Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 1/59
BẢN TIN SỐ 07/2019
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Cải thiện hiệu suất của sợi nano
carbon
Ứng dụng đột phá từ chip đọc suy
nghĩ con người
Bose giới thiệu tai nghe chống ồn
mới
Phương pháp mới cho kỹ thuật sản
xuất ngưng tụ Bose-Einstein 3-D sử
dụng làm mát bằng laser
Skinflow: thiết bị cảm biến rô bốt có
cấu tạo giống lớp da mềm mại hoạt động
dựa trên nguyên lý truyền động bằng
chất lỏng
Mỹ chế tạo robot có 'máu'
Nhật Bản đưa vào sử dụng hệ thống
robot chữa cháy đầu tiên
Dùng trí tuệ nhân tạo đánh giá rủi ro
an ninh nguồn nước
MIT vừa tạo ra một mạng thần kinh
chuyên phân tích... bánh pizza
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
“Siêu thiết bị” ngăn ô nhiễm tiếng ồn Các nhà khoa học Mỹ đã tạo ra được
loại nam châm mạnh nhất thế giới
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Robot được kích hoạt bởi nước có
thể là hướng đi mới
Phát triển phương pháp mới có thể
đánh giá khả năng loại bỏ khí mê-tan
trong khí quyển
Biến ánh nắng và không khí thành
nhiên liệu lỏng
Vật liệu nhựa mới có khả năng tự
phục hồi
Thủy tinh cũ có thể tái sử dụng trong
bê tông
Các nhà khoa học đưa ra phương
pháp mới lọc nhanh các nguyên tố
Vật liệu cách nhiệt lấy cảm hứng từ
lông gấu
Liên hệ: Phòng Cung Cấp Thông tin
ĐC: 79 Trương Định, Quận 1, TP.HCM
ĐT: 38243826 – 38297040 (102-203) - Fax: 38291957
Website: www.cesti.gov.vn - Email: [email protected]
TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ THỐNG KÊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 2/59
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Các nhà khoa học chiết xuất men từ
gốm cổ, tái tạo loại bia 5.000 năm tuổi
Màng bọc nano mới có thể thay thế
màng kim loại không thể tái chế trong
đóng gói thực phẩm
Quy trình sản xuất sữa tách béo
không đường và giảm phốt pho
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Thử nghiệm kỹ thuật chỉnh sửa gen
giúp ngăn chặn vi rút cúm gia cầm lây
lan
Các nhà khoa học phát hiện gien tạo
ra giống gà chịu bệnh tốt hơn
Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy nghiên cứu
protein
Lập trình tự gen của keo nhện mở ra
triển vọng sản xuất vật liệu sinh học thế
hệ mới
Bộ công cụ được thiết kế riêng để
sản xuất hiệu quả Pép Tít
Y DƯỢC
Giác mạc nhân tạo in 3D
Israel phát triển phương pháp mới
sản xuất các đồng vị phóng xạ
Phương pháp điều trị bệnh đa xơ
cứng bằng công nghệ nano
Miếng dán giúp bệnh nhân tiểu
đường không bị cắt cụt chi
Cảm biến giống thiết bị tai nghe
Earbud có khả năng dự đoán cửa sổ thụ
thai của phụ nữ
Ứng dụng mới giúp chẩn đoán bệnh
cho trẻ em
Chế tạo thành công kính hiển vi
chụp được DNA
Những người gặp vấn đề về đi lại có
thể được hưởng lợi từ các thiết bị đeo
Điều trị viêm não có thể giúp giảm
chứng ù tai
Mỹ bào chế thuốc giảm đau bằng
nọc độc cá nóc
Bảo vệ chống thiệt hại do bức xạ liều
cao bằng phương pháp mới
Mỹ tìm ra công nghệ mới phát hiện
sớm tế bào ung thư
Loại thuốc mới giúp tăng cơ hội
sống cho bệnh nhân ung thư vú
Các nhà khoa học khám phá lý do tại
sao một loại thuốc điều trị ung thư đầy
hứa hẹn hoạt động không hiệu quả trong
các thử nghiệm lâm sàng và tìm ra cách
khắc phục
Israel phát triển công nghệ mới về
phát hiện sớm ung thư
Phương pháp điều trị mới trong quá
trình điều trị ung thư máu
Nghiên cứu mới nâng cấp hoá trị,
ngăn ngừa hiện tượng ung thư kháng
thuốc
NÔNG NGHIỆP
Miếng dán vi kim giúp xác định
bệnh cây trồng
Các nhà khoa học Trung Quốc hoàn
thành việc giải trình tự bộ gen hạt lúa mì
cổ
Các nhà khoa học phát hiện ra gen
có thể giúp chúng ta trồng trọt nhanh
hơn
Xác định thực phẩm "hữu cơ”
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 3/59
Phụ gia thức ăn rong biển cắt giảm
khí mê-tan trong chăn nuôi
Nghiên cứu sản xuất thành phần
proten thay thế bột cá
Thu giữ CO2 từ nhà máy điện để sản
xuất protein thay thế bột cá
Mô hình trang trại cá hồi chìm ngoài
khơi, điều khiển từ xa đầu tiên ở Bắc
Cực
MÔI TRƯỜNG
Phương pháp sạch và hiệu quả để tái
chế chất thải điện tử
Sử dụng chất thải thực phẩm để
giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa
thạch
Hạn chế tác động môi trường từ quá
trình sản xuất Xi măng: Sử dụng chất
thải công nghiệp để sản xuất các chất
thay thế trung tính carbon
Các nhà khoa học Trung Quốc cải
thiện kỹ thuật fracking hiệu quả hơn,
xanh hơn bằng cách thay thế nước bằng
CO2
Các nhà khoa học Trung Quốc phát
triển công nghệ mới trong đốt rác thải
Loại bỏ hóa chất gây rối loạn nội tiết
ra khỏi nước thải bằng tảo xanh
Cotton chất thải thân thiện với môi
trường
Australia thử nghiệm xây dựng 'con
đường xanh' đầu tiên trên thế giới
Sử dụng năng lượng Mặt Trời để
chưng cất nước tinh khiết
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 4/59
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Cải thiện hiệu suất của sợi nano carbon
Ảnh: Chuẩn bị các sợi CNT. Kéo dài và xoắn sợi
nano carbon được điều chế bằng phương pháp lắng
đọng hơi thành sợi CNT. Sau đó tẩm sợi bằng nhựa
bismaleimide (BMI) và xử lý sợi đã ngâm tẩm bằng
điện để có được cấu trúc sợi composite định hướng
Sợi carbon ống nano (CNT) là một vật
liệu vĩ mô một chiều quan trọng. Việc tổng
hợp có định hướng vật liệu CNT có thể giúp
sợi có được hiệu suất điện, nhiệt, và cơ học
cao.
Không giống như trong các cấu trúc
với các ống nano carbon phân tán, các CNT
trong các sợi được sắp xếp có quy luật và mật
độ dày đặc. Điều này tạo điều kiện cho việc
dẫn dòng nhiệt dọc theo hướng sắp xếp sợi, từ
đó đạt được sự dẫn nhiệt hiệu quả. Tuy nhiên,
các khoảng trống giữa các bó ống nano
carbon làm hạn chế hiệu suất của sợi.
Bằng cách thêm vào các polyme nhiệt
giữa các sợi ống nano carbon, polyme này có
thể khắc phục các tương tác “van der Waals”
yếu giữa các CNT và cải thiện hơn nữa sự
chuyển nhiệt của sợi. Đây là lợi thế cho việc
ứng dụng vật liệu ống nano carbon trong lĩnh
vực vi điện tử và nano.
Gần đây, các nhà nghiên cứu đã kiểm
soát được sợi polymer-polymer cấu trúc hỗn
hợp, và họ đã đạt được sự cải thiện hiệu quả
về tính dẫn nhiệt và tính chất cơ học của sợi
CNT.
Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên
cứu đã thêm vào nhựa bismaleimide (BMI)
giữa các sợi ống nano carbon, sau đó sử dụng
phương pháp điện hóa để làm cho nhựa
polymer tạo thành cấu trúc định hướng trên
bề mặt sợi.
Phân cực Raman được sử dụng để mô
tả cấu trúc của nhựa. Bằng cách sử dụng
phương pháp thử nghiệm đã được chứng
minh là phù hợp với vật liệu nano một chiều,
cho thấy điện làm tăng độ dẫn nhiệt của sợi
hơn hơn năm lần (từ 30 đến 177 W / m · K).
Ngoài các tính chất nhiệt, tính chất cơ
và điện của sợi CNT cũng được xác định bởi
các tính chất giữa các ống. Trong nghiên cứu
này, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng các
sợi có độ dẫn nhiệt cao, lên tới tối đa
43,1GPa.
P.T.T, theo nanowerk.com
Nguồn: vista.gov.vn, 05/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Ứng dụng đột phá từ chip đọc suy nghĩ con người
Ảnh minh họa
Đài Sputnik đưa tin các kỹ sư thuộc
Tập đoàn Điện tử Trung Quốc hợp tác với
Đại học Thiên Tân đã chế tạo ra một loại chip
có tên gọi Brain Talker (Thiết bị đọc não).
Thiết bị này có khả năng đọc các hoạt động
sóng não người và tạo ra cơ chế liên lạc để
người sử dụng có thể điều khiển máy tính.
Công nghệ trên, có tên gọi “giao diện
máy tính não” hay BCI, trong hàng chục năm
qua chỉ dừng ở mức lý thuyết và xuất hiện
trong các cuốn sách hay phim khoa học viễn
tưởng như Neuromancer, Firefox, Ghost in
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 5/59
the Shell (Vỏ bọc) và Robocop (Cảnh sát
người máy).
Giờ đây, các kỹ sư và học giả Trung
Quốc đã có những bước đột phá tiếp theo,
thực sự tạo ra một thiết bị BCI có thể hoạt
động. Tháng trước, sản phẩm Brain Talker đã
ra mắt tại Hội thảo Tình báo Quốc tế thường
niên lần thứ 3 tổ chức tại Thiên Tân.
Theo ông Ming Dong – Giám đốc
Viện Kỹ thuật Y tế Thiên Tân, cơ chế hoạt
động của chip Brain Talker bắt nguồn từ khả
năng nhận dạng những thông tin thần kinh
nhỏ lẻ được vỏ não tổng hợp và giải mã thông
tin này để kích hoạt một cơ chế liên lạc giữa
não người sử dụng và một chiếc máy tính.
“Tín hiệu được não chuyển phát và xử
lý luôn bị chìm trong tiếng ồn nền. Chip
Brain Talker có khả năng phân biệt những tín
hiệu điện thần kinh nhỏ và giải mã thông tin
một cách hiệu quả giúp tăng cường tốc độ và
mức độ chính xác của giao diện máy tính não
một cách đáng kể”, Giám đốc Ming nhấn
mạnh. Ông nói: "Brain Talker giúp công nghệ
BCI trở thành công cụ hữu hiệu cho các lĩnh
vực dân sự vì chip này dễ mang theo người và
đơn giản hơn".
Cheng Longlong - nhà khoa học phân
tích dữ liệu thuộc Tập đoàn Điện tử Trung
Quốc - cho biết các kỹ sư hiện nỗ lực nâng cao
hiệu suất của công nghệ Brain Talker để áp
dụng trong các lĩnh vực như y học, giáo dục,
chơi điện tử… Một ví dụ điển hình cho ứng
dụng này là trợ giúp cho những người mắc
bệnh thần kinh vận động.
Theo truyền thông địa phương, Trung
Quốc hoàn toàn nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ
đối với công nghệ chip Brain Talker.
Bảo Hà
Nguồn: baotintuc.vn, 06/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Bose giới thiệu tai nghe chống ồn mới
Công nghệ khử tiếng ồn chủ động của
Bose đã phát triển mạnh mẽ trong vài năm
qua, gần đây nhất là thiết kế với công nghệ
khử tiếng ồn đẳng cấp thế giới Silent Comfort
35s - đỉnh cao của dòng sản phẩm không dây
và cực kỳ phổ biến. Hiện nay, công ty sắp
tung ra thị trường sản phẩm Tai nghe khử
tiếng ồn 700s - Bose Noise Cancelling
Headphones 700s thậm chí còn cao cấp hơn,
ấn tượng hơn, trong đó, kết hợp công nghệ
thu âm giọng nói mới và nền tảng công nghệ
âm thanh thực tế ảo Bose AR (Augmened
Reality: thực tế ảo tăng cường).
Trong bài báo mới đây được công bố,
thiết kế tai nghe khử tiếng ồn Bose 700s được
phát triển dựa trên cùng một công nghệ khử
tiếng ồn của tai nghe hàng đầu trước đây của
công ty là QC35s. Hai dòng sản phẩm mang
đến cho người sử dụng tính năng kiểm soát
mức độ khử tiếng ồn hiệu quả, ấn tượng hơn,
với 11 cấp độ khác nhau để người dùng tuỳ
chỉnh mức độ sao cho phù hợp với môi
trường xung quanh.
Công nghệ chống ồn của Bose ở tốc độ
tối đa thực sự rất tuyệt vời. Nhưng đôi khi có
những lúc người sử dụng mong muốn loại bỏ
tiếng ồn nền xung quanh lọt vào tai trong
trường hợp họ đang di chuyển trên một con
phố đông đúc với tiếng còi xe, tiếng nói
chuyện hay muốn có cảm giác tốt hơn về giao
thông xung quanh họ, hoặc cần lắng nghe
trong một cuộc trò chuyện.
Bose cho biết hệ thống micro đã được
tân trang lại với độ nhạy cao và được được
tích hợp trong một cặp tai nghe để đưa tính
năng thu âm giọng nói lên một tầm cao mới.
Tai nghe có tất cả tám micrô, với bốn micrô
.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 6/59
chuyên dụng để khử tiếng ồn để có chất
lượng âm thanh tốt hơn và bốn mic khác được
thiết kế để làm tối ưu độ rõ của giọng nói
trong môi trường ồn ào. Cài đặt này đặc biệt
hữu ích khi người dùng thực hiện trò chuyện,
để lại một thư thoại hoặc hướng dẫn chế độ
trợ năng giọng nói kể cả trong môi trường ồn
ào, vì thiết bị tương thích với tất cả các trợ lý
ảo được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới
hiện nay như Siri, Alexa và Google Assistant.
Đặc biệt, Bose còn trang bị lên sản
phẩm mới tính năng hấp dẫn Bose AR - nền
tảng âm thanh thực tế ảo đầu tiên trên thế giới
được Bose tích hợp trên thiết kế kính râm
thông minh Frames ra mắt vào năm ngoái.
Giống như QC35, The Bose Noise
Cancelling Headphones 700s được thiết kế để
có thể gập gọn nên dễ dàng vận chuyển trong
hộp đựng đi kèm. Sản phẩm có cổng sạc
USB-C và thời lượng pin ấn tượng, lên đến
20 giờ.
Bên cạnh thiết kế mới, Bose cũng tiết
lộ sẽ ra mắt hai bộ tai nghe mới, Bose Ear
500 sẽ được giới thiệu trong năm nay và Bose
Noise Cancelling Ear 700 vào năm sau. Bose
Noise Cancelling Headphones 700s sẽ chính
thức được bày bán trên thị trường công nghệ
từ ngày 30 tháng 6 với 2 màu đen và bạc, với
mức giá 399 đô la Mỹ.
P.K.L, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 03/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới cho kỹ thuật sản xuất ngưng tụ Bose-Einstein 3-D sử dụng làm mát bằng laser
Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm
MIT-Harvard về các nguyên tử cực nhỏ và
phòng thí nghiệm nghiên cứu về điện tử đã đề
xuất một phương pháp mới cho kỹ thuật sản
xuất ngưng tự Bose-Einstein 3-D sử dụng
phương pháp làm mát bằng laser. Nghiên cứu
này của nhóm nghiên cứu, được mô tả trong
Physical Review Letters, đã chứng minh tính
hiệu quả của kỹ thuật sản xuất ngưng tụ Bose-
Einstein.
Đối với nghiên cứu vật lý trong quá
khứ, ngưng tụ Bose-Einstein (BEC) bằng làm
mát laser trực tiếp là mục tiêu theo đuổi của
nhiều nhà nghiên cứu tuy nhiên nhưng rất khó
nắm bắt được mục tiêu này. Nỗ lực đầu tiên
là của Steven Chu, người đã giành giải
thưởng Nobel và khoảng năm 1995 bởi Mark
Kasevich, người không thành công vào thời
điểm đó. Các nhóm khác dẫn đầu bởi Carl
Wieman và Eric Cornell, và bởi Wolfgang
Ketterle, đều được giải thưởng Nobel cho
công trình nghiên cứu BEC. Họ đã thành
công trong việc đạt được BEC bằng cách sử
dụng làm mát bay hơi thay thế. Cuối cùng,
hầu hết các nhà nghiên cứu đã từ bỏ việc cố
gắng sản xuất BEC chỉ bằng cách làm mát
bằng laser, cho đến khi có được nghiên cứu
mới mang tính đột phá này.
“Một vài năm trước, tôi đã có ý tưởng
làm thế nào để giảm thiểu các trở ngại chính
trong việc làm mát các nguyên tử bằng laser,
phát triển các phân tử cảm ứng ánh sáng từ
các nguyên tử, bằng cách sử dụng tần số
laser cụ thể”, Vladan Vuletić, một trong
những nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu,
nói với Phys.org. “So với cách làm mát thông
qua bay hơi, làm mát bằng laser có tiềm năng
hơn, nhanh hơn, và hiệu quả hơn, giảm các
hạn chế đối với thiết lập thử nghiệm”.
Kỹ thuật làm mát các nguyên tử bằng
laser phải điều chỉnh laser rất cẩn thận và
điều chỉnh chúng để làm chậm chuyển động
của các nguyên tử khi va chạm với các
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 7/59
photon. Kỹ thuật này thông thường được sử
dụng để tạo ra các đám mây nguyên tử lạnh,
tuy nhiên việc sử dụng nó để tạo ra các mẫu
nguyên tử lạnh có mật độ đủ cao cho BEC
cho đến nay vẫn là một thách thức. Lý do
chính là ánh sáng laser có thể quang hợp các
nguyên tử lân cận thành các phân tử sau đó
các phân tử này sẽ rời khỏi các bẫy nguyên
tử.
Vuletić giải thích rằng họ có thể giảm
đáng kể hao hụt nguyên tử khi chọn năng
lượng của bơm laser không phù hợp với mức
lượng năng lượng cần thiết để hình thành lên
các phân tử. Kết hợp với chuỗi làm mát
Raman đã được tối ưu hóa cẩn thận (được mô
tả lần đầu tiên bởi Chu và Kasevich) đã cho
phép họ tạo ra một đám mây nguyên tử lạnh
với mật độ đủ cao để tạo ra BEC có kích
thước vừa phải trong khoảng một giây làm
mát.
Trong nghiên cứu của họ, Vuletić và
các đồng nghiệp đã nhốt các nguyên tử vào
bẫy lưỡng cực quang chéo và làm mát chúng
bằng cách làm mát Raman, với nguồn ánh
sáng bơm quang học cộng hưởng xa để giảm
hao hụt nguyên tử và tăng nhiệt. Kỹ thuật này
cho phép họ đạt được mức nhiệt độ thấp hơn
đáng kể so với nhiệt độ giật lại (recoil
temperature) hiệu quả (thang đo nhiệt độ liên
quan đến động lượng giật của photon), trên
thang thời gian là nhanh hơn 10 đến 50 lần so
với thang thời gian bay hơi thông thường.
Phương pháp làm mát bằng laser này
sẽ được áp dụng cho các loại nguyên tử khác,
cũng như làm mát các phân tử trong tương
lai. Phương pháp này cho phép thực hiện các
thí nghiệm nghiên cứu mới liên quan đến các
loại khí lượng tử khó thực hiện trước đây.
Phương pháp mới có nhiều ý nghĩa đối
với nghiên cứu vật lý trong tương lai. Ví dụ,
nó có thể cho phép sản xuất nhanh các khí
thoái hóa lượng tử trong nhiều hệ thống khác
nhau, bao gồm cả fermion.
P.T.T, theo phys.org
Nguồn: vista.gov.vn, 10/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Skinflow: thiết bị cảm biến rô bốt có cấu tạo giống lớp da mềm mại hoạt động dựa trên nguyên lý truyền động bằng chất lỏng
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại
Phòng thí nghiệm Rô bốt Bristol và trường
Đại học Bristol (Anh) gần đây đã phát triển
một thiết bị cảm biến rô bốt mới có cấu tạo
giống như lớp da mềm mại, hoạt động dựa
trên nguyên lý truyền động bằng chất lỏng.
Cảm biến được giới thiệu và trưng bày tại Hội
nghị quốc tế về Rô bốt mềm (RoboSoft) lần
thứ hai và có thể được ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực khác nhau, từ rô bốt đến thực tế ảo
(VR).
Trao đổi với phóng viên TechXplore,
Gabor Soter, tác giả nghiên cứu cho biết:
"Việc tích hợp nhiều cảm biến trong cánh tay
rô bốt cũng giống như việc nhét, nén nhiều
thành phần hay bộ phận vào một không gian
hạn chế, do đó, không hề đơn giản chút nào.
Ý tưởng của chúng tôi nhằm mục đích truyền
tín hiệu cảm giác đến các bộ phận khác của
cơ thể - những vị trí có nhiều không gian để
chứa phần cứng cảm biến và xử lý".
Cảm biến mới có tên gọi là Skinflow.
Ý tưởng để Soter và các đồng nghiệp phát
triển công nghệ mới một phần xuất phát từ
các cơ chế sinh học được quan sát thấy ở loài
nhện. Nhện di chuyển bằng cách truyền áp
suất thủy lực đến các bộ phận khác nhau trên
cơ thể. Nói cách khác, chúng có thể tạo ra áp
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 8/59
lực bên trong cơ thể và truyền năng lượng này
đến các chân nhằm mục đích di chuyển.
Các nhà nghiên cứu đã cố gắng mô
phỏng cơ chế này bằng cách kết hợp các
khoang rỗng silicon mềm chứa đầy chất lỏng
với các cảm biến quang đo áp suất, độ uốn
cong và độ rung (dao động). Cấu tạo của
Skinflow gồm ba thành phần chính: một lớp
da mềm mại chứa đầy chất lỏng màu, một
màn hình hiển thị và máy ảnh. Dưới tác động
của kích thích cơ học, thể tích các khoang
silicon của Skinflow thay đổi và sự thay đổi
này được truyền lên màn hình thông qua dòng
chất lỏng màu, không nén được.
"Tương tác với da khiến thể tích các
khoang chứa của Skinflow thay đổi, từ đó,
dịch chuyển dòng chất lỏng màu", Soter giải
thích. "Sự dịch chuyển chất lỏng được đo
bằng máy ảnh và chúng tôi sử dụng thuật
toán xử lý hình ảnh để định lượng sự thay đổi
này. Nhờ đó, chúng tôi có thể tính toán ngược
vị trí và cường độ tương tác giữa người sử
dụng với lớp da rô bốt".
Nhóm nghiên cứu cho biết Skinflow
có thể được ứng dụng rộng rãi và an toàn
trong môi trường sống và hoạt động của con
người, với chi phí thấp đáng kể. Trong nghiên
cứu, các nhà khoa học đã trình bày ba ứng
dụng tiềm năng của công nghệ mới. Đầu tiên,
họ đã sử dụng thiết bị để tạo ra một dãy nút
mềm với bốn nút cảm biến áp suất.
Bên cạnh đó, họ cũng đã sử dụng công
nghệ này để thiết kế bảng xúc giác (bàn di
chuột cảm ứng) cấu tạo 3 chiều, mềm mại,
bao gồm hai lớp cảm biến được định hướng
vuông góc với nhau. Trên bề mặt cả hai lớp
cảm biến có tám kênh lớn chứa đầy chất lỏng
màu. Trong ứng dụng này, Skinflow được sử
dụng nhằm mục đích đo vị trí và cường độ
xúc giác của người dùng.
Cuối cùng, các chuyên gia đã tích hợp
cảm biến với một camera quan sát thông
minh và vi điều khiển. Sau đó, họ kết nối ba
cảm biến uốn cong mềm với bộ xử lý của
thiết bị và sử dụng chúng để điều chỉnh độ
sáng của ba đèn LED trong thời gian thực
bằng thao tác uốn cong.
"Skinflow có thể được ứng dụng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có: thực
tế ảo, rô bốt, chăm sóc sức khỏe, hệ thống
nhà thông minh, thiết bị đeo và thao tác, điều
khiển từ xa", Soter chia sẻ. "Đây cũng là một
công nghệ đầy hứa hẹn cho các ứng dụng
trong đó, các linh kiện điện tử tiêu chuẩn
không thể được sử dụng do nhiễu điện từ,
điển hình như trong kỹ thuật tạo ảnh cộng
hưởng từ (MRI), hoặc để đo phóng xạ trong
các nhà máy điện hạt nhân".
Trong tương lai, cảm biến được phát
triển bởi Soter và nhóm của ông có thể trở
nên hữu ích trong hỗ trợ phát triển một loạt
các công nghệ thông minh và sáng tạo khác.
Các nhà nghiên cứu hiện đang thử nghiệm với
Skinflow và sử dụng nó để phát triển các thiết
bị đeo mới có khả năng tương tác với con
người.
P.K.L, theo techxplore.com
Nguồn: vista.gov.vn, 19/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Mỹ chế tạo robot có 'máu'
Các nhà khoa học Mỹ đã thành công
khi chế tạo một robot cá, sử dụng "máu
robot" để cung cấp năng lượng cho quá trình
hoạt động của nó.
Theo CNN, các nhà khoa học tại Đại
học Cornell và Đại học Pennsylvania đã lấy
cảm hứng từ cách trao đổi năng lượng của
người, chế tạo ra cách trao đổi năng lượng
mới cho robot.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 9/59
Hình ảnh robot cá dùng ‘máu robot’
Cụ thể, các nhà khoa học Mỹ đã chế
tạo một con cá sư tử robot được trang bị một
hệ thống bắt chước hệ thống mạch máu của
con người, vận chuyển máu và các chất dinh
dưỡng khác trên khắp cơ thể.
Tuy nhiên, hệ thống mạch máu tổng
hợp này phân phối "máu robot" hoặc chất
lỏng pin dày đặc năng lượng để cung cấp
năng lượng cho robot, theo kết quả nghiên
cứu của nhóm nhà khoa học được công bố
hôm 19.6 trên tạp chí khoa học Nature .
Robot cá mềm này được chế tạo từ vật
liệu silicon linh hoạt, cho phép nó uốn cong.
Sau khi kiểm tra, các nhà khoa học Mỹ nhận
thấy robot cá của họ sẽ hoạt động trên lý
thuyết trong khoảng 40 giờ, theo Robert
Shepherd, giám đốc Phòng thí nghiệm Robot
hữu cơ của Đại học Cornell, tác giả của
nghiên cứu cho biết.
Với sự tiến bộ lấy cảm hứng từ sinh
học này, robot có thể trở nên tự chủ và thịnh
hành hơn trong cuộc sống của chúng ta trong
tương lai. Hiện tại, robot bị hạn chế vì chúng
đòi hỏi nhiều năng lượng. Nhưng nghiên cứu
này có thể dẫn đến "tăng mật độ năng lượng,
tự chủ, hiệu quả và đa chức năng trong các
thiết kế robot trong tương lai", theo các nhà
khoa học Mỹ.
"Bạn sẽ muốn (năng lượng dùng lâu
hơn) cho các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ,
để xác định nguồn gốc của sự cố trong hợp
chất lò phản ứng hạt nhân, tìm người trong
một vụ tai nạn máy bay, thám hiểm trong
không gian hoặc dưới nước", ông Shepherd
nói. "Đây là những nơi có một robot có thể
hoạt động trong một thời gian dài sẽ rất quan
trọng".
Thiết kế lại hệ thống cung cấp năng
lượng cũng có thể thay đổi thiết kế robot
trong tương lai.
"Điều này không chỉ làm tăng thời
gian hoạt động của robot mà còn có khả năng
loại bỏ một số nhu cầu về hệ thống dây điện",
ông Shepherd nói thêm.
"Bạn có thể phân phối năng lượng
trong toàn bộ robot hơn là có một vị trí trung
tâm ... điều đó có nghĩa là điện trở ít hơn và
trọng lượng ít hơn từ hệ thống dây điện", ông
Shepherd nhận định.
