi tối, ngồi hóng mát tại một mỏm đá tại
Đá Bạc của vịnh Cam Ranh nhìn lên bầu trời
đen thẫm đầy sao, một nàng họa sĩ ngƣời Bắc
tên Hoàng đã dựa lên vai tôi và hỏi về sao Hôm,
sao Mai và các vì tinh tú. Thế là tôi lại phải ngồi
giảng cho nàng nghe, - Này nhé, đây là chòm Cô
Gái Đồ Long (The Summer Triangle : Vega,
Deneb & Altair), em thấy ba ngôi sao tụ lại nhƣ
hình tam giác không ? đó chính là cái bikini của
cô Gái Đồ Long đấy. Còn chòm này là Lục
mạch Thần Kiếm (Orion - Hiệp Sĩ), và chòm
Tiếu Ngạo Giang Hồ (Milky way). Với kiến
thức khiêm nhƣờng của một ngƣời họa sĩ nghèo,
cô nàng thán phục quá nghệch cả mặt ra,và thốt
lên “ muôn vàn các vì sao nhiều thế này làm sao
các anh nhớ cho hết đƣợc tài thật !”. Ngồi hóng
gió biển, ngắm trăng sao một lát nàng bảo, Thôi
đến giờ em đi làm việc rồi, thế là hai đứa lại chia
tay. Thật ra giao du với các nàng họa sĩ bất đắc
dĩ này chúng tôi cũng phải rất cẩn thận, vì lâu
lâu có một anh thủy thủ sơ ý hay kém may mắn,
bò lết về tầu với một căn bệnh mang cái tên rất
lạ tai. Căn bệnh có cái tên rất kêu nhƣ sau: “ Một
tiếng kêu Cha, ba tiếng kêu chó” vì khổ chủ mắc
bệnh này mỗi khi đi tiểu sẽ bị đau đớn quá mà
phải buột mồm thốt lên rằng : “Ôi Cha ơi ! chậc
chậc chậc !!!”
Thật ra đi tuần dƣơng và những chuyến hải hành
ngoài biển cũng không đến nỗi mệt mỏi hay cực
khổ nhƣ nhiều ngƣời thuộc đơn vị bờ hay hiểu
lầm, vì bốn ngày tuần duyên, là ba ngày thƣờng
chúng tôi hay neo tầu một chỗ, lý do rất dễ hiểu
là để tiết kiệm nhiên liệu vì thời buổi kiệm ƣớc,
thả neo cạnh một hải đảo thần tiên đẹp xinh với
15 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
những cây dừa xanh mọc nghiêng nghiêng và
những bãi cát trắng phau nhƣ đảo Bora Bora, để
bơi lội, hay nằm phơi nắng và câu cá, rồi nƣớng
tôm hùm, hay cua cá ốc sò ăn nhậu lu bù, nhâm
nhi với những can rƣợu nếp than tím đậm và
ngọt lừ, và đàn hát với nhau cho vui tháng ngày
vì biết tuổi trẻ rồi sẽ qua mau. Còn lại một ngày
thì chúng tôi phải lăng xăng đi tìm chỗ để
chuyển nhƣợng số nhiên liệu dầu cặn, dƣ thừa
cho dân ngƣ phủ với một giả rẻ mạt phải chăng
chứ không bao giờ phải đổ xuống biển vì sợ làm
ô nhiễm môi sinh và phí của giời. Ôi tình quân
dân cá thớt nó mới đẹp làm sao !
PGM 617 Phú Quý là chiếc tầu tuần đầu tiên
trong cuộc đời hàng hải ngắn ngủi của tôi. Vị
Hạm trƣởng đầu đời họ Lê này là anh ruột của
Quang Mèo con, một ngƣời bạn rất hiền từ, tử tế
và ít nói cùng đi học khóa 6. Ông Hạm Trƣởng
này tính tình thật dễ thƣơng, rộng rãi (vì rất
thƣờng hay tiếp tế nhiên liệu cho dân lành), rất
ngông (đã cho tầu đổ bộ lên đất Miên), chịu
sóng và lái tầu rất chì nên ngƣời viết rất khâm
phục và học hỏi đƣợc nhiều. Hình nhƣ có một
chuyến ông Hạm trƣởng ở nhà xoa mạt chƣợc
rồi đến khi hạm phó dắt tầu tuần về cập ở cầu
Đá, ổng còn ra khoanh tay đứng nhìn, lắc đầu và
buông ra lời phê bình :
- Anh cập tầu dở ẹc !!!
Hạm phó họ Trần cũng từng là sĩ quan trực tại
tạm trú hạm APL khi chúng tôi mới chập chững
vào lính, nên ông ta cũng rất vui mừng khi đƣợc
gặp lại nhau. Với chiếc chiến hạm nhỏ bé này,
chúng tôi đã miệt mài đi tuần những ngày dài
tháng rộng trên vùng biển Nam Hải và vịnh Thái
Lan qua sóng bạc đầu và qua những cơn giông
bão. Ban đêm chúng tôi hay dùng quang hiệu
Morse để liên lạc hỏi thăm tầu bè đi ngang vùng
tuần. Thƣờng chúng tôi hay đánh đèn chữ
WHAT SHIP, rất tiếc là hồi xƣa chƣa có internet
nên chƣa có những chữ tắt nhƣ LOL hay WTF.
Hạm phó Trần mỗi lần đi tuần thƣờng mang
theo mấy chục cây thuốc lá
Quân Tiếp Vụ, tôi vẫn còn nhớ
dáng ông gầy gầy ngồi trầm
ngâm bên làn khói thuốc cay
mắt.
Năm đó trên tầu PGM chúng
tôi vẫn có một ông sĩ quan cố
vấn Mỹ tên là Đại Úy Lund
Quaker. Ông này xuất thân từ
trƣờng Võ Bị Hải Quân Mỹ
Annapolis ra nhƣng tôi vẫn
không hiểu tại sao ông ta lại đi hải quân Mỹ
đƣợc vì ông ta so ra hơi thiếu kích thƣớc (ông ta
chỉ cao đúng khoảng 1 mét rƣỡi). Thủy thủ đoàn
chúng tôi hay đọc tên ông ta thành đại úy Lùn
Quá Cỡ. Ông này hình nhƣ không cao bằng tiểu
đoàn phó của khóa 6 nữa đấy. Ông ta có kiến
thức về hàng hải rất cao, tính tình điềm đạm, rất
dễ thƣơng và hay ngồi nói chuyện tâm sự với tôi
về quê hƣơng dấu yêu xứ chăn bò của ông ta mà
sau này tôi lại có dịp qua sống lƣu vong đến
ngày nay và có lẽ đến suốt cuộc đời còn lại. Sau
cuối năm 71 một vị Hạm Trƣởng mới tên Phan
Papa lên tân đáo và hạm phó Trần cũng đƣợc
thuyên chuyển về làm hạm phó chiếc Dƣơng vận
Hạm Qui Nhơn HQ-504.
Tuần duyên hạm Phú Quý 617 đƣợc hạ thủy
năm 1966 và chạy tƣơng đối khá nhanh so với
các ghe đánh cá gắn máy đuôi tôm của dân
16 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
ngƣ phủ mình, tốc độ PGM tối đa hai máy tiến
Full cũng có thể đạt đƣợc đến 5, hay 6 nơ (vào
khoảng 11 cây số/ giờ) nếu tầu đi hải hành
ngƣợc sóng. Nếu quý bạn chạy xe đạp và cố đạp
nhanh một tý chắc chắn quý bạn có thể qua mặt
chúng tôi với tốc độ rất khiêm nhƣờng này. Tôi
rất thích đi hải hành ngƣợc sóng và trái lại, anh
bạn khóa 20 thuộc École Navale de Chụtt lại rất
thich đi xuôi sóng. Mỗi lần anh ấy giao ca cho
tôi là anh ấy đã chạy hết cả vùng tuần duyên,
ban đêm có khi đi tuần từ Đại Lãnh,Vũng Rô mà
anh ấy mải chạy xuôi sóng, qua Hòn Khói và về
đến gần Hòn Tre, Nha Trang. Đến lúc về khuya
tôi lên nhận ca thì lại phải cố chạy xả hết ga
ngƣợc sóng để về lại tọa độ cũ, thế là cả tầu
không ai ngủ đƣợc vì tàu cứ chạy đâm sầm vào
giữa những ngọn sóng to vĩ đại, tiếng sóng vỗ
ầm ầm và làm rung chuyển cả con tầu và khi hai
chân vịt thò ra khỏi mặt nƣớc gầm gừ thét lên
nhƣ một con thú hoang giãy chết giữa cơn biển
động. Các bọt nƣớc trắng xóa che phủ cả con tàu
khi các ngọn sóng to đập vào mũi tàu rồi bung ra
tứ phía tạo nên một cảm giác thích thú vô cùng
hoang dại, nếu quý bạn không say sóng ! Và khi
xuống ca thì ngƣời đi ca sau sẽ luôn luôn chạy
xuôi sóng,và tôi sẽ đƣợc ngủ yên giấc đến sáng
không lo bị sóng ngƣợc đánh té văng ra khỏi
giƣờng nữa.
Vào khoảng cuối năm 71, vào một đêm không
trăng sao khi tầu đang đi tuần gần mũi Dinh,
vùng Phan Rang, Cà Ná, tôi đang ngủ chợt bị
đánh thức dậy bằng 1 tiếng động kinh hoàng,
nghe tƣởng nhƣ là chàng Quasimodo đã vô ý
làm đứt dây để chuông nhà thờ rơi đùng xuống
đất, vội chạy ra xem thì thấy ông Hạm trƣởng
mặt mũi be bét máu vì bị cửa phòng đập phải,
tội nghiệp, ông ta là ngƣời duy nhất bị thƣơng
trong tai nạn hàng hải khủng khiếp này. Tôi
thầm nghĩ hay là ông nội lái tầu nào buồn ngủ đã
cho tàu leo lên hòn Lao rồi đây ? Chạy ù té lên
đài chỉ huy thì đƣợc biết là chúng tôi đã đâm
phải một chiếc ghe đánh cá khá to đi ngƣợc
chiều tên là Nam Quan. Hậu quả tai nạn hàng
hải khủng khiếp này thì ghe đánh cá thiệt hại sơ
sài, trầy sơn mé sƣờn tả hạm không đáng kể, tầu
hải quân chúng tôi thì bị vỡ mũi và thủng một lỗ
to tổ bố ngay sân mũi ngay hầm chứa neo tý nữa
thì có thể bị chìm. Tôi vội hƣớng dẫn nhân viên
ban phòng tai bịt ngay lỗ thủng to của sân mũi
tạm thời một cách nhanh chóng (cũng nhờ
buttercup training của OCS đấy) bằng những
tấm nệm dầy. Sau đó chúng tôi trực chỉ hƣớng
Bắc đi ra căn cứ yểm trợ tiếp vận Đà Nẵng để
sửa chữa tầu.
Nửa đời ngƣời sau đôi khi ngồi buồn nghĩ lại
tôi mới thấy hai câu thơ ông thầy dạy Triết kiêm
nhà thơ tài ba đã viết tặng mình ngày xƣa sao
mà đúng quá xá à Đúng là vì ông ta đã thấy quá
xa, ngẫm nghĩ lại ông ta chỉ muốn ám chỉ là
mình sẽ đƣợc sang sống lƣu vong ở xứ Tét Xịt
đấy thôi, vì Texas là thủ đô của xứ Chăn Bò
(cowboy) mà.
Để thay lời kết tôi xin đƣợc viết thêm : Ngƣời ta
thƣờng hay có câu là :
Đƣờng nào đẹp bằng đƣờng Trần Nhật Duật
Lính nào hay nói thật bằng lính Hải Quân
Vì vậy trong bài này nếu quý bạn có đọc phải
nhiều tên tuổi hay địa danh nào trùng hợp, thì cứ
cho là đây không phải một sự tình cờ ngẫu nhiên
đâu mà chính là sự cố ý của ngƣời viết đấy.
mèo hoang 3/2010
17 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Bạn thân...
Việt Dân
Bạn mến,
Buổi sáng tháng Tƣ, bầu trời trong xanh, Theo
làn gió se se lạnh, mùa đông nhƣ còn vƣơng
vấn đâu đây. Dòng sông Potomac vẫn còn hơi
sƣơng quấn quit. Mặt trời đang lên, ánh nắng
vụn vỡ lung linh trên từng hàng cây anh đào
Yoshino đang nở rộ.
Hằng năm; vào mùa anh đào nở; tôi vẫn có thói
quen đến thủ đô Washington thăm lại dòng sông,
để đƣợc đi dƣới đám mây trắng phơn phớt
hồng, đƣợc ngắm nhìn những cánh hoa đào
mỏng manh bay theo gió nhẹ. Tôi bƣớc đi trong
một nơi chốn thật quá bình an. Tôi nhƣ đƣợc
nƣơng theo từng cánh đào, hòa nhập cùng sự
đổi thay của trời đất. Tôi bƣớc đi, lòng thật
thanh thản, nhƣ ngàn hoa mới nở sớm mai.
Không gian thanh bình quá, thời gian nhƣ lắng
đọng. Tất cả đang lặng im nghiêm cẩn đón nhận
bƣớc chân mùa Xuân. Đâu rồi ghen tƣơng đố
kị, đâu rồi kiêu ngạo hận thù. Biên giới đen
trắng đỏ vàng, biên cƣơng lãnh thổ nhƣ đã bị
xóa nhòa che khuất bởi ngàn hoa vƣơng giả.
Bạn mến,
Bên kia dòng sông là nghĩa trang Quốc gia
Arlington. Hàng hàng Thánh giá màu trắng đứng
im lìm trên đồi cỏ xanh mát. Đây là nơi yên nghỉ
miên viễn của bao nhiêu thế hệ thanh niên Hoa
kỳ. Họ nằm xuống cho đất nƣớc nầy vinh quang
hùng cƣờng vĩ đại. Họ nằm xuống cho đất nƣớc
nầy trổ hoa nhân ái bao dung, Họ nằm xuống
cho đất nƣớc nầy trở thành miền đất hứa của Tự
do Dân chủ. Và họ đã nằm xuống cho tôi cùng
triệu triệu ngƣời khác có nơi chốn dung thân. Có
cơ hội đƣợc sống, đƣợc làm ngƣời theo đúng
nghĩa của con ngƣời. Nhƣng bạn ơi ! Cho dù cố
gắng, tôi vẫn chƣa một lần can đảm gọi đây là
quê hƣơng.
Bạn mến,
Quê hƣơng... Quê hƣơng trong tôi... Tiếng gà
gáy bên sông vọng lại, tiếng trẻ thơ thiếu sữa
khóc trong đêm. Quê hƣơng trong tôi... Lúa
xanh căng mầm sữa, ngày Hè, con diều giấy
bay cao uốn lƣợn theo gió giao mùa. Quê hƣơng
trong tôi... Xóm nghèo bao bọc lũy tre xanh, con
đƣờng đất đi qua trƣớc sân đình, cây đa rợp
bóng, bến sông rộn rã lũ học trò và trên đƣờng
làng, chiều về uể oải bƣớc chân trâu. Quê
hƣơng trong tôi... Thu về đồi quê hoa sim nở,
sƣơng mù đẫm ƣớt đám mạ non. Quê hƣơng
trong tôi... Mùa đông buồn rét mƣớt, mƣa phùn
gió bấc. Nồi cơm khoai nấu muộn, khói lam
chiều ấp ủ mái nhà tranh. Quê hƣơng trong tôi...
Mùa xuân về tiếng gầu khua giếng nƣớc, cô gái
làng bên tóc ngang vai mơ ƣớc xuân thì.
Bạn mến,
Thục Đế hận vong quốc, Thôi Hiệu hoài cố
hƣơng. Trăm năm sau có sách sử nào nói lên
đƣợc nỗi thống hận vong quốc, hoài cố hƣơng
của triệu triệu con tim đàn chim Việt. Trên bốn
ngàn năm lịch sử, với sự tiếp tay bọn mãi quốc
cầu vinh; Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Mặc
đăng Dung; đàn chim Việt đã bao lần vong quốc
ly hƣơng.
Ngày nay, lịch sử mà chúng ta đang đối diện và
một thực tế không thể chối cãi đƣợc là xuyên
18 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
qua đảng cọng sản Việt nam, đất nƣớc đang bị
Trung hoa đô hộ lần thứ ba. Bằng một chính
sách xâm lăng đồng hóa tinh vi hơn, thâm độc
hơn.
Tôi có quá bi quan hay không khi nói rằng tình
trạng Tây tạng, Tân cƣơng đã và đang xẩy ra
cho Việt nam, nó không còn là hiểm họa mà là
một thực tế.
Bạn mến,
Tháng Tƣ, ký ức những ngày tháng Tƣ của 35
năm trƣớc lại trở về trong mỗi một ngƣời dân
Việt. Đó không những là ngày sụp đổ một chính
thể tự do dân chủ non trẻ, mà cũng là ngày đánh
dấu sự sụp đổ, băng hoại đến tận cùng văn hóa
đạo đức xã hội Việt nam.
Hơn bốn ngàn năm, đây chính là giai đoạn lịch
sử mà nền văn minh văn hiến Việt nam bị chà
đạp thảm khốc. Tƣơng quan trong cuộc sống
không còn là tình tự dân tộc, không còn là “ Bầu
ơi ! Thƣơng lấy bí cùng...”, mà chỉ là quan hệ
của mạnh đƣợc yếu thua. Quan hệ giữa cƣờng
quyền và cô thế. Quan hệ của bạo lực, áp bức,
đàn áp. Quan hệ của ích kỷ vô cảm, chia rẽ,
nghi ngờ và đố kỵ lẫn nhau.
Bạn mến,
Tháng ngày qua đi , ba mƣơi lăm năm đất khách
quê ngƣời. Chúng ta đã vào tuổi 60, vào giai
đoạn cuối cuộc đời (?).Có phải đây là lúc tình
hoài hƣơng càng trĩu nặng trong lòng. Tôi và
bạn những ngƣời thủy thủ già có khi nào bên
tách trà buổi sáng, bên ly rƣợu buổi chiều, nhớ
đến vận nƣớc vẫn còn nổi trôi, mà đau xót cho
dòng sinh mệnh dân tộc. Nhìn lại quãng đời đã
đi qua và phần đời còn lại, nếu còn chút ý thức,
làm sao mà chúng ta không khỏi đắc tội, hổ thẹn
với tiền nhân. Hƣớng vọng tƣơng lai, làm sao
chúng ta đối diện với thế hệ mai sau. Tôi không
có đảm lƣợc và hào khí nhƣ Hòa thƣợng Thích
Quảng Độ, Linh mục Nguyễn văn Lý, và lại quá
hổ thẹn để nhận rằng tôi cũng là một ngƣời dân
Việt nhƣ Luật sƣ Lê thị Công nhân.
Đâu rồi ngƣời thủy thủ, một thuở ngẩng cao đầu
quắc mắt thách thức đối chọi sóng gió ngàn
khơi. Đâu rồi ngƣời thủy thủ với những hải đảo
đã đi qua, những bến bờ đã ghé lại cùng những
đêm hải hành mang đầy ƣớc mơ xây dựng quê
hƣơng. Phải chăng tôi bỏ quên quá khứ , ngoảnh
mặt lại với tƣơng lai, và để không thấy nỗi thống
khổ của quê hƣơng, dân tộc, tôi đang thu mình
nhỏ bé và đang tự đánh mất, Phải chăng tôi tìm
mọi lý giải để biện hộ cho sự ích kỷ và hèn nhát
của chính tôi Phải chăng ngƣời thủy thủ già
thỏa mãn với những gì đang có, và tự đóng cánh
cửa cuộc đời mình.
Bạn mến,
Nhìn lại quãng đời đã qua đi và ba mƣơi lăm
viễn xứ ; cho dù có vinh quang thì vinh quang
đó cũng không bằng hạt cát đáy sông. Ắt hẳn
bạn và tôi đều nhận ra rằng, chúng ta không thể
nào cứ ôm mãi quá khứ; để hành sử nhƣ ngƣời
ngoại cuộc chỉ biết thƣơng vay khóc mƣớn.
Chúng ta không thể nào cứ mãi hãnh diện là một
cựu SVSQ/HQ Trần hƣng Đạo OCS mà quên đi
tƣơng lai đất nƣớc đang bị chà đạp bởi một chủ
nghĩa vong bản phi nhân. Hãy bỏ đi những đố
kỵ, bè phái. Hãy hủy diệt đi chủ nghĩa cá nhân.
Hãy vì tƣơng lai của thế hệ mai sau , can đảm bỏ
đi những dị biệt và tìm đến những tƣơng đồng.
Mặc dù không đạt đƣợc những thành công to
lớn. Nhƣng chắc chắn chúng ta vẫn có thể nói
với thế hệ mai sau rằng: Chúng ta, những thành
viên SVSQ/HQ Trần hƣng Đạo OCS cũng đã có
những ƣớc nguyện tốt đẹp dành cho quê hƣơng
giống nòi.
Bạn mến,
Tại một thành phố đƣợc mang danh thủ đô của
ngƣời Việt tị nạn, chúng ta lại gặp nhau. Hãy
mang cho nhau tâm tình đẹp nhất của biển Thái
bình, của mẹ Việt nam. Hãy kể cho nhau nghe
những vui buồn trong quãng đời còn lại. Ngày
vui họp mặt rồi cũng qua đi, Nhƣng bạn ơi ! Cho
dù đến hơi thở cuối cùng, đừng bao giờ quên
rằng tôi và bạn là những cánh chim hải âu biệt
xứ. Bạn và tôi, chúng ta có mặt tại đây hôm nay
là vì chúng ta là những ngƣời tị nạn cọng sản.
Ngày họp mặt, ngày đoàn tụ của đàn chim Việt.
19 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Hãy ngồi lại, tay trong tay chôn vùi đi những dị
biệt. Cho dù khó khăn, nhƣng hãy gánh lấy trách
nhiệm của mình. Gánh lấy trách nhiệm vì chúng
ta không sống và không hành xử nhƣ một loài ốc
mƣợn hồn. Hãy tin tƣởng mãnh liệt vào tƣơng
lai và tiền đồ dân tộc. Một hội nghị Diên hồng sẽ
nở hoa. Và chúng ta, những thủy thủ; cho dù về
chiều; nhƣng vẩn hãnh diện là con cháu của
Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần quốc Tuấn
Việt Dân WashingtonDC
Nói với cháu nội
Đeo kính lão, Nội sắp hàng đi học
Chạy hụt hơi vẫn sau đít đàn em
Chỉ mỗi tiếng chào – đọc hoài không thuộc
Chỉ có cái tên – lúc nhớ lúc quên.
Nội học toán nhẩm xem mình mấy tuổi
Gần sáu mươi sao cứ mãi làm trò?
Lấy hiện tại Nội trừ vào quá khứ
Thành tương lai là những nỗi âu lo.
Nội học vẽ để vẽ đường về xứ
Sao xung quanh toàn biển rộng sông sâu?
Muốn vẽ núi cho một đời ngất ngưởng
Cũng thua mây vần vũ giữa trời cao.
Nội học nhạc muốn cuộc đời thư giãn
Chia niềm vui từ cội rễ vô thường
Nhưng đến khi từng cung thương trỗi dậy
Chợt thấm đau nỗi nhớ mất quê hương.
Nội học Đạo lòng hướng về siêu thoát
Rồi ngẫm ra cũng ích kỷ vô cùng
Muốn bon chen lên thiên đàng cực lạc
Bỏ người thân dưới địa ngục mông lung.
Nội học riết ... thấy mình thêm dốt nát
Gần sáu mươi vẫn đứng mãi sân sau
Mong cháu lấy những vụng về của Nội
Làm nan đề cho kinh nghiệm mai sau.
Phạm Hồng Ân
20 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Người tình U Minh
Hải Âu
Lời bạt:
Câu chuyện là hỗn hợp của óc tưởng tượng
và vài khung cảnh thực tế. Nếu có sự trùng
hợp nào đó về tên tuổi hoặc địa danh, đó chỉ
là sự ngẫu nhiên ngoài ý muốn và trách
nhiệm của tác giả.
Ba mƣơi năm trôi qua, kỷ niệm cũ đã phai mờ
theo năm tháng. Những mẩu chuyện ngày xƣa
giờ đã theo thời gian chìm đắm sau dám bụi mù.
Thời tuổi trẻ bồng bột, ngây thơ đã vụt qua nhƣ
bóng câu qua cửa sổ, nhạt nhòa mau nhƣ bóng
quái chiều hôm. Thời 1970 khi chiến tranh Việt
Nam bắt đầu chuyển sang giai đoạn quyết liệt
nhất trƣớc khi kết liễu cũng là thời mà bây giờ,
sau 30 năm sầu xứ, tôi vẫn nhớ lại nhƣ chuyện
mới xảy ra hôm
qua. U Minh là một
địa phƣơng ít ngƣời
biết tới. Chữ U
Minh có nghĩ là âm
u tối mịt, ám chỉ
vùng sình lầy hắc
ám nhiều cạm bẫy,
trắc trở trong thời
chiến. Cũng chính
trong vùng này,
Vua Gia Long, trên
dƣờng lƣu vong
sang Thái Lan cũng
đẵ từng nếm mùi nƣớc mặn, đồng chua của miền
cực Nam. Gần năm phục vụ giang đoàn thủy bộ
hoạt động trong vùng, ngoài những thử thách
hằng ngày của cuộc chiến, những chuyện bên lề
của chiến tranh cũng không kém phần ngoạn
mục.
Căn cứ Kiên An nằm trên sông Cái Bé, ở ngay
góc kinh Cáng Gáo. Từ Sài Gòn, đi xe đò xuống
Rạch Giá, rồi phải di xe ôm đến Xẻo Rô, Tắc
Cậu, cách bến xe chừng 20 phút đi bằng xe ôm,
thƣờng là xe gắn máy nhƣ Honda, Suzki hoặc
tƣơng tự. Sau đó phải đi đò xuyên Tắc Cậu rồi
vƣợt ngang sông Cái Bé mới tới Kiên An. Đò
xuyên Tắc Cậu thƣờng đầy ấp có thể chìm bất
cứ lúc nào khi có sóng lớn. Thế nhƣng nhờ trời
chuyện này chƣa bao giờ xảy ra. Lần đầy ngồi
đò cũng hơi ƣu tƣ, nhƣng thấy mọi ngƣời dân
thƣờng vẫn tỉnh bơ nên yên tâm phần nào.
Gần căn cứ là một xóm nhà dân chen lẩn những
hàng quán nho nhỏ ở bờ Tây. Bên kia bờ kinh
Cáng Gáo ở phía Đông là xóm nhà dân, đa số
làm nghề buôn hoặc đánh cá. Hàng quán thì chỉ
lèo tèo vài ba cái vì đa số các ẩm thực khách từ
căn cứ Hải Quân và đồn Địa Phƣơng Quân gần
đó hay la cà ở những quán bờ Tây.
Vào U Minh chỉ có một lối duy nhất là theo
Kinh Cáng Gáo. Đồn Địa Phƣơng Quân nằm
cùng mé của căn cứ Hải Quân nhƣng ở cuối dãy
xóm nhà dân vế
phía Tây và cách
căn cứ chừng gần
cây số. Thời đó
sau hành quân
Kampuchia, hai
giang đoàn 70 và
71 Thủy Bộ về
đóng Kiên An.
Tôi thuộc 71
Thủy Bộ. Sự khác
biệt giữa hai
giang đoàn rất dễ
nhận ra. Dân 70
TB thì tóc dài, nhậu nhẹt nhiều, còn dân 71 thì
có vẻ “đứng đắn, đàng hoàng” hơn về mặt quân
phục và tƣ cách. Giang đĩnh của 70 TB thì thuộc
loại cũ của Hải Quân Mỹ vùng nƣớc đục (
Brown Water Navy), thí dụ nhƣ loại Tango mui
vải so với loại tango mới hơn mui sắt là loại
tango tôi dùng khi hành quân U Minh ( Tango
54). Hải quân Việt Nam đóng cùng căn cứ với
Hải Quân Mỹ. Chỉ những dân OCS mới thƣờng
giao du với các nhân viên và sĩ quan Mỹ đóng
21 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
cùng căn cứ. Một buổi trƣa, tôi đang ngồi trong
một quán cốc địa phƣơng, một thằng Mỹ đến
bàn trao tôi mấy tấm hình hắn chụp ở Tân Châu
trong đó có tôi, Tôi cám ơn và bắt tay hắn. Sau
đó đƣờng ai nấy đi. Chiến tranh làm ngƣời ta có
vẻ hời hợt, vội vã trong sự giao tế. Thƣờng sau
mỗi cuộc hành quân U Minh, đa số sỹ quan và
lính đề lặn về Sài Gòn để du hí và thăm bà con,
gia đình dù có giấy phép hay không. Một số con
bà phƣớc thì ở lại căn cứ. Thời đó tụi VC thƣờng
pháo kích căn cứ Kiên An. Sau chín giờ tối thì
căn cứ đóng cửa và sự ra vào rất hạn chế. Những
con nhạn lạc đàn vì mê nhậu quên giờ giấc có
thể trở về căn cứ trƣớc mƣời giờ đêm. Sau đó thì
chỉ có nƣớc ngủ lại ở một trong các nhà dân
ngoài căn cứ. Sự canh gác căn cứ là sự hợp tác
giữa Hải Quân VN và Hải Quân Mỹ. Phe ta và
phe đồng minh cũng trà trôn la cà ở những hàng
quán hai bên bờ kinh và sự đụng độ sau những
buổi tửu hậu, trà dƣ xảy ra thƣờng nhƣ cơm bữa.
Sau khi trở về Kiên An từ cuộc hành quân
Kampuchia chừng ba tháng tôi đã quen với nếp
sống ở căn cứ và bắt đầu thám hiểm dân tình địa
phƣơng. Ngoài những buổi nhậu tập thể ở bờ
Tây, thỉnh thoảng tôi cũng hay phiêu du qua bên
kia bờ kinh Cáng Gáo một mình. Mỗi lần ra
ngoài căn cứ tôi hay mặc đồ TQLC mua ở chợ
trời Sài Gòn và lận theo cây colt 45 để hộ thân.
Qua bên kia kinh phải đi bằng ghe. Chỉ cần
ngoắc tay là có ghe đƣa đón và chi phí thì tùy
nghi. Lần đầu tiên phiêu lƣu bên kia bờ kinh tôi
đi rảo suốt con đƣờng mòn trƣớc dãy nhà quê
với rải rác những hàng quán. Càng đi về phía U
Minh, phố quê càng trở nên thƣa thớt. Sau căn
nhà cuối phố thì con đƣờng trở nên hẹp hơn và
cong queo dẫn về phía cái cổ miếu nho nhỏ nằm
chơ vơ sau đám cây tràm, cây đƣớc và rải rác vài
cụm dừa nƣớc. Mỗi lần đi hành quân, khi tàu
vừa vƣợt qua cổ miếu là nhiệm sở tác chiến.
Đƣờng vào U Minh trở thành nguy hiểm trong
tích tắc. Lối vào U Minh nhiều trắc trở bất ngờ.
Trên lối trở lại, tôi bƣớc vào một quán cà phê.
Quán nằm một phần ba con đƣờng xóm nhỏ về
phía U Minh. Lúc bầy giờ đã hơn sáu giờ chiều.
Quán hơi vắng và chỉ có vài ngƣời khách đàn
ông. Dĩ nhiên thời chƣa bao giờ thấy giới phụ nữ
la cà ở các quán biên thùy. Tôi đế ngồi ở chiếc
bàn cuối cùng trong góc trái. Tiếng nhạc thời
trang đang phát ra từ giàn cassette đặt sau quầy
hàng. Giọng hát Lệ Thu đong đƣa gợi niềm
thƣơng nhớ trong bài Xin Còn Gọi Tên Nhau
của Trƣờng Sa đang ray rứt gợi nỗi cô đơn của
ngƣời lính xa nhà. Ngồi sau quày là một ngƣời
đàn bà có mái tóc dài óng mƣợt trong chiếc áo
tay dài hở cổ màu tìm thẫm để lộ chiếc cổ trăng
ngần và một phần ba bộ ngực đầy đặn tràn dầy
nhựa sống. Thấy tôi, nàng bƣớc ra khỏi quầy và
đến tận bàn, nở nụ cƣời mời mọc.
-Anh uống gì? Nàng khẽ hỏi
-Em cho tôi một chai băm ba.
Nàng gạn hỏi tôi:
-Có San Miguel mới về, anh có muốn thử
không?
San Miguel là một hiệu bia Phi Luật Tân nổi
tiếng thời đó bên cạnh hiệu Heineken của Hòa
Lan. Tôi liền gật đầu.
Nàng quay vào trong rồi chừng năm phút sau
mang ra một mâm với một ly đá và chai San
Miguel. Nàng đặt mâm xuống bàn rồi rót bia ra
ly. Rót đến nửa ly thì bọt trắng đã dâng lên gần
đầy ly và nàng ngƣng rót. Rồi nàng mỉm cƣời
cáo lui. Tôi đợi hai phút cho bia bắt đầu lạnh rồi
nâng ly, nhắp một ngụm. Vị bia hơi đắng lúc
đầu nhƣng trở nên ngòn ngọt khi xuống khỏi cổ.
Tôi ngồi nhâm nhi bia, nghe nhạc và thỉnh
thoảng nhìn quanh hàng quán cà phê mộc mạc,
đơn sơ của vùng quê hẻo lánh này. Nàng chủ
quán đã trở lại ngồi sau quầy, bâng quơ nhìn ra
cửa. Mắt nàng to và đen láy nhƣng nhuốm một
nét buồn u ẩn. Có lẽ nàng đang mang một tâm
sự buồn nào đó. Quán hơi vắng so với những
hàng quán bên kia bờ kinh. Hình nhƣ quán này
chỉ dành cho những tay thích nghe nhạc, nhâm
nhi bia lạnh hoặc cà phê đá để tìm lại vài giây
phút yên tĩnh, thoải mái sau những giây phút sôi
động, căng thẳng đầy chết chóc và bất trắc của
22 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
chiến tranh. Tôi lặng lẽ nhắp bia lạnh, bâng
khuâng nhìn quanh, nhìn ra ngoài cửa và thỉnh
thoảng nhìn về phía quầy hàng. Khi tôi ngoắc cô
chủ để gọi thêm bia thì cũng là lúc giọng Khánh
Ly rời rã , bơ vơ nhƣ những phút cô đơn sau
cuộc làm tình trên gác vắng biên thùy trong bài
Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu. Nàng chủ quán
mang ra một chai San Miguel, chăm đầy ly rồi
định quay ra nhƣng tôi đã đƣa tay chận nàng ở
lại. Tôi mời nàng ngồi xuống chiếc ghế đối diện.
Nàng có vẻ hơi ngạc nhiên nhƣng mỉm cƣời
ngồi xuống nhìn thẳng vào mắt tôi.
- Em tên gì? Tôi gặng hỏi
- Em tên Mỹ Hạnh, nàng khẽ trả lời.
Tên Mỹ Hạnh có vẻ quen quen. Tôi ôn lại ký ức
trong vòng mấy mƣơi giây. Rồi tôi nhớ ra rằng
đó là một địa danh quen thuộc. Mỹ Hạnh là tên
một làng của quận Đức Hòa, quê quán của tôi.
Tôi liền hỏi nàng:
- Em có phải là ngƣời Đức Hòa không?
Nàng đáp lại:
- Phải, sao anh biết?
- Anh chỉ đoán mò vì anh cũng là ngƣời Đức
Hòa.
Từ phút đó hai bên trở nên thân thiện nhau hơn.
Tôi hỏi nàng vì sao mà trôi dạt đến chỗ khỉ ho
cò gáy này. Nàng trở nên trầm buồn kể sơ qua
về cuộc đời mình. Nàng lớn lên trong một gia
đình gia đình khá giả ở làng Mỹ Hạnh. Mƣời sáu
tuổi, sau khi học hết lớp trung học cuối cùng ở
trƣờng Đức Hòa, nàng đƣợc chuyển về trƣờng
trung học Phú Lâm. Cũng nơi đó nàng quen biết
một chàng trai học cùng trƣờng( lúc đó trƣờng
trung học Phú Lâm là một trƣờng hỗn hợp,( trai
gái học chung). Hai năm sau đó cả hai đều rớt tú
tài đôi, chàng phải vào Thủ Đức còn Mỹ Hạnh
thì trở về quê ở Đức Hòa giúp đỡ mẹ cha việc
buôn bán. Hai ngƣời vẫn liên lạc nhau bằng thƣ
từ. Khi chàng trai ra trƣờng và đƣợc chuyển về
đơn vị 21 Bộ Binh đóng ở U Minh thì Mỹ Hạnh
cũng bỏ nhà để chạy theo mối tình đầu đời.
Chƣa đấy một năm sau thì ngƣời tình của nàng
bị tử thƣơng trong một cuộc phục kích ở vùng U
Minh hạ. Nàng quyết định ở lại vùng U Minh để
tƣởng nhớ ngƣời yêu xƣa, thay vì trở về quê
chung sống với gia đình.
Chừng hơn một năm sau đó nàng lại dan díu với
một sỹ quan địa phƣơng quân trong vùng nhƣng
cuộc tình cũng không kéo dài đƣợc bao lâu.
Chàng này cũng bị tử thƣơng trong một cuộc
hành quân phối hợp. Từ đó Mỹ Hạnh sống một
cuộc đời cô lẽ, mở quán cà phê để lây lất qua
ngày. Và từ đó trong mắt nàng lúc nào cũng
vƣơng vấn một nỗi buồn u ẩn.
Tôi cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn với những ngón
tay dài thon búp măng an ủi nàng.
Hai giòng nƣớc mắt chảy dài xuống má nàng.
Mỹ Hạnh xin lỗi và cáo lui. Tôi ngồi đó lặng
thinh không nói, uống từng ngụm bia mà thấy
lòng cay đắng, bâng khuâng khó tả. Bóng
chiều đã ngã xuống ngoài kia. Trong quán chỉ
lƣa thƣa vài ngƣời khách. Có tiếng ghe máy lao
xao ngoài mặt kinh. Những ghe đánh cá đã tề
tựu về sẵn sàng cho buổi chợ chiều. Tôi nhìn ra
vùng sóng nƣớc lấp loáng, rộn rịp bóng ghe
thuyền
Và trong một thoáng, quên di rằng mình đang
sống giữa vùng chiến tranh sôi động.
Khi tôi về căn cứ thì đã hơn chín giờ tối.
Lệnh cấm trại vẫn kéo dài ba tuần sau đó. Trong
khi chờ đợi cuộc hành quân sắp tới, hằng ngày,
ngoài những buổi ăn nhậu với bạn đồng đội, tôi
thƣờng băng qua song, uống cà phê hoặc bia để
nghe nhạc và đề trò chuyện với Mỹ Hạnh. Tình
giao du trở nên thân thiết hơn. Một buổi xế
chiều sau khi tôi đã uống vài chai, Mỹ Hạnh mời
tôi ở lại dùng cơm tối hôm đó. Tính ra thì hai
đứa đã quen nhau trên hai tuần từ lúc khám phá
ra rằng tụi tôi ở cùng quê. Tôi nhận lời ngay. Tối
đó hai đứa ăn cơm với canh chua tôm và cá kho
tộ. Sau đó tôi ở lại trò chuyện đến sau chín giờ
tối mới trở về căn cứ. Tình than mật chuyển
sang tình yêu lúc nào không hay. Tôi chỉ nhớ
rằng một buổi tối sau khi mải mê trò chuyện, tôi
khám phá ra rằng đã hơn mƣời giờ đêm. Tôi
đành ở lại qua đêm trong quán của nàng. Mỹ
23 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Hạnh xin phép lui ra sau để tắm rửa và thay
quấn áo chuẩn bị đi ngủ. Tôi ngồi tần ngần ở
chiếc bàn trong góc trái cạnh quầy chờ nàng.
Chừng hai mƣơi phút sau, nàng trở ra trong bộ
đồ ngủ lụa màu ngà, mái tóc xõa dài xuống vai,
óng mƣợt, nụ cƣới rạng rỡ. Thân thể nàng tƣơi
mát nhƣ một tòa thiên nhiên. Tối thấy lòng mình
rạo rực một cách tự nhiên, chƣa biết phải phản
ứng ra sao thì Mỹ Hạnh đã tiến lại gần bên tôi,
cầm lấy tay tôi và để lên ngực áo của nàng. Tín
hiệu vừa đƣợc gửi đi và vừa đón nhận trong tích
tắc. Tôi nghe tim mình đập dồn dập trong lồng
ngực và cảm thấy ngột ngạt, kỳ thú. Tôi ôm
chầm lấy nàng, ghì sát vào cơ thể tôi. Nàng chúi
mặt vào ngực áo tôi thổn thức, hơi thở dồn dập.
Bao nỗi cô đơn buồn tủi sâu kín, giờ nhƣ nƣớc
vỡ bờ. Tôi nâng mặt nàng lên, nhìn thẳng vào
đôi mắt đen láy, to tròn dƣới ánh đèn tù mù. Nụ
hôn đầu nồng ấm và ƣớt át trong giây phút đam
mê cuồng vội. Bàn tay tôi phiêu lƣu dƣới làn vải
lụa mỏng, háo hức, mơn trớn từng khoảng da
thịt, từng ngõ ngách quanh co của vùng thung
lũng tình yêu bí mật của ngƣời đàn bà. Rồi hai
đứa bị lôi cuốn vào cơn bão tình yêu nhục thể
lao đao khó tả và kéo dài bất tận. Hai đứa yêu
nhau cho đến khi hai thân thể rã rời, mệt lả, rồi
ôm nhau chìm trong giấc ngủ dài thoải mái, vô
tƣ, không mộng mỵ.
Tiếng gà gáy sáng làm tôi chợt tỉnh. Tôi nhìn
xung quanh định thần. Mỹ Hạnh nằm cạnh tôi
bên cánh trái, mái tóc nàng buông xõa che lấp
phân nửa khuôn mặt và sòng xoải chảy xuống
bờ vai và đôi bờ bồng đảo của nàng. Bờ mông
nàng đầy đặn ẻo lả chạy dài xuống hai chiếc đùi
thon dài phân nửa luồn khuất sau lớp chăn bừa
bộn. Hơi thở nàng đều đặn theo nhịp lên xuống
của ngực nàng. Tôi kéo nàng quay về phía tôi
cho nàng nằm sát về phía trái, mặt sát vào ngực
tôi. Tôi nghe hơi ấm của thân thể nàng truyền
sang cơ thể tôi. Nàng ú ớ những lời khó hiểu và
trên môi nàng chợt hiện một nụ cƣời vô tƣ. Tôi
ghì xiết cơ thể nàng, nghe lòng chợt rạo rực
niềm yêu nhục thể.
Rồi cuộc giao tình nửa đêm về sáng đến dồn dập
nhƣ con nƣớc vỡ bờ. Đâu đó trong khoảng
không gian bƣng bít không đầu mối, tôi nghe
nàng rên lên thống thiết, tan vỡ vùng trống vắng
tịch liêu...
Khi tôi trở về căn cứ thì đã sau chín giờ sáng.
Ba hôm sau tôi có lệnh hành quân. Tôi băng qua
sông thăm Mỹ Hạnh trƣớc khi lao vào vùng lửa
đạn.
Buổi trƣa ấy, quán vắng lạ thƣờng. Trong quán
chỉ có vài anh địa phƣơng quân uống cà phê
hoặc bia. Những dòng nhạc thời trang vẫn đang
réo rắt từ hai chiếc loa sau quầy hàng. Hình nhƣ
đã cảm thấy trƣớc, hôm nay Mỹ Hạnh mặc bộ
đồ tím thẫm. Nụ cƣời hình nhƣ vắng bóng trên
môi nàng. Tôi nhìn thẳng vào mắt nàng dò hỏi.
Nàng nhìn vội vào mắt tôi rồi vội quay đi. Cuộc
tình tự vài hôm trƣớc trở về trong tâm tƣởng tôi.
Trƣớc mặt mọi thực khách tôi không thể đến bên
nàng trao nàng nụ hôn trìu mến, vỗ về. Tôi nghe
một nỗi cô đơn cùng cực khó tả dâng lên trong
hồn. Tôi thờ thẫn theo những dòng nhạc thời
trang, uống từng ngụm bia San Miguel, tự hỏi
chuyện gì đã xảy ra. Khi ngƣời khách cuối cùng
đã rời quán, Mỹ Hạnh tiến về chiếc bàn tôi
giọng nàng buồn bã.
-Ngày mai anh đi hành quân?
Tôi không hiểu sao nàng lại biết nhƣng chắc
chắn rằng một trong những tên lính HQ hoặc bộ
binh đã truyền tin. Tôi nhìn vào mắt nàng, dò
hỏi. Ánh mắt của nàng trở nên bí hiểm. Tôi
muốn tìm hiểu vì sao.
Nàng ngồi xuống cạnh tôi, khẽ nói:
-Em đang lo
-Tại sao? Tôi gặng hỏi
Nàng chần chừ đôi phút rồi khẽ bói:
-Đời em đã hai lần dang dở, anh là ngƣời thứ ba.
Tôi chợt hiểu ra nỗi ƣu tƣ của nàng.
Tôi bảo nàng chớ tin theo những mê tín dị đoan
vô căn cứ.
Tôi cố trấn an nàng và hy vọng nàng sẽ nghe
theo.
24 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Nàng đóng cửa sớm hôm đó.
Và cơn trốt tình yêu bùng nổ nhƣ con nƣớc vỡ
bờ đƣa hai đứa vào cõi vô biên không đầu mối
nơi mà niêm đam mê nhục thể tiếp xúc với tình
yêu lý tƣởng, quyện vào một mối rồi lại tách xa
nhau trong nỗi cô đơn vô vọng.
Đêm đó khi tôi trở về căn cứ thì đã mƣời giờ
đêm. Chính tay Mỹ Hạnh chèo thuyền đƣa tôi
sang sông vì lúc đó quá trễ, không tìm đƣợc ai
khác. Phút chia tay bịn rịn, não nùng. Tôi ôm ghì
thân thể nàng, trao nụ hôn từ tạ. Nàng nói khẽ:
-Anh bảo trọng! Rồi quay thuyền trở về.
Cuộc hành quân kỳ đó không nhiều biến cố
ngoại trừ sau khi đổ bộ lính sƣ đoàn 21 ở U
Minh hạ, trên đƣờng về, chiến đĩnh tôi bị mìn.
Chiếc tango tôi đi bị há mỏ chừng gần một
thƣớc nhƣng không đủ để làm nƣớc vô tàu. Một
chàng bộ binh bị thƣơng nhẹ vì ngồi dƣới đài chỉ
huy và bị một thùng cát rơi rơi xuống đụng vào
đầu. Anh này đang hành quân thì có công điện
vê Sài Gòn học tu nghiệp. Sau chuyến hành
quân đó, toán giang đĩnh của tôi phải ở lại vùng
hành quân. Tô trải qua những đêm dài khó ngủ
vì tàu đóng cạnh căn cứ hành quân của sƣ đoàn
21 và nằm ngay gần đội pháo binh. Tôi chờ đợi
từng ngày đê đƣợc trở về thấy lại ngƣời đẹp U
Minh. Một tháng trôi qua nhiều niềm nhung
nhớ. Bao giờ gặp lại em, tôi tự hỏi. Có những
đêm mệt nhoài ray rức, tôi chập chờn rơi vào
giấc ngủ nửa tỉnh, nửa mê. Sự nguy hiểm vẫn
cận kề đâu đây trong những đêm đen mờ ảo
hoặc trong những khi bóng quái chiều hôm. Có
những lúc nằm trên chiếc bunk ọp ẹp dƣới sàn
tàu tango, tôi ngùi nhớ đến ngƣời tình U Minh,
mong đợi lúc trở về căn cứ. Niềm nhớ thƣơng
xâu xé tâm tƣ. Ba tuần lễ dài nhƣ thiên thu. Tôi
cố nén nỗi cô đơn thầm kín. Không biết nơi nẻo
xa, ngƣời tình U Minh có nhớ tôi không?
Khoảng hơn ba tuần sau đó, toán giang đĩnh
71TB trở về căn cứ.
Tôi đƣợc gặp lại ngƣời tình U Minh.
Ngồi trong quán nhỏ nhâm nhi gia lạnh để quê
đi những phút giây khổ cực thiếu thốn trong
vùng hành quân. Tôi chỉ chờ đến giờ đóng cửa
để đƣợc cùng Mỹ Hạnh chia xẻ những niềm
riêng tƣ chỉ có hai đứa tôi đƣợc biết. Tính ra thì
đã hơn hai tháng tôi chƣa về Sài gòn thăm nhà.
Cho nên sau cuộc hành quần kỳ này, tôi định ở
lại Kiên An chừng ba ngày rồi sau đó sẽ về Sài
Gòn.
Hôm đó Mỹ Hạnh mặc bộ đồ sƣờn sám màu
hồng nhạt bằng gấm Thƣợng Hải. Tôi có thể
mƣờng tƣợng từng đƣờng cong tuyệt mỹ dƣới
làn vải gấm tƣơi mát, óng mƣợt. Những chàng
trai thực khách chắc cũng đang chết mê mệt để
trí tƣởng tƣợng đi hoang. Tôi ra sông nƣớc, ghe
thuyền lao xao, bóng ngƣời tấp nập. Chiến tranh
và chết chóc hầu nhƣ đã đi vắng. Ngƣời dân quê
mộc mạc vẫn tiếp tục những sinh hoạt bình
thƣờng. Rồi tôi quan sát xung quanh quán. Ở
một góc tối bên phải, một anh chàng trung niên
mang kiếng răm đang ngồi uống bia lớn, loại bia
cổ điển hiệu con cọp trƣớc khi có bia băm ba.
Đây là một khuôn mặt lạ tôi chƣa từng thấy lui
tới quán này. Anh chàng mặc áo dân sự trông
giống nhƣ một cảnh sát chìm hay an ninh quân
đội. Tôi chắc chắn chàng đang quan sát tôi kỹ
lắm. Tôi vớ nhƣ không để ý đến chàng này
nhƣng trong trong thâm tâm, tôi tôi có nhiều
thác mắc về chàng khách lạ. Tôi định sẽ hỏi Mỹ
Hạnh về anh chàng này. Chừng mƣơi phút sau,
anh chàng nốc cạn ly bia rồi đứng lên tiếng đến
quầy hàng trả tiền rồi lẵng lặng lui ra. Khi ra gần
đến cửa quán, chàng móc túi ra bao Basto rồi
châm một điếu, hít một hơi dài trƣớc khi rời
quán. Mỹ Hạnh nhìn tôi, thăm dò phản ứng. Tôi
tỉnh bơ nhƣ Ăng Lê.
Khoảng tám giờ tối thì khách đã về hết chỉ còn
có hai đứa tôi. Sau khi đóng cửa, cài then, nàng
bƣớc đến cạnh bàn rồi ngồi lên lòng tôi, chúi
mặt vào ngực áo tôi, mái tóc nàng dài che phủ
nửa khuôn mặt dễ thƣơng, thân mật.
-Em nhớ anh, nàng thỏ thẻ.
25 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Tôi nâng mặt nàng lên, nhìn thẳng vào đôi mắt
to đen với hai làn mi cong vút. Tôi có cảm tôi đã
gặp nàng trong chuyện cổ Trung Đông nào đó
rất là kỳ bí. Nụ hôn nồng nàn đầy tham lam,
háo hức chợt đến một cách tự nhiên. Tôi ôm chặt
thân thể nàng, không muốn tách rời. Rồi đêm U
Minh lại bao phủ xuống hai tâm hồn trẻ đang
yêu nhau cuồng vội. Dƣới ánh đèn dầu tù mù,
thân thể ngƣời đàn bà hiện ra lồ lộ nhƣ một
tƣợng thần Hy Lạp. Tôi bế nàng vào trong gian
sau...
Sáng hôm sau, trƣớc khi cáo từ, trở về căn cứ,
tôi hỏi Mỹ Hạnh về chàng khách lạ tối qua.
Nàng có vẻ ngần ngừ giây lát trƣớc khi bảo rằng
chàng này là một viên chức địa phƣơng. Tôi hôn
nàng giã từ, hẹn gặp lại chiều hôm đó.
Trở về căn cứ, tôi sắp xếp cho Tango 54 về Rạch
Sỏi sửa chữa và cho các chiến đĩnh khác chăm
dầu nhớt sẵn sàng cho công tác tuần tiểu quanh
căn cứ và công tác sắp tới.
Mặc dù bận rộn với những nhiệm vụ hằng ngày,
tôi vẫn nghĩ ngợi miên man về Mỹ Hạnh, ngƣời
tình U Minh. Và hôm đó, sau khi nhậu vài phút
với đám lính con bà phƣớc, tôi gọi thuyền qua
sông thăm ngƣời yêu.
Khi tôi bƣớc vào quán thì anh chàng lạ hôm
trƣớc cũng đã ngồi trong xó tối uống bia con
cọp, cũng mang kính răm với nét lầm lì cố hữu.
Tôi nhớ lại những lời Mỹ Hạnh nói về chàng
này chiều hôm trƣớc. Viên chức địa phƣơng?
Đến đây trồng cây si hay có ý đồ gì? Tôi giả vờ
không đề ý đến chàng, bƣớc đến ngồi xuống
chiếc bàn nhỏ dành cho hai ngƣời ở cạnh quầy
hàng nhƣ thƣờng lệ. Mỹ Hạnh đem bia San
Miguel cho tôi nhƣ thƣờng lệ. Tôi uống một
ngụm bia rồi nhìn bâng quơ ra cửa nhƣng trong
khóe mắt tôi liếc nhìn anh chàng khách lạ.
Chàng vẫn mang kính đen nhƣ bao giờ, đôi môi
thâm quầng ám chỉ nhiều năm hút thuốc, nét mắt
lầm lì đanh đá của một kẻ đã từng trải trên chốn
giang hồ. Anh chàng mang một cốt cách nào đó
khác hẳn dân địa phƣơng, tôi nghĩ thầm. Tuy
chƣa nghe giọng nói của anh chàng này nhƣng
tôi biết chắc anh là ngƣời miền bắc. Điều này tôi
có thể hỏi qua Mỹ Hạnh để kiểm chứng.
Ngồi sau quầy hàng, thỉnh thoảng tôi thấy Mỹ
Hạnh nhìn về phía anh chàng rồi lại nhìn tôi nhƣ
dò xét. Tiếng hát Khánh Ly chợt trỗi lên từ giàn
cassette với bài Tình Nhớ. Giọng ca khắc khoải
bâng khuâng gợi bao nỗi nhớ nhung xa vắng của
những kẻ yêu nhau nhƣng phải lìa xa và trải qua
những tháng ngày chồng chất tƣởng đã quên đi
nhƣng vẫn còn thƣơng nhớ ngút ngàn. Tôi cảm
thấy sự mong manh tạm bợ của tình yêu. Em
ngồi đó, mái tóc buông dài, ánh mắt đăm chiêu,
xa vắng, với một niềm tâm sự u ẩn nào đó. Cuộc
chiến tình cờ đƣa đẩy cho mình gặp nhau.
Nhƣng ngày mai sẽ ra sao, nào ai biết đƣợc.
Mình chỉ biết mình yêu nhau phút này là đủ, còn
tƣơng lai thì cứ phó mặc cho những sự rủi may
bất trắc. Tôi uống thêm ngụm bia lạnh rồi nhìn
bâng quơ ra cửa. Nắng chiều đã ngả bóng ngoài
sông. Tôi thả hồn miên man theo những dòng
nhạc thời trang. Không biết đƣợc bao lâu, khi tôi
nhìn lại thì anh chàng mặc đồ dân sự đã biến
dạng từ bao giờ. Hôm đó Mỹ Hạnh đóng cửa
sớm. Tôi ở lại dùng cơm tối với nàng và ở lại
qua đêm. Sáng hôm sau tôi phải về Sài Gòn
sớm. Tôi đã chuẩn bị một giấy phép “lèo” và
mặc đồ dân sự, để đi thẳng từ nhà của nàng và
khỏi về căn cứ. Đêm đó hai đứa yêu nhau quên
cả trời đất. Tôi cũng quên bẵng về anh chàng lạ
thƣờng lai vãng từ sau khi tôi trở về từ chuyến
hành quân vừa rồi. Sau cuộc làm tình đầu hôm,
Mỹ Hạnh quay ra ngủ vùi giấc ngủ vô tƣ nhƣ
một dứa trẻ. Tôi nghe hơi ấm của cơ thể nàng
truyền sang cơ thể tôi. Mặt nàng áp sát vào ngực
tôi, hơi thở điều hòa, bình thản. Mái tóc nàng
xõa dài phủ kín bờ vai tròn lẳn. Tôi chỉ ngủ mơ
màng không tròn giấc. Bàn tay tôi để yên trên
đôi bờ mông đầy đặn, gợi cảm. Khi đêm chìm
về sáng thì tôi mới rơi vào giấc ngủ rời rã, mê
mệt. Tiếng gà gáy sang làm tôi chợt tỉnh. Tôi
nghe tiếng Mỹ Hạnh ú ớ gì đó trong giấc mơ.
Tôi lay nàng dây và trao nàng nụ hôn nồng ấm.
26 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Rồi hai đứa lại làm tình một lần nữa trƣớc khi
tôi trở dậy chuẩn bị lên đƣờng. Nàng khoác lên
một chiếc áo mỏng, đƣa tôi ra tận cửa. Tôi ôm
ghì thân thể nàng sát vào ngƣời tôi. Nàng ngƣớc
nhìn tôi trìu mến. Nụ hôn từ biệt dài dẳng không
muốn rời. Tôi hẹn gặp lại nàng trong vòng một
tuần lễ. Rồi hai đứa chia tay.
Sƣơng mù bao phủ cả vùng U Minh. Tôi đón
ghe băng qua Tắc Cậu rồi lấy xe ôm về bến xe
đò Rạch Giá về Sài Gòn. Khi xe rời bến thì đã
gần tám giờ sáng. Xe đầy nghẹt nhƣ mọi khi.
Tôi ngồi ở băng giữa phía trái, nhắm mắt cố tìm
giấc ngủ. Nét mặt dễ thƣơng của ngƣời tình U
Minh lảng vảng về ám ảnh tâm tƣ. Những phút
giây làm tình nóng bỏng, những lời tự tình trong
đêm vắng... Tôi nghĩ ngợi bâng khuâng rồi chợt
rơi vào gấc ngủ ngu ngơ mệt mỏi. Trong cơn mê
tôi nghe gió thoảng bên tai. Khi tôi tỉnh dậy thì
xe vừa ghé bến Ninh Kiều. Tiếng rao hàng lao
xao của những ngƣời bán hàng rong làm tôi
quên di những nỗi ƣu tƣ về cuộc chiến. Tô mua
vài dĩ chuối khô để làm quà cho ngƣời thân ở
Sài Gòn. Mƣời lăm phút sau, xe đò tiếp tục cuộc
hành trình trên nẻo đƣờng gồ ghề, đầy bụi bặm.
Hình ảnh những xóm nhà, những đồng ruộng
phẳng lỳ và những khoảng trời xanh pha mây
trắng lần lƣợt trôi nhanh về phía sau khung cửa
xe nhƣ một cuốn phim thời sự. Chƣa về tới Sài
Gòn mà tôi đã bắt đầu nhớ U Minh...
Tôi trở lại Kiên An một chiều mƣa tầm tã. Con
đò từ Tắc Cậu chồng chềnh nghiêng ngả theo
những đợt sóng cao đe dọa. Mọi ngƣời khách
ngồi sát vào nhau, im lặng. Khi đò qua sông Bé,
sóng còn lớn hơn. Những đám dừa nƣớc nằm
lặng lờ sau màn mƣa mờ tỏa. Vừa lên bờ, tôi đã
đi nhanh về phía nhà Mỹ Hạnh. Lúc bấy giờ đã
hơn sáu giờ chiều. Nàng chạy ra đón tôi vòng
tay rộng mở. Tôi hôn lên đôi bờ môi nồng ấm
của ngƣời tình U Minh. Một tuần xa nhau mà
sao thời gian thăm thẳm. Tôi nghe niềm nhớ
thƣơng dâng lên nhƣ nƣớc vỡ bờ. Quán thật
vắng, chỉ lèo tèo vài ngƣời. Tôi để ý không thấy
chàng “viên chức địa phƣơng” đâu cả. Tôi cũng
không thèm hỏ Mỹ Hạnh. Tôi chỉ bết rằng hai
đứa lại đến trong vòng tay nhau. Buổi chiều
xuống thật nhanh và cơn mƣa không chịu dứt.
Rồi đêm về bao phủ vùng tranh tối tranh sáng U
Minh. Rồi hai tâm hồn lại chìm đắm trong cơn
mê tình yêu kỳ diệu. Hai đứa yêu nhau cho đến
khi thân thể rã rời.
Hôm sau tôi có lệnh đi hành quân gấp. Phân
nửa toán giang đỉnh của 71TB còn ở lại U Minh
bị nhiều tổn thất. Một chiếc Alpha bị mìn thả
trôi và đã chìm ngay trƣớc bộ tƣ lệnh Sƣ Đoán
21 Bộ Binh, mộ sỹ quan HQ biệt phái từ Thủ
Đức đã vùi thây dƣới lòng kinh Cáng Gáo, trong
bụng chiếc Alpha. Ngƣời nhái phải lặn cả tuần
để mang đƣợc xác lên bờ. Tôi có nhiệm vụ dƣa
xác về Cà Mau trên trực thăng Mỹ, chờ khám
liệm rồi đƣa quan tài về gia đình ngƣời quá cố ở
Sài Gòn trên quân xa. Kỳ đó ngoài tên tài xế hạ
sỹ quan, còn có một sỹ quan quân lƣơng ngồi
trƣớc với khẩu M1, còn tôi thì đứng sau cạnh
quan tài mang vỏn vẹn một khẩu Colt .45. Nếu
bọn VC chận đƣờng thì chắc cả bọn sẽ đi chầu
Diêm Vƣơng. Nhƣng may sao, cuộc hành trình
tuy gay go mệt mỏi, bọn tôi cũng về Sái Gòn an
toàn, còn có thì giờ ghé ăn tối ở Phú Lâm. Sau
khi dự đám tang, tôi đƣợc nghỉ thêm vài ngày
trƣớc khi trở lại vùng hành quân.
Tôi gặp lại Mỹ Hạnh, yêu nàng vội vã rồi lại đi
hành quân. Kỳ đó không xảy ra biến cố nào. Ba
tuần sau toán giang đĩnh của tôi rời vùng hành
quân và toán 70 TB vào thay thế. Khi đám giang
đĩnh của bọn tôi vừa vƣợt qua giữa Kinh Cáng
Gáo thì trên tần sóng hành quân cho biết chiếc
Alpha chở ban chỉ huy 70 TB vừa bị mìn. Theo
báo cáo tại chỗ thì chiếc giang đĩnh đã bị nổ
tung không còn dấu vết. Chiếc tango của tôi vừa
đi qua điểm đó chƣa đầy hai mƣơi phút. Tôi còn
nhớ chiếc Alpha với những antenne tua tủa, một
bọn quan quân ngồi trên mui tƣơi cƣời nhƣ đang
đi pinic. Tôi bàng hoàng nhớ lại những khuôn
mặt trẻ. Kỳ đó mƣời ba ngƣời chết tan xác, và
SĐ 21 phải mở cuộc hành quân đặc biệt để tìm
xác. Tôi thấy mình may mắn nhƣng cũng thƣơng
27 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
cho những ngƣời bạn đồng đội đã ra đi. Trong
số những ngƣời tử trân có vị chỉ huy trƣởng 70
TB, mới nhậm chức hơn một tuần trƣớc đó. Tôi
chợt nhớ lời Mỹ Hạnh nói: Anh là ngƣời thứ ba!
Gặp lại ngƣời tình U Minh, tôi không hề kể về
những biến cố xảy ra trong cuộc hành quân.
Nhƣng trong mắt nàng tôi thấy một vẻ buồn khó
tả. Tôi gặn hỏi nhƣng nàng cứ thoái thác, không
trả lời ổn thỏa. Tôi cũng không ép nàng làm gì.
Ba tuần sau tôi lại có lệnh đi hành quân. Trƣớc
khi đi, tôi ghé quán Mỹ Hạnh. Chiều hôm đó nét
mặt nàng buồn bã. Tôi hỏi tại sao thì nàng không
nói. Nhƣng sau khi mọi ngƣời khách đã về hết,
khi hai đứa một mình với nhau thì nàng lặng nói
với tôi rằng có thể hai đứa phải xa nhau vì nàng
không thể tiếp tục cuộc tình “ngang trái”. Tôi cố
hiểu những điều nàng nói nhƣng tiệt nhiên
không hiểu đƣợc. Tôi biết nàng đã dang dở đôi
lần và đang dộc thân. Tự nhiên tôi nghĩ đến
chàng khách lạ mặc đồ dân sự với nét mặt lầm
lỳ. Tôi nghĩ chàng này một là an ninh quân đội
hai là cán bộ nằm vùng. Cho đến lúc bấy giờ,
Mỹ Hạnh chƣa hề giải đáp ổn thỏa. Nếu hắn là
cán bộ địa phƣơng cố đao xới những bí mật
quân sự từ tôi qua Mỹ Hạnh thì hắn đã sai lầm
và hằn sẽ phải đợi chờ mòn mỏi, là vì tôi chƣa
bao giờ tiết lộ với ngƣời tình U Minh những chi
tiết hành quân. Còn nếu nhƣ hắn là n ninh quân
đội thì ngoài những cuộc lặn với những giấy
phép tự ký, tôi chƣa hề phạm luật. Hai tuần sau
đó tôi lại đi hành quân. Nằm trong vùng lửa đạn
mà tôi vẫn nhớ đến ngƣời tình U Minh, vẫn thắc
mắc về những câu hòi chƣa từng đƣợc giải đáp.
Một tháng dài lừ đừ trôi qua không biến cố. Tôi
trở về căn cứ mang một nỗ buồn cô dơn không
đâu mối. Tàu vừa cập bến, tôi đã vội đón ghe
sang sồng tìm thăm nàng. Tôi rảo bƣớc về cuối
xóm. Rồi tôi dừng lại trƣớc quán. Cửa quán đà
đóng chặt. Tôi tự hỏi hôm nay nàng bị bệnh
chăng? Vài ngƣời qua lại nhìn tôi dò xét rồi tiếp
tục đi nhƣ không có việc gì. Tôi đến lay cửa
nhiều lần nhƣng không ai ra tiếp. Tôi buồn bã
trở về ăn cứ, nghe niềm thƣơng nhớ dâng lên rời
rã ngút ngàn. Tôi về trang trại, ôm ấp niềm cô
đơn không đầu mối, nghe tình yêu nằm chết một
phƣơng trời. Hai hôm sau tôi trở lại tìm nàng.
Cửa vẫn đóng chặt nhƣ vài ngày trƣớc, Nhƣng
dán trên khung cửa là một phong thƣ. Tôi xé thƣ
ra đọc ngấu nghiến:
Anh yêu,
Khi anh đọc những dòng náy thí chắc em đã xa
khơi vạn dậm. Gặp anh và yêu anh trong những
ngáy tháng vừa qua là một niềm an ủi vô biên
cho em. Cuộc đời lận đận tình duyên đã làm em
nghi ngờ tất cả. Thế nhƣng anh đã đến với em và
cho em một niềm hy vọng nào đó. Em cũng
muốn mang đến anh một tình yêu chân thật
không tính toán, và cho anh tất cả cuộc đời còn
lại. Nhƣng những bất trắc trên đời không bao
giờ buông tha em. Hôm nay em muốn nói thật
cho anh mọi chuyện ngoái chuyện tình cảm của
đôi ta. Anh chàng mặc đồ dân sự là cán bộ VC
địa phƣơng muốn em làm cho bọn chúng. Em
tiếp tục chối từ nhƣng hắn không buông tha và
gần đây hắn ra điều đe dọa. Em khôn còn sự
chọn lựa nào khác ngoài quyết định ra đi. Em
phải xa lánh chốn này một thời gian, cố chôn vùi
tông tích. Mình sẽ gặp lại nhau hay không, chỉ
có trời biết. Em xin nói lời từ tạ. Xa anh mà lòng
đau nhƣ cắt. Hy vọng một ngày nào đó mình sẽ
gặp lại nhau,
Hôn anh,
Em, MH.
Tôi cầm lá thƣ trong tay, thấy đất trời sụp đổ.
Tôi nghe lòng mình trống vắng nhƣ chiều sa
mạc. Muốn gọi tên em nhƣng lời đã tắt khô tự
bao giờ.
Tôi lang thang trở về căn cứ. Ánh nắng chiều đã
tắt sau hang dừa nƣớc xa xa.
Hai tháng sau tôi tìm về quê tìm nàng nhƣng cả
xóm không ai biết nàng đang ở đâu mặc dù họ
khẳng định đã tùng quen biết nàng.
28 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Cuộc tình U Minh đến rồi đi, mờ ảo nhƣ trong
giấc mộng.
Hy vọng nàng sẽ sống an toàn không bị bọn bên
kia ám hại.
Ba mƣơi năm trôi qua bóng nàng vẫn biệt tăm.
