40
Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012 Rt mong nhn được ý kiến đóng góp ca bn đọc Email: [email protected] 3 Mt sni dung chính Trang TIN TRONG TNH * Tăng cường QLTT đối vi hot động sn xut kinh doanh chè ti huyn Văn Chn * Điu chnh Quy hoch tng thphát trin kinh tế - xã hi tnh Yên Bái đến năm 2020 * Yên Bái: Thúc đẩy xut khu hàng hóa cho các doanh nghip TIN TRONG NƯỚC * Lm phát bào mòn sn xut công nghip * XQubình n và gim thuế để níu giá xăng du * Gkhó cho doanh nghip vt liu xây dng * Tm ngng nhp máy móc, dây chuyn… lc hu tTrung Quc VĂN BN MI * Quy định mi vcp hchi ếu * Giy phép xây dng chđược gia hn 1 l n * Kim soát cht cht l ượng bao bì dược phm XÚC TIN THƯƠNG MI * Hi chtri n lãm Sn phm làng nghtruyn thng khu vc Nam đồng bng sông Hng – Nam Định 2012 * Mi tham gia đoàn doanh nghip kho sát và xúc ti ến thương mi, đầu tư ti Đài Loan 4 5 7 11 13 14 18 20 20 21 21 22 BN TIN CÔNG THƯƠNG YÊN BÁI S37 năm 2012 Chu trách nhim xut bn: NGUYN ĐÌNH CHIN Phó giám đốc SCông Thương Thường trc Ban biên tp * ĐOÀN LÊ KHOA * NGUYN NGC LAN * HOÀNG THU HÀ * NGUYN KHÁNH HÒA + Xut bn 1 tun 1 s. Kh(19 x 27)cm + Gi y phép xut bn s01/GP - XBBT do SThông tin và Truy n thông Yên Bái cp ngày 13/5/2008. + In 150 - 200 cun ti Phòng TT-XTTM, SCông Thương Yên Bái.9 năm 2012.

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012 · Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012 Rất mong nhận được ý kiến đóng góp

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 3

Một số nội dung chính

Trang

TIN TRONG TỈNH * Tăng cường QLTT đối với hoạt động sản xuất kinh doanh chè tại huyện Văn Chấn * Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái đến năm 2020 * Yên Bái: Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa cho các doanh nghiệp

TIN TRONG NƯỚC * Lạm phát bào mòn sản xuất công nghiệp * Xả Quỹ bình ổn và giảm thuế để níu giá xăng dầu * Gỡ khó cho doanh nghiệp vật liệu xây dựng * Tạm ngừng nhập máy móc, dây chuyền… lạc hậu từ Trung Quốc

VĂN BẢN MỚI * Quy định mới về cấp hộ chiếu * Giấy phép xây dựng chỉ được gia hạn 1 lần * Kiểm soát chặt chất lượng bao bì dược phẩm

XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI * Hội chợ triển lãm Sản phẩm làng nghề truyền thống khu vực Nam đồng bằng sông Hồng – Nam Định 2012 * Mời tham gia đoàn doanh nghiệp khảo sát và xúc tiến thương mại, đầu tư tại Đài Loan

4

5

7

11

13

14

18

20

20

21

21

22

BẢN TIN

CÔNG THƯƠNG YÊN BÁI Số 37 năm 2012

Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN

Phó giám đốc Sở Công Thương

Thường trực Ban biên tập * ĐOÀN LÊ KHOA

* NGUYỄN NGỌC LAN * HOÀNG THU HÀ * NGUYỄN KHÁNH HÒA + Xuất bản 1 tuần 1 số. Khổ (19 x 27)cm + Giấy phép xuất bản số 01/GP - XBBT do Sở Thông tin và Truyền thông Yên Bái cấp ngày 13/5/2008. + In 150 - 200 cuốn tại Phòng TT-XTTM, Sở Công Thương Yên Bái.9 năm 2012.

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 4

TIN TRONG TỈNH Tăng cường QLTT đối với hoạt động sản xuất kinh doanh chè tại huyện Văn Chấn

ăn Chấn là một huyện miền núi, nằm ở phía Tây tỉnh Yên Bái, trung

tâm huyện lỵ cách thành phố Yên Bái 72 km, với tổng diện tích chè: 4354 ha, diện tích chè kiến thiết cơ bản: 500 ha, diện tích chè kinh doanh: 3.584 ha; năng xuất đạt: 97 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi toàn huyện năm 2011 đạt: 41.700 tấn, sản lượng chè búp tươi 6 tháng đầu năm 2012 đạt 34.000 tấn. Trên địa bàn toàn huyện có 60 nhà máy chế biến chè (Không tính các cơ sở chế biến bằng bom tay); trong đó: DNTN là: 23; HTX là: 18; Công ty cổ phần: 06; Công ty TNHH: 13. Tổng công xuất chế biến bằng 740 tấn chè búp tươi/ngày.

Với diện tích 3.800ha chè kinh doanh. Văn Chấn là huyện có diện tích chè lớn nhất tỉnh và chè là một trong những cây trồng chủ lực trong phát triển kinh tế của huyện. Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết số 02 của tỉnh ủy Yên Bái về phát triển cây chè trên địa bàn tỉnh. Huyện Văn Chấn đã trú trọng đầu tư mở rộng diện tích, quan tâm cải tạo vùng nguyên liệu chè, theo hướng tập trung và nâng cao sản lượng, chất lượng. Tuy nhiên việc quy hoạch, quản lý các cơ sở chế biến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm chè còn hạn chế. Mặt khác ý thức của người làm chè chưa cao, còn mải chạy theo lợi nhuận trước mắt, ít quan tâm đến lợi ích lâu dài, khiến chất lượng, giá trị sản phẩm chè đạt thấp, đời sống của người làm chè gặp không ít khó khăn.

Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp cơ sở chế biến chè trên địa bàn công tác quản lý chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) chưa được

quan tâm, chú trọng; Việc thực hiện quy trình trong sản xuất, chế biến: từ chăm sóc, thu hái chè búp tươi, đến công tác tổ chức thu mua, chế biến, phân loại chất lượng sản phẩm chưa đồng nhất. Mặt khác trên địa bàn cũng còn khá nhiều bom xao chè tự phát trong các hộ dân, chưa có sự quản lý chặt chẽ của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng nên vẫn còn một số cơ sở chế biến chè không đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Những bất cập trong sản xuất kinh doanh chè trên địa bàn huyện Văn Chấn, những năm qua. Trước hết là do công tác qui hoạch, quản lý nhà nước đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh chè, còn hạn chế, người làm chè và các doanh nghiệp chạy theo lợi ích trước mắt, ý thức của người dân đối với cây chè và sản phẩm chè còn rất kém, công tác tuyên truyền giải thích của chính quyền và các xã chưa mấy hiệu quả.

Xác định nhiệm vụ chính trị do ngành, địa phương giao. Bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chi cục QLTT tỉnh Yên Bái và cấp ủy, chính quyền địa phương huyện. Ngay từ những tháng đầu vụ sản xuất chè, Đội Quản lý thị trường số 7 đã tổ chức quán triệt từ lãnh đạo đến cán bộ công chức trong Đội những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quán lý kinh doanh, chế biến chè trên địa bàn, xây dựng kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, xử lý các hành vi, vi phạm. Đặc biệt là những vi phạm về chất lượng, VSATTP trong sản xuất chè trên địa bàn.

Đội QLTT số 7 đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý sản xuất, chề biến chè trên địa bàn: Một mặt tích cực tuyên truyền bằng nhiều hình thức đến người trồng, các cơ sở chế biến về

V

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 5

những qui định pháp luật đối với sản suất, kinh doanh chè, cũng như những lợi ích lâu dài trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm chè; Mặt khác giao nhiệm vụ cho chính quyền các xã, thôn, các cơ sở chế biến tập trung, làm tốt việc ngăn chặn, chế biến chè phẩm cấp thấp. Đồng thời Đội cũng tham mưu với UBND Huyện tổ chức các đoàn công tác liên ngành, xuống các địa bàn vùng nguyên liệu, và các cơ sở chế biến, để kiểm tra khâu thu hái và chế biến đúng quy trình, đảm bảo VSATTP; Tổ chức cho các doanh nghiệp, hợp tác xã chế biến chè, ký cam kết, không chế biến chè không đảm bảo vệ sinh, chè xấu, không để xảy ra tình trạng ép cấp, ép giá hoặc gây khó khăn cho bà con trong vùng nguyên liệu.

Căn cứ Quyết định số 197/QĐ - UBND ngày 27/4/2012 của UBND huyện Văn Chấn về việc thành lập đoàn kiểm tra liên ngành, kiểm tra các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh nông lâm sản trên địa bàn huyện năm 2012. Đội tham gia Đoàn và đã kiểm tra một số hộ xao bom trên địa bàn Tân Thịnh, Thượng Bằng La đã phát hiện và tịch thu 392 kg chè không đảm bảo VSATTP, chè có pha tạp chất (bột sắn + cát); Lập biên bản xử lý, phạt vi phạm hành chính và phạt trực tiếp 26 cơ sở, đơn vị chế biến, sản xuất chè trên địa bàn tổng số với tổng mức tiền xử phạt là: 51.000.000 đ.

Thông qua công tác tuyên truyền, kiểm tra, kiên quyết xử lý các vi phạm trong chế biến chè. Đội QLTT số 7 đã góp phần hạn chế đáng kể số các cơ sở chế biến chè không đảm bảo VSATTP và từng bước ổn định thị trường nguyên liệu chè trên địa bàn.