Ái Vi, theo CNN
Nguồn: motthegioi.vn, 21/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Nhật Bản đưa vào sử dụng hệ thống robot chữa cháy đầu tiên
Nhật Bản vừa triển khai hệ thống robot
chữa cháy đầu tiên tại thành phố Ichihara, nơi
tập trung nhiều nhà máy hóa dầu, để phục vụ
cho hoạt động chữa cháy tại các khu vực
nguy hiểm.
Theo phóng viên TTXVN tại Nhật
Bản, nước này vừa triển khai hệ thống robot
chữa cháy đầu tiên tại thành phố Ichihara
thuộc tỉnh Chiba, nơi tập trung nhiều nhà máy
hóa dầu, để phục vụ cho hoạt động chữa cháy
tại các khu vực nguy hiểm mà các lính cứu
hỏa khó tiếp cận.
Với tên gọi “Scrum Force,” hệ thống
có tổng trị giá lên tới 1,38 tỷ yen (1 yen tương
đương 0,009 USD) này bao gồm 4 robot với
các nhiệm vụ khác nhau, trong đó “Sky eye”
có nhiệm vụ theo dõi và giám sát trên không,
“Land eye” giám sát dưới mặt đất, “Tough
reeler” triển khai các ống, vòi chữa cháy, và
“Water canon” có nhiệm vụ phun nước chữa
cháy.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 10/59
Nguồn: The Yomiuri Shimbun
Scrum Force do Cục Phòng cháy,
Chữa cháy và Ứng phó thảm họa (FDMA)
thuộc Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản
nghiên cứu chế tạo sau một loạt các vụ cháy
xảy ra ở các tổ hợp hóa dầu tại Ichihara hồi
tháng 3/2011 trong thảm hoạ động đất kinh
hoàng ở khu vực Đông Bắc Nhật Bản. Vào
thời điểm đó, lính cứu hỏa đã không thể tiếp
cận các đám cháy do nhiệt độ cao.
Theo dự kiến, FDMA sẽ triển khai các
hệ thống robot chữa cháy tương tự tới các khu
công nghiệp trên khắp cả nước.
Đào Tùng
Nguồn: vietnamplus.vn, 03/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Dùng trí tuệ nhân tạo đánh giá rủi ro an ninh nguồn nước
Các nguy cơ khan hiếm nguồn nước
trên khắp thế giới được cảnh báo và đưa ra
biện pháp để ngăn chặn.
Các chuyên gia của Hiệp hội Nước,
Hòa bình và An ninh (WPS) đã phát triển một
công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) mới có nhiệm vụ
theo dõi nguồn cung cấp nước, kết nối những
dữ liệu với thông tin kinh tế, xã hội và nhân
khẩu học tới những vùng có nguy cơ rủi ro an
ninh nguồn nước, từ đó đưa ra cảnh báo và
biện pháp để ngăn chặn nguy cơ.
Theo WPS, cảnh báo của hệ thống AI
góp phần tìm hiểu nguyên nhân của các cuộc
xung đột liên quan đến nguồn nước trong
từng khu vực và đưa ra những biện pháp hỗ
trợ. Hệ thống này đã dự đoán chính xác hơn
ba phần tư các cuộc xung đột liên quan đến
nước ở vùng đồng bằng châu thổ nội địa sông
Niger, Mali. Tại đây nguyên nhân của việc
mất an ninh nguồn nước là do các yếu tố như
bùng nổ dân số, biến đổi khí hậu và nhu cầu
kinh tế gia tăng. Hiện nay có khoảng 36% dân
số thế giới đang nằm trong vùng khan hiếm
nước, trở thành mối đe dọa toàn cầu về an
ninh, kinh tế và sinh kế.
"Chúng tôi mong muốn phát hiện ra
những vấn đề về an ninh nguồn nước để có
thể tham gia vào quá trình đối thoại giúp giải
quyết kịp thời các vấn đề", ông Susanne
Schmeimer, Viện giáo dục về tài nguyên
nước UNESCO-IHE cho biết.
Ngoài ra, dữ liệu từ vệ tinh của NASA
và Cơ quan Vũ trụ Châu Âu cho phép hệ
thống AI được truy cập và giám sát tài
nguyên nước trên toàn thế giới. Các dữ liệu từ
chính phủ, các cơ quan quốc tế và các tổ chức
nghiên cứu áp dụng công nghệ AI cũng được
nghiên cứu.
Giám đốc Charles Iceland Viện Tài
nguyên Thế giới cho rằng hệ thống AI có thể
xác định các khu vực nước bất thường trong
dữ liệu phân tích mà con người không thể phát
hiện ra được.Trí thông minh nhân tạo sẽ giúp
con người đưa ra một bức tranh đầy đủ hơn về
vấn đề an ninh nguồn nước trên toàn cầu.
Nguyễn Xuân, theo Earth
Nguồn: vnexpress.net, 21/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 11/59
MIT vừa tạo ra một mạng thần kinh chuyên phân tích... bánh pizza
Một nhóm các nhà nghiên cứu MIT
mới đây đã phát triển được một mô hình AI
có khả năng đọc hướng dẫn và tạo ra sản
phẩm hoàn thiện.
Mô hình AI này có tính ứng dụng rất
cao trong các lĩnh vực như xây dựng và robot
làm việc nhà, thế nhưng nhóm nghiên cứu lại
quyết định thử nghiệm bằng một việc mà có
lẽ tất cả chúng ta đều yêu thích: làm bánh
pizza.
PizzaGAN, mạng thần kinh mới nhất
được tạo ra bởi các thiên tài tại Phòng thí
nghiệm Khoa học máy tính và Trí tuệ nhân
tạo (CSAIL) của MIT và Viện nghiên cứu
Điện toán Qatar (QCRI), là một mạng nghịch
cảnh với chức năng tạo ra hình ảnh của chiếc
bánh pizza trước và sau khi được nướng.
Mạng thần kinh này tạo ra hình ảnh của chiếc
bánh pizza trước và sau khi được nướng
Nếu bạn đang thắc mắc tại sao chỉ là
hình ảnh, thì đó là bởi đây chỉ là thử nghiệm
ban đầu mà thôi. Khi chúng ta nghe về những
con robot có thể thay thế con người trong
ngành công nghiệp thực phẩm, chúng ta
thường hình dung ngay đến một cỗ máy
của Boston Dynamics đang đi loanh quanh
trong bếp, vung tay xào nấu, nướng bánh
burger, chiên khoai tây, và kêu lên "Đã xong"
khi hoàn thiện chiếc bánh, nhưng sự thật lại ít
hào hứng hơn nhiều.
Trên thực tế, những nhà hàng như
miêu tả ở trên sử dụng công nghệ "tự động
hóa", không phải "trí tuệ nhân tạo". Những
con robot làm bánh burger chẳng hề quan tâm
trên tay nó là một cái bánh thực sự hay một
quả bóng hockey. Nó không hiểu bánh burger
là gì, hay liệu sản phẩm cuối cùng nên trông
ra sao. Những cỗ máy đó có thể được mang
vào nhà kho của Amazon để đảm nhận nhiệm
vụ dán băng keo các kiện hàng cũng chẳng có
vấn đề gì, bởi chúng không thông minh.
Ngược lại, thứ mà MIT và QCRI đã
làm là tạo ra một mạng thần kinh có khả năng
nhìn vào hình ảnh một chiếc bánh pizza, xác
định loại bánh và các nguyên liệu cần thiết,
sau đó nghiên cứu cách đặt các nguyên liệu
đó thành từng lớp ra sao trước khi cho bánh
vào lò. Nó hiểu - theo cách mà bất kỳ AI nào
khác hiểu những thứ chúng được huấn luyện -
quy trình làm pizza là như thế nào từ đầu tới
khi hoàn thành.
Nhóm nghiên cứu đã đạt được kết quả
tuyệt vời này thông qua phương thức sử dụng
mô-đun đầy mới lạ. Họ phát triển AI với khả
năng hình ảnh hóa bánh pizza dựa trên những
nguyên liệu được thêm vào hoặc lấy ra. Bạn
có thể đưa cho nó hình ảnh một chiếc bánh
pizza đang được làm, và yêu cầu nó loại bỏ
nấm và hành tây, nó sẽ tạo ra hình ảnh một
chiếc bánh mới không có hai thứ đó.
Theo các nhà nghiên cứu: "Từ khía
cạnh thị giác, mỗi bước hướng dẫn có thể
được nhìn nhận như một cách nhằm thay đổi
hình thức bên ngoài của món ăn bằng cách
thêm vào các đối tượng bổ sung (ví dụ thêm
một nguyên liệu) hay thay đổi hình thức của
một món ăn đã có (ví dụ nấu một món ăn)".
Để robot hay máy móc có thể làm
được pizza ở ngoài đời thực, nó sẽ phải hiểu
pizza là gì. Và cho đến nay, con người chúng
ta - dù là những người cực kỳ thông minh tại
CSAIL và QCRI - lại làm tốt việc tái tạo lại
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 12/59
hình ảnh món ăn trong robot hơn là nếm vị
món ăn.
Mô hình AI đằng sau PizzaGAN có thể sẽ
hữu dụng trong nhiều lĩnh vực khác
Ví dụ, Domino Pizza hiện đang thử
nghiệm một giải pháp thị giác máy tính để
giám sát mỗi chiếc pizza xuất ra khỏi lò,
nhằm xác định xem chúng có trông đủ tốt
theo tiêu chuẩn của công ty hay không.
Những thứ như mật độ rắc topping, độ chín,
và độ tròn của đế bánh có thể được đo đạc và
đánh giá chất lượng bởi machine learning
trong thời gian thực để đảm bảo khách hàng
không phải trên tay những chiếc bánh lỗi.
Giải pháp của MIT và QCRI tích hợp
công đoạn trước khi nấu và xác định phương
thức xếp lớp bánh phù hợp để tạo ra một
chiếc pizza thơm ngon, nịnh mắt. Ít nhất đó là
trên lý thuyết - chúng ta vẫn còn nhiều năm
nữa mới có thể có một giải pháp hoàn chỉnh
sử dụng AI từ đầu đến cuối, từ chuẩn bị, nấu,
và phục vụ pizza cho khách.
Tất nhiên, pizza không phải là thứ duy
nhất robot có thể làm một khi nó đã hiểu về
nguyên liệu, các bước thực hiện, và thành quả
cuôi cùng nên trông ra sao. Các nhà nghiên
cứu kết luận rằng mô hình AI đằng sau
PizzaGAN có thể sẽ hữu dụng trong nhiều
lĩnh vực khác.
"Dù chúng tôi mới chỉ đánh giá mô
hình này trong việc làm pizza, chúng tôi tin
một hướng tiếp cận tương tự có thể sẽ rất hứa
hẹn trong việc làm các loại đồ ăn khác cũng
xếp lớp như burgers, sandwich, salad... Ngoài
thức ăn, mô hình của chúng tôi còn có thể
ứng dụng vào các lĩnh vực khác như trợ lý
mua sắm thời trang số, một lĩnh vực mà hoạt
động chính là kết hợp nhiều lớp quần áo khác
nhau".
Quỳnh Như, theo Trí Thức Trẻ
Nguồn: khoahocthoidai.vn, 25/06/2019 Trở về đầu trang
**************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
“Siêu thiết bị” ngăn ô nhiễm tiếng ồn
Thiết kế mới của các kỹ sư từ Đại học
Quốc gia Singapore (NUS) giúp khử ồn hiệu
quả gấp 6 lần các giải pháp khác, đồng thời
gọn nhẹ hơn.
Ô nhiễm tiếng ồn gây ra nhiều vấn đề sức khỏe
Ảnh: Getty Images
Tiếng ồn gây ra do những âm thanh ở
tần số thấp (500 Hertz trở xuống) được xem
như một dạng ô nhiễm tiếng ồn ở môi trường
đô thị. Nó đến từ nhiều nguồn khác nhau, ví
dụ như máy móc xây dựng và máy bay...
Điều đáng nói hơn là tiếng ồn kiểu này
lại có khả năng truyền đi xa và khiến xáo trộn
khu vực xung quanh.
Tiếng ồn tần số thấp còn được biết là
tác nhân gây ra những phản ứng sinh lý tiêu
cực, chẳng hạn như thay đổi huyết áp, gây
chóng mặt và khó thở, ngay cả khi chúng ta
không nghe được loại tiếng ồn này.
Hiện tại, đa số các thiết bị và kết cấu
khử ồn có bán trên thị trường chỉ có hiệu quả
làm giảm tiếng ồn tần số cao, trong khi tần số
thấp thì vẫn tiếp tục 'tung hoành'.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 13/59
Các kỹ sư từ Đại học Quốc gia
Singapore (NUS) mới đây đã tiến hành các
thí nghiệm khử ồn tần số thấp với các khối in
3D dạng môđun lắp ghép, nhẹ hơn và mỏng
hơn các thiết bị giảm ồn có sẵn trên thị
trường.
Kết quả cho thấy thiết kế mới này giúp
loại bỏ nhiễu tần số thấp dưới 500 Hertz với
con số âm lượng giảm trung bình là 31
decibel, hiệu quả gấp 6 lần so với các giải
pháp cản tiếng ồn thường được sử dụng khác.
Đáng chú ý, thiết kế môđun còn giúp
các kỹ sư kiểm soát tốt hơn các đặc tính giảm
ồn và sản xuất chúng với giá thành rẻ hơn.
Nhóm nghiên cứu đồng thời phát triển
ứng dụng di động Noise Explorer cho phép
theo dõi chính xác dữ liệu tiếng ồn dựa trên
một phương pháp mới khi hiệu chỉnh micro
của smartphone. Ứng dụng giúp nhà chức
trách xác định và giảm nguồn tiếng ồn một
cách hiệu quả hơn.
Lee Heow Pueh - phó giáo sư khoa kỹ
thuật cơ khí của Đại học NUS - cho biết
nhóm nghiên cứu của ông đang trao đổi cùng
một công ty địa phương để phát triển hơn
cũng như đưa vào thương mại hóa các khối in
3D khử ồn.
Họ cũng đang xem xét cải thiện tính
thẩm mỹ của các khối sao cho chúng có thể
tích hợp liền mạch vào kiến trúc sẵn có của
một tòa nhà.
Đức Long, theo Futurity
Nguồn: tuoitre.vn, 01/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Mỹ đã tạo ra được loại nam châm mạnh nhất thế giới
Một nhóm các nhà khoa học Mỹ vừa
phá vỡ kỷ lục khi tạo ra được loại nam châm
mạnh nhất thế giới.
Phòng thí nghiệm từ trường quốc gia
Mỹ (MagLab) thuộc Đại học bang Florida
đang vận hành hệ thống nam châm hybrid
mạnh nhất thế giới. Nam châm có cường độ
cảm ứng từ đạt 45 tesla, tức cao hơn khoảng
20 lần so với máy chụp cộng hưởng từ (MRI)
tại bệnh viện. Nam châm trong MRI của bệnh
viện thường chỉ có 2-3 tesla. Đơn vị Tesla (T)
dùng để đo cường độ cảm ứng từ trong hệ SI.
Tuy nhiên đó chưa phải là mức cao nhất khi
mới đây, các nhà nghiên cứu cũng tại phòng
thí nghiệm này đã tạo ra được nam châm 45,5
tesla.
Mặc dù không phải là một bước nhảy
vọt quá lớn nhưng nó đã mở đường cho các
loại nam châm thậm chí còn có từ trường
mạnh hơn thế dựa trên nguyên tắc siêu dẫn.
Từ trường là một tính chất của vật chất
và thường được tạo ra bằng cách di chuyển
các điện tích. Các nhà khoa học tạo ra từ
trường mạnh bằng cách tạo ra các cuộn dây
cảm điện, hay còn gọi là solenoids. Từ trường
sẽ di chuyển trong cuộn dây khi có điện tích
đi qua. Việc tăng mật độ dòng điện qua cuộn
dây dẫn sẽ giúp từ trường trở nên mạnh hơn.
Trong hai thập kỷ qua, hệ thống nam
châm hybrid 45 tesla là từ trường dòng điện
mạnh nhất mà các nhà khoa học có thể tạo ra.
Nam châm mới nhất của MagLab gồm một
nam châm siêu dẫn 11,5 tesla kết hợp với một
nam châm điện trở 33,5 tesla và bên trong
cuộn dây được làm từ chất liệu siêu dẫn
Nb3Sn. Dây đồng tạo ra nhiệt khi dòng điện
đi qua và nó cần lượng điện năng lên tới
31MW để vận hành. Lượng điện năng này
thậm chí còn nhiều hơn cả lượng điện tiêu thụ
cực đại của một số tàu ngầm hạt nhân và sẽ
cần rất nhiều nước để làm mát.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 14/59
Seungyong Hahn, phó giáo sư tại Đại
học Kỹ thuật FAMU-FSU, đồng thời là
trường nhóm nghiên cứu tại MagLab cho biết,
nam châm sử dụng cuộn băng được phủ một
lớp chất siêu dẫn oxit-đất-bari-đồng-oxit
(REBCO) thay vì niobium-tin. Lớp phủ này
giúp nó đạt được tính siêu dẫn ngay cả ở nhiệt
độ cao. Lớp băng này có chiều rộng chỉ
ngang một sợi tóc và có thể quấn chặt được,
qua đó giúp tăng mật độ dòng điện và cường
độ từ trường.
Nam châm 45,5 tesla nặng chỉ khoảng
390 gram và trông hơi giống một chồng đĩa
phẳng, ngắn được bọc trong các dải kim loại
mỏng.
Hiện nay, nam châm điện đa số có
chứa lớp cách điện giữa các lớp để dẫn dòng
hiệu quả hơn. Nhưng lớp cách điện này cũng
khiến dây thêm nặng và có lớn không cần
thiết. Tuy nhiên nam châm siêu dẫn của
MagLab lại không hề có lớp cách điện. Ngoài
lợi ích giúp nam châm trông gọn nhẹ hơn mà
còn bảo vệ giúp tránh khỏi các sự cố hiện
tượng dập tắt (quench). Hiện tượng này có thể
xảy ra khi xuất hiện các hư hỏng trên dây dẫn
làm chặn dòng điện từ trường, làm cho vật
liệu nóng lên và mất các đặc tính siêu dẫn.
Từ trường cực mạnh rất hữu ích trong
các ứng dụng khoa học cơ bản, ví dụ như tìm
hiểu tính chất của vật liệu mới. Tuy nhiên đây
mới chỉ là nghiên cứu mang tính chứng minh
cho ý tưởng và chưa đủ độ tin cậy để tiến
hành trong nhiều thí nghiệm khác.
Tầm quan trọng của nghiên cứu này là
cung cấp cơ sở để chế tạo các loại nam châm
sử dụng chất liệu siêu dẫn oxit đồng ngay
càng mạnh hơn nữa. Trong tương lai, công
nghệ chế tạo nam châm siêu mạnh này có thể
dùng để chế tạo máy dò hạt, lò phản ứng hạt
nhân hoặc các công cụ chuẩn đoán y học.
Mời các bạn tham gia Group Cộng
đồng VnReview để thảo luận và cập nhật tin
tức công nghệ cùng cơ hội nhận quà tặng
hàng tháng.
Tiến Thanh
Nguồn: vnreview.vn, 15/06/2019 Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Robot được kích hoạt bởi nước có thể là hướng đi mới
Ảnh: Cơ bắp robot phản ứng với nước
Nghiên cứu mới cho thấy các vật liệu
có thể được chế tạo để tạo ra các bộ truyền
động mềm - thiết bị chuyển đổi năng lượng
thành chuyển động vật lý - mạnh mẽ và linh
hoạt, và quan trọng nhất là chống nước.
Có một xu hướng ngày càng phổ biến
là dùng các vật liệu năng động và phản ứng
nhanh với môi trường để làm các đồ vật hoặc
thiết bị chúng ta tương tác, do vậy các nhà
nghiên cứu đã tìm ra cách phát triển vật liệu
chống nước, đồng thời có thể dùng nước để
cung cấp lực và chuyển động cần thiết để vận
hành các hệ thống cơ học.
Hầu hết các hệ thống robot truyền
thống đều cứng, nghĩa là, bao gồm các cấu
trúc kim loại đòi hỏi một máy tính để hoạt
động. Robot mềm được tạo ra bằng các vật
liệu không sử dụng bộ xương cứng hoặc điện
để cung cấp độ bền cơ học. Chúng được chế
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 15/59
tạo đơn giản và ít tốn kém hơn so với robot
cứng, có khả năng chuyển động phức tạp hơn
và an toàn hơn khi sử dụng xung quanh con
người.
Vật liệu được phát triển bởi các nhà
nghiên cứu Columbia được tạo thành từ sự
kết hợp mới của các bào tử - đơn vị được sản
xuất bởi vi khuẩn thường được sử dụng làm
thực phẩm bổ sung - và chất kết dính. Chúng
cung cấp một sự thay thế cho các vật liệu,
chẳng hạn như polyme tổng hợp, thường
được sử dụng trong các bộ truyền động cứng
và tốt hơn các loại gel thường được sử dụng
trong các bộ truyền động mềm. So với vật
liệu mới, gel phản ứng chậm hơn, không thể
tạo ra sức mạnh hoặc lực cao và thường
không tiếp xúc trực tiếp với nước.
Mặc dù các bào tử riêng lẻ có khả năng
chịu nước, chúng rất nhỏ đến mức chúng phải
được liên kết với nhau thông qua quá trình
quang hóa trong đó ánh sáng cường độ cao
ngay lập tức dán chúng lại với nhau thành vật
liệu tổng hợp. Các nhà nghiên cứu sử dụng
một tia UV phổ thông, rẻ tiền được sử dụng
trong các tiệm sơn móng tay.
Sau khi khô, vật liệu được xếp thành
từng lớp để tạo thành một cấu trúc siêu nhỏ
dãn ra hoặc co lại với độ ẩm hoặc hơi nước,
tạo ra lực và chuyển động của công việc cơ
khí. Nó giống như việc tạo ra các tấm hoặc bề
mặt từ cát, và vật liệu này có độ hoàn thiện
rất chi tiết.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra nhiều ứng
dụng tiềm năng cho vật liệu mới, từ vật phẩm
thực tế đến sáng tạo nghệ thuật. Thiết bị
truyền động được làm từ hỗn hợp chống
nước, chống ẩm có thể được sử dụng để mở
cửa sổ của tòa nhà khi độ ẩm tăng quá cao.
Chất liệu này cũng có thể được thêm vào vải
trong quần áo thể thao để giúp mồ hôi bay hơi
nhanh hơn.
P.T.T, theo nanowerk.com
Nguồn: vista.gov.vn, 05/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Phát triển phương pháp mới có thể đánh giá khả năng loại bỏ khí mê-tan trong khí quyển
Nghiên cứu mới của Glenn Wolfe -
UMBC và các cộng sự đang định hình lại
cách các nhà khoa học hiểu về những ảnh
hưởng của khí mê-tan, một loại khí nhà kính
mạnh, trong bầu khí quyển Trái đất.
Trong số các khí nhà kính có ảnh
hưởng mạnh nhất đến khí hậu trái đất, khí mê
tan (CH4) là khí nhà kính có tác động mạnh
đứng thứ 3 sau cacbon dioxit và hơi nước.
Khí này càng ở lâu trong bầu khí quyển, nó
càng giữ nhiệt, dẫn đến nhiệt độ Trái đất tăng
lên. Đó là lý do tại sao cần thiết có các mô
hình khí hậu biểu hiện chính xác thời gian
mêtan tồn tại bao nhiêu lâu trước khi nó bị
phá vỡ. Mê tan bị phá vỡ khi một phân tử
metan phản ứng với một gốc hydroxyl - một
nguyên tử oxy liên kết với một nguyên tử
hydro, được biểu hiển dưới dạng OH- trong
quá trình có tên gọi là quá trình oxy hóa. Các
gốc hydroxyl này cũng phá hủy các chất gây
ô nhiễm không khí nguy hiểm khác.
“OH quả thực là tác nhân gây oxy hóa
chính trong tầng khí quyển thấp. Nó kiểm
soát “tuổi thọ”của gần như mọi loại khí phản
ứng (reactive gas). Tuy nhiên, ở phạm vi toàn
cầu, nhóm nghiên cứu không có cách nào để
có thể đo OH trực tiếp. Hơn thế nữa, trên
thực tế các mô hình khí hậu hiện tại rất khó
khăn để có thể mô phỏng chính xác OH. Với
các phương pháp hiện có, các nhà khoa học
có thể suy ra OH ở quy mô thô nhưng có
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 16/59
thông tin rất ít ỏi về sự xuất hiện ở đâu, khi
nào và tại sao của các biến thể OH”, Wolfe,
giáo sư tại Trung tâm Công nghệ Hệ thống
Trái đất của UMBC giải thích.
Mới đây, nhóm nghiên cứu của Wolfe
cũng đã phát triển được một phương pháp có
thể giúp họ suy ra nồng độ OH toàn cầu thay
đổi theo thời gian và ở các khu vực khác
nhau. Công trình nghiên cứu này đã được
công bố trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm
Khoa học Quốc gia. Việc biết rõ hơn về nồng
độ của OH có thể giúp các nhà khoa học biết
được bao nhiêu lượng khí mê tan toàn cầu
tăng và giảm là do các phát thải biến đổi,
chẳng hạn như từ sản xuất dầu và khí tự nhiên
hoặc các vùng ngập nước, so với nguyên nhân
do thay đổi mức độ OH.
“Phòng thí nghiệm bay”
Nghiên cứu mới của Wolfe dựa trên
các dữ liệu mà các vệ tinh của NASA đã thực
hiện đo nồng độ của formaldehyd (còn được
biết đến như là mêtanal) trong khí quyển
trong hơn 15 năm qua cộng với các quan sát
mới được thu thập trong các nhiệm vụ Chụp
cắt lớp khí quyển (ATom) gần đây của
NASA. ATom đã bay bốn vòng quanh thế
giới, lấy mẫu không khí dưới sự trợ giúp của
máy bay nghiên cứu của NASA.
Như Wolfe mô tả, “Phòng thí nghiệm
bay” này đã thu thập các dữ liệu về nồng độ
formaldehyd và OH trong khí quyển để minh
họa mối liên quan đơn giản đáng chú ý giữa
hai loại khí này. Điều này không làm các nhà
khoa học ngạc nhiên, vì formaldehyd là sản
phẩm phụ chính của quá trình oxy hóa metan,
tuy nhiên nghiên cứu này lần đầu tiên cung
cấp quan sát cụ thể về mối tương quan giữa
formaldehyd và OH. Các phát hiện cũng cho
thấy nồng độ formaldehyd mà máy bay đo
được phù hợp với nồng độ được đo bởi các vệ
tinh. Điều đó sẽ cho phép nhóm của Wolfe và
những người khác sử dụng dữ liệu vệ tinh
hiện có để suy ra các mức OH tồn tại trong
hầu hết bầu khí quyển.
Wolfe cũng là người đầu tiên thừa
nhận rằng công trình nghiên cứu cải thiện các
mô hình khí hậu toàn cầu còn lâu mới hoàn
thành. Các mối tương quan mà các nhà
nghiên cứu đã xác định được mặc dù cung
cấp một cơ sở vững chắc tuy nhiên cần nhiều
nghiên cứu hơn để xem xét mức độ OH khác
nhau như thế nào trong các môi trường phức
tạp hơn.
Nghiên cứu hiện tại đã xem xét các
biến đổi OH theo mùa trong bằng cách phân
tích các phép đo được thực hiện vào tháng 2
và tháng 8. “Tính thời vụ là một khía cạnh rất
quan trọng của nghiên cứu này”, ông nói.
Việc xem xét nồng độ OH thay đổi
theo mùa, hoặc thậm chí thay đổi do các hiện
tượng như El Niño và La Niña, có thể là một
góc cạnh trong các nghiên cứu nỗ lực cải
thiện các mô hình khí hậu toàn cầu. Việc
nghiên cứu sâu hơn mức độ OH trên quy mô
toàn cầu sử dụng dữ liệu vệ tinh đã được xác
thực từ dữ liệu máy bay cũng có thể giúp các
nhà khoa học tinh chỉnh mô hình của họ.
Nghiên cứu mới này là một bước trong
hành trình nâng cao hiểu biết của chúng ta về
khí hậu toàn cầu, ngay cả khi nó đang thay
đổi nhanh chóng.
P.T.T, theo phys.org
Nguồn: vista.gov.vn.vn, 10/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Biến ánh nắng và không khí thành nhiên liệu lỏng
CO2 và nước chiết xuất từ không khí
xung quanh sẽ được bơm vào lò phản ứng
Mặt trời, đồng thời sử dụng nhiệt từ Mặt trời
để tách phân tử thành hydro và carbon
monoxide.