Hải Âu 2008.01.05
Dƣ âm xƣa
Trời đêm lạnh
Ngàn vì sao lấp lánh
Gió lùa mây bay quanh
Che vành trăng một nửa
Gợi hồn nhớ chốn xƣa
Khung cửa nhỏ vào lớp
Tiếng thầy nghe vang vang
Trăng tròn rồi lại khuyết
Ngƣời chẳng mãi bình yên
Ngày xa xƣa
Con chƣa thấu lời thầy
Vẫn ôm hoài sách vở
Với giấy trắng mực xanh
Thầy đó, bạn bè đây
Mái trƣờng hàng phƣợng vĩ
Lớp học xếp hành lang
Hai hàng ghế gái trai
Dệt mộng đẹp tƣơng lai
Con vẫn nhớ
Thầy đứng cạnh bảng đen
Tiếng thầy nghe ngân vang
Giọng ấm trầm lên xuống
Học trò ngồi thật yên
Miên man theo tiếng thầy
Thầy đƣa chúng con đi
Quá khứ thành hiện tại
Và tƣơng lai rạng ngời
Tiếng thầy giảng
Trang quốc sử Việt Nam
Bài song thất lục bát
Lê Thánh Tôn, Tế Xƣơng
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến
Rồi bà Huyện Thanh Quan
Cùng bao thi nhân khác
Bất tử và bất diệt
Trong lớp giờ Việt Văn
Phút bên nhau
Bỗng chốc lại xa rời
Đọc thƣ bạn nghe tin
Hôm nao thầy nằm xuống
Bỏ những mái đầu xanh
Thầy giờ xa học trò
Tiếng thầy đã thôi vang
Cho trang Sử Việt Nam
Cho Việt Văn bất hủ
Giờ bốn phƣơng
Chúng con ngồi lặng yên
Đƣa hồn về trƣờng xƣa
Ấm ức nơi ngƣỡng cửa
Quá khứ mãi quá khứ
Tƣơng lai cũng lu mờ
Tiếng thầy nghe vang vang
Trăng tròn rồi lại khuyết
Ngƣời chẳng mãi bình yên
kTah
29 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Quyïín Nhêåt kyá
kTah
Chàng lui cui tìm giấy tờ tài chính trong ngăn
tủ kế mép giƣờng phía bên vợ chàng nằm. Mọi
khi muốn tìm vật gì, chàng chỉ cần hỏi vợ là có
ngay, nhƣng hôm nay vợ chàng qua nhà đứa con
gái để coi chừng thằng cháu ngoại cho bố mẹ nó
đi hội họp gì đó. Lấy vài quyển truyện trong
ngăn tủ ra, chàng chợt nhìn thấy một quyển vở
nho nhỏ bên dƣới. Quyển vở trông thật cũ kỹ,
mép của những tờ giấy bên trong đã vàng theo
thời gian. Tò mò chàng nâng nhẹ lên xem xét.
Ngồi xuống giƣờng, chàng do dự không biết có
nên mở ra coi. Cuối cùng, nhịn không đƣợc
chàng lật nhẹ trang bìa lƣớt sơ rồi lật trang kế...
rồi trang kế tiếp... thì ra là quyển nhật ký của vợ.
Bỗng chàng ngƣng lật...
oOo
Đêm thứ ba 14 tháng Tư, 1970
Mƣa tạt vào khung cửa sổ nghe rì rào. Nhi nằm
ráng dỗ giấc ngủ nhƣng chẳng đƣợc, vì hình
bóng anh chập chờn trong tâm khảm. Gần bốn
tháng nay, Nhi cố gắng thật nhiều để xua đuổi
hình bóng anh ra khỏi tâm hồn Nhi. Nhƣng đêm
nay cố gắng cách nào Nhi cũng không xua đuổi
đƣợc hình dáng anh trong trƣờng hồi sáng này.
Hơn ba tháng rồi, Nhi chẳng những trốn tránh
anh mà còn trốn tránh cả tình cảm của mình. Nhi
không dám nghĩ đến anh vì không đủ can đảm
phân tích tình cảm Nhi dành cho anh. Nhi cƣời
đùa hời hợt với những ngƣời bạn trai khác mà
không buồn phân tích tại sao con tim Nhi lúc
này lạnh lùng không xúc động trƣớc những lời
mời mọc của những ngƣời bạn ấy. Nhi vẫn luôn
quả quyết với chính mình là Nhi không ƣa bất
cứ điểm gì về anh. Phải chăng Nhi dối lòng?
Anh vẫn đó ngày ngày vào lớp, Nhi vẫn đây dạo
bƣớc thang thang trong khung viên trƣờng. Thế
mà chúng mình rất ít chạm mặt nhau. Ở một nơi
nào đó mà Nhi phải đối diện với anh, Nhi đã ngỡ
ngàng với câu chào hỏi bâng quơ mà không nhìn
thẳng vào mắt anh. Tại sao nhỉ? Tại sao Nhi sợ
nhìn vào mắt anh? Sợ anh đọc đƣợc những tình
cảm Nhi dành cho anh mà Nhi nghĩ là anh đã
biết? Vì Mỹ Lan đã nói cho anh biết. Mối tình
của anh và Mỹ Lan tan vỡ là lỗi ai? Tại anh? Mỹ
Lan nói với Nhi là anh viện lý do Mỹ Lan ghen
bóng ghen gió để chấm dứt cuộc tình. Hay tại
Mỹ Lan? Mỹ Lan vẫn thƣờng nói nếu Mỹ Lan
không chấm anh trƣớc, anh đã không chọn Mỹ
Lan mà chọn Nhi, vì Nhi hoạt bát, dễ bắt chuyện
hơn Mỹ Lan! Hay tại Nhi? Vì Nhi lỡ miệng xác
nhận với Mỹ Lan là Nhi mến anh để cho Mỹ
Lan phải ghen tuông này nọ? Mối tình của anh
tan vỡ và cũng làm tách rời một nhóm bạn đầy
náo nhộn.
Sáng hôm nay, rời khỏi giảng đƣờng, vô tình
Nhi lại đi phía sau anh. Lúc đó thật tình Nhi
30 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
muốn vƣợt qua mặt cho anh thấy Nhi, nhƣng
Nhi đã đi thật nhẹ và thật chậm để anh không
nghe tiếng giầy của Nhi. Có lẽ vì Nhi mải ngắm
dáng anh đi nên giác quan thứ sáu của anh xao
động. Anh bất chợt ngoảnh đầu nhìn và Nhi ngó
thẳng vào mắt anh. Trong khoảng tích tắc đó,
thời gian và không gian chung quanh Nhi hình
nhƣ đứng yên lắng đọng. Anh chợt dừng bƣớc...
rồi lại quay đi. Nhi chợt khựng lại... để rồi rẽ lối.
Nhi nghe lùng bùng trong tai, nghe nhịp tim đập
nhanh trong lồng ngực. Lâu lắm rồi anh nhỉ, lâu
lắm rồi mình mới chạm mặt nhau nhƣ thế này.
Nhƣng lần trƣớc Nhi đâu có cái cảm giác lạ lùng
nhƣ lần này. Nó gieo lại cho Nhi một cái gì đó
không tên trong lòng, để đêm nay chập chờn
hình bóng anh trong tâm tƣ, nghe mƣa rì rào gợi
nhớ những đêm mƣa dầm gió buốt nhóm mình
họp bạn đùa vui ca hát trong câu lạc bộ sinh
viên.
Đêm thứ Bảy 18 tháng 4, 1970
Anh có biết không, anh Sơn đã trở lại bên Nhi,
có lẽ vì anh Sơn tƣởng Nhi cô đơn. Có lẽ Sơn
nghĩ Nhi cần một ngƣời bạn vì Nhi đã mất tất cả
- bạn thân nhƣ Mỹ Lan, bạn tốt nhƣ Phƣợng,
Vinh, bạn vui đùa nhƣ Hải, Việt, Loan, và bạn...
hơn-bạn nhƣ Sơn. Anh Sơn lầm nhƣng Nhi
không đính chính. Mỹ Lan giận anh, giận Nhi
thật, nhƣng Nhi và anh chƣa làm điều gì để Nhi
phải tránh Mỹ Lan và các bạn. Tự Nhi đã để
mất vì Nhi không muốn bất cứ gì có thể gợi Nhi
nhớ tới anh. Nhi muốn yên lành và bình thản
trong tâm hồn. Nhi có bạn mới, thật nhiều bạn
mới. Nhi giỡn, Nhi cƣời nhƣng sao con tim Nhi
không còn biết rung động nhƣ ngày xƣa. Nhi
không buồn nhìn tới tƣơng lai. Nhi tƣởng đã
đƣợc yên lành với hiện tại, vì Nhi đã dứt khoát
với những gì dính dáng với anh. Nhƣng anh
Sơn lại về bên Nhi, gây cho Nhi thật nhiều bối
rối. Anh Sơn đem những kỷ niệm ngày còn bên
anh, bên Mỹ Lan, bên Sơn, bên nhóm bạn anh
về với Nhi. Thêm vào đó một niềm ăn năn hối
hận vì cách cƣ xử của Nhi đối với Sơn. Tình
cảm của Nhi lộn xộn quá phải không? Nhi dành
cho Sơn những gì? Còn cho anh? Không, chẳng
có gì cho anh cả! Nhi đã quả quyết với Mỹ Lan
nhƣ thế ngày anh nói chia tay với Mỹ Lan, thế
mà không hiểu tại sao Nhi lại viết nhật ký cho
anh... Anh Sơn thật tốt với Nhi, đâu có phải nhƣ
anh lạnh lùng khó chịu với Nhi. Đến một câu
chào, một nụ cƣời anh cũng chẳng cho Nhi.
Hình nhƣ có cái gì đó cản trở tình cảm Nhi cho
anh Sơn. Sao Nhi cảm thấy hình nhƣ mình đang
đi tìm cái đó. Nhi muốn gì đây? Muốn sóng gió?
Muốn giông tố?
Đêm thứ Ba 14 tháng 7, 1970
Thế là anh bỏ trƣờng, anh đi thật rồi. Anh đã
nhập cuộc gian nan với đời bằng cách mang lên
ngƣời bộ quân phục Hải Quân và danh hiệu Sĩ
Quan kèm trƣớc tên anh. Anh sẽ qua Mỹ học để
rồi về nƣớc phục vụ quê hƣơng đang trong khói
lửa. Ngày xƣa còn vui đùa bên nhóm, anh đã
từng mơ ƣớc đƣợc đi khắp bốn phƣơng trời quê
hƣơng. Nay anh thực hiện đƣợc giấc mơ ấy rồi.
Từ lâu rồi, dù muốn dù không, Nhi vẫn luôn tìm
nghe tin tức về anh. Mỗi lần tên anh đƣợc nhắc
đến, thính giác Nhi bỗng trở nên nhạy bén hơn
bình thƣờng. Từ ngày nhóm mình tan rã anh
không có cuộc tình nào khác. Gần cuối mùa học
nghe tin anh rớt cuộc thi mà Nhi đau xót. Anh
thông minh nhất đám mà sao lại rớt? Anh không
có bạn gái khác mà sao không có thì giờ ôn bài?
Có phải tại Nhi và Mỹ Lan không? Anh! Anh có
gì cho Nhi chăng? Sao anh lạnh lùng với Nhi
thế? Còn Nhi? Nhi có gì cho anh không? Sao
Nhi không thể chấp nhận tình cảm của những
ngƣời bạn trai khác dành cho Nhi? Chẳng lẻ vì
anh? Bây giờ anh đi thật rồi. Sẽ không còn tìm
đƣợc hình dáng anh trong giảng đƣờng, trong
khung viên trƣờng nữa rồi. Bây giờ thì Nhi đã
biết rồi và Nhi cũng đã chấp nhận rồi. Nhi không
còn muốn dối lòng mình nữa. Nhƣng mà biết
hay không cũng thế thôi. Nhi chỉ biết cầu mong
31 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
cho anh vui và bình yên, thật bình yên trên
những sông ngòi đầy bom đạn của quê hƣơng
mình.
Chiều Chủ Nhật 25 tháng 10, 1970
Mẹ vừa cho Nhi hay tuần sau gia đình bác
Thuần sẽ sang thăm để làm lễ dạm cho anh Triết
với Nhi. Anh có tin không, Mẹ nói thế mà Nhi
chỉ nhúng nhẹ hai vai rồi đi vào phòng. Chẳng
buồn cũng chẳng vui, chẳng khóc cũng chẳng
cƣời. Cuộc đời đã trở thành vô ý nghĩa từ ngày
Nhi chấp nhận tình yêu Nhi cho anh. Giờ này
chắc anh còn đang an giấc bên trong khung viên
trƣờng OCS ở Rhode Island. Anh thấy Nhi biết
nhiều ghê chƣa? Nhi vẫn không ngừng lắng
nghe tin tức về anh. Ngày anh về nƣớc, chiếc lon
“chuẩn úy” anh sẽ mang trên vai. Chắc là trông
anh oai lắm nhỉ? Anh mà trở lại thăm trƣờng
trong bộ quân phục trắng tinh ấy chắc là các cô
sinh viên sẽ mết anh nhƣ nắng hạn gặp mƣa rào.
Ƣớc gì Nhi có mặt khi anh bƣớc ra khỏi tàu bay.
Ƣớc gì anh sẽ tiến đến bên Nhi, nắm lấy hai tay
Nhi rồi ôm Nhi vào lòng. Ôi, Nhi điên rồi! Nhi
cũng biết anh và Nhi khó mà đi cùng đƣờng,
thƣơng cùng ngã đâu. Quá nhiều ngăn cách giữa
chúng mình. Thôi, Nhi thả anh về trong tƣơng
lai để anh thỏa chí tang bồng với những ngày
lƣớt sóng trên biển cả quê hƣơng, còn Nhi xin
đƣợc yên tĩnh trong tâm hồn ngày hôm nay.
Ngày mai, ngày mốt, còn thiếu gì ngày để Nhi
thƣa với Mẹ về chuyện dạm hỏi.
oOo
Chàng ngẩng đầu lên, mắt rời khỏi quyển nhật
ký nho nhỏ của vợ, nhìn xa xăm. Ba chục năm
đầu ấp tay gối, dù có những lúc giận hờn gây gổ,
chàng lúc nào cũng mãn nguyện và cảm kích ân
tình của vợ dành cho chàng. Nhƣng đọc qua
quyển nhật ký này, chàng mới thấu rõ tình yêu
này Nhi đã khắc ghi trong lòng từ khi hai ngƣời
còn là sinh viên. Nhớ lại chuyện xa xƣa trong
trƣờng Đại học Khoa Học Sài Gòn, chàng khẽ
mỉm cƣời. Thi rớt cũng tại cô ả này. Học hành
gì đƣợc khi hình dáng Nhi cƣời cƣời nói nói bên
những ngƣời bạn trai khác cứ hiện lên trong đầu,
còn mỗi lần gặp chàng thì lại lạnh lùng ngoảnh
mặt quay lƣng. Chàng cứ tƣởng lúc đó Nhi giận
chàng vì cách cƣ xử của chàng đối với Mỹ Lan.
Chàng đã chấm dứt cuộc tình đó vì chàng không
thể đi bên Mỹ Lan mà tâm hồn thì thơ thẩn bên
Tƣờng Nhi, Chàng biết chàng làm khổ Mỹ Lan
không ít, nhƣng lại không ngờ Tƣờng Nhi cũng
khổ vì chàng từ dạo ấy. Chỉ vài tháng sau khi
chàng nói chia tay với Mỹ Lan, chàng đã thấy
Mỹ Lan nắm tay thằng khác đi trong sân trƣờng,
trong khi đó chẳng bao giờ chàng thấy một
thằng con trai nào bên cạnh Nhi. Lúc nào xung
quanh Nhi cũng có ít nhất năm ba ngƣời, trai lẫn
gái. Đến bây giờ chàng mới hiểu tại sao.
Nhóm chàng vào đại học trƣớc nhóm Nhi một
năm. Tƣờng Nhi là bạn rất thân của Mỹ Lan,
nhóm bạn chàng thƣờng đùa là cặp song sanh đi
đâu cũng có bên nhau. Mỹ Lan có nét đẹp sắc
sảo của đứa con gái biết mình đẹp, còn Tƣờng
Nhi có nết đẹp thanh tú, hiền hậu. Lúc mới quen,
đám bạn chàng đều chấm Mỹ Lan làm bồ,
nhƣng quen một thời gian thì thằng nào cũng
thích gần gũi Tƣờng Nhi vì tánh tình Nhi hoạt
bát thích cƣời, thích đùa cho ngƣời vui. Điều
không hay cho chàng là ngay từ lúc bắt đầu
quen, Mỹ Lan đã chọn chàng để tỏ ý. Những
tƣởng mình ngon hơn mấy thằng bạn nên chàng
không từ chối lời hẹn hò của Mỹ Lan, cho đến
khi thấy Sơn và Bình tán tỉnh Nhi, chàng mới
phát giác ra mình thƣơng Nhi từ lúc nào. Chàng
quyết định dứt khoát với Mỹ Lan để bắt đầu theo
đuổi Nhi; chẳng ngờ lại làm cho Tƣờng Nhi và
Mỹ Lan cùng giận và tránh chàng và làm cả
nhóm rã đám. Rồi chàng thi rớt, với địa vị của
bố chàng trong quân đội và chính quyền, chỉ cần
chàng mở miệng, bố chàng sẽ lo giấy tờ cho
chàng khỏi phải đi lính xa nhà, nhƣng mộng hải
hồ nổi lên, chàng ghi tên vào Hải Quân. Học
32 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Anh Văn một tháng trong APL rồi thi đậu đƣợc
qua Mỹ học. Sáu tháng sau về nƣớc, cuộc đời
chàng xoay nhƣ côn lốc. Khi thì bềnh bồng trên
biển cả mênh mông, vài ba tuần mới đƣợc đặt
chân xuống bến. Lúc thì xuống Nam Căn cho
muỗi đốt. Lại có khi vào Vũng Tàu nghĩ xã hơi
trong văn phòng. Tình cảm thì chẳng đặt vào
một cô nào đƣợc lâu. Rồi 30 tháng 4, 1975,
miền Nam mất, chàng theo chiến hạm Hải Quân
rời khỏi miền Nam Việt Nam. Gia đình chàng đã
đƣợc tòa Đại Sứ Mỹ rƣớc đi trƣớc đó một tháng.
Qua đến trại tị nạn Indiantown Gap, chàng gặp
lại đƣợc Nhi và gia đình Nhi. Ở đất lạ, gặp lại
nhau, hai ngƣời nhƣ mới quen nhau lần đầu, bao
nhiêu hiểu lầm, buồn phiền tan biến, hình nhƣ
chúng đã ở lại trong khuôn viên trƣờng Khoa
Học...
oOo
“Hê! Anh đọc lén nhật ký của em.” Vợ chàng
đang đứng trƣớc cửa phòng ngó chàng cƣời
mỉm.
“Anh ngồi ngay đây mà đọc chứ có lén lút chỗ
nào đâu?” Chàng đùa với vợ.
“Anh đã không biết mắc cỡ còn nói ngang nữa.
Trả lại đây cho em.”
“Đừng có mạnh tay, nó rớt thành từng mảnh bây
giờ. Bộ em không thấy nó cũ lắm rồi hay sao?”
“Em biết mà! Anh làm nhƣ nó là của anh vậy!”
Vợ chàng cầm cuốn nhật ký bỏ nhẹ vào ngăn tủ.
Chàng cƣời lên ánh mắt, “Quyển nhật ký em viết
cho anh, không của anh thì của ai?”
Vợ chàng trợn tròn mắt ngó chàng. “Anh đã đọc
hết rồi à?”
“Chƣa đến đâu thì em lấy lại mất rồi. Nhƣng
điều anh muốn biết, chắc em không có viết trong
đó.”
“Điều gì?” Vợ chàng vừa hỏi vừa ngồi xuống
bên cạnh chàng.
“Anh chẳng bao giờ nghe em nói lễ dạm hỏi với
anh Triết nào đó của em, thế...” Chàng bắt đầu
“Anh nói bậy. ai là của em hồi nào?” Vợ chàng
cắt ngang.
Chàng cƣời giòn “Ừ, anh nói bậy. Cái ông Triết
nào đó của ngƣời nào đó. Đƣợc chƣa?” Vợ
chàng cƣời gật đầu. Chàng tiếp “Ổng đi đâu
rồi?”
“Anh hỏi vô duyên! Làm sao em biết đƣợc ông
ta đi đâu?”
“Không! anh muốn hỏi thế em có làm lễ dạm hỏi
với ông Triết của ngƣời ta không?”
“Nếu em làm lễ dạm ngỏ thì làm sao em ngồi
đây bên anh đƣợc?”
“Em làm sao thoát khỏi vậy?” Chàng nóng lòng
“Thì nói với mẹ vài câu là xong.” Vợ chàng nói
hóm hỉnh.
Chàng nhíu mày “Đâu có chuyện dễ dàng nhƣ
vậy!”
“À, chuyện gì thì mẹ khó chứ chuyện này mẹ dễ
chịu lắm, nhất là từ ngày ngƣời con gái của bạn
mẹ tự tử trong đêm động phòng vì cha mẹ chị ấy
bắt chỉ lấy ngƣời chồng mà chỉ không thƣơng.
(Xem tiếp trang 138)
33 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Chiều một mình ta
Vói tay che mặt trời chiều
Dáng em xƣa vẫn mỹ miều hôm nay
Chiều chơi vơi nối gót ngày
Bồi hồi chút nắng dần phai nhạt màu
Mây vàng bay mãi về đâu
Làm ơn chậm lại gởi nhau chút tình
Nhớ chăng đời mãi lƣu linh
Gió về gợi lại vô tình muôn niên
Ngày nào hồ hải triền miên
Không em ngày tháng ƣu phiền mình ta
Có còn đài các kiêu sa
Hay dung nhan đã sóng pha màu đời
Lặng thinh nghe tiếng chiều rơi
Màn đêm xuống vội không lời biệt ly
Di Truong
3/14/2010
Nghìn rừng
giông bão
ngục tù trăm sông
Ta về nằm giữa biển đông
Hai tay ôm lấy trăm sông nghìn rừng
Nghìn rừng đau nỗi sầu chung
Trăm sông sầu mối đau cùng nƣớc non
Ta về ngồi dƣới cội nguồn
Ngu ngơ theo tiếng chim muông lạc bầy
Ta về ngồi dƣới chân mây
Xé câu thơ cổ quăng đầy thiên thu
Ta về thƣơng kiếp phù du
Nghìn rừng giông bão ngục tù trăm sông.
Phạm Hồng Ân
Dòng sông cạn nƣớc
Ta vẫy tay chào dòng sông cạn nƣớc
Chào những bến bờ lam lũ yêu thƣơng
Chào hàng cây xanh hắt hiu bóng tối
Chào trái tim em thăm thẳm mù sƣơng.
Ta lao đao gánh bộn bề cuộc sống
Mơ thiên thai bằng hơi thở câu thơ
Ôi, tội nghiệp những sông dài biển rộng
Thời tiêu tan, cạn nƣớc, hóa đồng khô.
Bốn mƣơi năm đứng cô đơn cầm bút
Bụi thời gian thành đá trám chân ta
Chạy loanh quanh cũng vẫn về ngõ cụt
Gào khàn hơi vẫn đồng vọng âm ma.
Ta đứng đây nhƣ dòng sông cạn nƣớc
Thèm cuồng điên tiếng sóng biển gầm
vang
Nƣớc bỏ sông, bỏ tình ta đi trƣớc
Để đìu hiu từng bờ bãi tan hoang.
Phạm Hồng Ân
34 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Em về…
Em về sông núi quên hờn dỗi
Vui gió bờ đê vọng sáo diều
Bông lúa mừng vui căng mầm sữa
Thềm trăng hoa lý ngát hƣơng yêu
Em nhớ về đi qua lối xƣa
Tháng Tƣ quê ngoại gió giao mùa
Hoa cà em nhớ tìm sắc áo
Tìm lại môi em thuở thẹn thùa
Em nhớ về đi qua bến sông
Tiếp nối chuyện xƣa bếp lửa nồng
Buồng cau tháng Bảy tròn xanh mộng
Chiều khói lam buồn đôi mắt trông
Em về, em nhớ em tìm lại
Đồi quê sim tím đẹp chân trời
Hoa soan, em nhớ tìm hƣơng tóc
Bên dòng sông cũ bóng trăng soi
Lý Thy Dân
Xuôi dòng
Ai về gợi rũ cơn đau,
Tay bồng tay dắt, đành theo với chồng.
Nƣớc xuôi em cũng xuôi dòng,
Xuân tàn đông lạnh em mong có chàng.
Biết thân ngƣời gởi mây ngàn,
Biết lòng ai có mơ màng cho ai!
Chim chuyền lẻ bạn nhành mai,
Lòng vƣơng thì cũng vì ai đợi chờ.
Ván thuyền xin gởi tóc tơ,
Đò đƣa bến lạ em chờ sang sông.
Nƣớc xuôi em cũng xuôi dòng.
Ngô Đạo
Mƣa.
Mƣa rơi nhẹ hạt nặng cành,
Trĩu nghiêng tiềm vọng phù sanh kiếp
hằng.
Hạt vƣơng che nụ ƣơm măng,
Hạt sầm mây tảo, hạt giăng nỗi hoài.
Mƣa ngƣời nặng nghiệp trần ai,
Mƣa ta tình cội dặm ngoài quan san.
Ƣớt mi mƣa dục mây ngàn,
Oằn vai hoài bão, mƣa tan nỗi niềm.
Sơn hà biên khói tình riêng.
Hạt trong hiên nội hạt miền du mơ.
Ngô Đạo
35 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Ngûúâi thêìy... thuúã êëy
Cỏ Biển
Vừa bƣớc chân vào phòng ăn tôi đã thấy
một đám đông xúm xít quanh tờ giấy dán trên
bảng thông báo, trông thấy tôi chị Hiền gọi giật
ngƣợc lại bàn hỏi :
- Kim Quýt đọc thông báo chƣa ?
- Mới bƣớc vào đã kịp đọc gì đâu !
Tay cầm ly trà vừa rót tiến lại bàn tôi hỏi chị
Hiền :
- Thông báo gì vậy chị, hình nhƣ bà Yam mới
dán phải không ? em chƣa có xem.
- Thì là những ngày công ty ấn định cho nghỉ
thƣờng lệ vào Summer và Christmas đó. Cũng là
hai tuần cuối tháng bảy và đầu tháng tám, nhƣng
giáng sinh năm nay mình nghỉ ít hơn năm ngoái,
đến trƣa ngày 24 mới đƣợc nghỉ.
Uống xong ngụm nƣớc tôi hỏi chị Hiền :
- Kỳ hè năm nay chị có tính đi đâu chơi không
?
- Chị tính theo ông xã bay xuống Cali dự đai
hội OCS ở đó nhƣng năm nay ban tổ chức quyết
định ngày họp mặt sớm hơn nên không trùng
khớp với ngày mình nghỉ, tiếc thật !
- Thì chị xin nghỉ phép đƣợc mà,
- Đang kỳ khủng hoảng kinh tế hãng còn giữ
mình ở lại làm là tốt rồi, xin nghỉ phép hãng mất
công tìm ngƣời thay thế, buồn buồn họ thế chỗ
mình luôn là toi cơm, cái xe chị mới mua hơn
nửa năm thôi Quýt ơi, còn ba năm rƣỡi nợ nữa
nhỏ à !
- Ai biểu ham mua xe mới thì phải ráng cong
lƣng cày bừa thôi. Mà hồi nãy chị nói cái gì là “
đại hội OCS “ ở Cali ? Đại hội gì vậy chị ?
- Đại hội của những ngƣời bạn học cùng trƣờng
với chồng chị, tổ chức mỗi hai năm một lần.
Trƣớc bảy lăm mấy ảnh là Sinh viên Sĩ quan Hải
quân đƣợc gởi đi huấn luyện bên Mỹ thay vì học
ở Nha Trang. ” OCS “ là chữ viết tắt của trƣờng.
- Có phải là Officer Candidate School ở tiểu
bang Rhode Island.
- Đúng rồi tên chính xác là U.S. Naval Officer
Candidate School, Newport Rhode Island. Ủa,
mà sao em biết vậy ?
- Em có ngƣời bạn quen thân hồi xƣa, ảnh có kể
em nghe những kỷ niệm trong thời gian ảnh học
ở trƣờng nầy.
- Anh ấy tên gì vậy ?
Tôi nhắc tên ngƣời bạn và nói với chị Hiền bằng
giọng buồn bã :
- Em mất liên lạc với ảnh hai mƣơi mấy năm
rồi, chẳng biết giờ ra sao !
Chị Hiền sốt sắng :
- Em ghi tên anh ấy cho chị, nhờ ông xã chị
xem giùm cho. Ổng có một danh sách cả mấy
trăm OC hiện đang ở khắp nơi trên thế giới lận.
Buổi tối ngồi trƣớc bàn computer vào trang web
Biển Khơi chị Hiền cho tôi địa chỉ ban trƣa, câu
“ nhất tự vi sƣ, bán tự vi sƣ “ khiến những hình
ảnh ngày cũ bỗng ùa vào tâm trí làm xao động
trái tim tôi, kỷ niệm về ngƣời thầy “ bất đắc dĩ “
36 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
mà tôi ghét năm tôi vừa xong tiểu học và mối
tình đầu trong câm lặng của thời thiếu nữ khi
gặp lại nhau trong cảnh đời cùng cực sau hơn
mƣời năm mất nƣớc bỗng hiện về nhƣ thê? mới
hôm qua.
oOo
1.
- Kim Quýt đâu ? Sao ăn cơm xong mà chƣa
chịu qua bên anh Ngô học để anh ấy chờ kìa.
Tôi vùng vằng quơ lấy cuốn tập vừa đi vừa lầm
bầm trong miệng sợ ba má tôi nghe thì ít mà sợ
cây roi mây của ông bà nhiều hơn :
- Ai mƣợn " thằng chả " chờ. Vái trời cho " chả
" bịnh tui khỏi học bữa nay.
Ai nói mùa hè là thời gian sung sƣớng của tuổi
học trò, riêng tôi hè năm nay là một cực hình.
Ban trƣa trời mƣa nhƣ trút nƣớc, ba má không
có nhà tôi giả vờ xách thùng hứng nƣớc mƣa đổ
đầy hàng lu mái bên hông nhà để có cớ dầm
mƣa ƣớt nhẹp cho tới tàn đám mƣa vẫn chƣa
chịu vào, chị ngƣời làm thấy tôi môi tím ngắt
run lẩy bẩy đứng trong nhà réo lớn :
- Ông bà về thấy cô nhƣ vầy tƣởng tui làm
biếng bắt cô dầm mƣa hứng nƣớc chửi tui tắt "
bíp " (1)
cho coi.
Ấy vậy mà tôi vẫn “ mạnh cùi cụi “ không sổ
mũi ho hen đƣợc, túng quá buổi chiều tôi ra sau
bàn thờ chắp tay “ vái trời cho 'thằng chả' bịnh
để con đƣợc nghỉ học ", ai dè bà chị tôi đi ngang
nghe đƣợc mấy chữ cuối nên mét moi :
- Con Kim Quýt làm biếng xin ông trời cho nó
nghỉ học kìa ba má.
Sau khi học hết lớp Nhất tôi tham dự thi tuyển
vào lớp Đệ thất trƣờng nữ trung học lớn nhất
Saigon. Bà chị tôi thì đậu vào năm ngoái, năm
nay đến phiên tôi lại trợt vỏ chuối cái " ạch ". Ba
tôi không rầy rà nhiều chỉ phán một câu : " Ba
xin cho con học lớp Tiếp liên, năm nay thi rớt
năm sau phải thi đậu cho ba ". Vậy là tôi yên trí
rong chơi thả cửa ba tháng hè ai ngờ hôm sau
trong buổi cơm chiều má nói với ba :
- Mình à, cậu Ngô cháu thím Chín Phú đề nghị
sẽ dạy kèm toán mỗi buổi chiều tối cho con
Quýt nhà mình.
Ba tôi tƣởng anh ta xin dạy kèm nên hỏi :
- Vậy thì thù lao trả bao nhiêu ?
- Cậu ấy chỉ dạy giùm thôi, không có lấy tiền. "
Cẩu " nói thấy con Quýt học giỏi, cuối năm
đƣợc lãnh phần thƣởng hạng Nhứt mà lại thi rớt
nên cậu thấy tức muốn kèm toán thêm cho nó
thôi.
- Cậu này còn trẻ mà giỏi, bữa kia trong tiệc
nhậu Chín Phú có nói “ thằng cháu vợ mới thi
đậu Trung học Đệ nhất cấp hạng bình đó “. Con
Quýt tối mai qua cho anh Ngô dạy học nghe
chƣa.
Nghe ba nói lòng tôi bỗng thấy buồn nhƣ “ chí “
cắn, chẳng lẽ nghỉ ba tháng hè tôi phải giã từ tạt
lon, búng thun, đánh đũa, nhảy lò cò, u bắt mọi
những trò chơi mà bất cứ đứa con nít nào cũng
ƣa thích.
Trong lòng bất mãn nhƣng không dám cãi tôi chỉ
biết nói " trỏng " :
- Giỏi gì mà giỏi, hạng " bình " là bình thƣờng,
vậy cũng khoe. Tại ngƣời ta lần đầu tiên đi thi bị
hồi hộp quá nên mới rớt chứ bộ ngƣời ta học dở
sao.
Mỗi buổi chiều sau khi cơm nƣớc xong tôi
miễn cƣỡng cầm cuốn tập leo lên căn gác bên
nhà chú thím Chín nơi ông thầy “ bất đắc dĩ “
đang ở trọ. Vừa nhô đầu lên khỏi cầu thang tôi
thấy ngay " thằng chả " đang ngồi đọc sách
trƣớc bàn học, thấy tôi " chả " toét miệng cƣời :
- Kim Quýt đúng giờ quá ta.
Tôi giả vờ cƣời theo :
- Dạ em sợ làm phiền anh Ngô.
- Phiền gì, chỗ anh em bà con với nhau mà.
Tôi cụp mắt nhìn xuống giấu suy nghĩ của mình
" Bà con gì mà súng đại bác cũng bắn không tới
". Ngô là con ngƣời chị lớn nhất của thím Chín,
37 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
anh ta ở trọ nhà dì để đi học, gia đình tôi và chú
thím anh chẳng những là “ láng giềng gần “ mà
còn là ngƣời cùng quê với nhau. Nhiều lần bà
mẹ anh lên thăm con ba má tôi vẫn hay qua chơi
và gọi bà là chị hai Trọng. Trong xóm Ngô nổi
tiếng giỏi toán vẫn thƣờng hay chỉ vẽ bài vở cho
mấy chị lớn ở gần nhà và họ rất ngƣỡng mộ anh
ta, riêng Ngô với tôi thì có lẽ anh ấy là ngƣời “
làm ơn nhƣng mắc oán “, tôi tuy không thích
nhƣng vẫn phải chịu phép ngày ngày cầm tập
ngồi đối diện nghe anh ta giảng mấy bài trong
quyển “ 666 bài tính đố “ và chép về một lô bài
tập làm cho ngày hôm sau. Thói thƣờng khi
ngƣời ta ghét ai thì bất cứ điều gì liên quan đến
ngƣời ấy cũng đều thấy " ghét " ngay cả tiếng
anh gọi tên tôi mỗi khi giảng bài :
- Quýt làm hết các bài tập trong cuốn 666 này
thì kỳ thi tới đậu là cái chắc. …. Quýt hiểu
không ? !..... Quýt phải nhớ kỹ …. Quýt phải
thuộc nằm lòng. vv.. và..vv.
Mặc dù anh gọi tên tôi với giọng nói bình
thƣờng nhƣng tôi vẫn cứ tức ấm ách trong cổ
họng " " Tên ngƣời ta là Kim Quýt mà cứ Quýt,
quýt … bộ ngƣời ta là con chó sao mà cứ kêu
Quýt quýt hoài "
Có lần không dằn đƣợc tôi lập lại tên tôi với hai
chữ :
- Dạ, " Kim Quýt " nhớ rồi, " Kim Quýt " hiểu
rồi.
Một lần tôi cắc cớ hỏi anh :
- Đố anh biết tại sao em tên Kim Quýt ?
Anh lắc đầu không biết, nhân cơ hội tôi lên
giọng ba hoa giảng giải :
- Ba má nói Kim Quýt là cây kim quýt ngƣời ta
thƣờng trồng trong vƣờn, trái của nó có công
dụng chữa bệnh ho rất tốt, ngƣời ta hay kêu là
trái tắc, trái quất hay là trái hạnh, ông nội em
cũng trồng một loại khác trái nhỏ xíu làm kiểng
kế bên cây tùm nụm, tụi em hái trái này nặn lên
móng tay làm nó bóng nhƣ đƣợc sơn vậy đó.
Hồi em mới đƣợc sinh ra, bác ba em lấy số tử vi
nói em có sao Phục dƣợc thủ mạng, mai mốt lớn
lên em sẽ học nghề thầy thuốc cho xem.
Anh ngắt lời tôi :
- Mai mốt lớn rồi hãy tính, bây giờ giải cho anh
mấy bài toán động tử cùng chiều và ngƣợc chiều
này trƣớc đã.
Cụt hứng tôi cúi xuống mấy bài toán trong khi
anh chạy sầm sập xuống thang gác bởi phía
trƣớc nhà có tiếng eo éo của mấy “ nƣờng “ (2)
trong xóm :
- Anh Ngô ơi, xuống em hỏi cái này một chút.
Tôi lẩm bẩm :
- Ngƣời gì đang dạy ngƣời ta học, nghe tiếng
con gái kêu là chạy vù xuống ngay,
Tự nhiên lòng tôi nổi cơn ấm ức nhìn chồng tập
để trên bàn, mỗi cuốn anh đều bao bọc cẩn thận
trên có dán nhãn tên anh, tôi bỗng nảy ra một ý
trả thù nên lấy viết thêm dấu sắc vào chữ cuối
tên anh hết tất cả tập vở trên bàn.
Mấy hôm sau khi tôi yên vị ngồi vào bàn học,
anh chìa chồng tập hỏi tôi với giọng lạnh tanh :
- Phải Quýt thêm dấu sắc vô tên anh không ?
Tôi chối leo lẻo :
- Ơ, em đâu có biết …. Hỏng chừng mấy ngƣời
bạn học phá anh đó.
- Ai vô đây " trồng khoai đất này " có mấy cuốn
vở anh làm bài tập ở nhà đâu có mang vô trƣờng
cũng bị thêm dấu sắc vô, không phải em thì ai
lên đây viết vô. Sáng hôm qua thầy giáo trả lại
tập sau khi làm bài tập trong lớp, thầy đọc lớn
tên viết trên nhãn " Trần Khôi Ngố " làm cả lớp
cƣời ầm lên.
Một lần nữa tôi chối biến :
- Hổng phải em mà, anh coi chừng mấy cô
trong xóm phá khi anh dạy họ làm bài.
Lần đầu tiên anh gầm lên nạt tôi :
- Đừng có xạo " ke ", lẻo mép đổ thừa cho
ngƣời khác hả, Anh không có mời bất cứ cô nào
lên lên trên gác này hết.
Tôi cụp mắt ngó xuống tập im ru, chắc lúc đó
nét mặt tôi trông thiểu não lắm bởi bị vạch đúng
tội không thể chối cãi đƣợc. Anh mét ba má tôi
coi nhƣ tối nay tôi ăn thêm " bánh tét nhân mây
" mặc dù buổi chiều đã cơm nƣớc xong xuôi,
nghĩ đến đó tôi bỗng rƣng rƣng nƣớc mắt.
38 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Bất ngờ anh dịu giọng nói với tôi :
- Thôi học đi, mai mốt đừng phá nhƣ vậy nữa,
tụi bạn giờ kêu tên anh cứ thêm dấu sắc của em
vào.
Thâm tâm tôi tràn đầy hối hận muốn nói mà
không thốt nên lời nhƣng với tính lanh chanh
của một đứa con nít chƣa kịp lớn chút xíu nữa là
tôi nói : " Xin lỗi anh " Ngố " " may mà tôi bụm
miệng mình kịp thời.
Hết hè tôi trở lại trƣờng học lớp tiếp liên đúng
lúc anh cũng dọn về ở chung với gia đình ở một
vùng ven thành phố. Tôi nghe nói dƣới quê bây
giờ an ninh không còn nhƣ xƣa, thỉnh thoảng
Việt cộng hay đắp mô đón đƣờng xe đò, má anh
sợ con trai mình trên đƣờng về thăm nhà bị VC
bắt nên cho ngƣời ta mƣớn ruộng dƣới quê và
dọn hẳn lên Saigon sống với con. Hết năm học
quả nhiên tôi thi đậu Đệ thất nhƣ lời anh nói sau
khi làm hết 666 bài tính đố trong quyển sách anh
cho. Có lần vào buổi trƣa anh ghé nhà thăm dì
gặp tôi ôm cặp đi học, anh dừng lại nói với tôi :
- Kim Quýt mặc áo dài trông ngƣời lớn quá bây
giờ đã là nữ sinh trung học rồi,
Anh nhìn tôi cƣời cƣời nhắc :
- Nhớ đừng có nghịch ngợm nhƣ dạo trƣớc
nhé.
Câu nói sau cùng làm tôi xấu hổ lí nhí chào anh
rồi cúi đầu đi thẳng một nƣớc.
Sau Tết Mậu thân anh ghé nhà thăm dì dƣợng và
mặc bộ quần áo kaki vàng, lần này gặp anh tôi
mạnh dạn hơn không còn thẹn thò vê cái tội
ngày trƣớc nên vẫn đứng ở cửa đƣa mắt nhìn
anh ngang qua, thấy tôi anh đứng lại hỏi thăm
ngay :
- Kim Quýt khỏe không học hành ra sao ? Năm
nay em học lớp mấy anh quên mất rồi
Tôi thầm nghĩ : " Anh thì tối ngày mắc lo dạy
cho mấy cô " nàng " bạn học, đâu có nhớ gì "
nhƣng vẫn trả lời :
- Năm nay em học Đệ ngũ anh không nhớ sao, à
mà anh đi lính hồi nào vậy ?
Anh lắc đầu cƣời :
- Anh đâu có đi lính, bộ đồ này là đồng phục
của Sinh viên tham gia quân sự học đƣờng.
Tôi reo lên :
- A, em biết rồi em nghe mấy nhỏ bạn gọi mấy
ngƣời nhƣ anh là lính “ Babylac “.
2.
Đâu có ai ngờ cơn hồng thủy nổi lên đời bỗng
nhiên thay đổi, mới đó mà đã mƣời hai năm.
Giống nhƣ biển cả sau cơn bão tố quay cuồng,
mặt nƣớc lại trở về yên lặng thế nhƣng trên bãi
vẫn còn để lại dấu tích hoang tàn của cơn thịnh
nộ. Những ngày ăn độn, khoai lang, khoai mì, bo
bo, mì sợi rồi cũng qua mau, " Hãy để cho ngày
ấy lụi tàn " quyển truyện nội dung tôi quên mất
chỉ nhớ đƣợc cái tên bởi đọc lên rất kêu. Nếu
không có những thùng quà từ nƣớc ngoài của
những ngƣời ôm chân đế quốc Mỹ quen ăn bơ
thừa sữa cặn xót cho thân nhân ruột thịt gửi về
trong nƣớc thì chắc khó cho những ngày ăn độn
có thể lụi tàn. Cả nƣớc bây giờ đâu đâu cũng
trông mong đƣợc lên " thiên đƣờng Mỹ quốc "
những ai cầm đƣợc tờ giấy bảo lãnh có thể xem
nhƣ an tâm về tƣơng lai của mình cho dù có phải
chờ đợi bao lâu đi nữa. Ngƣời ta hỏi nhau : “
giấy tờ chạy đến đâu rồi còn ở quận hay đã
chuyển lên 161 Nguyễn Du chƣa ? Hẹn lên số 6
chờ phỏng vấn chƣa ? Có kết quả ở Chợ Rẫy
chƣa và chừng nào lên “ list de vole “ tức là có
tên trong danh sách chuyến bay. Ấy là những ai
kiếp trƣớc khéo “ tu nhân tích đức “, ngƣời vụng
tu thì cực nhọc hơn thì thào xin tham gia đóng “
cây “ Kim thành (3)
đi “ chui “ với nhau, hỏi
nhau mua đƣợc bến bãi chƣa ? chừng nào xuống
" tắc xi ", bao giờ gặp " cá lớn ", coi chừng bị "
bể " công an biên phòng hốt trọn. Tôi thuộc diện
khéo tu nên an tâm chờ ngày đến lƣợt lên đƣờng
không cần trốn chui, trốn nhủi. Tuy vậy cũng
cần chuẩn bị cho những tháng ngày sắp tới ở xứ
lạ quê ngƣời vì nhiều ngƣời than " qua bển "
39 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
bỗng trở thành câm điếc. Nghe qua thật hãi hùng
nhƣng ai cũng sung sƣớng mong đƣợc nhƣ thế,
cho nên trong những tháng ngày chờ đợi cố gắng
lật lại sách vở đƣợc chữ nào hay chữ nấy. Một
hôm đạp xe ngang qua ngôi trƣờng phía trƣớc có
tấm bảng quảng cáo mở lớp ban đêm. Rất nhiều
lớp, nào là lớp dạy đàn, châm cứu, y tế gia đình
và Anh văn. Vào phòng giáo vụ xem chƣơng
trình học treo trên bảng tôi chọn đại một lớp có
ông thầy tốt nghiệp trƣờng OCS ở Hoa kỳ bởi
giờ cái gì của Mỹ bây giờ cũng có uy tín hạng
nhất không phải “ xô vô rồi xô ra “ nhƣ của anh
em bè bạn Liên xô.
Chuông reo báo hiệu giờ vào lớp, tôi len vào
hàng ghế phía cuối lớp bởi nhìn chung quanh
hình nhƣ chỉ có tôi là ngƣời nhiều tuổi. Thầy
giáo tuy không còn trẻ cũng không phải là ngƣời
đứng tuổi, có lẽ do khó khăn vật chất nên gƣơng
mặt trở nên già dặn. Suốt buổi học tôi trông thầy
có vẻ quen quen nhƣng không nhớ đã gặp ở đâu.
Sang đến buổi thứ hai và thứ ba tôi mới tin chắc
thầy là ngƣời quen cũ của tôi năm xƣa sau khi
tìm hiểu tên thầy trên phòng giáo vụ. Tôi đắm
mình trong yên lặng bồi hồi trong mỗi buổi học
cả tháng trời. Bài tập đầu tiên sau khi chấm điểm
thầy trả lại, tôi biết thầy nhận ra khi nghe thầy
đọc đến tên tôi, tờ giấy học trò cầm trên tay thầy
run nhẹ có lẽ do xúc động. Tan học tôi nán lại
trƣờng chờ thầy, mang mọi thứ trên bàn trả lại
cho phòng giáo vụ thầy chầm chậm dắt xe đạp ra
cửa, sân trƣờng giờ trống trơn chỉ còn lại vài
ngƣời, tôi gọi thầy bằng giọng nghẹn ngào :
- Chào thầy, ủa mà không phải, là anh Ngô
mới đúng.
- Còn em vẫn là Kim Quýt, là cô học trò năm
xƣa, bây giờ vẫn không thay đổi
- Đổi khác chứ anh, hồi đó em còn con nít, bây
giờ em già hơn mà.
- Mình qua quán nƣớc bên kia đƣờng ngồi nói
chuyện đi.
Gọi hai ly nƣớc mía xong tôi nôn nóng hỏi anh
ngay :
- Anh đi học bên Mỹ hồi nào vậy, sau Tết Mậu
thân em gặp anh vẫn còn là sinh viên mà.
Giọng anh trầm tĩnh :
- Từ từ đã, em vẫn là cô bé lanh chanh giống
nhƣ xƣa. Cho anh hỏi thăm ba má em vẫn khỏe
chứ.
- Dạ gia đình em vẫn vậy, nhà em có giấy bảo
lãnh đi Mỹ của bà chị và ông anh rể.
Rồi liến thoắng nói thêm :
- Bị lo đi nên mấy chị em còn lại hổng ai dám
lấy chồng, lấy vợ hết.
Dụi mẫu tàn thuốc sắp cháy hết anh nói với tôi :
- Lâu quá bây giờ mới gặp lại Kim Quýt, từ
Mậu Thân đợt 2 xóm nhà em và dì dƣợng anh
cháy hết, anh có về giúp dì dựng lại nhà nhƣng
mãi vẫn không thấy gia đình em trở về,
- Ba em buồn rầu vì tài sản mất hết lòng không
vui với cảnh cũ nên muốn thay đổi chỗ ở.Còn
phần anh đi Mỹ học hồi nào vậy.
- Năm đó sau khi thi chứng chỉ Khoa học năm
thứ nhất anh vào lính để đứa em trai còn lại
đƣợc hoãn dịch lý do gia cảnh. Anh vào Quân
chủng Hải quân và đƣợc gửi đi huấn luyện tại
trƣờng Sĩ quan Hải quân OCS ở Hoa kỳ.
- Vậy khi anh về nƣớc anh là lính Hải quân hả.
- Đúng 5.
Tôi tròn mắt ngạc nhiên hỏi lại :
- Đúng 5 là cái gì ?
- Là em nói đúng 100 phần 100 đó.
Lớp học tối tôi theo học đa số có thân nhân
nƣớc ngoài đang chờ làm thủ tục xuất cảnh,
ngoại lệ tôi chắc cũng có vài ngƣời trong lòng
đang lo tìm cách vƣợt biên, trong khi chờ đợi cả
hai nhóm đều cố gắng góp nhặt thêm chút ít chữ
nghĩa dành cho mai sau sử dụng. Trong cƣơng vị
ngƣời thầy tôi biết giáo án anh dạy phải đƣợc
trình duyệt trƣớc cũng nhƣ có những con mắt từ
trong bóng tối vẫn theo dõi anh.
Nhƣ thƣờng lệ sau buổi học cuối tuần chúng tôi
hay rủ nhau ngồi uống ly nƣớc trƣớc khi về nhà.
Lần nào tôi cũng là ngƣời hỏi anh nhiều nhất,
40 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
anh chỉ việc trả lời thắc mắc của tôi. Một lần tôi
hỏi thẳng anh :
- Em thấy anh ít nói hơn xƣa, hình nhƣ anh có
nhiều tâm sự nhƣng không muốn thổ lộ với
ngƣời đối diện, có lẽ vì không tin ở ngƣời.
Anh nhìn tôi và mỉm nụ cƣời rộng lƣợng :
- Ngoại trừ em, mà anh nhớ hồi xƣa em nói với
anh lớn lên em sẽ làm thầy thuốc, bây giờ em
chuyển sang chuyên viên tâm lý rồi hả.
Cả thẹn tôi đổi ngay đề tài :
- Hồi anh dạy em học, em thấy vây chung anh
quá xá là mấy cô trong xóm, có hôm em thấy
anh ngồi chính giữa, hai cô hai bên toàn là ngƣời
đẹp không hà, em nghĩ chắc anh nhiều bồ lắm.
Cốc nhẹ lên đầu tôi anh tủm tỉm cƣời ;
- Bồ đâu mà nhiều, con nhỏ cái tật xạo không
bỏ.
- Giang sơn dễ đổi, bản tánh nan di sao anh
không nói luôn, mà em nói có đúng 5 không ?
- Đúng đâu mà đúng nếu nhiều sao tới giờ anh
vẫn còn một mình đây.
- Anh không muốn tâm sự với em thì thôi, em
không dám lăn bánh xe vô đời tƣ của anh đâu.
Tôi ngúng nguẩy giả vờ giận, quả thật anh mắc
bẫy ngay :
- Không phải anh không tin em nhƣng chuyện
tình của anh là chuyện tình buồn, em biết bài hát
đó không ?
- Em nhớ bài hát đó là bài hát ông Phạm Duy
phổ từ bài thơ của ông thi sĩ nào đó em quên mất
tên rồi. hình nhƣ bắt đầu nhƣ vầy.” … Năm năm
rồi không gặp, từ khi em lấy chồng. Anh dặm
trƣờng mê mải, đời chia nhƣ nhánh sông. …..
Ngày nhà em pháo nổ, anh cuộn mình trong
chăn. Nhƣ con sâu làm tổ, trống trải và cô đơn.
Ngày nhà em pháo nổ, tâm hồn anh rƣớm máu.
Ôi ! nhát chém hƣ vô, ôi ! nhát chém hƣ vô.
Tôi lẩm bẩm hát một mình rồi tự nhủ “ thì ra anh
thất tình, hèn gì trông già nhƣ cụ non “ mặc dù
chỉ lớn hơn tôi bốn năm tuổi chứ mấy. Không
chịu thua tôi lay lay anh hỏi tiếp :
- Anh " Ngố " nè, xí quên xin lỗi anh Ngô nè
sao cô ngƣời yêu anh đi lấy chồng bỏ anh vậy.
Cô ấy bội bạc quá ha.
- Không phải đâu em, cô ta yêu anh từ lúc anh
du học bên Hoa Kỳ kìa, về nƣớc anh định làm
đám cƣới thì xảy ra mất nƣớc 30/4 khi anh đi tù
cải tạo trở về đâu có ai chịu gả con gái mình cho
ngƣời mới ra tù không có tƣơng lai trong khi
chung quanh toàn là cán bộ kỹ sƣ muốn lấy cô
ấy.
- Ủa anh cũng bị đi học tập cải tạo nữa hả.
Anh trợn mắt nhìn tôi :
- Trời em ngốc dữ vậy sao ? Sĩ quan nào lại
không bị tập trung cải tạo.
- Anh bị đi cải tạo về sao còn đƣợc cho dạy
học.
- Nói nhỏ cho em biết thôi, tại ba anh ngày xƣa
tham gia chống Pháp bị bắn chết. Bây giờ má
anh đƣợc chứng nhận là vợ liệt sĩ có công với
cách mạng, nhờ vậy em trai anh mới có thể bảo
lãnh xin cho anh dạy lớp đêm theo hợp đồng tạm
thời vì trƣờng không có giáo viên dạy tiếng Anh.
Ông trời sinh cho tôi tính lanh chanh nhƣng lại
đặt vào trái tim tôi một tâm hồn đa cảm. Từ chỗ
tội nghiệp bƣớc qua tình yêu chỉ một ranh giới
mong manh, tôi biết xƣa nay anh chỉ xem tôi
nhƣ một đứa em gái không hơn không kém nên
đành giấu kín tình cảm của mình. Mỗi buổi học
tôi ngồi bên dƣới yên lặng nghe anh giảng bài,
vị trí thầy trò giữa anh và tôi cũng giống nhƣ
ngày xƣa nhƣng bây giờ tâm hồn tôi không còn
nhƣ thuở ấy. Nhìn bụi phấn trắng xóa lấm lem
trên tay anh mắt tôi bỗng thấy cay cay, nhƣ thê?
Chúng đã rơi vào mắt tôi. Từ chỗ anh xem việc
giảng bài, dạy thêm cho ngƣời khác là niềm vui
thêm thi vị cho cuộc sống của mình bây giờ trở
thành một nghề nghiệp bất đắc dĩ, nhờ vào tờ
giấy chứng nhận là cộng tác viên của một nhà
văn hóa Quận anh đƣợc địa phƣơng cho tạm trú
cùng gia đình không bị đuổi đi kinh tế mới,
ngƣời ta so sánh đồng lƣơng nhà nƣớc trả cho
một Bác sĩ sau ca mổ chỉ ngang bằng với giá
41 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
tiền ngƣời vá lỗ thủng một bánh xe đạp bên
đƣờng thì tiền lƣơng buổi dạy của anh cũng chỉ
đủ để uống một ly nƣớc mía mà thôi.
Ai cũng vậy hồi còn đi học chỉ giỏi những môn
mình ƣa thích, còn lại thì làng nhàng thậm chí
dở tệ, tôi cũng không ngoại lệ, môn Anh văn thì
lè phè, văn phạm lại lõm bõm, khi học với anh
tôi công nhận anh có biệt tài giảng bài. Ngày
xƣa anh là ngƣời thầy đầu tiên dạy tôi nắm bí
quyết và ƣa thích toán học, bây giờ anh cũng là
ngƣời thầy đầu tiên mở lối môn Anh văn cho trí
óc tôi. Bài dịch từ Việt sang Anh cho thấy
khuyết điểm to lớn nhất của cả lớp là sử dụng
các “ thì “ của văn phạm sai bét. Hôm phát bài
nhìn thấy con số 02 anh cho, tôi chống chế :
- Em chỉ quen dịch từ tiếng Anh sang tiếng
Việt, ai biểu thầy bắt dịch ngƣợc lại làm em “
chới với “.
Anh cƣời cƣời giơ ngón tay dứ dứ trƣớc mặt tôi :
- Bắt đúng " thóp " rồi nhé. Em cũng làm thầy "
chới với " luôn khi biết em không nắm vững
chút gì về văn phạm.
Từ lúc ấy anh chú tâm giảng kỹ cho cả lớp về
những khiếm khuyết của chúng tôi. Một hôm
trƣớc khi hoàn trả bài kiểm tra anh nhận xét cả
lớp tiến bộ khả quan, nhƣng riêng có một ngƣời
khi nhận bài phải khao mới đƣợc và khi đọc lên
số điểm tôi mừng quýnh lên trong lúc anh cƣời
nói với lớp :
- Bài của chị Kim Quýt lần này đứng nhất. Lần
tới lớp sẽ chia làm hai nhóm mỗi nhóm tìm một
đề tài và đề cử ngƣời lên thuyết trình cho cả lớp
nghe, nhóm kia sẽ ngồi bên dƣới chất vấn.
Cả lớp nhao nhao :
- Bằng tiếng Anh hả thầy ?
- Dĩ nhiên rồi,
Có đứa le lƣỡi, lắc đầu :
- Em chịu thôi, run lắm, không nói đƣợc.
Thầy ôn tồn giải thích :
- Chỉ là bƣớc khởi đầu luyện tập phản xạ nghe,
nói, về sau các em trực tiếp nói chuyện với
ngƣời ngoại quốc còn khó nữa, phải cố gắng hơn
mới đƣợc.
Việc học của tôi giống nhƣ mạch nƣớc ngầm từ
lâu nằm trong lòng đất nay đƣợc khơi nguồn
bỗng dƣng tuôn chảy mạnh mẽ không ngừng.
Một hôm ra cửa hàng tìm mua quyển tự điê?n
bất ngờ tôi thấy trên kệ sách trƣng bày quyển
truyện có tựa đề là “ Ngƣời thầy đầu tiên “. Nội
dung câu chuyện rất cảm động kể về chuyện một
viện sĩ viện Hàn lâm trong chuyến quay về thăm
lại làng quê xa xôi thời còn bé. Bà ta đƣợc địa
phƣơng đón tiếp một cách trọng vọng vì đã
mang lại tiếng tăm cho cả làng thơm lây. Trong
khi đó ngƣời thầy dạy, là ngƣời ơn đã suýt hy
sinh mạng sống trong việc tranh đấu cho bà
đƣợc đến trƣờng, dạy cho bà học từ khi bà còn là
một con bé sáu tuổi, sau đó tìm mọi cách gửi
gấm cho bà về thành phố tiếp tục con đƣờng học
vấn trong thời điểm khi ấy những tục lệ cổ hủ
khắc nghiệt vẫn còn đang tồn tại ở những nơi xa
xôi nghèo khổ, ngăn cấm tất cả phụ nữ đến
trƣờng, ngƣời thầy trẻ trung hồi ấy mà bà vẫn
hàm ơn trong tâm trí, ngƣời đáng lẽ đƣợc trọng
vọng hơn bà nay chỉ là một ông lão đƣa thƣ
nghèo khổ Bị quên lãng, sống cô độc trên ngọn
đồi có hai cây thông ở cuối làng. Giữa buổi lễ bà
từ chối tiệc tùng, chúc tụng ; một mình trèo lên
đồi tìm gặp " ngƣời thầy đầu tiên " dƣới chân hai
cây thông ngày xƣa bà và thầy tự tay trồng từ
ngày bà bắt đầu lên thành phố học. Hai cây
thông giờ đã cao ngất đang rì rào trong gió.
Năm hết Tết đến lớp học tổ chức tất niên tôi
bàn với mọi ngƣời mua tặng thầy món quà thiết
thực nhất, cả lớp đồng ý giao cho tôi việc chọn
quà, đắn đo mãi sau khi bù thêm một ít tôi đề
nghị nên mua tặng thầy xấp vải may quần tây và
một áo chemis. Mồng ba Tết tôi dẫn đầu mấy
đứa học trò đi thăm thầy giáo. Trong dãy nhà
nhỏ của khu tập thể dành cho giáo viên trƣờng
của ngƣời em trai, gian phòng hoàn toàn trống
trải, tấm màn che ngang phân nửa đủ kê cái
giƣờng đôi dành cho vợ chồng cậu em và hai
đứa con. Nửa còn lại dành một góc cho bà má
nằm trên nền gạch cạnh cửa ra vào. Phần còn lại
to bằng chiếc chiếu là nơi vừa tiếp khách vừa ăn
42 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
uống. Thời của vật đổi sao dời có một nơi chốn
nƣơng thân đã là quý lắm. Tôi pha trò với mọi
ngƣời :
- Các bạn thấy không, mình ngồi dƣới đất mới
xích lại sát bên cạnh nhau đƣợc có phải rất ƣ là “
cozy “.
Một đứa trong nhóm vui vẻ báo tin :
- - Tuần trƣớc gia đình em đi khám sức khỏe
rồi, chắc khoảng sáu bảy tháng nữa là em bay.
Chị Kim Quýt chắc bay một lƣợt với em há. Bữa
đó em thấy chị cùng gia đình cũng đi khám cùng
ngày với em mà.
Anh ngồi đối diện lặng lẽ nhìn tôi nhƣ thầm
trách tôi sao giấu tin này, tôi bối rối đáp :
- Cũng chƣa biết đƣợc đâu, tùy theo tình hình
sức khỏe mọi ngƣời, nếu bị bắt uống thuốc thì
chắc phải chờ lâu hơn nữa.
Có ai đó đề nghị mỗi ngƣời lần lƣợt hát một bản,
lần đầu tiên tôi thấy anh cầm đàn và hát : “ Dù
cho mƣa tôi xin đƣa em đến cuối cuộc đời, dù
cho mây bay hay cho bão tố có kéo qua đây, dù
có gió có gió lạnh đầy, có tuyết bùn lầy, có lá
buồn gầy... Dù sao, dù sao đi nữa tôi cũng yêu
em... Dựa vai nhau cho nhau yên vui ấm áp nụ
cƣời...”
Bài hát có âm điệu buồn tôi chắc anh đang nhớ
ngƣời yêu cũ, có đứa nói nhạc Ngô Thụy Miên
bài nào cũng hay, đến phiên tôi không biết đàn
nhƣng cũng rất thích nhạc của ngƣời nhạc sĩ
này, tôi cất giọng :
" Nhớ tới năm xƣa bên nhau bƣớc trong chiều
mƣa phím ru nhẹ đƣa. Bến cũ đam mê say sƣa lá
thu còn rơi... Ngƣời xa vắng ngƣời.
Dĩ vãng nhƣ bao cung tơ, lƣớt theo chiều
mƣa... lá úa đơn côi bơ vơ cuốn theo chiều rơi...
Ngƣời xa cách rồi... " tôi chấm dứt bài hát tiếng
đàn đệm theo của anh vẫn còn ngân nga không
dứt.
Những buổi tan học kế tiếp tôi và anh hay đạp
xe song song trên các con đƣờng vắng ngang
qua nhiều căn biệt thự to lớn ngày xƣa quanh
trƣờng cũ của tôi ; đƣờng Tú Xƣơng, Bà Huyện
thanh Quan, Ngô thời Nhiệm, Đoàn thị Điểm,
đƣờng Duy Tân với hai hàng cây sao già cỗi,
vòng quanh Hồ con rùa về đƣờng Võ văn Tần
xƣa là Trần Quý Cáp, ngƣợc lên Trƣơng Minh
Giảng giờ đổi thành tên Trần quốc Thảo xa lạ,
lắng nghe hƣơng đêm tỏa ra từ cây ngọc lan
trong khuôn viên những dinh thự, hƣơng hoa sữa
nồng nàn sau cơn mƣa trên đƣờng, lòng vời vợi
khi chỉ còn hơn hai tháng nữa tôi phải rời xa nơi
đây dù rằng chuyến đi là cả một sự mong đợi,
nhƣng bao nhiêu kỷ niệm vui buồn vẫn khiến tôi
lƣu luyến nhớ cảnh nhớ ngƣời, một lần tôi dè dặt
nói với anh :
- Chẳng lẽ anh cứ sống nhƣ thế này mãi sao!
Em nghe nói ngƣời ta hay tìm tài công xuất thân
từ những ngƣời lính nhƣ anh để tổ chức những
chuyến đi.
- Anh cũng có thử đôi lần rồi tuy số phận chƣa
mỉm cƣời với anh nhƣng anh tin cũng sẽ có một
lần may mắn.
Cuối tháng này là mãn khóa vì sắp ra đi nên tôi
có bàn bạc với các bạn tổ Chức một buổi liên
hoan, trong đó sẽ có một vở kịch bằng tiếng Anh
và tập cho các em trong lớp biểu diễn để tặng
thầy.
Tôi dựa theo truyện ngắn The last leaf của O'
Henry và chọn từng đoạn nhạc đệm bằng piano
của ban nhạc Paul Mauriat mà tôi thích để ráp
nối khi biểu diễn. Có thể những câu đối đáp tôi
soạn ra sẽ va vấp về văn phạm hay cách sử dụng
từ nhƣng có hề gì, tôi muốn thể hiện kết quả
những gì chúng tôi đã học sau gần một năm với
anh nhƣ lời cảm ơn chân thành. Hôm đó tôi sẽ
mang quyển truyện “ Ngƣời thầy đầu tiên “ để
tặng cho anh làm món quà kỷ niệm tinh thần
giữa kẻ ra đi và ngƣời ở lại. Tôi nhủ với lòng khi
sang đƣợc xứ ngƣời sẽ cố gắng tìm cách giúp đỡ
chút ít vật chất cho dù chỉ để tƣợng trƣng.
Nhƣng quả câu nói “ ngƣời tính không bằng
trời tính “ là có thật, thần may mắn vẫn chƣa
mỉm cƣời với anh, mãi cho đến một năm sau tôi
mới biết tin về anh sau khi gặp một bạn học
cùng lớp mới qua kể lại, chỉ bốn tháng sau khi
43 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
tôi ra đi anh tham gia một tổ Chức vƣợt biên
không thành công nên đã bị công an biên phòng
địa phƣơng bắt lại và từ lúc ấy tôi không nhận
đƣợc một chút tin tức gì của anh nữa.
oOo
Một tuần sau nhân lúc nghỉ mƣời lăm phút giải
lao chị Hiền nói với tôi :
- Ông xã chị đã tìm thấy tên của bạn em trong
danh sách OCS rồi, anh này hiện đang định cƣ
tại Úc châu khoảng hai mƣơi năm. Nghe nói anh
ấy rất chịu khó đi học lại và đã tốt nghiệp kỹ sƣ
điện toán, hiện đang là chuyên viên cho một
công ty danh tiếng của bên đó.
Cuối cùng tôi đã biết đƣợc tin tức về " ngƣời
thầy đầu tiên " của tôi. Có điều là sự thực ngƣợc
lại với câu chuyện viết trong sách. Ngƣời thầy
đầu tiên bây giờ không phải là một ông lão đƣa
thƣ nghèo khổ Sống trong làng quê xa xăm, cô
độc. Còn tôi, trái lại không phải là cô bé học trò
thành đạt, tăm tiếng nổi danh mà chỉ là một công
nhân hãng xƣởng bình thƣờng giống nhƣ bao
nhiêu ngƣời khác mà thôi./.
Cỏ Biển Mùa xuân 2010
----------------------------------
(1) bếp
(2) nàng
(3) vàng lá hiệu Kim thành.
Ngày còn đây
Ngồi xuống kề bên anh
Em ơi đời là mấy
Cũng bóng nắng chiều qua
Mà nay nhìn rất lạ
Lòng anh sao lạnh giá
Mấy lần nhuộm tóc em
Tóc thƣa ngày càng ít
Trắng nhiều xót xa thêm
Ngồi bên anh chút nữa
Nắng còn ấm cuối ngày
Tay còn ấm trong tay
Hôm nay và mãi mãi
Di Truong
4/5/2010
44 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Hải Quân Việt Nam
TỔ-QUỐC-ĐẠI DƢƠNG vẫn sáng
ngời
Kiêu-hùng chiến-hạm tiến ra khơi
Hải-trình đăng-đẳng không bờ-bến
Ngạo-nghễ thi gan với Nƣớc-Trời
Biển Mẹ vẫn xanh - Dòng máu đỏ
LƢỚT SÓNG-NGĂN THÙ chí chẳng
vơi
Anh-hùng tử-khí hùng nào tử (*).
TỔ QUỐC-ĐẠI DƢƠNG vẫn sáng
ngời.
Lê Sĩ Phu
(*) HQ Tr/Tá Ngụy-Văn-Thà và thủy-thủ đoàn HTH
Nhật-Tảo HQ 10 hy-sinh trong trận hải chiến Hoàng-Sa.
Mẹ ơi !
Đêm đêm con thắp đèn Trời,
Cầu xin cho Mẹ sống đời với con.
(Ca-dao Việt-Nam).
Mẹ già sức mỏi, hơi mòn
Làm sao ống mãi với con mà cầu
Đời Mẹ khổ đến bạc đầu
Thăm con lặn-lội đi đâu cũng tìm
Đứa tù cải-tạo triền-miên
Đứa thì can tội vƣợt biên ...cũng tù
Gói đƣờng Mẹ sớt làm tƣ
"Mỗi thằng một chút!" Mẹ cƣời hom-hem
"Tù-tội thiếu-thốn con thèm
Ráng ăn cho đủ ăn kèm với khoai!".
Ôm con, nƣớc mắt lăn dài
Run run Mẹ bƣớc ra ngoài trại-giam
* * *
Giờ đây Mẹ bỏ dƣơng-gian
Niết-bàn Mẹ đến, bình-an vĩnh-hằng
Mẹ đi, rũ sạch bụi trần
Bao nhiêu cay-đắng, nhọc-nhằn, Mẹ ơi!