Xác định nhiệm vụ chính trị, quán triệt tinh thần chỉ đạo của các cấp. Đội QLTT số 7 tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức để nâng cao ý

thức trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao. Tiếp tục duy trì công tác kiểm tra, kiểm soát gắn với tích cực tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức cho người trồng và chế biến chè trên địa bàn, chấp hành đúng các quy định của Nhà nước trong hoạt động sản xuất và kinh doanh. Góp phần nâng cao giá trị, chất lượng, thương hiệu chè Văn chấn nói riêng, chè Yên Bái nói chung.

Nguồn: Chi Cục QLTT

Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái đến năm 2020

Ngày 28/8/2012, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái đến năm 2020.

Theo đó, phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái đến năm 2020 phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Trung du miền núi Bắc Bộ; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với quy hoạch ngành, lĩnh vực của cả nước. Huy động cao nhất mọi nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của tỉnh về nguồn nhân lực, đất đai và các nguồn tài nguyên khác; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung, ưu tiên phát triển các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chủ lực, có lợi thế, giá trị và hàm lượng công nghệ cao, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, từng bước hướng ra xuất khẩu. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải phóng sức sản xuất. Nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác. Sản xuất tập trung thành vùng nguyên liệu, gắn với phát triển công nghiệp chế biến, tạo ra sản phẩm có

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 6

giá trị kinh tế cao. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng hạ tầng các khu du lịch, hình thành các sản phẩm du lịch; chuyển dịch mạnh du lịch trong nhóm ngành dịch vụ. Gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm, giảm nghèo, giảm chênh lệch về mức sống giữa các khu vực; làm tốt công tác bảo vệ và tái tạo môi trường; đảm bảo quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, Yên Bái cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp và là một trong những trung tâm phát triển của vùng miền núi phía Bắc. Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý và bền vững. Phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thu hẹp đáng kể khoảng cách chênh lệch về mức sống của dân cư so với bình quân chung cả nước.

Cụ thể về kinh tế phấn đấu đạt 8 chỉ tiêu gồm tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 2011 - 2015 là 13,5%, thời kỳ 2016-2020 là 14,0%. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp Xây dựng - Dịch vụ - Nông lâm nghiệp năm 2015 là 41% - 34% - 25%, năm 2020 là 45% - 37% - 18%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 25 triệu đồng trở lên, năm 2020 là 59 triệu đồng. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2015 là 275.000 tấn, năm 2020 là 290.000 tấn. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn năm 2015 là 7.400 tỷ đồng, năm 2020 là 16.000 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu năm 2015 trên 100 triệu USD, năm 2020 là 300 triệu USD. Tổng thu cân đối ngân sách trên địa bàn năm 2015 là 1.700 tỷ đồng, năm 2020 là 5.200 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 5 năm 2011 - 2015 khoảng 34.000 tỷ đồng, 5 năm 2016 - 2020 khoảng 70.000 tỷ đồng.

Về xã hội phấn đấu đạt 8 chỉ tiêu gồm bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 18.000 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 là 45%, năm 2020 là 55%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm 4% (theo chuẩn từng thời kỳ). Tỷ lệ trường mầm non và phổ thông đạt chuẩn quốc gia năm 2015 là 35%; năm 2020 là 46%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng năm 2015 giảm còn 19%, năm 2020 giảm còn 16%. Năm 2015 có 90 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã; năm 2020 có 144 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã (theo chuẩn giai đoạn 2011 - 2020). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2015 là 1,086%, năm 2020 là 1,006%. Tỷ lệ xã đạt tiêu chí nông thôn mới năm 2015 từ 15 - 20%, năm 2020 là 50%.

Về môi trường phấn đấu đạt 4 chỉ tiêu gồm tỷ lệ che phủ của rừng từ năm 2015 trở đi đạt 63,5%. Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh năm 2015 là 85%, năm 2020 là 90%. Tỷ lệ dân cư đô thị được sử dụng nước sạch năm 2015 là 75%, năm 2020 là 80%. Tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh năm 2015 là 50%, năm 2020 là 65%.

Quy hoạch nêu rõ về định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, định hướng phát triển theo lãnh thổ, các giải pháp thực hiện quy hoạch.

Quy hoạch đã định hướng các dự án ưu tiên nghiên cứu đầu tư thời kỳ 2011-2020 của tỉnh, trong đó có 4 dự án do bộ, ngành đầu tư trên địa bàn, 13 dự án do tỉnh làm chủ đầu tư, 17 dự án kêu gọi các thành phần kinh tế đầu tư.

Việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái đến năm 2020 là cơ sở cho việc lập, trình duyệt và triển khai thực hiện các quy hoạch ngành

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 7

(quy hoạch xây dựng; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và các quy hoạch chuyên ngành khác có liên quan), các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Để thực hiện quy hoạch Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái sẽ căn cứ mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh phối hợp với các bộ, ngành của trung ương và chỉ đạo các ngành, địa phương trong tỉnh thực hiện đúng nội dung quy hoạch đã được phê duyệt.

Theo CGTĐT

Yên Bái: Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa cho các doanh nghiệp

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 1.000 doanh nghiệp, giá trị hàng hoá xuất khẩu mỗi năm từ 30-34 triệu USD, với các mặt hàng chủ yếu như: chè xanh, chè đen, chè nhúng, quế, ván ghép thanh, giấy đế, tinh bột sắn, cồn công nghiệp, quặng Graphit, đá trắng, cao lanh, bột đá trắng…

Tuy nhiên, trước đây khi chưa có Chi cục Hải quan, các doanh nghiệp phải tốn kém nhiều thời gian, chi phí làm thủ tục vì phải thực hiện tại các đơn vị cách xa cơ sở sản xuất như: Hải Phòng, Lào Cai, hay Phú Thọ. Do vậy, nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện xuất nhập khẩu trực tiếp mà phải bán lại cho các doanh nghiệp khác ở những nơi có điều kiện thuận lợi hơn. Điều này đã phần nào hạn chế hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư trên địa bàn.

Ngày 12/3/2012, Cục Hải quan thành phố Hà Nội đã công bố quyết định của Bộ Tài chính thành lập Chi cục Hải quan Yên Bái (thuộc Cục Hải quan thành phố Hà Nội). Sau một thời gian đi vào hoạt động, giá trị kim ngạch xuất khẩu được khai báo tại Chi cục Hải quan đã tăng lên đáng kể và ngày càng có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh quan tâm đăng ký thông quan tại đây. N

ếu trong tháng 6/2012 giá trị xuất khẩu hàng hóa qua Chi cục Hải quan mới chỉ đạt 2,3 triệu USD với 11/30 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh xuất khẩu khai báo thì đến tháng 8 giá trị tổng kim ngạch đã tăng lên hơn 5,7 triệu USD với 15/30 doanh nghiệp Yên Bái xuất khẩu, số thuế thu về cho Nhà nước đạt gần 5 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Viết Quân - Giám đốc Công ty cổ phần Kinh doanh, Chế biến lâm sản xuất khẩu Yên Bái cho biết: Trước đây, doanh nghiệp khai báo tại Chi cục Hải quan Phú Thọ phải đi lại mất nhiều thời gian, đôi khi doanh nghiệp phải đi lại nhiều lần mới hoàn tất thủ tục theo qui định. Từ khi Hải quan Yên Bái đi vào hoạt động, Công ty đã rút ngắn được thời gian khai báo Hải quan, tiết kiệm chi phí, được hướng dẫn, hỗ trợ thủ tục hải quan điện tử, tra cứu mã hàng hóa, các loại thuế xuất, nhập khẩu liên quan đến ngành hàng doanh nghiệp kinh doanh, thuận lợi trong kiểm hóa... Tính hết tháng 8, Công ty đã thông quan qua Chi cục Hải quan Yên Bái 683,3 ngàn USD.

Còn theo ông Đoàn Nghĩa - Giám đốc Công ty cổ phần Sản xuất Xuất nhập khẩu Yên Phú, từ đầu năm đến nay, Công ty bắt đầu xuất khẩu mặt hàng gỗ sang thị trường Hàn Quốc.

Dưới sự giúp đỡ của Chi cục Hải quan Yên Bái, Công ty đã được hỗ trợ cài đặt phần mềm khai báo hải quan điện tử, giúp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Đến hết tháng 8, giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã đạt hơn 100 ngàn USD. Ngoài các doanh nghiệp trên, các công ty như: Công ty cổ phần Mông Sơn, Công ty liên doanh canxi cacbonnat YBB, Công ty TNHH đá cẩm thạch RK, Công ty phát triển số 1... cũng đã tích cực khai báo hải quan tại

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 8

Chi cục Hải quan Yên Bái và có giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt tương đối lớn.

Tuy nhiên, so với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu 28,2 triệu USD (8 tháng đầu năm), giá trị kim ngạch xuất khẩu thông quan tại Chi cục Hải quan Yên Bái còn rất khiêm tốn, mới chỉ đạt 20,17% và chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế xuất khẩu của tỉnh.

Bên cạnh đó, qua số liệu thống kê giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng năm cho thấy cơ cấu giá trị kim ngạch xuất khẩu hầu như không thay đổi qua các năm, mặt hàng khoáng sản vẫn chiếm tỷ trọng 35% đến 40% tổng giá trị trong khi các mặt hàng khác có thế mạnh của tỉnh như sản phẩm chè, quế vỏ, gỗ rừng trồng chế biến... chiếm tỷ trọng rất ít, vì phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành hàng này chưa xây dựng được thương hiệu, sản xuất nhỏ, thị trường xuất khẩu không ổn định.