Nhiên liệu lỏng được sử dụng cho máy
bay, tàu biển, ôtô được sản xuất từ ánh nắng
và không khí. Công trình này đang được các
nhà khoa học tại Thụy Sĩ nghiên cứu.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 17/59
Nguồn: Vnews
Đây là hệ thống lọc ánh nắng Mặt
Trời mini được nhóm nghiên cứu tại Đại học
Zurich, Thụy Sĩ, xây dựng. CO2 và nước
chiết xuất từ không khí xung quanh sẽ được
bơm vào lò phản ứng Mặt Trời và sử dụng
nhiệt Mặt Trời để tách phân tử thành hydro và
carbon monoxide, còn gọi là khí tổng hợp.
Theo nhóm nghiên cứu, việc hội tụ
nắng Mặt Trời sẽ tạo ra nhiệt độ đủ cao cho
các phản ứng nhiệt hóa nhanh, giúp tăng tốc
quá trình sản xuất khí tổng hợp. Khí tổng hợp
này có thể dễ dàng xử lý thành dầu hỏa, nhiên
liệu lỏng, methanol và các loại nhiên liệu
khác phổ biến hiện nay.
Hiện hệ thống lọc mini này có thể tạo
ra 100 mililit nhiên liệu mỗi ngày, và nhóm
nghiên cứu đang đặt mục tiêu đến năm 2025
sẽ có nhà máy sản xuất năng lượng Mặt Trời
đầu tiên với công suất sản xuất khoảng 10
triệu lít methanol mỗi năm.
Vnews/Vietnam+
Nguồn: vietnamplus.vn, 15/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Mỹ phát triển lớp bọt kim loại chống đạn
Vật liệu thu được nhẹ hơn nhiều so với
vỏ giáp chống đạn bằng kim loại thông thường,
nhưng có độ bền tương đương –
Ảnh: Depositphotos
Theo New Atlas, các nhà nghiên cứu
tại Đại học Bắc Carolina, Mỹ, sau khi thu
được lớp phủ chống được tia X, tia gamma và
bức xạ neutron đã thành công trong việc phát
triển một loại vật liệu chống đạn mới từ bọt
kim loại, có hiệu năng tương đương với lớp
vỏ chống đạn thông thường, nhưng nhẹ hơn
một nửa.
Loại vật liệu này dựa trên cái gọi là bọt
kim loại composite (composite metal foam -
CMF). Nó được tạo ra bằng cách sục khi qua
kim loại nóng chảy - kết quả là thu được một
hỗn hợp bọt, sau đó có thể được làm lạnh để
tạo thành một ma trận nhẹ và có thể dễ dàng
bố trí các quả cầu kim loại rỗng trong đó.
Vật liệu thu được nhẹ hơn nhiều so với
áo giáp chống đạn bằng kim loại thông
thường, nhưng có độ bền tương đương. Qua
thử nghiệm, một số trường hợp đạn bắn thậm
chí không để lại vết lõm trên vật liệu.
Theo Afsaneh Rabiei, giáo sư kỹ thuật
cơ khí và hàng không vũ trụ - trưởng nhóm
nghiên cứu, nếu phủ vật liệu lên xe bọc thép
quân sự sẽ giúp giảm trọng lượng của xe và
do đó cải thiện hiệu quả nhiên liệu.
Trong tương lai, các nhà nghiên cứu
còn muốn tiến xa hơn để có thể sản xuất các
vật liệu dựa trên bọt kim loại composite CMF
với hiệu suất cao hơn bằng cách kết hợp bọt
kim loại CMF với các tấm gốm, tấm ốp bằng
nhôm và vật liệu kết dính, tối ưu hóa độ bám
dính và độ dày của các lớp gốm, CMF và
nhôm, có thể làm cho lớp phủ nhẹ hơn và cải
thiện hiệu quả của lớp giáp cuối cùng.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 18/59
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 06/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Vật liệu nhựa mới có khả năng tự phục hồi
Vật liệu có khả năng tự sửa chữa khi bị
hư hỏng thay vì phải bỏ đi có thể được coi là
một giải pháp góp phần giải quyết vấn đề rác
thải nhựa. Từ ý tưởng này, nhiều nhóm
nghiên cứu đã tìm cách phát triển các vật liệu
tự phục hồi, và một trong số đó là loại vật liệu
có chức năng như một mạch máu.
Dẫn đầu bởi Giáo sư Keivan Davami,
nhóm nghiên cứu đến từ trường Đại học
Lamar của bang Texas (Hoa Kỳ) ban đầu đã
chế tạo một loại nhựa dẻo dạng lỏng nhưng
có khả năng chuyển sang trạng thái rắn nhanh
chóng khi tiếp xúc với tia cực tím.
Các nhà khoa học đã sử dụng công
nghệ in 3D lập thể bằng kỹ thuật laser để tạo
ra các vật có hình dạng đơn giản, trong đó,
những phần nhựa tiếp xúc với ánh sáng tia
cực tím sẽ lập tức chuyển sang trạng thái rắn,
trong khi phần nhựa dẻo ở bên trong không
tiếp xúc với ánh sáng vẫn duy trì trạng thái
lỏng.
Trạng thái lỏng của vật liệu vẫn sẽ
được duy trì trong điều kiện bình thường. Tuy
nhiên, trong trường hợp nhựa polyme bị nứt,
nhựa lỏng sẽ tràn ra bên ngoài dưới tác dụng
của hiện tượng mao dẫn. Quá trình tiếp xúc
với nguồn ánh sáng UV nhân tạo sẽ khiến
nhựa lỏng nhanh chóng chuyển sang trạng
thái rắn, từ đó, giúp bịt kín vết nứt.
Hiện tượng này không giống như cơ
chế máu chảy tràn ra bề mặt vết thương và tự
cầm sau một thời gian ngắn khoảng vài phút,
bít các mạch tổn thương, mà tương tự với
cách thức chất nhầy bít kín vết cắt, nứt trên
trên miếng đệm của cây xương rồng lê gai.
Davami và các đồng nghiệp cho biết
trong tương lai, mục tiêu của nhóm là tiếp tục
phát triển và cải thiện công nghệ nhằm giảm
thiểu lượng năng lượng ánh sáng cần thiết sử
dụng cho quá trình chuyển sang trạng thái rắn
của vật liệu. Trên hết, họ muốn thấy vật liệu
tự phục hồi bằng cách sử dụng các nguồn tia
cực tím xung quanh như ánh sáng mặt trời mà
không cần sự can thiệp của con người.
Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng trong
tương lai vật liệu mới có thể được ứng dụng
rộng rãi trong sản xuất các vật dụng như dụng
cụ, gọng kính hoặc thậm chí là đế giày.
Bài báo về nghiên cứu được đăng tải
trên tạp chí Scientific Reports.
P.K.L, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 12/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Thủy tinh cũ có thể tái sử dụng trong bê tông
Mặc dù thủy tinh được cho là tương
đối thân thiện với môi trường vì nó có thể tái
chế, nhưng thực tế là rất nhiều trong số đó
không được tái chế - điều này đặc biệt đúng
với những mảnh nhỏ, quá khó để phân loại.
Tuy nhiên, các nhà khoa học đang đề xuất
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 19/59
rằng chất thải thủy tinh có thể được sử dụng
để làm cho bê tông mạnh và rẻ hơn bao giờ
hết.
Dẫn đầu bởi Tiến sĩ Riyadh Al-Ameri,
các nhà nghiên cứu tại Đại học Deakin-Úc đã
bắt đầu với nhiều mảnh thủy tinh không thể
tái chế khác nhau, sau đó nghiền chúng thành
một loại bột thô. Sau đó, họ sử dụng bột đó
như cốt liệu trong bê tông polymer, thay cho
cát thường được sử dụng. Bản thân bê tông
polymer thay thế nhựa polymer cho xi măng
làm chất liên kết và thường được sử dụng
trong các ứng dụng như sàn chống thấm. Khi
bê tông polymer gốc thủy tinh được thử
nghiệm sau đó, nó đã được tìm thấy mạnh
hơn đáng kể so với cát.
Ngoài ra, do cát phải được khai thác,
rửa và phân loại, người ta đã xác định rằng
việc sử dụng kính dẫn đến chi phí sản xuất bê
tông thấp hơn. Hơn nữa, trong khi cát thì
thiếu còn thủy tinh cũ còn rất nhiều chưa
được xử lý.
Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng
mà ngành xây dựng cần phải thấy tiềm năng
của thủy tinh thay thế cho cát khi chế tạo bê
tông polymer và có khả năng là bê tông. Al-
Ameri, cho biết: "Theo Diễn đàn Kinh tế Thế
giới trên toàn thế giới, ngành công nghiệp
xây dựng chiếm 6% GDP toàn cầu. Bê tông
là vật liệu xây dựng chính và cát là một trong
những thành phần chính của nó, vì vậy, tìm
một giải pháp thay thế cho cát có ý nghĩa
kinh tế tốt”.
Trên thực tế, Deakin không phải là
trường đại học đầu tiên ở Úc khám phá việc
sử dụng kính tái chế trong bê tông. Đầu năm
nay, các nhà khoa học tại Đại học Queensland
đã công bố phương pháp biến chất thải thủy
tinh thành silicat lỏng, sau đó có thể được sử
dụng trong các ứng dụng bao gồm cả chất
trám bê tông.
Đ.T.V, theo newatla
Nguồn: vista.gov.vn, 17/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học đưa ra phương pháp mới lọc nhanh các nguyên tố
Các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm
quốc gia Lawrence Berkeley đã đưa ra
phương pháp lọc nhanh các nguyên tố. Bước
đột phá này có thể giúp các nhà nghiên cứu
phát hiện ra các nguyên tố mới, tái xử lý
nhiên liệu hạt nhân hiệu quả hơn và tách
Actinium-225, đồng vị có triển vọng điều trị
ung thư. Các nhà hóa học đã mô tả quy trình
mới trên tạp chí Nature Communications.
"Quy trình của chúng tôi đạt hiệu quả
cao hơn nhiều so với các quy trình hiện có
gồm ít bước và có thể được thực hiện trong
môi trường nước nên không cần hóa chất
mạnh", Rebecca Abergel, trưởng nhóm
nghiên cứu nói. "Tôi nghĩ rằng điều đó thực
sự quan trọng và sẽ hữu ích cho nhiều ứng
dụng".
Nhóm nghiên cứu đặc biệt quan tâm
đến tách các nguyên tố nặng - các nguyên tố
nằm cuối bảng tuần hoàn có thể được sử dụng
để điều trị y tế, thăm dò vũ trụ và sản xuất
năng lượng hạt nhân. Hệ số tách của một
nguyên tố thể hiện cách nó được tách khỏi
hỗn hợp.
"Hệ số phân tách càng cao, thì càng
có ít chất ô nhiễm", Abergel nói. "Thông
thường khi lọc một nguyên tố, bạn sẽ phải
trải qua chu kỳ nhiều lần để loại bỏ các chất
ô nhiễm".
Khi một nguyên tố cần được lọc ít, thì
quá trình tách sẽ diễn ra nhanh và hiệu quả
chi phí hơn. Đối với kỹ thuật tách mới, các
nhà khoa học đã thử nghiệm Actinium-225,
đồng vị tiêu diệt các tế bào ung thư nhưng để
lại các tế bào khỏe mạnh không bị tổn thương
trong các liệu pháp mục tiêu. Nhóm nghiên
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 20/59
cứu đã phát triển các quy trình sản xuất cải
tiến Actinium-225.
Trong thử nghiệm tại lab, các nhà khoa
học đã sử dụng các phối tử tổng hợp, những
phân tử nhỏ liên kết với các nguyên tử kim
loại. Các phối tử này nhằm vào mục tiêu là
các ion kim loại dương có khả năng tách các
chất ô nhiễm ra khỏi nguyên tố. Các nhà khoa
học hy vọng phương pháp mới sẽ giúp tách
các loại đồng vị khác nhau để điều trị bệnh.
N.T.T, theo upi.com
Nguồn: vista.gov.vn, 19/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Vật liệu cách nhiệt lấy cảm hứng từ lông gấu
Trong nhiều năm, các nhà khoa học
vẫn luôn dành sự ngạc nhiên và ấn tượng về
khả năng và chất lượng cách điện của lông
gấu Bắc cực và tin rằng đây chính là nguồn
cảm hứng cho khả năng phát triển các loại vật
liệu giữ nhiệt nhân tạo. Mới đây, các nhà
nghiên cứu Trung Quốc đã phát triển một loạt
vật liệu có đặc tính tương tự và thậm chí còn
được đánh giá là vượt trội so với lông gấu
thật sự.
Một trong những bí mật quan trọng lý
giải cho khả năng cách điện của lông gấu Bắc
cực nằm ở bản chất có lõi rỗng của sợi lông.
Chính đặc điểm này hạn chế tính dẫn nhiệt và
giữ cho cơ thể của gấu luôn ấm trong điều
kiện mùa đông lạnh lẽo, không có ánh mặt
trời. Bên cạnh khả năng chống thấm nước (kị
nước), lông gấu còn có độ co giãn và đàn hồi
cao.
Các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại
học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã
tiến hành thử nghiệm mô phỏng những đặc
tính trên của lông gấu bằng cách sử dụng
những sợi dây kim loại nhỏ làm từ một
nguyên tố có tên gọi là Tellurium.
Sau khi được phủ trên bề mặt một lớp
carbon, các sợi dây có kích thước nano này bị
phân hủy dưới tác động của một quá trình hóa
học. Kết quả là họ thu được hàng triệu ống
carbon rỗng, giống cấu trúc của sợi lông gấu
Bắc cực.
Những ống carbon sau đó được nối lại
với nhau thành cấu trúc "giống như mì
spaghetti", tạo thành một khối vật liệu siêu
nhẹ, nhỏ và xốp, có khả năng cách điện.
Trong quá trình thử nghiệm, vật liệu thể hiện
rõ đặc tính vừa nhẹ hơn lại vừa có khả năng
chịu nhiệt cao hơn so với các vật liệu cách
nhiệt khác.
Ngoài ra, vật liệu rất kỵ nước (không
thấm nước), thêm vào đó, các ống này thậm
chí còn có độ co giãn hơn so với sợi lông gấu
thực sự.
Giáo sư Shu-Hong Yu, đồng tác giả
của bài báo về nghiên cứu cho biết: "Lông
gấu Bắc cực đã được tối ưu hóa dần dần để
giúp ngăn ngừa tình trạng mất nhiệt trong
điều kiện thời tiết lạnh và ẩm, điều này khiến
nó trở thành một mô hình lý tưởng để phát
triển các loại vật liệu cách nhiệt tổng hợp.
Bằng cách tạo ra vật liệu xốp hình ống từ
những ống carbon, chúng tôi đã cho ra đời
một loại vật liệu đàn hồi và nhẹ tương tự, có
khả năng giữ nhiệt mà không làm giảm độ
bền đáng kể trong suốt vòng đời của nó".
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho biết
Tellurium là nguyên tố khá hiếm và đắt tiền,
vì thế, khả năng thương mại của công nghệ ở
dạng hiện tại cũng bị hạn chế. Chính vì lẽ đó,
các nhà khoa học hiện đang xem xét việc sử
dụng các sợi dây mẫu được làm từ các
nguyên tố khác có giá thành thấp hơn.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 21/59
Bài báo gần đây đã được công bố trên
tạp chí Chem.
P.K.L, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 19/06/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Các nhà khoa học chiết xuất men từ gốm cổ, tái tạo loại bia 5.000 năm tuổi
Khi kiểm tra các mảnh vỡ của bình đất
sét đã từng được dùng để đựng bia và rượu
mật ong cách đây vài nghìn năm, các nhà
nghiên cứu Israel đã phát hiện ra các cụm
men ẩn nấp trong các lỗ kích thước nano của
những mảnh vỡ đó. Để chiết xuất men lâu
ngày không hoạt động, các nhà khoa học đã
nhờ đến sự hỗ trợ của các nhà sản xuất rượu
vang có kinh nghiệm về rượu cổ đựng trong
bình đất sét.
Các nhà khảo cổ đã xác định các mảnh
đất sét tương ứng với một số giai đoạn lịch
sử, bao gồm triều đại của vua Pharaoh
Narmer ở Ai Cập, người trị vì vùng đất Judea
trong khoảng thời gian từ 3100 đến 3050 năm
trước Công nguyên. Nhóm nghiên cứu cũng đã
xác định và chiết xuất men từ những mảnh
gốm có niên đại tương ứng với thời vua
Aramean Hazael trị vì từ năm 842 đến 800
trước Công nguyên. Một số bình đất sét có
niên đại là giai đoạn cai trị Judea của người ba
tư trong thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên cũng
được sử dụng để tách men bia cổ.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra
rằng khu vực Cận Đông có lịch sử sản xuất bia
lâu đời. Trong nghiên cứu, tổng cộng sáu
chủng nấm men khả thi đã được phân lập từ
các mảnh gốm và được sử dụng để ủ số ít các
loại bia.
"Điều kỳ diệu lớn nhất ở đây là các
cụm nấm men tồn tại trong bình đất sét hàng
nghìn năm, chỉ chờ được khai quật và phát
triển", Ronen Hazan, nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Hebrew nói. "Men cổ này cho
phép chúng tôi tạo ra loại bia giúp phân biệt
giữa bia Philistine và bia Ai Cập cổ đại".
Trước đây, các nhà khoa học đã tạo ra
nhiều loại bia lấy cảm hứng từ các thành phần
của đồ uống cổ đại có cồn, nhưng các nhà
nghiên cứu Israel khẳng định đây là lần đầu
tiên men cổ đại được sử dụng để sản xuất bia
cổ.
Vì các nhà nghiên cứu chỉ có thể phân
lập được vài chủng men, nên khó xác định
điểm tương đồng giữa loại bia được sản xuất
và uống với các loại bia được tiêu thụ trong
thời cổ đại. Các loại bia được ủ và tiêu thụ vài
nghìn năm trước có khả năng được tạo ra
bằng cách sử dụng hàng chục loại men từ sự
kết hợp độc đáo của các loại ngũ cốc cổ. Tuy
nhiên, kỳ tích sản xuất bia 5.000 năm tuổi là
rất lớn.
Theo Hazan, “nghiên cứu của chúng
tôi rất quan trọng đối với lĩnh vực khảo cổ
học thực nghiệm, lĩnh vực tìm cách tái tạo lại
quá khứ. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cung
cấp công cụ mới để kiểm tra các phương
pháp cổ xưa và cho phép thưởng thức hương
vị của quá khứ”.
N.P.D, theo upi.com
Nguồn: vista.gov.vn, 07/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 22/59
Màng bọc nano mới có thể thay thế màng kim loại không thể tái chế trong đóng gói thực phẩm
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Oxford (Anh) đã phát triển
thành công một loại màng bọc nano mới, tiềm
năng, có thể được sử dụng trong công nghệ
bao bì thực phẩm để thay thế các màng bọc
kim loại mỏng hiện đang được sử dụng. Trong
bài báo được đăng tải trên tạp chí Nature
Communications, nhóm đã mô tả quy trình chế
tạo và hy vọng vật liệu mới của họ có thể được
tái sử dụng hoặc tái chế để mang lại hiệu quả
chi phí cao hơn.
Màng bọc có bề mặt bóng và sáng
thường được sử dụng để bảo quản thực phẩm
đóng gói, thường thấy nhất là ở sản phẩm dạng
túi đựng khoai tây chiên hay kẹo dạng thanh.
Tuy nhiên, trên thực tế, kiểu màng bọc này khi
sử dụng trong công nghiệp bao bì thường rất
khó tái chế vì khi đó cần phải thực hiện thao
tác loại bỏ lớp màng kim loại ra khỏi màng
nhựa. Xuất phát từ thực tế trên, nhóm nghiên
cứu Đại học Oxford đã tìm ra giải pháp màng
bọc thực phẩm mới thay thế cho màng kim
loại với tiềm năng có thể được tái chế hoàn
toàn và dễ dàng.
Các nhà nghiên cứu cho biết quy trình
để chế tạo lớp màng bọc nano không tốn nhiều
chi phí. Màng có cấu tạo gồm các màng mỏng
chứa hai thành phần là nước và axit amin. Cụ
thể, ban đầu, nhóm đã tạo ra một lớp nano từ
đất sét tổng hợp không độc hại. Các lớp nano
này được cố định bởi sự liên kết của các axit
amin, hình thành nên màng trong suốt, và đặc
biệt là có tính thấu khí và thấu ẩm thấp, nghĩa
là các màng này không cho phép khí hoặc hơi
nước đi xuyên qua. Trên thực tế, màng sẽ
được kết hợp với một loại nhựa dẻo polyetylen
terephthalate vốn thường được sử dụng phổ
biến để làm các loại bao bì, hay vỏ chai nước
khoáng.
Tiếp theo, các chuyên gia đã tiến hành
một thử nghiệm, trong đó, họ cho lớp màng
mới tiếp xúc với một số loại khí bảo quản thực
phẩm ứng dụng nhiều trong công nghệ đóng
gói thực phẩm hiện nay và kết quả cho thấy
mức độ thẩm thấu của màng thấp hơn khoảng
50%. Sau khi thực hiện thêm một số bài kiểm
tra về độ bền, dẻo dai của màng nhằm đảm bảo
nó chịu được sự va chạm, kéo, đẩy trong quy
trình đóng gói thực phẩm, các chuyên gia đã
khẳng định khả năng chịu đựng của vật liệu
mới cũng tương đương với loại màng bọc mạ
kim loại hiện đang được sử dụng.
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng
lưu ý rằng do lớp màng nano được tạo bằng
phương pháp tổng hợp, nên thành phần và cấu
trúc cuối cùng của nó phụ thuộc vào mục đích
sử dụng làm giải pháp thay thế đóng gói bao bì
của mỗi công ty. Tuy nhiên, họ cho biết trong
tương lai sẽ cần phải tiến hành nhiều thử
nghiệm hơn nữa trước khi đưa công nghệ mới
vào sử dụng trong thực tế.
P.K.L, theo phys.org
Nguồn: vista.gov.vn, 24/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Quy trình sản xuất sữa tách béo không đường và giảm phốt pho
Sữa không chứa đường lactose ngày
càng được sản xuất phổ biến. Trong cơ thể
người sử dụng sữa thường thiếu một loại
enzyme giúp tiêu hóa được đường sữa lactose
do vậy khi sử dụng dễ gây triệu chứng đầy hơi
(sình bụng) và đau bụng. Để giải quyết vấn đề
này, các nhà sản xuất đã sử dụng enzyme
lactase “cắt” đường lactose thành các loại
đường đơn giản như: monosacarit, glucose,
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 23/59
galactose,… dễ tiêu hóa và có độ ngọt tương
đương như đường lactose.
Một phương pháp cơ học khác để loại
bỏ đường lactose là sử dụng bộ siêu lọc (Ultra-
Filterration (UF)) và bổ sung khoáng chất,
vitamin để thay thế các chất dinh dưỡng đã bị
loại bỏ khi sử dụng bộ siêu lọc.
Khi loại bỏ Lactose bằng cách lọc,
lượng calo cũng bị loại bỏ, sữa và các sản
phẩm từ sữa được sản xuất theo cách này có
lượng calo và độ ngọt thấp hơn sữa không lọc.
Tuy nhiên, quá trình lọc không loại bỏ hoàn
toàn Lactose như mong muốn và phải dùng
enxyme lactase để loại bỏ lactose còn sót lại
dẫn đến các loại đường đơn giản của lactose
sinh ra vẫn còn. Do vậy, quy trình lọc này
không loại bỏ được hoàn toàn lactose mà còn
làm tăng chi phí và thời gian sản xuất.
Một vấn đề khác liên quan đến sữa tách
béo là sự hiện diện của phốt pho. Đối với
những người có sức khỏe kém và đặc biệt là bị
tổn thương thận, sự hiện diện của phốt pho
trong đồ uống và thực phẩm có thể đe dọa đến
tính mạng khi thận không thể lọc và loại bỏ
phốt pho. Hiện tại, chưa có sản phẩm sữa giảm
phốt pho nào được bán ở bất cứ thị trường nào
trên thế giới.
Để có được sản phẩm sữa tốt cho sức
khỏe người tiêu dùng, đáp ứng các yêu cầu
trên, nhóm tác giả người Mỹ là Clark, George
H. và Clark, Mary Ann đã đăng ký sáng chế số
US10285413 và được cấp bằng ngày
14/05/2019 tại Mỹ đề cập đến Quy trình sản
xuất sữa tách béo không đường lactose và
giảm phốt pho
* Quy trình sản xuất:
1. Tách béo sản phẩm sữa: Nguyên
liệu sữa được xử lý ở nhiệt độ thấp, đông lạnh
ở khoảng 5-70C để tách thành phần chất béo
khỏi các thành phần protein và carbohydrate,
tạo thành sữa tách béo. Chất béo dạng kem
được đựng trong một bể chứa bằng thép không
gỉ và được làm lạnh ở 70C và có thể được sử
dụng để làm bơ, kem hoặc các sản phẩm từ
sữa khác.
2. Thanh trùng, tiệt trùng sữa tách
béo để loại bỏ vi khuẩn và các mầm bệnh. Sữa
tách béo được tiệt trùng ở nhiệt độ khoảng
720C trong khoảng 16 giây. Nhiệt độ thanh
trùng có thể thay đổi trong khoảng +/− 20C.
Nếu lưu trữ trước khi chế biến, sữa tiệt trùng
được làm lạnh ở 40C. Sữa tách béo có thể
được lưu trữ trong tối đa khoảng 72 giờ trước
khi xử lý với hệ thống siêu lọc (UF) và siêu ly
tâm (UC). Nếu sữa tiệt trùng được xử lý ngay
lập tức, thì được làm lạnh trước đến khoảng 70
C.
3. Lọc loại bỏ chất rắn: Sữa tiệt trùng
không được có bất kỳ chất phụ gia và chất rắn
lơ lửng nào. Do đó, để loại bỏ chất rắn, sữa
cần được lọc trước bằng bộ lọc có kích thước
lỗ rỗng từ khoảng 30 - 40 micron. Sữa tách
béo đã được tiệt trùng và lọc được làm lạnh
đến khoảng 40C và được khuấy trộn liên tục
để chuẩn bị cho bước xử lý tiếp theo.
4. Xử lý siêu ly tâm (UC) và siêu lọc
(UF): để tách sữa thành các pha rắn và lỏng.
- Pha rắn được thu thập và lưu trữ
trong bể thép không gỉ có vỏ bọc, được trang
bị máy khuấy để khuấy liên tục duy trì sữa ở
dạng huyền phù. Giai đoạn này, sữa gồm các
chất: mixen Casein, Globules Fat và Protein
Globular.
- Pha lỏng (chứa nước, đường hòa tan,
khoáng chất và các hạt lipoprotein) được bơm
vào thiết bị Siêu lọc (UF) để loại bỏ lactose
và một lượng nhỏ khoáng chất (canxi, phốt
pho và nước). Thiết bị UF hoạt động trong
điều kiện sau:
Tốc độ lọc: khoảng 1,140 lít/giờ
Nhiệt độ: khoảng 100C
Áp suất: khoảng 40 psig
Màng lọc của thiết bị siêu lọc có thể
được làm từ polyethersulfone hydrophilized
(PES), nylon, cellulose acetate, cellulose
nitrate, hydrovilid polyvinylidene (PVDF),
polycarbonate. Màng có kích thước lỗ rỗng từ
khoảng 0,5 - 40 micron. Màng lọc có thể có
nhiều lớp, mỗi lớp có kích thước lỗ khác nhau
và thậm chí có độ xốp khác nhau.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 24/59
Chất lỏng sau khi đi qua bộ phận lọc,
sẽ đi vào bộ phận thấm của thiết bị UF. Bộ
phận thấm gồm: van được điều khiển bằng
khí nén; bơm chuyển thấm để chuyển chất
lỏng thẩm thấu xuôi theo dòng chảy; đồng hồ
đo lưu lượng thấm; và bộ truyền áp suất
5. Lọc bằng CO2: Sau khi rời khỏi hệ
thống siêu lọc, dẫn CO2 sủi bọt qua pha lỏng
đã được lọc để giảm độ pH từ khoảng 4,5
xuống còn khoảng 5,0. Pha lỏng được lọc
bằng CO2 ở nhiệt độ không đổi 40C, trong
khoảng thời gian 6-10 tiếng. Vào cuối gian
đoạn lọc bằng CO2, pha lỏng được truyền lại
qua bộ lọc 40 micron để loại bỏ hoàn toàn
tinh thể lactose và cho phép huyết thanh sữa
đi qua khi thẩm thấu. Huyết thanh sữa chứa
khoảng 0,3-0,7% protein và khoảng 0,063-
0,071% phốt pho. Độ pH của huyết thanh sữa
được điều chỉnh từ khoảng 6,5 đến khoảng
7,0 bằng cách bổ sung một bazơ như natri
hydroxit (NaOH). Một kết tủa canxi photphat
tinh thể màu trắng được hình thành và loại bỏ
bằng cách cho huyết thanh sữa qua thiết bị
UF. Như vậy, huyết thanh sữa đã được khử
phốt pho. Huyết thanh giảm phốt pho được
trộn lại với casein để tạo thành một loại sữa
tách béo có hàm lượng calo thấp, không chứa
Lactose và ít phốt pho.