Âm dƣơng hai cõi, hai nơi
Nguyện-cầu một kiếp luân-hồi lai-sanh
Nén hƣơng gởi trọn hiếu tình
Nhìn di-ảnh thấy hiển-linh Mẹ về
Mẹ ơi...
Lê Sĩ Phu
Ngày giỗ đầu của Mẹ
(Saigon 1997)
45 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
An Thúái, ngaây lòa xa vaâ lêìn trúã laåi...
Trần Thị Hậu Giang
Chúng tôi ngồi quay quần trong
phòng Phiếm, im lặng trầm ngâm. Hình nhƣ
trong đầu mỗi đứa đang có cả trăm ngàn ý nghĩ
chạy qua đến nỗi không biết nên bắt đầu ở chỗ
nào nhƣng tôi biết chắc là đứa nào cũng đang lẩn
quẩn ở cái chỗ “đi hay ở” và nếu đi thì đi bằng
cách nào ?!
Chúng tôi một nhóm năm đứa bạn thân cùng ra
trƣờng Sƣ phạm và đi dạy cùng một tỉnh. Thẩm,
Phiếm dạy Trung học Thoại Ngọc Hầu. Yến, chị
họ tôi dạy Anh văn ở Trung học Sa đéc cùng với
Bạch Tuyết. Tôi dạy Việt văn Trung học Phụng
Sự và Sử Địa ở Trung học Bác Ái. một chi
nhánh nội trú của Faternité Bác Ái Sàigòn.
Tình hình
Việt Nam lúc đó đã
bắt đầu hỗn loạn sau
cuộc triệt thoái khỏi
miền Trung cùng lúc
Miên Lào đã rơi vào
tay Cộng sản. Chính
phủ ra lệnh đóng cửa
trƣờng học vào giữa
tháng tƣ, bọn chúng
tôi trở nên vô công
rỗi nghề nên gặp mặt
nhau thƣờng hơn, bây
giờ không còn là
chuyện trƣờng lớp
nữa mà là chuyện... di
tản. Những lời đồn
đãi đã làm chúng tôi hoang mang, nỗi lo sợ
trƣớc viễn ảnh(theo tôi lúc đó đã là cận ảnh)
Việt cộng vào sẽ bắt đàn bà con gái miền Nam
“gả” cho mấy tên thƣơng binh của chúng, ai để
móng tay dài sơn màu mè chúng sẽ rút móng...
v.v..và v.v... !
Mỗi khi đề cập đến vấn đề nầy, Thẩm và Phiếm
ƣa trề môi, nhún vai bảo đừng hòng, mấy thằng
rừng rú làm sao đụng tới tao đƣợc, tao với con
Thẩm thủ sẵn cyanure hết rồi, chỉ cần một viên
thôi, xong! Point final ! Phiếm vẫn hay dùng chữ
đó nhƣ một thói quen, có lẽ vì gia đình nó sống
ở Nam Vang đã lâu, học tiếng Pháp nên nói
chuyện vẫn trộn tiếng Pháp với bọn tôi. Tôi ƣa
chọc nó, ê, tao là ngƣời Việt Nam chứ không
phải Việt Mên nghe mày ! Khi Phiếm nói câu
đó, nó có vẻ nghiêm nghị và quả quyết lắm khác
với thƣờng ngày nó vẫn hay cà rỡn. Tuy không
46 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
nói ra nhƣng tôi phản đối ý nghĩ tiêu cực của nó,
tôi nói tao đã chọn con đƣờng tao đi, các anh tao
đều là Hải Quân, có lẽ tao sẽ ra Phú Quốc để dọ
coi vì nghe nói có tàu Mỹ ở ngoài khơi sẽ vớt
những ngƣời di tản, nếu tụi mày cùng đi với tao
thì có thể dễ dàng và an toàn hơn nếu đi đƣờng
Phú Quốc ! Chị Yến tôi bảo tao sẽ về Sàigòn
thăm gia đình xem tình hình ra sao rồi sẽ tính
(chị Yến tôi đi khỏi nƣớc thật bằng... máy bay
với ngƣời chị thứ ba làm cho một cơ quan Mỹ!).
Bạch Tuyết thƣờng ngày hồn nhiên vô tƣ nhƣ
con nít hôm nay ngồi thẫn thờ, đôi mắt mông
lung nhìn vào khoảng không (không biết có hình
ảnh chàng HQ Sang cầm dù che nắng cho nàng
trƣớc mũi tàu PCF hôm nào chăng?). Đột nhiên
hắn buột miệng nói tao còn ba má, tao không đi
đâu, có gì tao nhập bọn với mầy nghe Phiếm,
Thẩm ! Tôi nghĩ thầm chớ bộ tao không có mà
chắc ?!!
Ngày 24 tháng 4, sáng sớm tôi ghé
ngang nhà Hƣơng vì chúng tôi hẹn sẽ cùng nhau
xuống Rạch Giá để đi Phú Quốc (trƣớc đó tôi có
liên lạc ra An Thới xin Tr/úy Hiển ở Phòng
Hành Quân cho quá giang PCF ra PQ và may
quá là sẽ có tàu ngày đó). Đến nhà Hƣơng, tôi
mới bật ngửa là nó không đi đƣợc, mà Hƣơng ở
Sàigòn, nó phải ở nhà trông đứa cháu trai một
tuổi ! Tôi rất thất vọng, tâm trạng hoang mang,
tấn thoái lƣỡng nan. Sau cùng tôi cũng quyết
định lên xe xuống Rạch Giá đi PQ.
Chiếc PCF đã nằm sẵn ở bến nhƣng sẽ
không khởi hành liền vì đang chờ vợ Tr/u Cang
từ Sàigòn ra (mà không biết rằng Tr/u Cang đã
rời An Thới về Sàigòn!). Ở đó tôi gặp Tr/u Kha
trở lại An Thới sau khi hết phép, anh hơi ngạc
nhiên khi thấy tôi, hỏi cô giáo đi đâu một mình
vây? Tôi có gặp anh mấy lần khi còn là sinh viên
theo ban văn nghệ ra giúp vui cho căn cứ, nên
không dấu anh về chuyến đi lần này. Kha có vẻ
đăm chiêu nói tôi không nghe động tịnh gì từ
cấp trên, có lẽ cô giáo lo xa quá chăng ? Tôi hơi
ngập ngừng nhƣng khẳng định với anh là sẽ
không lâu đâu! Sáu giờ chiều, vợ Tr/u Cang
xuống tới, chiếc PCF nhổ neo trục chỉ An Thới.
Đến An Thới lúc trời vừa hừng sáng,
ngày 25 tháng 4, những ngƣời bạn thân ái ra đón
tôi ở cầu tàu. Tr/u Hiển có vẻ thất vọng khi thấy
tôi đi một mình, hỏi Hƣơng đâu? Biết trả lời
sao?! Tr/u Tề đã biết tôi sẽ ra An Thới nhƣng
chỉ không biết vì lý do gì! (Sau nầy nghe kể lại
là anh có "lầm bầm" nói "ra kiếm chuyện gì nữa
đây?"). Ánh mắt anh rạng rỡ hẳn ra khi gặp lại
tôi mặc dù mấy tháng trƣớc đó giữa hai chúng
tôi có chuyện xích mích và tôi đã giận không
thèm làm bạn của anh nữa khi anh thành thật hỏi
tôi có bằng lòng làm... vợ anh không? Tôi đã vô
cùng... khiếm nhã khi trả lời Không, không bao
giờ rồi bỏ vào trong ! Mà trời ạ ! Không thích
của nào Trời trao của đó các bạn ơi ! (Có phải
không, các bạn Hiển, Nam Eo, Thái, Chín Con
!? Các chứng nhân của chúng tôi !). Thật ra, tuổi
trẻ và tâm hồn tôi lúc đó hình nhƣ đã cằn cỗi
theo chiến tranh và thời cuộc. Các bạn tôi đứa đã
là góa phụ khi mới ngoài hai mƣơi, đứa thì
chồng mất tích bên Hạ Lào trong mùa hè đỏ lửa,
đứa thì đêm ngày thấp thỏm chờ tin chàng ngoài
chiến trận. Tôi thật sự có đƣợc hoặc mang lại
hạnh phúc cho ai không và ngƣợc lại khi lao đầu
vào một cuộc hôn nhân thời loạn ? Các bạn tôi
vẫn cƣời cho tôi là con Ly sợ hốt hụi... chết ! A !
cái đó mới thiệt là thực tế đó nha ! Chỉ sợ dang
dở đời nhau ! Tao thà làm con gái... già hơn làm
gái... góa ! Thế là chúng nó a vào xỉ vã ngắt véo
tôi.
Tr/u Tề đƣa tôi vào ở một căn trong dãy
nhà khách của ông Tƣ Lệnh Vùng 4. Khi đó đã
có gia đình em rể ông T/L ở đó từ hai ngày
trƣớc. Dãy nhà nhìn ra bãi biển êm đềm và thơ
mộng lắm nếu trong một không gian thanh bình
mà lòng tôi thì đang trăm mối ngổn ngang nên
nào thấy thơ mộng gì đâu. Tôi đang tự hỏi tôi
làm gì đây? Tôi tính đi đâu đây ?
Buổi chiều, ăn tối xong Tr/u Tề và Tr/u
Hiển rủ tôi sang phòng Tr/u Chánh uống trà.
Anh nầy sống ngăn nắp và nghệ sĩ tính, anh
47 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
trang trí phòng nhƣ của ngƣời Nhật, một chiếc
bàn giữa phòng. Các bạn ngồi xếp bàng quây
quần chung quanh vừa uống trà vừa trò chuyện.
Anh có hỏi tôi ra đây làm gì, tôi nói tôi nghĩ là
tình hình có lẽ không xong, tôi định ra An Thới
kiếm đƣờng đƣa gia đình đi. Anh cƣời : Đi đâu ?
Êm ru bà rù có gì đâu mà đi ! Một anh khác
ngập ngừng nói không chừng cô giáo nghĩ đúng
đó. Ở Sàigòn bắt đầu lộn xộn rồi, tôi nghe phong
phanh mấy ông lớn kiếm đƣờng rút đó ! Rồi cả
đám rơi vào im lặng. Có phải các anh đang bắt
đầu sợ phải đối diện với nỗi hoang mang đang
lấn dần vào tâm ?!
Trở về căn nhà khách trƣớc bãi biển, tôi
gặp mẹ và hai cô em gái của em rể ông Tƣ Lệnh
đang ngồi trƣớc hiên. tôi chào và xin ngồi xuống
nói chuyện cho vui. Bà cụ và hai cô con gái tên
Uyên và Uyển thật dễ thƣơng và cởi mở. Bà cụ
và Uyên vào ngủ sớm, chỉ còn tôi và Uyển ngồi
đó. Uyển vui vẻ huyên thuyên kể chuyện Sàigòn
cho tôi nghe rồi nói em không biết chị thì sao,
chứ em nghĩ là em ở lại Việt Nam, em không đi
đâu !!! Tôi không trả lời cô hoặc hỏi tại sao, hay
là lúc đó đầu tôi đang lan man suy nghĩ trăm thứ
nên không biết rằng đó là lời trăng trối cuối cùng
của cô gái trẻ đẹp tên Uyển mà tôi thấy quyến
luyến nhƣ cô em gái ?! Vì cô đã thật sự ở lại
Việt Nam ! Sáng 30 tháng 4 khi từ cầu tàu Bộ
Tƣ Lệnh nhảy xuống ghe cá nhỏ để ra tàu lớn
ngoài khơi, thiên hạ chen lấn xô đẩy nhau và
sóng lớn đã nhồi cô rớt xuống biển. Cô chìm
mất trong khi mẹ và chị cô kêu cứu thất thanh
mà chẳng ai màng đến cô gái xấu số. Sau đó
nghe nói bà cụ bị khủng hoảng thần kinh, nửa
mê nửa tỉnh. Tôi cũng nghe biết ông thƣơng gia
ngƣời Tàu tên Lý Bình buổi sáng đó khi nhảy
xuống ghe, ông bị rớt một cái Samsonite đầy
tiền đô la mà cũng chẳng ai buồn vớt lên, ông ra
đi trắng tay !
Sáng 26 tháng 4 An Thới yên tĩnh, tôi
đứng ngồi không yên, không biết phải nghĩ gì
làm gì ? Anh họ tôi, Th/tá Triệu mới đổi ra Phú
Quốc trở lại làm Trƣởng Căn cứ Tiếp liệu lo cho
những ngƣời tỵ nạn di tản từ miền Trung vào.
Anh ghé ngang phòng tôi hỏi em định thế nào,
tình hình có vẻ không ổn, nhƣng anh chẳng nói
gì thêm. Tôi ngập ngừng nói anh coi có chuyến
bay tiếp liệu nào trống trở về Sàigòn thì anh xin
cho em quá giang về gặp mẹ và gia đình. Anh
nói ngày 27 sẽ có chuyến bay về Sàigòn, anh sẽ
cố gắng xin cho em một chỗ rồi anh vội vã chạy
ra Bộ Tƣ Lệnh. Tôi chạy theo hỏi với chừng nào
chị và mấy đứa nhỏ ra, anh nói ngày mai rồi
biến đi.
Tôi không biết làm gì, ngồi mải trong
phòng suy nghĩ hoài chắc phát điên. Tôi thay
quần áo thả ra chợ An Thới. Hôm nay chợ có vẻ
khác lạ, đông đúc, không khí ồn ào, ngƣời mua
kẻ bán tất tả vội vàng. Tôi để ý thấy có nhiều
ngƣời bƣng một cái khay nhỏ đứng quanh quẩn
chợ rồi có ngƣời đến mặc cả. Kẻ trao vàng hoặc
nữ trang, ngƣời bƣng khay trao tiền. À thì ra
ngƣời tị nạn ra đây đông quá, họ cần tiền nên
bán vàng, thành ra dân An Thới có thêm nghề
mới là nghề mua vàng !
Đang lang thang quanh chợ bỗng tôi
nghe tiếng ai sát bên tai Trời đất ! Chị Ly ! Chị
làm gì ngoài nầy ? Tôi giật mình quay lại chợt
nhận ra Sơn học cùng trƣờng và ở trong ban Văn
Nghệ với tôi trƣớc kia. hắn là em của ca sĩ
Giang Tử mà tôi ƣa kêu hắn là Giang Sơn ca...
sỡi ! Hắn ăn mặc trông... giang hồ lắm, quần
jean, áo sơ mi bỏ ngoài cộng thêm đôi giày boot
cao tới hơn nửa ống chân ! (Hồi sau tôi mới biết
hắn nhét tiền đầy trong đó). Tôi cũng thảng thốt
la lên Trời ơi Sơn đó hả, đi đâu đây, bộ tính ra
ngoài nầy kiếm đƣờng đi hả ? hắn bảo không,
em ra đây mua... vàng, nghe nói tị nạn miền
Trung ở đây bán vàng rẻ lắm nên em tính... đi
buôn một chuyến. À thì ra anh chàng này đang
làm thƣơng mại, hắn học Thƣơng Mại Ngân
Hàng nên đang thực hành nghề của chàng. Sơn
vừa trả lời tôi vừa cuối xuống kéo cái fermature
của chiếc giày boot lấy tiền trả cho ngƣời đàn bà
vừa bán vàng cho hắn. Tôi kéo Sơn ra khỏi đám
đông nói nhỏ tôi ra ra ngoài này tính đi, anh
48 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Triệu tôi đã đổi trở lại làm ở An Thới, có chuyện
gì thì đi cũng dễ, Sơn có định di tản không ?
Hắn nói không, em không tính đi đâu hết, mai
em về Sàigòn lại. Tôi chúc hắn may mắn rồi từ
giã trở về căn cứ.
Cả ngày ngồi trong phòng tôi giống nhƣ
ngƣời câm và điếc, có thể cũng... mù luôn,
không nghe không biết tin tức gì bên ngoài,
cũng không gặp anh tôi, Tr/u Tề thì bận theo ông
Tƣ Lệnh, các bạn khác cũng túi bụi theo cơn dầu
sôi lửa bỏng.
Sáng 27 tôi nóng ruột chờ anh tôi để hỏi
tin về chuyến bay để trở về Sàigòn. Có một
chuyến ra Phú Quốc mang theo chị dâu tôi và
các cháu nhƣng sẽ không bay trở lại Sàigòn,
Tr/u Tề ghé ngang báo tin vì anh cũng định về
Sàigòn gặp gia đình. Thế là bao hy vọng sụp đổ
! Tôi nằm dã dƣợi trong phòng với bao nỗi lo âu.
lại bật ngồi dậy chạy ra khu gia binh thăm cô
dâu Phở Bò Vàng của Tr/U Nam. Cô mời tôi ở
lại ăn cơm chiều, gặp lại vợ Tr/U Cang, tôi mới
biết anh đã về Sàigòn. Cô có vẻ mệt mỏi, cái
bụng bầu đã lớn, cô không dấu đƣợc nỗi hoang
mang trên khuôn mặt buồn xa vắng vì không
ngờ anh bay biển bắc em tìm biển nam! Buổi tối
đó rồi cũng qua đi trong nỗi... vui là vui gƣợng
kẻo là... (Kiều)
Ngày 28, An Thới vẫn thức dậy nhƣ mọi
ngày trong sự yên tĩnh đến ngột ngạt nhƣ lòng
của mọi ngƣời dân quân An Thới đang cảm
nhận.
Buổi chiều, Uyên và Uyển sang phòng
tôi nói chị ơi Sàigòn đã có Tổng Thống mới rồi.
VC bỏ bom phi trƣờng Tân Sơn Nhất đó! Tôi tự
hỏi ủa vậy chớ phi cơ Việt Nam Cộng Hòa ở chỗ
mô mà phi cơ VC bay nhƣ chỗ không ngƣời?!
Hỏi để rồi ngao ngán thở dài, ôi, ngƣời ta đã
đem con bỏ chợ rồi, Sàigòn sắp bỏ ngõ, làm sao
gặp Mẹ và gia đình đây? Anh Hai tôi, Th/tá Tuệ
đang ở căn cứ Bình Thủy, tôi đã không biết tin
tức gì của anh nhƣng lần về phép trƣớc đó, anh
có vẻ ƣu tƣ nói với mẹ và chúng tôi nếu có
chuyện gì thì anh sẽ kéo tàu ra khơi, ở lại là
chết, cộng sản sẽ không tha cho ai đâu! Ngay cả
mẹ tôi, khi tình hình đã hỗn loạn ở miền Trung,
mẹ tôi nói đứa nào đi đƣợc thì cứ đi, mẹ già rồi,
mẹ ở đây chết chứ không đ đâu hết! Vậy mà anh
Hai tôi đã tính sai một nƣớc cờ khi đợi đến ngày
29 mới đi phép về Long Xuyên để rƣớc vợ con.
Ngày 30 tháng 4 Cộng sản đánh chặn ở Bình
Thủy Ô Môn, anh tôi không vào Cần Thơ đƣợc
đành phải mang gia đình trở về Long Xuyên rồi
đi tù cải tạo mƣời năm tƣởng đã bỏ thây ở
Hoàng Liên Sơn.
Sáng 29 tôi nghe tiếng phi cơ bay vần
vũ trên bầu trời An Thới nhiều hơn mấy ngày
trƣớc. Không biết chuyện gì sẽ xảy ra, tôi sống
trong sợ hãi và nỗi đợi chờ không tên. Tôi lại
chạy ra khu gia binh nhà anh họ tôi, chị dâu tôi
ôm mấy đứa cháu còn bé lút chút nói thôi ngƣời
ta sao mình vậy, có chuyện gì thì anh chị chạy
ngang kêu em theo, nhớ bỏ đồ vô va li sẵn sàng.
Tôi có hành trang gì đâu mà sẵn sàng, ngoài một
cái xách tay, hai bộ đồ và một tháng lƣơng cô
giáo, chƣa bao giờ tôi sống trong tình trạng bi
thảm nhƣ thế. Bây giờ đã không còn phƣơng
tiện để trở về đất liền, di tản thì đi đâu đây, lấy
gì sống? Tôi đang mâu thuẫn chính tôi, chứ
không phải tôi đang kiếm dƣờng chạy khỏi Cổng
sản sao? Vốn liếng tiếng Pháp thì có, tiếng Anh
sinh ngữ 2 không đủ đâu vào đâu, tôi ngồi đó
ngó chị tôi muốn rơi nƣớc mắt, anh chị tôi con
nhỏ ba đứa đùm đề thêm đứa em gái út của chị,
cộng thêm tôi đeo theo làm thêm gánh nặng!!!
Tôi đứng lên trở về nhà khách, nỗi nhớ nhà và
hoang mang làm tôi... lết không nổi. Buổi trƣa
đang nằm trong phòng tôi nghe tiếng phi cơ rồi
tiếng chân ngƣời chạy rầm rập bên ngoài, hoảng
hốt chạy ra cửa tôi thấy phía cổng căn cứ mấy
khẩu đại bác đang chỉa về phía hai chiếc máy
bay đang lảo đảo trên bầu trời u ám nhƣng
không bắn, sau đó đƣợc biết hai chiếc phi cơ từ
Cần Thơ bay ra và đã đƣợc phép đáp xuống An
Thới an toàn.
Sáng ngày 30 tháng 4, Tr/U Tề ghé
ngang nói tình hình không khá. Việt cộng đòi
49 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Sàigòn đầu hàng vô điều kiện. Anh bảo tôi ở yên
trong phòng có gì thì chạy ra cầu tàu xuống ghe
nhỏ ra khơi lên chiếc HQ230 vì anh Triệu tôi và
gia đình sẽ lên chiếc đó. Tôi nói anh họ tôi đã
dặn sẵn rồi. Anh lại thêm là anh rất bận rộn theo
ông Tƣ Lệnh chạy lung tung nên sẽ không có thì
giờ lo cho tôi, tôi nói tôi hiểu và sẽ tự lo đƣợc.
10:15, tôi nghe tiếng ngƣời lao xao bên
ngoài Sàigòn đầu hàng rồi, Việt cộng đang tràn
vào thủ độ. Tôi đứng chết trân trƣớc cửa, bà cụ
và hai cô con gái xách va li chạy về phía cầu tàu
hỏi tôi sao chƣa đi, tôi vẫn đứng yên không nhúc
nhích, hết thật rồi sao, trời ơi, Việt cộng chiếm
Sàigòn rồi sao ?! Mọi ngƣời chung quanh tôi
nhốn nháo, bên ngoài cổng căn cứ, bộ binh và và
quân cảnh phá cổng mang gia đình tràn vào.
Ngó ra phía cầu tàu Bộ Tƣ Lệnh, ngƣời là ngƣời
chen lấn, xô đẩy. Đang đứng hoang mang chƣa
biết phải làm gì, anh chị tôi tay xách nách mang
ba đứa con và cô em gái chạy ngang qua dãy nhà
khách, ngó thấy tôi anh la lên ngƣời ta đã đi hết
mầy còn đứng đó làm gì, ra cầu tàu nhanh lên.
Tôi giật mình rồi nhƣ cái máy cúi xuống nhặt cái
xách tay chạy theo gia đình anh tôi. Tôi cởi giày
để đi cho nhanh. Cát nóng bỏng chân dƣới đất,
ánh nắng chói chang trên đầu, còn hồn tôi đang
lẩn khuất nơi đâu. Tôi đi nhƣ một kẻ mộng du.
Ra đến cầu tàu, nhìn cảnh chen lấn xô đẩy nhau
trong khi sóng lớn đang nhồi chiếc ghe nhỏ nhào
lên ụp xuống trông thật khủng khiếp. Hình nhƣ
biển cũng đang phẫn nộ cho số phận thảm
thƣơng của VN. Gia đình anh tôi đƣợc các thủy
thủ giúp đƣa xuống ghe an toàn, tôi vẫn còn
đứng trên cầu tàu cao gần 3 thƣớc, làm sao tôi
dám nhảy khi sóng lớn đang vỗ ầm ầm vào ghe.
Anh tôi la nhảy xuống nhanh lên, anh càng la tôi
càng sợ. Thôi chắc tôi chết ở đây cho xong (lúc
đó tôi chƣa biết Uyển đã rớt xuống đó khoảng
nửa giờ trƣớc). Tôi không khóc mà sao nƣớc
mắt ở đâu đang tuôn ròng ròng trong lòng tôi.
Đang trong cơn hoảng loạn, chợt có bàn tay ai
đó nắm tay tôi vừa kéo đi vừa nói đi, chị đi theo
tôi! Tôi ngẩng lên thấy hai anh thủy thủ lạ tôi
không biết là ai. Hai anh dẫn tôi bƣớc qua chiếc
sà lan đậu sát cầu tàu. Thành sà lan nóng nhƣ
lửa, tôi đi chân trần mà tƣởng thịt da mình đang
chín tới. Từ thành sà lan nhảy xuống ghe cá cao
chừng một mét nên tôi xuống dễ dàng. Cho đến
bây giờ tôi vẫn không quên hai ngƣời thủy thủ
tốt bụng đã giúp tôi vào giây phút có lẽ là hãi
hùng nhất trong đời tôi. Hai anh đã không cho ai
bƣớc qua chiếc sà lan mà lại chạy qua dẫn tôi
xuống đƣợc an toàn. Xin cảm ơn hai anh một lần
nữa, hai ân nhân giờ thứ 25 của tôi.
Chiếc ghe cá chở chúng tôi lên chiếc
HQ230 của Thiếu tá Nguyên là Hạm trƣởng, tôi
tránh nhìn mặt ông ta vì vẫn còn... hận lúc ông ta
nạt nộ đòi bắn tôi quăng xuống biển đêm hôm
trƣớc (tôi cho là quá đáng đối với một cô gái!) vì
có lẽ ông ta không biết tôi là em Th/tá Triệu. Tôi
xin anh tôi cho xuống kiếm chỗ nằm nghỉ, tôi
quá mỏi mệt rồi. Anh tôi nói với một anh thủy
thủ dẫn tôi và cô em vợ xuống dƣới phòng. Nằm
đó mà nƣớc mắt tôi chảy dài, đầu tôi là một
khoảng trống mênh mông. Nghĩ đến mẹ và anh
chị em biết bao giờ gặp lại lòng tôi đau nhƣ cắt.
Nằm vật vờ không biết bao lâu, chợt nghe có
tiếng ngƣời hỏi đã đỡ chƣa. Mở mắt ra, tôi nghe
chút mừng vui khi thấy Tr/U Tề đang đứng đó.
Ngoài gia đình anh chị tôi thì tôi không quen
biết ai trên tàu ngoài anh và Tr/U Hiển. Tôi hỏi
bây giờ mình đang đi đâu, anh nói sẽ ghé ngang
đảo Thổ Châu rồi trực chỉ Úc.
Đoàn tàu ngừng ở Singapore năm ngày
để xin tiếp tế nƣớc, thực phẩm và cho một số
dân chúng lên HQ330 và 331 vì ghe họ quá nhỏ
không thể tiếp tục chuyến đi. Rời Singapore,
đoàn tàu tiếp tục đi về hƣớng Úc Châu đƣợc hơn
nửa ngày, anh tôi chạy lên chỗ ụ súng đại bác
mà gia đình chúng tôi che lều tạm trú ở đó nói
chiếc HQ602 biến mất rồi! Đoàn tàu đƣợc lệnh
trở tới trở lui để tìm HQ602. Sáng hôm sau vẫn
không thấy tăm hơi 602 ở đâu, anh tôi đi họp rồi
trở lại báo là chúng ta sẽ quay trở lại đi Subic,
không đi Úc nữa, chính phủ Úc vừa mở quan hệ
ngoại giao với Cộng sản! Chiếc HQ602 đã bị
50 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
một nhóm sĩ quan và thủy thủ cƣớp, giết Hạm
trƣởng, đoạt tàu trở về Sàigòn rồi. Để bảo đảm
an ninh cho đoàn tàu, Đại tá Thiện yêu cầu
những ai có radio phải nộp hết để tránh tình
trạng nghe tin tức hoang mang có thể sẽ gây ra
biến cố tƣơng tự nhƣ HQ602, khi vào đất liền sẽ
đƣợc hoàn trả lại. Tin loan ra về chiếc HQ602
làm bàng hoàng mọi ngƣời, tôi chợt nghe xót xa,
thƣơng cảm cho số phận không may của ngƣời
Hạm trƣởng vắn số.
Đoàn tàu lênh đênh 17 ngày trên biển kể
từ khi rời An Thới mới đến Subic Bay, bao
nhiêu buồn vui lẫn lộn. Vui vì nhìn thấy đất liền,
buồn thì trùng trùng bủa vây,
không biết tƣơng lai đi về đâu.
Lúc đó tôi không có chút ý niệm
rõ rệt nào về chƣơng trình tị nạn,
chỉ biết ai sao mình vậy, tới đâu
hay tới đó. Chúng tôi chạy lên
boong tàu nhìn về phía căn cứ
Subic, thuộc quần đảo Phi Luật
Tân đang ẩn hiện trong màn
sƣơng mỏng. Đoàn tàu HQVN
phải đậu ngoài khơi chờ HQ Mỹ
lên giải giới. Tất cả đạn dƣợc
súng ống hay bất cứ gì bằng kim
khí đều phải đƣợc tháo gỡ quăng xuống biển
trƣớc khi họ cho ngƣời tị nạn lên bờ. Tôi đã
chứng kiến cảnh tiền Việt Nam rải ra trắng cả
biển Subic vì ngƣời ta nghĩ bây giờ nó đã trở
thành vô dụng. Tôi đã chứng kiến buổi lễ hạ
quốc kỳ Việt Nam lần cuối cùng trong nƣớc mắt,
tất cả thủy thủ đoàn đều mặc đồ lễ. Chúng tôi
thƣờng dân không đƣợc phép hiện diện nhƣng
đã núp nhìn để thấy những khuôn mặt đau đớn
xót xa của mọi ngƣời khi nhìn lá quốc kỳ Việt
Nam từ từ hạ xuống để cảm nhận nỗi đau vong
quốc nhƣ thế nào. Thế là xong, nƣớc mất nhà
tan, tƣơng lai tăm tối, chuỗi ngày sắp tới sẽ đua
những kẻ khốn khổ này về đâu...
Chúng tôi bƣớc lên cầu tàu để vào Subic
Bay nơi HQ Mỹ đã chuẩn bị sẵn một căn cứ tị
nạn khá đầy đủ để đón ngƣời tị nạn Việt Nam.
Tề vẫn vẫn kế bên, vỗ nhè nhẹ vào bàn tay tôi
nói đừng buồn lo nữa, cố gắng vui để chuẩn bị
cho cuộc sống mới, nhiều khó khăn và lo toan
hơn... mà tôi thầm nghĩ nhƣ một lời ƣớc hẹn...
oOo
Chiếc Air Vietnam bay lƣợn một vòng
trên vùng trời Phú Quốc trƣớc khi đáp xuống phi
trƣờng Dƣơng Đông. Tôi nhìn xuống vùng biển
xanh lơ, An Thới năm xƣa ở chỗ nào, lòng nôn
nao khó tả. Tề ngồi yên, không nói lời nào
nhƣng tôi biết anh đang xúc động khi trở lại
thăm cảnh cũ lần đầu tiên (mà ngƣời xƣa biết có
còn đó không?!) Sau 32 năm xa vắng, anh chị
Ba tôi đã tặng cho ông em rể (mới gặp lần đầu)
hai vé du lịch Phú Quốc 4 ngày mà rằng cho tụi
bay thăm Phú Quốc ngày nay coi có khác ngày
xƣa không ? Sau 32 năm xã hội chủ nghĩa, Phú
Quốc đã thay đổi rất nhiều với những khách sạn
và khu du lịch mọc lên nhƣ nấm dọc theo bờ
biển. Du khách tấp nập còn ngƣời dân thì vẫn
lam lũ nhọc nhằn, thật là hai cảnh đời khác biệt.
Ai làm chủ những cơ ngơi đó ngoài các “ngài”
đang nắm đầu dân, các “bậc” con ông cháu cha
CS và các đại gia có gốc ?! Khi chở chúng tôi ra
chợ Dƣơng Đông, anh lái xe Honda ôm đã chỉ
một khách sạn đang xây cất 5, 6 tầng khá đồ sộ
nói đó là chỗ các quan cao cấp sẽ ra nghỉ mát
cuối tuần đó! Cũng không có gì để ngạc nhiên !
51 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Ngày hôm sau, anh hƣớng dẫn viên trẻ
cho biết đoàn sẽ lên xe đi An Thới mà tôi biết Tề
đang nôn nóng muốn về thăm lại nơi chốn cũ mà
anh đã làm việc suốt 5 năm kể từ khi rời trƣờng
OCS về nƣớc cho đến cái ngày định mệnh. Khởi
hành lúc 9 giờ sáng, con đƣờng từ Dƣơng Đông
đến An Thới có lẽ cũng không khá gì hơn năm
xƣa, lồi lõm gập ghềnh thật tội nghiệp cái lƣng
mình mà cũng đau lòng cho chiếc xe Sàigòn
Tourist. Khi đến ngang trại tù Cộng sản ngày
trƣớc, anh hƣớng dẫn viên ra hiệu cho xe ngừng
lại nói chúng ta vào "tham quan" trại. Tôi buột
miệng hỏi có cái gì trong đó mà coi, anh ta nói
vào coi những phòng tra tấn tù hồi trƣớc. Bực
mình tôi hơi xẵng giọng quý vị vào đi, chúng tôi
mệt ở ngoài này ngắm... cảnh! Chỉ có hai vợ
chồng ngƣời Tàu đến từ Úc muốn vào còn chúng
tôi, một cặp vợ chồng trẻ từ Atlanta và ba dì
cháu đến từ Finland không vào.
Thấy không ai vào, hai vợ chồng
Tàu hơi... quê nên nói thôi chúng tôi
cũng không... dzô!
Chiếc xe lại tiếp tục đến An
Thới, dọc theo con đƣờng đất bụi
mù mịt. Kia là vài anh HQ Cộng sản
mặc đồ thủy thủ màu xanh dƣơng
đậm có cái... xây, áo bỏ ngoài, chân
mang... dép đi "lẹp bẹp" hai bên
đƣờng trông luộm thuộm vừa nhƣợc
tiểu vừa chậm tiến! Tôi bấm tay Tề
nói nhỏ coi kìa, coi HQ Cộng sản
kìa. Anh nhìn tôi lắc đầu ngao ngán,
thật là buồn, không phải năm phút
mà là cái buồn dai dẳng hơn 32 năm
lận!!!
Xe vừa ngừng ở chợ An Thới, Tề kéo
tôi đi thẳng ra cầu tàu ghe đò. Anh đứng đó
ngóng về phía cầu tàu Bộ Tƣ Lệnh An Thới
ngày xƣa, quang cảnh đìu hiu, lác đác vài chiếc
tàu trông giống nhƣ những PCF năm nào neo ở
đó với những lá cớ máu bay trong gió! Ôi vật
đổi sao dời, nhìn cảnh vắng lặng điêu tàn của
căn cứ, bao nhiêu kỷ niệm, hình ảnh cua Hải
Quân VNCH lịch sự hào hùng năm nào chợt tràn
về cùng lúc với nỗi thƣơng đau, phẫn hận lẫn lộn
làm hai chúng tôi đứng lặng ngƣời trên cầu tàu
ngập nắng. Mới đó mà đã 32 năm, nóc ngôi giáo
đƣờng cũ vẫn sừng sững. Chợ An Thới hơi vắng
vẻ so với hình ảnh một An Thới ồn ào tất bật
một cách lạ lùng vào một ngày cuối tháng 4 năm
75 vẫn còn nhƣ in trong lòng tôi. tề bấm vội vài
tấm ảnh nhƣ cố ghi lại chút kỷ niệm nơi chốn cũ
đã trở thành một phần đời anh. Chúng tôi đi
loanh quanh trong chợ, bao nhiêu đổi thay, vẫn
những khuôn mặt sạm nắng, chịu đựng của
ngƣời dân An Thới, đâu đó cũng có những đôi
mắt mệt mỏi nhìn xa vắng vào biển cả mênh
mông.
Trở ra bãi biển, nhìn sóng vỗ muôn
trùng, lòng tôi chợt chùng xuống khi mắt hƣớng
về cầu tàu Bộ Tƣ Lệnh nơi cô em gái tên Uyển
đã gởi thân ở đó vào một ngày ảm đạm nhất của
quê hƣơng. Tôi thì thầm Uyển ơi, chị trở lại
thăm em đây, chúc em an nghỉ...
Tôi ngƣớc nhìn lên cao, trời xanh lơ,
mây trắng chập chùng, biển êm êm sóng vỗ, quê
hƣơng còn đây vẫn đẹp ngàn đời mà sao nghe có
gì trăn trở, nhƣ có chút ngậm ngùi nhỏ lệ trong
hồn. Rồi cũng phải lìa xa để trở lại nơi đã nhận
52 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
là quê hƣơng thứ hai. Tôi sẽ không quên những
ngày ngắn ngủi về thăm chốn cũ, nơi tôi có bao
kỷ niệm êm đềm, nơi bắt đầu mối lƣơng duyên
tƣởng không mà có, nơi chúng tôi có
những ngƣời bạn thân thƣơng giờ tản lạc khắp
bốn phƣơng trời... Dòng đời đã lặng lẽ trôi hơn
32 năm mà tôi cứ ngỡ nhƣ mới ngày hôm qua.
An Thới ơi, xin giã biệt! Đã gần hai
phần ba cuộc đời rồi, có còn không một ngày
trở lại... ?!
Saint Louis, Tháng Giêng 2010
Cho Nhà Tôi và Các Bạn Thân Cũ
Trần Thị Hậu Giang
Mất hay còn
Tàn cuộc chiến, ta vò đầu chẳng
hiểu:
Không đánh để thua, thắng quá
dễ dàng
Lịnh rút quân, dân bỏ chạy tan
hoang
Lỡ cƣời lỡ khóc, cƣời ta trẻ nít.
Sau cuộc chiến , sầu mây giăng
mờ mịt
Sầu mẹ cha, sầu làng xóm điêu
linh
Của cƣớp công khai, dán nhãn
hòa bình
Bần cùng hóa, thi đua ngƣời với
vật.
Tổ Quốc chung, còn thì cũng
nhƣ mất
Mất hay còn, khác ý, nghĩa tự do
Ngồi trong tù cải tạo, cứ co ro
Tuổi xuân mất, từng cơn mƣa lất
phất !
Những tù nhân vốn hiền nhƣ
cục đất
Cầm súng, chẳng qua bảo vệ
nƣớc nhà
Cải tạo làm sao thành đƣợc lâu
la
Ma đày đọa để tung hô đảng
cƣớp ?
Liều mạng sống, và cũng liều bị
cƣớp
Sao bao ngƣời phải bỏ nƣớc ra
đi ?
Mở to lƣơng tâm, thế giới thấy
gì
Ngƣời chết thảm, bởi đƣờng đi
không đến !
Đất nƣớc tang thƣơng, phải đâu
định mệnh
Ngẫm con trời, vừa ác lại vừa
ngu
Ngƣời ra đi, còn đi mãi thiên thu
Tội nghiệp dãy cột đèn khuya
đứng đợi !
Loại rƣợu cũ, chứa đầy trong
bình mới
Sơn hà ngửa nghiêng, trời đất
lăn quay
Nhà nhà say, cả nƣớc xúm nhau
say
Cơn thảo rƣợu, biển rừng cho,
bán hết
( “Xứ nhƣợc tiểu, lo làm chi cho
mệt
Chót đuôi rồng hơn hẳn rắn liu
điu
Ơn anh Ba bảo bọc biết bao
nhiêu
Tình huynh đệ một nhà, ai dám
chống ?” )
Tàn cuộc chiến, tỉnh dần cơn ác
mộng
Cờ thí quân đành uổng chốt qua
sông
Bài học Tự do xin nhớ nằm lòng
Giá đắt lắm, chớ bao giờ phung
phí.
Con trời ơi ! hãy tỉnh say, cạn
nghĩ:
Giống Tiên Rồng tan tác khắp
năm châu
Độc ác càng thêm chia áo rẽ bâu
Ngu quá lắm lại càng mau mất
nƣớc
Mất hay còn, mong ai lời tóm
lƣợc !
Từ Văn Bé Tư
53 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
thơ
Bùi Văn Quý
Đại Hội Ca -Li
Đại Hội mƣời một Ca Li
Khắp nơi đông đảo Ô Xi kéo về
Có ngƣời con cháu lê thê
Có ngƣời chỉ có kéo lê một mình
Gặp nhau là ở cái tình
Gặp nhau xem thử bạn mình ra sao
Hai năm có khác chút nào
Trên đầu tuyết phủ đƣợc bao nhiêu phần
Mỡ bọc nhiều, ít tấm thân
Mắt còn thấy rõ nhìn gần hay xa
Rƣợu bia uống líp ba ga
Hay là kiêng cử qua loa gọi là
Hỏi thăm chứng bệnh đã qua
Có làm cản trở việc nhà, việc tƣ
Gặp nhau , nhắc lại từ từ
Bao nhiêu chuyện cũ xem nhƣ mới rồi
Thời gian qua tựa mây trôi
Ba mƣơi năm lẻ nhƣ hồi mới đây
Bao nhiêu kỷ niệm gom đầy
Vài ngày không đủ xum vầy nhắc nhau
Hẹn nhau lại đến kỳ sau
Hai năm chờ đợi, cũng mau lắm mà
Thời gian còn lại xem ra
Mấy lần Đại Hội chẳng là bao nhiêu
Thôi thì hãy nhớ một điều
Có dịp, cứ gặp càng nhiều càng vui
Bùi Văn Quý
CA . . . RAO cho ĐẠI HỘI 11
Công cha nhƣ núi Thái Sơn
Công đi Đại Hội cao hơn núi nè
Trời mƣa bong bóng phập phồng
Đến ngày Đại Hội vợ chồng cùng đi
Con ơi nhớ lấy lời cha
Không đi Đại Hội ở nhà buồn thiu
Bầu ơi thƣơng lấy bí cùng
Nhớ ngày Đại Hội rủ chung nhau về
Thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân
Thƣơng về Đại Hội một lần ,hai năm
Bắc thang lên hỏi ông Trời
Tham gia Đại Hội , tuổi đời tăng không ?
Chẳng tham ruộng cả ao điền
Ham đi Đại Hội không tiền cũng đi
Chồng già vợ trẻ là Tiên
Tiên đi Đại Hội là Tiên trẻ , già
Hoa chanh nở giữa vƣờn chanh
Về đi Đại Hội là thành Ô – Xi
Lấy chồng từ thủa mƣời ba
Lúc đi Đại Hội đếm là năm con
Nam vô tửu nhƣ kỳ vô phong
Uống trong Đại Hội về phòng ôm xô
Làm trai cho đáng nên trai
Không đi Đại Hội tiếc hoài mà xem
Nắng mƣa là bệnh của Trời
54 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Gặp ngày Đại Hội phải mời nhau đi
Đi đâu mà vội mà vàng
Bà đi Đại Hội nhớ mang Hột Xoàn
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Đem về Đại Hội đàng hoàng tặng nhau
Bàn tay ngón ngắn ngón dài
Vào trong Đại Hội , Tao Mày giống nhau
Trăm năm trong cõi ngƣời ta
Không đi Đại Hội thế là xa nhau
Mấy đời bánh đúc có xƣơng
Mấy đời Đại Hội lại thƣờng không đông
Trèo lên cây bƣởi hái hoa
Đem về Đại Hội làm quà tặng nhau
Buồn trông con nhện giăng tơ
Không đi Đại Hội thẫn thờ buồn hơn
Một năm có đến bốn mùa
Mỗi mùa Đại Hội là vừa hai năm
Trên trời có lắm vì sao
Dƣới đất Đại Hội cớ sao không về
Bùi Văn Quý
Mảnh Đất Cuối Trời
Bạt ngàn vỗ cánh chim bay
Tiếng kêu tha thiết chân mây cuối trời
Lang thang góc phố xứ ngƣời
Còn đâu những áng mây chiều cố hƣơng
Còn đâu giọt nắng tà dƣơng
Giọt sƣơng còn đọng trên đƣờng hoang sơ
Chiều về ra đứng ngẩn ngơ
Cất cao giọng hát vu vơ giữa đồi
Đêm khuya thao thức bồi hồi
Trùng dƣơng gợi nhớ, chao ôi! Con tàu...
Bạc đầu sóng vỗ còn đâu
Còn đâu sông rạch, còn đâu bến bờ...
Thu về gió nhẹ trăng mơ
Đông sang giá lạnh mờ mờ tuyết rơi
Ngày dài tháng rộng đầy vơi
Chén đầy chén cạn cho vơi tháng ngày
NP_u2
55 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Võ Khắc Hạnh
Một ngày nghỉ weekend, tình cờ tôi nghe
đƣợc bản nhạc hay của Phạm Duy,
“Trả lại em yêu, khung trời đại học,
Con đường Duy Tân, cây dài bóng mát,
Buổi chiều khuôn viên, mây trời xanh ngát,
Dấu chân trên đường, vẫn chưa phai nhạt…”
Tôi bỗng nhớ lại cả
một thời niên thiếu
trƣớc khi gia nhập
vào binh chủng hải
Quân. Sàigòn, đối
với tôi là cả một
khung trời kỷ niệm
của thời sinh viên
còn ôm tập sách đến
các phân khoa Đại
học, rong chơi trên các con đƣờng có những
hàng cây xanh nhiều bóng mát, đƣa đón ngƣời
yêu tan trƣờng với tà áo trắng vờn bay trong gió.
Tôi không còn nhớ đƣợc bao nhiêu quán cà phê
mà tôi đã tận hƣởng thời gian nhàn hạ, nghe
nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, lang thang
trên những đƣờng phố thân quen và những cơn
mƣa rào chợt đến giữa trƣa mùa hè nắng nóng…
Bây giờ ở xứ Cờ Hoa này tôi bỗng thèm thuồng
đƣợc sống lại những ngày tháng cũ, nhƣng thật
khó để sống lại những ngày xƣa, ôi Sài gòn nay
còn đâu.
Nghe mỗi một bản nhạc thƣờng khơi lại một kỷ
niệm, có thể là một kỷ niệm thật đẹp, có thể là
một vết thƣơng trong lòng. Hồi mới vào trại
Bạch Đằng II, tôi đã thích thú khi nghe đến bản
nhạc “Mùa thu trong mƣa” của Trƣờng Sa
Chiều mưa không có em,
Bờ đá công viên âm thầm,
Chiều mưa không có em,
Biết lấy ai chia hờn dỗi . . .
Nghe đi nghe lại nhiều lần nhƣng tôi vẫn thích
thú vì bản nhạc nầy sao mà giống nhƣ tâm trạng
của tôi lúc đó hay là của một đôi tình nhân
không còn đƣợc gần nhau để rong chơi theo
tháng ngày dần qua . . .
Thế rồi những ngày tháng qua đi thật mau với
những thử thách của quân trƣờng Quang Trung,
của những đêm thao thức trên con tàu APL mà
các bạn còn nhớ đến Nguyễn Anh Khoa với
giọng ca truyền cảm qua bài “Rừng lá thấp” của
Trần Thiện Thanh:
Rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi
Thành phố sau lưng ôm mộng ước gì,
Tôi là người đi chinh chiến ngược xuôi,
Nên mộng ước đầu tôi nghe đã chìm sâu . . .
Trong thời gian thực tập trên Dƣơng vận hạm
HQ 502 chúng tôi gồm có Mai Phát, Trần
Phƣơng Toàn, Lê Công Nhàn . . đƣợc nghe
tiếng hát thiết tha của Hồ Văn Lạng với bản “
Mộng dƣới hoa” của Phạm Đình Chƣơng :
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng,
Cô nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
56 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Âu yếm nhìn tôi không nói năng . . .
Bây giờ bạn đã đi về bên kia thế giới chỉ để lại
một chút kỷ niệm cho bạn bè và những ngƣời
thân mà thôi.
Sau khi ra trƣờng phục vụ trên Tuần Duyên
Hạm HQ710 thuộc HD1ZP tôi đã quen dần với
cuộc sống hải hồ tôi lại thích nghe bản Nguyệt
cầm của Cung Tiến khi còn tầu bỏ neo tại Cù
Lao Chàm trong một đêm trăng sáng.
Đêm mùa trăng úa làm vỡ hồn ta...
Ngập ngừng xa...suối thu dồn lá úa trôi qua
Sầu thu, sầu lên vút mịt mù,
Mà e nhớ hương mùa thu
Hai năm sau tôi đƣợc thuyên chuyển về
BTL/LLTU tôi đành giã từ các bạn OC còn đang
phục vụ ở Vùng I Duyên Hải nhƣ là Trần dụ
Hoa ( HQ.705), Tôn Thất Hiệp (HQ.709)
Nguyễn Kim Bửu (HQ.703) Trần Bách Hợp
(HQ.3778), Lâm Minh Phƣơng (HQ.3776) Lê
Thế Di, bạn ở HDI/ZP. . .
Tôi thích nghe những bản nhạc tiền chiến của
Văn Cao và Phạm Duy nhất là khi nghe going
hát của ca sĩ Thái Thanh nức nở vào đêm, going
ca đầy quyến rũ vƣợt thời gian nhƣ là bài “
Nghìn trùng xa cách “
Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà khóc với cười
Mời người lên xe về miền quá khứ
Mời người đem theo trọn vẹn thương yêu. . .
Tôi vẫn thích những bản tình ca Việt theo cung
thứ hoặc là Am hay là Cm nghe thật buồn hơn là
những bản nhạc Việt theo cung trƣởng.
Khi miền Nam Việt Nam thất thủ năm 1975 tôi
không còn đƣợc nghe những bản tình ca này
nữa, cho đến khi gặp lại Vũ Mạnh Hùng vào một
buổi tối trong trại cải tạo Thành Ông Năm ( Hóc
Môn ) lúc này tôi đang ở trại T4, vì trại T4 và T6
cách nhau bằng một hàng rào nên Hùng đã lén
qua trại của tôi để gặp lại bạn bè, tối đó Hùng
Sữa đã hát cho nghe bản “ Ai về sông Tƣơng”
của Thông Đạt
Ai có về bên bến sông Tương,
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương . . .
Nghe thật là buồn vì không ai có dịp để gặp lại
ngƣời em gái sống Tƣơng nữa, ở trại này tôi
thƣờng gặp các bạn để an ủi nhau gồm Nguyễn
Đức Ích, Nguyễn Thành Trạng và Nguyễn Ngọc
Bạch.
Một thời gian sau tất cả chúng tôi bị đƣa ra Hàm
Tân Thuận Hải, từ đó tôi không còn đƣợc gặp lại
các bạn nữa. . .
Rồi chƣơng trình HO ra đời, tôi mới biết các bạn
đã lần lƣợt đi định cƣ tại Mỹ và các bạn đã ở rải
rác trên nhiều tiểu bang, bây giờ có rất ít cơ hội
để gặp nhau, có chăng là tại các Đại Hội của
nhóm OC mà thôi. Thêm một lần nữa các bạn ở
(Xem tiếp trang 138)
57 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
vûúng vêën
Hải Dương
Vào cuối năm 1987 , là thời gian chúng tôi
đến Mỹ vừa đƣợc hơn 4 năm, hai vợ chồng bàn
tính với nhau chuẩn bị mua nhà, một phần vì
thấy nếu mua nhà trả tiền nhà hàng tháng thì
cũng thuộc vào căn nhà của mình chứ không bị
mất trắng nhƣ trả tiền thuê nhà với lại thấy thằng
nhỏ con mình mỗi ngày mỗi lớn cần nhà rộng
rãi để cho nó chạy nhẩy vui đùa , không lo phiền
hà đến ngƣời chung quanh và nhất là bà già ở
căn phòng tầng dƣới chung cƣ khỏi phải than
phiền mỗi khi thằng con nhẩy nhót ồn ào ở trên
đầu của bà ta và cũng tính đến tƣơng lai gia đình
sau này sẽ sản xuất thêm vài ba nhóc tì khác nữa
chứ, trƣớc sau thì cũng phải tính đến chuyện cần
một căn nhà riêng cho gia đình, vẫn biết là việc
mua nhà ở đất Mỹ này phải làm con nợ cho nhà
băng 30 năm trời chứ không ít ỏi gì nghĩ mà ớn
chè đậu nhƣng cái máu ngƣời Việt trong ngƣời
sẵn có mạnh mẽ là lúc nào cũng lấy nhà cửa làm
căn bản cho mái ấm gia đình nên một liều ba bẩy
cũng liều, may nhờ ở công việc làm của tôi trôi
chẩy, tôi đã ra sức cày tối đa làm thêm giờ phụ
trội , mỗi ngày thƣờng là làm việc đến 12 tiếng
đồng hồ và không nghỉ ngày cuối tuần , một năm
chỉ lấy một, hai ngày nghỉ là cùng, trong ngƣời
nhƣ đang say men cày bừa có lẽ đã đƣợc quen
với những gian nan trong thời gian ở tù cải tạo
của cộng sản , thời gian đổ mồ hôi nhƣ nhau mà
kết qủa đƣợc hƣởng thì một trời một vực thành
ra luôn luôn vui vẻ mà làm thêm giờ phụ trội ,
nhờ thế tiền bạc có dôi ra một khoản sau khi đã
giúp đỡ cho gia đình hai bên còn ở lại Việt Nam,
do đấy vợ tôi mới gọi đến chị Lành là nhân viên
địa ốc để dẫn đi tìm mua một căn nhà .
Sau vài lần chị Lành chở vợ con tôi đi xem vài
căn nhà ở quanh vùng thì vẫn chƣa có căn nào
hạp ý. Hôm ấy vợ tôi có nói với tôi trƣớc khi đi
làm
- Chiều nay , anh đi làm về bình thƣờng một
hôm đi để cùng đi xem căn nhà ở Spring Valley,
chị Lành bảo nhà này giá hạ mà có đến 4 phòng
ngủ có sân trƣớc, sau đều rộng rãi, chủ nhà cần
bán gấp có lẽ họ dọn đi tiểu bang khác, chị Lành
hẹn mình cứ đến địa chỉ ấy rồi chị ấy sẽ gặp
mình ở đấy.
Tôi nghĩ ờ cũng đƣợc thôi, lâu lâu bỏ mất đi giờ
phụ trội một ngày cũng chả sao và cũng muốn đi
xem nhà một lần cho biết chứ thƣờng thì tôi giao
khoán cho vợ chuyện nhà cửa này vì tôi không
thể bỏ việc mà đi hàng ngày để xem nhà vào giờ
giấc ban ngày đƣợc. Chiều hôm ấy về nhà sau
khi tắm rửa , ăn vội vàng cơm chiều xong tôi
chở vợ con chạy vội đến địa chỉ nhà đã hẹn với
chị Lành vào 6 giờ chiều.
Trời cuối năm, 6 giờ chiều trời đã tối, đèn
đƣờng đã le lói cách quãng nhau xa xa một cái,
thêm sƣơng mù đổ ập xuống vùng đồi núi cao
này nữa, làm tôi tìm đƣờng hơi khó khăn một
chút dù là ở nhà đã dò qua bản đồ chỉ đƣờng,
cuối cùng thì cũng mò ra đƣợc số nhà, căn nhà
nằm khuất ánh đèn đƣờng theo chiều cong của
con đƣờng vòng ngọn đồi . Đậu xe trƣớc căn nhà
chờ chị Lành, khoảng 15 phút quá giờ hẹn mà
vẫn không thấy bóng dáng chị Lành đâu cả,
thằng con nhỏ ngồi yên một chỗ trong xe thì khó
chịu, ọ ẹ đòi xuống xe đi bộ . Hai vợ chồng bàn
với nhau nếu chị Lành không đến chẳng lẽ lại về
không hay là mình cứ vào xem trƣớc đi may ra
có chủ nhà chịu cho mình xem thì mình khỏi
mất công về không, đồng ý với nhau hai vợ
chồng nắm tay thằng con dắt vào nhà.
58 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Một giàn cây xanh cao che kín hẳn mặt tiền
của căn nhà chỉ chừa một khoảng hành lang vào
trƣớc cửa là trống, trời tối không tìm đƣợc
chuông cửa tôi đành phải gõ mạnh vào cánh cửa,
một lúc sau có tiếng lách cách mở khóa, qua ánh
đèn mờ bên trong phòng tôi nhận ra là một bà
già ngƣời Mỹ, tôi xin lỗi trƣớc với bà là tuy có
hẹn cùng ngƣời agent tới đây xem nhà nhƣng họ
chƣa tới tôi xin phép có thể coi nhà trƣớc đƣợc
không, bà mở rộng cửa và nói nhẹ nhàng vào đi
sau đó bà chậm rãi nói mặc dù tiếng mỹ của tôi
lúc đó nghe chỉ hiểu đƣợc tiếng còn tiếng mất
nhƣng cũng tạm hiểu lời của bà là chuyện bán
nhà là ý chính của đứa con trai bà quyết định
đăng bán chứ ý bà thì không muốn đi đâu cả , nó
là căn nhà của chồng bà đã tạo dựng lên, sửa
chữa theo ý muốn, hai ông bà đã ở đây 32 năm
rồi, mọi thứ đều là kỷ niệm bà không muốn bỏ
nó, bà chỉ các đồ vật quanh các phòng tất cả vẫn
đầy đủ chƣa đƣợc dọn trống, những ánh đèn mờ
trên tƣờng với những chụp vải che bóng đèn
hình dáng xƣa cổ , cầu kỳ, những đồ đạc trong
các phòng mang một sắc thái của những ngƣời
già thƣờng thấy trong các phim ảnh tất cả mang
một màu nâu sậm buồn . Căn nhà lạnh lẽo, vợ
tôi nói nhỏ lạnh quá còn thằng con thì đeo cứng
vợ tôi trên tay không chịu xuống đi bộ, tôi hỏi
có cần ra xe lấy thêm áo ấm không , vợ tôi nói
thôi ráng một chút nữa cũng không sao, tôi nói
có lẽ bà già hà tiện không dám bật máy sƣởi . Đi
thăm các phòng vừa đi vừa nghe bà than phiền
về thằng con, một hai là nó nhất định bán mà nó
đã có vợ ở Arizona, bà buồn lắm không muốn xa
rời căn nhà này, bà chỉ từng bức tranh treo trong
các phòng dẫn giải từng câu chuyện trong quá
khứ, tôi chỉ gật gù mỉm cƣời ừ hử cho phải phép
xã giao, một phần nữa tiếng Mỹ của mình mới
sang nên vẫn ngọng không góp chuyện nhiều
với bà ta đƣợc chỉ gật gù ừ hử cho qua chuyện
tuy nhiên không vì thế mà làm bà bớt hứng thú
để nói , trong bụng thầm nghĩ mình gặp phải
một bà già trầu Mỹ rồi . Đi dọc hết các phòng và
có lẽ dừng ở phòng ngủ riêng của bà là lâu nhất ,
bà chỉ từng món đồ kỷ niệm và nói một cách say
sƣa, trìu mến của từng thời gian qua . Vợ tôi ôm
thằng con thấy có vẻ không thích căn nhà lắm,
lạnh lùng không nói năng gì , nhìn quanh với vẻ
thờ ơ , tôi cắt ngang câu chuyện hỏi về giá cả ,
bà ta cho biết chuyện này đứa con quyết định
nên bà không biết và sau đó tôi lên tiếng cáo từ
không quên khen các căn phòng của bà đẹp nhƣ
phép lịch sự ngƣời tây phƣơng .
Câu chuyện thật sự chẳng có gì đáng kể nếu
không có ngày hôm sau , cái ngày mà chị Lành
gọi phone đến xin lỗi đã không đến đúng hẹn
đƣợc vì xe chị bị hỏng bất ngờ và khi nghe vợ
tôi kể chuyện lại cho chị nghe là đã đƣợc bà chủ
nhà cho vào xem thì chị ngạc nhiên hỏi kỹ là có
đến đúng địa chỉ đó không vì căn nhà đó do
ngƣời con trai đăng bảng bán sau khi ngƣời mẹ
qua đời .
Bán tín bán nghi ngày hôm sau tôi quyết định
về sớm hơn vào buổi chiều tôi đến địa chỉ nhà
đó một lần nữa , đậu ngoài đƣờng ngay trƣớc
cửa nhà xem cho chắc chắn , cái số nhà hiện rõ
ràng một bên của cửa nhà xe thì đúng là căn nhà
với giàn cây che khuất cả phía trƣớc chỉ chừa
một phần trên của cửa sổ phía trƣớc mà tôi nhìn
thấy hình nhƣ tấm màn voan cửa sổ ở bên trong
lay động nhƣ có ngƣời đang vén nó nhìn ra bên
ngoài , một cơn lạnh chạy dài theo sống lƣng
làm tôi rùng mình vội vàng mở khóa xe rú ga
vọt nhanh.
Hải Dƣơng
59 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
_______________thơ Huỳnh Kim Khanh
Ba mươi năm tình lỡ
Trên nẻo đời phiêu bạt
Tình cờ ta gặp em
Rồi yêu em nồng cháy
Trao nhau nụ hôn mềm
Em ánh mắt dịu dàng
Áo em rợp chiều hoang
Ta ngƣời trai viễn xứ
Gặp em chiều thu vàng
Ta tỏ lời yêu em
Mắt em gợi nỗi niềm
Bàn tay ta vụng dại
Che dấu tình cô đơn
Rồi chúng mình yêu nhau
Thêu dệt tình ban đầu
Yêu em tình lỡ dở
Hai đứa chiều mƣa Ngâu
Ta viết lời yêu đƣơng
Những đêm vắng canh trƣờng
Ta làm thơ vụng dại
E ấp niềm yêu thƣơng
Nhƣng mối tình nào không trái
ngang
Em đi ngày ấy úa màu trăng
Thuyền em tách bến chiều đƣa
tiễn
Tà áo em bay phút đoạn trƣờng
Tình cũ phai mờ trên bến sông
Em đi chiếu ấy lệ tuôn dòng
Bƣớc chân em ngẩn ngơ chiều
vắng
Ta đứng bên bờ ta ngóng trông
Mới đó mà bao năm trôi qua
Mình ta thƣơng nhớ ngƣời tình
ta
Mình ta trằn trọc đêm không
ngủ
Nghe dấu tình yêu đã nhạt nhòa
Khoảng vắng canh trƣờng ta
bƣớc lê
Đèn khuya lạnh lẽo bƣớc lê thê
Yêu em ngày đó tình chan chứa
Nào biết ngày nay đã lỗi thề
Tình cũ bây giờ ba mƣơi năm
Mình ta quạnh vắng đƣờng tối
tăm
Mình ta với nỗi sầu vô hạn
Từng phiến cô đơn rụng trƣớc
thềm
Tình đó bây giờ đã giá băng
Yêu em tình đã úa màu trăng
Mình ta giữa vũng lầy hoang
phế
Thầm gọi tên em cõi mịt mùng
Cuộc tình
Ta gặp nhau khi mình còn trẻ
Khi tình yêu còn nét ngây thơ
Khi ta nhìn mắt em kiều diễm
Khi áo em bay rợp mấy bờ
Ta nói yêu em cuộc tình bỏ ngỏ
Em ngây thơ thƣơng nhớ một
trời
Em đứng đó áo em e ấp
Ta nghe tình yêu nhịp đầy vơi
Tình ta đơn phƣơng
Nhƣ lá rụng bên đƣờng
Nhƣ tình ta mòn mỏi
Nhƣ lòng ta cô đơn
Có phải em mùa thu mắt nâu?
Hay em máu áo rợp trời Ngâu
Hay em cô gái tình e ấp
Tà áo em bay chuốt tình sầu
Ta đứng chờ em cuối phố
Ta nghe tình bơ vơ
Yêu em tình đã lỡ
Mình ta đứng bơ phờ
Có phải cuộc tình đã giá băng
Bờ môi em lạc lõng màu trăng
Tình yêu đã chết trong tiềm thức
Bãi vắng chiều hôm song trùng
trùng
Ta lắng nghe thân thể rã rời
Nghe tình ta đã chết mù khơi
Ta nghe tình đã rơi rời rã
Ta chết tình ta cuối cuộc đời
Ta bƣớc lê thê cuối cuộc tình
Nghe môi em tràn nỗi buồn tênh
Áo em che rợp khu rừng cấm
Ta lắng nghe tình yêu mong
manh
Tình đã mịt mùng nhƣ khói
sƣơng
Ta nghe quạnh vắng ngập
buồng tim
Ta nghe tình chết theo triền sóng
Tình nhớ hoang mang vạn nỗi
niềm
60 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
möåt ngaây Phûúác Long
Huy Châu (Tu Ti)
- Nƣớc sôi ! Nƣớc sôi mấy anh ơi ! Nƣớc
sôi tụi mày ơi !!!
Tiếng rao của Hùng Không quân từ dƣới bếp
vọng lên, để lại bắt đầu một ngày nhƣ mọi ngày
trong trại tù cải tạo Phƣớc Long
Đây là trại tù thứ tƣ chúng tôi đã trải qua trong
vòng 2 năm. Đêm đầu tiên khi đoàn Molotova
bỏ chúng tôi xuống, nơi này hoàn toàn là rừng
rậm, đêm rừng lạnh buốt, gió lạnh lùa dƣới
võng, hơi đất xuyên qua tấm nylon thấm vào
lƣng, không tài nào ngủ đƣợc, dù đã nằm quây
quanh những đống lửa lớn đƣợc đốt lên bằng
nguyên những thân cây rừng
Dần dần, tay rựa, tay cuốc, rồi cả 1 phần ngọn
đồi đƣợc san bằng, rồi 1 hàng rào đƣợc dựng lên
để tự nhốt mình dƣới mỹ danh: trại cải tạo. Trại
gồm 12 căn nhà lớn là nơi ăn ở của trên dƣới
500 sĩ quan đủ mọi binh chủng, 1 lò rèn, 1 nhà
bếp, cột nhà là những thân cây rừng, vách và
mái đƣợc dừng và lợp bằng tre, nứa, lồ ô...
không một cây đinh, không một cọng kẽm. Ba
dẫy nhà nằm song song ở lƣng chừng đồi, dƣới
chân đồi là khu nhà của ban quản trị trại, ngƣợc
lên đỉnh đồi, qua lớp hàng rào, vƣợt qua 1
khoảng trồng mì thì đến khu nhà thăm nuôi,
cũng là 1 căn nhà làm bằng cây rừng và tre nứa,
vách chỉ cao ngang bụng, bên trong là 2 dẫy sạp
đƣợc lót bằng những thân cây cong queo, lớn
nhỏ không đều
Mới khoảng 6 giờ sáng, vài tia sáng đã lấp ló
trên đầu ngọn cây còn lấp lánh sƣơng đêm, báo
hiệu 1 ngày đẹp trời, tôi nhanh nhẹn trở dậy
đánh răng súc miệng, tay cầm rựa, vai đeo cái bị
làm bằng bao cát trong có củ khoai mì, bình
nƣớc và bao nylon thuốc rê
- Tao đi trƣớc nghe
Phát dặn với theo tôi:
- Bữa nay chỉ tiêu là 20 cây nứa 10 mét đó
Tôi thích một mình đi qua những con đƣờng
mòn ngoằn ngoèo để đến khu tập trung lao động
đã đƣợc phân công. Ngày còn ở HĐ4ZP, sáng
thức dậy trên chiếc PCF thân yêu, vầng dƣơng
vừa ló dạng, xa xa là bờ cát với hàng dừa, với
làn khói nhè nhẹ vƣơn lên từ mái nhà tranh trên
những hòn đảo của quần đảo Bà lụa, quần đảo
Pirattes à, bên cạnh là tiếng sóng đập nhè nhẹ
vào thân tầu nghe thoải mái làm sao !!!
Ngày xƣa là biển khơi, ngày nay là vẻ đẹp của
núi cao, rừng thẳm. Tôi đã tu mấy kiếp mà sao
lại đƣợc hƣởng nhiều thế này?
Hãy quên đi những lời chửi rủa tục tằn trống
rỗng, những tuyên truyền láo khoét trẻ con, hãy
quên ngƣời vợ son trẻ, đứa con còn nằm nôi.
Làm đƣợc gì khi bị rơi xuống vực thẳm chỉ
trong chớp mắt, chƣa kịp định thần, làm đƣợc gì
khi cái đói hành hạ triền miên, làm đƣợc gì khi
cái lạnh thắt ruột giữa rừng già, làm gì đƣợc khi
ta nhƣ con hổ trong cũi, càng lồng lộn càng tự
hành hạ thể xác lẫn tinh thần chính mình!!!
Thiên nhiên, suối đồi, không khí trong lành ngay
61 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
trong tầm tay, ngay trƣớc mắt, sao không tận
hƣởng, lại phải bận tâm những cái xa vời
Một bụi tre, lồ ô hiện ra trƣớc mắt, còn sớm, tôi
bỏ con đƣờng mòn đi sâu vào trong rừng ngồi
dựa gốc cây cổ thụ có quả vàng tƣơi, trong ruột
nhớt nhợt rất chua mà chúng tôi đặt là cây “L…
tiên” , đang gặm củ khoai mì thì nghe tiếng lao
xao của đám bạn tù đi đến gần, rồi xa dần … tôi
vẫn không chú ý lắm. Khi ăn hết củ mì, uống
hớp nƣớc, vấn điếu thuốc rê đầu ngày, bặp vài
hơi, cầm rựa đứng lên thì mới nhận ra khu rừng
êm ắng lạ lùng, bụi lồ ô đây sao tụi nó không
chặt, lại đi đâu ??
Rựa vung lên, chỉ 1 nhát chém chéo góc 30 độ,
đi ngọt xớt qua cây lồ ô to bằng cổ chân, thân
cây bị chém đứt, nhọn hoắt nhƣ những cây
chông cắm ngập xuống đất, nhƣng vẫn không đổ
vì cành lá nhƣ những râu bạch tuộc đan lấy nhau
tách rời chúng không phải dễ. Mồ hôi đổ ra nhƣ
tắm, lá tre khô cùng bụi và phấn à bám vào đầu
cổ, tay, mắt mũi... ngứa ngáy khó chịu, còn đâu
tia nắng lung linh, giọt sƣơng mong manh, tiếng
chim hót chào bình minh mới 2 tiếng đồng hồ
trƣớc...