Để giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, tăng cường xuất khẩu, các cấp, ngành cần xây dựng nhiều chương trình để hỗ trợ doanh nghiệp như tổ chức hội thảo tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh theo nội dung Nghị quyết số 13/NQ-CP; tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia tìm hiểu, khảo sát, tìm kiếm, phát triển thị trường xuất khẩu tại các địa phương khác.

Sở Công Thương phải thường xuyên phối hợp với Cục Thương mại điện tử (TMĐT), Cục Công nghiệp địa phương và Cục Xúc tiến thương mại - Bộ Công Thương tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng về thương mại điện tử, pháp luật về TMĐT và giao dịch TMĐT; giới thiệu một số đoàn doanh nghiệp nước ngoài đến tìm hiểu cơ hội hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp Yên Bái, đồng thời cũng thường

xuyên đưa ra các thông tin cảnh báo cho các doanh nghiệp về hoạt động lừa đảo trong giao dịch TMĐT quốc tế...

Có thể nói việc thành lập Chi cục Hải quan tại Yên Bái là một chủ trương đúng đắn, hỗ trợ kịp thời cho hoạt động xuất khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp trong tỉnh, tạo bước đi cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận trực tiếp với hải quan, đồng thời giúp doanh nghiệp Yên Bái tiến tới giảm dần hoạt động ủy thác xuất khẩu và bán hàng qua trung gian, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu cho chính các doanh nghiệp.

Theo YBĐT

Thực hiện tốt chính sách giãn, giảm thuế

Hiện toàn tỉnh có gần 1.300 DN và hợp tác xã đang hoạt động thì có tới 15% DN tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể, 55% DN sản xuất cầm chừng.

Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh (SXKD), hỗ trợ thị trường, trong đó có các giải pháp về thuế có thể coi như một “liều thuốc bổ” tăng cường “sức khoẻ” cho DN.

Để thực hiện tốt Nghị quyết này, Cục Thuế Yên Bái đã khẩn trương triển khai nhiều biện pháp để đảm bảo 100% doanh nghiệp (DN) trong diện được hưởng ưu đãi theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ được giãn, giảm thuế.

Toàn tỉnh có hơn 1200 DN vừa và nhỏ (chiếm 97%) thuộc diện được giảm, gia hạn nộp thuế theo Nghị quyết 13 với số tiền ước tính khoảng 70 tỷ đồng, còn lại hơn 50 đơn vị (chiếm 3%) là DN lớn, DN

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 9

hoạt động trong lĩnh vực xổ số, ngân hàng, bảo hiểm và các tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp không thuộc đối tượng gia hạn.

Theo ước tính của Cục Thuế, thực hiện Nghị quyết số 13 và các chính sách giãn, giảm thuế khác, năm 2012 toàn tỉnh sẽ giảm thu khoảng 130 tỷ đồng, chiếm 11,8% so với dự toán thu ngân sách tỉnh giao. Số tiền này sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho DN nhưng lại là một áp lực rất lớn trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành thuế.

Trong đó, bình quân mỗi tháng có khoảng 400 DN vừa và nhỏ có phát sinh số thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải nộp được gia hạn 6 tháng. Số tiền thuế GTGT được gia hạn của 3 tháng 4, 5, 6 năm 2012 ước khoảng 50 tỷ đồng; giãn 1 tháng thuế GTGT phát sinh phải nộp của tháng 6 chậm nộp đến ngày 20/01/2013 khoảng 20 tỷ đồng; giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) 3 quý đầu năm cho các đối tượng được ưu đãi theo Nghị quyết 08/2011/QH13 hơn 9 tỷ đồng; gia hạn 9 tháng thuế TNDN của năm 2010 trở về trước của hơn 100 DN và gia hạn 9 tháng thuế TNDN phải nộp của năm 2011 của gần 600 DN khoảng 16 tỷ đồng; giảm 50% tiền thuê đất đối với DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ đang thuê đất hàng năm trong năm 2012 ước khoảng 3 tỷ đồng.

Để triển khai Nghị quyết 13 đúng lộ trình, đúng đối tượng, Cục Thuế đã chỉ đạo các phòng chuyên môn, các chi cục thuế rà soát, phân loại, xác định đối tượng được giảm, gia hạn thuế và lập danh sách các DN được hưởng chính sách giãn, giảm thuế theo quy định; tổ chức hội nghị đối thoại với người nộp thuế, vừa tuyên truyền

phổ biến chính sách, vừa kịp thời giải đáp vướng mắc mà người nộp thuế đưa ra, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế khai thuế đúng quy định. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông báo cho các DN đủ điều kiện được hưởng chính sách giãn, giảm thuế.

Những biện pháp triển khai thực hiện Nghị quyết đã được Cục Thuế tỉnh nỗ lực thực hiện nhằm làm cho lợi ích từ chính sách nhanh chóng đi vào cuộc sống, góp phần tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho DN ổn định SXKD. Thực hiện tốt Nghị quyết số 13 và các chính sách giãn, giảm thuế khác đã giúp DN có vốn bổ sung vào hoạt động SXKD, hạn chế vay vốn ngân hàng, góp phần giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm và tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường.

Tuy nhiên, cộng đồng các DN trong tỉnh cũng cần phải nỗ lực hơn nữa mới có thể khắc phục được những khó khăn để tự cứu mình và trụ vững để phát triển ổn định, bền vững. Đồng thời, tranh thủ sự chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh trong việc ưu tiên những công trình, dự án triển khai trong năm 2012 cho các DN địa phương thi công như: đề án xây dựng đường giao thông nông thôn, đề án giao đất giao rừng, chủ trương tiêu thụ hết sản phẩm do các DN địa phương sản xuất ra như gạch, xi măng, cát, sỏi, đá... nhằm tạo việc làm cho lao động địa phương, tăng tích luỹ và đóng góp cho ngân sách Nhà nước.

Theo YBĐT

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 10

Thị trường hàng hóa thành phố Yên Bái tuần từ 10-14/9/2012 Qua khảo sát thị trường vật liệu xây dựng trên địa bàn thành phố Yên Bái tuần qua.

Mặc dù giá sắt thép đã liên tục điều chỉnh giảm tuy nhiên lượng cầu vẫn chững. Theo một số chủ cửa hàng, đại lý trên địa bàn, từ đầu năm đến nay lượng tiêu thụ giảm đáng kể so với năm trước, mặc dù giá liên tục giảm song sắt thép vẫn ế ẩm không tiêu thụ được.

Trong tuần qua giá sắt tiếp tục được điều chỉnh giảm mạnh so với tuần trứoc. Cụ thể: Sắt φ 6-8 Hòa Phát:16.100 đ/kg giảm 100đ/kg, Sắt φ 10 Hòa Phát 102.000 đ/cây giảm 1.000đ/cây, Sắt φ 12 Hòa Phát 1118.000 đ/cây giảm 40.000đ/cây, Sắt φ 14 Hòa Phát 157.000 đ/cây giảm 56.000đ/cây, Sắt φ 16 Hòa Phát 211.000 đ/cây gảm 70.000đ/cây, Sắt φ 18 Hòa Phát 279.000 đ/cây giảm 78.000đ/cây; Giá các loại xi măng ổn định hơn: Xi măng ChinFon Hải Phòng: 1.350.000 đ/tấn; Xi măng Yên Bái: 945.000 đ/tấn; Xi măng VINACONEX Yên Bình: 1.105.000 đ/tấn;

Dưới đây là diễn biến giá cả một số mặt hàng tại thành phố Yên Bái tuần qua Thị trường hàng hóa thành phố Yên Bái tuần từ 10-14/9/2012

Giá cả hàng hoá Mặt hàng ĐVT

03-07/9/2012 10-14/9/2012 Chênh lệch

I/ Hàng lương thực - thực phẩm - Thóc tẻ đ/kg 6.000-7.000 6.000-7.000 - Gạo tẻ thường đ/kg 13.000-14.000 13.000-14.000 - Gạo tẻ ngon đ/kg 15.000-16.000 15.000-16.000 - Gạo nếp ngon Điện Biên đ/kg 22.000-23.000 22.000-23.000 - Gạo nếp tú lệ đ/kg 31.000-32.000 31.000-32.000 - Thịt bò loại I đ/kg 190.000-200.000 190.000-200.000 - Đỗ xanh đ/kg 40.000 40.000 - Thịt trâu ngon đ/kg 190.000-200.000 190.000-200.000 - Thịt gà hơi đ/kg 110.000-120.000 110.000-120.000 - Thịt gà mổ sẵn đ/kg 140.000 –150.000 140.000 –150.000 - Thịt lợn hơi đ/kg 38.000- 40.000 38.000- 40.000 - Thịt nạc thăn đ/kg 90.000-95.000 90.000-95.000 - Thịt mông sấn đ/kg 80.000-85.000 80.000-85.000 - Muối I ốt Đ/kg 3.500 3.500 II/ Hàng vật liệu xây dựng - Sắt φ 6-8 Hòa Phát Đ/kg 16.200 16.100 -100 - Sắt φ 10 Hoà Phát Đ/cây 103.000 102.000 -1.000 - Sắt φ 12 Hoà Phát " 158.000 118.000 -40.000

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 11

TIN TRONG NƯỚC Lạm phát bào mòn sản xuất công nghiệp

ản xuất công nghiệp - đầu tàu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế - vẫn

tiếp tục xu hướng tăng trưởng chậm lại, do khó khăn cả ở đầu vào và đầu ra.’