Thành phần của sữa tách béo không có
Lactose so với sữa tách béo tiêu chuẩn như
sau:
Thành
phần Sữa
tách béo,
Thành phần
sữa tách béo
theo tiêu
ít calo,
không
lactose
và giảm
phốt pho
chuẩn
Protein 14.0 g 8.26 g
Calcium 326 mg 306 mg
Magnesium 32 mg 27 mg
Phosphorus 49.4 mg 247 mg
Lactose <5.0 g 12.47 g
Potassium 389 mg 382 mg
Carbohydrate <5.0 g 12.15 g
Sugar <1.0 g 12.0 g
Để tăng hàm lượng Canxi theo mong
muốn, có thể bổ sung canxi dưới dạng Canxi
Gluconate hoặc Canxi Citrate với lượng
khoảng từ 4,8 - 5,3 gm/gallon sữa tách béo.
Thông qua quá trình lọc, ly tâm và tái tuần
hoàn nhiều giai đoạn, khoảng 100% lactose
đã được loại bỏ.
Sản phẩm phụ lactose thu được, có thể
được tinh chế và cung cấp dưới dạng Lactose
tinh khiết cho các thợ làm bánh, nhà sản xuất
thực phẩm động vật và ngành công nghiệp
dược phẩm.
Minh Thư
Nguồn: cesti.gov.vn, 29/06/2019 Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Thử nghiệm kỹ thuật chỉnh sửa gen giúp ngăn chặn vi rút cúm gia cầm lây lan
Mới đây, trong một nỗ lực ngăn chặn
vi rút cúm gia cầm lây lan, các nhà khoa học
đã áp dụng các kỹ thuật chỉnh sửa gen trong
quy mô phòng thí nghiệm.
Phát hiện mới mang lại hy vọng cho
khả năng sản sinh ra những con gà thế hệ sau
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 25/59
được thừa hưởng bộ gen đã được chỉnh sửa
và có khả năng miễn nhiễm với căn bệnh
nguy hiểm này.
Trong thử nghiệm trên các tế bào được
nuôi trong phòng thí nghiệm, nhóm nghiên
cứu đến từ trường Đại học Hoàng gia Luân
Đôn, Anh đã ngăn chặn thành công sự phát
triển và lây lan của vi rút cúm bằng cách loại
bỏ một đoạn ADN của gà. Bên cạnh đó,
nhóm cho biết bước tiếp theo cần thực hiện là
nỗ lực sản sinh ra thế hệ gà mang gen
chuyển.
Các nhà khoa học đã nhắm mục tiêu
một phân tử cụ thể bên trong các tế bào có tên
gọi là ANP32A. Họ phát hiện ra rằng trong
quá trình lây nhiễm, các vi rút cúm chiếm
quyền điều khiển phân tử này để tự nhân bản.
Trong quá trình hợp tác với các chuyên
gia từ Viện Roslin của trường Đại học
Edinburgh, các nhà nghiên cứu đã sử dụng kỹ
thuật chỉnh sửa gen để loại bỏ đoạn ADN
chịu trách nhiệm sản xuất gen ANP32A có
khả năng mã hóa một loại protein mà tất cả
các vi rút cúm phụ thuộc vào để lây nhiễm ký
chủ.
Thử nghiệm cho thấy nếu thiếu gen
giúp mã hóa protein trên, vi rút không có khả
năng phát triển và sinh sôi bên trong các tế
bào đã được biến đổi, nhờ đó, gà sẽ miễn
nhiễm với bệnh cúm.
Trên thực tế, cúm gia cầm được coi là
mối lo ngại lớn nhất đối với các loài gia cầm,
trong đó có gà nuôi trên toàn thế giới. Ở các
loài gia cầm, đặc biệt là gà, các chủng của vi
rút cúm gà nguy hiểm có thể xâm nhiễm và
tấn công cơ thể, gây tử vong, tỉ lệ tử vong có
thể lên đến 100%. Trong vài trường hợp, một
số biến thể của vi rút có thể lây nhiễm cho
người và gây tử vong. Do đó, những nỗ lực
nhằm kiểm soát sự lây lan của đại dịch này là
vô cùng cần thiết.
Trước đó, một nghiên cứu hợp tác giữa
các chuyên gia từ Viện Roslin và trường Đại
học Cambridge bằng cách sử dụng các kỹ
thuật chỉnh sửa gen, đã được thực hiện nhằm
sản sinh những cá thể gà tuy nhiễm bệnh
nhưng không truyền vi rút cúm sang những
con gà khỏa mạnh khác. Phương pháp tiếp
cận mới của các nhà nghiên cứu Đại học
Hoàng gia Luân Đôn lại khác vì nó không
liên quan đến việc đưa vật liệu di truyền mới
vào ADN của chim.
Nghiên cứu nhận được tài trợ chiến
lược bởi Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Sinh
học và Công nghệ Sinh học - đơn vị trước đây
cũng đã tài trợ cho Viện Roslin. Ngoài ra, tài
trợ cho sinh viên bậc tiến sĩ được cung cấp
bởi công ty nghiên cứu gia cầm toàn cầu
Cobb-Vantress.
Tiến sĩ Mike McGrew, thuộc Viện
Roslin của Đại học Edinburgh, cho biết: "Đây
là một tiến bộ quan trọng cho thấy chúng ta
hoàn toàn có thể sử dụng các kỹ thuật chỉnh
sửa gen để tạo ra thế hệ gà mới có khả năng
kháng cúm gia cầm. Hiện tại, chúng tôi chưa
áp dụng kỹ thuật mới lên loài chim vì chúng
tôi cần kiểm tra xem liệu sự biến đổi ADN có
bất kỳ tác động nào khác lên các tế bào trong
cơ thể chim hay không trước khi thực hiện
bước tiếp theo này".
Giáo sư Wendy Barclay - Chủ tịch
Viện Vi rút cúm tại Trường Đại học Hoàng
gia Luân Đôn, cho biết: "Từ lâu, chúng ta đã
biết rằng gà chính là ổ chứa tự nhiên của vi
rút cúm, nguyên nhân gây bùng phát đại dịch.
Nghiên cứu của chúng tôi đã xác định được
rằng biến dị di truyền (sự biến đổi về mặt di
truyền) nhỏ nhất có thể giúp sản sinh ra
những cá thể gà có khả năng miễn nhiễm với
bệnh cúm, từ đó, góp phần ngăn chặn hiểm
họa đại dịch cúm tiếp theo bùng phát".
Rachel Hawken, Giám đốc cấp cao về
Di truyền học và Di truyền định lượng tại
Cobb-Vantress, cho biết: “Đối với lĩnh vực
sản xuất gà thịt, nghiên cứu về khả năng
kháng cúm gia cầm có ý nghĩa toàn cầu và
phát hiện mới được coi là một bước tiến quan
trọng trong việc hoàn thành mục tiêu đó. Hơn
nữa, việc khám phá và phát triển các công
nghệ mới có tiềm năng được sử dụng để thúc
đẩy chăn nuôi gia cầm trong tương lai thật
thú vị".
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 26/59
Nghiên cứu được công bố trên tạp
chí eLife.
P.K.L, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 10/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học phát hiện gien tạo ra giống gà chịu bệnh tốt hơn
Một nhóm các nhà khoa học quốc tế,
dẫn đầu là các nhà nghiên cứu bang Penn
State (Mỹ), đã xác định các gien có thể giúp
nông dân, đặc biệt là những người nông dân ở
các nước thu nhập từ thấp đến trung bình, lai
tạo ra các giống gà có khả năng chịu một căn
bệnh có mối đe dọa lớn nhất đối với chăn
nuôi gia cầm ngày nay.
Theo nghiên cứu, các nhà khoa học
phát hiện ra một bộ gien biểu hiện khác biệt
trong hai giống gà có thể chống lại, ở các
mức độ khác nhau, bệnh Newcastle, một loại
virus cản trở sản xuất gia cầm trên toàn thế
giới.
Việc xác định các gien này giúp đàn gà
sống sót qua đại dịch Newcastle và giúp đưa
ra các chiến lược nhân giống tạo ra các đàn gà
có khả năng chịu bệnh tốt hơn và sinh sản tốt
hơn.
Tác giả nghiên cứu cho biết, nếu bệnh
Newcatsle xuất hiện ở đàn gà thì cả đàn sẽ bị
tiêu hủy. Bệnh Newcastle là một mầm bệnh
gia cầm quan trọng. Nhiều người có thể
không nghe nhiều đến bệnh này ở Mỹ do
được kiểm soát tốt, song đây là bệnh đặc
trưng ở nhiều vùng thuộc châu Phi và châu Á.
Nếu một chủng virus xâm nhập vào đàn gà, cả
đàn sẽ bị chết và gây thiệt hại nặng nề cho
ngành chăn nuôi gia cầm, đặc biệt đối với hộ
chăn nuôi nhỏ lẻ.
Theo các nhà khoa học, bệnh
Newcatsle có vắc xin điều trị nhưng thường
không được sử dụng ở nhiều nước do chi phí
cao thường khiến việc sử dụng vắc xin để bảo
vệ đàn nhỏ trở nên thiếu thực tế ở nhiều quốc
gia.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một kỹ
thuật sáng tạo để nghiên cứu phản ứng miễn
dịch bẩm sinh của hai giống gà là Fayoumi và
Leghorn. Thay vì sử dụng các nghiên cứu trên
động vật, hoặc các dòng tế bào, các nhà nghiên
cứu đã sử dụng phôi gà. Do hệ thống miễn
dịch của gà có trong trứng trước khi nở, các
nhà nghiên cứu có cánh cửa để nghiên cứu
gien của hệ miễn dịch, đưa ra một số lợi thế so
với các phương pháp khác.
Theo các nhà nghiên cứu, mặc dù bệnh
Newcastle không được coi là mối đe dọa lớn ở
Mỹ, nhưng điều đó có thể thay đổi người nuôi
gà cảnh ở Mỹ và cho đối với các cơ sở sản
xuất gia cầm lớn. Một đợt dịch bệnh
Newcastle gần đây ở Nam California đã gây ra
cái chết của hơn 1,2 triệu con gà.
M.H - Mard, nguồn: Sciencedaily
Theo motthegioi.vn, 25/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 27/59
Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy nghiên cứu protein
Ảnh: Các tác giả Mathias Wilhelm, Tobias
Schmidt và Siegfried Gessulat
Sử dụng trí thông minh nhân tạo, các
nhà nghiên cứu tại Đại học Kỹ thuật Munich
(TUM) đã thành công trong việc phân tích
khối lượng protein từ bất kỳ sinh vật nào
nhanh hơn đáng kể so với trước đây và gần
như không có lỗi. Cách tiếp cận mới này
được thiết lập để kích thích một sự thay đổi
đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu protein, vì
nó có thể được áp dụng trong cả nghiên cứu
cơ bản và lâm sàng.
Bộ gen của bất kỳ sinh vật nào chứa
bản thiết kế cho hàng ngàn protein kiểm soát
hầu hết các chức năng của sự sống. Protein
khiếm khuyết dẫn đến các bệnh nghiêm trọng,
chẳng hạn như ung thư, tiểu đường hoặc mất
trí nhớ. Do đó, protein cũng là mục tiêu quan
trọng nhất đối với thuốc.
Để hiểu rõ hơn về quá trình sống và
bệnh tật và phát triển các liệu pháp phù hợp
hơn, cần phải phân tích đồng thời càng nhiều
protein càng tốt. Hiện nay, phép đo phổ khối
được sử dụng để xác định loại và số lượng
protein trong một hệ thống sinh học. Tuy
nhiên, các phương pháp phân tích dữ liệu
hiện tại tiếp tục tạo ra nhiều sai lầm.
Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Kỹ
thuật Munich do nhà khoa học tin sinh học
Mathias Wilhelm và nhà hóa sinh Bernhard
Küster, Giáo sư Proteomics và Bioanalytics
tại Đại học Kỹ thuật Munich, đã thành công
trong việc sử dụng dữ liệu proteomic để đào
tạo một mạng lưới thần kinh theo cách mà nó
là có thể nhận ra protein nhanh hơn nhiều và
hầu như không có lỗi.
Giải pháp cho một vấn đề nghiêm
trọng
Phổ kế không đo protein trực tiếp. Họ
phân tích các phần nhỏ hơn bao gồm các
chuỗi axit amin với tối đa 30 khối. Phổ đo
được của các chuỗi này được so sánh với cơ
sở dữ liệu để gán chúng cho một loại protein
cụ thể. Tuy nhiên, phần mềm đánh giá chỉ có
thể sử dụng một phần thông tin mà quang phổ
chứa. Do đó, một số protein không được công
nhận hoặc được công nhận không chính xác.
"Đây là một vấn đề nghiêm trọng",
Küster giải thích. Mạng lưới thần kinh được
phát triển bởi nhóm TUM sử dụng tất cả
thông tin của quang phổ cho quá trình nhận
dạng. "Chúng tôi bỏ lỡ ít protein hơn và mắc
lỗi ít hơn 100 lần", Bernhard Küster nói.
Áp dụng cho tất cả các sinh vật
"Ưu điểm", như các nhà nghiên cứu
gọi là phần mềm AI, là "áp dụng cho tất cả
các sinh vật trên thế giới, ngay cả khi các
protein của chúng chưa bao giờ được kiểm
tra trước đây", Mathias Wilhelm giải thích.
"Điều này cho phép nghiên cứu những gì mà
trước đây chưa thể làm được".
Với sự trợ giúp của 100 triệu phổ khối,
thuật toán đã được đào tạo rộng rãi đến mức
nó có thể được sử dụng cho tất cả các phổ kế
khối phổ biến mà không cần đào tạo thêm.
"Hệ thống của chúng tôi là tiên phong trong
lĩnh vực này", Küster nói.
Các phòng khám, công ty công nghệ
sinh học, công ty dược phẩm và viện nghiên
cứu đang sử dụng các thiết bị hiệu suất cao
thuộc loại này, do vậy thị trường có thể định
giá trị hàng tỷ đô.
Các nhà nghiên cứu cũng có hy vọng
cao cho nghiên cứu cơ bản. "Phương pháp
này có thể được sử dụng để theo dõi các cơ
chế điều tiết mới trong các tế bào", Küster
nói. "Chúng tôi hy vọng sẽ có được một lượng
kiến thức đáng kể ở đây, trong trung và dài
hạn, sẽ được phản ánh trong việc điều trị các
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 28/59
bệnh mà con người, động vật và thực vật mắc
phải".
Wilhelm cũng hy vọng rằng "các
phương pháp AI như Prosit sẽ sớm thay đổi
lĩnh vực proteomics, vì chúng có thể được sử
dụng trong hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu
về protein".
P.T.T, theo nanowerk.com
Nguồn: vista.gov.vn, 10/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Lập trình tự gen của keo nhện mở ra triển vọng sản xuất vật liệu sinh học thế hệ mới
Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Maryland đã lập trình tự hoàn
chỉnh của 2 gen giúp nhện sản sinh keo -
phiên bản tơ nhện dính và có thể biến đổi,
làm cho con mồi bị mắc vào mạng nhện. Kết
quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí
Genes, Genomes, Genetics.
Phương pháp mới của nhóm nghiên
cứu tại trường Đại học Maryland có thể mở
đường cho các nhà nghiên cứu khác lập trình
tự nhiều gen tạo tơ và keo, vốn là thách thức
đối với hoạt động lập trình tự do độ dài và
cấu trúc lặp của chúng. Hiểu rõ hơn về các
gen này sẽ đưa các nhà khoa học đến bước
tiến lớn trong sản xuất vật liệu sinh học.
Tơ nhện là thứ mà mạng nhện tạo ra và
trong nhiều năm qua được xem là vật liệu
triển vọng để sản xuất vật liệu sinh học vì độ
bền kéo khác lạ và độ dẻo của nó. Hơn
45.000 loài nhện quen thuộc, mỗi loài tạo ra
từ một đến bảy loại tơ. Tuy nhiên, ít ai hiểu
toàn bộ cấu trúc di truyền của tơ nhện: Chỉ có
khoảng 20 gen hoàn chỉnh đã được lập trình
tự.
Thêm vào đó, tơ nhện đã được chứng
minh khó sản xuất với số lượng lớn. Nhện
chuyển đổi các đốm tơ lỏng thành sợi rắn và
cứng trong quá trình phức tạp bên trong cơ
thể chúng. Các nhà khoa học có thể sản xuất
chất lỏng, nhưng "chúng tôi không thể sao
chép quá trình chuyển từ dạng lỏng sang dạng
rắn trên quy mô công nghiệp", Sarah
Stellwagen, đồng tác giả nghiên cứu nói.
Tuy nhiên, keo nhện là chất lỏng có cả
bên trong và ngoài nhện. Dù keo có những
hạn chế riêng, nhưng sự khác biệt đó có thể
khiến keo nhện dễ sản xuất trong phòng thí
nghiệm hơn tơ. Keo nhện có tiềm năng lớn
trong kiểm soát dịch hại hữu cơ.
Ví dụ, nông dân có thể phun keo dọc
theo tường của chuồng trại để bảo vệ gia súc
khỏi côn trùng bám vào hoặc gây bệnh, sau
đó, có thể rửa sạch mà không lo gây ô nhiễm
các tuyến đường thủy do thuốc trừ sâu nguy
hiểm. Bên cạnh đó, nông dân có thể sử dụng
loại keo tương tự để bảo vệ cây trồng khỏi
sâu bệnh. Ngoài ra, keo cũng có thể được sử
dụng trong những khu vực lan tràn dịch bệnh
do muỗi lan truyền.
N.T.T, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 19/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Bộ công cụ được thiết kế riêng để sản xuất hiệu quả Pép Tít
Nhiều sản phẩm tự nhiên quan trọng
như kháng sinh, thuốc ức chế miễn dịch hoặc
thuốc chống ung thư được sản xuất bởi các vi
sinh vật. Những sản phẩm tự nhiên này
thường là những peptide nhỏ, trong một số
trường hợp quá phức tạp để tổng hợp hóa học
trong phòng thí nghiệm. Trong các nhà sản
xuất vi sinh vật của các loại thuốc này, các
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 29/59
loại thuốc này được tạo ra với sự trợ giúp của
các enzyme NRPS theo cách tương tự như
một nhà máy ô tô hiện đại: tại mỗi trạm, các
bộ phận bổ sung được thêm vào cấu trúc cơ
bản cho đến khi cuối cùng một chiếc ô tô rời
khỏi nhà máy. Trong trường hợp NRPS, một
axit amin cụ thể được kết hợp và xử lý tại mỗi
trạm (mô-đun) để cuối cùng, các peptide được
tạo ra có thể là tuyến tính, tuần hoàn hoặc
biến đổi khác, và cũng có thể mang axit amin
bất thường.
Mặc dù các nguyên tắc cơ bản của
NRPS đã được biết đến từ lâu, nhưng trước
đây khó có thể sửa đổi các enzyme này một
cách dễ dàng và hiệu quả, cho phép lắp ráp
hoàn chỉnh các enzyme nhân tạo hoàn toàn
dẫn đến peptide mới tự nhiên. Mặc dù trong
quá trình sửa đổi NRPS trước đây thường dẫn
đến sự sụt giảm đáng kể về hiệu suất sản xuất
của các peptide được sửa đổi mong muốn,
nhóm nghiên cứu Công nghệ sinh học phân tử
của Giáo sư Helge Bode đã công bố một
phương pháp mới vào năm 2018 để tránh
nhược điểm này. Nhóm hiện đã tối ưu hóa
hơn nữa phương pháp này cho phép sản xuất
dễ dàng các peptide mới với năng suất tuyệt
vời.
"Chúng tôi sử dụng các đoạn hệ thống
NRPS tự nhiên từ các vi khuẩn khác nhau làm
các khối xây dựng mà chúng tôi kết nối với
nhau bằng các điểm lắp ráp cụ thể mà chúng
tôi đã xác định được", Andreas Tietze và
Janik Kranz giải thích cách tiếp cận nghiên
cứu mà họ đã phát triển như một phần của
nhóm lớn hơn trong nhóm Bode. "Sản lượng
tương đương với sản xuất tự nhiên của các
sản phẩm tự nhiên không biến đổi và các
phương pháp mới cũng cho phép sản xuất
đơn giản các nhóm peptide, điều mà trước
đây không thể có được".
Phương pháp này được thiết lập rất tốt,
người mới bắt đầu có thể sử dụng nó để sản
xuất các peptide mới sau một thời gian đào
tạo ngắn. Nhưng để đi đến điểm này là một
chặng đường dài. "Sau những thí nghiệm đầy
hứa hẹn đầu tiên của Kenan, nghiên cứu sinh
của tôi vào thời điểm đó, chúng tôi đã làm
việc rất lâu trong dự án với một phần lớn
trong nhóm của tôi cho đến khi chúng tôi
chắc chắn rằng phương pháp của chúng tôi
đáp ứng các yêu cầu của phương pháp kỹ
thuật mạnh mẽ và dễ tái tạo, nhờ các chương
trình ưu tiên LOEWE MegaSyn và Genomics
đa dạng sinh học dịch thuật, chúng tôi đã có
nhân sự và hỗ trợ tài chính cần thiết, và có
thể tập trung hoàn toàn vào dự án".
Bước tiếp theo là sửa đổi các loại
thuốc liên quan đến lâm sàng đầu tiên bằng
phương pháp này và sản xuất chúng trong các
vi sinh vật áp dụng các phương pháp công
nghệ sinh học. Các điều kiện hiện này cho
việc thực hiện là rất tốt - Bode mới chỉ được
trao một trong những khoản trợ cấp nâng cao
của ERC từ Hội đồng nghiên cứu châu Âu để
tiếp tục tối ưu hóa các phương pháp trong 5
năm tới.
P.T.T, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 27/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 30/59
Y DƯỢC
Giác mạc nhân tạo in 3D
Ảnh: Sơ đồ minh họa sự liên kết của các sợi
collagen trong vòi phun trong quá trình đùn bioink
Nếu một người bị tổn thương giác mạc
nghiêm trọng, điều họ cần làm là phải ghép
giác mạc. Tuy nhiên, ở Hàn Quốc có khoảng
2.000 bệnh nhân đang chờ hiến giác mạc vào
năm 2018 và trung bình họ chờ đợi từ 6 năm
trở lên để có giác mạc từ người hiến. Vì lý do
này, nhiều nhà khoa học đã nỗ lực phát triển
giác mạc nhân tạo. Giác mạc nhân tạo hiện có
sử dụng collagen tái tổ hợp hoặc được làm từ
các chất hóa học như polymer tổng hợp. Do
đó, nó không kết hợp tốt với mắt hoặc không
trong suốt sau khi cấy ghép giác mạc.
Các nhà khoa học đã phát triển công
nghệ in 3D giác mạc nhân tạo bằng cách sử
dụng giác mạc nhân tạo được làm bằng stroma
giác mạc và tế bào gốc. Do giác mạc này được
làm từ bioink có nguồn gốc từ mô giác mạc,
nó tương thích sinh học và công nghệ in tế bào
3D tái cấu trúc vi môi trường giác mạc, do đó,
độ trong của nó tương tự như giác mạc của
con người.
Giác mạc là lớp ngoài cùng mỏng bao
phủ đồng tử và nó bảo vệ mắt khỏi môi trường
bên ngoài. Đây là lớp đầu tiên tiếp nhận ánh
sáng và do đó nó cần phải trong suốt, di
chuyển khi con ngươi di chuyển và có sự linh
hoạt. Tuy nhiên, việc phát triển giác mạc nhân
tạo sử dụng vật liệu tương hợp sinh học tổng
hợp đã bị hạn chế vì các đặc tính liên quan đến
giác mạc khác nhau.
Ngoài ra, mặc dù nhiều nhà nghiên
cứu đã cố gắng lặp lại vi môi trường giác mạc
để trong suốt, các vật liệu được sử dụng trong
các nghiên cứu hiện tại đã hạn chế các cấu trúc
vi mô để ánh sáng xuyên qua.
Giác mạc của con người được tổ chức
theo mô hình mạng lưới các sợi cơ collagen.
Mô hình mạng tinh thể trong giác mạc có liên
quan trực tiếp đến độ trong của giác mạc, và
nhiều nghiên cứu đã cố gắng tái tạo giác mạc
của con người. Tuy nhiên, có một hạn chế
trong việc áp dụng cho ghép giác mạc do sử
dụng các chất gây độc tế bào trong cơ thể, các
đặc điểm giác mạc không đủ của chúng bao
gồm độ trong suốt thấp, v.v…
Để giải quyết vấn đề này, nhóm nghiên
cứu đã sử dụng ứng suất cắt được tạo ra trong
in 3D để chế tạo mô hình mạng lưới giác mạc
và chứng minh rằng giác mạc bằng cách sử
dụng một sinh học ma trận ngoại bào khử tế
bào có nguồn gốc giác mạc là tương thích sinh
học.
Trong quy trình in 3D, khi mực trong
máy in chảy ra qua một vòi và đi qua đầu
phun, lực ma sát sẽ tạo ra ứng suất cắt. Nhóm
nghiên cứu đã sản xuất thành công giác mạc
nhân tạo trong suốt với mô hình mạng lưới
giác mạc của con người bằng cách điều chỉnh
ứng suất cắt để kiểm soát mô hình sợi fibrils.
Nhóm nghiên cứu cũng quan sát thấy
rằng các sợi collagen được tái tạo cùng với
đường dẫn in tạo ra một mô hình mạng tương
tự như cấu trúc của giác mạc người bản địa
sau 4 tuần in vivo.
P.T.T, theo nanowerk.com
Nguồn: vista.gov.vn, 05/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 31/59
Israel phát triển phương pháp mới sản xuất các đồng vị phóng xạ
Ngày 5/6, Đại học Ben-Gurion, miền
Nam Israel cho biết các nhà nghiên cứu nước
này phát triển một phương pháp mới hiệu quả
và không tốn kém trong việc sản xuất các đồng
vị phóng xạ phục vụ cho y học và ứng dụng
trong lĩnh vực chụp ảnh như chụp cắt lớp
CT hay PET CT.
Phương pháp mới sexgiusp chấm dứt
nhu cầu về urani được làm giàu ở mức như các
loại vũ khí hạt nhân và một lò phản ứng hạt
nhân.
Trong y học hạt nhân, đồng vị
Technetium-99m thường được sử dụng trong
việc chụp ảnh. Đây là một đồng vị không ổn
định với một nửa chu kỳ tồn tại chỉ 6 tiếng
đồng hồ.
Một vấn đề bất cập khác của đồng vị
này là phải được sản xuất trong các phòng
chụp cắt lớp.
Thông thường, số lượng urani làm giàu
tương thích với vũ khí hạt nhân và một lò phản
ứng hạt nhân là yếu tố cần thiết để sản xuất
đồng vị phóng xạ gốc Molybdenum-99.
Đồng vị này phân rã tạo ra đồng vị
Technetium-99m. Phương pháp mới nói trên
của Israel sử dụng đồng vị Molybdenum-100,
một đồng vị có tính ổn định được tìm thấy
trong tự nhiên và một máy gia tốc tuyến tính
để sản xuất Molybdenum-99 và Technetium-
99m.
Quá trình này có thể tạo ra các đồng vị
phóng xạ có tuổi đời ngắn, một sản phẩm phụ
được sử dụng trong quá trình chụp PET CT
Công Đồng
Nguồn: vietnamplus.vn, 06/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp điều trị bệnh đa xơ cứng bằng công nghệ nano
Một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ
trường Đại học California, Irvine (UCI) mới
đây đã phát triển thành công một phương
pháp điều trị bằng công nghệ nano có nguồn
gốc từ tế bào gốc tủy xương, giúp ngăn chặn
nhiều triệu chứng của căn bệnh đa xơ cứng
(MS) ở chuột. MS là chứng rối loạn não bộ và
tủy sống với chức năng thần kinh bị giảm sút
kết hợp với việc hình thành sẹo trên lớp phủ
ngoài của các tế bào thần kinh. Các nhà khoa
học hy vọng trong tương lai, liệu pháp tiềm
năng mới sẽ được ứng dụng trong điều trị trên
người.