Cuối cùng rồi 20 cây lồ ô dài ngoằng đã ngoan
ngoãn chịu trói thành 2 bó đại-xì-bàng, đổi lại củ
khoai mì biến đâu mất, bình nƣớc cũng không
còn, mắt hoa lên vì đói, chân tay run rẩy, tiếng
chim kêu “khắc phục, khắc phục!” nhƣ khuyến
khích tôi trả cho xong nợ khổ sai trong ngày
Nhóm chúng tôi ăn uống làm việc chung có 6
ngƣời, Tùng và tôi HQ, Thái nhỏ trinh sát, Thái
lớn CTCT, Phát Thiết giáp, Sơn BĐQ, rất thân
nhau dù không cùng binh chủng, biết tính nhau
nên thỉnh thoảng họ cũng để tôi có những phút
riêng tƣ nhƣ hôm nay. Một mình trên con đƣờng
mòn quanh co về trại, mới thấy nhớ những
ngƣời bạn chung cảnh ngộ.
Sân trại vắng tanh, vừa thẩy bó lồ ô xuống thì
tay tổ trƣởng tên Liên, cũng dân HQ nhƣng
không biết khóa nào, ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh về sớm vậy, coi chừng trời bão, ủa
mà cái này đâu phải nứa,
Tôi cũng ngạc nhiên không kém:
- Anh nói gì tôi không hiểu, nứa là cái gì?
Sau một hồi “giao lƣu” tôi mới vỡ lẽ, nứa với tre
còn không phân biệt đƣợc mà đòi “nàm” sĩ quan,
buộc cái “nạt” không xong mà cũng nà sĩ quan!
đúng nà sĩ quan...” ngụy” !!!
Chỉ kịp lấy đầy bình nƣớc, lại vác rựa vào rừng
làm lại từ đầu, hèn chi hồi sáng chẳng thấy đứa
nào làm gần mình hết, thằng Phát cũng đã nhắc
mà đầu óc còn để đâu đâu, giọt sƣơng giọt nắng,
con bà gì đó làm hại tui rồi. Lần theo con đƣờng
mòn quen thuộc, đƣợc một đỗi thì gặp toán đi
rừng trở về với những bó nứa nặng oằn vai.
Nghe chuyện, Thái nhỏ thấy ái ngại cho tôi:
- Anh đi thêm 1 khúc nữa, men theo cây cổ
thụ đi sâu xuống mé suối thì thấy bụi nứa.
Em về trại xong sẽ ra phụ, chứ mình anh
làm không nổi đâu
Thằng trinh sát mới 20 tuổi hiền khô, sức dài vai
rộng, tay chân không lúc nào để yên, nhƣng tôi
đã không thể chia bớt phần ăn ít ỏi của mình cho
nó, thì cũng không thể lợi dụng lòng tốt của nó
đƣợc
- Không sao đâu, anh nghỉ khỏe rồi, nếu cần
phụ anh sẽ kêu
Rồi tôi cũng tìm ra bụi nứa, nhìn cành lá đan đặc
vào nhau thấy ớn xƣơng sống. Rồi cũng nhát rựa
vung lên, chém xuống 30 độ theo đúng sách vở,
nhƣng thân nứa bị dập chứ không đứt, vì thân
mỏng hơn, mềm hơn thân tre hay lồ ô, thân nứa
dập ra, cạnh sắc nhƣ lƣỡi dao cạo, sẵn sàng cắt
đến tận xƣơng những bàn tay quan hai tầu thủy
“nƣời nao động“
Mặt trời ngả dần trên ngọn cây, tiếng động đã
vắng hẳn, dù chỉ chặt đƣợc 1/3 số chỉ tiêu, tôi
cũng vội ra khỏi rừng vì trời tối rất nhanh. Trời
đã nhá nhem, mắt hoa lên vì đói mệt, cái ĐÓI nó
cứ bám chặt lấy cuộc sống chúng tôi, đầu óc lúc
nào cũng chỉ mơ đến củ khoai củ sắn, không
dám mơ gì to lớn hơn, nhƣ tô PHỞ chẳng hạn.
Ôi, con ngƣời mình nó hèn tới độ này sao?
62 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Đƣờng mòn quanh co, bó nứa dài ngoằng trên
vai, không cẩn thận để vƣớng phải nhánh cây
bên đƣờng là 1 thảm họa, bƣớc lui thì vƣớng
đằng sau, tiến thoái đều dở khóc dở cƣời. Vừa ra
đến cửa rừng thì thấy Phát và Thái cầm cây đuốc
lồ ô vào rừng tìm tôi, Mắt thấy cay vì cảm động
!!!
Vất bó nứa chƣa đủ tiêu chuẩn xuống, thằng tổ
trƣởng định mở miệng hạch sách, thấy tôi trừng
mắt nhìn, tay lăm lăm cái rựa, nó vội lỉnh đi chỗ
khác. Cởi bộ quần áo đẫm mồ hôi, chạy vội
xuống giếng cạn xối vài gáo cho đã, nhớ lại bài
học thƣờng thức, không nên tắm lúc đang đổ mồ
hôi và tránh nơi gió lạnh, thấy nó có vẻ “tƣ sản
mại bản” quá. Gọi là giếng nhƣng nƣớc chỉ sâu
chừng nửa thƣớc, múc đến gáo thứ nhì là nƣớc
đã đục nhƣ sữa, liếm những giọt nƣớc trắng đục
này, chợt nhớ đến những giọt sữa từ hai bầu sữa
trắng tƣơi của ngƣời vợ đang cho con bú, mà
mình đã tò mò nếm thử, những giọt sữa lạt lạt,
beo béo lúc ấy thấy ớn ớn nhƣng nếu lúc này mà
có thì … biết tay với ông!!! Ƣớc gì, ƣớc gì !!!
- Châu ơi, vợ mày lên thăm kìa
Tiếng Tùng gọi làm tôi giật mình, không biết có
đang nằm mơ, mình vừa mới “ƣớc gì” mà sao
linh quá vậy. Không biết hồi nãy mình cầu chúa
hay cầu phật !!! Ông địa cho con thiếu nải chuối,
mai mốt đƣợc thả về, con cúng nguyên quầy
Bao nhiêu mệt nhọc biến đâu mất, mặc vội quần
áo, chạy nhanh ra nhà thăm nuôi. Dù bao tháng
năm chƣa gặp, dù da em sạm đen vì dãi nắng
dầm sƣơng, tôi vẫn nhận ra ngay vợ tôi giữa
đám ngƣời lên thăm chồng, cho dù em từ cô em
Bắc kỳ nho nhỏ đã trở thành cô em gái Hậu
giang trong chiếc áo bà ba dễ thƣơng, nắm tay
kéo em ra cửa rồi lủi vào vƣờn khoai mì, trồng
ngay hàng thẳng lối, rậm nhƣ khu rừng, vừa
khuất khỏi tầm nhìn mọi ngƣời, nhƣ con hổ đói
vồ mồi, ngƣời em mềm nhũn, chỉ còn những
tiếng ú ớ không thành lời à “Thôi... Thôi anh...,
để đến tối, mấy anh chị ấy chờ ăn cơm nãy giờ
rồi”
Tiếc rẻ nhƣng cũng phải vuốt lại quần áo dìu
nhau ra khỏi rừng mì. Mọi ngƣời đang chờ
quanh mâm cơm thịnh soạn nhờ thức ăn do các
ngƣời vợ thân gái dặm trƣờng, gánh gồng đem
lên. Nồi canh rau tầu bay và dền dại nóng hổi,
nhờ có vài con tôm khô một chút bột ngọt, húp
vào nhƣ lên tiên, không 1 nhà hàng nào trên thế
giới có thể nấu ngon hơn đƣợc. Hôm nay vợ
chồng tôi đƣợc là vua và hoàng hậu, những
ngƣời bạn cùng nhóm sẽ chia nhau công việc
của ngƣời chồng, khiêng nƣớc sôi cho ngƣời vợ
tắm rửa, cơm nƣớc cho cả nhóm. Tội nghiệp cho
mấy tên độc thân, Thái lớn, Thái nhỏ và Phát,
nhƣng hình nhƣ trong các gia đình nghèo, anh
chị em thƣơng yêu đùm bọc nhau hơn, thì trong
cảnh đọa đầy này chúng tôi cũng đã yêu thƣơng,
giúp đỡ nhau với tất cả tấm lòng, không chút
tính toán, tị hiềm
Đang cƣời đùa vui vẻ thì tiếng kẻng vang lên,
tên cán bộ trực bƣớc vào, mọi ngƣời lục tục
đứng lên vào trại, còn những ngƣời có vợ lên
thăm thì lẩn vào rừng mì chờ tên cán bộ đi ra là
… mùng vợ ai, ngƣời nấy chui vào. Những tên
cán bộ này đã đƣợc chúng tôi hối lộ nên chỉ
kiểm soát lấy lệ. Thật ra họ cũng rất đáng
thƣơng, cũng phải xa gia đình để chui rúc ở xó
rừng nhƣ chúng tôi, cũng hái trộm khoai, bắp để
thêm vào khẩu phần chẳng hơn chúng tôi bao
nhiêu, nên chỉ cần kí đƣờng tán, một nhúm tôm
khô, ít bột ngọt là họ để chúng tôi đƣợc tự do
rồi.
Trên cái sạp dài, ranh giới là những cái mùng
mắc cạnh nhau, trong thiên đƣờng nhỏ bé êm ái
đó chỉ còn lại 1 ngƣời vợ, 1 ngƣời chồng, không
cần biết đến những gì chung quanh, chỉ còn em,
chỉ còn anh à Tiếng sột soạt, rúc rich vang lên,
ngƣời ngoài nghe đƣợc chắc à điên cả ngƣời.
Tiếng ngƣời đàn bà xuýt xoa:
- Ui cha, mấy cây gỗ cấn lƣng đau quá
- Anh lót 3 lớp mền rồi đó, hay là để anh
nằm dƣới, em lên trên?
- Thôi đi ông ơi, nói bậy không hà, ai mà
làm kì cục vậy
63 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Trời tối nhƣ mực, ngọn đèn dầu cũng đã tắt, chỉ
còn những tiếng thở lúc nhặt lúc khoan, những
tiếng ú ớ hoan lạc. Bỗng có ánh đèn pin loang
loáng rồi những tiếng cƣời đùa của những tên vệ
binh đi chơi khuya về nghịch ngợm rọi từ ngoài
đƣờng vào
- Ối giời ơi, toàn là những cái mông trắng hếu
kìa
Có tiếng xì xào, “nằm yên đi anh, họ thấy kì quá
hà”
- Đã vậy, ông cho tụi mày thèm chơi
Mọi ngƣời đồng tình, không cần giữ ý tứ nữa,
tiếng kẽo kẹt vang lên dồn dập, tôi không nhịn
đƣợc cƣời, mọi ngƣời bật cƣời theo, các bà thì
cấu nhéo nhƣng tôi đoán họ đang có những giây
phút buông thả, hồn nhiên
Tiếng động êm dần, mọi ngƣời chìm trong giấc
ngủ, không biết đƣợc bao lâu, cánh tay tôi tê rần
vì làm gối cho vợ. không biết mấy giờ rồi, chiếc
Sheiko 5 đã bán cho thằng bộ đội lấy tiền mua
nếp (ngƣời thƣợng không trồng gạo) ăn chung
với nhau hết từ đời nào rồi
Trăng vừa lên, tỏa ánh sáng dìu dịu soi khuôn
mặt ngƣời vợ hiền đang thiêm thiếp vì cả một
ngày vất vả nhƣng nét thỏa mãn cũng hiện lên
từng sớ thịt. Cảm thấy tiếc khoảng không gian,
khoảng thời gian quá đẹp sẽ trôi đi, tôi nhè nhẹ
ngồi dậy dựa lƣng vào vách, vấn điếu thuốc rê,
nhìn vợ ngủ, chỉ còn vài tiếng nữa thôi, em lại
trở về đời sống thƣờng nhật, bôn ba vất vả, nuôi
mẹ nuôi con, còn anh một kẻ ngã ngựa, nằm
trong rọ không lối thoát. Những lăng nhục,
những tuyên truyền trẻ con không mảy may xúc
động, nhƣng nghĩ đến cảnh 1 ngƣời đàn ông sức
dài vai rộng, phải sống bám vào đôi tay mềm,
đôi gót son, phải ngửa tay xin từng ký đƣờng,
từng gói mỳ, từng bao muối mè... Nhục nhã biết
chừng nào ! …
Tiếng gà gáy xa xa từ trong buôn Thƣợng vọng
lại, vài tiếng chim hót nhè nhẹ vang lên. Ôi, sao
một đêm bên em qua nhanh quá, chẳng bù
những đêm dài thao thức triền biên trong căn
nhà tù dƣới kia
Mặt trời chƣa lên thì đã thấy Thái, Phát khiêng
nƣớc nóng đến cho chúng tôi. Các bà bật dậy,
xấu hổ “Sao anh không đánh thức em?” Thái,
Phát cùng nói, “Không sao đâu, hôm nay các chị
là hoàng hậu mà”
Chúng tôi ngồi quanh cái bếp dã chiến, nấu nƣớc
hà thủ ô, ăn sáng bằng tô mì gói nóng hổi có vài
con tôm khô lại thêm tí hành lá nữa giời ạ. Tên
cán bộ lại xuất hiện, chúng tôi phải chia tay
nhau, bịn rịn không cầm đƣợc nƣớc mắt, biết
đâu đƣợc, đây sẽ là lần cuối, ngày mai trại sẽ di
chuyển đi chỗ khác, hay rồi những gì không hay
sẽ xẩy ra? Thân phận này đành phải chịu vậy
thôi. Mọi ngƣời thu xếp hành trang, tôi dặn riêng
Thái vài câu, rồi lẩn vào toán đi làm ở trung
đoàn để ra khỏi trạm gác của trại. Đoàn ngƣời
thăm nuôi sẽ phải đi bộ khoảng 3 cây số mới đến
ngã ba Bù gia mập, quá giang xe GMC hay
Molotova của bộ đội ra thị xã Phƣớc Bình, ở đó
mới có xe về lại Saigon. Tôi phải đi vòng sâu
trong rừng , tránh cổng gác chính ở Trung Đoàn,
chờ một lát thì đoàn ngƣời thăm nuôi mới đi
đến, vợ tôi giật mình khi thấy tôi từ trong bụi
bƣớc ra, anh muốn đƣợc đƣa em đi thêm 1 đoạn
đƣờng nữa, vợ tôi mừng vì cảm động - nhƣng sợ
lỡ bị cán bộ bắt đƣợc?- tôi trấn an “Không sao
đâu, đây cũng là đƣờng anh đi lao động mà”,
biết tôi nói dối, nhƣng chúng tôi cùng lặng yên
không nói thêm, chỉ nắm chặt tay nhau
“Đƣợc ở bên em thêm vài phút, đƣợc chia xẻ với
em 1 đoạn đƣờng là hạnh phúc rồi, sau đó những
hình phạt, đánh đập, nhốt hầm tối, thì cũng chỉ
là cái giá phải trả, phải không em yêu?”
Cuối cùng cũng “đẩy” đƣợc em lên chiếc GMC
chật cứng. Chỉ vài tiếng đồng hồ nữa, em và các
bạn trở về kiếp sống loài ngƣời, còn anh lủi thủi,
bƣớc vào lại trong vòng rào, ngoan ngoãn nhƣ
bầy gia súc , chẳng biết tƣơng lai sẽ về đâu!
Con đƣờng trở lại trại vắng tanh, gập ghềnh
khúc khuỷu, hơi lầy lội vì những cơn mƣa trƣớc
đó mấy ngày, bỗng có tên bộ đội đi ngƣợc
64 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
chiều, tôi bèn tỉnh bơ nhƣ ngƣời Hà lội chào
trƣớc: “Anh đi công tác mới về?”. Chết mẹ, nó
từ trong trại đi ra mà hỏi câu vô duyên, trật
đƣờng rầy, may quá nó cũng chẳng để ý: “Bây
giờ mới đi đây, chán bỏ mẹ, đi bộ dạc cả ngƣời“
Đƣờng xa thăm thẳm vắng tanh, dần dần cũng
thấy teo, ngày xƣa ở Phú quốc có tên tù VC nào
dám khơi khơi đi trên đƣờng nhƣ mình bây giờ
đâu, lỡ gặp thằng vệ binh nào nó nghi mình trốn
trại, không bị bắn bỏ thì cũng ốm đòn với chúng.
Định đi lẩn vào trong rừng, nhƣng lại thôi, lần
trƣớc lần mò trong rừng, trốn ra “thƣơng
nghiệp” mua đƣợc ít cá khô, lúc về bị thằng
thƣợng cộng không rành tiếng Việt, dí M-16 vào
đầu: “Chốn chại ? chốn chại?”, miệng nó lắp
bắp, tay run run, chỉ sợ nó lỡ tay, xém tè ra
quần, sau 1 hồi quơ tay quơ chân giải thích,
không biết nó có hiểu gì không mà lại tha cho đi,
không bị trói giải giao về trại, sợ quá quên cả
phƣơng hƣớng, đi lạc tới trại con nhà Hợp lãi,
chàng ca cải lƣơng:
- Ngày xƣa New York, San Francisco, bơ
thừa sữa cặn, bây giờ ngồi trong rừng chia
nhau con cá khô bằng cái à đầu buồi thằng
con tao
Rồi may mắn, tôi cũng về đến chỗ phe ta đang
chém tre đẵn gỗ trên ngàn, nhờ anh em nên mọi
việc diễn ra êm đẹp, cặp mắt cú vọ của thằng tổ
trƣởng cũng không biết tôi mất tích nửa ngày
trời, cám ơn các bạn tôi ơi. Giờ này chắc vợ
chúng tôi đã ra đến thị xã, nếu mọi việc êm đẹp
thì sẽ có mặt ở Saigon chiều tối nay
Chiều đến, đoàn ngƣời mệt nhọc bƣớc những
bƣớc nặng nề về lại à chuồng, Cơm xong, sau
hơn 1 ngày quá nhiều phi vụ, thân thể rã rời, vừa
ngả lƣng nhắm mắt chờ họp tổ, lại vỗ tay nhƣ
những đứa trẻ con nghêu ngao: “Nhƣ có boác
Hè trong nhà thƣơng Chợ quán à” mở đầu cho
những phê bình kiểm thảo, rút ƣu khuyết điểm
trong ngày, hay nói cho dễ hiểu là “đấu tố” nhau
thì:
- Anh Châu là anh nào?
Giật mình mở mắt ra thì 1 tên lạ hoắc, thẩy con
gà còn sống nhăn lên ngƣời:
- Vợ anh không đón xe về Saigon đƣợc, nên
theo vợ tôi trốn vào trại lại
Chƣa kịp nói tiếng nào thì nó đã quay lƣng đi,
sau này mới biết nó là Phiên BĐQ, đang ở S.J.,
2 vợ chồng nó cùng hơn 10 anh em khác từ khắp
nơi đã đến với chúng tôi trong buổi tiệc Đoàn tụ
của GĐ Phƣớc Long 3136 tại Houston. Mừng
Xuân mà chúng tôi nƣớc mắt nhiều hơn tiếng
cƣời, thật không thể tƣởng tƣợng đƣợc, nhƣ 1
giấc mơ. những con ngƣời đã từng cùng ở một
nơi tận cùng của cuộc sống, 30 năm sau lại có
thể gặp nhau trên miền đất hứa xa xôi này.
Thằng Phát nhanh nhẩu, để tao nấu nồi cháo gà
cho vua và hoàng hậu bồi dƣỡng. chiến đấu...
hiệp hai. Tôi nhắm mắt bật ngửa ra giƣờng
- Chết cha rồi, đã hơn 30 tiếng đồng hồ gần
nhƣ thức trắng, không biết có sống sót nổi
đêm nay không?
Huy Châu (Ti-Tu) Canh Dần 2010
65 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
thú Vuä Hoaâng Thû
nhớ
thấy lưng nhớ mặt yếm hồng
mồ hôi lăn giọt ngực nồng nàn thơm
có vai tròn trịa nỗi hờn
vẽ tôi vũng tối hạt tròn lệ trông
có em rủ hạ về hồng
tôi yên ngủ nắng khi nồng ngày lên
có em gió ghé về bên
tơ đàn hương muội cùng mênh mông chiều
chờ mưa
chờ nhau
mưa gội ngửa lòng
giọt rơi lũng khép
giọt vòng ngực nâng
vực tôi
mộng chín đã gần
mưa trần truồng
dội
những cần thiết em
cửa
cửa kia đóng lại cõi ngoài
từ trong dấu tím da hoài thịt da
người trăm năm mộng sa đà
tôi soi dấu mực tịch tà cửa không
66 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
hồ nghi
tìm nhau
còn chút hồ nghi
ở tôi
bỗng chạm
xuân thì rất em
tìm nhau
tay níu giữa đêm
ở em
có gặp
biển ghềnh rất tôi ?
gặp
tìm em
gió dữ
mộng dài
dấu
trong mắt bão
hình hài lặng thinh
tìm em
ngụ
ở bóng mình
vừa khi ngoảnh lại
chợt thình lình em
mây
em về ta chẳng bước
nhưng
đứng yên
không hẳn đã dừng lại đây
đôi khi như
đợi chốn nầy
thật ra
nhìn
gió
và
mây
vẫn thường
mưa
giọt rơi rỉ rả mưa nguồn
em ngồi thư thái không buồn hôm nay
giọt lăn lũ trận mưa bay
em về khuê dạng theo ngày tựa lưng
Vũ Hoàng Thư
67 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
haânh trònh vïì vúái... mònh
Hoàng Quốc Việt
Tôi xa Chùa nhƣng rất gần Phật... trong
internet! Thƣ Viện Hoa Sen, Đạo Phật Ngày
Nay, Làng Mai...v.v... một rừng kinh điển, tha
hồ mà tu... hàm thụ, tập... an tâm... trong đó...
một mình... pháp môn thứ tám mƣơi bốn ngàn...
lẻ một... mới nhất... mới xuất hiện mới đây... ở
thời mạc pháp này!
Thật ra tôi biết Phật từ lúc chƣa hiểu Phật là gì,
tiếp cận với khổ đau nhiều quá, trải nghiệm
chính đời mình với khổ đau nhiều quá nên làm
quen với Phật lúc nào không hay... nhƣ ngƣời ở
cạnh dòng sông... biết lội... giản dị... thế thôi!
Đời không có khổ thì không đời nào có Phật,
có Chùa... nhƣ đời không có
ốm đau bệnh tật thì không bao
giờ có thầy thuốc, nhà thƣơng!
Có cái này mới có cái kia,
không có cái kia thì chắc chắn
phải thiếu cái này, nó tƣơng
tức, tƣơng hợp nhau, nhƣ ngày
với đêm, nhƣ vợ với chồng,
nhƣ mẹ với con!
Hai tuần trong Cuộc Cảnh Sát
Quốc Gia quận Nhì, ba tháng trong Cục An
Ninh Quân Đội, sáu năm lính biển, ba năm cải
tạo, năm rƣởi cúp cua trốn học... làm...
Papillon... vƣợt... vòng trong tù ngụy, vòng
ngoài tù dân... ra... biển... tìm sự sống... trong cái
chết!... Chạy xịch khói đen tránh đạn AK Công
An Biên Phòng rƣợt đuổi bắn theo bắt lại, ghe
bầu mà ra biển là lộ dạng... vƣợt biên liền... [xui
xẻo chạy không kịp bị bắt trở lại trắng tay sạch
túi thì thành Việt gian phản quốc, may mắn chạy
thoát đem ''đô''trở về thì thành Việt kiều yêu
nƣớc... sống chết, ngục tù, tự do, phản quốc, yêu
nƣớc... cách nhau trong gang tấc... hên xui may
rủi... đó... mà thôi! Bạn tôi bất hạnh hơn, ghe bị
bắn trúng ngay can xăng, nó nhờ nhảy xuống
biển nên thoát chết... cháy, hầu hết hành khách
trên đó đều chết cháy chớ không phải chết chìm,
trong đó có vợ con nó! ]... tay không tử chiến hải
tặc Thái Lan... chiến thắng... chiếm chiến lợi
phẩm tiếp tục cuộc hành trình... máu và nƣớc
mắt... trốn chạy kẻ thù mới trên biển đuổi bám
theo nhƣ bóng với hình trong đêm... tới đảo...
ghe chết máy... tàu Thái xuất hiện... hải chiến...
hãi hùng... hàng chết, chống sống... một đƣờng
binh... rồi... buông thả buông xuôi cuộc đời cho
sóng nƣớc đại dƣơng đẩy đƣa... lênh đênh trôi
dạt nửa tháng trời trên biển... thấm thía nghĩa
đen hai chữ '' trôi nổi '' tận cùng thân tâm... tàu
vô nƣớc, nghiêng về một bên... muốn trôi... phải
nổi... muốn nổi... phải tát nƣớc... ngày đêm
không lúc nào ngƣng... với cái bụng không có
hột cơm trong đó... trong mƣa gió... qua xích
đạo... đối diện chết đói, chết khát, chết chìm... để
tìm...Tự Do! Đến lúc sắp từ giã cõi đời vào lòng
biển lạ... sắp thấu hiểu chuyện đời có qua có lại,
có trả có vay... kiến ăn cá, cá ăn kiến... là thế
nào... thì... tàu vớt! Ra đi trên ghe bầu... Việt,
vớt lên từ ghe biển...Thái, đến bờ tự do bằng tàu
68 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
sắt... Anh... bao nhiêu đó cũng đủ cho tôi thấy
đời là... bể khổ... lẩn... mầu nhiệm... nhƣ Phật!
Tôi hứng đủ hai lằng đạn, hƣởng trọn mọi thú
„‟đau thƣơng‟‟trần đời, từ đất liền đến biển khơi,
từ trong lòng ra ngoài đời, từ thất tình tới thất...
trận! Sống trong khổ phải tìm cách giải khổ...
một mình... không nhìn trời cao than van xin
xỏ... vì... đã làm điều đó nhiều lần rồi nhƣng có
đƣợc gì đâu! Tôi đã từng ôm đàn nghêu ngao...
cầu may... nhƣ dế mèn rền rĩ trong đêm, với cả
tấm lòng thành, không biết bao nhiêu lần mà kể,
buông đàn thì ca thầm trong bụng... nhƣ kinh
nhật tụng... câu ca bất hủ của Phạm Duy... „‟Con
quỳ lạy Chúa trên trời, sao cho con lấy... đƣợc
ngƣời con yêu‟‟... là... con bỏ Phật theo Chúa
liền, không chút đắn đo! Nhƣng có bao giờ đƣợc
đâu, ngƣời con yêu đâu chịu yêu con mặc dù cả
nhà nàng... từ cha nàng, mẹ nàng đến anh nàng,
em nàng... đều cảm tình với con! Lúc đó khổ
quá, con chỉ biết ''chữa trị'' vết thƣơng lòng bằng
thuốc... lá, rƣợu cay! Khi tỉnh rƣợu, lúc tàn
canh... giật mình mình lại thƣơng mình xót xa...
cũng biết lấy cái đầu nói với con tim... ngƣời ấy
không yêu mày thì mày đừng yêu ngƣời ấy lại,
ráng quên ngƣời ấy đi... cho đỡ khổ! Nhƣng
không phải dễ...vì... ngƣời ơi... khi cố quên là
lúc lòng mình nhớ thêm! Cứ thế... hết... xin tha
lực... con quỳ lạy Chúa trên trời... đến... sài tự
lực... làm sao giết đƣợc ngƣời trong mộng... hai
mặt giáp công... nhƣng khổ vẩn hoàn khổ... vì...
tim con... yêu ai yêu chỉ một ngƣời mà thôi...
mới chết! Nếu mà, phải chi, nó chịu yêu ai khác
thì đỡ biết mấy, đằng này, nó chỉ thƣơng... Hoa
Sim Tím chớ không chịu yêu... Hoa Trinh Nữ...
mới độc! Sau cùng nhờ niềm đau mới... thất
trận... thay thế... mới tống khứ đi đƣợc nỗi khổ...
thất tình... ra khỏi lòng mình! Nhƣ ngƣời đắm
tàu trên biển... đƣợc ôm phao nổi trôi theo sóng
nƣớc đại dƣơng chờ tàu tới vớt là nhất trên đời
rồi... chớ đời nào dám đèo bồng ƣớc ao... có
ngƣời yêu bên cạnh... để ôm... cho sƣớng! Lúc
đó mới thấy... ôm phao... sƣớng hơn... ôm đào...
nhiều!!! Thế là thoát đƣợc khổ nạn thất tình...
nhờ... „‟thay chốt‟‟... thất trận... một pháp môn
của Phật... lấy độc trị độc... lấy đắng trị đau...
khỏe re nhƣ bò kéo xe!
Sau đó cũng rút ra đƣợc một bài học... hay...
là... thƣơng ngƣời thƣơng mình... đỡ khổ hơn...
thƣơng ngƣời mình thƣơng, lấy ngƣời yêu con...
đỡ lỗ hơn... lấy ngƣời con yêu...vì... yêu
thƣơng... hệ lụy... vƣớng vào chỉ khổ với lỗ mà
thôi... đƣờng vào tình yêu có trăm lần vui có vạn
lần sầu... lời chỗ nào!
Phải hay và hên lắm mới vƣợt thoát đƣợc biển
khổ kể trên, biết bao bạn bè tôi đã bỏ mình trên
mặt trận chiến đấu, trên đƣờng vƣợt ngục, trên
biển vƣợt biên! Tôi may mắn nhƣ Papillon, đƣợc
tồn tại kể lại chuyện mình, nghỉ lại cũng... hú
vía, rùng mình!
Những lúc suy tƣ, ôn lại chuyện củ, nghiệm
lại chuyện đã qua, ngƣợc thời gian trở về quá
khứ, phân tích''tƣ tƣởng chỉ đạo hành động''của
riêng mình để vƣợt thoát khổ đau rồi nghiệm lại
kinh điển Phật đang đọc trong mắt thấy nó có
sẵn hết trong đó rồi, không phải mới có đây mà
trên hai ngàn năm trăm năm nay lận! Ông Phật
hay quá, giỏi quá, rành sáu câu về khổ, giải khổ,
nhƣ đi guốc trong bụng mình, không phải ngoài
da, đói cho ăn, khát cho uống, mà tận cùng rốt
ráo, thoát vòng sanh tử luân hồi mới độc, phù
hợp mọi căn cơ, tầng lớp, từ mù chữ thất học tới
bác học thông thái... Albert Einstein... cũng công
nhận:''If there is any religion that would cope
with modern scientific needs it would be
Buddhism''... „‟Nếu có một tôn giáo nào đƣơng
đầu đƣợc với những nhu cầu khoa học tân tiến
thì đó là Phật Giáo‟‟.
Phật không phải là thần thánh mặc dù cuộc
đời Phật nhƣ một thần thoại... có thật... có một
không hai trên cõi đời này!
Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẻ
thành! Phật không ích kỷ khôn vặt nhƣ lẽ đời
thƣờng... thà cho vàng cũng không chỉ đàng đi
buôn... độc quyền làm Phật... ngƣợc lại còn hết
lòng chỉ dẫn... „‟nguyện đem công đức này,
hƣớng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh, đều
69 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
trọn thành Phật đạo‟‟... cho vui vẻ cả làng!
Không một tôn giáo nào trên cõi đời này có
chuyện bình đẳng cao thƣợng này cả! Phật rất
khiêm hạ, là ngƣời nhƣ ta, chỉ khác ta ở chỗ...
nếu ta là Hoàng tử thì chắc chắn trăm phần trăm
ta sẽ làm nhƣ... Ta... lên làm Hoàng Đế, hƣởng
thụ sung sƣớng, sống đời đế vƣơng, cung vàng
điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, giàu sang phú
quý, kẻ hầu ngƣời hạ, kẻ bẩm ngƣời tâu... vạn
tuế, vạn vạn tuế... chớ không đời nào chịu làm
nhƣ... Phật... xuống làm Khất Sĩ, bỏ đi ăn xin,
sống đời khổ hạnh, màn trời chiếu đất, tìm
đƣờng tu học, cứu độ chúng sanh! Nhƣng mấy
ngàn năm sau thì vị hoàng đế kia là vô nhân, còn
ngƣời ăn mày nọ lại là vĩ nhân thế giới, một trời
một vực, mới thấy trí tuệ nhƣ hải của Phật là
vậy!
Phật pháp là Thế gian pháp, do cuộc sống đời
thƣờng mà ra chớ không phải từ trời rơi
xuống,„‟mạc khải‟‟ xuống, phải dựa hơi Thần
Học... có óc Thần Thánh... biến... Thần Thoại
thành Thần Thiệt... có mắt Thần Thông... nhìn
chuyện... cắt ké là mẹ kỳ nhông, kỳ nhông là
ông kỳ đà, kỳ đà là cha cắt ké... cũng thông
luôn... không kỳ cục, kỳ quái... bảo chứng, bao
che... là... không sai lầm!
Triết lý khổ, không, vô thƣờng, vô ngã, duyên
khởi, nhân quả, luân hồi, tứ diệu đế, bát chánh
đạo... vẩn trƣờng tồn với thời gian, không lỗi
thời, không kỵ khoa học lật tẩy nói chuyện trên
trời dƣới đất không có căn. Ngƣợc lại còn phù
hợp với tiến hóa nhân loại, nói có sách, mách có
chứng, càng tìm hiểu càng thấy hay, không chỗ
nào chê... hết! Nhƣ... chân lý... rất đời và rất
ngƣời... cao siêu thâm diệu, phong phú bao la,
trùng trùng duyên khởi, nhỏ không trong mà lớn
cũng không ngoài, mầu nhiệm nhƣng không
hoang tƣởng, đọc đi đọc lại, đọc hoài đọc mãi
cũng không hết... hay! Bởi vậy mới đƣợc Liên
Hiệp Quốc công nhận là một đạo đem lại hòa
bình an lạc, an toàn xa lộ nhất thế gian này, chạy
trên hai ngàn năm trăm năm nay không tốn hao
một giọt máu!
Tìm về Phật là tìm về... Mình... của Chân
Thiện Mỹ, của Nhân Chi Sơ Tánh Bổn Thiện...
mở mắt chào đời trong Birthdaysuit... trần trụi,
trong trắng, ngây thơ, thánh thiện, mọi chuyện...
ne pas... tánh không cùng mình... không buồn,
không vui, không thƣơng, không ghét, không lo,
không sợ... rồi... mặc áo đời... nhiễm bụi đời...
Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Kiến, Chấp... nguồn
gốc mọi tội lỗi khổ đau... mà thành Ngƣời Ta
ngày nay... Thạch Sanh thời ít Lý Thông lại
nhiều... Thiện Ác phân tranh... có khi... Ác chết
rồi Thiện lại... ác hơn... (thơ Vũ Phán)... mới
khiếp! Cứ thế mà tội lỗi nối tiếp... ích kỷ hại
Nhân, hại Đời, hại Trời, hại Đất, hại Nƣớc...
theo đúng nghĩa đen của nó... quả địa cầu, bầu
khí quyển này... môi trƣờng sinh sống của mọi
loài chúng sanh, cây cỏ... vô minh không chỗ
nói! Thiên tai động đất, sóng thần, hạn hán, lũ
lụt... giết hại con ngƣời không thấm vào đâu
với... Nhân tai... World War, Crusades... Thế
chiến, Thánh chiến... con ngƣời tàn sát con
ngƣời... ngu xuẩn hết chỗ bàn!
Cũng may... còn có Phật... không sát sanh...
con sâu cái kiến cũng không nở sát hại nói chi
con ngƣời... và... Phật tánh có sẵn trong ta... nhƣ
trăng trên trời... mây tan trăng hiện, nƣớc lặng
trăng lên, thở thiền tâm tịnh!
Phật trong ta, trăng trên trời, tƣơng quan nhau
vậy đó, có trong nhau vậy đó, không thấy là bị
mây vô minh che lấp mà thôi, lúc nào cũng ở đó,
„‟thức‟‟ là thấy liền! Khó mà dễ, dễ mà khó, xa
mà gần, gần mà xa, thấy vậy không phải vậy...
mà là vậy... nhƣ... chân nhƣ nó là... theo tam
đoạn luận... Phật là tỉnh thức giác ngộ, Ta tỉnh
thức giác ngộ giây phút nào...thì... Ta là Phật
giây phút đó!
Phật không xa, ở ngay trong ta là vậy! Nhƣng
phàm phu tục tử lòng tham vô đáy nhƣ Ta... làm
Hoàng Đế muốn vạn tuế, làm Tổng Thống muốn
muôn năm, đƣợc giàu sang muốn muôn đời...
không hiểu có làm Phật ba mƣơi giây đƣợc
không? Chắc chắn không đời nào chịu theo vô
thƣờng, vô ngã... xuống... khi đang trên đó!
70 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Bằng mọi giá sẻ theo lẽ thƣờng... còn nƣớc còn
tát... bám ngôi, giữ của đến hơi thở cuối cùng
mới buông thì làm sao ngộ đƣợc chân lý đó...
một giây... nói chi ba mƣơi giây... nhiều quá!
Trở về với Phật là trở về với hiện tại trong
tỉnh thức! Có điều ''thức'' hăm bốn trên hăm bốn
suốt đời nhƣ Phật thì công phu vô cùng, bản lĩnh
phi thƣờng lắm mới thức mãi nhƣ thế đƣợc, hở
ra một chút là ''ngủ'' ngay, quá khứ, tƣơng lai,
tạp niệm kéo tới, cơm, áo, gạo, tiền làm chủ
mình liền... Chiến thắng vĩ đại nhất không phải
chiến thắng địch quân mà là chiến thắng chính
mình! Dễ dầu gì sáu mƣơi năm cuộc đời mà
chịu... về vƣờn... vui vẻ...
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu... nhƣ
Nguyễn công Trứ!
Phật là ngón tay chỉ mặt trăng, là vị thầy đƣa
đƣờng dẫn lối cho ta về bến giác, nhƣng phải do
chính ta lội qua sông mê đó, chớ Phật không lội
giùm ta đƣợc!
Theo Phật là tự lực cánh sinh, là tự mình cứu
rỗi đời mình! Nhƣ ta ăn cho ta no, ta thở cho ta
sống, ta đi cho ta đến vậy, không ai có thể làm
chuyện đó cho mình đƣợc! Nhờ tha lực... đi
bằng xe lăn, ăn bằng ống dẫn, thở bằng
machine... không phải cực lạc mà là cực... khổ!
Tôn giáo là vấn đề nhậy cảm, nhƣ chánh trị
vậy, dễ đụng chạm... sự thật... mất lòng! Đƣợc
này, mất kia, đƣợc bên phải, mất bên trái, nhức
tim, ở sao cho vừa lòng ngƣời, ở rộng ngƣời
cƣời, ở hẹp ngƣời chê, thế gian pháp cũng nói
nhƣ vậy! Nhƣng sự thật vẫn là sự thật, vàng là
vàng, thau là thau, thiện là thiện, ác là ác, đâu ra
đó, chớ không thể mập mờ đánh lận con đen,
vàng thau lẫn lộn, thiện ác nhƣ nhau, cá mè một
lứa mãi đƣợc! Bởi vậy muốn đi tới Sự Thật chỉ
còn nƣớc vƣợt lề... Đúng Sai Phải Trái... mà đi...
mới mong tới đó đƣợc! Thị phi nhƣ hạt sƣơng
rơi đầu cành! Phải trái nhƣ... sấu đẹp... tùy ngƣời
đối diện! Bên Anh ôm trái mà chạy là... phải...
Cảnh Sát Anh cho đi, qua Mỹ mà chạy nhƣ vậy
là... trái... Cảnh Sát Mỹ chận lại! Hỏi bên nào
đúng bên nào sai thì bên nào cũng đúng hết,
không bên nào sai cả, còn tuyệt vời nửa là khác,
xe không ''head on''đụng đầu nhau gây tai nạn
chết ngƣời thảm khốc là đƣợc rồi! Đạo cũng
vậy, có nó mà... Bình An dƣới thế cho ngƣời
lòng ngay... là hay lắm rồi, đẹp đạo tốt đời quá
trời, còn mơ ƣớc gì hơn nửa, đúng là Đạo Cả!
Chớ có nó mà có crusades, có suicide bombs, có
nine eleven... mạng ngƣời lá rụng, máu đổ thịt
rơi, ngƣời giết ngƣời không gớm tay... thì chắc
chắn hệ thống ''thƣơng'' có vấn đề, chất ''thù'' dẫy
đầy trong đó nên mới sát nhau tàn bạo dã man
nhƣ thế! Có còn hơn không... phải ca ngƣợc lại...
không còn hơn có... thì hay hơn nhiều... mới thật
sự là number one... Top of the pops... của ngƣời
Thiện Tâm!
Viết về đạo là tìm đƣờng gai gốc mà đi,
nhƣng tôi cứ đi... ra khơi mênh mông gió mƣa
sóng ta không sờn... là vì tôi thấy chân trời...
Chân Thiện Mỹ ở đó, sau sáu mƣơi năm cuộc
đời, một đạo cứu khổ song hành với một đời bể
khổ theo kinh nghiệm trải qua chớ không phải
theo kinh điển đọc đƣợc! Với lại, ca tụng một
ngƣời Từ Bi Trí Tuệ nhƣ Hải nhƣ Phật mà cảm
thấy nhƣ ca... Lòng Mẹ bao la nhƣ biển Thái
Bình dạt dào... hay ngâm... hôm nay đi chùa
Hƣơng hoa cỏ mờ hơi sƣơng... hay nghe... tiếng
chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xƣơng... la đà
ngân nga trên dòng Hƣơng Giang hiền hòa tình
tự, tỉnh lặng lửng lơ... nhƣ đang... Thiền Trôi...
cùng mây... đáy nƣớc... mà tƣởng chừng đƣợc
trầm mình xuống đó là... lên trời... không cần
trầm tƣ cũng mặc tƣởng đƣợc...
Mái chùa che chở hồn Dân Tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ Tiên
... thì ngại ngùng gì mà không bản lãnh đại
trƣợng phu... Thiền Viết... ghi lại Thiền Vị...
một chiều lang thang bên dòng Hƣơng Giang tôi
gặp một tà áo tím nhẹ thấp thoáng trong gió
bay... bên dòng Hƣơng Giang... trong mắt... chớ
không phải Hƣơng Giang trong lời, lần đầu tiên
trong đời mới gặp!
71 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Tôi đã sờ đƣợc Hƣơng Giang của Thần kinh
thƣơng nhợ trong lòng dân Huệ, cạm đƣợc...
chiếc nọn bài thơ... che mạt luôn đƣợc lòng dân
Huệ chớ không phải che nặng che mƣa không
thôi, đội lên đầu mà mát cả thân tâm!
Đạo Phật là đạo... thật, cái gì có trong đời
đều có trong đạo... một nửa... vì... trong Phật chỉ
có thiện chớ không có ác, có thƣơng chớ không
có thù! Đọc cả rừng kinh điển của Phật tuyệt đối
không bao giờ thấy có chuyện Phật... Tarzan nổi
giận trƣớc những ai không tuân phục mình, nói
chi đòi đem họ ra trƣớc mặt mình giết đi cho hả
giận hay đem lên giàn hỏa thiêu sống cho bõ
ghét, ngƣợc lại còn khuyên bảo nên tìm hiểu cặn
kẽ trƣớc khi tin... „‟Tin ta mà không hiểu ta là
phỉ báng ta vậy‟‟!
Biển chỉ có một vị duy nhất là mặn, Phật cũng
chỉ có một vị duy nhất là giải thoát! Nhƣng
muốn nếm vị giải thoát đó mà chỉ đọc giáo lý
không thôi thì chƣa đủ, chỉ mới là Học Giả, chƣa
thật, nhƣ ca Hƣơng Giang trong lời chứ chƣa sờ
đƣợc Hƣơng Giang trong mắt! Làm thế cũng
không khác gì lái tàu trên hải đồ trong giờ
Navigation, biết phở trong sách dậy nấu ăn của
bà Quốc Việt, window shooping trong shopping
center ngày cuối tuần! Biết Hàng Hải nhƣ thế
cũng chỉ nhƣ cuốn sách Duton Navigation mà
thôi, chƣa biết biển là gì! Ba Mƣơi Tháng Tƣ ở
lại nếu không có HO là... ở luôn... không tài nào
dám làm tài công lái ghe vƣợt biên„‟chui‟‟ ra
khơi làm lại cuộc đời! Đêm tối bao la, không
biết cỡi sóng mà cởi cồn, vén đáy, lèo lái con tàu
không đến bến bờ tự do mà đƣa đời mình và đời
ngƣời khác từ tù ngoài vào tù trong thì khốn nạn
cuộc đời liền, không ăn dao hành khách cũng ăn
đòn công an! Phải chính mình lái tàu ra khơi vật
lộn với sóng gió đại dƣơng mới biết tấm lòng
của biển... bao la... nhƣng... chí công vô tƣ, vô
tình vô cảm, bạc bẽo phũ phàng! Yếu đuối nhu
nhƣợc, lƣớt sóng không nổi, lủi sóng không
xong, ngóc đầu không đƣợc... là đánh cho
chìm... chớ không đời nào có chuyện nhân đạo
khoan hồng... đồ dễ vở xin nhẹ tay! Mới hay tâm
tình Captain và Biển Cả... ''Magister Post dium,
Master Under God''... trên trời dƣới ta... hồn ai
nấy giữ... bảo nổi lên rồi là chỉ có việc đem mặt
lỳ ra trơ gan cùng sóng gió, vững tay thì nổi,
vụng tay thì chìm, chớ không có chuyện chấp
tay quỳ lạy... trời yên bể lặng mới yên tấm lòng!
Ra khơi, biết mặt đại dƣơng, biết trời mênh
mông, biết đời viển vông, biết ta hãi hùng... là
vậy! Cũng vậy, phải vào tiệm phở, phải vô cửa
hàng, ăn vào miệng, mặc vào ngƣời, mới biết
đƣợc ăn ngon mặc đẹp hấp dẫn ra sao! Cũng thế,
phải làm Hành Giả trải nghiệm đời mình nơi cửa
Không mới nếm đƣợc đạo vị giải thoát đó, cũng
nhƣ phải lái tàu ra khơi mới tới đƣợc bến bờ bên
kia chớ cứ lái tàu chở khách chạy tới chạy lui
trên sông cho khách xem tàu rồi về bến cột thì
đến tết Congo cũng không nếm đƣợc vị giải
thoát, tự do! Nhƣ ngƣời quanh quẩn ở nhà với
mẹ suốt đời thì làm sao thấu hiểu mấy chữ ''xa
quê hƣơng nhớ mẹ hiền'' xâm trên cánh tay
ngƣời lính trận bụi đời phong sƣơng! Phải bèo
dạt mây trôi, giang hồ đây đó, đất khách quê
ngƣời, lạc loài viễn xứ, nhớ thƣơng quê nhà...
cây đa bến cũ, con đò năm xƣa... mới thấy Đông
Tây gặp nhau ở chỗ... No place like home, Ta về
ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao nhà vẩn hơn...
là chuyện thƣờng tình, đƣơng nhiên... nhƣ...
nƣớc chảy về nguồn, máu chảy về tim, chim bay
về tổ! Cũng nhƣ xƣa kia làm lính trận, mãn công
tác rời vùng hành quân lái tàu về hai lần Charly
thấy mấy cây ăn ten căn cứ thấp thoáng nhô cao
từ xa là mở cờ trong bụng, phơi phới cõi lòng,
bốc máy báo phòng hành quân ngắn gọn hai
chữ... Victor Sierra... rồi... cúp máy... cởi bỏ áo
giáp nón sắt ra... bao trùm súng ống lại... thở
phào nhẹ nhõm... biết mình... sống nay... làm
ngƣời Vô Sự... chiều nay... may hơn ngƣời vừa
nằm xuống... chiều qua! Lính vị là thế, dính liền
với sinh mạng mình! Đạo vị thì nhẹ và mỏng
hơn nhiều, dính với hơi thở... nhƣng phải là hơi
thở ý thức... thở vào biết mình đang thở vào, thở
ra biết mình đang thở ra... mới là... thở! Lính vị
và đạo vị giống nhau chỗ đó... ý thức đƣợc sự
72 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
sống mầu nhiệm chỉ có trong giây phút hiện tại
này mà thôi... nhƣng lính vị do vào sinh ra tử,
sống nay chết mai mà tỉnh thức, còn đạo vị nhờ
tụng kinh gõ mõ, thiền quán tu tập mà giác
ngộ... nƣơng theo hơi thở nhƣ ôm bè chuối xuôi
dòng sông mê trôi ra biển giác!
Cửa chùa rộng mở, là cửa Không... cửa... nên
tùy mình, tùy duyên mới thấy ngõ vào! Hè qua,
2009, một ngọn gió ''vô thƣờng'' bên đƣờng đả
thổi tôi đến cửa không cửa đó... vào hải đảo tự
thân...„‟tiểu kỳ‟‟con tàu trầm luân bể khổ của
mình một tuần, tu bổ lại tâm cang đang động
mạnh vì „‟trúng gió‟‟chƣớng đó! Đúng là duyên
kỳ ngộ... sáu mƣơi năm cuộc đời! Bên Anh có
cái này không biết hay hay dở là đúng 60 tuổi là
thấy mình già liền mặc dù đang làm việc lƣơng
cao vì nhận giấy tờ gởi tới nhắc nhở điền vào
gởi đi để hƣởng tiền sƣởi mùa đông cho ấm, đi
xe công cộng free cho đỡ tốn tiền... làm đồ dễ bể
xin nhẹ tay lúc đổi đời từ hƣởng dƣơng sang
hƣởng thọ! Bởi vậy, đúng ngày sinh nhật là tôi
ra Post Office làm giấy đi xe chùa liền, có
freedompass trong tay là nhảy lên xe buýt hƣởng
Happy Birthday 60 ngay! Không cần định đi
đâu, xe tới là nhảy lên, tới nơi không cần biết tới
đâu là nhẩy xuống nhẩy lên xe khác, cứ thế tha
hồ lên xuống, ngắm cảnh vô tƣ ... nhìn mà
không thấy... thả hồn đi hoang theo em... ơi có
bao nhiêu sáu mƣơi năm cuộc đời... mới đó mà
đã tới thiệt rồi... trên đƣờng phố lạ... bên kia
đƣờng một đôi teenage nắm tay nhau dung dăng
dung dẻ trên phố thƣa ngƣời trông thật dễ
thƣơng... nhƣng không dễ chịu chút nào... khi lọt
vào mắt... còn ngồi bậc dậy nhƣ bị điện giựt, vặn
mình ngoáy cổ vói nhìn theo nhƣ muốn chụp lại
hình ảnh vừa thoáng qua trong mắt, bật miệng
thành lời: trời, con Hằng... con mình... có boy
frient... rõ ràng... trong thực tại mắt sáng chớ
không phải trong mộng mơ mắt mờ! Thế là hết
happy birthday, thế là động tâm từ đó về nhà...
báo tin ''động trời'' cho bà xã động phụ! Đông
Tây... Hai phƣơng trời cách biệt là thế!!!
Hoàng Quốc Việt
Tình vô vọng
Đêm nay nghe tình vô vọng
Nghe tình yêu nói dỗi hờn
Ta đứng chờ em cuối ngõ
Thời gian từng nỗi cô đơn
Ta vãn chờ đợi em
Đèn đêm chiếu bên thềm
Ta yêu em tình lận đận
Mình ta mòn mỏi trong đêm
Có phải em về đêm nay
Chờ em cuối phố hao gầy
Ta yêu em tình lận đận
Chiều xƣa thấp thoáng mây
bay
Có phải em là loài hoa
Chờ ta cuối nẻo mong chờ
Ta trót yêu em tình lỡ
Nghe tình yêu chết dại khờ
Ta muốn nói lời yêu em
Mình ta chờ đợi bên thềm
Em đến không ta không biết
Mình ta thờ thẫn trong đêm
Tên những nẻo đƣờng tịch
liêu
Mình ta chờ đợi nƣơng chiều
Bao giờ thì ta gặp lại
Để ta bày tỏ tình yêu
Có phải em từ Liêu Trai
Hay em là Liễu Chƣơng Đài
Yêu em tình ta mòn mỏi
Nhớ em tình bỗng chơi vơi
Một lời nói yêu em
Chiều vƣơng nắng bên thềm
Ta yêu em tình lỡ
Niềm yêu chảy về tim
Có phải em là hƣ vô
Sao tình ta vẫn dại khờ
Ta đã yêu em bất tận Cho dù tình ta bơ vơ
Huỳnh Kim Khanh
73 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
thơ Từ Văn Bé Tư Hải âu phi xứ
Những hải âu khi không còn tổ ấm
Bay về đây từ muôn nẻo xa xăm
Họp đàn nhau trong nỗi nhớ âm thầm
Trong ký ức chẳng bao giờ phai nhạt
Trận cuồng phong của một ngày đổ nát
Bạt cánh chim âu mất hƣớng quay về
Đƣờng quê hƣơng đầy cạm bẫy nhiêu khê
Khúc ruột đứt với nỗi đau ngàn dặm
Hải âu già chắt chiu từng hơi ấm
Đã mất dần theo nhịp bƣớc thời gian
Và loãng dần theo khoảng cách không gian
Tiếc thƣơng những cánh âu không về nữa
Vô thƣờng đến không chờ không hẹn hứa
Bao thiết tha chung tổ ấm, vành nôi
Điểm mặt nhau xem còn mất bồi hồi
Truyền hơi ấm mƣời một lần đại hội
Hải âu non thì cũng là dòng dõi
Mà cớ làm sao chỉ hót tiếng nhồng,
Sáo, cƣởng hồn nhiên nào biết cảm thông
Cảnh mất tổ của cha ông ngày trƣớc
Niềm tủi nhục cũng đành quên tuốt luốt
Gốc lƣu vong thân ở gởi ăn nhờ
Tổ tiên đâu, mặc kệ, cứ thờ ơ
Trong phú quí có khi không nguồn cội
Diều hâu khống chế hải âu quốc nội
Hót rặt ròng theo điệp khúc lập trình
Khiến óc mơ hồ làm chí bất minh
Tập tành thói gian manh đầy tội ác
Của chim khách kên kên thầy phƣơng bắc
Bày kế sâu giúp cƣớp ổ, mƣu ngầm
Trả nợ này, đô hộ mấy ngàn năm
Thời cơ tốt để chim thầy bành trƣớng
Này hải âu ơi ! hãy mau tìm hƣớng
Hợp cùng nhau đoàn kết dựng tổ xƣa
Đuổi diều hâu chim khách lũ bịp lừa
Cứu nòi giống sắp đến hồi tuyệt chủng
Hải âu hiền lành nhƣng thừa trí dũng
Lập lại an bình cuộc sống tự do
Châu chấu đá xe nào chớ đắn đo
Anh hùng vẫn bao lần soi sử sách
Từ Văn Bé Tư
Tỏ tình sau bốn mƣơi năm
Những tƣởng thƣơng ngƣời thƣơng chút thôi
Dè đâu trọn kiếp đến muôn đời
Khi xuân nuối tiếc tình nhƣ mộng
Thổn thức thu hoài lá úa rơi
Thuở ấy bên nhau chỉ biết cƣời
Thƣ sinh ngố ngáo tuổi đôi mƣơi
Mơ hồ chợt thấy lòng xao xuyến
Nƣớc mắt chia ly đẫm mắt ngƣời
Rốt cuộc tình ta có nói đâu
Thời gian lặng lẽ nƣớc qua cầu
Bây giờ muốn nói ai nghe nhỉ
Tự nhủ thôi đành chuyện biển dâu
Chẳng trách chi ngƣời cứ trách ta
Bốn mƣơi năm có biết đâu là
Liền nhau sống chết trong gang tấc
Mãi nhớ thƣơng ngƣời mãi xót xa
Bản nhạc “Làng Tôi”* ứng nghiệm rồi
Xƣa ngƣời luyến tặng hát cho tôi
Dƣ âm tiếng hát ôi buồn quá
Báo trƣớc phân kỳ cũng đúng thôi
Nhƣ trái ngọt bùi ở cố hƣơng
Tên ai chứa cả một trời thƣơng
Nhớ nhung xui khiến càng nhung nhớ
Ai hiểu cho ta nỗi đoạn trƣờng
Tái ngộ ta trao một đóa hồng
Mong ngƣời sẽ nhận chớ sao không
Hồn nhiên trong sáng nhƣ ngày ấy
Và hát nhau nghe khúc nhạc hùng !
* Chung Quân
Từ Văn Bé Tư
74 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Kỷ niệm Năm Căn
Baxide
Tuyên bƣớc ra khỏi
máy bay tại phi trƣờng
Tân sân Nhất đã quá 11
giờ khuya mà tháng 10
vẫn còn oi bức lạ so
với khí hậu Cựu Kim
Sơn mà hắn mới rời
khỏi hôm qua
Sáng hôm sau, Tuyên
vô BTL/HQ trình diện
nhận nhiệm sở đứng
hạng 31/62, đến lƣợt
Tuyên chọn Hải Đội
vẫn còn chỗ, những
chiếc PCF là mộng mơ của Tuyên nhƣng hắn đã
chọn BCH 214.3 thuộc Lực Lƣợng Trung Ƣơng
214 tƣơng lai sẽ đóng tại Kiến Tƣờng (Đồng
Tháp Mƣời)
nơi Bố và 2 em đang sống.
Nhận giấy phép 7 ngày, Tuyên hí hửng ra khỏi
BTL về nhà trọ nhớ lại 6 tháng trƣớc, Bố đã từ
Đồng Tháp lò dò lên Sài Gòn tiễn con đi du học
Mỹ, Với bộ đồ 4 túi ngắn tay, Tuyên thấy Bố
mặt mày sáng rỡ nhƣ đƣa con lên không trung
!Về nhà trọ của bà Bác, Tuyên vội vã chạy qua
nhà em Tƣ, ngƣời tình nhìn nhiều năm mà chƣa
một lần nắm tay hay một lời tỏ tình. Tuyên say
đắm em Tƣ đã hơn 4 năm rồi, hai nhà đối diện
cách nhau một đại lộ, đã có lần Tuyên nhìn Tƣ
đến nỗi Tƣ... rớt cái quần ( đang phơi )
Tặng quà Tƣ chiếc HKMH bằng nhựa rồi xin
phép Ba Mẹ đƣa Tƣ đi dạo phố, chả biết đi đâu,
thôi thì chở em vô rạp Rex xem phim Chân Trời
Tím vậyVô rạp tối om, hai đứa tìm đƣợc chỗ
ngồi, Tuyên đƣa tay quàng qua vai em rồi từ
từ....rơi xuống ngực, bóp nhè nhẹ thì chỉ thấy cái
xú chiêng ! Thất vọng hai đứa ngồi nghiêm
chỉnh xem phim ! Sau này Tuyên mới biết mình
yêu mối tình....một chiều !
Hết 7 ngày phép, Tuyên vô BTL/ HQ trình diện
nhận nhiệm sở thì đƣợc biết BCH 214.3 chƣa
hoàn tất, tạm thời xuống BTL 214 ở Cát lái làm
SQ trực Trung Tâm Hành Quân còn vài ngày
nữa là NOEL 1970 thì BCH 214.3 đƣợc lệnh
tăng phái cho BCH 214.2 ở Năm Căn, BCH 214.
1 đóng ở Bến Lức.Tuyên cùng Danh già
(Nguyễn công Danh ), Vĩ khoa khóa 3 /ocs khăn
gói quả mƣớp xuống LSM đi Năm Căm, cùng
chuyến tàu còn có CHP Lê tín Diện K14/NT,
CHT T/T Khải K10 đang nghỉ bệnh. Rời LSM
lên Năm Căn trình diện T/T Tuyên CHT 214.2,
75 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
dân Bắc Kỳ ăn nói...thày chạy đã có câu để đời "
L` vợ đẻ nở nhƣ hoa ! ”
Tuyên và Danh già đƣợc chỉ định làm SQ trực
TT/HQ do Th/U'y Bùi thiện Chí K18/NT làm
Trƣởng TT/HQ, Phụ tá kiêm thông dịch viên là
TS/GL Nguyễn trọng Lộc khóa 1 OCS rớt.
Thời gian mới tới Năm Căn hằng đêm nghe
pháo kích cong giò chạy vô bunker núp, có một
đêm bị pháo kích, các DV đang ăn bỏ chạy vô
hầm núp sui cho một đoàn viên vì hầm chật
đứng trƣớc cửa hầm lãnh nguyên một trái 82 ly
vô đầu, sáng hôm sau tóc tai còn tung tóe trên
đƣờng tới nhà ăn.
Địa hình Năm Căn
CC Năm căn nằm phía Bắc sông Bồ Đề, cùng
một con sông mà đi về phía tây lại là sông Bảy
HạpPhía bắc của năm Căn là rừng trụi ( ảnh
hƣởng thuốc khai quang ) có 3 lớp hàng rào kẽm
gai phòng thủ cách nhau khoảng 30 M. Phía tây
là một phi đạo dài hơn 1KM, phía Đông CC là
kinh Ngang. Bờ kinh bên kia là chỗ đóng quân
của Tiểu Đoàn BĐQ hay
TQLC hoán chuyển mỗi 6
tháng và một trung đội
pháo binh ( 2 khẩu đại bác
105 ly ).Tuyên hơi dài
dòng về Năm Căn là sắp
kể 2 trận chiến kinh hồn ở
Năm căn mà chỉ có trong
tƣởng tƣợng hoặc trên
báo...
Một đêm tháng tƣ năm 71,
Tuyên đang trực hành
quân thì đƣợc báo cáo lúc
11 giờ khuya của phòng
thủ Căn Cứ : Có một số ngƣời xuất hiện ở bìa
rừng phía Bắc qua ống dòm hồng ngoại tuyến,
ngoài trời tối đen nhƣ mực.Tuyên gọi máy qua
TD/ BDQ hỏi :
-Đêm nay các bạn có kích đêm phía Bắc CC/
HQ không ?
- Trả lời : không
Tuyên cho ngƣời đánh thức đánh thức ông TT
Trƣởng dậyÔng ta báo cáo lên CHT/ HQ THD5
lúc đó là Đại Tá Vƣơng hữu Thiều. Cụ Thiều là
TL/LLTU 214 kiêm CHT Hành Quân Trần
Hƣng Đạo 5 bao gồm Hải Đội 5, 2 giang đoàn
Ngăn Chặn, TĐ/BDQ, Trung Đội Pháo Binh,
Căn Cứ và Tiền Doanh Yểm Trợ Năm Căn.Đại
Tá Thiều và Đại Tá CV Mỹ ngồi họp trong
phòng thuyết trình sát cạnh TT/ Hành Quân ra
lệnh :
-Tất cả các vọng gác quan sát kỹ lƣỡng, báo cáo
tình hình liên tục
-Ban hành nhiệm sở tác chiến
-Súng cối 60, 81 ly nhả đạn vô mục tiêu.
Năm phút sau, Phòng Thủ báo cáo : Địch xuất
hiện vô số, đang vƣợt hàng rào ngoài cùng.
Lệnh : Xin pháo binh yểm trợ và gọi Cà Mau xin
Không Yểm.
Pháo Binh trả lời : Mục tiêu quá gần, chỉ có thể
bắn trực xạ... nhƣng có thấy gì đâu mà bắn !
Báo cáo : Địch đã tiến tới gần hàng rào phòng
thủ thứ nhì.
Lệnh : Khai hỏa, bao nhiêu súng lớn, súng nhỏ
đều nổ một lƣợt ! tiếng đạn nổ vang trời liên tu
76 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
bất tận đến 20 phút thì Trực Thăng võ trang
Cobra xuất hiện 4 chiếc.Lệnh ngƣng bắn để
Trực Thăng làm việc, mọi tiếng súng im bặt.
Bốn chiếc trực thăng quần thảo, đạn, rocket
phóng xuống ầm ì.... Khoảng mƣơi phút thì trực
thăng trút hết đạn rời vùng chiến.
Toán phòng thủ báo cáo : không còn một bóng
ngƣời
Lệnh : giải tán nhiệm sở tác chiến, trận chiến
chấm dứt lúc gần một giờ khuya,
Thảo lệnh hành quân gởi cho BĐQ sáng ra thu
dọn chiến trƣờng.
Tuyên ngẫm nghĩ : địch đông thế, đạn bắn nhiều
thế chắc nó phải bỏ lại cả trăm xác là ít !
11 giờ sáng, BĐQ báo cáo : đã lục soát kỹ
lƣỡng, chỉ thu đƣợc có vài cái...đuôi lựu đạn
chày, địch để lại nhiều vết....máu !!!!
Tháng sáu năm 71, Trung Tá Cao bồi Luật về
thay Đại Tá Thiều coi HQ/THD 5, đƣợc gần
tháng thì Dân Vệ ấp Hàm Rồng có 2 ấp cách
Căn Cứ khoảng 2Km về phía Đông báo cáo tìm
đƣợc kho vũ khí của VC giữa kinh Ông Quyền
và rạch Bà Thành ( nằm ở phía Nam sông Bồ
Đề, cách làng mƣơi cây số về phía Đông, đi xa
nữa là kinh Cái Nháp chảy lên phía Bắc về Cà
Mau, kinh Cái Nháp là mồ chôn nhiều Alfa và
Tango của những giang đoàn ngăn chặn.
Sau khi thám sát kho vũ khí, nếu mang tàu GĐ
đến chở về thì...ẹ quá
Ta bèn thảo một cuộc hành quân đại qui mô:
Đêm trƣớc ngày hành quân cho Pháo Binh nã tối
đa vào vùng hành quân từ khuya tới 6 giờ sáng,
ông Trung Úy Pháo binh than với Tuyên :
- Tôi dộng 2 ngàn quả vô một diện tích một
kilomet vuông, sáng mai nó lấp mẹ con kinh,
ông lấy đƣờng đâu cho tàu vô ?
Tuyên hề hề trả lời : lệnh mà, ráng thi hành đi
Trung Úy.
8 giờ sáng, hai phi tuần oanh tạc AD6 Skyraider
dội bom ầm ầm mở màn cho cuộc hành quân,
5 chiếc PCF đã có mặt tại vùng HQ, tuần tiễu
trên sông Bồ Đề, nhiệm vụ liên lạc và tải
thƣơng.
2 GĐ Ngăn Chận chở nguyên Tiểu Đoàn BĐQ
vô vùng hành quân, tàu giang đoàn mới vô trong
kinh đƣợc vài trăm thƣớc... Phòng Hành Quân
nhận đƣợc tin : chạm địch, ta có 3 chiến sĩ bị
thƣơng...nhẹ !
Tuyên nghĩ trong đầu : Pháo binh nó bắn dữ vậy,
bom nổ nhƣ thế, vùng tác xạ tự do, tàu GĐ có
dọn đƣờng, dọn bãi thì không còn một con cá
thòi lòi chứ sao vẫn còn VC ?!
Sau này Tuyên mới biết, trận chiến đƣợc dàn
dựng để đóng kịch
Kết qủa cuộc hành quân :
Ta : 3 chiến sĩ bị thƣơng
Tất cả tàu tham dự HQ vô sự
Địch : Bỏ lại trận địa 12 xác ( vác từ đâu về
ngày hôm trƣớc )
Ta tịch thu : 2 đại bác 57 ly không giật, 15 trung
liên Bar, 17 tiểu liên Thompson, 106 súng cá
nhân đủ loại thời Đệ Nhi Thế Chiến nhƣng
không có một khẩu AK làm thuốc !
Tin hồ hởi : ngày mai TT Thiệu cùng phái đoàn
sẽ xuống ủy lạo và gắn huy chƣơng cho các
chiến sĩ có công. Bắt lính chùi súng rỉ suốt đêm,
sáng ra tin giờ chót :
TT Thiệu không đi đƣợc, chỉ có Đề Đốc TL /HQ
và phái đoàn xuống ủy lạo, gắn huy chƣơng.
Trƣớc khi rời Năm Căn, tháng mƣời năm 71,
Tuyên còn chứng kiến Sơn Lành... treo PCF lên
cửa Bồ Đề, Mỹ mang trực thăng tới kéo khẩu 81
loạng quạng sao đó rớt luôn chiếc trực thăng
xuống biển, may mắn không có mạng nào
vong... Sau này, Lành vẫn lên Đại Úy trƣớc anh
em.