Sản xuất công nghiệp tăng trưởng chậm lại

Tăng trưởng sản xuất công nghiệp trong 8 tháng đầu năm có một số điểm đáng lưu ý như sau:

Thứ nhất, so với cùng kỳ, tăng trưởng sản xuất công nghiệp tháng 8 thấp hơn mức tăng trưởng chung của 8 tháng, nên tăng

trưởng của 8 tháng thấp hơn so với tăng trưởng của 7 tháng (4,7% so với 4,8%). Điều đó cũng có nghĩa là, tăng trưởng công nghiệp vẫn có xu hướng chậm lại, chưa thực sự thoát đáy để đi lên.

Thứ hai, trong vài chục năm qua, công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng chung của toàn bộ nền kinh tế, có tỷ trọng trong GDP cao nhất so với các ngành, nên đã trở thành động lực và đầu tàu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.

Nay tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành này thấp, trong khi tốc độ tăng của chi phí trung gian cao lên, nên tốc độ tăng giá trị tăng thêm của công nghiệp bị thấp

S

- Sắt φ 14 Hoà Phát " 213.000 157.000 -56.000 - Sắt φ 16 Hoà Phát " 281.000 211.000 -70.000 - Sắt φ 18 Hoà Phát " 357.000 279.000 78.000 -Xi măng ChinFon Hải Phòng Đ/tấn 1.350.000 1.350.000 - Xi măng Yên Bái " 945.000 945.000 - Xi măng VINACONEX Yên Bình

" 16.750 1.105.000

III/ Hàng công nghệ phẩm - Đường tinh luyện XK Đ/kg 21.000 - 22.000 21.000 - 22.000 - Thuốc lá Vinataba Đ/Bao 15.000 15.000 IV/ Nhóm khí đốt hoá lỏng - Gas Petrolimex 12kg đ/bình 420.000 420.000 - Total gas 12 kg “ 469.000 469.000 - Gas Thăng Long “ 430.000 430.000 - Xăng A 95 Đ/lít 24.630 24.630 - Xăng A 92 " 24.120 24.120 - Dầu Diezel 0,05%S “ 22.280 22.280 - Dầu Diezel 0,25%S “ 22.230 22.230

Biểu trên chỉ có giá trị tham khảo

Nguồn: Sở Công Thương

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 12

xuống. Khi giá trị tăng thêm của công nghiệp tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP của toàn bộ nền kinh tế, thì tốc độ tăng GDP cũng thấp xuống theo.

Thứ ba, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của công nghiệp khai khoáng có tốc độ tăng cao hơn tốc độ chung, trong đó, khai thác dầu thô tăng khá cao (13,6%). Đây là một cố gắng để bù đắp cho sự sụt giảm của các ngành khai thác khác (than giảm 1,8%, khí đốt tự nhiên giảm 2,5%...).

Thứ tư, IIP của công nghiệp chế biến tăng thấp nhất trong các ngành công nghiệp, trong khi ngành này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành công nghiệp.

Cần lưu ý rằng, tỷ trọng của công nghiệp chế biến trong GDP là một trong những ranh giới để xác định một nước nông nghiệp đã chuyển thành nước công nghiệp hay chưa. Ranh giới này, theo các chuyên gia, là khoảng 37%, trong khi hiện tại, tỷ trọng của công nghiệp chế biến trong GDP của nước ta mới đạt khoảng 22%.

Thứ năm, công nghiệp chế biến có khá nhiều ngành còn mang nặng tính gia công, mà sản xuất gia công có giá trị tăng thêm thấp, phụ thuộc vào nguyên nhiên vật liệu, phụ liệu nhập khẩu từ nước ngoài, nên vừa không chủ động về nguồn, vừa bị động, phụ thuộc vào giá cả thế giới. Đây chính là hạn chế, bất cập trong việc phát triển công nghiệp phụ trợ, trong việc thực hiện chủ trương nội địa hoá đã được đưa ra từ khá lâu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhập siêu kéo dài trong nhiều năm.

Tìm biện pháp gỡ khó cho doanh nghiệp Với hiện trạng của 8 tháng và các yếu tố

tác động trong thời gian tới, có thể dự báo, IIP cả năm 2012 sẽ tăng thấp hơn so với năm 2011 (ước tăng dưới 5,5% so với

6,8%), kéo theo GDP do ngành công nghiệp tạo ra cũng giảm theo (ước dưới 6% so với 7,4%), trong đó tăng trưởng của công nghiệp chế biến còn bị giảm sâu hơn (dưới 5% so với 8,3% của năm 2011).

Sự phục hồi chậm của ngành công nghiệp do nhiều nguyên nhân, trong đó, những hạn chế tiềm ẩn từ những năm trước nay bộc lộ rõ hơn, như vốn tự có thấp, vốn đi vay chiếm tỷ trọng lớn (không ít doanh nghiệp có vốn vay chiếm tới 70 - 80% tổng tài sản).

Trong khi đó, vốn huy động trên thị trường chứng khoán thấp, ngày một ít do thị trường chứng khoán tiếp tục lình xình và giảm điểm; vốn vay ngân hàng có lãi suất cao, thường cao hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp...

Đến nay, cơ cấu sản xuất chủ yếu là khai thác nguyên liệu thô hoặc chỉ mới sơ chế. Công nghiệp chế biến còn mang nặng tính gia công, vừa phụ thuộc vào nhập khẩu, vừa có giá trị gia tăng thấp. Năng suất lao động của công nghiệp chế biến năm 2011 chỉ đạt 70,1 triệu đồng/người, tương đương 3.500 USD - thuộc loại rất thấp trên thế giới.

Ngành công nghiệp đang rất khó khăn cả ở đầu ra và đầu vào. Nếu năm 2009, các doanh nghiệp còn có nguồn lực được tích luỹ từ những năm có tốc độ tăng trưởng cao, lại có nguồn kích cầu của Chính phủ thông qua việc cấp bù lãi suất, thì hiện nay, nguồn lực này đã bị bào mòn bởi mấy năm lạm phát cao, tích lũy bị cạn kiệt hơn, lãi suất cao, khó tiếp cận vốn.

Đầu ra cũng gặp khó khăn không kém, dẫn đến tồn kho tăng lên mức rất cao (tháng 8, hàng tồn kho của ngành công nghiệp chế biến tăng hơn 20%, trong đó một số lĩnh vực có tốc độ tăng rất cao, như sản xuất phân bón, sản xuất sản phẩm từ plastic, sản xuất

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 13

thiết bị truyền thông, xi măng, sản xuất pin - ắc quy, chế biến thuỷ sản, bia, hàng may mặc...).

Để thúc đẩy công nghiệp phát triển, cần tập trung vào các nguyên nhân, yếu tố làm cho công nghiệp tăng trưởng chậm, từ đó có những biện pháp cơ bản và lâu dài theo hướng cơ cấu lại sản xuất công nghiệp, phát triển công nghiệp hỗ trợ, giảm tính gia công, nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao năng suất lao động để tăng sức cạnh tranh khi xuất khẩu hoặc cạnh tranh với hàng ngoại nhập.

Trước mắt, cần khơi thông dòng vốn cho sản xuất, trong đó, điểm nghẽn nợ xấu cần được khẩn trương xử lý, thông qua các ngân hàng thương mại để cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, tiếp tục hạ lãi suất nợ cũ, cho vay mới; Chính phủ bảo lãnh tín dụng, thế chấp bằng hàng tồn kho...

Thực hiện khẩn trương các giải pháp tài chính theo Nghị quyết 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ để hỗ trợ doanh nghiệp; tập trung hơn và tăng liều lượng, nhất là các biện pháp liên quan đến thuế giá trị gia tăng, để các doanh nghiệp có thể giảm giá bán nhằm kích thích tiêu thụ.

Theo Báo Đầu tư

Xả Quỹ bình ổn và giảm thuế để níu giá xăng dầu

Theo thông cáo từ Bộ Tài chính, trước đề nghị tăng giá bán lẻ xăng dầu thêm 1.300 đồng/lít của các doanh nghiệp, để bình ổn giá thị trường, Liên Bộ Tài chính - Công Thương đã họp và thống nhất “không tăng, giữ ổn định giá bán lẻ tất cả các chủng loại xăng, dầu như hiện hành”. Để bù lỗ cho doanh nghiệp trong bối cảnh giá xăng dầu thế giới giữ ở mức cao, Bộ Tài chính điều chỉnh giảm 2% các loại thuế nhập khẩu dầu. Cụ thể, dầu diezel giảm từ

10% xuống 8%; dầu ma zút, dầu hoả từ 12% xuống 10%. Riêng thuế suất thuế nhập khẩu xăng được giữ như quy định hiện hành là 12%.

Bên cạnh đó, Bộ cho phép các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối được sử dụng Quỹ Bình ổn giá tính cho lượng xăng, dầu thực tế bán ra ở nhiệt độ thực tế đối với các mặt hàng xăng, dầu để bù đắp chênh lệch giữa giá cơ sở và giá bán hiện hành. Cụ thể như sau: Xăng: 500 đồng/lít; Dầu dieezel, dầu hoả, dầu mazút: 500đồng/lít,kg (tức tăng mức sử dụng Quỹ Bình ổn giá 200 đồng/lít,kg từ 300 đồng/lít lên 500 đồng/lít).