Weian Zhao, phó giáo sư khoa học
dược phẩm và kỹ thuật y sinh, đồng thời là
tác giả chính của bài báo đã hợp tác với các
chuyên gia từ Trung tâm nghiên cứu tế bào
gốc Sue & Bill Gross. Ông cho biết: "Cho đến
nay, các liệu pháp tế bào gốc điều trị các
bệnh tự miễn và thoái hóa thần kinh chưa
đem lại kết quả đồng nhất trong các thử
nghiệm lâm sàng, một phần vì chúng tôi chưa
tìm ra cách thức hoạt động của các liệu pháp
điều trị. Nghiên cứu mới giúp làm sáng tỏ vấn
đề đó cũng như mở đường cho việc tiến hành
những thử nghiệm lâm sàng trên người trong
tương lai".
Trong những thử nghiệm trước đây,
các tế bào gốc tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch
được lấy ra từ tủy xương và được kích hoạt
bằng interferon gamma - nhóm các protein tự
nhiên được sản xuất bởi các tế bào của hệ
miễn dịch thường bị mắc kẹt trong các cơ
quan hoạt động như màng lọc trước khi đến
cơ quan mục tiêu. Còn trong phát hiện mới,
các nhà khoa học đã chiết xuất các hạt có kích
thước nano được gọi là bóng xuất bào
(exosome) từ tế bào gốc và tiêm chúng vào cơ
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 32/59
thể loài động vật gặm nhấm bị mắc chứng
MS.
Tác giả nghiên cứu Reza Mohammadi,
tiến sĩ của UCI về khoa học vật liệu và kỹ
thuật cho biết: “Các exosome chở trên mình
các phân tử ARN và protein chống viêm và
bảo vệ thần kinh nên có khả năng trượt qua
hàng rào máu - tủy sống. Ngoài phục hồi các
kỹ năng vận động đã bị mất cũng như giảm
thiểu nguy cơ tổn thương thần kinh do chứng
MS gây ra, các bóng xuất bào còn có khả
năng bình thường hóa vai trò của hệ thống
miễn dịch của các đối tượng, trong khi việc
sử dụng các loại thuốc điều trị thông thường
khác thường không mang lại hiệu quả”.
Các nhà khoa học cho biết nghiên cứu
vẫn đang trong quá trình thử nghiệm và liệu
pháp điều trị mới sẽ được tiến hành thử
nghiệm trên cơ thể người vào đầu năm 2020,
và sẽ bắt đầu với những bệnh nhân tiểu đường
Tuýp 1. Milad Riazifar - tiến sĩ khoa học
dược lý trong phòng thí nghiệm của Zhao
hiện đang chuẩn bị thực hiện thử nghiệm
phương pháp điều trị tại Trung tâm City of
Hope. Ông chia sẻ: “Nếu thành công, phương
pháp mới có thể được coi là một bước tiến,
mở đường cho khả năng điều trị các bệnh tự
miễn khác, bao gồm bệnh đa xơ cứng".
Bài báo về kết quả nghiên cứu được
đăng tải trên tạp chí ACS Nano.
P.K.L, theo phys.org
Nguồn: vista.gov.vn, 12/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Miếng dán giúp bệnh nhân tiểu đường không bị cắt cụt chi
Các nhà khoa học Mexico đã phát triển
miếng dán chứa vi khuẩn gram âm
Bdellovibrio để điều trị các bệnh nhiễm trùng
kháng lại thuốc kháng sinh do loét chân, giúp
cứu hàng nghìn bệnh nhân tiểu đường khỏi bị
cắt cụt chi.
Theo Tân Hoa Xã, các nhà khoa học
Mexico ở Viện Bách khoa quốc gia Trung
Mỹ đã phát triển một loại miếng dán để điều
trị các bệnh nhiễm trùng kháng kháng sinh do
loét chân ở những bệnh nhân tiểu đường. Đó
là những vết thương không lành có thể dễ
dàng trở thành nơi trú ẩn của những loài vi
khuẩn nguy hiểm, hậu quả có thể là phải cắt
cụt chi.
Các chuyên gia y tế có thể chỉ sử dụng miếng dán
hoặc kết hợp nó với kháng sinh khi điều trị cho
các bệnh nhân khác nhau - Ảnh: Pixabay
Các hoạt chất trong miếng dán là vi
khuẩn gram âm Bdellovibrio mà một trong
những đặc điểm đáng chú ý là các thành viên
có thể ký sinh trên các vi khuẩn gram âm
khác và ăn các chất độc sinh học, ví dụ
protein và a xít nucleic, của vật chủ của
chúng. Chúng có thể kiềm chế sự phát triển
của các vi sinh vật khác. Đồng thời, theo các
nhà phát triển, chúng có thể nhanh chóng loại
bỏ mầm bệnh nguy hiểm khỏi vết thương.
Hơn nữa, vi khuẩn hoạt động chống lại các
mầm bệnh kháng thuốc nhất, bao gồm cả
Pseudomonas aeruginosa. Hiện miếng dán
đang ở giai đoạn thử nghiệm. Trong tương lai
gần, các nhà khoa học đang hy vọng chuyển
sang thử nghiệm lâm sàng.
Theo các nhà khoa học, hiệu quả của
miếng dán khác nhau tùy thuộc vào mức độ
nghiêm trọng của nhiễm trùng. Hiển nhiên là
khi nhiễm trùng chuyển sang giai đoạn hoại
thư thì miếng dán sẽ không có hiệu quả.
Nhưng ở giai đoạn nhiễm trùng sớm hơn,
miếng dán có thể được kết hợp dùng cùng với
kháng sinh.
Theo số liệu do các tổ chức y tế công
bố trên diễn đàn “Liên minh vì những đôi
chân tiểu đường", khoảng 100.000 người ở
Mexico đã phải cắt cụt chi do bệnh tiểu
đường, nguyên nhân gây tử vong đứng hàng
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 33/59
thứ 2 ở nước này. Vì thế, tìm cách loại bỏ các
vi sinh vật ở ổ nhiễm trùng bàn chân của
những bệnh nhân tiểu đường là vấn đề bức
thiết. Christian Mariel Saenz Santos, một
chuyên gia về công nghệ sinh học tại Viện
Bách khoa quốc gia Trung Mỹ khẳng định
các chuyên gia y tế có thể chỉ sử dụng miếng
dán hoặc kết hợp nó với kháng sinh khi điều
trị cho các bệnh nhân khác nhau.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 10/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Cảm biến giống thiết bị tai nghe Earbud có khả năng dự đoán cửa sổ thụ thai của phụ nữ
Việc xác định thời điểm dễ thụ thai
hay còn gọi là “cửa sổ thụ thai” rất quan trọng
đối với những phụ nữ đang cố gắng mang thai
hoặc cho những người muốn tránh mang thai.
Tuy nhiên, quá trình này tương đối phức tạp,
gây bất tiện cho người sử dụng và thường
không cho kết quả chính xác. Lấy cảm hứng
từ kinh nghiệm cá nhân, Vanessa Xi, người
sáng lập Phòng Thí nghiệm Yono có trụ sở tại
Thung lũng Silicon, đã phát triển một thiết bị
đeo giống như máy trợ thính, cho phép khả
năng thu thập và phân tích dữ liệu của người
sử dụng, đồng thời, cải thiện đáng kể độ
chính xác của kết quả.
Thời điểm rụng trứng cũng như các dấu
hiệu rụng trứng có thể được xác định bằng
nhiều phương pháp khác nhau dựa vào các yếu
tố như: mức progesterone trong máu, sinh thiết
nội mạc tử cung, siêu âm, dụng cụ que thử
ngày rụng trứng và lập biểu đồ nhiệt độ cơ thể
cơ bản (BBT). Trong đó, hai phương pháp
cuối cùng được sử dụng phổ biến nhất.
Thân nhiệt cơ bản (BBT) là nhiệt độ
thấp nhất của cơ thể đạt được trong khoảng
thời gian 24 giờ và thời điểm tốt nhất để đo là
từ 2 giờ sáng đến 6 giờ sáng. Sau khi rụng
trứng, nhiệt độ cơ thể có thể tăng nhẹ từ 0,3
độ đến 0,6 độ C. Biểu đồ chi tiết, cẩn thận,
hàng ngày sự dao động nhiệt độ này trong
một khoảng thời gian dài được sử dụng để
đánh dấu cửa sổ thụ thai của một người.
Điểm hạn chế ở các phương pháp đo
BBT truyền thống là tính bất tiện, không đầy
đủ và thiếu chính xác. Để có được hình ảnh
chính xác về cửa sổ thụ thai của một người,
BBT phải được đo mỗi sáng ngay khi vừa
ngủ dậy, vào một thời điểm nhất định. Bên
cạnh đó, sự chính xác không cao trong quá
trình nhiệt kế tiếp xúc với da cũng đem lại sự
bất tiện, kém hiệu quả cho người sử dụng.
Vanessa Xi và các cộng sự đã quyết
tâm đơn giản hóa quá trình này bằng việc
phát triển một giải pháp gồm hai phần. Phần
đầu tiên là Yono - cảm biến có kích thước
nhỏ chỉ bằng thiết bị tai nghe earbud, cho
phép ghi lại nhiệt độ cơ thể phụ nữ từ 70 đến
120 lần mỗi đêm, trong khi, đối với phương
pháp truyền thống, việc đo chỉ được thực hiện
1 lần tại 1 thời điểm nhất định. Các kết quả
đo nhiệt độ các phần sâu (phần lõi) cơ thể cho
thấy độ chính xác hơn nhiều so với phương
pháp sử dụng nhiệt kế tiếp xúc với da vốn có
thể bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ môi trường. Tất
cả dữ liệu được lưu giữ trên bo mạch của thiết
bị mà không cần chia sẻ qua kết nối Wi-Fi
hoặc Bluetooth.
Phần thứ hai của giải pháp là trạm cơ
sở Yono có chức năng đồng bộ hóa dữ liệu
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 34/59
với ứng dụng điện thoại thông minh Yono
(thiết kế dành cho hệ điều hành iOS trong
thời điểm này). Ứng dụng này sử dụng các
thuật toán học máy (máy học - machine
learning) để vẽ biểu đồ thể hiện khả năng sinh
sản hàng tháng, từ đó, dự đoán cửa sổ thụ
thai.
Các nhà nghiên cứu cho biết họ đang
thử nghiệm để nâng cao các thuật toán của
công nghệ nhằm đưa ra những dự đoán chính
xác hơn nữa, từ đó, cải thiện độ chính xác của
Yono. Bước tiếp theo trong việc phát triển các
thuật toán đó cũng nằm trong kế hoạch của
Peter Song, giáo sư về thống kê sinh học tại
trường Đại học Michigan. Yono có khả năng
thu thập lượng lớn dữ liệu, tuy nhiên, thiết bị
có thể bị nhiễu âm, gây bất tiện cho người sử
dụng do bị ảnh hưởng bởi chuyển động của
đầu trong quá trình đọc kết quả hoặc trong
trường hợp nút tai rơi ra trong đêm.
Trong bài báo được xuất bản trên tạp
chí Kỷ yếu về Kỹ thuật y sinh của IEEE,
Song đã chỉ rõ cách thức các thuật toán ông
sử dụng loại bỏ các kết quả đọc không phù
hợp và xác định các điểm dữ liệu phù hợp
nhất. Ông lấy ví dụ về việc loại bỏ dữ liệu
nhiệt độ dưới 32 độ C, vì mức nhiệt này
không phù hợp về mặt sinh học. Song hy
vọng nghiên cứu mới có thể mang lại lợi ích
cho khả năng phát triển các thiết bị đeo thu
thập dữ liệu khác. Ngoài ra, ông cũng chia sẻ
rằng nhóm nghiên cứu mong muốn đưa dữ
liệu vào sử dụng hiệu quả hơn nên sẽ nỗ lực
cải thiện hơn nữa chất lượng của thiết bị.
Yono hiện đang được bán trên thị
trường với mức giá từ 145,99 USD, và người
sử dụng có thể thanh toán bằng tài khoản FSA
(Tài khoản chi tiêu linh hoạt) / HSA (Tài
khoản tiết kiệm sức khỏe).
P.K.L, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 13/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Ứng dụng mới giúp chẩn đoán bệnh cho trẻ em
Một ứng dụng điện thoại thông minh
mới có thể phân tích tiếng ho của trẻ nhằm hỗ
trợ bố mẹ khi chưa kịp thời đưa con đến bác
sĩ để kiểm tra. Dẫn đầu bởi Tiến sĩ Paul
Porter và PGS. Udantha Abeyratne, các nhà
khoa học tại Đại học Queensland của Úc đã
bắt đầu bằng cách thu thập cơ sở dữ liệu về
các bản ghi âm tiếng ho. Dữ liệu được tập
hợp từ 1.437 trẻ nhập viện từ 29 tháng tuổi
đến 12 tuổi, những trẻ mắc nhiều bệnh về
đường hô hấp đã được chẩn đoán theo quy
ước.
Với sự trợ giúp từ các thuật toán học
máy không giống như các thuật toán được sử
dụng để phát triển hệ thống nhận dạng giọng
nói, các nhà khoa đã sử dụng 852 bản ghi âm
để tạo ra một ứng dụng để phân biệt âm thanh
khác nhau liên quan đến viêm phổi, chứng
viêm tắc thanh quản, bệnh hen suyễn, viêm
tiểu phế quản,… Khi ứng dụng được sử dụng
để chẩn đoán cho 585 trẻ em khác (dựa trên
bản ghi âm), độ chính xác của nó dao động từ
81 đến 97%.
Khi ứng dụng được cải tiến, nhóm
nghiên cứu hy vọng rằng nó có thể được sử
dụng cho những bậc phụ huynh ở vùng sâu
vùng xa thiếu các cơ sở y tế, khi mà bác sĩ tư
vấn từ xa cho bệnh nhân thông qua hệ thống
telehealth hoặc thậm chí là hệ thống chẩn
đoán phụ trợ. Porter cho biết: "Có thể khó
phân biệt giữa các rối loạn hô hấp ở trẻ em,
ngay cả đối với các bác sĩ có kinh nghiệm.
Nghiên cứu này cho thấy công nghệ mới, các
khái niệm toán học, học máy và y học lâm
sàng có thể được kết hợp thành công để tạo
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 35/59
ra những xét nghiệm chẩn đoán hoàn toàn
mới".
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Respiratory Research.
N.T.T, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 14/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thành công kính hiển vi chụp được DNA
Hình ảnh tế bào được chụp bằng kính
hiển vi DNA - Ảnh: Internet
Các nhà nghiên cứu tại Đại học MIT
đã chế tạo thành công loại kính hiển vi DNA,
có thể chụp được tế bào sống của chúng ta.
Với loại kính hiển vi DNA này, theo
các nhà khoa học chúng ta có thể thấy chi tiết
về vị trí chính xác của DNA và RNA trong
một tế bào sống.
Theo Live Science thì các nhà khoa
học tại Đại học MIT đã phải mất tới 6 năm để
hoàn thiện kính hiển vi DNA này.
"Kính hiển vi DNA là một cách hoàn
toàn mới để hình dung các tế bào, nắm bắt
đồng thời cả thông tin không gian và di
truyền từ một mẫu vật", Joshua Weinstein,
nghiên cứu viên tại Viện nghiên cứu sau tiến
sĩ tại Đại học MIT, cho biết.
Trước đây việc chụp hình các tế bào
rất đắt tiền và cần những máy móc rất hiện
đại nhưng không cho ra kết quả như ý. Tuy
nhiên với phương pháp mới thì việc này dễ
dàng hơn rất nhiều. Cụ thể, các nhà khoa học
sử dụng các thẻ nhỏ - được tạo ra từ các chuỗi
DNA tùy chỉnh, mỗi chuỗi dài khoảng 30
nucleotide - bám vào mọi phân tử DNA và
RNA trong một tế bào. Sau đó, các thẻ nhỏ
này được sao chép hàng trăm lần và các bản
sao này tương tác với nhau, chúng kết hợp và
tạo ra các nhãn DNA độc đáo, các nhà nghiên
cứu cho biết.
Tương tác giữa các thẻ DNA này là
chìa khóa. Sau khi các nhà nghiên cứu thu
thập các phân tử sinh học được dán nhãn và
sắp xếp chúng, họ có thể sử dụng thuật toán
máy tính để giải mã và tái cấu trúc các vị trí
ban đầu của thẻ trong tế bào, tạo ra hình ảnh
ảo được mã hóa màu của mẫu. Các nhà
nghiên cứu cho biết việc xác định vị trí của
từng phân tử tương tự như cách các trạm thu
phát sóng điện thoại di động sắp xếp các vị trí
của điện thoại di động gần đó.
Kỹ thuật này có thể giúp các nhà
nghiên cứu hiểu rõ hơn về các loại bệnh khác
nhau ở người. Chẳng hạn, trong nghiên cứu,
các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng kính hiển vi
DNA có thể lập bản đồ vị trí của các tế bào
ung thư ở người trong một mẫu. Những thẻ
DNA tổng hợp này thậm chí có thể giúp các
nhà khoa học lập bản đồ vị trí của kháng thể,
thụ thể và phân tử trên các tế bào khối u, họ
cho biết thêm.
"Chúng tôi đã sử dụng DNA theo cách
tương tự về mặt toán học với các photon
trong kính hiển vi ánh sáng", ông Weinstein
nói. "Điều này cho phép chúng ta hình dung
sinh học cấp độ tế bào chứ không phải như
mắt người".
Nghiên cứu này được công bố trực
tuyến ngày 20.6 trên tạp chí Cell.
Thiên Hà, theo Live Science
Nguồn: motthegioi.vn, 23/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 36/59
Những người gặp vấn đề về đi lại có thể được hưởng lợi từ các thiết bị đeo
Ảnh: Dự án FREEHAB sẽ phát triển các thiết bị
phục hồi chức năng mềm, có thể đeo được với
mục đích giúp người già và người tàn tật
đi lại và chuyển từ tư thế ngồi sang tư thế
đứng một cách thoải mái và an toàn
Cuộc sống của hàng ngàn người có
vấn đề về di chuyển có thể được thay đổi nhờ
nghiên cứu đột phá của các nhà khoa học tại
Đại học Bristol.
Được dẫn dắt bởi Giáo sư Robot của
Đại học Bristol Jonathan Rossiter, FREEHAB
xây dựng dựa trên những khám phá từ dự án
Right Trousers trước đây của ông, nhóm
nghiên cứu của ông đã phát triển các vật liệu
mềm mới có thể được sử dụng như cơ bắp
nhân tạo.
Giáo sư Rossiter cho biết: "Có hơn
10,8 triệu người khuyết tật sống ở Anh hiện
nay. Gần 6,5 triệu người bị suy giảm khả
năng vận động. Những con số này đang gia
tăng khi dân số trung bình tăng lên và các
vấn đề di chuyển liên quan đến tuổi do các
tình trạng như viêm khớp và đột quỵ trở nên
phổ biến hơn".
Phục hồi chức năng là rất quan trọng
đối với bệnh nhân, nhưng theo Giáo sư
Rossiter, kết quả bị cản trở do thiếu công cụ
dễ sử dụng để giúp các nhà trị liệu phân tích
chính xác hiệu suất di động và đưa ra các
chương trình hiệu quả; và khi việc phục hồi
chức năng ngày càng được ưa chuộng tại nhà
của bệnh nhân trong trường hợp không có nhà
trị liệu, cần có những cách tốt hơn để hỗ trợ
di chuyển và huấn luyện tại nhà.
Các vật liệu mà cơ bắp nhân tạo được
tạo ra bao gồm vật liệu gel điện động có thể
in 3D và chuỗi khí nén mềm nhưng mạnh,
thay đổi hình dạng khi được bơm căng và có
thể tạo ra lực đáng kể.
Giáo sư Rossiter cho biết: "Cùng với
công nghệ cảm biến tích hợp, chúng tôi sẽ tạo
ra các thiết bị mà các nhà vật lý trị liệu có thể
sử dụng để xác định chính xác các hạn chế
trong chuyển động của bệnh nhân, do đó cho
phép họ lên kế hoạch cho các chương trình
đào tạo được cá nhân hóa, chúng tôi cũng sẽ
tạo ra các thiết bị đơn giản hơn mà bệnh
nhân có thể sử dụng để tăng cường các hoạt
động vận động và tập thể dục một cách tự tin
khi thiếu nhà trị liệu bên cạnh".
Để phát triển dự án, các nhà nghiên
cứu sẽ làm việc với các nhà vật lý trị liệu
trong NHS và với những người đã trải qua vật
lý trị liệu cho các vấn đề di chuyển của họ.
Sau nghiên cứu và phát triển, mục tiêu
là tiến hành các thử nghiệm lâm sàng và sau
đó đưa các thiết bị vào chuỗi cung ứng sau
khi dự án kết thúc.
P.T.T, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 26/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Điều trị viêm não có thể giúp giảm chứng ù tai
Một nghiên cứu mới do Đại học
Arizona - Hoa Kỳ dẫn đầu đã phát hiện ra một
mục tiêu điều trị tiềm năng mới, để giảm
chứng ù tai bằng cách khai thác trong chính
bộ não. Chứng ù tai là triệu chứng mất thính
giác, gây ra bởi tiếng ồn lớn. Đứng quá gần
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 37/59
loa, đi biểu diễn nhiều, hoặc làm việc trong
xưởng mộc mà không có thiết bị bảo vệ thính
giác, thì sẽ có nguy cơ hỏng thính giác vĩnh
viễn.
Những nghiên cứu gần đây đã tìm thấy
sự liên kết. Viêm là phản ứng của cơ thể đối
với tổn thương hoặc nhiễm trùng, do đó mất
thính lực do tiếng ồn (NIHL) có thể gây viêm
trong đường dẫn thính giác. Và có thể là
nguyên nhân gây ra chứng ù tai.
Để điều tra, các khoa học tập trung vào
những con chuột bị NIHL, xem xét tình trạng
viêm thần kinh ở vỏ não thính giác. Nhóm
nghiên cứu nhận thấy rằng trong phần não
của chúng, những con chuột đó có mức độ
phân tử cao hơn gọi là các cytokine tiền sản
xuất và các tế bào gọi là microglia dường như
được kích hoạt với số lượng cao hơn. Cả hai
điều này được biết là có liên quan đến phản
ứng viêm thần kinh.
Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra một
phân tử gọi là yếu tố hoại tử khối u alpha
(TNF-α) có liên quan đến viêm dây thần kinh
và ù tai. Khi các nhà nghiên cứu loại bỏ gen
chịu trách nhiệm về TNF-a, họ phát hiện ra
rằng tình trạng viêm thần kinh đã được ngăn
chặn và những con chuột không còn có dấu
hiệu ù tai. Kết quả tương tự cũng được thể
hiện khi TNF-α bị chặn sử dụng thuốc ở một
nhóm chuột khác.
Để kiểm tra sự đảo ngược của mối liên
hệ giữa ù tai và TNF-a, các nhà nghiên cứu
cũng truyền thêm phân tử vào vỏ thính giác
chính của các nhóm chuột khác. Chắc chắn,
các phân tử bổ sung đã được tìm thấy để kích
hoạt hành vi ù tai cả ở chuột có thính giác
bình thường và nhóm được cho thiếu TNF-α.
Nếu phát hiện này chuyển sang người,
các loại thuốc ngăn chặn TNF-a có thể trở
thành một phương pháp điều trị hoàn toàn
mới cho chứng ù tai. Các phương pháp điều
trị tiềm năng khác như tai nghe được phát
triển bởi các nhà nghiên cứu của Đại học
Michigan cung cấp các xung điện nhỏ vào
não.
Đ.T.V, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 27/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Mỹ bào chế thuốc giảm đau bằng nọc độc cá nóc
Chất độc thần kinh tetrodotoxin có trong nọc độc
loài cá nóc có thể thay thế hiệu quả cho thuốc
giảm đau opioid - Ảnh: Wikipedia Commons
Theo các nhà khoa học Mỹ, thuốc
giảm đau từ nọc độc cá nóc (fugu), một trong
những loài cá nguy hiểm nhất trên Trái đất,
có thể thay thế thuốc giảm đau opioid vốn
gây nghiện ở bệnh nhân.
Theo hms.harvard.edu, các nhà khoa
học của Trường Harvard Medical School
(Mỹ) đã tạo ra chất gây mê từ nọc độc cá nóc
(fugu) và đã thử nghiệm thành công trên
chuột. Một loại thuốc giảm đau mới trên cơ
sở đó có thể thay thế thuốc giảm đau opioid
vốn gây nghiện ở bệnh nhân.
Thuốc giảm đau opioid được sử dụng
cho hội chứng đau nặng và trong trường hợp
các loại thuốc giảm đau thông thường không
có tác dụng. Mặc dù một dẫn xuất của thuốc
phiện làm giảm đau bằng cách chặn các thụ
thể trong não và tủy sống, chỉ sau một thời
gian ngắn nó thường gây nghiện và có thể gây
tử vong khi dùng quá liều.
Vì vậy, các nhà khoa học đang tìm
kiếm một sự thay thế hiệu quả cho opioid và
sự chú ý của họ đã bị thu hút bởi một trong
những chất độc thần kinh, tetrodotoxin, được
tìm thấy ở nhiều loài động vật biển và trên
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 38/59
cạn. Đó là một trong những chất độc thần
kinh mạnh nhất, hiệu quả gấp 100 lần so với
kali xyanua. Nó rất nguy hiểm, ngay cả với
liều lượng nhỏ, vì nó gây tê liệt, chỉ cần 1-2
miligam là đủ để giết chết một người trưởng
thành. Một món đặc sản phổ biến của Nhật
Bản - cá fugu - chứa rất nhiều tetrodotoxin
đến nỗi bất kỳ sai lầm nào trong quá trình chế
biến đều gây ra hậu quả chết người. Để có
được giấy phép nấu ăn fugu, đầu bếp phải
tham gia khóa học 2 năm đặc biệt, sau đó mới
nhận được giấy phép chế biến cá.
Ngộ độc tetrodotoxin có trong cá nóc
(fugu) được mô tả là diễn ra nhanh và cấp
tính. Nó bắt đầu với cảm giác tê ở miệng, sau
đó là tê liệt các cơ quan hô hấp và tử vong.
Người bị ngộ độc vẫn tỉnh táo cho đến cuối
trước khi chết. Các nhà khoa học đã phát hiện
ra rằng tác dụng của tetrodoxin tương tự như
opioid, vì chất độc ngăn chặn các kênh ion
trong màng tế bào thần kinh và tế bào cơ, do
đó ngăn chặn việc truyền tín hiệu thần kinh
và gây tê liệt cơ bắp. Theo một nghiên cứu
được công bố trên tạp chí Nature
Communications, một phương pháp đã được
tìm thấy cho phép tetrodoxin được đưa vào cơ
thể một cách từ từ với liều lượng nhỏ.
Nhóm nghiên cứu của Giáo sư Daniel
Solomon Kohane, thay vì nạp chất độc vào
các hạt, như đã được thực hiện trước đó thì lại
liên kết hóa học với một loại polymer phân
hủy sinh học có tác dụng triệt tiêu tác dụng
độc hại. Sự kết hợp của tetrodotoxin với
polymer bằng chất tăng cường hóa học, một
hợp chất làm cho mô thần kinh dễ thấm hơn,
cho phép sử dụng một lượng nhỏ hơn
tetrodotoxin.
Quá trình thủy phân diễn ra trong cơ
thể sẽ dần dần phá hủy polymer sau khi tiêm,
giải phóng liều tetrodoxin thấp nhất không
gây hại cho con người. Các thử nghiệm trên
chuột, theo giáo sư Kohane, đã thành công.
Các nhà khoa học đã đạt được sự phong tỏa
dây thần kinh trong tối đa 3 ngày với độc tính
tại chỗ hoặc toàn thân tối thiểu mà không gây
dấu hiệu tổn thương mô.