Baxide 26/4/2010
77 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Việt Kiều và thơ … Hán(g)
Khá khen cho các bạn Đã dậy dỗ Châu Bùi Cách hửi hửi thơ ...hán(g) Nhưng các bạn, Nói chẳng đúng nơi, Nói không đúng lúc Tô đông pha, khác chi Lục tào xá Cùng một lũ Tầu phù, sâu quảng Tớ mới ở ... An-nam về Dị ứng với giặc Tầu Lại bị nghe những lời #@&*%, làm dị ứng lên đô Buông những lời nhạo báng, (nếu) làm các bạn buồn lòng, xin 1 điều xính, xin 10 điều xái Nếu các bạn nhìn, những người trở lại từ nước Việt, dưới đầu óc bịnh hoạn, thịt da, nhục dục các bạn đã lầm to, Cùng 1 ly cà phê ở Pháp, ở Nhật sao nó thơm ngon, thoải mái nhưng ly cà-phê, cùng cô con gái, uống ở Đà lạt, sao nó đắng hơn mật gấu? sao ly kem ở đường Tự Do, nuốt không trôi, mắc nghẹn cổ họng? Há chẳng vì, cô bé waitress nhỏ hơn con mình, mắt không bao giờ vui, vì đồng lương không đủ ăn 1 ly kem Há chẳng vì cậu bé chạy bàn, thời của mình 30 năm trước, đã là 1 SVSQ/Võ bị Quốc Gia? Ôi buồn !!!! Là thành viên trung thành, của T(alk) O(nly) lâu năm Mà lần này IT WORKED Tớ cho lũ con cháu Minh râu, Hồ chủ tiệm Biết đám Việt cộng yếu ớt làm sao
78 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Cả 1 lò chúng nó, cắn trộm tết Mậu thân, mà chẳng trò trống gì, Thằng bác thối tha, đã hộc máu mồm chết thảm Bọn thanh niên miền Bắc, há hốc mồm khi nghe tớ, nổ trận Hoàng sa, làm chúng hãnh diện lây, đã cho thằng Tầu bài học Chắc khó có lần thứ 2, (mong rằng không phải vậy) Ôi còn nhiều nhiều lắm, Nổ là nghề của chàng, hư hư thực thực, thiên la địa võng, cho chúng nhìn QL/VNCH anh dũng, nhưng bi-ai trong những ngày cuối cuộc chiến làm sao? Cho chúng nhìn Ô xi ơ như thánh, Đây ông anh Thuyền trưởng, đã từng du học Mỹ, ngày "tụi mình" đang sốt rét ở Trường sơn Đã từng vào tù cải tạo mấy niên, Làm chúng phải lắc đầu lè lưỡi SeaBee
79 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Lá thư gửi bạn
Các bạn OCS thân mến,
Bên kia thểm lục địa, Hòa Lan một ngày đầu xuân …
Nhớ đến ngày Đại Hội OCS, biết mình không đi dự đƣợc nên không có gì hơn là viết lá thƣ gửi bạn.
Tháng 3, 2010 vừa qua vợ chồng tôi di thăm Budapest, thủ đô nƣớc Hung Gia Lợi. Thành phố này trƣớc
kia gồm 2 khu Buda và Pest riêng biệt đƣợc chia đôi bởi dòng sông Danube. Khu Buda cổ kính tọa lạc
trên đồi cao, có lâu đài hoàng gia tuyệt đẹp, ban đêm lộng lẫy trong ánh đèn phản chiếu lung linh trên
dòng sông Danube.
Bên kia sông là khu Pest với tòa nhà Quốc hội nguy nga hùng tráng, với phố sá tƣng bừng nhộn nhịp và
những công trình kiến trúc, đƣờng xá, nhà cửa nói lên sự văn minh lâu đời của thành phố.
Đặc biệt là những chiếc cầu tuyệt đẹp bắc ngang sông Danube để nối liền hai khu Buda và Pest.
Nƣớc Hung Gia Lợi xƣa theo chế độ quân chủ, trong Đệ Nhị Thế Chiến bị quân Đức và sau đó quân Liên
80 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Xô chiếm đóng. Khi chiến tranh chấm dứt, đảng cộng sản Liên Xô tìm mọi cách hầu nắm chính quyền, kể
cả việc bắt giam và lƣu đày những ngƣời trong phe đối lập.
Ngày 23-10-1956 một cuộc biểu tình bất bạo động của sinh viên tại Budapest đòi hỏi cải cách và tự do
chính trị, bị bọn công an thân cộng thẳng tay đàn áp, đã đƣa đến cuộc Cách Mạng chống Liên Xô 1956.
Để đập tan cuộc cách mạng, quân đội Liên Xô đã cho xe tăng tiến vào Budapest và nã pháo bắn vào đám
đông biểu tình trƣớc Quốc Hội. Tiếp theo đó Hồng quân Liên Xô kéo vào chiếm đóng toàn bộ nƣớc
Hung. Tổng cộng 20.000 ngƣời dân Hung, kể cả những thành phần chính phủ không thân cộng, đã bị giết
trong cuộc nổi loạn 1956 này.
Những năm sau đó cộng sản Hung thẳng tay đàn áp tất cả những ngƣời không theo chúng. Con số ghi
nhận có 21.600 ngƣời bị tù, 13.000 ngƣời chết và 400 ngƣời bị giết. Tuy nhiên nhờ sự hoạt động khéo léo
và không ngừng nghỉ của những nhà dấn thân chính trị (activists), kể từ năm 1960, chính quyền Hung đã
dần dần chuyển đổi thái độ để đi vào con đƣờng ôn hòa hơn về văn hóa, kinh tế và chính trị.
Năm 1989 cũng vào ngày 23-10, ngày cuộc cách mạng 1956 đẫm máu bùng nổ, nƣớc Cộng Hòa Hung
Gia Lợi chính thức thành hình thay thế cho Cộng Hòa Dân Chủ Hung (People‟s Republic).
Trong dịp này chúng tôi có vào coi Viện bảo tàng Tội ác Cộng sản - Communism Museum, ngƣời dân
địa phƣơng gọi là House of Terror - Nhà Kinh hoàng, nằm ngay trung tâm Budapest.
Trên bức tƣờng phía bên ngoài Viện bảo tàng Tội ác Cộng sản là những bức hình nạn nhân bị chết vì chế
độ cộng sản. Họ là những ngƣời rất trẻ, phần lớn còn trong lứa tuổi đôi mƣơi, họ đã hy sinh vì dám chống
lại chế độ vô nhân và bất công của cộng sản Hung Gia Lợi.
Ngay giữa con đƣờng trƣớc Viện bảo tàng Tội ác Cộng sản có một bức tƣờng thấp. Bức tƣờng nhỏ này
mang đầy những sợi dây xích, nói lên sự kiềm tỏa của chế độ cộng sản đối với ngƣời dân Hung. Trên bức
tƣờng có khắc những dòng chữ nhƣ sau (tạm dịch):
Shall we live as slaves or free men? Ta sống như dân nô lệ hay người tự do?
It isolated the East from the West Nó đã cách ly Đông với Tây
It split Europe and the world in two Nó đã chia Âu Châu và thế giới thành hai
It took away our FREEDOM Nó đã cướp đi của ta TỰ DO
It held us in CAPTIVITY and FEAR Nó đã giam ta trong Ngục tù và Sợ hãi
81 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
It tormented and humiliated us Nó đã làm khổ và sỉ nhục ta
And finally we TORE it DOWN Và cuối cùng ta đã PHÁ TAN nó
(Nó ở đây chính là chế độ cộng sản)
Nhà Kinh hoàng cũng chính là đại bản doanh của mật thám Đức, nơi giam giữ và tra tấn những ngƣời du
kích Hung trong thời đệ nhị thế chiến. Thời kỳ sau đó, cộng sản Hung với sự chỉ huy của cộng sản Liên
Xô đã tiếp nối Đức quốc xã trong việc duy trì ngôi nhà này để gieo biết bao kinh hoàng cho những ngƣời
dân Hung dám đòi hỏi tự do.
Nơi thứ hai chúng tôi ghé đến là Đài Tưởng Niệm (nạn nhân) 1956 - Memorial of the 1956, đặt trƣớc
Quốc Hội Hung Gia Lợi ở Budapest. Trƣớc toà nhà Quốc Hội là một công trƣờng với thảm cỏ xanh rất
đẹp. Giữa công trƣờng này, trên bãi cỏ xanh, có một cột cao phất phới lá cờ và một bia đá ghi hàng chữ
nhƣ sau.
This Hungarian flag has a hole in it because on October
23, 1956 the revolutionists, those Hungarian who
revolted against the Soviet Union, tore out of it the
foreign coat of arms that symbolized the power of the
Soviet Union and Communism. Since then this flag has
symbolized the freedom of the Hungarian nation.
This memorial is a symbolic grave. Here, on this square,
several hundreds of people fell dead onto the ground
due the killer blow of a firing squad on October 25,
1956. Honour and remembrance to the victims!
The system of communism has failed in every sense.
However it will be very hard to get rid of communists,
for there is nobody as dangerous as the usurper of a
failed system, who abandons the system but guards his
loot, and power-position.
Tạm dịch: Lá cờ Hung Gia Lợi này mang một lỗ thủng
vì ngày 23 tháng 10 năm 1956 những nhà cách mạng
Hung nổi lên chống Liên Bang Xô Viết đã xé rách dấu
hiệu của Xô Viết và đảng Cộng Sản trên lá cờ. Từ đó lá
cờ này tượng trưng cho tinh thần tự do của dân tộc Hung.
Đài tưởng niệm này tượng trưng cho một nghĩa trang. Nơi đây, tại công trường này, hàng trăm người
dân Hung đã bị bắn chết vào ngày 25 tháng 10 năm 1956. Vinh danh và tượng niệm những nạn nhân này!
Chế độ cộng sản đã thất bại hoàn toàn. Tuy nhiên rất khó loại bỏ được những phần tử cộng sản, bởi vì
không có gì nguy hiểm bằng những tên đầu sỏ của một chủ nghĩa thất bại, chúng đã từ bỏ chủ nghĩa
nhưng vẫn khăng khăng bám lấy của cải cướp được và địa vị của chúng. Ngô Thụy Chƣơng, Hòa Lan
Nhân Đại Hội OCS, CA June 2010
82 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
người lữ hành đơn độc
nctd
Huấn và chúng tôi biết nhau từ ngày đầu
bƣớc chân vào đời quân ngũ, chúng tôi cùng
nhập trại một lần, khoảng cuối tháng 11 năm
1969, tôi còn nhớ mỗi sáng chúng tôi vào trình
diện điểm danh, vì là lính mới tò te, và ở trại tạm
trú nên tất cả chúng tôi cùng xếp hàng chung
nhau một nhóm, bất kể cao thấp để thực tập cơ
bản thao diễn cho qua thời giờ, cuộc sống quân
ngũ quá mới mẻ với chúng tôi, nên mọi ngƣời ai
cũng bỡ ngỡ, ồn ào và nhộn nhịp nhƣ cái chợ vỡ,
vừa đi vừa cƣời nói huyên thiên, xế trƣa thì tan
hàng, mạnh ai về nhà nấy. Ở trại tạm trú khoảng
một tháng,
cuối tháng 12
năm ấy, tất
cả chúng tôi
đƣợc di
chuyển
xuống Trung
tâm huấn
luyện Quang Trung để học căn bản quân sự khóa
1/70. Huấn và chúng tôi lại cùng chung Đại Đội
19D, bây giờ vào quân trƣờng, cao thấp đƣợc
chia riêng, Huấn cao lớn nên đƣợc xếp vào
Trung Đội 1, còn tôi Trung đội 4. Tuy khác
trung đội, nhƣng cùng học tập bên nhau, cùng
chia xẻ những bài học hành quân chiến thuật,
cùng chen vai sát cánh ở những bãi tập nắng
cháy da ngƣời, giờ giải lao cùng chia nhau cái
bóng mát của những tàng cây gòn, cây me nào
đó, rồi lại cùng chia xẻ những bữa cơm hẩm hiu
của đời tân binh, tuổi trẻ xa nhà sống hòa đồng
trong khói lửa chiến chinh nên ai cũng dễ cảm
thông, “Tứ hải giai huynh đệ”, chẳng cần phải
thân thích, cũng là anh em một nhà trong đại gia
đình Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân. Tuy vậy cái
khác biệt của Huấn thì không thể che dấu đƣợc,
bởi lúc nào cũng thầm lặng, riêng rẽ và biệt lập,
lại hay lủi thủi một mình. Hầu nhƣ Huấn không
bao giờ tham gia các sinh hoạt với bạn bè sau
giờ học tập, tuy vẫn hiện diện bên cạnh anh em,
nhƣng không năng động, hội nhập, trông Huấn
cứ nhƣ ông đồ nho, chẳng có tí ti máu me văn
nghệ gì cả, vì thế anh em trong Đại Đội đặt cho
Huấn cái biệt danh “Cụ Huấn”, và đôi khi bông
đùa “Sao cụ không đi tu mà lại đi lính hả cụ!”,
làm lính thi phải hòa đồng và ồn ào, thấy vui là
lăn xả vào, nhƣ những con thiêu thân mê lửa,
chứ đâu ru rú một chỗ nhƣ cụ vậy. Huấn chỉ
nhoẻn miệng cƣời đáp nhát gừng “Ngƣời ta bắt
đi thì phải đi, … chứ ở nhà làm sao đƣợc ai
cho!”.
Sau ba tháng thụ huấn quân sự, một số chúng
tôi trở về Sàigòn để học Anh ngữ, tạm trú trên
tạm trú hạm nổi (APL) ở bến Bạch Đằng, trong
đó có Huấn, có tôi và phần đông những ngƣời
bạn tôi quen, tất cả kết thành liên đội B, thuộc
Tiểu Đoàn SVSQ/HQ /Trần Hƣng Đạo. Trong
khoảng thời gian học ở đây, tôi cũng ít khi gặp
Huấn, vì khác lớp, cuối tuần đi phép mạnh ai
nấy đi bờ. Khoảng ba tháng sau Huấn lên đƣờng
sang OCS, thụ huấn hải nghiệp đợt 5, với các
bạn nhƣ Hùng, Nam, Tụng, Ba gà, Đài, Cƣ,
Nghiệp và nhiều bạn khác, trƣớc tôi một đợt.
Khi sang tới trƣờng OCS, vì khác đợt, nên lại ở
khác khu, nhƣng vẫn cùng mái nhà Nimitz Hall,
cũng ăn chung nhà bàn Ney Hall, cùng thở
chung không khí bầu trời New Port, bên bờ Đại
tây Dƣơng, nhƣng trong suốt bốn tháng ở trƣờng
OCS, tôi cũng chỉ gặp Huấn có vài lần, và cũng
83 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
chƣa một lần chuyện trò, vả lại thật tình cho dù
có giáp mặt thì cũng chẳng có chuyện gì để nói,
vì ngày ấy những chàng trai trẻ nhƣ chúng tôi,
gặp nhau ngoài chuyện gái gẫm bù khú, thì
chẳng còn chuyện gì để nói, mà chuyện ấy nói
với “Cụ Huấn” thì kể nhƣ trật đƣờng rầy. Những
ngày cuối tuần, sinh viên đƣợc tự do đi bờ, hầu
hết chúng tôi rủ nhau đi thăm đây viếng đó, đất
lạ xứ ngƣời, cái gì cũng đẹp, cũng lạ mắt, hoặc
ra phố xem xi-nê, chiều tối ghé nhà hàng tầu ăn
cơm cho đỡ thèm, có xa quê mới thấy thèm cơm
lạ; còn Huấn, thì nhƣ anh bạn chung phòng kể,
luôn luôn ở lại canh trƣờng, suốt ngày nằm trong
phòng học bài, đọc sách, nếu không thì lại lẩn
quẩn xuống PX mua quà lặt vặt. Sau khi đợt 5
vê nƣớc, tôi không hề gặp lại Huấn cho đến mấy
năm gần đây.
Tuy không phải là bạn thân tình, nhƣng tuổi
trẻ dễ cảm thông, hòa hợp nên cũng rất mến
nhau, vì cùng chung một lý tƣởng, cùng phục vụ
dƣới một mầu cờ. tôi mến Huấn ở chỗ ít nói,
đàng hoàng, thành thật, không phá phách, xấc
xƣợc hay khoe khoang, không kết bè kết đảng,
không tụm năm túm ba, cũng không khen chê
hay nói xấu ai. Tƣớng ngƣời to lớn, nhƣng thân
hình lép kẹp, trông có vẻ yếu đuối, đi đứng hơi
khòm khòm, đó cũng là một yếu tố có cái tên
“cụ Huấn”, dù tuổi đời mới chỉ ngoài hai mƣơi.
Mặc cho bạn bè đùa giỡn diễu cợt, Huấn chỉ
cƣời, không phản đối, hay nổi quạu, cũng không
trách móc, chẳng hề phàn nàn một ai bao giờ, ai
gợi chuyện thì cũng vui vẻ nói, bằng không thì
im lặng và “Đƣờng ta ta cứ đi”. Khi bƣớc chân
vào lính, phần lớn chúng tôi ai cũng tự nhủ, cuộc
đời mình từ nay giao cho Trời, Phật, Chúa rồi, ai
cũng biết “Trong chiến chinh, viên đạn rất vô
tình” nên hầu nhƣ sống buông thả, ăn chơi xả
láng, vui đƣợc lúc nào hay lúc ấy, nên phải có
bạn bè để đôi khi cà phê cà pháo tán gẫu, hay
hàn huyên tâm sự, kiếm đƣợc một chữ “không”
cũng đã là hiếm, Huấn thì ngƣợc lại, có rất nhiều
cái không, không rƣợu chè, không cờ bạc, không
hút xách, không la cà, không cả bạn bè, kể cả
Hùng, là đồng môn từ thời ở Trung học Lê Bảo
Tịnh, sau lên Khoa Học, rồi cùng đi lính, và lại
là bạn chung phòng lúc ở OCS, thế mà cũng chỉ
ở cái lằn ranh bạn đồng hành quen biết mà thôi,
chứ chẳng phải bạn à tâm giao, tâm tình gì cả!
thì ta cũng đủ thấy cái khác biệt rồi. Huấn cũng
không vƣớng víu những thứ lỉnh kỉnh của ngƣời
trai thời đại, có lẽ cũng không trai gái, bằng
chứng là Huấn vẫn độc thân ca bài “Những bƣớc
chân âm thầm” cho đến giây phút này nằm trên
giƣờng bịnh đếm thời gian chờ chuyến tầu xuôi
cuối cùng về trong vòng tay yêu thƣơng của mẹ.
Trong thời gian quân ngũ, tôi cũng không
ngờ Huấn đã từng phục vụ qua các đơn vị tác
chiến nhƣ Giang đoàn Ngăn chặn, Giang đoàn
75 Thủy bộ, mà đời lính Hải quân, nghe tới danh
xƣng giang đoàn thì cũng thấy hơi lạnh cẳng rồi,
cũng đã nằm sƣơng, gối gió, thi gan cùng địch
trong các vùng sông rạch Mộc Hóa, Gò Dầu Hạ,
cũng cƣỡi sóng biển Đông trên HQ228, rồi trở
về Trƣờng Sinh Ngữ Quân Đội. Thật tình tôi chả
hiểu ở giang đoàn Huấn có bao giờ đi phục kích,
tuần tiễu hay hành quân? Có bao giờ đụng trận?
Nhƣng tôi nghĩ với bản chất “em hiền nhƣ
maseur” của hắn, có lẽ chẳng bao giờ hắn bắn
một viên đạn, cho dù có đụng trận! Không phải
là chết nhát, nhƣng hiền quá, thì làm sao xung
trận. Thế mà sau ngày 30-4, Huấn cũng không
thoát khỏi cảnh tù đầy, cùng chung số phận của
những ngƣời lính Cộng Hòa, Huấn cũng bị đi tù
cải tạo 7 năm trời, qua các trại tù Thành Ông
Năm, Kà-Tum, Suối máu và Long Giao, thật khó
có thể ngờ Huấn cũng vƣợt qua tất cả, và cuối
cùng sang Mỹ định cƣ theo diện HO11 vào năm
1992.
Mãi đến năm 2005 chúng tôi đƣợc tin Huấn ở
vùng Orange do OC Vàn tình cờ hỏi ra, trong
ngày tang lễ ông cụ thân sinh của Huấn. Các bạn
Hùng, Nam, Thắng và tôi có tìm lại thăm, hắn
chuyện trò rất vui vẻ, theo tôi nhận xét có phần
84 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
nhanh nhẹn hơn ngày xƣa, nói năng hoạt bát
hơn, trông cũng khỏe mạnh hơn nhiều, nhƣng
tính tình thì vẫn thế, không thay đổi, vẫn „cục
đá‟ bên đƣờng. nói vậy để thấy cái hiền của hắn.
Còn nói về cuộc sống và gia cảnh của chàng, thì
vẫn độc thân, vui … một mình, cuộc sống rất
giản dị đến đạm bạc, đơn sơ. Gặp Huấn chúng
tôi rất vui mừng, tƣởng lại thêm đƣợc một ngƣời
bạn cũ, thỉnh thoảng muốn rủ Huấn đi cà phê
cùng bạn bè để ôn lại dĩ vãng cho đời thêm vui,
nhƣng hắn luôn từ chối, tôi nghĩ thầm hay là
Huấn sợ không có điều kiện mời lại bạn bè,
nhƣng không phải thế, mà đó vẫn là cá tính đặc
thù, âm thầm đứng bên lề cuộc đời của hắn.
Chúng tôi có ghi số điện thoại để Huấn dễ dàng
liên lạc nếu có thay đổi chỗ ở, nhƣng hắn chẳng
bao giờ gọi, vài tuần sau đó tôi gọi lại thì số điện
thoại đã cắt, và hắn đả đi nơi khác, thế là lại mất
tông mất tích!
Thời gian lặng lẽ trôi, mọi vật biến thể theo
định luật tự nhiên của tạo hóa, đá thạch cũng
thay đổi, huống chi con ngƣời, trong cái đại gia
đình HQ/OCS, chúng tôi đều trên dƣới lục tuần
cả rồi, sắp sửa vào tuổi “Thất thập cổ lai hy” lúc
nào không biết. Dù có giả điếc làm ngơ cũng
không đƣợc, phải chấp nhận những sự thật, nay
có tin ngƣời này vào bệnh viện, mai bạn khác
thông tim, thỉnh thoảng lại một hải âu gẫy cánh.
Ai cũng biết, Sinh, Lão, Bệnh, Tử, là chuyện
thƣờng tình của con ngƣời, nhƣng con ngƣời
vốn có tình cảm, không thể không đau buồn khi
thấy bạn bè hay thân nhân của mình lâm bệnh
hay qua đời. Đôi khi cũng có những tin vui nhƣ
ngƣời này con cái thành tài, ngƣời kia dựng vợ
gả chồng cho con, mừng thay! Thỉnh thoảng lại
tìm đƣợc một hai OC đã lâu không gặp, bạn bè
chia xẻ buồn vui, có lúc từng nhóm nhỏ, có lúc
tràn ngập diễn đàn, mọi tin tức đều đƣợc truyền
đi nhanh nhẹn và cập nhật nóng hổi đều đặn, dù
bạn ở nơi nào trên trái đất! Ôi tình OC cao đẹp
biết bao! Đẹp nhƣ những tia nắng hồng rực rỡ
chứa chan một ngày mùa hạ! Rồi tin về Huấn do
bạn Vàn đƣa lên trong lúc có quá nhiều tin vui,
Huấn đang nằm bệnh viện ngay lòng thủ đô tị
nạn, với cục bƣớu trong đầu đã vào thời kỳ cuối,
không nhà cửa, không bảo hiểm, không vợ con,
cha mẹ, anh em, ngƣời thân duy nhất có, là
ngƣời chị dâu và đứa cháu trai. Nhƣng! cuộc đời
vẫn chỉ chữ 'nhƣng' vô duyên, lạnh lùng đến vô
tình, tin về Huấn bay ra hụt hững giữa không
trung, giá lạnh nhƣ sợi nƣớc đóng băng nhỉu ở
trên cây, lặng lẽ nhƣ viên sỏi rơi vào giữa lòng
biển cả mênh mông, vì phần đông bạn bè không
biết Huấn là ai, cũng không biết an ủi hay thăm
hỏi bằng cách nào? Có chăng là một thoáng
bàng hoàng, ngỡ ngàng, lác đác nhƣ cánh lá cuối
đông nuối tiếc giọt nhựa khô đọng ở cuối cành,
“Huấn nào?”!
Đã bao năm qua Huấn ở ngay trong lòng
quận Cam, nơi có rất đông bạn hữu HQ cũ, thế
nhƣng Huấn lại chọn lối sống âm thầm, lặng lẽ
một mình, chẳng chia vui, cũng chẳng xẻ buồn
với bất cứ một ai, ban đầu tôi nghĩ có lẽ Huấn
mang nhiều mặc cảm, hay tự ái quá cao, nhƣng
bây giờ thì tôi càng hiểu rõ hơn, đó là lối sống
của Huấn, vì nếu Huấn muốn sống nhƣ mọi
ngƣời, chắc cũng không có gì khó khăn lắm, hắn
đã sống đời quân ngũ, đã vƣợt qua đƣợc 7 năm
tù đày trong các trại cải tạo cộng sản, thì hắn
cũng có khả năng làm lại cuộc đời nhƣ bao
ngƣời, nhƣng không! hắn đã chọn lối sống cuộn
mình trong ốc đảo nhỏ nhoi của riêng hắn. Nhớ
lại ngay từ lúc ban đầu bƣớc chân vào đời lính,
lúc đó mọi ngƣời chúng ta đều là những chàng
trai trẻ hăng say, tràn đầy nhựa sống và nhiệt
huyết, sau những giây phút vào sinh ra tử, gặp
lại nhau thì thế nào cũng có vài chai, vì có ai
biết ngày mai còn thấy ánh mặt trời, nhƣng
Huấn vẫn bình thản chọn “Thà là cụm bèo trôi
dạt ở ven sông, chứ không nhập cuộc theo dòng
phù du”. Sinh hoạt tập thể là điều bắt buộc
không thể tránh né, làm vì bổn phận và nhiệm
vụ, thế cho nên ở trong tình trạng thập tử nhất
sinh nhƣ bây giờ, chắc chắn Huấn lại càng
không muốn liên lụy hay nhờ cậy bạn bè, phiền
85 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
hà đến ai, cũng không nhận quà cáp cho dù là
lon sữa, “Anh em nghĩ đến nhau vào thăm thế là
quý lắm rồi, đừng mang quà cáp làm gì, trong
này họ cũng cho ăn đầy đủ lắm!” đó là Huấn,
giản dị, bình thản, chẳng a dua, chẳng cầu kỳ,
chấp nhận số mạng mà Chúa đã an bài nhƣ lời
Huấn nói. Mỗi ngƣời mỗi ý nghĩ và đối tƣợng
sống khác nhau, không ai giống ai, nhƣng sống
giữa cuộc đời mà gạt bỏ đƣợc mọi thứ tham, sân,
si, không màng đến vật chất hiện thực, điều đó
quả cũng hiếm thấy, đó là cá biệt của Huấn!
Ai bảo là Huấn không vui mừng khi có bạn
bè tới thăm (?), riêng tôi thấy Huấn cũng quý
mến bạn bè lắm, vì mỗi lần có bạn vào thăm,
Huấn luôn cố gắng nhỏm dậy đón chào, mà tôi
nghĩ mọi cử động dù nhỏ nhặt, cũng có thể làm
Huấn đau đớn, khó chịu lắm. “Đoạn đƣờng ai có
qua cầu mới hay” nhƣng tinh thần của Huấn vẫn
tỉnh táo sáng suốt, sắc thái luôn bình thản, không
hề kêu than, cũng không lộ vẻ đau đớn, Huấn
vẫn nhớ nhiều chi tiết vụn vặt của đống kỷ niệm
rối bời, vẫn nhớ rành mạch tên tuổi của nhiều
bạn, những ngƣời mà bây giờ nghe Huấn nhắc
tôi mới sực nhớ ra, dù đã 40 năm qua chẳng có
sự liên hệ với ai. Chỉ một vài câu nói, một vải kỷ
niệm, đủ thấy Huấn cũng suy nghĩ nhiều về quá
khứ, về tuổi trẻ.
Rồi mỗi tuần vào thăm lại thấy Huấn sa sút,
ốm hơn nhiều so với lần trƣớc, vì tình trạng
bƣớu mỗi ngày mỗi trầm trọng hơn, gò má mé
mắt phải sƣng vù hẳn lên và đổi thành mầu tím,
đôi mắt tuần trƣớc còn nhìn thấy, tuần sau đã
băng kín, tuy vẫn nói nhƣng tiếng nói ngày càng
rời rạc, vụng về theo đôi môi bị kéo xệch về bên
trái, hậu quả của những lần tai biến cũ, mái tóc
mỏng manh dính sát vào da đầu, không còn tua
tủa nhƣ xƣa. Huấn cũng biết bệnh tình của mình
đã ở vào thời kỳ cuối, nên từ chối mổ vì sợ cái
rủi nhiều hơn cái may, Huấn thƣờng nói “Thà
sống vẹn toàn ngày nào hay ngày ấy, còn hơn
phải sống mù lòa hay tàn phế”, sống nhƣ vậy chỉ
làm khổ ngƣời thân. Mỗi lần thăm Huấn là mỗi
lần những hình ảnh xƣa lại thấp thoáng bay về,
mới hôm nào đó bạn cùng tôi tay ôm súng, lƣng
khoác ba-lô tập bò hỏa lực, hay cùng nhau thi
đua thể thao trong nhà Gym ở trƣờng OCS, mà
giờ đây có ngƣời đã ra đi, bạn nằm yên trên
giƣờng bệnh, còn chúng tôi cũng vóc hạc da
mồi, cuộc đời thoảng nhƣ một giấc chiêm bao.
Thôi cũng đã đến lúc để bạn nghỉ ngơi, từ
biệt bạn, trả lại bạn căn phòng nhỏ bé này với
chiếc bóng riêng mình, hy vọng đây không phải
là cái bắt tay cuối cùng. Cất bƣớc chân ra khỏi
cửa, nhìn bạn nằm yên bất động nhƣ đã sẵn sàng
chắp cánh tung bay, tôi thấy lòng trùng hẳn
xuống, có nỗi buồn nào diệu vợi ập về, ngoài kia
trời vẫn nắng, hoa vẫn tƣơi và mây vẫn bay, đàn
hải âu vẫn nhởn nhơ tung cánh ở các bãi biển xa
xôi nào đó, xin khấn nguyện ơn trên ban phƣớc
lành cho bạn, tiếp tục sống những ngày còn lại
trong khung trời riêng tƣ của bạn, nhƣ bạn đã
từng bƣớc, những bƣớc chân âm thầm trong
cuộc hành trình đơn độc bên cạnh chúng tôi
những ngày xa xƣa cũ.
Để nhớ một ngƣời bạn Nguyễn Gia Huấn /
OCS5
Nctd / April 20, 2010
(Ghi chú N.G.Huấn đã vĩnh viễn ra đi ngày 22
May 2010)
86 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
taãn maån vïì gûåu
Thịnh , LĐC, U7
Ngƣời Việt Nam
chúng ta đi ăn phở
là đến tiệm nào ta
cho là ngon vì nấu
hợp với khẩu vị
của mình, nhiều
khi không cần đến
Menu vẫn order lia chia, thêm món này bớt món
kia. Quen quá rồi, ngƣời bán hàng cũng quen mà
thực khách cũng biết. Trong khi đó ngƣời khách
Ngoại quốc vô tiệm rất khổ về cái thực đơn phở
này, lật qua lật lại hỏi lên hỏi xuống, mãi mới
rặn ra đƣợc cái order, nhiều khi sai chỉ biết nhăn
mặt bỏ của chạy lấy ngƣời. Đứng dậy trả tiền mà
mặt nhăn nhƣ khỉ. Các bạn ui, mình mà đƣợc
mời tham dự tiệc cƣới, tiệc sinh nhật v.vàcủa
ngƣời Mỹ .thì không khác gì anh chàng kia vào
quán phở của mình, thiên hạ tấp nập nơi quầy
gựu, order lia chia, ly thì xanh ly thì đỏ, lại còn
thêm trái cherry, miếng cam vàng, múi chanh
xanh mƣớt, phe ta nhìn thấy mà “ eo xèo buổi đò
đông “, hỏi thì tự ái, thôi thì chai Bia, sang thêm
chút nữa là shot Cognac. Mặc dầu ta đây cũng
nhƣ ai nhƣng xem ra vẫn làm sao ấy, lạc lõng
quá, nói thì nói chứ thật sự nó cũng đơn giản
thôi.
Nhƣ một truyền thống và dƣờng nhƣ bắt buộc
phải có thì party mới vui,họ đều có quầy gựu,
không ít thì nhiều, riêng đám cƣới xem ra kiểu
cọ hơn, nhiều ngƣời chơi nổi 3 quầy khác nhau,
quầy bia chỉ có bia. Quầy Wine chỉ có Wine và
quầy gựu pha. Ngoài ra còn chơi hai sân khấu,
một sân khấu cắt bánh và một sân khấu chơi
nhạc giúp vui, ta hãy trở về gựu không có lạc đề
mất.
Quầy Bia và Wine chuyện nhỏ, phe ta sổ chấp,
chỉ có gựu pha mới là cái rắc rối của cuộc đời ??
Tiếng Tây tiếng u phe ta cũng không đến nỗi
nào nhƣng phải cái sao nghe họ order nhƣ chim
hót trong lồng rồi gựu đƣợc chuyền ra tới tấp,
màu sắc thì thiên hình vạn trạng mỗi thứ một vẻ
mƣời phân vẹn mƣời, thấy chóng mặt, cũng đơn
giản thôi khi mình biết thì àdƣ sức qua cầu gió
bay.Ngƣời Mỹ dù giàu dù nghèo họ cũng chỉ
quen tên độ chục thứ, thƣờng họ chỉ quen với cái
her/his favorite drink độ ba thứ mà thôi. Đông
ngƣời nhiều chuyện mới rách việc, rối mù nhƣ
mớ thòng bong, tƣởng là ghê gớm lắm nhƣng
cũng chỉ loanh quanh chục thứ và thêm cái này
bớt cái kia.
Gựu pha có cả trăm thứ và chia làm 2 loại: Man
Drink and Lady Drink.
Loại của đàn ông thì đơn giản hơn thứ uống của
Đàn Bà rất nhiều. Tôi đan cử Martini, ly gựu
loại này thƣờng dành cho dân ghiền hoặc giới
sành điệu, sau bữa ăn, uống đã ngà ngà nhƣng
chƣa thấm bèn quất thêm ly Martini, rồi ra về.
Muốn có một ly Martini perfect đòi hỏi ngƣời
Bartender kinh nghiệm,nhất là phải biết triết lý
của gựu. Khi khách order Vodka Martini thì
mình dùng Vodka. Thông thƣờng dùng Gin để
pha Martini. Chiếc ly giống nhƣ ly Champagn
đổ Gin gần đầy, sau đỏ cho thêm một muỗng cà
fê “ Dry wine “ bỏ thêm trái olive vào ly là
xong, ly này giá gấp 3 lần ly gựu thƣờng vì dùng
rất nhiều gựu nguyên chất. Martini có ngon hay
không là do nhiệt độ của chiếc ly đƣợc dùng, và
lƣợng Dry Wine vừa đủ để hòa hợp với Gin mà
tạo ra một ly Martini hoàn hảo cả về mùi lẫn vị.
Ly phải để vào chỗ thật lạnh thƣờng bartender
ngâm ly trong chậu nƣớc đá. Gựu nào cũng vậy
gặp room temperature là bốc hơi nếu để lâu nhạt
tèo, triết lý của uống Martini là: Gựu không bốc
87 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
hơi trong chiếc ly lạnh, khi nhận ly gựu từ ngƣời
bartender, ngƣời sành điệu bao giờ cũng chiêu
một ngụm ngay tại quầy, không vội nuốt, chờ
gựu lạnh gặp thân nhiệt, bấy giờ Gin mới bốc
nhãn, và dẫn tuốt vào con tỳ con vị, chu choa,
thống khoái, trái olive để đƣa cay và làm thêm
ngụm nữa là tuyệt vời. Ngoài Martini đàn ông
thƣờng uống: Rum and Coke, Gin and Tonic,
seven and seven, Whisky sour, Old fashioned,
Canadian Club and water đọc là CC and water.
White Russian, black Russian, Mai Tai,
ScrewDriver..
Đàn bà thƣờng họ uống Margarita hoặc Pina
Colada, Pina Colada xƣa rồi Diễm, bây giờ xem
ra Margarita mới hợp thời trang. Pha gựu là cả
một nghệ thuật không khác gì ngƣời đầu bếp,
công thức giống nhau ăn thua sự gia giảm và
nêm nếm mà ly gựu sẽ bắt mắt hơn, hấp dẫn
hơn quan trọng là ngon hơn. Vì là gựu pha chế
bởi nhiều thứ chắc chắn có phản ứng hóa học
xảy ra trong lúc pha, không tin cứ hỏi Giáo Sƣ
Hoàng Cơ Định thì biết. Ly Margarita giống ly
champagn, lấy miếng chanh thoa lên thành ly
sau đó úp lên đĩa muối hột, các hạt muối sẽ bám
vào thành ly nhìn qua đã bắt mắt rồi. Bình Mixer
đổ nƣớc đá và cho thêm vào một shot Tequila,
một shot Triple Sec,và lƣợng Lime Juice tƣơng
đƣơng 4 shot là vừa. Bartender sẽ trộn đều các
thứ bằng cách lắc thật mạnh, gạn nƣớc ra ly đã
sửa soạn sẵn. bỏ thêm miếng chanh vào ly gựu
là xong. Vị mằn mặn của muối quyện với chất
chua của chanh hợp với chất nƣớc nhờ nhờ của
gựu tạo thành mùi vị tuyệt vời. Ly gựu loại này
có nhiều mầu nhƣ xanh, đỏ, vàng... Ngoài
Margarita họ thƣờng uống:Bloody mary, Pina
Colada, California cooler, Strawberry Daiqiri,
vài ba thứ lẩm cẩm nữa là hết.
Các bạn mến, những tên gựu mà tôi đã liệt kê ra
là những tên gựu rất thông dụng bar nào cũng
service, party nào cũng phải có, muốn kiểm
chứng các bạn chỉ việc đến gần các quầy gựu để
nghe họ order, tới 90% các bạn thấy đúng là nó.
Ngoài ra trong các buổi party nhất là tiệc cƣới và
thiên hạ đang chập chờn chốn thiên thai là màn
uống Long Island Ice Tea xuất hiện. Pitcher
đƣợc đổ vào 4 shots gin, 4 shots rum và 4 shot
Vodka, cho thêm nƣớc đá và đổ đầy Coke, ném
vào 3 miếng chanh, loại này uống rất mát và nhẹ
nhƣng sau đó phê vô cùng, cỡ nào cũng lật.
Thƣờng thì khi thực khách đƣợc mời, gia chủ
cho biết là từ giờ nào đến giờ nào có OPEN
BAR, nếu không thấy nói đến là chuyện khác,
vậy chứ OPEN BAR là cái chi chi sao quan
trọng rứa ? OPEN BAR là uống FREE, thực
khách không phải trả tiền, cứ nói tên là
bartender service ngay, gia chủ bao hết,
Bartender rất thích loại này vì nhiều tiền TIP.
Muốn có ly gựu đúng gu, khi ta tiến đến quầy
gựu cầm tờ 5 đô nhét vào pitcher đựng tiền TIP
trƣớc khi order, thấy mình hào sảng, họ pha cho
ly hết xẩy, cáu cạnh, hƣơng và vị đáng đồng tiền
bát gạo. Trao ly gựu còn đƣợc câu cám ơn và nụ
cƣời tƣơi nhƣ hoa. Bartender rất nhớ mặt, mình
mà trở lại thì welcome nhắm nhắm. Lần này cứ
vui vẻ nhƣ ngƣời Hà Lội, không cần TIP. Nếu
không TIP hậu thì, cứ thử mà xem. Lƣơng của
bartender chỉ là giá tƣợng trƣng, họ sống nhờ
tiền TIP. Số tiền này còn phải chia đều cho nhà
bếp và mấy ngƣời chạy bàn rất sòng phẳng.Lại
còn thêm một cái trick này nữa cũng nên biết,
cái này thì phải trả tiền nhƣng: Tới quầy gựu
88 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
order ly Cognac, bartender có một lô cognac đã
mở sẵn nhƣ Hennesse, Martel, Remy Martin,
Mumà. , bartender tiện chai nào thì rót chai đó,
không đắn đo gì cả, nếu mình thích Martel thì
khẽ nói, Excuse me, you don't mind Martel.
Bartender vui vẻ đổi ngay, giá bình thƣờng là 3
đô một shot. Nếu mình đến order Martel ngay
lúc đầu thì vẫn chai đó giá 6 đô một shot.
Because you name it you pay for it.. Một chai
750ml. thƣờng đong đƣợc 32 shots,
Nghề Bartender là nghề hái ra tiền, nhiều sinh
viên đại học bỏ học theo nghề này nếu ham tiền
sớm. Nghề Bartender cũng rất nguy
hiểm,Bartender phải đƣơng đầu với Đĩ Điếm,
Băng Đảng, Xì Ke Ma Túy, và rất dễ vô tù vì
cảnh Sát chìm giả làm gái làng chơi nhờ mình
giới thiệu, hoặc nhờ mình giao xì ke cho khách.
Màn đấu súng của thực khách thƣờng đƣợc diễn
ra vào sau 12 giờ đêm, giữa 2 nhóm vốn có sự
hiềm khích với nhau trƣớc, tuy nhiên dành gái
vẫn là điều then chốt, ngƣời bouncer sẽ xuất
hiện giải quyết chiến trƣờng cùng lúc đó 911
đƣợc sử dụng, khi thấy còi hụ và đèn chớp 2 phe
tự động giải tán, Cảnh Sát thƣờng còng tay ráo
trọi, dẫn 2 nhóm về 2 phía khác nhau, đi khá xa
thì tháo còng, xỉ vả cho vài câu rồi ra về.
Mặc dầu có việc làm vững chắc nhƣng tôi thấy
nhơ nhớ, nhớ ánh đèn mầu, nhớ cô vũ nữ đẹp
đến mê hồn, nhớ không khí vui nhộn, nhớ tên
say xỉn ngồi ngủ cho đến khi bar đóng cửa, đánh
thức hắn dậy cùng ra về, nhớ ngƣời chủ bar là
cựu Pilot lái F.4 Phan tom bị thƣơng trong cuộc
chiến Viet Nam, sau khi đóng cửa, tôi và ông ta
thƣờng ngồi lại hàng giờ ôn lại chuyện xƣa, vừa
là công nhân và cũng là ngƣời bạn tâm giao
trong suốt 20 năm của nghề bartender vì thế,
mỗi tuần chỉ làm có một đêm cho bớt nhớ, có
thêm tiền và có vẻ yêu đời hơn, tất cả đều
FREE.Chúc các bạn thật dui với ly Cordon Bleu.
Thịnh , LĐC.U7.
89 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
traã àuäa Lê Hải
Mới hơn 8 giờ sáng, câu-lạc-bộ của Duyên-
Đoàn 44 đã khá đông-đúc. Nhìn quanh ngƣời ta
có thể điểm-danh đƣợc, vì hầu hết những nhân-
viên của đơn-vị đều có mặt trong câu-lạc-bộ
sáng hôm nay. Ở một góc phòng, gần lối ra vào
cò một bàn nhỏ hơn những bàn khác, chung
quanh bàn chỉ kê ba cái ghế, vừa đủ cho ba sĩ-
quan dậy sớm nhất của đơn-vị ngồi: Trung-Tâm
Trƣởng Trung Tâm Hành-Quân và hai sĩ-quan
độc-thân đã dậy rất sớm để chuẩn-bị dẫn đoàn
tầu vào vùng công-tác trong sông Giang-Thành,
thay-thế các giang-đĩnh đang ở trong vùng. Đó
là Th/Úy Hòa , Trƣởng-Toán và Chuẩn-Úy Đan
Phụ-tá. Họ vừa nhâm-nhi ba ly cà-phê sữa đá
vừa nói chuyện, nghe rất nhỏ... Một phần vì
tiếng nói chuyện ồn-ào của các Hạ-sĩ-Quan, các
Thủy-Thủ bàn về trận đánh chiều hôm qua trên
sông Giang-Thành, một phần vì các Sĩ-quan
đang nói nhỏ, không muốn ngƣời khác nghe:
- Theo nhƣ Lệnh Công-Tác Th/Úy Hòa phải
dẫn đoàn tầu tuần-tiễu từ cửa Cự-Đức
Sông Giang-Thành chạy qua khỏi xã Trà-Phô,
tới gần xóm nhà lá ven sông, tại tọa độ mà địch
đã phục-kích đoàn tầu của chúng ta chiều ngày
hôm qua... Tr/Úy Hải đang nhìn Th/Úy Hòa dặn-
dò .
- Làm sao mà tôi dám dẫn đoàn tầu tới gần
địa-điểm mà tụi nó đã đánh mình hôm qua khi
bộ-binh chƣa hành-quân giải-tỏa xóm nhà đó?
Th/Úy Hòa lên tiếng.
- Tôi chƣa nói hết anh đã “nhẩy vô họng”tôi
rồi. Tôi nói đó là lệnh công-tác nhƣng tôi muốn
nói... anh đừng dẫn đoàn tầu tới quá gần địa-
điểm đó, chỉ đi qua khỏi xã Trà-Phô rồi quay trở
lại. Tôi không muốn mất thêm bất cứ một chiếc
tầu nào nữa, chúng ta chỉ còn có ba chiếc tầu có
thể khiển-dụng đƣợc...
Cộng-Quân Phục-kích Đoàn Tầu
Tuần-Tiễu DĐ 44
Chiều ngày hôm qua khoảng 1530 giờ, trƣớc khi
Lệnh Ngƣng Bắn có hiệu-lực, theo Hiệp-Định
Ba-Lê vào sáng ngày hôm sau, Cộng-quân đã
phục-kích và tấn-công đoàn tầu tuần-tiễu của ta
trên đƣờng về từ ngã ba sông Giang-Thành và
Kinh Vĩnh-Tế (do Giang-Đoàn 62 Tuần-Thám
trách-nhiệm.). Việt-Cộng đã khai-hỏa khi đoàn
tầu di-chuyển tới khoảng giữa xóm nhỏ nhà lá,
cũng là vào khoảng giữa khúc sông mà địch lợi-
dụng xóm nhà dân để phục-kích ba giang-đĩnh
do Th/Úy Sơn làm Trƣởng Toán.. Ngay đợt đầu
khai-hỏa của địch, chúng đã đánh chìm một
Yabota cây. Nhờ sự cảnh-giác vì lệnh “sẵn-sàng
tác-chiến của TTHQ (Trung-Tâm Hành-Quân)
bất cứ khi nào đoàn tầu đi ngang qua xóm nhà lá
này“...Các giang-đĩnh của ta đã phản-pháo rất
mãnh-liệt nhƣng vẫn không thể vƣợt qua khúc
sông phục-kích của địch, vì chỉ còn một giang-
đĩnh chạy đƣợc, kè một chiến-đĩnh đã bị địch
bắn bất khiển-dụng, nên đành quay trở lại ngã ba
sông Giang- Thành và kinh Vĩnh-Tế.
Chỉ-Huy-Trƣởng Duyên-Đoàn 44, Thiếu-Tá
Nguyễn-Văn-Tƣ đã dẫn 3 chiến-đĩnh từ hậu-cứ
lên tiếp-viện, và định đƣa các thủy-thủ bị thƣơng
về Bệnh-viện Hà-Tiên cứu chữa; cũng bị địch-
quân tấn-công dữ-dội. May nhờ có Pháo-binh
yểm-trợ nên đoàn tầu của CHT, Thiếu-Tá Tƣ đã
vƣợt qua khúc sông địch phục-kích, “bắt tay”
đƣợc với đoàn tầu của Th/Úy Sơn. Kết-quả trận
đánh: Ta mất 01 chiến-đĩnh (ghe cây) - 01
HSQ/Thuyền-Trƣởng mất-tích và 01 Thủy-Thủ
90 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
chết trong đêm, vì bị thƣơng nặng ở bụng mà
không đƣợc trực-thăng tải-thƣơng cấp-cứu.
Ngoài ra chúng ta còn có thêm 03 nhân-viên
bị thƣơng nhẹ.Thiệt-hại phía Địch... Không Rõ!
Tới gần sáng, CHT Duyên -Đoàn Th/Tá Tƣ
đƣợc trực-thăng của Tiểu-Khu Kiên-Giang
“bốc” trở về đơn-vị, ngay trƣớc khi Lệnh Ngƣng
Bắn, vào lúc 0800 giờ, sáng ngày 27 tháng 1
năm 1973 của Hiệp-Định Paris có hiệu-lực.
- Thƣa Trung-Úy, Chỉ-Huy-Trƣởng muốn gặp
Trung-Úy gấp trên văn-phòng.
Sau khi nghe Hạ-Sĩ Bí-Thƣ của CHT nói, tôi
vội-vàng hớp hết ly cà-phê đá đang uống dở,
đứng dậy bƣớc theo Hạ-Sĩ/BT Thành, vừa đi tôi
vừa ngoái cổ lại nói với Thƣợng-Sĩ/TP Ba ,
HSQ coi Câu-lạc-Bộ:
- Ghi sổ ba ly cà-phê cho tôi nghe!.
Th/Úy Hòa vội đứng lên và xua tay nói:
- Khỏi! Khỏi ghi sổ Anh Ba, tôi có tiền trả
đây.
Một ngày trƣớc khi ngƣng bắn theo Hiệp-định
Hòa-Bình Ba-lê, Địch đã mở chiến-dịch “Lấn
Đất Dành Dân” đánh phá ta khắp mọi nơi trên
toàn lãnh-thổ miền Nam Việt Nam: Từ tuyến-
đầu Quảng-Trị... Rồi đến tận vùng Tây Nam của
lãnh-thổ, Mũi Nai một ấp nhỏ bé, nằm sát đƣờng
biên-giới Miên-Việt, thuộc Quận Hà-Tiên, cuối-
cùng cũng bị Cộng-quân đánh chiếm, cùng vào
lúc chúng đánh đoàn tầu tuần-tiễu của Duyên-
Đoàn 44, trên sông Giang-Thành..
Trận-chiến Giữa BĐQ/Biên-Phòng
Và Quân CS Bắc-Việt.
Sau khi tôi dơ tay chào trình-diện Chỉ-Huy-
Trƣởng.Th/Tá Tƣ đƣa tay ra hiệu cho tôi ngồi
xuống chiếc ghế trƣớc mặt, ông nói:
- Anh hãy ra lệnh cho tất cả PCF biệt-phái
trong vùng về đơn-vị mình, bơm đầy hầm dầu và
kiểm-soát đầy-đủ đạn-dƣợc ngay trong ngày
hôm nay. Anh viết công-điện chỉ-thị cho Th/Úy
Thanh, Tiền-Doanh Yểm-Trợ An-Thới cho xe
bồn, chạy ra chợ bơm dầu đầy cho các PCF. Nếu
chúng nó cần thêm đạn-dƣợc, cũng phải cung-
cấp cho đủ cấp-số, đầy-đủ.Anh về phòng hành-
quân làm ngay đi, rồi chờ lệnh..
- Xin tuân-lệnh Chỉ-Huy-Trƣởng.
Chỉ hơn một tiếng sau khi đƣợc lệnh, khoảng
1030 giờ sáng chiếc PCF trong vùng gần nhất đã
cặp bến tầu chợ Hà-Tiên. Toán Tiền-Doanh
Yểm-Trợ An-Thới cũng làm việc không ngừng
vì bơm dầu lên xe bồn, khiêng đạn lên xe
GMC... tiếp-tế cho các PCF.
- Tr/Úy có cho các nhân-viên PCF đang lấy
dầu lên bờ ăn sáng đƣợc không? Thuyền-Trƣởng
hỏi và đang chờ lệnh ? Nhân-viên trực máy quay
lại hỏi Trung-Tâm-Trƣởng.
- Không đƣợc! Có lệnh, nhổ neo bất-cứ lúc
nào!
Khi mặt Trời đỏ-ối vừa lặn khuất dƣới đƣờng
ngang mặt biển, cũng là lúc chiếc PCF thứ ba
của Hải-Đội IV Duyên-Phòng tăng-phái cho
Trung-Tâm Hành-Quân DD 44- “một chấm”
Đặc-Nhiệm của Vùng IV Duyên-Hải / An-
Thới.; Vừa hoàn-tất việc lấy thêm dầu và đạn-
dƣợc.
- Hotel, Hotel! Chừng 15 phút nữa, tôi sẽ
zulu!
- Nghe 5/5.
Tối nay khác hẳn những đêm tối khác tại
quận-lỵ Hà-Tiên; Trời vừa chập-choạng tối,
mới gần chín giờ mà đã vóng bóng những “nàng
tiên” dạo quanh phố chợ, vắng tiếng nói, tiếng
cƣời ồn-ào phát ra từ các quán nhậu lộ-thiên
giữa chợ...
Sáng sớm ngày thứ 3 kể từ khi Lệnh Ngƣng
Bắn của Hiệp-Định Ba-Lê có hiệu-lực.
Tiếng gõ cửa phòng đùng-đùng, làm tôi giựt
bắn ngƣời lên:
- ĐM gõ cửa gì mà dữ vậy? Tôi gắt-gỏng la
lên.
- Tôi đây! CHT đây! Anh đừng hỗn với tôi
nhá!
Tôi tỉnh ngủ ngay sau khi nghe tiếng nói với
giọng Bắc quen-thuộc của Th/Tá Tƣ
91 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
- Xin lỗi CHT, Tôi tƣởng mấy thằng em
phòng HQ đánh thức tôi nữa.
- Anh bận đồ lên văn-phòng tôi vừa uống
cà-phê, vừa nói chuyện.
- Dạ, vài phút nữa tôi sẽ đi ngay.
Đêm qua SQ Trực phòng hành-quân đã đánh
thức tôi dậy mấy lần vì “điện-thám” báo-động:
địch đang di-chuyển tại tọa-độ mà chúng đã
đánh đoàn tầu ngày hôm trƣớc. Tôi không thể
cho tầu tuần-tiễu của chúng ta trong sông Giang-
Thành, tới để bắn các điểm báo-động đó đƣợc,
theo lời yêu-cầu của HSQ Trƣởng-Toán Điện-
Tử, vì khúc sông này đã nằm trong sự kiểm-soát
của địch kể từ khi lệnh Ngƣng Bắn có hiệu-
lực... Tôi mới chợp mắt chƣa đƣợc bao lâu, lại
đến Chỉ-Huy-Trƣởng tới phòng tôi đang ngủ đập
cửa .
Vào văn-phòng CHT sau khi trình-diện, tôi
đƣợc ông chỉ tay ngồi xuống ghế tại bàn làm
việc của Hạ-Sĩ/BT Thành gần đó. Hai ly cà-phê
sữa nóng nhỏ và một bình nƣớc trà nhỏ cùng
những tách trà đã để sẵn trên bàn; Ly-tách, dĩa
sành có viền vàng, bông-hoa trông rất đẹp và
sang-trọng. Đây cũng là những “chiến-lợi-
phẩm” mà chiếc ghe cây Yabota của CHT đã
tịch-thâu (dâng-biếu thì đúng hơn) từ các ghe
Thái-Lan, chở đủ thứ hàng, từ bút máy, hộp quẹt
Zippo, chén dĩa, bộ bình trà kiểu của Trung-
Cộng ... đến đƣờng thốt-lốt của Miên đƣợc
nhập-lậu qua cửa khẩu Hà-Tiên..
- Tôi biết mấy ngày nay anh đã làm việc rất
vất-vả ngày đêm và thiếu ngủ rất nhiều.
Tôi ghi-nhận điều đó... Sáng sớm hôm nay tôi đã
nhận đƣợc một cú phôn của Trung-
Tá Bùi-Viết-Thanh, Liên-đoàn-Trƣởng Liên-
Đoàn 5 Biệt-động-Quân Biên-Phòng; Ông yêu-
cầu tôi biệt-phái một Sĩ-Quan chuyên về hành-
quân cho Chi-Khu Hà-Tiên.
Tôi nhận thấy anh là SQ duy-nhất của đơn-vị có
nhiều kinh-nghiệm về hành-quân; nên tôi phải
chỉ-định anh. Anh sẽ trực-tiếp ra lệnh cho các
PCF bắn yểm-trợ cuộc hành-quân mỗi khi có lời
yêu-cầu của Tr/Tá Thanh, SQ thâm-niên chỉ-huy
cuộc hành-quân. Khi anh qua đó trình-diện, anh
sẽ biết rõ hơn chi-tiết cuộc hành-quân .
- Dạ đƣợc, nhƣng bao giờ tôi phải qua Chi-
Khu, trình-diện Tr/Tá Thanh?
- Đi ngay bây giờ để kịp nghe Tr/Tá Thanh
cho biết kế-hoạch hành-quân cùng lúc với các
đơn-vị khác. Uống hết ly cà-phê rồi hãy đi!
- Cám ơn CHT, tôi về phòng lấy cái nón đi
biển rồi đi ngay.
Quận Hà-Tiên hay Chi-Khu Hà-Tiên nếu gọi
theo hệ-thống quân-sự, chỉ cách doanh-trại
Duyên-Đoàn 44 một hàng rào dây kẽm gai. Từ
cổng gác này qua cổng gác khác, tôi đi bộ chƣa
đầy năm, bẩy phút, tôi đã tới Phòng 3, là phòng
Hành-quân của Chi-Khu trên lầu, trong một tòa
nhà lầu, không lớn hơn một vi-la của ngƣời dân
trong quận là bao nhiêu. Ánh sáng lờ-mờ phát ra
từ những ngọn đèn tròn, treo lòng-thòng từ trên
trần nhà; Khi bƣớc hết các bậc thang và đã đứng
vững trên sàn gác, tôi có thể nhận diện rõ-ràng
những Sĩ-quan trong các bộ quân-phục khác
nhau, ngồi trên ghế kê nhƣ vòng cung trƣớc cái
bàn dài để các máy truyền-tin lớn, nhỏ. Tất cả
mọi ngƣời đều có vẻ mặt tƣơi cƣời nhìn về phía
tôi. Tôi vừa đi vừa dơ tay chào, tiến lại gần
Trung-Tá Thanh tôi gật đầu:
- Chào Trung Tá, tôi là Tr/Úy Hải Trung Tâm
Hành-Quân Duyên-Đoàn 44...
Rồi quay chào mọi ngƣời:
- Chào Thiếu-Tá, Chào Đại-Úy, Chào Trung-
Úy...
Trung-Tá Thanh trong bộ quân-phục rằn-ri hoa
rừng của Biệt-Động-Quân, dáng ngƣời to-lớn,
ngồi trên một ghế nệm bành, tại tâm-điểm của
vòng cung ghế ngồi trƣớc mặt ông. Ông đƣa tay
chỉ vào chiếc ghế trống đã dành sẵn cho tôi. Ông
nói:
- Vậy là chúng ta đã có đủ các SQ Hành-
quân đại-diện các binh-chủng Hải-Quân, Pháo-
Binh, Thiết-Giáp, Biệt-động-Quân, và Địa-
phƣơng-Quân... Mọi ngƣời đều biết Cộng-Sản
đã lợi-dụng Hiệp-định Hòa-bình Ba-Lê trƣớc khi
có hiệu-lực, đã mở chiến-dịch “Lấn đất dành
92 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
dân” tấn-công chúng ta khắp mọi nơi: phục-kích
đoàn tầu trong sông Giang-Thành; Đánh và
chiếm Ấp Mũi-Nai do Địa-phƣơng-Quân của
Chi-Khu Hà-Tiên trấn-giữ. Chúng ta sẽ không
để mất một tấc đất, hay mất một ngƣời dân nào
trƣớc giờ ngƣng bắn đã là của chúng ta về tay
địch. Cuộc hành-quân ngày hôm nay đã do Bộ
Tƣ-Lệnh Vùng IV Chiến-Thuật, chỉ-thị cho
Liên-Đoàn 5 Biệt-động-Quân Biên-Phòng do tôi
chỉ-huy, để đánh địch và chiếm lại Ấp Mũi-Nai.
Thiếu-Tá Nguyễn-văn-Mới, Chi-khu-Trƣởng
nói tiếp lời Tr/Tá Thanh:
- Hiện giờ VC đã cử một Sĩ-quan liên-lạc
với chúng ta tại Mũi Nai, xin đi vô quận
gặp tôi để nói chuyện? Tôi đã trình lên Tiểu-Khu
Kiên-Giang và Quân-Khu IV chúng ta
đang chờ lệnh.
- Tôi cũng lƣu-ý các Sĩ-quan, mỗi lần tôi
cần yểm-trợ của binh-chủng nào, tôi sẽ ra
lệnh cho Sĩ-quan của binh-chủng đó gọi máy ra
lệnh trực-tiếp cho các đơn-vị của mình.
Trung-Tá Thanh nhìn thẳng về tôi và nói tiếp:
- Trung-Úy Hải cho tôi biết là tầu Hải-
quân đã có mặt trong vùng và đã sẵn-sàng yểm-
trợ chƣa?
- Dạ thƣa Trung-Tá, Hải-Quân hiện có 3
Khinh-tốc-Đĩnh PCF, trang bị đại-liên 50 và đại-
bác 40 hai nòng, có đủ cấp-số đạn-dƣợc và dầu
chạy, sẵn-sàng vào vùng, yểm-trợ hành-quân bất
cứ lúc nào.
- Vậy thì tốt quá, anh có thể sử-dụng máy
truyền-tin của Tiểu-khu gọi các “con cá” bất cứ
khi nào tôi cần.
Tôi đi lại bàn để các máy truyền-tin và dùng
điện-thoại của Phòng Hành-Quân Chi-
Khu để gọi về “nhà”:
- Tuấn ra lệnh cho các con cá của mình “bẻ
cổ” qua tần-số tôi đã cho tụi nó đi.
- Nghe 5/5.
Tôi vừa dứt câu trên điện-thoại tôi còn đang
cầm ống liên-hợp, có tiếng chuông reo trong cái
điện-thoại khác để bên cạnh ghế ngồi của Trung
Tá Thanh.
- Thƣa Trung-Tƣớng tôi là Trung-Tá
Thanh nghe đây.
Trung Tá Thanh im-lặng lắng tai nghe những
chỉ-thị của cấp trên từ đầu dây điện-
thoại bên kia, thỉnh-thoảng ông nhếch mép mỉm
cƣời, rồi gật-gù:
- Xin tuân-lệnh Ttrung-Tƣớng. Tr/Tá
Thanh quay lại nhìn chúng tôi, ông nói:
- Tôi vừa nhận lệnh của Trung-Tƣớng Tƣ-
Lệnh Vùng IV Chiến-Thuật và lệnh này
cũng là lệnh của Trung-Ƣơng, của Tổng-Thống
Nguyễn-văn-Thiệu mà Quân-Khu đã hỏi và chờ
lệnh, “Chúng ta sẽ không thƣơng-thảo hay nói
chuyện với chúng nó nữa; Cộng-Sản đã không
tôn-trọng Lệnh Ngƣng-Bắn, chúng đã tràn qua
Sông Thạch-Hãn đánh Thủy-Quân-Lục-Chiến
của chúng ta ngay sau giờ ngƣng bắn có hiệu-
lực. Chúng ta phải đánh chúng, dành lại đất và
dân đã mất vào tay chúng”.
Bầu không khí trong phòng tự-nhiên trở nên
yên-lặng, nặng-nề... Chỉ còn nghe tiếng
rè-rè của các máy truyền-tin đang chạy... Nhìn
đảo qua một vòng các sĩ-quan có mặt trong
phòng, Trung Tá Thanh nói tiếp:
- Kể từ giờ phút này cuộc hành-quân giải-
tỏa Ấp Mũi Nai bắt đầu và cũng để trả -đũa
Cộng-Sản đã đánh chúng ta mấy ngày qua. Tôi
yêu-cầu tất cả các Sĩ-quan có mặt tại đây ngày
hôm nay, khi ra khỏi phòng sẽ không đƣợc tiết-
lộ bất cứ điều gì hay những chi-tiết của hành-
quân này với bất cứ ai.
- Ăn Miếng Trả Miếng, Chiến-Thắng Mũi-Nai.-
Ông quay ngƣời nhìn về phía ngƣời Sĩ-quan
Biệt-động-Quân ngồi gần bên tay phải
của ông, dáng ngƣời thấp nhƣng chân tay rất to-
lớn nẩy-nở, nƣớc da đen trông hơi giống
ngƣời Miên, trông rất già-dặn so với cấp bậc
Thiếu-Úy, Trung-Tá Thanh ra lệnh:
- Thiếu-Úy Đức lấy một chiếc xe Jeep,
một tài-xế, một truyền-tin mang theo máy PC-25
ngồi đằng sau chạy ra Mũi Nai để đón một Sĩ-
quan VC, Khi nào đến đó, xuống xe rồi nói cho
93 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
nó biết mình chỉ chở nó đi gặp Quận-Trƣởng
Quận Hà-Tiên nếu nó đồng-ý rút quân ra khỏi
Ấp Mũi Nai trở về bên kia biên-giới Miên-Việt.
Bằng không chúng ta không có chuyện gì để nói
cả.. Truyền-Tin nhớ mang theo cây M-16 dựng
bên hông ngƣời.
- Dạ tuân-lệnh.
- Anh đi ngay bây giờ cho tôi. Tụi nó
đang chờ mình trả lời đề-nghị của tụi nó.
Thiếu-Úy Đức đứng dậy, dơ tay lên chào mọi
ngƣời rồi đi xuống thang lầu. Mọi ngƣời trong
phòng vẫn giữ thái-độ im-lặng nhƣ sẵn-sàng
đợi-chờ những mệnh-lệnh kế-tiếp của vị Chỉ-
Huy-Trƣởng Hành-Quân.
- Pháo-Binh sẽ bắn pháo-lệnh “Tấn
Công” khi nào tôi cho lệnh, rỗi tới Thiết-Giáp,
Hải-Quân.. Khi ông nhắc đến binh-chủng nào thì
Sĩ-quan đại-diện binh-chủng đó nhìn ông gật đầu
nhƣ nhận lệnh.
Khoảng 15 phút im-lặng làm tôi cảm thấy
nhƣ nghẹt thở... Rồi cũng trôi qua, tiếng nói của
Thiếu-Úy Đức phát ra từ chiếc máy truyền-tin:
- Thạch-Sanh, Thạch-Sanh có một Sĩ-
quan và một thằng em Vi Xi đang đứng cách
khoảng 20 thƣớc, tôi xuống xe...
- Đừng đi tới, chờ chúng nó đi lại gần
rồi hãy nói.
- Nghe 5/5.
Một cảm-giác lo-lắng và hồi-hộp lúc này
trong tôi, cũng giống nhƣ cảm-giác mà tôi đã
cảm-thấy vào những giờ phút đoàn tầu của
Duyên-Đoàn 44 bị địch tấn-công trong Sông
Giang-Thành cách đây hai ngày.
- Thạch-Sanh, Thạch-Sanh nó không
chịu và đã quay trở lại...
- Đƣa tụi nó “đi” luôn qua biên-giới!
- Tạch! Tạch! Tạch! Tạch!...
Một loạt đạn súng M-16 phát ra giòn-giã
nhƣng ngắn-ngủi từ trong máy truyền-tin. Mà
ngƣời lính truyền-tin BĐQ đã “cẩn-thận” gửi
báo-cáo về trong lúc bắn!
Trung-Tá Thanh nhìn ngƣời Sĩ-quan Pháo-
binh trẻ, ông ra lệnh:
- Pháo-binh! Bắn! Thiết-giáp tiến lên!!!
Có tiếng Th/Úy Đức từ trong máy truyền-tin
gọi báo-cáo:
- Thạch-Sanh, Thạch-Sanh đã thanh-
toán mục-tiêu.
- Lục-xét quần áo lấy hết giấy-tờ cá-
nhân. của nó!
- Nghe 5/5.
Trong lúc mọi ngƣời đang lên máy ra lệnh
cho các đơn-vị của mình, tôi vẫn ngồi yên bất-
động!
- Kình Ngƣu, Kình-Ngƣu mấy pháo lớn
nổ trƣớc mặt, không thể tiến lên đƣợc.
Trung-Tá Thanh quay qua la vị sĩ-quan
pháo-binh:
- Tôi nói chỉ bắn “pháo-lệnh” thôi mà!
Pháo-binh hãy ngƣng bắn ngay để cho
Hải-quân bắn yểm-trợ đƣợc rồi...
Bây giờ đến lƣợt các PCF của Hải-Đội 4
Duyên-Phòng bắt-đầu nhả đạn.. Ba chiếc PCF
94 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
chạy nối tiếp nhau, khi tới mục-tiêu mới khai-
hỏa tác-xạ trong một ô (1 km) vuông.
- Mấy con cá bắn đẹp quá! đẹp quá!!!
Tiếng reo mừng của một đơn-vị BĐQ tại mặt
trận Mũi Nai, vang lên trong máy truyền-tin.
- Tango, Alfa, Delta coi chừng bắn trúng
các con cua sắt.
- Hotel đừng lo, tụi tui thấy mấy con cua
trên bravo mà.
Trong lúc mọi ngƣời còn đang bận-rộn điều-
động các đơn-vị của mình, Thiếu-Úy Đức và
một ngƣời lính BĐQ đeo máy tryuền-tin PC-25,
bƣớc vào phòng, Th/Úy Đức tiến đến và ngồi
xuống chiếc ghế của anh lúc trƣớc, bên tay phải
Tr/Tá Thanh.
- Thƣa Tr/Tá khi tôi bảo thằng Sĩ-quan
CS Bắc-Việt, trông nó rất trẻ, là trả lại cho mình
Ấp Mũi-Nai rồi mới nói chuyện; Nó nói không
đƣợc vì “Chúng tôi đã chiếm đƣợc trƣớc ngày
ngƣng bắn, bây giờ chúng ta phải tôn trọng
Hiệp-định là ai ở đâu thì phải ở đó, không đƣợc
lấn-chiếm bên kia”…
- Các anh đã lợi-dụng Hiệp-định Ba-Lê
để lấn đất dành dân của chúng tôi ngay
trƣớc khi có lệnh ngƣng-bắn, nên các anh phải
trả lại Ấp Mũi Nai cho chúng tôi.
- Tại sao các anh không muốn nói chuyện
và sống hòa-bình với nhau à? Về dề-nghị của
anh, tôi sẽ về trình lại với cấp trên.
- Nó vừa quay lại và đi xa khoảng 10
mét, tôi ngồi trên xe và ra lênh cho thằng Năm
ngồi sau lƣng “ria” cho một tràng M-16, cả hai
đứa cùng đổ xuống nhƣ cây chuối.. Rồi tôi tới
lục túi áo, quần lấy hết giấy-tờ của tụi nó, theo
nhƣ lệnh của Trung Tá.