Thời điểm thực hiện sử dụng Quỹ Bình ổn giá áp dụng từ 20 giờ ngày 11/9/2012.

Thông cáo từ Bộ Tài chính cũng cho biết, về lợi nhuận định mức của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, theo quy định tại Nghị định 84/2009/NĐ-CP và các quy định hiện hành là 300 đồng/lít,kg. Trong điều kiện hiện nay thì tạm thời chưa tính lợi nhuận định mức này để chia sẻ cho người sản xuất và người tiêu dùng.

Cũng theo Bộ Tài chính, diễn biến giá xăng dầu thế giới gần đây tiếp tục có xu hướng biến động tăng, giảm bất thường. Theo quy định tại Nghị định 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, giá cơ sở tăng so với giá bán hiện hành là: So sánh giá xăng dầu thế giới bình quân 30 ngày (từ ngày 12/8/2012 đến ngày 10/9/2012) so với bình quân 30 ngày trước đó (từ ngày 13/7/2012 đến ngày 11/8/2012) tăng từ 6,16 % - 9,43 % tùy từng chủng loại xăng dầu.

Chênh lệch giữa giá cơ sở (mức giá chốt ngày 10/9/2012) so với giá bán hiện hành đối với mặt hàng xăng (A92) là: 895 đồng/lít; diezel 0,05S là 1.366 đồng/lít; dầu

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 14

hỏa là 1.415 đồng/lít; ma zút là 1.219 đồng/lít.

Do đó, phương án điều chỉnh trên là đã “cân nhắc các giải pháp tài chính để điều hành kinh doanh xăng dầu, thực hiện nhất quán quan điểm điều hành kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo hài hòa lợi ích của người tiêu dùng và doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu; trên cơ sở nguyên tắc tính toán giá cơ sở theo các quy định hiện hành”.

Theo Dân Trí

Gỡ khó cho doanh nghiệp vật liệu xây dựng

Thời gian gần đây, mặc dù đã có chuyển biến nhưng các doanh nghiệp (DN) xây dựng cũng như sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD) vẫn gặp nhiều khó khăn, nguy cơ đóng cửa một số nhà máy là rất lớn. Ðể duy trì sản xuất, các DN VLXD cần chủ động điều tiết sản xuất, đẩy mạnh bán hàng, giảm lượng tồn kho...; đồng thời cần sự chung tay giúp sức từ các chính sách hỗ trợ của các bộ, ngành liên quan.

Sản phẩm tồn đọng, công nhân thiếu việc làm

300 công nhân của Công ty CP xi-măng Hữu Nghị (Khu công nghiệp Thụy Vân, Phú Thọ) đã phải nghỉ việc luân phiên từ cuối năm 2011. Nhà máy công suất một triệu tấn clanh-ke/năm của công ty hiện chỉ còn duy trì hoạt động một lò, hai lò còn lại phải tạm dừng. Trợ lý sản xuất Tổng Giám đốc Công ty CP xi-măng Hữu Nghị (Phú Thọ) Phan Văn Lộc cho biết, với tình hình tiêu thụ xi-măng bi đát như hiện nay thì công ty chỉ có thể hoạt động cầm chừng (chạy 30% công suất), không dám để lượng hàng tồn kho quá lớn bởi đặc thù của sản phẩm xi-măng là, nếu để hàng tồn kho quá lâu thì xi-măng sẽ

bị vón cục, trở thành phế phẩm, lúc đó muốn đổ đi cũng không có chỗ để đổ.

Không chỉ xi-măng, nhiều mặt hàng VLXD khác cũng lâm vào tình trạng tương tự. Thép Việt - Sing (NSV) của Công ty TNHH NatSteelVina (Thái Nguyên) cũng đang phải đối mặt với khó khăn không tiêu thụ được sản phẩm. Năm 2011, công ty vừa nâng cấp dây chuyền sản xuất nâng tổng công suất cán thép lên 250 nghìn tấn/năm, thế nhưng đến nay, dây chuyền sản xuất này chỉ hoạt động năm ngày/tháng với mục tiêu duy nhất là cố gắng duy trì sản phẩm trên thị trường để thương hiệu không bị "mất hút". Hơn 200 công nhân của công ty đã phải nghỉ chờ việc từ nhiều tháng nay, nhưng công ty vẫn phải "gồng mình" duy trì 70% lương hằng tháng cho công nhân. Cứ tình trạng này kéo dài, chắc chắn DN này không thể trụ vững.

Theo thống kê của Hội Vật liệu xây dựng, tình hình tiêu thụ VLXD từ đầu năm đến nay giảm mạnh. Nhiều đơn vị đã phải dừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng, thậm chí một số đơn vị đang bên bờ vực phá sản. Tình hình đầu tư, sản xuất đều ách tắc, theo quy hoạch sẽ có khoảng năm dự án xi-măng đưa vào sản xuất trong năm nay nhưng đến thời điểm này mới chỉ có một dự án đi vào hoạt động là Xi-măng Hà Tiên 2-2. Ðến cuối tháng 8, sản phẩm tồn kho của Tổng công ty Công nghiệp Xi-măng Việt Nam (Vicem) ước khoảng 1,2 triệu tấn, trong khi xuất khẩu cũng đang gặp nhiều khó khăn do có nhiều đơn vị cùng tìm hướng xuất khẩu, dẫn đến cạnh tranh phá giá, làm cho hoạt động xuất khẩu bị rối loạn.

Trong khi đó, ngành sản xuất đá ốp lát với gần 2.000 cơ sở lớn với hơn 60 nghìn lao động, năng lực sản xuất 10 triệu m3 sản phẩm/năm nhưng hiện tại còn 50% số lao

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 15

động không có việc làm. Con số tồn kho đầu năm 2012 của ngành gốm sứ xây dựng đã tăng lên 20% (tính cả lượng tồn kho lũy kế tại các đơn vị sản xuất và cả tồn kho từ các đại lý chưa bán hàng tới người tiêu dùng) với hơn 40 triệu m2 gạch ốp lát và hơn một triệu sản phẩm sứ vệ sinh, tương đương hơn 3.000 tỷ đồng. Chủ tịch Hiệp hội Gốm sứ xây dựng Ðinh Quang Huy cho biết: Ngành gốm sứ xây dựng hiện chỉ khai thác 70% công suất thiết kế, sức mua thị trường sụt giảm từ cuối năm 2011. Phần lớn các đơn vị đều dừng sản xuất từ một đến hai tháng, một phần để bảo dưỡng máy móc, nhưng chủ yếu do hàng tồn đọng, sức mua sụt giảm nghiêm trọng, giá bán không tăng được trong khi các chi phí đầu vào đều tăng cao và chắc chắn khó có lợi nhuận trong năm nay.

Cùng chung hoàn cảnh, sản phẩm kính xây dựng cũng đang bế tắc. Tổng Thư ký Hiệp hội Kính Việt Nam Nguyễn Văn Chung cho biết: Từ đầu năm đến nay, mức độ tiêu thụ kính giảm rõ rệt. Ðối với sản xuất kính nổi mặc dù đã tiết giảm sản xuất nhưng lượng tồn kho vẫn tăng cao do tiêu thụ khó khăn. Cụ thể, lượng sản xuất của bốn nhà máy kính nổi trong nước chỉ đạt 90% công suất (tương đương 273 nghìn tấn), nhưng tiêu thụ chỉ đạt 191 nghìn tấn, tương đương 70% lượng sản xuất, tồn kho đến cuối tháng 6 khoảng 264 nghìn tấn, tương đương 5,2 tháng sản xuất. Kính nổi đã vậy, còn kính gia công cũng giảm mạnh về lượng tiêu thụ như kính cường lực và kính dán an toàn ước tính giảm khoảng 40-45% so với cùng kỳ. Ðặc thù của ngành sản xuất kính là phải sản xuất liên tục, sản phẩm tồn kho cao đồng nghĩa với việc phải giảm công suất, thu hồi sản phẩm để tái sản xuất, gây thiệt hại lớn cho DN. Trong trường hợp buộc phải dừng sản xuất thì khi tái khởi

động dây chuyền phải chi phí hàng chục tỷ đồng. Ðối với những vật liệu xây không nung như gạch bê-tông khí chưng áp được hưởng nhiều cơ chế ưu đãi, hỗ trợ nhưng tại thời điểm này cũng đang gặp khó khăn. Hiện cả nước có 12 nhà máy sản xuất bê-tông khí chưng áp với công suất thiết kế 1,5 triệu m2 nhưng mới chỉ hoạt động khoảng 15% công suất thiết kế và lượng tiêu thụ cũng khoảng tương đương.

Một trong những ngành có lượng hàng tồn kho tương đối lớn hiện nay là thép xây dựng. Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) Nguyễn Tiến Nghi cho biết, đến tháng 8, các DN sản xuất thép còn tồn kho khoảng 350 nghìn tấn. Ông Nghi đánh giá, lượng tiêu thụ thời gian qua rất thấp, giảm khoảng 70 - 90 nghìn tấn so mức tiêu thụ bình quân hằng năm. Ðiều đáng ngại nhất hiện nay là thép đang rơi vào tình trạng khó tiêu thụ, mặc dù giá chững ở mức thấp (dưới 15 triệu đồng/tấn chưa bao gồm thuế VAT) nhưng vẫn không tiêu thụ được. Trong tám tháng qua, cả sản xuất và tiêu thụ thép đều giảm 8 đến 9% so cùng kỳ, hiện tại lãi suất ngân hàng tuy giảm nhưng DN thép cũng không dám vay do sản xuất bị ngưng trệ, tiêu thụ chậm. Với tình hình tiêu thụ thép khó khăn, nhiều tháng nay, phần lớn các DN sản xuất thép đã phải cắt giảm sản xuất, một số DN phải tạm đóng cửa nhà máy.