Về mặt lý thuyết, các nhà nghiên cứu
tin rằng, việc ngăn chặn tín hiệu thần kinh ở
người có thể có tác dụng lâu hơn và hiệu quả
hơn. Giáo sư Daniel Solomon Kohan cho
rằng điều này rất quan trọng vì đối với bệnh
nhân bị ung thư, chẳng hạn trong vài ngày,
hoặc có thể vài tuần, họ sẽ không còn cảm
thấy đau. Nhưng tất nhiên, các nhà khoa học
cần nghiên cứu thêm trước khi biết rõ liệu
phương pháp từng thử nghiệm trên chuột có
an toàn và hiệu quả đối với con người hay
không.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 22/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bảo vệ chống thiệt hại do bức xạ liều cao bằng phương pháp mới
Xạ trị là một trong những phương pháp
hiệu quả nhất để tiêu diệt các tế bào ung thư
và thu nhỏ khối u. Khoảng 50% bệnh nhân có
khối u nằm trong khoang tiêu hóa (gan, tuyến
tụy, đại tràng, tuyến tiền liệt…) được điều trị
bằng xạ trị, làm tăng tỷ lệ sống sót của bệnh
nhân ung thư trong những thập kỷ gần đây.
Tuy nhiên, xạ trị chuyên sâu không chỉ làm
hỏng các tế bào ung thư, mà cả các tế bào
ruột khỏe mạnh, dẫn đến gây độc cho 60%
bệnh nhân được điều trị. Dù theo quan sát ảnh
hưởng gây độc của xạ trị đã giảm sau khi quá
trình xạ trị kết thúc, nhưng 10% số bệnh nhân
được điều trị lại có sự phát triển của hội
chứng đường tiêu hóa, một bệnh với đặc
trưng là tế bào ruột bị chết, dẫn đến phá hủy
toàn bộ ruột và bệnh nhân tử vong.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 39/59
Tổn thương tế bào ruột khỏe mạnh là
nhược điểm chính của xạ trị, dẫn đến sự gián
đoạn và thất bại trong điều trị hiệu quả ung
thư, có khả năng nhanh chóng làm cho khối u
tái phát. Giờ đây, một phát hiện mới hữu ích
của các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên
cứu Ung thư quốc gia Tây Ban Nha (CNIO)
có thể giúp bảo vệ các tế bào ruột khỏe mạnh
khỏi tổn thương do bức xạ. Những phát hiện
trên chuột làm thay đổi hoàn toàn cách con
người quản lý phơi nhiễm bức xạ liều cao
phục vụ cho cả nghiên cứu và điều trị ung thư
cũng như trong các lĩnh vực như thám hiểm
không gian hoặc năng lượng hạt nhân.
Nhóm nghiên cứu tập trung vào URI,
một loại protein có chức năng chưa được hiểu
rõ. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây của
nhóm đã phát hiện ra rằng mức độ biểu hiện
bất thường của protein này trong một số cơ
quan có thể gây ung thư. Nghiên cứu đã được
công bố trên tạp chí Science cho thấy hàm
lượng protein URI cao bảo vệ chuột khỏi tổn
thương đường ruột do bức xạ, trong khi mức
protein thấp hoặc không phát hiện thấy có thể
dẫn đến hội chứng đường tiêu hóa và tử vong.
Nabil Djouder, trưởng nhóm nghiên
cứu và cũng là người từng nghiên cứu protein
URI trong thời gian dài, đã phát triển các mô
hình chuột di truyền đầu tiên để xác định các
chức năng của protein này ở động vật có vú.
Kết quả quan sát cho thấy mức URI cao bảo
vệ tế bào ruột khỏi tổn thương ADN khi được
nuôi cấy. Do đó, các nhà khoa học đã xem xét
liệu chức năng bảo vệ của URI có hiệu quả
trong môi trường ống nghiệm và liệu nó có
khả năng làm giảm tác dụng của bức xạ liều
cao hay không và sau đó là hội chứng đường
tiêu hóa.
Để giải quyết những vấn đề này, ba mô
hình chuột di truyền đã được phát triển. Đó là
những mô hình chuột di truyền thử nghiệm
đầu tiên được sử dụng để nghiên cứu vai trò
của protein URI và ảnh hưởng của bức xạ đến
ruột. Một trong số các mô hình đó được xem
như mô hình kiểm soát để xác định cụ thể
URI được thể hiện ở vị trí nào trong ruột; Một
mô hình khác biểu thị mức độ cao protein
trong ruột và trong mô hình còn lại, gen đã bị
xóa bỏ để giảm mức URI trong biểu mô ruột.
Những con chuột đối chứng cho thấy
URI được thể hiện trong cụm tế bào gốc
không hoạt động, cụ thể là nằm trong các
khoang ở ruột. URI bảo vệ các tế bào này
khỏi độc tính do bức xạ liều cao. Sau khi
được chiếu xạ liều cao, 100% số chuột với
biểu hiện nồng độ URI cao trong ruột, vẫn tồn
tại không bị mắc hội chứng đường tiêu hóa,
trong khi ở điều kiện bình thường, 70% số
chuột đó chết. Ngược lại, tất cả những con
chuột bị loại bỏ URI đều chết vì hội chứng
đường tiêu hóa.
Chaves-Pérez, đồng tác giả nghiên cứu
giải thích: "Điểm khác biệt giữa quần thể tế
bào gốc cụ thể này là trong điều kiện bình
thường (khi chúng biểu hiện URI), các tế bào
này không hoạt động, nghĩa là chúng không
sinh sôi. Do đó, chúng không bị tổn thương
do bức xạ. Tuy nhiên, khi không có URI trong
các tế bào gốc đó, oncogene c-MYC biểu hiện
quá mức, dẫn đến sự tăng sinh tế bào và làm
tăng độ nhạy cảm của các tế bào gốc với tổn
thương bức xạ. Do đó, các tế bào này chết,
ruột không tự sửa chữa và sau đó, chuột
chết".
Dù phát hiện nghiên cứu cần được xác
nhận bởi các nghiên cứu tiếp theo, nhưng
Djouder tin rằng các chất ức chế c-MYC có
thể hữu ích để giảm thiểu hội chứng tiêu hóa
do bức xạ ở bệnh nhân. "Nghiên cứu của
chúng tôi mở ra con đường mới để điều trị và
ngăn ngừa hội chứng đường tiêu hóa bằng
cách ức chế hoặc loại bỏ c-MYC. Các chất ức
chế này sẽ làm giảm tác dụng phụ gây chết
người của bức xạ liều cao, cho phép tăng liều
lượng bức xạ để điều trị ung thư hiệu quả và
bảo vệ bệnh nhân khỏi hội chứng đường tiêu
hóa", Djouder giải thích. "Ngoài bảo vệ
chống tác dụng phụ gây chết người của bức
xạ, các chất ức chế c-MYC được sử dụng
trong điều trị ung thư, có nghĩa là chúng có
thể có hiệu quả kép".
Các nhà khoa học đang tiến hành
nghiên cứu liệu các cơ quan khác như da với
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 40/59
khả năng tái tạo, có cụm tế bào gốc nhất định
với mức URI cao hay không.
N.P.D, theo medicalxpress.com
Nguồn: vista.gov.vn.vn, 07/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Mỹ tìm ra công nghệ mới phát hiện sớm tế bào ung thư
Được công bố trên tạp chí y học
Science Translistic Medicine, công nghệ
Cytophone sử dụng xung ánh sáng laser chiếu
từ bên ngoài da để đốt nóng các tế bào khối u
ác tính và tiêu diệt chúng.
Thử nghiệm công nghệ Cytophone trên người
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Y
khoa Arkansas, Mỹ (UAMS) cho biết đã phát
triển và thử nghiệm thành công một loại laser
mới có thể tìm và tiêu diệt những tế bào ung
thư hắc tố ác tính mà không cần lấy mẫu xét
nghiệm. Phương pháp này có thể giúp phát
hiện sớm các tế bào khối u và ngăn chúng lây
lan sang các bộ phận khác trong cơ thể thông
qua máu.
Công nghệ mới, được đặt tên là
Cytophone, sử dụng các xung ánh sáng laser
chiếu từ bên ngoài da để đốt nóng các tế bào
bị bệnh. Tia laser này chỉ tác động lên các tế
bào ung thư hắc tố ác tính mà không làm tổn
thương những tế bào khỏe mạnh. Cytophone
sau đó sử dụng kỹ thuật siêu âm để dò những
sóng nhỏ phát ra từ hiệu ứng đốt nóng này,
qua đó giúp phát hiện và tiêu diệt các tế bào
bị bệnh.
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm công
nghệ Cytophone bằng cách chiếu tia laser vào
tay của 47 tình nguyện viên, trong đó có 19
người khỏe mạnh và 28 bệnh nhân có khối u
ác tính. Kết quả, cho thấy trong vòng 10 giây
đến 60 phút, Cytophone có thể xác định các tế
bào ung thư ở 27 trong số 28 bệnh nhân.
Công nghệ laser cho thấy độ nhạy gấp 1.000
lần so với các phương pháp lấy mẫu máu xét
nghiệm thông thường.
Trưởng nhóm nghiên cứu, ông
Vladimir Zharov cho biết, trước đây, để kiểm
tra sự lây lan của ung thư, các bác sĩ thường
phải lấy mẫu máu. Tuy nhiên, phương pháp
này thường khó phát hiện các tế bào khối u,
nhất là ở những bệnh nhân ung thư giai đoạn
đầu. Những trường hợp kết quả xét nghiệm
dương tính thường đồng nghĩa với nồng độ
cao tế bào khối u lưu hành trong máu, khi đó,
ung thư đã di căn sang các cơ quan khác và
căn bệnh trở nên quá muộn để điều trị.
Nhóm nghiên cứu hy vọng có thể tiếp
tục cải thiện công nghệ Cytophone, cho phép
dò tìm những tế bào khối u gây ra bởi những
căn bệnh ung thư khác ngoài ung thư hắc tố
ác tính.
BT
Nguồn: baochinhphu.vn, 17/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Loại thuốc mới giúp tăng cơ hội sống cho bệnh nhân ung thư vú
Theo các nhà nghiên cứu Mỹ, việc bổ
sung loại thuốc được biết đến có khả năng ức
chế cyclin đã làm tăng cơ hội sống của các
bệnh nhân lên tới 70%.
Kết quả thử nghiệm lâm sàng cho thấy
một loại thuốc mới trong điều trị bệnh ung
thư vú dạng phổ biến nhất có thể giúp tăng cơ
hội sống sót cho các bệnh nhân.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 41/59
Các nhà nghiên cứu Mỹ đã đưa ra công
bố trên ngày 1/6 tại hội nghị thường niên của
Hiệp hội Ung thư lâm sàng Mỹ tổ chức tại
thành phố Chicago của Mỹ.
Theo các nhà nghiên cứu Mỹ, việc bổ
sung loại thuốc được biết đến có khả năng ức
chế cyclin đã làm tăng cơ hội sống của các
bệnh nhân lên tới 70%.
Người đứng đầu nghiên cứu Sara
Hurvitz cho biết nghiên cứu tập trung vào ung
thư vú dương tính với proteintiếp nhận nội
tiết tố - chiếm tới 2/3 số ca ung thư vú ở phụ
nữ trẻ.
Trước đây, các bệnh nhân này thường
được điều trị bằng phương pháp ngăn sự sản
sinh nội tiết tố nữ. Tuy nhiên, với việc bổ
sung loại thuốc mới vào phương pháp điều trị
này, các bệnh nhân có phản ứng tốt hơn, giúp
tiêu diệt tế bào ung thư.
Phương pháp này ít độc hại hơn so với
liệu pháp hóa trị truyền thống bởi nó nhắm
vào các tế bào ung thư một cách có lựa chọn,
và ngăn chặn các tế bào ung thư phát triển.
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra thông
báo trên sau khi tiến hành thử nghiệm lâm
sàng loại thuốc này đối với hơn 670 trường
hợp, trong đó có một phụ nữ dưới 59 tuổi bị
ung thư vú giai đoạn 4.
Các bệnh nhân thường phát hiện bệnh
ở giai đoạn muộn và chưa từng điều trị bằng
phương pháp ngăn chặn sự sản sinh nội tiết tố
nữ.
Minh Châu
Nguồn: vietnamplus.vn, 02/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học khám phá lý do tại sao một loại thuốc điều trị ung thư đầy hứa hẹn hoạt động không hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng và tìm ra
cách khắc phục
Trên thực tế, nhiều loại thuốc được
phát triển với hy vọng sẽ trở thành phương
pháp điều trị ung thư mới tuy hoạt động hiệu
quả trong các thử nghiệm trong phòng thí
nghiệm nhưng khi áp dụng vào thực tế lại
không phát huy tác dụng. Mới đây, một nhóm
các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu y sinh
Whitehead, Anh đã tiến hành phân tích và
kiểm tra một nhóm thuốc điều trị ung thư
trước đó được chứng minh thất bại trong các
thử nghiệm lâm sàng trên người, đồng thời,
tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự thất bại này.
Bên cạnh đó, họ tiếp tục xác định một loại
thuốc mới cuối cùng có thể mang lại hiệu quả
trong điều trị ung thư.
Các tế bào ung thư thường sử dụng
“tiểu xảo” để tồn tại và phát triển lây lan đến
các bộ phận khác trong cơ thể con người
trước khi hệ thống miễn dịch tìm cách tiêu
diệt chúng. Để loại bỏ tất cả các quá trình đặc
biệt này, các tế bào xảo quyệt này phải tăng
cường sản xuất protein bằng cách tăng cường
hoạt động của hệ proteasome. Hệ thống này
hoạt động như một loại máy tái chế có khả
năng phân hủy các phân tử protein cũ thành
axit amin và cấu trúc lại chúng thành protein
mới.
Nhận thức được điều này, các nhà
khoa học đã phát triển một loại thuốc có tác
dụng ức chế proteasome. Đúng như tên gọi
của nó, thuốc có khả năng phá vỡ hoạt động
của bộ máy tế bào và ngăn chặn các tế bào
ung thư. Các thử nghiệm lâm sàng trong
phòng thí nghiệm trên các tế bào ung thư nuôi
cấy tỏ ra hiệu quả. Tuy nhiên, khi các nhà
khoa học cố gắng tìm cách tái tạo thành công
đó trên mô hình động vật và trên người, các tế
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 42/59
bào ung thư đã nhanh chóng trở nên kháng
thuốc.
Các nhà nghiên cứu đã khám phá biểu
hiện gen của hàng ngàn khối u và hàng trăm
dòng tế bào ung thư, và đặc biệt là tập trung
vào những tế bào đã phát triển khả năng
kháng các chất ức chế proteasome. Cuối
cùng, mấu chốt của vấn đề lại liên quan đến
cách thức và vị trí các tế bào ung thư sản xuất
năng lượng.
Nghiên cứu chỉ ra rằng các tế bào
kháng thuốc này đã giải phóng các nguồn
năng lượng ra khỏi glucose và chuyển nguồn
năng lượng này về phía ty thể vốn được coi là
nguồn năng lượng hóa học cung cấp cho hầu
hết các hoạt động của tế bào, còn được gọi là
"nhà máy năng lượng của tế bào". Các nhà
khoa học khẳng định rằng khả năng điều
khiển quá trình chuyển hóa là yếu tố khiến
các tế bào ung thư phụ thuộc vào ty thể. Do
đó, có thể khẳng định chắc chắn rằng những
tế bào này đã trở nên miễn dịch với các chất
ức chế proteasome.
Từ đây, nhóm tiếp tục khám phá ra
một phân tử chống ung thư có tên là
elesclomol, giúp chống lại các bệnh ung thư
miễn dịch với các chất ức chế proteasome. Họ
phát hiện ra rằng phân tử này có khả năng
liên kết với gen FDX1, từ đó, ngăn chặn gen
mã hóa một loại enzyme quan trọng trong ty
thể. Do hoạt động của các tế bào ung thư “xảo
quyệt” này hiện đang phụ thuộc vào ty thể,
nên chính điều này đã tạo điều kiện cho
elesclomol dễ dàng tiêu diệt chúng. Tuy
nhiên, vì một số lý do, các phân tử cần phải
liên kết với phân tử đồng để có thể phát huy
hiệu quả.
Nghiên cứu mới mang lại hy vọng cho
cuộc chiến chống lại các bệnh ung thư đặc
biệt nguy hiểm. Các nhà nghiên cứu cho biết
nguyên tắc chung là kiểm tra những thay đổi
trong quá trình trao đổi chất là yếu tố dẫn đến
khả năng phát triển các phương pháp điều trị
mới chống lại các bệnh ung thư kháng thuốc
khác.
Nghiên cứu được công bố trên tạp
chí Nature Chemical Biology.
P.K.L, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 03/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Israel phát triển công nghệ mới về phát hiện sớm ung thư
Đại học Do thái Jerusalem cho biết các
nhà nghiên cứu Israel vừa phát triển một công
nghệ mới phát hiện nguồn gốc tế bào ung thư,
nhờ đó có thể giảm mạnh tỷ lệ mắc ung thư.
Phòng thí nghiệm về ung thư tại Jerusalem
Ảnh: Israel21C
Ngày 20/6, Đại học Do thái Jerusalem
cho biết các nhà nghiên cứu Israel vừa phát
triển một công nghệ mới phát hiện nguồn
gốc tế bào ung thư, nhờ đó có thể giảm mạnh
số bệnh nhân ung thư.
Theo các tác giả nghiên cứu, chẩn
đoán bệnh sớm có thể ngăn chặn được
khoảng 90% số ca ung thư và công nghệ xét
nghiệm mới này sẽ hiện thực hóa việc này.
Xét nghiệm máu dựa trên công nghệ
mới cho phép phát hiện nguồn gốc tế bào
của ADN tự do ẩn trong máu, nhằm kiểm tra
xem ADN có bắt nguồn từ những tế bào bị
bệnh hay không cũng như xác định các tế bào
này xuất phát từ bộ phận nào trong cơ thể.
Công nghệ mới cũng sẽ cho phép phát
hiện bệnh tim, theo dõi các bộ phận cấy ghép
và kiểm soát tiến triển của các bệnh lây
nhiễm.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 43/59
Các nhà nghiên cứu giải thích, khi
muốn biết bệnh nhân phản ứng như thế nào
với phương pháp hóa trị liệu, bác sĩ chuyên
khoa có thể xác định bằng cách đo lượng
ADN xuất phát từ khối u ác tính.
Nguyễn Hằng
Nguồn: vista.gov.vn, 21/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Phương pháp điều trị mới trong quá trình điều trị ung thư máu
Ảnh minh họa. Nguồn: National Foundation
for Cancer Research
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện tế
bào bạch cầu gọi là đại thực bào có vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển bệnh đa
u tủy xương, một loại ung thư máu thường
gặp ở những người trên 60 tuổi.
Các nhà khoa học thuộc Đại học South
Australia cho biết đang đạt tiến triển về một
phương pháp điều trị mới bệnh ung thư máu.
Theo kết quả nghiên cứu được công bố
ngày 26/6, các nhà nghiên cứu đã phát hiện
rằng tế bào bạch cầu gọi là đại thực bào có
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
bệnh đa u tủy xương, một loại ung thư máu
thường gặp ở những người trên 60 tuổi.
Trong một cuộc thử nghiệm, nhóm
nghiên cứu của do nhà khoa học Khatora
Opperman dẫn đầu, đã loại bỏ các đại thực
bào và điều này dẫn tới sự thu nhỏ đáng kể
kích cỡ các khối u.
Do vai trò quan trọng của các đại thực
bào trong hệ miễn dịch, các nhà khoa học
không thể loại bỏ hoặc giảm bớt lượng tế bào
này ở những người mắc bệnh đa u tủy.
Theo nhà nghiên cứu Opperman, bước
tiếp theo là xác định đại thực bào nào, nếu có,
là quan trọng nhất trong quá trình phát triển
bệnh ung thư máu.
Có nhiều loại đại thực bào khác nhau,
do vậy nhiều khả năng một số đại thực bào
trội hơn những loại khác.
Trưởng nhóm nghiên cứu Khatora
Opperman cho hay phát hiện này đã mở ra
hướng đi mới trong việc điều trị bệnh ung thư
huyết học.
Bà Opperman nhận định các phương
pháp điều trị hiện nay thường nhằm vào các
tế bào u tủy, song với khám phá mới trên, các
nhà khoa học có thể tìm cách tấn công và
ngăn chặn những tế bào hỗ trợ cho các tế bào
gây bệnh.
Thống kê cho thấy có khoảng 1.800
trường hợp bị chẩn đoán mắc bệnh đa u tủy
tại Australia mỗi năm. Hầu như những người
mắc bệnh này là trên 40 tuổi.
Thanh Hương
Nguồn: vietnamplus.vn, 26/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu mới nâng cấp hoá trị, ngăn ngừa hiện tượng ung thư kháng thuốc
Hiện tượng ung thư kháng thuốc là
một trong những nguyên nhân khiến trị liệu
ung thư khó khăn, thậm chí gây ra tái phát
ung thư ở một số người. Từ lâu, hiện tượng
tế bào ung thư kháng thuốc là một trong
những vấn đề đau đầu trong quá trình trị liệu,
nhất là đối với hoá trị. Cụ thể, trong hoá trị có
sử dụng một loại thuốc là cisplatin, thuốc này
được dùng để chữa tất cả các bệnh ung thư
phổ biến như ung thư bàng quan, đầu, cổ,
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 44/59
phổi, tử cung, tinh hoàn… Thuốc này ngăn
chặn cơ chế tự sữa chữa ADN, khiến ADN bị
hư hại và theo đó, dẫn tới cái chết của những
tế bào ung thư.
Tuy nhiên, các tế bào ung thư thường
có khả năng kháng lại thuốc này.
Hoá trị thường không hiệu quả do hiện tượng
tế bào ung thư kháng thuốc
Graham Walker, giáo sư nghiên cứu
hiệp hội ung thư Mỹ trực thuộc khoa sinh học
của MIT (Massachusetts Institute of
Technology) tại Cambridge là một trong số
những người đứng sau nghiên cứu này. Trong
công trình trước của ông, giáo sư đã nghiên
cứu về quá trình sửa chữa ADN bằng
cách tổng hợp đồng hoá (translesion
synthesis) TLS. Đây được cho là nguyên do
lớn giúp các tế bào ung thư tránh khỏi tổn
thương đến từ hoá trị, dẫn đến trị liệu không
hiệu quả.
Các nhà khoa học giải thích rằng,
thông thường, những tế bào khoẻ mạnh có
thể sửa chửa AND bằng cách loại bỏ những
ADN bị hư hại một cách chính xác. Thế
nhưng khi những tế bào này trở nên ung thư,
chúng không thể dựa vào cách sửa chữa bình
thường này nữa. Thay vào đó, chúng sử dụng
TLS. Đây là quá trình dùng loại enzym đặc
biệt có khả năng tái tạo các bản mô phỏng
kém chính xác của ADN. Những bản mô
phỏng kém chính xác này sau đó dẫn tới các
đột biến, khiến tế bào ung thư kháng cự lại
các phương pháp trị liệu phá huỷ ADN, như
hoá trị chẳng hạn.
Mặt khác, các nhà khoa học vẫn luôn
cho rằng phương pháp chữa ung thư bằng hoá
trị cần được nâng cấp một cách bức thiết,
không chỉ vì nó thường kém hiệu quả và hay
bị kháng cự bởi tế bào ung thư, mà còn gây ra
nhiều tác dụng phụ ảnh hưởng đến sức khoẻ
con người như suy thận, mất chức năng nghe,
trĩ, dị ứng, suy giảm chức năng miễn dịch…
1 trong 10.000 loại thuốc được các nhà
khoa học tìm ra có khả năng giúp hoá trị
tiêu diệt được nhiều tế bào ung thư hơn
Trong quá trình nghiên cứu nâng
cấp, các nhà khoa học đã phải thực hiện rất
nhiều thí nghiệm, trong đó bao gồm việc xét
nghiệm hơn 10.000 loại thuốc khác nhau, và
tìm ra trong số đó 1 loại thuốc duy nhất có
khả năng giúp cisplatin tiêu huỷ các tế bào
ung thư một cách hiệu quả. Các nhà khoa học
cuối cùng đã tìm ra một phương thuốc ngăn
chặn quá trình TLS, khiến các tế bào ung thư
trở nên dễ bị phá huỷ hơn. Họ thử nghiệm
bằng cách kết hợp thuốc này cùng với
cisplatin trong nhiều tế bào ung thư của con
người và phát hiện ra hiệu quả phá huỷ tế bào
ung thư nhiều hơn so với chỉ sử dụng mỗi hoá
trị đơn thuần.
Hiện tại, các nhà khoa học đã bắt đầu
thử nghiệm sự kết hợp trên mô hình chuột
phòng thí nghiệm cùng với các tế bào ung thư
của người, và phát hiện ra các khối u đã tiêu
biến rất nhiều. Giáo sư Graham Walker cho
hay: "Chất này làm tăng hiệu quả tiêu huỷ tế
bào ung thư khi sử dụng cùng với cisplatin và
ngăn chặn sự đột biến". Trong tương lai, các
nhà khoa học đang tích cực nghiên cứu thêm
để hiểu sâu hơn cơ cấu đằng sau sự kết hợp
này. Họ đặt mục tiêu hoàn thiện nó để có thể
bắt đầu thử nghiệm trên người. Đây có thể
xem là một trong những bước tiến trong việc
chữa trị ung thư.
Hoàng Huynh, theo Trí thức trẻ
Nguồn: khoahocthoidai.vn, 26/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Tháng 4/2019 45/59
NÔNG NGHIỆP
Miếng dán vi kim giúp xác định bệnh cây trồng
Khi người nông dân phát hiện cây bị
bệnh trên đồng ruồng, điều quan trọng là họ
cần tìm ra mầm bệnh gây ra nó càng nhanh
càng tốt. Công nghệ vi kim mới có thể giúp
ích, mở ra hướng đi cho một thiết bị cầm tay
cung cấp đáp án trong vòng ít phút ngay tại
đồng.
Miếng dán sử dụng một lần thu thập
vật liệu di truyền chứa cả DNA của
cây trồng và DNA của sinh vật gây bệnh
Ảnh: ại học bang Bắc Carolina
Trong trường hợp rõ không có kết
quả lập tức rằng bệnh đang ảnh hưởng đến
cây trồng, mẫu được lấy từ cây đó thường
được phân tích để xem có DNA của sinh vật
gây bệnh có hiện diện hay không. Mặc dù
trước đó, DNA có thể được xác định nhưng
đầu tiên nó phải được tách ra từ vật liệu mẫu
thường là thông qua một quy trình đa bước có
tên chiết xuất CTAB. Được tiến hành trong
phòng thí nghiệm, quy trình này nghiền mô
cây trồng, bổ sung thêm các dung môi hữu cơ
và đặt hỗn hợp vào một máy quay ly tâm –
thời gian thực hiện có thể mất 3 đến 4 giờ.
Trong một nỗ lực nhằm phát triển
một phương pháp thay thế nhanh và dễ dàng
hơn, các nhà khoa học tại Đại học bang Bắc
Carolina vừa tạo ra một miếng dán kích cỡ
bằng con tem bưu chính được làm từ một loại
polyme rẻ tiền, một mặt được phủ hàng trăm
chiếc kim bé xíu.
Dài chỉ 0,8 nm, mỗi kim sẽ đâm
xuyên vào cây trồng khi miếng dán được áp
bào bề mặt. Chỉ sau vài giây, miếng dán được
bóc ra và súc bằng một dung dịch đệm chức
nước. Vật liệu di truyền chứa DNA vi kim thu
được từ cây trồng bị rửa trôi trong quá trình
này, cuối cùng đi vào một hộp chứa vô trùng
cùng với vật liệu đệm.
Toàn bộ quy trình diễn ra chỉ khoảng
1 phút, sau đó, DNA được chiết ra hiện vẫn
phải được xác định trong phòng thí nghiệm.
Và một lượng nhỏ tạp chất rốt cuộc sẽ xuất
hiện trong chất đệm nhưng chúng chẳng gây
vấn đề gì khi công nghệ đã được sử dụng
thành công để tách chiết và xác định được
DNA của các sinh vật gây bệnh tàn rụi muộn
ở cây cà chua.
“Trích xuất DNA là một rào cản
đáng kể đối với việc phát triển một công cụ
xét nghiệm tại chỗ. Nay chúng tôi đang
hướng tới mục tiêu tạo ra một thiết bị tích
hợp gọn nhẹ tại chỗ và chi phí thấp có thể
thực hiện từng bước trong quy trình, từ lấy
mẫu cho đến xác định mầm bệnh và báo cáo
kết quả phân tích”, đồng tác giả Qingshan
Wei cho biết.