Trung-Tá Thanh hơi nhếch mép cƣời nhƣ
thỏa-mãn với công-tác mà ông đã giao-phó cho
Thiếu-Úy Đức. Ông đƣa tay cầm lấy tờ giấy viết
tay, gấp làm tƣ và một thẻ căn-cƣớc có hình do
Th/Úy Đức cầm trên tay trao cho ông.
- Anh dẫn thằng Năm ra ngoài uống cà-
phê đi. À trƣớc khi đi, nhân đây tôi cũng
nhắc-nhở mọi ngƣời một lần nữa... Tr/Tá Thanh
quay lại nhìn mọi ngƣời rồi nói tiếp: “Bất cứ Sĩ-
Quan nào trong phòng ngày hôm nay, mà tiết-lộ
bí-mật quân-sự trong cuộc hành-quân nảy, tôi sẽ
đƣa ngƣời đó ra Tòa-Án Mặt-Trận Quân-Sự”.
Cuộc hành-quân Mũi Nai hoàn-toàn do
Liên-Đoàn 5 Biệt-Động-Quân Biên-Phòng
làm chủ-động. Các đơn-vị khác có mặt tại Phòng
Hành-Quân của Chi-Khu Hà-Tiên hôm nay, chỉ
là những đơn-vị yểm-trợ.
Nếu tính từ giờ phút mà tôi bƣớc vào
Hành-quân của Chi-Khu, cho tới khi đƣợc lệnh
của Tr/Tá Thanh trở về đơn-vị; Thời-gian cuộc
hành-quân Mũi Nai chỉ kéo dài khoảng ba tiếng
đồng-hồ. Và chúng ta đã chiến-thắng quân
Cộng-Sản và lấy lại Ấp Mũi-Nai một cách dễ-
dàng; Đó là nhờ vào yếu-tố bất-ngờ, khi địch-
quân còn đang say-sƣa trên chiến-thắng nên khi
BĐQ tiến đánh, chúng đã không kịp trở tay. Âu
cũng là hậu-quả của sƣ “ăn miếng trả miếng”.
Cộng-quân đã phải nhận sự thảm-bại của việc
Trả Đũa không thể tránh đƣợc này.
Lê-Hải
30 Tháng Tƣ Năm 2010.
95 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
mr. Haâo retires...
Đường Hào
Cuối năm 2009 ông Hào nghỉ hƣu. Việc thay
ban giám đốc trong văn phòng, đổi cách thức
làm việc cọng vào lớp nhân sự mới đã đƣa ông
đến quyết định chấm dứt dòng quan lộ. Tính đến
ngày về hƣu, Ông Hào đã hơn 30 năm sáng vác
ô đi, chiều vác ô về; từ một anh thƣ ký trong bộ
Xã Hội đến trƣởng một văn phòng liên lạc kỹ
thuật vi tính cho bộ Hƣớng Nghiệp của tiểu bang
mƣa nhiều nắng ít.
Hôm đó là một ngày thứ sáu; cuối tháng chạp
nên trời nhiều mây mù, xám và lạnh. Đồng hồ
trên tƣờng chỉ đúng 5 giờ chiều, giờ tan sở
nhƣng
Ông Hào
hãy còn
bịn rịn
chƣa
muốn ra
về bởi vì
hôm nay
là một
ngày rất quan trọng trong đời ông, ngày làm việc
cuối cùng, ngày ông retire, nghỉ hƣu chấm dứt
một chặng đƣờng dài của một công thần, nhƣ lối
nói xa xƣa. Bịn rịn có lẽ là vì hôm nay khi ông
bƣớc ra khỏi căn phòng này là hết, là chấm dứt,
không còn sự trở lại.
Nhƣng dù sao thì mọi thứ có dấu ấn cá nhân của
Ông Hào coi nhƣ cũng đã hoàn tất, mission
accomplished; phƣơng trình thành lập thuế thất
nghiệp năm 2010 đã 'run' xong. Vào tuần tới, sẽ
có hơn 165 ngàn doanh nhân trong bang
Washington nhận đƣợc bảng thuế nhƣ dự liệu.
Phần công việc còn lại nhƣ kiểm chứng, lập hồ
sơ tài liệu... ngần ấy thứ chỉ cần thêm vài giờ
đồng hồ nữa cho một nhân viên ngạch thấp, nhƣ
Linda, là đủ.
Vâng, Linda, một trong bốn ngƣời đàn bà còn sự
liên hệ dây dƣa đến phút cuối cùng của sự
nghiệp ông Hào. Xin nói để rộng đƣờng dƣ luận
hầu tránh né những hoan tƣởng của những kẻ
quá giàu trí tƣởng tƣợng, sự liên hệ nói ở đây
hoàn toàn đặt trên căn bản nghề nghiệp và nhiều
lúc mang tính chất đặc sệt đạo đức. Nói về đám
'tứ nhân bang' này, Linda, Nancy, Carol và
Kellie có thể dựa trên căn bản thời gian nhƣ khi
nói về một món đồ cổ hoặc dựa vào số kí lô sức
nặng hay mức tàn phá tâm lý hậu quả của những
công trình đụng chạm do các nhân vật này gây
ra cho ông Hào. Bốn nhân vật này là bốn ốc đảo,
họ không có điểm chung, không cùng lý tƣởng;
bốn gánh nặng trên vai Ông Hào. Đứng từ một
cách nhìn khác, phải chăng đây cũng là một sức
công phá mang dồn đến một độ ép cho việc Ông
Hào ra đi (về hƣu)?
Nhƣng trƣớc hết phải nói đến cái tên gọi của
Ông Hào, 'Mr. Hào' nhƣ mọi cọng sự viên từ lớn
tới nhỏ trong bộ phận 'IT' đã gọi. 'Mr. Hào' là
một kiểu nickname ban tặng cho ông Hào một
cách chân thành, thân mật với cả nể nang, một
kiểu 'nom de voyage' nếu muốn hiểu nhƣ vậy.
Khi cần một câu trả lời về bất cứ thứ gì liên hệ
đến 'system' cái tên đƣợc đƣa ra sẽ là 'Mr. Hào'.
'Mr. Hào' trở thành phổ thông, quảng bá trong
địa hạt IT của Bộ Hƣớng Nghiệp, hiểu nhƣ một
biểu tƣợng của một kiến thức, một hiểu biết lớn
lao khó thay.
Còn các thành viên của 'tứ nhân bang' kia thì
sao? Nếu chấm về mức độ của stress, hóa chất
96 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
gây đau tim cho supervisor Hào, thì phải nói đến
Linda trƣớc hết. Cô đứng đầu sổ. Linda tên trọn
gói là Linda Foshaug, ngƣời cao lớn và vạm vỡ
nhƣ một anh khổng lồ. Bàn tay cô ta -với những
ngón tay có móng dài đƣợc manicured kỹ lƣỡng
và đều đặn mỗi hai tuần- xòe ra là có thể tóm
gọn nguyên cả cái đầu ngƣời đối diện. Giọng
khàn đục và chát; mỗi lần phát ngôn trong phiên
họp, Linda tàn nhẫn dập tắt biết bao nhóm lửa
hứng thú của nhiều ngƣời và lôi kéo theo lắm
khuôn mặt khó chịu. Thật ra Linda là một ngƣời
đàn bà có nhan sắc. Với ba vòng rõ rệt cọng vào
mái tóc vàng, dài và mềm mại phủ kín bờ vai,
Linda hiền nhƣ một con sƣ tử cái đang ngủ. Xét
cho kỹ không phải ngƣời nghe bất bình Linda vì
giọng nói mà thật ra là ở cách diễn đạt có vẻ
'thầy đời' của cô. Đặc biệt là khi cô nói về những
hiểu biết kỹ thuật dù cô ta vừa học từ Ông Hào.
Những lúc nhƣ vậy, tất cả mọi ngƣời đều trở
thành những ngƣời ngốc nghếch và trời sanh ra
Linda là để dạy họ. “I have been here thirty
years!” mỗi lần nghe Linda bắt đầu câu kinh
nhật tụng này mọi ngƣời đều biết cô sắp lên lớp
họ nhất là Charlie Đặng, anh programmer Việt
nhỏ nhắn, lập tức đốp chát ngay: 'here she goes
again!' đấy, cô ta lại nhƣ thế đấy!. Từ đó mới
thấy không lạ gì trong hồ sơ cá nhân của Linda
chứa quá nhiều văn thƣ kỷ luật cũng nhƣ khiển
trách hậu quả của những vụ thƣa kiện mà mỗi
một vụ nhƣ thế Ông Hào trong vai trò ngƣời chủ
sự đã bị ảnh hƣởng đến. Thí dụ một lần Kevin,
chồng Linda mở một tiệm ăn cô ta đã dùng hiểu
biết về kỹ thuật thuế má của mình hoàn tất hồ sơ
cho restaurant của Kevin mà không thông qua
nhóm nhân viên thuế vụ. Đây là tội lạm dụng
chức năng. Một lần khác, cô bị lôi lên phòng
nhân viên về tội lạm dụng e-mail. Theo tài liệu
Ông Hào nhận đƣợc từ nhân viên IT, Linda đã
gởi đi hơn một trăm lá thƣ với hình ảnh thuộc
loại 'dơ'. Hoặc một lần gần nhất Linda đã bị một
nhân viên kỹ thuật thƣa cô ta về tội mạ lỵ, being
rude; lần này thì dễ hiểu hơn, Linda đã dùng
ngón sở trƣờng của mình lên lớp ngƣời khác
không đúng chỗ. Nhƣng dù thế nào đi chăng
nữa, mỗi lần Linda vi phạm là Ông Hào, với tƣ
cách một manager, phải mất nhiều thì giờ làm
việc với phòng nhân viên và nghiệp đoàn. Ông
phải viết báo cáo, trả lời văn thƣ kiểm thảo về
ngƣời nhân viên phụ tá mà Ông không hề có lựa
chọn. Theo đúng nguyên tắc hành chánh về quản
trị nhân viên, những lần làm việc nhƣ thế vối
Linda đều bắt đầu bằng một cuộc gặp gỡ tay đôi,
'one on one meeting' với cô ta. Để giảm nhẹ tính
căng thẳng dƣ thừa cho buổi nói chuyện, Ông
Hào thƣờng bắt đầu bằng cái nắm tay thân mật -
sau cánh cửa khép, dĩ nhiên! Ông vỗ nhẹ lên tay
cô và gọi tên: 'Linda'. Câu nói chƣa trọn vẹn thốt
ra từ miệng Ông Hào, đôi mắt của Linda đã thấy
đỏ và nƣớc mắt đã lƣng tròng: Linda là một
ngƣời khổng lồ yếu đuối! Thế rồi cuộc họp bế
tắc, câu chuyện dở dang, và sau đó, chứng nào
tật ấy, Linda trở về với cái bản chất của cô. Thiệt
là giang sơn dễ đổi, bản tánh khó thay!
Ngƣời kế đến phải là Nancy mà Ông Hào còn
nhớ một cách rõ ràng cái lastname cô ta ở thuở
ban đầu 'thơ mộng ấy' là Farmer. Đúng vậy:
Nancy Farmer. Ngƣời đàn bà này là một cọng sự
viên lâu nhứt, qua nhiều chức vụ và phần hành
trong cùng 'Bộ' với Ông Hào. Chả thế, khi nói về
mối liên hệ nghề nghiệp sâu xa này Ông Hào
vẫn thƣờng bông đùa: 'chúng tôi có thể là một
cặp vợ chống'; ý nói hai ngƣời gặp nhau còn
nhiều hơn gặp chính ngƣời phối ngẫu của mình.
Sự khởi thủy của cái relationship này bắt đầu từ
lúc Ông Hào mới chân ƣớt chân ráo, lúc vừa vào
làm việc cho 'Bộ' nhƣ một nhân viên kế toán.
Lúc đó, Nancy còn là Nancy Farmer, vừa mới
theo chồng một cựu chiến binh Việt Nam từ
miền đông, Connecticut đến định cƣ ở thành phố
thủ phủ này. Là một ngƣời da trắng, mắt màu hạt
dẻ nhƣng Nancy có chiều cao vừa tầm thƣớc của
một phái nữ Á Đông: lùn! Nhƣng đừng để bị
lầm giữa cái thƣớt tất thẳng đứng khiêm nhƣờng
và tài phát ngôn vung vít vô tội vạ của Nancy.
Trong nhà Phật, khẩu nghiệp là lớn tội; Nancy
97 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
phải huân tập qua đời kiếp nhiều tội lắm. Khác
với Ông Hào điềm tĩnh ít lời, Nancy nói nhiều,
và hay nói. Khi đã nói thì không ngƣng mà nói
nhiều thì thế nào cũng vấp. Điều hơi bất ngờ ở
đây là Ông Hào có một khả năng trời phú: nghe
chọn lọc, một selective hearing. Không phải kiểu
nghe tai này lọt tai kia mà chỉ nghe những gì cần
nghe. Bởi thế Ông có thể gạn lọc những thứ cần
dùng từ Nancy. Trong lúc nàng mở máy phát âm
thì Ông Hào cặm cụi viết, bắt đầu coding lập
trình, tạo dựng những phƣơng thức đề án... Vì
vậy mà hai ngƣời lại ghép thành một đôi một
cách hiệu quả khi văn phòng cần tuyển một số
nhân viên có kinh nghiệm qua làm project điện
tử hóa công việc sổ sách kế toán. Một sở trƣờng
của Nancy nhƣng lại là một tai họa cho Ông Hào
đó là cô ta hay xung phong Ông, đƣa ông ra phía
trƣớc nhƣ một loại bia đỡ đạn trong các phiên
họp. Nếu Ông Hào không đề cao cảnh giác, làm
hiệu ra dấu, thƣờng là một cái đá chân dƣới gặm
bàn, thì nàng sẽ thoải mái tình nguyện nhận lãnh
những công việc mà tự cô chỉ có Ông Hào là
ngƣời có thể hoàn tất. Một ngày tháng mƣời
hai, cà hai ngƣời đƣợc điều động đến làm việc
trong một văn phòng hắc ám . Nói là văn phòng
nghe cho oai chứ thực chất đó chỉ là một nhà
kho hai chục thƣớc vuông lạnh lẽo và chật chội
vừa đủ kê hai chiếc bàn với ngổn ngang trên đó
máy móc từ PC đến printers, và một cái tủ đựng
văn phòng phẩm kèm thêm một máy in loại
plotter tổ chảng. Có nghĩa là rất chật chội. Hai
ngƣời khi ra vào phải tránh né nhƣ đang trong
một thế nhảy đầm để không xảy ra những đụng
chạm có thể gây hiểu lầm giữa hai kẻ không
cùng phái tính. Thƣờng xuyên công việc của cả
hai hay bị gián đoạn một cách dở dang chỉ vì
một ngƣời nào đó đến lấy một bản in hay tìm
một cây viết, quyển sổ... Nhƣ đã nói hôm đó là
tháng mƣời hai, tháng mƣời hai của hơn ba mƣơi
năm về trƣớc nên rất lạnh. Lạnh cóng nhƣ lần
Ông Hào mang vợ con giã từ thành phố nắng ấm
Nice, Côte d'Azur. Ngày đó dọc con lộ xuyên
bang mà dân bản địa gọi là I-5 tuyết ngập trắng
xóa và cao phả đầu. Cái gọi là căn phòng hắc ám
kia lại chả có gắng máy sƣởi, hai chiếc sƣởi
xách tay không làm ấm lòng ngƣời dù phải vừa
mang găng tay vừa nhấn bàn phím. Vậy là cà
hai, Ông Hào và Nancy đều bị cúm. Lần này thì
mất toi hai tuần lễ nằm nhà và hai tô súp asperge
trong tiệm ăn 'Petite Maison' nhớ đời. Nói về ăn
thì Nancy ăn đƣợc tất cả mọi thứ không từ nan
dù là đồ Tây, Mỹ, Phi hay Á; nàng ăn tuốt ngay
cả những con cá nhỏ li ti anchovy, cùng loại với
mắm nêm của ngƣời Việt mặn chát. Cái khẩu vị
của cô này thật quái lạ, nàng thích gọi cho mình
một chiếc bánh Pizza điểm mặt với những chú
anchovies nhỏ nhoi tội nghiệp. Nancy thấp
nhƣng con số ngƣời phối ngẫu đi qua đời cô thì
cao, ít nhất cũng phải năm trự. Mỗi lần nhƣ vậy,
Nancy hãnh diện thông báo đổi tên. Này nhé từ
Farmer, đổi ra Smith, đến Howard, đến Howe...
Không chỉ tự mình kiếm đƣợc nhiều đấng mày
râu để đầu gối tay ấp cho ấm, Nancy còn có giấy
phép hành nghề làm đám cƣới cho ngƣời khác.
Khi đƣợc hỏi nghĩ gì khi làm công việc tay trái
này, Nancy đáp: 'Tui thích nó lắm. Nhất là sau
khi tuyên bố những cặp hôn phối này thành vợ
thành chồng có thể hôn nhau, 'now you are
husband and wife, you may kiss the bride', họ
hôn nhau say đắm, thật vui' Nói xong cô cƣời hề
hề, hai con mắt có đuôi. Tháng Bảy tới, Nancy
lại lên xe hoa, đổi tên thành Lewisky và dọn về
miền đông nơi cô đã rời nó trƣớc đây, giống nhƣ
trong lời ca 'đi năm phút trở về chốn cũ'.
Nếu Linda là con sƣ tử cái thì Kellie là con cọp
tàu cau, rằn rện. Đối với Ông Hào rừng thì phải
có cọp, không cọp thú hoang sẽ tràn đầy. Khác
với Linda to bự, Nancy nhỏ còi, Kellie cao ráo
và xƣơng xẩu. Kellie là một lesbian, đồng tính
luyến ái nữ. Cách ăn mặc của cô cũng khác, luôn
luôn quần jean áo pull; tóc cắt 'garcon' con trai,
ngắn và cao. Cô hay đi giày ống cao, mang một
vòng tai và hút thuốc lá và vì hút nên cô hay
nhai gum; lúc nào miệng cũng nhỏm nhẻm kẹo
cao su trông thật khó coi. Kellie siêng năng
98 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
trong công việc nhƣng đừng nhầm. Cô chỉ siêng
làm những gì cô thích và hầu nhƣ những gì cô
thích đều không ăn nhậu gì đến việc văn phòng
cần hay Ông Hào muốn cô làm. Tỷ dụ nhƣ cô
thích tổ chức party để cô có dịp sai ngƣời này
ngƣời kia mà không ai phiền hà phản đối -cô nên
làm manager cho một tiệm ăn thì đúng hơn- và
không bao giờ quên kéo theo các thành viên
đảng Malboro đi ra ngoài hút thuốc lá ba lần
trong một ngày. Tuy nhiên con cọp Kellie cũng
có chỗ dùng. Nhƣ sơn lâm không thể có hai
chúa, Kellie không ƣa Linda! Never! Ông Hào
biết rõ điều đó. Chỉ cần nhìn cặp mắt bén nhƣ
dao cạo Kellie liếc Linda khi hai ngƣời cãi nhau
ai cũng nhận ra có một cái gì đó bẩm sinh giữa
hai ngƣời đàn bà này. Hình nhƣ ở mọi phƣơng
diện Kellie đều hơn Linda; ngạch trật cao hơn,
kỹ thuật giỏi hơn và mƣu trí cũng cao hơn. Cô
tình nguyện làm phụ tá cho Ông Hào, tạo dịp
cho mình có vị trí giám sát Linda trong mọi tình
huống. Thí dụ nhƣ Kellie sẽ là ngƣời huấn luyện
kỹ thuật khi một application có vấn đề để nhân
đó sát phạt con sƣ tử cái ngủ ngày kia. Những
lúc nhƣ vậy thế nào Ông Hào cũng nhận đƣợc e-
mail cầu cứu từ Linda và lại phải làm báo cáo
lên sếp lớn. Thật muốn bể cả cái đầu, oan gia
tƣơng hội!
Trong cái 'đảng bốn ngƣời' của văn phòng liên
lạc dƣới trƣớng Ông Hào, Carol, Carol Ventura
là ngƣời nặng ký nhất. Nặng ký thật, không văn
chƣơng. To hơn một bao gạo chỉ xanh, Carol có
thể làm gãy những chiếc cân nếu trên một tạ
rƣỡi! Cô có vóc dáng của một trái lê -vòng ba
lớn hơn cả- với mái tóc đen dài và đôi mắt nâu
Nam Mỹ (không phải 'ngƣời em mắt nâu tóc
vàng sợi nhỏ' của nhà thơ Cung Trầm Tƣởng
đâu nhá). Khi Carol bƣớc thời gian nhƣ ngừng
trôi bởi vì mọi ngƣời đều đứng tim, chỉ biết im
lặng cầu nguyện cho tầng lầu không sụp xuống
nhƣ dạo Olympia có cơn địa chấn 7 chấm. Về
phƣơng diện nghề nghiệp những chi tiết vừa kể
không phải là đối tác chính đáng. Điều nên nói ở
đây là Carol hay làm những việc không ghi
trong bảng phần hành theo chức năng của ngạch
trật mà cô ăn lƣơng. Nói một cách thực tế, cô tự
cho mình có tài về kiến tạo phần mềm và lúc nào
cũng tự xếp mình vào trách nhiệm của một
chuyên gia vi tính thay vì một liên lạc viên thứ
con thoi giữa ngƣời dùng và kẻ viết lập trình.
Tháng Hai rồi cô tƣơi tắn xin phép hai tuần về
Venezuela đƣa ngƣời yêu của mình qua Mỹ
hoàn tất thủ tục cƣới xin. Dĩ nhiên rồi hạnh phúc
cũng sẽ đến bởi ông bà mình vẫn nói 'nồi nào thì
vung nấy' lo chi cho mất công...
Ông Hào cầm tấm hình gia đình bỏ vào thùng,
đóng nắp rỗi quay qua nói với bốn ngƣời đồng
sự: “That is it! Thế là xong, tôi hy vọng hôm
nào đó mình gặp lại". Cả bốn ngƣời không hẹn
mà cùng đứng lên, lần lƣợt ôm Ông Hào, mắt họ
đỏ hoe, rồi cứ y nhƣ tiếng chào đồng điệu trong
một lớp vỡ lòng, họ cùng nói 'Good Bye, Mr.
Hào'.
Ông Hào đẩy cánh cửa, gió đông tạc vào gáy
lành lạnh, một vài bông tuyết đậu lên đôi tròng
mắt kính làm mọi thứ trở thành mờ ảo. Ông kéo
cao cổ áo, hít vào một hơi, miệng nói bâng quơ:
'buồn năm phút!'.
Đƣờng Du Hào
Đầu năm 2010.
99 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Àöìng thaáp mûúâi Mèo Hoang
Giữa những kinh lạch thẳng tắp bao la của
miền đồng bằng vùng sông Cửu Long, có một
địa danh rất thơ mộng tên là Đồng Tháp Mƣời.
Trong vùng này có nhiều đơn vị giang đoàn tàu
bè của các đấng hải quân nƣớc ngọt nằm tọa lạc
rải rác dọc theo ven bờ kinh. Trong một căn cứ
hải quân, vào một buổi chiều oi bức ngƣơi ta
chợt nghe văng vẳng tiếng đàn tây ban cầm réo
rắt ai đang độc tấu một bài nhạc tủ rất nổi tiếng
tên là “Đêm Buồn Tỉnh Lẻ” của nhạc sĩ Phạm
Duy hay Trịnh Công Sơn gì đó. Độc tấu ở đây
chỉ có nghĩa là ngồi đánh đàn một mình, bằng
một ngón tay và lim dim đôi mắt, thả hồn theo
tiếng nhạc hát theo ƣ ử đấy thôi. Ông Chỉ huy
Trƣởng kiêm nhạc sĩ với lòng kiên nhẫn vô biên,
im lặng đứng thƣởng thức gần mƣời phút rồi
mới từ từ bƣớc vào phòng chậm rãi khe khẽ bảo
rằng : Anh Tƣờng à, từ giờ trở đi tôi chỉ xin anh
một điều anh làm ơn nhớ cho là..xin anh vui
lòng đừng bao giờ hát nhạc của tôi, anh nhé!!!.
Ông CHT vui tính và rất dễ thƣơng này chính là
nhạc sĩ Trƣờng Sa mà chúng ta đã đƣợc biết qua
bao nhiêu bản nhạc trữ tình của thập niên 70.
Hình nhƣ câu chuyện này xảy ra ở căn cứ hải
quân Cao Lãnh thì phải.
Tại căn cứ hải quân Cao Lãnh tôi có hai ngƣời
bạn thân là Hoài và Tƣờng đã học từ trƣờng
huấn luyện Sinh Viên Sĩ Quan của Hải Quân
Hoa Kỳ tại Rhode Island về, và thêm hai vị Đại
Úy xuất thân trƣờng Võ Bị Hải Quân Chụtt tên
là Đại úy Tèo và Đại úy Ghe, hai ông này nhậu
rất giỏi và hiền từ vui tinh. Từ Cao Lãnh chúng
ta có thể đi tầu đò, hay đi bằng các chiến đĩnh
nho nhỏ của hải Quân vào tận trong kinh Tháp
Mƣời hay kinh Đồng Tiến để vào khu Phƣớc
Xuyên. Một lần chính tay anh Hoài đã làm một
cái bánh chuối thật to và rất ngon, rồi mƣợn máy
bay trực thăng của tƣớng vùng để lái bay vù qua
vùng tác xạ tự do không ngại 12 ly 8 của vixi để
vào đến tận căn cứ hẻo lánh của giang đoàn tuần
thám tại Phƣớc Xuyên, và cả đám chúng tôi
chiều hôm đó đƣợc thƣởng thức bánh chuối
ngon quá vì trong vùng này làm gì có thể tìm
đƣợc một cái bánh chuối đẹp và ngon nhƣ vậy.
Trên đƣờng đi đến kinh Đồng Tiến, chúng ta có
thể ghé vào xóm An Long ở ngay đầu kinh
Đồng Tiến để uống nƣớc sinh tố giải lao và nếu
rảnh nữa thì xin mời quý bạn đi thuyền qua bên
kia sông, quý bạn sẽ bị lạc ngay vào một xóm
thợ may thuộc Cù Lao Ông Chƣởng. Xóm nghèo
này đa số các cô gái hành nghề thợ may, kể cả
may máy và may tay, và các bạn hải quân chúng
tôi thƣờng hay ghé nơi này để vá lại quần áo
rách vì mảnh đạn của B-40 khi đi tuần ban đêm.
Một buổi chiều sau khi làm thủ tục quen thuộc là
tiếp tế nhiên liệu cho dân lành, chúng tôi ghé
xóm thợ may này để tạm nghỉ ngơi trong chốc
lát. Một anh lính chung đơn vị Tuần Thám, có
lẽ hôm đó uống nhiều cà phê bí tất quá nên đã
vô tình dạy mấy cô bạn thơ may về căn bản bài
toán trừ. Bàn tay năm ngón mà anh ta thay vì hút
thuốc lá lại lấy một chốt kíp nổ của lựu đạn ra
châm ngòi lửa, hậu quả là năm ngón trừ ba chỉ
100 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
còn có hai. Anh ta đƣợc giải ngũ vì lý do hơi
kém thông minh và tôi đƣợc ông Tham Mƣu
Trƣởng Lực Lƣợng Đặc Nhiệm 212 thƣởng cho
20 ngày trọng cấm vì đã không kiểm soát mấy
ông tƣớng nhà Giời để cho họ đi may áo quần
bừa bãi tròng vùng cấm hành quân. Theo thiển ý
của ngƣời viết, nghề thợ may này tuy là nghề cũ
nhất trái đất nhƣng lại là một nghề cao quý và
rất thực dụng, vì không có là không đƣợc. Một
vài bà xã của chúng tôi lại nhất định không đồng
ý và có ngƣời còn hay gọi mấy cô thợ may này
một cách mát mẻ là những con sáu chân. Hỏi
mãi thì mới đƣợc họ cắt nghĩa là con ngựa bốn
chân và con đĩ hai chân cộng lại đủ 6 chân đúng
là con đĩ ngựa.
Phƣớc Xuyên là một xã nhỏ xíu nằm gần trung
tâm của Đồng Tháp Mƣời. Nơi này có một cái
chợ nhỏ nhƣng rất ấm cúng và đi ra khoảng 200
mét xuôi theo dòng kinh ngƣời ta sẽ thấy một cái
đình cổ kinh rêu phong dƣới gốc một cây đa to.
Nơi này tuy vi xi có lẽ còn nhiều hơn muỗi
nhƣng nói chung dân làng rất ƣ là dễ thƣơng và
đặc biệt là họ hiếu khách vô cùng. Một buổi
trƣa hè tôi mặc bộ bà ba đen đã bạc mầu, đi đôi
dép cao su sắp đứt quai lang thang dọc theo bờ
kinh Đồng Tiến, tình cờ đi ngang một căn nhà lá
nhỏ có mấy ngƣời đang ngồi sửa soạn ăn cơm
trƣa, thế là ông cụ chủ nhà nhất định mời tôi
ngồi xuống ăn chung với họ một cách rất thật
tình không thể từ chối đƣợc. Họ không biết tôi là
ai, thuộc phe bên này hay phe bên kia, nhƣng
việc đó có lẽ hoàn toàn không quan trọng đối với
họ. Mâm cơm hôm đó rất đạm bạc, chỉ vỏn vẹn
có một bát canh mắm, một đĩa rau luộc và mấy
miếng dƣa hấu cắt nhỏ ra ăn chung với nồi cơm
gạo đỏ, nhƣng hôm đó quả tình tôi ăn rất ngon
miệng vì đã cảm nhận và tận hƣởng đƣợc một
bữa cơm gia đình tràn ngập tình ngƣời giữa
vùng đất lạ quê ngƣời. Cho đến ngày nay, tôi
vẫn còn nhớ mãi bữa ăn ấm cúng với những tấm
lòng hiếu khách chân thật của một gia đình dân
quê miền Nam vùng Đồng Tháp.
Trở về cái đình làng rêu phong, mỗi lần đi qua
dân làng đều nhớ phải giở nón ra để biểu lộ lòng
thành kính với thần linh. Đầu đình dƣới gốc cây
đa to có một ông tƣợng đá to tƣớng ngồi trấn
giữ. Tôi đƣợc nghe một cụ già tóc bạc phơ kể lại
đình làng này linh lắm, và một câu chuyện đƣợc
kể lại sau hai xị rƣợu đế đã cạn nhƣ sau. Ngày
trƣớc vào thủa xa xƣa có một ông xã trƣởng giầu
có trong làng, buổi sáng ra đồng mỗi ngày ông ta
thấy một chú bé chăn trâu quần áo rách bƣơm
không đủ che bác hồ, dắt trâu đi ngang đình, và
mỗi ngày ông tƣợng đá đều đứng dậy nghiêm
chỉnh chờ chú bé đi ngang qua rồi mới từ từ ngồi
xuống lại. Nghĩ là đây chắc phải là quý nhân nên
thần đình phải đứng dậy chào mỗi ngày, ông xã
trƣởng mừng rỡ đem chàng trai này về gả ngay
cô con gái rƣợu và tặng ngay cho chàng rể quý
mấy chục mẫu ruộng lúa chín vàng và năm căn
nhà ngói đỏ và vài ao nuôi cá tra để làm vốn.
Vài tháng sau ông xã trƣởng lại thấy ông con rể
quý của mình đi ngang đình nhƣng lần này ông
thần đình to lớn vẫn ngồi im thin thít chả thèm
đứng lên nhƣ trƣớc nữa. Ngạc nhiên quá ông xã
trƣởng mới đến hỏi thẳng ông tƣợng đá là tại sao
lại có sự thay đổi nhanh chóng nhƣ thế. Ông
tƣợng đá mới nghiêm mặt trả lời là : - Ngày
trƣớc đứa bé chăn trâu này nghèo khó nó cứ hay
đến đây rình chỉ chực ăn cắp hoa quả cúng của
ta để ăn qua ngày nên ta phải đứng lên canh
chừng kẻ cắp đấy thôi ! Nay nó đã khá giả no đủ
rồi thì ta không cần đứng lên canh me nó nữa !
Buổi trƣa chúng tôi hay cập tầu PBR dƣới gốc
cây đa cho mát và giăng võng ngủ trƣa để dành
sức buổi tối đi kích săn lùng phe bên kia. Mỗi
năm giỗ đình thì làng tổ chức lễ lộc ăn uống linh
đình và họ hay mƣớn cả các đoàn cải lƣơng di
động trên ghe về trình diễn cho dân làng thƣởng
thức.
Từ Phƣớc Xuyên, một con kinh nhỏ đầy rong và
bèo xanh hai bên sẽ dắt chúng ta đến một xã nhỏ
bé khác bên kinh Tháp Mƣời, xã này tên là Mỹ
101 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
An.Mỗi buổi sáng dân làng Mỹ An hay họp chợ
ồn ào vui vẻ và họ bán rau cỏ, cá rô cá lóc bông
tƣơi rói, các con rắn hổ dài cả hơn sải tay còn
sống lâu lâu lại nhe nanh ra cƣời duyên với
ngƣời mua, vài con ba ba và rùa to tƣớng trong
mấy lồng sắt, và rất nhiều chuột đồng mà một
chục họ đếm là 15 con (ở Sài Gòn 1 chục chỉ có
10 thôi !). Mấy chú chuột đồng này nƣớng hay
khìa lên ăn rất thơm và ngon không thể tƣởng
tƣợng đƣợc, phải nói là ngon hơn thịt chim bồ
câu hay heo sữa quay nữa ! Họ bán cả thịt mấy
con trăn to khổng lồ, chặt ra từng khúc một và
thêm những chú trăn con nhỏ bằng ngón tay cái
dài khoảng 2, 3 gang tay còn sống để trẻ em đem
về nuôi làm cảnh.
Làng Mỹ An có một tiệm bi da bán cà phê với
một cô chủ nhỏ tên Tuyết khá xinh đẹp với nƣớc
da bánh mật và má lúm đồng tiền ngay góc chợ
nên anh em chúng tôi cũng hay cập tàu phía sau
tiệm bi da để khỏi đi bộ cho xa.
Vào một buổi sáng đẹp trời, ngƣời bạn cùng
khóa của tôi, một quan hai tầu thủy khóa 6 họ
Bạch đã đƣợc bổ nhiệm nắm quyền chỉ huy vận
chuyển một đoàn tầu convoy và anh ta đã ra lệnh
cho một chiếc FOM cũ mèm của Tây để lại có lẽ
từ thời trƣớc đệ nhất thế chiến, chiếc chiến
thuyền bé tý tẹo này đi đầu đoàn convoy để thử
thời vận, và chỉ nửa tiếng đồng hồ sau khi khởi
hành chiếc giang đĩnh rỉ sét dài hơn hai sải tay
và kém may mắn này đã lãnh ngay một quả đạn
75 ly không giựt của phe địch đúng vào chỗ
chứa nhiên liệu, thuốc nổ TNT, C4, và đạn dƣợc
nên đã nổ tung nhƣ pháo bông ngày Quốc
Khánh rồi chìm ngay tại chỗ, may mắn thay tất
cả 3, 4 nhân viên trên chiếc FOM này chỉ bị
thƣơng chứ hôm đó không ai mất mạng cả.
Sống trên dòng nƣớc mát trong veo của vùng xôi
đậu này, chúng tôi có 1 thú vui rất trẻ con nhƣng
thú vị là chiều chiều hay bất cứ giờ nào chúng
tôi cũng có thể nhảy xuống bơi lội và tắm mát
giữa dòng nƣớc xanh. Vào một buổi trƣa hè, một
ngƣời bạn đang đứng tồng ngồng tắm mát ven
sông vắng vẻ thì bất chợt một chiếc tàu ho bo
nhỏ từ đâu chạy ù lại ủi nhanh vào bờ và anh ta
nhìn lên thì thấy ngay một ông tƣớng một sao
hải quân to béo với mái tóc dài nghệ sĩ trông hơi
giống Elvis đang nhe răng ra cƣời và hỏi anh ta
là anh có phải là sĩ quan trƣởng toán không. Một
tay che vội bác hồ lại và một tay dơ lên trán để
chào, anh ta đành tiu nghỉu gật đầu xác nhận là
quả đúng nhƣ vậy. Ông tƣớng Hai Quần một sao
bèn bảo - Anh lên mặc quần áo vào rồi thuyết
trình cho tôi về tình hình chiến sự trong dòng
kinh này. Thế là anh bạn vội vã nhảy phóc lên
tầu mặc quân phục lon lá tề chỉnh vào rồi lên nói
chuyện với ông tƣớng hai quần tóc dài. Sau đó
hai ngƣời lại vui vẻ dắt nhau ra quán cà phê ở
góc chợ ngồi ăn hủ tíu. Cho đến ngày nay, tôi
vẫn thắc mắc và tự hỏi tại sao ông tƣớng này lại
đoán là ngƣời bạn tên Tango dài của tôi là
trƣởng toán trong khi anh ta đang đứng tắm sông
và chả mặc gì cả ! Chả lẽ ông ta chỉ cần nhìn bác
hồ và đoán ngay ai là trƣởng toán đƣợc thì đúng
là ông ta giỏi thật.
Mùa hè nằm nghỉ trƣa trên võng đong đƣa nằm
nghe tiếng ve sầu kêu ve ve trên những cây tràm,
tôi chợt nhớ đến những mùa hè và những cây
phƣợng nở hoa đỏ chói hồi bé còn đi học. Tôi
thích nằm võng nhìn và quan sát các sinh hoạt
buôn bán vui nhộn của dân làng trên dòng kinh
thanh bình những khi ngƣng tiếng súng. Những
khóm lục bình xanh tƣơi với những đóa hoa tím
nhụy vàng thật đẹp nhè nhẹ trôi qua nhƣ ngày
tháng vô tƣ của tuổi trẻ chúng tôi, những cô gái
xinh xắn hiền lành mặc áo bà ba đơn giản chèo
thuyền đi chợ mỗi ngày, tiếng trẻ em ê a đánh
vần trong ngôi trƣờng tiểu học nhỏ bé đầu làng,
những cành lá dừa xanh mát mắt và mây trắng
nhẹ bay, thật là một khung cảnh tuyệt vời trái
ngƣợc những cơn pháo kích tàn bạo của địch
quân mà đôi khi chúng tôi phải đƣơng đầu trong
cuộc chiến.
(Xem tiếp trang 139)
102 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Leo núi – Angels Landing – Zion Park - Utah
Ngô Đạo
(Viết để chung vui với các bạn đồng hành: Anh chị
Tuyền Hằng, anh chị Tính Mai, Vợ chồng Giao Lan,
vợ chồng Minh Hảo và đặc biệt cho người bạn đời –
Hồng Loan)
Gạo mới, thơm và dẻo, chị Hằng vợ anh Tuyền-
trƣởng phái đoàn leo núi, vừa gói cơm vắt vừa
hãnh hiện tuyên bố.
Cô em dâu tôi, Lan vợ của Giao, cũng hăng hái
giúp chị Hằng. Cô lăn gói cơm có dạng của cái
Hot dog nhƣng thô kệch đến độ vợ tôi phải nhẹ
nhàng:
“Lớn quá vậy em!”
“Dạ, quá năm mƣơi rồi chị. Nhìn nó để nhớ dĩ
vãng”. Cô cƣời ré với câu nói có ẩn ý.
“Dĩ vãng của chị cũng vàng son dữ”. Cô Hảo, vợ
cậu Minh hóm hỉnh mỉa mai.
Cả bọn cùng cƣời.
Phái đoàn chúng tôi gồm có mƣời ngƣời. Anh
chị Tuyền đã quyên dụ thêm bốn cặp nữa, trong
đó có vợ chồng chúng tôi.
Anh là ngƣời đã thảo hoạch chƣơng trình rất chi
tiết và tự nguyện dẫn đầu cho chuyến leo núi.
Hai tuần trƣớc, vợ tôi có email về nhà, bà nhờ
tôi xem lại vì theo bà đƣờng núi quá khó.
Tôi đã không mở email vì lƣời nhƣng có hỏi sơ
và đƣợc bà cho biết đƣờng núi dài 4 dặm; Vừa
đi vừa về vị chi là tám dặm. Bà tìm đâu đó trong
Website để biết rằng thời gian đi về trung bình
mất sáu tiếng.
Bà còn cho biết Angels Landing là một trong 13
trails chính của Zion Park. Công viên này tọa lạc
vùng Tây nam của tiểu bang Utah, cách thành
phố St George độ 12 dặm, Zion Park với diện
tích là 229 dặm vuông trên cao độ 8726ft là cao
nhất. Angels Landing trail có cao độ hơn 5800ft
tính từ chân núi lên tới đỉnh.
Park đƣợc thành lập vào năm 1909 với tên
Mukuntuweap National Monument và đã đổi tên
Zion National Park vào năm 1919.
Zion có nghĩa là “a place of refuge”.
Tôi đâu cần những chi tiết này. Tôi chỉ biết rằng
nếu chiều dài, độ cao và thời gian là chính xác
thì khó có một ai trong chúng tôi có thể đủ thể
lực lên đến đỉnh núi.
Mặc dầu vẫn thƣờng tập thể dục ít nhất là một
giờ mỗi ngày liên tục mƣời ba năm nay; vợ
chồng tôi dĩ nhiên tin rằng mình cũng sẽ bỏ cuộc
nhƣng vẫn hy vọng không phải là ngƣời đầu
tiên.
Sau khi sửa soạn cơm vắt và nƣớc uống, chúng
tôi rời tụ điểm là căn suits của anh đoàn trƣởng
Tuyền, mọi ngƣời đã chuẩn bị hành trang cho
chuyến leo núi. Với tôi đây là một trong những
thách đố lớn lao trong đời - tuổi sáu mƣơi ba với
103 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
tham vọng vƣợt cao độ sáu ngàn bộ cheo leo
trên đỉnh của Angels Landing.
Gởi xe xong, anh Tuyền hƣớng dẫn mọi ngƣời
băng qua con lộ nhỏ, vƣợt những bụi cây rừng
và cùng dừng chân tại mô đá lớn. Anh tuyên bố
giờ ra quân.
Tầm nhìn của tôi đã bị giới hạn tại điểm xuất
phát. Đứng bên chân cầu nhỏ bắt qua khe núi tôi
đảo mắt một vòng để nhận ra rằng chúng tôi đã
bị bao vây bởi những vách núi sừng sững.
Vách bên trái là gần nhất. Trông nó thẳng tắp
trên vòm cao và nhƣ sẵn sàng đổ ụp xuống.
Phải ngẩn đầu đúng chín mƣơi độ thì mới trông
thấy cái màu rực rỡ của toàn thân núi dƣới ánh
nắng của rừng thiêng.
Xa hơn về bên phải và đàng sau phái đoàn chúng
tôi cũng là những vách đá đƣợc tô đậm hơn vì
ngƣợc chiều với nắng. Tuy nhiên, chính cái
bóng tối khổng lồ đó đã âm thầm gieo chút hãi
hùng trong tôi. Một chút hối hận len lén dâng lên
cho chuyến đi này nhƣng tôi cố tình lãng quên.
Nhìn ngọn núi trƣớc mặt, ngọn núi định mệnh
mà vợ chồng tôi sẽ leo và quyết tâm leo tới đỉnh,
lòng tôi nao nao.
Nắng đã chan hòa và nhuộm màu từ âm u đến
rực rỡ trên lối đi. Đƣờng ngoằn ngoèo hình chữ
z với độ dốc khá cao để mọi ngƣời phải nghiêng
ngƣời về phía trƣớc và dò dẫm từng bƣớc. Tôi
dồn hết sức lực và tâm trí vào đôi bàn chân.
Cách hai mét về phía trƣớc, vợ tôi âm thầm
bƣớc. Trong cái không gian hai mét lặng lẽ đó,
vợ tôi nào thấu đƣợc nỗi lo lắng trong lòng tôi.
Đƣờng càng lên cao, vực thẳm càng sâu hơn
trong khi vách núi vẫn chênh vênh ngạo nghễ.
Chúng tôi phải thƣờng xuyên nhắc nhở nhau nên
đi sát vào vách núi. Biết đâu một cơn gió lộng,
một cơn gió thịnh nộ của rừng thiêng, của núi
cao.
Thỉnh thoảng có một vài nhóm nhỏ vƣợt qua
chúng tôi. Trông họ nhƣ những nhà leo núi
chuyên nghiệp, vai mang cuộn dây thừng, tay
cầm can chống. Tuy nhiên, hơi thở nặng nề đã
vƣơng theo lối đi.
Ngƣời bạn thân của ông em tôi trong phái đoàn,
anh Tính cùng vợ là chị Mai cũng sát cánh với
những bƣớc chân thật vững chãi bên nhau. Là
bạn chí thân với Giao - em tôi - tôi biết Tính từ
thuở họ mới gặp trong quân nhũ. Anh là ngƣời
điềm đạm. Ngoài những lúc bông đùa vô thƣởng
vô phạt, những câu nói của anh rất có trọng
lƣợng và hàm súc. Tôi thầm khen anh với tuổi
trên sáu mƣơi mà vẫn còn dồi dào sức khỏe.
Nhƣng ngƣời mà tôi nể phục nhất là ông em của
tôi, Ông Giao. Ông cũng đã trên sáu mƣơi, tôi
biết ông đang bị đau xƣơng sống, ông cũng đang
bị đau bàn chân trái mà vẫn dìu vợ là cô Lan
không nhƣờng phái đoàn bƣớc nào.
Cậu Minh, chồng cô Hảo là ngƣời trẻ tuổi nhất
so với các ông trong phái đoàn. Nói là trẻ nhƣng
cũng đã trên năm mƣơi; tuổi gần với quyền lợi
của senior nhƣng lại phải mang túi quá lớn trên
vai. Cái túi lớn đến độ, nhìn nó, tôi ái ngại.
Tuy nhiên, niềm thƣơng cảm sâu đậm tôi phải
dành hết cho các bà trong phái đoàn.
Chuyến đi lịch sử hay định mệnh đã du đƣa họ
giữa hai thái cực. Những ngƣời đàn bà có mặt
hôm nay tôi đã quen, tôi đã biết và quen biết rất
lâu. Họ là những ngƣời trăm phần trăm tay yếu
chân mềm. Những bƣớc chân của họ chỉ nhẹ
nhàng trên sàn nhảy với thể điệu Rumba, lả lƣớt
với Tango hoặc trữ tình qua điêu Slow. Những
bàn chân chim mềm mại đó không phải đƣợc tạo
hóa nặng ra để băng rừng, vƣợt núi.
Vậy mà trên những phiếm đá gập ghềnh, trên
những đoạn đèo cheo leo, bƣớc chân đài các đó
đã theo sát phu quân nhƣ họ đã từng theo sát bạn
đời qua bao sóng gió thăng trầm .
Nhìn đồng hồ tay, tôi mới thấy sự khác biệt
trong cái tâm lý đợi chờ với thời gian vật lý. Chỉ
hơn nửa đoạn đƣờng đèo với hai tiếng đồng hồ
rồi sao!. Đƣờng càng lên, dốc càng cao và chân
tôi càng rã rời. Tôi thầm mong có ai đó trong
phái đoàn tuyên bố bỏ cuộc. Tôi đã thất vọng vì
đâu đó vang lên tiếng ca của bài “Đƣờng đi
không khó”.
104 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Đƣờng đèo trƣớc mặt bỗng nhiên thoai thoải
xuống dốc và dẫn sâu giữa hai triền núi. Hai hố
sâu thăm thẳm giao nhau. Thì ra chúng tôi đã rời
rặng núi bên trái và bắt đầu leo lên ngọn núi
khác nối nhau bên phải.
Tôi bắt đầu đổi chiến thuật. Không còn hy vọng
rút lui, tôi cố tâm dồn hết sức lực để rút ngắn
đoạn đƣờng còn lại. Tới đoạn đèo với độ dốc
cao bất thƣờng, thay vì đi chậm để dƣỡng sức,
tôi cố vƣợt qua đoàn ngƣời để dẫn đầu, dĩ nhiên
là vợ tôi cũng bám sát chồng nhƣ hình với bóng.
Lúc này, bao nhiêu kiến thức về hô hấp, lƣu giữ
và tăng cƣờng công lực trong sách vở tôi đã lõm
bõm đọc đâu đó, đem ra ứng dụng.
Những hơi thở thật sâu, những bƣớc chân dài
nhƣng chậm. Tất cả sức lực và tâm ý tôi đã dồn
hết xuống đôi chân để đi nhanh và khỏe hơn. Dĩ
nhiên các phƣơng pháp này tôi cũng chia xẻ với
vợ
Chúng tôi, sau ba mƣơi phút vật lộn với những
viên đá lồi lõm dƣới chân, cũng đã hân hoan đặt
chân tới đỉnh. Đoàn ngƣời cách chúng tôi vài ba
đƣờng ngoằn ngoèo bên dƣới và họ từ tốn tiến
lên.
Anh đoàn trƣởng Tuyền đã có lần tâm sự, Đây là
lần thứ tƣ anh tuyển chọn bạn đồng hành. Ba lần
trƣớc, đoàn của anh chỉ lên hơn phân nửa đoạn
đèo. Anh còn nhắc nhở rằng, sau khi vƣợt đến
đỉnh núi, chúng ta còn một đoạn đƣờng cực kỳ
khó khăn phải vƣợt qua. Đó là đoạn đƣờng
không quá nửa dặm nhƣng không có lối đi. Mọi
ngƣời vƣợt qua bằng cách dùng tay bám chặt
vào sợi dây cáp, chân dò theo từng phiếm đá.
Vợ chồng tôi đang phân vân giữa trời đất mênh
mông. Hai bên sƣờn núi là vực sâu thăm thẳm.
Gió nhè nhẹ mang cái lạnh của hoang dã, của
chƣớng khí, sơn lam.
Một ngƣời Mỹ trung niên châm chạp bƣớc đến
chung vui. Ông chúc mừng vợ chồng tôi và đồng
thời khuyến khích theo ông để hoàn tất chuyến
đi - vƣợt qua đoạn dây sắt nối liền hai mỏm núi
trƣớc mặt.
Chân tay tôi nhƣ không còn gắn liền nhau. Tôi
cố gắng hít thở đều đặn nhƣng sức lực hầu nhƣ
không thăng tiến bao nhiêu. Giữa cái phân vân
đó, vợ tôi nhẹ nhàng khuyên:
“Phái đoàn sẽ đến trong giây lát. Anh Tuyền sẽ
không dừng ở đây. Sớm hay muộn mình cũng
phải theo anh ấy. Ta nên làm sớm nghỉ sớm”.
Sự quyết tâm của Loan không còn cho tôi có
thái độ chọn lựa. Tôi đành lê chân tiến đến sƣờn
đồi. Vợ tôi hiên ngang đi trƣớc. Ông Mỹ tình
nguyên dẫn đƣờng đã biến đâu mất.
“Em, đây là đoạn đƣờng giữa LIFE and DEAD”.
Tôi khẩn thiết dặn dò ”Trên sợi dây cáp, tay sẽ
giúp em nhiều hơn là chân. Em đừng bao giờ
nhìn xuống vực vì nhƣ thế, chắc chắn em sẽ bủn
rủn tay chân. Nhớ vận động nhƣ động vật có bốn
chân nghe em”
Tôi giật mình vì lời dặn dò nghiêm trọng vừa
qua. Mình đang leo núi vì muốn thách đố với thể
lực, với ý chí tự thắng, với niềm hãnh diện là đi
chinh phục gian nan. Phải chăng vì không tin
khả năng của vợ?
Sợi dây sắt to bằng cƣờm tay. Hai đầu đƣợc
đóng chặt vào cọc sắt. Bên dƣới sợi dây sắt là
những phiếm đá lồi lõm mọc nhô ra từ triền núi.
Ngƣời ta đã không thể hoặc không muốn bạt núi
để làm lối đi. Ngƣời vƣợt núi phải nắm chặt hai
tay trên sợi dây, đu ngƣời, chân dò theo từng
mỏm đá bên dƣới và tuyệt đối không ghé mắt
xuống vực sâu.
Với sáu ngàn bộ cao độ tính từ chân núi, vợ tôi
đã đong đƣa sinh mạng trên sợi dây trƣớc mặt
chồng và tôi không có một phƣơng cách nào cứu
nguy nếu nàng lâm nạn.
Hết sợi dây thứ nhất, vợ tôi nhoài ngƣời nắm sợi
thứ hai để leo qua khe đá chênh vênh. Sau ót tôi
những sợi gió lành lạnh quét qua. Tôi dò dẫm
bám sát theo nàng. Tự nhiên, tôi không còn chút
cảm giác về sự mệt mỏi.
Tôi vừa đặt chân an toàn trên vùng đất phẳng và
chỉ kịp đón vợ nhào đến ôm lấy chồng.
Ba mƣơi ba năm chăn gối với nhiều thăng trầm,
(Xem tiếp trang 139)
105 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Down-under Du Ký Truyện
Nguyễn Mạnh Hùng
Đã từ lâu,vợ chồng tôi, Hùng gà tồ , luôn luôn
có ƣớc vọng bay qua vùng Down under, xứ
Kanguru , gặp lại vợ chồng Khánh Hảo, một
OCS khóa 8 để ôn lại những kỷ niệm thủa hàn
vi của những ngày tháng cuối cùng thời 74-75
tại Vũng Tầu khi Khánh đổi về HD3ZP và Hùng
Gà tồ bị “mắc cạn “ trên căn cứ yểm trở tiếp vận
Cát Lở.
Mãi đến năm nay , 2010 , sau hơn 35 năm, giấc
mơ này mới có dịp thực hiện nhờ vào sự quyết
định chớp nhoáng của bà xã tôi, bắt đầu vào một
buổi sáng thứ hai đầu tuần của một tháng nào đó
cuối năm 2009 khi tôi vừa mới đẩy cửa bƣớc
vào phòng làm việc tại sở, chƣa kịp đặt ly cà
phê xuống bàn thì chuông điện thoại đã réo
vang, liếc nhìn đồng hồ trên tƣờng, tôi vừa với
tay bốc phone vừa lẩm bẩm:
- “ Men, mới 9 giờ mà khứa nào đã gọi sớm
thế..”
Nhƣng chẳng phải khách khứa nào cả mà chỉ là
giọng nói nheo nhéo của Trâm , bà vợ tôi vang
vang trong máy:
- Bonjour, monsieur Hung s'il vous plait.
Thả ngƣời xuống ghế, tôi vội ngắt lời :
- Anh đây ..Sao em gọi sớm thế..? hai đứa bé có
chuyện gì hả..
- À không, Bé Nhƣ An, Nhƣ Ý còn đang ngủ, tại
có anh Quang ở Gloria tours gọi nói vé đi Úc
đang sale tuần này. Em và anh ta tính lại rồi,
Korean Airline chỉ có ngàn tám một ngƣời..Em
đã nhờ anh ta book vé , mình đi ngày 4 tháng 3
về ngày mùng 8 tháng 4 , phải trả tiền trong
vòng 48 tiếng ...
- Ủa.. anh còn chƣa báo cho sở ..
- Chời ..mình đã tính vụ vacation này từ lâu rồi
mà anh.. nhƣng dầu sao cũng còn tới hơn hai
tháng nữa, dƣ sức lo....
- Hả ...????
106 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Và ...nhƣ vậy vacation năm 2010 của vợ chồng
tôi xem nhƣ đã sắp xếp xong. Bổn phận còn lại
của Gà tồ là lo o bế mơ sừ President hãng để lấy
nguyên 5 tuần vacation một lần ..rồi lo chạy tiền
thanh toán vé máy bay, book khách sạn và nhất
là liên lạc với bạn bè hy vọng chuyến nghỉ hè
bên Úc sẽ vui vẻ sôi động đỡ nhàm chán nhƣ kỳ
hai vợ chồng lủi thủi dẫn nhau leo lên Cruise
nhƣ “.. lão ông, lão bà về hƣu đi dƣỡng già ..”
theo lời “con chim đầu đàn “ ở Florida đã nói ..
Tóm lại, chƣơng trình hè do Trâm gà
mái làm đạo diễn nhƣ sau:
Trƣớc tiên sẽ ghé Việt Nam khoảng 10 ngày để
đi thăm vùng Rạch Giá , Hà Tiên hoặc Côn Sơn
là những thành phố mà hai vợ chồng chƣa đi
đƣợc trong những kỳ về Việt Nam lần trƣớc.
Rồi từ Saigon, bay qua Úc.
Tại Úc sẽ lƣu lại hơn hai tuần để thăm ba thành
phố chính gồm Sydney tỉnh quan trọng mé đông
, Adelaide một thị xã phía Nam và Brisbane
thành phố mạn Bắc của Queen land, nổi tiếng
với những bãi biển Gold Coast, Surf Paradise
...nhƣng mục đích của Gà tồ vẫn là để có dịp
thăm hỏi, đấu hót với Khánh, Trần C.Cao Cát,
Thanh Dundee thân quen trên Diễn đàn và nhóm
bạn hải quân OCS từ mấy chục năm nay chƣa
gặp lại.
Tới đây đã mất 4 tuần vacation rồi nhƣng chắc
chƣa đã...nên bà xếp tôi, đầu óc lởn vởn với
những Bi Rain, Choi yu jin, Lee Young Ah v.. v
của làng điện ảnh Đại Hàn, lại ngồi hí hoáy tính
đi tính lại :
- “Anh à ...mình chỉ mất thêm có hơn một trăm
đô một ngƣời mà đƣợc ghé Đai Hàn một tuần ,
anh thấy có lý không ??”..
- Chời đất.....
Kết quả.. ..sau khi rời Sydney, tôi sẽ phải bay
qua Seoul với vợ , ở lại 4 ngày trong khách sạn
xong book tour bay qua đảo Jeju (Tế Châu) thêm
3 ngày nữa để thăm qua những phim trƣờng đã
quay phim Đại trƣờng Kim, Mối tình Paris,
chuyện tình mùa Đông ... rồi mới trở về
Montreal.
Sơ sơ.. Itinerary của vợ chồng tôi là phải
lấy Air Canada bay từ Montreal qua Vancouver
6 tiếng , từ đó , lấy Korean Airline bay qua phi
trƣờng Inchon Seoul 12 tiếng rồi mới về
Saigon mất thêm 6 tiếng nữa .
Sau đó , book Jetstar Airline ,thuộc hãng
Quantas Airline của Úc từ Saigon qua Sydney
gần 8 tiếng bay rồi lại từ Sydney đến các tỉnh
Adelaide ,Brisbane cũng bằng Jetstar mất mỗi
lần hơn 1 tiếng..
Trên đƣờng về, từ Sydney lấy Korean Airline,
đến Inchon, Seoul, rồi bay qua Jeju Island bằng
Asiana Airline , xong từ Seoul lại lấy Korean
Airline bay về Toronto, Canada và..cuối cùng
bay về Montreal bằng Air Canada. ..OUF .. nghe
kể thấy cũng phát ớn chứ đừng nói tới chuyện đi
thật sự..
Chƣa yên thân, pack vali đâu vào đó rồi nàng
tiên yêu dấu của tôi mới phát giác ra từ VN qua
Sydney, Jetstar cho mỗi ngƣời 1 vali 20 kí mà
thôi..chỉ khi nào đi về từ Seoul mới đƣợc 2 vali
.. thế là lại unpack bỏ bớt quần áo đến tối thiểu ..
Phiền một cái là đi vào mùa lừng khừng tháng
ba tháng tƣ, VN thì nóng , Úc bắt đầu mùa Thu
và Đại Hàn thì vẫn còn mùa Đông ..nên phải
pack hai loại quần áo , chỉ cái áo lạnh thôi đã
chiếm đến gần nửa vali ..
Nhƣng rồi ngày mong đợi cũng đến, 4 giờ sáng
mùng 4 tháng 3, cô con gái út chở hai vợ chồng
tôi ra phi trƣờng Pierre Trudeau, Montreal ,
check in và ..vút..gà tồ, gà mái, tạm quăng việc
nhà, quên việc sở, forget cả hai đứa cháu nội..
vv..để tàng tàng trên đƣờng đi du lịch..
oOo
Về đến Tân sơn Nhất lúc 11 giờ đêm
nhƣng trời Saigon vẫn oi bức chi lạ, tôi cởi bớt
107 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
áo lạnh rồi cùng bà xã vội vã bƣớc đến quầy
Quan thuế.
Lấy kinh nghiệm những lần về trƣớc, hai vợ
chồng xếp hàng vào giữa những du khách
ngoại quốc hy vọng ít bị quan thuế làm khó dễ,
quả nhiên, viên quan thuế chỉ nhìn sơ qua, đóng
dấu rồi đƣa trả Passports cho vợ chồng tôi mà
chẳng hỏi câu nào.
Cả hai vội vã xuống lầu lấy hành lý vì sợ về đến
khách sạn quá khuya họ sẽ không giữ phòng
nữa.
Ra đến ngoài đƣờng, bàn dân thiên hạ vẫn nhƣ
thƣờng lệ, đứng chờ thân nhân đông nghẹt choán
chật hết lối đi. Tiếng cƣời nói, tiếng động cơ
chen lẫn những tiếng còi xe inh ỏi một cách
không cần thiết đã tạo nên một khung cảnh đặc
biệt của xứ...SAIGON..
Mặc dù đã trễ, nhƣng bà vợ rắc rối của tôi nhất
định không chịu bắt taxi phi trƣờng đang xếp
hàng đợi khách ngay trƣớc cửa mà nhất định gọi
kiếm cho bằng đƣợc xe Mai Linh vì hãng này
đƣợc tiếng là đàng hoàng, tài xế ít khi giở trò ma
giáo , chạy “mua “ đƣờng . Thế là lại phải nhờ
ông Bảo vệ gọi giùm và mất thêm gần 10 phút
chờ đợi nữa..
Nhận phòng khách sạn xong, đã quá nửa
đêm, thấy đói bụng, tôi bèn rủ bà vợ thả bộ tà tà
ra đầu chợ đêm Bến Thành góc Lê thánh Tôn
kiếm đƣợc một gánh cháo đêm bán đến 3 giờ
sáng, hai vợ chồng mừng quá bèn ngồi xệp
xuống hì hụp làm một bụng bún măng vịt nóng
hổi “...ngon nhất thế giới..”
Hôm sau, đang nhâm nhi ly cà phê sữa đá ở
quán “Đá” gần nhà thờ Đức Bà thì tôi chợt nhớ
ra là Thanh Dê OCS6 dặn là khi về phải trình
diện Y ngay, sợ ông bạn hay giận hờn này lại
hờn giận nữa nên tôi vội vã gọi cel cho cu cậu.
May mắn , Thanh trả lời và dục hai vợ chồng lấy
taxi đến thẳng quán ăn B & G ngay đƣờng
Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ) gần
Phở Lệ.
Xe vừa xịch đến cửa là tôi đã thấy Hòa thƣợng
Thích Lang Thang (Thanh Dê) đứng đón tận
cửa. Lần cuối gặp ông bạn vàng này là lần vợ
chồng tôi xuống ngao du vùng “orange cao ti “
dự lễ cƣới con ngƣời bạn tại Wesminter,CA Sau
mấy năm không gặp, kỳ này Hòa thƣợng ta tóc
tai cẩn thận ,chải tém gọn ghẽ, quần áo sơ mi
tƣơm tất, chẳng bù cho xƣa kia , dân chơi áo
thun 3 lỗ, quần Jogging bóng bẩy ..vàng bạc đeo
đầy ngƣời...
Thanh niềm nở kéo chúng tôi vào quán, đẩy ghế
mời ngồi, gọi bồi chuẩn bị cà phê xong vẫn cái
tật cũ vừa càu nhàu, vừa giới thiệu nhân viên
giúp việc.. :
- Mẹ....vợ chồng Gà bò ra đƣờng sao lâu
thế...Đây là cháu B.. làm manager của B G ...
Cậu Manager cúi gập đầu chào “khách quí “ của
chủ xong xin phép quay vào lo nƣớc non đãi
khách..Nhìn cậu thanh niên trắng trẻo thƣ sinh,
cao ráo quần áo chỉnh tề tóc “deux” couleurs
vàng đen chải ngôi cẩn thận, tôi tự nghĩ không
biết lão hòa thƣợng Thanh này kiếm đâu ra đƣợc
“en” chàng này xem sạch nƣớc cản mà lại chịu
khó chôn chân sau quầy két của thầy Lang
Thang này thế...
Sau khi chào hỏi trao đổi vài câu xã giao với T. ,
vị bác sĩ em họ của Thanh mà tụi tôi đã quen kỳ
về lần trƣớc, tôi đƣa mắt nhìn quanh quán.
Quán tuy không sang trọng to tát nhƣ những
quán nổi tiếng nhƣ Ngọc Sƣơng, Vỹ Dạ..
..nhƣng tƣơm tất ,sạch sẽ và nhất là trông ấm
cúng với hai dẫy ghế tiện cho khách ăn lẫn
khách uống, thêm nhạc đệm nhẹ nhàng hợp với
hƣơng vị quán cà phê, tôi nghĩ chắc cu Thanh có
lẽ cũng thu thập đƣợc khá đông khách địa
phƣơng và nhóm du khách Việt kiều ..
Đang miên man, tôi bỗng giựt mình vì giọng nói
Thanh từ trong bếp vang lên:
- Hôm nay vợ chồng mi sẽ ăn thử món đặc biệt
của B G, món chả giò cá lóc ..Sau đó sẽ gọi theo
menu quán nghen.
Nhìn đĩa Ovan trắng phau với nguyên con cá lóc
chiên xù nằm giữa những chiếc chả giò rế xinh
xắn quấn khoai môn, nghĩ tới lúc bốc một chiếc,
quấn trong lá xà lách,chấm vào bát nƣớc mắm
108 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
pha đƣa thẳng vào mồm ngồm ngoàm rau
ráu..tôi bỗng thấy bụng đói cồn cào trở lại mặc
dù sáng đã làm đỡ cái croissant ở tiệm cà phê
.Thoáng cái dĩa chỉ còn dẫy xƣơng cá..
Hàn thuyên một lúc , vợ chồng tôi từ giã Thanh
vì có hẹn với ông anh và hai ngƣời em từ Mỹ về.
Tối hôm đó, sau khi lai rai thƣởng thức món cá
tai Tƣợng chiên xù , xôi phồng ,vài cái hột vịt
lộn chiên tại quán lộ thiên Hai Lúa ngay hông
chợ Bến Thành với hai ngƣời em, chúng tôi cảm
thấy thấm mệt nên quay về khách sạn nghỉ ngơi
và tìm tour đi vùng Rạch Giá, Hà Tiên nhƣ dự
trù, không may , tour chỉ bắt đầu đi sáng ngày
thứ bảy, về tối ngày thứ ba mà sáng sớm hôm
sau , thứ tƣ, tụi tôi phải bay qua Sydney nên
đành bỏ dự tính này. Nằm thƣỡn ra giƣờng một
lúc, bà vợ tôi bỗng ngồi bật dậy, hớn hở nói:
- “ À ..anh này, còn nhớ cô Trang “Cà Mau” đi
chung tour Singapore với mình năm ngoái
không? cái cô bé dễ thƣơng lúc nào cũng xin
theo mình đi chơi..Em nhớ trƣớc khi chia tay, cô
bé cứ năn nỉ nếu có dịp, mời tụi mình xuống
thăm xứ Cà Mau của cô ta Hay là mình xuống
dƣới đó vài ngày đi anh ..”
Nghĩ là làm (trƣởng ban hành động mà !!) bà vợ
yêu quái của tôi không đợi tôi bằng lòng hay
không, lục ví lấy số phone cel của Trang và bấm
lia..Chẳng may, đúng giọng Trang trả lời, tôi giơ
tay định cản nhƣng nghĩ lại ” thôi đƣợc, ở lại
Saigon cũng chẳng có mục gì, mà từ khi rời
HD5ZP hồi 72, mình chƣa có dịp về thăm đám
muỗi mòng xứ này , giờ về lại xem sao..”
Vừa lúc đó, bà xã tôi cúp phone , báo cáo:
- Anh ..Trang có vẻ mừng lắm, cuống quýt mời
mình xuống cho bằng đƣợc, nói ba má và bà
ngoại cũng vui vẻ muốn gặp cô chú Hùng vì
nghe Trang kể về tụi mình. Cô bé còn dặn em
phải ra Đề Thám mua vé xe đò lớn , 45 chỗ của
hãng Mai Linh hay Phƣơng Trang cho thoải mái
chứ đừng lấy xe nhỏ cực lắm , ghế không ngả
lƣng đƣợc.. Em nhờ Trang book khách sạn nào
gần nhà nhƣng cô bé nói xuống tới nơi rồi tính.
Nói tới đây, bà vợ tôi bèn dựng tôi dậy, bắt vác
vali ra, soạn vài bộ quần áo nhẹ, vài món quà
tặng đem từ Canada, cho vào xách tay rồi lại
pack vali để sáng hôm sau xuống gửi khách sạn
trong thời gian vắng mặt tại Saigon.
Sáng hôm sau, để tiết kiệm thì giờ, bà
vợ tôi mò ra tiệm giò chả Minh Châu ngay góc
đƣờng Lý Tự Trọng( Gia long cũ) và Nguyễn
Trung Trực vác một lô bánh dầy, chả bò chả quế
rồi vừa đi bộ vừa nhai ngồm ngoàm đến tận
đƣờng Đề Thám vào Phƣơng Trang hỏi mua vé
xe đò. Không ngờ xe chạy ban đêm, khởi hành
10 giờ tối đến Cà Mau 6 giờ sáng, mỗi vé mất
125000 đồng ( khoảng $7 US ) và phải có mặt
tại trạm Lê Hồng Phong trƣớc 1 tiếng để xe
“trung chuyển”?? đƣa ra bến xe miền Tây ( Phú
Lâm).