Cần nhiều giải pháp đồng bộ Phải nói rằng, tình hình khó khăn của

các DN sản xuất VLXD cũng nằm trong khó khăn chung của toàn nền kinh tế. Theo các chuyên gia, có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như: Chính phủ thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát như cắt giảm đầu tư công, các chi phí đầu vào tăng cao, thị trường bất động sản ảm đạm..., Tuy

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 16

nhiên trong đó cũng có một phần nguyên nhân chủ quan, đó là khả năng quản trị kinh doanh cũng như năng lực tài chính của các DN yếu kém. Ðã đến lúc cần có những giải pháp cụ thể, mạnh mẽ, đồng bộ từ chính các DN cũng như từ các bộ, ban, ngành liên quan, nhằm cùng chung sức tháo gỡ khó khăn, giúp DN vượt qua giai đoạn này.

Trước hết, các DN sản xuất VLXD cần chủ động triển khai giải pháp tăng cường tiêu thụ sản phẩm, giảm lượng hàng tồn kho bằng các hình thức bán hàng linh hoạt. Tập trung triển khai tái cấu trúc DN, đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, giảm bớt các chi phí trung gian, từng bước hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh. Các DN cũng như các hiệp hội VLXD mong muốn Chính phủ và các bộ, ngành sớm ban hành những chính sách phù hợp, nhằm từng bước phục hồi thị trường bất động sản, nới lỏng đầu tư công, giảm lãi suất và xử lý về thuế... Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam Trần Văn Huynh cho rằng, Nhà nước cần có chính sách kích cầu xây dựng, tạo thị trường để tiêu thụ các loại VLXD, đồng thời có chế tài mạnh hơn, khuyến khích các nhà thầu và chủ đầu tư sử dụng vật liệu trong nước theo phương châm "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam". Ðẩy mạnh chương trình vật liệu không nung, chương trình chế tạo thiết bị trong nước cùng với rà soát lại quy hoạch VLXD, quy hoạch xi-măng, xây dựng chiến lược xuất khẩu VLXD. Chủ tịch Hiệp hội Xi-măng Nguyễn Văn Thiện cho biết, đến nay, thị trường trong nước tiêu thụ giảm từ 8 đến 10% so cùng kỳ, đề nghị Chính phủ giảm thuế VAT cho xi-măng từ 10% xuống 5%, đồng thời điều chỉnh giá bán than cho xi-măng ở mức hợp lý và nới rộng hạn mức cho vay đầu tư xi-măng, đẩy nhanh các chương trình, dự án đầu tư làm đường giao

thông nông thôn và đường cao tốc sử dụng bê-tông xi-măng...

Một trong những giải pháp đang được nhiều DN mong đợi là việc đẩy nhanh giải ngân vốn cho các dự án đầu tư công. Cùng với đẩy nhanh giải ngân vốn, việc tích cực triển khai Chương trình phát triển nhà ở đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, là bước khởi đầu tích cực tạo đà phá vỡ thế bế tắc đối với việc tiêu thụ các loại VLXD. Bộ trưởng Xây dựng Trịnh Ðình Dũng khẳng định: Trong lĩnh vực VLXD, Bộ sẽ nghiên cứu, tham mưu đề xuất để Thủ tướng Chính phủ có chính sách tháo gỡ khó khăn với những giải pháp cụ thể. Ðồng thời rà soát các quy hoạch sản xuất VLXD, trong đó có việc kiểm tra thực hiện các quy hoạch, dự án... Trong khi chờ đợi những chính sách tháo gỡ từ phía Nhà nước, trước mắt các DN sản xuất, kinh doanh VLXD cần chủ động trong việc tái cấu trúc lại DN, tìm hướng đi mới cho đơn vị mình.

Theo Nhân dân

Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế xuất khẩu than xuống 10%

Ngày 10/9, Bộ Tài chính đã có công văn số 12208 báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đề xuất biện pháp giảm thuế xuất khẩu than từ 20% xuống 10% nhằm tháo gỡ khóa khăn cho doanh nghiệp.

Theo Bộ Tài chính, để tháo gỡ khó khăn cho Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam, trên cơ sở tính toán về lợi ích của việc giảm thuế xuất khẩu than tương ứng với giá bán trong 4 tháng cuối năm 2012, Bộ Tài chính thấy rằng nếu giảm mức thuế xuất khẩu từ 20% xuống 10%, Tập đoàn sẽ xuất khẩu được với sản lượng dự kiến là 6,5 triệu tấn.

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 17

Việc điều chỉnh giảm thuế xuất khẩu ngoài việc tạo điều kiện cho Tập đoàn tăng số lượng than xuất khẩu, giảm tồn kho; Tập đoàn không phải tạm ngừng sản xuất, giải quyết được việc làm cho người lao động, không gây ảnh hưởng đến đời sống và an toàn xã hội của công nhân ngành than và người dân vùng mỏ - khoảng 11 vạn người, thu ngân sách nhà nước cũng sẽ tăng do lượng than tồn kho sẽ xuất khẩu được, Tập đoàn cũng cân đối được tài chính để thực hiện được việc đầu tư để sản xuất than theo kế hoạch. Khi thị trường phục hồi và giá than thế giới tăng thì điều chỉnh tăng thuế xuất khẩu than cho phù hợp.

Bộ này cho biết, trong 7 tháng năm 2012, Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam tiêu thụ được 21,8% triệu tấn (trong nước 14,6 triệu tấn, xuất khẩu 7,2 triệu tấn) bằng 47,9% kế hoạch năm. Tồn kho tính đến ngày 31/7/2012 tồn trên 9 triệu tấn.

Nguyên nhân chủ yếu là do lượng than tiêu thụ trong nước giảm mạnh (do tăng trưởng kinh tế chậm); giá than xuất khẩu giảm (do suy giảm kinh tế toàn cầu). Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam đã tiết giảm chi phí nhưng do giá xuất khẩu giảm nên với mức thuế xuất khẩu 20% thì giá thành than xuất khẩu cao hơn giá bán nên Tập đoàn không xuất khẩu được.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm các nước có sản lượng sản xuất than lớn trên thế giới cũng đã có chính sách giảm thuế nhằm tăng lượng xuất khẩu than tại các nước này. Chẳng hạn như Indonessia (sản xuất khoảng 340 triệu tấn/năm, xuất khẩu khoảng 280 triệu tấn/năm) thuế xuất khẩu là 0%; Úc (sản lượng tương đương Indonessia) thuế xuất khẩu 0%; Trung quốc (sản xuất trên 3 tỷ tấn/năm, vừa xuất khẩu và nhập khẩu than hàng trăm triệu tấn/năm), thuế

xuất khẩu than 10%; Mông Cổ thuế suất thuế xuất khẩu than tối đa không quá 7%; Nga thuế xuất khẩu 5%.

Dự báo, giá than thế giới tiếp tục có xu hướng giảm do kinh tế thế giới chưa phục hồi, cung về than vượt cầu. Vì vậy, nếu duy trì mức thuế suất thuế xuất khẩu than là 20% thì Tập đoàn sẽ không thể xuất khẩu được than.

Theo HNMO

Vạch rõ sai phạm trong kinh doanh xăng dầu

Theo nhận định của Bộ Công Thương, hoạt động kinh doanh xăng dầu thời gian qua diễn biến phức tạp do cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan, đồng thời kiến nghị giải pháp khắc phục thời gian tới.

8 tháng đầu năm 2012, lực lượng QLTT đã kiểm tra 5.655 trường hợp, xử lý 933 vụ vi phạm. Trong đó, vi phạm về điều kiện kinh doanh là 321 vụ; 40 vụ vi phạm về giá; 5 vụ vi phạm về cắt giảm về thời gian bán hàng… Đáng chú ý, có tới 154 vụ vi phạm về đăng ký hệ thống phân phối, mua xăng dầu ngoài hệ thống phân phối và tự tháo niêm phong cột bơm. Tổng số tiền phạt vi phạm hành chính lên tới hơn 6 tỷ đồng.

Nhức nhối nhất là tháng 8, tháng có 2 đợt tăng giá xăng dầu. Trước mỗi thời điểm tăng giá (khoảng 4 – 5 ngày), tình hình thị trường lại diễn biến “nóng”. Nhiều cửa hàng bán hàng cầm chừng hoặc ngừng bán hàng gây bức xúc cho người tiêu dùng. Cụ thể: đợt tăng giá xăng dầu ngày 13/8, đã có 82 cửa hàng đóng cửa hoặc cắt giảm thời gian bán hàng; đợt tăng ngày 28/8, có 138 cửa hàng đóng cửa hoặc cắt giảm thời gian bán hàng trên địa bàn 25 tỉnh, thành phố. Địa phương có số cửa hàng xăng dầu ngừng bán hàng và giãn thời gian bán hàng lớn nhất là Bình Dương với 33 cửa hàng, tiếp đó là

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 18

Đồng Nai 23 cửa hàng; Hà Nội 22 cửa hàng… Tổng số đã có 220/khoảng 12.000 cửa hàng xăng dầu ngừng bán.