LH, theo New Atlas
Nguồn: dost-dongnai.gov.vn,
12/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Trung Quốc hoàn thành việc giải trình tự bộ gen hạt lúa mì cổ
Các nhà khoa học Trung Quốc đã giải
trình tự toàn bộ bộ gen của hạt lúa mì 3.800
năm tuổi được khai quật từ Khu tự trị Tân
Cương, giúp giải mã tuyến đường đưa loại
cây lương thực này vào Trung Quốc.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 46/59
Bốn viện nghiên cứu của Trung Quốc
đã cùng thực hiện nghiên cứu. Các nhà khoa
học đã trích xuất ADN từ 7 hạt lúa mì cổ đại
được phát hiện từ nghĩa trang Xiaohe và
Gumugou ở Tân Cương, đây là một giao điểm
địa lý thiết yếu giữa phương Đông và phương
Tây.
Cui Yinqiu, giáo sư của Trường Khoa
học Sự sống tại Đại học Cát Lâm, tham gia
nghiên cứu, cho biết hạt giống được bảo quản
tốt và được chọn ngẫu nhiên từ các địa điểm
khảo cổ có sự tương đồng về gen với lúa mì
hiện đang được trồng ở Tây - Nam Trung
Quốc.
Các nhà khoa học đề xuất rằng lúa mì
phổ biến phân tán từ cao nguyên Thanh Hải-
Tây Tạng ở phía tây Trung Quốc đến thung
lũng sông Dương Tử ở miền trung và miền
đông Trung Quốc.
Nghiên cứu cung cấp thông tin chi tiết
về nguồn gốc, sự phân tán và cải thiện di
truyền cho việc trồng lúa mì ngày nay và
được công bố trên số mới nhất của tạp chí
khoa học quốc tế "Tạp chí thực vật" (The
Plant Journal).
NASATI, theo Xinhua
Theo vista.gov.vn, 13/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học phát hiện ra gen có thể giúp chúng ta trồng trọt nhanh hơn
Các nhà khoa học cây trồng của trường
đại học Cambridge và Bordeaux đã khám phá
ra một gen mà họ hy vọng rằng có thể sử
dụng để gia tăng việc hấp thụ dinh dưỡng và
có tiềm năng tăng năng suất cây trồng.
Các nhà khoa học trên thế giới đang
nghiên cứu nhiều chiến lược khác nhau để
tăng năng suất cây trồng một cách bền vững.
Gia tăng hiệu quả của các con đường vận
chuyển các chất như đường, protein và các
chất dinh dưỡng hữu cơ khác giữa các bộ
phận khác nhau trong cây là một trong những
cách tiếp cận có thể đóng góp cho cuộc Cách
Mạng Xanh tiếp theo này.
Hiểu biết về các nhân tố ảnh hưởng
đến sự vận chuyển trong cây có thể cho phép
các nhà công nghệ sinh học thực vật tạo ra
nhiều cây trồng năng suất cao hơn trong
tương lai. Cuối cùng, có thể vận chuyển trực
tiếp các chất dinh dưỡng hữu cơ tới các bộ
phận đặc biệt của cây được thu hoạch (hạt,
quả và củ).
Nhóm nghiên cứu của giáo sư Yrjö
Helariutta tại phòng thí nghiệm Sainsbury
thuộc đại học Cambridge (SLCU) và nhóm
nghiên cứu của tiến sĩ Emmanuelle Bayer tại
Đại học Bordeaux/CNRS đã đưa ra mục tiêu
này tiến gần hơn bằng cách phát hiện ra
Phloem Unlloading Modulator (PLM), một
gen mới ảnh hưởng đến việc vận chuyển chất
dinh dưỡng bằng cách thay đổi những kênh
kết nối tế bào thực vật lân cận được gọi là sợi
liên bào. Những kênh nối màng ở cấp độ nano
này nằm vắt ngang qua hàng rào thành tế bào
để liên kết các tế bào thực vật lại với nhau và
cho phép vận chuyển các chất cần thiết.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Nature Plants cho thấy cây đột biến
Arabidopsis thaliana thiếu gen PLM đã được
tìm thấy để phóng thích nhiều chất từ phloem
(một mô chuyên biệt cho vận chuyển đường
dài) tại những đầu rễ của chúng. Sử dụng
protein huỳnh quang làm đại diện cho các đại
phân tử, các nhà khoa học có thể nhìn thấy
gen PLM có sự ảnh hưởng và kiểm soát việc
dịch chuyển một số lượng phloem. Để tìm
hiểu làm thế nào gen này hoạt động như vậy,
họ đã tìm xem những gì đang xảy ra tại
những giao diện khác nhau của tế bào trong rễ
của các cây giống.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 47/59
Trưởng nhóm nghiên cứu, Tiến sĩ
Dawei Yan, phòng thí nghiệm Sainsbury,
trường Đại học Cambridge, giải thích: “chúng
tôi tìm thấy PLM đột biến làm giảm sự tắc
nghẽn vận chuyển, mà trước đây đã làm giảm
sự vận chuyển chất dinh dưỡng từ hệ thống
mạch nhanh chóng đến các mô đang phát
triển trong rễ. PLM đặc biệt hoạt động tại
giao diện giữa phloem pole pericycle (PPP)
và tế bào nội tiết, một giao diện quan trọng
cho sự chuyển động xuyên tâm của những
chất sau khi đã được loại bỏ. Việc di chuyển
hoạt động của gen PLM có thể cho phép thực
vật vận chuyển chất dinh dưỡng nhanh chóng
và hiệu quả hơn tới những nơi cần thiết. Kết
quả là rễ của những cây đột biến lớn nhanh
hơn và dài hơn.
Các nghiên cứu sâu hơn về phân tử và
di truyền đã cho thấy rằng PLM có liên quan
đến quá trình sinh tổng hợp sphingolipids,
một loại lipid liên quan đến sự phát triển của
thực vật và đáp ứng với môi trường. Trong
khi nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ Bayer trước
đây đã chỉ ra rằng màng của sợi liên bào có
nhiều sphingolipids, đây là nghiên cứu đầu
tiên về sự liên kết của sphingolipids với chức
năng sợi liên bào.
Bước tiếp theo là xác định PLM ảnh
hưởng như thế nào đến độ dẫn điện tế bào.
Nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm liệu PLM có
ảnh hưởng đến sợi liên bào hay không. Nhóm
nghiên cứu cũng khẳng định rằng PLM thì
không điều chỉnh quá trình tích luỹ callose,
đây là chất điều chỉnh duy nhất nổi tiếng về
tính thấm của sợi liên bào.
Tác giả thứ hai, nghiên cứu sinh trong
nhóm Helariutta, Andrea Paterlini, đã đến
Pháp để làm việc với Tiến sĩ Bayer để xem xét
kỹ hơn liệu PLM có ảnh hưởng đến cấu trúc tế
bào sợi liên bào hay không. Họ sử dụng
phương pháp chụp cắt lớp điện tử để tạo ra bản
đồ 3-D của các kênh ở mức độ nanomet.
Paterlini nói rằng: “Điều này cho phép
chúng tôi phát hiện ra những sự thay đổi tốt
đối với kiến trúc sợi liên bào. Chúng tôi đã tìm
thấy tỷ lệ bằng nhau của màng sợi liên bào
đơn giản và phân nhánh trong cả PLM đột
biến và loại thực vật hoang dại. Tuy nhiên,
thực vật không có PLM chỉ có sợi liên bào loại
1, thay vì hai loại thường được tìm thấy.
Các mô hình trước đây đã giả định
rằng kích thước của các khớp nối tế bào chất
(khoảng trống giữa endoplasmic reticulum và
màng plasma trong sợi liên bào) có tương
quan tích cực với khả năng vận chuyển. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi thì thách thức
điều này và cho thấy rằng sợi liên bào loại I,
những loại có khớp nối tế bào chất rất hẹp,
thực sự dẫn điện hơn sợi liên bào loại II, có
khớp nối tế bào chất mở”.
Giáo sư Helariutta phát biểu rằng:
“Mối tương quan giữa chức năng gen (sinh
tổng hợp lipid) và sự thay đổi của siêu cấu
trúc sợi liên bào giống như là kết quả của 1
khiếm khuyết trong tổ chức của các chuỗi liên
kết mà nó phân tách màng plasma từ các
mạng lưới nội chất bên trong sợi liên bào:
điều này dẫn đến phần lớn các sợi liên bào
thiếu các ống tế bào chất có thể nhìn thấy
trong thực vật có gen PLM bị đột biến.
Vẫn còn nhiều câu hỏi mới được trả lời
cho nghiên cứu trong tương lai, chẳng hạn
như, làm thế nào và tại sao sợi liên bào thiếu
ống tế bào chất có tỷ lệ vận chuyển cao hơn
có sự chuyển hoá của spingolipids có liên
quan về mặt cơ chế với chức năng của PLM.
“Tuy nhiên, nghiên cứu này đã nâng
cao hiểu biết của chúng tôi về các yếu tố điều
hoà vận chuyển dinh dưỡng thực vật. Có một
nhu cầu cấp thiết là phát triển cây trồng với
hiệu quả dinh dưỡng tăng lên, giảm sử dụng
phân bón và tăng năng suất cây trồng. Chúng
ta có thể sử dụng thông tin về việc vận
chuyển chất dinh dưỡng này để phân chia các
chất dinh dưỡng hiệu quả hơn giữa các cơ
quan khác nhau và các chất dinh dưỡng trực
tiếp từ thân và lá đến các cơ quan lưu trữ khác
của cây”.
Nguồn: iasvn.org, 20/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 48/59
Xác định thực phẩm "hữu cơ”
Thực phẩm hữu cơ ngày càng phổ biến
và đắt đỏ. Trái cây và rau hữu cơ được trồng
mà không dùng các loại thuốc trừ sâu tổng
hợp và vì điều đó, chúng thường được coi là
có lợi cho sức khỏe hơn so với những
loại thực phẩm có sử dụng. Nhưng không
phải tất cả các loại thực phẩm
có dán nhãn hữu cơ này đều hoàn toàn
không nhiễm các loại thuốc trừ sâuvà việc
phát hiện ra dư lượng các chất này ở
ngưỡng thấp có thể là một thách thức. Bây
giờ, các nhà khoa học báo cáo trên Tạp
chí Journal of Agricultural and Food
Chemistry của ACS một giải pháp mới để xác
định tính xác thực của sản phẩm hữu cơ.
Chi phí cao và tính phổ biến của thực
phẩm hữu cơ có thể khích lệ việc loại bỏ các
thực phẩm phun thuốc trừ sâu. Phát hiện sản
phẩm có thuốc thuốc trừ sâu có thể là thách
thức, hoặc thậm chí là không thể, đặc biệt là
vì một số chất trong thuốc trừ sâu này bị phân
hủy nhanh chóng sau khi được phun, dẫn đến
ấn tượng sai lầm rằng thực phẩm chưa
đượcphun thuốc trừ sâu. Tuy nhiên, một chút
thuốc trừ sâu trên bề mặt nông sản không nhất
thiết là dấu hiệu của lỗi có chủ ý. Các hợp
chất của thuốc trừ sâu có thể vừa mới bay
qua từ cánh đồng bên cạnh. Để giúp cải
thiện biện pháp xác minh thực phẩm là hữu
cơ, Jana Hajslova và các đồng nghiệp đã phát
triển một phương pháp để phân tích các chất
chuyển hóa tạo ra trong cây khi thuốc trừ sâu
bị phân hủy, sử dụng vườn nho làm thí
nghiệm như là khu đất thí nghiệm của họ.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng kết
hợp sắc ký lỏng hiệu năng cực cao và phép
đo quang phổ khối có độ phân giải cao để xác
định và sàng lọc các chất chuyển hóa của bảy
loại thuốc trừ sâu phổ biến. Sau đó, nhóm
nghiên cứu đã sử dụng phương pháp này trên
lá và quả của những cây nho được phun thuốc
trừ sâu với những mốc thời gian định kỳ khác
nhau từ lúc trồng cho đến thu hoạch, cũng
như rượu vang được làm từ những quả
nho được phun thuốc trừ sâu. Với kỹ thuật
này, nhóm nghiên cứu đã quan sát các mức
giảm ban đầu của thuốc trừ sâu khi sự phân
hủy của thuốc trừ sâu xảy ra.
Nhóm cũng phát hiện sự chuyển hóa
của các chất này vì các mức độ của các thuốc
trừ sâu biến động theo thời gian. Nhiều chất
chuyển hóa vẫn có thể được phát hiện
ở các mức cao hơn hỗn hợp thuốc trừ sâu
được phun cho những quả nho làm rượu
vang, có nghĩa là không chỉ quả và
lá nho, rượu vang hữu cơ có thể được xác
minh một cách tiềm năngbằng giải pháp này.
Các nhà nghiên cứu cho rằng phương pháp
của họ, với một vài thay đổi nhỏ, sẽ trợ
giúp các nỗ lực của các cơ quan quản lý thực
phẩm nhằm loại bỏ các hành vi không hợp
pháp trong canh tác hữu cơ.
Nguyễn Tiến Hải, nguồn: Sciencedaily
Theo iasvn.org, 21/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Phụ gia thức ăn rong biển cắt giảm khí mê-tan trong chăn nuôi
Theo các nhà nghiên cứu của bang
Pennsylvania, việc bổ sung thức ăn cho gia
súc bằng rong biển có thể giúp giảm đáng kể
lượng khí mê-tan do vật nuôi gây ra.
Alexander Hristov, Giáo sư dinh
dưỡng sữa nổi tiếng nói: Asparagopsis
taxiformis, một loại rong biển đỏ mọc ở vùng
nhiệt đới, trong các nghiên cứu ngắn hạn ở bò
sữa cho con bú đã giảm 80% lượng khí thải
mêtan và không ảnh hưởng đến lượng thức ăn
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 49/59
hoặc năng suất sữa, khi bò được cho ăn loại
này với tỷ lệ 0,5% thức ăn khô.
Hristov lưu ý: Nếu bổ sung thức ăn
rong biển là một lựa chọn khả thi để tạo ra sự
khác biệt trên toàn cầu, quy mô sản xuất sẽ
phải rất lớn. Với gần 1,5 tỷ đầu gia súc trên
thế giới, thu hoạch đủ rong biển tự nhiên để
thêm vào thức ăn của chúng là không thể.
Ngay cả việc cung cấp rong biển như là một
bổ sung cho hầu hết 94 triệu gia súc của Hoa
Kỳ là không thực tế.
Ông nói: “Để được sử dụng làm phụ
gia thức ăn trên quy mô lớn, rong biển sẽ phải
được trồng trong các trang trại nuôi trồng
thủy sản. Thu hoạch rong biển tự nhiên không
phải là một lựa chọn tốt vì chẳng mấy chốc
chúng ta sẽ làm cạn kiệt các đại dương và gây
ra vấn đề sinh thái”.
Nhà nghiên cứu Hannah Stefenoni cho
biết: Tuy nhiên, khả năng của Asparagopsis
taxiformis trong việc giảm thiểu khí mê-tan
như một chất bổ sung thức ăn cần được chú ý.
Hristov giải thích: “Các vi khuẩn trong
dạ cỏ của bò có thể thích nghi với nhiều thứ.
Có một lịch sử lâu dài về các chất phụ gia
thức ăn mà các vi khuẩn thích nghi. Cho dù
đó là với thịt bò hay bò sữa, cần phải nghiên
cứu lâu dài để xem liệu các hợp chất trong
rong biển có thể tiếp tục phá vỡ khả năng tạo
ra khí mê-tan của vi khuẩn hay không”.
Cũng có những vấn đề về sự ổn định
theo thời gian của các hoạt chất bromoforms
trong rong biển. Hristov cảnh báo: Các hợp
chất này rất nhạy cảm với nhiệt độ và ánh
sáng mặt trời và có thể mất tác dụng giảm
thiểu khí mê-tan khi xử lý và lưu trữ.
Mùi vị của rong biển là một vấn đề
khác. Dường như những con bò không thích
mùi vị của rong biển, khi Asparagopsis được
đưa vào với tỷ lệ 0,75% của khẩu phần ăn,
các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy bò ăn ít
hơn.
Ngoài ra, cần xác định ảnh hưởng lâu
dài của rong biển đối với sức khỏe và sinh sản
của bò và ảnh hưởng của nó đến chất lượng
sữa và thịt.
Lê Hồng Vân, theo sciencedaily
Nguồn: mard.gov.vn, 21/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu sản xuất thành phần proten thay thế bột cá
KnipBio Meal (KBM) được sản xuất từ một loại
cộng sinh lá đơn bào
KnipBio đã thông báo rằng giờ đây họ
có thể sản xuất thành phần protein thức ăn
nuôi trồng thủy sản đơn bào, KnipBio Meal
(KBM), từ các chất hòa tan của máy chưng
cất (CDS).
Theo một tuyên bố của công ty: “Điều
này hứa hẹn sẽ giảm đáng kể chi phí và tiếp
tục chứng minh tính linh hoạt của nền tảng
công nghệ sinh học và công nghệ lên men của
KnipBio”.
Larry Feinberg, CEO của KnipBio,
cho biết: “CDS là sản phẩm phụ còn lại của
quá trình lên men ethanol, mà cho đến nay có
giá trị kinh tế hạn chế. Sử dụng CDS làm
giảm đáng kể chi phí nguyên liệu của chúng
tôi, cho phép KBM có giá cạnh tranh với các
protein thủy sản truyền thống. CDS rẻ, có rất
nhiều, và vì nó là một dòng thải, vốn đã bền
vững với hầu như không có dấu vết môi
trường. Quan trọng hơn, phân tích thành phần
cho thấy KBM có nguồn gốc từ CDS có hàm
lượng protein bằng hoặc lớn hơn bột cá và
không chứa các yếu tố chống dinh dưỡng
thường thấy trong protein thực vật. Điều này
làm cho nó có tiềm năng thay đổi ngành nuôi
trồng thủy sản, thay thế bột cá và đột đậu
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 50/59
nành với giá cả phải chăng, bền vững và có
thể truy nguyên được nguồn gốc. Với sản
phẩm này, chúng tôi đang giúp mở rộng
ngành nuôi trồng thủy sản bằng cách đa dạng
hóa các loại protein có thể được sử dụng
trong thức ăn thủy sản.
“Giá trị kinh tế của sản xuất KnipBio
Meal từ CDS thực sự hấp dẫn. Ngành công
nghiệp nhiên liệu sinh học toàn cầu sản xuất
hơn 2,5 triệu tấn CDS mỗi năm dưới dạng sản
phẩm phụ của quá trình lên men
ethanol. CDS này được bán với giá khoảng
100 đô la mỗi tấn và thường được bơm vào
thức ăn chăn nuôi. Khi cùng một CDS được
tái chế để sản xuất KBM, các protein đơn bào
thu được sẽ được bán với giá cao hơn đáng
kể, ông nói thêm.
KnipBio bắt đầu phát triển quy trình
lên men tế bào đơn được cấp bằng sáng chế
vào năm 2013. Để giảm chi phí đầu vào và
tăng tính linh hoạt của nguyên liệu, công ty
đã khởi xướng một chương trình nghiên cứu
vào năm 2018 để sản xuất protein bằng cách
sử dụng nguyên liệu thô giá rẻ bao gồm CDS
và các sản phẩm dòng thải nhiên liệu sinh học
khác. Nguyên liệu linh hoạt đảm bảo an ninh
nguồn cung và ổn định giá cả. Nó cũng làm
cho KBM bền vững hơn và cho phép một nhà
máy lên men KBM được đặt cùng vị trí tại bất
cứ nơi nào có ngành nông nghiệp và chế biến
thực phẩm.
Feinberg tuyên bố: “Hiện tại chúng tôi
đã thành công trong việc nâng cấp CDS,
chúng tôi đang chuyển từ nghiên cứu trong
phòng thí nghiệm sang thương mại hóa và
công việc mở rộng quy mô đã bắt đầu. Ngoài
ra, kết quả từ các thử nghiệm thức ăn động
vật ban đầu cho thấy KnipBio Meal là nguồn
protein tuyệt vời cho cả cá và động vật giáp
xác. Trong khi chờ đợi những thách thức đến
trong tương lai, chúng tôi tự tin sẽ đạt được
mục tiêu của mình”.
H.T, theo Thefishsite
Nguồn: .mard.gov.vn, 19/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Thu giữ CO2 từ nhà máy điện để sản xuất protein thay thế bột cá
Kế hoạch sản xuất protein đơn bào cho
thức ăn nuôi cá, được cung cấp năng lượng
bởi carbon dioxide từ một trong những nhà
máy điện lớn nhất của Vương quốc Anh, đã
được công bố trong tuần này.
Deep Branch Biotech, một công ty
được thành lập từ Đại học Nottingham, đang
hợp tác với Tập đoàn Drax trong một thí điểm
sử dụng và lưu trữ carbon năng lượng sinh
học mới (BECCUS) có thể được sử dụng để
tạo ra protein thay thế đậu nành và bột cá
trong thức ăn nuôi trồng thủy sản từ khí thải
carbon dioxide của nhà máy điện khí thải.
Nhóm nghiên cứu có kế hoạch trích
xuất khí thải từ sản xuất điện tái tạo của nhà
máy điện Bắc Yorkshire để cung cấp cho vi
khuẩn, có thể tạo ra các protein đơn bào để sử
dụng trong thức ăn cho cá và thức ăn chăn
nuôi bền vững khác.
Nhà máy điện Drax là nhà máy phát
điện tái tạo lớn nhất ở Anh và là dự án khử
cacbon lớn nhất ở châu Âu, đã chuyển đổi hai
phần ba nhà máy để sử dụng sinh khối bền
vững thay vì than. Một khu vực ủ chuyên
dụng đã được tạo ra tại nhà máy điện để cung
cấp cho các công ty công nghệ khác cơ hội
thử nghiệm các quy trình của họ trên carbon
dioxide.
Peter Rowe, Giám đốc điều hành của
Deep Branch Biotech, giải thích rằng phương
pháp mà họ đã phát triển để sản xuất protein
từ CO2, dựa vào một loại vi khuẩn ăn được
tiêu thụ carbon dioxide. Khi được cho ăn
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 51/59
carbon dioxide, các vi khuẩn phát triển và
sinh sản, cho phép chúng liên tục được thu
hoạch protein trong khi duy trì nuôi
cấy. Trong điều kiện tối ưu, có tới 70%
nguyên liệu được sản xuất là protein.
Lợi ích của quá trình này so với các
công nghệ thu giữ carbon khác là CO2 không
cần phải tách ra khỏi khí thải của nhà máy
điện trước khi cho vi khuẩn ăn.
Rowe cho biết: “Sản xuất thịt dự báo
tăng gấp đôi vào năm 2050 khi dân số toàn
cầu tăng, nhưng việc sử dụng các phương
pháp sản xuất thức ăn chăn nuôi hiện có để
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng này là hoàn
toàn không bền vững”.
“Công nghệ chúng tôi đã phát triển là
một giải pháp thú vị. Chúng ta có thể chuyển
đổi tới 60-70% CO2 thành protein, giúp giảm
thiểu khí thải nhà kính vào khí quyển trong
quá trình sản xuất điện và các quy trình công
nghiệp khác, trong khi sản xuất protein cho
thức ăn chăn nuôi sẽ giúp giảm tác động của
các ngành nông nghiệp lên môi trường cũng
vậy”.
Dự án thí điểm Deep Branch sẽ được
tiến hành vào mùa thu, khi một nhà máy trình
diễn sẽ được lắp đặt trong Khu vực ươm tạo
CCUS của Drax. Nó nhằm mục đích thu đủ
CO2 để sản xuất 100kg protein được sử dụng
để tạo ra nguyên liệu thức ăn cho cá và gia
súc. Protein được tạo ra từ dự án sẽ được sử
dụng trong một dự án thử nghiệm với một
nhà sản xuất thức ăn lớn.
Nếu thành công, Deep Branch
Biotechnology có kế hoạch xây dựng một cơ
sở sản xuất lớn hơn vào năm 2020 để có thể
sản xuất vài tấn protein mỗi năm.
T.P, theo Thefishsite
Nguồn: mard.gov.vn 25/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Mô hình trang trại cá hồi chìm ngoài khơi, điều khiển từ xa đầu tiên ở Bắc Cực
Một mô hình nuôi cá hồi mới dự kiến
sẽ thúc đẩy sản xuất cá hồi của Na Uy trước
nhu cầu gia tăng, trong khi vẫn đảm bảo tiêu
chuẩn cao về an toàn và chất lượng.
Nhà lãnh đạo công nghệ kỹ thuật
số ABB đã giành được hợp đồng từ trang trại
ngoài khơi Bắc Cực để cung cấp năng lượng
cho trang trại cá hồi chìm ngoài khơi được
điều khiển từ xa đầu tiên tại Bắc Băng
Dương. ABB sẽ cung cấp một gói toàn diện
các công nghệ điện, tự động hóa, thiết bị và
viễn thông hàng đầu để đảm bảo hiệu quả tối
đa và tác động môi trường tối thiểu.
Với khối lượng thị trường toàn cầu của
cá hồi dự kiến sẽ đạt 4,5 triệu tấn vào năm
2023, theo báo cáo Nghiên cứu và Thị trường
năm 2018, dự án Nuôi cá ngoài khơi Bắc Cực
đang tìm cách nuôi cá theo cách bền vững
hơn. Những ao cá chìm dưới nước ít bị rận
biển - có liên quan đến sự suy giảm sản lượng
cá hồi ở Na Uy - một trong những nhà xuất
khẩu cá hồi hàng đầu trên thế giới. Trang trại
ngoài khơi nằm ở biển Na Uy - một phần của
Bắc Băng Dương - bên ngoài Troms sẽ có tác
động môi trường thấp hơn.
Khu vực này dễ bị tổn thương bởi điều
kiện thời tiết và sóng khắc nghiệt hơn các
trang trại truyền thống nằm trong vịnh hẹp
của khu vực. Để chống lại điều này, ABB
đang cung cấp một hệ thống nước dằn bằng
cầu phao để đảm bảo rằng các ao cá được giữ
ổn định ở biển Na Uy khắc nghiệt. ABB cũng
sẽ thiết kế các hệ thống điều khiển và giám
sát hoàn chỉnh với các cảm biến và công nghệ
tự động hóa cho phép các ao được vận hành
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 52/59
từ xa. Toàn bộ giải pháp sẽ được thực hiện
vào cuối quý 3 năm 2020.
Trang trại cũng sẽ được kết nối
với ABB ability ™ , phần mềm đa kỹ thuật số
của công ty cung cấp dữ liệu môi trường, bao
gồm các điều kiện khí tượng, dòng hải lưu,
mức oxy và nhiệt độ nước biển. Nó cũng theo
dõi độ pH ở các độ sâu khác nhau và lượng
sinh khối trong lồng nuôi.
Kevin Kosiko, Giám đốc điều hành
ABB Energy Industries cho biết, mô hình độc
đáo này là nền tảng hoàn hảo để ABB chia sẻ
tầm nhìn của mình về việc xây dựng một
ngành nuôi trồng thủy sản bền vững và hiệu
quả. Những ao cá được vận hành tự động sẽ
được điều khiển từ xa bằng sà lan thức ăn
cách đó 400 m. Điều này làm giảm nhu cầu
can thiệp của con người và do đó cắt giảm
tiêu thụ nhiên liệu và điện và cũng sẽ cho
phép các giải pháp mới cho nuôi cá ngoài
khơi và trên bờ với trọng tâm là phúc lợi cá,
truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm.
H.T, theo Thefishsite
Nguồn: mard.gov.vn, 03/06/2019
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Phương pháp sạch và hiệu quả để tái chế chất thải điện tử
Khi số lượng thiết bị điện tử gia tăng
trên toàn thế giới, thì việc tìm kiếm các
phương pháp tái chế chất thải điện tử hiệu
quả là mối quan tâm hàng đầu. Khoảng 50
triệu tấn chất thải điện tử được sản sinh mỗi
năm và chỉ 20% trong số đó được tái chế. Với
80% số chất thải còn lại, đa số được đưa đến
bãi chôn lấp, có thể gây hại môi trường.
Hiện nay, để tái chế chất thải điện tử,
cần có các máy nghiền cơ học và bể hóa chất
đắt đỏ cũng như lao động thủ công, có thể gây
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và môi trường
nếu không được triển khai đúng cách. Do đó,
các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Kumamoto, Nhật Bản đã sử dụng năng lượng
xung (phóng điện xung) để đưa ra phương
pháp tái chế sạch và hiệu quả hơn.