Chiều hôm đó, chúng tôi đang cùng vài ngƣời
bạn dùng cơm tại Dìn Ký mì gia (đƣờng Nguyễn
Trãi ) thì Thanh <Dê> gọi phone rủ sáng hôm
sau đến quán ăn vì có bà xã Cần Mèo và TV
Hƣờng đến, tiếc hùi hụi ,tôi đành ngậm ngùi
sorry lão hòa thƣợng và hẹn dịp về từ Cà Mau.
Chi tiết màn du lịch xứ tận cùng VN này sẽ
không đƣợc nêu ra ở đây vì mục đích chính
thiên phóng sự này là tình OCS vùng down
under, hơn nữa vừa nhận đƣợc email của VAT
chủ nhiệm kiêm chủ bút kiêm thƣ ký lẫn typo ??
của tờ Đặc san ĐH11 dục bài nên đành hẹn các
bạn vào dịp khác , tôi chỉ xin đƣa ra những dữ
kiện đặc biệt trong chuyến 4 ngày tại Cà Mau là
vợ chồng chúng tôi:
1. Đƣợc host tại nhà của một cựu
SQ/QLVNCH/ (đã hy sinh) ông ngoại của
cháu Trang , nhà nằm ngay trên mặt Quốc lộ
số 1 nối liền tỉnh miền Đông , đƣợc dành
cho 1 phòng tận lầu ba, mới cất lên nhờ sự
trợ giúp của thân nhân bên Úc.
2. Đƣợc chứng kiến tận mắt sức mạnh của tôn
giáo và niềm tin mãnh liệt của dân Việt mà
không có chế độ nào khống chế đƣợc, trong
dịp tình cờ đƣợc dự lễ giỗ cha Francisco
Trƣơng Bửu Diệp tại nhà thờ Hộ Phòng (
giữa Bạc Liêu và Cà Mau) với sự tham dự
109 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
của hơn 30 ngàn dân chúng khắp nơi về
hành hƣơng mà có đến 60 phần trăm là
ngƣời ngoại đạo (sẽ post video clip toàn bộ
buổi lễ lên DD/OCS)
3. Đƣợc ngậm ngùi quay lại xứ Cà Mau của
một thời xuôi ngƣợc trên những dòng sông
Cà Mau, sông Năm Căn, cửa Bẩy Hạp, cửa
ông Đốc và nhất là vùng cửa Gành Hào với
những làn sóng biển đục ngầu mầu phù sa
cuồn cuộn quanh những hàng đáy mà mới
ngày nào đã cùng các bạn dẫn tầu vƣợt qua
để ra vùng công tác..
4. Đƣợc đón tiếp hậu hĩ ,thân mật trong bầu
không khí gia đình của những ngƣời miền
Nam Việt Nam chân chính, muôn thủa vẫn
thật thà, chất phác dù phải sống dƣới bất cứ
chế độ khắc nghiệt nào..
5. Đƣợc thƣởng thức những màn nhậu xuề xòa,
xếp bằng xuống nền gạch bông với menu
thật đặc biệt : Bún mắm, lẩu cá Bằng , lẩu
Lịch ( giống Lƣơn đuôi dẹp thịt giòn và
ngon hơn), cá hấp xả, tôm càng kho tiêu và
nhất là món lẩu PCF và PCF kho tiêu...các
bạn có biết đó là món gì không , đó chính là
cá thòi nòi mà dân HD5ZP gọi là PCF , loại
cá có hai mắt lồi thật to sống đầy rẫy vùng
sông ngòi Cà Mau , khi bơi đầu ngóc lên y
hệt chiếc PCF đang lƣớt sóng...
Ngoài ra còn có đế chôn đất trăm ngày
nhậu với các loại sò, hến và “hẩu sực “ nhất
vẫn là món sò huyết nƣớng và thánh chỉ hấp
gừng mà tôi đã từng đƣợc thƣởng thức qua
Chef cook H/S cơ khí Thành của một thời
PCF 3915 tại Năm Căn.
Tất cả những món ăn tƣơi rói nóng hổi này
đều đƣợc bàn tay nội trợ của chị Hải , mẹ
Trang tự tay nấu nƣớng và chọn lựa hằng
ngày tại các ghe chài quen thuộc, không có
thứ nào xuất phát từ các trại chăn nuôi công
nghiệp cả...
Đến tối thứ hai, chúng tôi rời Cà Mau với
một ấn tƣởng tốt đẹp , lƣu luyến khác hẳn
thời rời Năm Căn , vùng xôi đậu của 1972
với ký ức của vùng tù đầy, muỗi mòng và
máu lửa... Lẽ dĩ nhiên, trong xắc tay của
Trâm gà mái, nặng thêm mấy gói khô cá
khoai, mực một nắng, tôm khô , vài gói bánh
phồng tôm , đặc sản của xứ mà đã một thời
đƣợc mệnh danh khỉ ho cò gáy, đi dễ khó về
110 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
với những Tử điểm Đầm cùng, cái Vồn, cái
Keo, Mật khu...
oOo
Rời Saigon ngày 15 tháng 3 sau một bữa
cơm giã từ toàn món Bắc tại nhà hàng Cốm
Xanh , cuối đƣờng Hai bà Trƣng – Nguyễn Huệ
do ông anh tôi hƣớng dẫn , vợ chồng tôi bay qua
Sydney trong tâm trạng đầy háo hức, vui vẻ vì
“mộng ƣớc “ sắp hoàn thành sau bao nhiêu năm
mong đợi..
Câu chuyện đầu tiên trong chuyến Úc du này là
chuyện “Hợp tác lao động “ theo chiêu thức Cá
Nhân .. khi ngồi đợi máy bay qua Darwin, tỉnh
nối của Jetstar airline trƣớc khi tới Sydney,
chúng tôi gặp một cặp vợ chồng trẻ , ngƣời Nam
với đứa con khoảng 4-5 tuổi.
Qua lời của bà vợ, họ đƣợc ông anh bà con bảo
trợ qua du lịch trong vòng 3 tháng nhƣng thực
chất là một “deal “ về việc làm , hai vợ chồng sẽ
qua làm cho một nông trại do ông anh giới
thiệu. Với tính chất phác thực thà của ngƣời
miền Nam, ông chồng tâm sự :
- ” tụi em qua sẽ cố gắng làm chui (lãnh tiền
mặt) khoảng hơn 3 tháng, chắc sẽ cực lắm
nhƣng sau khi chi trả tiền nợ, vé máy bay, nhà
cửa...tụi em cũng còn dƣ vài ngàn đô về giúp đỡ
gia đình và có chút vốn làm ăn, đƣợc thì tốt,
không thì kiếm cách làm một mửng này nữa
may ra mới sống còn chứ anh chị nghĩ coi, ở VN
có cực nhọc suốt đời cũng không tới đâu hết,
nghèo vẫn hoàn nghèo ....”
Darwin, thành phố nghèo nàn xứ Úc, không có
một kỹ nghệ lớn nào hầu hết sống về nông
nghiệp, chăn nuôi mà nay đã trở thành đất Hứa,
niềm hy vọng mơ ƣớc của những ngƣời dân
chân lấm tay bùn xứ Việt Nam. Hèn chi, H,
ngƣời bạn trai của cháu Trang, mặc dù đang
cùng ông anh trông coi một cửa tiệm Mobile
phone ở Cà Mau mà vẫn cùng cô bạn gái cố
gắng trau dồi Anh ngữ ,dành dụm để đóng tiền
ứng trƣớc 15000 đô , hy vọng có đƣợc một công
ăn việc làm theo kiểu Hợp tác lao động .. Thật
tội cho dân Việt sau bao nhiêu năm chiến tranh
khốc liệt giờ đây cũng vẫn còn luôn mơ ƣớc một
ƣớc mơ thật nhỏ nhoi là có đƣợc một việc làm
khả thi nuôi sống đƣợc gia đình..
Đến phi trƣờng lúc 1 giờ trƣa thứ ba 16
tháng 3 sau hơn 8 tiếng bay, không khí lành lạnh
buổi chớm Thu của Sydney khiến chúng tôi cảm
thấy dễ chịu hẳn so với cái nóng bức Sài thành ,
hai vợ chồng lấy hành lý xong rủ nhau ra quầy
đổi tiền tại phi trƣờng.
Còn trong túi 400,000 tiền Việt, tôi đổi đƣợc 15
đô Úc. Bà Trâm đổi vài trăm đô Mỹ hối suất
1,09/ Úc. Màn chi đầu tiên bằng Úc kim là 4 đô
thuê xe đẩy hành lý..Bà xã tôi vừa xòe tiền vừa
lẩm bẩm:” cái xứ down under có “Cheap “ thật..
à. Vụ xe đẩy này tại các phi trƣờng quốc tế khác
nhƣ Montreal chẳng hạn đều free.. xài “..thoải
mái..”
Thay cái sim card Australia vào phone
“international“cũ xì của thằng con bỏ lại, tôi gọi
cho Khánh râu và đƣợc biết ông bạn già của tôi
đã đến , đang đợi ngoài cổng, tụi tôi bèn đẩy xe
ra..
Nhìn anh chàng lọm khọm, tóc tai bơ phờ, râu
quai nón rậm rập mà một thời đã làm mê mệt
các bà , nay chỉ còn lơ thơ vài đốm, muối nhiều
hơn tiêu, nhìn thấy mà thƣơng quá !! ..Khánh
râu của thủa nào bây giờ đang hiện diện trƣớc
mặt tôi với hình dáng của một lão ông về hƣu (
mà về hƣu thật..) lóp cóp ra đón bạn hiền ..
(* về việc này, bà xã tôi “chỉnh “ liền:..bộ anh
tƣởng anh còn trẻ lắm à ?? xem gƣơng xem,
bụng thì phệ, ngƣời to nhƣ cái bồ mà bày đặt ..
Tôi lẩm bẩm: ..Thây kệ..miễn sao cái .....vẫn còn
working good là đƣợc dzồi..)
Tay bắt mặt mừng , huyên thuyên vài câu
chuyện chúng tôi đến nhà Khánh sau gần 1 giờ
lái xe và chục lần đứng tim vì tôi cứ tƣởng
111 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Khánh ta quẹo xe đâm thẳng vào xe thằng Úc
đang phom phom đi tới, sau mới nhớ lại là bên
Úc, vẫn theo mẫu quốc Anh , lái xe bên trái con
đƣờng ...
Cất vali lên phòng xong xuôi thì madame Hảo
,vợ Khánh, vừa mổ mắt xong , gọi phone về
đang chờ chồng đến đón. Tụi tôi liền tháp tùng
theo đến tận bệnh viện , Khánh ngồi ngoài trông
xe, vợ chồng tôi theo lời y tá chỉ,leo lên lầu 2
đón . Mắt băng một bên, bà Hảo vịn vai vợ tôi từ
từ ra xe trông có vẻ mệt mỏi vô cùng. Nhƣng khi
vào xe, sau một màn ào ào tâm sự, madame Hảo
bỗng thấy tƣơi hẳn lên, quên mất mắt đang hành
hạ nhức nhối, vẫn liên tục phát chiêu, miệng lƣỡi
tía lia cho đến lúc dến nhà.
Tối hôm đó, sau khi cho mỗi ngƣời một tô bún
bò tổ bà dền, đầy ắp bụng, 3 bà ( Hảo Trâm và
Thu, em gái Khánh) kéo nhau lên lầu, vào
phòng tâm sự tiếp( chắc chắn lại là chuyện con
cái, chuyện hai ông chồng vô tích sự với những
tật xƣa tích cũ từ thời 75 lôi ra kể lể cho nhau
nghe...)
Còn tôi và Khánh râu, dẹp cái bàn ăn xong là
ngả chén chú chén anh liền tù tì , một dĩa cá sấu
quấn lá lốt, vài con mực khô, vài mẩu khô bò,
six pack bia Úc và chai Martel còn hơn phân
nửa, hai thằng lai rai đến hơn 2 giờ sáng. Tất cả
câu chuyện đã kể cho nhau nghe nay lại đƣợc dở
ra, ôn lại, bàn tán hăng hái nhƣ thủa nào...
Khánh kể lại sau khi nhận đƣợc công điện của
tôi từ Vũng Tầu ngày 25 tháng 4 1975 Khánh từ
vùng biệt phái, lên bờ tìm đƣờng về lại Vũng tầu
nhƣng bị kẹt tại Long An mãi cho đến qua ngày
1 tháng 5 mới về đến nơi. Tù cải tạo ra đƣợc
móc nối dẫn tầu đi vƣợt biên bán chính thức nhƣ
thế nào, Khánh đƣa ra từng chi tiết, từng kinh
nghiệm đau thƣơng , chua chát của thời buổi đổi
đời... nghe mà ngậm ngùi, nghe mà thƣơng xót
cho bạn, và ... mừng thầm cho mình đã may
mắn thoát đƣợc từ năm 75...
Tâm sự chán , hai đứa ngồi ngâm nga nhớ lại
thủa còn nghèo đói với nhau ở Vũng tầu, nhớ
những lúc cả hai dí tai vào cái radio transitor
nhỏ xí cố chép lời ca bản Yesterday once more
của Carpenter , kỷ niệm những lúc lai rai rƣợu
nếp than trong căn phòng chật hẹp mƣớn lại của
me Mỹ ngày nào....
Sáng hôm sau, nhƣ lời hứa, Khánh phone cho
Mr. Thanh Dundee báo cáo Gà Tồ nhập vùng, và
tay liên đội A không gian ác này, sau khi gọi đến
sở xin nghỉ lễ Triệu “ẨU”,
đã dắt cháu trai đích tôn dến hội ngộ tại Phở An,
nổi tiếng tại phố Việt vùng Bankstown.
Mr. Thanh Dundee dáng ngƣời gầy gầy, cao ráo
, tóc tai vẫn đen tuyền, trông có vẻ thƣ sinh trái
ngƣợc hẳn danh hiệu Dundee biểu hiệu cho một
khứa lão giang hồ bê bối trong phim Crocodile
Dundee.. Nhƣng danh hiệu là danh hiệu , Liên
đội A thì Liên đội A miễn làm sao không gian ác
là sáu Lễ OK rồi..
Phở An tuy nổi tiếng , có thể ngon có thể mắc
hơn tiệm phở khác, OK nhƣng Gà tồ tôi vẫn ấm
ức, vẫn không thoải mái với cái câu đƣợc chủ
nhân ghi to chần dần quanh tƣờng bằng cả tiếng
Việt lẫn tiếng Ăng lê:
“..YÊU CẦU QUÝ KHÁCH ĐỪNG RỬA ĐŨA
BẰNG NƢỚC TRÀ..”
Men .. sao mà cái quán này nó ..&%$#Ỵ* thế
!!!
Hẹn ngày quay lại Sydney, vợ chồng tôi từ giã
Thanh Dundee, Khánh, PT.Hùng lên đƣờng bay
qua Adelaide để gặp TCCao Cát OCS7 và
nguyên “bộ lạc” nhà vợ..
112 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
oOo
Vừa ra khỏi máy bay là đã nghe tiếng Cát ,
giọng nói quen thuộc vẫn nhƣ xƣa:
- Kìa ..đúng thằng Gà tồ rồi..
Đƣa mắt về hƣớng tiếng nói, tôi cũng không thể
nào nhầm lẫn, chẳng có chi khác, chằng có chi
thay đổi, vẫn dáng gầy cao, khòm khòm, vẫn da
trăng trắng nõn nà nhƣ gã thƣ sinh gạo bài cả
tháng không thấy mặt trời, Trần công cao Cát
của tôi đang hấp tấp đi lại, tay vẫy rối rít, nhìn
thấy mà cảm động, nhìn thấy mà thân thƣơng,
bạn già của tôi đó, mặc dù biết vợ chồng tôi đã
có họ hàng bên vợ ra đón nhƣng vẫn vƣợt đƣờng
xa, vƣợt bức tƣờng security phi trƣờng để vào
tận máy bay đón bạn.
113 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Chị Mai , vợ Cát, trông vẫn phảng phất bóng
dáng cô giáo của ngày nào, ân cần chào hỏi, đỡ
bớt xắc tay của bà vợ tôi, kéo ra phía
cổng...Không cần phải khách sáo, không cần ý
tứ giữ gìn, tôi và Cát đã trao đổi với nhau bằng
mày tao chi tớ nhƣ tự thủa xa xƣa, lúc Chu Văn
An , lúc Quân trƣờng Quang Trung, và ngay lần
cuối gặp nhau năm 1972 tại Rạch Giá , ngày mà
hai vợ chồng Gà tồ đƣợc Cát cƣu mang đem về
nhà ông chú cho ngủ đỡ một đêm khi trong túi
không còn đủ tiền ăn bữa cơm phần bình dân tại
chợ .
Vừa ra đến cửa , phone Cel tôi reo vang , chƣa
kịp trả lời tôi đã nghe :”..Con thấy chú rồi, con
thấy chú rồi, tụi con tới ngay..”?? còn đang
ngẩn ngơ thì tụi tôi thấy một “bộ lạc”, phải, một
bộ lạc( từ mƣợn của sáu Lễ) , cả ba generations,
ba thế hệ : bà ngoại chị bà Trâm, hai đứa cháu
gái, đứa cháu trai, rồi cả hai ba mạng con nít lít
chít chạy đến..
Trông cứ nhƣ thân nhân ở Việt Nam ra đón Vịt
Kìu tại Tân Sơn Nhất...
Sau màn tay bắt mặt mừng, giới thiệu lung tung,
ồn ào nhƣ cái chợ vỡ trong phi trƣờng Úc..,
chúng tôi chuẩn bị ra xe, bà vợ vừa leo lên xe cô
cháu là tôi vội nhót lên xe của Cát và hẹn gặp lại
tại nhà bà chị vợ..
Thở phào nhẹ nhõm, tôi theo Cát đi một tour
thành phố..à không, phải nói là thị xã Adelaide
mới đúng, đi dăm phút đã về .. nhà bà chị
vợ...chèn ơi, mấy thủa mới đƣợc bà “chằng “ thả
lỏng, chỉ mong Cát ta đi lạc đƣờng lâu lâu một
chút ..nhƣng ..chỉ là giấc mơ thôi.. ông thổ công
này chỉ xịch một cái là đã ngay trƣớc cửa nhà bộ
lạc bên vợ “gồi”..
Trên xe Cát vẫn tỏ vẻ lo lắng :
- Mày sure không, tao nhớ hồi đó mi có xích
mích với bên vợ về vụ theo Đạo hay không mà
.Nếu ở bên họ mà không thấy thoải mái thì qua
tao nghen, mà thôi, để tao theo tui mi vào nhà,
có gì tao bốc tụi mày đi luôn.
Tôi phải trấn an:
- Không có gì đâu, anh chị Viện cũng còn trẻ,
cỡ tụi mình thôi.. không có khó tính nhƣ mấy
ông bác bà dì cổ lỗ sĩ Đạo gốc xƣa ..hơn nữa
mấy năm trƣớc , họ đã đến nhà tao hồi đứa cháu
gái còn bên Canada.
Tuy nhiên, vợ chồng Cát vẫn vào nhà xem sao
và ở lại dùng cơm với gia đình.Tới khuya, Cát
cáo từ và hẹn đúng 8 giờ sáng mai sẽ đón tụi tôi
đi ăn sáng .
Men!!, cụ Cát quả vẫn còn tính “Officer
and gentleman”, sáng hôm sau, khi chuông cửa
keng keng vài tiếng, tôi, hãy còn nằm nƣớng
trên giƣờng, mắt nhắm mắt mở, nhìn đồng hồ, 8
giờ đúng boong. Hai vợ chồng quýnh quáng dục
nhau dậy, cũng may bà chủ nhà, đã thức tự bao
giờ, mở cửa cho khách vào...
Theo vợ chồng Cát đi ăn sáng tại một tiệm cà
phê sặc mùi Francais, với “Tô” Café au lait
chính hiệu lại điểm thêm vài cái bánh Paté chaud
nóng hổi, xong mới đi guide tour do thổ công
Cát hƣớng dẫn, Cát đƣa tụi tôi đến khu chợ
Internation market với những quầy hàng đặc
trƣng cho những miền Âu châu, bánh ngọt ,
fromage ,khu bán thịt ,đồ khô và hàng nhập cảng
từ Trung Đông ..tóm chung, thứ gì cũng có , chỉ
giá cả là quá đắt so với thị trƣờng Bắc Mỹ...rồi
cả bọn lang thang dạo biển vùng Adelaide chỉ
cách nhà Cát 5, 10 phút xe mãi đến chiều mới
trở về nhà thăm bác gái, mẹ chị Cát và lẽ dĩ
nhiên đƣợc thƣởng thức tài làm bếp của chị Mai,
vợ Cát, menu gồm có entré là món cháo bào
ngƣ, xong main dish là bánh hỏi thịt nƣớng
114 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
recette gia truyền rồi còn màn dessert tráng
miệng cẩn thận.
Trong bữa ăn, Cát tâm sự: Tù cải tạo ra,
may mắn vƣợt biên trót lọt, qua xứ Úc vừa cày
vừa đi học, ra trƣờng làm cho hãng xe hơi
Mitsubitsi từ đó tới giờ. Năm ngoái nghe hãng
rục rịch đóng cửa, Cát deal lấy package và về
hƣu luôn. Về hƣu ở đây không có nghĩa là ăn
lƣơng già 65 tuổi của chính phủ mà là hƣởng
benifits với đầy đủ quyền lợi của cực chiến binh
Australia. Vụ này Khánh râu Sydney giải thích :
- Luật về cựu chiến binh bên xứ Úc này có mục
về Allied forces , nếu ông đã từng là lính của bất
cứ đồng minh nào cùng chiến đấu với Úc chống
kẻ thù chung thì khi vào dân Úc, sẽ đƣợc hƣởng
đầy đủ quyền lợi nhƣ cựu chiến binh Úc , mình
đã từng sát cánh bên chiến sĩ Australia chiến đấu
chống Cộng sản tại tiền đồn thế giới ở Việt Nam
trƣớc 75 nên qua đây, đƣơng nhiên mình đƣợc
hƣởng quyền lợi này...”
Quả thật là very good.., Gà tồ tạm so sánh lƣơng
già cộng tất cả các benifits của vợ chồng Gà bên
xứ Canada khi về hƣu 65 tuồi thì chỉ bằng nửa
so với “cái gọi là “ quyền lợi cựu chiến binh Úc
bây giờ.. Sơ sơ chƣa kể tiền lãnh hàng tháng ,
free Medicaire cựu chiến binh nhà ta còn thêm
biết bao cái ƣu tiên khác chẳng hạn nhƣ thuốc
men, toa thuốc trụ sinh dân Úc phải trả 50-60 đô
Úc thì cựu chiến binh Khánh râu trả 5 tì, đi xe
bus , metro train 1 cuốc lên xe, xuống xe : 6 đô
/dân địa phƣơng, Khánh ta xòe 2.50 đô cho cả
ngày, muốn đi đâu thì đi, 24 trên 24....chƣa hết..,
các bà vợ đƣơng nhiên đƣợc ăn y chang theo
chồng không kể tuổi tác , và no quetion to
ask...!!
Men.!! Xứ Úc kỳ lạ này quả là thiên đàng hạ
giới của dân tị nạn Việt Nam với hệ thống an
sinh xã hội rập khuôn Âu châu, phúc lợi dân
chúng y chang Thụy sĩ còn tiện nghi đời sống ,
nhà cửa coi bộ còn qua mặt dân Bắc Mỹ . Ai
không muốn bon chen , muốn sống một cuộc
sống tà tà nhàn hạ thì theo lối sống các cựu
chiến binh này..
Nghe tới đây, bà Trâm gà mái bèn có một màn
so sánh và than:.- “thấy chƣa anh, thấy chƣa....,
hồi đó tự dƣng theo gia đình anh mò qua xứ
Canada lạnh lẽo làm gì không biết nữa ...
à...mình mà sang xứ này thì bây giờ đã về hƣu
non tàng tàng từ lâu rồi ..
Cáu sƣờn, Gà tồ phản công : “ Phải dzồi..hồi đó
mà qua Úc thì biết đâu bây giờ Gà tồ lại có vài
gà mái tơ từ VN qua vây quanh , rất gần gũi và
rất dễ nuôi... Gà mái già lúc đó không biết ở đâu
à...”
Ăn uống xong xuôi ngồi làm ly bia với nhau,
Cát bỗng chợt nhắc đến Tuệ “còi”. Nguyễn văn
Tuệ và nhóm Chu Văn An nhƣ Cƣờng Kiến lửa,
TC Cao Cát, Tƣờng cá lòng tong, Hùng gà tồ,
Đặng kim Chi v..v.. đã rủ nhau vào Hải Quân
cùng thời, cùng thuộc liên đội C thụ huấn Quang
Trung , về APL học Anh văn chuẩn bị đi OCS
Newport, RI, nhƣng chỉ một thời gian sau , thấy
bạn bè lần lƣợt đi học trƣớc, Tuệ nản chí bèn
theo học khóa 22 NT . Có thể nói sự hy sinh của
Tuệ là một trong cái chết giờ thứ 25 của cuộc
chiến. Tuệ bị hỏa tiễn 122 ly rơi trúng sân sau
chiếc Y tế hạm 401 trong nhiệm sở tác chiến mà
Tuệ là sĩ quan trƣởng sân lúc chiến hạm vào
sông Năm Căn trong một công tác dân sự vụ vào
những ngày cuối của tháng tƣ năm 75. Tƣờng cá
lòng tong là một trong những ngƣời bạn đƣợc
Cát đánh công điện gọi về dự tang lễ Tuệ, nhờ
đó, Tƣờng theo làn sóng dân tị nạn đi thoát đƣợc
năm 75.
Thôi , đổi đề tài một chút cho vui vui, những quá
khứ đau buồn xin tạm quên đi trong giây lát để
trở lại với Adelaide . Tại thị xã này, ngoài màn
ngao du với vợ chồng Cát, tụi tôi còn đƣợc bộ
lạc bên vợ : anh chị vợ, các cháu đón tiếp rất ân
cần và chu đáo, nhất là “chú Hùng ngoại đạo”
đƣợc các cháu gái , cháu rể cƣng chiều quá
mạng :
-Đi biển đêm , ghé Casino, zip cà phê ngắm
biển by night.
-Muốn nhậu thứ gì là có liền : Sò , cua hấp bia,
cua nƣớng (món này hết sẩy), cá nƣớng than
115 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
cuốn bánh tráng mắm nêm, ƣu tiên dành cho chú
bộ đồ lòng cá giòn tan béo ngậy.
Đặc biệt có màn lẩu đồ biền với bào ngƣ, cua,
chem chép và những núm chả cá thì là bọc trứng
cá saumon bên trong, lần đầu tiên đƣợc thƣởng
thức, ngon lạ thƣờng, gắp một núm trong nồi lẩu
sôi sùng sục, đƣa lên miệng, cắn ngay núm nhọn
cái bốp, hƣơng nóng mùi thơm trứng cá vừa chín
tới xông lên tới óc, chới với , tuyệt vời...
Rất tiếc, Adelaide , xứ nóng tình nồng nhƣ vậy
mà tụi tôi binh sai đƣờng , chỉ book máy bay ở
lại có 3 ngày nên đành ngậm ngùi từ giã bạn
hiền T.C Cao Cát, chị Mai và bộ lạc thân thƣơng
bên vợ để cùng bà chị vợ bay lên Brisbane, tỉnh
mạn Bắc của Úc với Queen land và các bãi biển
nổi tiếng Gold Coast, Surf-Paradise...
Và lẽ dĩ nhiên, màn tiễn đƣa lại là màn bầu đoàn
thê tử lóc nhóc cùng với vợ chồng Cát ra tận sân
bay bùi ngùi xoa tay vẫy vẫy...
oOo
Search trong bảng phong thần Gia đình
HQ/OCS/THĐ do OC Tạ quốc Quang biên soạn,
tôi chẳng thấy một trự cựu OCS nào trong vùng
Queen land này cả nên đành để cho bà chị làm
leader đƣa đến nhà cô Hoa , em út của bà .
Cô Hoa và ông chồng rất dễ thƣơng , rất lịch sự
nhƣờng phòng lớn đầy đủ tiện nghi với phòng
tắm riêng cho vợ chồng Gà. Cả hai đều còn trẻ,
tuổi mới ngoài 40, nên tuy vai vế cao hơn nhƣng
vẫy gọi tụi tôi là anh chị ( lại thêm một bằng
chứng nữa là mình đã già, buồn 5 phút) .
Brisbane cảnh đẹp quá nhiều, hình ảnh đƣợc
quay , chụp lia chia nhƣng ... thiếu màn nhậu,
ông chồng là cựu giáo chức, bà vợ hiện là
hygène dentaire cộng thêm hai cô bé teenager
nên nhà hổng có chứa rƣợu bia, lại chẳng có
bạn hiền để chén chú chén anh nên Hùng gà tồ
đành ...tu nƣớc suối trong chai, cũng may, chứ
ngày nào cũng nhậu dài dài nhƣ ở VN , Sydney,
Adelaide thì Gà tồ sẽ thành Gà lủng .. bao tử
ngay.
Thời gian tại Brisbane cũng chỉ timing có 3 ngày
nhƣng là thời gian cho vợ chồng tụi tôi shape up
cái body bụng phệ lại bằng những màn ăn uống
chừng mực, thức ăn tốt lành cùng những màn đi
bộ dài cả mấy tiếng đồng hồ trên những bãi biển
, eo vịnh đẹp tuyệt hảo của vùng Queen land này
. Ba ngày ngoài những hình ảnh ghi lại những vẻ
đẹp thiên nhiên và màn leo núi ngắm thành phố
ban đêm tại terrace một tiệm ăn sang trọng trên
đỉnh Mont COOT-THA, tôi chẳng còn có gì để
kể cho các bạn về vùng này cả.
Rời Brisbane không mấy thấy hối tiếc lắm vì
đang háo hức màn tái ngộ Sydney với những OC
thân quen đang chờ đợi và chƣơng trình ăn nhậu
đã đƣợc OC Thanh và OC Khánh planning từ
trƣớc.
116 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
oOo
Ngày tái ngộ Sydney Khánh ta lại phải
lóc cóc vác xe ra đón, kỳ này Khánh bị bệnh
gout hành sau những màn nhậu trƣớc nên đi
đứng cực kỳ khó khăn, trông thật tội.
Đau nhƣ thế mà sáng hôm sau Khánh nhất định
đòi đƣa vợ chồng tôi đến tỉnh vùng mé Đông của
Sydney mặc dù tôi đã nói ngồi tán gẫu ở nhà
cũng đƣợc. Lái xe khoảng 40 phút, chúng tôi đã
đến Nhà thờ St. Mary Catheral chụp gấp rút vài
pô hình cho madame Trâm chứng tỏ lòng ngoan
đạo, đi du lịch cũng ghé nhà thờ xong Khánh lái
qua vùng Bondi Junction dọc theo bãi biển
Tamarama , Rose North, Diamond-bay vòng lên
tuốt đến Walson- bay, đổi hƣớng ngang qua
Rose bay harbor , tại Diamond bay chúng tôi
đƣợc xem vùng bờ biển hùng vĩ với những sƣờn
núi vách sừng sững dựng đứng cao giống nhƣ
vùng mũi cá mập của Côn sơn ngày nào. Muốn
chụp hình toàn cảnh này, gà tồ phải đập cánh
bay vút lên tận đỉnh núi một mình, còn Khánh vì
gout hành, bà gà mái ngại mệt nên cả hai ngồi
nhâm nhi cà phê đợi dƣới chân núi.
Trƣa đến, ba mạng tìm một Resto bar ngay bờ
vịnh ngồi nhâm nhi bia Úc , mấy con tôm chiên
xù and ..Fish and chip.. ngồi ngắm những ferry
đi đi về về tại Darling harbor tôi và Khánh lại
chạnh nhớ lại bài “sitting down on the docking
bay”..thƣờng hay đƣợc nghe thời thịnh hành của
nhạc rock 60-70.
Buổi chiều, trên đƣờng về lại City ( bên
này thiên hạ gọi downtown, trung tâm thành
phố, là City, khi nói mình đi City nhá , nghĩa là
mình xuống phố đó ghen) chúng tôi ghé đón
cháu Quyên , cô gái lớn của anh chị Khánh,
đúng giờ tan sở và đƣợc cháu mời màn beer
blast “happy hour “ ở khu du lịch The Rocks
gần Sydney Cove ngắm Sydney opera house
(nhà con sò) trong khung cảnh lãng mạn của
buổi Hoàng hôn, ôi.. sao mà relax , sao mà thƣ
thái vô cùng..cám ơn cháu Quyên nhé ..
Ngày hôm sau là ngày nghỉ trong tuần
của Mr. Thanh Dundee nên bạn hiền liên đội A
này đã tình nguyện take care khách Canada cho
Khánh .” Món hàng “ đƣợc bàn giao tại khu phố
Việt Nam Bankstown. Sau màn ăn sáng, Khánh
từ giã chạy về lo công chuyện và dặn Thanh nhớ
đƣa “món hàng “về cho kịp buổi ăn chiều với
gia đình Khánh.
Thanh sau đó dẫn tụi tôi nhâm nhi cà
phê tại quá Nhớ (không giống nhƣ cà phê Dĩ
vãng, cà phê Lú bên Cali đâu mà ham nghen cu
Lễ ) .
Bankstown , một thị xã Việt Nam tại
Sydney, phải, có thể gọi là một thị xã với
nguyên một khu phố nhà hàng, chợ búa , cửa
tiệm , offices toàn bảng hiệu Việt Nam , kéo dài
hai ba dẫy phố không thua gì ở một khu của
Little Saigon bên Orange County , Cali. Giá cả
so với bên Mỹ hoặc Montreal thì cao hơn nhiều,
từ thức ăn, đồ đạc , quần áo đều đắt hơn gần 30
phần trăm.
Màn cà phê cà pháo xong , Thanh lái xe
đƣa tụi tôi về thăm nhà và bà xã , không ngờ
Thanh bằng tuổi tôi, sinh năm 1949 và bà xã
117 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Thanh cũng đúng tuổi bà xã tôi. Hàn thuyên một
lúc chúng tôi từ giã chị Thanh xin phép về sớm
vì từ nhà Thanh ở Fairfield về nhà Khánh phải
hơn 3 tiếng lái xe vừa đi vừa về, lại đang giờ
tan sở mà Thanh phải đi làm từ 4 giờ sáng hôm
sau.
Tối hôm đó , tại nhà Khánh là một màn
ăn uống tƣng bừng náo nhiệt đến hơn nửa đêm
với toàn gia đình con cháu có cả con gái con rể
và chị Nga, bà xã của OC Lê văn Chín mặc dù
đƣơng sự đang thong dong tại Saigon chƣa qua
đƣợc...Đặc biệt menu do bà Hảo vợ Khánh, cô
Thu, chị Nga và các cháu biên soạn gồm Tôm
hùm, sò huyết , những con tƣơng cận, rồi
beefsteak bò Úc ( number one ) và đặc biệt
Steak Kanguru( dai, ít mỡ , nhƣng không bằng
steak bò Úc ). Và các bạn phải nhìn tận mắt
cách làm tôm hùm của cháu Huy , con trai thứ
ba của Khánh , thì mới phục , tay đầu bếp bất
đắc dĩ đã làm cho bác Hùng lác mắt : con tôm
hùm hơn 3 ký ( hơn 6 lbs ) nhìn lổn nhổn gai
góc to nhƣ con quái vật trong phim giả tƣởng mà
Huy ta dùng dao thọc ngay giữa đầu, cố xẻ đôi
làm con vật dãy đành đạch khiến gà tồ đang
quay phim mà run tay , toát mồ hôi, tim đập
thình thịch..Thế nhƣng khi gỡ cái đầu tôm, phết
tí bơ tỏi đƣa vào miệng thì lại chẳng run tay tí
nào, trái lại còn thấy khoái tỉ đến tận chân lông ,
thêm màn đƣa ly XO cụng cái coong với các
cháu trai..ối dào, sao mà nó đã thế...
Đánh chén no say, sau khi phụ Khánh và
các cháu kê dọn lại bàn, cả nhà làm một giấc cho
đến sáng bạch ngày hôm sau .
Cà phê cà pháo xong xuôi, cô Thu tình
nguyện làm tour guide dẫn lên “city “ đi
shopping và thăm Sydney opera house tận nơi
tận chốn . Đây là lúc Gà tồ test xem quyền lợi
các cƣu chiến binh có đúng nhƣ lời đồn không
bằng cách mƣợn thẻ ancien combattant Úc của
Khánh . Quả nhiên là thật các bạn à.. leo lên xe
buýt, chìa cái thẻ ra, là đƣợc sự kính nể của các
tài xế liền tù tì: cúi đầu chào một phát , lấy 2,50
đô xong là tài xế bấm vé xe, cẩn thận ghi date
trên tấm vé xong đƣa tận tay cho mình ,không
một thắc mắc , hỏi han câu nào ...và tấm vé này
chỉ cần xì ra cho bất cứ một service cho công
chúng nào là đƣợc welcome ngay..
Việc đầu tiên là xuống xe bus ngay trạm
cuối đƣờng George xong đi bộ đến Circular
Quay , nơi “con sò “ ngự trị rồi tha hồ bấm
máy.
Rời rã tay ( vì chụp hình cho “ngƣời
mẫu” khó tính Trâm , phải vặn vẹo lấy kiểu
nhiều quá) và chân (vì đi bộ , cô Thu bắt chạy
theo xe buýt , leo lên motor rail làm một tour
quanh phố chính ) chúng tôi vào một tiệm điểm
sấm Tầu trên lầu thƣợng của một shopping lớn
trong phố làm một bụng xíu mại, hắc cẩu chân
gà vv..vv rồi lại tiếp tục cuộc hành trình khám
phá Sydney .. ban ngày.
118 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Ngày hôm sau Khánh phải đƣa bà Hảo
tái khám nên cô Thu lại “tình nguyện “ làm
hƣớng dẫn viên thêm hôm nữa. Kỳ này chúng
tôi sẽ khám phá các ngoại ô Sydney bằng Ferry.
Tại Ferry Quay, chúng tôi thấy có tất cả 5 lines:
muốn đi Darling harbor , phía Tây Sydney,
chúng tôi chọn Ferry line 4 , cũng với vé đi xe
bus cũ lúc sáng ( giá bình thƣờng hình nhƣ là
5.95 ), chúng tôi leo lên và khoảng 20 phút sau ,
tầu cặp bến , cả bọn lên bờ , làm một vòng thăm
Sydney Convention center, Harbor side
shopping center rồi lấy motorrail trở về “City “
tại trạm Galeries Victoria, lấy bus khoảng 45
phút về lại nhà tại Castle hill .
Tối hôm đó mới thật là đêm, màn nhậu
trình diện nhập vùng của Gà tồ là tối hôm nay ,
thứ sáu 26 tháng 3 tại nhà hàng sea food tên gì
cóc nhớ..chỉ biết từ nhà Khánh phải lái xe mất
gần tiếng đồng hồ..
Bữa tiệc quy tụ hầu hết những OCS
vùng Sydney ngoại trừ Bình bận về thăm gia
đình tại VN, Sơn Lành bị bệnh , Dƣơng văn Đức
thợ lặn từ mấy chục năm nay và Độ hiện đang ở
Melbour với gia đình.
Thâm niên hiện là anh chị Kim Bửu
OCS 1, sau đó là anh chị Thềm văn Ba OCS 2 ,
anh chị Nguyễn Mỹ Thanh Dundee và anh Phạm
chiến Thắng OCS 3, tôi và bà xã, Nguyễn mạnh
Hùng OCS6 , anh chị Hoàng minh Khánh và
anh chị Phan Tấn Hùng OCS8, đại diện cho anh
Lê văn Chín OCS10 là chị Nga vợ anh Chín, và
thân hữu là cô Thu em anh Khánh.Khỏi nói, bữa
tiệc vui hơn Tết, menu hoàn toàn những món
“hẩu sực “ của Gà tồ: Canh chua , cá kho tộ, cá
chiên giòn, bò tái chanh. .. chỉ có cái là khi cụng
ly, các cụ bên downunder này toàn đƣa ly “rƣợu
đế” trắng , không sủi bọt không mùi vị không
mầu sắc đƣợc đem từ những nguồn suối
về...thành ra chai rƣợu Martel do mấy anh chị
tặng chỉ đƣợc Hùng Gà tồ độc ẩm gần nửa chai
rồi không có bạn nhậu nên ngƣng ngang. Khánh
sợ Gout hành nên cũng không dám uống.. Chèn
ơi , mấy ông thầy này Down ..under thiệt rồi..
toàn là ông thần nƣớc lạnh không hà... may ra
chỉ có Phan tấn Hùng thỉnh thoảng ngụm vài ly
vin đỏ thôi..
Tuy nhiên cuộc vui kéo dài đến gần 11
giờ nhờ những đề tài quanh quẩn chuyện “chúng
mình” ,cùng một tần số về kỷ niệm quá khứ Hải
quân, và nhất là kỹ thuật nói chuyện của các chị
làm cho không khí bàn tiệc sôi động không
ngừng
119 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Nạp calories quá nhiều nên OC Thềm
văn Ba có nhã ý rủ mọi ngƣời đến Casino nơi có
một private Dancing club với ban nhạc Việt mà
anh là một VIP member. Thế là cả bọn di tản
qua vùng đâu tận Fairfield hay Paramatta gì
đó..Không ngờ dancing floor lại đông nghẹt dân
mê nhót nhƣ vậy , mới chiều thứ sáu gần 11 giờ
đêm .. whoa .. nam thanh nữ tú ào ào thay nhau
biểu diễn không ngừng mà ban nhạc chơi rất khá
, âm thanh khỏi nói , dân professionels mà..
Thế là cả bọn enjoy tối đa, rủ nhau ra
tập Gym, bia nốc ào ào nhƣng chỉ có song Hùng
và Khánh thôi nghen..các OC kia lại nƣớc suối
làm chuẩn nhƣ thƣờng lệ..
Trƣớc khi ra về, Mr. Ba lại rủ anh em
hẹn trở lại hôm chủ nhật cũng tại đây sẽ đƣợc
thƣởng thức tài nghệ của ca sĩ thứ thiệt và
nghiệp dƣ..
Sáng hôm sau thứ bảy, anh chị Thanh
tháp tùng Khánh Hảo, Hùng Trâm và cô Thu
cùng chị Chín bắt Ferry số 5 để đi Mainly thuộc
vùng Đông bắc Sydney. Trên đƣờng đi, ferry
lƣớt qua một bến tầu hải quân Úc, nhìn những
chiến hạm mầu xám gris y hệt nhƣ những chiến
hạm cũ của Hải quân VN , cả ba thằng cựu
Naval officers lại thấy nhoi nhói từ tận trong đáy
lòng..ôi thời vùng vẫy xuôi ngƣợc nay còn đâu..
Khi ferry đổi cấp tiến vào vịnh Mainly,
thì mặt biển bỗng nhiên bị che kín bởi hàng
trăm cánh buồm khoe mầu rực rỡ dƣới ánh nắng
ban mai..trông tuyệt đẹp, cả bọn bấm máy lia lịa.
Có điều lạ là không biết dân thuyền buồm vùng
này có tin dị đoan nhƣ dân đi biển miền Trung
VN không mà cứ cố tình đâm vƣợt ngang ngay
sát mũi Ferry để lấy hên làm ferry cứ phải hụ
còi xua đuổi ầm ĩ.....
120 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Ferry ghé vào bến Mainly wharf , cả
nhóm lên bờ và bắt đầu cuộc du ngoạn thắng
cảnh tại vịnh Mainly với bãi biển, đƣờng phố
chật cứng du khách tứ phƣơng.. sau phần ăn trƣa
trễ tại một steak house ngay khu du lịch chúng
tôi tiếp tục leo lên dốc đèo dọc theo eo biển cho
đến khi các bà than mỏi ,ngồi nghỉ ngắm cảnh
một lúc , chúng tôi lại theo ferry trở về Sydney .
Trƣớc khi chia tay anh chị Thanh có nhã ý mời
cả nhóm ngày mai sẽ thƣởng thức món cơm
niêu tại một địa điềm bí mật sẽ đƣợc bật mí sáng
mai.
Ngày hôm sau, chúng tôi , theo sự
hƣớng dẫn bằng cel của Pilot Thanh, lái xe gần
một tiếng để đến thƣởng thức cơm thố của một
nhà hàng tầu vùng Paramatta?? Tên là First
Taste, mà quả thật không bõ công, nhà hàng có
khẩu vị thật lạ, trƣớc tiên là món soup thật ngon
vả bổ nhƣ: Boudda jump out (Phật nhẩy tƣờng )
black chicken stew (gà ác hầm thuốc bắc ) rồi
món cơm nấu trong niêu theo kiểu cơm tay cầm
của Việt Nam nhƣng phong phú hơn nhiều với
Seafood combination , Chim cút quay giòn..đặc
biệt là dƣới đáy niêu, luôn luôn có cơm cháy
ngon và thơm giòn vì đã đƣợc sốt thấm xuống từ
những thức ăn , gia vị xếp bên trên.
Xong màn ẩm thực, chúng tôi lại rủ
nhau ghé đến điểm hẹn ở dancing club với anh
chị Ba. Tuy đến quá trễ, nhƣng nhờ tài ngoại
giao của Business women Hảo, ban tổ chức đã
ƣu tiên cho khách phƣơng xa là “Hùng Canada”
đƣợc lên hát trƣớc bàn dân thiên hạ. Cũng may,
các bạn OC đã lo xa, mua hết cà chua ở chợ nên
Hùng Canada mới không bị ăn cà chua thối mà
trái lại, còn đƣợc những tràng pháo tay cổ võ ào
ào..
Sau hôm chủ nhật là đến ngày thứ hai,
mọi ngƣời lại đi làm , Khánh cũng buồn buồn lo
chở vợ con và cháu ra phi trƣờng chuẩn bị
chuyến âu du thăm con gái và con trai hiện đang
ở Lon don bên xứ Ăng lê. Vợ chồng gà tồ còn
buồn thảm não hơn , ngày vui đã qua , ngày tiếp
tục cày bừa sắp trở lại ..chỉ còn phù du vài hôm
nữa bên Seoul, Đại Hàn là ôi thôi... vacation is
finished...
Rồi cũng nhƣ lúc đợi ngày nghỉ hè để đi
, ngày về đi làm cũng bắt buộc phải đến. Sáng
sớm thứ ba 30 tháng ba 2010 vợ chồng Hùng gà
tồ lại khăn gói quả mƣớp lên xe. Khánh chở ra
phi trƣờng Sydney , vứt đánh bịch một cái, rồi
“..sung sƣớng..”ôm vai Gà tồ nghẹn ngào từ
giã.( chỉ đùa thôi nghen Khánh, chứ nhìn Khánh
râu huyền rầu lắm vì nhớ vợ con, cháu và thêm
bạn hiền cũng bỏ đi luôn) .
oOo
Vài ngày sau, vợ chồng tôi lủi thủi một
mình trên đƣờng phố Seoul, south Korea mà
lòng vẫn còn mang âm hƣởng của những chuỗi
ngày nồng ấm bên Australia.
Năm ngày tại thành phố Seoul, bốn ngày
trên đảo Jeju , vợ chồng gà đã tìm hiểu và khám
phá hệ thống xe điện ngầm, nhờ vậy đã đến
đƣợc hầu hết những nơi đặc trƣng cho xứ Củ
Sâm này kể cả những nhà hàng, quán ăn với
menu đặc biệt. Nhƣng đây lại là một đề mục
mới, Hùng gà tồ xin hẹn các bạn OC một dịp
khác sẽ nêu lên những điểm chính trong chuyến
du ngoạn Hàn quốc này.
Bài viết đến đây là quá dài , VAT lại sắp
sửa email sạc cho một trận vì gửi bài trễ nên gà
tồ tôi xin tạm chấm dứt Thiên Du Ký Down
under tại đây.
(Xem tiếp trang 140)
121 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Lê Đình Quang
Tôi đến Guam ngày 12 tháng 5 năm 1975, bắt
đầu cuộc sống của ngƣời tị nạn, sau khi tìm đến
căn lều đã đƣợc chỉ định, sắp xếp để thành một
chỗ ở tạm thời cho gia đình, tôi đi ra ngoài căn
lều để tìm hiểu sinh hoạt của ngƣời Việt tại đảo
Guam nhƣ thế nào. Lúc này đã vào buôi chiều,
và là giờ ăn tối, tôi thấy có nhiều ngƣơi đang sắp
hàng để lãnh thức ăn. Ngoài những căn lều đƣợc
dựng để làm nơi trú ngụ cho ngƣời tị nạn, còn có
một số lều khác đƣợc dựng lên để làm nhà
bếp.Qua một thời gian ở trên thƣơng thuyền của
Mỹ chỉ dùng toàn là Ration C, hôm nay ngày
đầu tiên bƣớc lên bờ, mùi thức ăn nóng thật là
hấp dẫn đối với tôi. Nhƣng rồi sau khi lãnh phần
ăn của
mình, mọi
háo hức đã
tan đi, nhìn
lại đĩa thức
ăn tôi có
phần hơi
ngao ngán,
thức ăn này
có lẽ không phù hợp với một số đông ngƣời Việt
chúng ta. Nhƣng mọi việc rồi đâu cũ ng vào đấy,
thời gian đã làm cho mọi ngƣời từ từ quen thuộc
với đời sống và thức ăn ở tại nơi đây.Mấy ngày
qua đi, tôi bắt đầu công việc tìm kiếm ngƣời
thân và bạn bè, đảo Guam lúc này rất đông
ngƣời, tìm kiếm ngƣời thân không phải là một
việc dễ dàng. Bƣớc chân xuống tàu, cởi bỏ bộ
quân phục, những ngƣời lính nhƣ chú ng ta xem
nhƣ đã vĩnh viễn rời bỏ quê hƣơng, rời bỏ ngƣời
thân trong gia đình, bây giờ nếu tìm đƣợc ngƣời
thân ở nơi đây thì quả thật đây là một hội ngộ
với nhiều may mắn và hạnh phúc. Một tình cờ
thật may, tôi đã gặp một ngƣời bạn hải quân mà
chúng tôi đã từng quen nhau trong những ngày
còn ở Bạch Đằng II, đó là Nguyễn Hữu Cho (K.
3). Gặp lai Cho tôi thật là vui, bạn đến Guam
một mình, không ngƣời thân, tôi dù sao cũng
còn may mắn hơn, có bà xã ở bên cạnh. Tôi đề
nghị với Cho đến lều của tôi ở cho vui, bạn đồng
ý ngay, kể từ hôm đó tôi có thêm một ngƣời bạn
đã quen biết từ trƣớc. Cho là ngƣời trầm lặng,
ngoài những lúc chúng tôi nói chuyện với nhau,
thời gian còn lại anh dành cho công việc thiền,
tôi mong manh hiểu ra rằng anh đang mang một
chứng bịnh gì đo và thiền là một phƣơng pháp
chữa bịnh của anh, tuy hiểu nhƣ thế nhƣng tôi đã
không hỏi rõ là bịnh tình nhƣ thế nào. Một kỷ
niệm thật vui với thật nhiều ý nghĩa, một ngày
sau khi ngồi thiền, anh đã đem về cho tôi một
đồng dime, với một dime này tôi đã mua đƣợc
sáu điếu thuốc lá. Sáu điếu thuốc lá này đã thỏa
mãn một phần nào cơn ghiền thuốc lá của tôi,
bƣớc chân lê tàu Mỹ thuốc lá cũng bắt đầu hết,
đây là những điếu thuốc thật ngon và duy nhất
mà tôi đã hút ở đảo Guam. Những ngày kế tiếp
qua đi với những chán nản càng lúc càng nhiều,
sắp hàng làm thủ tục để vào Hoa Kỳ, sắp hàng
ăn cơm, tối đến xem chiếu phim … Cuộc sống ở
Guam ngày qua ngày là nhƣ vậy đó.Thấm thoát
tôi ở đảo Guam đã gần một tháng, tôi đã xin đi
định cƣ ở tiểu bang Cali, một nơi mà hầu hết
ngƣời Việt lúc đó đều muốn đến, con đƣờng chờ
đợi còn thấy dài dài. Một đêm vào khoảng 12
giờ đêm tôi nghe trên loa phóng thanh, nếu có ai
muốn đi PA thì đến văn phòng để lập thủ tục,
đây là một nơi rất lạnh về mùa đông nên ít có
ngƣời muốn đi. Tôi sau một thời gian chờ đợi
với nhiều chán nản, nghe xong thông cáo trên tôi
ra đến văn phòng để tìm hiểu, quả đúng nhƣ tôi
đã nghe, tôi chạy về lều, thu dọn hành lý, nói với
Cho về ý định đi PA, Cho cũng đồng ý và xách
hành lý đi với tôi, thật ra thì chúng tôi cũng
122 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
chẳng có hành lý gì, chỉ là một túi xách, với đồ
dùng cá nhân, và vài bộ đồ dân sự. Vỏn vẹn chỉ
có thế, chúng tôi lên xe bus để đi đến một trại
khác, hình nhƣ là căn cứ Anderson thì phải, con
đƣờng đi đến trại phải qua một phi trƣờng B52,
nhìn những chiếc B52 nằm trên phi đạo, tôi
tƣởng tƣợng đến khả năng tàn phá của những
quả bom của phi cơ, những phi vụ liên tục cất
cánh từ đây để yểm trợ cho miền Nam, tôi tự hỏi
nếu thực sự tận dụng khả năng của các phi cơ
này, liệu quân đội Cộng Sản sẽ chịu đựng đƣợc
bao nhiêu ngày trong cuộc chiến, nhƣng câu hỏi
đã không có câu trả lời, bởi vì hiện tại tôi và
nhiều ngƣời khác đã đang ngồi trên chiếc xe bus
này để sang Mỹ tị nạn, một thực trạng thật ê chề
và đau đớn. Qua một thời gian ngắn ở trại
Anderson, ngày 6 tháng 6 năm 75, tôi, vợ và
Cho đƣợc đƣa sang trại Indian Town Gap ở tiểu
bang PA. Khi đến nơi, lúc xuống phi cơ đe lên
xe bus về trại tôi gặp lại một số bạn bè cũ :
Nguyễn trọng Chiếu, Trần văn Kim, Trần
Thung... Tha hƣơng ngộ cố nhân, ở đảo Guam
tìm không thấy, sang đây lại có cơ hội gặp nhau,
trong hoàn cảnh hiện tại, còn nổi vui nào bằng.
Cho ở barrack khác với tôi, nhƣng chúng tôi vẫn
thƣờng xuyên liên lạc với nhau. Cuộc sống
nhàm chán lại bắt đầu với những công việc hàng
ngày, sáng, trƣa, chiều, sắp hàng đi ăn cơm, tối
đến xem chiếu phim. Dù nhàm chán nhƣng ai
cũng phải trải qua. Cuối cùng rồi cái ngày chờ
đợi ấy cũng đã đến, 26 tháng 7 năm 75 gia đình
tôi rời trại để về với ngƣời bảo trợ ở thành phố
Rockford, Illinois. Cuộc sống của ngƣời tị nạn
đã bắt đầu với tôi kể từ ngày hôm đó ở tại thành
phố Rockord, một thành phố nhỏ, đẹp,hiền lành
cách Chicago 90 dặm về hƣớng tây bắc. Tôi dần
dần làm quen với cuộc sống ở Hoa Kỳ, lúc này
Cho vẫn còn ở trong trại ti nạn, chƣa có ngƣời
bảo lãnh, tôi nói với ngƣời bảo trợ bảo lãnh Cho
về Rockford ở gần tôi cho vui. Mọi việc đã tiến
hành tốt đẹp, một tháng sau Cho xuất trại về
Illinois ở chung với ngƣời bảo trợ của chúng tôi,
lúc này tôi đã mƣớn một căn apartment để ở
riêng và ở tại thành phố nhỏ này, mua thu năm
75 đứa con đầu lòng của tôi đã chào đời, căn nhà
của tôi đã trở nên vui và ấm áp hơn với tiêng
khóc củ a trẻ thơ. Tôi và Cho vẫn thƣờng gặp
nhau, cuối năm 1975 một tin vui đến với tôi, qua
một ngƣời cháu, tôi tìm đƣợc một ngƣời chị
đang sống tại New Orleans. Một thời gian ngăn
sau đó, tôi di chuyển về New Orleans để sống
gần ngƣời chị. Cho sau vài tháng sống ở
Rocford cũng bắt đầu một cuộc sống phiêu lƣu,
nay đây mai đó. Lúc tôi bắt đầu cuộc sống ổn
định ở New Orleans, thì cũng là lúc tÁoi gặp lại
Cho, sau một thời gian lang thang cũng đã đến
đây, chúng tôi lại tiếp tục với cuộc sống bè bạn
với nhau. New Orleans có lẻ không phải là nơi
đất lành chim đậu, cho nên chỉ một thời gian
ngắn sau đó, Cho một lần nữa lại ra đi để tìm
một nơi khác cho cuộc sống của mình.
Tôi gặp Ngô văn Thừa lúc nhập trại Bạch Đằng
II, có vài điểm tƣơng đồng nào đó, tôi và Thừa
đã nhanh chóng quen thân nhau, những sinh viên
đƣợc chọn đi học khoa 20 Nha Trang rời khỏi
trại, cũng là lúc mà chúng tôi, những thằng ở lại
càng cảm thấy thân thiết với nhau nhiều hơn.
Những bữa ăn thật đơn sơ, phải ăn trong vội
vàng, những đêm ngồi gặm bánh mì bên nhau,
chúng tôi thật sự đã chia xẻ với nhau nhiều về ý
nghĩa của cuộc đời. Tôi rời khỏi Bạch Đằng II
để tập sự trên HQ 12, Thừa vẫn chờ ở tại Sài
Gòn. Sau khóa học căn bản quân sự tại Quang
Trung, một lần nữa chúng tôi lại đƣợc đƣa
xuống các chiến hạm để tập sự, lần này tôi, Thừa
và một nhóm bạn khác đã đƣợc đƣa xuống HQ
231. Lúc này HQ 231 đang công tác tại Nhà Bè,
chúng tôi đi xe đến nơi trình diện đơn vị, hạm
trƣởng HQ 231 là thiếu tá Lý Thăng, ông có lẽ ít
quan tâm đến chúng tôi. So với thời gian ở HQ
12, thời gian ở trên HQ 231 chúng tôi thấy thoải
mái hơn nhiều, anh Nguyễn Xí, sĩ quan trƣởng
phiên, xuất thân từ hàng hải thƣơng thuyền rất
vui tánh, nhờ vậy thời gian đi công tác ở đay
chúng tôi thấy vui hơn. Rồi chỉ một thời gian
ngắn, chúng tôi đƣợc gọi về để học anh văn
123 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
chuẩn bị cho chƣơng trình tham dự các khóa học
tại OCS.
Nguyễn hữu Cho sau một thời gian lang thang,
đã trở về sinh sống tại Rocford, Illinois,chúng
tôi vẫn thƣờng xuyên liên lạc với nhau. Đầu năm
1980, Cho gọi điện thoại báo tin cho tôi, Thừa
đang sống tại Hawaii và có ý định muốn sang
định cƣ ở lục địa Hoa Kỳ, tôi nói với Cho nhƣ
vậy càng tốt, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để gặp
nhau hơn. Mọi việc tiến hành tốt đẹp,đầu mùa hè
năm 1980, Thừa sang Illinois ở chung với Cho,
lúc này Cho đã lập gia đình và có một bé gái.
Tôi thật là nôn nao cho một lần gặp lại các bạn,
một tháng sau ngày Thừa đến ở với Cho, gia
đình tôi đã đến Rocford để gặp lại những ngƣời
bạn đã có một thời có nhiều gắn bó với nhau.
Lúc gặp lại nhau, khỏi cần nói chúng tôi đã thật
sự chia xẻ cho nhau những cảm tình đã lạc mất
bấy lâu nay, những lon bia đã liên tục đƣợc mở
nắp để chào mừng cho lần hội ngộ này, câu
chuyện vẫn là những kỷ niệm của một thời đã
qua, của quê hƣơng, của cuộc sống mới và
những thao thức về một nỗi buồn đã rời bỏ quê
hƣơng. Lần gặp nhau lần này đã đem đến cho
chúng tôi một nỗ i vui hội ngộ, những cũng buồn
thay nó cũng bắt đầu khơi mào cho một sự rạn
nứt nho nhỏ, để rồi vài ngày sau khi tôi rời khỏi
Rockford thì cũng là lúc Thừa đã rời khỏi nhà
của Cho. Có lẽ tình bè bạn giữa Cho và Thừa đã
chấm dứt kể từ ngày hôm đó, tôi thật là bàng
hoàng cho sự đổ vở này. Mùa hè năm đọ, cũng
là lúc tôi bắt đầu chán nản với cái nóng bức của
New Orleans nên đã phiêu lƣu một lần nữa, trở
về Rockford. Cái thành phố nhỏ hiền lành nơi
đây hình nhƣ không có duyên nợ với tôi, cho
nên sống ở đây sáu tháng, tôi từ giã Cho để về
laị New Orleans. Tôi sống ở New Orleans cho
đến năm 1987 thì di chuyển về Atlanta, cuộc
sống của tôi ở cả hai nơi đã thay đổi khá nhiều,
tôi có quá nhiều bạn bè, mỗi cuối tuần đều có
những cuộc họp mặt để chung vui.
Cuộc vui nào thì cũng co lúc tàn, sống lang bang
rồi cũng đến lúc phải dừng chân, tôi bắt đầu thấy
mệt mỏi với những đêm nhậu thâu canh,để rồi
sáng hôm sau thức dậy cái đầu đau nhƣ búa bổ,
thế là tôi từ từ bỏ bớt những thói quen ăn nhậu.
Mùa hè năm 2006, tôi bắt đầu tìm lại những
ngƣời ban, ngƣời đầu tiên tôi gặp là Lễ, rồi đến
Cần, Phú... và nhiều bạn khác nữa, một ngƣời
mà tôi không thể nào quên đƣợc là bạn Lãm -
Rangvang - đã có một khoảng thời gian cùng
nhau chia xẻ buồn vui trên sân volley, khi đi tập
sự trên HQ 12. Niềm vui đã không trọn vẹn đến
với tôi, Cho và Thừa vẫn biền biệt ở một nơi nào
đó. Hai bạn, đã 28 năm qua rồi, 28 năm một
khoảng thời gian quá lâu để cho moị việc đi vào
quên lãng, những hiểu lầm nếu có thì cũng đã
đến lúc nên bỏ qua để nhƣờng chỗ cho một sự
cảm thông, tha thứ. Nếu hai ban đã chọn cho
mình một cuộc sống thầm lặng cho riêng mình
thì tôi không biết nói gì hơn xin đƣợc kết thúc
câu chuyện này với lời cầu chúc gia đình hai bạn
BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC.
Lê Đình Quang
124 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Xuyïn Têm Liïn
Thịnh, U7
Gia đình Tân sống trong căn nhà hai tầng, ở
tầng trên, dƣới cho thuê để thêm vào tiền chợ chứ
một mình ba của Tân,một Sĩ Quan trung cấp, tiền
lƣơng của bố chỉ đủ mua tạ gạo và tiêu vặt, còn
mẹ Tân là giáo viên đồng lƣơng ba cọc ba đồng
mẹ phải tằn tiện mới tạm đủ chi dùng. Khi lũ dép
râu nón tai bèo kéo vào với danh xƣng giải phóng
thì gia đình tân cũng bị giải phóng luôn: Bố Tân
trình diện học tập cải tạo ba năm rồi mà vẫn bặt
tin sau đó mẹ con từ lầu hai bị giải phóng xuống
căn bếp của nhà mình, ngƣời mƣớn nhà bị đuổi và
lũ cán không biết từ đâu kéo đến sao mà đông thế,
bọn chúng giải phóng cả hai tầng, mẹ con Tân tức
uất ngƣời, thôi thì năm mẹ con đành tự giải phóng
đi mƣớn ở ngoài cho hết cám cảnh chọc vào mắt.
Mới 16 tuổi đầu lại có khả năng văn nghệ,Tân
đƣợc đề cử làm trƣởng ban văn nghệ phƣờng, sau
đƣợc đề bạt lên làm trƣởng ban văn nghệ liên
phƣờng. Ngoài thời gian giúp mẹ chạy chợ,Tân
luôn đốc thúc các bạn trẻ thi đua đạt thành tích
nhằm phát huy cơ sở. Tất cả các màn trình diễn
đều phải trình lên tên bí thƣ đoàn duyệt xét,đƣợc
sự chấp thuận, bấy giờ anh chị em trong đoàn mới
bắt đầu tập dƣợt,chƣa lần nào Tân bị khiển
trách,(chính mẹ soạn chƣơng trình cho Tân, với sự
dè dặt cố hữu và thận trọng của một bà giáo Ngụy
nhằm mục đích nếu Tân làm tốt sẽ đƣợc giấy giới
thiệu của phƣờng cho chồng về sớm đoàn tụ với
gia đình ) nếu có sửa chữa thì cũng là lý do kỹ
thuật chứ không bởi tƣ tƣởng chính trị vì thế Tân
rất đƣợc tín cẩn, để tƣởng thƣởng công lao cho
Tân tên bí thƣ đoàn đề cử Tân đƣợc mặc bộ đồ
cán bộ, chính cái bộ đồ không giống ai này mà
Tân gặp chuyện cƣời ra nƣớc mắt.
Lãnh ý của mẹ nên trong nhà Tân lúc nào
cũng đàn ca xƣớng hát, tập kịch, bà con lối xóm ai
cũng biết gia đình này là Ngụy Quân sao bây giờ
lại là lũ 30, theo đóm ăn tàn thế này, họ gặp mẹ
con Tân ai cũng niềm nở hỏi thăm đủ điều ra
chiều thân thiết lắm nhƣng chỉ là bề ngoài, cứ
thấy ánh mắt lấm la lấm lét của họ thì không thể
cầm lòng đƣợc, một sự khinh bỉ,dầu vậy gia đình
Tân cố cắn răng để sống chờ thời và lúc đó dân
gian có lời truyền khẩu:
Công an bộ đội còn tha
Ba mƣơi giết hết lột da đóng giầy
Quần quật với công việc phƣờng thế mà Tân
không hề đƣợc bất kỳ một ơn mƣa móc nào của
chế độ, ngoài bộ đồ cán bộ mà chính gia đình phải
tự xuất tiền túi ra mua, tuy nhiên nhờ nó mà công
an khu vực cũng nhƣ khi phong trào gia nhập bộ
đội đi Cam Pu Chia không phiền hà gì đến gia
đình Tân. Đột nhiên gia đình nhận đƣợc thƣ bố,
biết bố đang học tập tốt ở trại Bùi Gia Mập thuộc
Tỉnh Phƣớc Long, nhờ chính sách khoan hồng và
nhân đạo của đảng và nhà nƣớc nên cho phép
thân nhân đƣợc đến thăm và có thể mang theo đồ
ăn cũng nhƣ thuốc men. Mẹ Tân đọc lá thơ đến cả
chục lần, nƣớc mắt tầm tã, còn Tân thì vui vì biết
tin bố nhƣng lo vì nếu đi thăm bố vẫn là tiền đâu ?
Lũ em của Tân phải bỏ học để cùng với mẹ lo
chạy chợ tìm miếng ăn cho gia đình mà vẫn còn
đói lên đói xuống, nhất là vào năm 1978, đói quá,
đói lăn đói lóc, hơn nữa nhà nƣớc vẫn ra rả kêu
gọi dân chúng phải thắt lƣng buộc bụng để cùng
nhau tiến mạnh tiến mau lên thiên đàng của Xã
125 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Hội Chủ Nghĩa, riêng gia đình Tân đã phải buộc
bụng đến nỗi rốn chạm vào xƣơng sống mà chả
thấy thiên đàng đâu cả, chỉ biết lúc nào mắt cũng
hoa lên vì đói, đâu đâu cũng chỉ toàn thấy đói là
đói, đói đến độ không ngủ đƣợc, mong sao cho
chóng sáng là bò ra chợ may ra tìm đƣợc cái gì
dằn bụng, còn Tân húp bát cháo loãng với muối
buổi sáng, mang theo củ khoai, miếng sắn luộc
cho bữa ăn trƣa, tối mịt mới về, bữa tối may lắm
là đƣợc lƣng cơm độn, đào đâu ra tiền để mua đồ
đi thăm bố đây? Mẹ Tân mỉm cƣời khẽ liếc hình
Bác. Tân vẫn không hiểu ý mẹ. Bà bệ Bác xuống,
lật úp bác bác ra bà lẩm bẩm: con bà nhà mày, thì
ra sau lƣng bác mẹ dấu mấy cây vàng.
Đồ ăn thì dễ kiếm, còn thuốc men làm sao
đây? Thuốc lại vô giá, rất đắt và cũng rất hiếm,
nhất là thuốc ngoại, bao bì thì thật còn ruột lại
không thật tý nào, Tân chợt nghĩ phƣờng có
phòng phát thuốc mà Tân chƣa bao giờ tới, nếu
mặc bộ đồ cán bộ vào xin thì phải là thuốc xịn,
nói ý định ấy với mẹ, bà bằng lòng ngay và
khuyến khích Tân nên thực hiện càng sớm càng
tốt cho kịp với chuyến thăm nuôi kỳ này.