Trong số các cửa hàng ngừng bán, không ít cửa hàng gian dối để thu lời qua việc tăng giá hay hạn chế lỗ do hoa hồng giảm. Theo điều tra của lực lượng QLTT, muôn vàn lý do ngừng bán được các cửa hàng đưa ra. 136 cửa hàng kêu hết xăng bởi đầu mối (tổng đại lý hoặc đại lý) không cung cấp hàng. 25 cửa hàng nghỉ bán hàng từ trước do kinh doanh thua lỗ, bán cửa hàng hay sửa chữa mặt bằng. Ngoài ra, còn nhiều nguyên nhân khác: mất điện, gia đình chủ cây xăng có việc hỷ; do tranh chấp hợp đồng với đơn vị cung ứng…

Ông Đào Minh Hải- Phó Cục trưởng Cục QLTT- cho biết thêm, một số đại lý, tổng đại lý tìm cách xuất hàng ít nhất có thể thông qua việc siết chặt các điều khoản của hợp đồng về: số lượng, tiến độ cũng như phương thức đặt hàng, giao hàng… Điều chỉnh mức hoa hồng xuống thấp, thậm chí còn khoảng 50-100 đồng/lít. Thời gian từ khi DN đăng ký giá bán lẻ xăng dầu đến lúc nhận được ý kiến của cơ quan có thẩm quyền khoảng 4-5 ngày. Dẫn đến tâm lý chung là chờ tăng giá để kiếm lời. Cơ quan quản lý nhà nước chưa kiểm soát, quản lý chặt chẽ hệ thống.

Tại báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương khẳng định, sẽ phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu, rà soát, chỉnh sửa thông tư số 36/2009/TT-BCT về quy chế đại lý kinh doanh xăng dầu; chỉnh sửa Thông tư số 234/2009/TT-BTC hướng dẫn cơ chế hình thành, quản lý và sử dụng quỹ bình ổn giá xăng.

Bộ Công Thương kiến nghị Chính phủ rút ngắn thời gian từ khi DN đầu mối xin tăng giá đến khi có ý kiến của cơ quan quản

lý là 2 ngày (kể cả ngày nghỉ). Vì trong thời gian qua, thông tin DN đầu mối đề xuất tăng giá được công khai sớm (trước tăng giá 5- 7 ngày), đã tạo điều kiện cho một số đối tượng giữ hàng nhằm kiếm lời bất chính.

Theo Báo Công Thương

Tạm ngừng nhập máy móc, dây chuyền… lạc hậu từ Trung Quốc

Sau khi thống nhất với Cộ Công Thương, Bộ Tài chính (Tổng Cục Hải quan), Bộ Khoa học và Công nghệ đã có thông báo số 2527 về việc tạm ngừng nhập khẩu nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng mà cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc đã công bố loại bỏ.

Việc tạm ngừng này nhằm ngăn chặn thải ra các máy móc, thiết bị… cũ, lạc hậu từ 2.255 doanh nghiệp của Trung Quốc do đã sử dụng những công nghệ, thiết bị, máy móc cũ… thuộc 18 ngành nghề như: sản xuất thép hợp kim, than luyện, sản xuất canxi cacbua, sợi hoá học, ximăng, kính phẳng, sản xuất giấy, rượu – cồn, bột ngọt, thuộc da, nhuộm vải, in…

Thông báo trên còn đề nghị từ ngày 15.9, bộ Tài chính chỉ đạo tổng cục Hải quan cho phép thông quan các lô hàng máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng có xuất xứ từ Trung Quốc nếu được bộ Khoa học và công nghệ xác nhận không thuộc nhóm máy móc, thiết bị… nhập khẩu theo 18 ngành nghề nói trên.

Theo Báo Công Thương

Tiếp tục đẩy mạnh việc kê khai thuế qua mạng

Tổng cục Thuế cho biết, trong năm 2012, ngành Thuế đã và đang tiếp tục đẩy mạnh công tác khai thuế qua mạng tại 63 cục thuế địa phương với mục tiêu phấn đấu đến năm 2013 sẽ có khoảng 200.000 doanh

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 19

nghiệp tham gia kê khai thuế qua hình thức này.

Việc kê khai thuế qua mạng là xu hướng phát triển tất yếu của công cuộc cải cách, hiện đại hóa ngành Thuế. Nhờ việc kê khai thuế qua mạng các doanh nghiệp có thể khai thuế ở bất cứ đâu và gửi tờ khai vào tất cả các ngày kể cả ngày lễ, tết, thứ Bảy, Chủ nhật.

Theo thống kê của Tổng cục Thuế, năm 2011, số doanh nghiệp đăng ký nộp tờ khai qua mạng đạt 86.000. Trong thời gian tới, ngành Thuế sẽ tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nâng cấp dịch vụ kê khai thuế qua mạng để cung cấp các dịch vụ điện tử tốt hơn cho người nộp thuế. Mặt khác, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp khi phát sinh, vướng mắc về khai thuế và tạo thuận lợi cấp phép cho các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ khai thuế điện tử.

Được biết, hiện có 7 đơn vị được Tổng cục Thuế cấp phép triển khai dịch vụ kê khai thuế qua mạng là FPT, Vietel, VNPT, Setech, Thái Sơn, Công ty 24, BIKV. Theo kế hoạch trong thời gian tới, Tổng cục Thuế sẽ mở rộng nhà cung cấp nhằm giải quyết những vấn đề nghẽn mạng đường truyền, dịch vụ hỗ trợ khi gặp trục trặc, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh để từ đó dịch vụ kê khai thuế qua mạng ngày càng tốt hơn./.

Theo CPV

THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA Giá gas sẽ tăng ít nhất 20.000 đồng/bình

heo các hãng gas trong nước, gas thế giới hiện đang được chào bán

với giá 1.000 USD/tấn, tăng 50 USD/tấn so với mức giá công bố hồi đầu tháng 9-2012.

Nếu mức giá này giữ cho đến cuối tháng, các doanh nghiệp gas trong nước sẽ điều chỉnh giá bán lẻ tăng tương ứng khoảng 15.000 đồng/bình 12 kg (đầu tháng 9, giá gas bán lẻ trong nước đã tăng 51.000 đồng, lên 418.000 đồng/bình 12 kg).

Cũng theo các công ty gas, Nhà máy Dinh Cố đã có thông tin về việc đấu thầu nguồn cung cấp gas với mức tăng hơn 20 USD/tấn chi phí premium (phí vận chuyển, lợi nhuận tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm). Mức phí này tăng cộng với giá gas thế giới tăng sẽ đẩy giá gas bán lẻ tăng ít nhất20.000 đồng/bình 12 kg.

Theo Kinh tế

Thực phẩm cuối năm: Không lo thiếu nguồn cung

Theo tính toán của Cục Chăn nuôi, hiện mỗi tháng, cả nước sản xuất được khoảng 220.000- 230.000 tấn thịt lợn, 50.000-60.000 tấn thịt gia cầm và sẽ cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước.

Những tháng cuối năm, nhất là vào dịp Tết âm lịch thì nhu cầu sẽ tăng lên so với bình thường khoảng 10 - 15%, giá cả các loại thực phẩm cũng sẽ tăng từ 10 – 20%. Để đảm bảo nguồn cung, Bộ NN&PTNT đang tiếp tục chỉ đạo các địa phương tái phát triển đàn chăn nuôi ổn định, đặc biệt coi trọng công tác phòng chống dịch bệnh.

Ông Vũ Văn Quyền – Vụ trưởng vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương) cũng cho biết: Ngay từ tháng 5 – 6/2012, Bộ Công Thương đã phối hợp chặt chẽ với Bộ NN&PTNT theo dõi các vấn đề tái đàn và các chính sách liên quan. Vì vậy, đã có những chính sách kịp thời về vấn đề tái đàn, nhập khẩu…, tránh tình trạng các trang trại bỏ tái đàn. Trong thời gian tới, hai bộ tiếp tục phối hợp để kiểm soát tình hình và có

T

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 20

thông tin tới các DN để triển khai kế hoạch nhằm đảm bảo nguồn cung.

Theo thống kê, trong các tháng qua, nước ta mới nhập khoảng 40.000 tấn thịt các loại, chủ yếu là thịt gà và một phần thịt lợn. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thanh Sơn- Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi: không cần nhập khẩu thịt bởi sản xuất hiện nay cơ bản đáp ứng được nhu cầu trong nước.

Theo Báo Công Thương

VĂN BẢN MỚI Quy định mới về cấp hộ chiếu

heo Văn phòng Chính phủ, ngày 6/9/2012, Chính phủ ban hành Nghị

định 65/2012/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, trong đó bổ sung quy định cấp lại, cấp mới hộ chiếu phổ thông.

Trước đây, Nghị định 136/2007/NĐ-CP quy định hộ chiếu phổ thông có giá trị không quá 10 năm tính từ ngày cấp và không được gia hạn. Còn theo Nghị định mới, quy định hộ chiếu phổ thông còn hạn thì được cấp lại, khi hết hạn thì làm thủ tục cấp mới.

Nghị định 65/2012/NĐ-CP cũng quy định: Hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ có giá trị không quá 5 năm tính từ ngày cấp. Hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ còn giá trị dưới 6 tháng thì được gia hạn một lần, tối đa không quá 3 năm; khi hết hạn thì làm thủ tục cấp mới.