Năng lượng xung đã được chứng minh
xử lý thành công nhiều vật liệu thải loại từ bê
tông đến nước thải. Để kiểm tra khả năng của
năng lược xung trong việc tái chế chất thải
điện tử, các nhà nghiên cứu đã xác định hiệu
quả của nguồn năng lượng này trong việc tách
các thành phần được tìm thấy ở một trong
những loại chất thải điện tử phổ biến nhất là
CD ROM. Trong nghiên cứu trước đây, các
nhà khoa học đã chỉ ra rằng kim loại được
tách hoàn toàn khỏi nhựa khi sử dụng 30
xung với tốc độ khoảng 35 J/xung (Với mức
giá điện hiện nay ở Tokyo, chi phí năng
lượng rơi vào khoảng 0,4 Yen để tái chế 100
ROM ROM).
Để kiểm tra cơ chế tách vật liệu bằng
phương pháp này, các nhà nghiên cứu đã tiến
hành phân tích sâu hơn thông qua quan sát
hiện tượng phóng điện plasma bằng máy ảnh
tốc độ cao, nhờ trực quan hóa schlieren để
đánh giá sóng xung kích và sử dụng ảnh chụp
X quang để đo chuyển động phân khúc.
Hình ảnh ở giai đoạn phóng điện ban
đầu thể hiện hai phát xạ ánh sáng khác biệt:
xanh-trắng và cam, tương ứng với kích thích
của nhôm và vật liệu nhựa bảo vệ phía trên.
Sau khi plasma tiêu tan, các mảnh kim loại và
nhựa được quan sát bay ra khỏi mẫu CD
ROM.
Hình ảnh schlieren được chụp trong
suốt quá trình này cho thấy sóng xung kích
chính gây phá hủy đã phát triển xung quanh
hai điện cực. Sóng xung kích tạo áp lực trên
3,5 MPa (tương đương với áp lực mà một con
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 53/59
ngựa phi nước đại sẽ tác động lên mặt đất)
gần đầu các điện cực và nhanh chóng giảm
xuống dưới 0,8 Mpa. Trong cả hình ảnh
scherien và ảnh chụp X quang, có thể quan
sát rất rõ sự phân tán của vật liệu.
"Chất thải điện tử có lẽ là một trong
những vấn đề nan giải nhất trong tái chế chất
thải mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay
do tính chất phổ biến của nó", giáo sư Hamid
Hosano, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết.
"Dự án của chúng tôi cho thấy tầm quan
trọng của sóng xung kích khi sử dụng năng
lượng xung để loại bỏ và phân tách vật liệu
trong tái chế chất thải điện tử. Dữ liệu của
chúng tôi sẽ rất quan trọng trong việc phát
triển các dự án tái chế trong tương lai".
N.P.D, theo spacedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 06/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Sử dụng chất thải thực phẩm để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch
Thực phẩm thải loại có thể được biến
đổi thành chất thay thế nhiên liệu hóa thạch.
Công nghệ mới do các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Waterloo phát triển, đã tiến
hành lên men tự nhiên để tạo ra một hóa chất
phân hủy sinh học có thể được tinh chế thành
một nguồn năng lượng. Hóa chất này cũng có
thể được sử dụng để thay thế các hóa chất gốc
dầu mỏ trong rất nhiều sản phẩm như bao bì
nhựa.
"Những người như tôi, các chuyên gia
công nghệ sinh học môi trường, coi chất thải
thực phẩm là một nguồn tài nguyên to lớn",
Hyung-Sool Lee, giáo sư kỹ thuật dân dụng
và môi trường tại Đại học Waterloo nói. "Nhờ
có các công nghệ phù hợp, chúng tôi có thể
chiết xuất nhiều hóa chất có ích để sản xuất
nhiên liệu".
Thực phẩm thải loại ở Bắc Mỹ tăng
thêm khoảng 400kg/người/năm với thiệt hại
kinh tế trên toàn thế giới ước tính khoảng 1,3
nghìn tỷ USD mỗi năm. Hầu hết thực phẩm
bỏ đi được đưa đến bãi rác. Công nghệ giảm
tác động môi trường hiện có là thu gom khí
metan khi nó bị vi sinh vật phân hủy và đốt
khí để sản xuất điện. Tuy nhiên, GS. Lee cho
rằng hệ thống tiêu hóa kỵ khí không mang lại
hoặc mang lại rất ít lợi ích khi tính đến chi
phí hòa trộn chất thải thực phẩm và xử lý
nước thải cao.
Công nghệ được phát triển tại Đại học
Waterloo giúp giảm đáng kể các chi phí đó
bằng cách thu gom và tái tuần hoàn nước rỉ
rác - hỗn hợp vi khuẩn với vi sinh vật và
dưỡng chất - chảy qua chất thải thực phẩm
trong các bể chứa, thay vì kích thích phân hủy
sinh học bằng cách trộn mạnh.
Khi các vi sinh vật trong các bể đó ăn
và tiêu hóa chất thải thực phẩm, chúng cũng
sinh ra sản phẩm phụ hóa học được gọi là
cacboxylat với nhiều công dụng tiềm năng
thay thế dầu mỏ hoặc dầu thô.
"Chúng ta đang lãng phí khối lượng
thực phẩm đáng kinh ngạc", GS. Lee nói. "Đó
là những gì đã thôi thúc tôi tìm cách hiệu quả
hơn để sử dụng chất thải thực phẩm nhằm
giảm thiểu thiệt hại do nhiên liệu hóa thạch
gây ra".
Ngoài chi phí rẻ và cho năng suất cao
hơn công nghệ hiện nay, hệ thống này được
thiết kế để sử dụng ở quy mô vừa và nhỏ.
"Ngay cả những thị trấn nhỏ cũng có thể được
trang bị hệ thống riêng", GS. Lee cho biết.
"Chất thải thực phẩm được thu gom trong các
chương trình thùng rác xanh sẽ không phải
vận chuyển những quãng đường dài đến các
cơ sở tập trung quy mô lớn".
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 54/59
Bước tiếp, nhóm nghiên cứu sẽ thử
nghiệm công nghệ ở quy mô lớn hơn với mục
tiêu dài hạn là thương mại hóa công nghệ
trong vòng 4-5 năm.
N.P.D, theo biofueldaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 07/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Hạn chế tác động môi trường từ quá trình sản xuất Xi măng: Sử dụng chất thải công nghiệp để sản xuất các chất thay thế trung tính carbon
Sản xuất xi măng gây thiệt hại lớn cho
môi trường của chúng ta: Quá trình này đóng
góp khoảng 8% lượng khí thải carbon dioxide
toàn cầu hàng năm. Tuy nhiên, nhu cầu xi
măng tiếp tục tăng. Một nhóm các nhà địa
chất học từ Đại học Martin Luther Halle-
Wittenberg (MLU) đã tìm ra cách để sản xuất
các sản phẩm thay thế bền vững và thân thiện
với môi trường hơn.
Ảnh: Những nguyên liệu thô này là cần thiết để
sản xuất xi măng thân thiện với môi trường
Trong tạp chí Vật liệu xây dựng và xây
dựng ("Tối đa hóa việc tái sử dụng dư lượng
công nghiệp để sản xuất clinker CSA-belite
thân thiện với môi trường"), họ mô tả cách sử
dụng chất thải công nghiệp để sản xuất vật liệu
chất lượng cao, thân thiện với khí hậu.
Nguyên liệu cơ bản cho xi măng là đá
vôi, được chuyển đổi thành clanhke xi măng
trong các lò lớn. Tác động môi trường của quá
trình này thực sự là thảm họa: "Khoảng một
tấn carbon dioxide được giải phóng trong
quá trình sản xuất xi măng cho mỗi tấn đá
vôi. Phần lớn trong số này được phát ra từ
chính đá vôi", giáo sư Herbert Pöllmann, nhà
địa chất học tại MLU nói.
Nhà nghiên cứu cho biết việc thay thế
đá vôi trong sản xuất xi măng sẽ mang lại tiềm
năng tiết kiệm rất lớn. Tuy nhiên, vật liệu
được sản xuất sẽ cần phải có các đặc tính có
lợi tương tự như xi măng truyền thống.
Trong quá trình tìm kiếm nguyên liệu
thay thế, các nhà nghiên cứu từ Halle đã tìm
thấy hai loại chất thải công nghiệp: Vật liệu
dư từ sản xuất cao lanh và nhôm.
"Tôi không thực sự thích thuật ngữ
chất thải công nghiệp. Nó thực sự là dư lượng
công nghiệp vẫn có thể được sử dụng rất hiệu
quả, ví dụ để sản xuất các dạng xi măng thay
thế", Pöllmann nói.
Đối với nghiên cứu mới, nhóm của
ông đã thử nghiệm các tỷ lệ pha trộn khác
nhau và phân tích các tính chất vật lý của xi
măng mới được sản xuất. Nghiên cứu cho
thấy hai phần dư công nghiệp có thể được sử
dụng để sản xuất xi măng có các tính chất
giống như hỗn hợp thông thường.
Ưu điểm của hai vật liệu còn lại mà
các nhà khoáng vật học tại MLU đã điều tra
là chúng không chứa carbon dioxide có thể
được giải phóng trong quá trình xử lý tiếp
theo.
Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa
học cũng mô tả chi tiết các tỷ lệ pha trộn và
các bước sản xuất của xi măng thân thiện với
môi trường hơn. Theo nhà nghiên cứu, các
nhà sản xuất có thể chuyển hoàn toàn sang
các vật liệu thân thiện với khí hậu hơn hoặc
sản xuất hỗn hợp xi măng sử dụng tỷ lệ đá vôi
thấp hơn và do đó cũng thân thiện với môi
trường hơn.
Tuy nhiên, quá trình này có giới hạn
của nó, không có đủ dư lượng công nghiệp để
đáp ứng nhu cầu xi măng toàn cầu, do đó
nhóm nghiên cứu cũng đang tìm kiếm các sản
phẩm tự nhiên phù hợp như tro núi lửa hoặc
các tài nguyên khoáng sản khác nhau chưa
được sử dụng trong công nghiệp và cũng
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 55/59
không giải phóng carbon dioxide, ví dụ như
nhiều loại đất sét.
Nguồn: vista.gov.vn, 11/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Trung Quốc cải thiện kỹ thuật fracking hiệu quả hơn, xanh hơn bằng cách thay thế nước bằng CO2
Các nhà khoa học Trung Quốc đã
chứng minh trong một nghiên cứu rằng
carbon dioxide có thể là chất lỏng tốt hơn
được sử dụng để chiết xuất các nguồn tài
nguyên như khí đá phiến trong đá hơn là dùng
nước. Nghiên cứu của họ được công bố trên
tạp chí Joule cho thấy kỹ thuật thay thế có thể
mở đường cho một kỹ thuật fracking hiệu quả
và thân thiện với môi trường hơn và giải
quyết vấn đề lưu trữ carbon dioxide.
Thuật ngữ “fracking” đề cập đến cách
thức làm vỡ đá và cấu tạo đá bằng cách bơm
các loại chất lỏng khác nhau vào các vết nứt
để buộc chúng phải tiếp tục rạn nứt thêm. Các
vết nứt lớn hơn cho phép dầu và khí đốt thoát
ra từ các cấu tạo đá để đi vào hố khoan, nơi
chúng có thể được chiết xuất.
Mặc dù Fracking là một kỹ thuật được
sử dụng để khai thác tài nguyên từ đá bằng
cách bơm nước trộn với cát và hóa chất.
Nhưng khoảng 30-50% chất lỏng được bơm
vẫn còn trong quá trình hình thành đá, tiêu
thụ một lượng nước lớn và tiềm ẩn những rủi
ro sinh thái.
Theo nghiên cứu, việc sử dụng kỹ
thuật fracking carbon dioxide có thể tiết kiệm
nguồn cung cấp nước lớn, khiến việc fracking
trở nên khả thi ở những khu vực khô cằn và
giảm nguy cơ thiệt hại cho các hồ chứa vì các
giải pháp nước thường tạo ra sự tắc nghẽn
trong quá trình hình thành đá. Ngoài ra, kỹ
thuật này cũng giúp tạo ra kho lưu trữ carbon
dioxide dưới lòng đất, theo Sun Nannan - nhà
nghiên cứu của Viện nghiên cứu tiên tiến
Thượng Hải thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
Trung Quốc.
Nhóm nghiên cứu Sun Nannan đã thu
thập các khối đá phiến từ Trùng Khánh và
phá vỡ chúng bằng cả hai chất lỏng. Họ phát
hiện ra rằng carbon dioxide vượt trội hơn
nước, tạo ra các mạng lưới đường gãy phức
tạp kích thích lớn hơn đáng kể. Carbon
dioxide có tính di động cao hơn nước, do đó
áp suất phun có thể được phân phối tốt hơn.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thừa
nhận rằng chi phí carbon dioxide thu được từ
khí thải vẫn còn quá đắt để biến nó thành một
sự thay thế chất lỏng fracking trên toàn
ngành. Các nhà nghiên cứu đang có kế hoạch
tiến hành các nghiên cứu sâu hơn để làm cho
kỹ thuật này trở nên thiết thực.
NASATI, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 19/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Trung Quốc phát triển công nghệ mới trong đốt rác thải
Các nhà khoa học Trung Quốc đã phát
triển một phương pháp mới để ức chế việc tạo
ra các chất độc hại từ quá trình đốt chất thải
thông qua việc khám phá cơ chế hình thành
của điôxin.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 56/59
Nghiên cứu được thực hiện bởi các
nhà khoa học thuộc Viện Vật lý hóa học Đại
Liên thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung
Quốc đã giúp phát triển công nghệ ức chế có
thể làm giảm hơn một nửa lượng chất thải
điôxin trong quá trình đốt chất thải rắn.
Một lượng lớn các hợp chất clo hóa cực
độc được phát ra trong quá trình đốt chất thải
rắn. Các chất đặc biệt là điôxin được Chương
trình Môi trường Liên Hợp Quốc liệt kê là chất
gây ô nhiễm hữu cơ dai dẳng, gây ung thư, gây
dị tật thai nhi và gây đột biến gen.
Chen Jiping và Zhang Haijun, các nhà
khoa học đứng đầu nghiên cứu, đã nghiên cứu
tác động của oxit kim loại và clorua lên quá
trình clo hóa các hợp chất thơm bằng cách mô
phỏng phản ứng của khói đốt. "Quá trình clo
hóa là một bước quan trọng để kiểm soát sự
hình thành các hợp chất độc hại trong khí
đốt", Chen nói. "Chúng tôi đã tìm thấy clorua
đồng và sắt là những hoạt chất chính để thúc
đẩy quá trình clo hóa naphthalene".
Về lý thuyết, họ đã ức chế thành công
hơn một nửa lượng đầu ra của điôxin trong ba
nhà máy điện đốt chất thải rắn quy mô lớn ở
Trung Quốc.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố
trong số mới nhất của tạp chí khoa học quốc
tế Environmental Science and Technology.
NASATI, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 19/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Loại bỏ hóa chất gây rối loạn nội tiết ra khỏi nước thải bằng tảo xanh
Theo một nghiên cứu mới của Viện
Desert Research (DRI) ở Las Vegas, một loài
tảo xanh nước ngọt khá phổ biến có khả năng
loại bỏ một số hóa chất gây rối loạn nội tiết ra
khỏi nước thải.
EDCs là hormone tự nhiên và cũng có
thể tìm thấy trong nhiều loại nhựa và dược
phẩm. Chúng có hại cho động vật hoang dã
và con người khi có nồng độ lớn, tác động
tiêu cực đến sức khỏe như làm giảm khả năng
sinh sản và tăng tỷ lệ mắc một số bệnh ung
thư. EDCs được thấy vết (tỉ lệ cỡ vài phần
nghìn tỷ đến vài phần tỷ) trong nước thải đã
được xử lý.
Trong một nghiên cứu mới được công
bố trên tạp chí Environmental Pollution, các
nhà nghiên cứu DRI Xuelian Bai, Ph.D., và
Kumud Acharya, Ph.D., đã tìm ra khả năng
sử dụng một loài tảo xanh nước ngọt có tên là
Nannochloris để loại bỏ EDCs ra khỏi nước
thải đã được xử lý.
"Loại tảo này rất phổ biến trong bất kỳ
hệ sinh thái nước ngọt nào trên thế giới, nhưng
khả năng sử dụng nó để xử lý nước thải chưa
được nghiên cứu rộng rãi", Bai, tác giả chính
và trợ lý giáo sư về khoa học môi trường thuộc
Khoa Khoa học Thủy văn tại DRI giải thích.
"Chúng tôi muốn tìm hiểu xem loài này có phù
hợp để ứng dụng trong ao hoặc đất ngập nước
nhằm loại bỏ các chất ô nhiễm trong nước
thải."
Trong một thử nghiệm kéo dài 7 ngày
tại phòng thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã
nuôi cấy tảo Nannochloris trong 2 loại nước
thải đã được xử lý, thu từ Khu xử lý nước
Clark County ở Las Vegas và đo đạc sự thay
đổi nồng độ của 7 loại EDCs thông thường.
Trong các mẫu nước thải đã được xử
lý bằng kỹ thuật siêu lọc, các nhà nghiên cứu
nhận thấy tảo phát triển nhanh chóng và loại
bỏ đáng kể (khoảng 60% mỗi loại chất gây ô
nhiễm) 3 loại EDCs (17?-Estradiol, 17?-
Ethinylestradiol và axit salicylic) trong vòng
7 ngày. Trong nước thải đã được xử lý bằng
ozon, tảo không phát triển tốt và không có tác
động đáng kể đến nồng độ EDC.
Một trong các EDC được theo dõi là
triclosan đã hoàn toàn biến mất khỏi nước
siêu lọc sau 7 ngày, và chỉ còn lại 38% EDC
tồn tại trong nước đã sục ozone sau 7 ngày
(nhưng việc này vẫn xảy ra, cho dù có sự hiện
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 57/59
diện của tảo hay không. Điều này là do tác
động của quang phân (tiếp xúc với ánh sáng).
"Sử dụng tảo để loại bỏ kim loại nặng
và các chất gây ô nhiễm vô cơ đã được nghiên
cứu từ lâu, nhưng để loại bỏ các chất ô nhiễm
hữu cơ thì mới bắt đầu," Acharya, Phó chủ tịch
phụ trách nghiên cứu và giám đốc điều hành
của Viện Hydrologic Sciences tại DRI cho biết.
"Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy cả tiềm
năng cũng như hạn chế của việc sử dụng
Nannochloris để loại bỏ EDCs ra khỏi nước
thải."
Một nghiên cứu trước đây của Bai và
Acharya (công bố vào tháng 11/2018 trên tạp
chí Environmental Science and Pollution
Research) đã xem xét tác động của 7 loại
EDC trên loài vẹm Quagga (Dreissena
bugensis) thu thập từ hồ Lake Mead. Kết quả
cho thấy, một số chất EDC (testosterone,
bisphenol A, triclosan và axit salicylic) đã
tích tụ trong các mô cơ của loài vẹm này.
"Tảo cung cấp thức ăn cho các sinh vật
như vẹm Quagga và các loài động vật phù du
khác ở tầng đáy", Bai nói. "Nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy, có khả năng các chất
EDCs gây ô nhiễm này tích tụ ở các tầng cao
hơn trong chuỗi thức ăn của hệ sinh thái dưới
nước."
"Hầu hết các nhà máy xử lý nước thải
không được thiết kế để loại bỏ các chất gây ô
nhiễm vốn không được kiểm soát này ở nồng
độ thấp, nhưng chúng tôi tin rằng chúng có
thể gây tác hại cho các loài thủy sản và cả
cho sức khỏe con người, khi ở nồng độ lớn",
Bai nói. "Điều này rất hữu ích cho những nơi
phải tái chế nước để sử dụng lại trong nông
nghiệp hoặc thải vào nguồn nước uống."
T.K
Nguồn: cesti.gov.vn, 20/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Cotton chất thải thân thiện với môi trường
Khi máy tách sợi bông được sử dụng
để tách sợi bông ra khỏi hạt của chúng, rất
nhiều xơ vải được tạo ra như chất thải. Hiện
tại, phần lớn xơ bông đó chỉ bị đốt cháy hoặc
đưa vào bãi rác. Tuy nhiên, nhờ vào nghiên
cứu gần đây của các nhà khoa học ở Úc, nó
có thể sớm được chuyển đổi thành nhựa phân
hủy sinh học. Theo Tiến sĩ Maryam Naebe
đến từ Đại học Deakin, khoảng 29 triệu tấn
sợi bông được sản xuất hàng năm, với khoảng
1/3 trong số đó bị loại bỏ. Nhóm nghiên cứu
muốn giảm chất thải đó, đồng thời cung cấp
cho nhà nông trồng bông nguồn thu nhập bổ
sung và tạo ra "sự thay thế bền vững cho
nhựa tổng hợp có hại".
Điều này đã thúc đẩy họ phát triển hệ
thống, nhằm mục đích làm cho các hóa chất
thân thiện với môi trường rẻ tiền được sử
dụng để hòa tan sợi xơ, cùng với các loại rác
thải khác như hạt và thân cây. Polyme hữu cơ
lỏng thu được sau đó được sử dụng để tạo ra
một màng nhựa, các mẫu được mô tả dưới
đây (xung quanh một đống chất thải bông).
Vật liệu đó phân hủy sinh học vô hại có thể
được sử dụng trong ngành công nghiệp trồng
bông, cho các ứng dụng như vòng bale dùng
để bọc hoặc bao bì cho hạt giống và phân
bón. Nó thậm chí có thể trở thành một phần
của quy trình nông nghiệp toàn chu kỳ.
Tiến sĩ Maryam Naebe cho biết:
"Nhựa sinh học có thể phân hủy và biến
thành đất, sau đó sẽ được sử dụng để trồng
bông, tạo ra chất thải từ máy tách sợi bông
trong quá trình tách, sau đó có thể được tái
sử dụng thành nhựa sinh học". Và tạo ra lợi
ích bổ sung, màng nhựa được sản xuất ít tốn
kém hơn so với các sản phẩm tương tự sản
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 58/59
xuất dựa vào dầu mỏ. Trưởng nhóm nghiên
cứu Tiến sĩ Rechana Remadevi, nói rằng:
“Hiện tại chúng tôi đang xem xét áp dụng
công nghệ tương tự vào chất thải hữu cơ và
nguyên liệu thực vật như sả, cây gai dầu, vỏ
hạnh nhân, rơm lúa mì, bụi cưa gỗ và vỏ gỗ.
Các nhà khoa học từ Đại học Singapore gần
đây cũng đã tìm thấy cách sử dụng chất thải
bông, bằng cách chuyển đổi nó thành một
aerogel cách nhiệt và hấp thụ”.
Đ.T.V, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 24/06/2019 Trở về đầu trang
**************
Australia thử nghiệm xây dựng 'con đường xanh' đầu tiên trên thế giới
Các nhà khoa học thuộc trường Đại
học New South Wales của Australia đang thử
nghiệm xây dựng "con đường xanh" đầu tiên
trên thế giới tại thành phố Sydney.
Nguồn: BFT International
Các nhà khoa học thuộc trường Đại
học New South Wales của Australia đang thử
nghiệm xây dựng "con đường xanh" đầu tiên
trên thế giới tại thành phố Sydney. Đây là
tuyến đường khá nhộn nhịp dẫn tới sân bay
quốc tế Sydney. Chất liệu để tạo nên con
đường đặc biệt này là các chất thải công
nghiệp từ ngành sản xuất thép và các nhà máy
nhiệt điện than ở quốc gia châu Đại dương
này, cụ thể là tro bay - một loại khoáng hoạt
tính pozzolandùng làm phụ gia cho chế tạo
bêtông cường độ cao - và xỉ lò cao.
Hỗn hợp vật liệu geopolymer này được
mô tả là "sự pha trộn bền vững giữa bêtông
và chất thải tái chế," có triển vọng lớn giúp
giảm lượng khí thải carbon trên toàn cầu. Một
đoạn đường dài 30m đang được thử nghiệm
công nghệ này, trước khi áp dụng trên toàn bộ
tuyến đường. Các nhà khoa học đã lắp 9 cảm
biến dưới bề mặt đoạn đường này để đánh giá
hiệu suất của dự án.
Thị trưởng Sydney, Clover Moore, cho
biết: "Các dự án như việc thử nghiệm
geopolymer này có thể tạo ra các sản phẩm
mới, mang lại những kết quả rõ rệt trong việc
cắt giảm lượng khí thải carbon. Chính quyền
địa phương chịu trách nhiệm quản lý đường
sá tại khu vực, do đó nếu chúng ta mua các
vật liệu bền vững hơn với môi trường, chúng
ta có thể chống lại tình trạng biến đổi khí hậu
và cung cấp cơ sở hạ tầng có chất lượng cho
cộng đồng của mình."
Giáo sư Stephen Foster - Trưởng khoa
Kỹ thuật Xây dựng và Môi trường của Đại
học New South Wales, đồng thời là Chủ
nhiệm dự án, cho biết: "Bêtông đóng góp 7%
tất cả lượng khí thải nhà kính, do đó cuộc thử
nghiệm này sẽ giúp thúc đẩy sự thay đổi trong
ngành công nghiệp xây dựng. Nghiên cứu về
geopolymer đã được thực hiện từ thập niên 90
của thế kỷ trước, nhưng chỉ đến bây giờ nó
mới bắt đầu được thương mại hóa. Cuộc thử
nghiệm này rất quan trọng vì chúng tôi cần
các dự án thuyết minh để đánh giá chính xác
hiệu suất của geopolymer theo thời gian, để
sau đó có thể nhân rộng hơn."
Theo ông Foster, quá trình theo dõi
hiệu suất đường sá sẽ được thực hiện trong tối
đa 5 năm, trong khi nhiều dữ liệu được thu
thập trong thời gian 3 đến 12 tháng đầu của
cuộc thử nghiệm sẽ được sử dụng để xác nhận
các mô hình nghiên cứu và củng cố niềm tin
của các nhà khoa học.
Thanh Phương
Nguồn: vietnamplus.vn, 18/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 07/2019 59/59
Sử dụng năng lượng Mặt Trời để chưng cất nước tinh khiết
Các nhà nghiên cứu đến từ Đại học
Chicago (Mỹ) đã phát triển một phương pháp
mới được coi là tiên phong dựa trên kỹ thuật
chưng cất nước sử dụng năng lượng Mặt Trời
hay tích tụ hơi nước để thu được nước tinh
khiết.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng màng
hữu cơ porphyrin cộng hóa trị (POF), một lớp
nguyên liệu mới được phát hiện, trong
phương pháp mới. Các màng POF có thể phát
triển đồng bộ trên bề mặt của nhiều vật liệu
khác với các cấp độ xốp khác nhau và cho
hiệu quả làm bay hơi nước cao.
Các màng POF có thể phát triển đồng bộ trên
bề mặt của nhiều vật liệu khác với các cấp độ
xốp khác nhau và cho hiệu quả làm bay
hơi nước cao. Ảnh: news.uchicago.edu
Trong phòng thí nghiệm, POF được
chứng minh có thể phát triển tốt cả ở mặt
trong và mặt ngoài của mọi vật liệu thí
nghiệm. Mỗi mẫu thí nghiệm đều chứng tỏ
khả năng quang nhiệt hiệu quả, cho thấy
những vật liệu có thành phần POF là chủ yếu
là những vật liệu tích tụ hơi nước sử dụng
năng lượng Mặt Trời đầy hứa hẹn.
Việc sử dụng các màng hữu cơ POF
chứng minh hiệu quả rất cao trong phòng thí
nghiệm. Các nhà khoa học dự định sẽ tiến
hành thêm nhiều thí nghiệm ở môi trường bên
ngoài để đánh giá hiệu quả thực tế POF.
Các chuyên gia đánh giá việc POF có
thể sinh trưởng trên nhiều loại vật liệu giúp
những màng hữu cơ này có thể được sử dụng
một cách linh hoạt với mọi vật liệu có sẵn.
Vừa tiện dụng lại vừa dễ phát triển, các nhà
khoa học tin rằng phương pháp này hoàn toàn
có thể áp dụng thực tiễn trong lọc nước tinh
khiết quy mô lớn.
Hiện các nhà khoa học vẫn đang tìm
cách thực hiện dự án ở qui mô lớn hơn. Họ
cũng tin tưởng rằng POF sẽ đóng vai trò chủ
đạo trong các hệ thống lọc nước thế hệ mới.
Kết quả của công trình sáng tạo này đã được
đăng tải trên tạp chí Advanced Materials
Interfaces.
Lê Ánh (TTXVN)
Nguồn: baotintuc.vn, 26/06/2019
Trở về đầu trang
**************