Sáng hôm sau cũng với bộ đồ cán bộ,Tân
làm mặt thiểu não đến xin thuốc. Phòng y tế vắng
nhƣ chùa bà đanh, thấp thoáng bóng ngƣời y tá
đang lui cui phía sau, thấy có ngƣời đến cô y tá lết
ra. Tân chƣa kịp mở miệng nói điều gì hay kể
bệnh tình ra làm sao thì cô y tá hất hàm hỏi: Xin
Thuốc hở,Tân gật đầu,quăng cho cuốn sổ bảo ghi
tên rồi ngồi xuống ghế kia,cô y tá ra lệnh, Tân riu
ríu làm theo mà không làm cũng không đƣợc vì cô
y tá đã biến mất sau quầy thuốc, độ 5 phút sau
thấy cô ta khệ nệ bƣng ra một hũ, mở nắp, đổ ra
miếng giấy, rồi đếm tứ 1 cho đến 27 viên thuốc,
cái mặt lạnh nhƣ tiền rồi phán, sáng 3 viên trƣa 3
viên chiều 3 viên, có thể uống lúc nào cũng đƣợc
uống thay cơm càng tốt, sau 3 ngày nếu không hết
bệnh thì đến đây lấy nữa uống tiếp, nói xong còn
liếc xéo Tân rồi xếch miệng cƣời tủm, xách hũ
thuốc biến mất, không biết xử trí ra làm sao Tân
đành lủi thủi đi ra.
Sau đúng 3 ngày, lấy kinh nghiệm lần trƣớc
lần này Tân định nói trƣớc nhƣng vẫn bổn cũ soạn
lại, 27 viên là 27 viên và uống thay cơm càng tốt.
Lại gặp bản mặt cái con y tá khốn nạn này nữa,
cái mặt nhẵn quẹn và vênh váo không có chút tình
cảm tý nào. Hơn nữa sau mỗi câu nói nó lại kèm
thêm nụ cƣời nửa miệng ra chiều mỉa mai làm Tân
tức đến điên ruột. Lấy hết sức bình sinh Tân mới
dám biện bạch với cô y tá là cô chƣa nghe tôi khai
bệnh vì thế cô đâu biết tôi bị bệnh gì, thế mà cô đã
vội cho thuốc, nhỡ may thuốc không đúng bệnh,
uống vào bị công thuốc thì sao? Nhƣ bị chạm phải
nọc, hai tay chống ngang hông, bàn tay phải vung
lên ngón tay xỉ xói vào mặt Tân gầm lên: à cái anh
này to gan thật, dám coi thƣờng viên chức nhà
nƣớc lấy cớ là xin thuốc mà thực sự đến đây để
bôi bác chế độ, Tôi biết việc của tôi làm chứ, tôi
nghiêm chỉnh tuân hành đúng chỉ thị của thủ
trƣởng, anh phải biết rằng, đây là loại thuốc cao
cấp trị bá bệnh của xã hội chủ nghĩa, lại bụm
miệng dấu nụ cƣời, rồi tiếp, có tên khoa học là
Xuyên Tâm Liên, đã đƣợc viện y khoa Hà Nội xác
nhận, nếu anh chê thuốc thì tôi lấy lại ngay và báo
cáo lên cấp trên của tôi và của anh để cho họ xử lí
anh. Giọng nói móc họng của anh xem ra anh
cũng thuộc thành phần ngụy quân ngụy quyền gì
đây? Dám là CIA cài lại thì phải? thấy vậy Tân
hoảng quá vì chỉ có bộ đồ thôi gốc Ngụy vẫn còn
nguyên à, nếu nó khui ra thì thật hƣ bột hƣ đƣờng,
chỉ vì mấy viên thuốc cho bố mà mang họa, nghĩ
vậy Tân vội quýnh quáng xin lỗi cô y tá, nhận
mấy viên thuốc thổ tả rồi chuồn thẳng. Lòng buồn
rƣời rƣợi, kế hoạch xin thuốc chùa để tiếp tế cho
bố hỏng hoàn toàn, tối hôm đó Tân trình bày tự sự
với mẹ, có lẽ mẹ Tân quá hiểu cho nên không có ý
trách Tân và nét buồn trên mặt mẹ càng rõ nét
hơn, xem ra từ ngày Bố ra đi biền biệt và toàn thể
Miền Nam bị giải phóng mẹ lúc nào cũng buồn,
mẹ quay ra an ủi Tân: con ạ thua keo này ta bày
keo khác, để mẹ tính lại cho.
Hai mẹ con đang lâm vào cảnh vô kế khả thi
đƣợc tin ngƣời bạn ở phƣờng bên mời qua để
126 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
cùng bàn chuyện đi thăm nuôi tù cải tạo và mẹ
Tân đã nhận lời.
Sáng Chúa Nhật là tƣơng đối rảnh nhất, Tân
đạp xe chở mẹ qua nhà bà bạn. Bạn của mẹ cũng
trạc tuổi mẹ Tân, bà mời mẹ con Tân ngồi rồi gọi
con mang nƣớc ra đãi khách. Qua vài câu thăm
hỏi thì bóng dáng ngƣời con gái khệ nệ bê khay
trà xuất hiện mời khách. Nhìn ngƣời con gái mà
Tân không sao tin đƣợc vào mắt mình, cứ trơ ra
nhƣ ếch nhìn đèn, ngƣời con gái cũng không tin
đƣợc cái ngƣời con trai đứng trƣớc mặt mình, cả
tuần nay, bao nhiêu là bực dọc trong ngƣời cô đã
trút lên đầu tên cán bộ này, sao anh ta lại là con
của Ngụy. Hai bà chỉ nhìn nhau cƣời với cùng ý
nghĩ, trai gái mới lớn, gặp nhau rồi chịu đèn là
chuyện thƣờng đâu có gì là ngạc nhiên đâu?
Nhƣ hiểu đƣợc ý của 2 bà ngƣời con gái mặt
đỏ nhu gấc nhìn mẹ rồi nhìn mẹ của Tân phân
trần: không phải đâu mẹ và không phải đâu thƣa
bác, con đâu có biết anh Tân là con của gia đình
Ngụy, mấy bữa rày anh Tân đến phòng y tế xin
thuốc, bị anh ấy mang cái bộ đồ hắc ám là con đã
điên tiết lên rồi, con đâu ngờ anh ấy là cán bộ
dổm, lợi dụng thời cơ con trả thù cho Ba trong trại
tù bị tụi nó hành, con hành lại ảnh cho bõ ghét mà
thôi. Ai ngờ, ngƣời con gái bụm miệng cƣời rũ
rƣỡi làm cho 2 bà cùng Tân cũng cƣời theo. Cô
còn phân trần thêm cứ 3 tháng con đƣợc lệnh đi
lãnh thuốc, xem ra cũng đủ mặt thuốc có cả thuốc
ngoại nữa nhƣng tên thủ trƣởng nói là để nó giữ
cho nếu cần thì làm giấy tờ nó sẽ phát, riêng
Xuyên Tâm Liên thì lấy bao nhiêu cũng đƣợc, vì
thế lần nào con cũng chỉ bê một hũ về lấy lệ mà
thôi, ai đau bệnh gì cũng chỉ phát có xuyên tâm
liên, Tủ thuốc to đùng nhƣ vậy chỉ chứa toàn
xuyên tâm liên, dân lúc đầu còn sắp hàng đến xin
thuốc sau thấy tốn thời giờ vô ích vì xuyên tâm
liên thì ê hề ngoài chợ, rẻ nhƣ bèo, vì thế phòng y
tế vắng teo à. Thấy con bé y tá bà chằng mà giọng
nói chua hơn giấm ngày nào làm chàng tức lộn
ruột bấy lâu nay sao ăn nói nghe đƣợc và dịu dàng
nhất là duyên dáng tệ, bao nhiêu oán giận biến
hết, Tân mạnh dạn hỏi Lan ( tên cô y tá ). Tại sao
Lan là con của Ngụy Quân Ngụy Quyền mà đƣợc
tuyển vào làm nhƣ vậy? Báu hóa gì anh, Lan trả
lời. mấy con bé trƣớc tụi nó không biết hay cố
tình không biết làm giấy tờ nên tên thủ trƣởng cứ
bị cấp trên ốp hoài, hơn nữa tụi nó cũng ăn chĩa
vào nên tên thủ trƣởng không chịu, muốn ăn cả
nên tìm cách đuổi sạch, nhận Lan vì lúc trƣớc Lan
học cán sự điều dƣỡng, biết chích, lại lợi dụng Ba
đang học tập tụi nó kêu làm không công cho tụi
nó, tụi nó hứa là nếu làm tốt tụi nó sẽ can thiệp để
Bố sớm về đoàn tụ với gia đình, thay vì trả lƣơng
tụi nó bán cho phiếu thực phẩm mua gạo hàng
tháng mà thôi. Hơn nữa Lan tìm ra nhiều mối bán
thuốc với giá cao cho tên thủ trƣởng và làm giấy
tờ rõ ràng vì thế nó mới chịu cho ở đó.
Đƣợc câu trả lời của Lan nhƣ cởi tấm lòng,
mẹ Tân nói xin thuốc chỉ là cái kế sách tiếp tế cho
chồng mà thôi. Nếu Lan có mối nhƣ vậy thì mẹ
Tân bỏ tiền ra và Lan lo liệu vụ thuốc giùm, Mẹ
của Lan cũng đồng ý, hai đứa thành cò thuốc cùng
nhau thi hành kế sách mua thuốc tiếp tế cho bố.
Bẩy năm tù mà hai bà đi thăm nuôi đƣợc
có ba lần, sau mỗi lần thăm nuôi là kiệt quệ
nhƣng rồi sau cơn mƣa trời lại sáng, Bố của Tân
về trƣớc còn bố của Lan về sau một năm, hai
ngƣời đã quen nhau trong trại cải tạo hơn nữa hai
gia đình liên kết với nhau trong dịch vụ tiếp tế vì
thế hai ông trở thành bạn đồng cảnh rất thân nhau,
nhất là khi ra tù.
Đợt nộp đơn HO đầu tiên chỉ là liều vì
mới quá, chƣa có ai đi trƣớc sợ bị tụi nó lừa, ai
ngờ thành công, hai gia đình kẻ trƣớc ngƣời sau
cùng định cƣ tại Chicago và kiếm việc làm để ổn
định gia đình. Mỗi năm chỉ có hai tuần phép thì
hai ông cũng sắp xếp nghỉ đúng ngày 30 tháng
(Xem tiếp trang 141)
127 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Phan Thaái Yïn , mêëy àoaån viïët rúâi . . .
Chiêm bao
Hiên ngƣời.
Canh khuya.
Chập chờn tôi giấc mơ.
Cơn mơ vừa quen vừa lạ hình ảnh ngọn hải đăng
lãng đãng sƣơng mù.
Liễu ngàn rủ quyện theo gió, âm ba vỗ về nghiêng
chao trên sóng.
Thân thể nhƣ mở ra phiêu bồng tan hòa vào đại
dƣơng trôi giạt vô thƣờng.
Chập chùng bóng tàu trôi nhƣ cánh hải âu chới
với bay ngƣợc dòng ký ức.
Con tàu vẫn lao đao trong cơn biển động dài từ
hơn ba mƣơi năm trƣớc.
Còn trôi giữa ray rứt nhớ quên nhƣ nỗi kiên trì vô
vọng của loài còng gió nhọc lòng trên bãi chiều
rạt nƣớc.
Ánh mắt đọng đầy mây.
Có ai còn nhớ gì về những sớm mai của mình mấy
mƣơi năm trƣớc? Vẫn mãi thanh tân nhƣ sóng vỗ
miên man hay đã chìm sâu vào trầm tích một thời.
Lòng chợt vui, tản mạn về xƣa...
Có lần từ biển đến, lạc loài nửa lối sông về...Thế
mà đã cả một đời ngƣời.
Tôi từ biển đến lạc loài.
Xin em chỗ trọ hiên ngoài lạnh sương ( Phan Lạc
Tiếp)
Quê hƣơng
Đêm.
Tôi bồi hồi nhìn màn hình câm nín nhạt nhòa nhƣ
tuyết rơi phủ bên ngoài. Đêm mùa đông Bắc Mỹ
trầm lặng trôi theo dòng hình ảnh đẫm nhòa kỷ
niệm của bộ phim Việt Nam Quê Hƣơng Tìm Lại
- dăng dăng trời quê xa ngái.
Xem phim mà lòng bàng hoàng mối xúc động
cảnh đấy người đây luống đoạn trường nhƣ sóng
vỗ bờ dâu biển, bèo bọt xót xa... Bƣớc chân ngƣời
e ngại trở về thăm lại ngôi nhà xƣa đã đổi chủ.
Cành hoa đỗ quyên e ấp soi mình bên bờ nƣớc.
Đồi sim hoang tím bồi hồi dấu chân ngƣời lính cũ,
cảm thƣơng bà mẹ già vẫn một đời long đong cơ
cực dƣới chân bóng Trƣờng Sơn. Cổng trƣờng
xƣa khép kín im lìm dáng phƣợng đứng chờ mùa
tựu trƣờng chƣa tới. Phố cổ, đèn lồng soi, chỉ còn
riêng một tình em đằm thắm trong ngôi nhà có
hoa cát-đằng. Hình ảnh bi thƣơng cùng tận trên
đại lộ kinh hoàng từ một mùa hè xƣa cũ vẫn còn
đỏ lửa trong lòng mỗi ngƣời dân Việt nhớ quê.
Khoảng sân trƣớc ngôi nhà thuở thiếu thời còn
lung linh bóng nắng chợt quá đỗi xa vời khi ngƣời
lính miền Nam trúng đạn ngã xuống ở đầu ngõ lúc
anh dẫn đầu đoàn quân trở về chiếm lại thành phố
của mình. Cây cầu Hiền Lƣơng một thuở phân
tranh vẫn còn đó nghi ngại lòng ngƣời.
Tất cả tƣởng đã xa xôi chợt trở về gần, nhƣ dòng
sông, bờ lau, bến nƣớc, con đò, nhƣ bóng núi đổ
chập vào nhau theo từng bƣớc chân xúc động
ngƣời về. Từng mùa chinh chiến đã xa, lặng lẽ
lớp trầm phiến một thời tƣởng xanh rêu chợt trở
128 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
mình, máy động lắng nghe niềm ray rức trong
từng nhịp đập của tim. Phải chăng đó là tiếng bi
ca của nửa dòng luân sinh chƣa trọn hay tiếng gọi
trở về của dòng sông và tiếng lòng ta đang cùng
rung lên một nhịp.
Bất chợt giữa hƣ vô và khơi xa bỏ lại, chỉ còn lại
dòng sông trôi. Còn lại ta bên bờ, chân xiêu đổ
bƣớc về quá khứ, lòng hoang vu tiếng sóng xa và
bóng dáng con tàu chìm đắm giữa đầm sông nối
biển một sớm mùa Xuân. Vẫn còn ta đứng vọng
mãi triều âm. Vẫn còn ta và những đêm nằm
mộng từ bên kia biển chấp chới cánh hạc vàng
khung trời hội cũ – quê hƣơng một thuở lớn lên.
Châu thổ
Chiều.
Ngƣời đàn ông dừng lại bên bờ nƣớc, vẫy tay nhìn
theo bóng dáng bé bỏng của đứa cháu nội, tay bỡ
ngỡ chiếc cần câu, e dè ngồi bên bố đang chèo
chiếc xuồng độc mộc đi tìm nơi câu cá. Đã nhiều
năm vào mỗi mùa hè, cha con ông vẫn thƣờng tìm
lên vùng biên hồ này một đôi tuần nhƣ nơi nghỉ
mát hàng năm. Năm nay là lần đầu tiên đứa cháu
nội vừa lên năm đƣợc “go fishing up North with
grandpa”. Ông vui hơn vì có thêm đứa cháu nhỏ
chuyện trò và hình nhƣ mỗi năm ông càng xao
xuyến hơn với những buổi chiều trên biên hồ.
Trong ráng chiều đỏ ối rƣời rƣợi cơn gió bát ngát
đi về, mặt trời im lìm khuất bóng lặng lẽ mà bồn
chồn nhƣ vết tàn phai của ý nghĩ lao lung về
phƣơng trời quê cũ, mang mang châu thổ, cô liêu
tiếng đàn xƣa...
Chiếc xuồng đã chèo xa khuất tầm nhìn mà đâu đó
còn vọng lại tiếng cƣời lãng đãng bay trong chiều
bát ngát vƣơng trên mặt hồ bập bềnh hoa súng
nhƣ những nụ đèn chờ thắp hoàng hôn. Hoa súng
vàng điểm xuyết lên thảm lục bình xanh, tự tại nổi
trôi vào ngút đuối mắt nhìn. Màu lam tím của hoa
bèo níu sa xuống mây chiều rồi lan xa vào vô
tƣởng chân trời giờ đây nhƣ tràn ngập tiếng reo
cƣời. Có phải tiếng cƣời trẻ thơ của đứa cháu vừa
câu đƣợc con cá đầu tiên trong đời hay chính tiếng
mình trên quê hƣơng cũ âm vọng thanh xuân?
Tìm xƣa châu thổ. Xốn xang lòng ông hình ảnh
con tàu chập chùng đêm Cửu Long văng vẳng
điệu buồn phƣơng Nam trải trang lời kinh sấm
giảng ru ấm hồn ngƣời.
Nhắm mắt lại, trải hồn ra, để thấy mình nằm trên
khoang đò dõi mắt về phố huyền hoặc ánh đèn.
Trên dòng Tiền Giang, tàu chạy qua Bắc Mỹ Tho,
thành phố nửa đêm về sáng đẹp lạ lùng. Hay theo
chuyến tàu sớm khởi hành từ Kinh Ông Chƣởng
về Long Xuyên cho kịp phiên chợ. Thuyền đò san
sát trên bến sông. Hãy vào một quán chợ kêu ly
xây chừng, lòng sảng khoái mồi điếu thuốc đầu
ngày. Hay dẫn đoàn tàu từ Phong Phú, hung hãn
phóng nhanh về cho kịp cuộc vui. Thành phố Cần
Thơ vừa lên đèn, bến Ninh Kiều quyến rũ nhƣ cô
gái Nha Mân ngồi hong mái tóc dài thoang thoảng
hƣơng chanh.
Dòng kinh chảy sâu vào trong bao la của trời đất
hình nhƣ đã mang đủ chiều dài cho gió thênh
thang. Tàu chạy hết ngày vào tới đêm. Chạy hết
chiều dài của dòng kinh để thấy mình nhỏ nhoi
giữa trời khuya mênh mông. Bỏ lại sau lƣng bến
đò An Long, hắt hiu ngọn đèn vàng, buồn nhƣ
lòng cô chủ quán đã tàn xuân. Con tàu vẫn chạy.
Giữa vàm sông rộng, tiếng máy trầm đều ngái
ngủ. Tàu ghé qua Vàm Láng, quán nửa khuya
thao thức ánh đèn rọi xuống mặt sông lao xao. Xa
xa ngọn tháp cao nhà thờ trên Cù Lao Giêng
chênh vênh mơ hồ trong ánh trăng. Tàu chạy sâu
hút vào nửa đêm về sáng. Con lộ giới nghiêm im
vắng trải dài qua Cái Dầu nằm say ngủ dƣới ánh
đèn đƣờng vàng vọt. Mờ ảo trong ánh sáng đầu
ngày, chuyến tàu chợ sớm từ Tân Châu về Châu
Đốc xao xác tiếng ngƣời.
Từ bến bắc Cao Lãnh lên tàu theo con nƣớc xuôi
về Chợ Mới, chƣa hết phiền hà vì sự chật chội
nóng nực của hơn nửa ngày xe đò, lòng chợt mát
rƣợi nhƣ vừa đƣợc uống miếng nƣớc mƣa giữa
buổi trƣa hè. Cái cù lao nhỏ nhoi mà ân cần nhƣ
129 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
ốc đảo giữa sa mạc. Rừng cây xanh bao kín cù
lao chỉ chừa khoảng trống vừa đủ cho con kinh
nhỏ theo vào. Dòng nƣớc trong và êm tƣởng
chừng nhƣ chỉ những giọt nƣớc hiền mới đƣợc
phép quây quần. Ngay khoảng trống đó là cánh
cửa vô hình, ranh giới giữa cuồng nộ và yên bình.
Bên trong, khung cảnh mở ra đẹp nhƣ một vùng
chiêm bao. Hàng cây hai bên con đƣờng nƣớc
châu đầu trò chuyện, cành lá đan vào nhau làm
những miếng nắng phải len lỏi mãi mới sa xuống
đƣợc mặt nƣớc mát. Tàu trôi dƣới vòm cây. Tâm
hồn nhẹ nhàng tƣởng nhƣ đang chậm bƣớc trong
một giáo đƣờng thênh thang. Những ngôi nhà nền
đắp cao, ngói đỏ ẩn hiện sau những lùm điên điển
lấm tấm hoa vàng. Nối liền mỗi nhà với con kinh
là mƣơng nƣớc rộng, xuồng lớn có thể chèo vào
tận đến đầu hiên nhà.
Cao Lãnh. Chữ nghĩa ngƣời xƣa giờ sao nghe
đắng cay. Ƣớc mơ lớn lao của ông Tổng Đốc,
lãnh mệnh Chúa phái vào sâu trong đất Nam Ky
giữa vùng nƣớc thấp mênh mông tràm đƣớc để
mở mang bờ cõi, đã thể hiện qua những địa danh
đẹp nhƣ Mỹ An, Mỹ Phƣớc, Phƣớc Xuyên... Có lẽ
giữa cảnh trời nƣớc mênh mông nhớ ngƣời còn ở
lại đất Thần Kinh, ông quan trẻ trong giây phút
lãng mạng đã lấy tên vợ Vĩnh Tế để gọi một dòng
kinh mới. Và lạ chƣa!? Có một buổi chiều gió
Tịnh Biên rợp vàng trí nhớ, rƣợu uống ngà ngà
say, đứng bên dòng Vĩnh Tế dõi mắt về phƣơng
xa nhớ thƣơng ngày cuối biển. Dòng nƣớc cƣu
mang nỗi lòng Thất Sơn, Hồng Ngự chảy qua
vùng đất Giang Thành qua miệt Hà Tiên rồi đổ
vào biển rộng. Đứng đó bên bờ kinh nhỏ sao nghe
lòng xôn xao sóng đại dƣơng.
Ngƣợc hƣớng Tịnh Biên, bóng mây không che
đƣợc dáng núi Thất Sơn, kiêu bạc quàng vai dải
lụa sầu châu thổ. Dòng nƣớc lung lay soi bóng
ngƣời, bóng thời gian lẩn khuất không trôi. Ông
quan trẻ lãnh mệnh Vua đi mở nƣớc, từ hơn trăm
năm trƣớc từ giã đất Thần Kinh tìm đến miền ba-
sông-bảy-núi xa vời đất khách. Ngƣời đã đến từ
một cuối biển Đông xa hay phải lặn lội qua đôi
lần sông mênh mông sau trƣớc? Đỉnh núi nào
ngƣời xƣa đã đứng vọng một tiền đồ rồi mƣờng
tƣợng tới dòng kinh nối biển? Dòng sông đào nhƣ
dải ruột mềm trang trải tấm lòng quân tử vua tôi,
man mác nghĩa phu thê. Thoại Hà, dòng sông đào
vua ban cho tên gọi đã cƣu mang từng giọt phù sa
nặng lòng châu thổ đến tận bờ nƣớc Hà Tiên.
Con ngƣời trên những dòng sông. Truyền kiếp.
Núi biển chia lìa từ thuở khói sóng hồng hoang
mơ hồ thanh sử. Những dòng sông chẳng hề gặp
nhau, lận đận gian nan nhƣ đƣờng chỉ tay in hằn
số phận. Những dòng sông cắt chia nhiều nhánh
cho nƣớc nguồn bơ vơ biển lớn. Những dòng
sông cố gắng giải thông lời nguyền khắt khe buổi
đầu dựng nƣớc. Dòng sông chảy ngang chia cắt
lòng ngƣời, đầm đìa giọt mồ hôi từ đá sỏi nghìn
xƣa. Con ngƣời nổi trôi theo định mệnh u hoài
của dòng sông muôn đời gắng công nối liền biển
núi. Ngƣời xƣa. Cơ đồ. Mệnh nƣớc. Một thuở
biên cƣơng. Trăm năm sau, cõi giang biên âu sầu
muối mặt, bơ phờ cơn gió tai ƣơng. Ta đã đôi lần
từ biển đến, lòng lú lấp phiền hà rồi say khƣớt
biếng lƣời đâu đó cuối dòng, để bây giờ hồn nặng
vàm sông bến nƣớc, đứng bên dòng kinh biên
giới tần ngần về một nửa ngày sông. Và cả một
đời mình. Phải chăng chỉ để tròn một bƣớc chân
vô ích mà lòng thì vẫn mãi ƣu tƣ về giấc mộng
không thành?...
Ngƣời đàn ông trở về lều nhóm lửa pha cho mình
ly trà nóng. Buổi chiều biên hồ êm ả nhƣ ru. Bầy
vịt trời nô đùa trên mặt hồ làm đong đƣa những
cánh hoa súng vàng hoang nhƣ từng miếng nắng
lung linh rồi xoải cánh theo nhau bay về phía ráng
chiều lƣớt thƣớt mây hồng. Nơi nào là quê nhà
cho một kiếp thiên di khi vùng nƣớc sẽ đóng
thành băng khi mùa đông tới ? Ông đã nổi trôi
đắm chìm trên dòng sông đời mình. Làm thân tàu
trôi xa khỏi vịnh biển êm đềm, lênh đênh trên
khắp cùng sông biển quê hƣơng, để rồi sống cuộc
lƣu cƣ suốt kiếp đời còn lại mà lòng thì mãi nhớ
về dòng sông nhỏ quê nhà.
Hơn ba mƣơi năm. Dòng nƣớc sông Thu Bồn một
cuối tháng Ba đã đẩy đời ngƣời trôi tuốt khơi xa,
130 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
vào cuộc truân chuyên. Xa rồi đêm trăng Thuận
Tình mờ mờ cát vàng Xuyên Thọ. Vùng đầm sông
nối biển, trộn nƣớc nguồn Ô Lâu-Thu Bồn-Đế
Võng với nƣớc biển Đông là dấu mốc oan khiên
mặn xát hồn lƣu xứ.
Nhìn bầy lục bình giạt trôi trên mặt hồ bát ngát,
lòng chợt bồn chồn câu hát cũ, quay về, yên ổn
hiên nhà. Tiếng vịt gọi bầy lãng đãng gần xa, âm
vọng mơ hồ một bến bờ để dừng đôi cánh mỏi.
Tiếng reo cƣời của đứa cháu nội rõ dần theo bóng
dáng chiếc xuồng đang lách qua từng mảng lục
bình chèo về phía lều, nơi bếp lửa bập bùng.
Quê nhà. Ra đi. Trở về. Mississippi. Sông Tiền.
Sông Hậu.
Ông cƣời với cháu nội khi đỡ xâu cá trên tay đứa
bé. Bếp lửa đầu sông Mississippi sẽ nấu chín con
cá đầu tiên cháu ông câu đƣợc. Ông nhủ thầm,
lòng vui.
Phố xƣa
Ngày vui qua mau.
Cảm giác ấy ngày càng rõ nét trong tôi mỗi lần
“giang hồ vặt” về vùng phố Việt miền Nam Cali.
Màu nắng cuối hè lóng lánh trên nóc những hàng
cọ thẳng tắp. Màu hoa phƣợng tím trong nền trời
xanh ngắt khiến lòng bâng khuâng nhớ tới lục
bình trên sông, màu đỗ quyên bên bờ suối quê
nhà. Trong cái nóng 38, 39 độ C, âm thanh giọng
nói cùng những khuôn mặt “lạ” của bạn bè ba
mƣơi bốn mƣơi năm cũ đã đƣa tôi trở về quê nhà,
giữa lòng phố xƣa, bên dòng sông cũ.
Trên chuyến bay đầu ngày trở lại Song Thành, tôi
ngồi nhìn tầng mây lênh đênh xám bạc bên ngoài
khung cửa phi cơ mà lòng mãi bâng khuâng giữa
lằn ranh u uất đi về. Tiếng cƣời nói chuyện trò,
tay bắt mặt mừng của bạn bè cũ vừa mới đêm qua
đã trở thành nỗi nhớ. Lớp kỷ niệm tƣơi non chẳng
im tiếng trải đè lên phiến tích đời ngƣời mà lao
xao trổi gió lay thức cả một vùng trời phố biển
dọc suốt buổi hoa niên.
Đà Nẵng, nơi cuối cùng mẹ cha đã quyết định
dừng chân sau tháng ngày dài bồng bế hồi cƣ.
Thành phố của một lần khóc òa níu áo mẹ buổi
sáng đầu tiên đi học. Lòng run sợ đứng trƣớc cửa
lớp, quay quắt nhìn mẹ đứng dƣới bóng cây mù u
từ bên kia sân trƣờng Thạc Gián cũng rộng mênh
mông nhƣ bầu trời mùa thu bàng bạc trên cao.
Thành phố của thời mới lớn cơ hồ áo ai nhƣ bƣớm
trắng bay rộn rã sân trƣờng. Thành phố có sông
Hàn chảy qua. Dòng sông nƣớc xanh và biển thì
quá gần. Biển bao quanh. Đứng bên ni Hà Thân,
ngó qua bên tê Hà Thân, nước xanh như tàu lá...
Đứng đó mà ngửi đƣợc mùi biển mặn trong gió.
Mùi muối nồng nàn từ Tiên Sa, Mỹ Thọ, Mỹ Khê,
Phú Lộc, Thanh Bình theo gió bay về. Dòng sông
đƣa ngƣời từ biển về không dài lắm, vừa kịp để
lòng vun vội vã bƣớc chân trên dốc Cầu Vồng,
chát chát chua chua trái ổi sân chùa Bà Quảng.
Thành phố của những ngày mƣa nguồn, bão biển.
Gió khơi xa về vần vũ thét gào, xé tả tơi những
đám mây thấp trôi nhanh trên nóc hàng phƣợng
dọc bờ sông. Vùng nƣớc bình yên cuối dòng chợt
dâng trào sóng cuộn nhƣ đại dƣơng cuồng nộ
ngoài kia. Mƣa nguồn. Giọt núi rừng truyền kiếp
cƣu mang chợt một ngày nhớ biển kéo phăng về
đồng bằng, làm cuồng lƣu dòng nƣớc bình yên êm
thấm đôi bờ.
Khu xóm đạo Thanh Bồ với những con đƣờng cát
xám ngấm sũng giọt trời. Bầy con trai tinh nghịch
vin vai đạp xe hàng đôi, rủ rê nhau chọn lối đi xa
theo con-đƣờng-có-bông-có-hoa qua Trẹm, oằn
lƣng đạp xe qua con dốc bên hông Bƣu Điện trễ
nải đến trƣờng.
Thành phố của thời kỳ biến động, chiến tranh.
Những thằng bạn cùng tắm một dòng sông. Lớn
lên. Có đứa bỏ đi, sôi nổi lòng trai oằn vai mối thù
vay mƣợn, mép rừng xó núi vào cuộc máu me giải
phóng phân tranh. Bên ni, bên tê, những đứa trẻ
lớn lên, nhận chịu làm thân gạch lót đƣờng cho
lịch sử bi thƣơng.
(Xem tiếp trang 141)
131 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Kyá
Ngô Văn Sơn – Winnipeg
Zorba The Greek
Không biết mùa thu đã thực sự viếng thăm
miền Đông Bắc chƣa, ở miền Trung Bắc này
thì năm nay nàng Thu mải chơi ở đâu đó mà
chƣa thấy ghé lại. Không một chút mây mù,
không chút ẩm lạnh, ngọn cỏ trong sân phía
sau nhà thức cả đêm vẫn chƣa bắt đƣợc một
giọt sƣơng mai. Có vài cành lá len lén qua đêm
đổi vàng, chỉ một chút thôi, chƣa đủ để khơi
động nguồn thi cảm của các nhà thi sĩ nhƣng
đủ để nhắc nhở đàn ngỗng trời đã đến lúc
hƣớng Nam.
Nói chuyện
về thơ văn,
mấy tuần
trƣớc ở
Crete tôi
mƣớn xe đi
vào một
làng nhỏ tìm
thăm một
bảo tàng
viện dành riêng cho Nikos Kazanzakis. Bảo
tàng viện này chính là căn nhà của gia đình
ông, đƣợc sửa sang lại và bây giờ chứa đựng
tất cả những di tích, tài liệu về nhà văn lớn
này. Từ những bản thảo, găng tay cho đến cây
bút máy ông ta dùng trên 40 năn trời. Cũng
nhƣ nhiều bạn bè trong thế hệ mình ở VN, có
lẽ ngoài tác phẩm Zorba The Greek không
nhiều ngƣời biết đến những công trình
văn/triết khác của Nikos Kazanzakis. Kho tàng
văn chƣơng của Kazanzakis rất là phong phú,
bao gồm từ dịch thuật (ông ta giỏi 4,5 thứ
tiếng), kịch, thơ, luận án triết học đến sách cho
trẻ con.. Là học trò của Nietzsche, Bergson và
ảnh hƣởng đậm tƣ tƣởng nihilism (thuyết hƣ
vô), Kazanzakis đã có lần sang Tầu, Nhật, trở
về ,mƣợn bối cảnh Á Đông, ông viết vở kịch
“Buddha” và quyển truyện “The Rock
Garden”.
Zorba là cuốn sách đƣợc dịch ra nhiều thứ
tiếng nhất và trong vài năm qua bảo tàng viện
này đã thu thập đƣợc hầu hết những bản dịch
qua các thứ tiếng. Riêng bản tiếng Việt đƣợc
Nguyễn Hữu Hiệu, dịch giả quyển Zorba, hiện
giờ tu ở bên Nhật cung cấp.
Bàn về chuyện dịch thuật tôi có dịp tán gẫu với
một anh chàng sinh viên ngƣời Hy Lạp, hắn
biết khá nhiều thứ tiếng, Pháp, Ý, Anh, Đức và
hiện giờ anh ta đang học Portuguese. Anh ta
nói là đã đọc bản dich Zorba qua tiếng Anh và
theo anh thì có những đoạn mà có lẽ chỉ ngƣời
Hy Lạp mới hiểu đƣợc cái ý nghĩa thâm sâu
của tác giả. Quy lại thì là vấn đề ngôn ngữ!
Anh ta đƣa thí dụ chữ “saudade” mà mình
nghe rất nhiều trong Fado. Tiếng Anh dịch là
longing, nostalgia... theo anh ta tiếng Anh và
ngay cả tiếng Hy-Lạp cũng không có một chữ
tƣơng đƣơng diễn hết đƣợc ý của “saudade”.
Nó vừa có nghĩa mất mát, nhớ nhung, hoài
cảm... một tâm trạng mà chỉ ngƣời Bồ Đào
Nha mới "thấm" đƣợc... Anh ta hỏi tôi có
132 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
những chữ tƣơng tự nhƣ vậy trong tiếng Việt
mình không? Nghĩ mãi không ra, cuối cùng tôi
lấy chữ "thƣơng". Một động từ có cánh dùng
rất bao quát. ” thƣơng nhân loại”, “thƣơng đứa
bé con”, “thƣơng quê hƣơng đói khổ” nhƣng
khi dùng chữ “thƣơng” trong cái context tình
cảm gái trai nó lại mang một ý khác. Ngập
ngừng, e dè... Nó diễn tả một tình trạng nửa
chừng, muốn lắm nhƣng chƣa dám nói là yêu...
Ở cái giai đoạn dám mạo hiểm cầm tay nàng
và ...ngừng ở đó. Có tiếng Anh nào diễn tả
đƣợc cái tâm tƣ "thƣơng" đó hay không?. Tôi
chịu thua.
Cuối cùng của cuộc đàm luận anh chàng Hy-
Lạp bảo với tôi là “trong tiếng Hy-Lạp chữ
"δουλειά" có nghĩa là "work" và chữ "δουλεια"
có nghĩa là “slave”. Lối phiên âm và viết của 2
chữ rất là gần nhau (bạn đọc có thấy khác biệt
của lối viết không?) cho nên chúng tôi rất cẩn
thận, không để lẫn lộn “work” với “slave”
đƣợc”. Thì ra trong ngƣời mấy anh Greek, anh
nào cũng mang một chút máu Zorba!
“I expect nothing, I fear nothing, I am free”
(Đúng theo ý nguyện, câu trên của Kazanzakis
đƣợc tạc vào tấm bia trên mộ của ông)
Hà Nội có gì lạ không em ?
Hình ảnh xƣa cũ của Hà Nội mà tôi còn nhớ
cách đây cũng cả nửa thế kỷ. Một buổi sáng sớm
mùa đông, anh X chở tôi bằng xe đạp ra hồ Tây
chơi. Mặt trời mới thức dậy và đám sƣơng mù
còn nằm ngủ nƣớng trên mặt hồ. Ngồi phía
trƣớc, trên khung xe, hai tay nắm vào ghi-đông
lạnh cóng, tôi chẳng để ý cảnh đẹp, vẻ yên tĩnh
chung quanh mà chỉ mong trở về khu phố, vào
tiệm bánh mì Tây ăn sáng.
Bây giờ bạn hỏi Hà Nội ngày nay ra sao thì tôi
xin kể: Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Trúc Bạch
vẫn còn đó nhƣng bị quây quần bởi những quán
ăn, những căn nhà mƣời mấy từng nên ngột ngạt
và mất đi nhiều vẻ thơ mộng. Mỗi buổi chiều
dân chúng dồn đến bờ hồ tụ tập đông đảo. Nào
là buôn bán vặt, ăn uống, đá cầu, tình tự, v.v.v .
nhộn nhịp, xô bồ, đủ tất cả những sinh hoạt tiêu
biểu của một thành phố lớn ở Việt Nam ngày
nay. 36 phố phƣờng cũng còn đó. Hàng Lƣợc,
Hàng Trống, Hàng Đồng ... ngƣời, xe đông
nghẹt, Honda túa bổ loạn xạ tứ phƣơng . Dọc
theo những con đƣờng hẹp trong khu phố cổ
thỉnh thoảng lại có khách sạn mini mọc lên, cao
nghệu và vô duyên nhƣ một anh cầu thủ bóng rổ
Mỹ lòe loẹt, đứng nổi bật giữa đám ngƣời lùn
luộm thuộm, quê mùa. Cửa hàng bán đồ vật kỷ
niệm, boutique mỹ phẩm sang trọng lẫn lộn với
sạp
bán nhang đèn, thùng thiếc. Hà Nội là một ngƣời
đàn bà đứng tuổi bị ràng bỏ bấy lâu nay, tự
nhiên đƣợc để ý nên vội vàng trang điểm... Nếu
ai muốn thì vẫn có thể tìm lại đƣợc vết tích văn
vật của Hà Nội ngày xƣa. Cầu Thê Húc, Đền
Ngọc Sơn, Chùa Một Cột... những danh lam
quen thuộc, dính liền với thi văn miền Bắc. Xây
năm Canh Tuất (1070) đƣời Lý Thánh Tông,
Văn Miếu / Quốc Tử Giám nhƣ một hòn đảo yên
tịnh nằm ngay trung tâm thành phố. Ngoài
những tên quen thuộc nhƣ Chu Văn An, Lê Quí
Đôn... bia Tiến Sĩ còn ghi rõ ngƣời khoa bảng
đầu tiên (Lê Văn Thịnh, đậu năm 1075) và
133 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
những tên khác, cột trụ của nền văn học Việt
Nam; (Nguyễn Bỉnh Khiêm , đậu năm 1535...).
Bạn hỏi tôi ngƣời Hà Nội lúc này thế nào? . À,
trƣớc hết phải xác định " ngƣời Hà Nội mới hay
ngƣời Hà Nội cũ" cái đã. Vì nếu hỏi gốc tích của
những ngƣời gặp trên phố phƣờng Hà Nội thì có
lẽ bạn sẽ nghe : "... thƣa bác, tôi từ Lạng Sơn,
Thanh Hóa, Bắc Ninh ..." Và những ngƣời gọi
mình là dân Hà Nội chính cống sẽ thở dài bảo
rằng “ Ôi, toàn dân ở đâu tới, lịch lãm của Hà
Nội ngày xƣa tìm mỏi mắt may ra mới thấy “.
Có thể ngƣời Hà Nội hơi quá tự hào mà quên
ngoài cái rốn vũ trụ là Hà Thành, miền Bắc còn
có “Đôi Mắt Ngƣơi Sơn Tây” hay “ trai Nam
Định, gái Bắc Ninh “.
Giống nhƣ các tỉnh lớn, Hà Nội bây giờ quan
tâm kiếm sống, văn hóa hay nhu cầu tâm linh bị
lép vế đứng ở thứ tự phía sau. Ngƣời đàn bà Hà
Nội vẫn giữ vẻ khéo léo, lanh lợi, lịch thiệp
nhƣng nếu muốn tìm phụ nữ đảm đang kiểu bà
Tản Đà, gồng gánh nuôi chồng ngồi nhà làm thơ
thì chắc là không có.
Bạn hỏi tôi về món ăn miền Bắc? ra sao?.Giữa
đám nhà hàng bán pizza, hamburger, lẩu dê,
canh chua lƣơn, phở 24 (franchise của gia đình
Lý Quí Chung ?) ... mà tỉnh lớn nào ở VN cũng
có, tôi muốn đƣợc thƣởng thức lại chả rƣơi, rau
dút xào, canh hoa thiên lý, lá mơ đúc trứng ...
nhƣng cố tìm không ra. Chả cá Lã Vọng (một
institution của HN) còn ở đƣờng Chả Cá. Vẫn là
cá Lăng từ Việt Trì mang về, vẫn rau thì là tƣơi
rói nhƣng khẩu phần (ngƣời Bắc gọi là xuất) có
vẻ ít hơn và hình nhƣ hƣơng vị không còn đậm
đà nhƣ lần tôi có dịp ăn mấy năm trƣớc đây.
Nghĩ đó chỉ là sự tƣởng tƣợng của mình nhƣng
ngƣời lái xe đƣa ra phi trƣờng cho biết cũng đã
có rất nhiều khách cùng một nhận xét nhƣ vậy.
Sau hơn 100 năm trong nghề, Chả Cá Lã Vọng
bây giờ có thêm một cửa tiệm ở Hà Nội và một
chi nhánh ở Saigon. Cũng mắc cái bệnh mải
bành trƣớng to nên quên đi phần chất lƣợng
chăng ?. Nhiều lúc tôi tự nhủ có lẽ cứ bám víu,
lãng mạn hóa thú ăn uống ngày xƣa mà mình trở
thành khắt khe quá đáng? . Tay chef Anthony
Bourdain đã từng nói, chuyện ăn uống ngon hay
dở đều có tính chất tƣơng đối. Một bữa “haute
cuisine” cũng chẳng bằng đƣợc liếm sạch trứng
cá cavia trên núm vú ngƣời yêu !!!
Ngồi trong Thủy Tạ nhìn mƣa mà tôi nhớ đến
hoài cảm về Hà Nội của những ngƣời rời đất
Bắc vào Nam:
" ... Mƣa hoàng hôn
Trên thành phố buồn gió heo may vào hồn
Thoảng hƣơng tóc em ngày qua
Ôi ngƣời em Hồ Gƣơm về nƣơng chiều tà ..."
Hoàng Anh Tuấn
Và còn biết bao thi văn đã mƣợn cơn mƣa Hà
Nội để tỏ tình.
” Mƣa Hà Nội, mƣa bâng khuâng chợt nhớ
Gió Hồ Gƣơm hôn nhẹ suối tóc thơ
Dôi mắt đẹp nụ cƣời xinh rạng rỡ
Mƣa mơ màng xao xuyến dệt đƣờng tợ
..........."
Trần Ngọc
Xong ly cà-phê, tôi rời quán đi về hƣớng cầu
Thê Húc. Hà Thành đã thay đổi nhiều. Mƣa thật
nặng hạt mà hình nhƣ tôi không thấy ƣớt. Hay là
mình đang đi dƣới một trận... mƣa khô ?
Ngô Văn Sơn - Winnipeg
134 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
thònh lònh . . . Buâi Giaáng
Vũ Hoàng Thư
Hƣơng sáng nhƣ quyện mùi sen.
Thoảng và thanh. Lòng ngây nhớ mức, nhớ sen
và Tết. Phơn phớt hồng quợn bình minh sớm lên
mây vẽ thành cánh hoa tịnh độ giữa trời. Mùa
sen chƣa đến vì đang còn ngủ kỹ trọng đông.
Quê hƣơng vờn bay những lùm trái gió kết giỏ
lủng lẳng gánh về xóm chợ buổi sớm. Điệu nhún
nhảy đòn gánh nhịp nhàng ôm lấy vai tròn. Hạt
rịn nhú thành giọt lăn dài xuống má. Một cánh
hoa nghiêng chao mở một nụ cƣời cuối chào.
Gió nâng cánh mỏng, con cò trắng vỗ cánh vút
bay, không một tiếng động. Yên tịnh buổi sáng
chƣa hề vỡ, mọi sự tĩnh lặng nhƣ một bức tranh
vẽ. Có chăng một chao động từ gót bƣớc của
ngƣời con gái. Thình lình.
Em đi ngày đó một mình
Rồi sau ngày đó thình lình anh đi [1]
Thình lình Bùi Giáng gọi giật ngƣợc.
Anh và em nhƣ bóng với hình. Em là bóng hay
anh là bóng? Một cái sờ sờ rất thật và một cái
không bao giờ nắm đƣợc, thế mà chúng ta dính
chùm. Nhƣ nhân và quả, một hệ quả không thể
tách rời ? Không thể mình em đi một mình.
Ngƣời ly thân với chiếc bóng, ngƣời thành bóng
ma, ngƣời tự lƣu vong, đánh mất với chính
mình. Thảm kịch sẽ dựng khán đài ngay lúc em
đi. Anh sẽ thình lình đứng dậy cho xem. Thình
lình nhƣ giả thuyết Big Bang đứng dậy bắt đầu
giãn nở để khai sinh vũ trụ, từ đó có âm và
dƣơng, có em và anh. Thình lình là khoảnh khắc
thay đổi từ một trạng thái này qua một trạng thái
khác. Ở thế giới đoạn biến (digital) là từ trạng
thái mở đến đóng hay từ đóng đến mở, từ biểu
tƣợng không điện thế, con số 0, đến có điện thế,
con số 1 của hệ thống cơ số nhị phân (binary)
hay ngƣợc lại. Từ “không” đến “có” hoặc từ
“có” đến “không”. Nghe nhƣ đột ngột, tƣởng là
ngẫu nhiên? Ông Bùi trợn tròn đôi mắt đợi chờ,
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
[1]
Giết nhau ngẫu nhĩ thật là ngẫu nhiên là
một chuyện không bao giờ mang tính tình cờ,
thứ tình cờ nhiều-khi-đứng-riêng-ngoài rất Huế
của ông Trịnh "từ em thôi là nguyệt / coi như
phút đó tình cờ". Ngẫu nhĩ và ngẫu nhiên mang
cùng điện tính, hoặc cùng dƣơng hay cùng âm,
chúng sẽ đẩy nhau theo định luật vật lý lƣợng tử.
Đó là đùa cợt với chữ nghĩa và mấy ông khoa
học gia, thật ra cặp đôi ngẫu nhĩ/ngẫu nhiên là
135 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
một cuộc bày binh bố trận dàn dựng “máu me”
[chữ ƣa thích của ông Bùi] ở phía sau.
Thình lình thấy một nỗi đau
Ấy từ vĩnh viễn cùng nhau đã nhiều [1]
Sao thế nhỉ ? Thấy một nỗi đau riêng
liền cảm nhận nỗi khổ muôn đời của thân phận
ngƣời ? Tự muôn thuở ta trầm luân nơi chốn khổ
đau ? Thi sĩ tâm tƣởng bay vút cùng đạo sĩ, khác
chăng họ không buồn thuyết giảng về một cứu
cánh, họ chỉ cảm thấu hiện tƣợng nhƣ một nhắc
nhở lao lung, một búng tay thình lình. Chẳng
riêng gì nỗi đau, hạnh phúc phải chăng là khuôn
mặt thứ hai của hệ lụy, cũng đột ngột mở sấp
theo tiết điệu "đƣời ƣơi", nếu ta mƣợn chữ của
Bùi Giáng ?
Thình lình thấy một nỗi vui
Ấy vì vĩnh viễn vui tươi lan tràn [1]
Ông Bùi hí lộng về nỗi đau và nỗi vui
xoay quanh một khoảnh khắc bất ngờ ấy. Những
giao động tƣởng nhất thời lại gọi về những thân
thiết thiên thu, những ràng buộc làm nên hiện
hữu ngƣời trên mặt đất. Tƣơng lân cùng nỗi sầu
vạn cổ cho đến niềm vui địa đàng của thuở lập
địa thơ trinh, của em mọi nhỏ u nùng hồn nhiên
phơi phới. Thuở uyên nguyên bản lịch em thổi
chiếc tù và âm khàn giọng vƣợn. Em khoe trần
bầu ngực sậm, màu huyền đen lung linh của đêm
sáng thế, của đêm kết tinh xuống hàm răng màu
hạt na cƣời hòa huyễn trong đêm ba mƣơi. Lúc
đó lá tre cũng nhuốm huyền long lanh về đậu lên
đôi mắt cƣời dài rũ rƣợi càn khôn. Tất cả đen
tuyền một màu cho thế gian không còn sắc. Thế
rồi em đi lần xuống phố. Chiếc tù và vứt lại rừng
xanh, em tập nói thứ ngôn ngữ càng ngày càng
phức tạp khó hiểu. Thiên đƣờng đổ vỡ từ đó. Em
không còn là chính em. Em mọi nhỏ ban sơ trở
thành em Brigitte, em Marilyne... Da em đổi
thành trắng và em khoát thêm vào ngƣời chiếc
áo. Những chiếc áo có nhiều tên cho những vai
trò khác nhau bập bùng theo ánh lửa đỏ. Em
cùng loài ngƣời vui vầy nhảy múa trong chiếc áo
thiêu thân. Thế giới từ đó mọc dài biên giới và
đột ngột cách ngăn. Bờ đê nhỏ bé bỗng dƣng
rộng lớn thành trƣờng thành trong trí tƣởng.
Ngăn ngại xuất phát từ ngoại cảnh hay khởi đầu
chính từ tâm ?
Thình lình gặp một bờ đê
Ấy vì đau đớn ê chề mà ra [1]
Nhƣ thế, tất cả rất thình lình.
Thình lình thông thƣờng đƣợc hiểu nhƣ
là điểm bắt đầu những xung động nhƣ là ngẫu
nhiên không có ý định trƣớc. Nếu mƣợn thuật
ngữ của Phật giáo ta có thể gọi những xung động
ấy là niệm. Thật ra niệm khởi xuất từ cảm ứng
với thế giới bên ngoài hay dựa vào kinh nghiệm
đã tích tụ từ trƣớc, những bộ nhớ dấu yêu cũng
nhƣ những kỷ niệm rã rời. Kinh Phật nói trong
một sát na (khana) có hàng trăm niệm sinh khởi
và hủy diệt. Có thể nói nôm na, sát na là một
chớp nhoáng của sinh hiện, hay muốn chính xác
nhƣ toán học vi phân, là phần tử điểm dt. Niệm
hay ý tƣởng phát sinh trùng trùng ví nhƣ biển
với vô vàn cơn sóng. Cái ác nhƣ những cơn sóng
dữ tàn phá bãi bờ, điều bất thiện làm nên những
con sóng nhỏ lao chao thuyền và khát vọng kia
đƣa đẩy những gợn sóng lăn tăn. Những ngọn
sóng không mang lại bình yên, những cơn sóng
nhắc nhở con ngƣời đến trắc trở. Biển yên sóng
dứt khi những ý niệm vắng lặng dần. Nói nhƣ
vậy thì ông Descartes đành phải ôm xuống tuyền
đài triết lý Cogito, ergo sum? Có thể nào luận lý
Tây phƣơng dựa trên nền tảng tôi-suy-tƣ-nên-
tôi-hiện-hữu lại té gục một cách thảm thƣơng ?
Khi mọi ý niệm ngƣng, ta không còn hiện hữu,
vậy ta sẽ là gì vào giây phút ấy ? Nhà thơ đăng
đàn ngồi lặng, điều nghiên chân khí, thình lình,
rất thình lình nhƣ một vạch ngang xẻ rách thịt da
cho ló hiện ánh dƣơng, sực nhớ mấy câu thơ của
Tuệ Đăng, thiền sƣ Việt ở thế kỷ 17,
136 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Nói gì cũng bố láo
Không nói cũng chẳng xong
(Hữu thuyết giai thành báng,
Vô ngôn diệc bất dung)
Nói hay không nói ? Chênh vênh giữa
hai bờ đại vực, còn chăng một ánh dƣơng hồng
lung linh đầu núi - Nhật xuất lãnh đông hồng ?
[2] Cái chênh vênh mở ra dấu ngoặc chết ngƣời,
dẫn đến ngã rẽ, hay ngã ba, ngã tƣ, năm, sáu...?
Đang chông chênh khó bƣớc, thi sĩ hoắc nhiên
đại ngộ, cánh hạc vụt bổng thái hƣ. Thình lình
chăng?
Người đi cuối cuộc hành trình
Quy hồi bất chợt thình lình thấu ra [1]
Máu me nằm nơi chỗ quy hồi. Thù
thắng cũng ở ngay lúc quy hồi. Hồi đầu liền thấy
bờ bên kia, gặp lại diện mục. Câu thơ đáo bỉ
ngạn. Bây giờ mọi sự là rong chơi, thõng tay vào
túi. Nói hay không nói thôi là câu hỏi, bình
thƣờng nhƣ chim hót, nhƣ lá bay, nhƣ những hạt
mƣa xuân bất chợt, lấm tấm hạt bụi bay ngang
bầu trời. Những hạt mƣa thình lình nhƣng có
một lý do rất riêng rẽ của nó,
Thình lình thấy hột mưa sa
Ấy từ trái rụng vì ta tặng người [1]
Vũ Hoàng Thƣ Tháng 2, 2010
---------------------------------------------
[1] Thơ Bùi Giáng
[2] Kiến Tánh Thành Phật - Thiền sƣ Chân
Nguyên (Tuệ Đăng) 1647 - 1726 :
Hữu thuyết giai thành báng,
Vô ngôn diệc bất dung.
Vị bỉ thông nhứt tuyến,
Nhật xuất lãnh đông hồng.
Có nói đều thành báng,
Không lời cũng chẳng dung.
Vì anh thông một lối,
Trời mọc núi đông hồng.
(Thích Thanh Từ dịch)
137 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Quyển Nhật Ký – kTah (Tiếp theo trang 32)
Mẹ thà con gái thành gái già sống bên mẹ chứ
không muốn phải khổ sở khóc mất con nhƣ bạn
của mẹ.”
“À! Thì ra thế. Vậy chứ nếu không gặp lại anh,
em có định trở thành gái già không?”
Vợ chàng đùa, “Nếu lúc đó em gặp đƣợc một
ngƣời bảnh trai hơn anh, thông minh hơn anh,
cái gì cũng hơn anh thì em lấy ngay.”
Chàng cƣời trả đũa, “Ừ, vậy là chắc chắn em sẽ
trở thành gái già sống suốt đời bên Mẹ. Này,
này, anh biết cái này nói ra nghe ác lắm nhƣng
mà anh rất cám ơn ngƣời con gái đã chết của bạn
Mẹ lắm.”
“Hôm nay anh lên cơn khùng nặng lắm đó
nghe!”
“Ai bảo em để quyển nhật ký nằm khơi khơi cho
anh đọc.” Chàng cƣời tích toát.
“Thật đúng là đàn ông! Chuyện gì cũng đổ lỗi
cho đàn bà.”
“Dĩ nhiên. Lỗi của đàn bà từ thuở tạo thiên lập
địa mà. Không phải anh nói đâu. Ghi trong kinh
thánh đó nghe.”
“À, vậy chứ ai viết thánh kinh?”
Chàng bật cƣời ra tiếng. Tƣờng Nhi vẫn là
Tƣờng Nhi của mấy mƣơi năm về trƣớc.
“Em dọn giấy tờ trong tủ sắt tìm thấy nó. Định
đem ra viết vài hàng cho ngày anniversary thứ
30 của chúng mình. À, năm nay mình định đi
đâu ăn mừng đây anh?”
Chàng cƣời vẻ mặt khoái trá, “Thôi mình già rồi.
Đi đâu xa chi cho mệt. Tổ chức ngay trên
giƣờng này và ngay từ bây giờ đến ngày
anniversary đƣợc không em?”
Vợ chàng “Hứ!” trong cuống họng. “Đừng có
cƣa sừng làm nghé! Anh già đến lên chức ông
ngoại rồi mà không nên nết chút nào.”
Chàng vừa cƣời rộ vừa nói “Anh có làm đến
chức ông cố cũng không muốn nên nết với em!”
kTah
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Kỷ niệm buồn – Võ Khắc Hạnh (Tiếp theo trang 56)
Houston Texas đã đến để tiễn đƣa OC Hoàng
Ngạc, bạn đã ra đi âm thầm lặng lẽ nhƣ cuộc
sống của riêng anh. Các bạn ở tiểu bang
Washington cũng rất xúc động khi đƣợc biết gia
đình OC Bùi Huy Châu đã tận tình giúp đỡ cho
OC Hoàng Ngạc trong lúc cuối đời.
Một khoảnh khắc để rồi chia xa nhƣ một bản
nhạc của Trịnh Công Sơn ;
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ối cát bụi tuyệt vời,
138 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Mặt trời soi một kiếp rong chơi . . .
Ổi cuộc đời hải hồ sao chóng qua, giã từ đại
dƣơng và sóng nƣớc mênh mông, giã từ những
lần ra khơi sóng vỗ về con tàu, giã từ các bạn
OC không còn bộ quần phục màu xanh lam với
chiếc lon omega màu vàng ngạo nghễ, chỉ còn
lại những ngày tháng vội vã ở xứ Cờ Hoa lạnh
lùng băng giá .
OC VÕ KHẮC HẠNH (U1)
---------------------------------------------------------------------------------------------------
Đồng Tháp Mƣời – Mèo Hoang (Tiếp theo trang 101)
Rồi chiến tranh và tuổi trẻ cũng đã trôi theo
những đóa hoa lục bình xanh tím trên sông, tôi
nghe nói bây giờ vùng Đồng Tháp này đã trở
thành một Trung Tâm du lịch khá nổi tiếng. Các
cụ già ngày xƣa hay ngồi nhậu xỉn với chúng tôi
có lẽ nay đa số đã đƣợc ăn xôi nghe kèn vì đã
gần 40 năm dài trôi qua. Hình ảnh những rừng
hoa điên điển vàng ẻo lả nghiêng nghiêng theo
những con gió ban mai dọc theo bờ kinh vẫn còn
in mãi trong ký ức tôi, những hàng đáy và những
mẻ cá linh trắng bạc lấp lánh đầy vun thuyền của
dân ngƣ phủ sống trên những căn nhà sàn lợp lá
dừa ven kinh, những chú cá lóc bông nƣớng trui
thơm điếc mũi, và nhất là tình ngƣời thật ấm
cúng, thật chân thành và hiền hòa giữa những
con ngƣời hoàn toàn xa lạ, lòng chất phác và
hiếu khách của dân lành miền đất lạ và xa xôi
này. Tôi hy vọng những hình ảnh quá đẹp và dễ
thƣơng về quê hƣơng dấu yêu của tôi sẽ không
bao giờ phai nhòa trong ký ức và trong đáy tim
tôi, bây giờ và mãi mãi.
Mèo Hoang 3/2010
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Leo núi - Angels Landing - Zion
Park – Utah – Ngô Đạo (Tiếp theo trang 104) buồn vui bên nhau, hôm nay tôi mới thấy nụ
cƣời rạng rỡ bất thƣờng của vợ mình. Nụ cƣời
nhƣ phảng phất một thứ nợ duyên tiền kiếp.
Mọi ngƣời rồi cũng tuần tự đến điểm hẹn. Anh
Tuyền với vợ là chị Hằng đến sau cùng. Anh chị
phải đi sau để yểm trợ và hộ tống phái đoàn.
Trƣớc mặt chúng tôi còn một đoạn đƣờng dây
cáp nữa. Đoạn dây cáp này nối liền nơi chúng
tôi đang đứng với đỉnh núi kế. Tôi còn đang
phân vân và lo sợ về lộ trình đã hoàn tất thì cậu
Minh, chồng cô Hảo đã dõng dạc tuyên bố:
“Mình không đi nữa, anh Đạo nhé. Chúng ta đến
đây là đủ rồi”
“Đúng vậy”, anh Tuyền tiếp theo” Mình đã đến
đƣợc Angels Landing Area“
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thật sự tôi không có
đƣợc niềm tin vững chãi về tôn giáo, nhƣng câu
nói vừa rồi của Minh có mãnh lực nhƣ đã cứu độ
tôi trong cõi trần này.
Phái đoàn vừa bày thức ăn vừa ngắm trời mây.
Đƣờng về còn phải mất hơn hai tiếng. Tuy thế,
niềm hân hoan mọi ngƣời có thể che dấu trong
nụ cƣời nhƣng đã rực rỡ trên ánh mắt.
Phải, chúng tôi đã thành công. Chúng tôi đã
không đem sức trai thách đố với thiên nhiên;
Chúng tôi đã đem ý chí, lòng quyết tâm và sự
kiên trì ở tuổi về chiều để chinh phục và chiến
thắng chính mình. Còn gì đẹp hơn!
Ngô Đạo
139 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Down-under Du Ký Truyện – Nguyễn
Mạnh Hùng (Tiếp theo trang 120)
Thƣa các bạn OC thân thƣơng của tôi, qua
những bài viết từ trƣớc đến giờ, đặc biệt về Tình
OCS, nhƣ Tình OCS vùng MA, Tình OCS xứ Florida
, Tình OCS xứ Cali nắng ấm, và Tình OCS xứ Down
under Australia mới toanh này, tôi phải công nhận
một điều: Mặc dù cá nhân tôi ghét Mỹ thậm tệ từ
những năm 75, vì những ngón đòn chơi khăm, đâm
sau lƣng đồng minh Việt Nam Cộng Hòa nhiều lần dã
man ...nhƣng nghĩ lại cũng nhiều khi phải “..cám
ơn..” thằng Mỹ vì nếu không có cái chƣơng trình Việt
Nam hóa chiến tranh năm 1968-69 thì chúng ta cũng
không có đƣợc khoảng 700 mạng
OC mà tình thân đã kéo dài hơn 35 năm nay và sẽ còn
trƣờng tồn mãi mãi với thời gian…
Một lần nữa vợ chồng Hùng Gà tồ Montreal xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn OCS vùng Sydney,
Adelaide, Brisbane , đã đón tiếp chúng tôi với tất cả tình thân thƣơng của những cựu Hải quân tiểu đoàn
/OCS/Trần Hƣng Đạo.
Trƣớc khi từ giã từ các bạn Hùng Gà tồ xin có bức hình tặng riêng cho OC Tân Chim sáo theo
Email yêu cầu của OC đƣơng sự.
Montreal, May 2nd 2010.
Nguyễn mạnh Hùng OCS6.
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Xuyên Tâm Liên – Thịnh, U7
(Tiếp theo trang 126)
Tƣ, hai gia đình họp mặt để cùng nhau ôn lại
những ngày đen tối nhất trong cuộc đời. Lắm khi
các bà thƣờng diễu, mấy ông là sƣớng thôi chết
một cái là Thiên Đàng bay vèo một cái tới, hỏa
ngục các ông đã trải qua rồi. Hai ông cùng ít nói,
có lẽ vì bản tính cố hữu là ít nói và cũng có khi
vì khi học tập cải tạo càng ít nói càng tốt, có lẽ
hai bà nói hơi nhiều nên hai ông nhƣờng hết
nhƣng dù sao đi nữa cứ nghe hai ly cụng nhau
rôm rốp là đủ hiểu họ tâm đầu ý hợp đến thế
nào, phần hai bà lui cui trong bếp nêm nếm nồi
bún bò Huế lại còn chạy lên chạy xuống làm
mấy món nhậu hầu tiếp 2 ông, một bà khen nồi
bún ngon nhƣng hơi cay, sợ lũ cháu nó không ăn
đƣợc nhƣng bà kia chống chế, mình ngƣời Á
châu tụi nó cũng máu bố mẹ nó, sợ gì, nếu
140 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
chúng nó chê thì món cánh gà mua ở Sam club
đút lò là xong ngay, lại còn bánh trái đủ thứ,lo
gì. Hai bà hơi lớn tiếng nên hai ông nghe hết
nhƣng vẫn gật gù với nhau bên ly bia vàng óng
mầu hổ phách ngâm:
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Chuyện bếp núc đã xong hai bà bèn giải
thể chuyện cũ, mẹ của Lan tủm tỉm cƣời: thật là
chuyện lạ, thằng Tân con Lan, hai bà sung
sƣớng vì hạnh phúc của con với ba đứa cháu tên
Xuyên Tâm và Liên còn tình bạn keo sơn của
hai bố già thì khỏi nói, cứ nhìn cái cung cách
hàng tuần họ gặp nhau là rõ, hơn nữa hai gia
đình một Bắc Kỳ một Trung Kỳ mà thân nhau
nhƣ anh chị em ruột.
Thịnh U 7
(Đây là câu chuyện thật 100% tất cả nhân chứng
vẫn còn đang sống, tôi nghe và thuật lại)
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Phan Thái Yên, mấy đoạn viết
rời… (Tiếp theo trang 130)
Nhớ mãi buổi chiều cuối cùng trƣớc khi vào
lính, ly cà phê Thanh-Long đắng lòng góc phố.
Gió tháng Chạp cuồng quay bên ngoài vách núi
Sơn Trà u hoài ánh hải đăng chớp tắt. Trong
nhạt nhòa mƣa, thành phố chợt xa vời con dốc
dài tóc xõa lối về.
Gã lính sông hồ những đêm chập chùng cuối
biển hay từ một dòng sông rất xa vẫn mãi nhớ về
ánh đèn bờ vịnh phố xƣa. Nhớ về những sợi tóc
mai ấp ủ thơ ngây cho mắt em đăm đắm tự tình
là ngọn hải đăng sáng hoài trong hồn anh bão
lộng.
Cơn bão tình yêu thổi suốt qua cuộc đời chung,
qua lần bể dâu oan nghiệt chia lìa đôi lứa. Đôi
mắt tình yêu đẹp tuyệt trần buổi sáng cuối một
mùa xuân định mệnh, rƣng buồn lời hẹn chờ
chung thủy. Đôi mắt đã giữ ấm lòng, mớm sức
cho từng ngày tù tội. Là ánh đèn chong rực sáng
chân trời tự do phía ngoài, bỏ lại sau lƣng vùng
cửa biển u hoài, vần vũ triền miên cơn hồng
thủy tai ƣơng đã hủy diệt đảo lộn tất cả giá trị và
cuộc sống bình yên của con ngƣời.
Trong tiếng động cơ rập rềnh ngái ngủ, tôi loay
hoay với những ý nghĩ buồn vui.
Tôi nghĩ tới hai ngƣời lính già HO ngồi trầm
ngâm đánh cờ tƣớng trong khu thƣơng xá Phƣớc
Lộc Thọ bên mấy ly trà đá đã cạn từ lâu. Tôi
nghĩ tới tiếng nói cƣới của những đứa bé tung
tăng theo mẹ cha mua sắm. Tôi nghĩ tới lòng can
đảm và nỗi cô đơn của số ít ngƣời dấn thân đang
bị lao tù trong nƣớc vì muốn tìm quyền tự do lên
tiếng nói cho mình và ngƣời khác. Từng viên
gạch lót đƣờng về phía nhân bản tình ngƣời
đang đƣợc từng bƣớc bƣớc lên mà có ai hay?...
Phan Thái Yên
141 Đặc San Đại Hội XI OCS – Nam California – Tháng 6, 2010
Mục Lục
Thƣ Ngỏ
Tháng tƣ, với ngƣời ở lại Phạm Hồng Ân 2
Thơ NP_u2 5
Ba mƣơi lăm năm nhìn lại Lê Đình Quang 6
Thơ Vũ Hoàng Thƣ 11
Những mảnh vụn ký ức về biển Mèo Hoang 12
Bạn thân Việt Dân 17
Thơ Phạm Hồng Ân 19
Ngƣời tình U Minh Huỳnh Kim Khanh 20
Dƣ âm xƣa Thơ kTah 28
Quyển nhật ký kTah 29
Thơ Di Truong, Phạm Hồng Ân 33
Thơ Lý Thy Dân, Ngô Đạo 34
Ngƣời thầy thuở ấy Cỏ Biển 35
Thơ Di Truong 43
Thơ Lê Sĩ Phu 44
An Thới ngày lìa xa và lần trở lại Trần Thị Hậu Giang 45
Thơ Từ Văn Bé Tƣ 52
Thơ Bùi Văn Quý 53
Thơ NP_u2 54
Kỷ niệm buồn Võ Khắc Hạnh 55
Vƣơng vấn Hải Dƣơng 57
Thơ Huỳnh Kim Khanh 59
Một ngày Phƣớc Long Bùi Huy Châu 60
Thơ Vũ Hoàng Thƣ 65
Hành trình về với... mình Hoàng Quốc Việt 67
Thơ Huỳnh Kim Khanh 72
Thơ Từ Văn Bé Tƣ 73
Kỷ niệm Năm Căn Baxide 74
Thơ SeaBee 77
Lá thƣ gửi bạn Ngô Thụy Chƣơng 79
Ngƣời lữ hành đơn độc NCTD 82
Tản mạn về gựu Nguyễn Khắc Thịnh 86
Trả đũa Đào Ngọc Hải 89
Mr Hao retires Đƣờng Hào 95
Đồng Tháp Mƣời Mèo Hoang 99
Leo núi Ngô Đạo 102
Du ký Down under Nguyễn Mạnh Hùng 105
Bây giờ bạn ở đâu Lê Đình Quang 121
Xuyên tâm liên Nguyễn Khắc Thịnh 124
PTY, mấy đoạn viết rời Phan Thái Yên 127
Ký Ngô Văn Sơn 132
Thình lình Bùi Giáng Vũ Hoàng Thƣ 135