Quy định về hộ chiếu thuyền viên cũng đã được sửa đổi. Cụ thể, hộ chiếu thuyền viên có giá trị không quá 10 năm (quy định cũ 5 năm) tính từ ngày cấp và không được gia hạn (quy định cũ được gia hạn một lần).

Làm thủ tục cấp hộ chiếu cho người dân.

Theo Nghị định mới, trẻ em dưới 9 tuổi (quy định cũ là dưới 14 tuổi) được cấp chung hộ chiếu phổ thông của cha hoặc mẹ nếu có đề nghị của cha hoặc mẹ trẻ em đó. Nghị định 65/2012/NĐ-CP còn bổ sung quy định: Hộ chiếu ngoại giao cấp cho con dưới 18 tuổi của những người thuộc diện quy định tại Khoản 9 Điều 6 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP và hộ chiếu công vụ cấp cho con dưới 18 tuổi của nhân viên cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, phóng viên thông tấn và báo chí nhà nước của Việt Nam thường trú ở nước ngoài theo quy định có thời hạn từ 1 - 5 năm tính từ ngày cấp cho đến khi người con đó đủ 18 tuổi và không được gia hạn. Hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ không cấp cho cán bộ, công chức, sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân khi được cử đi học tập ở nước ngoài với thời hạn trên 6 tháng.

Theo Kinh tế

Giấy phép xây dựng chỉ được gia hạn 1 lần

Nhằm thống nhất quản lý về việc cấp giấy phép xây dựng cho các công trình và nhà ở riêng lẻ, ngày 04/09/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2012/NĐ-CP về cấp giấy phép xây dựng (GPXD).

Trong đó, đáng chú ý là quy định mỗi GPXD chỉ được gia hạn 01 lần trước thời điểm hết hạn khởi công công trình 30 ngày. Sau 06 tháng kể từ ngày gia hạn GPXD mà chủ đầu tư chưa khởi công công trình thì GPXD đã cấp sẽ bị thu hồi. Ngoài ra, GPXD cũng có thể bị thu hồi trong các trường hợp như: GPXD được cấp không đúng theo quy định hiện hành; quá thời hạn ghi trong văn bản xử lý vi phạm mà chủ đầu tư vẫn chưa khắc phục được các vi phạm theo yêu cầu

T

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 21

của cơ quan có thẩm quyền (đối với trường hợp xây dựng sai với GPXD được cấp).

Sau 10 ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định thu hồi GPXD mà chủ đầu tư không nộp lại thì cơ quan có thẩm quyền có quyền hủy GPXD, đồng thời thông báocho UBND cấp xã và đăng trên mạng thông tin của Sở Xây dựng.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng quy định chi tiết về điều kiện cấp GPXD đối với công trình và nhà ở riêng lẻ, cụ thể: Công trình và nhà ở riêng lẻ đó phải phù hợp với quy hoạch xây dựng, mục đích sử dụng đất, mục tiêu đầu tư…; có hồ sơ thiết kế xây dựng được tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực theo quy định thực hiện; thiết kế phải được thẩm định, phê duyệt theo quy định. Riêng đối với nhà ở riêng lẻ có tổng diện tích sàn nhỏ hơn 250 m2, dưới 03 tầng và không nằm trong khu vực bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa thì chủ đầu tư được tự tổ chức thiết kế xây dựng và tự chịu trách nhiệm về an toàn của công trình và các công trình lân cận…

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20/10/2012.

Nguồn: Văn Bản Luật VN

Kiểm soát chặt chất lượng bao bì dược phẩm

Cơ sở sản xuất bao bì phải thiết lập một hệ thống quản lý chất lượng, toàn diện, thống nhất, dựa trên các nguyên tắc cơ bản về thực hành tốt sản xuất bao bì dược phẩm và có hiệu quả; phải thiết lập và duy trì việc kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất từ khâu đầu vào đến đầu ra là nội dung quy định tại Thông tư số 14/2012/TT-BYT ngày 31/08/2012 của Bộ Y tế quy định các nguyên tắc, tiêu chuẩn “thực hành tốt sản xuất bao bì dược phẩm” và hướng dẫn triển khai, áp dụng.

Ngoài việc phải thiết lập hệ thống quản lý chất lượng hoạt động, duy trì việc kiểm tra, giám sát, cơ sở sản xuất bao bì dược phẩm còn phải đáp ứng một số yêu cầu khác về kiểm tra chất lượng, về sản xuất, nguyên vật liệu... nhằm nâng cao chất lượng bao bì dược phẩm.

Cụ thể như: Cơ sở sản xuất phải xây dựng tiêu chuẩn khách hàng nội bộ giữa các bộ phận của nhà máy theo chu chuyển sản phẩm, từ khâu cung ứng nguyên vật liệu đầu vào, nghiên cứu sản xuất thử, qua các công đoạn sản xuất, đóng gói, đến hoạt động bảo quản và phân phối sản phẩm; phải đủ nhân lực có trình độ phù hợp, đã được huấn luyện, đào tạo đáp ứng yêu cầu công tác; có phòng kiểm nghiệm vi sinh vật với cấp sạch theo quy định GMP-WHO để đáp ứng yêu cầu đánh giá môi trường sản xuất và kiểm tra độ nhiễm khuẩn của sản phẩm; phải trang bị các thiết bị, cân phân tích, dụng cụ đo lường đã được kiểm định/hiệu chuẩn, luôn trong tình trạng hoạt động tốt.…

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2012.

Nguồn: Văn Bản Luật VN

XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI Hội chợ triển lãm Sản phẩm làng nghề truyền thống khu vực Nam đồng bằng sông Hồng – Nam Định 2012

heo Trung tâm Xúc tiến thương mại Nam Định, từ 25-30/9/2012, Hội

chợ triển lãm Sản phẩm làng nghề truyền thống khu vực Nam đồng bằng sông Hồng - Nam Định 2012 sẽ diễn ra tại quảng trường Hòa Bình, TP Nam Định, tỉnh Nam Định.

Được biết, Hội chợ nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng

T

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 22

nghề ... được tiếp cận, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết.

Đây cũng là dịp để Nam Định giới thiệu, quảng bá những tiềm năng kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề và hàng tiêu dùng giới thiệu đến cộng đồng doanh nghiệp quốc tế một vùng kinh tế năng động, giàu tiềm năng và tài nguyên với các ngành nghề truyền thống lâu đời.

Dự kiến, Hội chợ lần này sẽ có từ 250-350 gian hàng tiêu chuẩn với sự tham dự của 100-150 doanh nghiệp thuộc các ngành hàng: Sản phẩm làng nghề truyền thống; Hàng thủ công mỹ nghệ; hàng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; vật tư nông nghiệp; điện, điện tử, công nghệ thông tin; vật liệu xây dựng; hàng nông lâm thuỷ sản; các mặt hàng tiêu dùng.

Theo Ban Tổ chức, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật hiện hành và các tổ chức xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, các Hiệp hội ngành hàng; các doanh nghiệp nước ngoài... đáp ứng được tiêu chí là các đơn vị, doanh nghiệp có uy tín, có năng lực sản xuất kinh doanh, có thương hiệu mạnh, sản phẩm có mẫu mã đẹp và chất lượng cao đều được phép đăng ký tham gia Hội chợ.

Cũng theo Ban Tổ chức, các doanh nghiệp tham gia Hội chợ lần này sẽ được Nhà nước hỗ trợ 50% chi phí cấu thành gian hàng tiêu chuẩn./.

Theo CPV

Mời tham gia đoàn doanh nghiệp khảo sát và xúc tiến thương mại, đầu tư tại Đài Loan

Thực hiện thỏa thuận hợp tác với Hiệp hội Hợp tác Kinh tế Quốc tế Đài Loan (CIECA), VCCI sẽ tổ chức đoàn doanh nghiệp khảo sát và xúc tiến thương mại, đầu tư tại Đài Loan từ ngày 21-27/10/2012.

Trong thời gian làm việc tại Đài Loan, VCCI sẽ phối hợp với CIECA và Văn phòng Hợp tác Kinh tế, Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc tổ chức Hội nghị về xúc tiến Thương mại và Đầu tư giữa Doanh nghiệp Việt Nam và Đài Loan(Hội nghị thường niên lần thứ 19) tại Đài Bắc. Doanh nghiệp tham gia đoàn lần này sẽ có cơ hội tiếp xúc, đàm phán với các doanh nghiệp Đài Loan trong các lĩnh vực: Điện, điện tử, viễn thông tin học, nông lâm thuỷ hải sản, máy móc thiết bị, xây dựng, bất động sản, nguyên vật liệu, dệt may, hóa chất, phân bón, sắt thép, hàng công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, nông sản và nhiều ngành nghề khác…

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trân trọng kính mời Quý Đơn vị/Doanh nghiệp cử đại diện tham gia đoàn. Đăng ký trước ngày 30/9/2012 để kịp hoàn thành các thủ tục cần thiết.

Doanh nghiệp quan tâm liên hệ: Ban Quan hệ Quốc tế - VCCI Tel: 04-35742022 máy lẻ: 200 - Ms.

Linh (0904955986); Email: [email protected]

205 - Ms. Phước (0936498086); Email: [email protected]

Fax: 04-35742020 hoặc 35742030 Nguồn: Vinanet

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 23

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 24

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 25

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 26

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 27

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 28

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 29

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 30

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 31

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 32

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 33

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 34

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 35

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 36

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 37

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 38

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 39

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 40

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 41

Baûn tin Coâng Thöông Yeân Baùi Soá: 37, ngaøy 14/9/2012

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc Email: [email protected] 42